Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!" Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà". Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng".
Bệnh tật nơi thân xác con người có thể tượng trưng cho một thứ bệnh tật nào đó nơi tinh thần. Ít người mắc bệnh câm, nhưng ai cũng có kinh nghiệm về sự câm nín, do sợ hãi của chính mình hay do bị đe dọa bắt phải im. Ít người mắc bệnh điếc, nhưng lại có quá nhiều cuộc đối thoại mà hai bên chẳng hiểu nhau, vì mất khả năng nghe. Người mù không phải chỉ là người không thấy ánh mặt trời, nhưng còn là người không dám thấy ánh sáng của sự thật, không nhận ra hình ảnh người anh em nơi khuôn mặt kẻ thù. Không phải ai cũng có bàn tay khô bại, không duỗi ra được, nhưng ai cũng có lần thấy mình khó đưa tay ra để bắt tay người khác. Đức Giêsu đã chữa cả thảy bao nhiêu bệnh nhân, chúng ta không biết. Nhưng chắc Ngài đã không dừng lại ở việc chữa lành thân xác. Ngài muốn một sự lành mạnh nơi toàn diện con người. “Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai” (Is 35, 6). Lời của ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 đã ứng nghiệm. Khi anh bại liệt trỗi dậy, vác giường và đi một mạch về nhà, chúng ta thấy niềm vui bừng tỏa trên khuôn mặt của anh và các bạn. Cả gia đình của anh cũng sẽ ngập tràn hạnh phúc khi thấy anh trở về, đi đứng như một người bình thường. Nhưng có điều họ không nhận ra đó là chuyện anh được tha tội. Đức Giêsu đã tha tội cho anh dù anh không xin, vì điều anh quan tâm chỉ là sự bất toại thể lý. Nhưng tâm hồn anh đã bước đi, trước khi đôi chân anh đi được. Sự trỗi dậy của anh là sự trỗi dậy của cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu có cơ hội để tỏ cho nhóm các luật sĩ và Pharisêu thấy không nhất thiết phải đi gặp tư tế và dâng lễ đền tội mới được tha. Chỉ bằng một lời nói đơn sơ và dễ dàng, Ngài có quyền ban ơn tha thứ. Chính việc anh bất toại được chữa lành làm chứng về quyền năng này. Ngược lại với thái độ tin tưởng táo bạo của anh bất toại và các bạn, là thái độ thụ động ngồi của các luật sĩ và Pharisêu. Họ cứng nhắc trong suy nghĩ truyền thống của mình: chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha tội. Họ không tin Đức Giêsu được chia sẻ quyền ấy từ Cha, dù họ đã tận mắt thấy anh bất toại đi được. Mùa Vọng là thời gian trỗi dậy, ra khỏi sự bất toại và bước đi. Có những bệnh bất toại về mặt thiêng liêng, khiến tôi không đến gần được Chúa, cũng không dám đến với anh em. Có những bất toại về trí tuệ khiến tôi bị kẹt trong những định kiến, thiên kiến, thành kiến, không dám mở ra để đón nhận những sự thật bất ngờ và đáng sợ. Có những bất toại về tình cảm khiến tim tôi như bị cầm tù, không sao thoát khỏi được chuyện yêu ghét oán hờn dai dẳng. Xin Giêsu giải phóng tôi, cho tôi khỏi bất toại, để tôi được tự do. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con. Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa. Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen. ---------------------------------
Chúng ta đang mong chờ Chúa đến. Chúa đến mang theo ơn cứu độ. Tội lỗi giam hãm, trói buộc, khiến ta trở thành bại liệt không thể làm được điều mình muốn, què quặt không thể đi đàng lành, đui mù không nhìn thấy chân lý, điếc lác không nghe được Lời Chúa. Tội lỗi tàn phá khiến thiên nhiên thành sa mạc chẳng còn cây cỏ xanh tươi, đất đai trở thành khô cằn không còn trổ sinh hoa trái, ruộng vườn trở thành sỏi đá chẳng còn hoa mầu tươi tốt. Tội lỗi làm cho thế giới nhiễu nhương, khiến cho kẻ ác ức hiếp người lành, kẻ giầu bóc lột người nghèo, kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu. Thế giới tội lỗi là thế giới què quặt, tàn lụi, tự hủy diệt. Chỉ có Chúa mới có thể đem ơn cứu độ. Vì chỉ có Chúa mới có ơn tha tội.
Bài Tin mừng và bài Sách Thánh cho ta thấy, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ đến giải thoát ta khỏi tội lỗi khi tha tội cho ta, giải thoát ta khỏi tội lỗi trói buộc, cho ta khỏi bị tê liệt, có thể đứng thẳng lên, sống tự do, khỏe mạnh để có thể làm việc lành. Được Chúa hướng dẫn, mắt ta mở ra nhìn thấy chân lý, tai ta nghe được những tiếng gọi thanh cao, chân ta thẳng đường đi trên đường ngay nẻo chính, miệng ta vang lời ca tụng Thiên Chúa.
Được ơn cứu độ không chỉ con người phấn khởi mà cả thiên nhiên cũng reo mừng. Sa mạc khô cằn trở thành phì nhiêu mầu mỡ cho cỏ cây xanh tốt, hoa lá xinh tươi. “Và đất chúng ta trổ sinh hoa trái”.
Được ơn hoán cải, thú dữ sẽ trở nên hiền lành, người ác sẽ hoàn lương, mọi người đi trên đường hạnh phúc tiến về Nhà Chúa vì Chúa đã mở ra thánh lộ.
Được ơn cứu độ, ta sẽ không còn phải khóc lóc than van, nhưng sẽ reo vui hớn hở vì những ngày đau khổ đã qua.
Lạy Chúa, thế giới còn chìm trong đau khổ vì cái ác vẫn hoành hành. Bản thân con muốn làm điều lành nhưng con như bị tê liệt chỉ biết làm điều ác. Cuộc sống con thật khô tàn héo úa. Tâm hồn con là một sa mạc thiếu vắng sự sống. Xin Chúa mau đến giải thoát con khỏi tội lỗi, đem đến giòng nước trong lành tưới cho linh hồn con để linh hồn con trổ sinh hoa trái. Xin mau đến hoán cải để thế giới không còn cái ác, để mọi người sống với nhau trong tình huynh đệ chân thành.
Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa kỳ, một người đàn ông đã đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm, tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về nghĩa vụ này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giáng sinh, Chúa của Hòa bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an trong tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta?
Có lẽ, vì muốn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của Bí tích giao hòa, mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe việc Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại. “Này anh, tôi anh đã được tha rồi”. Lời khẳng quyết của Chúa Giêsu với người bất toại cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của niềm tin được tuyên xưng bởi chính miệng anh và đám đông khiêng anh đến trước mặt Chúa. Thật thế, tuyên xưng niềm tin trước tiên là nhìn nhận thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Ngày nay, nhiều người đã có lý để liên kết cơn khủng hoảng đức tin với việc đánh mất ý thức tội lỗi. Quả thực khi con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là trong sâu thẳm của tâm hồn, con người cũng không còn cảm nhận được mối liên kết của mình với Thiên Chúa nữa. Đánh mất ý thức về tội lỗi cũng có nghĩa là gạt bỏ Thiên Chúa và chối bỏ những giá trị siêu việt trong cuộc sống.
Tuyên xưng đức tin không những là nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn của mình, nhưng còn là nhìn nhận quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa Đấng tạo dựng con người mới có thể tái tạo, nghĩa là tha thứ cho con người. Tha thứ đối với con người là tái lập một quan hệ đã bị phá vỡ. Còn đối với Thiên Chúa, tha thứ chính là tái tạo, là ban lại một sức sống mới đã bị đánh mất. Quyền năng tái tạo ấy của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện qua các phép lạ của Ngài, nhất là các phép lạ chữa bệnh tật con người. Qua các phép lạ ấy, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho con người, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tái tạo con người. Đó là lý do tại sao trong phép lạ chữa người bất toại, Ngài đã nói đến hành động tha thứ của Thiên Chúa.
Được Thiên Chúa tha thứ, được Thiên Chúa cứu rỗi, được Thiên Chúa tái tạo để biến thành một tạo vật mới, đó là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã mang đến cho con người. Ngày nay, qua Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng không ngừng nói với chúng ta sứ điệp ấy. Qua Giáo Hội, Ngài không ngừng nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với các bệnh nhân và những người tội lỗi đương thời của Ngài: “Hãy can đảm lên, tôi con đã được tha”. “Ta cũng không kết án con”.
Mùa Vọng, tâm hồn chúng ta cảm thấy rạo rực hân hoan vì bầu khí chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh. Những chuẩn bị bên ngoài là cần thiết để gợi lên cho chúng ta ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh. Chúa Giêsu đã Giáng sinh là để chúng ta được sinh lại, được tái sinh. Chúng ta cần được Ngài tha thứ và tái tạo, do đó không có chuẩn bị nào cần thiết hơn là đến với Ngài trong Bí tích giải tội để được ơn tha thứ.
Vào cuối đời, Đức Gioan XXIII đã ghi lại trong nhật ký của Ngài: “Có hai ngõ dẫn chúng ta vào thiên đàng: một là tấm lòng trong sạch, hai là sự thống hối. Là những con người yếu đuối mỏng dòn, không ai trong chúng ta dám nghĩ đến ngõ thứ nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tin chắc vào ngõ thứ hai, Chúa Giêsu đã đi qua ngõ ấy”. Ngài đã mang lấy Thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Nhưng theo Ngài cũng có nghĩa là sám hối, chấp nhận mỗi ngày cần được thanh tẩy thêm.
Ước gì Bí tích giải tội mà chúng ta sốt sắng lãnh nhận trong mùa vọng này đem lại cho chúng ta bình an đích thực, bình an mà các Thiên thần loan báo trong đêm Giáng sinh:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Ghen ăn tức ở hay không ăn được thì đạp đổ vốn là thói xấu thường trực trong xã hội mọi thời. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì vào thời Đức Giêsu, tình trạng này lại càng rõ nét nơi những người Pharisiêu và các Luật sĩ khi họ thấy Đức Giêsu được lòng dân và uy tín của Ngài ngày càng lan rộng. Vì thế, họ sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi cuộc sống và xã hội.
Tuy nhiên, họ khó lòng kết tội cho Đức Giêsu khi Ngài làm việc thiện, việc tốt hay đứng lên bảo vệ công lý, công bình, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa ... . Bởi lẽ, nếu họ chống đối ra mặt những việc Đức Giêsu đã làm trên thì họ sẽ bị dân chúng phản đối và đương nhiên, khuôn mặt giả hình nhân đức của họ bị bại lộ. Như thế, hoàn toàn không có lợi cho bản thân và mưu kế của những người này. Chỉ có một cách là họ ghép Đức Giêsu vào tội lộng ngôn hay phản động thì sẽ dễ dàng hơn.
Thua keo này, họ bày keo khác…. Và, hôm nay là cơ hội để họ thực thi điều ác tâm đó với Đức Giêsu.
Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa người bất toại cách công khai và nhân đây Ngài cũng mặc khải Thiên Tính của mình khi nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!". Khi nói như thế, Đức Giêsu bị những nhà lãnh đạo tôn giáo kết án Ngài nói lộng ngôn vì tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa khi tha tội cho người ta. Theo quan niệm của người Dothái thì những người mắc bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt vì tội lỗi của họ. Và đương nhiên, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Khi họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì hẳn là họ phủ nhận quyền tha tội của Ngài, như thế, họ có lý do để loại trừ Đức Giêsu bằng cái chết.
Về phía Đức Giêsu: khi Ngài bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Đức Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học:
Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.
Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.
Đức tin cần được biểu lộ qua đức ái. Vì thế, noi gương những người Dothái khi xưa, hãy sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhất là những người cô thế, cô thân, để tăng thêm niềm tin nơi họ ngang qua những việc thiện chúng ta làm.
Tránh những kiểu kỳ thị như những người Pharisiêu và Luật sĩ. Đừng vì ích kỷ hay hình thức bề ngoài mà ngăn cản ơn Chúa đến với mọi người, cũng như căm tức những người vì lòng tốt mà làm được nhiều việc thiện hơn ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ơn đức tin để chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh và sống đức ái với nhau cách chân tình. Amen.
Sứ điệp: Người ta đã khiêng người bại liệt đến cùng Chúa Giêsu. Họ dỡ ngói và thả người ấy xuống. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu đã tỏ dấu yêu thương người bại liệt ấy. Chúa vẫn hằng sống, Ngài sẵn sàng tỏ dấu yêu thương chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đến với Chúa đem theo những người thân trong gia đình. Con đến với Chúa đem theo mọi người trên thế giới: những con người mỏng dòn và đầy khuyết điểm. Con đang rẽ qua các lo toan, qua các công việc, qua mọi cảnh huống, qua cả những mệt nhọc sau một ngày lao động, và qua cả những khuynh hướng muốn an nhàn nghỉ ngơi thoải mái, con rẽ qua và cố gắng vượt mọi khó khăn để đến với Chúa. Con biết Chúa đến không phải vì mục đích trần tục, vật chất, nhưng vì yêu chúng con và muốn giải thoát chúng con khỏi chứng bại liệt thiêng liêng, khỏi những tính hư tật xấu. Như Chúa đã tha tội cho người bại liệt, thì xin Chúa cũng thương tha thứ những yếu đuối của con và những người con yêu mến.
Chính vì Chúa nhìn thấy tình thương và lòng tin của những người khiêng, mà Chúa đã làm cho người bại liệt được khỏi. Con cũng muốn thực sự yêu thương và hy sinh giúp đỡ, để đưa người khác đến với Chúa. Xin Chúa giúp con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để tỏ cho con biết bộ mặt thật của Thiên Chúa: bộ mặt “Yêu thương tha thứ” chứ không phải bộ mặt hình sự hay bộ mặt kết án. Ngày ngày biết bao người thuộc mọi lứa tuổi và bậc sống hằng được Chúa cho “chỗi dậy” nhờ quyền năng vô hình của ân sủng cứu độ. Xin cho con luôn biết tin tưởng và đầy lòng thống hối mà đến cùng Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng”.
1. Đang lúc Đức Giêsu ngồi giảng dạy trong nhà, người ta khiêng một người bất toại đến. Vì dân chúng quá đông, họ không khiêng vào được đã dỡ ngói mái nhà rồi thòng chiếc chõng người bệnh xuống trước mặt Người. Chúa thấy họ có lòng tin mạnh mẽ như thế nên nói với người bệnh: ”Này anh, anh đã được tha tội rồi”. Nhóm biệt phái và luật sĩ không tin nhận Người là Thiên Chúa nên cho lời nói đó là phạm thượng, vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Để chứng tỏ mình là Thiên Chúa có quyền tha tội. Chúa bảo người bất toại chỗi dậy vác giường mà về, tức thì anh chỗi dậy vác chõng ra về trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Bệnh bất toại hay bại liệt thường do đứt hay tắc mạch máu não do những chứng áp huyết cao, đau màng óc, chấn thương sọ não, sưng bướu óc, sưng cơ tim, kinh phong hay do vi khuẩn phá hủy tủy sống. Y học ngày nay có thể giải phẫu để nối mạch máu, lấy bướu máu, chạy điện trị liệu vật lý để chữa bệnh tê liệt nhẹ. Đối với chứng bất toại nặng thì khoa học hoản toàn bất lực. Hiện nay có nhiều người bán thân bất toại hay bất toại hoàn toàn chỉ còn chờ chết thôi.
3. Đức Giêsu cũng tỏ lòng trắc ẩn đối với những bệnh nhân ấy nên đã chữa lành cho một người bị bại liệt. Nhưng cách chữa bệnh của Ngài hôm nay hơi khác thường: thay vì chữa bệnh như thường lệ, Ngài lại tha tội cho bệnh nhân trước rồi mới chữa bệnh sau. Việc làm này khiến các luật sĩ và biệt phái rất tức giận.
Tuy nhiên, Đức Giêsu làm như thế là ngầm bảo họ rằng Ngài có quyền tha tội vì Ngài là Thiên Chúa. Việc làm này cũng nhắc nhở chúng ta phải chữa bệnh bại liệt tâm hồn . Phải chú trọng đến sứ khỏe phần hồn hơn phần xác.
4. Ai cũng biết bại liệt là bất lực, vừa là nỗi khổ cho chính mình vừa là gánh nặng cho thân nhân. Chắc chắn Đức Giêsu thấy nơi người bại liệt nỗi đau khổ về thể xác. Nhưng tại sao câu đầu tiên Ngài nói với anh ta là lời tha tội? Anh ta có tội gì chăng nên mới bị bại liệt như vậy? Người Do thái vẫn có quan niệm như thế: bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Ai mắc bệnh là người có tội, trường hợp của ông Gióp đã nói lên điều đó. Bệnh càng nặng tức là lỗi càng nhiều, và càng nặng thì bệnh càng phát ra bên ngoài tương xứng.
Chắc chắn là Đức Giêsu không đồng ý với quan niệm này. Nhưng chỉ sau này người ta mới tìm ra mầu nhiệm của đau khổ và bệnh tật. Tội lỗi và bệnh tật là hai vấn đề riêng biệt, không liên can gì với nhau; bởi vì có người vừa có bệnh vừa có tội, có người bệnh mà không có tội, có người có tội mà không bệnh. Cho nên khi Chúa nói: “Tội con được tha rồi” là Chúa muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha tội.
5. Hành động của những người thân của người bại liệt đáng để mỗi Kitô hữu suy nghĩ trong Mùa Vọng này. Họ yêu thương người thân của mình, dù con người ấy không có khả năng hoạt động. Họ tìm cách cứu chữa, không thất vọng, mà công việc ấy chẳng phải dễ dàng. Đám đông không còn là trở ngại không thể vượt qua, bởi tình yêu giúp họ thêm sáng kiến, mở lối đưa người thân của mình đến cùng Đấng Chữa Lành. Dĩ nhiên, Chúa vẫn luôn đòi hỏi người được chữa lành phải có đức tin. Nhưng ở đây, đức tin của những người thân và sự phục vụ đầy yêu thương của họ nâng đỡ đức tin yếu ớt và làm sống lại niềm hy vọng nơi con người bị bệnh tật chôn vùi trong nhiều năm tháng. Những người thân của anh đã giúp anh gặp lại được Đức Giêsu (5 phút Lời Chúa).
6. Qua phép lạ này, chúng ta thấy Chúa thường đáp lại lòng tin và lòng bác ái của người đến kêu xin như Ngài thường nói: “Đức tin của con đã chữa con”. Hôm nay chúng ta phải chân nhận rằng: những người khiêng người bại liệt có lòng tin sâu sắc, lòng tin ấy được biểu lộ qua lòng bác ái chân thật, một tình thương sáng ngời, những việc làm của họ có sức lay động cả trái tim của Đức Giêsu. Và kết quả hết sức tốt đẹp như Tin Mừng hôm nay đã trình bầy cho thấy.
7. Truyện: Phép lạ ở Lộ Đức
Serge Francois mắc chứng thoát vị đệm (hernia) từ nhiều năm và được giải phẫu hai lần, khiến cho chân trái gần như hoàn toàn tê liệt. Ngày 12/4/2002, ông đến hang đá Massabielle tại Lộ Đức để cầu nguyện. Ông đã bị một cơn đau khủng khiếp khiến ông tưởng như sắp chết. Sau những giây phút cầu nguyện chỉ vài phút sau đó, cơn đau đã nhường chỗ cho một cảm giác khỏe khoắn và ấm áp. Chân trái ông hết đau và từ từ cử động được.
Ngày 01/12/2008, sau nhiều năm nghiên cứu hồ sơ, Ủy ban Khoa học quốc tế trung tâm hành hương Lộ Đức, gồm khoảng 20 bác sĩ (có cả thành viên không Công giáo và vô thần), nhìn nhận rằng việc khỏi bệnh của Francois không thể giải thích được về mặt y khoa, vì diễn ra bất ngờ, toàn diện và lâu bền mà không qua bất cứ một trị liệu y khoa.
Thiên Chúa chọn Lộ Đức để biểu lộ tình thương của Ngài qua trung gian nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Qua đó, Ngài đã bầy tỏ vinh quang cho nhân loại, khi chữa lành nhiều bệnh tật của nhiều anh chị em được đem đến Lộ Đức.
Đoạn Tin mừng này tường thuật phép lạ của Chúa Giêsu chữa một người bại liệt:
- Người bại liệt này gặp rất nhiều cản trở khiến khó mà tới gần được Chúa Giêsu: liệt không đi được, thân nhân khiêng thì bị đám đông dầy quá không vào nhà được. Nhưng thân nhân anh đã giúp anh vượt qua tất cả những cản trở đó: khiêng anh trên chõng, leo lên gỡ mái nhà, thòng anh xuống. Chúa Giêsu đánh giá những cố gắng ấy là những thể hiện của lòng tin.
- Trước khi chữa bệnh, Chúa Giêsu tha tội: vì theo Ngài, tội còn nguy hại hơn bệnh tật phần xác nữa.
- Mà vì tha tội là độc quyền của Thiên Chúa, cho nên việc này cũng chứng minh Đức Giêsu là Thiên Chúa.
B. Suy niệm ( ... nẩy mầm)
1. Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa Kỳ, một người đàn ông đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm. Tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về ý nghĩa này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng sinh, Chúa của hoà bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta? ("Mỗi ngày một tin vui")
2. Tội lỗi làm hại con người hơn bệnh tật phần xác. Thế mà khi mắc bệnh, tôi rất lo lắng và tìm đủ cách để chữa trị; còn khi có tội, tôi không mấy quan tâm sám hối để được tha.
3. Có lẽ câu chuyện này cũng muốn nói rằng tội lỗi làm cho người ta bị bại liệt. Mà thật vậy, chẳng hạn tội ích kỷ khiến người ta bại liệt không đến được với tha nhân, tội ham mê vật chất khiến người ta bị bại liệt phần tinh thần, tội xác thịt làm bại liệt phần thần khí v. v.
4. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo: “Này anh, anh đã được tha tội rồi” (Lc 5,20)
Trên đường về nhà, tôi đã nhìn thấy những người không nhà, không cửa, không cơm ăn áo mặc, nhưng vẫn vui tươi, lạc quan và hy vọng. Còn tôi, có đủ mọi thứ cho một cuộc sống hạnh phúc, vậy mà cứ trách mình, cứ như một kẻ bất đắc chí. Gặp khó khăn là chán nản buông xuôi, và lòng tin cũng chẳng còn. Tôi ngày càng xa Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con, để con có thể đến với Chúa với niềm hân hoan và vượt mọi thử thách với lòng dũng cảm (Epphata).
1. Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa cho người bại liệt được khỏi vì theo Chúa tội lỗi cũng là một thứ bệnh. Hơn nữa, nó còn là một thứ bệnh nguy hiểm, nhiều khi còn nguy hiểm hơn cả bệnh phần xác. Lý do vì tội làm cho con người phải xa lìa Thiên Chúa nên không thể có hạnh phúc.
Tờ New York Times ngày 17. 3. 1994 có đăng câu chuyện có thật của một phạm nhân tên là Ricardo Caputo như sau:
Ông ta là một tội phạm nghiêm trọng của tòa án liên bang. Ông đã cưới và ăn ở với 4 người vợ trong suốt 20 năm trời và đặc biệt là ông đã giết chết cả bốn người vợ đó. Rồi bằng nhiều thủ đoạn khéo léo, ông đã trốn thoát khỏi tất cả những mạng lưới bao vây lùng bắt của pháp luật. Tuy nhiên, sau 20 năm, ông ta đã tự ra đầu thú tại sở cảnh sát Mineola, New York. Bởi vì lương tâm ông cắn rứt làm ông không thể chịu nổi. Khi đầu thú, ông cho biết, ông thà bị giam cầm trong ngục còn sướng hơn bị lương tâm cắn rứt và tội lỗi dày vò.
Những câu chuyện như thế này không thiếu. Có thể nói là có rất nhiều.
2. Tin Mừng thuật lại: khi Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ (nghĩa là lòng tin của những người đưa người bất toại đến với Chúa), Người đã làm phép lạ. Không có chi tiết cụ thể nào đề cập đến lòng tin của người bại liệt mà chỉ thấy nói đến lòng tin của những người bạn của anh ta. Họ đã khắc phục những trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua. Họ đã gan lì, đã thắng vượt mọi trở ngại bằng sự quyết tâm. Điều quan trọng là làm sao cho người bạn của họ được gặp Đức Giêsu. Họ đã sử dụng mọi phương tiện có trong tầm tay để cuộc gặp gỡ ấy được diễn ra.
Vâng, đó là lòng bác ái hết sức đặc biệt, một tình thương rất sáng ngời, những việc làm có sức lay động được cả trái tim của Chúa. Và kết quả tốt đẹp như thế nào thì Tin Mừng đã cho chúng ta hay.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta cũng có được tấm lòng biết quan tâm đến những người khác chung quanh chúng ta, nhất là những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta như những người tốt bụng trong Tin Mừng hôm nay.
Xin được trích ra đây một câu chuyện có thực lấy từ Internet để mọi người chúng ta cùng suy nghĩ.
Tại một phòng cấp cứu khoa tim mạch, người ta mới chuyển đến một gã đàn ông tóc dài, râu tua tủa, vừa dơ bẩn vừa béo ị một cách bệnh tật. Ông khoác hờ hững một chiếc áo jacket bằng da đã cáu bẩn và rách tươm. Toàn thân ông toát ra mùi nồng nặc của rượu và mồ hôi, và nhất là cái mùi của những bãi rác mà ông thường lê la ở đó.
Thoạt nhìn thấy ông được đẩy vào phòng, những nữ y tá đã giật mình và bối rối nhìn nhau. Và dường như những y tá đang muốn nói với nhau qua ánh mắt của mỗi người:
- Không, tôi không muốn chăm sóc người này.
Họ lấm la lấm lét nhìn Bonnie, người y tá trưởng vốn nổi tiếng nghiêm khắc và nguyên tắc. Ai cũng sợ bị phân công tắm rửa cho người đàn ông mới được chuyển vào. Bonnie nhìn quanh một lượt rồi quyết định một điều mà không ai có thể nghĩ đến: - Đây sẽ là bệnh nhân của tôi.
Bonnie nhanh nhẹn mang găng tay cao su và một mình chuẩn bị xà phòng, thuốc sát trùng, dao cạo ...
Dịu dàng và dè dặt, Bonnie vừa tẩy rửa, vừa giúp người đàn ông đáng thương này. Cô nhẹ nhàng nói:
- Vào những ngày lễ chúng tôi rất bận. Nhiều khi việc vệ sinh cho các bệnh nhân cũng được làm qua loa. Ông hãy thư giãn cơ thể và cảm nhận làn nước mát này. Nó sẽ làm ông cảm thấy dễ chịu vì bệnh viện là nơi làm cho người ta thấy yêu cuộc sống hơn.
Thân thể người đàn ông đầy những vết sẹo nham nhở. Có thể ông đã nghiện rượu, nghiện ma tuý, đã từng tham gia trong các băng đảng ... Bonnie vừa chùi rửa vừa cầu nguyện cho một linh hồn bị vùi dập trong cuộc đời khắc nghiệt.
Công đoạn cuối cùng của Bonnie là xoa sữa làm ấm cơ thể và thoa phấn trẻ em lên người bệnh nhân. Ngược với vóc dáng dữ tợn, khi úp mặt vào gối để được xoa bóp ở lưng, người đàn ông không giấu được sự cảm động. Ông tấm tức khóc. Khi quay lại, đột nhiên ông ta nhìn Bonnie với một ánh mắt xanh lơ đẹp kỳ dị:
- Cám ơn cô. Đã lâu lắm rồi, không có ai chạm vào người tôi một cách dịu dàng thế này! Dường như trái tim tôi cũng đang liền sẹo!
Mẹ Têrêsa đã có lần nói: "Nghèo khó, không chỉ là đói ăn thiếu mặc, mà còn là sự cô độc và thiếu tình thương. "
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con, để chúng con có thể đến với những anh em của chúng con vì biết rằng, làm như thế là chúng con làm vui lòng Chúa, là chúng con góp phần làm nên những phép lạ cho cuộc sống này và làm như thế là làm cho trái tim của chúng con được trở nên giống trái tim Chúa hơn. Amen.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".
Chăn chiên là một nghề đã có từ lâu. Nhiều nhà lãnh đạo dân Do Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này. Trên những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử, nên giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi. Chính vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên. Đàn chiên là dân Do Thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa… Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Như Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành. “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14). Sự hiểu biết thân thương này mạnh đến độ Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15). Sau khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn ông Simon nhận sứ mạng mục tử. Ngài mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17). Như thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ. Qua bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới, nối gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên. Nhưng Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn, mà quên chăm sóc cho từng con chiên một. Ngài mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ. Có khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng đến nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12). Không phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc, nhưng vì người mục tử không muốn mất con nào. Con chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử. Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất. Khi mất thì đứng ngồi không yên, khi tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ. Người mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc, nhưng khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ. Có thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13). Dường như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó. Có khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi. Cha không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14). Cha muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4). Mùa Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta, những người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa. Mỗi người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau, khởi đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen. Chúng ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta. Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó. Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương. Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim, thì đó là lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi. Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Con chiên lạc. Lạc lõng. Lạc loài. Lạc lối. Hay lầm lạc? Ta cảm thấy lạc lõng khi phải sống nơi xứ lạ quê người, không người thân thiết. Ta như lạc loài không ở đúng nơi, đúng thời, đúng người ta phải ở với. Ta lạc lối vì không biết đường. Vì bị mê hoặc khiến quên lối về. Vì bị sa vào cạm bẫy không thể thoát ra. Ta lầm lạc khi tâm hồn mê muội không có ánh sáng chân lý.
Con chiên lạc ở trạng thái nào cũng cần được tìm về. Về đúng mái nhà của mình. Về đúng con đường của mình. Được ấp ủ chăm sóc trong vòng tay của người cha người mẹ thân thương. Nhưng con chiên không biết đường về, không đủ sức đứng dậy đi về. Nó yếu mệt. Chung quanh chỉ là bóng tối. Tuyệt vọng chờ chết.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành đi tìm con chiên. Người là Thiên Chúa hùng dũng quang lâm. Người thắng vượt mọi gian nan khốn khó. San phẳng đồi cao. Lấp đầy thung lũng. Phá tan bóng tối. Chiến thắng lớn nhất là chiến thắng cơn thịnh nộ. Sức mạnh lớn nhất là lòng thương xót, tha thứ.
Lòng thương xót biểu lộ trong sự ngọt ngào, niềm an ủi. Hãy chiêm ngắm Người tha thiết đi tìm con chiên bé bỏng. Tìm được rồi Người bồng bế trên tay. Xem xét vết thương. Vỗ về an ủi. Và cảm động xiết bao Người vác con chiên gầy gò bé nhỏ đói khát và bẩn thỉu trên vai. Con chiên đang lạnh lẽo được hơi ấm của Người ấp ủ. Con chiên đang run sợ được sức mạnh của Người đỡ nâng. Con chiên đang yếu mệt được bờ vai của Người làm nơi nương tựa.
Tin mừng lớn lao của thời đại hôm nay là Tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Nhân loại hôm nay buồn phiền cần được an ủi. Lầm lạc cần được đưa về. Thương tích cần được băng bó. Yếu đuối cần được nâng đỡ. Tội lỗi cần được tha thứ. Tất cả tìm thấy giải đáp nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa chúng con bất lực không thể đứng lên để trở về với Chúa. Xin Chúa hãy đến tìm chúng con. Băng bó vết thương. An ủi buồn phiền. Và đưa chúng con về. Chúng con trông đợi Chúa. Lạy Chúa, xin hãy đến cứu chúng con.
Sống ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.
Từ thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Thiên Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.
Trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng trở về.
Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.
Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.
Một nhà truyền giáo trong vùng Thái bình dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của Ngìa với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài:
- Cha có biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp:
- Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi tiếp:
- Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc đầu.
Người đàn bà liền giải thích:
- Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi:
- Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Một lần nữa, Giáo Hội lại tha thiết kêu gọi chúng ta quay trở về với Chúa. Với hình ảnh người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh về tìm một con chiên lạc, trước hết Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta chỉ có thể tin tưởng quay về với Chúa, nếu chúng ta ý thức được tình yêu và lòng tha thứ của Ngài.
Tuy nhiên, con người chỉ có thể cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa khi biết tha thứ cho anh em mình mà thôi. Đó là điều Chúa Giêsu muôn nêu bật trong Tin Mừng hôm nay. Thật thế, dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh để tìm một con chiên lạc được nhắm trước tiên đến những người biệt phái. Họ khó chịu khi thấy Chúa Giêsu kết thân với những người tội lỗi. Đề ra những khoản luật nghiêm nhặt về sự thanh tẩy, đặc biệt là thanh tẩy trước khi ăn, những biệt phái đã loại trừ nhiều tội nhân và những người thu thuế. Qua cử chỉ này, Ngài không những muốn nói với các tội nhân rằng Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa đi tìm kiếm họ, Thiên Chúa tha thứ cho họ, nhưng Ngài còn mời gọi chính những người biệt phái, tức là những kẻ tự cho mình là lành thánh cũng phải hoán cải. Hoán cải trong quan niệm của họ về lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhất là hoán cải trong cái nhìn của họ đối với người tội lỗi. Con người chỉ cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa khi họ biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Điều đó cũng có nghĩa là lòng nhân từ của Thiên Chúa không hề làm cho con người ra vong thân, nhưng biến nó trở thành người hơn, có trách nhiệm và dấn thân hơn. Con người chỉ thực sự thống hối khi nó biết thực thi lòng nhân ái với tha nhân.
Mỗi lần bước ra khỏi tòa giải tội ai trong chúng ta cũng cảm thấy như trút được một gánh nặng và tìm được bình an và niềm vui. Quả thực, như đại dương, lòng nhân từ Chúa sẽ xóa sạch tội lỗi chúng ta. Tuy nhiên để được tắm gội trong đại dương của lòng nhân từ ấy, chúng ta được mời gọi sống lòng nhân từ đối với tha nhân. “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình cũng được lặp lại cho mỗi người chúng ta. Bước ra khỏi tòa giải tội là được sai đi để thể hiện lòng nhân từ với tha nhân. Và đó là món quà cao đẹp và ý nghĩa mà chúng ta có thể gửi cho nhau trong mùa vọng này.
“Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất. (Mt. 18, 12-14)
Nếu người ta đọc lại đầu chương 18 Tin mừng theo thánh Mát-thêu, người ta thấy rằng dụ ngôn chiên lạc được tiếp sau câu hỏi của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong nước trời?” (18, 1). Đức Giêsu không trả lời ngay mà lần lượt trả lời theo ba nhịp độ sau:
1) Câu 2-5: Theo kiểu các ngôn sứ xưa, Đức Giêsu trả lời trước hết bằng một cử chỉ tượng trưng: “Người gọi một em bé đến, đặt giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại nên như trẻ em, thì chẳng sẽ được vào nước trời” (c. 3). Qua cử chỉ này, Đức Giêsu đảo lộn thứ bậc theo quan niệm của môn đệ. Tiếp theo, Người tự giới thiệu mình như trẻ nhỏ trước mặt Chúa Cha, môn đệ cũng phải trở nên nhỏ bé như em này, thì mới là người lớn nhất trong tình yêu của Chúa Cha.
2) Câu 6-9: Vì thánh ý của Chúa Cha là muốn cho mỗi người lớn lên trong tình yêu của Ngài, cho nên điều quan trọng là phải chăm lo săn sóc những bé nhỏ này, bằng cách tránh mọi gương mù và mọi khinh thường có thể làm chúng sa ngã.
3) Câu 10-14: Dụ ngôn chiên lạc nói đến kẻ bé mọn và gương mù (c. 6) hay cảm thấy bị khinh bỉ (c. 10) và hậu quả là dần dần xa cộng đồng vì cộng đồng không tiếp nhận nó vào cuộc sống cụ thể hằng ngày, và ngăn cản nó lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha. Chính ra mỗi phần tử trong cộng đồng đều được đón nhận thánh ý của Chúa Cha đã muốn cho tất cả đều lớn lên trong tình yêu của Ngài, để không còn thấy mình bị xa lạc nữa, nhưng luôn luôn được đón tiếp, được tôn trọng như một nhân vị độc nhất.
Chúng ta cũng theo gương các môn đệ, cần thiết phải thanh tẩy óc địa vị của mình. Chúng ta có luôn luôn ý thức mình phải hoạt động theo tiếng gọi của Chúa Cha để thi hành trách nhiệm, mà Ngài đã trao phó cho chúng ta với danh nghĩa là môn đệ của Chúa Con và là phần tử của nước trời không?
Trong đời sống thực tế cụ thể hằng ngày, chúng ta có biết tránh mọi gương mù, gương xấu cho những kẻ bé mọn không? Có giúp chúng khám phá và lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha không?
Hãy nhớ rằng Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn: “Ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” (c. 5).
Đức Giêsu thường làm những chuyện gây “sốc” cho những người xung quanh. Vì thế, người đương thời với Ngài và đôi khi cả chính chúng ta cũng có lối suy nghĩ rằng: Ngài chuyên làm những chuyện ngược đời, nghịch lý và khó hiểu ... !
Quả thật, nếu xét theo kiểu con người thì Đức Giêsu có rất nhiều những khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là:
Ngài kém trí nhớ. Khi cả một đời tội lỗi ngập đầu, đến giờ chết xin Ngài tha thứ tội lỗi thì lại cho họ lên Thiên Đàng trước nhất: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23, 42-43).
Ngài cũng là một người không giỏi luận lý. Có đời thủa nào lại bày cho chủ tiệc đi mời những người nghèo nhất đến dự tiệc cưới của con mình: “ ... hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc ... ” (Lc 14, 12-14).
Ngài còn là một người không biết tổ chức công việc. Người làm đầu tiên cũng như người làm giờ chót, tất cả đều được một đồng! (x. Mt 20, 1-16).
Trong mối liên hệ, bạn số một của Ngài lại là những người tội lỗi (x. Mt 9, 11. 12-13; Lc 15, 2; 19, 2.5.7.9 ... )
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một sự nghịch lý đó ngang qua việc Đức Giêsu bỏ 99 con chiên lại để đi tìm một con chiên lạc. Điều này chứng tỏ Ngài không biết tính toán, là người dốt toán hạng chót ... !
Nếu chúng ta đứng về phía những người làm kinh tế, hẳn chúng ta sẽ kết luận Đức Giêsu là kẻ điên khùng vì những điều bất thường trên!
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn dùng những nghịch lý đó để làm sáng tỏ chân lý. Chân lý đó chính là: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Ngài đến để cứu những gì đã mất. Ngài yêu thương đặc biệt những người tội lỗi ... .
Thật vậy, vì yêu thương, Đức Giêsu không để ý đến quá khứ tội lỗi của con người. Cũng vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận chuộc những kẻ tội lỗi bằng tình yêu và cái chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như Chúa, hành xử như Chúa. Hãy tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa như Maria Mađalêna, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld ... . Thiên Chúa không kết án con người vì tội lỗi quá khứ của họ. Nhưng Thiên Chúa nhìn vào thực tại của chúng ta như chúng ta là ... trong giây phút hiện tại này.
Mùa Vọng là Mùa mời gọi chúng ta quay về với lòng thương xót của Thiên Chúa bằng thái độ sám hối để được Đức Giêsu “vác lên vai, đưa về nhà”.
Mặt khác, Mùa Vọng cũng mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu để “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an bình vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm ... ”.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, Chúa đã vác lên vai và yêu thương chúng đặc biệt, điều này đã khích lệ chúng con rất nhiều, bởi vì mỗi người chúng con đều cần đến sự tha thứ của Chúa như con chiên lạc khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Chúa yêu thương tất cả mọi người, dù đó là kẻ lầm lạc tội lỗi. Càng lầm lạc tội lỗi lại càng được Thiên Chúa xót thương hơn, bởi vì Người không muốn cho một ai bị hư mất.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha chúng con, trái tim của một người cha bao giờ cũng đầy lòng thương xót, Cha còn thương xót chúng con gấp bội. Cha tạo dựng nên con, mong mỏi con từng ngày lớn lên và bước đi trên đường hạnh phúc. Nhưng đời con đã nhiều lúc lầm đường lạc lối, tội lỗi ngập tràn. Tuy nhiên, Cha đã không trừng phạt con, không xua đuổi con, không thất vọng về con, không bỏ mặc con chết trong núi rừng hoang vắng mãi mãi xa lìa tình Cha. Cha đã lên đường tìm con. Lịch sử cứu độ là lịch sử những tháng ngày Cha dày công vất vả đi tìm con. Biến cố Giáng sinh là lúc Cha hy sinh Con của Cha để đi tìm nhân loại trở về. Con Cha đã rong ruổi trên khắp các nẻo đường Palettina, và ngày nay vẫn chưa ngừng những bước chân rong ruổi trên khắp các nẻo đường thế giới để đi tìm mỗi người chúng con trở về. Tình thương của Cha quá bao la đến độ dù chỉ một mình con đi lạc, Con Cha vẫn xuống thế làm người tìm con, tha thứ cho con, cứu độ con.
Cha tìm con, thế mà con cứ mê mải chạy trốn Cha, cứ ương ngạnh lao mình vào chỗ chết. Hôm nay, con dâng lên Cha lời cảm tạ tình thương trìu mến Cha dành cho con, và xin Cha tha thứ cho sự vô tâm cứng lòng của con. Xin Cha giúp con quay về với Cha, ngoan ngoãn nằm trong vòng tay Cha. Và dù con tội lỗi ngập tràn, Cha không thất vọng về con, thì xin Cha cũng đừng để con thất vọng về chính mình, trái lại, xin cho con luôn tin tưởng để làm lại cuộc đời. Amen.
Ghi nhớ: ”Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi”.
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu.
Anh đáp: “Không biết. ”
“Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết”.
Câu trả lời thật ý nhị: “Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt”.
Suy niệm
Kinh Thánh nói rất nhiều hình ảnh Thiên Chúa là người mục tử: Thánh Vịnh ca ngợi Thiên Chúa là người mục tử của dân (x. Tv 22; 79,2; 94,7), Ngôn sứ Isaia còn nhấn mạnh hình ảnh mục tử Giavê: ”Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt ” (Is 40,11). Ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo Vua của Giuđa sẽ mang trách nhiệm người mục tử (x. Gr 2,8; 10,21). Thiên Chúa sẽ cho dân người những người mục tử mới với sự khôn ngoan (x. Gr 3,15; 23,1-4; Ed 34; Gcr 11,4-17). Êdêkien còn loan báo chỉ có một vị vua mới là mục tử (x. Ed 37,24).
Chúa Giêsu nhấn mạnh: Ngài là mục tử nhân lành hiến thân cho đoàn chiên (x. Ga 10,1-18. 27-30). Ngài còn nhận chính Ngài là người mục tử cho Israel - một đoàn chiên bị bỏ rơi (x. Mt 9,36; Mc 6,34). Ngài khẳng định sứ vụ mục tử của Ngài là tìm kiếm những con chiên lạc (x. Mt 10,6; Lc 15,4-7 ; Mt 18,12-13), điều đó biểu lộ Thiên Chúa luôn nhân hiền, bao dung, xót thương những con người tội lỗi sa ngã.
Ngài cũng mời gọi tất cả các mục tử trong cộng đoàn thi hành sứ vụ tìm kiếm những con chiên lạc khi dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, vì Ngài không muốn bất cứ kẻ bé mọn nào trong cộng đoàn bị hư mất: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn” (Mt 18,10) và ý của Cha trên trời là: “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất” (Mt 18,14). Cho nên người mục tử dành tình thương và cảm thông cho những thành viên lầm đường lạc lối.
Giáo hội là hiện thân của Ðức Giêsu và mỗi người chúng ta là chi thể của Ngài. Cho nên, chúng ta cũng được mời gọi yêu thương, tiếp nối sứ mệnh mục tử nhân lành của Ðức Giêsu Kitô khi giúp những anh em lầm lỗi trở về với Chúa.
Ý lực sống
“Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (Ed 34,16).
1. Kinh thánh nói rất nhiều hình ảnh Thiên Chúa là Mục tử. Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa là mục tử của Dân: “Chúa là mục tử tôi, tôi không thiếu gì” (Tv 22,1).
Tiên tri Isaia còn nhấn mạnh hình ảnh mục tử Giavê: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Tiên tri Giêrêmia đã loan báo Vua Giuđa sẽ mang trách nhiệm người mục tử (Gr 3,15).
2. Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha nên Ngài cũng xưng mình là mục tử: “Ta là mục tử nhân lành”(Ga 10,1-18, 27-28). Ngài là mục tử nhân lành hiến thân cho đoàn chiên. Ngài còn nhận chính Ngài mà mục tử cho Israel – một đàn chiên bị bỏ rơi (x. Mt 9,36). Ngài khẳng định sứ vụ mục tử của Ngài là tìm kiếm những con chiên lạc (Mt 10,6), điều đó biểu lộ Thiên Chúa luôn nhân hiền, bao dung, xót thương những con người tội lỗi sa ngã.
3. Ngài cũng mời gọi tất cả các mục tử trong cộng đoàn thi hành sứ vụ tìm kiếm những con chiên lạc khi dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, vì Ngài không muốn bất cứ kẻ mọn hèn nào trong cộng đoàn bị hư mất: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn” và ý Cha trên trời là: “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất” (Mt 18,14).
4. Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót kết thúc nhưng hẳn bạn vẫn chưa quên khẩu hiệu “Misericordes Sicut Pater” (Thương xót như Chúa Cha) cùng với biểu tượng Đức Giêsu vác trên vai một con người trông như đang vác con chiên, hai con người nhưng chỉ có ba con mắt. Đó là “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” đã giúp Giakêu, Matthêu, Madalena đổi đời, đã đánh động tâm hồn của Phêrô và bao người lầm đường lạc lối được ơn hoán cải. Ánh mắt bộc lộ tấm lòng thương xót của Chúa Cha trên trời “không muốn một ai phải hư mất”. Chúng ta cũng phải nhìn nhau bằng “con mắt thứ ba”, nhìn nhau bằng cái nhìn của Chúa, cái nhìn yêu thương tha thứ, cái nhìn cảm thông, quảng đại, và từ ánh mắt đó, chúng ta sẵn sàng bằng hành động dấn thân phục vụ (5 phút Lời Chúa).
5. Trong dụ ngôn có một chi tiết làm chúng ta thắc mắc: “Để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc”! Ta sẽ không thể hiểu được những câu này nếu ta chỉ suy nghĩ theo luận lý tính toán vụ lợi. Trái lại ta sẽ hiểu rất dễ nếu suy nghĩ theo lý lẽ của con tim, như Blaise Pascal nói: “Con tim có lý lẽ của nó” như: một người mẹ lạc con, phải chăng bà để các đứa con khác ở nhà và tất cả đi tìm đứa bị lạc.
Người mục tử bỏ 99 con chiên lành để đi tìm con chiên lạc không phải vì lý do kinh tế vì một con không đáng giá gì, nhưng chỉ vì tình thương thôi.
6. Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những người lầm lỗi; nhưng Ngài chỉ có thể tha thứ khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ để trở nên một vị thánh. Kẻ trộm trở nên thánh không phải vì là người tội lỗi, nhưng vì người trộm nhận biết mình là kẻ có tội.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
7. Chúng ta cũng phải bắt chước Chúa mà thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra mà bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, và biết cầu nguyện cho anh em.
8. Truyện: Tình mẹ tha thứ.
Ở Batna, có một gia đình nằm vào địa điểm hẻo lành, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vào tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
Trên ba năm trời tù túng, nóng nực, lạnh lẽo, không mền, không chiếu, bữa no bữa đói, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
Ta cần lưu ý tới văn mạch của đoạn Tin Mừng này là Mt chương 18 trong đó Mt gom chung những lời Chúa Giêsu dạy về nếp sống trong cộng đoàn Giáo Hội: phải phục vụ nhau (cc 1-4), đừng làm cớ cho anh chị em mình vấp ngã (cc 5-11), tìm cứu những anh chị em lầm lạc (đoạn này), sửa lỗi cho nhau (cc 15-18) v. v.
Trong một tập thể nhiều người, dĩ nhiên có người lầm lạc. Nếu không thương nhau thì tập thể sẽ bỏ mặc kẻ lầm lạc đó. Còn nếu thương nhau thực thì phải tiếc vì một người anh chị em mình bị lạc và do đó cố gắng tìm về.
Do đó, có thể nói rằng tập thể nào không tiếc xót một thành viên trong tập thể bị lầm lạc và không tận tình tìm cứu thành viên đó thì không phải là một tập thể yêu thương, không phải là tập thể có tính Giáo Hội.
B ... nẩy mầm.
1. Người ta chỉ cố sức tìm lại cái bị mất khi người ta thấy cái đó có giá trị. Người mục tử mới lặn lội đi tìm con chiên lạc vì vẫn coi con chiên đó là quý mặc dù nó đi lạc. Đối với Thiên Chúa, người nào cũng có giá trị, cho dù người đó là tội nhân. Bởi thế Ngài vẫn yêu thương, vẫn quý chuộng và lặn lội tìm cứu: “Con người đến để tìm cứu những gì hư mất” (Lc 19,10). Khi tôi không tìm cứu người lầm lạc trong cộng đoàn của tôi là tôi không còn coi người đó là anh chị em mình nữa, nhưng coi đó là đồ bỏ.
2. “Để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc” ... “Vui mừng vì con chiên đó hơn là vì 99 con không bị lạc”. Ta sẽ không thể hiểu được những câu này nếu ta chỉ suy nghĩ theo luận lý tính toán vụ lợi. Trái lại ta sẽ hiểu rất dễ nếu suy nghĩ theo lý lẽ của con tim. Như một người mẹ lạc con, phải chăng bà để các đứa con khác ở nhà và tất tả đi tìm đứa bị lạc!
3. Việc để 99 con chiên kia trên núi để đi tìm con chiên lạc chứng tỏ trong tình cảnh đó trong đầu người mục tử không còn nghĩ gì khác, và trong lòng ông cũng không còn tâm tình gì khác ngoài nỗi lo lắng cho con chiên lạc: nó rất khổ, nó đói khát, nó phải gặp biết bao nguy hiểm ... Càng thương nó, người mục tử càng thấy lòng mình như bị kim châm, lửa đốt ...
4. Một trong những ý của bài đọc Cựu Ước: “Ngài chăn dắt đoàn chiên Ngài như một mục tử. Ngài ẵm những con chiên trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ”.
Nhiều khi tôi quen sống trái ngược với tâm tình của Chúa. Tôi vô tâm, bám vào khẩu hiệu “thiểu số phục tùng đa số”. Do đó có những cá nhân bơ vơ lạc lõng giữa công đoàn, họ trở thành vô danh giữa đám đông vô tình, chẳng ai ngó ngàng dìu họ về với nếp sống cộng đoàn.
Lạy Chúa, về một khiá cạnh nào đó, con cũng lại là một con chiên lạc. Vì ham vui, vì dại dột, vì cố ý… con đã tách rời khỏi bầu khí của cộng đoàn. Con trở nên lạc lõng bơ vơ giữa cộng đoàn đông người. Nhưng Chúa hằng lưu tâm tới mỗi cá nhân. Xin Chúa thương dắt con về với cộng đoàn.
5. “Người chăn chiên để 99 con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc” (Mt 18,12)
Đã có lần tôi cảm thấy ngao ngán khi phải đến thánh đường. Tất cả những sinh hoạt tôn giáo đối với tôi chỉ mất thời gian và vô nghĩa. Chúa ở đâu? Tôi chẳng cần biết nữa. Và tôi tự giải thoát bằng đam mê học tập, lo toan kiếm sống và chạy theo những thú vui… Cuộc sống vẫn trôi, vẫn vui.
Rồi một ngày, trên đường đến trường, tôi gặp đám tang của một bạn trẻ. Sau quan tài, bà mẹ được hai người dìu bước, khóc nức nở… Cảnh tượng ấy làm tôi hết sức xúc động. Nhìn gương mặt tươi trẻ của anh trong khuôn ảnh, tôi tự hỏi: Cuộc sống chỉ có thế thôi sao? Bạn ấy sẽ đi về đâu? Còn tôi? Chẳng lẽ cuộc sống lại kết liễu dễ dàng như vậy sao? Tôi cảm thấy băn khoăn, trống rỗng. Chẳng biết phải làm gì nữa, tôi lại tìm đến Chúa… Nhìn lên thập giá, Chúa Giêsu đang dang tay, đầu gục xuống, như mong mỏi, chờ đợi tôi từ lâu. Trong thinh lặng, tôi đã nhận ra chính Ngài đã kiếm tìm tôi qua sự kiện bất ngờ ấy.
Lạy Chúa, xin cho con luôn cảm nhận được tình Ngài luôn dõi bước theo con, kiếm tìm con, chờ đợi con, dẫu có những lúc con đã quên Ngài (Epphata).
Đây là câu chuyện về tình yêu của Thiên Chúa. Qua câu chuyện này chúng ta thấy được một ít nét về tình yêu của Ngài.
1. Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu hết sức quảng đại.
Truyền thống Do Thái kể rằng: Để dạy cho Môisen bài học về sự yêu thương mà ông sẽ phải đem ra áp dụng với đoàn dân Chúa trao sau này, thì một hôm lúc ông còn đang lẩn trốn trong sa mạc, Chúa đã cho ông gặp một người chăn chiên. Ông đã sống trọn ngày với người chăn chiên này và giúp anh ta vắt sữa. Chiều đến, ông thấy anh ta đổ thứ sữa tốt ấy vào trong một cái bát lớn, đặt nó trên một hòn đá cách đó không xa. Môisen hỏi thì anh trả lời:
- Đó là sữa dành cho Thiên Chúa. Người chăn chiên trả lời.
Môisen tự cho mình có bổn phận phải giải thích cho thanh niên biết rằng, Thiên Chúa là Thần Linh. Người không uống sữa. Người thanh niên không muốn tin điều này cho nên sau một hồi tranh luận, Môisen gợi ý để cho anh đến núp sau bụi cây và rình xem Thiên Chúa có đến uống sữa của anh ta không ... Đêm đó, người chăn chiên núp sau một bụi cây, dưới ánh trăng, anh nhìn thấy một chú chồn tơ đến liếm một cách thèm thuồng bát sữa của anh. Xong chú chồn chạy biến vào sa mạc.
Sáng hôm sau, Môisen gặp lại người chăn chiên trong trạng thái sa sút tinh thần. Môisen hỏi anh:
- Hình như anh có điều gì không ổn?
Người chăn chiên chậm rãi trả lời:
- Ông quả có lý! Thiên Chúa là Thần Linh, Người không thèm sữa của tôi.
Ngạc nhiên, Môisen nói lớn:
- Bây giờ anh đã biết Thiên Chúa hơn rồi! Đáng lý ra anh phải hài lòng và vui lên mới phải chứ!
- Vâng, anh ta đáp - Tuy nhiên, cách tốt nhất để cho tôi biểu lộ tình yêu đối với Ngài đã bị mất.
Lúc đó, được Chúa soi sáng, Môisen đã chợt hiểu. Ông rút lui vào nơi thanh vắng. Ông cầu nguyện thâu đêm. Đêm đó, Thiên Chúa hiện ra với ông và nói:
- Môisen, ngươi đã lầm! Ta là Thần Linh. Điều này rất đúng nhưng không phải vì thế mà Ta đã không ưa thích đón nhận bát sữa của người chăn chiên dâng lên cho Ta để tỏ lòng thương mến Ta. Tuy nhiên, bởi vì Ta không cần dùng sữa, Ta đã chia sẻ bát sữa ấy với chú chồn tham ăn kia!
Vâng! Tình yêu của Chúa là thế.
2. Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu chở đợi và tha thứ:
Trong một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa mà cánh tay phải của Chúa tách rời khỏi đinh. Cây Thánh Giá này có lịch sử như sau:
Ngày nọ, một tội nhân “gạo cội” đến xưng thú tội mình dưới cây Thánh Giá này với tất cả dấu hiệu của một sự thống hối chân thật. Cha giải tội do dự ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông ta nhiều và nặng. Tội nhân nài xin sự tha thứ.
- Tôi ban phép giải tội cho ông, vị linh mục nói, tuy nhiên, ông không được tái phạm nữa nhé!
Tội nhân xin hứa và giữ được một thời gian. Nhưng rồi, vì yếu đuối ông lại sã ngã lại. Lòng thống hối thúc đẩy ông đến toà giải tội. Vị linh mục bảo ông:
- Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu!
- Con thống hối, - tội nhân đáp lời vị linh mục - con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối! Xin hãy tha thứ cho con!
Cha giải tôi tha thứ và nói thêm:
- Đây là lần cuối cùng đó nhé!
Một thời gian khá lâu sau đó, một phần theo thói quen, một phần vì yếu đuối, ông lại rơi vào vòng tội lỗi.
- Bây giờ thì dứt khoát! –vị linh mục bảo - ông luôn rơi lại trong cùng một tội lỗi. Sự thống hối của ông không chân thành.
- Thưa Cha, con rất chân thành thống hối. Con sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn.
- Không, không còn sự tha thứ cho ông nữa.
Vào chính lúc đó người ta nghe có tiếng người khóc và có tiếng động phát xuất từ cây Thánh Giá: một cánh tay rời khỏi đinh, giơ lên và vạch trên đầu tội nhân dấu hiệu sự tha thứ, đồng thời có một tiếng nói: “Ngươi, ngươi có đổ máu ngươi ra cho người này đâu!”
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nazareth, Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao. Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con. Xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt, biết yêu thương và tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ. Amen.
Dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng. 13/12 – Thứ Tư tuần 2 mùa vọng. – Thánh Luxia, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ. "Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả cực nhọc".
* Có lẽ thánh nữ đã chịu chết ở Xyracuxa, thời hoàng đế Điôlêxianô bách hại đạo (340). Ngay từ thời xa xưa, hầu như cả Hội Thánh Rôma đã tôn kính rồi ghi tên người vào Kinh Tạ Ơn.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.
Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.
Khi quy hoạch thành phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí. Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường. Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc. Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn. Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen. Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress. Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống. Ðức Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Gánh nặng của nỗi buồn đau và vấp ngã trong quá khứ. Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại. Gánh nặng phải mang vì người khác ... Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi. Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi. Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh. Hãy mang lấy ách của tôi. Ðức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài mà những kẻ đến với Ngài phải mang. Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc, về con đường hẹp mà ít người muốn đi, về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài. Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ. Ðó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa. Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu. Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ. “Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh) Hãy học với tôi. Ðức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài. Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu. Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài: “Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu. ” Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại. Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời, cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ. Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải, và đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen. ---------------------------------
Kiếp sống con người thật vất vả. Tác giả Thánh vịnh nói cuộc đời con người “phần lớn là gian lao khốn khổ” khi sống trong “thung lũng nước mắt”. Không phải chỉ có đau khổ, nhưng còn những gánh nặng: gánh nặng sự sống, gánh nặng bổn phận, nhất là gánh nặng tội lỗi. Isaia cho biết tự sức con người không gánh nổi đời mình. Vì kiếp người quá vất vả gian lao. Đến nỗi “thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo”.
Phải đến với Chúa vì “những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt”.
Hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “Hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa vì chính Chúa đã đến với ta. Như Chúa đã chấp nhận gánh nặng nhân loại, Chúa mời gọi ta hãy chấp nhận gánh nặng của bản thân, của tội lỗi, của trách nhiệm của ta.
Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa để Chúa bổ sức cho ta. Sức riêng ta không vác nổi gánh nặng. Nhưng có sức của Chúa ta sẽ mạnh mẽ như Isaia đã loan báo: “Những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh”.
Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa để thăng hoa thánh giá đời ta khi không coi đó là ách giữa đàng, nhưng coi đó là ách của Chúa. Ách của Chúa là tình yêu. Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng. Ách nặng nề sẽ trở nên ngọt ngào nhẹ nhàng khi ta gánh vác với tình yêu mến.
Mùa Vọng đã qua đi được một nửa, cuộc chờ đợi còn kéo dài, cuộc thanh luyện càng quyết liệt, nhưng ta hãy an tâm tiếp tục lên đường, vì Chúa hằng theo dõi bước đường của ta, Chúa hằng ban ơn trợ giúp ta, và nhất là Chúa Giêsu cùng đi với ta, cùng chia sẻ gánh nặng với ta. Thật là một chặng đường gian khổ nhưng đầy ngọt ngào vì có Chúa và được cùng Chúa chia sẻ.
Nước Tống có một người đã đứng tuổi tự nhiên mắc phải chứng bệnh quên lãng. Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên. Hôm nay ai cho cái gì ngày mai lại chẳng nhớ. Ra đường quên cả đi, về nhà quên cả ngồi. Trước đã làm gì và bây giờ đang làm gì đều quên hết, sau này cũng chẳng nhớ. Cả nhà rất lo lắng về bệnh tình của anh nên đã mời thầy thuốc, chạy đủ hết mọi cách mà cũng chẳng khỏi.
Sau đó có ông thầy đồ người Lỗ nói rằng là tôi chữa được.
Người bệnh hứa với ông đồ: Hễ chữa được bệnh sẽ chia cho ông một phần gia tài.
Trước khi trả lời đáp ứng nhận chữa bệnh, ông đồ dùng nhiều cách thức khác nhau để tìm hiểu khả năng trí nhớ của người bệnh này. Trước hết ông đồ thử bằng cách lột áo của người bệnh để rét lạnh thì thấy anh ta xin áo. Bỏ đói không cho ăn thì anh ta xin ăn. Ðem anh ta vào chỗ tối tăm thì anh ta xin ra chỗ sáng. Sau đó ông đồ mới nhận lời chữa bệnh. Chẳng biết ông đồ chữa thế nào mà sau bảy ngày anh ta đã hết bệnh và trở lại bình thương.
Tuy nhiên, khi đã tỉnh táo như thường thì anh ta lại nổi giận, chửi vợ đánh con, cầm dao rượt đuổi ông đồ.
Người ta bắt giữ anh ta lại hỏi: Tại sao anh lại giận dữ như vậy?
Anh ta trả lời: Lúc trước tôi mắc bệnh quên thì lòng tôi thảnh thơi khoan khoái, trời đất có còn hay không tôi cũng chẳng cần biết. Nay tôi lành bệnh, tôi nhớ lại tất cả những chuyện của mấy mươi năm về trước như chuyện buồn, vui, yêu, ghét, thành công, thất bại, lòng tôi trở nên bối rối, ngổn ngang trăm mối. E rằng sau này các việc ấy cứ bám cứng lấy tâm trí tôi thì dù cho muốn quên chúng đi trong một giây, một phút liệu tôi có được như ý muốn hay không?
Anh chị em thân mến!
Nhìn một người điên, người mất trí, có kẻ chép miệng khen người ấy hạnh phúc, vì chẳng có gì phải lo âu phiền muộn. Thế nhưng nếu hỏi lại những người vừa buông lời khen này xem họ có muốn trở thành người hạnh phúc kiểu như vậy không? Chắc chắn họ sẽ trốn chạy trước câu trả lời, vì đã làm người thì chẳng ai muốn mình được gọi là kẻ ngây ngô, không nhớ, không biết chuyện gì. Không muốn bị gọi là kẻ ngây ngô thì con người lại phải đối đầu với lo âu, phiền muộn, nóng giận, đau khổ, chúng là gánh nặng của thuyết nhân sinh.
Mở mắt chào đời lúc ngửa tay đón nhận sự sống thì cũng là lúc con người phải mang lấy gánh nặng nề. Bởi thế, không ít kẻ dám đánh đổi tất cả để tìm kiếm một chút thú vui để được quên trong chốc lát, có kẻ tìm quên trong sợi khói phù du, có người tìm quên trong men say trác táng, rồi cũng tìm được thú vui trong chốc lát. Nhưng rồi sau những phút giây ngán ngủi ấy, thực tế lại trở nên nặng nề hơn, gánh nặng cuộc đời càng xúi giục sâu hơn.
Lại cũng có những triết thuyết như vô cảm, vô vị, vô sắc chỉ giúp con người giải thoát lo âu vướng bận của cuộc sống, thực hiện những hướng dẫn đó thật là một thái độ lý tưởng cho những ai muốn kiếm tìm sự bình an. Thực tế trong cuộc sống thử hỏi mấy ai hiểu được điều này, vì cuộc sống con người gắn liền với cái cảm tính lo âu, nóng giận, buồn phiền ...có tránh cũng chẳng thoát, khó nhọc và gánh nặng là thân phận của kiếp sống con người.
Về phần Chúa Giêsu, cảm thông với phận kiếp làm người nên khi đến cứu chuộc trần gian Ngài đã nhận một cuộc đời lam lũ ở làng quê Nazareth. Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Ngài kêu gọi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ngài, nếu luật lệ Do Thái đã bị các luật sĩ và biệt phái biến thành chiếc ách kìm kẹp dân Chúa. Hãy đến với Ngài, nếu đau khổ của kiếp nhân sinh như chiếc gánh đè nặng trên vai con người. Ðến với Ngài không phải để được cất khỏi những điều ấy. Vì Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn lề luật và làm cho ách trở nên êm ái và gánh trở nên nhẹ nhàng.
Lề luật phải được giữ trong tinh thần và sự thật. Lề luật giải phóng con người và đau khổ là con đường dẫn đến vinh quang. Gánh trở nên nhẹ nhàng vì từ nay con người không phải một mình mang lấy đau khổ nhưng đã có người chia sẻ cảm thông. Dân tộc Do Thái đã hằng mong mỏi chở Ðấng Cứu Thế đến, vì khi Ngài đến Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ trên khuôn mặt và kẻ nhọc mệt sẽ được Ngài nâng đỡ bổ sức.
Sống trong tâm tình mùa vọng, mùa trông đợi, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta cũng sẽ tìm đến với Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế để được Ngài an ủi, nâng đỡ, bổ sức và đồng thời học nơi Ngài tâm tình biết chia sẻ cảm thông với người khác. Vì mang kiếp phận con người chẳng ai tránh khỏi khó nhọc và gánh nặng, nhưng khó nhọc sẽ bớt khi được người chia sẻ, gánh nặng sẽ vơi khi có kẻ cảm thông.
Trong lịch sử nhân loại, nhiều khi những cuộc cách mạng nhằm lật đổ một tình trạng bất công lãi dẫn đến một tình trạng bất công còn tệ hại hơn. Cuộc cách mạng Pháp 1789 đã gây ra biết bao nhiêu đổ máu. 80 triệu người Trung hoa đã chết dưới bàn tay của Mao trạch Đông. 2 triệu người Cambốt đã chết trên cánh đồng giết người của Pônpốt. Quả thực, con người mơ ước thiên đàng, nhưng lại rơi vào địa ngục.
Trong tôn giáo có lúc người ta cũng chứng kiến một hiện tượng tương tự: tôn giáo vốn là nơi nương tựa của con người: con người tìm đến với tôn giáo thường là để tìm một sự giải thoát nào đó. Nhưng nhiều khi thay vì tìm được thanh thản nơi tôn giáo, con người lại bị đè bẹp bởi những gánh nặng. Đó là trường hợp đã xảy ra cho những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn. Họ là những người vất vả gồng gánh nặng nề. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, trong Do Thái giáo, những người thiệt thòi nhất là những người bé mọn, thất học. Gồng gánh nặng nề mà các luật sĩ chất lên vai họ chính là vô số khoản luật mà họ phải tuân giữ mà không hề hiểu được ý nghĩa và mục đích, họ không đủ khả năng để phân biệt được cái thiết yếu với điều phụ thuộc. Tôn giáo như thế không phải là một giải thoát, nhưng chỉ là một cầm buộc, đi tìm sự giải thoát, con người lại trở thành nô lệ.
Với những người bé mọn ấy, Chúa Giêsu đã mời gọi hãy mang lấy ách của Ngài, vì ách của Ngài thì êm ái và gánh của Ngài thì nhẹ nhàng. Thật ra, Chúa Giêsu không rao giảng một tôn giáo mới. Ngài không đạp đổ hệ thống tôn giáo có sẵn. Trái lại Ngài chỉ cho con người thấy đâu là cái cốt lõi của Lề Luật và của đạo. Cái cốt lõi ấy chính là tình yêu thương. Ngài đã từng tuyên bố: “Ta đến không phải để bãi bỏ Lề Luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Và như thánh Phaolô đã giải thích: “Yêu thương là chu toàn cả Lề Luật”. Thật thế, Chúa Giêsu đã kiện toàn Lề Luật bằng giới răn yêu thương, Ngài thu tóm cả Lề Luật thành hai chữ yêu thương. Một bộ luật nặng nề và không hồn đã trở thành nhẹ nhàng nhờ có linh hồn là tình yêu thương. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của Chúa Giêsu, cuộc cách mạng của tình thương. Chỉ có tình thương mới là khí giới lật đổ được bất cứ một bất công nào và xây dựng được một xã hội công bằng thật sự. Chỉ có tình thương mới thực sự giải phóng con người khỏi mọi áp bức.
“Hãy mang lấy ách của Ta, vì ách của Ta thì êm ái. Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường”. Lời mời gọi của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về cái cốt lõi của đạo. Đạo là chính Chúa, là tình yêu nhập thể. Sống đạo là sống bằng sức sống thần linh của Ngài, sống đạo là làm chứng và chia sẻ tình yêu của Ngài cho mọi người. Đó là cuộc cách mạng đích thực mà Chúa Giêsu muốn tiếp tục qua Giáo Hội và qua mỗi người chúng ta.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng. ” (Mt. 11, 28-30)
Cho tới hết chương 10 Tin mừng theo thánh Mát-thêu, việc rao giảng nước trời hầu như không gặp trở ngại gì. Nhưng đến chương 11 và 12, Đức Giêsu bắt đầu gặp chống đối.
Trước hết, Gioan tẩy giả sai môn đệ đến hỏi: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt. 11, 2-6). Tiếp đến là dân chúng: “Thật vậy, Gioan đến không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt. 11, 18-19). Sau là đến những biệt phái bắt bẻ Đức Giêsu giữ luật ngày Sa-bát (Mt. 12, 1-8. 9-14). Họ còn chụp mũ Người là đồng lõa với tướng quỷ Bê-en-giê-bút (Mt. 12, 22-32).
Đức Giêsu đã ứng xử thế nào trước những phản đối của dân chúng và quyền bính Do-thái? Người ứng xử bằng hai cách: Trước tiên bằng một lời kêu cầu tạ ơn: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25). Thứ đến, Người quay lại phía những kẻ khốn cùng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Tôi êm ái, và gánh Tôi nhẹ nhàng” (Mt. 11, 28-30).
Nhưng Đức Giêsu chống thái độ về giữ luật của biệt phái và những thầy thông luật, không phải Người giải phóng con người khỏi giữ luật luân lý. Trái lại, Người yêu cầu họ phải giữ luật nghiêm chỉnh và đúng căn tính của luật (Mt. 11, 5-7). Người đòi hỏi như vậy vì Người là Thầy có lòng êm ái và khiêm nhường. Quả thực, toàn bộ Tin mừng nhằm giới thiệu Đức Giêsu như là tôi tớ, khiêm nhường trước Thiên Chúa, và êm ái với mọi người. Thái độ của Người không như các nhà luân lý. Trước khi trình bày cho con người những đòi hỏi căn bản về đổi mới một điều luật, Đức Giêsu đã mang đến cho họ niềm vui của nước trời.
Mang lấy ách của Đức Giêsu, chính là gắn bó với Người, đi theo Người, học hỏi với Người về thực chất của lề luật, mà ưu tiên và trước hết, phải cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu độ và lòng thương xót của Chúa Cha.
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi ...”. Đây chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ngài lên tiếng mời gọi những ai muốn theo Ngài thì cũng phải mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài.
Tuy nhiên, “ách” và “gánh” của Đức Giêsu thì hoàn toàn khác với “ách” và “gánh” của các Rapbi Dothái. Nếu “ách” và “gánh” của các thầy Dothái là những lề luật khắt khe và vụ hình thức, thì “ách” và “gánh” của Đức Giêsu lại trở nên êm ái và nhẹ nhàng. Bởi vì “ách” và “gánh” của Ngài cũng chính là đạo lý, cốt lõi Tin Mừng. Thế nên, hệ quả của “ách” và “gánh” đó chính là trở nên hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Như vậy, khi mang “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là chúng ta tin Ngài để trở thành môn đệ. Trở thành môn đệ của Đức Giêsu thì phải trở nên giống như Ngài ở điểm khiêm nhường. Đồng thời học cho biết và sống sự hiền lành với tha nhân.
Nếu một khi chúng ta sống những đặc tính ấy của Đức Giêsu trong lòng mến, thì hẳn chúng ta sẽ được thanh thản và tâm hồn chúng ta sẽ được an vui bình an, nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Ngày hôm nay, con người đang bị cơn lốc của kinh tế thị trường, của ăn chơi hưởng thụ, của những chân lý nửa vời lôi cuốn ..., nên họ muốn cho mình được thoát ly khỏi Thiên Chúa. Nhưng khi họ đã mời Chúa đi chỗ khác, thì ngay lập tức, cuộc đời của họ trở nên trống rỗng, cô đơn, bất an và đau khổ .... Họ mong muốn được tự do, nhưng thực ra, con người đang trở thành nô lệ của những thứ mau qua chóng hết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu chính là từ bi, nhân hậu, hiền hòa, khiêm nhường, là những hy sinh, từ bỏ, và sẵn sàng vác Thập Giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Sống mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Làm mọi việc thiện vì lòng yêu mến Chúa. Tránh kiêu ngạo, hình thức, vụ lợi. Không vì luật mà bỏ qua tình Chúa, tình người để rồi bất nhân với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con được trở thành môn đệ thực sự của Chúa khi mang trong mình và sống tinh thần của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Sứ điệp: Cuộc sống con người tràn ngập những vất vả thương đau. Chúa Giêsu mời gọi ta đến với Chúa để được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Nhờ sống theo Tin mừng, sống tình mến Chúa yêu người, ta sẽ thấy mọi sự trở nên êm ái nhẹ nhàng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy cuộc sống con vất vả ngược xuôi sớm tối đi tìm miếng cơm manh áo. Chúa nhìn thấy những giọt mồ hôi nhỏ xuống, đôi bàn tay chai cứng, đôi chân mỏi mệt rã rời. Chúa nhìn thấy những ưu tư khắc khoải, những phiền muộn khổ đau. Chúa cũng nhìn thấy tội lỗi đè nặng lương tâm con. Đã bao lần con muốn buông xuôi tất cả, con chán nản thất vọng. Cũng có lúc con tìm quên lãng cuộc đời trong những thú vui thấp hèn mau qua. Nhưng con chẳng trốn được cuộc đời. Tất cả vẫn còn đó.
Giờ phút này con đến bên Chúa theo lời Chúa mời gọi con. Con đến trao vào tay Chúa, trao vào trái tim Chúa tất cả gánh nặng cuộc sống con. Con đến với Chúa không phải để chạy trốn cuộc đời, nhưng để nài xin Chúa ban cho con lòng yêu mến. Tình yêu sẽ làm cho gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Cuộc đời Chúa cũng đâu thiếu những vất vả khổ đau. Gánh nặng cuộc đời cũng đã nhiều lần đè Chúa quỵ ngã, nhất là trên con đường Thánh giá. Tuy nhiên, đối với Chúa tất cả đều nhẹ nhàng, vì Chúa yêu mến Chúa Cha và yêu mến chúng con. Xin Chúa ban tình yêu và ân sủng Chúa cho con. Và thế là đủ cho con.
Xin Chúa nâng đỡ và bổ sức cho con. Cho con tin rằng Chúa luôn ở bên con để vác gánh nặng thay con. Ước gì nhờ những giờ phút cầu nguyện và nhờ Thánh lễ, con được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng để con tiếp tục sứ mạng Chúa trao với niềm hăng say phấn khởi. Amen.
Ghi nhớ: ”Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả cực nhọc”.
1. Đức Giêsu mời gọi mọi người, nhưng cách riêng ở đây là những người đang sống dưới lề luật và giáo lý nặng nề của Do Thái giáo, đến với Chúa để được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta một tình yêu đặc biệt Ngài dành cho con người, nhất là những người đau khổ, vất vả. Hãy đến với Chúa, Ngài sẽ nâng đỡ ủi an tâm hồn sầu khổ của chúng ta. Ách tình yêu Ngài sẽ làm cho ách nặng cuộc đời trở nên êm ái nhẹ nhàng. Kiêu căng đưa đến hận thù. Chỉ có hiền lành khiêm nhường mới đem lại niềm vui an bình sâu thẳm cho cuộc đời.
2. Có hai chữ “gánh” và “ách” hơi khó hiểu. Trong ngôn ngữ Do thái thì khi dùng chữ ách và gánh thì vừa có nghĩa là luật lệ vừa có nghĩa là giáo huấn. Như vậy, “Mang lấy ách của tôi” là kiểu nói bóng các thầy rap-bi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai làm thầy. Vậy khi nhận lấy ách của Đức Giêsu là nhận Ngài làm thầy và theo giáo huấn của Ngài là thực hành Tin Mừng cứu độ của Ngài.
3. Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu căng. Người ta có dị ứng khi nói đến lời dạy “hiền lành và khiêm nhường” của Đức Kitô, nhất là còn khuyên chúng ta thực hiện đức tính này nữa.
Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần bước theo chân Chúa. Ngài đã đến chia sẻ kiếp người với chúng ta, Ngài đã đi đến mức cùng của việc tự hạ: sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Đức Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành: “Anh em hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
4. Theo giáo huấn của Đức Giêsu thì thế nào là hiền lành và khiêm nhường?
a) Hiền lành hay hiền hậu là đức tính của con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người, có đức hạnh và hay làm điều thiện, ví dụ: Cha mẹ hiền lành để đức cho con (Tục ngữ). Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh Thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.
b) Khiêm nhường: theo chữ thì khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút. Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào: từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh nhàn và thành thật đúng với cái “là” của mình.
Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt qua cái ”là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo bị coi là người ”việt vị” trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình là có lỗi. Dĩ nhiên, cầu thủ việt vị thì đều bị trọng tài phạt.
5. Đức Giêsu mời chúng ta học với Ngài và sống theo luật Ngài. Giáo huấn và lề luật của Ngài đặt nền tảng trên lòng yêu thương. (Ga 13,34). Đức Kitô đã kiện toàn lề luật bằng giới răn yêu thương. Ngài thu tóm lề luật thành hai chữ yêu thương. Một bộ luật nặng nề và không hồn đã trở thành nhẹ nhàng nhờ có linh hồn là yêu thương. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại nhất của Ngài, cuộc cách mạng của tình thương. Chỉ tình thương mới là khí giới lật đổ được bất cứ một bất công nào và xây dựng được một xã hội công bằng bác ái thực sự.
6. Truyện: Lạn Tương Như và Liêm Pha.
Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận lăm le hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi ...Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:
- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá như vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi không ở nữa.
Tương Như nói:
- Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không?
Bọn xá nhân đáp: - Không.
Tương Như nói:
- Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Trương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư? Nhưng ta nghĩ, Tần Sở dĩ nhiên không dám đánh Triệu vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.
Bạn xá nhân mọp lạy mà rằng:
- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, quì mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết có nhau” (Nguyễn Duy Cần, Cái dũng của thánh nhân, 1958, tr 162-163).
1. Trong ngôn ngữ do thái, “gánh” và “ách” vừa có nghĩa là luật lệ vừa có nghĩa là giáo huấn. “Mang lấy ách” hoặc “Mang lấy gánh” của ai nghĩa là làm đệ tử người đó, chịu sự giáo huấn của người đó, sống theo luật lệ của người đó.
2. Văn mạch: trước đoạn này, Chúa Giêsu vừa nói về “những bậc khôn ngoan thông thái” do thái tức là các rabbi, các người biệt phái (câu 25). Dân chúng đã cảm thấy quá nặng nề và mệt mỏi khi học với họ và sống theo cách giải thích lể luật khắt khe của họ.
3. Chúa Giêsu mời người ta học với Ngài và sống theo luật Ngài. Giáo huấn và lề luật của Ngài đặt nền tảng trên lòng yêu thương (Ga 13,34). Cách đối xử của Ngài đầy lòng hiền hậu và khiêm tốn (câu 29). Bởi đó ai học với Ngài và sống theo luật Ngài thì sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng và cảm thấy êm ái, nhẹ nhàng (câu 30).
B. Suy niệm ( ... nẩy mầm)
1. Nhiều kẻ xưng mình là “đệ tử” của Chúa Giêsu. Tuy nhiên chỉ những ai “hiền lành và khiêm tốn”, chỉ những ai khi người khác đến gần họ mà cảm thấy “tâm hồn được nghỉ ngơi, bồi dưỡng”, có cảm giác “êm ái nhẹ nhàng” mới là đệ tử thật, đệ tử đã lãnh hội đúng chân truyền của sư phụ.
2. Trong Tân Ước có lẽ đây là lần duy nhất Chúa Giêsu tự mô tả, “tự khoe” mình. Dĩ nhiên Ngài nói rất ít và rất súc tích. Hai đức tính được Ngài chọn làm tiêu biểu cho Ngài là gì? Là Hiền Lành và Khiêm tốn.
3. Một trong những ý của bài đọc Cựu Ước: “Ngài ban sức mạnh cho kẻ rã rời và thêm sức cho người mệt mỏi”. Ý này được Chúa Giêsu làm ứng nghiệm trong bài Tin mừng hôm nay.
4. “Ách êm ái, gánh nhẹ nhàng”: Có một người cha đi dạo với cậu con trai cưng. Sau khi vui đùa thoả thích giữa cánh đồng cỏ đầy hoa, hai cha con tung tăng rảo bước ra về. Dọc đường bỗng cậu con trai cưng 6 tuổi này nói với bố “Ba ơi con buồn ngủ”, rồi chẳng mấy chốc chân tay bủn rủn, cha cậu phải bồng lên. Cậu quay ra ngủ thoải mái bình an. Người cha bồng đứa con về và ông đã ghi lại trong nhật ký rằng “thế là tôi đã cõng cái ách êm ái đó suốt quãng đường dài trở về nhà”. Khi chúng ta yêu, những khó khăn do người yêu mang lại, ta dễ cảm nhận nó nhẹ nhàng êm ái.
5. “Đức Giêsu cất tiếng nói: Hãy học gương tôi, ví tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29)
Một buổi chiều nọ, ngồi trong tiệm sửa xe đạp, tôi có dịp quan sát khung cảnh náo nhiệt của một đoạn đường trong thành phố. Bỗng một chiếc Honda của một thanh niên từ trong hẻm lao thẳng ra và tông vào xe của một thiếu nữ. Rất may, cả hai người đều không bị thương tích; nhưng chiếc quai giỏ bên tay xe của chị bị đứt. Trước mặt họ, những trái hồng văng tung toé. Hối hận vì hành động của mình, anh thanh niên vội bước đến xin lỗi và nhặt những trái hồng lên cho chị. Với thái độ điềm tĩnh, chị mỉm cười nói: “Xin lỗi anh, tôi thắng không kịp”.
Quả là điều thật dễ thương trong cuộc sống, khi con người biết biểu lộ tình thương, sự hiền lành và khiêm nhường của chính Chúa Giêsu, vị Thầy của chúng ta. Thật dễ thương nhưng chẳng dễ thực hiện, bởi dư luận vẫn cho rằng hiền lành là ngu xuẩn và khiêm nhường là nhu nhược.
Lạy Chúa, xin giúp con can đảm sống tinh thần của Chúa, dù có phải đi ngược lại những quan điểm của thế gian, hay bị người đời xử tệ. (Epphata)
6. Mầm khác:
Thầy Đô-đi-kê nổi tiếng thánh thiện nhất trong dòng và hay làm phép lạ. Tin đồn rằng bất cứ điều gì Thầy xin đều được Chúa nhận lời.
Một hôm dân làng kéo đến xin Thầy cầu nguyện cho trời mưa. Nhưng thay vì trời mưa thì lại nắng lâu hơn nữa.
Một người mẹ đến xin Thầy cầu nguyện cho đứa con đang đau được chữa lành. Nhưng đứa con đã chết sau đó vài ngày.
Vài người khác đến xin Thầy làm phép lạ cho đá thành bánh. Nhưng đá vẫn trơ ra đấy.
Sau những lần thử thách mà không được gì cả, dân làng nổi giận đuổi Thầy ra khỏi phạm vi của làng, cấm không cho Thầy trở về tu viện nữa.
Thầy đành phải đi tìm một hang đá trong sườn núi để ẩn mình, rồi than thở với Chúa:
- Lạy Chúa, con không hiểu tại sao lại xảy ra như vậy. Con cầu xin Chúa cho mưa xuống thì Chúa lại làm cho nắng hạn lâu hơn. Con cầu xin cho đứa trẻ mau lành bệnh thì Chúa lại cho nó chết. Con xin Chúa cho dân làng bánh ăn thì Chúa cứ để những viên đá trơ trơ ra đó. Vì thế Chúa xem đây, con bị mọi người xua đuổi, coi con như một kẻ tội lỗi ghê gớm nhất.
Nói xong, thầy nghe có tiếng từ trời phán:
- Hỡi con, bởi vì Ta đã cho điều con cầu xin lúc trước rồi đó.
Thầy Đô-đi-kê không còn nhớ thầy đã xin gì trước đó nữa nên mới hỏi lại:
- Nhưng lạy Chúa, con đã xin Chúa điều gì?
Tiếng lạ đáp:
- Trước đây con đã chẳng cầu xin Ta cho con được dịp sống khiêm nhường đó sao?
***
Đã xin Chúa cho được dịp sống khiêm nhường, nhưng khi được như ý thì thầy Đô-đi-kê lại than trách.
Phải chăng miệng thầy xin được sống khiêm nhường nhưng lòng thầy lại có ngầm ý muốn được tôn trọng, được thán phục qua những ân huệ mà thầy muốn xin được cho người khác?
Phải chăng vì ham danh và bị dân làng lợi dụng nên thầy chỉ muốn cầu nguyện theo ý họ, cho những lợi lộc trần gian của họ, thay vì cầu nguyện theo ý Ch a?
Hằng ngày chúng ta vẫn nhiều lần cầu nguyện cho "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Phải chăng lời cầu ấy phát xuất từ một con tim chân thành và khiêm tốn?
Chỉ cõi lòng khiêm tốn đích thực mới có thể suy phục được ý Chúa và mới có khả năng thi hành trọn vẹn ý Ngài.
1. Chúa phán: ”Hãy đến cùng Tôi, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề” (Mt 11,28).
Vào thời Chúa Giêsu, đời sống của những người Do Thái rất nặng nề. Họ bị đặt dưới ách thống trị của những tập tục của tiền nhân và một hệ thống luật pháp đã bị làm biến chất không còn sức sống. Chúng ta hãy nghe một câu chuyện được ghi lại trong sách Korah:
Người láng giềng tôi là một bà góa. Bà có hai cô con gái và một mảnh ruộng. Khi bà bắt đầu cày thì Môisen (ý nói luật pháp Môisen) bảo bà: “Ngươi không được cày bò và lừa chung với nhau.
Khi bà bắt đầu gieo thì ông phán: “Ngươi không được gieo trong ruộng ngươi hai thứ giống. ”
Khi bà bắt đầu thu hoạch ông bảo: “Ngươi không được mót lúa sót hay lấy lại những gì ngươi bảo quản. ”
Bà bắt đầu đập lúa thì ông bảo: “Hãy giao cho ta của lễ phần mười lần thứ nhì”. Bà thuận và dâng hết cho ông.
Sau đó người đàn bà đáng thương kia làm gì? Bà bán đám ruộng, mua hai con chiên để hớt lông may áo với hy vọng nó đẻ con để kiếm lợi. Khi chiên sanh sản thì Aaron (đòi hỏi của thầy tế lễ) nói: “Hãy dâng cho ta con chiên đầu lòng của ngươi. ” Bà chấp nhận đòi hỏi đó và trao nó cho ông.
Đến kỳ cắt lông chiên, bà hớt lông và Aaron lại đến: “Hãy trao cho ta lông chiên hớt đầu tiên của ngươi. ” (Đnl 18,4).
Người đàn bà thầm nghĩ rằng: “Ta không thể chịu nổi ông này. Ta sẽ làm thịt chiên mà ăn. ” Aaron lại đến và bảo: “Hãy trao cho ta cái bả vai, cái hàm và cái bụng. ” (Đnl 18,3). Người đàn bà nói: “Ngay đến lúc tôi làm thịt nó, ông cũng không để tôi yên, thôi tôi sẽ dâng nó luôn. ” Aaron bèn nói: “Trong trường hợp đó nó sẽ hoàn toàn thuộc về ta. ” (Ds 18,4). Ông liền mang nó đi bỏ lại bà góa đang khóc với hai đứa con gái.
Câu chuyện kể trên là một thí dụ về những đòi hỏi triền miên của luật pháp đặt trên vai con người trong mỗi sinh hoạt và hành động của đời sống. Những đòi hỏi của luật pháp quả thật là một gánh nặng, nặng kinh khủng làm cho người ta không thể chịu nổi.
2. Còn khi Chúa Giêsu nói đến ách và gánh của Ngài thì Ngài có ý muốn nói đến việc sống theo giáo huấn Ngài ban.
Giáo huấn của Chúa là Giáo huấn được đặt trên nền tảng của hai chữ yêu thương (Ga 13,34). Bởi đó ai học với Ngài và sống theo luật yêu thương của Ngài thì sẽ cảm thấy êm ái, nhẹ nhàng (câu 30).
Thật vậy, tình yêu sẽ nhân lên gấp nhiều lần sức mạnh của nó. Khi còn yêu, thì gánh nặng cuộc đời có nặng mấy cũng chẳng đáng là chi. Ngược lại, khi đã hết yêu thì dù nhẹ mấy cũng trở thành nặng nề.
Có một ông chồng kia nhà nghèo, chỉ có chiếc xe đạp chở vợ đi chợ. Khi lên dốc cầu, người chồng gắt gỏng bảo vợ:
- Xuống dùm đi, lên dốc mà cứ ngồi ỳ ra đó sao!
Người vợ vui vẻ nói: “Ngày xưa mới quen em, mỗi lần lên dốc cầu này, em đòi xuống thì anh không chịu, cứ đạp boong boong, sao bây giờ lại ỳ ạch thế?”
Người chồng trả lời:
- Xưa khác, bây giờ …. khác!
- Chắc anh mệt lắm nhỉ?
Chồng trả lời:
- Có phải trâu đâu mà không mệt!
Đúng là xưa khác và bây giờ khác. Xưa còn trẻ tình yêu còn mặn mà, … Còn bây giờ thì …!
Vậy khi Chúa Giêsu nói đến “Ách êm ái, gánh nhẹ nhàng thì điều đó không có nghĩa là gánh nặng dễ mang nhưng phải hiểu như thế này: khi gánh nặng được đặt trên vai chúng ta trong tình yêu, được mang trong tình yêu, và vì tình yêu thì gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng. Chính vì vậy mà một Rabbit kia đã nói: “Gánh của tôi đã trở thành một bài ca”.
Giêrêmia yêu một phụ nữ cao hơn anh rất nhiều. Tối nào anh cũng đưa người yêu mình từ sở về nhà và tối nào anh cũng rạo rực muốn hôn người yêu, nhưng lại rụt rè không dám xin.
Một lần, anh vận dụng hết can đảm, nói:
- Em cho phép anh hôn em nhé!
Cô gái không phản đối. Nhưng vì Giêrêmia quá thấp bé, nên hai người nhìn quanh tìm một cái gì đó kê cho anh đứng đủ cao. Họ phát hiện gần đó có một xưởng thợ rèn, có một chiếc đe vừa vặn cho Giêrêmia đứng lên. Thế là Giêrêmia được thỏa mãn lòng mong ước. Sau đó anh vác luôn chiếc đe theo mình. Anh vác rất hiên ngang dường như chiếc đe chẳng thấm thía gì với sức mạnh của anh.
Sau khi đi được thêm khoảng hơn nửa dặm, Giêrêmia lại nói:
- Cho anh hôn một cái nữa đi, em yêu!
- Không được” - cô gái trả lời – Em đã cho anh hôn khi nãy rồi. Tối nay như vậy là quá đủ.
Giêrêmia nói:
- Thế tại sao anh vác theo chiếc đe nặng trịch này mà em vẫn im lặng không nói gì?
Vâng, khi yêu thì nặng mấy cũng thành nhẹ. Còn khi đã không yêu thì nhẹ mấy cũng thành nặng.
---------------------------------- Gioan Tẩy giả được Chúa khen. 14/12 –Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. "Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả".
* Thánh Gioan thánh giá chào đời năm 1542 ở Phontivêrốt, nước Tây ban Nha. Sau một ít năm sống trong dòng Cácmen, và được thánh nữ Têrêxa thành Avila khuyến khích, thánh Gioan đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng. Điều này khiến thánh nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại Ubêđa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!"
Đã từ lâu dân tộc Do Thái không có vị ngôn sứ nào xuất hiện. Thiên Chúa thinh lặng như chẳng muốn nói với dân Ngài. Người ta thường coi vị ngôn sứ cuối cùng là Malaki. Ông sống trước công nguyên gần năm thế kỷ. Ông đã mạnh mẽ phê phán những bê bối của các tư tế và dân Do Thái sau khi họ trở về từ nơi bị lưu đầy ở Babylon. Malaki tiên báo ngày đoán phạt của Đức Chúa gần đến. Nhưng trước khi Ngài đến, sẽ có người đi trước để dọn đường (Ml 3, 1). Êlia chính là người làm công việc đó: “Này đây Ta sẽ sai đến với ngươi Êlia, vị ngôn sứ” (Ml 3, 23). Gioan Tẩy giả là người đã làm nhiệm vụ của Êlia, tuy ông không phải là một Êlia từ cõi chết sống lại. Gioan xuất hiện như một ngôn sứ khắc khổ nơi sa mạc hoang vu. Ông đã cất tiếng mời gọi mọi người sám hối và chịu phép rửa. để dọn lòng đón Đấng Mêsia sắp đến. Thế là sau bao thế kỷ mong chờ, Thiên Chúa lại ngỏ lời với dân Ngài. Gioan Tẩy giả luôn là nhân vật nổi bật trong Mùa Vọng. Đức Giêsu khẳng định ông còn trọng hơn một ngôn sứ nữa (Mt 11, 9). Đã có bao ngôn sứ trong Cựu Ước xuất hiện trước ông, loan báo về Đấng Cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban. Nhưng Gioan là người duy nhất đã chỉ cho dân thấy Đấng ấy là ai. Chính là Đức Giêsu, người ông đã ban phép rửa. Gioan cao trọng vì ông là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ. Ông vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước (c. 11), vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau (cc. 12-13). Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa, và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này. Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau. Nhưng Ngài cần Gioan để làm người trực tiếp giới thiệu. Chúng ta không thánh thiện hơn Gioan Tẩy giả, nhưng chúng ta có phần hạnh phúc hơn ông, vì được sống trong giai đoạn lời hứa của Thiên Chúa nên thành tựu. Ơn cứu độ đã đến, Nước Trời đã ở ngay bên. “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (c. 11). Cao trọng hơn vì những kho tàng mới do Đức Giêsu mang lại. Ngài đem đến ơn cứu độ toàn diện cho từng người, vượt xa những gì mà các ngôn sứ thời xưa mong đợi. Gioan hẳn sẽ có mặt trong bữa tiệc cánh chung (Mt 8, 11). Ông đã chiếm được Nước Trời bằng sức mạnh phấn đấu (c. 12). Ông đã sống bất khuất và đã chết anh hùng. Mỗi lần Mùa Vọng, chúng ta lại gặp Gioan. Đức Giêsu mãi mãi cần những Gioan cho đến ngày tận thế, để bắc một nhịp cầu, để làm người môi giới trung gian để tình yêu cứu độ được mọi người đón nhận. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Xin đừng mỉm cười mà nói rằng Chúa đã ở bên chúng con rồi. Có cả triệu người chưa biết Chúa. Nhưng biết Chúa thì được cái gì? Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ? Xin hoán cải chúng con. Xin lay chuyển chúng con. Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con, trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con. Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại, và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên. Bởi lẽ chỉ như thế, sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa, thứ bình an khác hẳn, đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara) ---------------------------------
Gioan Tẩy giả là mẫu gương đáng mơ ước của Mùa Vọng.
Ông là tiên tri cao cả nhất vì các vị tiên tri khác chỉ loan báo theo linh hứng của Chúa. Trong khi Gioan là tiên tri duy nhất được thấy Đấng Cứu Thế xuất hiện. Ông cao cả nhất trong số nam nhân vì được Chúa tha tội nguyên tổ ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Ông cao cả nhất vì được chính Đấng Cứu Thế đến tận nhà viếng thăm.
Ông là người phấn đấu vào Nước Trời là nước phải chiếm đoạt bằng sức mạnh. Gioan tràn đầy sức mạnh không chỉ vì lời rao giảng của ngài mạnh mẽ, cương trực, nhưng còn vì đời sống của ngài thật mạnh mẽ. Mạnh mẽ khi đối đầu với cái ác. Dám gọi những bậc vị vọng trong dân như phái Phariseu là “nòi rắn độc”. Dám lên án đời sống vô luân của vua Hêrôđê. Mạnh mẽ đáng khâm phục trong đời sống từ bỏ. Từ bỏ nơi phồn hoa đô hội để sống trong sa mạc. Từ bỏ những hoạt động bên ngoài để chìm sâu trong cầu nguyện. Từ bỏ tìm ý riêng để tìm thánh ý Chúa. Từ bỏ những gì phụ thuộc để tìm điều cốt yếu. Biết rằng sự sống quí hơn của ăn nên ngài chỉ ăn uống đơn sơ cho đủ sống trong sa mạc. Biết rằng thân thể quí hơn áo mặc nên ngài chỉ cần tấm da thú che thân. Nhất là dám từ bỏ mạng sống vì làm chứng cho chân lý. Biết quên mình vì Chúa. Biết bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa. Phục vụ Chúa đến quên thân mình, đến máu chảy đầu rơi vì Chúa.
Gioan Tẩy giả là chiếc bừa mà Isaia loan báo. Được Chúa ban sức mạnh lưỡi bừa đã bừa nát những giả trá, hư ảo của trần gian, đã làm cho những giá trị phù phiếm tan tành bay tơi tả như trấu trong cơn gió, để xuất hiện những giá trị chân thực vĩnh cửu.
Chúng ta chỉ là loài sâu bọ hèn kém, là người dân bé nhỏ tầm thường, cần được ơn Chúa ban để trở nên mạnh mẽ, để nên như chiếc bừa của Chúa, mới mẻ, sắc nhọn và mạnh mẽ. Và chỗ cần cầy bừa nhất là chính linh hồn ta. Cần có chiếc bừa nhọn sắc của Chúa. Cần có sức mạnh của Chúa. Để ta cầy xới linh hồn. Phá bỏ những giả trá, phù vân trong tâm hồn. Như thế ta mới mong gặp được Chúa và chiếm đoạt được Nước Trời trong mùa Vọng này.
Nhìn vào các chi tiết đã xảy ra cho Gioan Tẩy Giả mà Thiên Chúa đã làm, chúng ta thấy cũng là một chuyện lạ lùng. Zacharia, cha của Gioan Tẩy Giả, là người thuộc ban Abina, tức là một tư tế phục dịch trong Ðền Thờ; và Elizabeth, mẹ của ngài, thuộc dòng dõi Aaron. Cả hai ông bà là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở tuân giữ mọi giới răn và lề luật của Ngài. Nhưng cả hai người không có con và tuổi đã già cả. Zacharia đến phiên mình vào dâng hương trong Ðền Thờ khi trúng thăm. Khi vào Ðền Thờ dâng hương, ông thấy thiên thần Gabriel hiện ra bên phải hương án và cho ông biết: Bạn ông sẽ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Gioan Tẩy Giả, và con trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, ngài sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Và thiên thần Gabriel còn cho biết thêm: Con trẻ là người đi trước dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến.
Rồi khi Mẹ Maria đến thăm bà Elizabeth, lúc ấy bà đang mang thai Gioan Tẩy Giả được sáu tháng thì con trẻ trong lòng bà cũng đã nhảy mừng và được khỏi tội tổ tông.
Sau khi Gioan Tẩy Giả sinh ra, cả hai ông bà muốn đặt tên cho con trẻ là Gioan Tẩy Giả, nhưng bấy giờ Zacharia đang bị câm không nói được nên ông ra hiệu là đặt tên cho con trẻ là Gioan Tẩy Giả. Mặc dù mọi người trong dòng họ đều không bằng lòng, vì không ai trong họ hàng có tên đó.
Từ những sự kiện trên cho ta thấy Gioan Tẩy Giả được sinh ra một cách khác thường và khắp các miền núi phía Giuđêa lúc bấy giờ đều nghĩ thầm rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực bàn tay Thiên Chúa đã ở với con trẻ này.
Ðiều đó đã được Chúa Giêsu xác nhận trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thật, Ta bảo các ngươi hay, trong con cái do người nữ sinh ra chưa có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả". Con người có lẽ ai cũng mong ước được như Gioan Tẩy Giả. Chúng ta cũng thấy trong một đoạn Tin Mừng khác, lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy thì có một người đàn bà buột miệng nói rằng: "Phúc thay dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng::Ai nghe và giữ lời Chúa thì còn có phúc hơn nhiều". Hoặc chúng ta cũng thấy trong lúc Chúa Giêsu đang thi hành sứ mệnh công khai của Ngài, Mẹ Maria và các người thân thuộc tìm đến nghe, nhưng vì dân chúng quá đông không chen vào được, có mấy người thấy thế nói với Chúa Giêsu: "Kìa Mẹ và anh em Thầy đến tìm Thầy", Chúa Giêsu liền trả lời: "Ai là Mẹ Ta, ai là anh em Ta? Ðó là những kẻ nghe và giữ lời Ta".
Qua những lời trên, Chúa Giêsu cho chúng ta một cái nhìn mới, một ý nghĩa mới: thân thuộc, bà con bằng máu mủ không quan trọng cho bằng thân thuộc bà con thiêng liêng: "Ai theo Ta mà không từ bỏ cha mẹ anh em thì chưa xứng đáng là môn đệ Ta". Nói thế không phải chúng ta không tôn kính hay không yêu mến cha mẹ chúng ta, vì giới răn thứ tư trong Mười Ðiều Răn, Ðức Kitô dạy rằng: "Hãy thảo kính cha mẹ". Giới răn này nằm sau giới răn thứ nhất: "Thờ phượng Ðức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự".
Chúng ta đừng đặt nặng vấn đề gia đình, vấn đề tình thân thuộc máu huyết mà chúng ta quên mất việc thờ Thiên Chúa. Chúng ta cũng đừng tìm danh giá, giàu sang bên ngoài mà quên mất lương thực Thần Linh nuôi sống chúng ta, đó là Mình và Máu Chúa. Mình Máu Chúa nuôi sống phần hồn, lương thực Lời Chúa nuôi sống tinh thần chúng ta.
Từ Gioan Tẩy Giả trở về sau, tức là từ khi Chúa Giêsu Kitô đem ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đến cho nhân loại thì Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm lấy được và kẻ nào mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Trước Chúa Kitô chưa ai có được ơn cứu rỗi cho đến khi Chúa Kitô chết trên Thánh Giá Ngài mới kéo tất cả mọi sự lên cùng Ngài. Ai muốn nhận được ơn cứu rỗi đó phải qua cửa hẹp, phải vác thập giá mình mà theo Chúa mới vào được Nước Trời, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy.
Theo Chúa để vào Nước Trời, chúng ta phải chiến đấu với chính bản thân mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói quen không tốt, những việc làm không chính đáng, phải hy sinh cho người thân quen thuộc trong gia đình, cho tha nhân và làm tất cả những gì khi có thể để giúp đỡ người khác mới thực sự là dấn thân thi hành giới răn "Mến Chúa Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn hiểu rõ được giá trị của sự yêu thương, tránh tìm những gì hào nhoáng bên ngoài nhưng thực sự sống cảm thông, yêu thương nhau và tha thứ khoan dung hơn để mong chờ Ðấng Cứu Thế đến. Amen.
Lustiger là người Do Thái đã từng chứng kiến cảnh phân biệt chủng tộc và việc Đức quốc xã tiêu diệt người Do Thái. Là người Do Thái, nhưng có bạn là người Công giáo, một hôm theo bạn đến nhà thờ và từ đó muốn trở lại Công giáo. Anh muốn thuộc về Chúa và dâng hiến cuộc đời cho Chúa. Mặc dù ông bố không chấp thuận, nhưng anh nhất quyết đi tu để phục vụ người nghèo khổ, yếu đuối.
Năm 1954, thụ phong linh mục. Năm 1964 được chọn làm Giám mục và được đề cử về làm Tổng Giám mục Paris. Bị một số người bất bình phản đối, nhưng ngài vẫn kiên vững trong đức tin và quan tâm phục vụ mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh chuẩn bị tâm hồn người Do Thái đón nhận Chúa, con người ấy là Gioan Tẩy giả. Kể từ khi gặp Chúa Giêsu, nhất là từ khi bị Hêrôđê tống ngục, cố gắng quan trọng của Gioan là làm sao cho môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Dù tống giam Gioan, nhưng Hêrôđê vẫn còn nể Gioan, nên cho ngài được liên lạc với bên ngoài, bằng chứng là các việc Chúa Giêsu làm đều đến được tai Gioan và các môn đệ vẫn được tiếp xúc với ngài. Chúa Giêsu cũng đã từng ca tụng Gioan với dân chúng đi theo và nghe Ngài giảng dạy. Bằng lối văn đặt câu hỏi dồn dập, Ngài nhấn mạnh đến một số đức tính của Gioan. Trước hết, là thái độ cứng rắn không chịu thua sự dữ: “Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? Cây sậy rung trước gió ư?” Gioan không phải là cây sậy. Gioan đã dám đương đầu với sự xấu. Gioan không nể vua Hêrôđê khi khuyến cáo vua không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình là Philip. Thứ đến là việc từ bỏ mọi sự để sống nghèo khó. Gioan không ăn mặc mịn màng và sống xa hoa. Gioan chỉ vận tấm da thú, ăn những thức ăn đơn sơ tìm được nơi rừng hoang, như châu chấu, mật ong. Sau cùng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sứ mệnh của Gioan: “Các người đi xem một tiên tri ư? Ta bảo các người: và còn hơn một tiên tri nữa”. Về ông đã có viết: “Này Ta sai sứ thần đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi”.
Tuy nhiên, nếu vai trò của Gioan cao trọng, thì Nước Trời còn cao trọng hơn, vì người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn Gioan. Sở dĩ Nước Trời có giá trị lớn lao vì có sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Nước Trời được mô tả như vương quốc của sức mạnh và chỉ những kẻ mạnh mới dành được phần thắng.
Ước gì chúng ta biết sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta và tìm gặp được Đức Giêsu là Đấng cứu độ và niềm vui của chúng ta nơi trần gian này.
“Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì sẽ chiếm được. Cho đến ông Gioan, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Ê-li-a, người phải đến. Ai có tai thì nghe. (Mt. 11, 11-12)
Trong mùa vọng, hình ảnh Gioan tẩy giả nổi bật, ông là nhân vật tích cực hoạt động: rao giảng, loan báo, làm phép rửa, kêu gọi ăn năn trở lại. Người ta cảm thấy ông rất lo lắng, rất vội vã thúc bách khẩn trương: “Có Đấng đang đến, đang ở giữa các anh chị em, anh chị em hãy cải thiện con tim gấp lên … Chiếc rìu đã kề gốc cây”.
Gioan tẩy giả là ngôn sứ cuối cùng. Mọi người kéo đến với ông, đến với sứ điệp của ông. Quả thực suốt dòng lịch sử dân Ít-ra-en, những lời tiên tri đã lan sâu rộng và được tập trung vào một Đấng. Tất cả mọi hy vọng đều đổ dồn vào một Đấng: Đấng thực hiện lời giao ước. Ngày nay, chúng ta suy nghĩ và tự hỏi xem thời hạn của Gioan đã chấm dứt chưa?
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói kẻ bé mọn nhất trong nước trời còn cao trọng hơn Gioan. Nghĩa là, một đàng, sứ mệnh của Gioan đã kết thúc vì có Đấng đã đến phục hưng nước Thiên Chúa. Nhưng đàng khác, nước trời còn chịu nhiều bạo lực, nước trời này chưa đến thời toàn hảo, Đức Kitô chưa được hoàn toàn biểu lộ. “Từ thời Gioan tới chúng ta ngày nay, nước trời phải chịu đau khổ vì bạo hành”. Chính vì thế, Gioan tẩy giả đã sát nhập với tất cả những ai khẩn cấp kêu gọi đổi mới tâm can trong thế giới đang chịu đau khổ vì bạo lực, như: chiến tranh do chủng tộc, chiến tranh do chủ thuyết, chiến tranh do nội chiến, chiến tranh do phân hóa quốc tế.
Gioan tẩy giả, một lần nữa, sát nhập với những người hô hào cần phải ăn năn trở lại với Đấng đến giải phóng, chỉ có Người mới có thể xây dựng công trình hòa bình toàn hảo thôi.
Còn chúng ta, dâng tế lễ Thánh Thể là tiếp tục vai trò của Gioan, vì tế lễ Thánh Thể là tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cộng đoàn tụ họp để chia sẻ với Người trong công trình cứu độ cho tới khi Người đến hoàn tất thế giới.
Cử hành Thánh lễ, chính là tuyên xưng quyền phép ban hòa bình của Đức Kitô, là loan báo hoàng tử hòa bình và nước trời bình an.
Trong các cuộc diễn nguyện, lời dẫn phải đi sâu vào nội dung, và người dẫn chương trình phải là người biết truyền cảm hứng cho thính giả thì nội dung mới được toát lên và hấp dẫn. Nhưng điều quan trọng là làm sao cho người tham dự rút ra được bài học từ những cuộc diễn xuất đó mới là điều đáng nói!
Thánh Gioan Tẩy Giả đã xuất sắc trong vai trò này khi ngài trở thành người tiền hô loan báo về Đấng Cứu Thế, và, ngài cũng thành công trong việc truyền cảm cho những người đương thời về tinh thần sám hối, chuẩn bị cho giáo huấn của Đức Giêsu. Ngoài những lý do trên, ngài còn là tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, là người loan báo trực tiếp về Đức Giêsu. Cuối cùng, Gioan đã thực hiện thành công xuất sắc sứ mạng của mình bằng cái chết để làm chứng cho sự thật. Như vậy, ngài xứng đáng được Đức Giêsu khen ngợi: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Gioan Tẩy Giả: sẵn sàng lên tiếng loan báo Đức Giêsu cho mọi người, dù thuận tiện hay không thuận tiện. Sẵn sàng sống sự khiêm tốn để cho nội dung lời loan báo có hồn và vui lòng nhường lại sân khấu cho diễn viên chính là Đức Giêsu. Có thế, chúng ta mới hy vọng Đức Giêsu khen ngợi là người có phúc như Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, thánh Gioan khi xưa đã hết lòng vì sứ vụ và đã sống chết cho sự thật. Xin Chúa cũng ban cho chúng con hôm nay biết làm chứng cho Chúa bằng sự khiêm tốn, can đảm và trung thành như Gioan khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Thánh Gioan Tẩy Giả là người cuối cùng chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến thiết lập triều đại Thiên Chúa. Ai muốn vào Nước Trời phải biết dũng cảm chiến đấu với bản thân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Thánh Gioan Tẩy Giả là một chân tu đúng nghĩa: sống khắc khổ với thức ăn là châu chấu và mật ong rừng, cái mặc là đồ bằng da thú, nhà ở là rừng, là sa mạc. Suốt đời ông đã hy sinh mọi sự để loan báo, dọn đường cho Chúa Giêsu đến.
Chúa ơi, con biết tìm đâu ra một hình ảnh Gioan trong đời sống xã hội hôm nay, khi mà nhiều người đang sống trong ích kỷ, chạy theo lợi nhuận cho riêng mình. Trong thời buổi kinh tế thị trường, người ta quảng cáo rầm rộ bằng những lời lẽ hấp dẫn, ngọt ngào. Còn Gioan, ông đã đòi hỏi quyết liệt những ai muốn sống theo Tin mừng. Ông đã loan báo Nước Trời bằng lời lẽ cứng rắn: “Ai mạnh sức thì mới chiếm được”.
Lạy Chúa, liệu rằng con có can đảm để đón nhận lời Thánh Gioan kêu gọi hay không? Liệu con có dám bắt chước cuộc sống của Thánh Gioan trong hoàn cảnh hôm nay hay không? Con biết con yếu đuối, con bất lực. Nhưng con cũng ý thức rằng: nếu những người kitô hữu chúng con mà không can đảm sống theo Lời Chúa, thì nói gì đến những người khác.
Lạy Chúa, Thánh Gioan luôn lập đi lập lại như một điệp khúc: “Hãy dọn đường cho Chúa”. Xin Chúa cho con biết quay về với Chúa. Xin ban cho con nguồn sống thiêng liêng để con dám sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, mất mát, hầu có thể bước theo con đường mà Thánh Gioan mời gọi. Amen.
Ghi nhớ: ”Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.
1. Gioan Tẩy Giả từ trong ngục tù đã sai các môn đệ đến phỏng vấn Đức Giêsu có phải là Đấng Cứu Thế không. Sau khi đã trả lời, Đức Giêsu khen và so sánh Gioan Tẩy Giả với mọi người thì Gioan cao trọng hơn hết, vì ông đã giúp dọn đường cho Chúa đến cứu nhân loại, đã làm phép rửa giúp mọi người thống hối. Nhưng nếu so sánh Gioan với người ở trong Nước Trời, thì người nhỏ nhất trong nước này còn cao trọng hơn ông: phần thưởng ở đó rất lớn lao vì luôn có Chúa hiện diện.
2. Đức Giêsu khen Gioan Tẩy Giả về chức vụ tiền hô của ông vì ông đã thi hành rất hoàn hảo. Ông là người cao trọng hơn tất cả mọi người phàm từ trước tới nay, vì ông được vinh dự dọn đường cho Đấng Cứu Thế, và khi Ngài đến, ông còn được vinh dự giới thiệu Ngài cho mọi người biết.
Quả vậy, sánh với đạo cũ, ông là tiên tri trọng hơn các tiên tri vì ông đã giúp vào việc dọn đường cho Đấng Cứu Thế ra đời gần hơn các tiên tri khác, và vì ông đã được thấy Chúa cũng như các việc Người làm.
Nhưng ông vẫn là người thuộc đạo cũ, bởi vậy, tuy là trọng nhất trong các tín đồ đạo cũ, nhưng lại nhỏ hơn hết sánh với các tín đồ thời đạo mới, vì trong luật đạo mới Thiên Chúa ban các ân huệ cao quí cho loài người cách rộng rãi hơn.
2. ”Cuộc lữ hành khám phá thật sự không phải là nhìn những cảnh tượng mới, nhưng là nhìn bằng đôi mắt mới”(M. Proust).
Gioan Tẩy Giả đi trước dọn đường với lòng nhiệt thành nóng bỏng như Êlia ngày nào, rồi Đức Giêsu xuất hiện với quyền năng của Đấng Cứu Thế, y như cảnh tượng các tiên tri loan báo từ xa xưa. Thế nhưng, người Do thái chỉ quen nhìn với đôi mắt cũ: Đấng Cứu Thế phải đáp ứng mong mỏi của họ, phải là người giải phóng họ khỏi ách đô hộ của đế quốc Rôma. Vì thế, họ khước từ Gioan, người Thiên Chúa sai đến. Họ cũng chối bỏ Đức Giêsu, không chấp nhận tư cách Thiên Sai của Ngài. Với đôi mắt cũ, họ không nhận ra sự thật, một ”sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32) (5 phút Lời Chúa).
3. Có câu: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”.
Người ta chỉ có thể chiếm được Nước Trời bằng sức mạnh. Chúng ta có thể hiểu câu này bằng hai cách:
- Ai muốn vào Nước Trời thì phải dũng cảm chiến đấu với bản thân. Muốn vào Nước Trời để nên cao trọng thì phải can đảm chiến đấu với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
- Những người ở trong Hội thánh luôn luôn bị người đời chèn ép và chống đối, người ta dùng áp lực để ngăn cản việc gia nhập Nước Trời, nên ai mạnh sức thì mới vượt thắng được những cản trở để vào Nước Trời.
4. Theo đó, người ta phải can đảm mới chiếm được Nước Trời.
Thánh Gioan Tẩy Giả là người quả cảm không bao giờ chịu lùi bước và chịu thua sự dữ. Ông dám can đảm ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình. Ông đã từ bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và sám hối trong hoang địa. Và sau cùng đã chịu cho người ta chặt đầu bỏ trên đĩa.
Đức Giêsu đã từng bảo chúng ta: “Muốn vào được Nước Trời phải “qua cửa hẹp”.
Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bỏ, từ bỏ hết mọi của cải trần gian, từ bỏ những gì cản bước chúng ta trên đường theo Chúa. Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống Lời Chúa, thi hành giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh. Bước qua cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người của mình như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa luôn luôn làm chủ cuộc sống của ta.
5. Truyện: Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da Đỏ Mỹ Châu, họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng. Người ta tổ chức như sau: Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ: “con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rợn rùng. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của con chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ bừng sáng. Nỗi sợ hãi của đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên: “Bố đã trở lại”. Người cha sẽ hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.
- Ông là người cao trọng hơn tất cả mọi người phàm từ trước tới nay (nghĩa là tới lúc Chúa Giêsu đến khai mở thời Tân Ước, thiết lập Nước Trời), vì ông được vinh dự dọn đường cho Đấng Messia, và khi Ngài đến, ông còn được vinh dự giới thiệu Ngài cho người ta biết.
- Nhưng từ nay trở đi, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời vẫn còn cao trọng hơn Gioan, bởi vì dù sao Gioan cũng thuộc thời Cựu Ước và phải dừng lại ở ngưỡng cửa Nước Trời, không hạnh phúc bằng kẻ ở trong thời Tân Ước và ở trong Nước Trời.
- “Từ thời Gioan Tẩy giả đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”.
Câu này có thể hiểu 2 cách:
a/ muốn vào Nước Trời thì phải dũng cảm chiến đấu với bản thân.
b/ có nhiều điều cản trở người ta vào Nước Trời, cho nên muốn vào đó thì phải cố gắng rất nhiều.
- “Ông Gioan chính là Êlia”: xưa kia ngôn sứ Êlia kêu gọi người ta sám hối để quay về thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất. Việc đó Gioan tẩy giả cũng đã làm để chuẩn bị người ta đón Đấng Messia.
B. Suy niệm ( ... nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu nói chúng ta hạnh phúc hơn cả Gioan Tẩy giả, vì chúng ta sinh ra vào thời Tân Ước, sinh ra là con của Giáo Hội. Hai hạnh phúc lớn đó lại phát sinh nhiều hạnh phúc khác nữa ...
2. Nhưng ta đừng ỷ lại. Muốn được cứu độ thì vẫn phải cố gắng, phải luôn sám hối quay về đường chính.
3. “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”. Trong đời sống đạo, cái quý là làm sao sống trọn vẹn được cả hai khía cạnh sau đây:
- Vừa êm ái dịu dàng, bình an, thoải mái.
- Vừa hăng say, quyết liệt, chiến đấu.
Một người ươn lười, ẻo lả, xười xĩnh, ngại phấn đấu chẳng có hy vọng chiếm được nước Trời. Cần phải “khó với mình, và dễ với người”.
Một người lúc nào cũng hung hăng, quyết liệt chiến đấu, duy ý chí sẽ có nguy cơ chẳng bao giờ hưởng được sự bình an. Dễ sống bất mãn với người, với mình. Dễ biến thành kiểu sống đạo của mình, hơn là kiểu sống đạo Chúa muốn.
4. “Từ thời ông Gian Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12)
Nhà giam chìm ngập trong khói lửa. Gió xô rạp những cành cây khẳng khiu, ngập ngụa trong khói đen dầy đặc. Bọn quan, lính chạy lăng xăng canh giữ mọi cửa nhà giam. Làng xóm lịm đi trước cuộc tàn sát dã man. Ba trăm giáo dân xứ Thơm tỉnh Bà Rịa bị thiêu đốt trong lửa đỏ. Họ đã chiến thắng và chiếm lĩnh Nước Trời bằng chính mạng sống mình.
Có những lúc tôi đã không dám làm dấu thánh một cách nghiêm túc trước bữa ăn ở nơi có đông người. Tôi vẫn thường yếu đuối như thế khi phải tuyên xưng lòng tin, lòng cậy trông nơi Chúa của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con là kẻ yếu đuối. Xin nâng đỡ con bằng cánh tay mạnh mẽ của Người. Xin cho con biết vươn mình lên cao mãi, mặc cho mọi cơn gió tung hoành, để đáng được ở bên Người và được Người chia xẻ vinh quang. (Epphata)
1. Vâng! Quả là bài Tin Mừng hôm nay nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh cũng đặc biệt, con người đó là Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu ca tụng ông vì ông có một số đức tính cao cả mà ít ai có được như ông.
Trước hết, ông là một người quả cảm không bao giờ chịu lùi bước và chịu thua sự dữ: "Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? Cây sậy rung trước gió ư?" (Mt 11,7) Gioan không phải là cây sậy. Gioan đã dám đương đầu với sự xấu. Gioan không nể vua Hêrôđê khi khuyến cáo vua không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình. .
Thứ đến là ông dám hy sinh vì sứ mạng.
Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy. Ông vội vàng chạy ra xiết chặt dây cương.
Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra, đến khi ghìm được ngựa thì người nông dân bê bết máu và thoi thóp thở. Một người nói:
- Sao mà ông dại dột hy sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế?
Ông thều thào:
- Cứ nhìn vào trong xe thì biết!
Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ.
Người nông dân hy sinh vì đứa con. Gioan Tẩy Giả hy sinh vì sứ mạng. Vì sứ mạng, Gioan từ bỏ mọi sự để sống cuộc sống nghèo khó. Cuộc sống của ông rất đơn giản và đạm bạc: thức ăn là những thứ tìm được ở rừng, đồ mặc thì làm bằng những tấm da thú; dép ông mang ở dưới chân cũng như vậy.
Và sau cùng, ông dám lãnh nhận một sứ mệnh mà ông biết là rất khó khăn: "Các ngươi lên rừng xem gì? Xem một tiên tri ư? Ta bảo các ngươi: còn hơn cả một tiên tri nữa. " (Mt 11,9) Về ông đã có lời chép: "Này Ta sai sứ thần đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi".
Vâng! Gioan quả xứng đáng với lời ca tụng của Chúa. .
2. Thế nhưng, Chúa lại nói thêm: "Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông" (Mt 11,11).
Gioan cao trọng nhưng chỉ cao trọng hơn những người ở trần gian. Còn một thực tại khác cao trọng hơn. Đó là Nước Trời và những người được ở trong Nước đó. Sở dĩ Nước Trời có giá trị lớn lao như vậy vì có sự hiện diện của Chúa. Cho nên những người ở trong Nước đó dù có nhỏ cũng còn cao trọng hơn Gioan.
Nhưng ai là người xứng đáng được ở trong Nước đó? Chúa Giêsu đã chẳng dấu diếm gì những điều Ngài đòi hỏi: "Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm được" (Mt 11,12).
Trong một cuốn sách nổi tiếng viết cho giới trẻ, Đức Cha Tiamer Toth đã để lại những lời như thế này: "Nam tướng J. Eotvos, một nhà tư tưởng có tiếng của Hungary đã nói:
"Giá trị chân chính của con người không phải bởi trí năng, nhưng là bởi sức mạnh của chí khí"
Một mùa xuân, anh nông dân đứng bên cạnh thửa ruộng, đưa mắt nhìn những luống cày thân yêu đang phơi mình dưới ánh sáng và tự hỏi:
- Năm nay, hỡi mảnh ruộng của ta, mi có đem lại cho ta cái gì chăng?
Những mảnh ruộng kia lại trả lời bằng một câu hỏi khác:
- Nhưng thưa ông, trước hết ông hãy cho tôi biết ông định cho tôi cái gì đã?
Người bạn trẻ cũng dừng bước trước cánh cửa nhiệm mầu của đời sống và cũng hỏi một lời tương tự:
- Hỡi đời sống, mi có dành cho ta cái gì không? Cái gì sẽ chờ đợi ta từ năm này sang năm khác?
Nhưng đời sống sẽ đáp lại chàng trẻ tuổi:
- Hỡi anh, điều đó còn tùy ở những gì anh cho tôi, phần của anh sẽ được xứng với công việc của anh. Anh sẽ hái quả của hạt giống anh gieo.
Vào thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê tên là Barlaam bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
Người ta giục anh: "Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho Thần Linh chúng ta đi!"
- "Không"! Anh trả lời.
Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ rơi hương xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do!
- Không.
Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên ... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy ...
Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa.
Vâng, một quả tim quả cảm, biết chịu đựng! Đó chính là sức mạnh để chiếm Nước Trời.
Lạy Chúa, chúng con là những kẻ yếu đuối. Xin nâng đỡ chúng con bằng cánh tay mạnh mẽ của Người. Xin cho chúng con biết vươn mình lên, mặc cho những sóng gió tung hoành, để đáng được ở bên Người và được Người chia sẻ vinh quang. (Epphata).
Có nhiều người nghe lời kêu gọi của Gioan mà sám hối và chịu phép rửa để dọn lòng đón Đấng Cứu Thế đến. Nhưng cũng không thiếu những người lòng chai dạ đá, cứng lòng tin. Có thể họ là những người chẳng khao khát Đấng Cứu Thế, hoặc không muốn sám hối vì mãi còn lưu luyến những chuyện bất chính phàm trần. Nguyên nhân của việc cứng tin là kiêu căng. Nguyên nhân của việc không khát khao Đấng Cứu Thế, và bám víu vật chất cũng là vì kiêu căng dẫn tới chỗ mê muội.
Ơn cứu độ không dành cho người kiêu căng. Bởi lẽ, kiêu căng là bản tính của ma quỷ, là đối tượng phải tiêu diệt, và vòng vây hãm con người cần phải được giải nguy. Chúa Giê-su đến để cứu chúng ta khỏi vòng vây kiêu căng của ma quỷ, để được Thiên Chúa xót thương cứu độ. Vì thế, Chúa nói ông Gioan cao trọng vì sứ vụ Thiên Chúa đã trao, nhưng kẻ bé mọn trong nước trời còn cao trọng hơn ông. Nghĩa là, ai nên giống Chúa Giê-su hiền lành khiêm nhượng, mới chiếm được nước trời, và sẽ nên cao trọng trong Nước trời. Muốn được như thế, con người cần phải chiến đấu anh dũng với cái tôi kiêu căng của mình. Chúa nói: “Phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy. Những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được nước trời”.
Lấy đâu ra sức mạnh, sự can đảm mà chiến đấu? Hãy tin vào Chúa Giê-su, và học với Người bài hiền lành khiêm nhượng. Khiêm nhượng và hiền lành nhân từ xót thương là sức mạnh của Nước Trời, trong Chúa Giê-su. Chính Chúa Giê-su đã làm người nhỏ nhất trong Nước Trời. Người vâng Thánh ý Cha, từ bỏ địa vị cao sang của mình, làm thân phận con người hèn mọn, để cứu con người hèn mọn khốn khổ.
Lạy Chúa, xin cho các gia đình đón nhận Chúa Giê-su và học sống hiền lành, khiêm nhượng, yêu thương. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!" "Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: "Ông ta phải quỷ ám!" Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: "Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình".
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 16-17). Một nhóm bày trò chơi đám cưới, thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa. Nhưng nhóm kia đã chẳng tham gia. Nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột. Nhưng nhóm kia cũng không giả vờ than khóc. Thế hệ của Đức Giêsu cũng có nét tương tự như lũ trẻ. Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn, sự khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30). Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải. Lối sống của Gioan phù hợp với lời ông giảng về Nước Trời gần đến. Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần. Người ta đã coi ông là bị quỷ ám (c. 18), nên cuối cùng đã không tin ông (Mt 21, 32). Ngược lại, khi Đức Giêsu đến với thế hệ này, Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa. Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường. Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng, một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải thoát. Ngài tiếp đón những ai bị xã hội loại trừ. Ngài ăn chung một bàn với những tội nhân cần xa tránh. Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn, họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa và hoán cải. Tiếc thay, Đức Giêsu cũng bị nhiều người từ khước như Gioan. Ngài bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 19). Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này. Sống thế nào cũng không chiều được họ. Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng cố tìm ra lý do để biện minh. Để khỏi phải đối diện với chân lý, con người trở nên ngụy biện. Đức Giêsu dám ví thế hệ của Ngài với đám con nít ngồi ngoài chợ. Ngài sẽ ví thế hệ chúng ta với ai? Nơi một số nước, người ta cho phép ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính. Ở nhiều nơi vẫn còn sự kỳ thị về giới tính, màu da, tôn giáo, chủng tộc. Bao giờ người ta cũng tìm đủ lý do để làm những điều trên. Nguy cơ của con người thuộc mọi thời đại, là ở lại trong sự ấu trĩ, khăng khăng với những ngang bướng ích kỷ của mình. Cả Gioan và Đức Giêsu đều đã bị loại trừ và bị giết. Mùa Vọng mời chúng ta dám tin vào lời chứng của Gioan và Giêsu. Tin luôn đòi chúng ta hoán cải, không được sống như xưa. Tiếng kêu từ hoang địa của Gioan kéo ta ra khỏi mọi dính bén trần tục. Thái độ bao dung nơi bàn ăn của Giêsu mời tội nhân ra khỏi bóng tối. Làm sao con người hôm nay nghe được tiếng kêu của Gioan và Giêsu? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày. Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng. Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ. Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi. Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương. Amen ---------------------------------
Để đón nhận Đấng Cứu Thế, phải sống hài hòa. Hài hòa với mọi người. Và quan trọng nhất là hài hòa với Thiên Chúa. Nói về hài hòa, chẳng cảnh tượng nào đáng mơ ước hơn cảnh Ađam và Eva sống trong vườn Địa Đàng. Hai ông bà sống chan hòa với trời đất, cỏ cây và súc vật. Ngày ngày Thiên Chúa xuống đi dạo trong vườn đàm đạo với hai ông bà. Nhưng đáng tiếc hai ông bà đã phá vỡ sự hài hòa đó khi trái lệnh Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa luôn là hạnh phúc cho con người. Nhưng con người chỉ muốn làm theo ý riêng. Phá vỡ kế hoạch của Chúa. “Con người giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác và nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than”. Mang tâm thức trẻ con. Không trưởng thành. Thiếu chín chắn. Chỉ biết làm theo những ý muốn ngây ngô khờ dại của mình. Không biết gì đến tình yêu thương của cha mẹ, những chương trình đem đến cho chúng tương lai và hạnh phúc. Cư xử con người giống thái độ chợ búa. Chỉ hời hợt nhất thời. Những lý luận thực dụng không có nền tảng sâu xa. Tìm đạt đến ý riêng. Nên thế giới luôn mâu thuẫn bất hòa. Nguy hiểm nhất là phá vỡ sự hài hòa với kế hoạch của Thiên Chúa. Phê phán những kế hoạch của Thiên Chúa khi con người tự cho mình là khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan chỉ có trong Thiên Chúa mà thôi.
Đó chính là điều Isaia khuyên nhủ ta. Con người muốn hạnh phúc, muốn phát triển, chẳng có đường nào khác hơn là sống hài hòa với chương trình của Thiên Chúa, lắng nghe và thực hành Lời Chúa: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển. Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát, con cái ngươi sinh ra sẽ hằng hà sa số; tên tuổi ngươi sẽ chẳng bao giờ bị hủy diệt, chẳng bao giờ bị xóa bỏ khỏi mắt Ta”.
Mùa Vọng ta mong chờ Thiên Chúa. Chúa đến để cứu độ ta. Thiên Chúa có chương trình hạnh phúc cho ta. Hãy đi vào chương trình của Thiên Chúa. Hãy để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nơi ta. Đó chính là thái độ khôn ngoan nhất. Đó chính là sống mùa Vọng ý nghĩa nhất.
Một vị quan văn nổi tiếng vào thời nhà Tống ở Trung Quốc có câu chuyện Giáp Ất tranh luận như sau:
Giáp hỏi Ất: - Nếu lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, nó lêu boong boong. Vậy tiếng kêu là do gỗ hay do đồng.
Ất đáp:
- Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông lại kêu. Vậy tiếng kêu ở đồng.
Giáp lại hỏi: - Lấy dùi gõ vào tiền trinh bằng đồng không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu là do ở đồng mà ra không?
Ất lại đáp:
- Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng. Vậy tiếng kêu là do các đồ vật rỗng mà ra.
Giáp hỏi tiếp: - Lấy gỗ, lấy đất sét làm thành chuông đánh cũng chẳng nghe tiếng kêu boong boong, thế thì chắc gì tiếng là do các vật rỗng mà ra.
Cuộc tranh luận giữa Giáp và Ất sẽ kéo dài mãi thì chẳng thể nào có một giải đáp đúng nghĩa nếu họ chỉ giải đáp một cách phiến diện và chủ quan, chỉ giải quyết vấn đề theo từng góc cạnh riêng lẻ. Tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện của họ phần nào cũng giống như cái nhìn của người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng mà thánh Matthêu ghi lại.
Thật vậy, sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng thì chẳng ai lại không lo sợ và đề phòng về chứng tật mù lòa. Nhìn người mù không ai mà lại không cảm thấy xót thương, động lòng trắc ẩn, vì mắc phải bệnh mù con người gần như mất một phân nửa cuộc đời, và không những họ mất hết niềm vui do cái nhìn đem lại mà trước một sự việc họ cũng chẳng hiểu được tường tận nếu chỉ đón nhận bằng đôi tai, chưa nói đến những điều đòi phải được đón nhận bằng đôi mắt.
Tuy nhiên, dù cho thiệt thòi như vậy bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm bằng căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì. Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác. Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý. Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám. Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi. Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi. Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: "Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa. Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?" Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: "Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài".
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái. Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ. Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ. Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
Lạy Chúa, khi nhìn lại bản thân chắc chắn không ít lần con đã hành động như người Do Thái, nhìn Chúa bằng một cái nhìn phiến diện. Chỉ đón nhận Thiên Chúa hợp với sở thích, quyền lợi, giới thiệu cho người khác hoặc Thiên Chúa bị uốn nắn theo những điều con nghĩ tưởng, và nếu có điều nào khác quyền lợi của con, con sẽ sẵn sàng kết án dù cho đó là chân lý, là sự thật.
Trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho con được biết vượt qua các thành kiến hẹp hòi mà vươn lên khỏi những ràng buộc của quyền lợi để rộng mở tâm hồn đón tiếp Chúa, vì Chúa đang đến trong từng giây phút qua các biến cố cuộc đời cũng như qua người anh em bên cạnh con.
Âu dương tử, một học giả Trung hoa có viết câu chuyện sau:
Giáp hỏi Ất: Lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, thì tiếng kêu phát ra đó do gỗ hay do đồng?
Ất đáp: Lấy dùi gõ vào tường vách thì không kêu, mà gõ vào chuông lại kêu, vậy tiếng kêu do bởi đồng.
Giáp lại hỏi: Lấy dùi gõ vào đồng tiền bằng đồng thì không kêu, vậy có chắc tiếng kêu là do đồng chăng?
Ất đáp: Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu phát ra là do các vật mỏng.
Giáp hỏi tiếp: Lấy gỗ, lấy đất sét khoét làm chuông, đánh lên đâu có boong boong, thế thì có chắc gì tiếng kêu phát ra là do đồ vật rỗng?
Cuộc tranh luận nếu cứ đà ấy sẽ kéo dài lẩn quẩn và chẳng có câu giải đáp nào thỏa đáng, nếu họ chỉ nhìn vấn đề một cách chủ quan, phiến diện, chỉ giải quyết vấn đề từng góc cạnh riêng rẽ.
Sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng, thì ai cũng lo đề phòng chứng tật mù lòa. Nhìn người mù, ai lại không xót thương và trắc ẩn. Mắc phải mù lòa, con người cảm thấy như mất nửa cuộc đời. Không những mất niềm vui do cái nhìn mang lại, họ còn chịu bao thiệt thòi khi không cảm nhận được những sự việc xảy ra chung quanh.
Tuy nhiên, bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm cho bằng căn bệnh của người Do Thái như được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện. Bởi vì nếu người mù biết mình tối họ sẽ cố gắng hiểu sự vật trước mắt bằng những giác quan khác; còn người chủ quan, phiến diện sẽ muôn đời tăm tối trước chân lý, chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý, họ tưởng mình đã đạt tới chân lý, để rồi cứ thế trở thành cố chấp. Gioan Tẩy giả đến rao giảng ơn cứu độ, ngài không ăn không uống thì bị gán cho là người bị quỷ ám; Chúa Giêsu đến, Ngài hòa nhập với mọi người, ăn uống bình thường, thì bị chê bai là người mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi.
Chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ hiểu Đấng Mêsia theo cái nhìn phiến diện, người Do Thái đã khép lòng trước lời mời gọi hoán cải để đón nhận ơn cứu độ. Ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng có cơ may nhận ra và đón tiếp.
Trong Giáo Hội hôm nay cũng không thiếu trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái xưa. Chúa Kitô được phô bày trong Kinh Thánh qua phụng vụ, thế mà người ta lại giới hạn Ngài trong cái nhìn của họ, hợp với chủ trương của họ, và nếu có ai tin thờ một Chúa Kitô đi ngược với quan điểm của họ, thì họ sẵn sáng phủ nhận, kết án, bôi nhọ.
Trong Mùa vọng này, chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết vượt khỏi thiên kiến và ràng buộc của quyền lợi, để đón nhận Chúa đang đến qua từng biến cố cuộc đời và nơi mỗi người anh em.
Con Người đến, cũng ăn cũng uống, thì thiên hạ bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. ” Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động. (Mt. 11, 19)
Một số người luôn luôn có tính ngang ngược. Tin mừng hôm nay vạch cho chúng ta thấy tính ngang ngược của chính chúng ta. Nếu có ai đi lễ nhiều, chúng ta nghĩ xấu họ là kẻ tốt thế đó, chẳng đứng đắn đâu. Nếu có ai siêng năng xưng tội rước lễ, thì bị coi là đạo đức ủy mị. Chúng ta luôn luôn bài bác người khác về bất cứ cái gì.
Gần đây, tôi gặp một gã thanh niên khổ sở vì một cô gái trẻ yêu thích bạn nó hơn nó. Nó không còn vui gì khi gặp bạn nó. Nó không còn trái tim muốn nhảy nhót nữa.
Và khi xảy đến một tai họa, một vụ giết người, hay có ai chết, có ai bệnh, có ai bị trừng phạt … chúng ta sẵn sàng nói: đó không phải là việc của tôi, tôi bận việc, tôi bị đau, kệ thây nó, nó phải tự lo lấy.
Chúng ta trở nên kẻ hoặc ghen ghét, hoặc lãnh đạm, nhưng lại không dám nói thẳng thắn. Thế là chính chúng ta đang bị Tin mừng phanh phui về chúng ta.
May thay, Tin mừng vẫn mời gọi chúng ta đi vào con đường hạnh phúc: “Phúc cho những ai biết cảm thương. Phúc cho trái tim biết thương xót”.
Đó là hiến chương nước trời, của triều đại đáng được mong chờ và đáng được loan báo trong mùa vọng này. Để được như thế, cần phải tước bỏ cái tôi, cần phải có con tim cảm thương nhạy bén: “Vui với người vui, khóc với người khóc”, sẵn sàng nâng đỡ nỗi cực khổ của người khác.
Ai trong các người lân cận của bạn, đã sống trong hoàn cảnh sung sướng hay khổ sở trong những ngày này? Họ cần bạn chia sẻ niềm vui nỗi buồn của họ. Họ cần tấm lòng thông cảm nhạy bén của bạn.
Và trong lễ tế Thánh Thể này, chúng ta có thể dự phần vui mừng của chính Thiên Chúa được không? Hãy vui mừng sung sướng vì Ngài sống trong Con yêu dấu của Ngài?
Hãy ngợi khen Thiên Chúa, đã cho phép chúng ta được vui sướng với Ngài, đã cho phép chúng ta được thông phần nguồn hoan lạc của Ngài.
Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng trước. Nếu hôm qua, Đức Giêsu khen ngợi sự xuất hiện và vai trò cũng như sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả, thì hôm nay, Ngài khiển trách nặng nề đối với các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Gioan. Tại sao vậy? Thưa vì Gioan đã kêu gọi dân chúng sám hối để đón chờ Đấng Cứu Tinh đến. Dân chúng đã tỏ lòng sám hối, xin chịu phép rửa thanh tẩy, còn những người lãnh đạo thì cứng lòng, ích kỷ và không chịu tin. Vì thế, Đức Giêsu đã mượn một trò chơi hát đối của trẻ em thời đó, nhằm diễn tả về thế hệ này vì sự cố chấp, kém tin của họ:
Các trẻ em thường chia làm hai phe. Bên xướng bên đáp. Nếu bên xướng hát những điệu buồn hay đưa đám thì bên đáp phải khóc lóc, than vãn ... , còn nếu bên xướng hát lên những điệu nhạc vui, thì bên kia phải nhảy múa hân hoan ... .
Nếu đôi bên không hiểu ý nhau thì cuộc chơi mất vui. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào bọn trẻ cũng thành công trong trò chơi này, vì gặp phải những “đầu biếu” cố tình chọc ngoáy làm cho cuộc chơi mất vui. Vì vậy, bên chủ động bực tức nên mới nói: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!". Tệ hơn nữa là nhóm trẻ không chịu chơi đó lại còn trách móc đủ điều ... .
Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả cũng vậy. Lời mời gọi của ngài không được giới lãnh đạo đáp ứng, mà ngược lại, họ còn coi ông như là: người bị quỷ ám. Đức Giêsu cũng chung số phận với Gioan vì Ngài cũng đã từng bị họ lên án là người “mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".
Tin Mừng hôm nay được đọc trong bối cảnh của Mùa Vọng, hẳn sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy noi gương dân chúng thời Gioan khi xưa là: hãy hoán cải đời sống, ăn năn sám hối, trở về với Chúa trong phẩm giá người Kitô Hữu, để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh. Bên cạnh đó, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy thực thi tinh thần sám hối cách thiết thực hơn nữa chính là những việc hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm việc bác ái…, để nêu gương sáng cho hối nhân sám hối trở về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan để ăn năn sám hối, canh tân đời sống, ngõ hầu tâm hồn chúng con được xứng đáng đón tiếp chính Chúa Giáng Sinh hằng ngày qua việc đón nhận chính Mình và Máu Chúa. Amen.
Sứ điệp: Những người DoThái tự đắc cho mình là khôn ngoan, nên cứng lòng không tin theo Chúa Giêsu. Họ tìm cách chống chế để chối bỏ đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa dạy ta đừng bắt chước họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, sau hai ngàn năm rao giảng Tin mừng mà vẫn còn quá ít người tin theo Chúa.
Con cầu xin Chúa cho những người chưa được nghe Tin mừng. Xin Chúa sai nhiều thợ lành nghề đến với cánh đồng trần gian để mọi người được nghe rao giảng Tin mừng.
Nhưng Chúa ơi, con phải cầu nguyện cho chính con nhiều hơn, vì với cái nhìn của Chúa, con là đứa trẻ ngỗ nghịch luôn đòi mọi người làm theo ý con, mà con thì từ chối ngay cả lời mời gọi của Chúa. Con thường áp đặt quan điểm của con trên tư tưởng người khác và đánh giá người khác theo tiêu chuẩn của riêng con. Thậm chí đôi khi con còn nghi ngờ cả đường lối của Chúa và đòi Chúa thực hiện theo suy nghĩ của con. Con thường viện ra nhiều lý do để thoái thác, để bào chữa cho những lỗi lầm sai trái của con, để khước từ những lời mời gọi của Chúa. Có nhiều lúc con đã cứng lòng, không muốn sám hối và tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con một tâm hồn thiện chí, xin mở lòng trí con, xin giúp con khiêm tốn nhận ra thân phận nhỏ bé của mình để con dễ dàng đón nhận sự khôn ngoan của Tin mừng. Xin ban cho con ơn can đảm để con thực thi tiếng Chúa mời gọi và dấn thân đi trên đường lối Chúa. Con xin trao phó bản thân con, gia đình con cho tình yêu thương và sự khôn ngoan vô cùng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người”.
1. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giêsu mượn trò chơi của trẻ em Do thái để khiển trách những kẻ kém lòng tin. Ngài so sánh dân chúng thời đó như đám trẻ em khó tính, khó nết, nay rầy mai khác, không sao làm vừa lòng họ được. Khi thấy thánh Gioan Tẩy Giả không ăn không uống thì họ cho là bị quỉ ám. Còn Đức Giêsu ăn uống như mọi người thì họ bảo là mê ăn ham uống, là bạn với kẻ tội lỗi!. Nhưng không vì thế mà Thiên Chúa bỏ chương trình cứu độ của Người. Người vẫn tiếp thục hoạt động cách khôn ngoan trên thế giới.
2. Chúa lấy trò chơi của trẻ em Do thái để nói lên ý của Ngài: Các em thường được chia làm hai phe, một bên xướng câu tiểu khúc điệu vui hoặc điệu buồn, rồi bên kia đáp lại: Nếu xướng điệu ca buồn giả làm đám ma, thì bè bên kia than khóc, đấm ngục rên xiết. Nếu bè bên này xướng ca vui giả vờ làm đám cưới thì phe bên kia vui hát nhảy múa hòa nhịp. Nếu hai bên xướng đáp hòa hợp như vậy thì trò chơi rất vui. Nhưng nhiều khi gặp những kẻ khó nết lì lợm, hay theo ý riêng, không hòa hợp thì làm cho trò chơi mất vui: vì “chúng tôi thổi sáo mà các anh không nhảy múa” ... !
3. Qua dụ ngôn trò chơi của trẻ em Do thái này, chúng ta thấy người Do thái khước từ Gioan Tẩy Giả cũng như khước từ Đức Giêsu vì những lý do trái ngược nhau. Sự thật là vì họ không muốn nghe lời Chúa cũng như thánh Gioan Tẩy Giả mà ăn năn thống hối tội lỗi, trở về tin tưởng Chúa, cả hai vị đều đưa ra hai đường lối để giúp họ hoán cải: thánh Gioan chỉ vạch con đường khắc khổ hy sinh, còn Đức Giêsu lại nêu lên cách sống giản dị đơn sơ. Do đó, mỗi người chúng ta đều có thể dùng hai phương cách đó mà cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
4. Người Do thái cố chấp và chủ quan, họ bắt mọi người phải có cái nhìn và lối suy luận của họ. Họ là những người thiếu thiện chí, chỉ tim cách bắt bẻ, lên án người khác. Cái xấu không phải là ở nơi người khác, nhưng là ở chính họ. Vì con mắt họ xấu, vì lòng họ không ngay chính, nên họ đoán xét mọi việc cách sai lạc.
Ngày nay, nhiều người có lối sống đạo ngược đường: họ chỉ muốn Chúa theo ý họ chứ không bao giờ để ý tìm hiểu ý Chúa để mà theo.
Cách sống ngày nay là cách sống hưởng thụ, người ta chỉ ưa nhũng gì hợp với ý mình còn cái gì không hợp với mình thì chống đối, ví dụ họ chống đối Giáo hội về hôn nhân bất khả phân ly, phá thai, luật ăn chay kiêng thịt v. v. họ đòi Giáo hội phải xét lại, phải sửa đổi.
5. Trong một lá thư gửi các chủng sinh, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết như sau: ”Đời sống tập thể không chỉ cần thái độ quảng đại, bao dung và chịu đựng lẫn nhau, nhưng điều quan trọng là làm cho nhau được thêm phong phú, đến độ mỗi người có thể đóng góp năng khiếu riêng của mình cho tập thể, trong khi tất cả đều phục vụ cùng một Giáo hội, cùng một Chúa”.
Hôm nay, Đức Giêsu phê phán những người Do thái vì thái độ tự cho mình là chuẩn mực và bắt người khác phải làm theo ý mình, lấy mình làm khuôn vàng thước ngọc bắt người khác noi theo. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta những “nén bạc” khác nhau (x. Lc 19,13). Chắc chắn rằng, mỗi người sẽ đáp lại hồng ân ấy theo những cách thức khác nhau, tùy theo khả năng Chúa ban.
6. “Nhưng đức Khôn ngoan được chứng minh bằng hành động”.
Câu này khó hiểu. Đức Giêsu muốn nói rằng giá trị thật của một người không tùy thuộc vào lời phê phán của người khác về người đó, nhưng tùy vào chính hành động, vào lối sống của người đó.
Vì vậy Đức Giêsu quả quyết là cả hai người (là Gioan và chính Người) với hai nếp sống khác nhau, đều phục vụ một chính nghĩa của Thiên Chúa. Bằng chứng là cả hai đều thực hiện những công việc của Thiên Chúa đầy khôn ngoan, là công việc của Gioan trong sứ vụ tiền hô và công việc của Đức Giêsu trong sứ vụ cứu thế đều thể hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Vì vậy người ta nói Gioan Tẩy Giả ”bị quỉ ám”, nói Đức Giêsu là “tay ăn nhậu” thì cũng không sao. Chính hành động và lối sống của hai Ngài sẽ biện minh cho hai Ngài.
7. Truyện: Phải biết đánh giá trị.
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ đề hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng con này gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:
- Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này giá gấp đôi giá con ngựa kia?
Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu đến và sai họ cưỡi lên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:
- Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu vết gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay. Trái lại, con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngợp trời, chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá trị gấp đôi con ngựa thứ hai.
Chúa Giêsu so sánh thế hệ của Ngài với lũ trẻ trái tính trái nết: khi chúng chơi trò đám cưới (có “thổi sáo”) thì đòi người ta cũng chơi theo trò đó (“sao các anh không nhảy múa”); khi chúng chơi trò đám ma (có “bài hát đưa đám”) thì cũng thế. Nghĩa là chúng chỉ muốn bắt người ta theo ý riêng của chúng, ai không theo thì chúng phê phán, trách móc.
Cả Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu đều đến để dạy dân Do thái con đường cứu độ. Nhưng vì điều đó không hợp với sở thích của họ nên họ luôn khước từ và còn phê phán, hai ngài làm gì cũng bị họ chê: Gioan sống khắc khổ thì họ chê là “bị quỷ ám”; Chúa Giêsu sống hoà mình ăn uống với mọi người thì họ chê là “tay ăn nhậu”.
“Nhưng đức Khôn ngoan được biện minh bằng hành động”: giá trị thật của một người không tuỳ vào lời phê phán của người khác về người đó, nhưng tuỳ vào chính hành động, vào lối sống của người đó. Người ta nói Gioan tẩy giả “bị quỷ ám”, nói Chúa Giêsu là “tay ăn nhậu”. Không sao, hành động và lối sống của hai Ngài sẽ biện minh cho hai Ngài. Dân Do thái tự xưng là khôn ngoan ư? Chúa chắc, hãy coi họ sống và hành động ra sao.
B. Suy niệm ( ... nẩy mầm)
1. Ý hướng của bài đọc Cựu Ước: “Đấng dẫn dắt ngươi trong con đường phải đi”. Câu đáp trong bài Đáp ca: “Lạy Chúa, ai theo Chúa sẽ được ánh sáng sự sống”.
Sang bài Tin mừng, dân Chúa đã thực hiện những ý hướng đó ra sao? Lời than phiền của Chúa Giêsu (được ghi thành câu tóm tắt ở đầu đoạn Tin mừng) nói lên tình trạng thật đáng buồn: “Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người”.
2. Nhiều người có lối sống đạo ngược đường: chỉ muốn Chúa theo ý họ chứ không bao giờ để ý tìm hiểu ý Chúa để mà theo.
3. Cách sống đạo càng ngày càng thịnh hành trong thời đại văn minh hưởng thụ này là: chuyện gì trái với ý thích của mình thì đòi Giáo Hội phải xét lại. Thí dụ hôn nhân bất khả phân ly, phá thai, luật ăn chay kiêng thịt v. v. Có lẽ ta cần nhớ lời Chúa: “Ai muốn vào Nước Trời hãy qua cửa hẹp mà vào ... Con đường rộng thênh thang dẫn đến hư mất” (Mt 7,13).
4. Nhiều khi trong đời sống đạo tôi quen đi theo con đường của ý riêng khi đánh giá con người và sự việc. Tôi cứ cầm sẵn một cái khung tiền chế sắc bén, như cầm cái khuôn để nhấn xuống cắt bánh lễ. Tôi sẵn sàng nhấn xuống để cắt thật gọn trên mọi người anh chị em. Bất cứ ai sống ra ngoài cái khuôn lập trường của tôi, tôi sẵn sàng cắt bỏ họ. Dầu là sở thích, dầu là tay chân đầu cẳng của họ… tôi đều sẵn sàng cắt bỏ cho vừa đúng cái khuôn của tôi. (Lời trong Kinh Hoà Bình cảnh tỉnh chúng ta: “Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm hiểu biết người…”).
5. “Ông Gioan đến, không ăn không uống thì thiên hạ bảo: Ông ấy bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống thì thiên hạ nói: Đấy là kẻ mê ăn, chè chén” (Mt 11,18-19)
Tôi thường tự ái, và tự ái thường làm cho tôi xa cách mọi người. Những lần như thế, tôi rất sợ đối diện với sự thật, đặc biệt khi sự thật chống lại với mình. Biết mình sai, tôi vẫn cố chấp, vẫn quyết hơn thua, thay vì khiêm tốn đón nhận sự thật. Tôi đã cư xử y hệt như cách thiên hạ đối xử với Gioan và Đức Giêsu, để rồi xa dần Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn lắng nghe và đáp lại lời Chân Lý của Ngài, để luôn sống trung thực trước mặt Chúa và mọi người. (Epphata)
1. Phải nói rằng, thời đại nào cũng có những người như Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người có lối sống đạo ngược đời: chỉ muốn Chúa theo ý mình chứ không để ý đến việc tìm theo ý Chúa.
Nếu quả thực chúng ta cũng sống như thế thì đâu còn là theo đạo hay đi đạo của Chúa nữa. Hãy coi chừng kẻo chúng ta sẽ bị xếp vào loại Đức Phaolô VI gọi là những người Công giáo không có Thiên Chúa.
2. Ngày xưa người ta gọi những người đi theo Chúa là Kitô-hữu. Kitô-hữu là người có Chúa Kitô trong mình. Có Chúa Kitô cũng có nghĩa là luôn biết sống theo Ngài. Nhưng việc sống cho Chúa và sống như Chúa quả không phải là việc dễ dàng.
Đại văn hào Rabbindranath Tagore mặc dù không phải là người Công giáo nhưng ông rất yêu mến Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện ông viết ra để cho người ta biết khi theo Chúa thì người ta phải sống như thế nào.
"Sáng hôm nay, con được làm bạn đường cùng đi với Chúa về làng. Con cứ thắc mắc mãi: ở nhà quê thì có cái gì vui đâu mà lại đi tổ chức ... du lịch?
Vậy mà ngang qua một bờ đê, Chúa đã dừng lại để lội xuống ruộng, đón lấy tay cày đằng sau con trâu gầy còm của một bác nông dân. Rồi Chúa lại còn cùng tát nước với họ vào một mảnh ruộng khác đang khô nước. Chúa làm một cách say mê vui vẻ trong khi nắng đã lên cao, trời nóng dần đến mức như đổ lửa... Con cũng đành phải làm theo Chúa mà miệng thì cứ lẩm bẩm: đúng là đang đâu lại đi chuốc vào thân những vất vả cực nhọc! Rõ khổ!
Đến quá trưa, Chúa chia tay với những người dân cày chất phác và vui tính sau khi uống một bát nước vối họ mời. Chúa quay lại bảo con: "Nào, chúng mình về một khu ngoại thành đi!" Con cứ ngỡ Chúa sẽ vào một quán nước có máy lạnh dành cho khách du lịch để nghỉ ngơi ...
Vậy mà, vừa gặp một tốp thợ đang thi công một đoạn quốc lộ, Chúa lại ghé vào, xắn tay áo xin cùng làm với họ. Chúa cũng xúc đá, cũng gánh sọt cát trên vai hoặc lăn một thùng hắc ín đến lò nấu dã chiến bên vệ đường với họ ... Cứ thế, Chúa vừa làm vừa trò chuyện thân tình với họ, mặc cho mồ hôi muối túa ra ướt đẫm cả lưng áo. Con lại cũng đành phải làm theo Chúa, cố tình chọn một việc nhẹ nhất cho đỡ mệt. Hơi sức đâu mà đánh liều với thứ công việc khổ sai như thế.
Sập tối, Chúa chia tay với cánh thợ bộc trực và gân guốc, sau khi rít một điếu thuốc rê với họ. Chúa lại bảo con đi tiếp đến một thị trấn nhỏ gần đó. Con cứ ngỡ phen này Chúa sẽ tìm một khách sạn để nghỉ ngơi và dùng cơm tối ... . Đói bụng lắm rồi còn gì.
Thế mà khi ngang qua một vùng ven thị trấn, Chúa lại bảo con ghé vào thăm một làng phong. Ở đây, Chúa đã ngồi xuống bên những bệnh nhân tật nguyền, xúc cơm, đổ thuốc, lau mặt, thay áo cho họ, mặc cho những vết thương lở loét của họ bốc lên mùi hôi tanh ghê sợ. Chúa còn đến tận giường để an ủi nâng đỡ một cụ già đang hấp hối sau cả một đời gánh chịu căn bệnh đau đớn cùng với những nỗi tủi nhục vì bị con cháu và xã hội xua đuổi. Con cũng đành phải làm theo Chúa, nhưng chỉ là phụ giúp giặt khăn, rót nước hoặc lấy bông băng đưa cho Chúa mà thôi.
Mãi đến khuya, Chúa mới chịu chia tay với những người phong cùi sau khi vuốt mắt cho cụ già vừa qua đời.
Về lại thành phố, con đang thầm lo: không biết Chúa còn định đi những đâu nữa đây, khổ quá đi mất! Du lịch mà cứ như là một chuyến công tác xã hội từ thiện. Biết vậy, hôm nay con đã chẳng nhận lời theo Chúa đi lang thang vật vã như thế này.
Thế rồi, ngang qua một nguyện đường nhỏ bé của một dòng tu, Chúa bảo con: "Mình cùng vào cầu nguyện một chút nhé" Con thở phào yên tâm. Nhưng tối khuya thế này, ai mà mở cửa cho vào? Không ngờ Chúa dừng lại trước cánh cửa lớn nhà thờ, quỳ xuống thềm và bắt đầu cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha của Ngài: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha giấu không cho các người khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha ... " (Lc 10,21)
Đến lúc này thì con mới chợt hiểu tất cả ... để lặng lẽ quỳ xuống bên Chúa, lòng bật lên lời tâm nguyện:
"Con cố gắng cúi mình khiêm nhu, xuống dấu chân nơi Ngài dừng lại nhưng sâu hút vô ngần Ngài ơi, vẫn không sao chạm được ... " (Thơ R. Tagore)
Vâng! Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Con đường Giêsu là con đường không dễ đi, nhưng ai dám đi vào con đường đó thì sẽ gặp được sự thật có sức mạnh giải phóng khỏi những mê muội lầm lạc và nhất là sẽ có được sự sống sung mãn ở đời này và sự sống vĩnh cửu mai sau. Amen.
Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?" Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ". Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.
Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malakhi, nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10), để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24). Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh: “Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông, nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a). Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa. Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13). Gioan đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11). Đời ông là một tiếng kêu to trong hoang địa. Ông mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn. Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ, để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan. Ông trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia. Gioan đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế. Ông chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày cho Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông. Kết cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2), và sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12). Đầu ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông. Vào Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết của người đã giới thiệu Ngài cho chính đồng bào của mình. Gioan đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời. Ông là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1, 8; 5, 35). Bạo quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt, nhưng lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ. Ông đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình, nên nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu. Êlia đã chịu nhiều đau khổ. Gioan và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c. 12b). Số phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau. Họ chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi. Họ gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng. Nhìn kết cục của đời ông Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin. Một người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh. Khó mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia. Êlia phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại. Để đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu, phải bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ. Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan, làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống. Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm. Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa. Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con. Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa. Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa. Amen -------------------------------
Mỗi khi muốn làm đường, người ta cho xe ủi đi trước để san lấp, tạo mặt bằng tốt. Xe ủi thật mạnh mẽ. Nó càn lướt qua các chướng ngại. Nó bạt núi san đồi. Đi đến đâu xe ủi làm cho mặt đất bằng phẳng đến đấy. Không một chướng ngại nào có thể ngăn chặn xe ủi. Ê-li-a và Gio-an Tẩy giả là những chiếc xe ủi mở đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Như chiếc xe ủi các ngài có một đời sống mãnh liệt. Đó là những cuộc đời rực lửa. Sách Huấn ca miêu tả Ê-li-a là ngọn lửa bừng bừng nên đã đem lửa thiêu đốt mặt đất. Gio-an Tẩy giả được Chúa khen là ngọn đèn rực nóng. Ê-li-a có thể đi một mạch 40 đêm ngày đến núi của Thiên Chúa. Gio-an Tẩy giả từ bỏ thị thành sống trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, y phục chỉ là tấm da thú khoác trên mình. Thật là những cuộc đời rực lửa lý tưởng.
Như chiếc xe ủi, các ngài đưa ra những sứ điệp mãnh liệt. Trên núi Các-men, Ê-li-a bắt họ phải lựa chọn dứt khoát hoặc chọn Chúa hoặc Ba-an. Ngài thách thức 500 sãi của thần Ba-an đem lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật. Ngài đã thắng và bắt dân chúng phải trở về với Chúa. Gio-an Tẩy giả cũng đưa ra những sứ điệp đanh thép: Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh hoa trái sẽ bị chặt bỏ ngay. Chúa dùng nia mà sàng xảy sân lúa. Trấu sẽ bị thiêu đốt trong lò lửa.
Như chiếc xe ủi, các ngài chiến đấu mãnh liệt. Lên án những bất công, dối trá. Lên án cả giới thượng lưu, quan quyền. Lên án cả nhà vua và hoàng hậu. Ê-li-a chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Gio-an Tẩy giả lên án Hê-rô-đê và cuộc loạn luân với Hê-rô-đi-a-đê.
Như chiếc xe ủi, các ngài có cái chết mãnh liệt. Ê-li-a chết một cái chết hùng tráng khi được đưa về trời bằng chiếc xe lửa do ngựa lửa kéo đi trong cơn gió lốc. Gio-an Tẩy giả chết trong một cái chết bạo liệt khi bị Hê-rô-đê chém đầu trong ngục.
Nếu tôi muốn dọn đường đón Chúa đến, tôi cũng phải sống cuộc sống mãnh liệt trong các chọn lựa tốt. Phải mãnh liệt trong dứt khoát với cái xấu. Phải chiến đấu mãnh liệt với cái xấu. Phải quyết liệt đi theo đường tốt. Có thế tôi mới có hi vọng gặp được Chúa.
Lời Chúa đối với mỗi người đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".
Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói::Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.
Lạy Chúa, Gioan Tẩy Giả đến để chuẩn bị cho Chúa mang ơn cứu độ đến. Xin cho mỗi người trong chúng con chuẩn bị tâm hồn trong sáng hân hoan để đón Chúa đến trong chúng con và trong gia đình thân yêu của chúng con. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau tất cả tinh thần và vật chất để trọn niềm vui mừng đón chờ Chúa đến. Amen.
Ngày 10/11/1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.
Thật ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II đã viết:
“Thật hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma. Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó, nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc cao cả”. Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.
Những lời trên đây giúp chúng ta hiểu được sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến Êlia, Gioan Tẩy giả và chính thân phận của Ngài. Êlia là hiện thân của một cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ cho công bằng và quyền con người, Ngài mở ra một thế hệ các tiên tri luôn lên tiếng tố cáo những bất công và kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người, nhất là những người cùng khổ, bị áp bức. Chúng ta cũng bắt gặp dung mạo ấy trong vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là Gioan Tẩy giả. Lời kêu gọi sám hối của Gioan cũng là một cảnh cáo trước những bất công xã hội và vi phạm nhân quyền, nhất là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chúa Giêsu xuất hiện trong truyền thống tiên tri ấy. Ngài là tiên tri của các tiên tri, Ngài không những lên tiếng tố cáo bất công, mà còn đề cao quyền và phẩm giá cao trọng của con người nơi những kẻ bé mọn, bị đẩy ra bên lề xã hội. “Con Người cũng phải đau khổ như thế”. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá trước hết là một điển hình cho những vi phạm tôn giáo, nhân danh quyền lợi dân tộc và theo một hình thức tố tụng tùy tiện và độc đoán nhất, người ta đã kết án Ngài phải chết cách bỉ ổi nhất. Tuy nhiên, cũng qua cái chết ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện phẩm giá cao cả của con người.
Chân lý của con người đã được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết ấy là một lời ngỏ của Thiên Chúa với con người. Con người cao cả đến độ Thiên Chúa đã thí ban người Con Một của Ngài. Dù muốn hay không, không ai chối cãi được rằng ý niệm về nhân quyền như được đề cao trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã cắm rễ sâu trong mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Kitô giáo. Người ta không thể hiểu và chấp nhận phẩm giá cũng như các quyền con người, nếu không nhìn nhận nền tảng là con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu chuộc bằng chính cái chết của Chúa Giêsu.
Ước gì cái nhìn ấy luôn là động lực thúc đẩy các kitô hữu nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá và quyền con người trong cuộc sống từng ngày nhất là phẩm giá và quyền của những người cùng khổ bị đẩy ra bên lề xã hội.
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo như ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế. ” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả. (Mt. 17, 12-13)
Dân Ít-ra-en cứ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ sai Ê-li-a đến dọn đường cho Đấng Thiên sai. Ma-la-ki-a, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước đã viết: “Đây Ta sai Ê-li-a làm sứ giả đến trước ngày quang minh chính đại lạ lùng của Đức Chúa. Ông sẽ hướng con tim của cha ông về cùng con cháu, và hướng con tim của con cháu về những con tim của cha ông kẻo Ta đến chúc dữ xứ này” (3, 23-24). Điều gì sẽ xảy ra nếu lời tiên tri này không thực hiện?
Chính lối tranh luận về lời tiên tri trên mà người ta thường phi bác thái độ cứu thế của Đức Giêsu. Người đã sẵn sàng mất thời gian chịu đựng cách phi thường lối sống cuồng tín lầm lẫn đáng sợ đó.
Đối với môn đệ, Người quả quyết cho các ông biết rằng Ê-li-a đã đến và đã phục hưng tất cả, nhưng Người thêm rằng: Người ta đã không nhận biết ông và còn xử tệ với ông như đã hãm hại tất cả các tiên tri. Ông đã san phẳng những con đường, đã lấp đầy những thung lũng, đã bạt thấp những núi đồi … Ông đã loan báo Đấng đến sau ông. Ngài lớn hơn ông, cầm sàng sẵn trong tay, xẩy sạch các hạt lúa phơi trong sân, đốt sạch rơm rạ, đưa cất những lúa tốt vào kho lẫm của Thiên Chúa … Bấy giờ các môn đệ hiểu Người nói về Gioan tẩy giả.
Đức Giêsu nói về các luật sĩ rằng họ đã không nhận ra dấu chỉ của thời đại, nên họ không thể nhận ra đặc tính của Đấng Cứu thế. Cho nên Con Người sẽ phải chịu khốn khổ bởi họ.
Nếu các luật sĩ cố chấp không hiểu, thì các môn đệ đã hiểu sứ vụ của Người và các ông bắt đầu tìm hiểu lời tiên báo về thập giá.
Chúng ta dễ thấy bực mình về những rắc rối của luật sĩ, vậy chúng ta cần phải thi hành lời Chúa để đáp lại những lý luận của những kẻ mê muội đó. Đức Giêsu đã không ngừng rao giảng sự cứu độ cho cả những tối dạ không biết suy nghĩ đó. Người cũng không ngừng bị cám dỗ chỉ nói cho những kẻ đón nhận lời Người thôi. Chúng ta tuy vào số những người hiểu lời Chúa, nhưng lại nhốt lời Chúa như nhốt tù, không lo sống và rao giảng lời Chúa.
Trong Mùa Vọng, người được nhắc nhiều nhất chính là Gioan Tẩy Giả. Bởi vì Ngài vừa là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, vừa là người loan báo, chuẩn bị dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Có thể nói: Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri kết thúc thời Cựu Ước, và khai mào cho thời Tân Ước.
Mặc dù ngài là người sống trong sa mạc, tuy nhiên, những lời giảng của ngài đã lay động nhiều tâm hồn, và ngày càng đông người đến để xin thụ huấn.
Sứ mạng của Gioan đến là để canh tân các tâm hồn, kêu gọi sám hối để được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế. Sứ mạng này cũng chính là của Êlia thời Cựu Ước.
Thật vậy, Êlia đến để loan báo về tình thương của Thiên Chúa trên dân Người, ngài cũng trở thành trung gian để khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, làm nguôi cơn thịnh nộ của Người. Ngài còn đóng vai trò làm người giao hòa giữa mọi người với nhau, xây dựng sự hiệp nhất và bình an trong xã hội. Đến thời Gioan cũng vậy. Ông đến để kêu gọi dân quay trở lại đường chính nẻo ngay để chuẩn bị tâm hồn, dọn lòng thanh sạch để đón mừng Đức Giêsu đến. Hai con người nhưng cùng chung một sứ mạng. Hai thời điểm, nhưng cùng hướng về một mục đích. Vì thế, nếu Êlia đã phải chịu bách hại vì sứ vụ, thì Gioan cũng không thoát khỏi cảnh tù đầy và bị giết chết. Đặc biệt, chính Đức Giêsu, Ngài cũng đồng số phận với các tiên tri khi thực thi sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Điều này đã được Đức Giêsu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài nói: “Êlia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối, ăn năn vì những lỗi lầm thiếu sót của chính mình.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, sống cuộc sống hy sinh để làm gương cho dân chúng noi theo. Đồng thời, chia sẻ bác ái cho những người khó khăn. Sẵn sàng loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người bằng nhiều cách, nhất là bằng gương sáng.
Nếu có phải nguy hiểm đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
Sứ điệp: Đứng trước lịch sử hoặc các sự kiện xảy ra trong đời, chúng ta thường hời hợt và cắt nghĩa nông cạn. Ta cần phải tìm hiểu Thánh Ý Chúa. Hãy đến để hỏi Chúa Giêsu như các môn đệ xưa.
Cầu nguyện: Chúa ơi, Chúa có đau lòng không, khi Chúa đến giữa Dân Chúa mà Dân Chúa không nhận ra Chúa là Đấng phải đến? Chỉ vì họ đã cắt nghĩa lời hứa của Chúa Cha một cách hẹp hòi. Họ cứ chờ đợi Ê-li-a phải đến trước.
Trong cuộc sống con, chắc chắn con không từ chối tiếp nhận Chúa đến với con dưới hình ảnh một vị Vua uy nghi. Nhưng hằng ngày Chúa đến với con thật sự, mà con lại dửng dưng. Con không thấy hấp dẫn và cần thiết mấy. Nhiều khi con còn coi như bị mất giờ nữa. Nếu con hiểu được sự hiện diện cao siêu của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chắc mỗi lần đến với Chúa, con phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Nếu con hiểu được sự hiện diện của Chúa trong những người nghèo khổ, chắc con đã không khinh miệt họ. Chúa đang đến với con qua những lần con gặp gỡ những ai bệnh tật, nhưng con ít khi nhìn ra Chúa.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, các thánh khác chúng con ở chỗ: các ngài luôn nhận ra Ý Chúa trong bất cứ cảnh sống nào, và luôn nhận ra khuôn mặt của Chúa trong bất cứ người nào.
Xin cho Mùa Vọng năm nay mang lại cho con sự khôn ngoan chân thật của Chúa để con biết nhận ra Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Xin cho con luôn thấu hiểu Thánh Ý Chúa đầy tình yêu thương trong mọi cảnh sống. Amen.
Ghi nhớ: ”Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông”.
1. Theo tiên tri Malakia loan báo: ông Elia sẽ đến dọn đường cho Đấng Cứu thế đến, người Do thái tin như thế và cứ mong chờ Đấng Cứu thế, mặc dầu ông Êlia đã đến rồi. Nhưng khi ông Gioan rao giảng về Ngài, họ lại không chấp nhận. Điều làm họ không nhận ra vì họ nghĩ Đấng Cứu Thế đến theo nghĩa chính trị, sẽ giải thoát họ khỏi cái khổ trần gian. Cái nhìn hẹp hòi và lối nghĩ thiển cận khiến con người khó chấp nhận sức điệp của Đức Giêsu.
2. Các nhà thông luật dựa vào lời tiên tri Malakia loan báo thắc mắc: Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông (Ml 3,1. 24).
Đức Giêsu trả lời họ khi khi nhấn mạnh: “Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông, nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn (Mt 17,12). Êlia mà Chúa nói chính là Gioan Tẩy Giả vậy. Đức Giêsu có ý ngầm nói với họ là phải hiểu câu tiên tri ấy theo nghĩa bóng chỉ về kẻ tiền hô cho Đấng Messia. Đấng Messia ấy là Đức Giêsu, còn người tiền hô chính là Gioan Tẩy Giả. Vì người Do thái đã không hiểu như thế cho nên khi Gioan đến thì họ bách hại, và khi Đức Giêsu đến , họ cũng bách hại.
3. Vì thế, Gioan trong vai trò Êlia mà tiên tri Malakia loan báo, ông đến để chỉnh đốn mọi sự: kêu gọi lòng sám hối ăn năn, sửa chữa tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế. Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một tiên tri, để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan. Nhưng các luật sĩ và biệt phái không chấp nhận và còn chống đối. Sau này ông bị cầm tù và chết thảm thương trong ngục. Gioan đã chu toàn nhiệm vụ tiên tri Êlia.
4. Thánh Gioan Tẩy giả làm gương cho chúng ta trong việc dọn đường, chúng ta hãy theo gương Ngài mà dọn đường cho Chúa bằng chính đời sống khắc khổ để khơi dậy lòng sám hối trong mọi người. Chúng ta, người tông đồ của Chúa, cũng phải làm chứng bằng đời sống khó nghèo, bác ái, yêu người và khổ chế để nêu gương cho các Kitô hữu biết ăn năn sám hối trong tinh thần Mùa Vọng để chuẩn bị cho Chúa đến bằng ơn thánh trong cuộc sống hằng ngày.
5. Đức Giêsu nói với các môn đệ ràng: “Ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ bị đau khổ vì họ như thế”Mt 17,12).
Trong tác phẩm “Đường Hy vọng”, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận nói: “Thông thường người ta rất quí trọng những người mang dấu thánh của Chúa, nhưng lại sợ chính mình phải mang những dấu thánh ấy”. Đức Giêsu, dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng đã phải trải qua đau khổ và cái chết mới được đến với vinh quang phục sinh.
Người Kitô hữu không bao giờ tôn sùng đau khổ, nhưng sẵn sàng đón nhận đau khổ vì tình yêu. Đức Giêsu đã được phục sinh cùng với những dấu thánh của mình, thì cũng vậy, chúng ta sẽ chỉ được phục sinh, một khi chúng ta được giương lên cao cùng với thánh giá đời mình. Điều này nhắc nhở mọi người hãy vác thánh giá cuộc đời trong tâm tình vui vẻ, đồng thời kết hợp với đau khổ của Đức Giêsu trên Thánh giá năm xưa, hầu đền tội cho mình và cầu nguyện cho mọi người (Học viện Đa Minh).
6. Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều trong Mùa Vọng này, xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta để xứng đáng chờ Chúa đến. Xin Mẹ Maria cũng hãy giúp chúng ta là con cái Mẹ để có tâm tình như Mẹ khi chờ đợi Chúa giáng trần. Chúng ta hãy nóng lòng chờ đợi Chúa đến hằng ngày , nhất là trong dịp lễ Giáng Sinh. Maranatha: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
7. Truyện: Muốn gặp Chúa.
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu truyện sau đây:
Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình: - Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.
Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bầy tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.
Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến một dòng sông. Thầy trò cùng dìm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư mới túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.
Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:
- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?
Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:
- Thưa, con cần không khí để thở.
Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:
- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực con sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.
Văn mạch: đoạn trước là chuyện Chúa Giêsu biến hình. Khi ấy Người trở nên vinh quang, có Môsê và Êlia hiện đến đám đạo với Ngài (17,1-8).
Vì đã thấy Êlia cho nên khi thấy trò từ núi đi xuống, các môn đệ thắc mắc: tại sao Êlia chỉ xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất, trong khi các kinh sư lại nói Êlia phải đến trước Chúa Giêsu để dọn đường cho Ngài. Người do thái tin rằng xưa kia Êlia được đưa lên trời, để rồi sẽ trở xuống trần thế dọn đường trước khi Đấng Messia tới. Sở dĩ người ta nghĩ như vậy vì người ta đã hiểu quá sát nghĩa đen câu tiên tri của Malakhi 3,23-24.
Đáp lại, Chúa Giêsu ngầm nói phải hiểu câu tiên tri ấy theo nghĩa bóng chỉ về kẻ tiền hô cho Đấng Messia. Đấng Messia ấy chính là Chúa Giêsu, còn người tiền hô chính là Gioan Tẩy giả.
Vì dân do thái đã không hiểu như thế cho nên khi Gioan đến thì họ bách hại, và khi Chúa Giêsu đến, họ cũng bách hại.
B. Suy niệm (... nẩy mầm)
1. “Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử tệ với ông theo ý họ muốn” (câu 12). Ngày xưa dân do thái không nhận ra Gioan Tiền Hô là kẻ dọn đường cho Đấng Messia, lại còn giết hại ông. Ngày nay cũng có nhiều kẻ đang dọn đường cho Chúa nhưng người ta cũng không nhận ra, có khi còn thù ghét. Những Êlia ấy của thời nay là ai? Là gì?
2. “Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử tệ với ông theo ý họ muốn” (câu 12).
Lời của Chúa Giêsu trên đây mở ra cho chúng ta một cách nhìn và đánh giá các biến cố. Nên nhìn theo tinh thần hơn là quá cứng rắn theo chữ nghĩa.
Gioan Tiền hô không mang tên là Êlia, thậm chí ông đã từng tuyên bố mình không phải là Êlia (Ga 1,21), nhưng ông lại là hiện thân của Êlia, ông đóng vai trò của Êlia, ông nói lên tinh thần của Êlia.
3. Gioan Tiền hô là Êlia mới. Nếu Êlia đã xuất hiện, thì Đấng Thiên Sai và “Ngày của Giavê” mà dân Chúa hằng mong đợi đã bắt đầu. Chính bản thân của Gioan Tiền hô đã là một dấu chỉ, là một thời điềm.
- Tôi có là một dấu chỉ, một thời điềm để đưa anh chị em tôi tới với Chúa?
- Tôi có nhận ra Chúa nơi anh chị em tôi không? (Gặp Chúa: - qua Lời Chúa - qua nơi con người - qua biến cố).
4. “Thầy nói cho anh em biết: Ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn đối xử với ông theo ý họ muốn” (Mt 17,12)
Ngôn sứ Êlia đã đến, nhưng dân Israel không nhận ra ngài. Đức Giêsu cũng đã đến, tệ hơn, họ đã đóng đinh Người vào Thập giá. Còn tôi, tôi đã đón nhận Chúa thế nào trong cuộc sống? Có lần, một cậu bé khẩn khoản xin tôi giúp đỡ. Tôi lạnh lùng quan sát cậu từ đầu đến chân. Vì nghi ngờ, tôi đã đuổi cậu. Cậu bé đi rồi, nhưng hình ảnh cậu cứ lởn vởn mãi trong tâm trí tôi. Và tôi bắt đầu cảm thấy ray rứt vì đã nhẫn tâm khước từ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con đã không nhận ra Người khi thản nhiên khước từ một người bé mọn, vì đã quên: mỗi lần như thế là con đã làm cho chính Chúa. (Epphata)
1. Lời Chúa chúng ta vừa nghe, mở ra cho chúng ta một cách nhìn và đánh giá mới về các biến cố. Hãy biết nhìn các biến cố theo tinh thần của Chúa muốn.
Gioan Tiền Hô tuy không mang tên là Êlia, nhưng ông lại là hiện thân của Êlia. Ông xuất hiện trong vai trò của Êlia. Ông đã sống và đã nói lên tinh thần của Êlia.
Như vậy, có thể nói: Gioan Tiền Hô là Êlia mới. Và nếu Êlia xuất hiện, thì Đấng Thiên Sai và "Ngày của Giavê" mà dân Chúa hằng mong đợi cũng đã bắt đầu. Chính bản thân của Gioan Tiền Hô đã là một dấu chỉ, là một thời điểm.
Vâng! Đấng mà Gioan loan báo: Ngài đã đến rồi. Đó là Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta.
Chúng ta đã biết rõ nơi Ngài đã sinh, những nơi Ngài đã sống. Chúng ta đã biết những lời Ngài đã dạy dỗ chúng ta. Chúng ta đã biết những việc Ngài đã làm, những đau khổ Ngài đã chịu. Chúng ta đã biết cái chết đau thương của Ngài ở trên cây Thánh Giá. Chúng ta đã biết sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài.
Trước khi về trời Ngài còn tuyên bố một lời mà tất cả chúng ta vẫn còn nhớ: "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)
Đức Giám mục Curtis giáo phận Wilington và Đức Hồng Y Newman là hai người bạn thân thiết. Cả hai trước kia là Anh giáo, nhưng đã trở lại công giáo. Một bữa nọ, Đức Giám mục Curtis đến thăm Đức Hồng Y. Trong câu chuyện, Đức Hồng Y cho biết Ngài đã được đặc ân của Tòa Thánh giữ Mình Thánh Chúa trong nhà ngài ở. Ý nghĩ Thiên Chúa ở với các ngài trong cùng một nhà đã gây xúc động nhiều cho Đức Giám mục Curtis, nhưng khi Đức Hồng Y mời ngài ở lại đêm với mình, ngài từ chối và nói: "Con sẽ không chợp mắt được tí nào trong đêm, nếu con nghĩ và biết rằng Chúa đang ở cùng một nhà với con".
2. Chúa đã đến, nhưng chúng ta đã gặp được Chúa chưa? Muốn gặp được Chúa tôi phải làm gì?
Trong kho tàng truyện ngụ ngôn của người Tây Phương có câu chuyện này:
Vào buổi sáng nọ, bác thợ giầy thức dậy thật sớm. Bác quyết định sửa soạn chiếc xưởng nhỏ của bác cho tươm tất rồi vào phòng chờ cho được vị khách quí. Và người khách đó không ai khác là Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho bác biết Ngài sẽ đến thăm bác trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng vừa rọi qua khung cửa, bác đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng bác hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đã đến. Bác ra mở cửa. Thế nhưng, người đang đứng trước mặt bác không phải là Chúa mà là người phát thư.
Sáng hôm đó là ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi, tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để ông run lẩy bẩy ngoài cửa. Bác mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giày trở vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn ra cửa sổ bác thấy có một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Bác gọi em bé đó lại để hỏi cho biết lý do. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy tờ giấy viết vài chữ để trên bàn, báo cho người khách quí biết là mình phải đi ra ngoài.
Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà. Mãi đến chiều tối bác ta mới tìm thấy nhà đứa bé, và khi bác về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà bác thấy có người đang đợi, nhưng không phải là Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Suốt mấy ngày nay, bà đã không có gì bỏ bụng. Vì bị đói như thế cho nên bà cũng không còn sữa cho con bú. Bác thợ giầy tận tụy lo lắng cho cả hai mẹ con.
Công việc xong xuôi thì đã quá nửa đêm. Mệt quá bác để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà chưa thấy Chúa đến, nhưng đột nhiên trong giấc ngủ người thợ giày nghe thấy tiếng Chúa nói với bác:
- Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. - Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. - Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta. - Cám ơn con đã tiếp đón Ta trong ngày hôm nay.
Giáng Sinh lại sắp về với chúng ta. Chúa đã đến và Ngài đang đến với mỗi người, đến qua Lời của Ngài, qua những biến cố và qua những con người. Ai là người sẽ gặp được Chúa? Đó là những con người có một trái tim quảng đại, đôi bàn tay giang ra, với cặp mắt cảm thông. Ngài cần một tách trà, một chén cơm, một ly nước, một lời khích lệ, một sự đồng cảm, tha thứ.
Lạy Chúa xin mở đôi mắt con thật to để con có thể nhìn thấy Chúa. Xin mở tâm hồn con thật rộng để con có thể đón Chúa vào lòng. Amen.