Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21), nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám, dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám. Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều. Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám, không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun. Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22). Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng, vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử. Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà. Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này. Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương, đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22). Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người. Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai. Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước: từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo, rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142). Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người. Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới. Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan, phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20). Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà. Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt. Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27). Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7). Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm. Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ, và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ. Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan. Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa, và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28), nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun, thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30). ức Giêsu không phải là người có thần ô uế. Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm. Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó. Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28), trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người, Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen. -------------------------------
Dân Ít-ra-en khi tấn phong Đa-vít làm vua đã trích dẫn lời Chúa: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en”. Quả thực “Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh ở với vua”. Nên vua đánh đâu thắng đó. Thu thập các dân tộc chung quanh. Thu hồi đất đai Chúa hứa. Xây dựng vương quốc hùng mạnh. Danh tiếng lừng lẫy. Trở thành vị vua mẫu mực. Dân Ít-ra-en muôn đời tưởng nhớ. Và chờ mong một vị vua mới từ dòng dõi vua Đa-vít sẽ xuất hiện. Phục hồi vương quốc hùng mạnh, danh tiếng thuở xưa (năm chẵn).
Lời tiên báo đến thời thực hiện. Niềm chờ mong đã được đáp đền. Chúa Giê-su đến với sức mạnh vô biên của Thiên Chúa. Con người dẫu mạnh mẽ cũng chỉ thắng được con người thôi. Chưa có ai thắng được ma quỉ. Thế lực siêu nhiên luôn thống trị con người. Thế mà Chúa Giê-su đã chiến thắng ma quỉ. Ra lệnh cho ma quỉ. Xua trừ ma quỉ ra khỏi con người. Các kinh sư thấy sức mạnh của Chúa không những không tin mà còn vu cáo Chúa chính là tướng quỉ nên ma qủi mới thuần phục. Chúa Giê-su đã vạch rõ ác ý của họ khi chứng minh lời họ là sai ở cả hai phía. Xa-tan tự chia rẽ cũng tận số. Và nếu có người mạnh đến chiến thắng thì Xa-tan cũng tận số: “Nếu Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nêu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”.
Sức mạnh vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su là tình yêu. Tình yêu lớn lao chưa từng có. Là dám hi sinh tính mạng vì người mình yêu. Chúa Giê-su bày tỏ sức mạnh vô biên trong tình yêu vô biên dám chấp nhận cái chết. Đã trở thành “trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Với quyền năng vô biên, ngài chỉ dâng hiến một lần là đủ: “Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình”. Ma quỉ chỉ mạnh khi người ta tội lỗi. Nay Chúa Giê-su tiêu diệt tội lỗi. Nên ma quỉ mất hết quyền lực. Con người được giải phóng, được “kêu gọi lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu” (năm lẻ).
Tình yêu Chúa lớn vô biên. Tình yêu trở thành quyền năng vô biên. Đó là điều làm cho ta tin tưởng. Trong quyền năng Chúa ta được cứu chuộc. Trong tình yêu Chúa ta được yêu thương. Lạy Chúa, xin hãy đến giải thoát con khỏi mọi thế lực của ma quỉ.
Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.
Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.
Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoa7 cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)
Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.
Tố cáo
Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.
Bào chữa
Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?
Chúng ta có liên đới vơi Người không?
Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?
Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.
Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!
Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền... Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại...
Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.
Sứ điệp: Đức Kitô dùng uy quyền của Thiên Chúa để chiến thắng quỷ dữ. Muốn chiến thắng quỷ dữ, ta cũng phải cậy nhờ quyền năng của Thánh Thần.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là vinh phúc cho con. Con đã được Chúa gọi vào số những môn đệ của Chúa. Chúa đã dùng chính cái chết của Chúa để chiến thắng quỷ dữ và dẫn đưa con vào giao ước tình yêu.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết liên kết với Chúa để nhờ ơn Chúa con chiến thắng được quỷ dữ. Cuộc đời con thường xuyên phải chiến đấu với ma quỷ và tay chân của nó là thế gian và xác thịt. Nếu không có ơn Chúa, con sẽ thua trận và quỵ ngã. Lạy Chúa là sức mạnh con, xin đừng để con thua một cơn cám dỗ nào. Xin cho con biết tin tưởng vào sức mạnh của Thánh giá.
Lạy Chúa Giêsu, để minh chứng về uy quyền của Chúa. Chúa đã dùng ví dụ một người coi nhà canh trộm, con đang canh giữ linh hồn con khỏi kẻ trộm ghê gớm là Satan gian manh. Con chắc chắn sẽ thắng được kẻ trộm này nếu con có Chúa trong lòng. Vậy xin Chúa đừng để con bao giờ mất Chúa. Xin giúp con luôn sống thân tình với Chúa. Con chạy đến với Chúa trong Thánh lễ, xin ban thêm sức mạnh cho con. Hằng ngày Chúa đang mời gọi con đến lãnh nhận nguồn sức mạnh và bảo đảm phần thưởng trên trời. Con lãnh nhận Mình Thánh Chúa, xin cho con được say mê tình Chúa, được đầy lửa mến của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa lôi kéo con. Xin cho con thuộc trọn về Chúa.
Con xin dâng Chúa hơi thở, tư tưởng linh hoạt, lý tưởng và mọi sự Chúa đã ban cho con. Xin giúp con luôn nhớ con là của Chúa và sống trọn vẹn cho Chúa. Amen.
1. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu chữa lành cho những người bị quỉ ám. Các luật sĩ không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên cho rằng Ngài lấy quyền của tướng quỉ Bengiêbút mà trừ quỉ. Nhưng Chúa nói cho họ biết: nước nào tự chia rẽ thì làm sao tồn tại được. Ma quỉ cũng vậy, nếu nó chia rẽ, nó sẽ tiêu vong. Còn nếu Ngài nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ thì ma quỉ đã tự chia rẽ nhau rồi, làm sao nó đứng vững được?
2. Các luật sĩ nói Chúa Giêsu bị quỉ vương Bengiêbút ám và dựa vào thế quỉ vương để trừ quỉ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan. Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong. Satan cũng vậy. Marcô 3,27 cho thấy: chẳng những Chúa Giêsu không bị quỉ chi phối, không theo phe quỉ, Ngài còn chống quỉ; quỉ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỉ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
3. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỉ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỉ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là nguồn bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng chịu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustinô từng dạy: ”Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Ngài ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ? (Mỗi ngày một tin vui).
4. Có lẽ chúng ta không đến nỗi “tệ” tới mức “nghi” Chúa Giêsu bị quỉ Bengiêbút ám, nhưng nghi sự trái cho người khác, hoặc thấy việc tốt người khác làm, không khen ngợi thì chớ, lại còn “tán chuyện” ra để đàm tiếu thì phải chăng đó là “chuyện thường ngày ở...” sở làm, trong xóm ngõ của chúng ta? Để không mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn nhận việc tốt của người khác một cách trân trọng, và nếu cần phải phân định việc gì hãy làm với tinh thần bác ái.
5. Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngay cả trong một giáo phái, cũng có sự chia rẽ và phe phái. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Kitô bị phân rẽ và tổn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do thái kết án Người là lấy quyền tướng quỉ đè bẹp lính quỉ.
6. Những người luật sĩ bị coi là phạm đến Chúa Thánh Thần vì họ chối bỏ chân lý, không chấp nhận sự sám hối thì làm sao có thể tha tội được. Qua lời phân định của Chúa Giêsu về mức độ tội trạng được tha và không được tha, mỗi người chúng ta, một đàng ý thức về tội trạng của mình khi xét mình trước mặt Chúa để khơi dậy lòng thống hối; đàng khác phải luôn luôn bảo vệ và phát triển lòng tin cùng kính mến Chúa để tránh những xúc phạm đến Chúa. Nếu đã đã trót phạm tội mà ăn năn sám hối thì tội bao nhiêu cũng được tha. Cứ vững lòng tin.
7. Truyện: Không nghi ngờ và thất vọng.
Người ta kể: một hôm có một chàng thanh niên đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với cha Vicardi:
- Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Vicarđi đáp:
- Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Vicardi trả lời:
- Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí tích Giải tội. Vậy, nhân danh Đấng giầu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
1. "Các kinh sư nói Chúa Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Satan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy chẳng những Chúa Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa" (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
2. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỷ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối và được tha. Từ chối sự thật, không chịu sám hối thì không thể nào được tha. Không được tha không phải vì Chúa không tha mà vì mình không muốn được tha.
B.... nẩy mầm.
1. Chuyện này nhắc ta hai sự thật:
a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh;
b/ Nhưng quả thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của thánh Phaolô "Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay... Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?" (Rm 7,21.24); "Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại... Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, đề sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi... Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,7.10)
2. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
3. Phải hiểu cho đúng câu Tin Mừng Luca 4,13: "Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỉ bỏ đi chờ đợi thời cơ". Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỉ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỉ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng: câu đó có nghĩa là quỉ tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỉ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta. (Góp nhặt)
4. "Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền. Nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững" (Mc 3,24)
Trong cuộc sống, khi cộng tác với người khác, tôi thường có những thành kiến, không tin vào thiện chí của họ, không vượt qua được những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến hẹp hòi, là vì tôi đã không dám từ bỏ chính mình để đi tìm chân lý ở mọi người.
Rồi cuộc sống chỉ có mình tôi, thế giới đối với tôi thật nghèo nàn, và cuộc sống trở nên vô nghĩa.
Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe nhau bằng quả tim yêu thương. Xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống trần gian. (Epphata)
Trước hết, theo lời của Thánh Sử Marcô, trong đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thì tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội qui về cho ma quỉ những việc của Thiên Chúa, hay nói khác đi là việc dám đồng hoá Chúa, nguồn mạch của mọi sự nhân lành, với Satan, nguồn mạch của mọi sự dữ.
Cũng phải liệt kê vào tội phạm đến Chúa Thánh Thần, việc cho điều thiện là ác và cho ác là thiện. Sở dĩ phải liệt kê như thế, bởi vì những người như thế không thể ăn năn thống hối được, do đó không thể được tha thứ.
Cũng kể vào số những người đã phạm đến Chúa Thánh Thần, là những người mất lòng cậy trông vào Chúa.
Chúa Giêsu tuyên bố, những kẻ phạm đến Chúa Thánh Thần thì không được tha. Bởi vì điều kiện để một tội được tha là người phạm tội phải thực lòng ăn năn thống hối. Người phạm đến Chúa Thánh Thần thì không còn tin tưởng và cậy trông nữa, nên không ăn năn thống hối, vì thế không được tha.
Người ta kể, một hôm có một chàng thanh niên đến gặp Cha Placido Viccardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với Cha Viccardi:
- Thưa Cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Viccardi đáp:
- Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Viccardi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Viccardi trả lời:
- Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ Cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí Tích Giải Tội. Vậy nhân danh Đấng giàu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
Đây Lời Chúa phán: "Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông". (Is 1,18)
2. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay, còn nhắc ta hai sự thật:
a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh.
Thánh Hiêrônimô sinh năm 340 tại Stridon miền Dalmatie, nước Nam tư. Ngài là một đấng thông minh đạo đức, đã được Đức Thánh Cha Damasus (366-380) trao cho sứ mạng dịch toàn bộ Thánh Kinh sang La ngữ. Bản dịch này vẫn còn dùng trong Phụng vụ Giáo Hội: đó là bản dịch phổ thông (Vulgata). Ngài đã sang thánh địa, vào trong hang Bêlem để ẩn thân, cầu nguyện và phiên dịch Kinh Thánh. Thế mà theo lời ngài thuật lại, có những lúc ma quỷ xác thịt cám dỗ ngài hết sức nặng nề! Chúng làm ngài nhớ lại những quang cảnh xa hoa trụy lạc, những bạn bè xấu nết dâm đãng ngày trước ở thủ đô Rôma. Để chống trả với cám dỗ của ma quỉ, ngài đã ăn chay kiêng khem hãm mình và cầm đá đấm vào ngực. Với ơn Chúa và ý chí mình, ngài đã chiến thắng. Đức Boniface VII suy tôn ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh. Ngài mất năm 420.
b/ Và còn một sự thật khác quan trọng hơn: Đó là Chúa Giêsu còn mạnh hơn.
Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Như vậy, chúng ta thấy một người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
Muốn chống nổi Satan chúng ta phải cậy dựa vào Chúa.
Một thiếu nữ trắc nết nọ đến cám dỗ một thánh nhân phạm tội với mình. Ngài bảo:
- Được lắm, ta hãy kiếm một nơi nào kín đáo đi.
Cô gái dẫn Ngài vào một căn phòng và đóng cửa lại. Ngài bảo:
- Đây tôi sợ chưa được kín đáo.
Cô lại đưa Ngài đến một căn phòng khác có một lối vô cong queo lại thêm hai lớp cửa thật là vững chắc. Ngài nói:
- Tôi vẫn còn ngại, chỗ vững chắc như chỗ này cũng chưa kín đủ, với lại nhỡ có ai đột nhập thì làm sao thoát thân!
Cô ta lại đưa Ngài lên tầng lầu cao nhất, lại có hệ thống báo động và nhiều lối thông thương, chuồn đi rất dễ. Cô bảo:
- Như thế này thì thật là cẩn mật... Muốn thấy đã là điều không thể, huống nữa lại đi vào.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra. Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy". Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?" Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
Các thân nhân của Đức Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí, vì họ nghe tin Ngài và các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn. Các kinh sư từ Giêrusalem xuống thì kết luận rằng Ngài đã thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ. Còn đám đông dân chúng lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà. Hơn ai hết, họ biết Đức Giêsu là ai. Chính lúc ấy mẹ và anh em của Ngài đến và đứng ngoài. Họ không vào được, có thể vì đám đông ngồi chật cứng. Nhưng họ đã nhờ người nhắn với Đức Giêsu. ”Mẹ Thầy và anh em Thầy đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.” Rốt cuộc chắc ai cũng biết là Thầy có người thân đến thăm. Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để ra ngay gặp họ. Nhưng Đức Giêsu lại muốn dùng cơ hội này để nói với đám đông đang ngồi nghe một điều quan trọng. Ngài đặt cho họ một câu hỏi tưởng như vô nghĩa: ”Ai là mẹ tôi và là anh em tôi?” Dĩ nhiên là những người đang đứng ngoài kia rồi. Nhưng không, Ngài đảo mắt nhìn những người đang ngồi, và nói với họ: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi.” Với lời khẳng định này, Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống. Đức Giêsu đã rời bỏ gia đình để lên đường loan báo Tin Mừng. Và Ngài cũng đã mời gọi các môn đệ của mình như thế. Đức Giêsu để lại người mẹ, Phêrô để lại người vợ, Gioan và Giacôbê để lại người cha. Tương quan gia đình ruột thịt là điều cao quý thiêng liêng. Nhưng nó lại không được trở nên một cản trở cho sứ vụ. Đức Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người: ”Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi.” Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu. Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này, có người Mẹ là Đức Maria suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm nay đã trở thành cây cao cho chim trời rủ nhau trú ngụ. Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột, đã làm bột dậy lên, để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới. Sau hai mươi thế kỷ, các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ. Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba, người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới. Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian, cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa. Xin cho chúng con đừng mặc cảm vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam, nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ. Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa, gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng, trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống. Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen. -------------------------------
Cuộc đón rước Hòm Bia thật long trọng. Đa-vít ca hát nhảy múa hết mình. Và dâng lễ vật trọng hậu lên Thiên Chúa: “Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa”. Việc dâng lễ vật tuy trọng hậu, nhưng chỉ rời rạc. Không qui tụ được toàn dân. “Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình” (năm chẵn).
Dâng lễ vật theo Lề Luật, dù trọng hậu đến đâu, dù dâng suốt năm này qua năm khác, vẫn không thể tha tội. Vì chung qui cũng chỉ là dâng súc vật. Còn Chúa Giê-su chỉ dâng một lần là đủ tha các tội. Vì Chúa dâng chính thân mình. Và dâng hiến để tỏ lòng vâng phục Chúa Cha. Là con, Chúa nhận thân thể từ Chúa Cha. Nên dâng lại cho Chúa Cha chính thân mình nói lên tình liên hệ cha con sâu xa thắm thiết biết bao. “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài…Theo đó, chúng ta được thánh hoá, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”. Vì thế Người dâng hiến thân mình để qui tụ tất cả chúng ta (năm lẻ).
Chúa Giê-su đã hiến dâng thân mình để trở thành người con hiếu thảo. Việc vâng phục thánh ý Chúa Cha gây dựng một gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó Người qui tụ chúng ta về gia đình Thiên Chúa. Người trở thành Anh Cả của một đàn em đông đúc. Trở thành Trưởng Tử dẫn gia đình về với Thiên Chúa. Gia đình Thiên Chúa không còn là liên hệ huyết thống với con người, nhưng là liên hệ thiêng liêng với Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa để trở thành người con hiếu thảo, tất cả những ai tuân hành thánh ý Thiên Chúa, đều trở thành người trong gia đình Thiên Chúa. Trở thành ruột thịt với Chúa Giê-su: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chúng quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Xin cho con biết tự hiến thân mình làm của lễ. Để con trở thành anh chị em của Chúa.
Khổng Tử có một người cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan, tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc. 3, 31-35)
Mấy bữa trước đây, trong một trích đoạn Phúc âm, thánh Maccô đã cho ta biết thái độ của đám bà con thân thích của Chúa Giêsu: họ muốn cách ly Người, bởi cho rằng Người đã mất trí, ngộ đạo và họ bị phiền hà vì danh tiếng này. Vậy mà hình như họ đã thay đổi ý kiến, bởi lẽ hôm nay họ muốn xin được gặp Người, nhắc nhở cho Người quyền lợi gia dình, tình thân thương và lòng kính nể mà thông thường họ có quyền được hưởng. Giữ liên hệ tốt đẹp với bà con họ hàng chẳng phải là điều tự nhiên sao?
Chúa Giêsu có vẻ như không chia sẻ ý kiến này.
Một sự rạn nứt của tình bà con
Khi đọc bản văn này, ta rất mau mắn vin ngay vào những lời cuối cùng: “Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta lấy làm vui sướng vì được kết nạp vào gia đình này. Nhưng chúng ta cũng vội làm mất đi ý nghĩa khác mà những lời đó gợi nên, tức là sự rạn nứt trong mối quan hệ tự nhiên của gia đình.
Nếu ta đem liên hệ thái độ này của Chúa Giêsu với lời Người phán trước đây: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy”, ta càng ngạc nhiên. Chúa Giêsu chống lại gia đình và những mối liên hệ gia đình chăng? Phải chăng Người muốn ta hiểu biết điều căn bản gì?
Thực ra tin mừng của Chúa không có ý xếp những liên hệ gia đình vàò hàng cuối cùng, mà muốn dạy ta kính nể mọi người cũng như ta vẫn thường kính nể anh chị em cha mẹ ta vậy.
Xét cho cùng, con người từ rất lâu đã quen với những tập tục là phải dành những ưu đãi cho gia đình ruột thịt của mình, phải yêu mến và có trách nhiệm hơn đối với những người cùng chung máu mủ, thì Tin mừng của Chúa hôm nay là một điều mới mẻ: tin mừng đó đòi hỏi ta đối xử với mọi người như nhau và hỏi ta tại sao điều ta làm được cho cha mẹ ta, mà lại không làm cho “tha nhân” được.
Không có bà mẹ nào mà lại không thương con, nhất là những đứa con bị khiếm khuyết cách này hay cách khác!
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Mẹ và người thân của Đức Giêsu đến tìm Ngài và khuyên Ngài từ bỏ con đường sứ vụ để trở về, vì có tin đồn đoán rằng Đức Giêsu bị điên!
Ôi một sự thật đau lòng! Vì yêu thương, Đức Giêsu làm tất cả mọi việc miễn làm sao để cho Thiên Chúa được vinh quang và con người được hạnh phúc, thế nhưng người Pharisêu lại phao tin Ngài bị điên! Họ muốn đánh vào uy tín của Đức Giêsu, và, đứt dây đương nhiên đụng đến rừng, tức là nếu Đức Giêsu bị điên thì mẹ của Ngài sẽ như thế nào khi sinh ra một đứa con điên? Anh em của Ngài sẽ còn uy tín gì nữa không khi trong dòng tộc của mình lại xuất hiện một kẻ khùng! Và, nhất là những lời giảng của Đức Giêsu từ nay không còn khả tin nữa, bởi vì không ai dại gì mà đi nghe theo lời của một người điên!
Đây là một đòn thâm hiểm mà những người Pharisêu đánh vào Đức Giêsu và thân nhân của Ngài.
Tuy nhiên, khi thấy Mẹ và anh em đến tìm mình, Đức Giêsu đã thốt lên và chỉ vào những người đang ngồi quanh Ngài mà nói rằng: ai là mẹ tôi, ai là anh chị em tôi? Thưa chính là những người thực hành ý muốn của Cha tôi, người đó là mẹ tôi và anh chị em tôi.
Một câu nói nhằm mặc khải cho mọi người biết một thực tại khác vượt lên trên suy nghĩ thuần túy của con người. Sự gắn bó với Thiên Chúa và thi hành Lời của Người là điều quan trọng, và chính trong mối liên hệ này mà chúng ta được trở nên nghĩa thiết, thân tình với nhau. Mặt khác, Đức Giêsu cũng ngầm giới thiệu cho mọi người xung quanh biết rằng: chính Đức Maria là người đã thi hành thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ xứng đáng trở thành mẫu gương cho chúng ta về việc thực thi Lời Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc thực thi Lời Chúa hơn là những chuyện bề ngoài. Khi đã thực thi thánh ý Chúa, chúng ta không quan trọng chuyện người ta nói này hay nói kia để bêu dếu, làm mất thanh danh tiếng tốt của ta. Ngược lại, chỉ có một điều đáng làm cho chúng ta sợ, đó là khước từ Lời Chúa và chạy đua những thứ mau qua, chóng hết ở đời, làm cho chúng ta xa dời hạnh phúc đích thực là sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, dù có phải chịu khốn khổ vì Lời Chúa thì vẫn một mực trung thành. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu mở rộng gia đình tự nhiên của Chúa để đón nhận những người thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Chính việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa làm cho ta trở thành thân nhân của Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con mắt đức tin của con giờ này mở ra, và con nhìn thấy Chúa đang đưa mắt nhìn từng người chúng con, và nói rằng con là anh chị em của Chúa, con là thân nhân của Chúa, là người được Chúa yêu mến. Chúa cho con thấy con thật hạnh phúc khi con thi hành ý muốn Chúa Cha.
Chúa mở rộng gia đình của Chúa để đón nhận cả con vào. Gia đình của Chúa không phải chỉ gồm những người có liên hệ huyết nhục với Chúa, nhưng trên hết, đó là những người biết mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và thi hành ý muốn Chúa Cha. Con thấy Đức Mẹ thật hạnh phúc vì được làm Mẹ của Chúa hai lần: làm mẹ vì sinh ra Chúa và làm mẹ vì thi hành ý muốn Chúa Cha.
Phần con, con được Chúa đón nhận, được Chúa yêu mến, Chúa nâng con lên cao và đưa con lại gần Chúa. Lạy Chúa, còn gì hạnh phúc hơn. Nhưng nhiều lúc con đã không nhận ra được điều ấy, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành đòi con nhiều hy sinh quên mình, và con đã làm một cách miễn cưỡng, lừng khừng, chậm chạp. Xin Chúa cho con biết quý trọng hạnh phúc ấy hơn tất cả mọi vui sướng khác ở đời. Chúa tôn trọng và quý mến con, xin đừng để con coi nhẹ và khinh thường tình yêu Chúa. Xin giúp con biết đi tìm Ý Chúa và làm theo Ý Chúa trong từng việc làm và lời nói, trong cách sống và suy nghĩ, để nhờ đó con được nên giống Chúa và trở thành anh chị em của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Lm. Ngày kia, thừa lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn: “Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?”
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao?” (Theo Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr. 42).
Suy niệm
Tình huyết nhục là tình rất thân thiết của con người. Ðức Giêsu như bao nhiêu người con có hiếu, không bao giờ chối gia đình.
Khi khẳng định: “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”, Ðức Giêsu không coi nhẹ tình gia đình, cũng như không phải lãnh đạm với mẹ và anh em Ngài. Đức Giêsu muốn đề cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.
Qua sự khẳng định, mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu không phải là không muốn nhìn nhận mẹ của mình - Đức Maria. Hơn thế nữa, Chúa muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết.
Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa vâng với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và của sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô hữu: lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức thực sự là anh chị em với Chúa, khi nghe và thực thi ý thánh Chúa.
Ý lực sống:
“Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).
1. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ tôi”. Phải chăng câu trả lời của Đức Giêsu nhắc cho mỗi người chúng ta rằng, ngoài sợi dây theo huyết nhục còn một sợi dây cao quí hơn do lời Chúa liên kết, biến chúng ta thành anh chị em với nhau. Thật vậy, mối dây bền chặt nhất là liên hệ với Thiên Chúa bằng cách nghe và thực thi ý Ngài. Vậy mỗi người chúng ta luôn phải tìm hiểu và sống Lời Chúa. Lời Chúa sẽ làm cho chúng ta nên thân thiện với nhau và sống trong hạnh phúc.
2. Trong lúc Đức Giêsu đang rao giảng, dân chúng đông đảo vây quanh Ngài, khiến cho mẹ và thân nhân có việc muốn gặp Ngài, nên không thể chen chân vào được.
Sự việc xẩy ra sau chuyện (M 3,20-27) bà con được tin Chúa làm việc quá sức mình, quên ăn quên nghỉ; đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch nên muốn đến bắt Ngài, đưa về nơi yên ổn, giữ sức khỏe cho Ngài, nhất là để tránh những biệt phái gây chuyện khiến thế quyền và giáo quyền có thể thi hành quyền đối với Ngài và liên lụy cho bà con họ hàng.
Lần này có sự hiện diện của Đức Mẹ cùng với bà con muốn đến gặp Đức Giêsu, khi Ngài đang giảng dạy ở Capharnum, và có đông đảo dân chúng đến nghe. Sự việc này nói lên tính cách liên đới ruột thịt máu mủ giữa những phần tử trong gia đình và trong họ hàng.
3. ”Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi” (Mc 3,33)?
Câu nói của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là khi bắt đầu đời công khai, Đức Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Đức Giêsu không ra gặp mẹ, mà còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta”.
Thật ra, qua câu nói này, Đức Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Đức Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Đức Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
4. ”Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, là mẹ Ta” (Mc 3,35).
Đối với bản thân mình, Đức Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
Điều này làm chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi mình: bản thân tôi là Kitô hữu, tôi đã thuộc về Đức Kitô chưa. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Ngài. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Ngài như thế.
Hôm nay, Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho Lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Đức Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Ngài.
Nhiều lần tôi đã từ chối chức vụ cao trọng ấy, vì còn miệt mài cạnh tranh, dành giật những địa vị khá hơn, cao hơn; mong cho cuộc sống được “sung túc”.
Lạy Chúa, xin cho con biết trọng địa vị cao sang Chúa dành cho con là được làm mẹ và làm anh chị em Ngài, khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata).
5. Truyện: Thực hành Lời Chúa.
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất văn hoa, xúc tích, sâu sắc, hùng hồn. Tất cả các tín hữu có mặt hôm ấy cảm thấy rất sốt sắng và phấn khởi. Có lẽ có nhiều người đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói: “Phun châu nhả ngọc”.
Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế vào Chúa nhật kế tiếp, nhà thờ bỗng trở nên đông đảo hơn các Chúa nhật khác. Mọi người nóng lòng chở đợi cho đến lúc cha giảng. Nhưng cha xứ lại giảng một bài gần giống như bài giảng Chúa nhật tuần trước đó. Rồi trong Thánh lễ Chúa nhật thứ 3, thứ 4, kế tiếp đó cũng vẫn một bài giảng đó.
Hội đồng giáo xứ liền cử người đến hỏi cha xứ xem tại sao mà ngài lại cứ giảng đi giảng lại một bài giảng hoài như vậy? Cha xứ bèn trả lời:
- Tại sao anh chị em vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần trước. Khi nào anh chị em đem áp dụng những gì tôi đã trình bầy tôi sẽ giảng bài giảng mới.
Các đoạn Tin Mừng từ ngày Thứ Ba này đến ngày Thứ Năm đều nói về việc nghe Lời Chúa. Ý tưởng mỗi ngày một tiến thêm
- Thứ Ba (Mc 3,31-35) đề cao những người nghe Lời Chúa.
- Thứ Tư (Mc 4,1-20) Nghe Lời Chúa chưa đủ, còn phải sống Lời đó nữa.
- Thứ Năm (Mc 4,21-25) Và còn phải loan báo Lời Chúa cho những người khác.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đang giảng Lời Chúa cho những kẻ khao khát nghe. Đúng lúc đó những người bà con đến xin gặp Ngài. Chúa Giêsu tỏ ra coi trọng những người đang nghe Lời Chúa hơn những người bà con chẳng những Ngài không bỏ việc giảng để ra ngoài gặp bà con, mà còn nói những kẻ đang nghe Ngài giảng mới là gia đình thật của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. "Mẹ và anh em Chúa Giêsu đứng ở ngoài, cho gọi Người ra" Văn mạch phía trước có kể rằng khi hay tin Chúa Giêsu say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, "thân nhân của Người liền đi bắt Người vì họ nói rằng Người đã mất trí" (Mc 3,21). Chuyến đó họ không "bắt" (nghĩa là không ngăn cản) Chúa Giêsu được. Có lẽ vì thế mà hôm nay, họ mời thêm Đức Maria. Khi Đức Mẹ đến, hẳn Người không hề có ý cản trở sứ mạng Chúa Giêsu mà chỉ đến để xem xét sự thể ra sao. Dù sao, câu chuyện cũng cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy học nơi Đức Mẹ thái độ ghi nhớ và suy gẫm trong lòng những điều chưa hiểu.
2. Theo cách viết của Thánh Mác cô, mẹ và anh em Chúa Giêsu "đứng ở ngoài", còn đám đông nghe Ngài giảng thì "ngồi chung quanh". Như thế nghĩa là những kẻ nghe Lời Chúa còn gần gũi và thân thiết với Ngài còn hơn những người bà con ruột thịt.
3. Đối với bản thân mình, Chúa Giêsu coi trọng việc rao giảng Lời Chúa hơn việc gặp bà con; đối với người khác, Ngài coi trọng những người nghe Lời Chúa hơn cả bà con của Ngài.
4. Chúa Giêsu nhiều lần nhấn mạnh đến việc nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Thí dụ "Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc… Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiến Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người (nghĩa là thi hành ý Người), còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho" (Mt 6,25-33); "Ai nghe mà không thực hành thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào thì nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành" (Lc 6,49).
5. "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, là mẹ tôi" (Mc 3,35)
Bản thân là một kitô hữu, tôi đã thuộc về Đức Kitô. Biết và thi hành ý muốn của Chúa, tôi sẽ là mẹ, là anh chị em của Người. Vâng, Chúa đã nói với những kẻ ngồi xung quanh Người như thế.
Hôm nay, Chúa cũng tha thiết nói với tôi, với những người xung quanh tôi như vậy, từ những người trí thức đến những người thấp kém trong xã hội. Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ đón nhận và làm cho lời Chúa thấm nhuần cả đời sống của ta, gia đình và xã hội, để Chúa Giêsu không ngừng lớn lên trong ta và trong mọi người. Như thế đó, ta vừa là mẹ vừa là anh chị em của Người.
Nhiều lần tôi đã từ chối chức vụ cao trọng ấy, vì còn miệt mài cạnh tranh, dành giật những địa vị khá hơn, cao hơn; mong cho cuộc sống được "sung túc".
Lạy Chúa, xin cho con biết trọng địa vị cao sang Chúa dành cho con là được làm mẹ và làm anh chị em Người, khi lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata)
1. Các đoạn Tin Mừng từ ngày Thứ Ba đến ngày Thứ Năm tuần này đều nói về việc nghe Lời Chúa. Ý tưởng này mỗi ngày một rõ và mạnh thêm.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao Mẹ Chúa Giêsu và anh em Chúa lại muốn gặp Chúa đang lúc Chúa giảng dạy cho dân chúng như vậy?
Theo Marcô thì chúng ta thấy, trước khi có chuyện mẹ và anh em muốn gặp Chúa thì đã có thân nhân của Chúa nghe tin Chúa say mê giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng đến nỗi không có thời giờ ăn uống, thậm chí họ còn cho rằng, Ngài đã mất trí cho nên họ muốn bắt Ngài về. (Mc 3, 21). Không hiểu vì lý do gì mà chuyện đó không thành công. Họ không “bắt” (nghĩa là không ngăn cản) được Chúa Giêsu, cho nên hôm nay, họ mời thêm Đức Maria nữa. Chắc hẳn khi Đức Mẹ đến, mẹ chẳng hề có ý cản trở sứ mạng Chúa Giêsu mà chỉ đến để xem sự thể ra sao.
Dù sao, câu chuyện cũng cho thấy Đức Mẹ chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Chúa Giêsu. Đã nhiều lần Mẹ phải ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng về những việc lạ lùng nơi con của mình. Cuối cùng, dưới chân Thập Giá, Mẹ mới hiểu hết và còn kết hợp sự đau khổ của mình với sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy học nơi Đức Mẹ thái độ ghi nhớ và suy gẫm trong lòng những điều chưa hiểu.
2. Vâng! Tuân theo thánh ý Thiên Chúa đó là điều đã được Đức Maria thực hiện một cách rõ ràng qua hai tiếng Xin Vâng trong biến cố Truyền Tin và rồi còn được thể hiện trong suốt cuộc đời của Đức Mẹ nữa. Không ai có thể nghi ngờ gì về việc đó.
Ngày nay, không thiếu gì những người cũng đã trở thành những người mẹ, người anh chị em của Chúa, theo ý nghĩa mới.
Câu chuyện dưới đây là một trong muôn vàn trường hợp.
Nàng là một thiếu nữ trẻ đẹp, đã đính hôn với một chàng trai, và đang chờ đợi ngày làm lễ thành hôn. Thế rồi một hôm, bỗng nàng cảm thấy đau ở tay. Nàng đến gặp một Bác sĩ. Sau khi đã khám nghiệm, bác sĩ cho biết, nàng mắc bệnh phong cùi. Thế là tương lai hoàn toàn sụp đổ ngay ở dưới chân. Sao mà số phận của nàng nghiệt ngã đến thế. Rồi cùng với bao nhiêu người cùi khác, nàng phải vào sống trong trại cùi. Những trại này thường được thiết lập ở một nơi xa xôi hẻo lánh, tách biệt khỏi gia đình và xã hội.
Hôm ấy người ta chở nàng đến trại cùi. Vừa đến nơi, thấy những người đàn bà rách rưới bẩn thỉu, nàng bật khóc và tinh thần xuống tột độ. Sự tuyệt vọng đã hiện rõ trên khuôn mặt xinh xắn của nàng. Những người đưa nàng đến đây đều có cùng một ý nghĩ là, có thể nàng sẽ tự tử.
Nhưng may thay, mấy ngày hôm sau, một vị thừa sai đang phục vụ trong trại cùi đã đến xin nàng giúp ngài săn sóc cho những người cùi khác.
Một tia hy vọng đã lóe lên trong đầu nàng. Từ đó, nàng bắt tay vào việc bằng cách mở lớp dạy chữ cho các em cùi và những người lớn chưa biết chữ. Nàng cũng hướng dẫn những phụ nữ có con cách chăm sóc và nuôi nấng con cho chu đáo.
Nhưng điều nàng làm hay nhất là những buổi sinh hoạt mà nàng đứng ra hướng dẫn, đã thay đổi hẳn bộ mặt của trại cùi một cách rõ nét. Nhờ cây đàn Accordion được các vị thừa sai sắm cho, nàng đã tạo nên được một bầu không khí vui nhộn và ấm cúng cho cả trại cùi.
Ít lâu sau, có người hỏi cảm tưởng của nàng về cuộc sống nàng đang sống thì người thiếu nữ Ấn Độ đó trả lời rằng:
- Khi vừa mới đến đây, tôi bắt đầu hồ nghi Thiên Chúa. Tôi không biết có Thiên Chúa hay không nữa. Vì nếu có Thiên Chúa là tình thương, thì làm sao mà Ngài lại để cho con người khổ sở như thế này. Nhưng bây giờ thì tôi biết đó là ý Chúa. Và rõ ràng đối với tôi là Ngài muốn cho tôi ở đây, để làm vơi đi những nỗi sầu khổ của bao nhiêu người đang sống ở chốn này. Vì thế, tôi không còn buồn nản như lúc mới tới đây nữa, mà tôi hân hoan thực thi ý của Chúa. Bao lâu tôi còn sống tôi sẽ cảm tạ Chúa vì Ngài đã dắt đưa tôi tới đây.”
Vâng! Người thiếu nữ trên đây đã trở thành mẹ và anh chị em của Chúa rồi.
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Rabboni).
giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. "Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: "Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm". Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe". Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: "Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội". Người nói với các ông: "Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác? Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn, như rơi vào thửa đất màu mỡ, đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn. Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này: “Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.” Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ. Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này: “Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.” Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật. Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa, nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra. Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi. Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe. Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau, vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn. Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường. Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất, mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt. Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan. Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên. Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại, không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá. Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước. Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình, đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu. Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ, thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài. Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có. Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống. Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo. Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch. Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt. Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm. Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo, họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình. Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào? Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay. Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế. Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình. Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần, ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ---------------------------------
Thiên Chúa gieo Lời Người xuống trần gian. Đó là lời tình yêu. Lời sự sống. Lời hạnh phúc. Nhưng con người vô tâm không lắng nghe. Để ma quỉ tha đi mất. Như bà E-và. Nhưng Thiên Chúa không nản lòng. Vẫn tràn đầy yêu thương. Vẫn tiếp tục gieo hạt. Lời không bén rễ sâu. Vì con người hời hợt. Mau thay đổi. Thiên Chúa vẫn tiếp tục gieo. Hạt đã bắt đầu mọc. Nhưng con người quá ham mê dục vọng. Để dục vọng chèn ép. Lời Chúa không lớn mạnh được. Như trường hợp Sam-son. Thiên Chúa kiên trì yêu thương. Gieo cho đến khi Lời gặp được mảnh đất tốt. Sinh hoa kết quả trăm nghìn.
Sách Sa-mu-en cho ta thấy hai vị vua đầu tiên là hai mảnh đất khác nhau. Sa-un được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng ông không tuân giữ Lời Chúa. Lòng tham lam và dục vọng chèn ép làm cho Lời Chúa chết nghẹt. Ông trở nên mảnh đất sỏi đá. Lời Chúa không phát triển được. Chúa từ bỏ ông. Trái lại Đa-vít là vị vua thánh thiện. Luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Lời chúa sinh hoa kết quả. Không những trong đời ông. Mà còn tồn tại đến đời con cháu. Như Lời Chúa hứa. “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền…Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” (năm chẵn).
Tất cả lời hứa của Thiên Chúa ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Giê-su là dòng dõi Đa-vít lên trị vì. Và vương quyền Người muôn đời bền vững. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa xuống trần gian để đi gieo Lời. Chính Người là Ngôi Lời được gieo xuống trần gian. Người là sự sống, là tình yêu, là hạnh phúc gieo xuống lòng nhân loại. Chính Người trở thành hạt giống mục nát đi. Dâng hiến chính đời mình. Chết đau thương. Được chôn táng trong mộ.Trở thành hạt lúa tốt sinh hoa kết quả trăm nghìn. Tạo nên một mùa gặt mới phong phú dồi dào. Vì chính Người là mảnh đất tốt. Đón nhận Lời của Chúa Cha. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nên mùa gặt phát sinh. Mùa gặt sự sống. Mùa gặt tình yêu. Mùa gặt hạnh phúc (năm lẻ).
Ta hãy noi gương Chúa Giê-su. Hãy hăng say đi gieo Lời Chúa. Hãy trở thành thửa đất tốt. Luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Hãy trở thành hạt giống được gieo xuống lòng đất. Mục nát đi. Sẽ sinh hoa kết quả muôn ngàn.
Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)
Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”
Thất bại trong việc rao giảng
Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…
Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.
Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.
Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.
Hiểu lời này của Chúa hôm nay
Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?
Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?
Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.
Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.
Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.
Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.
Sứ điệp: Như người gieo giống tung vãi hạt giống trên mặt đất, Thiên Chúa luôn quảng đại rộng tay ban ơn cho ta. Ta hãy đón nhận ơn Chúa và làm trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp trong đời sống hàng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hình ảnh người gieo giống bốc từng nắm hạt vung vãi trên cánh đồng đã làm con xúc động. Bởi lẽ hình ảnh ấy giúp con hiểu được rằng từng giây phút Chúa vẫn ban muôn hồng ân cho con: từ hừng đông cho đến chiều tà, và từ chiều tà cho đến hừng đông ngày mới, ơn Chúa vẫn chan hòa trên con. Đâu phải tình cờ tự nhiên con có không khí để thở, có thân xác khỏe mạnh, được đón nhận những tia nắng ấm hoặc những giọt mưa trong lành… Vâng, lạy Chúa, con tin rằng đó là quà tặng Chúa thương ban cho riêng con. Nhưng vì những ơn Chúa ban quá dồi dào, nên con đã thờ ơ coi thường, và thậm chí có lúc con đã phung phí ơn Chúa ban.
Những hạt giống ơn Chúa ký gởi nơi cuộc đời con đã bị cỏ dại tội lỗi tấn công bóp nghẹt. Hoặc tâm hồn con như thuở đất hoang chai cứng, không đón nhận ơn lành Chúa ban.
Lạy Chúa, Chúa quảng đại và kiên nhẫn với con biết chừng nào! Có thể nói rằng: Chúa đã “phung phí” ơn lành để mong con trổ sinh hoa trái.
Xin Chúa giúp con biết chăm sóc mảnh đất tâm hồn mình, biết nhặt đi những sỏi đá gai góc tật xấu mỗi ngày, biết vun xới tâm hồn bằng những việc tốt, bằng những phút suy gẫm Lời Chúa, những giờ kinh lễ sốt sắng, để hạt giống ơn Chúa có thể sinh nhiều hoa trái nơi cuộc đời con. Amen.
Một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả Rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi: - Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran?
Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giáo. Nhà truyền giáo nói thêm: - Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không?
Cậu bé đáp: - Thưa cha, không được! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi trong lòng chứ không thể viết trên đất được.
Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh Thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.
Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.
Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.
Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.
Suy niệm
Ở Do Thái đất đai có rất nhiều đá. Cho nên, trong công việc nhà nông của người Do Thái, việc lượm đá là một động tác quen thuộc cũng như làm cỏ, đến nỗi từ “đá” (xêla) khi dùng như một động từ ở thể hành động (xalêa) thì có nghĩa là lượm đá để dọn một mảnh đất. Ðá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước thì gai là loài cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất. Người nông dân ở Palestine xưa kia dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi giống như xạ lúa ở miền Tây (Theo lời giải thích của cha Nguyễn Công Đoan SJ).
Khi biết và hiểu địa dư của đất nông nghiệp Do Thái, chúng ta dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đá, mặt lối đi, bụi gai và đất tốt như Đức Kitô đã nhấn mạnh đến các chi tiết trong dụ ngôn.
Muốn gieo cho kín ruộng mình thì người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả: ”xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. “Hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt…”. Hình ảnh người nông dân gieo giống tượng trưng cho hình ảnh Thiên Chúa, Ngài luôn vững tay phân phát thật rộng rãi để hạt giống được phủ kín mảnh ruộng, là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với nhân loại, Ngài làm tất cả, đôi lúc có phung phí ân sủng, vì Ngài mong ít ra có những hạt giống rơi trên đất tốt.
Mảnh đất được gieo trồng mang hình ảnh tâm hồn tôi và tâm hồn bạn. Để cho mảnh đất trở nên đất tốt hòng hạt giống của Thiên Chúa gieo vào sinh hoa kết trái, chúng ta cần phải chuẩn bị, như người nông dân lượm những viên đá để trên bờ rào. Hình ảnh đó gợi lên cho chúng ta tâm tình biết sửa chữa mình không ngừng để cuộc sống chúng ta luôn tràn ngập bình an, ân sủng, đó là giống đã được nảy mầm, đơm hoa và kết hạt.
Nếu cứ để tâm hồn chúng ta hoang sơ như những mảnh đất chưa được nhặt lượm những sỏi đá, cỏ lùng không bị tàn diệt, chắc chắn dù hạt giống ân sủng được nảy mầm, đời sống chúng ta như Chúa ví trong dụ ngôn: Rễ không đủ sâu gặp nắng gắt chết khô, hay chết nghẹt vì bụi gai… hãy nhặt đi những sỏi đá trong mảnh đất hồn tôi, hãy nhổ đi những cụm cỏ lùng luôn đe dọa đến hạt giống như Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (x. Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt hay không. Giống không sinh được hạt nếu không có sự cộng tác của con người. Mảnh đất phải được dọn cỏ lùng, mảnh đất phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.
Ý lực sống
“… Những lo lắng thế gian và sự giàu có của vật chất làm cho giống chết nghẹt” (Thánh Têrêsa Avila).
1. Khi nói đến những vấn đề trừu tượng khó hiểu như Nước Trời chẳng hạn, Đức Giêsu hay dụng dụ ngôn để diễn tả những ý tưởng đó. Dụ ngôn người gieo giống trong đoạn Tin Mừng này cho chúng ta thấy những thái độ và hiệu quả của việc đón nhận Lời Chúa khác nhau. Cũng vậy, Tin Mừng được gieo vào lòng chúng ta, thế nhưng mảnh đất tâm hồn chúng ta thế nào? Mảnh đất của chúng ta có điều kiện để hạt giống Tin Mừng được sinh hoa kết quả; hay là mảnh đất khô cằn, chai cứng?
2. Để dễ hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần lưu ý: cách gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu khác với cách gieo giống của ta ngày hôm nay:
- Vì còn lạc hậu nên đất chia ra làm nhiều mảnh vụn. Ranh giới giữa các mảnh ruộng thường dùng làm đường đi nên khi gieo có nhiều hạt vương trên bờ.
- Vì vùng đất hoang khô cằn, nên mảnh ruộng có nhiều sỏi đá, và cây gai vì thế khi gieo có những hạt rơi trên sỏi đá và hạt chen vào bụi gai.
- Ngoài ra, cũng có những vùng đất tốt được phân làm nhiều loại và năng suất của mỗi loại đất cũng khác nhau.
3. Thực ra, các môn đệ cũng chưa hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn này, nên lúc còn một mình Chúa với các môn đệ, Ngài giải thích thêm cho các ông: người đi gieo là kẻ giảng lời Chúa. Hạt rơi bên dường chỉ ngươi nghe rồi bị ma quỉ cướp mất. Hạt rơi trên sỏi đá chỉ kẻ nghe thì vui nhận, nhưng vì thiếu kiên nhẫn khi bị gian nan thử thách thì bỏ qua. Hạt rơi trong gai góc là hạng người nghe lời giảng thì vâng giữ, nhưng vì ham mê danh vọng của cải thế gian nên Lời Chúa cũng bị chết nghẹt. Hạt rơi trên đất tốt là những người nghe lời Chúa, suy niệm trong lòng rồi chịu khó đưa ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nên sinh bông trái là phần rỗi linh hồn.
4. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai. Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quí cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thâm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
5. Tuy thế, lòng người dù có sỏi đá, vệ đường, bụi gai nhưng vẫn có thể được cầy xới chăm bón để biến đổi thành đất tốt. Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống không nằm yên thụ động mà còn có sức cải tạo được. Chẳng hạn các vị thánh như Phaolô, Augustinô, Phanxicô Xaviê đã được biến đổi thành “đất tốt” nhờ đã được đón nhận Lời Chúa gieo vào tâm hồn cách nhẫn nại và hào phóng. Thiên Chúa đang cần chúng ta có sự nhẫn nại và hào phóng đó để Nước Trời được mùa gặt bội thu.
6. Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Đấy là chưa kể những biến cố xẩy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
7. Truyện: Lời Chúa biến đổi tâm hồn.
Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn, Đức tin cũng như lòng mến Chúa chân thành của bác ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.
Một hôm, có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác để bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.
Người vô thần hỏi:
- Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?
Bác nông phu trả lời:
- Ngày 25 tháng 12.
Người vô thần nhún vai, trợn mắt, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:
- Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?
Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời: - Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.
Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:
- Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tính xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.
Trong đoạn Tin mừng hôm qua, Chúa Giêsu đề cao những người biết lắng nghe Lời Chúa. Trong đoạn hôm nay, Ngài dùng dụ ngôn về người gieo giống để khuyến cáo: không phải chỉ nghe thôi là đủ, mà còn phải "nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả" (câu 20). Ngài cũng vạch cho thấy những trở ngại khiến cho việc nghe Lời Chúa không sinh kết quả, đó là:
a/ Bị Satan phá (hạt rơi bên vệ đường);
b/ Tính nông nổi nhất thời, không kiên trì thực hiện Lời Chúa trong lúc gian nan hay bị ngược đãi (hạt rơi trên đá sỏi);
c/ Những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác (hạt rơi trong bụi gai).
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai, Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi "những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác". Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự "thinh lặng nội tâm" thì Lời Chúa dễ thấm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
2. "Những người được gieo vào đất tốt, đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm": "nghe" là một việc tương đối thụ động, việc của đôi tai; "đón nhận" là việc chủ động, việc của con tim; và "sinh hoa kết quả" càng chủ động hơn nữa, đó là việc của ý chí và của nhiều cố gắng.
3. Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi "Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?". Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời "Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã"... Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua "Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được"... Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý" (Góp nhặt)
4. "Ai có tai thì nghe!" (Mc 4,9)
Vào một buổi sáng Chúa nhật, tôi tình cờ nghe được mẫu đối thoại sau giữa hai anh chàng thanh niên. Một anh hỏi: "Sáng nay cậu có đi dự lễ không?". Anh kia đáp: "Có chứ". "Thế có nhớ bài Phúc âm hôm nay là của Thánh nào không? Nội dung ra sao?" Qua thái độ và cử chỉ lúng túng của anh, tôi đoán được ngay câu trả lời.
Thực ra, không riêng gì anh, mà tôi và các bạn cũng thế. Chúng ta thường lắng nghe và nghĩ đến nhiều sự, thậm chí cả những điều không đáng nghe, nhưng lại bỏ ngoài tai những lời ban sự sống, hoặc có nghe lời Chúa thì cũng chẳng hiểu, chẳng khám phá được ý Người, bởi ít hồi tâm cầu nguyện hay để tâm học hỏi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin soi sáng tâm trí con để con luôn hiểu và sống Lời Chúa, hầu trở nên mảnh đất tốt cho hạt giống Lời Chúa được trổ sinh hoa trái đúng mùa. (Epphata)
1. Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu đề cao những người biết lắng nghe Lời Chúa. Trong đoạn hôm nay, Ngài dùng dụ ngôn về người gieo giống để khuyến cáo mọi người: không phải chỉ nghe thôi là đủ, mà còn phải “nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả” nữa (câu 20).
Ngài cũng vạch cho thấy những trở ngại khiến cho việc nghe Lời Chúa không sinh hoa kết quả, đó là:
a/ Bị Satan phá (hạt rơi bên vệ đường);
b/ Tính nông nổi nhất thời, không kiên trì thực hiện Lời Chúa trong lúc gian nan hay bị ngược đãi (hạt rơi trên đá sỏi);
c/ Những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác (hạt rơi trong bụi gai).
2. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai, Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thấm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại, khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
”Những người được gieo vào đất tốt, đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm” (Mc 4,20): “nghe” là một việc tương đối thụ động, là việc của đôi tai; “đón nhận” là việc chủ động, việc của con tim; và “sinh hoa kết quả” càng chủ động hơn nữa, đó là việc của ý chí và của nhiều cố gắng.
Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng đẫn Đức tin và lòng mến Chúa chân thành của bác càng ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến mức độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.
Một hôm có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác cho bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.
Người vô thần hỏi:
- Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?
Bác nông phu trả lời:
- Ngày 25 tháng 12.
Người vô thần nhún vai, trợn mắt lên, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:
- Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?
Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời:
- Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.
Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:
- Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, các con tôi thì sợ tôi như cọp. Nhưng sau khi tôi đã tin nhận Chúa, giờ đây vợ tôi đã tươi cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tật xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.
Tâm hồn của người vô thần và của bác nông phu chính là hai thửa đất khác nhau, được Chúa Giêsu nói đến trong dụ ngôn người gieo giống mà chúng ta vừa nghe.
Chính sự kiêu ngạo và tự mãn của người vô thần đã làm cho những kiến thức của ông về Chúa bị bóp nghẹt, và do đó đã không thể sinh hoa trái được..
Còn với bác nông phu kia, tuy kiến thức của bác về Chúa có ít oi và yếu kém thật, nhưng bác đã để cho những gì bác lãnh hội được, biến đổi đời sống của bác. Tâm hồn chất phác đơn sơ của bác, chính là thửa đất tốt, vì thế mà hạt giống Lời Chúa đã sinh hoa kết trái. Nó đã làm thay đổi, không những đời sống của bác nông phu, mà nó còn làm thay đổi cả đời sống của gia đình bác nữa. Thật là tuyệt vời!
Lạy Chúa, Xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe Lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không còn những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại can đảm và cùng đi với Chúa và với tha nhân trên mọi nẻo đường trần thế. Amen.
Lễ kính. Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất. “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một. Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu. Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi. Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh. Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5). Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã. Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới. Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7). Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11). Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11). Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói. Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8). Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu. Đức Giêsu và các Kitô hữu là một. Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên. “Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10). Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa. Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì. Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu. Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người. Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông. Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải. Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới. Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8). Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13). Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải. Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới. Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con. Amen. (Chân phước Têrêxa Calcutta) ---------------------------------
Sứ điệp: Mỗi người môn đệ đều được Chúa Giêsu Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Nhưng trước hết phải hoán cải theo gương thánh Phaolô tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường làm con ngạc nhiên ngỡ ngàng. Mỗi trang Tin Mừng đều đưa con đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người ta đánh mất sự ngạc nhiên khi quen coi thường những điều nghiêm chỉnh. Thực sự con cảm thấy ngỡ ngàng và thật bất ngờ khi con được Chúa sai đi làm sứ giả Tin Mừng cho Chúa. Lạy Chúa, thật thế sao? Con là một kẻ tội lỗi, tầm thường, một kẻ tài trí kém cỏi, một kẻ nhiều tính xấu, nhiều khuyết điểm, lại được Chúa nhờ cậy và giao trọng trách sao? Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng?
Con hỏi Chúa, nhưng câu trả lời đã có. Con biết không phải Chúa lầm, nhưng Chúa thương con và tín nhiệm con. Đối với Chúa, không ai là quá xấu đến độ phải loại bỏ. Chúa muốn mọi người làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa, bởi vì dù chúng con có tội lỗi yếu hèn đến đâu, ân sủng và tình yêu của Chúa vẫn mạnh hơn tội lỗi và yếu hèn của chúng con. Không ai ngờ thánh Phaolô, kẻ bách hại đạo Chúa, lại trở nên vị tông đồ thừa sai số một của Hội Thánh. Không ai ngờ thánh Phêrô, kẻ chối Chúa, lại là thủ lãnh tiên khởi của Hội Thánh. Lạy Chúa, chính ơn Chúa đã làm cho các ngài hoán cải và hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Phần con, con cũng không ngờ, con chỉ biết cảm tạ tình thương Chúa dành cho con. Xin Chúa giúp con dám lãnh trách nhiệm. Xin giúp con không ngừng hoán cải mỗi ngày để con có thể theo Chúa sát hơn và hiến thân nhiều hơn. Con đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn thánh Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian”.
Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Tin mừng của các ngày trước và triển khai thêm chủ đề nghe Lời Chúa.
- Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn:
a/ Họ phải loan Tin Mừng cho những người khác biết nữa;
b/ Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
- Dụ ngôn cái đấu: người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
B. (...nẩy mầm)
1. Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: "Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ".
2. "Hãy để ý điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy": nhiều khi tôi thấy có những người khác đã hiểu và sống Lời Chúa một cách rất sâu sắc, rồi nhìn lại mình mà tự xấu hổ. Tại sao thế? Chính Chúa Giêsu giải thích: tại vì "cách nghe". Họ chẳng những "nghe" mà còn "đón nhận" và "sinh hoa kết quả" cho nên "đã có thì lại được cho thêm"; còn tôi, có lẽ tôi chỉ "nghe" suông, cho nên "ngay cái đang có cũng bị lấy mất đi".
3. Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu? - Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng. - Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được? - Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tầu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt)
4. Một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)
Đứng trước lời rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, có hai hạng người với hai thái độ trái ngược nhau, đó là giới lãnh đạo Do thái và những người tội lỗi và dân chúng. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con để làm nổi bật sự tương phản giữa lời nói và việc làm: nói có mà không làm; nói không nhưng lại làm. Giữa sự đối nghịch này, hành động được đánh giá là quan trọng, vì hành động là dấu hiệu của một tâm hồn trong sáng, biểu hiện qua những hành động ngay thẳng. Vì thế, Đức Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố: “Không phải những người nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, là được vào Nước trời, nhưng chỉ những kẻ thi hành ý Cha trên trời”.
Cần tìm hiểu hình bóng của dụ ngôn này:
- Người con thứ nhất thưa “không đi”, nhưng sau hối hận và đã đi làm: ám chỉ những người tội lỗi, thu thuế, đĩ điếm và chư dân. Những người này thoạt mới nghe giảng, họ ngại ngùng không theo; nhưng sau họ đã nghe Gioan Tẩy giả và lời giảng của Đức Giêsu nên đã sám hối ăn năn.
- Người con thứ hai là đứa con “thưa vâng” rồi không đi làm: ám chỉ những nhà lãnh đạo Do thái và tất cả những ai vâng lệnh bằng lời nói mà không thực hành. Những người này vẫn tự xưng là giới đạo đức và lên mặt mô phạm với đời. Nhưng họ từ chối ơn Thiên Chúa, không nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, mặc dầu trước khi Người đến, họ vẫn khát vọng Người.
- Áp dụng vào trường hợp ông Saolô là người con thứ nhất: đã không đi lại còn chống đối và âm mưu ám hại, nhưng đã hối hận và trở lại để trở thành Tông đồ Phaolô nhiệt thành.
Kết luận dụ ngôn Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Đức Giêsu đã nói thẳng với các người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ. Còn thánh Phaolô thì không ngờ được Chúa đón nhận.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải có thái độ nào với tư cách là một Kitô hữu, một chứng nhân của Chúa? Chúng ta sẽ cố gắng:
- Đừng nghĩ rằng mình thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
- Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình toả ra mùi thơm tho nhân đức vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình sẽ chứng minh.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại. Bây giờ tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này.
A. Một chút về lịch sử
Trong khi thánh Phêrô được xác định là ”đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là ”thầy dạy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1Tm 2,7). Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người Kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mê-si-a bị xử tử như một tử tội.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisêu đạo đức, đã biến đổi ngài trở thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gl 1,11-16).
Lễ thánh Phao-lô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Ga-li-en, từ thế kỷ thứ 8. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. BƯỚC QUA BÀI SÁCH TĐCV.
Trong sách Công vụ, chính Phaolô đã tự thuật về ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy bắt đầu từ một biến cố trên đường ông đi Đamát. Câu chuyện này được tường thuật tới 3 lần: 9,3-7; 22,3-16 và 26,13-15. Bài sách thánh chúng ta vừa nghe là đoạn tường thuật thứ hai.
Có một chi tiết nổi bật trong câu chuyện này. Đó là sự mù lòa và sự sáng mắt của Phaolô. Sự kiện này có thể phân ra thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trước khi Phaolô gặp Chúa Giêsu: ông là một người nhiệt thành. Nhưng chính sự nhiệt thành ấy đã làm ông thành mù quáng khiến ông chống lại Giáo Hội của Ngài (cũng giống như những người biệt phái).
- Giai đoạn 2: Sau khi ông gặp được Chúa Giêsu: hoạt động mù quáng chống phá Giáo Hội đã ngưng lại, nhưng ông vẫn còn mù (“Ánh sáng chói lòa kia làm cho tôi không trông thấy nữa”). Sự mù này một phần vì Phaolô chưa thích ứng nổi với ánh sáng quá rực rỡ của Chúa Giêsu, một phần vì ông chưa được chỉ dẫn về đường lối của Ngài
- Giai đoạn 3: Khi gặp được Khanania, thì Phaolô được sáng mắt, vì đã được chỉ dẫn (“Thiên Chúa đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Ngài và được thấy Đấng Công Chính... Anh sẽ làm chứng nhân... về các điều anh đã thấy và đã nghe”).
C. BƯỚC QUA BÀI TIN MỪNG.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
- Chúa sai các ông đi loan Tin Mừng: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
- Sai đi với một lời hứa: Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Chúa Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa:
a/ Nghĩa bóng: Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ;
b/ Nghĩa đen: các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
D. BÀI HỌC
1. Khi chọn ai, Chúa không theo những tiêu chuẩn thường tình của con người nhưng theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc...
Đọc lịch sử Giáo hội, tuy chúng ta thấy không có một vị thánh nào khả dĩ so sánh được với thánh Phaolô. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính Giáo hội, mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một điạ vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các Kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hàng ngày trong Thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích dẫn trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự.
Thế nhưng hầu như không bao giờ Ngài tỏ ra có vẻ hơn người. Nếu có nói, có khoe thì chỉ là nói và khoe những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không để nhờ đó mà thấy rõ hơn tình yêu thương của Chúa đã dành cho mình (Sunday School Times).
2. Sự việc Ngài trở lại cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ thật nhiều.
Thế nào là trở lại? Trở lại là đang đi trên một con đường, rồi biết rằng đường đó là sai lạc, nên dứt khoát quay lại. Nếu chỉ biết mà không quay lại thì không phải là trở lại. Thánh Phaolô đã quay lại một cách dứt khoát đúng 180độ, và quay rất nhanh.
Bà Reside là nhà truyền giáo đầu tiên cho những người da đỏ bộ lạc Kiowa ở Oklahoma. Bà được họ thương mến đặt tên là Aim-day-co, nghĩa là “Hãy quay lại”. Khi giải thích lý do chọn cái tên đó để đặt cho bà, vị tù trưởng nói: “Khi những người bộ lạc Kiowa chúng tôi thấy ai đang đi lạc hướng thì chúng tôi nói với họ “Aim-day-co”. Họ nghe và quay lại đúng hướng. Bà này từ một nơi xa xôi đến với chúng tôi. Bà thấy chúng tôi đang đi lạc và bà đã chỉ cho chúng tôi con đường đúng, đó là con đường của Chúa Giêsu Kitô. Xin Ngài chúc lành cho bà Aim-day-co” (Moody Monthly).
Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết trở lại với Chúa mỗi khi chúng ta lỡ lạc đường.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi. Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh. Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c.3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5). Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã. Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ(c. 7). Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11). Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11). Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8). Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu. Đức Giêsu và các Kitô hữu là một. Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10). Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa. Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì. Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu. Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đa-mát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông. Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải. Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới. Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Pl 3, 8). Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải. Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
Nói đến thánh Phaolô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Nói đến Phaolô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phaolô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phaolô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Kitô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Saolô. Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Saolô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các người Kitô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Saolô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.
Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Saolô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phaolô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Kitô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giêsu Kitô. Phaolô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Saolô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các dân ngoại.
Rõ ràng là ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Saolô bằng Tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Khanania, và Phaolô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Saolô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đamat, biến Saolô thành chứng nhân vĩ đại là Phaolô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Và từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ý Trời, hay ý muốn của Chúa Giêsu, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giêsu, tất cả đều thay đổi.
Chúa Kitô Phục Sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phaolô. Không biết Đức Giêsu tại thế, Phaolô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phaolô được Chúa Giêsu chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu ( Pl 3, 12 ). Và Phaolô trở nên như một “người tình” của Chúa Giêsu, đến nỗi Phaolô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Đúng như Phaolô viết: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phaolô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Kitô là “chủ thể yêu thương Phaolô”, Tình yêu Chúa Kitô là “đối tượng mà Phaolô yêu mến”. Tâm trí của Phaolô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Kitô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người, Phaolô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin mừng Tình yêu” mà người rao giảng.
Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đến Phaolô là nói đến vị Tông đồ của mọi thời đại
Phaolô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do thái, Hy lạp với người Hy lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người ( 1 Cr 9, 19 – 21 ), Phaolô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn quốc với người Hàn quốc.
Không những là “con người của Tình yêu”, Phaolô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phaolô, chân lý là “Tin mừng Chúa Giêsu Kitô” ”Chân Lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 54 ngày cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Kitô hữu. Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng, ngày quan trọng này với chủ đề: ”Lời khẩn cầu của Chúa Giêsu”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta tuân hành giới luật yêu thương, hầu chúng ta có thể gặt hái được nhiều hoa trái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để nguyện vọng của Chúa Giêsu được hoàn thành, tất cả chúng nên một: tình hiệp nhất luôn luôn cao trọng hơn những xung đột. Amen.
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dậy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2,7).
Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mêxia bị xử tử như một tội đồ.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisiêu đạo đức, đã biến đổi ngài thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gal 1,11-16).
Lễ thánh Phaolô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Galien từ thế kỷ thứ 8.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Cha và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Phaolô là người hùng của Luca trong sách Công vụ Tông đồ, một người hùng không phải vì những chiến công đánh đông dẹp bắc, nhưng là người hùng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Khởi điểm của người hùng ấy lại là sự kiện ngã ngựa đau đớn và rồi chịu khuất phục hoàn toàn trước vị vua vũ trụ Giêsu. Từ khi tỉnh ngộ, nhận biết Đức Giêsu, cuộc đời Phaolô chuyển sang một hướng mới: nghĩ mọi cách, làm mọi sự, đi mọi nơi, gặp mọi người, miễn là Tin Mừng của Đức Giêsu được loan báo, để mọi người cũng được nghe, biết và rồi đón nhận Tin Mừng ấy như mình. Vì yêu mến Đức Giêsu, người hùng Phaolô luôn lao mình về phía trước, bất kể thử thách, chống đối và thậm chí bách hại.
Mời Bạn: Từ người hùng bách hại đạo Chúa, Phaolô trở thành người hùng phụng thờ Ngài. Từ chỗ cậy dựa vào công trạng cá nhân, sau cú ngã ngựa, Phaolô nhận ra mọi vinh quang cá nhân phát xuất từ ơn cứu độ, sự sống mới của Đức Giêsu. Còn bạn, bạn dám hoán cải triệt để như Phaolô không, nghĩa là mạnh dạn thay đổi cái nhìn về Chúa, người khác và chính mình không?
Sống Lời Chúa: Noi gương thánh Phaolô, tôi sẽ nỗ lực vượt lên tính an phận, để trở thành “người hùng” trong việc loan báo Tin Mừng và phụng thờ Chúa, bằng cách sống những việc bình thường với lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hoán cải một người bách hại đạo Chúa trở thành người loan truyền Tin Mừng. Xin cũng biến đổi chúng con, những môn đệ yếu hèn, nhát đảm, trở thành những chứng nhân hăng say và nhiệt thành của Nước Trời. Amen.
Thánh Phaolô đã viết: “Tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng: Ðức Kitô là Vị Thẩm Phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Người ngự đến" (2Tm 1.12; 4, 8). Thánh Phaolô đã có một cảm nghiệm sâu xa về Chúa Kitô khi Ngài bị đánh ngã ngựa trên đường đi Ðamas.
PHAOLÔ LÀ AI?
Phaolô là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin, tên của Ngài là Saolô, quê Tarsê xứ Xilixia. Gia đình của Phaolô đã nhập tịch làm dân Roma, nên Ngài cũng là dân Roma. Saolô ngay từ thuở thiếu thời luôn trung thành với truyền thống của cha ông mình. Saolô là một phần tử hăng say thuộc nhóm biệt phái, luôn thù ghét các Kitô hữu, thù ghét Giáo Hội của Chúa Giêsu. Saolô đã tham dự vào việc ném đá Têphanô: "Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô"(Cv 7, 58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô" (Cv 8, 1). Saolê bắt đầu từ lúc đó càng hăng say bắt bớ Giáo Hội Chúa Kitô: “Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục" (Cv 8, 3). Saolô đã được các thượng tế Do Thái cho phép, đồng ý nên đã đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo Ðạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem (Cv 9, 1).
CHÚA KÊU GỌI SAOLÔ
Chúa luôn có con đường của Ngài và nẻo đường của Ngài không ai biết trước, không ai hiểu rõ như thánh Phaolô đã viết: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Ðường lối của Người, ai theo dõi được" (Rm 11, 33). Trên đường đi Ðamát với một khí thế hung hăng, đằng đằng sát khí, Saolô muốn tiêu diệt Giáo Hội của Chúa, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với Ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao Ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Saolô liền hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?" (Cv 9, 5)
Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 9, 5). Và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?". Chúa truyền cho Saolô vào thành và gặp Khanania, nơi đó Khanania đã nói với Saolô: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Ðức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9, 17) và "Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa" (Cv 9, 18). Saolô từ lúc sáng mắt đã hoàn toàn được đổi mới. Ông nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã nong nả đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, và trở nên vị tông đồ dân ngoại rất lừng danh. Thánh nhân đã luôn tin tưởng vào Chúa, Ngài viết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng" (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phaolô trở lại).
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống bôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi"
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô... ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng: “ anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Khi nhắc đến Thánh Tông Đồ Phaolô, thường có gắn thêm “2 cái đuôi”: Hoặc là Thánh Phaolô – TÔNG ĐỒ DÂN NGOẠI, hoặc Thánh Phaolô “TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI”. Riêng cái biệt danh “TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI” cũng hay được thay thế bằng một “biệt danh khác”: “TÔNG ĐỒ NGÃ NGỰA”.
Và ngày lễ hôm nay, 25.01, ngày kết thúc “Tuần Lễ cầu nguyện cho hiệp nhất Kitô hữu”, Phụng Vụ Giáo Hội cử hành cái tước hiệu và cũng là một “biến cố đặc biệt” mang tầm mức “bước ngoặc quan trọng” nầy: THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI.
Trước hết, sự “Trở lại” mà Phụng Vụ gắn cho Thánh Phaolô trong ngày lễ hôm nay, hoàn toàn không phải là một cố gắng cá nhân, một “tiến trình hoán cải nội tâm” của riêng ngài; mà nhất thiết, đó chính là một “sự can thiệp đặc biệt”, một “tiếng sét ái tình” đến từ Thiên Chúa, được sách Tông Đồ công vụ tường thuật rõ trong Bài đọc 1 hôm nay:
"Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ. Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm. Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát…” (Cv 22,1-21).
Sở dĩ nhấn mạnh yếu tố “sự can thiệp đặc biệt”, hay “tiếng sét ái tình” nơi cuộc “trở lại” của Phaolô, vì quả thật, trước biến cố “ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô hoàn toàn không phải là một “chàng thanh niên hoang đàng, bỏ nhà cha để đi hoang, ăn chơi trác táng…; sau đó hồi tâm đứng dậy “trở về”; cũng không phải một cô “Maria Mađalêna vùi thân trong cuộc sống xác thịt, dục vọng, nghe lời dạy của Thầy Giêsu, đã bị cắn rứt lương tâm, lần mò tự mình đến phủ phục khóc lóc dưới chân Thầy” !
Không, Phaolô là một thanh niên chuẩn mực, đạo đức, nghiêm túc với lề luật cha ông; nói chung một mẫu người công chính, thánh thiện của Do Thái giáo, như ngài làm chứng qua trích đoạn thư gởi giáo đoàn Philip:
“tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-siêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi.” (Pl 3,5-6).
Nói cách khác, yếu tố trọng tâm làm nên cuộc “trở lại” đầy “kịch tính” của thánh Phaolô chính là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ…”, một cuộc gặp gỡ quyết định, xoay chuyển 180 độ con người và cuộc đời, xác tín và hành động: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người…” (Pl 3,7-12).
Và Phaolô đã “giơ tay đầu hàng”, đã hoàn toàn bị chinh phục trước tiếng gọi huyền diệu, trước ý định cao siêu, trước “Con Người vĩ đại” mà bấy lâu nay Phaolô cương quyết loại trừ, đạp đổ, phủ nhận: “bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su chiếm đoạt” (Pl 3,12); một sự “chiếm đoạt toàn diện, sâu xa” đến độ như ngài chia sẻ: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi “ (Gl 2,20).
Quả thật từ cuộc “trở lại” hi hữu nầy, Phaolô đã bắt đầu một con đường mới tinh, một hướng tương lai nhằm thẳng phía trước: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3,13), phía của công cuộc loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, phía của một tông đồ mang Tin Mừng cho muôn dân, phía của một nhà truyền giáo vĩ đại, một kiến trúc sư của Kitô giáo ngay từ thuở ban đầu: “Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người. Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô, và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài.” (Ep 3,7-10).
Nói cách khác, tiếng sét ái tình trên đường Đamát đã khiến “trái tim của Phaolô mở ra cho một tình yêu mới, trọn vẹn, sâu sắc, thuỷ chung: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,35-39).
Và phải chăng, cuộc “đầu hàng trên đường Đamát đó vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta hôm nay!
- Bởi chưng trong chúng ta vẫn còn đầy những “Saolô”” mù quáng, kiêu căng, tự hào về một quá khứ đạo đức, chỉn chu lề luật. Chúng ta cần gặp Đức Kitô để “trở lại thường xuyên với Ngài”.
- Bởi chưng, trong chúng ta vẫn còn đầy những Saolô, nhiệt thành quá mức, hăng hái quá độ theo cái tôi của mình để thường xuyên “bách hại”, kết án, làm khổ anh chị em: chúng ta cần gặp gỡ Đức Kitô để trở nên khiêm nhường, hiền hậu và luôn khoan dung, tha thứ, đón nhận anh chị em mình.
- Bởi chưng cộng đoàn chúng ta vẫn còn đầy những “Saolô” nhân danh ý kiến cá nhân, não trạng đạo đức Pharisêu, nhân danh kiến thức giáo lý uyên bác, đúng đắn… để lên án anh chị em, để phá đổ tình hiệp nhất trong Giáo Hội, để làm theo ý riêng hơn là tuân phục ý Chúa…
Trong lịch sử của Hội Thánh đã có bao nhiêu “Saolô” như thế, nên đã xảy ra bao cuộc phân ly đau đớn, mà suốt tuần lễ vừa qua cả Giáo Hội nỗ lực nguyện cầu cho công cuộc hiệp nhất Kitô hữu.
Chúng ta đừng quên, Giáo Hội chọn chính ngày hôm nay, 25/01, lễ Thánh Phaolô trở lại, để kết thúc Tuần Cầu nguyện hiệp nhất. Chắc chắn Hội Thánh nơi “cuộc đầu hàng của Saolô trên đường Đamát đã mang theo một “hệ luỵ hiệp nhất” tối ưu: Từ đây, sẽ không còn Do Thái hay Hy Lạp, Nô lệ hay tự do, dân ngoại hay dân có đạo… mà tất cả đều “nên một trong Đức Kitô”.
Quả thật, cuộc trở lại của Phaolô đã biến Kitô giáo trở thành “ngôi nhà chung của thế giới”, biến Tin Mừng vượt qua mọi biên giới quốc gia, dân tộc, nền văn hoá… để trở thành ngôn ngữ chung của tình yêu và chân lý.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau và cho cả Giáo Hội sống đậm đà mầu nhiệm “Trở lại” của Thánh Phaolô, sẵn sàng “đầu hàng trước ý định và tiếng gọi nhiệm mầu của Thiên Chúa” để đem về chiến thắng cho Đức Kitô và Vương quốc của Ngài. Amen.
Ngày xưa Samuel trong đền thờ đã nghe tiếng gọi đầy thân thương trìu mến, như người cha gọi tên con mình: Samuel, Samuel. Tiếng gọi được lập đi lập lại nhiều lần như muốn trao gởi cả tấm lòng cho người được gọi. Samuel không xác định tiếng gọi bắt nguồn từ đâu nhưng nhờ vào thầy cả Lêvi, ông đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa mời gọi với lời thưa thật mãnh liệt và dứt khoát: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?
Thiên Chúa cũng gọi Saolô, tuy trong hoàn cảnh khác xa Samuel nhưng thánh nhân đã đáp lại tiếng Chúa với một câu nói, một tâm huyết thực thi ý Chúa như Samuel: Lạy Chúa, Chúa muôn con làm gì? Cho dù cuộc đời thánh nhân lúc đó đang đầy nhiệt huyết tiêu diệt hết những ai mang danh kytô hữu. Ông đã xin thượng hội đồng Do Thái một cái tráp để đi lùng sục bắt bớ những người tin theo Chúa Kytô, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saolô, Saolô, sao ngươi tìm bắt ta”. Saolô liền hỏi: Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Người phán: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. Và Saolô đã đáp lại: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Lời thưa này như khởi đầu một trang sử mới của cuộc đời thánh nhân. Từ một con người lùng sục bắt bớ những người tin theo Chúa, nay trở thành người hăng hái rao giảng cho muôn dân về Chúa. Bất chấp những hiểm nguy, tù tội, tra tấn, đòn roi, chịu đói khát, rét mướt, đau khổ tư bề, nhưng lòng vẫn hân hoan vì được chung phần đau khổ với Đức Kytô.
Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Đó không chỉ là lời ăn năn sám hối muốn làm lại cuộc đời mà là lời xác tín vào Thiên Chúa, Đấng hằng sống. Đó cũng là lời đoan hứa sẽ mãi mãi dành trọn cuộc đời để phụng sự Chúa. Lời này thay cho lời xin vâng mà cả cuộc đời thánh nhân đã liên lỉ thốt lên với một lòng trung tín sắt son. “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kytô sống trong tôi”.
Ước mong trong năm gia đình hãy là dấu chỉ lòng thương xót Chúa, mỗi người chúng ta dám thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Và chắc chắn lời mà Chúa vẫn mời gọi chúng ta trao ban lòng thương xót cho khắp thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con hiểu được ý Chúa trong từng giây từng phút, trong từng biến cố cuộc đời và mau mắn làm theo lời Chúa như thánh tông đồ Phaolô. Amen.
Một con người đã trung thành với Đạo Do Thái Giáo, đã rất trung tín với truyền thống cha ông. Phaolô tên thật là Saolô, quê ở Tarsê xứ Cilicia, là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin. Gia đình của Saolô đã nhập tịch Roma nên Ngài cũng là công dân Roma.
Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi.
Thuở thiếu thời, Phaolô được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông (Gl 1:14; Pl 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5)
Saolô là một phần tử hăng say trong nhóm biệt phái và thù ghét các người theo Chúa. Sau khi Saolô tham dự vào việc ném đá Stêphanô cho đến chết, Ngài bắt đầu bách hại Giáo Hội của Chúa Giêsu. Với sự chấp thuận, chuẩn y của thượng tế Do Thái, Saolô xuống Đamas truy lùng những người theo Chúa. Nhưng trên đường đi, hăng say và điên tiết vì tức giận các Kitô hữu, Ngài đã bị một luồng sáng bao phủ và vật ngã.
Biến cố Damas như một nét son thắm nhất trong cuộc đời Thánh Phao-lô. Nó toát lộ gương mặt đại lượng đầy yêu thương của một Thiên Chúa đang đến sát con người để nâng họ dậy từ cơn mê của những lầm tưởng thế gian.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại của Phaolô không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta. Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Việc Thánh Phaolô được biến đổi đã tôn thêm vẻ đẹp của tình yêu Thập giá. Nếu trên Thánh giá, Đức Kitô đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình; thì trong sự kiện Damas, chính Ngài đã khoan thứ đến cùng trước kẻ đang ra tay truy bách thân mình mầu nhiệm của Ngài. Điều này chỉ có thể lý giải bởi tình yêu của Đức Kitô có sức cảm hoá và vực dậy tất cả những gì tưởng chừng đã mất.
Thánh Phaolô đã thực sự bị chinh phục bởi “luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống” (Cv 22, 6b). Đó là ánh sáng đến từ Đấng Phục Sinh – Ánh sáng của tin vui cứu độ phổ quát. Phaolô là chứng nhân cho tin vui ấy.
Với thánh Phaolô, sống là Đức Kitô, chết là mối lợi, tức là được về trời. Ngài rao giảng Thập giá Đức Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái, là một sự điên rồ đối với dân ngoại. Chúng ta không thể nào ca khen hết công trạng của thánh Phao lô, nhưng chúng ta nhìn vào thánh Phao lô để học gương ngài, để đi theo dấu chân của ngài, bởi lẽ dấu chân của ngài khác dấu chân của Đức Kitô. Ngài xưng mình là tông đồ út nhất trong tất cả các tông đồ. Thế nhưng, tất cả các tông đồ làm nền móng của Giáo hội, còn một mình ngài là cột trụ của Giáo hội để chúng ta thấy được những dấu chân truyền giáo của Phaolô cho dân ngoại quan trọng như thế nào. Một sứ mệnh mà phổ câp ơn cứu độ đến cho toàn thể thế giớ nhờ sứ mệnh của một vị xưng mình là thầy dạy của các dân ngoại.
Kinh nghiệm về sự hoán cải của Thánh Phaolô hướng chúng ta lên Thập giá của Đức Kitô và cuộc Phục Sinh của Người. Ở đó, chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của Sự Thật – Tình Thương, không ngừng “chiếu xuống” mỗi người chúng ta và giữa lòng Hội Thánh.
Một khi đã gắn bó với Đức Kitô, chúng ta biết đặt Ngài làm mục tiêu tối hậu trong cuộc chinh phục tâm linh. Biết sống cho giây phút hiện tại bằng niềm tin tuyệt đối: Thiên Chúa sẽ hành động! Như lời Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3, 13-14).
Sống theo gương Thánh Phaolô, chúng ta sẽ lạc quan trên hành trình tìm Chúa. Đó là con đường lâu dài và và thử thách, để từ đó, ta có thể khám phá Thiên Chúa và ý định của Ngài qua những dấu chỉ trên bản thân và cộng đồng. Vấn đề là, ta hãy để cho Thiên Chúa hành động và mau mắn đáp trả tích cực lời mời gọi sống đời chứng nhân Tin Mừng.
Xin cho mỗi người trong chúng ta càng thêm yêu mến thánh Phaolô, chúng ta càng nên giống Đức Kitô hơn. Bởi lẽ, thánh Phaolô đã kêu gọi: “Anh em hãy bắt chước tôi vì tôi bắt chước Chúa Kitô”.
Khi nói về thánh Phaolô tông đồ, chúng ta thường nghĩ đến một trong hai vị tông đồ cột trụ của Giáo Hội sơ khai và vẫn ngài còn là vị tông đồ đóng vai trò rất quan trọng của Giáo hội cho đến cùng. Tuy nhiên, ,kinh thánh cho chúng ta biết thêm rằng ,Ngài là vị tông đồ không thuộc nhóm mười hai. Trái lại, Ngài còn có một quá khứ bách hại đạo Chúa nữa. Khi ấy ông vẫn còn mang tên Sa-un và làm việc cho giới lãnh đạo của người Do Thái.
Một hôm, đang trên đường đi Đa-mát để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, Sa-un đã bị một luồng sáng đánh quật ngã xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng chói lòa ấy, Ngài đã nghe tiếng của một ai đó nói với ngài: “Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ ta”. Sau một lúc hoàn hồn, ông lên tiếng: “ngài là ai?”. Và chính lúc này đây Sao-lô được nghe tiếng nói của chính Chúa Giêsu trả lời ông rằng: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại”. Sau lần gặp gỡ này, cuộc đời ông thay đổi. Ông trở thành một môn đệ của Chúa Giêsu, được rửa tội bằng lòng mến thầy mình.
Cũng từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Ông được gọi bằng một cái tên mới là là Phaolô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở bên ngoài Do Thái Giáo.
Sau khi gặp được Chúa. Phaolô đã từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa, để sống đức tin và rao giảng tin mừng.
Đây cũng là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta. Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ những niềm tin khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô hữu khi chúng ta được mời gọi mỗi lúc một đến gần hơn với cùng đích của chúng ta là chính Chúa. Đây cũng là cái đích đến lý tưởng của người Kitô hữu chúng ta. Càng đến gần với Chúa, chúng ta càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa hơn, qua đó chúng ta càng đến gần gũi với tha nhân.
Trong ngày lễ mừng kính thánh Phaolô Tông đồ trở lại hôm nay, chúng con nguyện xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho chúng con luôn thấm nhuần tình yêu và cảm nhận sâu xa quyền năng Chúa trong cuộc đời mình. Nhờ đó, chúng con mới có thể trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa đến cho anh chị em chung quanh. Amen.
Thánh lễ này bắt nguồn từ xứ Gaule, được xác nhận vào cuối thế kỷ thứ VI, xuất hiện bên Rôma vào thế kỷ thứ IX. Thánh lễ này tùy thuộc vào lễ kính Tòa thánh Phêrô, được dâng vào ngày 22.02.
Tầm quan trọng việc trở lại của thánh Phaolô được nhấn mạnh ba lần trong quyển Công vụ Tông Đồ (9,1-30; 22,3-21; 26,920), cũng như sự phong phú của bản văn và Phụng Vụ Giờ Kinh. Sự kiện xảy ra trên đường đi Damas đã làm thay đổi hoàn toàn con người này; các trình thuật Thánh Kinh cho thấy có gì triệt để trong việc trở lại này. Các Kitô hữu của Giáo Hội vùng Juđê đã nói: “Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt” (Gl 1,23).
Chính thánh Phaolô, trong các bản văn nói về sự kiện Damas, luôn đặt kinh nghiệm này với cuộc đời quá khứ của một người Pharisêu và bách hại đạo: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, họ Benjamin, là người Hipri, con của người Hipri; giữ luật thì đúng như một người Pharisêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội thánh; còn sống công chính theo lề luật, thì chẳng ai trách được tôi” (Pl 3,5-6). Thánh Phaolô thêm vào: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,8). Người Pharisêu Saul, tự cho mình là “công chính” qua việc tuân giữ lề luật không đâu chê trách được, bây giờ lại tuyên xưng: “Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sư công chính do luật Môisen đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,7-9).
Nhờ thị kiến bất ngờ tại Damas, thánh Phaolô thấy được sự sai lệch của mình và cảm thấy được động viên để đi đến với dân ngoại. Thiên Chúa của ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, Thiên Chúa của các tổ phụ, nhưng từ khi trở lại, Phaolô mới biết Thiên Chúa này đã tôn vinh Đức Giêsu, Tôi tớ của Người (Cv 3,13). Điều này đã thay đổi tất cả.
Ngày lễ thánh Phaolô trở lại muốn nhấn mạnh sự kiện này là một bước quyết định làm thay đổi quá trình phát triển Hội thánh, vì kẻ trước đây bách hại các môn đệ Đức Giêsu, đi vào các hội đường lùng sục các tín hữu để hành hạ và bỏ ngục, từ nay vâng phục Người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã tôn vinh và cũng là Đấng hiện ra nói với ngài: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai con đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22,21). Như thế, tất cả rào cản đều rơi xuống: Hội thánh mở ra cho dân ngoại và trở nên phổ quát.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh lễ này kéo dài lễ Hiển Linh, việc trở lại của thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu rõ mầu nhiệm Đức Kitô hiện diện và sống động trong Hội Thánh. Đức Giêsu tỏ hiện trong Hội Thánh và qua Hội Thánh; trong thực tế, Người đã không nói với Phaolô: Tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ của Ta ? nhưng lại nói: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta ?”(Cv 22,7). Thế nên khám phá đầu tiên của kẻ trở lại chính là sự hiện diện của Đức Kitô trong Hội thánh Người.
a. Lời nguyện nhập lễ khuyến khích chúng ta đến với Chúa “tìm cách để đồng hình đồng dạng” như thánh Phaolô, khi trở thành chứng nhân của Tin Mừng.
“Tìm cách để giống” thánh Phaolô có nghĩa là chấp nhận như Ngài con đường lâu dài và gian khổ để khám phá Thiên Chúa và ý định của Người trong những sự kiện cá nhân và cộng đồng. Tiếp theo kinh nghiệm (Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt Ta) và sự vững tin chủ quan liên kết với kinh nghiệm trên (Tôi biết tôi sẽ tín thác vào ai), là một thời gian dài thử thách, cô đơn, đôi khi cả việc mất can đảm. Một cách thức hiện hữu và nhìn vạn vật, phát sinh từ sự kiện Damas, đòi hỏi một sự trưởng thành chậm chạp trước khi nhập tâm vào cá vị của mình. Công vụ và các lá thư nói về sự vắng mặt của ngài có thể kéo dài hằng chục năm (Gl 2,1). Chỉ sau thời gian “Sabbat” này, Barnabas mới đi tìm ngài ở Tarsus để đem lên Antioche, cho phép ngài bắt đầu liên hệ với các môn đệ Đức Kitô (tại Antioche mà họ nhận được tên Kitô hữu) và hoàn tất sứ vụ của mình nơi các dân ngoại.
b. Một đề tài suy niệm được Lời nguyện tiến lễ đề nghị. Kinh này gợi lên ánh sáng của Chúa Thánh Thần thúc đẩy thánh Phaolô và biến ngài trở thành một nhà truyền giáo “để làm cho danh Thiên Chúa vang dội trong cả thế giới”. Ngài từ là người bách hại, trở thành sứ giả của Tin Mừng, không coi việc rao giảng Tin Mừng như một lý do để kiêu ngạo, nhưng là một sự cần thiết. “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Thánh Phaolô nói trước các kỳ mục của Hội thánh Êphêsô: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách...” (Cv 20,19). Với người thành Côrinthô, ngài nhắc nhớ lại những sự mệt nhọc, khó khăn, đói khát, lạnh lẽo... "Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2 Cr 11,27).
c. Một nét đặc thù khác trong linh đạo thánh Phaolô được nhấn mạnh trong Thánh lễ: Đức Kitô là trung tâm cuộc sống và lời rao giảng của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô và chết là một mối lợi: thập giá Đức Kitô là vinh quang duy nhất của tôi”; “Với Đức Kitô, tôi đã bị đóng đinh; không còn phải là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi; hiện tại tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã phó nộp vì tôi” (Gl 2,19-20).
Việc trở lại ở Damas đã biến đổi cách triệt để cuộc đời thánh Phaolô. Một khi đã gắn bó vào Chúa Kitô, ngài biết phải tin tưởng vào ai. Thế là không còn phải lo âu gì cả. Ngài nói với những người thành Philippe: “Quên đi quá khứ, để chỉ biết lao về phía trước, tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3,13-14).
Thánh Jean Chrysostome, trong một bài giảng tôn vinh thánh Phaolô, ca ngợi tình yêu Chúa Kitô đang cháy trong tâm hồn thánh Phaolô: “Với tình yêu này, thánh Phaolô cho rằng mình là kẻ hạnh phúc nhất giữa nhân loại...Tận hưởng tình yêu này, có nghĩa đối với Ngài là chiếm hữu cuộc sống, thế giới, Thiên thần của mình, hiện tại, tương lai, vương quyền, lời hứa, hạnh phúc vĩnh cửu”. Như vậy, sự tàn bạo và cơn giận của kẻ thù đã biến đổi thành sức mạnh và tình yêu cho một vị Tông Đồ say mê truyền giáo. Thánh Phaolô luôn tiến bước đến trước với một lòng nhiệt thành trên các con đường để nắm bắt Đấng là vinh quang duy nhất của mình. “Để chống lại Đức Giêsu, ngài đã đi về Damas; để nắm bắt được Đức Giêsu, ngài đã phải đi khắp cùng thế giới”.
Diễn Văn Truyền Giáo. 26/01– Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục. Lễ nhớ. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô. Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt. Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người. Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào. Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta. Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được. Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở, vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty... Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người. Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó. *** Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối. Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ. Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối. *** Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa? Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến. Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc. Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ? Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu. *** Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ. Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo. Học và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão. Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu, và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác. Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. -------------------------------
Sứ điệp: Chúa cho con người được chia sẻ công việc của Chúa: công cuộc loan báo Tin mừng. Chúng ta cần tạ ơn Chúa vì vinh dự lớn lao này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho con thấy nỗi lòng của Chúa. Mang trong lòng sứ mạng cứu độ, Chúa trăn trở biết bao khi bao tâm hồn đang cần được giải thoát như đất khô cần nước, như trái chín cần thu hoạch, như lúa vàng cần gặt hái. Chúa phải thốt lên: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lúa đã chín mà thiếu thợ gặt thì lúa rụng, lúa hư. Lúa rụng, lúa hư thì người nông phu nào mà chẳng xót xa! Chúa mong con cái Chúa là bàn tay nối dài của Chúa để ôm ấp mọi người; Chúa mong con cái Chúa như chiếc loa phóng to thêm lời yêu thương của Chúa cho nhiều người được nghe, Chúa mong con tim của chúng con đong đầy tình yêu Chúa để chuyển đến cho bao trái tim đang cằn khô tình yêu.
Chúa đang cần và rất cần đến con người tiếp tay với Chúa. Thánh Phaolô rồi đến thánh Titô, thánh Timôthê và bao người đã nên thợ gặt thiêng liêng cho Chúa. Hôm nay, cũng với lời thiết tha khi xưa, Chúa lại nói với con: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Thế giới hơn sáu tỉ người hôm nay là cánh đồng lúa rộng lớn gấp vạn lần thế giới ngày xưa đó. Điều đó càng làm cho Lời Chúa kêu gọi thêm vạn lần khẩn thiết. Không biết con có động lòng thao thức với Chúa hay không ? Không biết con có sẵn sàng nối gót Phaolô, nối gót Timôthê và Titô chia sẻ sứ mạng loan báo Lời Chúa cho thế giới hay không ?
Lạy Chúa, xin cho con cảm nhận được rằng: Chúa mời gọi con tham gia sứ mạng đó là vinh dự cho con, vì con được chia sẻ công việc của Con Đức Chúa Trời. Nhờ cảm nhận đó, con sẽ biết tạ ơn Chúa. Cũng nhờ đó mà con biết vị trí của mình để khiêm tốn và trông cậy vào Chúa khi làm việc tông đồ: “thắng không kiêu và thua chẳng nản”. Amen.
Những dụ ngôn về sức sống và lớn lên của nước trời:
- Dụ ngôn hạt giống âm thầm: Nước Thiên Chúa cũng như hạt giống có sức sống và sức phát triển nội tại.
Dù hoàn cảnh tiện hay không tiện: đêm hay ngày Dù người ta có chăm sóc hay không: người ấy ngủ hay thức. bằng cách nào người ấy không biết. Nước Thiên Chúa vẫn cứ phát triển.
- Dụ ngôn hạt cải: mới ban đầu, nước Thiên Chúa rất nhỏ bé như hạt cải, nhưng nó sẽ phát triển thành một cây to.
+ Có lẽ nhưng dụ ngôn này nhằm mục đích trấn an:
a/ Trấn an các môn đệ thời Chúa Giêsu: Có lúc họ ngã lòng vì thấy mình chỉ là một nhóm nhỏ ít oi, nhỏ bé, sợ không đử mở mang nước Chúa nổi.
b/ Trấn an các tín hữu thời sơ khai: Họ là một tập thể ít oi lạc lõng giữa lòng thế giới rộng lớn, họ lại gặp rất nhiều khó khăn.
Chúa Giêsu muốn trấn an tất cả rằng: chắc chắn nước Thiên Chúa sẽ tồn tại và phát triển không ngừng.
B. (...nảy mầm)
1. Chúa Giêsu cho biết hạt giống Lời Chúa có sức phát triển nội tại, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và mạnh mẽ.
Nhiều khi vì cho rằng đọc và suy gẫm Lời Chúa không sinh hoa kết quả gì cả nên tôi đã không tiếp tục nữa. Dụ ngôn này dạy tôi hãy bỏ lối suy nghĩ ấy đi và kiên trì tiếp tục vì kẻ làm cho hạt giống ấy mọc lên không phải là tôi mà là chính Chúa.
2. "Phaolô trồng Apollo tưới và Thiên Chúa cho mọc lên" Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Thiên Chúa là Đấng làm cho mọc lên mới đáng kể. (1Cr 3,6-7).
Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội vã ngã lòng khi thấy công việc gieo vãi của mình chưa sinh hoa kết quả.
3. Một ngày kia, một tông đồ giáo dân dẫn tôi đến gia đình của một người làm nghề kéo xe lôi. Đến đấy tôi nhận được một món quà hết sức bất ngờ và rất to lớn: Cả nhà gồm vợ chồng và 7 đứa con xin theo đạo. Khi được hỏi lý do thì người chồng cho biết: Mười mấy năm trước khi còn nhỏ, anh học trường các sư huynh Lasan và dã có lòng mộ mến Đạo Chúa. Lòng mộ mến ấy vẫn âm ỉ trong lòng anh. Tuần trước khi anh gặp người tông đồ giáo dân này, tàn lửa âm ỉ đó bỗng bùng lên thành một ngọn lửa thôi thúc anh phải xin theo Chúa.
Nếu các sư huynh Lasan trước kia và những tông đồ giáo dân nọ không chịu khó gieo giống vì nghĩ rằng có gieo cũng vô ích thì hôm nay tôi không gặt được thành quả này. "Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết" (câu 27) (Chia sẻ)
4. Hạt giống nước Thiên Chúa mà chúng ta gieo vào lòng anh chị em quanh ta mọc lên rất nhiều dạng nhiều cách:
- có thể thành những Kitô hữu như ở trên
- có thể thành những người tuy còn là lương dân những đã có thiện cảm với kitô giáo.
- Có khi thành những ý lực hướng dẫn cuộc sống của những người vì lý do nào đó chưa thể theo đạo như trường hợp Văn hào Tagore: Tuy ông không phải là Kitô hữu nhưng cuộc sống của ông được hướng dẫn bởi những giá trị Tin Mừng rất lớn.
Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng Nước trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước trời.
Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyện và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Thánh Timôthêô và Titô là hai môn đệ thân tín và nổi tiếng của thánh Phaolô, nên Hội thánh cho mừng lễ các ngài chung một ngày, ngay sau ngày kính thánh Phaolô trở lại.
Timôthêô sinh ở Lycaonia thuộc vùng Tiểu Á. Thân mẫu ngài là người Do Thái và thân phụ ngài là người dân ngoại. Khi Phaolô đến Lycaonia rao giảng, thì một số người trong gia đình của Timothêô là bà ngoại, thân mẫu cũng như chính Timôthêô đã được trở nên những Kitô hữu. Nhiều năm sau, Phaolô trở lại đây một lần nữa. Lúc này Timôthêô đã khôn lớn. Phaolô tự nhiên như có linh cảm Timôthêô là người được Chúa gửi đến cho mình. Phaolô đã ngỏ ý muốn gọi Timôthêô làm tông đồ truyền giáo cho Chúa. Timôthêô đã hân hoan đáp lại lời mời gọi của Phaolô. Thế là Timôthêô rời bỏ cha mẹ và nhà cửa và lên đường. Ngài cùng chia sẻ đau khổ với Phaolô, vui mừng mang Lời Chúa đến cho mọi người. Timôthêô là tông đồ yêu quý đặc biệt của Phaolô; và Phaolô xem ngài như đứa con nhỏ của mình. Ngài đã cùng Phaolô đi khắp nơi cho tới khi ngài được cử làm Giám mục tiên khởi giáo đoàn Êphêsô, một giáo đoàn rất nổi tiếng thời đó.
Timôthêô đã hết lòng lo cho đoàn chiên, luôn được thánh Phaolô nâng đỡ khuyên bảo. Trong suốt thời gian làm Giám mục tại đây, ngài đã nhận được hai bức thư của thánh Phaolô. Trong lá thư thứ I, Phaolô đã đưa ra những chỉ dẫn giúp cho Timôthêo tổ chức và điều khiển các cộng đoàn, đồng thời cũng khuyên phải luôn trung thành với giáo lý lành mạnh cũng như can đảm bảo toàn giáo lý đã được giao phó
Với lá thư thứ hai, thánh Phaolô đã bộc lộ hết cõi lòng của Ngài như một người cha để lại những di chúc tinh thần cho người con yêu quí. Những lời cuối cùng của người cha để lại cho người con là những lời dặn dò tâm huyết ”Cha tha thiết khuyên con: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2Tm 4,15)
Sau khi Phaolô qua đời, Timôthêô được phước sống với thánh Gioan tông đồ, là môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu.
Thánh nhân đã được phúc tử đạo năm 97.
+ Thánh Titô.
Thánh Titô là con một gia đình ngoại giáo, được thánh Phaolô dạy đạo, rửa tội, gọi là ”người con chân thành”, đồng thời cũng trao cho nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh tông đồ đã đặt ngài làm Giám mục giáo đoàn Kêta. Phaolô đã luôn khuyên ngài phải sống xứng đáng với danh nghĩa là người đứng đầu cộng đoàn, đồng thời phải đối xử thế nào cho thích hợp với mỗi hạng người. Đây là tâm tình của Phaolô: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Thiên Chúa và tông đồ của Đức Giêsu Kitô. Tôi gửi lời thăm anh Titô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân sủng và bình an. Tôi đã để anh ở lại Kêta, chính là để anh hoàn thành công cuộc tổ chức và đặt kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. Hãy dạy những gì hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng đáng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Anh hãy nhắc nhở cho mọi người rằng ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. (Titô 1,15; 3,18).
Titô làm Giám mục vùng quần đảo Crêta, nơi ngài định cư cho tới khi qua đời khoảng năm 105.
2. Bài học từ cuộc sống.
Đọc lại cuộc đời của hai thánh Timôthêô và Titô, chúng ta thấy Thiên Chúa làm mọi việc thật kỳ diệu. Thiên Chúa đã chuẩn bị thật kỹ cho những ai cộng tác với Người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong cuộc đời của mình, thánh tông đồ dân ngoại Phaolô lại có được Timôthêô và Titô ở bên cạnh mình. Phải nói rằng nếu không có được những môn đệ đồng hành và cộng tác với mình như Timôthê và Titô thì không hiểu công cuộc truyền giáo của Phaolô sẽ ra sao.
Xét như thế, chúng ta mới thấy có được những người cộng tác với công việc tông đồ thật là quan trọng.
Có hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau: - Anh nghĩ xem, chúng ta có cần tiếp tay với cha xứ để lo việc họ đạo không ? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.
Một người thứ ba từ nãy đến giờ đứng bên cạnh đã nghe được câu chuyện giữa hai người, anh chen vào: - Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không ?
- Tại sao ? Tại sao ? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
Chúa Giêsu trước khi đi rao giảng Tin Mừng, công việc đầu tiên của Chúa là kêu gọi một số người cộng tác với Người. Giáo Hội tiếp nối công trình của Chúa, cũng không đi ra ngoài quy luật đó.
Thiếu việc cộng tác với nhau mọi việc sẽ không thể có kết quả tốt đẹp.
Một lần, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm Mẹ Têrêsa. Bà ta nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm! -Mẹ đáp lại một cách vui vẻ
Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo Xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo Xa-ri giá trị 65 dollars, trong khi chiếc áo Xa-ri của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một dollar, Như được ơn trên soi sáng Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xa-ri đó. Mẹ khiêm tốn đền nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 dollars, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 dollars thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà cũng biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này chính bà cũng đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:
- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng bên ngoài vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi này chúng ta không thể nào tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
Ti-mô-thể và Ti-tô là hai môn đệ nổi tiếng của thánh Phaolô, chính vì thế được mừng kính chung trong dịp lễ thánh Phaolô trở lại.
Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.
Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Hội Thánh muốn phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người về cho Chúa. Việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Vấn đề này ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau:
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa. 2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật. 3. Người Tông Đồ xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa. 4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi. 5. Con đường Tông Đồ là con đường chông gai. 6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó. 7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người. 8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KITÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân tộc. Bởi đó Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a: Tin Mừng). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21); đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về dòng giống Israel mới, để Chúa Giêsu (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Môsê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, các Giám mục là hiện thân Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu chọn, cũng cần mọi thành phần trong Hội Thánh cộng tác, như Đức Giêsu trước khi lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Thánh Phaolô đã nhận ra nơi ông Timôthê có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông được ngồi trong lòng bà ngoại, cụ Lôít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êunikê, để nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được thánh Tông Đồ đặt tay trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Timôthê nhận được Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn làm chứng cho Chúa. Ông Timôthê đã đồng lao cộng khổ với ông Phaolô loan báo Tin Mừng, nhất là lúc ông Phaolô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8: Bài đọc). Như thế, ông Phaolô và ông Timôthê đã thực hành lời kinh: “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3: Đáp ca). Và các ông đã chu toàn sứ mệnh: “Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18: Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b: Tin Mừng). Không phải chỉ để giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” nhằm khẳng định: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do Thái, một điều được xác định là chân lý, phải có ít một hay hai nhân chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba người (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có giá trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
- Mến Chúa phải thể hiện bằng yêu người (x Mt 22,34). - Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30). - Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10). - Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26). - Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35). - Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t). - Biết chia sẻ của cải đời này mới đạt ơn cứu độ (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giêsu đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a: Tin Mừng).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Thực vậy trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là cao điểm thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh được Chúa Giêsu truyền làm hiện tại hóa Hy Tế của Ngài (x 1Cr 11,23-27). Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh đã vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và tệ hơn không quan tâm đến việc rước Lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b: Tin Mừng). Cụ thể qua đời sống ông Phaolô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác tín như trên, ông Phaolô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI
Đức Giê-su dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn"
Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài? Ai thương người bằng Ngài? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn ba năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn Ngài lại đồng lõa với những kẻ giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Thì Ngài cầu nguyện bằng Thánh vịnh 22/21,2: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Lời cầu của Tv này nói lên lời than van của người bị ngược đãi, rồi viễn tượng các dân sẽ nhận vương quyền của Thiên Chúa và họ sẽ được nghe nói về Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Mà nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể lý giải được ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a: Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc mong có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn ta chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy:
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b: Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Êlysa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích loan báo Tin Mừng là để cho những người có trái tim biết nghe, thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành, mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga 9,2), và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9: Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
THUỘC LÒNG: Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế (HCHT số 35).
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em. Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép. Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau. Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác. Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề. Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối. Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viênsw ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Qua Tân Ước, những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.
Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân "hỗn hợp", nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.
Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.
Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. "Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung," trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: "Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn" (1Tm 5,23).
Thánh Titô (c. 94?):
Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: "Khi tôi đến Troas... Tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia... Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến..." (2 Cr 2,12a, 13; 7, 5-6).
Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lời Bàn
Qua đời sống của Thánh Titô, chúng ta có được chút hiểu biết về đời sống Giáo Hội thời tiên khởi: hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Ðức Kitô, triển nở tình bạn. Tuy nhiên, luôn luôn có những vấn đề của bản tính con người và những chi tiết không hấp dẫn chút nào trong đời sống hàng ngày: cần phải sống bác ái và kiên nhẫn trong "sự cãi cọ với người khác, lo sợ trong tâm hồn." Qua tất cả những điều ấy, tình yêu của Ðức Kitô đã gìn giữ họ.
Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập. Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không ngừng mời gọi mỗi người chúng con hãy hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng. Dẫu biết rằng, hành trình truyền giáo sẽ không thiếu những khó khăn, gian khổ, nhưng xin cho chúng con noi gương nhân đức của hai thánh Timôthê và thánh Titô, biết nhiệt thành rao truyền tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Amen.
Ghi chú cổ nhất về Thánh lễ kính thánh Timôtê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị Giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai vị thánh.
Thánh Kinh cho biết, Timôtê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; thánh Phaolô ghi chú bà nội Lois đã dạy cho Timôtê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôtê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôtê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: ”Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôtê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.
Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troa, ngài muốn gặp Titô, ”người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là ”người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôtê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.
Thông điệp và tính thời sự
Kinh Tổng nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôtê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích: Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.
Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôtê đã lãnh nhận và Thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.
Cũng trong lá thư gởi cho Timôtê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: ”Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: ”Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.
Kinh Tổng nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: ”Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: ”Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.
Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: ”Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” (Lc 10,9)
Suy niệm: Khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu căn dặn các ông hãy loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” Nước ấy “đã đến gần” thì phải đi tìm nước ấy ở đâu và như thế nào? Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy:
1/ Nước Thiên Chúa đã và đang đến trong lời rao giảng của các môn đệ, khi các môn đệ vào từng “thành” từng “nhà” với lời chúc bình an.
2/ Tìm Nước Thiên Chúa bằng cách đón nhận những sứ giả Tin Mừng cùng với lời loan báo bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.”
Mời Bạn: Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, bạn không còn có thể sống trong một giáo xứ “toàn tòng.” Có khi nhà bạn đang đơn độc giữa bao nóc nhà không cùng tôn giáo, quan điểm với bạn. Dù vẫn biết rằng việc loan báo là rất khó khăn, vì sẽ có những “nhà” từ khước lời rao giảng, nhưng nói thực, bạn đã bắt đầu rao giảng chưa? Và bạn đã làm gì để rao giảng? Bạn nhớ Nước Thiên Chúa bắt đầu hiện diện khi bạn trở thành dấu chỉ của sự bình an, và bạn thực sự rao giảng Nước Thiên Chúa mỗi khi vào nhà nào mà bạn đem “bình an đến cho nhà này!”
Sống Lời Chúa: Kinh nghiệm cho biết kinh nguyện+Lời Chúa sớm hôm tại gia sẽ cung cấp sức mạnh cho việc sống đức tin và loan Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Mời bạn thực hiện điều đó trong gia đình, cộng đoàn của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Chúa để đem Tin Mừng đến với mọi người chúng con gặp gỡ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)
Suy niệm: Nhiều năm qua, người ở nông thôn ồ ạt di dân lên thành thị, việc thiếu thợ gặt trong ngày mùa đang là một thực tế nan giải tại nhiều nơi. Là người tâm huyết với cây lúa, nhìn những cánh đồng lúa chín vàng nặng trĩu hạt, lại chưa có người gặt, ai lại chẳng băn khoăn. Song băn khoăn không phải chỉ để băn khoăn, nhưng là để đi đến một hành động.
Chúa Giêsu cũng băn khoăn trước vụ mùa thiêng liêng đang thiếu thợ gặt và Ngài kêu gọi hành động: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Sao thế? Sao lại có cơ chế “xin-cho” ở đây? Đó là việc của chủ ruộng, “mắc mớ” gì mà tôi phải xin? Đúng vậy! Chủ mùa mới có quyền sai thợ gặt ra đi. Nhưng hãy xin! Vì tôi được mời gọi chia sẻ mối băn khoăn của Chúa. Nhưng liệu tôi có sẵn lòng để cho Chúa là chủ mùa gặt sai tôi đi không?
Mời Bạn: Ngày nay công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội vẫn đang cần rất nhiều con người biết quảng đại dấn thân. Hơn ai hết, và hơn lúc nào hết, chính bạn và tôi đang được mời gọi để cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng cao quý này. Chúng ta hãy để Chúa sai đi, và thưa với Ngài: Này con đây, xin hãy sai con!
Chia sẻ: Truyền giáo là căn tính của người Kitô hữu. Vậy bạn đã sống đúng căn tính của mình chưa? Xin chia sẻ một minh họa cụ thể.
Sống Lời Chúa: Ra đi đến với một người hàng xóm với tất cả lòng yêu thương chân thành và sẵn sàng giúp đỡ họ. Để qua ta, người khác nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống, Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ, trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1). Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt, tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước. Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy. Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề. Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối. Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền. Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được. Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38). Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên. Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt. Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm. Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình, trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới. Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh, và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn. Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm. Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong, tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả. “Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40). Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao? Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão. Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ. Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình, điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão, có khi lại gặp bão tố nhiều hơn. Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn. Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không? Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái, đây là niềm tin của con. Con tin Cha là Tình yêu, và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con. Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa, cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt, cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân, con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái. Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại, chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha. Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất cũng có một đốm lửa của sự thiện, được vùi sâu dưới những lớp tro. Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ. Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích, thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người. Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng. Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu. Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ đang chuyển mình tiến về với Cha, qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần. Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau, vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến, để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn. Lạy Cha, đó là niềm tin của con. Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen. -------------------------------
Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển (năm lẻ).
Có lẽ Đa-vít gần gũi với ta hơn. Vì tuy tin Chúa. Nhưng có lúc yếu đuối mất đức tin. Ông đã cư xử như người không có đức tin. Đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết ông này nữa. Nhưng khi được tiên tri Na-than cảnh tỉnh, ông đã ăn năn sám hối. Ông chấp nhận những hình phạt của Chúa với tinh thần sám hối, vâng phục sâu xa. “Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông đã biểu lộ đức tin sâu xa. Khi đứa trẻ bị bệnh nặng, “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất”. Cũng như Áp-ra-ham, vua Đa-vít tin tưởng, dù không hi vọng gì. Đó cũng là một đức tin lớn lao (năm chẵn).
Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng đi theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (Mc. 4, 35-37)
Tôi mượn lời một bài ca của John Littleton làm đầu đề cho bài suy niệm này, bởi vì hai phẩm tính trên đây giải thích khá rõ kinh nghiệm các môn đệ Chúa đã sống ở trên Biển Hồ, buổi chiều hôm đó.
Một thế giới thù địch
Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió có thể được nhìn ở hai bình diện: biểu tượng và mô tả. Về mặt biểu tượng thì biển động là hình ảnh tượng trưng cho những thế lực chống đối Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên mối thù địch giữa dòng dõi những kẻ bất phục tùng Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Do đó trên bình diện này, việc Đức Kitô dùng quyền năng dẹp yên sóng gió là dấu chỉ không những Người làm chủ các mãnh lực thiên nhiên và vũ trụ, mà nhất là Người có quyền năng trừ quỷ, bá chủ các thế lực bất phục tùng và sức mạnh của tội lỗi.
Thế nên các Tông đồ cũng giống như các người Pharisiêu thường đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Vậy người này là ai mà có quyền tha tội, chữa lành bệnh? Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?
Còn chúng ta, chúng ta có tin tưởng vào Đức Kitô này không? Người là Đấng Cứu chuộc có khả năng trấn áp và cứu chuộc chúng ta khỏi mọi thế lực địch thù, ta có tin tưởng vào Người không?
Một thế giới đầy biến động
Về mặt mô tả, câu chuyện này cũng tra vấn cuộc đời của ta. Cuộc hành trình vượt biển này mô tả khá rõ cuộc sống đời thường của ta.
Sau một ngày vất vả với đám đông, Chúa Giêsu cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm được nghỉ ngơi yên tĩnh và thân tình: “Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”.
Chính lúc đó, một trận cuồng phong nổi lên, và sóng ập vào thuyền. Phải chăng là một trận cuồng phong quá lớn? Có lẽ không, vì Chúa Giêsu dầu sao vẫn ngủ được, nhưng cơn biển động này làm cho các người vượt biển phải bất an.
Mỗi ngày, ta xao xuyến lo âu vì thế giới biến đọng: những vụ đình công, những cảnh cướp đọat, những tai nạn, nếp sống cuồng lọan, những cuộc biểu tình… Chúng ta như đang ở trong thuyền, có Chúa Giêsu ở đó, nhưng Người đang ngủ.
Phải chăng chúng ta không nghe lời Chúa phán với Mác-ta khi cô quá lo lắng cho bữa ăn tối: “Mác-ta còn lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!” Chỉ có một chuyện cần thiết, đó là Thầy đang ở đây… mặc dầu Thầy đang ngủ…
Gần Đức Giêsu, con người không có quyền sợ hãi, mất lòng tin tưởng.
Trong một trại tù nọ, người ta nhận thấy có một vị giám mục khoảng ngoài 60 tuổi. Họ thấy ngài rất bình an và vui tươi, mặc dù bản án dành cho ngài là bất công, và hình khổ mà ngài phải chịu quả là đớn đau.
Khi được hỏi: “Thưa đức cha, tại sao đức cha bình an đến như vậy? Người ta bỏ vạ, vu khống đức cha mà đức cha vẫn vui tươi??”
Đức cha trả lời rằng: “Thưa, tôi làm gì và ở đâu đều có Chúa. có Chúa là niềm vui và bình an. Hạnh phúc của đời người là khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được sống với Ngài. Tôi được sống với Ngài và trong Ngài, lẽ nào tôi không vui!”.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ đang trèo thuyền sang bờ bên kia. Đang khi thuyền ra giữa biển thì bị trận cuồng phong ập tới, khiến thuyền của họ đầy nước và có nguy cơ chìm. Các môn đệ thi nhau tát nước và trèo trống... Đến khi họ không còn trụ nổi nữa, lúc đó, họ gọi Đức Giêsu và trách móc Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giêsu liền thức dạy và ngăm đe gió, tức thì thuyền yên biển lặng. Mọi người ngỡ ngàng và thốt lên: “Ông này là ai mà gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Trong hành trình theo Chúa, có nhiều lúc chúng ta gặp phải những thử thách gian nan, những đêm tối đức tin, làm cho chúng ta hoang mang! Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng: trong con thuyền cuộc đời của mỗi người luôn có Chúa ở cùng, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không? Nếu chúng ta nhận ra Chúa có mặt thì hẳn tất cả những điều nghịch cảnh đến với ta, ta không hoang mang, hốt hoảng như các môn đệ của Ngài khi xưa, ngược lại, chúng ta khám phá ra giá trị và ý nghĩa của nó, lúc đó, chúng ta sẽ vui tươi và bình an ngay trong những thử thách của cuộc đời, vì có Chúa là có tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết Chúa quyền năng để chúng con nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.
Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.
Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…
Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.
Ghi nhớ: ”Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Gióp là một người công chính, ngay thẳng, thế nhưng ông đã gặp biết bao thử thách trong đời… Gióp đã có lúc mất hy vọng:
“Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: Khi nào trời sáng đây? Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: Khi nào trời lại tối?... Và ngày qua ngày: Một ngày đời tôi, thấm thoắt hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng” (G 7,4.6).
“Từ cơn dông tố” của cuộc đời Gióp và giữa những phát biểu nhân sinh quan để giải thích sự đau khổ theo lý thuyết suông, dựa trên tư tưởng của con người, Thiên Chúa đã nói với Gióp: Trong những đau khổ, những sự việc khó hiểu và bí ẩn của một cuộc đời, hãy luôn xác tín vào Thiên Chúa, Ngài là chủ vũ trụ vạn vật, Ngài hiển trị trên tất cả, Ngài sẽ dẹp tan mọi sóng gió của cuộc đời như Lời Ngài ra lệnh với nỗi khổ của Gióp: “Vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây” (G 38,11).
Những gì Gióp trải qua, Thiên Chúa mời gọi ông hãy tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Người! Thật thế, Gióp đã tín thác vào sự cứu giúp của Thiên Chúa như Thánh Vịnh đã phác họa: Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (x. Tv 23,4). Niềm tin của ông, của Vịnh Gia cũng là niềm tin và hy vọng của mỗi người chúng ta khi vượt qua biển đời đầy sóng gió…
Suy niệm
Trong Kinh Thánh, gió và biển luôn tượng trưng cho náo loạn và sự dữ, luôn đối nghịch với Thiên Chúa.
“Chiều tối đến” thuyền vẫn lướt sóng để mong về đến bến. “Chiều tối đến”, không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn là “giờ của bóng tối”, giờ của thử thách (x. Mc 14,17; Ga 9,4-13.30) của cuồng phong nổi lên. Bão táp với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba mà lòng đầy sợ hãi.
Thầy đâu rồi, Thầy đâu rồi,… “Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4,38a). “Đức Kitô ngủ”, hình ảnh phác họa như là Thiên Chúa bỏ mặc con người trước phong ba bão tố cuộc đời, “Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ.
“Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.
Vượt biển đời, Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn ngay cả khi bình an hay chúng ta vất vả lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi. Trong bão tố phong ba đâu là thái độ của chúng ta:
Như các tông đồ, chúng ta đánh thức Ngài trỗi dậy để xin Ngài xin cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất.
Hay chính chúng ta lại hốt hoảng, tuyệt vọng trước sóng gió biển đời và buông xuôi tất cả để cho thuyền bị phong ba nhấn chìm vì không cố gắng tìm kiếm sự hiện diện của Ngài.
Nỗi sợ hãi làm chúng ta quên sự hiện diện và quyền năng của Ngài.
Giữa sóng gió bão tố cuộc đời, con luôn vững tin và hy vọng, chính vì tin vào Ngài làm nên sức mạnh khiến con có thể đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời.
Ý lực sống:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân” (Tv 107,13).
1 Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa... Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người chỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao”? Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?
2. Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
3. Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
4. Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc ”Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
5. Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ. (Tv 107,29-30)
6. Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
7. Truyện: Cha tôi cầm lái con tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố âm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra cả.
Các đoạn Tin mừng từ thứ Bảy tuần này đến thứ ba tuần sau lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh khác của mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh của thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: Một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ...
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ, sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau: "Người là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh?"
B. Suy niệm (...nảy mầm)
1. Vì Chúa là Chúa tể thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa:
Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn Chúc tụng Chúa đi kìa trời đông tiết giá Chúc tụng Chúa đi băng phủ tuyết rơi Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi. (Tv 62)
2. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khỏe khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già...
Có lúc sức khỏe suy sụp làm ta tưởng mình đang ở trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Những thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
3. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ dối với Đức Kitô như thế nào. Sau mấy giây thinh lặng người bạn hỏi: "Anh có khi nào nghĩ về Đức Kitô không?"
Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ tỏa hương bên đường và nói: "Như mặt trời dối với đóa hoa thế nào, thì Đức Kitô dối với tôi cũng vậy." (Góp nhặt)
4. "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"
Khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi và các con di cư vào nam để tìm chống. Chúng tôi đã bám trụ trên mảnh đất Sài Gòn cho đến khi được tin tức chồng và biết được nơi ở hiện tại của anh ấy. Chúng tôi mừng lắm, vội vã tìm đến địa chỉ đó thì hỡi ơi, anh ấy đã phản bội đi theo người đàn khác bà giầu sang hơn. Cuộc đời tôi đến đây như đã hết. Tôi đau khổ và chỉ muốn chết thôi. Vì các con nên tôi đã tiếp tục sống và vượt qua tất cả những bất công, những cay đắng của cuộc đời. Trở về Hà nội ư? Cón mặt mũi nào! Ở lại Saigòn này ư? Tôi thẫn thờ bước đi cho đến khi gặp được một ngôi thánh đường. Tiếng chuông chiều như mời gọi. Thế là chúng tôi bước vào ngôi thánh đường. Chúng tôi bắt gặp một người đàn ông trần trụi trên Thập giá, trông còn tội nghiệp hơn chúng tôi nhiều. Như gặp được người đồng cảm với mình, chúng tôi liền quì xuống và thổ lộ tâm tình....Giờ thì tôi tìm được một nơi ở và công việc ổn định cho cuộc sống. Và Ngài đã trở thành người yêu của tôi, người cha của những đứa con tôi" (Trích lời tâm sự của một phụ nữ tân tòng)
Cuộc sống quanh ta có biết bao điều kỳ diệu. Và khám phá được quyền năng của Thiên Chúa, Đấng giúp chị ta khỏi những hụt hẵng của cuộc sống, hiểu được ý nghĩa của hai tiếng yêu thương và tìm lại cho mình một cuộc sống hứng khởi.
Luôn có Chúa trong tâm hồn
Có một người đàn bà đạo đức nọ trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống là phải chịu một cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu với hy vọng còn tiếp tục sống để lo cho người con trai của bà.
Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến những giờ phút đau đớn của bà. Thời đó chưa có thuốc tê cho nên bệnh nhân thường phải trải qua những đau đớn khủng khiếp.
Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà xem ra vẫn can đảm chịu đựng được. Thế nhưng vào tới những giây phút cuối, khi lưỡi dao mổ của các bác sĩ chạm đến gần trái tim thì người đàn bà rùng minh và miệng kêu lên: "Lạy Chúa!"
Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, đứa copn trai không cầm được cảm xúc đã thốt lên những lời xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngay lúc đó người đàn bà nghiêm chỉnh bảo con: "Hỡi con, im đi, con làm mẹ đau đớn hơn lưỡi dao mổ của các bác sĩ nhiều. Con đã làm xỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ"
Nói xong, bà mở bàn tay ra cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ mà bà nắm chặt trong tay suốt từ lúc bắt đầu cuộc giải phẫu đến giờ. Đó là thuốc tê đã làm dịu những cơn đau của bà.
Sau mấy tháng quần quại đau đớn trên giường bệnh, người đàn bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao ảnh chuộc tội đó lại cho người con trai và dặn cậu: "Con hãy giữ lấy ảnh này vì đó sẽ là niềm an ủi cho con".
Các nhà tu đức thường ví đời sống của Giáo Hội cũng như đời sống của mỗi Kitô hữu chúng ta như một con thuyền ở giữa biển khơi. Mặc dầu ở giữa biển khơi, nhưng con thuyền Giáo Hội cũng như con thuyền của những người tin luôn có Chúa hiện diện.
1. Đối với Giáo Hội chúng ta đã thấy quá rõ. Từ khi được Chúa thành lập đến nay, con thuyền Giáo Hội đã phải trải qua không biết bao nhiêu là những cơn sóng gió, bão táp phũ phàng nhưng Giáo Hội vẫn luôn được Chúa che chở giữ gìn. Xin được trích ra đây một ít sự kiện:
* Saladin là một vua Hồi Giáo. Có lần ông vua này đã gởi cho Đức Giáo Hoàng một lá thư trong đó vỏn vẹn có một dòng.
- Ta sẽ lấy Đền thờ Phêrô làm Đền thờ Mohamét!
Và Đức Giáo Hoàng cũng trả lời chỉ vỏn vẹn có một câu: “Thuyền Thánh Phêrô có thể có lúc lắc nhưng nhất định không chìm” (Fluctuat nec mergitur).
Câu nói thời danh này đã đi vào lịch sử.
* Suốt cuộc đời, Luther đã dùng mọi phương thế để lăng nhục và đánh đổ Hội Thánh, nhưng rồi những mong ước của ông ta không thành tựu. Trên giường bệnh, ông còn xin cục phấn và gắng gượng viết lên vách câu này: “Lúc sinh thời, ta là thứ dịch tễ cho mi thì khi chết, ta sẽ chôn vùi mi theo”. Thế nhưng, Luther đã chẳng mang theo được gì ngoài sự thất vọng của ông.
* Nối chí Luther có ông Voltaire ở thế kỷ XVIII. Thông minh, nhưng nham hiểm, ông đã viết bao nhiêu sách và đã diễn thuyết bao nhiêu bài để cổ động, hô hào tiêu diệt Hội Thánh Công giáo. Ông công khai tuyên bố rằng, chỉ 20 năm nữa thôi, Hội Thánh Công giáo sẽ đi đời. Thế nhưng, thật là trớ trêu: Đúng 20 năm sau lời tuyên bố đó, thì ông chết, còn Giáo Hội của Chúa vẫn kiên vững!
* Năm 1903, Jaurès (1859-1914), nhà hùng biện người Pháp thấy Hội Thánh phải đương đầu với nhiều khó khăn, cùng lúc có nhiều nước có đạo đã bỏ rơi, ông vui mừng reo lên: “Sóng đưa thuyền Phêrô vào bờ, bây giờ nước rút, thuyền mắc cạn, nằm trơ trên bãi cát”. Nhưng sự thực nước rút rồi thì nước lại lên, và thuyền Phêrô lại tiếp tục ra khơi!
* Cũng ở nước Pháp, trước Jaurès, có Napoléon, một nhân vật đã từng làm chấn động trời Âu, đã bắt và đem Đức Giáo Hoàng Piô VII (1742 -1823) về giam giữ tại lâu đài Fontainebleau bên Pháp. Lúc đó những kẻ nghịch với Giáo Hội đã vui sướng reo lên:
- Đây là Đức Giáo Hoàng cuối cùng.
Nhưng rồi Napoléon thất bại, bị cầm tù tại đảo St. Hèlene, và Đức Giáo Hoàng lại trở về Rôma. Chính Đức Giáo Hoàng Piô VII đã đứng lên và đón rước gia đình tan rã của Napoléon gồm một mẹ già, 04 anh chị em là Lucien, Jérôme, Louis và Pauline, kể cả ông cậu là Hồng y Fesch, sau khi ông bị đi đày.
Tóm lại, trước đây cũng như mãi mãi về sau, dù Giáo Hội có thể bị nhiều thử thách, nhưng Hội Thánh nhất định sẽ mãi mãi tồn tại. Henrich Heine (1797-1856) thi hào người Đức, đã ý thức rất rõ về điều đó cho nên ông viết: “Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đọ sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.
2. Đó là Giáo Hội còn cuộc đời của chúng ta thì sao? Câu chuyện sau đây sẽ là câu trả lời cho tất cả chúng ta.
Một chiếc thuyền đi trên biển và gặp giông bão. Sóng rất lớn làm con thuyền chao đảo. Mọi người lo lắng chạy tới chạy lui kêu cứu. Một hành khách đi ngang qua phòng, thấy cậu thiếu niên con của viên thuyền trưởng vẫn còn đang say ngủ, không biết gì. Người khách vội lay em dậy và cho biết tàu đang lâm nguy, sắp chìm, em phải lo tìm phao cấp cứu.
Em bé dụi mắt hỏi lại ngay: - Thế ai đang lái tàu vậy hả bác?
Người hành khách trả lời: - Cha của cháu.
Nghe thấy thế, em lại tiếp tục nằm xuống, ngủ tiếp một cách bình thản.
Người này lấy làm lạ hỏi: - Tại sao trong khi mọi người đang lo lắng, riêng cháu lại có thể bình an mà ngủ được chứ, cháu không sợ sao?
Em hãnh diện trả lời:
- Hễ cha cháu mà còn lái tàu, thì chắc chắn con tàu sẽ an toàn, cháu đã trải qua nhiều phen như thế này rồi, ba cháu dư sức để lo liệu, bác cứ yên tâm đi.
Vâng! Đời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt,, nhất là trong những lúc gặp những thử thách phong ba. Điều quan trọng trong những lúc như thế là phải tin tưởng nơi Chúa, đồng thời biết chạy đến cầu nguyện với Ngài để Ngài dẹp yên bão tố sóng gió và đưa con thuyền cuộc đời chúng ta hay con thuyền Giáo Hội về tới bến bờ bình an.