Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông.
Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".
“Bánh ít đi, bánh quy lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”: đó vẫn được coi là cách cư xử bình thường giữa người với người. Hơn nữa ai làm như vậy còn được coi là người biết cách xử thế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời ta vượt lên trên lối cư xử đó, không ngừng lại ở chỗ tôi cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des). Ngài dạy cho ông chủ tiệc biết nên mời ai và không nên mời ai. Có bốn hạng người không nên mời dự tiệc: bạn bè, anh em, bà con họ hàng, hay láng giềng giàu có. Ngài đưa ra lý do: “Kẻo họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12). Hơn nữa, Ngài còn nói đến bốn hạng người nên mời dự tiệc: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c.13). Đức Giêsu khuyên nên mời những hạng người này, vì họ không có khả năng mời lại hay đáp lễ (c.14). Như thế Đức Giêsu cho ta tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc. Không mời những người quen biết, thân thích, giàu sang, để mời những người nghèo hèn, những kẻ chẳng được ai mời. Qua đề nghị khó thực hiện này của Đức Giêsu, Ngài đụng đến một khuynh hướng tự nhiên mà ít người để ý. Đó là khi làm điều tốt cho ai ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác. Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn. Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản. Nói chung để làm một hành vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó. Chỉ ai thành thật đi vào lòng mình mới thấy mình ít khi cho không. Đức Giêsu muốn hạn chế khuynh hướng này. Ngài mời chúng ta ra khỏi thế giới của những người quen biết, không kết thân với những người giàu có và thế lực, để mong họ đem lại lợi nhuận hay làm ô dù cho ta. Ngài đưa ta đến với những người nghèo và không có địa vị, những người không có khả năng mời lại hay đáp lễ. Có khi những người đó chẳng ở đâu xa. Họ nằm ngay trong số bạn hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm. Khi mời họ dự tiệc, trân trọng họ như khách quý, chúng ta làm sống lại những mối tương quan tưởng như không còn. Đức Giêsu mời ta thanh luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt, trở nên siêu thoát và từ bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình. Bài Tin Mừng đơn sơ này có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu. Chúng ta sẽ được nếm một mối phúc mới: Phúc cho ai làm một việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ. Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14). Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen. ----------------------------------
Thông thường “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Yêu những người yêu mình. Làm ơn cho những người làm ơn cho mình. Bữa tiệc là để cám ơn những người đã tốt với mình. Nay tỏ lòng tốt lại. Để mong nhận được lòng tốt hơn nữa. Đó là vòng tròn ơn nghĩa. Là trần gian thường tình. Đó là vụ lợi. Đó là đã hưởng lợi trần gian rồi.
Chúa dậy điều khác hẳn: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc”. Tại sao có phúc? Có phúc vì không được lợi về vật chất ở đời này. Cùng lắm chỉ được dân nghèo quí mến. Nhưng sẽ được phúc đời sau. Vì “ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Có phúc vì mặc lấy tâm tình của Chúa. Vì cùng Chúa xây dựng Nước Trời.
Đó là chia sẻ “sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào”. Tâm tình của Chúa là tình yêu. Luôn đi bước trước. Để “muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người”. Đã thương cứu độ không những Ít-ra-en mà cả mọi dân trên thế giới chỉ vì họ không vâng phục. “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”. Thật lạ lùng tâm tình của Chúa. Thật cao sâu lòng thương xót của Người. Đó là nguồn cội mọi ơn lành cho ta (năm lẻ).
Vì thế, thánh Tông đồ mời gọi chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Chúa. Đó là hãy “có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Đó chính là mời dự tiệc những người nghèo khổ, tàn tật. Đó chính là cho đi mà không mong được đáp lễ (năm chẵn).
Mặc lấy tâm tình của Chúa. Hành động theo đường lối của Chúa. Đi bước trước. Cho đi không mong đền đáp. Ta cùng Chúa xây dựng Nước Trời ngay trên trần gian. Bắt đầu từ bây giờ.
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: "Có qua có lại, mới toại lòng nhau" hoặc "Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu". Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: "Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại".
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
“Trái lại khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc. 14, 13-14)
Khi kêu gọi quý khách hạ mình xuống để được vào nước trời, bây giờ Đức Giêsu chỉ dẫn chủ mời cần điều chỉnh mọi hành động của ông theo tình yêu Thiên Chúa để yêu người.
Tình yêu vụ lợi không được cứu độ.
Đối với dân Do thái, mời ăn tiệc là tỏ lòng thân ái và tình bạn. Họ chỉ mời những bạn hữu, anh chị em, cha mẹ, bà con và những người láng giềng giàu có, để mong được mời lại. Hành động của họ không đặt nền tảng trên tình yêu như Chúa truyền dạy. Đó là cách yêu mình, yêu vụ lợi.
Đức Giêsu không nói đừng bao giờ mời bạn hữu. Những người lương dân thường làm thế, nhưng đó không phải là dấu chỉ môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ phải tìm theo Chúa, không được đòi Chúa phải theo mình trong mọi việc của mình. Môn đệ phải sẵn sàng yêu mến, và chia sẻ cơm áo cho những người Chúa yêu, như kẻ nghèo khổ, què quặt, mù lòa.
Chỉ có ơn tặng không mới mở được cửa nước trời.
Con đường của Chúa vượt tới từ bỏ chính mình, tới vô vị lợi tuyệt đối. Nếu bạn mời những kẻ bất hạnh, họ không thể mời lại bạn, bạn mở con tim ra cho họ bằng một tình yêu vô tư, tặng không, như chính Thiên Chúa yêu họ.
Trước đó, bạn sẽ thấy hạnh phúc và phần thưởng trong ngày sống lại và phán xét.
Chính Chúa Giêsu ban bữa tiệc tình yêu và truyền lại cho các môn đệ làm mà nhớ đến cái chết hy sinh của Người. Trong bữa tiệc thánh đặc biệt này, Người không phân biệt và loại trừ một ai. Bữa tiệc Thánh Thể này cần mở ra mời hết mọi người, không phân biệt giai cấp xã hội, chủng tộc hay phẩm giá của họ.
Ta chỉ cần đọc lại thư của thánh Gia-cô-bê và những thư của thánh Phao-lô để nhận thấy Giáo hội sơ khai đã tha thiết nhắc lại lời dạy của Đức Giêsu nói với biệt phái khi họ mời Người.
Tình yêu là một ân huệ Thiên Chúa tặng không cho ta. Ta đã được cho không, thì phải tặng lại một cách quảng đại vô vị lợi.
Tại Sài Gòn, rất nhiều người biết đến quán cơm từ thiện với cái tên ngồ ngộ: “Quán cơm Vợ thằng Đậu”. Chủ nhân của quán cơm này chính là cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Khi vừa qua cơn bạo bệnh nhờ phép lạ của Đức Mẹ, Lê Vũ Cầu đã xin theo Đạo Công Giáo, và việc làm đầu tiên để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu ông khỏi căn bệnh hiểm nghèo là: bán hai miếng đất lấy tiền mở quán cơm chay tại số 40 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, Tp. Sài Gòn.
Quán ăn phục vụ từ 10h 30 - 11h 30 trưa, mỗi ngày tiếp khoảng 100 - 150 lượt khách. Khách hàng của quán chủ yếu là người nghèo, người già neo đơn, người có hoàn cảnh khó khăn, nhưng đông nhất là anh chị em bán vé số. Tất cả đều được ăn miễn phí.
Khi mở quán như thế, nhiều người cho rằng nghệ sĩ Lê Vũ Cầu có vẻ bất thường, vì nếu dùng đồng tiền đó vào những chuyện như kinh doanh, buôn bán có lẽ tốt hơn!
Hôm nay, Đức Giêsu xem ra cũng có vẻ bất thường khi nói với ông thủ lãnh những người Pharisêu khi mời Ngài đến dự tiệc rằng: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”. Câu nói này của Đức Giêsu quả thật là bất thường theo lối suy hiểu của con người. Không chỉ có một lần này, mà đọc lại các trang Tin Mừng, chúng ta thấy có rất nhiều lần Đức Giêsu dùng lối nói như vậy. Chẳng hạn như: Hiến Chương Nước Trời và những lời chúc phúc: “Phúc cho người nghèo, khóc lóc, đói khát, bắt bớ, tù đầy...”; hay khi đưa ra nguyên tắc éo le cho những ai muốn theo mình: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống đời đời”; hay “ai muốn làm lớn thì phải làm đấy tớ mọi người”; hoặc cứ để kẻ chết chôn kẻ chết...; còn khi nói về sự lựa chọn: Ngài đã lựa chọn: “Sẵn sàng bỏ 99 con chiên để đi tìm cho kỳ được 1 con chiên bị lạc; người đàn bà tìm được đồng xu đánh mất, thì lại mời cả xóm đế chung vui...!”.
Tại sao Đức Giêsu lại có cái nhìn như thế? Thưa là vì Ngài có một cái nhìn siêu nhiên, tức là cái nhìn hướng thượng, cái nhìn cứu độ. Chỉ những ai có cái nhìn như thế, hẳn mới đón nhận được giá trị cứu độ của nó đằng sau sự kiện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như thế để được cứu độ, bởi lẽ khi chúng ta hành động vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù..., ở đời này, họ không có gì để trả ơn cho chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ là người thay họ trả ơn gấp trăm cho chúng ta ở đời này và đời sau.
Có thể với lối nhìn như thế, nhiều người sẽ khinh chê, dè bửu, nhưng nếu bây giờ chúng ta dám lội ngược dòng để sống cốt lõi của Tin Mừng, thì trong cuộc sống mai hậu, chúng ta sẽ xuôi dòng để tiến về Quê Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu và sống ý nghĩa của Tin Mừng, để sau này, chúng con được vui hưởng hạnh phúc trên Quê Trời. Amen.
Sứ điệp: Tình yêu của Chúa bao trùm tất cả mọi người, không phân biệt một ai. Ngài mời gọi chúng ta sống như Ngài: cư xử với nhau cách quảng đại và vô vị lợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay đang bị đảo lộn, giá trị vật chất nhiều lúc được đặt trên giá trị tinh thần. Cuộc sống giữa con người với nhau thường dựa trên sự trao đổi song phương, hợp đồng hai chiều. Vì vậy, người ta ái ngại khi kết thân làm bạn với những người nghèo khổ, cô thân cô thế.
Lạy Chúa, khi suy gẫm Lời Chúa hôm nay, con nhận ra mình chỉ là kẻ nghèo khó thấp hèn, nhưng suốt bao nhiêu năm tháng qua, Chúa đã ban cho con vô vàn ân huệ mà không đòi hỏi gì cả. Chúa đã ban tặng nhưng không. Phần con đã so đo tính toán hơn thiệt. Khi giúp ai việc gì, con bắt họ trả công, đền ơn đáp nghĩa. Khi ai tặng một món quà, thì con cũng nhớ một dịp nào đó để tặng lại. Thậm chí, đôi lúc cho thì ít mà muốn nhận lại thì nhiều, hoặc tệ hơn nữa, nhận vào mà không muốn cho đi. Con muốn giao du với người giàu sang quyền quý, còn người nghèo khổ, con ngại ngùng gặp gỡ, tình thương dành cho họ chỉ là những lời an ủi ngoài môi, chứ trong lòng không một chút xót thương, cảm thông.
Lạy Chúa, con đã coi của cải vật chất trọng hơn con người. Con đã sống ích kỷ và vô tâm trước tình thương Chúa dành cho con, và xin ban cho con một quả tim của Chúa, để con sống quảng đại, biết cho đi mà không cần tính toán, biết trao ban mà không mong đền đáp. Xin giúp con biết phục vụ trong tình yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”.
1. Qua bữa tiệc hôm qua, Đức Giêsu đã dạy thực khách bài học về khiêm nhường (Lc 14,7-11), hôm nay Ngài lại dạy thêm bài học về việc chia sẻ, biết cho đi. Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại: “bánh ít cho đi, bánh quy cho lại”, hay Tây phương cũng có câu: “Do ut des”: tôi cho anh để anh cho lại. Cho đi mà không được lại thì tinh thần dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình. Đàng này, Đức Giêsu lại dạy: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho người không có khả năng đền đáp, cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Chúng ta đã chọn lối sống nào của người đời hay của Đức Giêsu?
2. Thật sự mà nói, thường thì mọi người chúng ta làm cái gì cho nhau cũng muốn có qua có lại, thậm chí tham lam theo kiểu “thả con tép bắt con tôm”, “thả con săn sắt bắt con cá rô”, hoặc “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tự bản chất chúng ta cho thấy có một sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa giầu và nghèo, khi dọn tiệc, chúng ta vẫn ưu tiên mời người giầu, và nếu đang lúc dùng bữa, gặp người giầu chúng ta vẫn dễ dàng mời họ hơn thấy một người ăn mày đi qua...
Nói tóm lại, chúng ta bỏ ra thì muốn thu lại, thậm chí muốn thu lại hơn gấp nhiều lần, chứ ít ai trong chúng ta có được một lòng quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khó. Chúng ta vẫn lấy tiêu chuẩn “công bằng kiểu làm ăn kinh tế” để đối xử với nhau, thì điều này chúng ta là Kitô hữu cũng chẳng hơn gì, vì người ngoại họ cũng làm được hơn cả chúng ta, bởi làm việc lành mà được đáp lại, nghĩa là được thưởng công rồi, nên chẳng còn công phúc gì trước mặt Thiên Chúa cả (Hiền Lâm).
3. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: ”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc” (Lc 14,13).
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Đức Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Đức Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yêu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
4. Tình thương của Đức Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ân huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ (Mỗi ngày một tin vui).
5. Cậu bé đói lả ăn cắp ổ bánh mì bị chủ quán bắt được. Cậu bị đánh, bị chửi. Thấy vậy, ông chủ quán phở kế bên trả tiền cho cậu và cho cậu thêm một tô phở mang về. Sau này, ông chủ quán phở lâm bệnh, phải nhập viện. Đứa con gái ông không thể trả tiền viện phí. Vị bác sĩ chữa trị đã thanh toán viện phí, kèm theo dòng chữ: ”Viện phí của ông đã được thanh toán cách đây hơn 20 năm bằng một ổ bánh mì và một tô phở”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta bài học về cách làm ơn và cho đi. Ngài không dạy chúng ta làm ơn cho những người có khả năng đáp trả, nhưng cho những người thiếu thốn, nghèo khó. Khi ấy, chính Thiên Chúa sẽ thay họ trả cho chúng ta.
Đức Giêsu là tấm gương sáng chói về tinh thần cho đi cách quảng đại. Ngài đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” để đến với con người, sống như con người, hiến dâng mạng sống cho con người, mà không đòi hỏi bất kỳ sự trả ơn, đền đáp nào.
6. Truyện: Tôi muốn cho chị được hạnh phúc.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã thiết lập một căn nhà để tiếp đón tất cả những người hấp hối không có nơi nương tựa. Vì Mẹ muốn tạo điều kiện để những người nghèo khổ này được tìm thấy một cái chết xứng đáng với phẩm giá con người.
Một buổi tối nọ, người ta đưa đến một người đàn bà bị kiệt sức vì đói khát và bệnh tật. Mẹ Têrêsa đã đích thân săn sóc với tất cả sự ưu ái và dịu hiền của một người mẹ. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào với mẹ Têrêsa:”Thưa bà, tại sao bà lại săn sóc tôi như thế”?
Với tất cả lòng ưu ái, mẹ Têrêsa đã trả lời:”Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc”.Trên khuôn mặt nhợt nhạt của người bệnh bỗng bừng sáng lên một niềm vui. Bà cố gắng để thì thào với Mẹ:”Xin bà hãy lặp lại câu đó một lần nữa đi”.
Mẹ Têrêsa mỉm cười nói:”Phải, tôi muốn cho chị được hạnh phúc”. Và như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người đàn bà tiếp tục thều thào:”Xin bà hãy lặp lại một lần nữa đi”.
Cuối cùng bà ta cố nắm lấy tay mẹ Têrêsa đặt lên ngực, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của hạnh phúc mà chỉ ai có lòng quảng đại mới ban phát được.
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng việc mời khách dự tiệc để dạy bài học phục vụ vô vị lợi:
1. “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18).
2. “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
B.... nẩy mầm.
1. Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Cho như thế không có giá trị bao nhiêu vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại dù người ta có cho lại mình thì chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người. Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
2. Ăn chung với nhau còn biểu lộ sự thông hiệp, liên đới. Chúa Giêsu là kẻ muốn thông hiệp liên đới với tất cả mọi người, do đó Ngài không ngại ăn chung với một thủ lãnh biệt phái mặc dù hai bên khác quan điểm với nhau (x. đoạn phía trước: 14,1-6). Ngài cũng không ngại ăn chung với những người tội lỗi (x. Mt 9,10-13). Trong đoạn Tin Mừng này, người thủ lãnh biệt phái đã khá cởi mở khi mời Chúa Giêsu đến ăn chung với mình. Chúa Giêsu khuyến khích ông tiến thêm một bước nữa là hãy hiệp thông liên đới với những người mà địa vị xã hội thấp kém hơn ông bằng cách mời họ cùng ăn uống với ông.
3. “Phần thưởng ai cũng muốn có. Nhưng phần thưởng đến từ đâu và lúc nào, đấy mới là vấn đề quan trọng. Chúng ta hãy suy tính xem phần thưởng tạm bợ trong thời gian có hơn được phần thưởng vĩnh cửu không? Phần thưởng của anh em có hơn được của Thiên Chúa không? Phần Chúa, Chúa nhắn: “Hãy tìm của Nước Trời trước” (Mt 6,33) (Trích "TMCGK ngày trong tuần" ).
4. “ Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc“ (Lc 14, 13-14)
Có một nỗi đau quặn thắt trong tôi, khi tôi được tin một người thân sắp bị mù. Có một tình thương len lõi trong tôi mỗi khi tôi nhìn thấy những người nghèo khó, tàn tật. Nhưng dường như đó chỉ là cảm xúc pha lẫn thương hại. Chưa một lần nào tôi nghĩ đến chuyện phải là một cái gì đó cho họ.
Lời Chúa hôm nay, mở ra cho tôi một tình yêu mới: “Yêu như Chúa yêu”, nghĩa là dám dấn thân cho tình yêu và nhất là không chỉ yêu những người danh giá địa vị, mà cả những người nghèo khó, tàn tật. Tôi nguyện đến với họ để chia sẻ với họ những gì tôi có, cả niềm vui và hy vọng nữa.
Lạy Chúa! Xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người nghèo khó, tàn tật, để con có thể đến với những người anh em đó dễ dàng hơn. (Hosanna).
Qua việc mời khách dự tiệc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học về việc phục vụ vô vị lợi:
“Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc”. (Lc 14, 13-14)
Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế, động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Việc cho như thế không có giá trị bao nhiêu, vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại, dù người ta có cho lại mình thì họ cũng chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người.
Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại, vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
Có một người nông phu Trung Quốc tên là Wong Ly, một người tuy nghèo nhưng vốn có lòng quảng đại và nhân hiền. Một hôm, ông từ trên đồi xuống, vác trên vai một bó lá đem về lợp lại mái nhà. Đi đường mỏi mệt ông ngồi nghỉ chân dưới bóng một cây cổ thụ bên đường. Một con bướm thật đẹp đủ màu sắc bay tới đậu trên bó lá, ông vừa đưa tay đuổi đi vừa nói:
- Bướm đẹp quá, hãy bay đi hưởng tự do mà Chúa đã ban cho mi.
Nhưng con bướm vẫn không chịu bay đi, rồi ông lấy dây, nhẹ tay buộc con bướm vào cành lá với ý định đem về cho các con ông chơi. Vừa xuống dưới chân đồi, ông gặp một phụ nữ, vai mang gánh lúa, tay dắt đứa con gái nhỏ. Trông thấy con bướm trên bó lá, cô bé gọi mẹ:
- Mẹ ơi, bướm đẹp quá mẹ xin cho con đi.
Nghe vậy, ông Wong Ly dừng chân, đặt bó lá xuống đất, tháo dây cột con bướm, đưa cho cô bé và nói:
- Đây cháu hãy cầm lấy con bướm này, nhưng đừng làm hại nó nhé.
Bà mẹ đứa trẻ cũng dừng chân, đặt gánh xuống và nói với ông Wong Ly:
- Ông thật là người tốt bụng, tôi không có gì đền ơn ông, chỉ xin ông nhận mấy trái cam sành này…trái cam tôi mới hái đây.
Ông nhận quà, ra về, cám ơn và nói:
- Tôi sẽ đem về cho vợ con tôi, vì cả nhà tôi chưa bao giờ được thấy những trái cam to và mọng nước như thế này.
Đi được một quãng, ông gặp một người lái buôn ngồi nghỉ dưới bóng cây bên đường với những gói tơ lụa đủ màu. Người lái buôn đứng dậy nói với Wong Ly:
- Tôi đi đường từ sáng đến giờ sắp kiệt sức vì trời nóng bức, không một miếng cơm cũng không một ngụm nước, ông có gì cho tôi uống giải khát để lấy lại sức không?
Ông Wong Ly động lòng thương, rút mấy trái cam sành trong túi ra và nói:
- Ông hãy nhận lấy mấy trái cam ngon ngọt này, nó sẽ giúp ông giải khát và chúc ông lên đường bình an.
Người lái buôn vui mừng nhận ba trái cam, rồi rút trong bao ra một tấm lụa và nói:
- Xin cám ơn lòng tốt của ông, và xin ông nhận cho tấm lụa này để nói lên lòng biết ơn của tôi.
Wong Ly tiếp tục lên đường về nhà, vai mang bó lá, tay cầm tấm lụa. Về tới đầu làng, ông nghe tiếng chân ngựa và tiếng cười xôn xao, như có ai quan trọng sắp đi qua đây, ông vội đứng sang một bên, chờ ngóng xem có chuyện gì xảy ra.
Một lúc sau, có xe của công Chúa và lính hầu cận tiến tới, đang lúc lúng túng Wong Ly nghe tiếng công Chúa gọi lại, vì muốn xem tấm lụa đẹp ông cầm trên tay. Ông đến gần và lễ phép thưa:
Công Chúa cầm lấy tấm lụa ngắm nghía tỏ vẻ hài lòng và nói:
- Ngươi thật là tốt bụng, ta cũng muốn tặng cho ngươi một món quà.
Vừa nói công Chúa vừa đặt vào tay ông một cái túi nhỏ rồi ra đi. Ông cầm chặt túi nhỏ trên tay, vác bó lá trên vai, bước mau về nhà. Vào tới nhà, ông gọi vợ con tới gần và mở túi nhỏ của công Chúa ra xem. Mắt ông sáng lên khi thấy trong túi đầy những đồng tiền vàng.
Ông ngạc nhiên tự hỏi, tôi sẽ làm gì với sự giàu có này, rồi ông tự trả lời:
- Được rồi, tôi sẽ làm cho những người nghèo khổ nhất trong làng này được hạnh phúc.
Rồi ông phân phát, chia sẻ cho những người nghèo khổ trong làng. Và dĩ nhiên, người hạnh phúc nhất trong làng chính là ông Wong Ly. Từ đó, ông được đặt tên là “Người hạnh phúc”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại hơn. Amen.
Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại? Thường người ta tính toán rất kỹ khi đến với nhau. Hòn đất ném đi, hòn chì phải ném lại. Cho đi mà không được lại thì dần dần tình thân sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình.
Còn ngược lại, Ðức Giêsu dạy rằng: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho những người không có khả năng đền đáp. Cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Ðấy mới là cho thật tình, cho hết lòng.
Chúng ta sẽ chọn lối sống nào: của người đời, hay của Ðức Giêsu?
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: “Có qua có lại, mới toại lòng nhau” hoặc “Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu”. Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: “Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có qua có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa. ---------------------------------
Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được". "Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của bữa tiệc do một ông Pharisêu chức sắc mời Đức Giêsu vào ngày sabát (Lc 14, 1). Những lời Ngài nói trong bữa tiệc đã đánh động một người cùng bàn. Ông chia sẻ với Đức Giêsu về niềm hạnh phúc của người được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 15), ở đó có mặt các tổ phụ và thiên hạ từ khắp tứ phương (Lc 13, 28-29). Chính vì thế Đức Giêsu đã muốn kể một dụ ngôn về Nước Trời. Nước Trời giống như một đại tiệc do một người khoản đãi. Ông đã mời nhiều quan khách đến dự. Khi đến giờ đãi tiệc, ông còn sai đầy tớ đi mời họ lần nữa. “Mời quý vị đến, vì mọi sự đã sẵn sàng rồi” (c. 17). Tiếc thay lời mời ấy, đại tiệc ấy, lại bị mọi người coi nhẹ. Ai cũng có lý do để xin kiếu từ. Kẻ thì kiếu vì cần phải đi xem miếng đất mới mua (c. 18). Kẻ thì kiếu vì phải đi kiểm tra năm cặp bò mới tậu (c. 19). Kẻ khác lại xin kiếu vì phải ở nhà với người vợ mới cưới (c. 20). Có vẻ các lý do đưa ra đều có lý phần nào. Nhưng thực sự chúng có phải là những lý do chính đáng để từ chối đại tiệc mà mình đã được mời cách trân trọng hay không? Vấn đề chỉ là chọn lựa. Xem đất mới mua, xem bò mới tậu, ở nhà với vợ mới cưới, những điều ấy hẳn cần thiết và quan trọng. Nhưng có quan trọng bằng chuyện đi dự tiệc không? Nếu đi dự tiệc để diễn tả sự hiệp thông của tình bạn thì có thể hoãn các chuyện khác không, để chọn điều có giá trị hơn? Chúng ta hiểu được sự nổi giận của ông chủ, khi thấy bữa tiệc dành để khoản đãi các khách quý lại bị đổ vỡ. Ông thấy chính mình bị xúc phạm, tình bạn bị coi thường. Ông quyết định dành bữa tiệc này cho những ai không phải là khách quý, những người thuộc giới hạ lưu, nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c. 21). Và khi phòng tiệc vẫn còn chỗ trống, ông đã khẩn khoản lôi kéo vào cả những người ở ngoài đường hay trong vườn nho (c. 23). Cuối cùng, người được mời trước thì bị loại, vì họ tự loại chính họ (c. 24). Còn những người có vẻ không xứng đáng lại được ngồi vào bàn. Chẳng ai xứng đáng được dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa nếu Thiên Chúa không mời. Nhưng chẳng ai bị loại trừ khỏi bàn tiệc cánh chung nếu họ không cố ý từ chối lời mời đó. Chẳng ai có thể tự cứu mình mà không cần đến Thiên Chúa, nhưng con người có thể làm mình bị trầm luân mãi mãi chỉ vì thái độ khép kín của mình trước ơn Chúa ban. “Tôi xin kiếu”, đó là câu nói của nhiều người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta xin kiếu một cách quá dễ dàng, chẳng để ý gì đến nỗi thất vọng và đau đớn của người đãi tiệc. Lời mời của Thiên Chúa bị từ chối chỉ vì những chuyện không đâu. Chuyện tất bật làm ăn, chuyện vui chơi giải trí, chuyện mời mọc của bạn bè. Có nhiều chuyện thấy có vẻ quan trọng hơn, khẩn trương hơn, đến nỗi có người bỏ tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Hãy chọn Thiên Chúa và biết quý những gì Ngài muốn ban cho ta. Đại tiệc Thiên Chúa đã dọn sẵn rồi, không chỉ ở đời sau, mà ngay ở đời này. Ngài mong ta đến để dự tiệc, hay đúng hơn để chia sẻ một tình bạn. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh làm thần tượng cho đời mình. Hôm nay Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai, và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa. Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng, theo Chúa là bước vào con đường hẹp: con đường nghèo khó và khiêm nhu, con đường từ bỏ và phục vụ. Hôm nay, chúng con chọn Chúa không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng, nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người. Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa. Chẳng ai hoàn hảo như Chúa. Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen. ----------------------------------
“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Đó là hạnh phúc đích thực. Vì bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa là bữa tiệc hiệp thông. Con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Không chỉ là đồng bàn. Nhưng đồng sự sống. Đồng hưởng hạnh phúc vinh quang. Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, sự thiện hảo, hạnh phúc. Được hiệp thông với Thiên Chúa, con người đạt đến sự viên mãn. Viên mãn trong sự sống. Viên mãn trong hạnh phúc.
Thật đáng tiếc và đáng buồn khi con người chỉ khư khư bám víu lấy những chân trời nhỏ hẹp, những giá trị bọt bèo, những mảnh vụn hạnh phúc chóng qua, những riêng tư nhỏ nhoi cá nhân ích kỷ. Những mảnh ruộng, những cặp bò…Để từ chối bữa tiệc hiệp thông. Từ chối hạnh phúc đích thực, lớn lao, toàn vẹn của Nước Trời. Những người nghèo không có gì để bám víu lại dễ mở lòng hiệp thông. Nên dễ vào Nước Trời theo lời mời của Thiên Chúa.
Thực ra ở trong Thiên Chúa ta không mất gì hết. Chỉ nên phong phú hơn. Thư Rô-ma diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong một thân thể. Các chi thể tham dự vào sự sống toàn thân. Nhưng mỗi chi thể vẫn có đặc sắc và nhiệm vụ riêng. Rất cần thiết cho toàn thể. Cũng vậy trong Nước Chúa có nhiều chức năng. Ai ở đâu hãy làm việc của mình cho tốt là góp phần vào sức sống của toàn thể. Nhưng phải biết trân trọng và kết hợp với người khác. “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (năm lẻ).
Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em, ta phải mặc lấy tâm tình của Chúa Giê-su Ki-tô. Tự khiêm tự hạ. Hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Hoàn toàn hiến mình cho anh em. “Chúa Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người”(năm chẵn).
Từ bỏ bản thân để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ta chu toàn nhiệm vụ của mình. Thiên Chúa được tôn vinh. Và chính bản thân ta cũng được tôn vinh. Và vì sống mầu nhiệm hiệp thông trọn vẹn, ta được hưởng trọn vẹn sức sống của toàn nhiệm thể. Và góp phần vào sức sống của nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Một trong những hình ảnh Kinh Thánh dùng để nói về Nước Thiên Chúa, đó là bữa tiệc. Sách Cách Ngôn đã mô tả bữa tiệc của Ðấng Khôn Ngoan như một giá trị cứu rỗi. Ngôn sứ Isaia nói đến một bữa tiệc Thiên Chúa dọn ra cho dân khi thời Cứu thế đến, tất cả mọi người đều được mời đến dụ, không phân biệt ai. Ðó cũng là bữa tiệc mà Chúa Giêsu dùng để nói về Vương Quốc của Ngài.
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước Trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có các sách Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì kháck được mời lại từ chối.
Bàn tiệc Nước Trời vẫn được dọn ra và khách được mời hôm nay không ai khác hơn là mỗi người chúng ta. Bí tích Rửa tội là tấm thiệp cho phép chúng ta tham dự bàn tiệc này. Nhưng khi giờ đã đến, chúng ta lại để mình bị lôi cuốn bởi của cải vật chất, bởi thú vui trần thế, mà bỏ qua lời mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh.
Thiên Chúa vẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta. Ước gì chúng ta hiểu đúng giá trị của bữa tiệc Ngài dọn sẵn cho chúng ta mỗi ngày, để với tất cả lòng yêu mến biết ơn, chúng ta tham dự, ngõ hầu chúng ta được mạnh sức tiến tới bàn tiệc vĩnh cửu trên Thiên quốc. ----------------------------------
Đầy tớ nói: “Thưa ông lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. Ông chủ bảo người đầy tớ: Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.” (Lc. 14, 22-24)
Một người đồng bàn nghe Đức Giêsu nói về ngày sống lại của những người công chính liền bình luận: “Phúc thay cho ai được dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Kẻ ấy chắc chắn được cứu độ và được hưởng hạnh phúc. Để lay chuyển quan niệm sai lầm về định mệnh vững chắc của họ, như thường lệ, Đức Giêsu dùng một câu chuyện tiếp tục liên quan đến một bữa tiệc lớn để đem áp dụng vào tiệc nước trời.
Khách từ chối vinh dự.
Quý khách đã được giấy mời dự đại tiệc và chủ biết ai sẽ đến. Trước bữa tiệc, như thường lệ, chủ sai đầy tớ đi mời lần nữa: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Quý khách đã nhận lời trước, đến phút chót lại từ chối, làm chủ nhục nhã ế mặt quá. Những lời từ chối cho chủ thấy rõ: Họ quan tâm đến công việc của họ hơn đến dự tiệc với chủ mời. Xin kiếu vì mới mua thửa đất, mới tậu bò, mới cưới vợ.
Tất cả mọi người Ít-ra-en đều được Thiên Chúa mời dự tiệc nước trời. Bây giờ, Đức Giêsu đến mời lần chót. Cần phải ăn năn sám hối trở về vì đây là ngày cứu độ. Biệt phái từ chối lời mời của Người vì họ lo việc riêng của họ, quay mặt đi chỗ khác không lưu tâm đến Thiên Chúa. Họ phỉ báng và kiêu ngạo từ chối quà tặng vinh quang của Thiên Chúa.
Tặng ban cho những người bất hạnh.
Ông chủ lúc đó sai đi mời vào dự đại tiệc tất cả mọi người đã bị cộng đồng dân thánh Ít-ra-en loại bỏ. Vẫn còn nhiều chỗ trống trong đại tiệc, đầy tớ lại đi mời tất cả mọi dân tộc dân ngoại một cách tha thiết, khẩn khoản dù họ luôn luôn bị coi là thứ ô uế như cộng đồng Ít-ra-en khinh bỉ họ. Họ được thuyết phục để họ thấy mình thật sự được mời dự đại tiệc.
Trước sự chai đá của biệt phái đã từ chối tin vào Đức Giêsu, Người muốn nhấn mạnh để họ suy nghĩ rằng: Họ đã tự ý tách khỏi nước trời, trong khi Thiên Chúa vô cùng thương yêu đã kêu gọi những người nghèo khó và tội lỗi, dù họ cảm thấy họ là kẻ bất xứng nhất.
Xem thêm CN 28TN A (Mt 22,l-14) và thứ Năm tuần 20 TN
Nói theo ý hướng chủ quan: ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ấy là lúc chúng ta tạm cầm chiếc vé để vào Nước Trời, tuy nhiên, điều đó có thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào thái độ, cung cách sống kế tiếp của chúng ta.
Tại sao lại thế? Thưa là vì nhiều người lầm tưởng rằng: đã lãnh Bí tích Rửa Tội là chắc chắn được vào Nước Trời, nên không hề lo lắng gì đến chuyện sống ra sao và phải làm những gì? Những người như thế, họ chẳng khác gì những cô trinh nữ khờ dại có đèn mà không có dầu; hay như những người đầy tớ ngủ mê nên không biết ngày nào, giờ nào chủ họ sẽ về; hoặc như gia chủ không tỉnh thức nên đã để kẻ trộm đào ngạch khoét vách và lấy đi những thứ trong nhà...
Họ thật giống những người Dothái hôm nay khi được mời dự tiệc, họ đã không thèm đếm xỉa tới lời mời thịnh tình của Chủ, nên cuối cùng họ đã không đến, mà ngược lại, những người tội lỗi, nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, những người bên lề xã hội lại được vào chung vui tiệc cưới của ông Chủ.
Ngày nay, sự dửng dưng vô cảm với bàn tiệc Nước Trời vẫn còn đó nơi người Kitô hữu chúng ta. Vì thế, không lạ gì khi vẫn có những người thích ăn chơi, nhậu nhẹt, chè chén say xưa; hay vẫn tin vào những chuyện mê tín dị đoan; hoặc những chân lý nửa vời nên không màng chi đến chuyện đạo đức, lễ lạy..., nên người ta dễ bỏ qua những việc bác ái, đạo đức thường ngày... Chúng ta nhiều khi sẵn sàng đặt để vai trò của Chúa xuống hàng thứ yếu, nhưng khi được hỏi thì vẫn nói là mến Chúa trên hết mọi sự! Ôi thật là một sự giả hình!
Tin Mừng hôm nay cho thấy, chủ tiệc đã dọn sẵn cỗ bàn để đãi khách. Thiệp mời cũng đã được gửi đi, nhưng niềm vui chỉ có được khi khách đến hiện diện nơi bàn tiệc mà thôi.
Thật thế, những người được mời đâu đoái hoài gì đến thiện ý của Chủ tiệc, nên đã đặt những chuyện cá nhân lên trên và viện cớ: nào là đi tậu đất, thăm trại, mua bò và mới cưới...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết thảy mọi người, không phân biệt họ là ai... đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về sự mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa và thi hành những điều Chúa dạy để được sống đời đời. Niềm vui sẽ nên trọn khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa phủ lấp trên mình và chi phối nơi cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ vì những lần chúng con khước từ tình yêu của Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết mau mắn đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa để được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Sứ điệp: Nước Thiên Chúa không dành riêng cho một loại người nào, trái lại, tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi vào dự tiệc Nước Chúa. Ai đáp lại lời mời gọi ấy thì thật là hạnh phúc.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã thương mời gọi con vào dự Bàn Tiệc Nước Cha. Con cảm tạ Cha đã thương yêu con và ban cho con được tham dự vào sự sống hạnh phúc của Cha. Thật ra con chỉ là kẻ nghèo hèn bất xứng, là kẻ chỉ biết ngửa tay ăn xin lòng thương xót của Cha. Xét cho cùng, con chỉ là kẻ ở bờ rào bờ giậu, lang thang vất vưởng trên khắp các nẻo đường cuộc đời.
Nhưng Cha đã đoái nhìn đến thân phận khốn cùng của con và đón nhận con vào Nhà Cha. Được biết Cha, được sống với Cha, được theo Chúa Giêsu Con Cha, quả thực là một ân huệ, một hạnh phúc. Nước Trời chẳng phải là do công lao cố gắng của con, chẳng phải là một nỗ lực hy sinh tu luyện, nhưng trước hết đó là ân huệ của Cha, là niềm vui, là hạnh phúc, là sự sống sung mãn mà Cha muốn chia sẻ cho con.
Lạy Cha, xin Cha giúp con nhận ra niềm hạnh phúc của đời Kitô hữu. Con đã vì những mối lo trần thế mà từ chối lời mời của Cha. Công ăn việc làm, của cải vật chất, bổn phận gia đình, tất cả những điều ấy tự nó không xấu, nhưng rất nhiều lúc đã lấn át lời mời của Cha, đã cản trở con đến với Cha. Được dự tiệc Nước Cha là một hồng ân, nhưng nhiều lúc con lại coi đó như là một gánh nặng, một vật cản, coi đó như một sự mất mát thua lỗ cuộc đời. Con coi thường lời Cha mời gọi cũng chính là con chưa coi trọng Cha. Xin Cha tha thứ và xin giúp con từ nay biết đến với Cha trong niềm hân hoan và tạ ơn. Amen.
Ghi nhớ: “Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi”.
Sáng ngày 29/4/2011, mọi con mắt từ khắp nơi trên thế giới đều hướng về thủ đô Luân Đôn, nơi diễn ra đám cưới của Hoàng tử William, người thứ hai sẽ kế vị ngai vàng nước Anh, sau người cha là Thái tử Charles. Hoàng tử kế vị ngai vàng, không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm nhiều quốc gia lớn nhỏ như Canada, Úc, Tân Tây Lan... Hoàng tử William kết hôn với Kate Middleton, một cô gái xuất thân từ tầng lớp thường dân… Cô dâu và chú rể thề ước trước Đức Tổng Giám mục Canterbury tại Tu viện Westminster cổ kính nơi chôn cất các bậc quân vương và những nhân vật lớn nước Anh. Đến tham dự lễ cưới, ngoài nhân vật quan trọng là bà nội của Hoàng tử William, Nữ hoàng Êlisabéth II, có đầy đủ các chính khách nước Anh và thế giới, các nhà ngoại giao và rất nhiều người nổi tiếng như các minh tinh màn bạc, các vận động viên nổi danh thế giới... Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt. Họ lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó…
Vào thời điểm đám cưới, hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đến dựng lều trước Tu viện Westminster từ đêm hôm trước để có được chỗ tốt nhất dự xem tân nương và tân lang, và hơn 2 tỷ người xem trực tiếp và qua truyền hình. Người ta không những theo dõi nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới.
Suy niệm
Trong Tin Mừng Luca, tiệc nước Trời được Chúa Giêsu trình bày qua dụ ngôn tôn chủ mở tiệc mời thượng khách, còn Tin Mừng Matthêu nói rõ tiệc cưới hoàng gia: Vua mở tiệc cưới cho con mình (Mt 22,1). Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu ước (x. Is 25,6; 55,1-3). Cụ thể là ngôn sứ Isaia 25,6-9: Hạnh phúc viên mãn trong thời sau hết là tiệc cưới mà Thiên Chúa dọn cho mọi người trên núi thánh. Người tham dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế. Hạnh phúc nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai. Tiệc cưới diễn tả tính nhưng không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho dân Người. Sách Khải Huyền sau này cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (x. Kh 19).
Những “người đã được mời” (keklêmenous) là các bạn hữu, những người đang sống trong tương quan thân tình với tôn chủ, nên ông sai đầy tớ đến và mời thúc bách, xác định rõ ràng ngày giờ của tiệc. Điều này cho thấy cử chỉ tối hậu, lòng tốt của tôn chủ, nhưng đã không được đáp lại; khách được mời lại không chịu đến. Họ không đến vì có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất...
Những khách được mời, chúng ta nghĩ đến các thượng tế, kinh sư, người biệt phái và những người Do Thái, họ là những người không tin vào giáo huấn nước Trời của Chúa Kitô. Vì thế ân lộc bị cất đi khỏi họ.
Khách được mời lại không đến, tôn chủ liền sai các đầy tớ: “Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố...”. Lời truyền làm cho chúng ta nhớ lệnh truyền mà Chúa Giêsu sai các môn đồ đến với dân ngoại: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16). Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người Do Thái khinh chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của các kẻ phục vụ Tin Mừng trong khắp nẻo đường thế giới như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,29). Sự cứng lòng và từ chối của Israel khai mào thời gian của Giáo hội, thời gian mà Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (x. Mt 24,14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ hạng người.
Nước Trời giống như một tiệc cưới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới để nói lên niềm vui của nước Trời, Chúa dùng hình ảnh này nhiều nhất để diễn tả nước Thiên Chúa. Xin cho chúng ta nhận ra những ân huệ mà Cha ban tặng: Ân huệ diễm phúc làm con cái Chúa, được mời vào dự tiệc với Cha. Nếu không biết quý trọng ân huệ cao cả này, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài bàn tiệc nước Trời.
Ý lực sống
“Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa”. (Lc 14,15)
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài mở rộng cửa để đón tiếp mọi người vào dự bàn tiệc Nước trời. Lời mời gọi có tính cách rộng rãi, Ngài mời gọi mọi người không trừ ai, dù tốt dù xấu, miễn là phòng tiệc phải đầy người. Tuy thế, lời mời gọi đó còn chờ sự đáp ứng của từng người, mỗi người có quyền tự do, họ có thể chấp nhận hay từ chối. Trong thực tế nhiều người đã từ chối lời mời gọi thật tình đó với đủ mọi lý do. Hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến lòng thương xót của Chúa Cha đối với mọi người, đặc biệt những người Do thái. Nhưng họ đã không đón nhận và đánh mất tình thương ấy, vì thế, ân lộc bị cất đi khỏi họ.
Hình ảnh đặc biệt của đoạn Tin mừng hôm nay là một “bữa tiệc”. Trong Thánh kinh, bữa tiệc thường qui hướng về hạnh phúc do Thiên Chúa ban cho (Is 25,6).
Tin mừng hôm nay thuật lại: Hôm ấy, Đức Giêsu đang ngồi ăn chung với nhiều người khác trong một bữa tiệc do một thủ lãnh biệt phái khoản đãi. Bữa tiệc này làm cho một trong những thực khách được mời liên tưởng đến bữa tiệc thiên quốc, nên đã buột miệng nói ra: “Phúc cho ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 14,15).
Nghe thấy vậy, Đức Giêsu dùng ngay một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó cho rằng: được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc thật lớn. Nhưng rồi Ngài đặt vấn đề là người ta có sẵn sàng nhận lời mời vào Nước ấy hay không?
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có sách các Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì khách được mời lại từ chối.
“Omnia parata sunt”: mọi sự đã sẵn sàng. Hạnh phúc Nước trời luôn được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin mừng, Giáo hội, bí tích, ơn Chúa...). Thế nhưng, tại sao lại có nhiều người không đến dự tiệc? Thưa, vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới, năm cặp bò mới tậu, một người vợ mới cưới. Những người đó đã không sai khi coi trọng những thứ vừa kể, nhưng họ sai vì coi chúng trọng hơn Nước trời. Đức Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33) (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta tự hỏi tại sao trước lời mời gọi đầy vinh dự của ông chủ giàu có mà khách mời lại có quá nhiều lý do để từ chối! Mà lại là từ chối vụng về bằng những lý do nhỏ nhặt không xứng tầm với “bữa tiệc lớn”. Ấy là chưa nói địa vị, vai vế của người chủ tiệc hẳn cũng đáng cho họ nể trọng. Chẳng lẽ họ ghen với ông vì ông giàu có; hay tại họ mặc cảm vì mình nghèo. Kể dụ ngôn này, hiển nhiên Đức Giêsu muốn nói tới “bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa” mà Cha Ngài chính là chủ tiệc. Quả thật đây là một nan đề cho thái độ lựa chọn của con người: mọi lý do để từ chối đều trở nên bất xứng trước lời mời như thế của Thiên Chúa. Từ chối là dấu chẳng còn tình nghĩa gì với Ngài. Bởi vì nếu yêu thì đã chấp nhận lời mời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Hai bữa tiệc
Có người đã tưởng tượng ra thiên đàng và hỏa ngục như hai bàn tiệc thịnh soạn được bày ra.
Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người cầm một đôi đũa dài đến độ gắp được thức ăn, nhưng không thể đưa thức ăn ấy vào miệng của mình được.
Bàn tiệc trên thiên đàng thì cũng y hệt như vậy, nhưng khác một điều thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, thì người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng cho người đối diện. Thế là vui vẻ cả nhà vì ai cũng được ăn no nê.
Hình ảnh đặc biệt của đoạn Tin Mừng này là bữa tiệc. Trong Thánh Kinh, bữa tiệc là hình ảnh về hạnh phúc Thiên Chúa ban (x. Is 25,6 55,1-3 Xh 24,11 Kh 19).
Khi ấy Chúa Giêsu đang ngồi ăn chung với nhiều người khác trong một bữa tiệc do một thủ lãnh biệt phái đãi (x. Lc 14,1-14). Bữa tiệc ấy khiến một trong những thực khách liên tưởng tới bữa tiệc thiên quốc nên nói “Phúc cho ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó rằng được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc lớn. Nhưng Ngài đặt vấn đề: thực ra anh có sẵn lòng nhận lời mời vào Nước ấy không?
Trong dụ ngôn, ông chủ đã mời rất nhiều người đến dự tiệc, nhưng tất cả đều nhất loạt xin kiếu. Hai người đầu còn nói lời cáo lỗi (“cho tôi xin kiếu”), người thứ ba chẳng buồn nói một lời lịch sự. Nghĩa là tất cả mọi người đều không tha thiết với hạnh phúc Nước Thiên Chúa. Hai người đầu coi hạnh phúc ấy nhẹ hơn tiền của (đất, bò). Người thứ ba coi trọng hạnh phúc hôn nhân hơn.
Vì loạt người được mời lần đầu (chỉ dân do thái) đã từ chối dự tiệc, ông chủ mời loạt người khác. Đó là những người “nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt”. Họ tượng trưng cho lương dân. Như thế, dân do thái dù được Thiên Chúa ưu tiên mời vào Nước Trời nhưng đã từ chối. Thế nhưng sự từ chối của họ chẳng những không làm hỏng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trái lại còn thúc đẩy nhanh việc Thiên Chúa thành lập Nước Thiên Chúa, một dân mới đã được mời vào thế chỗ cho dân do thái.
B.... nẩy mầm.
1. “Mọi sự đã sẵn sàng” (Omnia parata sunt): Hạnh phúc Nước Trời đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn này chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin Mừng, Giáo Hội, bí tích, ơn Chúa v.v.). Nhưng tại sao nhiều người không đến dự tiệc? Vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới mua (tài sản), năm cặp bò mới tậu (việc làm ăn), một người vợ mới cưới (hạnh phúc nhân loại). Những người đó không sai vì coi trọng những thứ vừa kể, nhưng sai vì coi chúng trọng hơn Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33)
2. Lý do khiến loạt khách mời thứ nhất từ chối đến dự tiệc là vì họ đang có những thứ họ ham thích. Còn lý do khiến loạt khách thứ hai đáp lời mau mắn (x. dụ ngôn song song được ghi trong Mt 22,1-10: “phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”) là vì họ đang không có gì cả, nói cho rõ hơn, họ nghèo. Nghèo là tâm thế rất thích hợp để đón nhận Nước Trời.
3. Triết gia Socrates sống rất giản dị. Một ngày kia ông ngắm nghía rất kỹ những món hàng đắt tiền được bày bán ngoài chợ. Thấy thế một người lấy làm lạ nên hỏi. Ông giải thích: “Tôi ngạc nhiên vì không hiểu tại sao người ta lại bán quá nhiều thứ mà tôi không cần đến như thế” (Clifton Fadiman).
4. “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người thứ hai nói: tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây...; người khác nói: tôi mới cưới vợ nên không thể đến được” (Lc 14,16-20)
Có câu chuyện về những người nằm chết khát trên một chiếc bè lênh đênh ngoài khơi bờ biển Brazil. Họ không hề hay biết nước biển ngay chỗ bè họ trôi là nước ngọt. Thật vậy, dòng chảy của con sông mạnh đến nỗi tống ra biển xa đến hai dậm và nước ngay chỗ họ vẫn là nước sông. Nhưng họ không hề hay biết...
Đời là một bữa tiệc lớn. Tất cả những niềm vui – nỗi buồn, cái thật - cái giả, ánh sáng - bóng tối... đều cống hiến cho bữa tiệc ấy. Nhưng con người như bị thôi miên, cứ chọn cái buồn, cái giả, cứ chạy theo bóng tối... nên rất nhiều người đang chết đói trên bàn tiệc, trong đó có bạn và tôi...
Lạy Chúa, con đã phải nếm sự đau khổ vì cứ mê muội bám víu vào các tạo vật. Xin cho con được ơn thức tỉnh thật sự. (Hosanna).
1. Hình ảnh đặc biệt của đoạn Tin Mừng hôm nay là một bữa tiệc. Trong Thánh Kinh, bữa tiệc thường được qui hướng về hạnh phúc do Thiên Chúa ban cho. (Is 25,6)
Tin Mừng hôm nay thuật lại: Hôm ấy, Chúa Giêsu đang ngồi ăn chung với nhiều người khác trong một bữa tiệc do một thủ lãnh Pharisêu khoản đãi (Lc 14,1-14). Bữa tiệc này làm cho một trong những thực khách được mời liên tưởng đến bữa tiệc thiên quốc, nên đã buột miệng nói ra “Phúc cho ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 14,15).
Nghe thấy vậy, Chúa Giêsu dùng ngay một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó cho rằng, được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc thật lớn. Nhưng rồi Ngài đặt vấn đề. Vấn đề là người ta có sẵn lòng nhận lời mời vào Nước ấy hay không?
Trong dụ ngôn, ông chủ đã mời rất nhiều người đến dự tiệc, nhưng tất cả đều nhất loạt xin kiếu. Hai người đầu còn nói lời cáo lỗi (“cho tôi xin kiếu”), người thứ ba chẳng buồn nói một lời nào. Thật rất là bất lịch sự. Tóm lại là tất cả những người được mời đều không tha thiết gì với hạnh phúc Nước Thiên Chúa.
Vì loạt người được mời đã từ chối dự tiệc, ông chủ cho mời một loạt người khác. Đó là những người “nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt”. Họ tượng trưng cho lương dân. Như thế, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không những không bị cản trở mà trái lại, nó còn được thúc đẩy để Thiên Chúa thành lập Nước Thiên Chúa nhanh hơn.
2. “Mọi sự đã sẵn sàng” (Omnia parata sunt): Hạnh phúc Nước Trời luôn được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn này chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin Mừng, Giáo Hội, bí tích, ơn Chúa v.v.). Thế nhưng, tại sao lại có nhiều người không đến dự tiệc? Thưa vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới mua (tài sản), năm cặp bò mới tậu (việc làm ăn), một người vợ mới cưới (hạnh phúc nhân loại). Những người đó đã không sai khi coi trọng những thứ vừa kể, nhưng họ sai vì coi chúng trọng hơn Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Còn lý do khiến loạt khách thứ hai đáp lời một cách mau mắn (“phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”) là vì họ đang là những người không có gì cả, nói một cách cụ thể hơn là họ nghèo. Cái nghèo đã là điều kiện rất thích hợp để họ đón nhận Nước Trời.
Đời là một bữa tiệc lớn. Tất cả những niềm vui - nỗi buồn, cái thật - cái giả, ánh sáng - bóng tối... đều cống hiến cho bữa tiệc ấy. Nhưng con người như bị thôi miên, cứ chọn cái buồn, cái giả, cứ chạy theo bóng tối... nên rất nhiều người đang chết đói trên bàn tiệc, trong đó có thể có cả chúng ta.
10 giờ đêm ngày 14-04-1912, chiếc tàu du lịch vĩ đại nhất của Anh Quốc đã đâm phải tảng băng giữa Tây Đại Dương. 4 giờ sau đó, cả chiếc tàu, thủy thủ đoàn và nhiều hành khách đã bị chôn vùi trong lòng Đại Dương. Cuộc đắm tàu đầy bi thảm này đã là nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu áng văn chương. Những người có may mắn sống sót đã thuật lại lòng can đảm phi thường của viên thuyền trưởng, các sỹ quan và thủy thủ đoàn. Họ kể rằng, nhiều người đã khước từ sự cứu vớt để ở lại cùng chết với chồng.
Giữa biết bao nhiêu gương hy sinh ấy, những người sống sót còn kể lại câu chuyện, xem ra người ta chỉ muốn biết vì tò mò hơn thán phục.
Đó là câu chuyện của một người đàn bà. Sau khi đã được đưa lên boong tàu để chuẩn bị cho việc cứu vớt, thì bà ta xin phép được trở lại phòng ngủ lần cuối cùng, để có thể thu nhặt một ít đồ quý giá. Người ta cho bà ba phút để làm công việc này. Người đàn bà liền vội vàng chạy đi. Dọc theo hành lang, bà ta thấy ngổn ngang không biết bao nhiêu là nữ trang vàng bạc quý giá. Vào đến phòng ngủ bà ta đưa mắt nhìn hết các đồ nữ trang và báu vật, nhưng cuối cùng, bà ta chỉ đưa tay nhặt lấy 03 quả cam và chạy lên boong tàu.
Vài tiếng đồng hồ trước đó, giữa các đồ vật trong phòng, có lẽ người đàn bà kia đã chẳng lúc nào nghĩ đến 03 quả cam. Nhưng trong giây phút nguy ngập nhất của cuộc sống thì giá trị của sự sống bỗng bị đảo lộn. Ba quả cam bỗng trở nên quý giá hơn vàng, kim cương và hột xoàn bởi vì nước của chúng có thể cứu sống được bà giữa biển khơi.
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. ---------------------------------
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi". "Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Sống là chấp nhận từ bỏ. Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc... Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống... Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội. Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả. Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát. Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa. Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn. Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu. Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp. Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai. Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu. Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại. Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu. Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô. Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt. Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn. Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa. Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ. Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn. Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ. Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp. Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào. Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa. Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân. Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín. Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ. Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con. Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa. Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen. ----------------------------------
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết có rất nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu. Tuy cùng hướng đi trên con đường dẫn đến Giêrusalem, nhưng đám đông không mang cùng một mục đích với Ngài. Trong khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết khổ nhục trên Thập giá, thì đám đông lại tưởng rằng Ngài lên Giêrusalem lần này để đánh đuổi ngoại xâm và tái lập vương quốc Israel.
Ðể đánh tan sự chờ đợi sai lầm này, Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi những kẻ theo Ngài hãy suy nghĩ đắn đo, tính toán kỹ lưỡng để xem có đủ nghị lực theo Ngài hay không: Ngài đòi buộc những kẻ muốn theo Ngài, hãy để cho Ngài chiếm chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc sống của mình: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được".
Việc theo Chúa là một việc khó nhọc, tiêu tốn nhiều sức lực như khi xây cất hay đánh giặc, do đó người môn đệ phải sẵn sàng dấn thân. Việc theo Chúa không thể tính toán bao nhiêu, bao lâu, hay bằng những việc gì, nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, nghĩa là đi xây dựng Nước Trời, đi giao chiến với sự dữ và và cái chết để được chiến thắng hiển vinh. Người đi theo Chúa phải từ bỏ mọi của cải mình có. Từ bỏ ở đây không có nghĩa là chôn dấu đi hay sử dụng nó theo sở thích của mình, nhưng là làm ích cho người khác, nhất là cho những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được lòng can đảm, dứt khoát với tất cả những gì cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa. Xin cho chúng ta được thực tâm đi xây dựng Nước Trời và làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và Suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi được.
“Quả thế ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua ấy đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc. 14, 27-33)
Một đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, Người muốn họ biết phải làm gì để đi theo Người. Nên Người quay lại giải thích cho họ về nước trời. Không phải là tòa nhà xổ số, nhưng là sân vận động Ô-lim-pic trao huy chương vàng cho vận động viên vô địch.
Phải hoàn toàn cố gắng hy sinh
Ai không sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thì không thể làm môn đệ Người. Đức Giêsu vượt trên mọi sự, trên cả mối giây gia đình. Gia đình là chỗ an toàn, ở đó người ta yêu và được yêu. Đức Giêsu không bảo họ quay về chống đối gia đình, nhưng phải sẵn sàng phục vụ người không bị vướng mắc trở ngại gì, dù là người thân nhất. Lòng trung thành với Đức Giêsu phải đặt lên hàng đầu, trên cả mạng sống mình, Người đòi phải từ bỏ hoàn toàn. Do thái coi kẻ bị treo trên thập giá là kẻ bị chúc dữ. Để nên môn đệ Đức Giêsu, phải chấp nhận bị chúc dữ đó, từ bỏ tất cả, dù là gia đình mình, phải theo Người tới cùng; không thể hòa hoãn; đó là giá của vinh quang.
Phải nhận biết khả năng mình
Cần xem xét sáng suốt những khả năng của mình để biết có thể đi tới đích không. Trước cuộc mạo hiểm như xây tháp hay trận chiến, Đức Giêsu gợi ý cần ngồi lại suy nghĩ tính toán, phải trả giá bao nhiêu. Điều đó muốn nói rằng người ta phải xem xét chắc chắn và cần quyết tâm với hết sức mình để tới đích. Phải có thiện chí và đức tin giúp cho các phương tiện đạt tới đích.
Cũng cần xem xét đánh giá những khuynh hướng và tính tình của mình. Ta có phải chiến đấu sát cánh với Đức Giêsu không? Và đòi phải có quyết định sáng suốt sau khi đã xem xét cân nhắc tương quan về phương tiện, hoàn cảnh và thiện chí của mình.
Nhiều người không thể làm môn đệ của Người vì không sẵn sàng từ bỏ những mối giây ràng buộc và của cải để theo Người. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở về với Người, người ta có thể theo Người bằng nhiều cách khác nhau. Cách làm môn đệ đòi hỏi rất gắt gao và muốn được chọn, cần chính mình phải thực hiện lời khuyên trước và phải cân nhắc cẩn thận những điều thuận nghịch. Tốt hơn đừng thử đi theo rồi lại từ chối giữa đường.
“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”; hay: “Bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta được”; và: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được".
Thoạt nghe, không ai trong chúng ta lại không cảm thấy “sốc” vì lời mời gọi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ngược đời và không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của mặc khải, chúng ta mới hiểu được thật chí lý khi Đức Giêsu đưa ra lời đề nghị này:
Trước tiên, Ngài muốn nói đến sự dứt khoát để đặt ý Thiên Chúa lên trên hết. Nếu vì lý do tình cảm mà mất ơn nghĩa hay hạnh phúc Nước Trời thì phải lựa chọn Chúa trước, còn mọi sự khác tính sau. Khi đã có tình yêu và được tình yêu của Chúa chi phối, hẳn sẽ bao trùm và định hướng tình cảm gia đình cũng như người thân...
Thứ hai, là sự thanh thoát. Đức Giêsu mời gọi những người muốn đi theo và làm môn đệ của Ngài, khi cần thiết phải từ bỏ ngay cả những gì là của mình, do mình làm ra và có khi phải từ bỏ ngay chính bản thân mình nữa... Bởi nếu không từ bỏ chính mình thì kể như những thứ ta bỏ trước trở thành vô ích, đây là điều khó khăn nhất đối với chúng ta!
Thứ ba, là phải vác thập giá mình mà theo. Đức Giêsu không bảo chúng ta vác thánh giá của Ngài, nhưng là thập giá của chính mình. Thập giá của chính mình là gì? Thưa có thể là người vợ lắm lời, ông chồng xay xỉn, bổn phận phải chu toàn... vác thập giá còn là từ bỏ ý riêng, là sống theo ý Chúa, tuân giữ luật Ngài trong lòng mến... Những thứ đó làm nên chất liệu quý và giá trị của người Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa trong vai trò là người môn đệ. Tức là từ bỏ mọi sự, kể cả thứ tình cảm riêng tư, và ngay cả bản thân của mình để theo Chúa cho trọn vẹn...
Sống siêu thoát là giúp mình khỏi vướng bận vào của cải trần gian để tâm hồn được thanh thản hầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng được tốt hơn.
Sẵn sàng vác thập giá của mình cách yêu mến, chứ không chỉ tôn thờ thánh giá của Chúa mà thôi. Luôn chu toàn bổn phận hằng ngày cách trung thành. Tránh tình trạng vác thập giá cả làng nhưng thập giá của mình thì lại đè đầu cưỡi cổ người khác và bắt họ vác thay. Bởi vì chính Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, vì thế, đời môn đệ mà thiếu vắng thập giá, thì hẳn sẽ mất hương vị và không phải cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát, biết đặt ý Chúa và sứ vụ của Ngài lên trên ý riêng cũng như tình cảm tự nhiên, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Sứ điệp: Phải từ bỏ tất cả để theo Chúa. Người tín hữu phải ý thức điều ấy cho thật rõ và chọn lựa dứt khoát, bởi vì đây là việc dấn thân suốt cuộc đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con theo Chúa và chọn Chúa. Đó phải là ưu tiên hàng đầu, không có điều gì trên đời này có thể hơn được, dù đó là tình máu mủ ruột thịt, dù đó là chính bản thân con.
Lạy Chúa, thực sự con vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của Lời Chúa, con chưa hiểu tại sao con phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, để làm môn đệ Chúa. Thế nhưng chân lý quan trọng này Chúa luôn nhắc đi nhắc lại cho con. Chúa dạy con tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người. Chúa dạy con: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì không được ích gì”. Chúa dạy người thanh niên giàu có rằng: để được sự sống đời đời thì về bán hết của cải rồi theo Chúa.
Lạy Chúa, dù con không hiểu, nhưng con tin Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Xin cho con tin vào Lời Chúa dạy để con vững bước theo Chúa, để con xác tín mãi mãi rằng chính Chúa là con đường đưa đến sự sống. Bước đi theo Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con. Vì thế xin giúp con sẵn sàng từ bỏ những lợi ích khác. Xin cho con nhận ra rằng từ bỏ mọi sự vì Chúa không phải là dại khờ, thua lỗ, nhưng là một mối lợi và khôn ngoan. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Một đoàn người hành hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn ngoan.
Cuộc hành trình gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…
Suy niệm
Trên đường lên Giêrusalem, bằng một động tác mang tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường”, Ngài dạy cho tất cả những ai muốn theo Ngài bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Vác thập giá theo chân Chúa như R. Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trở bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Ngài” (Theo L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique, tập 2, Cerf, trg 157).
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi môn đệ vác thập giá, nhưng chính Ngài đã vác thập giá trước, Ngài vác thập giá, thập giá gánh nặng tội của cả nhân loại. Thập giá mà Ngài vác là từ bỏ chính mình và chấp nhận Thiên ý của Chúa Cha (x. Mt 26,39.42.44; Mc 14,36; Lc 22,42). Người môn đệ của Chúa mang thập giá là chấp nhận con người mình, là mang thập giá niềm tin vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày bằng sự cố gắng không rên rỉ. Như tông đồ Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (x. 2Cr 12,7-9). Và Phaolô vẫn tiếp bước hành trình thập giá của người môn đệ rao giảng tình yêu: “Chúng tôi luôn mang trên mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu” (2Cr 4,10).
Thập giá được vác trên vai của mỗi người cũng là ánh sáng cứu độ soi đường như thánh Gioan Kim khẩu Suy niệm và xác tín: “Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kìm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành luỹ cho những kẻ bị vây hãm”.
Ước chi tôi và bạn mang tâm tình của thánh Phaolô mỗi ngày khi vác thập giá: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống
“Thập giá trở nên tiếng kêu tình yêu vô bến bờ của Thiên Chúa” (Maurice Zuldel).
Lúc này Đức Giêsu không còn ở nhà ông biệt phái nữa, nhưng trên đường đi Giêrusalem, có dân chúng theo Người rất đông. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Đức Giêsu nói với họ: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải yêu mến Ngài hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Như vậy, để trở nên môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta cũng phải cùng đi con đường của Ngài và đường của Ngài là từ bỏ, là đón nhận Thập giá.
Trên đường đi Giêrusalem, có rất đông người cùng đi, có người đi cho vui, có người có thiện cảm với Chúa muốn là môn đệ của Ngài, nên Đức Giêsu đã quay lại cho họ biết những điều kiện để làm môn đệ của Ngài: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định: nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Thực ra, việc từ bỏ, vác thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt tới mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Đức Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài với hết mọi sự và với sức lực của mình trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài đến hết mọi sự để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa (R.Veritas).
Theo những điều kiện Đức Giêsu nói, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa đen hoặc theo nghĩa bóng. Có nhiều người đã hiểu theo nghĩa đen, nên đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo, có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền để theo Chúa. Có những vị khác đã bước qua con cái hay sẵn sàng chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình, để ra đi dâng mình cho Chúa; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt, để khỏi trở thành dịp tội cho kẻ khác. Đó là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Nhưng những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa trên đây: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận cộng đoàn mình sống làm gia đình, và nhận những người cùng chí hướng làm anh chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn: vâng lời, khó nghèo và trong sạch (Theo Lm. Phạm Văn Phượng).
Trong xu thế của thời đại hưởng thụ và tích luỹ này, nói đến “từ bỏ hết những gì mình có” xem ra là một thứ “cung đàn lạc điệu”. Tuy nhiên, đối với những người con cái Chúa”, đó là hai điều kiện tất yếu và tiên quyết, vì không từ bỏ cũng đồng nghĩa là không thể trở nên môn đệ của Chúa Kitô được. Ơn gọi làm “con cái Chúa” là chấp nhận sự điên rồ của Thập giá, cớ vấp phạm cho người đời. Có “từ bỏ hết những gì mình có”, là biết “nói không” với thế gian, ma quỷ và xác thịt mới có thể là “sen” mọc “giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là đèn để “gần mực” mà chẳng “đen”, nhưng chiếu sáng cho cả nhà. Vì thế, đòi hỏi trước tiên đối với người môn đệ của thời đại hôm nay là từ bỏ lối sống hưởng thụ tích lũy, điều mà người thời đại hôm nay đang theo đuổi (5 phút Lời Chúa).
Sống trọn những cam kết của bí tích Thánh tẩy, sống trọn danh Kitô hữu, điều đó đôi khi đòi hỏi nhiều hy sinh. Thế nhưng chỉ thái độ dứt khoát chọn lựa và quyết tâm theo đuổi đến cùng mới thực sự làm chúng ta xứng danh Kitô. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại lối sống đạo xem chúng ta có đặt Chúa và giá trị Tin mừng vào địa vị ưu tiên trong cuộc sống hay chưa.
Truyện: Giới Tử Thôi và công tử Trùng Nhĩ
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đời Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chặn lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại, nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn, thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
1. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
2. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
3. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
B.... nẩy mầm.
1. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành Chúa Giêsu nói rõ với “rất đông người” đang đi theo Ngài. Người ta theo đạo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với mọi người rằng theo Ngài thì phải từ bỏ (bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống), và lại còn phải vác thập giá. Dĩ nhiên, sự từ bỏ và vác thập giá không phải luôn là hiện thực, nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy khi hoàn cảnh xảy đến thì mới xứng đáng làm môn đệ Ngài. Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác thập giá.
2. Có người thờ thập giá nhưng không vác thập giá. Có người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu nhưng không quý chuộng thập giá mình. Những người đó không xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
3. “Hãy vác thập giá hằng ngày”: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !” (John Newton).
4. “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Có người đàn ông kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy ?
- Bác nhìn lên đỉnh Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt nó vào đó.
Ông gật gù ngẫm nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước mắt hạnh phúc.
Lạy Chúa, mấy hôm nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa. (Hosanna).
----------------------------------
Suy niệm 11: Theo Chúa đòi hỏi những gì?
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu" (Lc 14,25). Họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Jêrusalem". Có lẽ họ nghĩ rằng, đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói rõ ra: "Những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo") thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa và phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì mới xứng đáng với Chúa.
Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành.
Thế nhưng, trong thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác Thập Giá.
Ngược lại nếu biết từ bỏ, phần thưởng sẽ thật lớn:
Bob Ernst kể lại cuộc đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người, năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để thực hiện.
Tôi mong muốn được trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ. Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi.
Đó là vào mùa hè giữa năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.
Song, tôi cũng nhận ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó".
Khi nghe tôi xin phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:
- Em còn cả cuộc đời phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi bóng. Đừng hoài phí nó.
Tôi cúi gằm mặt, cố tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.
- Em kiếm được bao nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.
- 5 đô la một giờ, thưa thầy. - Tôi đáp.
- Thế thì 5 đô la là cái giá cho ước mơ của em phải không?
Câu hỏi bất ngờ và thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó, tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.
Newton nói: "Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng, ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!" (Newton).
Người ta kể rằng, có một đoàn người kia vác Thập Giá của mình, bước đi cực nhọc dưới sức nặng của cây Thập Giá đè trên vai, trong đó có một người vác một cây Thập Giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc.
Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đi đến bên bờ một vực thẳm: Bên bờ bên kia Chúa đang đợi sẵn, nhưng ngặt một nỗi là không có một cây cầu nào bác qua để sang bên đó.
Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây Thập Giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây Thập Giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên này với sự tuyệt vọng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vác Thập giá mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ. 09/11 – CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính. "Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
* Thánh đường Latêranô là vương cung thánh đường của Đức Giáo Hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Contantinô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”. Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của Đức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi". Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô. Ðây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Ðức Thánh Cha, giám mục Rôma, là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới. Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà để dành riêng cho việc phụng tự. Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa, thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu. Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ. Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người. "Hãy phá hủy Ðền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Ðức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem. Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại, thân thể bị giết chết và được phục sinh. Ðức Giêsu phục sinh trở nên Ðền Thờ của Giao Ước mới. Ai ai cũng được mời gọi bước vào Ðền Thờ này. Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa. Hội Thánh cũng được ví như một Ðền Thờ thiêng liêng, mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8), và Ðức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11). Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định "Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh em" (1Cr 3,17). Hơn thế nữa, ngài còn nói: "Thân xác anh em là Ðền Thờ của Thánh Thần" (1Cr 6,19) Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Ðền Thờ. Ðền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy. Ðền thờ là những con người sống động. Ðền thờ quan trọng nhất là con người Ðức Giêsu phục sinh, một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần. Mọi Ðền thờ đều phải qui về Ðền thờ đó. Không gắn bó với Ðấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài, chẳng Ðền thờ nào là Ðền thờ thực sự. Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán, Ðức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha. Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy, vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều. Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa. Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ. Nhà thờ đầu tiên là con người tôi. Xin Ðức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần, cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế. Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa để Hội Thánh thật sự là Ðền thờ, nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Ðền thờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thân xác là Ðền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng hư bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?
Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen. ----------------------------------
Sứ điệp: Thân Thể Đức Kitô Phục Sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình cho mọi người. Mỗi người Kitô hữu cũng phải trở thành một đền thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa đã ban cho giáo xứ chúng con có được ngôi thánh đường, để hàng ngày chúng con đến hiệp thông với nhau trong lời kinh, trong tiếng nguyện cầu, nhất là cử hành thánh lễ.
Lời Chúa hôm nay còn mạc khải cho con biết chính Thân Thể Phục Sinh của Chúa là đền thờ mới. Đền thờ đích thực là nơi thờ phụng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật. Nhờ lòng tin vào Chúa, nhờ hiệp nhất với Chúa qua bí tích Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu cũng là một ngôi đền thờ của Chúa.
Lạy Chúa, có những lúc con xót xa vì những ngôi thánh đường bị đóng cửa. Con tiếc xót vì những ngôi thánh đường bị biến thành nhà kho, khách sạn… Còn đền thờ Chúa nơi chính bản thân mình, con lại bỏ hoang. Những nỗi lo toan cho cuộc sống hằng ngày, miếng cơm manh áo, tiền bạc…, cùng với những tội lỗi dần theo năm tháng chồng chất đầy lòng con, đã làm ngôi đền thờ nơi con nên hoen ố, xấu xa.
Lạy Chúa, xin Chúa thanh tẩy và giúp con vất bỏ những gì làm xấu xa đền thờ Chúa nơi tâm hồn con. Xin ơn thánh hoá tưới gội và trang điểm cho con nên xứng đáng đón Chúa trong bí tích Thánh Thể. Xin cho con biết ẩn mình nơi Chúa để tâm hồn được trong sạch, bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Người có ý nói đền thờ là thân thể Người”.
Đại thánh đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế và từ thế kỷ XII cũng được dâng kính thánh Gioan Tẩy Giả, là nhà thờ cổ nhất của Đức Giáo Hoàng, được mang danh là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”.
Sau khi chiến thắng các đối thủ tranh giành ngai hoàng đế, Constantin đã ký sắc lệnh Milanô vào năm 313 công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc La Mã. Thế là các tín hữu lục tục từ các hang toại đạo bước vào xã hội công khai, không còn sự bắt bớ nữa.
Hoàng đế Constantin làm một cử chỉ đẹp: nhường cung điện ở đồi Latran cho ccác Giáo Hoàng làm nơi trú ngụ. Năm 324 Đức Giáo Hoàng Sylvester I đã thánh hiến đại thánh đường và cự ngụ tại nơi đây cho đến thế kỷ thứ XIV, sau đó mới dời về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô. Đây cũng là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, lý do: ngai toà của vị Giám mục Rôma được đặt tại đây.
Đền thờ này được gọi là “mẹ các nhà thờ” vì là nhà thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc La Mã và vì cũng là nhà thờ chính tòa của địa phận Rôma, nơi đó có ngai toà của Đức Giáo Hoàng.
Qua các trận hoả hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức của Pháp... đại thánh đường Lateranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngáy 28.4.1726 sau một công trình tái thiết lớn, Đức Bênêđíctô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9.11 là ngày thánh hiến Đền Thờ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
1. Hành động của Chúa Giêsu hôm nay rất đặc biệt: bình thường Ngài rất hiền hòa, thế mà hôm nay Ngài la lối, lật nhào bàn ghế, lấy dây làm roi mà quất...
2. Tại sao? Chính Ngài nói rõ: “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán”. Câu này hàm chứa nhiều ý nghĩa:
- Đền thờ là nhà của Thiên Chúa, phải dùng để thờ phượng Thiên Chúa.
- Nhưng lắm khi người ta đã biến đền thờ thành nơi buôn bán (nghĩa đen: như trong chuyện này; nghĩa bóng: dùng tiền bạc lễ vật để mong mua lấy ơn Chúa).
3. Trong những câu đối đáp với người do thái, Chúa Giêsu còn cho biết thêm chính thân thể Ngài là Đền thờ.
B.... nẩy mầm.
1. Nhiều người đến nhà thờ như đi chợ để mua bán: họ đưa cho Chúa tiền bạc, hoa đèn, lễ vật và đòi Chúa đưa cho họ những ơn mà họ muốn. Những người ấy có khác gì những kẻ buôn bán trong Đền thờ Giêrusalem ngày xưa bị Chúa đánh đuổi đâu?
2. Hs 6,6: “Ta muốn tín nghĩa chứ không phải tế tự, và nhận biết Thiên Chúa hơn là lễ thượng hiến”.
3. Chính Chúa Giêsu mới là Đền thờ đích thực. Bởi vậy, đến nhà thờ mà không gặp Chúa Giêsu thì cũng như không đến nhà thờ. Trong mọi sinh hoạt cuộc sống ở mọi nơi mà gặp được Chúa thì cũng như đang ở trong nhà thờ.
4. 1 Pr 2,5 “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng”; 1 Cr 3,16 “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”
5. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã không ngại phá đổ những gì lệch lạc hầu sắp xếp lại sự thờ phượng Thiên Chúa cho đúng hướng. Tâm hồn mỗi người chúng ta cũng là một đền thờ. Nếu hôm nay Chúa Giêsu ra tay, Ngài sẽ nổi giận về điều gì? lật nhào những gì? lấy roi quất những gì?
6. Nhà thờ gỗ đá đã khiến Thánh Augustinô nghĩ đến nhà thờ tâm hồn. Việc xây dựng nhà thờ vật chất làm Ngài nghĩ đến việc xây dựng nhà thờ tâm hồn. Vì thế, trong lễ khánh thành một nhà thờ ở giáo phận mình, ngài đã giảng như sau: “Điều đã diễn ra lúc xây cất nhà thờ này cũng diễn ra khi các tín hữu tụ họp nơi đây: khi anh chị em nghe loan báo Lời Chúa, khi anh chị em lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi anh chị em nghe giảng huấn, đó là những lúc anh chị em được cưa, được bào, được ráp bởi tay các thợ mộc thợ nề. Nhưng ta chỉ xây dựng Nhà Chúa thực sự nếu mọi người đều hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ”. 1. Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
7. “Các môn đệ của Ngài nớ lại Lời đã chép trong Thánh Kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2,17)
Khi thấy những kẻ buôn bán xâm lấn Đền thờ, Đức Giêsu đã dám xông đến và xua đuổi họ mà không sợ phản kháng, chống đối. Ngài cũng đã hy sinh mạng sống để thiết lập một Đền thờ mới cho Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với loài người.
Phần tôi, tôi đã làm những gì để xây dựng và tô điểm cho ngôi Đền tờ tâm hồn? Nhiều lần tôi đã không dám chống lại, nhưng còn đồng lõa với những kẻ làm ô uế đền thờ tâm hồn tôi. Vâng, chính lúc tôi phạm tội là lúc tôi biến đền tờ tâm hồn thành nơi đổi chác, buôn bán: nào là tiền tài, ích kỷ; nào là danh vọng, địa vị…
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã dám làm tất cả vì Đền thờ. Hôm nay xin cho con dám chấp nhận mọi khổ đau, khó nhọc để xây dựng một đền tờ xứng đáng cho Chúa (Hosanna)
Mohandas Karamchand Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của người dân trong đấu tranh bất bạo động.
Du học ở Anh và sau đó về Ấn Độ, Gandhi làm luật sư, tiếp đó làm việc tại Nam Phi - thuộc địa của nước Anh. Nam Phi nổi tiếng về phân biệt chủng tộc. Ở Nam Phi, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo, lập tức giáo huấn của Đức Giêsu cuốn hút ông, nhất là tám mối phúc thật. Ông rất tâm đắc trước Lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, Do Thái hay lương dân...
Quyết định học đạo, Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Kitô giáo.
Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ, thật là bất ngờ khi người giữ cửa trả lời: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu anh muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin”. Gandhi rất sốc, tức giận, bỏ về nhà và không theo đạo Kitô.
Suy niệm
Lễ Vượt qua và các dịp lễ quan trọng của dân Do Thái. Người trưởng thành, sống trong vòng hai mươi lăm cây số chung quanh Giêrusalem phải đến đền thờ dự lễ. Không chỉ người lân cận trong vùng, mà mọi dân Do Thái khắp thế giới có điều kiện cùng trở về đền thánh.
Người hành hương đến đền thờ thường dâng lễ vật như bò, chiên, chim câu..., chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu cũng dâng lễ vật khi dâng Chúa vào đền thánh (x. Lc 2,24). Cho nên, ở đền thánh có người bán bò, chiên, bồ câu để phục vụ cho việc lễ tế của người Do Thái. Người ta phải đổi tiền Rôma sang tiền Do Thái để nộp thuế đền thờ mà mỗi người Do Thái từ 19 tuổi trở lên phải nộp nửa đồng bạc Do Thái (x. Mt 17,27). Một số người khác đổi tiền để tự nguyện dâng cúng cho đền thờ (x. Lc 21,1-2).
Với sự hiện diện của thú vật, đền thờ là nơi thánh bị ô uế và những người đổi tiền đã làm tục hóa sự thánh thiêng của đền thờ. Cho nên, Đức Giêsu đã lên tiếng: “Đừng biến nhà Cha ta thành một cái chợ” (Ga 2,16), và Ngài đã đánh đuổi phường buôn bán cùng với các loài thú vật ra khỏi đền thờ, để trả lại sự thánh thiêng của nơi thờ phượng Thiên Chúa.
Chính trong khi thanh tẩy đền thờ - một đền thờ được xây dựng bằng đá cho việc tôn thờ Thiên Chúa, Chúa Giêsu hé mở cho nhân loại biết một sự tôn thờ mới được hình thành nơi thân thể Ngài: “Cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu nói đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thân thể được phục sinh sẽ là đền thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực như văn sĩ Tertullianô khẳng định: “Đức Kitô là đền thờ thật của Thiên Chúa, đền thờ mở cho tất cả, nơi Thiên Chúa đón nhận sự thờ kính thật sự”. Cho nên, việc tôn thờ Thiên Chúa từ nay không chỉ trong đền thánh Giêrusalem lộng lẫy bằng đá với các trang trí vàng ròng, nhưng việc thờ phượng dựa trên căn bản trong chính Ngài: “Là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), với thân thể phục sinh của Ngài. Cách thờ phượng trong chính sự thật, được Ngài mạc khải cho nhân loại khi hé mở cho phụ nữ Samaria (x. Ga 4,21.23).
Tham dự vào mầu nhiệm sự chết, phục sinh của Đức Kitô, chúng ta tin và làm vào những gì Ngài dạy. Người Kitô hữu trở nên đền thờ của Thiên Chúa như thánh Phaolô viết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?.Vì đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16-17).
Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu truyền lệnh: “Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!”, lời đó trực tiếp nói với tôi với bạn, với tất cả mọi tín hữu tin vào Chúa Kitô - đền thờ mới của Thiên Chúa, vốn thường xuyên bị tục hóa, ô uế do chính tội lỗi, cần được thanh tẩy. Thật thế, cần cố gắng thanh tẩy không ngừng, bằng tâm tình sám hối và dấn thân bác ái, đặc biệt trong Mùa Chay, để đền thờ tâm hồn người tín hữu luôn là nơi Thiên Chúa ngự …
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái: “Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được, vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do Thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
Đền thờ vật chất
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, giáo họ nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng, nhưng luôn phải có vẻ trang nghiêm đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt, nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương!
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo, và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại,thông cảm và tha thứ.
Tôn trọng đền thờ chúng ta
Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68,10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giày ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giày thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
Bênh vực nhà Chúa
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta.
Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, màu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn Độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!”
Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: “Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!”
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Đây là vương cung thánh đường xưa nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất trong số rất nhiều thánh đường ở Roma.
1. Theo lịch sử thì đền thờ này được xây nên ngay sau khi Hội Thánh vừa thoát ra khỏi tình trạng hang toại đạo có nghĩa là vừa thoát ra khỏi tình trạng bị bắt bớ dưới các triều hoàng đế Rôma. Năm 313 lệnh bắt đạo được bãi bỏ. Năm 320 tự do tôn giáo được pháp luật công nhận và bảo hộ. Sự việc này đã làm nức lòng các tín hữu và ngay lập tức người ta nghĩ ngay đến việc phải xây dựng những đền thờ để làm công việc thờ phượng Chúa cho xứng đáng. Trong số những nhà thờ được xây vào lúc đó người ta đặc biệt chú ý đến ngôi đền thờ dành cho vị Giám Mục Roma đồng thời cũng là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội phụ trách. Chính Hoàng đế Constantinô đã xin biến nơi ông đã được rửa tội trong cung điện Latêranô để làm cơ sở cho việc xây dựng ngôi đền thờ này. Người ta cũng đã khiêng cái bàn thờ nơi các Giám mục Roma đã từng dâng lễ trong những năm bị bắt bớ về đặt ở trong ngôi thánh đường mới. Lúc đầu người ta dâng đền thờ này để kính Đấng Cứu Thế. Về sau người ta lại gọi đền thờ này là Vương cung Thánh đường dâng kính Thánh Gioan Tẩy giả. Rồi từ đời này qua thời đại khác, đền thờ Latêranô luôn được coi là Nhà thờ chính tòa của các vị Giám mục thành Roma mà tất cả các Giáo Hội trên Thế giới đều coi là Giáo Hội Mẹ. Đến thế kỷ thứ XVI thì ngôi vị này mới được chuyển đổi qua một ngôi Đền thờ mới: đó là Đền thờ thánh Phêrô hiện ở trong cung điện Vaticanô. Xét về phương diện lịch sử và ý nghĩa, thì sự thay ngôi đổi vị này không có ảnh hưởng gì đến ngôi đền thờ đặc biệt chúng ta mừng kính hôm nay. Chính vì thế mà hằng năm cả Hội Thánh vẫn hướng về nó như người mẹ muôn thuở đã sinh ra hàng hà sa số những người con trên mặt đất này.
Như vậy, về phương diện lịch sử chúng ta thấy việc mừng kính có một giá trị rất thiết thực. Nó hướng chúng ta về một quá khứ hào hùng của Giáo Hội, một quá khứ nói theo kiểu của Renan đã có thời phải thở bằng máu, nhưng lại là một quá khứ dể lại những tấm gương về đời sống anh hùng, về niềm tin bất khuất và nhất là về một lòng yêu mến vô bến bớ đối với Thiên Chúa, làm cho những thế hệ đi sau phải noi gương. Nhắc lại những biến cố như thế thật là việc nên làm nhất là đối với chúng ta ngày hôm nay.
2. Nhưng thử hỏi có phải khi mừng lễ cung hiến thánh đường Lateranô, Giáo Hội chỉ có ý nhắm tới mục đích này mà thôi không? Không! Giáo Hội còn muốn cho chúng ta nghĩ tới những mục đích khác.
Như anh chị em đã biết: Đền thờ có một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt của cộng đoàn dân Chúa.
* Ta thấy trong Cựu Ước đến thờ có một giá tri rất lớn: Đền thờ là nhà của Thiên Chúa.
* Đến thời Tân ước thì chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đẩy nó lên một cấp độ cao hơn. Đây không phải là đền thờ bằng những nguyên liệu đất đá nhưng là bằng chính cõi lòng của con người. Trong câu truyện Chúa thanh tẩy đền thờ mà bài Tin Mừng hôm nay ghi lại chúng ta thấy được điều đó.
Như vậy thì chúng ta đã rõ việc mừng lễ cung hiến đền thờ Lateranô hôm nay không phải chỉ là một việc làm ôn lại lịch sử mà là một việc làm củng cố niềm tin của chúng ta. Chúng ta mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa. Mỗi người là đền thờ cũng có nghĩa là mỗi người có chỗ cho Chúa trong tâm hồn của mình. Một thi sĩ Đức nói: Chúa có giáng sinh ra cả 100 lần ở Belem cũng vô ích cho bạn nếu Ngài không sinh ra được ở trong băng hoại hồn của bạn” Như vậy thì trách nhiệm của mỗi người thật nặng nề. Thánh Phaolô nói một câu mà tôi cho là rất khủng khiếp: “Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy”.
Vậy phải biết quí trọng con người chúng ta. Anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải làm gì để chu toàn được bổn phận đó? Tôi xin để nghị một vài công việc.
Giống như một toà nhà muốn cho nó được đứng vững và tồn tại lâu dài chúng ta phải biết bảo trì nó. Bảo trì bằng cách săn sóc chăm lo cho nó. Chăm lo như thế nào?
1. Trước hết hãy lo cho nó được sạch sẽ. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã mô tả tầm hồn của một người tội lỗi là tâm hồn chất chứa đầy những thói hư tất xấu như “gian tà, giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian, và vu không” và Chúa bảo “đó là những cái làm cho con người ra ô uế”(Mt 15,19-20). Một tâm hồn như thế không thể xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa được.
2. Tiếp theo muốn cho một ngôi nhà được đẹp đẽ chúng ta phải biết trang hoàng cho nó. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã mô tả tâm hồn thánh thiện là một tâm hồn được trang hoàng bằng hoa quả của Thánh Thần. Hoa quả đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ” (Ga 5,22-23)
3. Sau cùng một ngôi nhà dù được trang hoàng đẹp đẽ cách mấy đi nữa nhưng nếu nó không có sức sống thì nó cũng trở thành vắng lạnh không phát huy được tác dụng. Hãy làm cho tâm hồn chúng ta bằng cách để cho ơn Chúa hoạt dộng trong chúng ta. Thánh Phaolô dã dám tự hào mà noí: “Tôi đã không để cho ơn Chúa ra vô ích trong tôi”
Ngày kia Bà thánh Catarina thành Sienna bị một cơn cám dường như quá sức của mình. Bà phải vất vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn cám dỗ đã qua, Bà thấy Chúa hiện ra Bà liền hỏi Chúa: - Lạy Chúa lúc tâm hồn con bị cám dỗ đầy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?
Chúa trả lời: - Con yêu quí của Cha, Cha ở ngay trong lòng của con.
- Trong lòng của con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong những lúc như thế được?
- Vậy con hãy trả lời cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con vui sướng hay cực khổ?
- Lạy Chúa khi đó con vô cùng đau buồn và khổ cực.
- Con biết ai đã làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu không phải là Cha ở trong lòng con? Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con làm cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần con, con đã hết sức chống cự, còn Cha, Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ làm cho con trở nên vững mạnh và giúp con có thêm nhiều công nghiệp”
Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.
Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!
Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…
Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.
Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:
- Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.
- Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.
- Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.
- Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.
Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.
Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9. 11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.
Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.
Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.
Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.
Thánh đường là nơi qui tụ dân Chúa, là nơi các tín hữu tới cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Thánh đường là nơi Chúa ngự, là nơi Mình Máu Thánh Chúa luôn hiện diện, là nơi dân Chúa lãnh nhận muôn vàn ơn huệ, muôn vàn hồng ân của Chúa.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ
Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng. Đức Thánh Cha với tư cách là Giám Mục Roma, cũng đặt ngai tòa của mình tại nhà thờ chánh tòa. Đền thờ này được xây dựng vào năm 320 khi Giáo Hội Chúa Kitô, tượng trưng cho Tòa Thánh Roma vừa thoát qua khỏi một thời kỳ cấm cách, bắt bớ khủng khiếp. Đền thờ này do công của Hoàng đế Constantinô xây dựng để tôn vinh danh Chúa và để dân Chúa có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đền thờ này đã được cung hiến vào khoảng thời gian nói trên.Lịch sử thuật lại rằng khi hoàn tất ngôi thánh đường này, nhiều đoàn người khắp trong thành phố Roma đã tuôn đến để dự lễ khánh thành và hiệp ý trong nghi lễ cung hiến ngôi thánh đường dùng đặt ngai tòa của Đức giáo hoàng, với tư cách là Giám Mục Roma. Ngôi đền thờ Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu thăng trầm của đạo giáo, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn của các thời Hoàng đế Roma trị vì. Biết bao nhiêu người đã tới thánh đường Latêranô để xin rửa tội, gia nhập dân thánh Chúa trong những đêm phục sinh và mừng lễ vượt qua tại đây.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ NGÀY NAY
Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm tuần thánh Đức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Roma, với các Hồng y, Giám mục và Ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là rửa chân cho các tông đồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kính yêu Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và cho Giáo Hội luôn trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
Việc dùng một nơi đặc biệt để cầu nguyện và thờ phượng đã có từ rất xa xưa. Tuy nhiên, mãi khoảng năm 1000 trước Công nguyên ngôi đền thờ đầu tiên mới được vua Solomon xây dựng tại Giêrusalem để dành riêng cho Thiên Chúa, công trình này mất khoảng bảy năm rưỡi, lễ cung hiến đền thờ kéo dài tám ngày, và hằng năm được người Do Thái nhớ lại.
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Giáo hội bị bách hại không thể xây dựng đền thờ, buộc phải cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa tại nhà riêng hoặc trong các hầm mộ, hay trên các ngôi mộ của các vị tử đạo.
Năm 313 sau khi hoàng đế Constantinô ban hành đạo luật cho phép các kitô hữu tự do hành đạo, đền thờ đầu tiên được cất. Hoàng đế đã nhượng cho Đức Giáo hoàng Melchiade khu đất của dòng họ Laterani, và truyền xây đền thờ. Năm 324 thánh Giáo hoàng Silvestro cử hành lễ cung hiến đền thờ mang tước hiệu kính Chúa Cứu thế này, và chỉ từ sau thế kỷ VI mới thêm các tước hiệu hai thánh Gioan Tiền hô và Gioan thánh sử, từ đó được gọi là đền thánh Gioan Lateranô. Sau đó vào năm 334 Constantinô cho xây một giếng rửa tội nơi mà thánh Giáo hoàng Silvestro rửa tội cho ông, một dinh giáo chủ, nơi các giáo hoàng cư ngụ cho đến khi di chuyển sang Avignon. Đền thờ Lateranô hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày cung hiến được mệnh danh là “mẹ của tất cả các đền thờ ở Rôma và trên toàn thế giới”.
Câu hỏi được đặt câu hỏi: Cung hiến nhà thờ này có nghĩa là gì? Tại sao phải mừng kỷ niệm cách trọng thể?
Giữa lòng thế giới, trước cái nhìn của Thiên Chúa và loài người, trong một hành vi đức tin khiêm tốn và vui mừng, con người với khả năng trí tuệ khôn lường Chúa ban là những kiến trúc sư, thợ mộc, thợ nề, nghệ nhân ưu tú, kiến thiết công trình nghệ thuật đã dùng những tài nguyên thiên nhiên như phiến đá, cây gỗ, đất cát, xây dựng lên một khối lượng vật chất là đền thờ. Đây là một dấu chỉ hữu hình về Thiên Chúa vô hình, Đấng là Ánh sáng, là chiều cao cả và là chính vẻ đẹp.
Trong bối cảnh ấy, vị kiến trúc sư đã nối kết thực tại thế giới và lịch sử cứu độ. Ông đã đưa vào trong thánh đường này những viên đá, cây cối và đời sống con người, để tất cả công trình sáng tạo đều hợp tiếng chúc tụng Chúa. Ông đã vượt thắng sự tách biệt giữa lương tâm con người và lương tâm Kitô, giữa cuộc sống ở trần thế chóng qua này và sự cởi mở đối với đời sống vĩnh cửu, giữa vẻ đẹp của vạn vật và Thiên Chúa Đấng là chính vẻ đẹp, bằng những viên đá, những đường nét, mặt bằng và chiều thẳng.
Đền thờ là thân thể Chúa Kitô
Salomon đã xây cho minh một ngôi đền bằng đá và gỗ vì ông là một tiên tri, … Còn Thiên Chúa hằng sống Đấng dựng nên cả đất trời, ngự trên chín tầng trời… Tại sao Thiên Chúa lại đòi xây dựng một đền thờ? Phải chăng Ngài bị tước mất chỗ ngự? Hãy nghe lời Stêphanô lên tiếng trước Công nghị, trước lúc chịu khổ hình: “Còn Salômôn, đã xây nhà cho Người. Nhưng Ðấng Tối Cao hẳn không phải ngụ nhờ trong những vật tay phàm làm ra, như tiên tri đã nói” (Ac 7,47- 48). Vì thế từ đó đền thờ được xây để tiên báo thân thể Đức Kitô. Đền thờ đầu tiên chỉ là “bóng” của các điều sẽ đến; còn với Ðức Kitô mới có “mình”. (Col 2,17): khi ánh sáng xuất hiện, bóng tối sẽ rút lui. Hiện nay chúng ta tìm kiếm đến thờ do vua Salomon xây ư? Chỉ còn một đống đổ nát. Tại sao nó bị đổ nát? Thưa là vì thực tại mà ông loan báo đã hoàn thành. Đền thờ đích thực là chính thân mình Chúa Kitô, cũng bị đổ vỡ, nhưng Người đã trỗi dậy, và sẽ không bao giờ đổ nát nữa…(Thánh Augustinô 354-430, Bài giảng số 3, 4; PLS 2, 664)
Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa
Còn thân xác chúng ta thì sao? Là chi thể của thân mình Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết sao? thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô!” (1Cr 6,15). Khi nói:“Thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô” nghĩa là thân xác chúng ta liên kết với đầu là Đức Kitô “Ngài là đầu của Thân mình” (x. Cl 1, 18), làm thành một đền thờ duy nhất, đền thờ Thiên Chúa.
Cùng với thân mình Đức Kitô, thân xác chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Trước khi được thanh tẩy, chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên: Vì thế, thánh Phaolô đã nói: “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy” (1 Cr 3,16-17).
Gia đình là đền thờ
Như Thánh Gia Nazareth khi xưa, hoàn cảnh sống ngày nay đã biến đổi sâu xa và người ta đã đạt được những tiến bộ rất lớn trong các lãnh vực kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Chúng ta không thể hài lòng với những tiến bộ ấy. Chúng ta còn phải luôn nghĩ đến những tiến bộ về luân lý, như sự quan tâm, bảo vệ và giúp đỡ gia đình, vì tình yêu quảng đại và không thể phân ly giữa một người nam và một người nữ là khung cảnh hữu hiệu và là nền tảng sự sống con người trong khi được cưu mang, sinh ra, lớn lên và kết thúc tự nhiên. Nơi nào có tình thương và lòng chung thủy, thì nơi đó tự do đích thực được nảy sinh và trường tồn.
Hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.
Chúng ta muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Chúng ta muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa: Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).
2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.
Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng. Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền. Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ. Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
"Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).
3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính. Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
1) Lịch sử của và cấu trúc thánh đường La-tê-ra-nô:
Vương cung Thánh đường thánh Gio-an La-tê-ra-nô là một trong những ngôi thánh đường đầu tiên của Hội thánh Công giáo. Thánh đường này được hoàng đế Con-stan-ti-nô xây dựng và được thánh hiến vào năm 324 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Đây là nhà thờ chánh tòa của Giám Mục thành Rôma là Đức Giáo Hoàng, và được mang danh là “Mẹ của mọi nhà thờ” trên thế giới. Cũng giống như các đền thờ khác, thánh đường La-te-ra-nô đã nhiều lần bị hỏa hoạn. Đến thế kỷ thứ 16, đã đươc xây dựng lại như ngày nay dưới thời Đức Giáo Hoàng Sis-tô V (1585-1590).
Thánh đường La-tê-ra-nô có chiều dài 130 m, chia thành 5 gian. Gian chính dài 87 m, rộng 16 m, có tượng 12 tông đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào thánh đường, bên phải có cây đàn phong cầm vĩ đại với 2000 ống. Sau tòa giảng là Giếng rửa tội mà theo truyền thuyết, tại đây hoàng đế Con-stan-tine đã được Đức Giáo Hoàng Sil-ves-tro ban bí tích rửa tội. Phía ngoài bên trái nhà thờ, có cây tháp cao tới 47 mét làm bằng đá hoa cương màu đỏ.
2) Về đại lễ Vượt Qua của đạo Do thái:
Đối với dân Do thái, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm biến cố dân Do thái vượt qua biển Đỏ do Mô-sê lãnh đạo để về Đất Hứa là xứ Ca-na-an. Lễ Vượt qua được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng Ni-san, tức tháng 4 Dương lịch. Mọi người Do thái từ 12 tuổi đều tham gia cuộc hành hương về Giê-ru-sa-lem tham dự đại lễ. Cả những người Do thái tản mác khắp thế giới cũng về tham dự ngày đại lễ quan trọng nhất trong năm này. Dầu ở đâu, người Do thái vẫn ước mơ được về dự lễ Vượt Qua tại thành Giê-ru-sa-lem quê nhà ít nhất một lần trong đời. Trong thời gian giảng đạo, vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đều về thủ đô dự lễ cùng với các môn đệ.
3) Thuế Đền Thờ là thuế nào?
Đây là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên hằng năm phải đóng vào đên thờ Giê-ru-sa-lem. Mỗi năm, người Do thái phải đóng thuế đền thờ trị giá nửa đồng siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. Đồng siếc-lơ là loại tiền đơn giản do đền thờ phát hành, Các đồng tiền này phân biệt với đồng tiền Rô-ma: Trên đồng tiền này không có hình và ký hiệu của hoàng đế Rô-ma như tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội. Để tạo điều kiện giúp người dân đóng thuế cho đền thờ, các tu tế cho lập các bàn đổi từ đồng tiền Rô-ma sang đồng tiền Đền thờ. Tiền huê hồng từ tiền Rô-ma sang đồng siếc-lơ băng một phần tư ngày công lao động. Do đó số tiền thuế Đền thờ và số lợi tức do việc đổi tiền mang lại là rất lớn.
4) Tại sao Đức Giê-su nổi giận và Người đã làm gì với bọn người này?:
– Điều khiến Đức Giê-su nổi giận là những tệ nạn bóc lột khách hành hương với giá cắt cổ của bọn con buôn do các thượng tế cấp phép hoạt động. Thật là tồi tệ khi tôn giáo đã bị bon đầu mục và đám con buôn Do thái lạm dụng trục lợi bất chính, gây bao thiệt hại cho người nghèo..
– Bên cạnh bàn đổi tiền, một số người lại mang bò, chiên, bồ câu đến bán cho khách thập phương dâng vào đền thờ. Luật này quy định các con vật được dâng làm của lễ phải lành lặn không mang tỳ vết. Các con vật trước khi dâng phải qua cuộc kiểm định. Tuy nhiên mỗi con vật được mua bán trong đền thờ lại đắt gấp 15 lần so với bên ngoài.
– Chính những điều này đã khiến Đức Giê-su bức súc nổi giận. Người đã lấy các đoạn dây thừng bện lại làm roi và đuổi bọn con buôn cùng đoàn vật là chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người cũng làm tung tóe và lcòn ật đổ bàn ghế của chúng.
5) Phải đánh giá thế nào về cơn giận của Đức Giê-su?
– Trong Tin mừng rất ít khi Đức Giê-su tỏ thái độ nóng giận. Trừ vài ba trường hợp nặng lời quở trách thói giả hình của người Pha-ri-sêu (x. Mt 23,13-32), hay trách mắng Si-mon Phê-rô (x. Mt 16,23), còn Đức Giê-su luôn tỏ ra bình thản trước các biến cố xảy ra: Người đón nhận nụ hôn phản bội của môn đồ Giu-đa (x. Mt 26,50); im lặng trước những lời vu cáo buộc tội của các đầu mục Do thái trước thượng hội đồng Do thái (x. Mt 26,59-63), im lặng khi bị cáo gian trước tòa Phi-la-tô (x.Mt 27,12); Người cũng cầu xin Chúa Cha tha tội và bào chữa lỗi cho những kẻ hành hạ Người “vì họ không biết việc họ làm” (x Lc 23,34).
– Vậy tại sao Đức Giê-su lại nỗi giận, xua đuổi con buôn ra khỏi đền thờ và nói: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16), vì: “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).
Qua những từ: Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a xưa đã trách mắng dân Do thái ( x Gr 7,11).
– Đức Giê-su đã làm một cuộc thanh tẩy Đền thờ do lòng yêu mến nhà Chúa, như lời thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Về sau dân Do thái đã quyết định giết Đức Giê-su khi xét xử Người trước thượng hội đồng và tòa Phi-la-tô (x Mt 26,65-66).
3. SUY NIỆM:
1) Vai trò của nhà thờ thời Cựu Ước và Tân Ước:
Trong thời Cựu ước, đền thờ và hòm bia giao ước là những nơi đặc biệt dành riêng cho việc thờ phượng như lời Đức Chúa: “Từ nay Ta sẽ ghé mắt nhìn và lắng tai nghe lời cầu nguyện dâng lên ở nơi đây. Vì Ta đã chọn và thánh hoá nhà này, để muôn đời Danh Ta ngự tại đây” (2 Sb 7,15-16). Điều này giải thích thái độ nổi giận của Đức Giê-su với những người đổi tiền bạc trong đền thờ, vì họ đã biến nhà thờ phượng Chúa Cha thành nơi buôn bán (x. Ga 2,16). Trong thời Tân Ước, Đức Giê-su có lần đã khẳng định với người phụ nữ Sa-ma-ri-a: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… Giờ những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21-23). Tuy nhiên, nhà thờ và nhà tạm vẫn luôn là nơi cầu nguyện, cử hành việc phụng tự và là nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa.
2) Tại sao Hội thánh mừng kính một ngôi thánh đường bằng vật chất?:
Hôm nay là lễ cung hiến Đền Thờ La-tê-ra-nô. Có người thắc mắc: tại sao Hội thánh lại mừng kính mừng một ngôi thánh đường, thay vì thờ kính Chúa, Đức Mẹ hay các thánh như thường lệ? Sở dĩ Hội thánh mừng kính thánh đường La-tê-ra-nô, vì là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, và là biểu hiệu của hai điều quan trọng này: Một là nói lên sự hiệp nhất của các tín hữu, là nơi liên kết mọi thành phần trong cộng đoàn trở thành thân mình mầu nhiệm của Chúa là Hội thánh. Trong đó Đức Giê-su là đầu, và mọi tín hữu đều là anh em của nhau. Hai là thánh đường là nơi sinh hoạt đức tin: Hằng ngày hằng tuần, các tín hữu hội họp trong nhà thờ để cùng cầu nguyện và làm việc thờ phượng tạ ơn và cầu xin các ơn lành hồn xác.
3) Phải chăng chỉ cần giữ đạo tại tâm, không cần phải đến nhà thờ?:
Có những người cho rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, nên người ta có thể cầu nguyện với Ngài bất cứ lúc nào và ở đâu, chứ không cần phải đến nhà thờ mới thờ phường được.
Thực ra, nên nhớ rằng: loài người chúng ta có 5 giác quan, nên cần phải có những biểu hiệu bên ngoài như nhà thờ, bàn thờ, tượng ảnh, đèn nến… để khơi dạy đức tin và tâm tình đạo đức trong lòng của các tín hữu. Chính khi đến nhà thờ hiệp thông cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời. Ngoài ra, nhờ có nhà thờ hữu hình mà các tín hữu cũng được nâng đỡ rất nhiều về đức tin. Khi làm việc thờ phượng chung tại nhà thờ, người tín hữu sẽ được ăn hai của ăn là Lời Chúa và Mình thánh Chúa. Ngoài ra khi bị khô khan, nếu biết cậy trông và phó thác mọi sự trong quyền năng của Chúa khi cầu nguyện tại nhà thờ thì đức tin của chúng ta sẽ ngày một tăng cường.
4) Vai trò quan trọng của nhà thờ đối với đức tin:
a) Nhà thờ là trung tâm sinh hoạt đức tin của người tín hữu: Nhà thờ là nơi gắn liền mọi sinh hoạt đức tin: Từ khi mới sinh, ta đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để lãnh nhận bí tích rửa tội. Đến tuổi khôn, chúng ta được xưng tội, rước lễ lần đầu và thêm sức trong nhà thờ. Khi lỡ sa ngã phạm tội, chúng ta đến nhà thờ để được lãnh ơn giao hòa với Chúa qua bí tích giải tội. Khi lập gia đình, đôi thanh niên nam nữ cùng nhau đến nhà thờ cử hành bí tích hôn phối. Khi một người đươc gọi lên chức thánh, chúng ta đến nhà thờ chính toà tham dự thánh lễ truyền chức phó tế và linh mục. Khi bị bệnh nặng có nguy cơ tử vong, chúng ta đến nhà thờ xin linh mục ban bí tích xức dầu bệnh nhân, hoặc mời linh mục đến tư gia hay bệnh viện ban các bí tích sau hết. Rồi khi nhắm mắt lìa đời, thân xác chúng ta lại được người thân rước ra nhà thờ tham dự thánh lễ an táng trước khi được chôn cất tại nghĩa trang hay hỏa thiêu và được gửi tro cốt vào trong nhà chờ phục sinh.
b) Thái độ phải có khi vào nhà thờ:
-Về y phục: Nhà thờ không những là nhà của Thiên Chúa, mà còn là nhà của Hội thánh, trong đó mỗi tín hữu là một thành viên. Khi đến gặp gỡ một nhân vật quan trọng, chúng ta phải ăn mặc lịch sự đẹp đẽ. Cũng vậy, khi đến gặp Chúa Giê-su tại nhà thờ, chúng ta cần chuẩn bị một tâm hồn thanh sạch, với thái độ trang nghiêm phù hợp, để biểu lộ niềm tin tưởng và yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa và chắc chắn sẽ làm vui lòng Ngài.
-Cử chỉ tôn kính: Thánh đường công giáo nếu được cung hiến sẽ trở thành nơi thờ phượng chung. Trong thánh đường luôn có Chúa Giê-su Thánh thể hiện diện trong nhà tạm, nên cần phải biểu lộ đức tin bằng cử chỉ tôn kính như bái gối, cúi mình. Người Do thái hay Hồi giáo khi đến Đền thờ luôn tỏ thái độ tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật, bằng việc để giày dép ở ngoài nhà thờ.
– Thờ Chúa trong tâm hồn: Mỗi người tín hữu đều có bổn phận biến tâm hồn trở thành một nhà thờ, xứng đáng cho Chúa vào ngự trị. Trong ngôi thánh đường thiêng liêng này, mỗi người chúng ta có bổn phận thắp lên ngọn nến đức tin, giúp chúng ta vững bước trên đường tin yêu phó thác. Trái tim của chúng ta phải là bàn thờ, mỗi ngày được dâng lên Chúa của lễ cao quý là tâm tình yêu mến biết ơn kèm theo những việc lành cụ thể để kết hiệp với lễ vật cao trọng nhất là Chúa Giê-su, đã dâng mình trên thánh giá xưa, nay tiếp tục tái hiện trong bí tích Thánh thể trên bàn thờ để nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ.
– Xây dựng tâm hồn trở thành đền thờ của Thiên Chúa: Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và được cung hiến khi chúng ta chịu phép rửa tội như lời thánh Phaolô: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3,16). Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá. Bởi vì đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Giê-ru-sa-lem đi nữa thì một ngày kia, cũng sẽ bị sụp đổ như lời Đức Giê-su: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6). Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.
5) Dốc quyết: Đền thờ nói tới ở đây chính là thân thể của Đức Giê-su mà mỗi tín hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa Giê-su chính là một đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, trong tinh thần và chân lý (Ga 4,24). Mỗi người quyết tâm làm gì để biến thân xác nên đền thờ dâng kính Thiên Chúa?
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Tin mừng lễ kính đền thờ La-tê-ra-nô hôm nay cho thấy Chúa đã nổi giận thẳng tay xua đuổi bọn con buôn ra khỏi đền thờ, vì họ đã làm ô uế đền thờ khi biến một nơi dành để thờ phượng Thiên Chúa thành nơi buôn bán đầy xảo trá bất công và gian ác. Xin Chúa cũng hãy ngự vào lòng con mỗi lần con dự lễ và rước lễ, xin hãy xua đuổi các tội lỗi và các thói hư ra khỏi lòng trí chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng trở thành ngôi đền thờ sống động của Thiên Chúa. Amen.
Đại thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”, bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo Hoàng.
Lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726 cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.
Nhưng Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài? “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).
Ed 47, 1-2, 8-9, 12
Bài Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ lýý tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.
1Cr 3, 9-11, 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.
Ga 2, 13-22
Tin Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục sinh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)
Trước tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố hiện nay.
Sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.
Sứ điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa lýý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải một ýnghĩa mới.
1. Thực tại địa lý.
Dòng nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy diễn tả thực tại địa lýý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687 tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.
2. Biểu tượng vườn địa đàng.
Nhưng thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước khi phạm tội.
Đền Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện, nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.
Đức Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 37-38).
Nước biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền. Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).
3. Bên phải Đền Thờ:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời. Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự sống đời đời.
4. Đền Thờ.
Vào Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta về Đền Thờ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy. Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống 18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp nối công việc của thánh nhân.
Dân Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp. Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.
1. Nhà Thiên Chúa.
Cộng đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).
2. Đền Thờ Thiên Chúa.
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng từ “hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực thánh” của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.
Khái niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa (Bài Đọc I).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.
Sau cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở Ca-phác-na-um.
Phần mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.
Phản ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu trọn vẹn ýý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.
1. Khung cảnh bên ngoài.
Đền Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên. Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ. Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.
Chính ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ. Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế cao cấp – đứng đầu là thượng tế - đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền “ô uế” do có đúc hình vị hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày đại lễ.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua.
Khung cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan.
Khi đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh kýý để lộ những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng có.
Trước hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể phá hủy…” (Mc 14: 58).
Ngoài ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Hơn nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa “nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện” hay “cung thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Tình tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2,16)
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.
Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hêrôđê.
Sự bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga 15,5).
“Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
“Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
Thế nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Họ còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4,23-24).
Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16; 14,26).
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra oai nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ mà không ngại bị họ thù ghét, làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số người thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ trở thành một bãi rác công cộng, mất vẻ mỹ quan nơi Nhà Chúa. Rồi những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích...gây cảnh ồn ào náo loạn, làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng. Xin cho chúng con can đảm đóng góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người. Amen
Chúa Giêsu là Đấng rất hiền lành, và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường...” ( Mt 11, 29 )
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người Samaria ngăn chặn không cho đi qua làng của họ mà tiến về Giêrusalem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, muốn khiến lửa trời xuống đốt, Chúa Giêsu quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy của các ông. (Lc 9, 54)
Khi có người cho Chúa là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), thậm chí là người bị quỷ ám (Ga 7, 20), là người dại dột... Chúa Giêsu cũng chẳng lấy làm điều.
Nhất là trong cuộc thương khó, người ta lăng nhục hành hạ Chúa đủ điều, Chúa vẫn nín thinh không nói một lời. Khi chịu treo trên thập giá đau đớn lại còn bị chế nhạo, Chúa Giêsu chẳng những không giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ lăng nhục Ngài. Nói chung, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Ngài không hề biết giận là gì.
Vậy mà... khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Ngài không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”
Thế là để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem khỏi bị tục hoá, Chúa Giêsu phải dùng đến roi vọt, dùng đến biện pháp cứng rắn không ai ngờ như “đổ tung tiền của những người đổi bạc”, “lật nhào bàn ghế”, dùng roi để ‘xua đuổi tất cả bọn’ ra khỏi Đền Thờ!
Thật không thể ngờ được! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà “cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” ( Mt 12, 20 )... giờ đây phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giêrusalem. Điều đó chứng tỏ cho thấy rằng việc làm ô uế Đền Thờ là một hành vi rất tai hại khiến Chúa Giêsu đau khổ và bất bình xiết bao!
Đến thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thân thể chúng ta cũng là những Đền Thờ, xét ra còn cao trọng hơn Đền Thờ Giêrusalem xưa. Trong chương 3 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 13) và qua chương 6, Thánh Phaolô tái khẳng định chân lý này: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1 Cr 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng có Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị nơi những ai yêu mến và tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Bản thân chúng ta là những Đền Thờ cao quý hơn mọi thánh đường trên khắp thế gian, vì đây là những Đền Thờ sống động, có linh hồn, có trí khôn... chứ không phải bằng gỗ đá vàng bạc vô tri vô giác, được chính Ba Ngôi Thiên Chúa xây dựng nên theo hình ảnh Ngài, được Chúa Giêsu đổ Máu Thánh ra mà cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, được Chúa Giêsu tô điểm và bồi bổ bằng lời hằng sống cũng như bằng chính Thịt Máu Ngài và nhất là mai sau được đưa lên cõi trời vinh hiển. Không một ngôi Thánh Đường vật chất nào trên thế gian có được những vinh dự lớn lao như thế.
Vậy nếu Chúa Giêsu yêu quý Đền Thờ Giêrusalem một thì Ngài còn yêu quý các Đền Thờ sống động này gấp trăm. Thế nên, Ngài đã không tiếc khi lấy chính Máu Thánh mình mà thanh tẩy chúng; không tiếc hiến mạng mình để chuộc lại chúng. Như thế thì bản thân mỗi người Ki-tô hữu là Đền Thờ vô giá!
Những người làm ô uế Đền Thờ Giêrusalem thì bị Chúa Giêsu đuổi đi bằng roi vọt; còn ai làm hư hại Đền Thờ thiêng liêng nơi người tín hữu thì bị Chúa đe phạt nặng nề hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42) Có lẽ không còn răn đe nào nghiêm khắc hơn!
Xin hãy hồi tâm...
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy cảnh tỉnh nhìn lại mình, nhìn thật sâu vào nội tâm sâu thẳm của bản thân chúng ta là Đền Thờ Thiên Chúa để nhận ra những ý tưởng đen tối, những tham vọng xấu xa, những đam mê tội lỗi đang ẩn mình trong đó... để sớm quét sạch chúng đi. Chính mỗi người chúng ta là thủ phạm trực tiếp làm ô uế Đền Thờ thân thể mình chứ không ai khác. Vậy hãy liệu mà thanh tẩy kịp thời trước giờ Chúa Giêsu lại đến.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Ðền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.
Ðền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Ðền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Ðây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Ðó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Ðây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.
Lần đầu tiên, tác giả Ga có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17;Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và các bản văn song song) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL: Mc 11,28 và các bản văn song song).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng dung hòa (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các TMNL, có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Ga. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do Ga 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tCN (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 sau CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất. Còn khi đọc TM Ga, chúng ta thấy ít nhất Đức Giêsu lên Giêrusalem ba lần để tham dự lễ Vượt Qua (Ga 2,13; 6,4 và 11,55).
2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Ga đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ngài trung thành với quan điểm ngài đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (2,4.11): ngài muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, ngài muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
Đặt vào trong ngữ cảnh TM IV, chúng ta thấy bài này nối tiếp truyện Tiệc cưới Cana ở 2,1-11. Trong truyện Tiệc cưới Cana, có nhiều phạm trù chỉ thời gian (trước/sau; thiếu/dồi dào; rượu xoàng/rượu ngon); trong bài tường thuật Thanh tẩy Đền Thờ, lại có nhiều phạm trù chỉ không gian (Đền Thờ/xua đuổi/khỏi nơi đây/nhà Cha tôi). Do đó, có thể nói rằng, trong ngày đầu, tác giả Gagiới thiệu Đức Giêsu như là Đấng thánh hóa cả những thời gian lẫn những không gian thánh thiêng của Israel.
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17); 2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22); 3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3. Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tô hierô, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh, có thể gọi là “cung thánh”). Từ ngữ hierôn được dùng 13 lần (x. cả naon trong Ga 2,19.20.21).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17):Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu lạ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay.
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng tiêu cực vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong TM IV, tác giả không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và Dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của Dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy…”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy…”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Từ ngữ naos có thể hiểu là Đền Thờ đúng nghĩa.
- bốn mươi sáu năm (20):Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay cung cấp tiền bạc sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (1 Cr 3,16 và 12,27; x. Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô Phục Sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại … Họ tin (22): Mc cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Ga thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Ga ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 15/16,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh Ga 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23):Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4. Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào mộtđại lễ khác. Đây không phải là mộtlễ của mộtđôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh mộtthôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã làm cho họ thành mộtdân độc lập và thành Dân Ngài.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã làm tăng thêm tình trạng náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu chữa lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới mộtphương diện hoàn toàn khác. Là mộtngười khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra mộtsự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quý nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc šeqel bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là mộtsinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Người. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến … Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim… Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ) …” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứDacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp bằng biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng … Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới “Giờ” rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 68/69: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân …”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Tv này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 68/69,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 68/69,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc. 19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đức Giêsu đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy …”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy …”. Trong bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể làm như thế được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý nhắm vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn. Trong TM IV, có nhiều lần người Do Thái hiểu lầm Đức Giêsu; thường các hiểu lầm đó liên hệ đến mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu (Kitô học Ga): 2,19-21; 6,51-53; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Ga cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến mộtcái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứHôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu mến Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Chúa Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Chúa Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Chúa Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình.Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờvà xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5. Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Người phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bộ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như mộtsự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề ra những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có mộttrọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua mộtđoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
Vào năm 1866, Cha Trần Lục thừa lệnh Đức Cha Chiêu (Mgr. Theurel) đến kinh đố Huế, triều yết Vua Tự Đức, để xin trả lại làng Vĩnh Trị cho người Công Giáo, ngài có dịp quan sát các đền đài, lăng tẩm thật lộng lẫy. Cha Trần Lục tự hỏi: “Tại sao một vì Vua trần thế thì ở trong một ngôi đền lộng lẫy như thế, mà Vua Trên Trời lại không ở một ngôi đền như vậy?” Từ cuộc thăm viếng này, ngài nảy ra ý định xây một ngôi đền theo kiến trúc dân tộc Việt Nam, như các đền lăng tẩm ở Huế, để dâng kính Thiên Chúa, dâng kính Mẹ Maria và các Thánh…
Năm 1891, Cha Trần Lục khởi xây Nhà thờ kính Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, cũng gọi là Nhà Thờ Lớn, bây giờ là Nhà Thờ chính tòa Phát Diệm, sau này thánh hiến ngày 7.10. 1991. Nhà thờ 4 mái ngói, xây theo phong cách Á đông, pha chút Gô tích. Cả kiến trúc gồm có 9 vì kèo với 9 giai thợ khác nhau, do vậy mỗi vỉ kèo mang một nét văn hoá riêng biệt, thể hiện khiếu thẩm mỹ phong phú của những người thợ thủ công lành nghề. Nhà thờ dài 74 mét, cao 16 m, rộng 21m. Có 48 cột lim lớn, trong đó 16 cột ở giữa, chu vi mỗi cột 2,35 m, cao 11m và nặng 7 tấn. Trên mỗi cột khắc tên Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse. Nhà thờ gồm 9 gian: gian cung thánh, gian kiệu và 7 gian giáo dân. Gian cung thánh đặt một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối, dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa, làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Chiêm ngưỡng, Bà Yvonne Schultz xúc động: “Các Ngài hãy ngắm cả cái bàn thờ chính đục nổi, chạm bóng mà sơn son thiếp vàng chói lọi… Có lẽ khắp hoàn cầu không có những nhà thờ nào rực rỡ như trong nhà thờ ở Phát Diệm, trùng trùng điệp điệp những bức phù điêu, càng vào trong, càng lộng lẫy.” (Illustration, 9.11.1929)
Gian cung thánh hoàn toàn chạm trổ, sơn son thiếp vàng lộng lẫy trên gỗ theo kiểu Á đông, với mây, tre trúc và các hoa văn dân tộc, mà đường nét, màu sắc vẫn còn rực rỡ sau hơn 100 năm. Ngoài ảnh Đức Mẹ Mân Côi, Thánh Đa Minh và Thánh nữ Catarina, củng như các thiên thần, Cha Sáu còn khắc họa đậm nét Giáo hội tại Việt Nam qua chân dung 6 vị Tử Đạo: Thánh Anê Đê Lê Thị Thành, Thánh Micae Hồ Đình Hy, Thánh Phêrô Cao, Thánh Phao lô Phan Khắc Khoan, Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ. Trên tường hai bên, 14 bức phù điêu Đàng Thánh Giá chạm nổi trên gỗ khá tinh vi nghệ thuật. (Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả, Nhà thờ chính tòa Phát Diệm, Trần Lục)
Hành hương Nhà thờ chánh tòa Phát Diệm phong phú bản sắc kiến trúc, để cùng nhau hướng tâm hồn mừng lễ cung hiến Đền thờ Latêranô, cũng được gọi là “Mẹ và là đầu của mọi nhà thờ trên thế giới.” Tin Mừng Thánh Gioan tường thuật Đức Giêsu tẩy uế đền thờ Giêrusalem, để mời gọi Kitô hữu thanh luyện tâm hồn mình, xứng đáng trở nên Đền Thờ sống động, như chính Người đã thực thi gương mẫu.
Đền Thờ khiêm nhu
Vào Đền Thờ, nổi cơn giận thánh, Đức Giêsu lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”(Ga 2, 15-16)
Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi Lời Chúa còn xung thiên nộ khí, dữ dội, đau đớn, nhức nhối, phẫn uất và xót xa hơn thế nữa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Mt 21, 13; Mc 11, 17; Lc 19, 46)
Đức Giêsu luôn mong đợi tín hữu khiêm tốn, ý thức thân phận tội lỗi, phản bội, đến Đền Thờ cầu xin ăn năn, sám hối, như người thu thuế thành tâm đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực, vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13)
Xua đuổi của cải, tiền bạc, gian xảo, lưu manh, chức tước, danh lợi, kiêu căng, bất nhân, ra khỏi tâm hồn, là noi gương Đức Giêsu đã xua đuổi khỏi Đền Thờ chiên bò, bồ câu, tiền bạc. Ngày xưa, Môsê đã buộc tư tế phải thanh tẩy toàn thân trước khi bước vào Lều Hội Ngộ. (Xh 40, 32) Bởi vì, không ai làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. (Mt 6, 24; Lc 16, 13)
Đền Thờ hạnh ngộ
Trong các đại lễ, Đức Giêsu vẫn lên Đến Thờ gặp gỡ Cha Người (Lc 2, 41-50). Đồng thời Đền Thờ còn là nơi gặp gỡ tha nhân, như người công chính Simêon và ngôn sứ Anna. (Lc 2, 25-35; 36-38). Hằng ngày, Đức Giêsu đều sốt sắng cầu nguyện sáng tối, để Đền Thờ Người luôn được hạnh ngộ với Chúa Cha. Cũng như Người luôn tìm đến và kêu gọi những con chiên lạc bầy, lem lấm tội lỗi, bất hạnh, người thu thuế, kẻ bán hoa, người hoang đàng, nghèo khổ, bệnh tật, …
Mỗi khi cầu nguyện, suy gẫm, mỗi khi viếng Thánh thể, đọc và nghe Lời Chúa, rước Mình Thánh Chúa, là tín hữu được tiếp đón Chúa ngự vào Đền Thờ cá nhân. Đồng thời, mỗi khi xả kỷ vị tha, dấn thân, phục vụ cộng đồng, giúp đỡ người nghèo khổ, là Đền Thờ tín hữu cũng đón tiếp, gặp gỡ tha nhân chân tình, chứa chan thương yêu. Như thế, Đền Thờ sống động trở thành nơi hạnh ngộ giữa Thiên Chúa và tha nhân. “Ta bảo thật, mỗi lần anh em làm những sự ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì được kể như làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 31-40).
Đền Thờ hiến tế
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.” (Tv 69, 10) Lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn và chết trên thập giá sau này của Người, vì hoàn toàn vâng phục thực hiện Thánh Ý Chúa Cha, muốn cứu độ con người khỏi cái chết đời đời.“Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 2, 19) Đền Thờ là chính thân thể Đức Giêsu sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, sau ba ngày phục sinh.
Với tư cách là chi thể của Đức Giêsu, mỗi Kitô hữu đều là Đền Thờ của Thiên Chúa. “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6,15) Vì thế Thánh Phaolô khuyên tín hữu sống sao xứng hợp để tôn thờ Thiên Chúa: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12, 1)
Hiến dâng thân thể cho Thiên Chúa là noi gương Đức Giêsu hiến thân, Mình và Máu đổ ra cứu chuộc thế gian, sẵn sàng chịu mọi khổ nhục, tra tấn, roi vọt, hoạn nạn vì danh Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.” (Lc 9, 23)
“Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác Thánh Giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác Thánh Giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (Đường Hy Vọng, số 171)
Lạy Chúa Giêsu, Người vốn là Đền Thờ Thiên Chúa, kinh xin Người cải hóa, canh tân, thanh tẩy Đền Thờ bản thân chúng con trở nên xứng đáng để long trọng đón tiếp, hạnh ngộ Chúa và tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vinh dự trở nên Đền Thờ Thiên Chúa, khi Mẹ thưa hai tiếng “Xin Vâng.”Kính xin Mẹ dạy chúng con luôn biết chân thành thưa hai tiếng ấy cùng Chúa luôn. Amen.
--P. Trần Đình Phan Tiến Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn. Đức Giêsu – Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã trở nên Hữu Hình như phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi. Là biểu tượng của tình thương, lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì vốn dĩ là Thiên Chúa, nên vô hình, siêu nhiên, nên chi không đáp ứng tính tự nhiên hữu hình cho phàm thế. Vì vậy, Người đã trở nên hữu hình cho phàm nhân và vì phàm nhân. Vì vậy, “Người đã từ Trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và đã làm Người” (Kinh Tin Kính).
Như vậy, khi nói đến biểu tượng là nói đến sự nhìn thấy tỏ tường, đó là nhu cầu của phàm nhân. Vâng, nhưng ý nghĩa phần chia sẻ hôm nay xin mượn cụm từ “BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỨC TIN” làm chủ đề. Vâng, như vậy, chủ đề chia sẻ hôm nay nói lên điều gì, thưa quý vị. Thưa, nói lên: “Công Trình Cứu Chuộc” của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Bởi vì, Người là Thiên Chúa thật và là Người thật. Muốn nhận ra Người là Thiên Chúa thật, thì phải có Đức Tin, như vậy, Đức Tin mang ý nghĩa siêu nhiên. Còn nếu muốn nhận ra Người là Người thật, thì phải tin vào Giáo Hội của Người.
Hôm nay, Giáo Hội Công Gíao Mừng Kính Lễ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ LATERANO, điều nầy có nghĩa là Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu qua Giáo Hội. Vì Giáo Hội được mệnh danh như là “Hiền Thê của Đức kitô”. Như vậ, biểu tượng của Đức Tin là Giáo Hội, biểu tượng của Giáo Hội là Đức Kitô.
Theo đó, một biểu tượng hữu hình đó là Thánh Đường Laterano. Vâng, đây là một chứng tích vật chất, nhưng là một kỳ tích thiêng liêng, bởi vì, nơi thờ phượng, nơi hình thành lên, nhờ sự nhen nhúm của biết bao thánh tích anh hùng tử đạo, những vị thánh tiên khởi của giáo đoàn Roma, đã xây dựng nên bởi Đức Tin và máu đào. Có thể nói, trước khi Đạo Công Giáo lan rộng khắp nơi trên hoàn cầu, thì nơi đây chính là căn nhà đầu tiên để tôn thờ Thiên Chúa, theo Đường Lối của Đấng Cứu Thế Giêsu. Đây là ngôi Thánh Đường không những mang tính nghệ thuật cao cho đến nay, không lỗi thời, mà còn là một biểu tượng của niềm tin thời sơ khai. Mặc nhiên, nơi đây là “cái nôi” của Giáo Hội, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Là biểu tượng của tình thương, để từ đây lan tỏa khắp bốn phương, hầu thực thi Lời dạy của Đức Kitô, là: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, Nhân DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN” (Mt 28, 19).
Nếu chúng ta có dịp chiêm ngắm một ngôi thánh đường ở trong nước có tuổi đời trên một trăm năm, trăm năm mươi năm, sừng sững nguy nga, trang nghiêm mà duyên dáng, toát lên nét thánh thiện cổ kính, mang tính lịch sử, vượt trên ý nghĩa tôn giáo, mà ai ai cũng ngưỡng mộ. Vâng, đó là một chứng tích về thời gian của một niềm tin, về mặt hữu thể.
Còn chính tại trung tâm của Giáo Hội Công Gíao Hoàn Vũ đó là Thánh Đường Laterano. Vâng, biết như vậy, để chúng ta được tự hào, vì có một thánh Đô nguy nga tráng lệ biểu tượng của niềm tin Kitô giáo. Vì mặc nhiên, chúng ta được phép tự hào trong Chúa, như thánh Phao-lô day: “Thưa anh em, những gì là tốt đẹp, thì anh em hãy tự hào trong Chúa…”.
Vì: “Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantino xây và được ĐGH Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh đường nầy được tiếp tục là nhà thờ Chính Tòa của Đức Giáo Hòang, Giám Mục Rôma. Vì vậy, được gọi là: “Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis”, là Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. Chiều dài 130 m, có 5 gian, gian chính dài 87 m, rộng 16m. Có 12 tượng thánh Tông Đồ bằng cẩm thạch trắng. Bước vào Đền Thờ, bên phải c1o đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Sylvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất 47m, và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ ở Ai-cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Giáng Sinh. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng của Giáo Phận Rôma, vì vậy Đền Thờ thánh Gioan ở Laterano mang ý nghĩa nhắc nhở “Hồng Ân Rửa Tội” với tất cả ý nghĩa của ơn nầy, hầu nhắc nhở các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô (Trích tài liệu của Roma).
Theo đó, chúng ta thấy, Thánh Đường Laterano là một nơi biểu tượng tôn giáo, niềm tin và tính lịch sử trọng đại, mà mọi tín hữu khắp hoàn cầu đều mong muốn tìm về, để chiêm ngưỡng kỳ tích vừa hữu thể, vừa thiêng liêng, đó là Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano.
Bây giờ xin trở lại phần suy niệm Lời Chúa hôm nay (Ed 47, 1-2;8-9; 12) (1Cr 3, 9c- 11; 16-17) (Ga 2, 13-22).
KhởI đi từ bài đọc I (Ed 47, 1-2: 8-9;12), cho chúng ta thấy một mầu nhiệm từ nguồn nước Thanh Tẩy. Đó là “BIỂU TƯỢNG NƯỚC THÁNH TẨY”, mà sau nầy Giáo Hội dùng Lời Kinh Thánh nầy mà lập nên lời kinh rảy Nước Thánh trước mỗi Thánh Lễ. Nước này chảy đến đâu đều được tẩy rửa và có sự sống nơi đó. Ý nghĩa nầy tượng trưng Bí Tích Thánh Tẩy, là chính Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người. Như vậy, chính là “BIỂU TƯỢNG CỦA NIỀM TIN”, cho mọi kẻ tin.
Tiếp đến là Bài đọc II thánh thư thánh Phao-lô (1Cr 3, 9c -11; 16-17) thánh Phao-lô xác tín cách quả quyết, đền thờ của Thiên Chúa chính là Thân xác và linh hồn của người Kitô hữu. Vì mỗi Kitô hữu chính là đền thờ của Thiên Chúa, vì Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong họ. Theo đó, thân xác và linh hồn của những ai bước theo Đức Kitô đều được thánh hiến cho Thiên Chúa. Vì vậy, ai phá hủy đền thờ tâm hồn và thân xác của họ, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. (C 16-17).
Thánh vịnh 45, 2, 4: 12 cho thấy “Chúa là Đồn lũy chở che con”, chính là dòng nước sự sống nơi đó là Thánh Điện của Thiên Chúa muôn muôn đời.
Theo đó, Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay (Ga 2, 13-22), là phần B. Lễ Vượt Qua thứ I. Thuộc PHẦN 1. LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI- THUỘC PHẦN. II- SỨ VỤ RAO GIẢNG CỦA CHÚA GIÊSU.
Có thế thấy, đây là điểm nổi bật của Tin Mừng theo thánh Gioan, bởi vì mở đầu cho hành trình cứu chuộc của Đức Kitô, Người lên Giêsusalem, việc đầu tiên Người làm là tẩy uế Đền Thờ. Một công việc, một hành động mà giới luật sĩ, biệt phái cho là phạm thượng. Bởi vì, sau khi được xây dựng lại ( lần III), thì đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm. Nhưng, Chúa Giêsu bảo: “Hãy phải nó đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại.” Vì, mặc nhiên, Đền Thờ Giêrusalem vật chất nầy đã bị phá hủy và xây dựng lại hai lần rồi, chứ không phải là đền thờ nguyên thủy. Chúng ta thấy, khi nói như thế, Chúa Giêsu đã dùng một biểu tượng của sự tự nguyện “nộp mình” chịu chết cho nhân loại, tiêu biểu là dân tộc Israel. Một dân tộc mà Thiên Chúa đoái thương trước hết. Sự ô uế, tội lỗi công khai phức tạp điễn ra nơi Đền thánh, là phạm thánh, tuy mục đích ấy là phục vụ đền thánh. Thiên Chúa không đồng ý việc thờ phượng như vậy. Chúa Giêsu, trước khi tự nguyện nộp mình, thì đây là một trong những sứ vụ của Người. Chúng ta thấy tầm quan trọng như thế nào trong việc Chúa Giêsu tẩy uến Đền Thờ. Người rất mực hiền lành và nhân từ, điểm nầy nổi bật trong việc tự nộp mình chịu chết, nhưng khi xúc phạm đến Đền Thờ, việc phụng thờ Thiên Chúa cách chính đáng, thì Người không thể dửng dưng. Việc làm nầy hoàn toàn phù hợp với tư cách Thiên Sai của Chúa Giêsu, chúng ta thấy, sự hiền lành và khiêm nhường tuyệt đối nơi Chúa Giêsu, không phải là sự thiếu trách nhiệm trong việc xúc phạm đến Thiên Chúa trong việc tôn thờ. Sự hiền lành của Chúa Giêsu phát xuất từ chân lý, từ tình thương cứu độ nhân loại. Nhưng, việc “giận dữ” trong việc xua đuổi sự ô uế là việc của Đấng Thiên Sai. Chúng ta có nhắm mắt làm ngơ khi nhìn thấy sự thờ phượng thiên cháu bị xúc phạm không? Chúng ta có ngụy biện rằng thờ phượng Thiên Chúa trong tâm hồn là đủ, khi thấy những cớ sở thờ phượng bị ô uê theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Chúng ta có can đảm lên tiếng bênh vực theo khả năng của mình hay làm ngơ, “sống chết mặc bay, của thầy bỏ tú”. Những cơ sở của Giáo Hội bị trưng dụng, bị chiếm hữu phi pháp, bị lấy đi bỏ phế, không sử dụng, không cho sử dụng vì mục đích tôn giáo. Chúng ta có biết: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây phải bị thiệt thân”( Ga 2, 17) không? Hay chúng ta bàng quang cho rằng: “Nhiệm vụ rao giảng là chính chứ không phải là cơ sở vật chất”. Chúng ta có mặc lấy sự can đảm của Chúa Thánh Thần trong việc “Tẩy uế đền thờ” như Chúa Giêsu không?
Căn cứ Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy việc “tẩy uế đền thờ” mà hôm nay Chúa Giêsu thực hiện, chính là một trong những việc đầu tiên của Người khi thi hành sứ vụ công khai. Sau việc kêu gọi các môn đệ, đi theo Người. Sau phép lạ “Tiệc Cưới Ca-na “, thì đây là sự kiện quan trọng trong bối cảnh thực thi sứ vụ công khai của Người. Đây cũng là “chi tiết” chỉ có nơi Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 2, 13 -22).
Thiết nghĩ đây chính là “Lửa mến nhiệt thánh tông đồ” của mỗi Kitô hữu, cũng là một trong những sứ vụ truyền giáo, mà qua hàng ngàn, hằng lớp những người bước theo Chúa Kitô phải mặc lấy đó là:
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải bị thiệt thân”. (Ga 2, 17).
Vì đây cũng là trọng tâm trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Kitô. Chứ đừng nghĩ rằng: Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng là chính “chứ không phải là đất đai”. Vô hình trung, quên mất trách nhiệm đề cao công bằng trong xã hội, theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội. Thật tiếc thay!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng lửa nhiệt thành mà thiêu đốt sự nguội lạnh, để tăng lòng mến là sự nhiệt thành lo việc nhà Chúa là Cha trên Trời, mà dùng lửa Thánh Linh để thanh tẩy. Xin cho những ai bước theo Chúa cũng quyết tâm thực hành điều Chúa truyền dạy. Dù phải tổn hao tâm lực, vì sự nhiệt thành ấy là lửa mến trong chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen./.
Thánh Gio-an mô tả Chúa Giê-su luôn là một con người nhiệt tâm, nhiệt tâm với những sứ mệnh Chúa Cha trao ban và nhiệt tâm với tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của Người.Sự nhiệt tâm ấy được biểu lộ qua những công việc Người làm trong khi thi hành kế hoạch cứu độ.Biến cố Người đuổi những kẻ buôn bán và đổi tiền bạc ra khỏi Đền Thờ chỉ là một trong những hành vi được thúc đẩy bởi động lực nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.Vậy chúng ta học được gì qua hành động này của Chúa Giê-su?
Thánh Gio-an ghi lại thời gian xảy ra sự kiện là “gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái”. Chắc chắn đây là thời điểm Giê-ru-sa-lem náo nhiệt do khách hành hương lui tới, đồng thời cũng là dịp để các con buôn tha hồ “bóc lột” họ trong những dịch vụ buôn bán.Đền Thờ không nhận tiền ngoại quốc, nên người ta phải đổi ra tiền Do-thái.Thế là những kẻ đổi bạc bắt chẹt khách hành hương để làm giàu.Những kẻ buôn bán chiên bò cũng chẳng chịu thua, tìm đủ cách lợi dụng lòng mộ đạo của khách hành hương mà tăng giá chiên bò lên.Thật đúng là “sào huyệt của bọn cướp” như lời Chúa Giê-su đã nhận định (Mát-thêu 21:13)!Thấy cảnh chướng tai gai mắt xúc phạm đến Đền Thờ của Cha Người, Chúa Giê-su thẳng tay tìm cách “thanh tẩy”, trước hết là những ô uế bên ngoài như chiên bò và tiền bạc, rồi đến những ô uế bên trong là lòng tham lam của cải và bất kính đối với Thiên Chúa.Tuy nhiên Người cũng đủ khôn ngoan và bình tĩnh để không đi tới bạo động, bằng cách “lấy dây làm roi” đánh đuổi cả người lẫn loài vật ra khỏi Đền Thờ.Dây roi đâu có giết được người ta, mà mục đích chỉ là xua đuổi họ thôi!
Như vậy, chúng ta nhận thấy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa đòi hỏi người ta phải nhận biết những giới hạn.Đâu phải hễ cứ nhiệt tâm lo việc nhà Chúa là có quyền phê bình chỉ trích tất cả những gì không vừa ý mình.Linh mục không thể “nhiệt tâm” đến độ lên tòa giảng là lớn tiếng mắng mỏ con chiên bổn đạo.Giáo dân cũng không vì nhiệt tâm mà kéo bè kéo cánh tìm cách nói xấu và hạ uy tín của linh mục hay của những người làm việc tông đồ cho giáo xứ.Lại có những thứ nhiệt tâm trá hình, mượn “lòng yêu nước” để lên án cách cư xử khôn ngoan của các giám mục đối với một số chính sách của chính quyền…
Trái ngược với thứ nhiệt tâm để bảo vệ che chở mình là thứ “nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”.Nhiệt tâm cách này thì không ai có thể qua mặt được Chúa Giê-su.Vì hăng say rao giảng Tin Mừng, Người đã trở thành cái đích cho những soi mói, bắt bẻ, dọa nạt của những kẻ thù là nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư.Vì thương xót người tội lỗi, yếu đau bệnh tật, bị ma quỷ cầm buộc, mà Chúa Giê-su đã bất chấp luật ngày sa-bát để bênh vực, chữa lành và tha thứ tội lỗi, để rồi Người bị kết án là không tuân thủ Lề Luật và truyền thống cha ông.Cuối cùng, vì nhiệt tâm đối với toàn thể nhân loại đang nằm dưới ách nô lệ tội lỗi và sự chết, Chúa Giê-su đã chịu “thiệt thân” theo nghĩa đen, chết nhục nhã trên thập tự, để chu toàn “việc nhà Chúa” là phục hồi cho họ sự tự do và chức phận làm con cái Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Vương cung Thánh đường Latêranô là một biểu tượng của Giáo Hội Chúa Ki-tô, giống như Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là biểu tượng của Do-thái giáo ngày xưa.Theo dòng lịch sử, Đền Thờ đã bị phá hủy, còn Thánh đường Latêranô tuy trải qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn kiên vững.Chúa Giê-su đã hứa gìn giữ Giáo Hội được bền vững trước quyền lực tử thần (Mát-thêu 16:18) vì nền móng của Giáo Hội là chính Chúa Giê-su Ki-tô.Nhưng Giáo Hội không chỉ là những ngôi thánh đường bằng gỗ đá hay kim loại, mà chủ yếu là mỗi Ki-tô hữu bằng xương bằng thịt, như thánh Phao-lô quả quyết:“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cô-rin-tô 3:11,16).
Vậy lễ cung hiến Thánh đường Latêranô hôm nay là một nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về lòng nhiệt tâm đối với việc nhà Chúa. Mọi tín hữu hãy tùy theo khả năng và những đặc sủng Chúa ban mà cố gắng xây dựng Giáo Hội tại trần gian.
Hôm nay chúng ta mừng lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường Latêranô. Đây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, giám mục thành Rôma, và là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà, để dành riêng cho việc phụng tự. Đồng thời nhà thờ là nơi các tín hữu họp nhau để tôn thờ, cảm tạ Chúa và cử hành mầu nhiệm đức tin. Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chỉ nơi đây, con người mới gặp gỡ được Thiên Chúa trong niềm tin.
Mừng kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một công trình mang tính lịch sử. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ lớn lao hơn, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô.
Thật vậy, chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Ngài đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”.
Như thế, Đức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem, nhưng Ngài muốn nói đến chính đền thờ thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại; thân thể bị giết chết và được phục sinh. Đức Giêsu phục sinh trở nên Đền Thờ của Giao Ước mới, mọi tín hữu được mời gọi bước vào Đền Thờ này.
Anh chị em thân mến,
Hội Thánh sánh ví như một Đền Thờ thiêng liêng và mỗi tín hữu là một viên đá sống động, mà Đức Kitô là tảng đá nền.
Thánh Phaolô khẳng định “ Đền thờ của Thiên Chúa chính là anh em”. Hơn thế nữa, ngài còn nói: “Thân xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”. Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu chúng ta đều là Đền Thờ thiêng liêng, được thánh hiến qua Bí tích rửa tội.
Đền thờ Giêrusalem là nơi để thờ phượng Thiên Chúa; nhưng người Do thái đã tục hóa biến đền thờ thành nơi tụ tập buôn bán, đổi chác… vì thế, Chúa Giêsu đã thịnh nộ xô đổ bàn ghế, xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ.
Theo tư tưởng của thánh Phaolô tông đồ, tâm hồn mỗi Kitô hữu cũng là một đền thờ, thế nhưng, nhiều Kitô hữu đã biến đền thờ tâm hồn mình thành nơi đổi chác, buôn bán khi quá bận tâm về tiền tài, đam mê xấu, danh vọng thấp hèn, địa vị trần thế…
Mỗi người chúng ta, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân -lúc này đây- thử xét xem: Nếu hôm nay Chúa Giêsu ‘bước vào’ đền thờ tâm hồn tôi, Ngài sẽ nổi giận về điều gì? Ngài xua đuổi những gì? Ngài hất đổ những gì?
Chớ gì nhân ngày mừng kỷ niệm cung hiến thánh đường Latêranô, Mẹ của các nhà thờ Công giáo trên toàn thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi bảo vệ ngôi nhà thờ giáo xứ chúng ta. Hơn nữa, không chỉ làm đẹp ngôi nhà thờ vật chất này, mỗi người chúng ta cũng nên ý thức giữ gìn tâm hồn luôn trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, chúng ta cũng luôn mở rộng vòng tay, sẵn sàng chia sẻ với những anh chị em bất hạnh, để tất cả chúng ta cùng liên kết với nhau trong một tình yêu. Nhờ đó, chúng ta có thể xây dựng một ngôi Đền thờ thật đẹp, ấm cúng tình người, tình Chúa, nơi mà muôn dân có thể đến để tôn thờ cảm tạ Chúa.
Chúng ta chung lời tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho giáo xứ chúng ta có được ngôi nhà thờ khang trang, để hằng ngày, chúng ta đến gặp gỡ Chúa hiệp thông với nhau trong lời kinh, nhất là cử hành thánh lễ thờ phượng tôn vinh Chúa. Đồng thời, chúng ta càng hạnh phúc hơn khi được Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn mình.
Tuy nhiên, vì mải mê lo toan cho cuộc sống hằng ngày, cùng với những tội lỗi chất chồng theo năm tháng, ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta lắm khi trở nên tục hóa. Vì thế, xin Chúa thanh tẩy đền thờ tâm hồn chúng ta như Chúa đã thanh tẩy đền thờ Giêrusalem năm xưa.
Qua lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết quan tâm trân trọng nhà thờ, vì nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi thờ phượng Chúa. Xin cho chúng ta biết gìn giữ đền thờ tâm hồn trong sạch để xứng đáng là nơi Chúa ngự. Amen.
Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.
Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.
Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.
Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.
Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.
Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.
Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.
“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”
+ Ghi nhớ
Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.
+ Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
- Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia (1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga 1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng cách này, dự đoán “giờ” của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng với đức tin, với lòng gắn bó riêng.
- Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng, Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua) tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15). Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên Chúa bằng tiền bạc.
- Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác. Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi. Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?" (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ biết đó là cái chết của Người: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.
3. Một vài câu hỏi cá nhân
- Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?
- Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát dứt khoát của bạn không?
Hôm nay chúng ta mừng kính ngày cung hiến đền thờ Latêranô, đền thờ đầu tiên của Giáo hội La mã, được coi như là mẹ của các đền thờ khác. Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám mục Rôma. Đền thờ này được hoàng đế Constantinople xây dựng vào năm 320, thời gian Giáo hội vừa thoát khỏi cơn bách hại tàn khốc để bước vào giai đoạn huy hoàng.
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh thiêng, là nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận những sự thờ kính và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống thần linh.
Chắc hẳn nơi cư ngụ của các thần linh không thuộc trần gian này, nhưng có thể nói, đền thờ đồng hóa với nơi cư ngụ ấy, nhờ đó con người giao tiếp được với thế giới của các thần linh. Chính trong chiều hướng này mà chúng ta tìm thấy những hình ảnh của đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người, nhưng đó mới là một dấu chỉ tạm thời, sẽ được thay thế bằng thân xác Đức Kitô với Giáo hội của Ngài, như là một đền thờ mới và có tính cách vĩnh cửu.
Vào thời các tổ phụ, người Do thái không biết đến đền thờ, cho dù họ vẫn có những nơi thánh để kêu cầu với Đức Giavê như Bêtal, như Sichem, như Sinai…Nhưng rồi sau đó, họ đã dùng một thánh điện lưu động, để Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân chúng đang được Ngài dẫn qua sa mạc. Đó là nhà tạm với hòm bia giao ước.
Sau khi người Do thái đã tiến vào miền đất hứa và lập thành vương quốc, bấy giờ Đavid mới nghĩ đến việc xây dựng đền thờ dâng kính Thiên Chúa. Ước mơ ấy được Salomon thực hiện. Ông đã xây dựng đền thờ Giêrusalem với tất vả vẻ huy hoàng của triều đại ông, và Thiên Chúa đã nhận đền thờ ấy như nơi cư ngụ của Ngài. Vì thế, đền thờ Giêrusalem trở nên trung tâm sinh hoạt chính trị về tôn giáo của người Do thái. Người ta từ khắp nơi hành hương về Giêrusalem vào những dịp lễ lớn để cầu nguyện, kết hiệp và tôn thờ Thiên Chúa.
Năm 587 trước công nguyên, đền thờ Giêrusalem bị vua Nabucodonosor phá hủy và bắt một số người Do thái phải lưu đày sang Babylon. Sống dưới ách nô lệ với những đau khổ và nặng nhọc, nhưng lòng họ vẫn hướng về đền thờ Giêrusalem. Thế nhưng, bây giờ đền thờ Giêrusalem đã bị đổ vỡ hoang tàn. Vì thế, họ đã tìm thấy một chiều hướng tôn thờ mới, đó là tôn thờ thiêng liêng, tôn thờ trong tâm hồn vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.
Trong Tân ước, đền thờ chính là thân xác Đức Kitô: Đền thờ ấy bị phá hủy nhưng dã được xây dựng lại trong ba ngày. Đây mới chính là đền thờ vĩnh cửu, không do tay người trần thế làm nên, nhưng do chính Ngôi lời. Đền thờ ấy nói lên sự hiện diện thiết thực của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Ngoài ra, các Kitô hữu còn ý thức rằng chính họ kết thành đền thờ mới, đền thờ thiêng liêng nơi thân thể Đức Kitô, đó chính là Giáo hội. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa, thiết lập trên Đức Kitô. Ngài là nền móng, là đầu và là viên đá góc tường.
Còn chúng ta thì sao? Tâm hồn mỗi người cũng phải là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục đã nói với chúng ta: Hỡi thần ô uế, hãy xéo đi, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thần Linh Thiên Chúa.
Bao lâu sạch tội trọng, bao lâu còn sống trong ân nghĩa Chúa thì linh hồn chúng ta chính là một ngôi đền thờ sống động cho Thiên Chúa. Trái lại, khi phạm tội trọng, chúng ta là những kẻ dám nói với Thiên Chúa như sau: Hỡi Thiên Chúa, xin Ngài hãy ra khỏi tâm hồn tôi để nhường chỗ cho ma quỷ.
Chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn mình cho trong sạch, xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, chứ đừng biến nó thành hang trộm cướp. Chúng ta hãy noi gương bắt chước ông Giakêu đã tiếp đón Chúa tại nhà mình. Chính sự hiện diện của Chúa đã đem lại cho ông niềm vui mừng và hy vọng, để rồi ông đã hoán cải bản thân, làm lại cuộc đời. Hãy sửa đổi những sau lỗi để tâm hồn chúng ta thực sự là một đền thờ được dâng hiến cho Thiên Chúa.
Hai anh chị kia sắp cưới. Trong khi chuẩn bị hôn nhân, họ xin cha làm lễ cưới tại một cảnh thơ mộng trên núi. Họ ngạc nhiên thấy cha nói không được. Họ phải làm lễ cưới tại nhà thờ xứ của họ. Họ tỏ ra bất mãn. Cha cho biết đó là luật của địa phận nhưng họ thắc mắc làm sao đám cưới của họ mà họ không được làm nơi họ muốn?
Điều anh chị này thắc mắc có liên quan đến lễ chúng ta cử hành hôm nay, lễ kỷ niệm Dâng Hiến Thánh Đường Lateranô. Thánh đường này từ thế kỷ thứ 12 vẫn được coi là mẹ, là đầu của các nhà thờ. Thánh đường này cũng là nhà thờ chính toà của Đức Giáo Hoàng.
Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta nghĩ đến nhà thờ của giáo xứ, cộng đoàn chúng ta.
Nhà thờ tượng trưng cho thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô và mỗi Kitô hữu được kêu gọi để xây dựng thân thể mầu nhiệm này. Nhà thờ ví như bào thai cho ra đời những người con cùng một trí một lòng truyền tụng và phục vụ Nước Trời.
Để thực hiện điều đó, mỗi nhà thờ luôn thực hiện việc xây dựng cộng đồng. Như các đường chỉ được dệt với nhau thành tấm vải, mỗi người cũng có một sứ vụ hiệp thông trong trong chiều hướng để sứ vụ chung được kết quả tốt đẹp trong tinh thần Chúa Kitô.
Những người trong giáo xứ hoặc là lạnh nhạt với mọi người và điều đó không xứng với Kitô Giáo; hoặc mọi người tích cực liên hệ đến giáo xứ, kiến tạo một cộng đồng một trí một lòng.
Mỗi lần chúng ta tham dự vào một bí tích nhắc nhớ chúng ta mục đích của bí tích là xây dựng thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong sự dấn thân chung đó là hiệp thông và thi hành sứ mệnh. Vì thế bí tích được khuyến khích cử hành tại nhà thờ. Nhà thờ trở nên nơi liên kết, để tinh thần thân thiện được triển nở chứ không phải chỉ là nơi tụ họp của những muốn giữ thái độ xa lạ.
Chúng ta cố gắng làm cho giáo xứ chúng ta nên cơ hội thuận tiện cho tinh thần hợp nhất Chúa Kitô được phát triển. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ chia rẽ, không thể đầu hàng trước các phe nhóm.
Giống như cặp anh chị sắp cưới được nói cho biết là họ cử hành bí tích hôn phối của họ nơi nhà thờ của họ. Cùng với những lý do khác, các giáo dân cùng cử hành với họ, dâng họ lên Chúa, cầu nguyện cho họ, và nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời.
Để kết thúc, chúng ta đọc lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: "Anh em không còn là người xa lạ, là khách ngoại bang. Anh em là công dân của các thánh, là phần tử nhà của Chúa."
Hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.
Khi một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường, mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…
Vị thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em. Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.
Cũng thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.
Chúng ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an toàn.
Tới đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm thật êm đềm và tươi đẹp.
Phải, giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được dành cho mọi người.
Thực vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để cử hành bí tích Hôn phối.
Và sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.
Và nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và giúp đỡ cho những người chung quanh.
Tuy nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo xứ hay chưa?
Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời. 10/11 – Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. "Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
* Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe dọa niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".
"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta câu chuyện về Mạnh Thường Quân. Ông là tướng quân của nước Tề vào thời Chiến Quốc. Khi ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ về cho mình, Phùng Huyên lại đốt giấy nợ của nhiều người và tha luôn nợ cho họ. Mạnh Thường Quân không hiểu hết được ý nghĩa việc làm này. Một năm sau, khi không được vua Tề tin dùng nữa, Mạnh Thường Quân phải lui về đất Tiết để cư ngụ. Dân chúng đổ xô ra đón ông như một vị ân nhân đáng kính. Bấy giờ ông mới hiểu việc làm khôn ngoan trước đây của Phùng Huyên. Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bối rối. Người quản gia bị mang tiếng là phung phí tài sản của chủ. Anh phải nghỉ việc, dù không rõ tiếng tiếng đồn ấy có đúng không. Anh không được bào chữa gì cho chính mình. Bây giờ anh chỉ lo chuyện tương lai, sau khi thất nghiệp. Anh suy nghĩ như một độc thoại: “Mình sẽ làm gì đây?” Và anh nhận ra những hạn chế của mình về thân xác và tâm lý. “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” (c. 3). Dường như một ý nghĩ đã lóe lên trong anh. “Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (c. 4). Anh quản gia chỉ có một thời gian ngắn để thu xếp trước khi ra đi. Anh đã gọi các con nợ của chủ đến, và trong tư cách là người còn có quyền, anh cho họ tự tay viết lại giấy nợ. Họ đều là người nợ ông chủ những số nợ lớn. Số nợ này được giảm đáng kể, dưới sự gợi ý của anh quản gia. Một trăm thùng dầu ôliu, nay chỉ còn nợ năm mươi thôi. Một ngàn giạ lúa, bây giờ chỉ còn nợ năm trăm. Dĩ nhiên đối với anh, tất cả đều phải theo nguyên tắc có qua có lại. Anh đã cho họ được hưởng lợi vào lúc này, thì hẳn họ sẽ phải nhớ đến anh lúc anh sa cơ lỡ vận (c. 4). Ông chủ chắc đã biết trò gian xảo của anh. Những lời đồn đãi trước đây quả không hoàn toàn vô căn cứ (c.1). Đúng anh là một tên quản gia bất lương. Vậy mà ông chủ đã khen anh, điều này làm chúng ta bị sốc. Nhưng chủ không hề khen sự bất lương của anh. Ông chỉ khen anh về cách hành động khôn khéo (c. 8). Anh khôn khéo vì anh biết nghĩ ra cách để tìm được bảo đảm cho mình, dù đó chỉ là thứ bảo đảm vật chất ở đời này có tính tạm bợ. Đức Giêsu lấy làm tiếc vì con cái ánh sáng là chúng ta lại không có được sự khôn ngoan như con cái đời này. Người ngoài đời có nhiều bí quyết để làm giàu, để thành đạt. Họ có đủ khôn khéo để công việc kinh doanh được trôi chảy. Họ dám có sáng kiến và dám liều để đem ra thực hiện. Ước gì chúng ta có sự khôn ngoan đích thực và ngay thẳng, nghĩa là biết khéo tận dụng mọi sự mình có, để được gặp Chúa ở đời này và được hạnh phúc ở đời sau. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Giàu sang, danh vọng, khoái lạc. Là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con Và không cho chúng con tự do ngước lên cao Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, Nhờ cảm nghiệm được phần nào Sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi Bán tất cả những gì chúng con có, Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng Trước những lời mời gọi của Chúa, Không bao giờ ngoảnh mặt Để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Người quản gia được ông chủ khen là khôn ngoan. Vì ông không có của cải nhưng đã biết lợi dụng của cải của chủ để làm lợi cho mình. Vì ông biết thời hạn làm quản gia của ông sắp hết nhưng ông biết chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Vì ông biết mua chuộc bạn hữu để sau này họ đón tiếp khi ông hết thời. Ông đã làm ơn cho những người mắc nợ chủ. “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy’? Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’….Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo”. Và Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Chúng ta cũng là quản gia của Chúa. Thời hạn quản gia của chúng ta cũng có hạn. Hãy biết noi gương người quản gia kia. Biết dùng của Chúa mà mua lấy bạn hữu. Biết chuẩn bị để khi hết thời làm quản gia họ sẽ đón tiếp chúng ta.
Thánh Phao-lô là người quản gia khôn ngoan. Vì Thiên Chúa ban cho ngài ân sủng chuyên rao giảng Tin Mừng. Ngài đã sinh lợi là đưa nhiều người về cho Thiên Chúa. “Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Theien Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài đã biết dùng ân sủng Thiên Chúa ban. Và ngài tự hào về điều đó. Những người nhận biết Thiên Chúa làm lợi cho Nước Chúa. Nhưng cũng là niềm tự hào của ngài. “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, việc làm, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần…Tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô” (năm lẻ).
Ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương bắt chước ngài. Hãy lo làm giàu ở trên trời. Vì cuối cùng Chúa sẽ biến đổi chúng ta. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Ngài yêu mến họ và mong họ cùng ngài kết hợp với Chúa để cùng được hưởng niềm vui và hạnh phúc: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (năm chẵn).
Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: "Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện".
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
Ðể nói về mầu nhiệm của nước Trời, Chúa Giêsu không những dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Chúa còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Chúa Giêsu không cố ý cho các đồ đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy. Chẳng hạn nơi Mt 10,16 Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Chúa Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.
Ðể hiểu thêm về dụ ngôn người quản lý gian ngoan này, chúng ta hãy nhớ rằng vào thời Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giầu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Do đó, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể trên đây, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. Ðó là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Và câu cuối cùng của dụ ngôn: "Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng" nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Chúa Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.
Áp dụng cho các đồ đệ của Chúa Giêsu, những con cái của sự sáng, Chúa Giêsu muốn sao cho các đồ đệ của Ngài cố gắng vận dụng hết khả năng trí khôn của mình để làm cho những nén bạc tài năng Chúa ban cho được trổ sinh những hoa trái tốt đẹp. Những kẻ xấu, những người ác mà còn biết ra sức vận dụng hết khả năng trí khôn của họ để làm chuyện xấu, nghịch luật Chúa, hại anh em. Trong khi đó, tại sao những người đồ đệ đích thực của Chúa Giêsu, những con cái sự sáng lại không dấn thân hết sức mình, không sử dụng hết khả năng trí tuệ của mình để làm điều tốt, bổ ích cho chính mình cũng như cho anh chị em chung quanh.
Người đồ đệ đích thực của Chúa không thể nào có một thái độ ỷ lại, lười biếng trong việc tốt và phải dấn thân tích cực hết sức lực mình. Con hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng cũng phải hết sức lực, với hết khả năng trí khôn Chúa ban cho.
Lạy Chúa
Xin thức tỉnh mỗi người chúng con khỏi sự ù lì, lười biếng tinh thần. Nước Chúa dành cho những kẻ mạnh, cho những ai dấn thân hết mình cho điều tốt. Xin thương ban cho chúng con nghị lực kiên trì trong việc tốt, đẹp lòng Chúa, bổ ích cho anh chị em chung quanh. Xin cho chúng con biết hăng say làm việc tốt mà không cần phần thưởng nào khác hơn là biết chúng con đang làm tròn ý Chúa.
Mình biết phải làm gì rồi! để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ! Anh ta cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai này của bác đây ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: Một ngàn thùng lúa. Anh ta bảo: Bác cần lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế! Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc. 16, 4-8)
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu khi thì nói với biệt phái, lúc nói với dân chúng hay các môn đệ, Người muốn giáo huấn họ đặc biệt về trách nhiệm của họ như người quản lý của Thiên Chúa.
Người xảo quyệt của thế giới đen
Người quản lý bất lương thấy thế giới của hắn bỗng chốc sụp đổ. Ngày phán xét đến cũng bỗng chốc thế. Hắn mất địa vị và danh tiếng. Đời sống hiện tại vật chất cũng lâm nguy, nhưng chủ còn để hắn một ít lâu để tính sổ. Hắn tự nhủ và nhận thấy phải hành động mau chóng và liều lĩnh để bảo đảm nuôi thân sau này. Hắn tha cho những con nợ của chủ một số nợ bằng năm trăm ngày công. Như thế, hắn có thể bảo đảm đời sống sau khi mất chức quản lý. Đức Giêsu khen tên quản lý trộm cắp này vì đã hành động khôn khéo biết lo cho đời sống.
Sự khôn khéo đó đáng làm gương cho con cái ánh sáng
Đức Giêsu không ca ngợi tên quản lý quỷ quyệt hỗn láo đó. Nhưng sự khôn khéo của hắn đúng là dấu chỉ của thời đại. Hắn đã hết thời vào ngày chủ đòi hắn tính sổ. Điều Đức Giêsu muốn rút ra bài học là sự táo bạo của hắn, khiến hắn khai thác tối đa một ít thời giờ còn lại, đã giúp bảo đảm tương lai của hắn.
Cũng thế, môn đệ không biết khôn khéo khi Chúa đến và đòi tính sổ, các ông phải biết tha thứ tất cả những ai mắc nợ với mình để Chúa cũng tha nợ cho các ông. Các ông còn phải chăm sóc mọi gia nhân trong nhà chủ đã trao phó cho các ông. “Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ về thấy nó đang làm việc chu đáo”.
Đối với những công việc ở thế giới này, những người muốn bảo đảm được tương lai vật chất, phải tỏ ra rất khôn khéo. Họ đã khôn khéo xử đối với đồng loại mình, nhưng lại không khôn khéo với những công việc nước trời. Trái lại con cái ánh sáng, những người tin vào Đức Giêsu, Đấng là ánh sáng, lại không biết khôn ngoan để bảo đảm được ơn cứu độ. Họ phải cố gắng thực hiện được sự táo bạo và khôn khéo, và hành động khi còn thời giờ, như con cái của xã hội đen.
Khi nói đến Đức Giêsu, chúng ta biết Ngài là Đấng Chân Thật, vì thế, Ngài luôn bênh vực sự thật và tố cáo bất công, gian tham... Ấy vậy mà bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa cho chúng ta ngỡ ngàng khi Đức Giêsu đề cao thái độ gian lận, giả dối của tên quản lý bất trung!
Tin Mừng kể lại: khi hắn biết chắc mình không còn được trọng dụng nữa vì những thất thoát mà hắn gây nên. Người quản gia này đã sử dụng mánh khóe theo kiểu: “Dùng phương tiện xấu để đạt được mục đích tốt”. Vì thế, anh ta đã gọi từng con nợ của chủ đến hỏi về số nợ, rồi lấy văn tự ra, viết giảm số nợ đi. Đây là một hình thức biển lận của chủ mà tên quản lý bất lương gỡ gạc vào những giờ phút chót trước khi bị xa thải.
Sau khi kể dụ ngôn này, nhiều người chưng hửng khi thấy ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó khôn ngoan, nhanh nhạy khi hành động cách khôn khéo!
Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề có thái độ tôn vinh hay chấp nhận hành vi bất chính của người quản gia này, nhưng ngang qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ và cho mỗi chúng ta rằng: phải khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, biết tận dụng mọi cơ hội và biến cố để loan báo Tin Mừng, biết chuẩn bị cho tương lai, biến chúng thành những cơ may để gặp gỡ Chúa, ngõ hầu đạt được Nước Trời làm gia nghiệp.
Nếu người quản gia kia đã khôn khéo và mánh khóe thì mỗi chúng ta hôm nay cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích chúng ta đang theo đuổi trong cuộc sống.
Vậy đâu là mục đích và lẽ sống của chúng ta? Hẳn không phải là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú... Những thứ đó không phải là mục đích, điểm đến của người Kitô hữu. Nhưng mục đích tối hậu của chúng ta chính là Nước Trời. Vì thế, ngay giây phút này, mỗi chúng ta hãy biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu mai ngày trên Thiên Quốc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời chúng con. Amen.
Sứ điệp: Người quản lý “bất lương” phải chạy đua với thời gian bằng cách sáng suốt có những hành động kịp thời, để giúp anh ta có cơ hội sống còn sau này. Chúng ta cũng cần phải khẩn cấp với thái độ sáng suốt chuẩn bị cho đời sống mai sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, các trang Tin Mừng thường nhắc đến tính khẩn cấp và bất ngờ của việc Chúa tái xuất hiện. Chúa sẽ đến với từng người trong các biến cố cuộc sống, nhưng nhất là Chúa sẽ đến trong giờ phút kết thúc cuộc đời tại thế.
Vâng, lạy Chúa, con sẽ phải tính sổ cuộc đời mình. Đó là việc khẩn cấp, vì con không thể biết chắc chắn, con sẽ giã từ cuộc đời vào lúc nào. Vì khẩn cấp, con phải điều chỉnh ngay thái độ sống của con đối với Chúa và đối với anh em. Vì khẩn cấp, con cần thực hiện ngay những lời Chúa dạy và thực hành ngay những điều được học biết về giáo lý của Chúa. Vì khẩn cấp, con cần sử dụng thời gian cách hữu ích và lợi dụng từng cơ hội, từng biến cố để biến thành những cơ may gặp Chúa, gặp anh em, và để làm việc thiện chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu.
Lạy Chúa, hành trình về vĩnh cửu là lối đường con phải đi một mình, và những ngày chuẩn bị cũng không ai thay thế con được. Con chỉ biết cậy dựa nơi Chúa, và tìm thấy sức mạnh nơi sự trợ giúp của Chúa mà thôi. Cuộc hành trình về vĩnh cửu đã bắt đầu. Từng ngày con sống là từng phút giây hướng về Chúa. Từng ngày qua đi là từng bước con rút ngắn khoảng cách tiến về đời sống vĩnh cửu. Xin Chúa giúp con luôn đặt mình trước mặt Chúa, sống vì Chúa và cho Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”.
Mạnh Thường Quân là người giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết Thành đòi nợ. Khi đi, Phùng Huyên hỏi:
Ngài có định mua gì về không?
Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết Thành, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân:
Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết Thành cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết Thành. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
Đó là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước...
Suy niệm
Trọng tâm câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý. Thánh Luca không nói mọi chi tiết về người quản lý này bất lương ở chỗ nào. Không biết ông có tham nhũng ăn chặn của được giao trách nhiệm, vơ vét vào túi riêng như các tham quan hôm nay hay không, chỉ biết rõ là ông bị chủ bãi chức vì phung phá của nhà chủ. Như thế, cái tối thiểu của người quản lý là anh đã không chu toàn bổn phận: Bảo toàn và sinh lợi trên gia sản mà anh có trách nhiệm được giao
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thời đó ở Palestine, người quản gia thay thế gia chủ quản lý tất cả tài sản và làm một cách tốt nhất để tài sản đó được sinh lợi. Người quản gia không có lương nên có quyền cho người khác vay tài sản của chủ mình vừa làm lợi cho chủ vừa làm lợi cho chính mình. Cho nên, trong lúc thỏa thuận, ông có thể ghi số lượng lời trội hơn, vì phần lời cho chủ và phần lời cho chính ông như là lương của ông. Nhờ đó, khi thu số vốn cho vay ngoài phần lời phải có cho chủ, ông được phép thu số dư làm của riêng mình. Cho nên, khi biết mình sắp bị bãi nhiệm, người quản gia trong dụ ngôn tính lại cho những người vay mượn phần của mình, chỉ ghi lại số lượng ông chủ phải thu hồi. Do đó, người chủ không bị thiệt mà người nợ lại biết ơn người quản gia. Người quản gia sửa đổi số lượng ít đi, không phải vì ông đã làm hại cho chủ, mà ông chịu thiệt thòi phần của chính ông để khôn khéo xếp đặt dự tính cho tương lai chính mình. Như vậy, người quản gia này trước đó không chỉ hoang phí tài sản của chủ không biết vào mục đích gì (có thể vào túi riêng: Tham nhũng) nhưng lợi dụng chức vụ bóc lột người nghèo quá mức. Tuy nhiên, ông đã biết “sửa sai” trong giờ chót, biết “nhả ra chút ít của bất chính” để mong tìm được con đường hậu vận khi bị bãi chức. Dưới góc độ tính toán, ông được khen vì xử lý kịp hoàn cảnh lúc “không ổn” của mình để tìm bãi đáp và hạ cánh an toàn.
Giữa những thực tế hoang tàn vì tham nhũng trong xã hội, Lời Chúa đang văng vẳng bên tai chúng ta về tư cách người quản lý: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10). Ngài mời gọi chúng ta trở nên người quản lý theo Tin Mừng: Quản lý của cuộc sống riêng mình; quản lý tốt với những gì chúng ta có: tài năng, khuyết điểm... như người chủ biết tận dụng cái cũ, cái mới trong kho cuộc đời (x. Mt 13,52) để làm cho cuộc đời thêm phong phú và quản lý việc công nếu được giao trách nhiệm gánh vác: Hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Ý lực sống
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại dụ ngôn người quản lý bất lương, để trình bày bài học phải biết khôn ngoan sử dụng tiền của đời này để mưu ích cho phần rỗi đời đời. Thật thế, con người ngày nay rất khôn khéo khi tính toán để tìm hạnh phúc đời này. Nhưng sự khôn ngoan đích thực thì ít có ai tìm được, hay cố gắng đi tìm. Cũng như người quản lý trong Tin mừng hôm nay, ông đã dùng sự khôn khéo gian manh để tìm hạnh phúc cho đời sống của ông. Qua đó, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta phải biết dùng sự khôn ngoan của mình để sử dụng gia tài Chúa ban: sức khỏe, thời gian, tiền của... mà tìm lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý: Đức Giêsu không khen việc lỗi đức công bằng này, vì việc làm này là gian lận của chủ, đây là cái lỗi. Tuy nhiên, Chúa khen anh vì biết tận dụng tất cả những khả năng và điều kiện, địa vị sẵn có, để có lợi cho về sau của mình. Anh khôn khéo vì biết tận dụng những ngày cuối cùng còn lại trong nhiệm vụ, để lấy lòng người khác, để tạo một ảnh hưởng và chỗ dựa sau này, biết tận dụng thời gian và những điều kiện có sẵn để lo cho số phận tương lai của mình. Dụ ngôn chỉ dừng lại với ý nghĩa là, tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban và là của Chúa, điều quan trọng là chúng ta biết dùng những ân huệ Chúa ban để giúp đỡ tha nhân, và chính điều này sinh lợi cho chúng ta khi chúng ta không còn được quản lý thân xác và những ân huệ đó nữa.
Mặc dầu người quản lý trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Đức Giêsu đã rất khéo lấy hình ảnh người quản lý đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình, nên họ đã sử dụng chúng không theo ý của Chúa. Hãy biết noi gương người quản lý này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Mọi sự trần thế không theo chúng ta về đời sau! Chính vì thế, Đức Giêsu dạy chúng ta một điều vô cùng khôn ngoan, là hãy “dùng tiền bạc và những giá trị trần thế để mua lấy bạn hữu để sau này họ sẽ đưa chúng ta về nơi an nghỉ đời đời”.
Kho tàng Nước trời của mỗi người chúng ta tuỳ thuộc việc chúng ta sử dụng kho tàng trần thế của mỗi người chúng ta như thế nào. Khi chúng ta tiêu xài cho riêng mình thì kho tàng Nước trời của chúng ta trống rỗng! Trái lại, khi chúng ta cho đi, cho những người bất hạnh, tàn tật, khổ đau là kho tàng Nước trời của chúng ta tăng gấp bội! Tất cả mọi người đều là những người thủ quỹ của Thiên Chúa! Mọi khả năng, sức khoẻ, thời giờ, địa vị... tất cả đều của Chúa trao ban, chúng ta hãy trở thành người quản lý tốt, để đời sống chúng ta đem lại vinh quang.
Qua câu chuyện trên đây, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: nếu người đời có sự khôn ngoan và mánh khoé, thì các môn đệ cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích họ theo đuổi trong cuộc sống. Đâu là mục đích và lẽ sống của người Kitô hữu? Nếu mục đích của cuộc sống chỉ là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú và những gì sẽ qua đi, thì điều đó có đáng cho con người đầu tư cả cuộc đời không?
Với người môn đệ Chúa Kitô, sự khôn ngoan ấy cũng được tỏ lộ qua thái độ của họ đối với của cải trần thế. Họ là những người khôn ngoan thực sự, khi họ luôn ý thức rằng: của cải trần thế này không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để đạt tới cùng đích. Sống như thế nào để của cải trần thế không trở thành một chủ nhân sai khiến và biến mình thành nô lệ. Sống như thế nào để xuyên qua mọi thực tại chóng qua của đời này biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, sống như thế mới thực sự là sống khôn ngoan (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Ông Mạnh Thường Quân
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không? - Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân đến bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.
1. Phong tục do thái: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
2. Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là “bất lương”. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự “bất lương” này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?...).
3. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Mặc dù người quản lý trong dụ ngôn này không tốt cho lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản lý làm dụ ngôn. Chúa muốn nhắc rằng đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải xử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình.
2. Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia? - Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
3. “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại.” (Lc 16, 8b)
Ở đời, “biết mình biết người trăm trận trăm thắng.” Người quản gia bất lương trong dụ ngôn xưa, hơn ai hết, biết rõ thực trạng tội lỗi của mình, và biết chắc nguy cơ bị sa thải là không tránh khỏi. Điều hơn người là y dám nhìn thẳng vào sự thật và dùng hết khả năng còn lại của mình để đổi lấy tình thân hữu, dự phòng cho tương lai. Y đã thành công do biết nhìn xa trông rộng.
Ở đây Thiên Chúa không có ý định ủng hộ những hành động mưu lợi bản thân, mà qua đó Ngài muốn nhắc nhở chúng ta về một chân lý: dự phòng cho tương lai. Đời này đã có thể an tâm, còn dự phòng cho cuộc sống đời sau, hẳn hạnh phúc hơn nhiều.
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng cuộc sống đời này để mua lấy cuộc sống đích thực nơi quê trời. (Hosanna).
1. Mặc dù người quản gia trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản gia này để làm nên một dụ ngôn dạy đời. Chúa muốn nhắc rằng, đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình nên họ đã sử dụng chúng không theo đúng ý Chúa.
Hãy biết noi gương người quản gia này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi vào cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia? - Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chúng tọi chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Thế tiền-cho-đi là tiền khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi ấy ở đây.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
2. Chúa nói: "Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại." (Lc 16, 8b)
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử:
- Người khôn có sống lâu không?
Khổng Tử đáp:
- Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được!
Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chứ không phải số mạng đáng chết mà chết.
+ Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế, thì phải chết về bệnh tật
+ Phận là người dưới, mà xúc phạm người trên, lòng tham muốn không ngừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
+ Mình ngu, mà mình kịch người khôn, mình yếu mà khinh bỉ người mạnh; không biết lượng sức mạnh, mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết vì binh đao.
Ba thứ chết ấy thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi.
Phần chúng ta, chắc chắn là chúng ta đều muốn sống và sống lâu, nhất là sống đời đời. Muốn thế chúng ta biết sống cho thật khôn ngoan.
Đức Giáo Hoàng Innocentê II có một chiếc hộp, Ngài thường mở ra coi; người thì cho là trong đó để một di vật quý của gia đình Ngài, người thì cho là tượng Chúa hoặc ảnh một vị thánh, người thì cho là hài cốt của vị thánh Ngài tôn sùng.
Một hôm, cha Claudius Aquavina Bề Trên dòng Tên, bạn thân của Đức Giáo Hoàng, vào yết kiến, gặp lúc Đức Giáo Hoàng đang mở hộp xem, Ngài bảo cha Claudius đoán xem, hộp đó đựng gì? Cha Claudius không đoán được.
Lúc đó, Đức Thánh Cha mới mở hộp ra, trong hộp này có một quan tài nhỏ, và trong quan tài có để chân dung Đức Thánh Cha. Rồi Đức Thánh Cha nói: "Vào lúc khởi đầu điểu khiển Giáo Hội, ta phải quyết định nhiều việc quan trọng. Thường thì dân chúng cố áp lực với ta, không chỉ bằng tranh luận, mà cả bằng tiền tài và danh dự nữa. Nhưng trước khi quyết định bất cứ vấn đề trọng đại nào, ta cũng mở hộp này ra, nhìn vào quan tài đựng chân dung của ta, và tự nhủ: "Hỡi Innocentê, ngày kia ngươi sẽ chết, khi ngươi nằm vào quan tài, thì ngươi liệu còn làm được gì nữa không? Lúc ấy ngươi nghĩ phải làm sao, thì bây giờ ngươi hãy làm đi!
Vì thế ta đã hành động theo đúng những quyết toán được định đoạt ở đây, bên chiếc hộp đựng quan tài này."
Vâng! Phải chọn cho mình một con đường để thể hiện cuộc sống của mình. Thành công hay thất bại đều lệ thuộc vào sự chọn lựa căn bản này.
Đây là những lời được viết trên tường của căn nhà dành cho các trẻ em ở Calcutta:
Hãy dành thì giờ suy nghĩ Ðó là nguồn sức mạnh Hãy dành thì giờ để cầu nguyện Ðó là sức mạnh toàn năng Hãy dành thì giờ cất tiếng cười Ðó là tiếng nhạc của tâm hồn Hãy dành thì giờ chơi đùa Ðó là bí mật để trẻ mãi không già Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu Ðó là ưu tiên Thiên Chúa ban cho Hãy dành thì giờ để cho đi Vì một ngày quá ngắn để ích kỷ Hãy dành thì giờ cho bác ái Ðó là chìa khóa cửa thiên đàng. Amen.
Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn. 11/11 - Thánh Máctinô, giám mục. Lễ nhớ. "Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.
Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn.
Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ.
Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật… Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa: đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi. Ngay cả các Kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa, và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài, cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay. Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của, nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này. Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13). Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai. Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của? Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi. Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ. Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do thái cổ có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa. Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi, nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa. Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa, thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13), nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha. Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin. Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất. Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo. Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời. Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại. Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta, để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời? Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô. Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái, để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện. Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi, và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi. Dù không phải là một Kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật, nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải. Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm, nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc. Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân, đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường. Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn. Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen. -------------------------------
Sau cùng chỉ còn một cuộc chiến. Chỉ còn một đối thủ. Chỉ còn một lựa chọn. Thiên Chúa hay Tiền Tài. Với khẳng định này Chúa tóm tắt những gì cần phải nói về tiền bạc. Tiền bạc vốn chỉ là một phần trong đời sống. Chỉ là một tôi tớ. Một phương tiện phục vụ con người. Thường hay phản loạn. Cạnh tranh với Chúa. Chiếm vị thế của Chúa. Đó là điều rõ nét trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiền bạc chi phối tất cả sinh hoạt của con người. Tiền bạc thống trị thế giới. Tiền bạc lên tiếng mọi tiếng nói khác phải lặng im. Kể cả lương tâm. Kể cả đạo đức. Thật là đáng báo động,
Với khẳng định này Chúa cho biết Chúa là trên hết. Chúa là tất cả. Thực vậy có gì tôi có mà không phải do Chúa ban. Từ sự sống đến linh hồn. Từ thân xác đến trí khôn. Từ thời giờ đến sức khoẻ. Từ gia đình đến bạn hữu. Tất cả phải dâng lại cho Chúa. Tất cả là phương tiện Chúa ban giúp tôi đạt đến sự sống đời đời. Giúp tôi trở về với Chúa. “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè. Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Thánh Phao-lô làm gương cho ta về điều này. Sau khi được biết Chúa, ngài đã dùng tất cả cuộc đời để phục vụ Chúa. Phục vụ Tin Mừng. Kể cả những mối quen biết của ngài. Cuối bức thư Rô-ma ta thấy ngài gửi lời chào thăm rất nhiều người. Nhưng không phải vì cá nhân ngài. Chỉ vì Nước Trời. Chỉ vì lợi ích thiêng liêng. Và cuối cùng qui về Chúa: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Amen” (năm lẻ).
Biết dùng mọi phương tiện trần gian. Đặc biệt tiền của. Để tôn vinh Thiên Chúa. Tạo hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài còn khích lệ các tín hữu hãy biết dùng tiền của vì Chúa và vì lợi ích thiêng liêng. Khi nhận được trợ giúp của giáo đoàn Phi-líp-phê, ngài cám ơn họ. Không phải vì ngài cần vật chất. Nhưng vì họ đã biết sống đức tin. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho họ. Ngài viết: “Bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em.... Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Tôi sử dụng tiền của hay để tiền của thống trị tôi?
Tham nhũng là cám dỗ xưa như cõi lòng tội lỗi của con người. Người tham nhũng là người chỉ nghĩ đến mình, bất chấp thiệt hại có thể gây ra cho người khác. Xúc phạm đến con người, tham nhũng rốt cuộc cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chính vì tính cách trầm trọng của tham nhũng, nên Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đưa ra một đòi hỏi: "Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của", bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự hủy, chối bỏ cùng đích của cuộc sống.
Tham nhũng và lừa đảo ở mọi qui mô trong xã hội chúng ta, đó là một kết luận hiển nhiên. Thế nhưng "thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối". Chúng ta hãy bắt đầu chống tham nhũng, lừa đảo, ích kỷ ngay trong con người của chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu các con không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm và giao phó của cải chân thật cho các con?". Nếu chúng ta chưa loại được tham lam, lừa đảo trong những sinh hoạt hằng ngày, liệu chúng ta có thể chống tham nhũng ở qui mô lớn hơn không?
Tham nhũng đối với mỗi người chúng ta có thể mang nhiều tên gọi: ích kỷ, khước từ chia sẻ, liên đới, cảm thông. Xét cho cùng, của cải là đển mọi người cùng hưởng dùng; nếu tham nhũng, lừa đảo là chỉ muốn lấy của người để dành riêng cho mình, thì bất cứ hành động ích kỷ nào, bất cứ khước từ san sẻ nào cũng là một hình thức tham nhũng. "Không ai có thể làm tôi hai chủ": của cải vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta thờ phượng người chủ duy nhất và đích thực là Thiên Chúa.
Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời. Xin cho chúng ta biết nhìn xa hơn về của cải vật chất, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông đối với tha nhân.
Có thể nói toàn chương thứ 16 Phúc Âm theo thánh Luca qui góp những lời dạy của Chúa Giêsu về việc sử dụng tốt những của cải cũng như về sự nô lệ cho tiền bạc. Ðoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây và muốn Suy niệm hôm nay tiếp liền và bổ túc cho những gì Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn về những khách được mời dự tiệc nhưng từ chối không đến, vì lòng họ còn quá bám víu vào những lợi lộc riêng tư.
Chúng ta cũng nên lưu ý nơi đây trước khi Suy niệm những lời Phúc Âm trên rằng Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt giầu nghèo. Việc sử dụng tốt tiền của hay việc lạm dụng sử dụng xấu tiền của không tùy thuộc vào số lượng ít nhiều, giầu nghèo nhưng tùy thuộc vào chính tâm hồn con người có thái độ như thế nào đối với tiền của. Nói cách khác, mọi người bất luận giàu hay nghèo đều có thể có thái độ sai lạc trước tiền của vật chất. Chúa Giêsu không lên án tiền của từ nơi chính nó nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta về thái độ phải có trước tiền của.
Chúng ta hãy lưu ý đến câu nói của Chúa Giêsu: "Không ai có thể làm tôi cho hai chủ một lượt. Không thể nào phục vụ Chúa và làm tôi cho tiền của". Từ ngữ được dùng trong nguyên văn mà chúng ta dùng từ "làm tôi cho" hay "phục vụ" trong khung cảnh Kinh Thánh, có mang thêm một chút ý nghĩa của hành động phụng vụ tôn thờ. Như vậy, câu nói được hiểu như sau: "Không ai có thể tôn thờ hai chủ được. Các con không thể cúi mình thờ lạy Thiên Chúa và thờ lạy thần tiền tài một lượt được. Con người chúng ta chỉ tôn thờ, chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ai tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình thật sự, thì không thể nào tôn thờ tiền của, đặt tiền của như là mục đích cuối cùng của đời mình". Nếu tiền của không phục vụ cho chúng ta để có được những người bạn mới trong nước Trời, hay nói cách khác, nếu chúng ta không đặt tiền của vào việc phục vụ cho anh chị em thì tiền của sẽ trở nên thần tượng không thể nào dung hòa được với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Ðấng đã nhập thể làm người, sống khó nghèo, đã làm cho chúng con được giàu có sự sống của Chúa.
Xin giúp chúng con sống trung thành với ơn gọi trong cuộc sống hàng ngày, để chúng con đừng rơi vào cám dỗ, thờ lạy tiền của mà bỏ quên Chúa và anh chị em. Xin cho chúng con biết sử dụng đúng tiền của, làm vinh danh Chúa và tạo ra phúc lợi cho anh chị em. ----------------------------------
Phần Thầy, Thầy bảo thật cho anh em biết: hãy dùng của cải bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc. 16, 9-10)
Lúc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã thấy mọi thứ đều tốt để phục vụ con người, Đức Giêsu không kết án chống lại của cải bản chất, nhưng chỉ chống lại thói dùng của cải bất chính của con người. Người nói tiền của bất chính như một quyền lực nô lệ hóa con người, cám dỗ con người làm điều bất lương để kiếm hay tiêu xài tiền của và bắt con người phục dịch tiền của. Nhưng người ta có thể dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê đã khuyên những người giàu ở trần gian này như sau: “Họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân … Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy, họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm. 6, 17a. 18. 19).
Thực hiện trung tín
Tiền của đời này phải phục tùng quyền quản lý của con người, yếu tố chính của người quản lý là trung tín. Tiền của đời này không phải là việc quan trọng mà Thiên Chúa trao phó cho con người. Đức Giêsu nói: “Đó là việc nhỏ. Nếu con người biết trung tín, tốt lành trong việc dùng tiền của, Thiên Chúa sẽ ủy thác cho họ quản lý việc lớn hơn là sự sống đời đời.
Để được quản lý việc quan trọng hơn
Sự sống đời đời là của chân thật, là sản vật ưu tiên hơn tất cả mọi vật. Chính khi quản lý tiền của bất chính, người ta tỏ ra trung tín vâng theo thánh ý Thiên Chúa, Ngài sẽ nói với họ: “Mọi sự của Cha là của con”. Nhưng Ngài chỉ có thể trao phó mọi sự của Ngài cho người quản lý nào đã được thử thách mà tỏ ra trung tín và công bằng.
Thực ra, tiền của chỉ là khách lạ đối với bản chất con người có tâm hồn cao thượng, có trí óc thông minh và thánh thiện.
Nếu con người chống cự lại sức cám dỗ của tiền của đã trao cho mình và không biến nó thành thần tượng, thì chứng tỏ mình có lòng trung thành với Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
Biệt phái mang tiếng tham lam tiền bạc vì họ coi nghèo khổ là sự chúc dữ. Họ tỏ vẻ ngạo mạn khinh bỉ Đức Giêsu, Đấng đã phá đổ sự an toàn dựa vào giàu có của họ, đồng thời Người tỏ cho thấy chỉ có lòng tin vững chắc được nên công chính trước mặt Thiên Chúa mới thực sự an toàn. Vinh quang trước mặt người đời là thứ gớm ghiếc trước mặt Thiên Chúa.
Tham nhũng trong xã hội hôm nay đang là cái tật khó cắt bỏ. Nó được ví như căn bệnh ung thư hay Sida của thời đại này! Tham nhũng cũng là đầu mối gây nên những điều bất chính khác. Có thể nói: tham nhũng như là nguyên nhân đệ nhất trong mọi nguyên nhân tiêu cực.
Tại sao lại xảy ra như vậy? Thưa điều đơn giản là con người ngày nay chỉ biết nghĩ đến mình mà không biết cảm thương người khác. Chúa của họ là cái bụng, là đồng tiền, vì thế, họ tìm mọi cách để vươn lên chức nọ việc kia, hầu có cơ hội kiếm trác...
Hôm nay, Đức Giêsu thấy được sự nguy hại của đồng tiền trong tiến trình theo Chúa của người môn đệ, vì thế, Ngài đã nói: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Thật là nguy hiểm cho đời môn đệ! Nếu vì tiền, hẳn người môn đệ sẽ không chu toàn bổn phận trong lòng mến; sẽ thượng tôn điều bất chính và tận dụng mọi cơ hội để khai thác nguồn lợi cho mình...; sẽ bất nhân với anh chị em; ích kỷ, kiêu ngạo và chối bỏ cùng đích của chính mình, thay vì tìm Nước Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cho người khác. Đồng tiền nó cũng rất dễ làm cho Lương Tâm bị chết nghẹt và đôi khi uốn nắn Thánh Ý của Thiên Chúa theo chủ đích của chính mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khởi đi từ chính mình để biết sống ngay thẳng, biết đặt cùng đích của chúng ta là Nước Trời để hướng tới. Có thế, chúng ta mới trở thành người trung tín trong việc quản lý gia sản của Thiên Chúa qua vai trò là tôi tớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khám phá ra giá trị của Nước Trời để biết sử dụng của cải theo ý Chúa, ngõ hầu chúng con sẽ trở thành những người tôi tớ trung tín và khôn ngoan. Amen.
Sứ điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chỉ mình Ngài đáng được tôn thờ. Ta không được đặt bất cứ sự gì thay thế vị trí của Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, và Chúa muốn con biết sử dụng đúng ý Chúa. Của cải vật chất tự nó là tốt vì là kết quả của lòng Chúa thương. Nhưng Chúa dạy con phải làm chủ nó, để phục vụ Thánh Ý Chúa và phục vụ anh em.
Cám dỗ lớn nhất của loài người chúng con là trở nên tôi tớ cho tiền bạc và của cải trần gian. Con dễ say sưa làm giàu, thu vén bạc tiền mà quên đồng loại. Con dễ trở nên ích kỷ: “Ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi”. Con vô tình coi tiền bạc trên hết, trở thành nô lệ cho ông chủ tiền bạc. Trong cuộc sống của con, đã có lần con phế bỏ Chúa khỏi lòng con. Con để tiền của thay thế vị trí của Chúa nơi lòng con khi con dùng phương tiện bất chính để làm giàu.
Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con để suốt đời con luôn biết làm tôi Chúa. Xin cho con đừng vì tham việc mà bỏ lễ Chúa Nhật, xin cho con đừng vì tham lời mà làm hại anh em.
Đặc biệt, xin cho con biết khôn ngoan như người tôi tớ trong
Tin mừng: biết dùng của cải là ân huệ Chúa ban mà sinh lợi thiêng liêng cho linh hồn con. Xin cho con luôn quảng đại mở rộng đôi tay chia sẻ những của cải Chúa ban, để giúp đỡ những anh em đang khốn khó hơn con. Xin cho con nhận ra rằng: một hạt gạo cho đi vì yêu mến Chúa sẽ trở thành một hạt vàng ân phúc tô điểm cho linh hồn con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con”.
Đức cha Tihamer Toth đã kể lại cho chúng ta câu chuyện về nhà điêu khắc Michel Ange làm việc như thế nào.
Một lần, có một người bạn của Michel Ange đến thăm ông. Người bạn đó ngạc nhiên vì thấy ông vẫn hí hoáy mãi trước một pho tượng: “Tôi thấy công việc của anh không khác hơn hôm trước tí nào”.
Nhà nghệ sĩ trả lời: “Trái lại, tôi đã sửa chữa được nhiều lắm. Đây tôi bớt đi một ít đất sét, làm nổi bật vết nhăn này, uốn mềm lại nét khác, làm cho cái miệng tươi hơn lên”.
Bạn ông cãi lại: “Những cái đó nhỏ nhặt quá”.
Michel Ange mỉm cười trả lời lại: “Đúng, nhưng chính những cái nhỏ nhặt này làm cho pho tượng được hoàn mỹ hơn và sự hoàn mỹ lại không phải là sự nhỏ nhặt”.
Suy niệm
Chúng ta cùng được Chúa mời gọi vào việc quản lý chung tùy theo nhiệm vụ được trao phó. Chúa Giêsu khẳng định tư cách của người quản lý là phải hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Cho nên, người quản lý theo Tin Mừng đòi hỏi không đặt mình quỵ lụy dưới sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vốn làm điên đảo bao nhà quản lý như thực tế mà chúng ta đã thấy nơi xã hội hôm nay. Người quản lý mà Chúa mời gọi tôi và bạn trở nên là sự tận tụy công vụ cho anh em đồng loại, đó là thể hiện sự tín trung của người làm tôi Thiên Chúa, cho nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Hơn lúc nào hết, đất nước và xã hội chúng ta cần những nhà quản lý theo ý muốn của Thiên Chúa: Người quản lý vì dân vì nước, những kẻ làm tôi cho tiền bạc, sẵn sàng vì “chủ tiền” mà phản bội hay thỏa hiệp cần phải loại trừ ra khỏi hàng ngũ những người quản lý.
Thật thế, trong việc quản lý đời mình và nhiệm vụ được giao, chúng ta cùng suy tư tâm tình của thánh Phaolô: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy” (Gl 6,7). Người gieo sự công chính trong cuộc đời sẽ gặt hoa trái công chính như người có năm nén làm lời năm nén, anh đã có lãi mà còn được cho thêm (x. Mt 25,29).
Người gieo sự tín trung sẽ gặt hái được niềm tin…
Ý lực sống
“Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,27).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi người phải biết lo cho tương lai vĩnh cửu, khi biết dùng những của cải đời này sao cho ích lợi cho kho tàng mai sau trong nơi vĩnh cửu, để không bị nô lệ cho những của cải thế gian, nhưng biết chọn Chúa là chủ của đời mình. Vì thế Chúa bảo chúng ta phải biết lựa chọn: chọn Chúa hay của cải, bởi vì Chúa đã nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13).
Vào lúc khởi nguyên thế giới, Thiên Chúa đã thấy rằng: tất cả những gì Ngài làm để phục vụ con người đều tốt cả. Vậy Đức Giêsu không lên án những của cải vật chất nhưng chỉ lên án việc con người sử dụng của cải cách bất chính thôi. Vì vậy, Ngài nói đến “tiền của bất chính” như một sức mạnh nô lệ hoá con người, khi khiến họ trở thành bất lương trong việc chiếm đoạt và sử dụng nó, và đặt con người dưới quyền thống trị của nó. Nhưng người ta cũng có thể dùng tiền bạc mà làm giàu cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết cho Timôthêô nên khuyên người giàu có đời này “làm giàu về việc lành, ban phát rộng rãi và nghĩ đến kẻ khác, để thu góp một kho tàng sẽ làm vốn cho tương lai và để đạt được sự sống thật”.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra đòi hỏi: “Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của”, bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự huỷ, chối bỏ cùng đích của cuộc sống (Mỗi ngày một tin vui).
Vì thế, Tin mừng hôm nay trước hết mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm về thái độ của chúng ta đối với của cải trần thế mà Thiên Chúa đã tạo dựng và ban phát cho chúng ta, để chúng ta hưởng dùng và phụng sự Ngài. Bao lâu của cải trần thế là phương tiện giúp con người đạt tới cùng đích, thì bấy lâu chúng ta còn là người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Trái lại, khi tiền của đã trở thành cùng đích của cuộc sống, thì dĩ nhiên con người hiến tế cho nó không chỉ mạng sống của mình, mà còn hy sinh những gì quý giá và cao cả nhất trong trong cuộc sống, như nhân nghĩa, tình người, công bình, cũng như bác ái yêu thương.
Con người ai mà không thích tiền, ai mà không ham có nhiều tiền để tiêu dùng. Chúa dạy cho các môn đệ bài học về việc sử dụng tiền của. Tiền bạc là “đầy tớ tốt”, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách hữu hiệu cho mình và cho người khác; nhưng nó lại là “ông chủ xấu”, nếu ta để tiền bạc lôi cuốn chúng ta vào chuyện bất chính, khi bất chấp mọi thủ đoạn để kiếm tiền hoặc khi sử dụng đồng tiền cho mục đích xấu. Người môn đệ Chúa hãy sử dụng tiền của cách khôn ngoan, dùng tiền để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi linh hồn của mình và tha nhân (5 phút Lời Chúa).
Gần đây ở nước Anh, bác sĩ Roger Henerson đã đặt ra cụm từ “Hội chứng ám ảnh về tiền bạc”, để nói đến những triệu chứng tâm sinh lý của người quá ham mê tiền của. Ông nhận xét: “Lo lắng thái quá về tiền bạc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tâm trạng căng thẳng”.
Hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ về cám dỗ của đồng tiền. Việc đi theo Chúa đòi hỏi ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa hay tiền của, chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta phải biết sử dụng tiền bạc như phương thế, để mưu ích cho chính mình trên hành trình tìm kiếm Nước trời.
Truyện: Đồng tiền trên trời
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia? - Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được. - Thế tiền-cho-đi là tiền gì? - Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình, nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của:
- Ngài đánh giá tiền của là “gian dối”. - Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau. - Phải coi tiền của là đầy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ. - Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”: Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
a/ Tiền của có thể biến người sở hữu nó trở thành nô lệ cho nó;
b/ tiền của có thể được người ta tôn lên ngang hàng với Thiên Chúa, thậm chí cao hơn Thiên Chúa nữa!
2. Tôi thử xét lại liên hệ của tôi với tiền của xem tôi đang làm chủ nó hay làm nô lệ nó:
- Tôi vẫn còn làm chủ nó: khi tôi dám đem nó đi cho người khác, dám đưa nó cho người khác mượn, dám bỏ nó, khi tôi mất nó mà không đến nỗi như mất hồn…
- Tôi đã thành nô lệ nó khi ngày đêm tôi nghĩ tới nó, khi tôi trọng nó hơn tất cả mọi người khác, khi tôi sợ mất nó, khi vì nó mà tôi dám làm điều xấu…
3. Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước (Góp nhặt).
1. Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu muốn ta phải có một thái độ đối với tiền bạc. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
Tiền bạc là con dao hai lưỡi nên rất nguy hiểm.
Đây là những tư tưởng được loan truyền đó đây trong xã hội hôm nay.
Tiền trước tiên, tôn ta thành thần thánh, thành tiên thành thánh thượng.
Tiền tạo thành tích, thành tiên tiến, thành... tài, thành thân thế – tất thảy trân trọng.
Tay thủ tập tiền, trên tất thảy- tôn ti trật tự tiêu tán - tòa tù tội thảy tiêu tan - tội thành trong trắng, thất thu thành thành tựu - thấy tiền tựa thấy tiên - thấy trước tất thảy, thua thành thắng, tiền trợ thủ ta trên tất tật!
Túng tiền, tư tưởng, tinh thần tiêu tán, trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Thiếu tiền tất thua thiệt, tình tan tác, trong trắng thành tối tăm .
Thiếu tiền, thâm thủng, tủi thân, thành tham tàn, tù tội, thân thế tựa tre tàn, tất thảy thiếu tôn trọng, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. . .! (Tầm Vông, Gò Dầu-Tây Ninh)
“Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao. Bẻ cong chân lý lật nhào công minh
“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế” hiển linh Có bây, “pháp luật nghiêm minh” trò đùa Buồn thay! “Vật chất” làm vua “Đức” “Trí” “Lễ” “Nghĩa” phải thua đồng tiền! (NT2-Vũng Tàu)
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên, Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn! Tiền nhiều: mặc kệ. . .vẫn hơn Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo, Phất tay một cái nhằm nhè gì ông? (Tuổi trẻ cười –Xuân Canh Ngọ) Tiền bạc có thể làm cho người ta ra mù quáng, không còn phân biệt được thật giả. Xưa kia, có người nước Tề thích vàng. Sáng sớm, thay xiêm y đi ra chợ, đến hàng người đổi tiền, chộp một khối vàng, rồi đi.
Người ta bắt anh và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông người, mà anh dám đoạt vàng của người ta như thế?
Anh ta đáp lại:
- Lúc tôi thấy vàng, đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa đâu, tôi chỉ thấy vàng thôi.
Vì tiền bạc, nhiều người đã đánh mất cả lương tâm, cả tình người.
Như vậy, có phải có tiền là có tất cả hay không? Một con người bình thường với một bộ óc lành mạnh, không bệnh tất cũng có thể trả lời là không mà không sợ sai lầm.
2. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9)
Đây là những lời khuyên của một người mẹ giành cho đứa con bé nhỏ yêu quí của mình:
Thứ ba, ngày 29
Enricô của mẹ,
Sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:
- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!
Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó nào mà không cho gì”.
Mẹ con. (Edmond de Amicis, trong Tâm Hồn Cao Thượng).