Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ". Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!" Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)
“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”
Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 19, 28-40 “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47) Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người đáp: J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn". C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô thưa Người: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không". C. Chúa Giêsu bảo ông: J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần". C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả đều nói như vậy. Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện". C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức". C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh". C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra". C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông". C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây". C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. "Hãy đoán xem!" C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét". C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. "Ông này thuộc bọn đó". C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó". C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng. Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39 C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu) C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Ðủ rồi". C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi". C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào ngày Thứ Sáu, chúng ta quen gọi là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu chịu nạn. Xưa kia người ta cho ngày thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn bất cứ ngày nào khác trong năm, bởi lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị kết án tử hình và đã bị giết chết một cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự kiện đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ Sáu chịu nạn là “Thêm một người vô tội được ghi tên vào trang sổ dài trong lịch sử nhân loại, cuốn sổ của biết bao nhiêu người bị tố cáo một cách oan uổng, bị đánh đập, bị hành hạ tàn nhẫn, và có khi bị giết chết”. Theo ý nghĩa này thì quả thật ngày Thứ Sáu chịu nạn là một ngày xấu xa, một ngày đen đũi.
Nhưng đối với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu nạn không phải là một ngày đáng ghét, chúng ta phải nghĩ ngược lại, ngày đó là một ngày đáng ghi nhớ, một ngày có ý nghĩa thật tốt đẹp và hoàn toàn cao cả, một ngày tốt đẹp hơn hết mọi ngày, bởi vì ngày đó là ngày Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc chúng ta, là ngày mở ra một trang sử mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu thua trước bạo lực, trước rủi ro hay số phận, cái chết của Ngài không phải là một sự thất bại, thua cuộc, nhưng là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì chỉ có cái chết của Ngài mới có đủ khả năng đền bù tội nguyên tổ và mọi tội lỗi của con người một cách cân xứng, bởi vì tội phạm đến trời thì chỉ trời mới tha được. Hơn nữa, muốn cứu chuộc chúng ta, thật ra Chúa Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo khổ, phải nhục nhã, phải bị giết chết một cách tức tưởi như vậy, nhưng tất cả những sự ấy Ngài đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến cùng, yêu thương không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã đổ máu ra chết cho tất cả chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã chết một cách vô ích cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham dự vào công lênh cứu chuộc của Ngài bằng nỗ lực riêng của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã làm bật lên mạch nước, nhưng chúng ta cần cúi xuống mà uống, nguồn mạch Chúa Giêsu sẽ vô ích nếu chúng ta không muốn uống. Nói rõ hơn, ơn cứu chuộc đòi hỏi chúng ta một nghĩa vụ, đó là chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa, như thánh Âu tinh đã nói: “Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá, trước khi thở hơi cuối cùng, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Mọi sự đã hoàn tất”. Như vậy, công việc cứu chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng ta thì chưa xong, chúng ta còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình, từ đó chúng ta mới hiểu câu nói của thánh Phaolô: “Tôi bổ khuyết nơi tôi những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô”. Vì thế, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế gian thường xét đoán theo hiệu quả, còn Chúa thì đoán xét theo cách thức người ta chu toàn và kiện toàn bổn phận Chúa trao. Nói cách văn hoa, ở đời này, tất cả chúng ta đều là những diễn viên trên sân khấu trần gian, khi màn bi hài kịch cuộc đời hạ xuống, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi chúng ta đã diễn xuất thế nào về vai trò được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được đặt ra: người đời sẽ hỏi: “Người ấy để lại những gì ?”, Còn thiên thần thì hỏi: “Người ấy đem đi được những gì ?”. Điều đó có nghĩa là trong cuộc hành trình trên trần gian, chúng ta có thể đem theo mình nhiều thứ, nhưng khi đến trước tòa Thiên Chúa, chỉ còn những việc thiện đi theo chúng ta mà thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc nhở chúng ta: hãy ý thức hơn về ơn cứu chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào chính tâm hồn mình, và hãy sống ơn cứu chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong chúng ta hãy dành nhiều thời giờ trong Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn cứu chuộc của Chúa và sự cộng tác của mỗi người chúng ta để hoàn thành cuộc đời mình. Cụ thể, trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, ngoài việc cầu nguyện, suy ngắm sự thương khó Chúa, ăn chay để tỏ lòng thống hối, chúng ta còn phải xưng thú tội lỗi để tháo những chiếc đinh nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận và vu cáo bất công như những người đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là sự khiếp nhược chối bỏ Thầy hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm bên trái Chúa đã chê trách Chúa trên cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là những sự dửng dưng, thậm chí hùa theo kẻ mạnh để làm khổ người thân yếu cô thế như đám đông dân chúng đã la to: “Đóng đinh nó vào thập giá…”
Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những người đau khổ là hiện thân của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính là những người mắc bệnh nan y mà không tiền chữa trị, hoặc là những người đang chịu đựng những lời khích bác và vu khống bất công của những kẻ thù giấu mặt mà không ai động viên an ủi. Họ cũng chính là những người đang gặp đau khổ như què quặt, đui mù, đi xin ăn mà không biết ngày mai sẽ ra sao…
Chúng ta có thể làm gì ? Hãy cảm thông với họ như các phụ nữ gặp gỡ Chúa trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông Si-mon vác đỡ thập giá Chúa, như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt, hãy bênh vực công lý như người trộm lành bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy như hai môn đệ xưa đã tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá…
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ, vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau của anh em chung quanh. Càng suy niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về việc chết đi cho chính mình để sinh nhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một cách diễn tả khác cho sự thật này là hình ảnh vác thập giá của chính chúng ta. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về thực tại thập giá và đau khổ trong cuộc sống của Chúa Giêsu. Việc suy niệm này chắc chắn làm chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta đã ẵm lấy thập giá đau khổ và hy sinh trong cuộc sống của chúng ta như thế nào ?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ trong cuộc sống và ẵm lấy thập giá mà Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm điều mà Chúa Giêsu đã làm trước chúng ta và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến chiến thắng cuối cùng trong cuộc đời của chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường trước mắt có vẻ tối tăm và bấp bênh, những lúc đó chúng ta cần xác tín Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã nhắc cho chúng ta, cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và Người sẽ lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà Chúa Cha muốn ban cho Người. Đây cũng là lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta chọn lựa trung thành chịu đựng đau khổ cùng với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo Hội không bao giờ khẳng định đau khổ tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai lại khẳng định giá trị cứu độ của đau khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức”. Khi chúng ta gặp phải bất kỳ một loại đau khổ nào thì đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự thiện hảo đến cho con trong những tình huống đau thương nhất. Xin giúp con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Tuần Thánh bắt đầu bằng Lễ Lá và kết thức bằng Lễ Phục Sinh. Tuần Thánh là thời gian thuận lợi nhất để các Ki-tô hữu chiêm ngắm và cảm tạ Thiên Chúa là Đấng có tấm lòng và hành động yêu thương vô bờ vô bến ngoài sức tưởng tượng của con người. Trong những ngày “thương khó” Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa mang hình ảnh, dáng dấp và thân phận của người tôi tớ “đau khổ” mà ngôn sứ I-sai-a đã miêu tả từng chi tiết từ mấy trăm năm về trước. Chúng ta được Hội Thánh mời gọi chiêm ngắm dung nhan tàn tạ và đi sâu vào tâm hồn của Thiên Chúa để khám phá ra tình yêu cứu độ của Người.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh. (1) Bài đọc 1: Is 50,4-7: Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ, tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
4 Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. 5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. 6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. 7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
(2) Bài đọc 2: Pl 2,6-11: Đức Giê-su đã tự hạ, chính vì thế, Thiên Chúa đã suy tôn Người.
6 Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, 7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. 8 Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. 9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. 10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; 11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".
(3) Bài Tin Mừng: Lc 22,14 - 23,56: Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
(Chi chú: sau đây là một số câu Phúc Âm làm nổi bật chân dung và thân phận người tôi tớ đau khổ của Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó)
22/42 "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha."… 44 Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất. …48 Đức Giê-su bảo hắn: "Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?... 52 Sau đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? 53 Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm."… 63 Những kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. 64 Chúng bịt mắt Người lại, rồi hỏi rằng: "Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó? " 65 Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
23/2 Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: "Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa."… 10 Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11 Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô…. 18 Nhưng tất cả mọi người đều la ó: "Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!" …24 Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25 Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn…. 33 Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34 Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. 35 Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! " 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi! " 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do Thái." 39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” …. 44 Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. 46 Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Nói xong, Người tắt thở.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Is 43, 16-21) là một đoạn văn tuy ngắn nhưng rất quan trọng đối với I-sai-a và mạc khải Ki-tô giáo. I-sai-a nói về ơn gọi và thân phận ngôn sứ của chính mình. Nhưng I-sai-a cũng nói tiên tri về Đấng sẽ đến trong lịch sử Ít-ra-en mà chỉ sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá và trỗi dậy từ cõi chết thì người tin mới khám phá ra ơn gọi, dung mạo và thân phận của Người.
Trong đoạn sách I-sai-a 43,16-21 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa Ngôi Hai làm người đã tự chọn một thân phận có thể gọi là “hẩm hiu” mà không một ai lại dại đột và khùng điên đến độ tự chuốc lấy cho mình. Đó là thân phận của người mà Sách Thánh gọi là người tôi tớ đau khổ.
(2) Bài đọc 2 (Pl 3,8-14) là những lời nói có lẽ đáng được xếp vào hạng hay nhất về Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta của Thánh Phao-lô Tông đồ. Có thể nói những lời nói trên chỉ được rút ra từ những giờ phút chiêm niệm đắm mình trong mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Cũng có thể nói đó là những soi sáng, những mạc khải mà Chúa Thánh Thần đã ban cho Thánh Phao-lô để ngài chia sẻ với Hội Thánh là các tín hữu Phi-líp-phê và các tín hữu của mọi thời mọi nơi trong đó có chúng ta.
Trong đoạn 2 Cr 5,17-21 trên, Thánh Phao-lô trình bày Chúa Giê-su ở hai giai đoạn: Trước & trong và sau cuộc Khổ Nạn. Trước & trong cuộc Khổ Nạn thì Chúa Giê-su mang thân phận và chân dung của người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa. Sau cuộc Khổ Nạn thì Chúa Giê-su mang thân phận và chân dung của Đức Chúa khải hoàn chiến thắng vinh quang. Trước và trong cuộc Khổ Nạn là mầu nhiệm Nhập Thể và Thương Khó. Sau cuộc Khổ Nạn là mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 22,14 - 23,56) là cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su trong Tin Mừng Lu-ca.
Qua bài Thương Khó trên chúng ta có được một tường trình về những nỗi ĐAU ngoài thân xác và những nỗi KHỔ trong tâm hồn. Những nỗi ĐAU ngoài thân xác là Chúa Giê-su bị bắt, trói, đánh đập, tra tấn, vác thập giá, bị đóng đinh vào cây gỗ và vị treo lên như một tên tội phạm. Gương mặt và thân xác Chúa bị bầm dập một cách tàn tạ khiến không ai chứng kiến mà có thể cầm được nước mắt! Còn những nỗi KHỔ trong tâm hồn thì khủng khiếp hơn nhiều. Đó là Chúa bị người Do Thái và nhất là những người có quyền chức lãnh đạo trong tôn giáo khinh khi, thù ghét, tra vấn, đánh đập, chế diễu, kết án và giết chết. Nhưng còn một nỗi KHỔ tinh thần lớn hơn nữa là bị bán, bị chối và bỏ rơi bởi chính các môn đệ thân tín của mình! Thậm chí bị chính Chúa Cha bỏ rơi.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta không còn được diễn tả bằng lời nói, dụ ngôn, truyện kể hay phép lạ nữa mà đã được biểu lộ bằng một loạt những hành động “tai nghe mắt thấy” gây đau đớn và khổ cực tột cùng cả trong tâm hồn vả trên thân xác của Chúa Giê-su Na-da-rét, Con Chí Ái của Chúa Cha!
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để sống trọn vẹn sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi có thể dùng hai câu hỏi sau đây để suy niệm và quyết tâm:
3.1 Câu thứ nhất là Lời Thánh Kinh được hát trong ngày thứ sáu Tuần Thánh: “Ta đã làm gì cho ngươi?”
(Câu trả lời là: Chúa Giê-su Ki-tô đã giáng trần, đã lao động vất vả, đã miệt mài rao giảng Nước Trời và Tình Yêu của Cha, đã tự nguyện chịu khổ hình và chịu chết nhuốc nha trên thập giá vì/cho tôi!).
3.2 Câu thứ hai chắc chắn là điều mà Chúa chờ đợi mỗi Ki-tô hữu chúng ta có lời đáp lại: “Trước tình yêu vô biên của Chúa, tôi đã làm gì cho Chúa và cho tha nhân?”
(Câu trả lời có phải là: Tôi đã chọn Chúa làm Chúa Tể? làm Thày? đã đặt Chúa trên tất cả chức quyền, danh vọng, của cải, lạc thú? đã sống theo Lời Chúa dậy? Tôi đã khiêm tốn, hy sinh, quên mình và giúp đỡ mọi người chung quanh bằng thiện chí, khả năng và các điều kiện của tôi?”)
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Chúa lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã hạ mình và tự hủy như thế để yêu thương và cứu độ hết mọi người!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã được Thiên Chúa tôn vinh và muôn loài bái lạy và tuyên xưng là Chúa!
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính! " Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về"
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng chết treo trên đồi Núi Sọ, xin Chúa ban cho mọi Ki-tô hữu ơn nhận ra Chúa và ơn thay đổi cuộc sống như viên đại đội trưởng quân đội Rô-ma và những người đã chứng kiến giờ phút tắt thở của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Từ tàu chở than, một chiếc xuồng đưa người khách lạ hoắc lên bãi biển xứ Biên Tường (Bretagne) của nước Pháp. Hai ngư dân địa phương tò mò hỏi khách, liền được cho biết điều ước ao của ông là được tham dự Thánh Lễ ở một nhà thờ gần đấy. Đó là sáng sớm lễ Giáng Sinh 1643.
Khách không những được dẫn tới nhà thờ mà còn được lo cho có mũ đội đầu, có khăn ấm quàng cổ. Vừa tới thánh đường, ông liền đi xưng tội để chuẩn bị mừng lễ sốt sắng. Trở về căn nhà ở bãi biển đã đón tiếp ông, khách được mọi người quí mến lắng nghe sau bữa ăn. Không ai dám hỏi thẳng vấn đề liên quan tới thân hình khách, nhưng ai cũng thấy hai bàn tay ông mang đầy sẹo với một số ngón cụt tới phân nữa, một số ngón mất móng, còn ngón cái tay trái thì không còn. Hai gò má nơi dung mạo ông lõm với làn da nhăn nheo.
Cho dầu khách muốn ẩn danh nhưng cuối cùng cũng phải cho chủ nhà biết mình là linh mục thừa sai Dòng Tên với danh xưng An Sang Giang (Isaac Jogues), người thành phố Orleans nước Pháp, đi truyền giáo ở Bắc Mỹ và bị người Da Đỏ Uông Tinh (Iroquois) bắt giữ từ hơn một năm; nhờ người Hà Lan giúp mới thoát cảnh nô lệ, để về thăm quê hương.
Nghe chuyện cảm động, ai nấy đều rướm lệ. Riêng hai cô bé chủ nhà bàn tính với nhau và đã đập con heo đất lấy số tiền nhỏ kính tặng vị thừa sai.
Thế là từ căn nhà tranh, tin đến tai nhà buôn giàu có của thành phố Rennes, đó là ông Bùi Văn Sơn (Berson). Ông đến tận nơi gặp cha An Sanh Giang và lấy ngựa chở ngài về nhà các cha Dòng Tên tại Rennes sáng sớm ngày 5 tháng 1, năm 1644.
Từ Rennes, cha An Sanh Giang về Orléans thăm mẹ và gia đình hai ngày. Sau đó cha tới Paris. Đâu đâu cha cũng được theo dõi và thán phục như một vị tử đạo, đến nỗi Hoàng Hậu Anna nhiếp chính cai trị nước Pháp thay vua Luy XIV, con của bà còn nhỏ tuổi, cũng muốn gặp cha. Cha tìm mọi cách để tránh né nhưng không thành công. Hoàng hậu yêu cầu cha vui lòng kể lại những cực hình cha đã chịu do người Da Đỏ hành hạ, cùng với những cuộc mạo hiểm, để thoát khỏi tay họ. Bà đã đặt hai bàn tay bị biến dạng của cha trong lòng bàn tay của bà, để nhìn cho kỹ dấu vết của cuộc khổ nạn cha đã trải qua. Nhân cơ hội, cha yêu cầu và được Hoàng hậu ký sắc lệnh nhân danh vua Luy XIV, gởi một đại đội Pháp Quốc tới canh giữ đồn binh đang được xây dựng để bảo vệ Sainte-Marie là tiền thân của thành phố Minh Sơn (Montréal) của Canada hiện nay.
Nơi Ngài ơn cứu độ của tôi
Theo giáo luật, cha An Sanh Giang không được dâng thánh lễ, vì ngón tay của tay trái hoàn toàn bị mất, còn ngón trỏ thì bị cụt ngủn nên cha không thể cầm Mình Thánh Chúa theo luật phụng vụ. Cha nhân cơ hội ở Paris, đã xin Đức Urbanô VIII cho cha được phép dâng thánh lễ. Đức Thánh Cha rất lấy làm cảm động về những đau khổ cha đã phải chịu nên đã đồng ý ngay về ơn cha xin với lời Đức Thánh Cha nói: “Thật sẽ là điều xấu hổ để cho vị tử đạo của Chúa Kitô bị mất quyền uống Máu Thánh Người!”
Đầu tháng 5 năm 1644, cha An Sanh Giang lên đường trở về xứ truyền giáo Canada với chính đại đội lính trẻ mà cha đã yêu cầu chính phủ Pháp gởi sang Canada. Giữa biển cả, tàu gặp bão lớn với những lưỡi sóng cao ngất như muốn chôn vùi hành khách xuống đáy biển. Mọi người đều hoảng sợ trong tuyệt vọng. Một mình cha An Sanh Giang kiên trì cầu nguyện giờ kinh phụng vụ. Cha sử dụng ngay lời ngôn sứ Isaia để khuyên mọi người thống hối ăn năn và tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, đoạn cha ban phép giải tội chung. Lập tức, mọi người đều nhận ra cơn bão đã lắng xuống. Thoát khỏi hiểm nguy, ai nấy đều được khuyến khích để tạ ơn Thiên Chúa. Họ cũng tỏ lòng biết ơn cha An Sanh Giang, người mà họ kể như một vị thánh. Những ngày kế tiếp bọn lính trẻ đều lần lượt đến xưng tội và nhận bí tích hoà giải.
Khi tàu cập bến Canada, cha An Sanh Giang hết đỗi vui mừng đước thấy ngoài các bạn cùng Dòng, còn có nhiều người dân tộc An Dương Kinh (Al Gonquins) ra đón. Cha rất thương hại dân tộc An Dương Kinh và Hướng Dương (Hurons) là hai dân tộc đang bị đe dọa tuyện chủng vì nạn đói và nạn dịch cũng như vì dân tộc Uông Tinh sát hại họ cách tàn nhẫn. Do đó cha lại xung phong đến với dân tộc Uông Tinh là dân tộc đã từng giam giữ cha, vì cha mong trở nên dụng cụ Chúa dùng hoán cải người Uông Tinh, hầu mang lại bình an giữa các dân tộc ít người.
Sức sống của tôi
Vào mùa xuân 1645, một biến cố xảy ra, trở nên cơ hội quan trọng cho sứ mạng cha An Sanh Giang. Đó là hai người Uông Tinh bị người An Dương Kinh bắt làm tù binh. Một trong hai người này lại là cháu của người mà cha An Sanh Giang nhận làm bà cô. Chao liền vận động để hai người này được trả tự do. Người Pháp nhân cơ hội tổ chức cuộc hoà đàm ba phía, gồm người Pháp, người An Dương Kinh và người Uông Tinh. Cuộc hoà đàm diễn ra từ tháng 6 năm 1645 đến tháng 5 năm 1646. Ba bên đều nhất trí trả tù binh và không tấn công nhau. Sau hội nghị, mỗi bên gởi phái đoàn đi thăm hai bên kia. Cha An Sanh Giang tự nguyện làm đại sứ cho người Pháp sang thăm người Uông Tinh. Chuyến đi thành công tốt đẹp, mang lại hy vọng lớn cho công cuộc truyền giáo giữa những dân tộc liên hệ.
Nhưng bóng tối hãy còn bao phủ mối tương quan giữa hai dân tộc Hướng Dương và Uông Tinh. Cùng với một số thủ lãnh của dân Hướng Dương, cha An Sanh Giang tự nguyện đi đến với dân Uông Tinh để hoà giải. Cùng đi với cha, còn có hiến sinh giáo dân người Pháp là anh Gioan Lâm Điền (Jean de la Lande) 25 tuổi.
Điều không may xảy ra là tại đó mới có cơn dịch sát hại nhiều người. Liền sau đó là nạn hạn hánh khiến mùa bắp thất thu nặng. Các thầy pháp cắt nghĩa cho thấy lý do của cả hai tai nạn đều do lá bùa cha An Sanh Giang còn để lại trong chiếc rương khi ngài chạy thoát thân nhờ sự giúp đỡ của người Hà Lan.
Cuộc họp để xét xử cha An Sanh Giang ngày 17.9.1646 chưa ngã ngũ. Các tù binh hiện bị giữ làm con tin. Cha An Sanh Giang và anh Lâm Điền được giao cho bà cô giữ. Nhưng chiều hôm ấy, cha được mời đi ăn cơm tối, trên đường ngài bị một nhát búa rìu giáng trên đầu nên chết lập tức. Được tin, anh Lâm Điền đang đêm đi tìm xác cha, cũng lãnh một nhát búa rìu kết thúc cuộc đời. Cả hai vị đều đuợc Giáo Hội mừng kính cùng với các thánh Tử Đạo Bắc Mỹ. Nơi cha An Sanh Giang trong chuyến thăm quê hương, ta thấy thấp thoáng hình ảnh chính Đức Giêsu vào thành Giêrusalem như được mô tả trong Tin Mừng hôm nay(Mt 21,1-11).
Tác giả Mátthêu cho thấy Đức Giêsu vào thành từ phía Đông, tức phía Vườn Dầu, liên quan tới lời sấm về “ngày của Chúa” trong Dacaria 14,4. Biến cố Đức Giêsu vào thành là để thể hiện Is 62,11 và Dcr 9,9. Câu “Hãy nói với thiếu nữ Sion” (Is 62,11) được ứng nghiệm nơi c.8 trong Tin Mừng hôm nay, cho thấy đám đông đón rước Đức Giêsu như con cháu vua Đavít theo Tv.118,25-26.
Cả thành đều chú ý và nhìn nhận Đức Giêsu là vị ngôn sứ từ Galilê (Mt 21,10-11).Nhưng Dcr 9,9 cho thấy Đức Giêsu vào thành cách khiêm hạ trên lưng lừa. Chính về đức khiêm nhường ta thấy cha An Sanh Giang đã nên giống Đức Giêsu.Và cha đã nên giống Người cho tới nỗi chết vì những kẻ cha rất yêu mến là các dân tộc ít người tại Bắc Mỹ.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc gì về: việc cha An Sanh Giang ước ao trước tiên là được dự thánh lễ Sinh Nhật? Việc cha quì gối xưng tội trước khi dự lễ? Việc mọi người tò mò về những ngón tay bị mất móng hoặc bị cắt cụt? Nhất là về cái chết tử đạo của cha?
2. Bạn hiểu gì về lời Đức Giêsu dạy ta là “Hãy học cùng Thầy ở khiêm nhường và hiền lành thực trong lòng” ? Lời đó có áp dụng với bạn chăng? Bằng cách nào? Lm Augustine, S.J
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài đòi hỏi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể cứu chuộc chúng ta, nếu chính chúng ta lại không muốn.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy đây là một điều kiện cần thiết Chúa luôn đặt ra cho mỗi người chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, để xuống thế làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã mong đợi hai tiếng xin vâng của Mẹ Maria trong hoạt cảnh truyền tin. Để giảng dạy cho dân chúng trên bờ biển, Ngài đã mượn tạm chiếc thuyền của một người đánh cá. Để làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, hầu nuôi sống đám đông đi theo Ngài trong hoang địa, Ngài đã đón nhận năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và hôm nay, để tiến vào thành Giêrusalem một cách long trọng, khởi đầu cho những giờ phút cuối cùng, Ngài cũng đã mượn đỡ con lừa mẹ và con lừa con của một người trong thành. Rồi chiều thứ sáu tuần thánh, để kết thúc tấm thảm kịch trên đồi Canvê, Ngài đã được chôn táng trong một ngôi mộ của người khác, rồi từ ngôi mộ đó, Ngài đã sống lại khải hoàn.
Với những trường hợp kể trên, thánh Phaolô đã kết luận: Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo hèn để con người nghèo hèn được trở nên giàu sang. La Đấng thánh thiện, Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, để con người tội lỗi được trở nên thánh thiện. Là Đấng hằng sống, Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá, để con người phải chết được sống muôn đời.
Tuy nhiên, để thực hiện những công việc của lòng nhân từ và thương xót ấy, Chúa muốn chúng ta cộng tác và góp phần với Ngài, cho dù phần góp của chúng ta thực nhỏ bé và khiêm tốn.
Vậy Chúa muốn chúng ta góp phần như thế nào để bản thân chúng ta được cứu độ và tha thứ ?
Dĩ nhiên Chúa không đòi hỏi chúng ta phải góp tiền bạc vật chất như năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ. Chúa cũng không đòi hỏi chúng ta phải góp những phương tiện sinh hoạt như chiếc thuyền của một người đánh cá, hay như ngôi một của một người nào đó.
Điều Chúa muốn chính là tâm hồn, chính là cõi lòng, chính là trái tim của chúng ta. Một tâm hồn sám hối. Một cõi lòng tan nát. Một trái tim ăn năn. Bởi vì tâm tình sám hối chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ, chính là một sự cộng tác nhỏ bé của chúng ta vào cộng cuộc cứu độ của Chúa. Bởi vì Chúa chỉ có thể cứu chuộc và tha thứ cho những ai muốn được cứu chuộc và muốn được tha thứ mà thôi.
Sở dĩ chàng trai hoang đàng đã được người cha tiếp đón một cách nồng hậu bởi vì chàng đã có can đảm chổi dậy, lên đường và trở về nhà cha. Cũng vậy, tâm tình sám hối chính là bước chân đầu tiên trên con đường tìm về cùng Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua Đavít. Mặc dù là một người khôn ngoan và thánh thiện, nhưng rồi ông đã phạm tội ngoại tình và sát nhân. Tuy nhiên, trước những lời cảnh cáo của tiên tri Nathan, ông đã ăn năn sám hối và biểu lộ sự sám hối ăn năn ấy bằng thánh vịnh năm mươi:
- Lạy Chúa, xin xót thương con vì con đã vấp phạm đến Chúa.
Nhờ đó, ông đã được Chúa tha thứ và dòng dõi ông đã được Chúa chúc phúc.
Với chúng ta cũng vậy, hãy sám hối như Phêrô, hãy ăn năn như người trộm lành để bản thân chúng ta được Chúa tha thứ và cuộc đời chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng thương xót của Ngài.
Một lần mẹ đến thăm viện dưỡng lão do mẹ xây dựng và có các chị nữ tu phục vụ chu đáo, tận tình. Thế nhưng tất cả các cụ già đều đăm đăm nhìn ra cửa với nét mặt buồn hiu. Thấy vậy, mẹ hỏi một chị nữ tu:
- Sao các cụ cứ nhìn ra cửa hoài vậy?
Chị trả lời:
- Thưa mẹ, họ cứ ngồi như thế suốt cả ngày đấy. Lúc nào họ cũng mong có một ai đó, hoặc con cái, hoặc thân nhân hay bạn hữu đến thăm…
Vâng, những người cao tuổi đang sống những năm tháng cuối đời mình tại các viện dưỡng lão là những con người cô đơn. Sự cô đơn được biểu lộ qua nét mặt buồn, qua ánh mắt nhìn xa xăm như chờ, như đợi. Chúa Giêsu cũng đã trải qua những ngày cuối cùng của cuộc đời trong cô đơn tột độ. Người muốn đến với mọi người, nhưng người ta không tiếp nhận Người. Người muốn yêu thương mọi người, nhưng người ta từ chối được yêu thương. Người kêu gọi mọi người, nhưng không nhận được lời đáp. Người kêu xin sự nâng đỡ tinh thần trong cơn thống khổ, nhưng các đồ đệ của Người vẫn ngủ yên hàn như không có gì xảy ra. Khi Người gặp nguy hiểm cần được bảo vệ thì các bạn hữu của Người chạy trốn cả. Khi Người gặp điều oan ức cần được minh oan thì những bàn tay đã từng ngửa ra đón nhận ân huệ của Người, nay lại giơ lên đả đảo và đòi giết chết Người. Đau thương là thế. Khốn khổ là thế. Một con chiên hiền lành đang rrun rẩy và co người lại trước bầy lang sói hung hãn. Điểm tựa cuối cùng của Chúa Giêsu là Thiên Chúa Cha, vậy mà ngay cả đến Cha của Người dường như cũng bỏ rơi Người. Những lời tâm sự não nề với các môn đệ, những lời cầu xin tha thiết với Chúa Cha đã biểu lộ sự cô đơn tột cùng của Chúa Giêsu.
-“Linh hồn Thầy buồn đến chết được”.
- “Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin Cha cất chén đắng này xa con”.
- “Cha ơi sao Cha nỡ bỏ con”?
Cay đắng quá! Cô đơn quá!
Nhưng vì ai mà Chúa Giêsu phải chịu cay đắng, phải cô đơn như vậy thưa quí ông bà và anh chị em?
Quí ông bà và anh chị em có nghĩ rằng thế giới hôm nay có 5 tỉ người, nhưng Chúa Giêsu vẫn còn cô đơn không? Và quí ông bà cũng như anh chị em có nghĩ rằng họ đạo của chúng ta có rất đông giáo dân, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải thốt lên những tiếng than thật thống thiết “Linh hồn Thầy buồn đến chết được”. Vâng! Ngày hôm nay và chính trong lúc này, Chúa Giêsu vẫn còn cô đơn bởi sự lãnh đạm thờ ơ, bởi sự khô khan nguội lạnh, bởi sự phản bội, bởi sự vô ơn, bởi sự lãng quên của con người nói chung và của mỗi người chúng ta nói riêng. Ta sẽ nói gì, sẽ làm gì để an ủi, để nâng đỡ Chúa Giêsu đây ?
Trong bữa tiệc mừng lễ Vượt qua giữa Chúa Giêsu và các tông đồ ngày xưa, nếu như không xảy ra câu chuyện của ông Giuđa Iscariot thì có lẽ bữa tiệc sẽ trở thành một kỷ niệm rất đẹp và đáng nhớ về tình thầy trò, về nghĩa yêu thương. Và nếu không xảy ra sự việc đáng tiếc ấy thì có lẽ trong lịch phụng vụ của Hội thánh đã có ngày lễ kính thánh Giuđa Iscariot rồi.
Nhưng ông Giuđa là ai? Ông đã làm gì đến nỗi phá vỡ những giá trị cao quí ấy? Thiết tưởng ta không thể nói về ông một cách hàm đồ do những suy nghĩ thiếu cơ sở. Ta chỉ có thể dựa vào Tin mừng để tìm hiểu đôi điều về ông mà thôi.
- Ông Giuđa là tông đồ của Chúa Giêsu:
Điều đầu tiên ta có thể nói được về ông đó là ông đã được Chúa Giêsu tuyển chọn làm tông đồ của Người. Cũng như các tông đồ khác, ông đã được Chúa Giêsu tuyển chọn một cách kỹ lưỡng qua một đêm thức trắng để cầu nguyện. Tên của ông đã được liệt vào số 12 tông đồ. Ông còn được Chúa Giêsu và các anh em tín nhiệm trao phó cho công tác thủ quỹ của cộng đoàn. Như các tông đồ khác, ông đã đi theo Chúa Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo, đã được nghe những lời giảng dạy của Người, đã được thấy những phép lạ Người làm, đã cùng ăn, cùng ở với Chúa Giêsu. Và như các tông đồ khác, chắc chắn khi được Chúa Giêsu kêu gọi, ông cũng đã từ bỏ mọi sự và mau mắn đáp lại tiếng gọi của Người.
- Ông Giuđa là kẻ phản bội:
Tuy nhiên, ông Giuđa đã không giữ mãi được danh hiệu tông đồ của mình, bởi ông đã phản bội. Ông đã trở thành một kẻ chỉ điểm cho người ta bắt thầy mình. Ông đã tự ý rời bỏ anh em, những người cùng chung một lý tưởng, một sứ mạng với ông. Nhưng vì đâu từ một tông đồ nhiệt tình, một tông đồ có khả năng, ông lại trở thành kẻ phản bội? Vì đâu một người đã từng chia vui, sẻ buồn với Chúa Giêsu trong suốt ba năm trời lại có thể bán đứng thầy mình như vậy?
Kinh thánh nói rằng:”Vì Satan nhập vào ông”. Thì ra đầu mối của sự phản bội là ở đó. Thật vậy, hành vi tội lỗi nào của con người cũng đều có sự xúi giục của satan. Việc chống lại Thiên Chúa bao giờ cũng do Satan cầm đầu, bởi Satan là kẻ thù không đội trời chung với Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói là Satan không thể tông cửa mà vào, nếu ông Giuđa đã không mở cửa lòng để đón nó. Có lẽ ông Giuđa đã không hiểu được sự khôn khéo của Satan là nó không xuất hiện dưới dạng kẻ thù của Thiên Chúa hay của ông, nhưng nó xuất hiện như một người bạn. Chính vì thế mà ông đã rơi vào cạm bẫy của nó. Và một điều khôn khéo khác của satan là nó không đẩy ông xuống vực thẳm ngay, nhưng từng bước một. Chắc hẳn từ ban đầu Satan đã không thúc đẩy ông Giuđa phản bội thầy mình. Nhưng có lẽ nó đã dập tắt lửa nhiệt tình tông đồ nơi ông và hướng cái nhìn của ông về phía các tạo vật, cụ thể là tiền bạc. Chẳng hạn khi bà Maria xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu, ông đã phản đối:”Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo?” Sau này thánh Gioan đã viết về ông rằng:”Ông Giuđa nói điều ấy không phải vì lo lắng cho người nghèo, nhưng vì ông là một tên ăn cắp. Ông giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung”. Thì ra là thế. Và một khi lòng tham đã lên tới cực điểm, khi tiền bạc đã che mờ đôi mắt thì người ta có thể làm bất cứ điều gì dù là điều tồi tệ nhất.
Một điều đáng nói khác về ông Giuđa đó là: Trong quá trình ông đi dần tới vực thẳm, Chúa Giêsu đã dùng mọi cách để nhắc nhỡ, để cảnh tỉnh, để kêu gọi lương tri và để cảm hóa ông, nhưng tất cả đều vô ích. Ông mở rộng cửa tâm hồn cho ma quỉ nhưng lại đóng chặt cánh cửa ấy trước Thiên Chúa, và vì thế, cuối cùng ông đã trở thành kẻ phản bội, trở thành kẻ thù của thầy mình.
Nhưng thật xót xa cho ông, chỉ sau khi đã phản bội, đã bán thầy mình với giá của một tên nô lệ là ba mươi đồng bạc, ông mới bừng tỉnh để thấy rõ tội lỗi tầy trời của mình. Ông đã cay đắng hét lên:”Tôi đã phạm tội vì làm đổ máu người vô tội”. Bây giờ thì ông không còn một chút ham muốn nào đối với điều mà trước đây ít phút ông đã từng khao khát. Những vẻ hấp dẫn của tội lỗi mà Satan đã tô vẽ trước mắt ông không còn nữa. Cuối cùng chỉ còn lại sự ân hận và day dứt khôn nguôi.
Dầu vậy, cánh cửa trời vẫn chưa đóng lại trước mắt ông. Ông vẫn còn có thể làm lại cuộc đời. Thầy Giêsu vẫn giang rộng đôi tay để đón lấy ông, ôm ông vào lòng và tha thứ cho ông. Chính Người đã từng nói:”Khi nào tôi được giương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Hoặc:”Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Thầy muốn rằng: Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy”. Nhưng ông Giuđa không còn nhớ gì nữa, không còn nghe thấy gì nữa, bởi đã từ lâu ông không còn thói quen nghe tiếng Thầy mình mà chỉ quen nghe tiếng nói của Satan. Ông đã tự chọn chỗ ở cho mình mà ông đi đến chỗ mà ông đã chọn. Chỗ của Satan. Chỗ của cái chết ngàn thu.
Phải chăng mỗi người chúng ta lại chẳng từng cưu mang một ông Giuđa trong tâm hồn và trong cuộc đời mình? Một ông Giuđa phản bội lại Đấng đã yêu thương mình. Một ông Giuđa đã luôn mở rộng tâm hồn để đón Satan vào. Một ông Giuđa chai đá trước những lời cảnh tỉnh của Thầy chí thánh. Một ông Giuđa coi trọng của cải vật chất hơn chính Thiên Chúa của mình. Một ông Giuđa tuyệt vọng trước một Thiên Chúa luôn mở ra những cánh cửa hy vọng cho con người. Nếu cuộc đời chúng ta như thế thì chỗ ở của ta cũng sẽ là chỗ mà ông Giuđa đã chọn.
Có một cậu bé đã mơ thấy mình được diễm phúc đứng trên đỉnh đồi Canvê vào buổi chiều ngày thứ sáu Tuần Thánh. Giữa lúc mọi người đang nhìn xem và bàn tán với nhau về ba tội nhân bị treo trên thập giá, thì cậu bé mon men đến gần, rồi ánh mắt đơn sơ của cậu bé dừng lại nơi Chúa Giêsu.
Bỗng nhiên một sự việc kỳ lạ đã xảy ra: Câu bé cảm thấy mình bị cuốn hút, bị kéo lại gần Chúa, giống như miếng sắt nhỏ trước cục nam châm.
Cậu bé xúc động một cách sâu xa bởi tình yêu được tỏa chiếu từ khuôn mặt nhân từ và dịu hiền của Chúa Giêsu. Và thế là cậu bé giật mình thức giấc.
Điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất đối với cậu bé không phải là những khổ đau, mà là tình yêu chiếu tỏa từ khuôn mặt nhân từ và dịu hiền của Ngài, giống như ánh sáng chiếu tỏa từ mặt trời chói lọi vậy.
Với chúng ta cũng thế. Điều chúng ta cần phải suy gẫm trong Tuần Thánh không phải chỉ là những khổ đau Chúa phải chịu ngoài thân xác cũng nhưtrg tâm hồn, nhưng chính là tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta những khổ đau ấy, cũng như qua mầu nhiệm cứu độ.
Thực vậy, những khổ đau ấy chính là dấu chỉ của một tình yêu tuyệt vời nhất, như lời Ngài đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Đồng thời, những đau khổ ấy còn là một lời mời gọi chúng ta hãy đáp trả lại tình yêu của Ngài bằng một cuộc sống ngập tràn thương mến đối với những người chung quanh, như lời Ngài cũng đã truyền dạy:
- Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Và sau cùng, những đau khổ ấy còn cho chúng ta thấy rõ bản chất đích thực của tình yêu, đó là tình yêu bao giờ cũng phải gắn liền với khổ đau, với hy sinh. Hay nói cách khác, đằng sau những khổ đau, đằng sau những hy sinh phải là tình yêu.
Đây cũng là điều chính Chúa Giêsu đã nhấn mạnh:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Trong thời buổi hiện nay, người ta có nhiều phương tiện để làm giảm bớt những cơn đau, hay dứt hẳn những cơn đau và người ta hy vọng rằng một ngày nào đó có thể thoát khỏi mọi khổ đau.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là một mơ ước chứ chưa phải là một sự thật, bởi vì cho đến ngay hôm nay, khổ đau vẫn còn là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Cũng như có một số việc trong đời không thể nào tránh khỏi đau khổ, bởi vì tự bản chất những công việc ấy chính là nỗi khổ đau.
Chẳng hạn như khi phải giao tiếp cởi mở với kẻ chúng ta không mấy có cảm tình, hay khi bị thất bại trong công ăn việc làm và những toan tính mà mình đã ươm mơ.
Tuy nhiên, để có thể đứng vững và chịu đựng nổi những khổ đau, cũng như làm cho những klhổ đau ấy thực sự có được một giá trị trước mặt Thiên Chúa, thì chúng ta hãy đặt tình yêu của chúng ta vào trong những khổ đau ấy, hay nói cách khác, chúng ta hãy chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa.
Bởi vì tình yêu sẽ là như một cây đũa thần, biến những khổ đau âm thầm và nhỏ bé nhất của chúng ta trờ thành một góp phần vào thập giá Đức Kitô, cũng như trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Xin trích dẫn ra đây mấy câu Kinh Thánh thuộc bài đọc 1 thánh lễ để chúng ta suy niệm: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế tôi không hổ thẹn, vì thế tôi trơ mặt ra như đá, tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50, 7) Quý vị đã bao giờ tưởng tượng “trơ mặt ra như đá” là như thế nào chưa ? Tiên tri Isaia dùng hình ảnh này để mô tả người tôi trung của Thiên Chúa trong bài ca thứ 3. Người tôi tớ trung thành sẽ là dụng cụ Thiên Chúa dùng để cứu thoát dân tộc Do thái khỏi ách nô lệ Babylon. Hiện thời dân Do thái đang sống lưu đày khắp đế quốc Assyria, làm những công việc khổ sai cho ông chủ Ba tư. Họ không còn là một dân tộc có chủ quyền, nhưng là dân bại trận, bị phát lưu để trừ hiểm hoạ nổi loạn. Số phận của họ lúc này thê thảm và bế tắc, không tương lai, bị áp bức cùng cực. Nhưng Thiên Chúa cho họ một tia hy vọng qua lời sấm của ngôn sứ Isaia: “Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng, vì có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi.”
Trong cuộc sống tôi đã từng được chứng kiến những khuôn mặt “trơ như đá” nơi các lực sĩ, quyết tâm chiến thắng trong những cuộc thi đấu. Thí dụ các lực sĩ Marathon với con đường dài hàng chục cây số, nóng bức khát nước. Lance Armstrong cương quyết với căn bệnh ung thư mới khỏi, vượt xa các đối thủ khác trong cuộc đua xe đạp leo núi vừa vất vả vừa nguy hiểm, để chiếm vô địch thế giới. Một cô bé 14 tuổi đã đanh mặt chai như đá khi nhìn độ cao chiếc ván bật mà cô sắp leo lên để nhảy xuống hồ bơi đoạt huy chương vàng thế vận hội mùa hè ở Sydney (Úc). Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh này hằng ngàn năm trước để mô tả gương mặt người môn đệ Thiên Chúa trước sứ vụ khó khăn. Chúng ta hãy đọc ngược trở lên vài câu để thấy rõ dung mạo của ông: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng người đánh thức, người đánh thức tôi để tôi lắng nghe như một người môn đệ.” Như vậy, nhiệm vụ của người môn đệ là giáo huấn dân tộc Do thái đang trong kiếp nô lệ, mòn mỏi vì những lời hứa hão huyền của các ngôn sứ giả, đến nỗi họ nghi ngờ luôn các tiên tri đích thực, mặc dầu đã “rã rời” trong kiếp sống lầm than. Đây cũng là điều các nhà giảng thuyết tân thời nên lưu tâm. Chúng ta đa phần chỉ hùng hồn trong những sáo ngữ, không có thực chất để bảo đảm. Sống nhung lụa với đầy đủ tiện nghi mà rao giảng nghèo khó thiếu thốn thì quả là nghịch lý, chẳng ai tin. Ăn uống no đủ béo tốt, phương phi mà rao giảng ăn chay hãm mình thì chỉ là lừa dối, phỉnh gạt. Cứ xem hoàn cảnh của người tôi tớ hôm nay thì quá rõ. Ông rao giảng sứ điệp của mình trong đau thương nhịn nhục: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Vậy mà vẫn bị thiên hạ từ chối, bêu diếu và tẩy chay.
Tuy nhiên, người môn đệ không nhụt chí trong nhiệm vụ Thiên Chúa trao. Ông đặt trông cậy vào Ngài và tin tưởng Ngài sẽ báo oán cho những khổ nhục phải chịu. Mặc dù bị loại trừ một cách dã man, ông vẫn dựa vào Thiên Chúa để có sức mạnh lướt qua thử thách hằng ngày. Bài thơ đầy lời lẽ nhiệm mầu. Ai đã hành hạ người tôi tớ, kẻ thù của ông hay bạn hữu ? Tại sao người ta lại hành xích ông ? Đưa lưng cho người ta đánh đòn thời xưa có nghĩa các học trò chịu phạt để sửa chữa lồi lầm. Giơ má cho người ta giật râu ám chỉ kẻ vô lại bị đám đông làm nhục. Các nhà chú giải dầy công tìm câu trả lời, nhưng chưa thành công. Có lẽ vị tiên tri nghĩ đến số phận Giêrêmia bởi đồng bào mình. Sau này người ta áp dụng vào trường hợp Chúa Giê-su. Nhưng đó là điều ứng nghiệm khi thời gian viên mãn, còn lúc này thì chưa biết vị tiên tri muốn ám chỉ về nhân vật nào ? Hay đó chỉ là chương trình của Thiên Chúa, ý muốn của Ngài ? Người công chính chịu đau khổ để đền tội cho toàn dân. Đau khổ của ông có giá trị hy sinh tẩy trừ tội lỗi mà con người xúc phạm đến Đấng Tối Cao. Chúng ta chưa thể xác định dứt khoát.
Người tôi tớ đã đứng vững trong các cơn thử thách, Thiên Chúa đưa ông vào, bằng một ơn kêu gọi đặc biệt, bằng ánh sáng soi dẫn ông hằng ngày. Để ông rộng lòng chấp nhận chương trình của Ngài. Để ông không chạy trốn gian nguy. Để ông chai mặt ra như đá khi chịu đánh đòn, giật râu. Trong thời buổi chúng ta, chính tôi cũng đã từng chứng kiến những “tôi trung” của Chúa như vậy. Tôi đã xem thấy giám mục Oscar Romeo chai mặt ra như đá khi tố cáo bất công xã hội và tiếp tục rao giảng ngay cả khi nhận được cả trăm lời đe doạ ám sát. Giám mục đã hy sinh mạng sống mình cho dân tộc, ngõ hầu tháo gỡ ách nô lệ thảm thương người ta áp đặt lên đầu lên cổ nông dân, công nhân ở chính quê hương mình. Xin nhớ gương mặt của Nelson Mandela đanh thép khi ông bước ra khỏi nhà tù, sau nhiều năm bị giam giữ khổ sai, vì chống lại kỳ thị màu da, ngôn ngữ, văn hoá. Lúc ấy trông ông khắc khổ vì chịu đựng áp bức lâu ngày nhưng vẫn cứng rắn vui tươi. Ông vui không phải vì sẽ trả thù những kẻ hành hạ mình, nhưng vì công lý được làm sáng tỏ, bất công bị đẩy lui và sai trái được sửa chữa. Quí vị đã trông thấy những tấm ảnh chụp Dorothy Day khi bà ngồi trên chiếc ghế nhỏ, phản đối tình trạng nghèo đói ở xóm ổ chuột nào đó ? Một người đàn bà mảnh khảnh giữa hai viên cảnh sát phì nộm, coi rất đỗi tương phản. Bà ngồi đó mặc cho kẻ qua người lại chế diễu, cười nhạo, quai hàm bạnh ra cương quyết và kiên định: “Tôi chai mặt trơ như đá, biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Chưa hết, biết bao người cha, người mẹ, anh chị kiên nhẫn ngồi bên giường bệnh nhân đang hấp hối hay các thân nhân chịu bệnh lâu ngày. Họ không tiếc công sức cầu nguyện, nâng đỡ những thân hình ốm yếu mà không lời thở than. Họ cam đảm chịu đựng chung số phận của thân nhân, nêu gương sáng đức tin cho những người xung quanh. Họ cũng chai mặt trơ như đá với tình thế khó khăn.
Nhưng “chai mặt trơ như đá” không có nghĩa nghiến răng nghiến lợi chịu đựng cho qua những buổi nhọc nhằn, không có nghĩa thụ động mặc cho hoàn cảnh qua đi, cũng chẳng có nghĩa lên gân cốt chống lại tình huống quái đản. Chúng ta sẽ được mục kích gương mặt chai như đá của Chúa Giê-su trong tuần này, khi Ngài đối diện với quyền bính đền thờ và cái chết thê thảm trên thánh giá. Qua bài đọc thương khó, chúng ta sẽ suy gẫm cái giá mà Ngài phải trả cho những hành động và ngôn từ chống lại sự dữ. Giống như người môn đệ của Isaia, Chúa Giê-su cũng chai mặt trơ như đá để biểu lộ ý chí đanh thép của mình. Từ hôm nay trở đi, Chúa luôn giữ thái độ này trước nguy hiểm đe doạ tính mạng. Thí dụ thánh Mát-thêu viết: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ được biết: Ngài phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra.”(Mt 16, 21) Phúc âm hôm nay cũng trong dòng tư tưởng đó: Chúa vào thành thánh Giêrusalem và nhất quyết thi hành ý muốn của Chúa Cha.
Nếu người tôi tớ trung thành giơ mặt trơ như đá để nói với dân tộc lưu đày, thì Chúa Giê-su cũng có thái độ tương tự với đồng bào Ngài đang trong cuộc làm tôi lầm lạc tội lỗi. Ngài dạy dỗ họ bằng ngôn ngữ “lựa lời nâng đỡ những ai rã rời kiệt sức”. Nhưng họ chẳng hề lắng tai nghe, trừ một nhóm rất nhỏ. Họ ưu thích bị giam cầm trong tư tưởng của mình về Thiên Chúa, về sự công chính vụ lề luật, về tội phúc truyền thống. Họ bị mắc bẫy satan trong sự công chính chủ quan, nói theo kiểu khác, mù tự ý về những chân lý siêu nhiên. Đây là sự mù loà mà các nhà thần học gọi là không khắc phục được (invincible), vĩnh viễn như vậy nếu không có ơn đặc biệt từ Thiên Chúa. Trường hợp của thánh Phaolô chẳng hạn. Chuyện này xảy ra nhiều lắm trong thời đại chúng ta. Nó gây nên rất nhiều cuộc chiến tranh tôn giáo, đàn áp tín ngưỡng, bất công đối xử. Phe nào cũng tự nhận sự thật về mình, rằng mình có lý. Nhiên hậu loại trừ, tẩy chay thiên hạ. Phần Chúa Giê-su, mặc dù gặp nhiều chống đối và hận thù, Ngài vẫn kiên định trong đường lối của mình, bởi nó là chân lý. Nhiệm vụ của Ngài là nói lời Thiên Chúa cho những kẻ rã rời kiệt sức vì u mê lầm lạc.
Khi chúng ta chứng kiến những biến cố trong cuộc đời Chúa Giê-su tuần này, chúng ta sẽ mang ra ánh sáng sự yếu hèn của mình, tức các bộ mặt không cương quyết, không dám dấn thân cho lẽ phải, ưa thích thoả hiệp để được quyền cao chức trọng, được cảm tình của những người xung quanh. Chúng ta không dám hành động chống lại sự dữ, giữ vững Đức tin trong những hoàn cảnh khó khăn, nguội lạnh khi nghe theo tiếng gọi của Phúc âm, chỉ lựa chọn những lời Chúa am hợp với lợi ích của mình, loại bỏ các lời khác, thậm chí chế diễu và coi như không tưởng những đòi hỏi của Chúa Giê-su. Chúng ta đâu dám thực sự vác thánh giá mình nhân danh Chúa, nói gì đến thánh giá kẻ khác, cố tình tránh né việc từ thiện bác ái, làm ngơ trước những đau khổ của tha nhân.
Tóm lại, chúng ta theo Chúa ở dáng điệu bên ngoài, còn thực chất thì cố gắng tìm thoả mãn các dục vọng của mình. Nhưng cuộc thương khó của Chúa trong tuần này dạy chúng ta nội dung trái ngược hẳn. Chúng ta cảm thấy được nhẹ nhõm vì Chúa Giê-su đã chai mặt trơ như đá thực hiện những điều cần thiết để cứu chuộc nhân loại. Đây là cơ hội để chúng ta suy nghĩ lại, nhận ra sự thật của ơn gọi Ki-tô hữu, những đòi hỏi của nó và cương quyết thi hành. Chúng ta chai mặt trơ như đá trước những cám dỗ của thế gian, xác thịt và satan. Như vậy mới xứng đáng được nghe Tin mừng Chúa sống lại, Tin Mừng tràn ngập lòng người với hy vọng và hỷ hoan. Trong đêm vọng phục sinh, xin hãy thành thực nhắc lại lời thề hứa của bí tích Thánh tẩy, từ bỏ tội lỗi, tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ki-tô.
Điều gì đã nâng đỡ và luôn đổi mới người tôi trung của tiên tri Isaia ? Xin thưa, đó là sự mở rộng lòng đón nhận lời Thiên Chúa và kinh nghiệm rằng “mỗi sáng Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi”. Sự dấn thân mạnh mẽ của ông với công việc Chúa trao, đến từ cảm tính bên trong mà hằng ngày lời Chúa thúc giục: “Sáng sáng người đánh thức tôi, để tôi lắng nghe như một người môn đệ.” Ông khám phá ra cho mình và công bố cho kẻ khác rằng Thiên Chúa luôn sẵn sàng thông truyền ý muốn của Ngài cho nhân loại, đồng thời tha thứ những lỗi lầm của họ. Đúng thật Ngài là Thiên Chúa yêu thương, muốn cứu vớt hơn là trừng phạt. Thiên Chúa ấy chúng ta gặp nơi Đức Giê-su trong sứ vụ của Ngài. Chúng ta được khích lệ sống vẹn toàn bổn phận phục vụ tha nhân, ngay cả khi lòng nhiệt thành thuở ban đầu đã phai nhạt. Gương sáng của Chúa vẫn thúc đẩy mọi người tiếp tục làm việc bác ái. Chúng ta chẳng bao giờ có lý do tháo lui, kể cả các ngăn trở do cơ cấu Giáo hội gây nên. Chúng ta sẵn sàng đối đầu với thử thách trong các hoàn cảnh mới, mặc dù đã gặp chúng rất nhiều lần trong các tình huống khác.
Tuần lễ này, sự thương khó của Đức Giê-su lại cho chúng ta miệng lưỡi mới để lựa lời nâng đỡ những ai rã rời kiệt sức vì những bất hoà gia đình, nghèo đói, vô gia cư, thất nghiệp, lương thấp, bạo lực, chiến tranh, sợ hãi, bệnh tật lâu ngày, … Ngài lại cho chúng ta nghị lực nói thay cho những tiếng nói không ai thèm nghe, những kẻ thấp cổ bé miệng, những người vô danh tiểu tốt bị bỏ quên bên lề xã hội. Chúa vào thành thánh tuần này. Người ta hồ hởi đón chào Ngài để được thấy vinh quang Ngài tỏ hiện. Chắc chắn họ sẽ thất vọng bởi vì Ngài xuất hiện trong đường lối họ không thể nhận ra: Khiêm nhu ngồi trên lưng lừa con, vâng lời thi hành thánh ý Đức Chúa Cha. Tuy nhiên, tín hữu sẽ được chiêm ngưỡng vinh quang Ngài rực sáng hơn mặt trời. Ngài đã chọn lựa con đường nhân loại, gánh lấy tội lỗi chúng ta, bước đi trong đau khổ như chúng ta. Nếu linh hồn mình cũng ăn vận sự trong sáng của ơn thánh thì chúng ta có lý do để vui mừng, trà trộn với đám đông tại cửa thành Giêrusalem tay cầm ngành lá, sắp thành đám rước reo hò vang dậy “hoan hô con vua David, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến.”
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng ca tụng Đức Giê-su ở cương vị đó: “Ngài đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” Đối với thánh nhân, lòng khiêm nhường của Chúa không có tính nhất thời, thứ yếu. Nó là nhân đức căn bản khiến Ngài thi hành thánh ý Chúa Cha. Ngài thực sự nhận lấy số phận nhân loại, không từ chối hoàn cảnh nào, ngoại trừ tội lỗi. Ngài không hề đòi hỏi đặc ân chức vị Ngôi Hai, nhưng đã chịu đựng mọi thiếu thốn của kiếp sống con người, tủi nhục, đau khổ và cái chết. Ngài đã chu toàn sứ vụ người tôi tớ đau khổ của Giavê cho đến nghĩa đen, tức là tận cùng số kiếp nô lệ: Chịu đóng đinh nhục nhã trên thập tự. Chỉ có lòng khiêm nhường cực điểm như thế dẫn Ngài đến vâng lời cho đến chết. Chúng ta không có sự khiêm nhu chân thật thì làm sao vâng lời Thiên Chúa ? Chúng ta sống giả hình, là lẽ đương nhiên, bởi thiếu nền tảng. Cho nên việc noi gương Chúa như thánh Phaolô kêu gọi đặt căn bản trên sự bắt chước Chúa về lòng khiêm nhường. Nhờ đó, chúng ta có thể trút bỏ mọi sự như danh vọng, địa vị, của cải, chức quyền, lợi lộc và cả đến cả mạng sống mình. Ngõ hầu trước mặt Thiên Chúa chúng ta chỉ là những kẻ ăn mày, bởi lẽ, ơn cứu độ không thể đạt tới bằng chiếm đoạt hay công nghiệp. Nhưng bằng đức tin tinh tuyền vào Chúa Ki-tô.
Ở buổi Phụng vụ hôm nay, chúng ta liên kết chặt chẽ với Ngài trong đau khổ, nhọc nhằn và hy sinh. Ngài tự nguyện đi vào khổ nạn để chết thay cho các tội nhân. Điều này có ý nghĩa, đau khổ của những kẻ vô tội, như những nạn nhân của sóng thần vừa qua tại Đông Nam Á, những trẻ con vô tội bị giết hại do phá thai, nạo thai, các cuộc chiến tranh không gây hấn, các nạn nhân của khủng bố đều là đất thánh. Chúng ta còn khám phá ra các thánh địa khác nữa khi dấn thân vào những đau đớn của tha nhân. Nhờ ánh sáng cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su chúng ta nhận ra rằng những thánh địa đó có sức chữa lành linh hồn mình, linh hồn các tín hữu và toàn thể nhân loại. Amen.
Một chiếc máy bay dân sự bay vào một vùng không khí loãng. Và để trấn an hành khách, các tiếp viên phi hành mang rượu và nước giải khát ra. Một hành khách nói: “Cho tôi một ly ‘Ông Già Đi Bộ’”. Nguời khác muốn một chai Vodka. Đến trước một bà tuổi đã khá cao, người tiếp viên hỏi: “Bà cụ có thích dùng gì không ạ?” “Tôi chỉ uống nước gì mà phi công trưởng đang uống,” bà cụ điềm nhiên trả lời. Đã bước vào Tuần Thánh. Tuần lễ quan trọng nhất trong niên lịch phụng vụ. Và chúng ta đuợc mời gọi, cùng dân thành Giêrusalem, vang ca ‘Hosanna ’- vạn tuế tung hô con Vua Đavít. Và lê chân đến đồi máu Golgotha để nghe tiếng Người thở dài trăn trối:”Eli, Eli, lama sabachthani? Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con?”
Nhân tính và thiên tính quyện lẫn vào những giây phút sau cuối đời Người. Đau đớn quá, nhục nhã quá, Chúa Cha ơi! Thịt xác con đã nát tan mà sao Cha có thể nỡ tâm ngoảnh mặt làm ngơ? Sao có thể để con Cha trần truồng phơi thân trên thập giá?
Nhưng hãy đừng theo ý con mà chỉ xin một lòng theo ý Cha thôi. Ngay trước khi trút hơi thở cuối, Chúa Giêsu vẫn muốn mỗi từng chúng ta đừng mù quáng đắm chìm theo những suy tính tư riêng mình. Hosanna -vinh quang đầu ngày là Eli, Eli, lama sabachthani -tủi nhục cô đơn khi hoàng hôn buông xuống.
Hãy gắng mỗi ngày nhìn vào thập giá Chúa và trút mọi nỗi ưu phiền đời sống. Nhưng hãy mạnh dạn, vì danh Chúa, mà can đảm nhìn xa hơn và trông rộng hơn. Hãy, như cổ nhân dạy bảo, “đừng tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng”.
Con vua Đavít không đòi buộc chúng ta phải uống chén đắng và vác thập giá như Nguời, vì chén của Người rất đắng cay và thập giá Người chĩu nặng tội lỗi của toàn nhân loại. Người chỉ muốn mỗi chúng ta uống cạn chén đắng và gắng vác thập giá đời mình.
Thế là chúng ta đã đi tới đọan cuối của Mùa Chay trong năm Thánh Thể này, đồng thời chúng ta cũng đã theo Chúa Giêsu trong hành trình loan báo ơn cứu độ đến hồi kết thúc. Giờ đây là lúc Chúa Giêsu đối mặt với kẻ thù, là những người muốn treo Ngài lên Thập Giá. Chặng cuối cùng này được mở đầu bằng cuộc rước khải hòan vào thành Giêrusalem vô cùng long trọng, người người lớp lớp trải áo, phất cờ bằng cành lá đón tiếp Ngài. Để rồi sau đó chính họ lại muốn giết Ngài. Nên có thể nói cuộc khải hòan vào thành là ngòi khai mở cho cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Chúng ta nên biết rằng phần thương khó là cái phôi đàu tiên của Tin Mừng, là phần quan trọng và phong phú nhất, vì các Tin Mừng kể hầu như giống nhau, còn kinh nghiệm Phục Sinh sau đó mới xuất hiện. Và bài thương khó theo thánh Matthêu là trình thuật mang tính cách phụng vụ, nên có hệ thống, rõ ràng và hầu như tác gỉa muốn nhấn mạnh đến việc hòan thành Kinh Thánh của Chúa Giêsu, Ngài chủ động trong việc trao nộp để thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa Cha.
1. Kẻ thù đại diện có tên Giuda:Mở đầu cuộc thương khó là sự phản bội của Giuđa. Giuđa là một trong mười hai các tông đồ, được Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng vì tiền mà ông nộp Đức Giêsu, tiền là động oơ, là ý đồ của Satan muốn cản Đức Giêsu đi theo con đường của người tôi tớ, con đường mà Thiên Chúa Cha muốn.
Đức Hồng Y Martini cho Giuda là con người vừa đê tiện, vừa ước mơ cao xa, và là con người đầy mâu thuẫn. Đê tiện: vì ở trong một tình thế bi thảm chia ly như thế mà còn nghĩ đến tiền bạc ! Chỉ có con người đê tiện mới hành động như vậy “Quí vị muốn cho tôi bao nhiêu, tôi đây sẽ nộp ông ấy chó quí vị”(Mt.26,15)
Ước mơ cao xa: Ông muốn cái chết của mình trở thành một thảm kịch cho mọi người nên mới ném tiền bán Chúa trở lại đền thờ để thanh minh cho hành động của mình “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan”(Mt.27,4)
Mâu thuẫn: Giuda là một con người có lý tưởng hơn các tông đồ khác, rất hăng say, nhiệt thành, thực sự dấn thân và có tài qủan lý, chính vì thế mà Chúa chọn ông giữ chức vụ này. Nhưng Giuda theo Chúa vì ông chứ không vì Chúa, vì niềm hi vọng của dân tộc. Ông muốn Chúa Giêsu thực hiện theo kế họach của ông, nên đưa Chúa Giêsu tới một quyết định: Nếu Ngài là Đấng Thiên Sai “ Zổm” thì Ngài sẽ bị diệt, bỏ đi một mớ lý thuyết mị dân. Nếu Ngài là Đấng Thiên Sai quyền năng, Ngài sẽ giải thóat dân tộc. Cho nên ông cảm thấy mình cần phải hi sinh để giải cứu dân tộc, đây là cái cớ để nộp Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu hành xử với Giuda:
Trong khi đó Chúa Giêsu cư xử với Giuda như một người bạn “chiều đến Chúa Giêsu vào bàn tiệc với 12 môn đệ” (Mt,26,20), xử với Giuda như một con người trưởng thành, tôn trọng sự tự do của ông, tôn trọng sự chọn lựa của ông “ điều mà con muốn làm thì làm lẹ đi”(Jn.13,27), xem ra như Chúa Giêsu cho phép Giuda hành động, cứ làm điều gì mà con cảm thấy đúng, hãy đi cho đến cùng cái lối nhìn của con về Thiên Chúa. Chúa Giêsu trả lời cho cái hôn của Giuda “ này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi”(MT.26,50) Qủa là Chúa Giêsu biết ý đồ của Giuda và biết đó là nơi mà Ngài sẽ phải đến, nếu không Ngài đã lẩn tránh cái hôn ấy.
3. Con đường tự hiến của Chúa Giêsu:
Matthêu cho thấy Chúa Giêsu lựa chọn con đường khổ nhục với sự hiểu biết và tự do hòan tòan, bởi vì nơi đó Ngài nhận ra lối đi mà chương trình Thiên Chúa Cha đã vạch sẵn, nên chấp nhận cái hôn, khước từ việc dùng vũ lực chống lại vũ lực “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm”(Mt.26,52) và Ngài từ chối cả việc cậy nhờ sự can thiệp quyền năng của Thiên Chúa Cha “hay anh tưởng Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao?…”(Mt.26,53).
Đã đến giờ mà những gì được ghi trong Kinh Thánh phải được hòan tất “nhưng tòan bộ việc này xẩy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong sách các Ngôn Sứ(Mt.26,56). Ngài hòan tòan ý thức trong lời nói và trong hành động. Ngài nhấn mạnh đến sự nối kết chặt chẽ giữa những gì sắp xẩy ra và ý định của Thiên Chúa được mạc khải trong Thánh kinh. Còn các tông đồ không hiểu được mối liên kết ấy nên họ sửng sốt và bối rối nên đã hành động không thích ứng, xử dụng đến gươm, rồi rút lui bằng cách trốn chạy hoặc chối bỏ Ngài.
Mầu nhiệm khổ nạn phải hòan tất, phải kết thúc trong sự sống lại, để cuối cùng ánh sáng bao phủ ngập tràn lấy họ, và chỉ khi nào biến cố hòan tất thì chúng ta mới nhận ra mối liên kết của nó với Thánh Kinh, từ đó niềm tin mới được tài bồi và nuôi dưỡng.
4. Sứ điệp Tin Mừng:
Cái chết của Chúa Giêsu là hòan tòan có ý nghĩa cho chúng ta: Vừa hòan tất lời Kinh Thánh, vừa cho ta thấy rõ Ngài là ai, và Ngài đã làm gì.
Với cái chết của Chúa Giêsu như Ngài muốn nói: Thiên Chúa không còn gì để ban cho con người nữa. Người đã nên nghèo khó đến tột cùng để ta được giầu có nhờ lượng ân sủng của Người.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu dạy cho người tín hữu: Nguồn hạnh phúc Nước Trời không có nghĩa là trốn chạy đau khổ, bất động chờ đợi Thiên Chúa can thiệp.
Nhưng hãy ý thức: Phải qua đau khổ nếu muốn tới vinh quang.
Lạy Chúa, Chúa đến trong sự khiêm tốn và bình an, xin cho chúng con biết học gương khiêm hạ và nhân ái của Chúa, biết tham dự vào con đường khổ nạn của Chúa, để chúng con biết chấp nhận những khổ đau của cuộc sống trong tinh thần vâng theo ý Chúa.
Chúng ta đang sống trong những ngày trọng đại nhất của niên lịch phụng vụ. Cùng với Giáo hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh- kỷ niệm ngày Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành thánh Giêrusalem, chịu Khổ nạn, chịu chết và sống lại. Chúng ta đồng hành với Chúa Giêsu trên đường thập giá để cảm nghiệm mầu nhiệm Tình yêu tự hiến mà Chúa Cha đã ân ban cho nhân loại.
Từ bàn Tiệc ly- Bí tích Tình yêu…
Chúa Giêsu- hơn ai hết, hiểu rằng vâng theo thánh ý Cha là chấp nhận hy sinh, chấp nhận sự chà đạp, khinh bỉ, nhục mạ và đánh đập đến “thân tàn ma dại” do con người - vốn dĩ được Người hết mực yêu thương- gây ra. Người còn biết rằng trong số những môn đệ bước theo Người, đại bộ phận cũng chỉ là những con người hết sức tầm thường, nếu không muốn nói là những người rồi đây sẽ trở thành những kẻ nhút nhát, run sợ khi chứng kiến sự bách hại đến với Thầy và, tệ hơn, còn là những kẻ lừa Thầy phản bạn như trường hợp của Giuđa Ítcariốt. Tuy thế, Chúa Giêsu vẫn hết mực yêu thương và lo lắng cho họ. Chính vì thế, trước khi bước vào con đường Khổ nạn, chính Người đã trao lại cho các ông Bí tích Tình yêu, thiết lập giao ước mới hầu đảm bảo việc Người sẽ hiện diện mãi mãi giữa lòng nhân loại.
Vâng, những lầm lỗi do nhút nhát hay vì phản bội của các môn đệ không ngăn nổi trái tim chan chứa Tình yêu của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể thấy việc Người cúi xuống rửa chân cho từng môn đệ, rồi ánh mắt diệu hiền trả lời câu hỏi của Giuđa Ítcariốt, đến lời tiên báo nhẹ nhàng cho Phêrô,… tất cả đều phát xuất từ trái tim thấm đượm tình yêu. Đó chính là những dấu ấn khó phai trong tâm trí các môn đệ. Đây cũng chính là điều khiến các ông không ngừng làm chứng và loan báo cho muôn dân về dấu ấn Tình yêu vĩ đại ấy.
Đến đồi Gôngôtha- Hiến tế Tình yêu
Chúng ta biết, Khổ nạn và Phục sinh đều được các thánh sử ghi lại nhưng trong từng chi tiết, mỗi thánh sử có một cái nhìn tương đối khác biệt. Sở dĩ như vậy là vì các tác giả thánh muốn làm nổi bật một ý nghĩa riêng mà mình muốn trình bày. Nếu như Máccô diễn tả cuộc Thương khó của Chúa Giêsu cách trần trụi, nghĩa là có sao nói vậy; Luca trình bày cuộc Thương khó như một bài suy niệm; còn Gioan thì trình bày Đấng chịu nạn như vị Vua oai nghiêm tiến đến ngai vàng thì thánh sử Mátthêu lại giới thiệu Chúa Giêsu là người Công chính, bị bách hại để ứng nghiệm lời Kinh thánh.
Rõ ràng thánh sử Mátthêu nhìn cuộc Thương khó của Chúa Giêsu dưới cái nhìn tiên báo của kinh thánh Cựu ước nhằm nhắn gửi cho độc giả Kytô giáo gốc Dothái thông điệp: Chúa Giêsu chính là Đấng Mêsia mà họ đang mong chờ. Với cách nhìn này, Chúa Giêsu bước vào cuộc Thương khó với nhiều hình ảnh khá sống động. Sự phản bội của Giuđa khi bán đứng Thầy mình với giá 30 đồng: Chúa Giêsu bị người đời ruồng bỏ, bị xem như người nô lệ (x. 26,15); Trong vườn Ghếtsêmani, khi bị bắt, các môn đệ chạy trốn: Chúa Giêsu như người mục tử bị đánh đập khiến cho đàn chiên môn đệ tan tác như Ngôn sứ Dacaria loan báo (x. 26, 56b; Dcr 13,7); Khi đứng trước Thượng hội đồng Dothái, Chúa Giêsu minh chứng chính Người là Con Người - nhân vật mà Ngôn sứ Đanien đã loan báo thưở xưa (x. 26, 64; Đn 7,13); Trên đồi Gôngôtha, khi chịu treo trên thập giá, Chúa Giêsu như Người Tôi trung, như Chiên Vượt qua chịu sát tế - làm của lễ Hiến tế tình yêu dâng lên Cha hầu nhân loại được cứu độ.
Chúng ta thấy gì khi chiêm ngắm hiến tế Tình yêu mà Chúa Giêsu đã dâng hiến trên đồi Gôngôtha xưa? Thánh Tôma Aquinô đã khẳng quyết rằng: “Không có gương nhân đức nào mà không có nơi Thập giá Chúa Giêsu”. Theo đó, nếu chúng ta tìm gương bác ái ư? Hãy nhìn vào Thập giá- nơi treo Đấng hy sinh vì bạn hữu. Đi tìm gương nhẫn nhục ư? Hãy nhìn vào Thập giá- nơi được sánh ví như Chiên con bị xén lông, bị đem đi xẻ thịt mà không một lời kêu ca. Hay chúng ta đi tìm gương khiêm nhường? Hãy nhìn vào Thập giá- nơi treo Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ, vâng lời cho đến chết. Một tấm gương khinh chê của cải ư? Hãy nhìn vào Thập giá - nơi treo Đấng trần truồng, bị nhục mạ chế giễu, khinh khi…
Như thế đã rõ, khi chiêm ngắm đường Thương khó Chúa, người kytô hữu lại được đồng hành và chia sẻ những đớn đau mà Chúa phải trải qua; đây còn là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu, lòng bao dung và sự tha thứ Chúa dành cho nhân loại. Chiêm ngắm cuộc Khổ nạn của Chúa, chúng ta được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh trong vâng phục và yêu thương, đồng thời không ngừng rao giảng và làm chứng cho thế giới này biết thế nào là tình yêu tự hiến, là tặng phẩm Thần linh mà Thiên Chúa ưu ái dành cho nhân loại.
Hôm nay, Chúa Nhật lễ Lá, khởi đầu cho tuần Thánh, tuần lễ quan trọng nhất trong cả năm Phụng vụ của Kitô giáo, tôi muốn được cùng quý OBACE suy niệm về con đường thập giá.
1. Con đường thập giá của Đức Kitô:Khi nói đến con đường thập giá, trong trí chúng ta thường xuất hiện khuôn mặt của những tên lý hình lạnh lùng, hung dữ, vói những đòn roi, và những vết đinh. Tuy nhiên, không chỉ là những nỗi đau trên thân xác, tâm hồn Đức Giêsu còn phải gánh chịu một nỗi đau khác, đau đớn hơn, chua chát hơn, đủ làm nên những giọt máu đổ ra trộn lẫn với mô hôi của Ngài.
Trước hết là nỗi đau khi bị người thân yêu nhất phản bội. Chúng ta biết trong ba năm trời rao giảng, Đức Giêsu đã qui tụ quanh mình được một nhóm nhỏ 12 người. Nhóm người này có thể nói được là những người thân tín nhất của Đức Giêsu. Ngài đã dành nhiều thời gian để gặp gỡ riêng tư, để giải thích, hướng dẫn và dạy dỗ các ông nhiều điều. Và trong nhóm đó, có hai môn đệ Ngài tin tưởng nhất: một là Phêrô, hai là Giuđa. Với Phêrô, Đức Giêsu đã tin tưởng ông, nên đặt ông làm thủ lãnh của các tông đồ; còn với Giuđa, Đức Giêsu đã tin tưởng đến nỗi đã giao cho ông cả “khúc ruột” của Ngài, khi trao cho ông nhiệm vụ quản lý.
Thế nhưng, sự thể thật trớ trêu. Khi được giao giữ túi tiền, Giuđã liền đem cả Thầy mình mà bán đi với cái giá thật rẻ mạt chỉ với giá “ba mươi đồng bạc”. Còn Phêrô cũng chả hơn gì, là thủ lãnh của cả nhóm, vậy mà khi Thầy mình bị bắt, chỉ trong một đêm, “trước khi gà gáy”, ông đã lớn tiếng thề thốt, và chối chẳng có quan hệ, cũng chẳng phải là đồng hương với Thầy mình. Cho dù, người đối diện với ông chỉ là một người đầy tớ gái, chẳng có chút thế giá nào trong xã hội lúc bấy giờ. Đức Giêsu đã bị chính những “đệ tử ruột” của mình phản bội.
Kế đó là nỗi đau khổ bởi cô đơn. Sau bữa tiệc, nhìn thấy trước gánh nặng của con đường thập giá, Đức Giêsu nói với các tông đồ: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được, các con hãy ở lại đây và thức với Thầy”. Thế nhưng, có lẽ vì mỏi mệt, vì những chén rượu các ông vừa uống trong bữa ăn, và có lẽ cũng vì các ông không thể hiểu và thông cảm với những nỗi đau khổ đang dằn vặt trong tâm hồn của Đức Giêsu, nên các ông ngủ cả, không một ai thức cùng Đức Giêsu. Đức Giêsu đang phải trải qua một nỗi đau khổ, cô đơn không biết chia sẻ với ai, còn Chúa Cha thì lại im lặng.
Đúng là một nỗi dằn vặt, cô đơn đến cùng cực.
Dưới gánh nặng cùng cực đó của con đường thập giá, đã có lúc Đức Giêsu kêu lên với Chúa Cha “Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này!”. Nhưng rồi trong tình yêu và niềm tin, Ngài liền thưa tiếp với Chúa Cha “Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn”. Và không chỉ là một lần, sau lần cầu nguyện thứ hai, Đức Giêsu lại kêu lên: “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha”. Và không chỉ có thế, ngay cả khi đã bị đóng đinh trên thập giá, thì những tên cướp bị đóng đinh với Đức Giêsu, tức là những kẻ mạt hạng cuối cùng trong xã hội cũng lớn tiếng nhục mạ Ngài. Thật, chẳng còn nỗi đau khổ nào, hay sự oan ức, sự sỉ nhục nào mà Đức Giêsu đã không phải gánh chịu đúng như lời ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi”. Đức Giêsu quả thật đã “huỷ bỏ chính mình,… đã tự hạ mình, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”.
Thế nhưng, cho dù con đường thập giá có khủng khiếp và nặng nề đến đâu đi chăng nữa, thì với lòng tin tưởng và nhất là nhờ sức mạnh tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và đối với toàn thể nhân loại, cuối cùng, Đức Giêsu cũng đã đi trọn con đường thập giá cho đến tận đỉnh đồi Canvê. Chính vì thế “Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Như thế, thập giá trên đỉnh đồi Canvê trước đây là một biểu tượng của ô nhục, biểu tượng của tội lỗi, thì giờ đây, nhờ Đức Giêsu, đã trở nên cây Thánh Giá, biểu tượng cho sức mạnh và lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ Thánh giá, chúng ta được giao hoà với Thiên Chúa. Tin mừng thuật lại khi Đức Giêsu trút hơi thở, thì “màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới”. Màn đền thờ đã xé ra, giao ước cũ chấm dứt, để bắt đầu một giao ước mới, giao ước được ký kết không phải bởi máu chiên bò, nhưng bằng chính Máu của Đức Giêsu, Máu của chính Con Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đi trọn con đường thập giá, và đã phục sinh vinh hiển để đem lại ơn cứu độ cho mỗi người chúng ta. Do đó, để nhận được ơn cứu độ của Ngài, mỗi người chúng ta chắc chắn cũng phải đi trọn con đường thập giá của mình.
2. Con đường thập giá của chúng ta:
Bước đi theo Đức Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Đức Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta như: anh chị em, con cái, hoặc đến từ những người bạn từ thuở còn thơ.
Mặt khác, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy, nền luân lý của thế giới hôm nay đang bị rối loạn. Tôi nói là “rối loạn”, bởi lẽ người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật, với những tên gọi thật đẹp như “kế hoạch hoá gia đình”, “chết êm dịu”. Chẳng lẽ, mạng sống của những người này lại “rẻ”, hơn mạng sống của những người kia!!! Do đó, một khi dám đi ngược lại những trào lưu thực dụng của xã hội hôm nay, để đấu tranh dành quyền cho sự sống, cho công bình, lẽ phải, là lúc chúng ta đang đi con đường thập giá của Đức Giêsu.
Khôn ngoan trần thế còn dạy chúng ta “phụ người hơn để người phụ mình”. Còn đường thập giá của Đức Giêsu thì lại mời gọi chúng ta yêu thương, cầu nguyện và tha thứ cho kẻ thù, kẻ làm hại chúng ta thà “người phụ mình, hơn là mình phụ người”. Con đường thập giá mà chúng ta phải đi mỗi ngày, còn là cuộc đấu tranh để có những quyết định chẳng phải là dễ dàng, trong từng biến cố lớn nhỏ của cuộc sống khi phải đối diện với những đòi hỏi của công bình, bác ái, chẳng hạn như việc: đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh.
Và bởi vì đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, nên lắm lúc người kitô hữu chúng ta cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội. Nhưng cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Amen.
Phụng vụ hôm nay được bao trong một bức màn của sự đau khổ. Tuy nhiên, ta có cảm tưởng rằng sứ điệp không nằm ở đó nhưng ở chính nơi hành động mầu nhiệm và cao cả của Thiên Chúa, qua những đau khổ độc ác nhất. Trong bài ca thứ ba của người tôi tớ Giavê, ta đọc thấy: "Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế tôi đã không hổ thẹn" (Bài 1)
Trong bài thánh ca Kitô của thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Philipphê, Ngài nói với ta: "Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu".
Và trong bài Thương Khó, Đức Giêsu xin với Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha". Và tác giả Tin Mừng đã viết: vào lúc Đức Giêsu tắt thở thì bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung, đá vỡ", tất cả những dấu ấy là bằng chứng sự tỏ hiện của Thiên Chúa vào thời sau cùng, theo não trạng do thái. Cần nhấn mạnh rằng đau khổ không phải là một nghịch lý, không phải là một tính toán sai lầm của Chúa trong công trình tạo dựng, nhưng điều muốn trình bày là: Thiên Chúa là Chúa trên mọi đau khổ và điều này sẽ mang lại cho đau khổ một ý nghĩa.
Sứ Điệp niềm tin
Ngay chính Chúa Giêsu Nagiarét cũng không được miễn chuẩn khởi đau khổ. Đau khổ là thành phần hình thành lịch sử con người, một thực tại hữu hạn, bất toàn và dễ sai phạm. Là những điều không thể tránh được, nên mỗi người cần đối diện và chấp nhận thân phận con người của mình cùng với lòng tin. Cũng có nghĩa là chúng có một giá trị phi thường mà con người cần khám phá ra: một giá trị luân lý trong việc hình thành nhân bản. Những ai biết chấp nhận đau khổ, càng trở nên người có giá trị cứu độ trong chương trình cứu chuộc của Chúa. Những đau khổ của con nguời góp phần vào công trình cứu độ do Đức Kitô mang lại.
Hình ảnh người tôi tớ của Giavê, chủ đề của bài đọc 1, làm ta kinh ngạc và sửng sốt. Ngài là người vô tội. Dù không làm hại ai, Ngài phải nhận những lăng nhục, sỉ vả. Ngài là con người đạo đức biết nhận ra bàn tay của Chúa giữa những điều xảy ra cho mình và cảm nghiệm được sức mạnh và sự hiện diện của Chúa. Ngài là người môn đệ của Chúa, Đấng biến đau khổ thành những điều lành, đã ban cho những kẻ bị đau khổ miệng lưỡi khôn ngoan. Điều này được thực hiện cách xác thực nhất nơi Đức Giêsu Nagiarét trong suốt giai đoạn thương khó của Ngài. Chính vì thế, những kitô hữu tiên khởi đã nghĩ như thế về Ngài, và đã lưu lại một hình ảnh trong bài thánh ca mà Thánh Phaolô truyền lại cho ta trong thư gởi tín hữu Philipphê. "Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ…Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự".(Bài đọc 2)
Và chẳng phải là cả bài tường thuật Thương Khó là những đau khổ của người bị thương tích, và bị giết cách vô tội vì tội lỗi của các "tên sát nhân"? Đó chẳng phải là cách diễn tả tuyệt vời tình yêu đầy đau khổ của Chúa Cha, nhờ đó mà những kế hoạch nhiệm mầu và khôn tả của Ngài được thực hiện, "để con người được sống"? Đó chẳng phải là hành vi cuối cùng nhất của sự khiêm nhương tự hủy mình, đã được Chúa Cha siêu tôn? Đối với bản tính nhân loại, đau khổ không ngừng là nỗi ám ảnh, khiếp sợ, nhưng phía sau nó lại là khuôn mặt rạng rỡ, vui tươi đẹp đẽ của sự ngọt ngào phong nhiêu.
Gợi ý Mục Vụ
Thái độ của tôi ra sao trước những đau khổ, tai họa, một rối loạn mang tính xã hội, luân lý hoặc đạo đức? Đâu là thái độ của kitô hữu giữa những người đang cùng sống, sinh hoạt? Làm sao họ hiểu và đối diện được cái chết của một người thân yêu, của một người vô tội? Làm thế nào họ chấp nhận được những bất hạnh của riêng họ, ví dụ: căn bệnh hiểm nghèo, tai nạn giao thông, lao động, cảnh cô độc và bỏ rơi, những giới hạn của tuổi già?
Người linh mục cần biết thông cảm những đau khổ, những thử thách, những lo âu, phiền muộn của người giáo dân, của những ai mà ngài mang tin mừng đến. Tôi có là người mục tử nhân lành biết từng con chiên của tôi, và tôi có gần gủi với họ, nhất là trong những lúc gian nguy không? Tin vào sự hiện diện và quan phòng của Chúa trong những lúc khó khăn và thống khổ là điều rất cần thiết. Trong cái hỗn mang do đau khổ gây nên, trong cơn khủng hoảng nội tâm muốn chống đối, trong thái độ thiếu tự chủ, niềm tin là chiếc chìa khóa chuẩn bị người kitô hữu tìm được sự thanh thản, mở cửa hy vọng, trông cậy vào Chúa của sự sống và của lịch sử. Niềm tin vào sự hiện diện của Chúa trong những đau khổ và gian truân là chủ đề của bài giảng; nhưng trong suốt thời gian của thử thách và muộn phiền, niềm tin ấy cần được diển tả ra bằng hành động. Trong những lúc như thế, linh mục người của niềm tin, cần khơi lên ngọn lửa đức tin nơi người khác.
Đã đến sát cuộc Thương Khó, Đức Giêsu bố trí cuộc tiến vào Giêrusalem trong tư cách là một Đức Vua, nhưng Đức Vua khiêm tốn và hòa bình, là Đấng Mêsia, nhưng là một Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
TM Máccô giới thiệu cho chúng ta thấy Đức Giêsu luôn đi đường. Người không có một nơi cố định cho hoạt động của Người, nhưng đi xuyên qua toàn xứ sở. Người đến sông Giođan gặp Gioan Tẩy Giả (1,9), rồi đi vào hoang địa (1,12), trở lại Galilê và đi dọc theo bờ hồ Ghennêxarét (1,16). Hành trình của Người đưa Người sang miền đất Dân ngoại (5,1), đến Tia và Xiđon, trong Miền Thập Tỉnh (7,24.31), cho đến tận nguồn sông Giođan, đến Xêdarê Philípphê (8,27). Cuộc đời của Đức Giêsu là một chuyến lữ hành không ngơi nghỉ. Ngoại trừ những lần đi thuyền, Người luôn đi bộ. Người cũng vẫn đi như thế trong chuyến đi từ Galilê về Giuđê (9,30; 10,32), ngang qua Giêrikhô (10,46) để đến tận các cửa thành Giêrusalem, đến làng Bếtphaghê và Bêtania. Người dừng chân bên triền núi Ôliu, và đứng nhìn Đền Thờ và thành thánh (11,1).
Tại đây, bất ngờ Người thay đổi thói quen trước đây: Người không muốn đi bộ nốt đoạn đường còn lại; Người bảo các môn đệ đưa về một con lừa con. Người không muốn đi bộ vào Giêrusalem, Người muốn vào thành thánh trên lưng lừa.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Địa điểm (11,1a); 2) Chuẩn bị con vật để cỡi (11,1b-7)
a- giao nhiệm vụ (cc. 1b-3), b- thực hiện nhiệm vụ (cc. 4-7);
3) Vào thành thánh (11,8-10):
a- các cử chỉ chào đón (c. 8), b- lời reo hò chào đón (cc. 9-10).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Giêrusalem … Bếtphaghê … Bêtania (1): Vào thời Thượng Cổ, thành này được gọi bằng hai kiểu, Hierosolyma và Hierousalêm. Mc luôn luôn dùng tên thứ nhất. Trong khi tên thứ hai có tính trang trọng và linh thánh, tên thứ nhất (dạng hy-hóa) được những người không phải là Do-thái coi như một tên phàm tục để gọi thành này. Tên thứ nhất được chọn không phải là tình cờ, bởi vì chỉ ở 3,8, tên này mới được nêu ra với giọng trung lập, còn thì luôn được coi là căn cứ của các đối thủ của Đức Giêsu (3,22; 7,1), là nơi mà họ sẽ giết Người (10,32; 15,41).
Về Bếtphaghê (nguyên nghĩa là “nhà của trái vả”), chúng ta không biết được gì chắc chắn. Đây là một làng hay là một cơ sở? Dường như đây là một vùng đất ở bên ngoài Giêrusalem, bắt đầu với ranh giới Đền Thờ, nghĩa là đàng trước các tường phía đông của thành.
Còn Bêtania (nguyên nghĩa không rõ: “nhà của người nghèo”? hay là “nhà của ông Khanania”?) cách thành thánh khoảng hơn 2,5 cs, ở về phía đông núi Ôliu.
- con lừa con (2): Chi tiết này gợi tới Dcr 9,9-10, theo đó đức vua thiên sai hòa bình sẽ ngồi trên lưng một con lừa con vẫn còn theo mẹ mà đến, ngài sẽ quét sạch các chiến xa, chiến mã và cung nỏ, và sẽ mang lại hòa bình cho muôn dân. Con lừa con “bị cột” là một gợi nhớ đến St 49,11, lời chúc phúc của Giacóp trên Giuđa, từ ông này sẽ phát xuất người làm chủ gậy chỉ huy.
- cứ nói là Chúa cần đến nó (3): Từ ngữ “Chúa” (kyrios) này không có nghĩa là “ông chủ (của con lừa)”, nhưng là chính Đức Giêsu dùng để tự xác định về mình. Người dùng kiểu gọi này để cho thấy quyền Người có trên các sự vật. Nhưng từ này cũng làm nổi lên nghịch lý: vị Chúa này thật nghèo.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Địa điểm (1a)
Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu chuyến đi. Trong ba địa danh mở đầu cho bài tường thuật cuộc vào thành, Giêrusalem được nêu ra đầu tiên, kế đó là Bếtphaghê và Bêtania.
* Chuẩn bị con vật để cỡi (1b-7)
Tại một điểm ở ngoài ba địa danh vừa nêu, Đức Giêsu cử hai môn đệ đi tìm một con lừa con. Ta chỉ hiểu được nhiệm vụ huyền bí được giao cho các môn đệ khi dựa trên Dcr 9,9-10 và St 49,11. Quả thật, các bản văn Cựu Ước không được trích ra (như ở Mt 21,5), nhưng các bản văn ấy rõ ràng nằm ở tại nền của bài tường thuật. Với nhiệm đã vụ ký thác cho các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hoàn tất những gì đã được nói về Đấng Mêsia trong Kinh Thánh, và bằng cách đó, Người loan báo rằng ngay khi vào thành thánh, Người cương quyết bước theo thánh ý Thiên Chúa hoàn toàn. Tác giả không thấy cần phải xác định nơi con lừa bị cột, nhưng cần phải cho thấy rằng những người được cử đi đã thi hành chính xác nhiệm vụ được giao.
Hai môn đệ đã tìm thấy con vật đúng như được báo trước. Họ đã dẫn nó về cho Đức Giêsu, lấy áo choàng trải lên lưng con vật để làm cái yên và trang sức cho nó, rồi Đức Giêsu cỡi lên. Quang cảnh này nhắc nhớ lại một cuộc đăng quang của nhà vua tại Israel (x. 1 V 1,38-40; 2 V 9,13).
Chúng ta ghi nhận là tác giả đã dành 7 câu trong 10 câu của đoạn này mà nói về cách thức đi tìm con lừa. Lý do: việc cỡi lừa đi vào thành có một giá trị chứng minh. Người muốn cho hiểu rằng Người đến Giêrusalem, trung tâm của dân tộc Israel, với danh nghĩa nào.
* Vào thành thánh (8-10)
Đoàn người đã cùng đi với Người từ Galilê đến, bây giờ reo hò vang dậy để chào đón Người. Người ta trải áo trên đường và rải các cành cây mà rải lên đường để Người bước qua. Người ta reo hò Hôsanna (hoan hô!) và chào đón Người bằng các lời của Tv 117,26a (LXX). Đức Giêsu không vào thành như một khách hành hương, cũng chẳng phải như một vị tôn sư hay một vị thầy chuyên làm phép lạ, mà là như Đức Vua đã được hứa cho thời cuối cùng. Tuy nhiên, Người không đến như một nhà chinh phục, hay như một vị vua hiếu chiến với binh lính và vũ khí, mà đến không vũ khí, trong tình trạng khiêm tốn và hoà bình. Khi vào thành thánh, Đức Giêsu thực hiện được các lời hứa thiên sai, nhưng không để thỏa mãn những niềm hy vọng chính trị. Tác giả không nói đến danh hiệu “vua” là vì ngài muốn để dành cho truyện Thương Khó, khi đó phẩm cách vương giả của Đức Giêsu sẽ được tỏ lộ. Cuộc tiến vào thành lại không có phản ứng từ phía dân chúng và kết thúc mà không hề bị ghi nhận (khác với Mt 21,10t). Đây là cách Mc chuẩn bị cho cuộc tranh luận thật sự trong vụ xử án liên hệ đến phẩm cách vương giả của Người.
+ Kết luận
“Con đường” vừa là lộ trình vừa là lối sống của Đức Giêsu hôm nay đã đưa Người đến Giêrusalem, thành định mệnh, nơi Người sẽ thực hiện trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người đi theo ý muốn của Thiên Chúa từng bước một. Hôm nay, đã đến sát cuộc Thương Khó, Người bố trí cuộc tiến vào Giêrusalem trong tư cách là một Đức Vua, nhưng Đức Vua khiêm tốn và hòa bình, là Đấng Mêsia, nhưng là một Đấng Mêsia của Thiên Chúa, chứ không phải một vị cứu tinh bằng sức mạnh quân sự như dân chúng vẫn mong đợi.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đức Giêsu không có gì phải dính dáng đến sự huy hoàng và quyền lực bên ngoài, với sức mạnh và bạo lực. Người không mang gì ngoài chính bản thân, uy tín và lời nói của Người. Người không muốn tạo ra bất cứ ảnh hưởng nào với những phương tiện quyền lực, nhưng chỉ với bản thân Người mà thôi. Người không muốn ép buộc và đè bẹp bất cứ ai, nhưng muốn chính phục mọi người về theo Người, theo tương quan của Người với Thiên Chúa, theo hành trình của Người, như Người đã cho thấy qua cách xử sự trước đó và như Người sẽ cho thấy sau này tại Giêrusalem.
2. Đức Giêsu chưa bao giờ loan báo Người sắp tái lập triều đại vua Đavít, nhưng đã công bố rằng Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Người không hề nhắm tới vẻ hào nhoáng và quyền lực, nhưng chỉ nhắm tới Thiên Chúa và lòng từ bi thương xót của Ngài; Người đã kêu gọi hoán cải về với Thiên Chúa và tin vào Người (Mc 1,15). Tại Giêrusalem, Người sẽ bảo vệ Đền Thờ như là nhà cầu nguyện (11,17), Người mời người ta trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa (12,17), mời gọi người ta tin vào quyền lực của Thiên Chúa có thể chiến thắng cái chết (12,27), mời gọi yêu mến Ngài hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực (12,30). Cách hành động của Đức Giêsu không hướng về một triều đại trần thế và một quyền lực của thế gian này. Người loan báo tình thương và lòng từ bi của Thiên Chúa và muốn dẫn đưa người ta đến chỗ tin vô điều kiện vào Thiên Chúa. Người nào chờ đợi nơi Người một điều gì khác, thì phải giải thích Người theo kiểu khác và cuối cùng sẽ thất vọng mà lìa bỏ Người.
3. Đức Giêsu vào Giêrusalem như vị Vua đã được Thiên Chúa hứa. Nhưng Triều Đại của Người chẳng có gì giống với các vương quyền trần thế. Con lừa con mà Người cỡi, Người đã mượn, và các môn đệ đã hứa là sẽ trả lại ngay khi vừa xong việc (11,3). Trên con lừa này, Người cũng chẳng có lấy một cái yên, và các môn đệ Người phải tạo ra một cái yên bằng cách lót áo choàng của họ lên cho Người ngồi (11,7). Tuy cỡi lừa, Người đến cách đơn giản và không phương tiện, cũng y như Người đã yêu cầu Nhóm Mười Hai khi cử họ đi truyền giáo (6,8t). Chỉ người nào biết nhận ra Người và trân trọng Người thì mới có thể tiếp đón Người ngự đến và hiện diện trong niềm hân hoan vui sướng.
Việc dân chúng rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem là cái vinh quang vắn vỏi trong cuộc đời trần thế của Người. Dân chúng cầm cành lá vạn tuế tung hô Chúa là vua. Họ tỏ ra nhiệt thành trong việc đón tiếp Người, vì họ hi vọng rằng Đấng cứu thế sẽ thiết lập cho họ một vương quốc trần gian, có tính cách quốc gia dân tộc. Người thường nghe khi vua chúa hay tướng lãnh đời xưa thắng trận trở về trong ngày vinh quang thì cưỡi voi, cưỡi ngựa vào thành với vẻ oai phong lẫm liệt. Còn Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chọn cưỡi trên lưng lừa. Ta biết lừa là con vật hiền lành, dễ chịu khuất phục. Bằng việc dùng lừa để làm phương tiện đi vào Thành, Chúa Giêsu muốn nói lên cái ý muốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Mặc dầu Người là Chúa, nhưng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, mặc lấy thân phận làm người, chịu khổ hình, tử nạn thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Như vậy cái mục đích, cái sứ mệnh của Chúa cứu thế là làm theo thánh ý Chúa Cha. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Phi-li-phê khẳng định: Chúa Kitô đã hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá (Pl 2,8).
Mặc dầu dân chúng nhiệt liệt đón tiếp Chúa vào thành Giêrusalem, và tung hô Người làm vua, họ đã nhắm sai mục đích. Cái ý hướng của họ là muốn Chúa làm vua trong nước họ để giúp họ đánh đuổi dân đô hộ là người La Mã, khiến cho đất nước họ trở nên giàu có, hùng mạnh, để có thể vươn lên lam bá chủ hoàn cầu. Tuy nhiên, khi họ nhận ra Chúa Giê-su không thích hợp với quan niệm họ sẵn có về đấng cứu thế, họ sẵn sàng đóng đinh Người. Bạn có giống người trong Phúc âm hôm nay không? Bạn giống họ khi bạn tin theo Chúa nhưng vẫn sống theo ý riêng. Bạn giống họ khi bạn muốn đạo giáo phải thế nọ thế kia, thay vì cố gắng sống theo đường lối của đạo giáo. Bạn giống họ khi bạn muốn đạo giáo thay đổi cho phù họp với những ước muốn, những khuynh hướng và sở thích cá nhân.
Hôm nay Giáo Hội mừng Lễ Lá để giúp ta nhớ lại một biến cố, là việc Chúa Giê-su khởi hành vinh quang vào đền thờ Giêrusalem. Tuy nhiên sau đó có một biến cố khác đã làm lu mờ biến cố trước. Cái biến cố của cảnh khổ hình, đóng đinh trên thập giá đã làm lu mờ biến cố vào thành Giêrusalem trong vẻ vinh quang. Đó là lý do tại sao hôm nay khi Giáo Hội mừng việc Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem, Giáo Hội cho đọc bài Phúc Âm về sự thương khó và khổ nạn của Chúa.
Bạn đang bắt đầu bước vào Tuần Thánh. Tuần Thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong lịch sử cứu độ, cũng là tuần lễ quan trọng nhất trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội. Trong Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành những mầu nhiệm cứu độ mà Chúa Kitô đã hoàn tất, vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày Lễ lá đến cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Người. Trong Tuần Thánh, người tín hữu suy niệm về một trong những chiều hướng của đức tin: sự thương khó, cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa. Tuần Thánh là lúc người tín hữu suy niệm về kinh nghiệm sống đức tin của mình. Tuần Thánh là lúc chỉ cho bạn thấy những yếu điểm và tội lỗi của mình. Bạn có thể giống như Phê-rô và Giu-đa chăng? Nếu bạn trung thực với lòng mình, bạn phải nhận có những lúc bạn giống Giuđa khi bạn phạm tội, từ khước ơn Chúa. Có lúc bạn giống Phê-rô khi không dám bày tỏ đức tin, sợ bị liên lụy, bị tẩy chay, hay có lúc bạn không dám tỏ ra mình là người công giáo, sợ bị chê cười, nhạo báng. Chúa Kitô sắp bị nộp mình chịu chết vì bạn và cho bạn. Bạn có thể làm gì để đền đáp tình yêu Chúa?
Tại sao dân chúng vừa nghênh đón Chúa Giêsu sau đó lại trở mặt truất phế Người?
Nếu Mùa Chay, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, kéo dài 40 ngày, thì ngày thứ 40, tức ngày cuối cùng của Mùa Chay hôm nay đây là Chúa Nhật Lễ Lá. Tuy nhiên, ngày cuối cùng của Mùa Chay này cũng lại là ngày mở đầu của một Tuần Thánh, được gọi là Ngày Chúa Nhật Thương Khó. Bởi thế, theo Phụng Vụ, Mùa Chay được kết thúc vào một ngày vừa vui lại vừa buồn: vui ở việc cử hành biến cố Chúa Giêsu vinh quang tiến vào thành thánh Giêrusalem, buồn ở việc cử hành biến cố Chúa Giêsu khổ nạn và tử giá. Thật ra, theo thứ tự thời gian, biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Giêsu chỉ xẩy ra giữa hai biến cố, biến cố Người vinh quang tiến vào thành thánh trước mấy ngày và biến cố Người sống lại từ trong cõi chết sau mấy ngày. Nghĩa là biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Giêsu chỉ chính thức xẩy ra vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một ngày trong Tam Nhật Thánh, thời gian tột đỉnh của cả một Phụng Niên, vì là thời gian Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, một mầu nhiệm được kết thúc ở Đêm Phục Sinh. Chính vì Chúa Nhật Lễ Lá là Chúa Nhật Thương Khó mà từ Chúa Nhật này đến Đêm Phục Sinh cũng được gọi là Tuần Thánh.
Vẫn biết Giáo Hội sẽ chính thức cử hành Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Kitô vào Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng vì Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Giêsu không thể tách rời khỏi Biến Cố Phục Sinh, cả hai chỉ là một biến cố, Biến Cố Vượt Qua, mà Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá của Chúa Giêsu cần phải được long trọng cử hành vào Ngày Chúa Nhật, Ngày Phục Sinh hằng tuần của Kitô Giáo, chứ không phải vào một ngày thường, dù ngày thường ấy có là chính ngày kỷ niệm của Biến Cố Khổ Nạn và Tử Giá này của Chúa Giêsu đi nữa. Đó là lý do chúng ta thấy Phụng Vụ Chúa Nhật kết thúc Mùa Chay và mở đầu Tuần Thánh hôm nay có hai phần, phần đầu là phần Lễ Lá, cũng có bài Phúc Âm, và phần sau là phần Thánh Lễ, phần được mở màn bằng lời nguyện đầu lễ và sang ngay phần Phụng Vụ Lời Chúa, vì phần Lễ Lá đã thay cho phần đầu lễ thường lệ rồi. Thế nhưng, qua Phụng Vụ Lời Chúa của bài Phúc Âm cho Lễ Lá, cũng như của bài Phúc Âm cho Thánh Lễ Chúa Nhật Thương Khó hôm nay, chúng ta thấy một sự kiện hết sức mâu thuẫn, cần phải tìm hiểu, đó là việc dân Do Thái vừa hân hoan nghênh đón Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như một vị anh hùng cứu tinh dân tộc, thì liền sau đó họ đã quay ra phản chống Người, truất phế Người, không công nhận Người là vua của họ nữa, và cuối cùng đã hô hoán vang trời đòi phải đóng đanh Người cho bằng được…
Vấn đề ở đây là, qua biến cố nghênh đón Chúa Giêsu vào thành thánh, dân Do Thái chứng tỏ là họ đã công nhận Người là Đấng Thiên Sai, "Đấng nhân danh Chúa mà đến". Và sở dĩ, như bài Phúc Âm Lễ Lá cho thấy, dân chúng có thể công nhận một nhân vật vô danh tiểu tốt như Giêsu Nazarét ở Gialilêa, một miền đất không hề xuất hiện một vị tiên tri nào (xem Jn 7:52), "là tiên tri Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa". Họ đã thần tượng và tôn vinh vị tiên tri Thiên Sai này hơn tất cả mọi vị tiên tri trong Cựu Ước, kể cả Gioan Tẩy Giả. Ở chỗ, như bài Phúc Âm của phần Lễ Lá hôm nay cho biết, đến nỗi, "một đám rất đông trải áo mình trên đường, một số khác cắt cành cây lót đường cho Người đi. Có những nhóm đi trước Người và sau Người reo hò rằng "… Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến…"". Lý do họ tỏ ra những hành động bat thường này, những hành động làm cho thành phần lãnh đạo tinh thần của họ hoảng sợ kinh hồn, đến nỗi đã phải thốt lên: "Coi kìa, quí vị đành phải chịu bó tay thôi! Cả thiên hạ đã xô nhau chạy theo hắn mất rồi" (Jn 12:19), là vì việc Người làm cho Lazarô cải tử hoàn sinh: "Đám dân chúng có mặt khi Người lên tiếng gọi Lazarô bước ra khỏi mồ và hồi sinh anh ta từ trong cõi chết cứ mang sự kiện này ra kể lại. Dân chúng đi nghênh đón Người vì họ đã nghe thấy Người thực hiện dấu lạ này" (Jn 12:17-18).
Vậy thì tại sao sau khi đã công nhận vị "tiên tri Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa" một cách chính thức công khai và hết sức long trọng chưa bao giờ có như thế, dân chúng lại quay ra truất phế Người một cách trắng trợn và phũ phàng hơn ai hết như vậy? Ở chỗ, như Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay thuật lại, họ chẳng những đã coi Người không bằng tên tội đồ nổi tiếng Baraba, mà còn đòi đóng đanh Người vào thập giá nữa. Như thế, phải chăng dân Do Thái nói chung đã cố tình giết chết Đấng Thiên Sai mà họ đã nhận biết? Nếu vậy thì tại sao, theo Phúc Âm Thánh Luca, câu nói đầu tiên trên thập giá, Chúa Giêsu lại thưa cùng Cha của Người: "Xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc mình làm" (Lk 23:34). "Họ" ở đây là ai? Phải chăng là thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ mà thôi, vì theo Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay, chính họ là những kẻ xui bẩy và giật giây dân chúng (xem Mt 27:20)?? Hay là chính dân Do Thái lúc ấy nói chung, vì dù có được xui bẩy, họ vẫn có quyền chống trả như cự tuyệt chước cám dỗ, vì nó nghịch lại với niềm tin của họ??? Hoặc bao gồm cả thành phần Dân Ngoại Rôma, thành phần trực tiếp nhúng tay vào việc lên án và đóng đanh Người vào thập giá???? Hay thậm chí bao gồm cả loài người, vì nếu họ không sa ngã phạm tội thì Người đâu phải "hiến thân làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28) như vậy?????
Tại sao dân Do Thái muốn sát hại Chúa Giêsu?
Căn cứ vào sự kiện lịch sử: "Những đau khổ của Chúa Giêsu mặc một hình thức lịch sử cụ thể là Người đã "bị các vị kỳ lão và trưởng tế cùng luật sĩ" nộp "cho Dân Ngoại nhạo báng, hành hình và đóng đanh" (Mk 8:31; Mt 20:19)" (số 572), Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo chủ trương rằng: "Đức tin nhờ đó mới cố gắng cứu xét những hoàn cảnh về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được các Phúc Âm trung thực truyền lại (x Hiến Chế Mạc Khải Thần Linh, đoạn 19), cũng như được các nguồn sử liệu khác soi chiếu, để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của Việc Cứu Chuộc" (số 573). Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã trưng dẫn lý do chính (gồm ba phần) tại sao dân Do Thái đã muốn giết và cần giết Chúa Giêsu Kitô như sau.
• "Trước con mắt của nhiều người dân Yến Duyên thì Chúa Giêsu đã tỏ ra tác hành phản lại với các cơ cấu làm nên Dân Chúa Chọn, đó là việc phục tùng toàn thể lề luật được viết thành văn, và còn được giải thích theo truyền khẩu nữa như chủ trương của những người Pharisiêu; Đền Thờ ở Gialiêm chiếm địa vị chủ yếu như là một nơi thánh, nơi Thiên Chúa đặc biệt hiện diện; niềm tin tưởng một Thiên Chúa duy nhất là Đấng không ai có thể chia sẻ vinh quang của Ngài được". (số 576).
Về "việc phục tùng toàn thể lề luật được viết thành văn, và còn được giải thích theo truyền khẩu nữa theo chủ trương của những người Pharisiêu", Chúa Giêsu đã có vẻ tác hành phản lại đến nỗi đã khiến dân Do Thái muốn giết và cần giết Người như sau:
• "Việc hoàn toàn làm trọn Lề Luật chỉ có thể là việc của nhà ban bố luật thần linh mà thôi, vị được sinh ra theo Lề Luật qua bản thân của Người Con (x. Gal 4:4). Nơi Chúa Giêsu, Lề Luật không còn như thể được ghi khắc trên các bia đá nữa mà là "trên cõi lòng" của Người Tôi Tớ, vị trở nên "giao ước của dân", vì Người sẽ "hoàn toàn mang lại đức chính trực" (Jer 31:33; Is 42:3,6). Chúa Giêsu làm trọn Lề Luật đến độ đã phải lãnh đủ "cái bất hạnh của Lề Luật" dành cho những ai không "suy giữ những gì được viết ra trong Lề Luật", vì Người chết để cứu họ "khỏi những vấp phạm nơi giao ước thứ nhất" (Gal 3:13, 3:10; Heb 9:15)". (số 580)
• "... Chúa Giêsu đã không hủy bỏ Lề Luật mà là làm trọn lề luật bằng việc giải thích Lề Luật đúng ý nghĩa nhất theo đường lối thần linh (Mt 5:33-34)... Người cũng bác bỏ một số tục lệ nhân tạo của những người Pharisiêu đã làm "vô hiệu lời của Thiên Chúa" (Mt 7:13; x 3:8)" (số 581). "... Trong việc lấy quyền bính thần linh để trình bày việc giải thích ý nghĩa tối hậu của Lề Luật, Chúa Giêsu đã phải đối đầu với một số thày dạy Lề Luật, thành phần không chấp nhận việc Người giải thích Lề Luật bằng những dấu hiệu thần linh bảo đảm kèm theo (x Jn 5:36, 10:25,37-38, 12:37). Đặc biệt là trường hợp đối với các luật về ngày hưu lễ (x Num 28:9; Mt 12:5; Mk 2:25-27; Lk 13:15-16, 14:3-4; Jn 7:22-24)...". (số 582)
Về "Đền Thờ ở Gialiêm chiếm địa vị chủ yếu như là một nơi thánh, nơi Thiên Chúa đặc biệt hiện diện", Chúa Giêsu đã có vẻ tác hành phản lại đến nỗi đã khiến dân Do Thái muốn giết và cần giết Người như sau:
• "Như các tiên tri trước Người, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho thấy việc Người hết lòng tôn kính Đền Thờ ở Gialiêm... Chính sứ vụ công khai của Người cũng được dựa theo hành trình lên Gialiêm vào những dịp lễ lớn của dân Do Thái (x Jn 2:13-14, 5:1,14, 7:1,10,14, 8:2, 10:22-23)" (số 583). "Chúa Giêsu lên Đền Thờ như là một nơi đặc biệt để gặp gỡ Thiên Chúa. Đối với Người, Đền Thờ là nơi ngự của Cha Người, là nhà để cầu nguyện, và Người đã nổi giận khi thấy phần ngoại vi của Đền Thờ trở thành nơi buôn bán (x Mt 21:13)..." (số 584). "Chẳng những không thù oán Đền Thờ, nơi Người đã ban bố phần giáo huấn chính yếu của mình, Chúa Giêsu còn sẵn lòng nộp thuế đền thờ nữa... Thậm chí Người còn đồng hóa mình với Đền Thờ khi tự cho mình là nơi Thiên Chúa thực sự ở với loài người (x Jn 2:21; Mt 12:6)...". (số 586)
• "Trước thời điểm Khổ Nạn của mình, Chúa Giêsu đã loan báo việc các lâu đài tráng lệ này sẽ bị hủy hoại đến không còn "hòn đá nào chồng trên hòn đá nào" (x Mt 24:1-2). Nói điều ấy là Người đã loan báo dấu hiệu của những ngày cuối cùng được bắt đầu từ Cuộc Vượt Qua của Người (x Mt 24:3; Lk 13:25). Thế nhưng, lời tiên tri này đã bị các nhân chứng dối trá bóp méo ý nghĩa của nó trong cuộc đối chất của Người ở nhà vị thượng tế, với kết quả là Người đã bị sỉ nhục vì lời nói của mình khi bị đóng đanh trên cây thập giá (x Mk 14:57-58; Mt 27:39-40)". (số 585)
Về "niềm tin tưởng một Thiên Chúa duy nhất là Đấng không ai có thể chia sẻ vinh quang của Ngài được", Chúa Giêsu đã có vẻ tác hành phản lại đến nỗi đã khiến dân Do Thái muốn giết và cần giết Người như sau:
• "Nếu Lề Luật và Đền Thờ Gialiêm đã trở thành những dịp cho các vị giáo quyền dân Yến Duyên chống đối Chúa Giêsu, thì vai trò của Người trong việc chuộc tội, một việc thần linh hơn hết, thực sự mới là cớ vấp ngã cho họ (x Lk 2:34, 20:17-18; Ps 118:22)". (số 587).
• "Chúa Giêsu đã khiến cho những người Pharisiêu vấp phạm khi nhập bọn ăn uống thân tình với các người thu thuế và tội nhân (x Lk 5:30, 7:36, 11:37, 14:1)... Thậm chí Người còn tuyên bố trước mặt các người Pharisiêu rằng, những ai cho rằng mình không cần ơn cứu độ cho khỏi tội lỗi phổ quát là con người mù quáng (x Jn 8:33-36, 9:40-41)". (số 588)
• "Chúa Giêsu đã gây nên dịp vấp phạm nhất là khi Người cho rằng thái độ nhân từ của mình đối với các tội nhân cũng là thái độ của Thiên Chúa đối với họ (x Mt 9:13; Hos 6:6). Thậm chí Người còn ngầm cho thấy rằng việc Người đồng bàn với các tội nhân là việc Người công nhận họ vào bàn tiệc thiên sai (x Lk 15:1-2,22-32). Thế nhưng, đặc biệt nhất là ở chỗ việc Chúa thứ tha tội lỗi đã khiến cho các vị giáo quyền dân Yến Duyên bị bối rối khó xử (Mk 2:7)... Khi thứ tha tội lỗi thì có thể Chúa Giêsu đã phạm thượng, vì Người là con người mà lại cho mình ngang hàng với Thiên Chúa...". (số 589)
• "Chúa Giêsu xin các vị giáo quyền ở Gialiêm hãy tin vào Người vì các việc Người hoàn tất như Cha đã trao phó cho Người (Jn 10:36-38). Thế nhưng, muốn thực hiện một tác động đức tin như vậy con người cần phải chết đi cho chính mình một cách thiêng liêng để được tái "sinh từ trên cao" dưới tác động của ân sủng thần linh (x Jn 3:7, 6:44). Một đòi hỏi hoán cải như vậy để hướng về việc hoàn tất các lời hứa (x Is 53:1) hết sức lạ lùng như thế khiến người ta có thể thông cảm về những hiểu lầm thê thảm của Hội Đồng Do Thái đối với Chúa Giêsu, ở chỗ, họ đã cho rằng Người đáng bị án tử hình như là một kẻ lộng ngôn phạm thượng (x Mk 3:6; Mt 26:64-66)...". (số 591)
Ai Là Thủ Phạm Chính Trong Việc Sát Hại Thiên Chúa Làm Người?
Về vấn đề hết sức tế nhị này, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã công minh nhận định và dạy rằng thủ phạm chính trong việc sát hại Con Thiên Chúa làm người không phải là dân Do Thái nói chung, mà là chính tất cả mọi tội nhân.
Thủ phạm chính trong việc sát hại Con Thiên Chúa làm người không phải là dân Do Thái nói chung.
• "Các trình thuật Phúc Âm đã cho thấy tính cách lịch sử phức tạp nơi vụ án Chúa Giêsu. Tội lỗi riêng tư của những người dự phần (như Giuđa, Hội Đồng Do Thái và Philatô) chỉ có một mình Thiên Chúa biết. Vì thế, cho dù đám dân chúng bị xúi giục có lên tiếng kêu gào, cùng những lời trách móc chung nơi lời của các vị tông đồ khi kêu gọi họ hãy ăn năn hoán cải sau biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (x Mk 15:11; Acts 2:23,36, 3:13-14, 4:10, 5:30, 7:52, 10:39, 13:27-28; 1Thes 2:14-15), chúng ta cũng không thể ghép tội cho toàn thể khối người Do Thái ở Gialiêm về vụ án này. Chính Chúa Giêsu, khi tha tội cho họ trên thập giá, và thánh Phêrô theo chiều hướng đó, cả hai đều công nhận các người Do Thái ở Gialiêm và ngay cả các vị lãnh đạo của họ là "vô thức" (x Lk 23:34; Acts 3:17). Chúng ta lại càng không thể đổ trách nhiệm cho những người Do Thái ở những thời điểm khác và ở những nơi khác, chỉ vì tiếng kêu gào: "Máu của hắn sẽ đổ lên đầu lên cổ chúng tôi và con cháu chúng tôi!" (Mt 27:25; x Acts 5:28, 18:6), như là một câu nói chung để biện minh cho việc mình kết án họ. Giáo Hội đã tuyên bố ở Công Đồng Chung Vaticanô II rằng: "… Không thể hàm hồ ghép tội ác chung cho tất cả mọi người Do Thái bấy giờ hay những người Do Thái ngày nay đã nhúng tay vào cuộc Khổ Nạn của Người… Không được coi những người Do Thái bị phế bỏ hay bị nguyền rủa như là những gì bởi Thánh Kinh mà ra" (Tuyên Ngôn Nostra Aetate, đoạn 4)" (số 597)
Thủ phạm chính sát hại Con Thiên Chúa làm người chính là tất cả mọi tội nhân.
• "Theo giáo huấn đức tin thuộc Huấn Quyền của mình, cũng như theo chứng từ của các thánh, Giáo Hội không bao giờ quên rằng "các tội nhân là tác giả và là tác nhân gây nên tất cả mọi đau khổ bắt Vị Cứu Chuộc thần linh phải chịu" (Sách Giáo Lý Rôma I, 5, 11; x. Heb 12:3). Chú trọng đến sự kiện là tội lỗi của chúng ta phạm đến chính Chúa Kitô (x Mt 25:45; Acts 9:4-5), Giáo Hội không ngần ngại qui cho Kitô hữu trách nhiệm nặng nhất đối với những hình khổ giáng xuống trên Chúa Giêsu, một trách nhiệm mà tất cả những người Kitô thường chất lên vai cho một mình những người Do Thái thôi: "Chúng ta phải coi những ai tiếp tục đầm đìa trong tội lỗi của mình là có lỗi. Vì tội lỗi của chúng ta mà Chúa Kitô phải chịu cực hình thập giá, thì những ai lặn ngụp trong những hư hỏng và tội ác chính là những kẻ đóng đanh Con Thiên Chúa một lần nữa nơi lòng mình (vì Người ở trong họ) cùng làm cho Người bị nhục nhã. Tội ác của chúng ta trong trường hợp này có thể được coi như lớn hơn cả của người Do Thái nữa. Theo chứng từ của Thánh Tông Đồ, đối với họ, "Không một nhà lãnh đạo nào của thời đại này hiểu được điều ấy; vì nếu họ hiểu được thì họ đã không đóng đanh Chúa hiển vinh". Còn chúng ta tuyên xưng là biết Người. Nên khi chúng ta chối bỏ Người bằng việc làm của mình là chúng ta hành hung Người một cách nào đó (Sách Giáo Lý Rôma I, 5, 11; x Heb 6:6; 1Cor 2:8). "Cả đến ma quỉ cũng không phải là kẻ đóng đanh Người; chính các bạn là kẻ đã đóng đanh Người và vẫn còn đang đóng đanh Người, khi các bạn vui sướng với các tính mê nết xấu và tội lỗi của mình" (Thánh Phanxicô Assisi, Admonitio 5, 3)". (số 598)
Vấn đề thực hành sống đạo:
Thánh Viện Phụ Aelred, trong vấn đề Mẫu Gương Yêu Thương đã nhận định về lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu trên cây thập giá như sau:
"Ai nghe lời cầu nguyện tuyệt vời, hết sức nồng nàn, hết sức yêu thương, hết sức trầm tĩnh - Lạy Cha, xin tha cho họ - mà còn ngần ngại không ôm lấy kẻ thù của mình bằng một tình yêu chan chứa hay chăng? Người xin: Lạy Cha, xin tha cho họ. Lời cầu xin này có thiếu dịu dàng, thiếu yêu thương hay chăng? Tuy nhiên, Người còn đưa vào trong lời cầu xin này một điều hơn thế nữa. Cầu xin cho họ mà thôi chưa đủ, Người còn muốn chữa tội cho họ nữa. Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm. Phải, họ là những đại tội nhân, thế nhưng họ kém phán đoán; bởi thế, Lạy Cha, xin tha cho họ. Họ đóng đanh Con vào thập giá, thế nhưng họ không biết Đấng họ đóng đanh vào thập giá là ai: nếu họ biết, họ đã không bao giờ dám đóng đanh vị Chúa của vinh quang, bởi thế, Lạy Cha, xin tha cho họ. Họ nghĩ rằng đó là một tên phạm luật, một kẻ tưởng mình là Thiên Chúa, một tay dụ dỗ dân chúng. Con đã giấu kín chân tướng của mình không cho họ biết, nên họ không nhìn ra vinh hiển của Con, do đó, Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm" (Lib. 3,5: PL 195, 582. Trích dịch từ The Office of Readings, St Paul Editions, 1983, trang 369).
Đọc đọan Tin Mừng của Thánh Matthêu 27, 11-54 hôm nay chúng ta như đang là những nhân vật tham gia vào cuộc xử án Chúa Giêsu. Bởi vì suốt ba năm giảng đạo giới thiệu Nước Trời, giới thiệu chính Ngài cho nhân loại và hơn thế nữa cả thời gian ẩn dật ở làng quê Nagiarét với cha mẹ của Ngài, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc đời cứu thế của mình bằng sự hiếu thảo vâng phục Thiên Chúa Cha. Những năm giảng đạo đã nhiều lần Chúa nói gần nói xa về con đường khổ hình của Ngài để cứu độ nhân lọai. Nhưng các môn đệ nào đâu có hiểu thế nào là con đường thập giá, thế nào là con đường đau khổ Chúa Giêsu phải kinh qua để cứu độ con người, cứu độ nhân lọai, cứu độ từng người
MỘT CON ĐƯỜNG. MỘT CUỘC ĐỜI:
Con đường mà bà cụ già trong truyện phim Sám Hối của Liên Xô nói lên cách công khai, trịnh trọng:” Con đường này dẫn tới đâu ? Con đường này đưa về đâu ? Nếu con đường không dẫn tới nhà thờ, con đường nào có giá trị gì ! “. Tôi vẫn suy đi nghĩ lại câu nói đó: con đường dẫn tới Chúa, con đường dẫn tới Thiên Đàng, con đường Thập Giá đưa tới vinh quang là con đường tuyệt vời, con đường người Kitô hữu đang đi. Vâng, Chúa Giêsu năm xưa đã nói với người Do Thái: Con đường Ngài đi họ không đi được. Còn đối với các môn đệ thân tín, Chúa Giêsu cũng đã có lần nói với họ: con đường Ngài đang đi họ chưa đi được con đường đó. Chúa Giêsu nói tới con đường nào vậy ? Thiết tưởng trong tâm trí đời thường nhưng đầy đức tin của bà già trong phim Sám Hối đã nói lên ý nghĩa Chúa muốn nói ? Một con người sống hoàn toàn thánh thiện, là Chúa là Người, nhưng người Do Thái đâu có hiểu. Họ đã tự nói với nhau:Hay ông ta muốn tự tử ? Chúa Giêsu chẳng chối cũng chẳng nhận. Ngay các môn đệ cũng vậy:” Chúa chỉ nói sau này các con sẽ hiểu”.Vâng, con đường ấy là con đường Thập Giá.Chúa Giêsu đã khẳng địng trong Tin Mừng Ga 8, 21-30:” Khi các ông giương cao con Người lên, các ông sẽ biết tôi là ai”. Giương cao lên có nghĩa là bị treo trên Thập Giá. Chúa trở nên vị Thiên Chúa cứu độ. Chúa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa vì người Do Thái không tin. Một con người có tên Giêsu đã đi con đường Thập Giá ngươc với sự suy nghĩ của con người, ngược với ước muốn, suy tư của loài người. Con đường của Ngài là con đường đau khổ của thế gian. Giữa gian trần mà con người thích ham danh vọng, tiền tài, giầu sang phú quí thì con đường của Chúa chọn, Chúa đi lại là con đường đau khổ. Chúa nói với con người hãy nhìn vào sự thật vì cuộc đời không phải chỉ trong mơ tưởng, trong huyền thọai mà cuộc đời luôn có đắng cay, khổ cực. Con đường này chẳng ai muốn đi nhưng thực tế lại là cuộc đời bao lâu con người còn ở gian trần, còn sống ở thế giới này. Nhận ra con đường Chúa đi là cả một sự cố gắng sống lòng tin. Và cuộc thương khó của Chúa giúp con người có đức tin hiểu được con đường Thập Giá của Chúa.
MỘT ĐÁM NGƯỜI. MỖI SUY NGHĨ CỦA TỪNG NHÓM, TỪNG NGƯỜI:
Thế gian như một đám người ô hợp và bức tranh của họa sĩ Rambrandt: ” Ba Cây Thập Giá”, chúng ta vẫn có thể nhìn ra từng gương mặt của mỗi người chúng ta đứng trước cái chết của Chúa Giêsu. Vâng, hai bên Thập Giá của Chúa Giêsu là hai tên trộm cắp và cây Thập Giá ở giữa là chính Chúa Giêsu. Cái chết cô đơn của Chúa Giêsu trái nghịch với ngày Chúa Nhật lễ lá khi Ngài khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem. Đám đông người trước đó tung hô Chúa thì nay im bặt, họ né tránh, họ xa Chúa, để Chúa hòan toàn cô đơn trên cây Thập Hình.Sau cùng, Chúa đã thốt lên:” Lạy chúa, sao Chúa bỏ rơi con ?”. Chúa đã im lặng hoàn toàn, một sự im lặng thánh thiện. Mặc trần gian, mặc nhân loại, mặc mọi người la ó, kêu gào, mắng nhiếc Chúa. Cái đau đớn vẫn là sự dã tâm của con người. Một Thiên Chúa làm người đã sống gần gũi, đã giúp đỡ con người, đã làm biết bao điều tốt đẹp cho con người. Thiên Chúa ấy ngày hôm nay im lặng, trần trụi nằm giữa đồi vắng, trên cây khổ giá giữa hai tên trộm cướp chỉ vì yêu và cứu độ con người.
Vâng, chỉ có Mẹ Maria can đảm, kiên trì đứng dưới chân Thập Giá, yêu thương Con mình, đồng lao đau khổ với Con của mình.
Chỉ có thánh Gioan trung thành với Thầy Chí Thánh của mình.
Chỉ có những người phụ nữ đạo đức yêu thương Chúa chân tình mới đứng xa xa mà cảm thông với Chúa.
Bài thương khó của Chúa Giêsu gợi lên trong ta nhiều ý tưởng: Chúa vì yêu thương ta nên gánh tội cho ta dẫu người hoàn toàn vô tội. Tình yêu này là tình yêu tự hiến, hy sinh:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con chỉ một lòng mến Chúa, yêu người và chấp nhận cuộc đời, chấp nhận thử thách với tất cả lòng tin của mình. Xin cho chúng con biết vác Thập Giá mỗi ngày mà theo chân Chúa. Amen.
Sứ Điệp Phúc Âm: Những ngày cuối đời: Chúa Giêsu khải hoàn vào Giêrusalem để rồi chịu đau khổ, hành hình và chết nhục nhã trên Thánh Giá.
Câu hỏi giáo lý
1. Ý nghĩa cành lá dừa trong truyền thống Cận Đông (Near East).
Cây dừa được nhìn thấy ở những ranh giới sa mạc miền Cận Đông. Thân cây dừa thẳng tấp, vươn:Suy niệm Lễlá-119
Cây dừa được nhìn thấy ở những ranh giới sa mạc miền Cận Đông. Thân cây dừa thẳng tấp, vươn cao tạo ý nghĩa hướng thượng, linh thánh trong dân Babylon. Cành lá dừa được dùng trang trí trong các đền thờ thần thánh thời bấy giờ. Thời Cỗ La Mã, cành lá dừa tượng trưng cho vui mừng và chiến thắng vinh quang. Nó cũng được tạo thành vòng hoa chiến thắng khoác lên cổ những anh hùng dân tộc.
Người Do Thái đã dùng cành lá dừa trải đường đón Chúa vào Giêrusalem, vui mừng tung hô Ngài như một vị vua khải hoàn. Sách Khải Huyền 7:9 cành lá dừa nói lên chiến thắng của những anh hùng tử đạo và được trang hoàng trong hang toại đạo. Người Việt Nam gọi là cành thiên tuế.
Cây dừa tượng trưng cho thanh thoát và thánh thiện.
Cành lá dừa tượng trưng cho chiến thắng vinh quang. Tử đạo cũng được coi là chiến thắng. Vị tử đạo là anh hùng đáng được tặng ban cành là chiến thắng thiên tuế.
2. Lịch sử Chúa Nhật Lễ Lá
Chúa Nhật trước Chúa Nhật Phục Sinh. Chúa Nhật Lễ Lá cũng được gọi là Chúa Nhật Thương Khó (Passion Sunday) bắt đầu Tuần Thánh (Holy Week). Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hòa trộn vui và buồn. Dân chúng hoan hô Chúa như một vị vua chiến thắng khải hoàn vào Giêrusalem, nhưng đồng thời ngay sau đó, chúng ta cũng nghe Bài Thương Khó tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
Nghi thức làm phép lá và kiệu lá bắt đầu ở Giêrusalem vào thế kỷ thứ Tư. Sau đó lan tràn sang Âu Châu và những vùng phụ cận.
Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1955 phục hồi Tuần Thánh và kêu gọi giáo dân hướng về việc suy tôn Chúa Kitô là Vua chiến thắng tội lỗi, cái chết và phục sinh vinh quang.
3. Tạm Nhật Thánh hay Tam Nhật Vượt Qua (Easter Triduum)
Đó là Ba ngày Thánh cử hành ba biến cố quan trọng của Chúa Giêsu:
Thứ Năm Tuần Thánh (Holy Thursday) cử hành Bữa Tiệc Ly của Chúa (Mass of The Lord’s Supper), kỷ niệm việc Chúa lập Bí Tích Thánh Thể. Có nghi thức rửa chân, nhưng không phải là “Thánh lễ rửa chân” như ngườI ta quen gọi. Sau Thánh Lễ Tiệc Ly sẽ không có thánh lễ trên toàn thế giới cho tới tối Thứ Bảy, đêm Vọng Phục Sinh và mừng Chúa Phục Sinh.
Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday) cử hành cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (Celebration of the Lord’s Passion). Phụng vụ bắt đầu sau 3giờ chiều và phải kết thúc trước mặt trời lặn. Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày Chúa chết, ngày ăn chay kiêng thịt. Có rước lễ sau nghi thức hôn kính ảnh chuộc tội, nhưng không có “thánh lễ hôn chân Chúa!” như nhiều người hay gọi.
Thứ Bảy Tuần Thánh, Đêm Vọng Phục Sinh (Easter Vigil), cử hành Chúa Phục Sinh (Mass of the resurrection of the Lord). Đêm Vọng Phục Sinh bắt đầu bằng việc làm phép lửa, kiệu Nến Phục Sinh, Công Bố Tin Mừng Phục Sinh, Các bài đọc Cựu Ước và Tân Ước trình bày lịch sử cứu độ, lặp lại lời hứa khi Rửa Tội, Phụng Vụ Phép Rửa (Rửa tội cho người lớn), và phụng Vụ Thánh Thể.
Triduum (ba ngày thánh, cử hành ba biến cố: đau khổ, tử nạn và phục sinh của một con người là Chúa Giêsu) đòi buộc linh mục coi xứ phải cử hành cả ba và chỉ một chỗ thôi.
Lễ Lá là một lễ vui mừng, nhưng lại đượm nét buồn. Chúng ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ. Tuần thánh đã bắt đầu. Ðức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Hosana! Hosana! Tiếng hò reo vang vọng một góc trời khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng với những cánh tay đưa lên cao để tung hô Ngài là Ðấng Mêsia, là Con vua Ðavít. Nhưng một tuần sau, chính những cánh tay đó cũng giơ cao để la hét, để chửi rủa chế nhạo và để đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Ôi lòng người sao tráo trở, mau đổi trắng thay đen!
Đức Giêsu, Ngài là Con Thiên Chúa và cũng là con người, Ngài không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và bị giết chết. Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với tình yêu to lớn, và lập tức đau khổ mang đầy ý nghĩa to lớn.
Qua bài Thương Khó hôm nay, bạn và tôi, chúng ta hãy đi với Ðức Giêsu qua từng chặng đường của cuộc Khổ Nạn, từ vườn Cây Dầu đến tận Núi Sọ… Ðừng theo Chúa như một người xa lạ, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và tôi, cho bạn và cho tôi. Sau khi đã cảm nghiệm được cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, bạn và tôi sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Qua bài Thương Khó hôm nay, Ðức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi không cảm thấy đó là chuyện xa lạ. Vì trên thế giới chúng ta đang sống, mỗi ngày vẫn còn biết bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, và nhất là đi đàng thánh giá với Chúa, giúp tôi bình an hơn với thánh giá của chính mình, nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước những cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới hôm nay.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc. Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt tha thứ nào của Thầy khiến Phêrô òa khóc. Vẫn còn văng vẳng đâu đây tiếng gà và ánh mắt của Chúa trong đời tôi...
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông gào thét. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội. Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Ðức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Ðức Giêsu, tôi nhìn thấy những điểm sáng ngời: Điểm sáng đó từ nơi Simon: ông vác đỡ thập giá Ðức Giêsu trên đường lên núi Sọ. Điểm sáng đó từ nơi các phụ nữ theo sau Thánh Giá Chúa Giêsu, họ vừa đi vừa than khóc. Điểm sáng rực rỡ hơn cả từ nơi người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Ðức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng".
* * * * *
Lạy Chúa Giêsu, Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực. Vì Chúa giang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên kiết với nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Bài tường thuật của thánh Matthêu cho chúng ta thấy nhiều điều đáng buồn. Trước hết là một người bị đồng loại giết, và bị giết một cách dã man. Thứ đến đó là một bất công: người bị giết đã từng đi khắp nơi thi ân giáng phúc cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi. Trong cái chết của người ấy, có sự phản bội của một người bạn, có việc người ấy bị những người bạn thân tín nhất bỏ rơi, có việc người ấy bị một người bạn hàng đầu chối bỏ, có việc dân chúng thờ ơ và đồng loã với những kẻ thủ ác.
Nhưng, có điều gì đó khác thường trong vụ án này. Người bị kết án tử hình đã không nhượng bộ hay khuất phục những người quyền thế cả trong lãnh vực chính trị cũng như trong lãnh vực tôn giáo. Đó là một con người trung thực, sống không vì mình nhưng vì mọi người, dám đương đầu với mọi khó khăn và nguy hiểm, ngay cả cái chết. Đặc biệt người ấy có liên hệ mật thiết với một Đấng vô hình được gọi là Cha. Đối diện với cái chết, người ấy cũng trăn trở: “Tâm hồn tôi buồn đến chết được”. Nhưng lại thưa với Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con mà xin theo ý Cha.” Khi người ấy tắt thở trên thập giá, viên đội trưởng thi hành án nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” Vì tử tội là Con Thiên Chúa, nên bất chấp những điều đáng buồn trên kia, thật ra đây lại là một tin mừng. Như thánh vịnh 15 nói: Thiên Chúa đã “không đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để thánh nhân của Người hư nát trong phần mộ”. Đó chính là Tin Mừng cho tất cả mọi người vì đó là “đường về cõi sống”. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mời gọi mọi người sống xứng đáng với phẩm giá và dám sống đến cùng những lời mời gọi của Thiên Chúa.
Một người kia đẽo được ba cái cung. Cái cung thứ nhất nói với chủ: “Tôi đẹp lắm, xin ông đừng dùng, sợ hỏng mất, nhưng hãy treo lên tường làm vật trang trí.” Cái cung thứ hai nói: “Xin ông dùng tôi, nhưng kéo nhẹ thôi, kẻo tôi đau hoặc gãy mất.” Cái cung thứ ba nói: “Xin ông cứ dùng tôi như ông muốn, nếu tôi đau và ngay cả gãy dũng được, miền là tôi giúp ông đạt tới mục đích.” Lạy Chúa Giêsu, cái cung thứ ba của Thiên Chúa, xin giúp chúng con dám sống và chết như Chúa.
Đức Giê-su gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh (Gioan 13, 31)
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, gai nhọn, đinh sắt, lưỡi đồng và cuối cùng là cái chết thảm thương trên thập giá.
Nhìn lên thập giá, người ta chỉ thấy ô nhục và đau thương, thất bại và cay đắng! Vậy vinh quang của Chúa Giê-su ở đâu? Vì sao Ngài gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa Giê-su vẫn không may may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi Ngài sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, nên tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài. "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Luca 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giê-su cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng sự đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giê-su đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.
Qua cách thức Ngài đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Ngài...
Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Ngài thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giê-su chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giê-su đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngài vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ yếu hèn bạc nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng mà phản bội lại tình yêu cao vời của Chúa.
Đức Kitô tiến vào thành Giêrusalem trong vinh quang, có ngàn người chân trần, bước theo hoan hô. Vì thế Đức Kitô bị các nhà lãnh đạo tôn giáo và các luật sĩ thù ghét; trái lại đám dông dân chúng bu quanh Ngài. Họ rước Ngài vào thành miệng vang tiếng hoan ca, chân sáo nhảy múa mừng vui đón chào vị cứu tinh.
Đám đông này là những người từng thọ ơn Đức Kitô, được Chúa cứu khỏi bệnh cả xác lẫn hồn. Họ là những người trước đây có kẻ bị câm, đứa bị điếc, người cô đơn, lẻ loi. Ngoài ra còn có cả những tâm hồn đang tuyệt vọng bị xua đuổi vì bệnh tật, hất hủi vì mù loà, hà hiếp vì thế cô, sống đầu hẻm, cuối thôn, vô gia cư. Trong đó bao gồm cả kẻ vô tội bị hàm oan mang án tử hình.
Thấy Chúa tiến vào thành không ai bảo ai, không ai lãnh đạo, mời gọi. Sự việc xảy ra rất tự nhiên, nhịp nhàng, trật tự và bình an. Đám đông càng lúc càng đông, người tham gia càng lúc càng nhiều và tiếng hát càng lúc càng vang vọng. Họ cùng nhau bẻ lá cây bên đường làm cờ đón Chúa. Cùng Chúa tiến vào thành thánh Giêrusalem.
Vinh quang vào thành thánh chóng tàn. Những người đi đón rước Chúa vào thành thánh đâu ngờ những lời ca tụng nhiệt thành xuất phát từ con tim yêu mến trở thành duyên cớ kết án Chúa của những con tim sôi trào máu hận thù. Ít ngày sau những tràng pháo tay chân thành hoan hô Đức Giêsu được thay thế bằng những cánh tay nắm chặt giơ cao hét to ‘đả đảo, giết nó đi, đóng đinh nó vào thập giá’. Náo động, hỗn loạn không phát sinh từ tấm lòng son của quần chúng nhưng âm thầm vâng lệnh từ miệng sói đội lốt chiên lãnh đạo vừa xúi bẩy vừa đe doạ dân, khích động lòng nhiệt thành của quần chúng thực hành dã tâm sát nhân. Nhóm lãnh đạo đương thời coi là toà án nhân dân. Đã là dân thì làm gì có toà. Kẻ ngồi trên toà không phải dân chính hiệu mà là dân giả hình. Toà giả hình bản án là án giả. Án giả luôn bất công vì tự bản chất nó đã không tôn trọng sự thật. Như thế Đức Kitô lãnh bản án bất công.
CHIA SẺ
Đám đông vui mừng đón rước Chúa vì Chúa đến để sống với họ, cùng đồng hành với họ và cảm thông nỗi thống khổ của họ. Chúa tự nguyện biến mình trở nên con người đau khổ để cùng đồng hành, hiểu và cảm thông cảnh khổ đau với người Chúa thương.
Chúa dùng đau khổ của mình để mang niềm vui cho người. Chúa chịu nhục mang vinh quang cho ta. Chúa tự nhận thân phận nô lệ cho ta được tự do. Chúa chịu treo trên thập giá để kéo ta lên với Ngài. Chúa chịu bản án bất công để ta được nên công chính. Chúa chịu chết để ta được sống. Chúa sống lại để ta được sống ngàn thu.
LẶNG CÂM
Nhìn vào cuộc tử nạn của Chúa Ngài đóng trọn vai người tôi tớ hèn mọn. Trước mặt những nhà lãnh đạo tôn giáo và kẻ cầm quyền Ngài lặng câm, không được có tiếng nói. Bị xử bất công không ai dám biện hộ, bị xỉ vả, đánh đập ai giám tỏ lòng xót thương. Đám đông ngày nào vẫn đứng bên đường, lòng đầy xót thương nhưng miệng hô đả đảo, réo giết chết, hô hoán theo mệnh lệnh. Người mà mấy hôm trước đó họ hoan hô, vui mừng vỗ tay Chúa cứu sống, ban ơn cho nay cũng đứng lặng câm trước thế lực trần thế. Đám đông là gì mà dám lên tiếng. Muốn chết lây thì cứ việc tiến vào, ra tay. Chúa cũng âm thầm thương xót họ vì giờ Ngài chưa đến.
Chúa lặng câm diễn tả tình yêu cho kẻ khốn cùng bằng cách chấp nhận chết trên thập giá diễn tả trọn chữ tình. Tình yêu nào cao quý hơn là chết cho người mình yêu? Người Chúa yêu đứng rải rác dọc hai bên đường, xa xa ngó lại, không dám đến gần nhìn mặt ân nhân lần cuối.
TÁI DIỄN
Ngày nay vẫn còn bản án bất công, đơn từ khiếu nại, kêu oan ngâm nhiều năm tháng chưa được giải quyết, vẫn còn những toà án giả hình, vẫn còn kẻ nằm đường. Đầu thôn cuối ngõ nhan nhản bàn tay xoè xin miếng cơm, li nước, vẫn còn cảnh xua đuổi, phỉ báng và nhiều nơi cuộc sống người già bị coi thường, mạng con trẻ coi rẻ và thai nhi chưa được chôn cất theo cung cách một con người. Đức Kitô đã đồng hoá mình với tất cả những thành phần đau khổ trên. Thương họ chính là diễn tả tình thương đó với chính Chúa như lời Ngài phán dậy: khi ta đói ngươi cho ta ăn; ta khát ngươi cho uống, khi ngươi làm cho một những anh chị em hèn yếu là ngươi làm cho chính Ta.
TÌM BÀI CŨ:
Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
Trong Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta sẽ nghe toàn bộ trình thuật của Thánh Luca về cuộc Thương Khó Chúa Kitô. Chúng ta hãy đặt câu hỏi quan trọng, đó là câu hỏi mà các sách Phúc Âm đã được viết ra để trả lời. Làm sao một con người như thế lại kết thúc trên thập giá? Đâu là động lực của những kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết đã bắt đầu lưu hành từ thế kỷ qua, theo sau thảm kịch tàn sát người Do Thái, trách nhiệm về cái chết của Chúa Kitô đã đè nặng chủ yếu – và có lẽ thậm chí là hoàn toàn - trên Philatô và các giới thẩm quyền Rôma, những người có động cơ nghiêng về chính trị hơn là tôn giáo. Các sách Phúc Âm được cho là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những nhà lãnh đạo Do Thái về cái chết của Chúa Kitô, ngõ hầu trấn an giới thẩm quyền Rôma về sự hiện diện của người Kitô hữu và để tranh thủ tình bạn của họ.
Thuyết này phát sinh từ một mối quan tâm mà ngày nay tất cả chúng ta chia sẻ là làm sao diệt trừ mọi nguyên cớ cho thuyết bài Do Thái, là thuyết đã gây nhiều đau khổ cho dân Do Thái trong tay những Kitô hữu. Nhưng sai lầm nghiêm trọng nhất phạm phải cho nguyên cớ chính đáng này là người ta bênh vực nó với những luận cứ sai lầm. Trận chiến chống lại thuyết bài Do Thái phải đặt trên một nền tảng vững chắc hơn là một diễn dịch dễ gây tranh cãi (và đã bị tranh cãi) về những trình thuật Thương Khó trong Phúc Âm.
Việc dân Do Thái, trong tư cách một dân tộc, là vô tội đối với cái chết của Chúa Kitô dựa trên một xác tín Kinh Thánh mà người Kitô hữu có chung với người Do Thái nhưng hầu như đã bị lãng quên một cách lạ lùng hằng bao thế kỷ: “Con không mang lấy tội của cha, cha cũng không mang lấy tội của con” (Ezêkien 18:20). Giáo huấn của Giáo Hội chỉ biết có một tội được truyền từ đời cha tới đời con là tội nguyên tổ, ngoài ra không còn một tội nào khác.
Sau khi đã minh xác lập trường chống lại thuyết bài Do Thái, tôi muốn giải thích tại sao không thể chấp nhận sự vô tội hoàn toàn của các thẩm quyền Do Thái trong cái chết của Chúa Kitô và hệ quả đi kèm với sự vô tội này là khẳng định về bản chất thuần tuý chính trị trong bản án dành cho Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong những lá thư đầu của ngài, được viết vào khoảng năm 50, về cơ bản cũng đã đưa ra cùng một phiên bản về bản án của Chúa Kitô như trong các sách Phúc Âm. Ngài nói “những người Do Thái đã đẩy Chúa Giêsu đến cái chết” (1 Th 2:15). Về những biến cố xảy ra tại Giêrusalem không bao lâu trước lúc Chúa Giêsu đến đó, Phaolô chắc chắn phải được thông tin đầy đủ hơn chúng ta, những người đương thời, những người đã có thời kiên trì phê chuẩn và bênh vực án tử dành cho người Nagiarét này.
Không thể đọc những tường thuật về cuộc Thương Khó mà bỏ qua mọi sự xảy ra trước đó. Bốn sách Phúc Âm đều minh chứng - hầu như trong mỗi trang, chúng ta có thể nói như thế - về sự khác biệt tôn giáo ngày càng lớn giữa Chúa Giêsu và một nhóm quyền thế người Do Thái (Biệt Phái, tiến sĩ luật, kinh sư) liên quan đến việc tuân giữ ngày Sabát, thái độ đối với những kẻ tội lỗi và những người thu thuế, và về sự trong sạch và không trong sạch.
Một khi sự tồn tại của mâu thuẫn này đã được làm rõ, làm sao người ta có thể nghĩ rằng mâu thuẫn đó cuối cùng chẳng đóng một vai trò nào, và rằng những nhà lãnh đạo Do Thái đã quyết định tố cáo Chúa Giêsu cho Philatô – một việc hầu như trái với ý muốn của họ - chỉ vì lo sợ một sự can thiệp quân sự của người Rôma?
Philatô không phải là mẫu người quan tâm tới sự công chính đến độ âu lo về số phận của một người Do Thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng gây ra đổ máu chỉ vì một dấu vết rất nhỏ của mầm mống nổi loạn. Tất cả điều này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông đã ra sức cứu Chúa Giêsu không phải vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, những kẻ mà ông đã xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, điều này không giảm bớt trách nhiệm của Philatô trong việc lên án Chúa Kitô, một trách nhiệm ông đã cùng chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do Thái.
Đây không phải là chuyện muốn tỏ ra “thông biết Do Thái Giáo hơn người Do Thái”. [Nhưng] Từ những báo cáo về cái chết của Chúa Giêsu đang hiện diện trong Talmud và trong những nguồn tài liệu Do Thái khác (tuy muộn hơn và mâu thuẫn về mặt lịch sử), một sự kiện nổi lên: truyền thống Do Thái Giáo chưa bao giờ phủ nhận sự dự phần của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Kitô. Họ không bênh vực mình bằng cách chối bỏ hành động đó, nhưng, nếu có bào chữa, thì họ phủ nhận, theo quan điểm của Do Thái Giáo, cáo buộc cho rằng hành động đó cấu thành một tội ác và bản án dành cho Chúa Kitô là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “Tại sao Chúa Giêsu bị kết án tử?” sau tất cả những nghiên cứu và những đề nghị được đưa ra, chúng ta phải đưa ra cùng một câu trả lời như trong các Phúc Âm. Ngài đã bị kết án vì những lý do tôn giáo, tuy nhiên những lý do này đã được khéo léo lồng vào những thuật ngữ chính trị để có sức thuyết phục hơn với quan tổng trấn Rôma.
Tước hiệu “Messiah,” tiêu điểm cáo buộc của Đại Công Nghị Do Thái, trước tòa Philatô, đã được hóa thành “Vua người Do Thái,” và đó là tước hiệu dành cho bản án được đóng trên thập giá: “Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái.” Chúa Giêsu đã chiến đấu suốt đời Ngài để tránh sự ngộ nhận này, nhưng cuối cùng chính sự lẫn lộn này đã quyết định số phận của Ngài.
Điều này mở ngỏ cho sự tranh cãi về việc sử dụng những tường thuật cuộc Thương Khó. Trong quá khứ những tường thuật đó thường bị lạm dụng (chẳng hạn, trong những biểu hiện đầy kịch tính về cuộc Thương Khó) một cách không thích hợp, với một thâm ý bài Do Thái.
Đó là điều mà mọi người ngày nay cương quyết loại bỏ, cho dầu có thể còn sót lại một số điều cần phải làm để loại trừ khỏi những cử hành Kitô Giáo về cuộc Thương Khó những gì có thể xúc phạm đến sự nhạy cảm của anh em Do Thái chúng ta. Chúa Giêsu đã là và vẫn là, dầu gì đi nữa, món quà lớn nhất của Do Thái Giáo đối với thế giới, một ân huệ mà người Do Thái đã phải trả một giá rất đắt.
Như thế, kết luận chúng ta có thể rút từ những nhận định lịch sử này, là các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Đại Công Nghị và quan tổng trấn Rôma, cả hai đã dính líu, với những lý do khác nhau, trong bản án Chúa Kitô.
Chúng ta phải nói thêm về điều này là lịch sử không nói tất cả mọi sự kể cả những chi tiết thiết yếu. Nhờ đức tin, chúng ta biết rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu vì tội lỗi chúng ta.
Giờ đây, chúng ta hãy để qua một bên những vấn đề lịch sử, và dành ra một lúc để chiêm niệm về Ngài. Chúa Giêsu đã hành động như thế nào trong cuộc Thương Khó? Một phẩm giá siêu phàm, một sự kiên nhẫn vô biên. Không một cử chỉ hay lời nói nào ngược lại với những điều Ngài đã rao giảng trong Phúc Âm, cách riêng các mối phúc thật. Ngài đã chết đi trong khi không ngừng xin tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài.
Và không có gì nơi Ngài giống thái độ ngạo mạn của người coi thường đau khổ. Phản ứng của Ngài với khổ đau và sự tàn ác hoàn toàn nhân bản: Ngài run rẩy và đổ mồ hôi máu trong vườn Giệtsimani, Ngài muốn chén đắng được cất khỏi Ngài, Ngài tìm sự nâng đỡ nơi các môn đệ, Ngài kêu lên trong nỗi cô đơn tột cùng trên thập giá: “Lạy Chúa, Lạy Chúa con, nhân sao Chúa bỏ con?”
Một trong những nét cao thượng siêu phàm này của Chúa Kitô lôi cuốn tôi: đó là sự thinh lặng của Người. “Đức Chúa Giêsu vẫn thinh lặng” (Mt 26:63). Ngài làm thinh trước Caipha, Ngài làm thinh trước quan Philatô, Ngài làm thinh trước vua Hêrôđê, kẻ hy vọng thấy Chúa Giêsu làm một phép lạ (x. Lc 23:8). “Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại.” Thơ Thứ Nhất của Phêrô nói về Người (1 Pr 2:23)
Sự thinh lặng chỉ bị phá vỡ một lúc trước cái chết -“tiếng kêu lớn” từ thập giá sau đó Chúa Giêsu tắt thở. Điều này làm cho viên đại đội trưởng Rôma thú nhận: “Thật người này là Con Thiên Chúa.”
Cha Raniero Cantalamessa, OFM, Giảng Thuyết Viên Phủ Giáo Hoàng
Tuần Thánh nếu phải đặt tên cũng là tuần của thất vọng và hy vọng.
Nhiều người thắc mắc hỏi tại sao sự dữ xảy đến trong cuộc đời? Có người thắc mắc hỏi tôi tại sao Giavê là một Thiên Chúa quyền năng, yêu thương con người, nhưng Ngài lại nhắm mắt làm ngơ, để cho con người rớt xuống vũng bùn của mất hy vọng, của đêm đen, của bóng tối? Lắng nghe những chia xẻ, tôi nói tôi không có câu trả lời cho những câu hỏi về mối tương quan giữa cuộc sống và thất vọng. Nhưng...
I. Nỗi Niềm Thất Vọng
Tôi nói với họ là vào đêm Đức Giêsu bị bắt trong Vườn Cây Dầu, tất cả những môn đệ của Người đã hoàn toàn mất hy vọng vào Thầy của mình. Bởi thế họ đã bỏ của, bỏ Thầy, bỏ tất cả chạy lấy người. Tuy nhiên, Phêrô vẫn còn chút hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, cho nên ông đó liều lĩnh đi tới sân Tòa Án Tối Cao của người Do Thái. Nhưng rất tiếc, Phêrô cũng không khám phá ra được điều gì khác hơn ngoài việc ông tự nhiên lại mang lấy phải cái vạ chối Thầy vào người.
Tôi cũng nói với họ là vào khoảng ba giờ chiều của ngày thứ Sáu hôm đó, bầu trời của kinh thành Giêrusalem lúc đó đã tối lại càng tối đen hơn cho những người môn đệ của Đức Giêsu, khi chính họ đứng đó chứng kiến giây phút cặp mắt thất thần của Đức Giêsu đang từ từ nhắm chặt lại.
Cuối cùng, trong khi đứng nhìn tảng đá của ngôi mộ được ông Giuse Arimáthêa chầm chậm lăn lại che kín một xác chết, mọi người môn đệ của Đức Giêsu biết rằng đã không còn gì để họ hy vọng. Họ hoàn toàn thất vọng vào một tương lai trong Đức Giêsu.
II. Mầu Nhiệm Thương Khó
Về mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giêsu, tôi hỏi,
— Bạn đang đứng ở đâu trong khi những giọt mồ hôi máu đỏ của Đức Giêsu đang rớt xuống, thấm sâu vào lòng đất đen trong Vườn Cây Dầu? Bạn có nghe thấy tiếng Đức Giêsu đang năn nỉ những người môn đệ thân tín, những người bạn bè ruột thịt thân thiết trong suốt một khoảng thời gian dài là làm ơn cố gắng tỉnh thức để chia xẻ nỗi niềm cô đơn với Ngài hay không? Bạn nghĩ gì khi Đức Giêsu bị bạn bè đâm, không phải là sau lưng nhưng ngay trước mặt, bằng một cái hôn nồng nàn thắm thiết? Bạn thấy gì khi Đức Giêsu bị tất cả mọi người bỏ rơi, đứng chơ vơ giữa một rừng gươm sắc, giáo mác, và những kẻ chống đối Ngài? Trong hoàn cảnh bơ vơ lạc loài này, Đức Giêsu sẽ quay sang ai để tìm kiếm cảm thông, chia xẻ, và an ủi? Bạn có thấy Đức Giêsu, một người vô tội đang bị người ta đánh đập tra khảo vì những tội danh hoang đường vô lý hay không? Bạn có nhìn thấy vòng gai sắc nhọn đang đâm thâu qua đầu Ngài? Máu đỏ lại rơi xuống. Thịt da lại rách tan.
Bạn có ước lượng được cây thánh giá đang đè lên vai của Đức Giêsu nặng khoảng bao nhiêu pounds hoặc là bao nhiêu ký hay không? Có thể chúng ta vẫn không bao giờ biết được sức nặng thật sự của cây thánh giá, nhưng ít ra chúng ta biết là cây thập giá nặng lắm, nếu không Đức Giêsu đã không té ngã ba lần dưới sức nặng của hai cây gỗ đan chéo vào nhau. Cả ba lần Đức Giêsu té ngã xuống mặt đường ngập đầy đá sỏi của kinh thành Giêsuralem, bạn đang làm gì? Bạn đứng ở đâu? Bạn có thấy Ngài té ngã xuống mặt đường, và đá sỏi tiếp tục cào rách nát khuôn mặt của Ngài ra không?
Và tôi tiếp tục,
— Trên đỉnh núi Sọ, bạn có nghe thấy tiếng búa sắc nhọn đang đập xuống những đầu đinh, và những đầu đinh sắc nhọn đang đâm xuyên qua hai chân và hai tay của Đức Giêsu hay không? Bạn có thấy trời đang kéo mây đen che kín đỉnh đồi Calvê hay không? Bạn nghĩ gì khi đất đá của Núi Sọ rung động, mồ mả của những người đã chết bật tung nắp, màn trong đền thờ Giêrusalem xé rách ra làm hai vào giây phút Đức Giêsu nhắm chặt mắt lại? Bạn nghĩ gì khi bộ ngực gầy gò ốm yếu của Đức Giêsu không còn di động lên xuống theo nhịp thở yếu ớt nữa?
III. Mầu Nhiệm Phục Sinh
Nhưng tạ ơn Trời, tạ ơn Đất, tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì câu chuyện thất vọng của năm xưa không dừng lại ở đoạn ông Giuse đang từ từ lăn tảng đá che kín lại ngôi mộ đá. Hai ngày sau, sứ thần từ trời cao ngự xuống đẩy tảng đá che kín ngôi mộ của Đức Giêsu sang một bên. Nhờ thế người ta mới biết là ngôi mộ được niêm phong bởi lệnh của Quan Tổng Trấn Philatô tự nhiên trở thành ngôi mộ trống (Mátthêu 27:62-66). Nhờ những người phụ nữ Do Thái dẫn nhau đi ra ngôi mộ vào buổi sáng sớm của ngày hôm đó, người ta mới biết xác Đức Giêsu đã biến mất. Ngôi mộ đá đã lạnh ngắt lại càng trở nên lạnh ngắt với khăn liệm nằm chơ vơ lạc loài (Máccô 16:1-8, Luca 24:12). Nhờ Maria Mađalêna còn vấn vương với ngôi mộ trống sau khi Phêrô và người môn đệ được Đức Giêsu thương mến đã bỏ về nhà, chúng ta mới biết ngôi mộ đá trở nên ngôi mộ trống chính vì Đức Giêsu đã sống lại (Gioan 21:11-18). Và nhờ hai người môn đệ, một người tên là Clêôpas, thất vọng bỏ thành phố Giêrusalem ra đi, chúng ta mới hiểu tại sao ngôi mộ của Đức Giêsu đã trở thành ngôi mộ đá trống (Luca 24:13-35). Nhờ những người môn đệ của Đức Giêsu mất hy vọng bỏ về lại Bắc Galilê tiếp tục hành nghề ngư phủ trên Biển Hồ, chúng ta mới biết Đức Kitô đã thực sự phục sinh, bởi vì Ngài đã hiện ra bên bờ biển vào một buổi sáng sớm, trong khi những người ngư phủ đang thất vọng với khoang thuyền trống vắng không một con cá (Gioan 21:1-14). Nhờ những nhân chứng phục sinh tiên khởi vừa được liệt kê ở trên, chúng ta biết ngôi mộ đá trở thành ngôi mộ trống bởi vì Đức Giêsu đã phục sinh, và Ngài trở thành Niềm-Hy-Vọng cho mỗi người trong chúng ta.
Trong phạm trù Kitô học, Đức Kitô Phục Sinh trở thành Niềm-Hy-Vọng cho mọi người trong chúng ta bởi vì Ngài cũng đã từng thất vọng với cuộc sống. Trong nguyện đường của thị trấn Nazareth, Ngài thất vọng nói, “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương của mình” (Luca 4:24). Trong Vườn Cây Dầu, Ngài buồn phiền thở than, “Lạy Cha! Nếu được, xin cất chén đắng này xa con” (Máccô 14:36). Trên đỉnh núi Sọ, Ngài thất vọng kêu lớn tiếng, “Lạy Chúa! Lạy Chúa! Sao lại bỏ rơi con”? (Matt 27:46).
Cuộc sống nào mà lại không có những nhọc nhằn, những phiền muộn, và những thất vọng? Đức Giêsu cũng đã từng thất vọng, nhưng Ngài không bao giờ tuyệt vọng. Lúc nào Ngài cũng chấp nhận và tin tưởng vào bàn tay quan phòng diệu kỳ của Thiên Chúa quyền năng, mặc dù Ngài thất vọng vào đám đông của thị trấn Nazaret, những người đồng hương đang bịt mũi khinh bỉ gốc gác thợ mộc của Ngài. Lúc nào Ngài cũng hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn rực rỡ hơn, dù rằng Ngài đang bị mọi người bỏ rơi trong Vườn Cây Dầu. Lúc nào Đức Giêsu cũng hy vọng vào Nước Trời mặc dù ánh mắt của Ngài đang lạc thần, mờ đi, và xám đen lại vào khoảng 3 giờ chiều của ngày thứ Sáu hôm đó. Và đúng như Ngài đã từng tin tưởng, chấp nhận, và hy vọng, cuối cùng Ngài đã sống dậy từ trong kẻ chết, và Ngài đã trở thành Đức Kitô Phục Sinh. Ngài trở thành Niềm-Hy-Vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta về một cuộc sống với niềm hy vọng vào một Thiên Chúa quyền năng nhưng nhân hậu.
Suy Niệm
Ai trong chúng ta lại chẳng có những lúc sống với thất vọng, với tuyệt vọng? Ai trong chúng ta lại chẳng có những giây phút hoàn toàn mất tin tưởng vào ngày mai bởi vì giấc mơ của mình trong vòng bao nhiêu năm vừa chợt sụp đổ như hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế đang từ từ sụp đổ vào một buổi sáng mùa thu ngày 11 tháng 9 năm 2001? Ai trong chúng ta chẳng có những lúc bừng con mắt dậy, thấy mình trắng tay? Tương tự như Giuđa và Phêrô đã từng một lần cảm nghiệm, giờ này chúng ta mất hết, bây giờ chúng ta trắng tay!
Những mất mát trong cuộc sống khiến ai chẳng cảm thấy buồn phiền tiếc nuối. Cách đây khá lâu, có rất nhiều người cũng đã cảm nghiệm được sự mất mát to lớn cho một giấc mơ. Nhìn hòn đá đang từ từ che kín ngôi mộ, nhiều người có cảm tưởng mình đang lăn tảng đá chôn lấp giấc mơ của chính mình. Còn gì nữa mà mơ! Có người bỏ về làng tiếp tục nghề đánh cá. Có người âm thầm ngồi than khóc trong bóng tối. Có người treo cổ tự sát.
Cuộc sống là một tổng hợp của những buồn và vui, khóc và cười, mất và được. Có những lúc nổi giận, đốt hết. Có những lúc từ bi, thứ tha. Có những lúc mất hết, trắng tay. Những mất mát trong đời là một phần của cuộc sống. Chấp nhận mất mát cũng như chấp nhận ánh sáng ban ngày và bóng tối ban đêm. Chấp nhận mất mát cũng như chấp nhận mình đang còn trẻ và mình cũng đang già. Chấp nhận mất mát cũng như chấp nhận mình là con của bố và của mẹ, có những người chị, người anh, và người em.
Nhưng chấp nhận không thì cũng chưa đủ. Phải hy vọng, hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn, rực rỡ hơn. Hy vọng như người con hoang đàng, hai người phụ nữ, một người bên giếng nước Giacóp, một người trong nhà ông Biệt Phái Simon, đã hy vọng những dĩ vãng những lỗi lầm của mình sẽ được quên đi, sẽ được xóa nhòa. Hy vọng như Phêrô đã từng hy vọng là mình sẽ được thứ tha. Thất vọng như Giuđa đã từng tuyệt vọng vào một ngày mai. Cành cây bên vệ đường là nơi người mất hy vọng tìm đến. Một sợi dây treo lên, một mạng người rớt xuống. Hy vọng như hai người môn đệ trên đường Emmau. Vào một buổi sáng mùa Xuân, có hai người mất hy vọng đang đi với nhau. Nhưng Niềm-Hy-Vọng đã tới với họ. Niềm-Hy-Vọng chuyện trò với họ. Và bởi Niềm-Hy-Vọng, họ quyết định quay về Giêrusalem, thành phố của mất hy vọng. Họ quay về để tạo dựng lại một niềm hy vọng mới. Bao nhiêu người chứng kiến cảnh tảng đá đang từ từ chôn lấp một xác chết. Họ thất vọng. Họ cảm nghiệm đắng cay cho một mất mát. Nhưng rồi họ lại hy vọng, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Cuối cùng đúng như họ mơ ước Mùa Hy Vọng của Kitô Giáo đã tới gần hai ngàn năm.
Nhân vào Tuần Thánh 2008, nhắc nhở, tưỡng niệm về Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, chúng con suy gẩm về Con Người Nhập Thế bí nhiệm của Thiên Chúa qua hai lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Người than thở nguyện cầu, kêu đến Đức Chúa Cha. Đức Chúa Giêsu đã kêu cứu đến Đức Chúa Cha hai lần, đầu và cuối cuộc tử nạn. Trong hai lần kêu đó, con thấy ẩn một sự đau khổ vô biên khát khao van xin và một chút âu yếm đòi hỏi !? Hai lần kêu than của Chúa Giêsu đã làm con thương cảm khóc lóc và đau xót vô ngần, và đã ám ảnh con từ thuở còn bé nhỏ đến già. Con đã suy gẩm và cảm thấy Chúa Giêsu đau khổ vào thời khắc ấy và kéo dài đến ngày nay, còn hơn chính ngay lúc đang ở vào trung tâm cuộc tử nạn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng cũng chính thật rất người qua hai câu cầu nguyện và nói chuyện cùng Đức Chúa Cha vào hai thời điểm đầu và cuối cuộc tử nạn.
Câu thứ nhất là lời cầu nguyện trong vườn Giệt-Sê-Ma-Ni: Trước khi đi chịu cực hình, Chúa Giêsu đem các môn đệ tới một nơi cho họ nghĩ, rồi dẩn theo Phêrô và 2 môn đệ khác theo người đi một quảng, người nói: “Lòng ta buồn rầu quá đổi muốn chết được, các con hãy ở lại đây mà thức với ta.” Rồi Chúa bước xa ra mấy bước sấp mình xuống đất cầu nguyện rằng:
“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén đắng nầy xa ra khỏi Con, nhưng không phải theo ý Con! mà là theo ý Cha.” (Theo Phúc Âm thánh Mathêô, Marco và Luca)
Người cầu nguyện như vậy ba lần, mà vẩn lập lại một câu nói như trên mà thôi. Con cảm thấy thảm sầu trong trí nảo và trong trái tim quá đổi, thương cảm Chúa quá, biết giải thích làm sao cho cùng. Thương ôi, Người là Chúa Tể Toàn Năng của vủ trụ vô biên mà đành chấp nhận làm một ‘Con Người-thật-là-Người trước một khổ hình kinh khiếp không phải chỉ vì đau khổ vật chất mà còn hơn nữa là đau khổ tinh thần’. Chúa Giêsu vô cùng tình cảm, Người hãi hùng, run en trong thân xác Con Người và Thánh Linh Thiên Chúa.
Chúa đi trở lại thấy các môn đệ ngủ thì nói rằng: “Thế các con không thức với ta được một giờ hay sao?...” Người muốn tìm một chút tình cảm nơi các môn đồ nhưng không có. Người trách họ không có chút tình cảm an ủi Người trong cơn đau khổ. Điều nầy nói lên Chúa Giêsu khao khát lòng yêu mến, sự an ủi đền bồi phạt tạ của chúng ta biết chừng nào!! “Hãy tỉnh thức mà cầu nguyện kẻo sa cơn thử thách. Tâm thần thì sẵn sàng nhưng xác thịt thì yếu nhược.” Chính Người nói với Người (vì các môn đồ phần lớn đều ngủ, hay chập chờn ngủ) và nói với chúng ta.
Chúng ta thấy vào giây phút đó Chúa bị cám dổ không muốn uống chén đắng, nhưng vì phải tuân theo chương trình Cứu chuộc của Cha trên trời, Chúa chấp nhận uống tận cùng chén đắng. Thiên Chúa mặc xác người mà còn sợ yếu nhược, còn phải sợ sa chước cám dổ huống chi chúng ta.
Hởi ơi ! Chúa là đấng toàn năng, thiếu gì cách Chúa cứu nhân loại, cớ sao người phải chịu khổ hình làm vậy!! Nhưng Chúa muốn vậy, Chúa cố tình làm như vậy, chỉ vì trí khôn hèn mọn của chúng ta chỉ cảm được sự thật hiển nhiên. Từ đó chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa, lòng yêu thương lớn lao của Người đối với nhân loại trở nên dễ dàng cho chúng ta hiểu. Đồng thời Người muốn chúnh ta cũng phải hiểu rằng đó cũng là con đường mà chúng ta phải đi, nhất quyết phãi đi để đến với Thiên Chúa như một sự thanh tẩy qua lữa đau khổ.
Thât vậy, nơi đây Chúa Giêsu chứng minh cho chúng ta thấy ‘Theo Người’ chúng ta không thể có con đường nào khác ngoài việc chấp nhận chén đắng đau khổ, chấp nhận tử đạo liên lỉ !
Chúng con cảm thấy khiếp sợ, khi Chúa gởi chén đắng cho chúng con, nhưng chúng con được phép van xin “Ước gì sự đau khổ, đói nghèo, chiến tranh, tội lỗi, sa đọa trụy lạc xác thịt, tham lam của cải chức quyền địa vị thế gian xa ra khỏi chúng con….”. Nhưng Chúa đã chịu quá nhiều đau khổ thay cho chúng ta, giờ đây Người nói: “Hởi con đau khổ và gánh nặng, hãy đến cùng Cha, Cha sẽ làm cho nó ra nhẹ nhàng…” để nâng đở chúng con trên bước đường thử thách khó khăn vô tận.
Lời kêu than thứ hai với Đức Chúa Cha: Cuối cùng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá. Khi sức hơi Người đã mỏn mòi, Chúa thấy công việc Cứu Thế của Người hoàn tất, đáng ra Chúa vui vẻ mà trối phú Thánh Linh trong tay Đức Chúa Cha, nhưng Người lại đau khổ vạn bội đến nổi Chúa la lớn tiếng lên một lời than vản hãi hùng với Đức Chúa Cha, tại sao vậy?:
“Ớ Cha, vì cớ nào mà Cha bỏ Con.” (Phúc Âm theo thánh Gioan)
Đây là lời Lời cầu cứu Đức Chúa Cha thứ hai và cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi người phú linh hồn trong tay Chúa Cha. Câu nói của Chúa Giêsu nghe thật áo nảo, buồn phiền, thảm thương làm sao!! Câu nói nghe như nhuốm vẻ âu yếm trách móc và thất vọng nảo nùng: Trên thập giá, Chúa Giêsu thấy công việc cứu chuộc đã hoàn tất, ngài sắp trút linh hồn để về cùng Đức Chúa Cha. Vậy thì tại sao ngài còn đau khổ quá đổi mà thốt lớn lên câu than thở trên ?
Trên Thánh Giá sắp đến giờ lâm chung, Chúa Giêsu thấy trước, số người không hưỡng nhờ công ơn cứu chuộc của Người quá ít; số người phản bội Người trên thế gian, mà nhất là ngày nay, quá lớn, quá thập bôi lớn hơn hàng tỷ lần người được cứu rổi. Vì thế Người đau khổ quá mà thốt lên câu thập phần thất vọng trên.
Thêm nữa, Chúa Giêsu thương yêu chúng ta vô cùng vô tận, Chúa hiểu rõ rằng trong cuộc đời trần gian nầy, dù chúng ta tin cậy Chúa đến đâu cũng có nhiều giây phút, nhiều ngày, nhiều tháng hay cả nhiều năm, chúng ta yếu đuối sa ngã, thì ngay lập tức Satan lợi dụng những khoảng khắc đ1o mà lôi cuốn chúng ta theo nó. Chúng ta cũng cảm thấy đơn côi cô độc, và cảm thấy như Chúa đã bỏ chúng ta mất rồi. Vì vậy Chúa đưa ra một trình trạng áo nảo để dạy chúng ta, trong những hoàn cảnh như vậy thì hãy chạy đến cùng Chúa cất lớn tiếng than “Chúa ơi, vì sao mà Chúa bỏ con vậy, hở Chúa?”. Thánh Thần Ngài sẽ đến với chúng ta ngay lập tức trong chương trình mầu nhiệm của Người như Đức Chúa Cha đã đến với Người.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia chỉ trong thời gian ba năm, và trong một vùng nhỏ bé so với trái đất, Chúa đã đuổi ma quỉ ra khỏi thân xác biết bao nhiêu người, kể cả với vị môn đồ mà Người chọn lựa thay mặt Người trên trần thế là Phêrô. Vậy thì ngày nay trên quả địa cầu này, với số người lên đến trên 8 tỷ, thì sẽ có biết bao nhiêu người bị quỉ ám, trong đó có thể có cả con. Xin Chúa hãy đuổi Satan xa ra khỏi chúng con. Xin đuổi chúng đi thật xa ra khỏi những kẻ đang bị quỉ ám, và quá nhiều tuổi thanh xuân, tuổi bé thơ, hàng tu sĩ và hàng giáo phẩm đang đắm chìm trong trụy lạc xác thịt !!! Chúng con khẩn cầu Chúa luôn luôn và mãi mãi hãy đuổi Satan xa ra khỏi dân Chúa. Xin Chúa hãy nhậm lời, chúng con khẩn nài.
Với Phụng vụ chúa nhật Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu Tuần Thánh, tuần lễ trọng đại nhất trong chương trình phụng vụ của Giáo Hội, vì trong tuần này kế hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa bước vào giai đoạn quyết định và hoàn tất với cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Ðức Giêsu. Bởi vậy, Phụng vụ Lễ Lá liên kết tất cả những sự kiện sẽ xảy ra, mà chúng ta sẽ cử hành trong trong Ba Ngày Vượt Qua sắp tới (thứ năm, thứ sáu và đêm phục sinh) và đồng thời chúng ta coi đó như là tượng trưng cho cuộc sống chúng ta. Thật vậy, trọng tâm của Phụng vụ Ba Ngày Vượt Qua là cuộc khổ nạn, sự chết và biến cố Phục Sinh của Ðức Giêsu, những dữ kiện đã trở thành biểu tượng quan trọng cho cuộc sống con người, cho những thử thách đau khổ và cho những hạnh phúc của nó!
Bởi vậy, Ðức Giêsu, con vua Ða-vít, đã long trọng tiến vào thành Ða-vít, vào thành đô của Người, vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Chính nơi đây, trong thành thánh này, sẽ diễn ra cuộc khổn nạn, sự chết và sự sống lại vinh hiển của Ðức Giêsu, Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Cũng vì thế, Giê-ru-sa-lem đã mang trên mình một dấu tích lịch sử quan trọng và đầy ý nghĩa. Vâng, chính trong thành Ða-vít, trong thành của Người, trong thành thánh này, Người đã chịu mọi nhục hình đau khổ, bị chết và rồi đã đạt tới sự vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, Giê-ru-sa-lem đã trở thành «thánh địa», nơi Thiên Chúa, Ðấng mà Ðức Giêsu luôn đầy lòng tin tưởng phó thác, lại đã tự mặc khải mình ra một lần cuối cùng bằng một cách thức hoàn toàn mới mẻ: Người là Ðấng «Ta-là-Ðấng-hiện-hữu». Như vậy, thành Giê-ru-sa-lem đã trở nên trung tâm và trục nối kết cuộc thảm trạng và niềm hạnh phúc của cuộc sống Ðức Giêsu. Giê-ru-sa-lem là nơi đã xảy ra sự khốn cùng và sự đau khổ của Thiên-Chúa-làm-người. Nhưng cũng chính nơi đây, trong thành thánh này, Thiên Chúa đã biến đổi sự bất hạnh thành hạnh phúc, sự chết thành sự sống, và mở ra một tương lai vĩnh cửu cho tất cả những ai tin tưởng vào Người! Quả vậy, Giê-ru-sa-lem trở thành một biểu tượng sống động và đầy lôi cuốn của sự chiến thắng tử thần, của sự sống trên sự chết, và trở thành quê hương của sự cứu rỗi sau cùng!
Vì thế, Phụng vụ Lễ Lá mời gọi tất cả chúng ta hãy làm sống động lại biến cố Ðức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem bằng cuộc rước lá từ nơi làm phép lá tiến vào nhà thờ, với mục đích là hiện tại hóa cuộc đón rước Ðức Giêsu xưa vào trong chính cuộc sống chúng ta, Vì thế, ai biết đón nhận lời mời gọi đó và cùng các tín hữu khác tham gia một cách đầy xác tín và sống động vào cuộc rước lá, người đó có thể tìm gặp được thành Giê-ru-sa-lem của Ðức Kitô ngay tại nơi đây! Dưới hình thức và dấu chỉ của Phép Thánh Thể, người đó sẽ hoàn toàn hòa mình vào cuộc sống đầy bi đát và hạnh phúc của Ðức Giêsu và ngay trong cuộc sống đời này, người đó đã có thể cảm nghiệm được rằng những khổ đau bi đát của cuộc sống mình sẽ được biến đổi thành niềm hạnh phúc trong một cuộc sống sung mãn. Và cũng như Ðức Kitô, người đó sẽ cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa, Ðấng «Ta-là-Ðấng-Hiện-Hữu» sẽ dẫn đưa đời mình vào trong một tương lai hạnh phúc tươi sáng khôn lường!
Trong bài thơ “Thói đời”, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vần thơ lột tả sự tráo trở trong thái độ sống của con người:
“Được thời thân thích chen chân đến Thất thế hương lân ngoảnh mặt đi”.
Suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su càng thấy rõ nhân tình thế thái, thấy sự tráo trở, đổi trắng thay đen của lòng dạ con người.
1. Đám đông dân chúng
Dân thành Giê-ru-sa-lem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đa-vít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, Pha-ri-sêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi !” Hai thái độ trái ngược nhau của dân chúng: hoan hô và đả đảo, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Đám đông thường nông nổi nhẹ dạ, vô ý thức và do đó vô trách nhiệm. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn: người ta hoan hô, mình hoan hô, người ta đả đảo mình đả đảo, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao.
2. Giu-đa It-ca-ri-ốt
Trong Ki-tô Giáo, Giu-đa phản bội Thầy là một sự kiện nổi tiếng. Nổi tiếng vì bán Thầy với giá ba mươi đồng bạc ( Mt 27, 3 ). Một môn đệ được tuyển chọn, được huấn luyện, Giu-đa vinh dự thuộc về nhóm 12, được giao trọng trách quản lý. Nhưng lòng tham lam của cải vật chất đã đẩy Giu-đa đến chỗ phản bội. Giu-đa đi gặp các thượng tế và nói: "Tôi sẽ được gì nếu tôi nộp Ngài cho các ông ?” Họ đã trả cho hắn ba mươi đồng bạc, và từ đó hắn tìm dịp để nộp Chúa Giê-su cho họ” ( Mt 26, 16 ). Một cuộc buôn bán lớn nhất trong mọi thời đại nhưng chỉ được ba mươi đồng bạc là giá của một nô lệ vào thời đó ! Khi giá cả đã thoả thuận, các thượng tế mang ba mươi đồng bạc và đặt vào tay Giu-đa.
Tám trăm năm trước, Gia-ca-ri-a đã nói tiên tri: “Nếu các ông thấy là được thì trả công cho tôi; nếu không thì thôi. Và họ đã trả công cho tôi là ba mươi đồng bạc” ( Dcr 11, 12 ). Trong bữa tối vào ngày hôm sau, Chúa Giê-su tỏ ra buồn phiền: “Có người trong các con sắp phản Thầy” ( Mt 26, 21 ). Các môn đệ nhìn nhau và hỏi: “Có phải con không, Thưa Thầy ?” Giu-đa cũng hỏi: Thưa Thầy, có phải con không ? Chúa trả lời: “Con nói đúng đó !” Giu-đa đi ra, “lúc đó là đêm tối”...
Bằng nụ hôn giả dối, Giu-đa chỉ điểm để quân lính bắt Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu ( Lc 22, 50 ). Giu-đa có quyền dự tiệc bê béo, nhưng lại chọn thờ lạy bò vàng. Chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy, lòng Giu-đa đầy hối hận ( Mt 27, 3 ). Tội ác vừa phạm xong, Giu-đa đã thấy chán chường. Hối hận tận đáy thâm sâu của tâm hồn, Giu-đa đem mối sầu ấy đi gởi chỗ không đáng gởi “Giu-đa ném các đồng bạc trả lại vào mặt các thượng tế và nói: Tôi đã phản bội, nộp máu người vô tội". ( Mt 27, 4 ).
Trước sự tráo trở của các thượng tế và kỳ lão: “Can chi đến chúng tôi, mặc kệ anh” ( Mt 27, 4 ), Giu-đa ném những đồng bạc đó vào Đền Thờ và ra đi xuống thung lũng Hin-nom, thung lũng đầy kỷ kiệm khủng khiếp của âm ty. Giu-đa bước đi trên đất lạnh cát sỏi, giữa những tảng đá nhọn sắc, những cây cối cong queo gầy guộc như tâm hồn trĩu nặng nỗi đớn đau. Giu-đa cởi dây lưng quăng một đầu dây vào vào một cành cây to, đầu dây kia quàng quanh cổ. Tiếng gió rì rào như thầm nhắc lời mà Giu-đa đã từng nghe: “Hỡi những ai khó nhọc gánh nặng, hãy đến cùng Ta, tâm hồn các con sẽ được bình an”.
Than ôi ! Giu-đa hối hận vì chính mình nên chọn cái chết để kết liễu lầm lạc. Mặt trời nghiêng bóng tối dần. Ở Si-on, từ hai phía đối diện, có hai cây đi vào lịch sử, một cây ở núi sọ: cây hy vọng, một cây ở Hinmon: cây thất vọng. Trên cây hy vọng, Đấng Chịu Đóng Đinh liên kết đất trời; trên cây thất vọng, người bị treo xa đất xa trời. Hối hận của Giu-đa không đúng nghĩa hối hận. Chán chường tội lỗi không đủ mà cần phải ăn năn thống hối nữa. Tỉnh ngộ và chán chường mới chỉ là bước đầu, cần phải sám hối trở về đón nhận ơn tha thứ, tìm lại sự sống.
3. Giới lãnh đạo Do-thái
Vì ghen ghét mà giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã chủ mưu trong vụ án giết Chúa Giê-su ( Mt 27, 18 ). Dân chúng mến phục ủng hộ, nhiều người tin vào Chúa Giê-su. Ảnh hưởng của Người ngày càng lớn trên dân chúng. Cuộc xung đột không những về quan niệm tôn giáo mà còn liên quan đến quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo nên họ quyết tâm giết Chúa Giê-su. Đạo Do-thái là đạo của đền thờ, đạo của lễ tế. Dịch vụ lễ tế là một dịch vụ quan trọng về phương diện tôn giáo và cả về kinh tế. Hàng tư tế sống nhờ vào lễ tế. Lễ tế của dân, dịch vụ cung cấp những phương tiện lễ tế như bán chiên bò cừu bồ câu hương hoa và cả dịch vụ đổi tiền. Gia đình các tư tế, con dâu con rễ của họ độc quyền khai thác dịch vụ này.
Vậy mà Chúa Giê-su lại dám xua đuổi họ không cho buôn bán trong khuôn viên Đền Thờ. Người còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Theo Gio-an, lời thách thức quyền bính của Chúa Giê-su có ý ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người ( Ga 2, 21 – 22 ). Nhưng giới lãnh đạo hiểu là đền thờ Giê-ru-sa-lem nên họ coi là sự xúc phạm Đền Thờ. Thách thức phá huỷ Đền Thờ, dẹp bỏ những phương tiện của lễ tế, quả thật là tội không thể tha thứ. Vì thế mà họ căm thù và tìm cách giết Người cho bằng được. Những người Pha-ri-sêu sống trong thế giới tách biệt, không chấp nhận dân ngoại, loại trừ người tội lỗi, giữ luật cách máy móc nô lệ. Còn Chúa Giê-su thì sống hoà mình giữa những người tội lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với họ, đến với dân ngoại. Người phê bình sự giả hình của người Pha-ri-siêu. Người lại còn không giữ luật ngày Sa-bát, vì đối với Người “Ngày Sa-bát đựoc lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát” ( Mt 2, 27 ). Người còn xưng mình là Con Thiên Chúa ( Mt 26, 61; Mc 14, 58 ).
Trước bao nhiêu là “tội trạng” của Chúa Giê-su, Thượng Hội Đồng đã tuyên án. Nhưng họ không còn quyền lên án và xử tử bất cứ ai vì quyền đó thuộc quyền của toà án chính quyền bảo hộ. Vì thế họ phải nộp Chúa Giê-su cho Tổng Trấn Phi-la-tô. Theo Mác-cô và Mát-thêu thì Chúa Giê-su bị thẩm vấn về hai tội danh: một là Người đã xúc phạm đến Đền Thờ khi tuyên bố “Tôi sẽ phá huỷ Đền Thờ này, rồi nội trong ba ngày sẽ xây dựng lại” ( Mt 26, 61; Mc 14, 58 ); hai là tự xưng mình là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa ( Mt 26, 63; Mc 14, 61 ). Trong Tin Mừng theo Lu-ca chỉ thấy nói nói đến tội danh thứ hai ( Lc 22, 67 ).
Trong Tin Mừng theo Gio-an nói tới việc thượng tế hỏi Chúa Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người ( Ga 18, 19 ). Họ tài tình khéo léo khi biến tội danh tôn giáo thành tội danh chính trị “Chúng tôi phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” ( Lc 23, 2 ). Tội xúi giục nổi loạn, tội ngăn cản dân nộp thuế cho nhà vua, tội xưng mình là vua. Cả ba tội đều đáng chết, không một chính quyền nào có thể dung tha. Vụ án Chúa Giê-su rõ ràng là vụ án tôn giáo chứ không phải là một vụ án chính trị, mặc dầu hình thức xử tử và tội danh được ghi trên đầu Chúa Giê-su là như thế. Người bị đóng đinh, theo luật Rô-ma và với tội danh là “Vua dân Do-thái” chứ không bị ném đá theo luật Do-thái và với tội danh Con Thiên Chúa. Chủ mưu trong vụ án là dân Do-thái, nhất là những người lãnh đạo của họ, Thượng Hội Đồng. Họ đã thành công, sung sướng mãn nguyện khi dẹp yên một chướng ngại lớn lao.
4. Tổng Trấn Phi-la-tô
Vì hèn nhát mà Phi-la-tô đã đổ máu người vô tội. Trách nhiệm chính trong cuộc xét xử đứng về mặt pháp lý là Phi-la-tô, ông ta ý thức rõ điều đó ( x. Ga 19, 10 ). Biết Chúa Giê-su vô tội mà vẫn kết án ( x. Ga 18, 38; 19, 4.6 ). Kẻ đại diện cho công lý lại chà đạp công lý. Phi-la-tô hèn nhát không dám tha vì sợ quần chúng đang cuồng nộ. Lo sợ nguy hiểm cho chức quyền của mình nên chủ trương thà bảo vệ chức quyền hơn bảo vệ công lý. Trước áp lực ghê ghớm của đám đông đang bị hàng tư tế xách động, Phi-la-tô đã chiều theo ý họ để giữ lấy cái ghế Tổng Trấn của mình. Ong đã kết án tử hình cho Chúa Giê-su, trao Người cho dân Do thái điệu lên đồi Gôngôtha để đóng đinh. Phi-la-tô rữa tay phân bua mình vô tội trong vụ án này ( Mt 27, 24 ).
5. Xin được sống yêu thương
Suy nghĩ về vài nhân vật, ít sự kiện trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, cũng đủ thấy con người hay thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay. Vì tham lam, vì bổng lộc cá nhân, vì lợi lộc đảng phái, vì quyền lợi giai cấp, con người ta không từ một thủ đoạn nào. Có khi còn bán rẻ lương tri để mua một chút vinh hoa trần thế.
Giữa Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của người tín hữu. Hôm nay hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế. Có thể ngày mai gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh nó vào thập giá. Hôm nay yêu thương, ngày mai oán ghét. Hôm nay hân hoan, ngày mai buồn sầu. Hôm nay hiền hòa, ngày mai hung dữ. Hôm nay tin tưởng, ngày mai hoài nghi. Danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài.
Cuộc sống có nhiều tiêu cực hơn tích cực ? Con người làm khổ nhau nhiều hơn là làm đẹp lòng nhau ? Người ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương ? Tôn vinh Chúa ở trong Nhà Thờ nhưng có sống Tin Mừng trong cuộc đời không ?
Chúa Giê-su bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án cách bất công để cứu nhân loại khỏi án phạt đời đời. Người đã chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội, để cứu độ con người. Người cho chúng ta được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, cho chúng ta “được sống dồi dào”.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giê-su đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người. Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương qua cuộc khổ nạn ( x. 1 Cr 15, 26. 54; Dt 2, 14 ), để từ trong cái chết vì tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới ( Ga 12, 24 ).
Xin Chúa cho chúng con luôn sống yêu thương, biết đem Tin Mừng bình an đi xây dựng cuộc đời.
Cao điểm của năm phụng vụ là Tuần Thánh -bắt đầu từ chủ nhật Lễ Lá- Giáo Hội mời gọi chúng ta nghe tường thuật lại toàn bộ sự việc mà Phúc Âm của thánh Mát-thêu đã nói về Chúa Giê-su trong những ngày cuối đời của Ngài ở trần gian, đó là sự khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, lập bí tích Thánh Thể và bí tích truyền chức Linh Mục, khổ nạn và chết trên thập giá, rồi ba ngày sau phục sinh vinh hiển.
Hôm nay, bạn và tôi đều vào vai của những người Do Thái xưa kia, cầm những cành là vạn tuế tung hô đón rước Chúa Giê-su long trọng khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, chỉ khác một điều là bạn và tôi không la hét cuồng loạn hoan hô như họ, nhưng trong thâm tâm bạn và tôi đều suy đến việc Chúa Giê-su chính là vị vua cả trời đất đang cỡi trên mình con lừa từ từ tiến vào đền thờ, vị vua khiêm cung và hòa bình, yêu thương và tha thứ, nhẫn nại và ban ơn.
Hôm nay, bạn và tôi đều vào vai của những người Do Thái xưa kia tung hô Chúa Giê-su: “Vạn tuế Con vua Đa-vít”, nhưng ngày mai cũng chính bạn và tôi vung nắm tay lên la lớn: “Đóng đinh nó vào thập giá, đóng đinh nó vào thập giá”, bằng những tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến tình yêu của Ngài, bởi vì mỗi một tội chúng ta phạm, dù là lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ cũng đều là những cái đinh nhọn mà chúng ta đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá lần thứ hai.
Hôm nay, bạn và tôi cùng vào vai của Phê-rô nhiều lần tuyên xưng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng có lời ban sự sống đời đời, nhưng rồi sau đó vì sợ liên lụy đến mình nên đã chối không biết người thầy thân yêu của mình là ai ! Rồi có những lúc trong cuộc sống, bạn và tôi cũng đóng vai của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là kẻ đã nhẫn tâm bán thầy mình ba mươi đồng bạc, khi chúng ta ham mê danh vọng, quyền chức, tiền tài để rồi chối bỏ Thiên Chúa là Cha, Chúa Giê-su là Đấng cứu chuộc loài người chúng ta.
Bạn thân mến,
Bắt đầu Tuần Thánh với bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su thật ấn tượng, gây xúc động cho rất nhiều người và cho chúng ta nữa. Bước vào Tuần Thánh bạn và tôi, ngoài việc quyết tâm sống xứng đáng là môn đệ của Chúa Giê-su, thì cần phải gia tăng sự cầu nguyện, kết hợp mật thiết với từng giây phút cuối đời của Chúa Giê-su tại trần gian này, để chúng ta biết cùng chết cho tội lỗi và được sống lại với Chúa Giê-su Phục Sinh.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
---------------------------- http://www.vietcatholic.net/nhantai http://360.yahoo.com/jmtaiby jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đưa cộng đoàn chúng ta tới một khung cảnh hoàn toàn ngược lại với nghi thức đầu lễ. Thật vậy, với cử hành KIỆU LÁ, tưởng niệm cuộc VÀO THÀNH của Chúa Giêsu, chúng ta cùng hô vang lời cung chúc Giêsu, vạn tuế Đấng Nhân Danh Chúa mà đến, chúng ta sống lại những giờ phút khải hoàn vinh quang của một Vị Vua chiến thắng tiến vào thủ đô của vương quốc Ngài giữa hàng hàng lớp lớp thần dân với rừng hoa sắc lá và nhứng tiếng hoan hô dậy đất vang trời… Trong khi đó giờ đây, ngay từ Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-i-a, hình ảnh Người Tôi Tớ Gia-vê “đưa lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho ngươì ta giật râu”… đã từ từ khắc hoạ chân dung của một Đấng Cứu Thế đang tiến vào cuộc khổ nạn. Tiếp đến là bài thánh ca trong thư Phaolô gởi giáo đoàn Philíp, ca tụng một “Đức Kitô vâng lời cho đến chết và chết trên cây Thập tự”, như một lời tuyên xưng miên viễn về mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh của Con Một Thiên Chúa. Ấn tượng nhất lại chính là trình thuật Thương khó mở ra trước mắt chúng ta bi hùng kịch Tử Nạn, như một cuộc hồi ức, một tưởng niệm về hình ảnh và các biến cố sau cùng của Thầy Chí Thánh, những hình ảnh đã khắc sâu trong tâm khảm của muôn thế hệ ki-tô hữu. Tại sao Phụng Vụ hôm nay lại trình bày hai khung cảnh trái ngược nhau như thế trong cùng một cử hành ?
1. Một Mầu nhiệm hai chiều kích:
Để trả lời cho câu hỏi đó, thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại một đôi lời trong kinh nguyện Phụng vụ hôm nay:
Lời nguyện Nhập lễ: “Chúa đã muốn cho Đấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc Thương Khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người.”
Kinh Tiền Tụng: Người là Đấng vô tội, đã cam chịu khổ hình thay cho những người tội lỗi, và bằng lòng chịu kết án bất công thay cho kẻ gian tà. Người đã chết để tẩy trừ tội lỗi, và đã sống lại để thánh hóa chúng con”.
Hội Thánh cầu nguyện thế nào, thì Hội Thánh cũng tin tưởng như thế. (Lex orandi lex credendi). Trong cử hành mầu nhiệm khai mạc Tuần Thánh với cuộc rước lá long trọng tưởng niệm Chúa tiến vào Thành Thánh trong vinh quang của Đấng Mêsia, Hội Thánh như muốn đưa đoàn Dân Chúa tiến bước với Đức Kitô đi vào Vương Quốc Thiên Chúa trong vinh quang rạng ngời của ngày chiến thắng khải hoàn. Tuy nhiên, để vươn tới chiến thắng rực rỡ huy hoàng đó, đoàn Dân Chúa phải cùng vượt qua với Đức Kitô đoạn đường dài chông gai khổ nạn, thập giá mà phần Phụng vụ Lời Chúa là một cắt nghía rõ nét và sống động, nhất là trình thuật Thương Khó của các Tin mừng Nhất lãm.
Qua cuộc cử hành hôm nay, Phụng vụ một lần nữa nhắc nhở cho chúng ta rằng: Thập giá, cái chết của Đức Kitô trong chương trình kỳ diệu của Chúa Cha lại trở thành dấu hiệu, thành phương thế, thành cơ hội để Thiên Chúa được tôn vinh và con người được cứu rỗi. Thiên Chúa thường hay làm những chuyện cắc cớ như thế: cái mà ma quỉ, con người cho là bỏ đi, là thấp hèn, khiêm tốn… thì Thiên Chúa có thể biến thành cái vĩ đại khôn lường: Thập giá, sự chết, sự thất bại tan nát của Con Một Thiên Chúa: trước mặt địch thù, ma quỉ, thế gian, quả thật đã trở thành “đồ hư vất bỏ”, đã trở nên “kẻ chiến bại”…, Nhưng Thiên Chúa qua đó “Thu họp tất cả muôn dân…”, ”Ta có bị treo lên….”, ”Ngài đã chết để chiến thắng sự chết và sống lại ban nguồn sống mới…”.
Và như thế, chúng ta có thể nói được rằng: Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá là sự cắt nghĩa rõ nét nhất ý nghĩa của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức kitô, một mầu nhiệm duy nhất luôn mang hai chiều kích không thể tách lìa: Tử Nan – Phục Sinh.
2. Thương Khó và những bài học đức tin.
Và nếu Phụng vụ đã khẳng định rằng: “Chúa đã muốn cho Đấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo”, thì bài học cho hôm nay cũng như cho mọi ngày của người kitô hữu phải chăng đó là sự Tự Hạ thẳm sâu của Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa. Bài thánh thi của thư Philíp đã như một cắt nghĩa thâm thúy qua hai hình ảnh, hai tác động đối xứng nhau: “lên” và “xuống”
Nếu ngay từ buổi đầu lịch sử nhân loại, Adam đã muốn lên "bằng Thiên Chúa" và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu của tội lỗi và sự chết. Còn “Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn". Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu...” Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.”
Kể từ Ađam cho đến mãi hôm nay, con người luôn bị cám dỗ tự cao tự đại, luôn chỉ muốn đạp lên mọi thứ, mọi người để chiếm cho bằng được “chỗ nhất”, để được “lên cao”. Bao nhiêu hận thù, ganh ghét, chiến tranh, chết chóc, khủng bố, bạo lực….cũng đều phát sinh từ cái “tự cao” vô duyên và tội lỗi đó.
Hãy theo con đường của Đức Giêsu, con đường vâng lời và từ bỏ. Qua con đường này, Ngài đã được Thiên Chúa tôn lên làm Đức Chúa. Đó cũng chính là con đường của Đức Maria, con đường của người chấp nhận mang thân phận“nữ tỳ hèn mọn”, để được “Người đoái thương nhìn tới”, sẵn sàng làm “kẻ khiêm nhường” để được “Người nâng cao”…([1])
Và trong lịch sử của Hội Thánh, có biết bao nhiêu con nngười đã quyết chọn con đường của Đức Kitô, con đường tự hạ, con đường chết đi, như lời tâm niệm ngọt ngào của thánh Phanxicô khó khăn: "Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
Trong mầu nhiệm Thương Khó mà Phụng Vụ hôm nay khơi lên, chúng ta còn tìm thấy ý nghĩa của tình yêu và sự tha thứ.
Thật vậy, nổi đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nổi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Đức Kitô đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chắc chắn nhờ ánh sáng đó, mà trong trại tù Auschwitz, một trại tù nổi tiếng của Đức Quốc Xã giam giữ những người Do thái, người ta đã tìm được một lời cầu nguyện rất cảm động như sau:
“Lạy Chúa, xin đừng chỉ nhớ đến những người thiện chí, mà hãy nhớ cả những kẻ ác tâm. Đừng chỉ nhớ những nỗi khổ đã đổ dồn xuống chúng con, mà cũng hãy nhớ đến những hoa trái mà các đau khổ ấy đã sinh ra cho chúng con: tình bạn chân thành, sự khiêm tốn, lòng can đảm, tính quảng đại và con tim nhân ái. Khi những người hành hạ chúng con phải ra trước toà Chúa phán xét, xin cho tất cả những hoa trái ấy thành những lời xin ơn tha thứ cho họ.”
Và như thế, sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô hôm nay chính là biết mở lòng ra với mọi người để yêu thương và tha thứ, để chịu đựng và khoan dung, như lời kinh thuở nào của thánh Phanxicô: “Đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp…”.
3. Bi kịch Thương Khó giữa đời thường hôm nay:
Chúng ta đang cùng toàn Dân Chúa tiến vào bắt đầu tuần lễ sống lại những biến cố sau cùng mang ơn cứu độ của Chúa Giêsu, từng bước khám phá tư cách làm Con Thiên Chúa của Đức Kitô, tư cách “Người anh của muôn vạn đứa em”; hôm nay một lần nữa, chúng ta tái khẳng định niềm tin vào sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Và như thế, “Bi kịch Thương Khó” không còn chỉ là một cử hành phụng vụ nơi Thánh đường, mà phải trở nên hiện thực giữa đời thường cuộc sống.
Dĩ nhiên, tuần lễ nầy là dịp tốt nhất để chúng ta điều chĩnh lại cuộc sống vốn đã bao lần chối từ, phản bội, lệch lạc…Nhiều khuôn mặt trong Thảm kịch thương khó sẽ xuất hiện trong Tuần Thánh nầy để chúng ta nhận ra khuôn mặt của chính mình. Vâng, hãy nhìn lại khuôn mặt của chính mình để xét xem thử có chút gì đó giống cái “bản mặt” trâng tráo phản bội của Giuđa khi trong đời thường cuộc sống, đã lắm lần chính ta đã dùng những cử chỉ và lời nói đãi bôi để phản bội lẫn nhau; xem thử có giống cái mặt trơ trẻn của Phêrô khi hèn nhát chối bỏ đức tin trước những thử thách hay những đe dọa đến miếng cơm manh áo; xem thử có giống cái mặt hung dữ, nham hiểm của mấy ngài tư tế, thượng tế khi ác độc, hận thù tìm cách loại trừ kết án cho được những người dám nói sự thật hay những kẻ bất đồng quan điểm với mình; xem thử có giống cái mặt giả nhân giả nghĩa mị dân của Hêrôđê, Philatô khi sẵn sàng vứt bỏ công lý, tình người để duy trì những quyền lợi cá nhân, gia đình hay phe nhóm; có giống những gương mặt hồ đồ của đám dân Do Thái tiền hậu bất nhất, chỉ chực hùa theo đám đông và sẵn sàng vô tâm kết án những thân phận hiền lành thấp cổ bé miệng…
Cũng ước mong sao trong những ngày Tuần Thánh nầy, trên khuôn mặt và trong trái tim của mỗi người chúng ta vẫn còn đọng lại một chút gì đó nổi xót thương ngậm ngùi của Đức Mẹ, nổi xót xa thống hối của Phêrô, nổi thương đau giúp đỡ của Simêon, nổi đồng cảm hiệp thông của những người phụ nữ Salem, tâm tình kính mến, đau buồn của môn đệ Gioan, hay niềm xác tín và tràn trào hy vọng của tên trộm lành…Mà không phải chỉ để sống lại một thái độ và tâm tình sướt mướt ủy mị, nhưng là một thái độ đức tin sâu xa và can đảm sẵn sàng chết đi cho những tăm tối tội lỗi, yếu hèn để thật sự sống lại với Đức Kitô Phục sinh trong nổi vui ngút ngàn của Ngày Chúa sống lại. Amen.
Khi tưởng niệm cuộc khải hoàn của Đức Giêsu, là tín hữu, chúng ta có thể dựa vào các nhân vật trong bài tường thuật mà thấy mình theo Đức Giêsu trong tâm trạng nào, mình chờ đợi gì nơi Người, còn chính Người đang chờ đợi gì nơi chúng ta.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- NGỮ CẢNH
Theo bố cục của Tin Mừng Mt, sự cố được tường thuật lại đây là mở đầu cho tuần lễ cuối cùng của cuộc sống Đức Giêsu trên trần thế. Kể từ biến cố Đức Giêsu vào Giêrusalem cho đến bữa tối cuối cùng rồi Người bị bắt, bị xử, bị đóng đinh, và sống lại, Mt theo chính xác thứ tự của TM Mc, ngoại trừ truyện cây vả được sắp xếp lại một chút (x. 21,18-22 = Mc 11,22-26). Trong Mt, cuộc tiến vào “khải hoàn” và việc “thanh tẩy” Đền Thờ xảy ra trong cùng một ngày, đó là ngày thứ nhất Đức Giêsu ở lại Giêrusalem; trong Mc, các sự việc ấy được tách ra đặt vào hai ngày khác nhau. Mt giữ lại tất cả chất liệu của Mc ngoại trừ bài học từ câu truyện đồng xu của bà goá (x. Mc 12,41-44).
Cuộc tiến vào Giêrusalem trong bầu khí khải hoàn trên một con lừa là hình ảnh đối lại với cuộc tiến lên Núi Sọ, dưới khối nặng của thập giá. Họi Thánh đang nhớ lại cuộc Thương Khó của Chúa, nhưng cũng báo trước vinh quang (hôsanna) Phục Sinh. Đây là cuộc tỏ mình công khai của Đức Giêsu cho quốc gia nên hẳn cũng là một đề nghị mà Họi Thánh sơ khai một lần nữa ngỏ với các thành viên Hội đường để họ chấp nhận Đấng Mêsia thuộc dòng dõi vua Đavít (x. 23,37-39).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu tổ chức cuộc diễu hành (21,1-7); 2) Đức Giêsu tỏ mình (21,8-11).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Giêrusalem (1): Đây là kinh đô của miền Giuđê, cũng là Sion, trung tâm tôn giáo của dân Do-Thái, vì có Đền Thờ.
- Chúa (3): Sự hiểu biết và quyền chúa tể của Đức Giêsu được Mt nhấn mạnh đặc biệt ở đây.
- Đức Giêsu cưỡi lên (7): dịch sát là “cưỡi lên chúng (= hai con lừa)”; đây là một hình ảnh khó mà hình dung được. Người ta có thể tránh khó khăn này bằng cách coi “chúng” đây là các “áo choàng”. Bản dịch CGKPV Bốn sách Tin Mừng (tr, 95) cho một lời giải thích hợp lý: “Đơn giản nhất có lẽ là Mát-thêu muốn đưa lời Da-ca-ri-a (thật sự chỉ nhấn mạnh tới con lừa con mà thôi) cho hợp với trường hợp của Chúa Giêsu (thật sự có hai con lừa), mà không quan tâm tới chuyện trục trặc”.
- hôsanna (9): Từ ngữ Híp-ri hôsý‘ah-nna’, hay hôsha‘-na có nghĩa là “Xin trợ giúp (hay Xin cứu độ), con cầu nguyện”. Đây là một phần trích từ câu Tv 118,25.26, sau này thành một lời tung hô.
- náo động (10): Động từ eseisthê (động từ seiô được dùng 3 lần trong Mt) diễn tả những hiện tượng đi theo việc khai mở thời đại cánh chung. Ở Mt 27,51, động từ này loan báo hiện tượng động đất đi theo cái chết của Đức Giêsu. Ở 28,4, động từ này diễn tả nỗi kinh hoàng đến nỗi ra như chết của những người lính canh vào lúc Đức Giêsu sống lại (x. 2,3-7).
.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Đức Giêsu tổ chức cuộc diễu hành (1-7)
Tác giả ghi nhận rằng chính Đức Giêsu muốn có cuộc diễu hành này, và Người đã lên kế hoạch thực hiện. Điều này cho hiểu là Đức Giêsu ý thức Người là Đấng Mêsia, Người làm chủ tình hình; Người có uy thế hơn các đối thủ của Người. Quả thế, Mt nêu bật rằng các môn đệ làm theo “lời Đức Giêsu đã truyền” (c. 6). Ngoài ra, vâng phục Đức Giêsu là nét tiêu biểu của người môn đệ. Lời tự xưng Đức Giêsu nói với hai môn đệ khi gửi họ đi (“Chúa”, c. 3) nhắc nhớ tới đức tin của Họi Thánh vào Đức Kitô Phục Sinh. Trong khi cộng đoàn nhắc lại một sự cố đầy ý nghĩa thuộc về Đức Kitô lịch sử, cộng đoàn lại loan báo sự hiệp thông của mình với Đức Kitô Phục Sinh (“Chúa”). Quang cảnh sắp được kể tự nó đã khá rõ, nhưng tác giả theo thói quen thấy cần minh họa bắng hai câu trích Kinh Thánh (Is 62,11: “Hãy bảo thiếu nữ Sion” và Dcr 9,9 nói về đức vua hòa bình). “Thiếu nữ Sion”trong truyền thống ngôn sứ là Israel cánh chung được nhân cách hóa, ở đây là dân cư Giêrusalem. Ở Dcr 9,9, vị ngôn sứ nói “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ”, Mt tránh lời mở đầu này bằng cách dùng công thức của Is 62,11. Ông không cảm thấy sẵn sàng mời thành thánh vui lên khi mà chẳng bao lâu nữa ông sẽ phải lên án thành này. Bản văn Is có giọng kiên quyết “Hãy bảo” nhằm nhắc nhở dân Thiên Chúa.
Bản văn của Dcr thì chi tiết hơn, nhưng Mt chỉ nhắc đến những chi tiết nào phù hợp với đề tài ông đang bàn. Ông chủ ý bỏ những tên gọi “Đấng Công Chính và Đấng Toàn Thắng” để tránh làm cho người ta nghĩ đến một chiến binh hay một nhà chinh phục. Giêrusalem là thành vua Đavít, nhưng từ lâu đã phải quy phục Dân Ngoại; nay thành thấy tái xuất hiện bên trong vòng tường thành vị vua của chính mình, đã được Thiên Chúa hứa ban từ thời xa xưa (x. 2 Sm 7,14). Tuy nhiên, để dân chúng đừng hiểu lầm Đức Giêsu đến trong tình trạng khiêm nhu hiền hậu, chịu suy phục. Người là đức vua của các anawým (những người nghèo), hơn là vua của những ghibborým (những người mạnh) vẫn chầu quanh vua Đavít (x. 2 Sm 1,19.21).
* Đức Giêsu tỏ mình tỏ mình (7-11)
Ý nghĩa thiên sai của cuộc biểu dương lại còn được nêu bật bởi con số đông đảo dân chúng tham gia (chỉ Mt ghi nhận điểm này), bởi những cử chỉ họ làm (trải áo và vẫy các cành lá) và bởi các lời tung hô. Khi trải áo của mình trên con lừa và trên đường, các môn đệ và đám đông chỉ làm một điều là xác nhận phẩm cách của Người (x. 2 V 9,13). Khi ghi nhận rằng người ta “chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi” (khác với Lc 19,17 và Mc 11,8), Mt muốn nhắc lại Tv 118,25-26 trong đó gợi tới những nghi thức người ta làm trong dịp Lễ Lều: dân chúng đi rước lên Đền thờ, tay vừa phất các cành lá linh thánh (lubab) vừa hát các câu tung hô rút từ Tv 118 (x. thêm 2 Mcb 1,9; 10,6). Lễ Lều nhắc lại thời gian sống trong sa mạc, nên cũng gợi đến cuộc xuất hành và giải phóng khỏi Ai-cập; do đó, cuộc cử hành Lễ Lều làm thức tỉnh lại những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia cả nơi dân chúng lẫn cấp lãnh đạo. Trong khung cảnh này, bài tường thuật việc Đức Giêsu vào Thành thánh là một sứ điệp rất khéo bố trí mà Mt gửi đến cho cộng đồng Israel. Các lời tung hô xác nhận ý nghĩa của cuộc diễu hành đang diễn tiến. Tiếng hò la là một thể văn thuộc về nghi thức các cuộc tôn vương (x. 1 V 1,39). Lời cầu chúc của đám đông được diễn tả lặp đi lặp lại bằng từ ngữ Híp-ri hôsý‘ah-nna’, hay hôsha‘-na (Hy-Lạp hôsanna) cũng rút từ Tv 118,25, ghép với danh xưng “con vua Đavít” không có trong Tv. Lúc đầu “hôsanna” là một tiếng kêu khẩn cầu và nài van (“xin ban ơn cứu độ”), nhưng với thời gian đã trở thành một lời diễn tả niềm vui và sự chờ đợi Đấng Mêsia. Tên gọi “con vua Đavít” được làm giảm nhẹ và được sửa chữa bởi câu diễn giải của Tv 118,21: “Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa”.
Để tránh mọi hiểu lầm, Mt đã bỏ bản văn Mc 11,10 (“Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời”). Đức Giêsu là con vua Đavít, nhưng triều đại Người không thuộc về thế gian này (x. Ga 18,36). Câu cuối cùng “Hoan hô trên cõi trời cao” xác nhận mối bận tâm này. Cuộc diễu hành rất có thể trở thành một cuộc duyệt binh thật ra là một cuộc rước mang tính phụng vụ trong đó người ta khẩn khoản thỉnh cầu Thiên Chúa thực hiện những lời hứa ban ơn cứu độ. Đấng Mêsia là một sứ giả của Thiên Chúa, sẽ mang đến cho loài người không phải là các của cải trần gian nhưng là các phúc lành của trời cao.
Đám đông tham dự vào cuộc rước dường như là đoàn người đã đi lên với Đức Giêsu từ Giêrikhô (20,29.34). Mt phân biệt họ với dân cư Giêrusalem đang lãnh đạm chứng kiến sự cố. Phản ứng của dân chúng Giêrusalem (“cả thành” là một lời phóng đại, nhưng nói lên ý muốn kéo toàn thể khối đông dân chúng vào việc loại trừ Đấng Mêsia) được diễn tả bằng những từ ngữ đầy kịch tính (“náo động”). Sự rúng động này không phải là về thiên nhiên nhưng về tinh thần. Tất cả Giêrusalem biết rằng họ đang ở vào khoảnh khắc cuối cùng của lịch sử và đang ở trước một biến cố lạ lùng: gặp gỡ với Đấng Cứu độ hoặc Đấng Thẩm phán của họ. Câu hỏi họ đặt ra cho đoàn người đang tiến đi chứng tỏ điều này. Đám đông đang đi rước đã làm chứng, nhưng chứng từ của họ quá nghèo nàn: “Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, miền Galilê đấy”.
Danh xưng “ngôn sứ” thì không rõ ràng gì mấy, bởi vì Gioan Tẩy Giả cũng được gọi như thế (11,9; 14,5; 21,26; x. 16,14; 21,11; 21,46), và lại còn là một ngôn sứ cao cả (11,9). Lời nhắc đến Nadarét và Galilê chỉ càng khiến cho người ta bớt tín nhiệm Đức Giêsu (13,57; x. 23,37; Ga 1,46). Ngoại trừ ở 2,23 (để dùng Kinh Thánh mà biện minh cho xuất xứ của Đức Giêsu) vẫn tránh gọi Đức Giêsu là người Nadarét hoặc Galilê; nếu tên ấy có trở lại, là trên môi miệng các đối thủ Đức Giêsu (26,69). Tuy nhiên, ở đây Mt vẫn để cho đám đông nhắc đến: “Vị ngôn sứ Nadarét”, đối tượng khiến người Giêrusalem phải ngạc nhiên hay gai chướng, cũng chính là con cháu vua Đavít vừa mới được hoan hô.
+ Kết luận
Cuộc biểu dương này ngay tại trụ sở của Do-Thái giáo chính thức là bằng chứng tối hậu Đức Giêsu cung cấp cho quốc gia Do-Thái. Tại toà án Rôma, chính Philatô đã giới thiệu Đức Kitô-vua cho người Do-Thái Giêrusalem (x. Ga 19,14). Còn ở đây lại chính là những người Do-Thái bán ngoại giáo của miền Galilê làm công việc đó. Cả hai lần giới thiệu đó đều được kết thúc bằng một sự phủ nhận, nhưng lịch sử dân Do-Thái không thể xoa bỏ quang cảnh này đi được nữa. Chỉ khi Israel cũng tham gia vào cuộc khải hoàn của Đấng Mêsia Nadarét, họ mới có thể được thừa hưởng ơn cứu độ (x. Mt 23,39).
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đức Giêsu đã đứng ra tổ chức cuộc tiến vào Giêrusalem. Như thế, không phải là Người đã “hớ hênh” để rồi bị bắt và đưa đi xử tử. Chính cách thức Người chọn (ngồi trên lưng lừa, không có quân lính tiền hô hậu ủng) cho hiểu là Người là Đấng Mêsia thuộc nhà Đavít, nhưng không như Đấng Mêsia dân Israel hằng mong đợi.
2. Vũ khí của Người là sự hiền hậu; với vũ khí này, Người sẽ đánh bại sự ngạo mạn của những kẻ tội lỗi và nhất là ban sự tin tưởng lại cho những người yếu thế (x. 18,1-6), cho những người nghèo (x. 5,3-4; 11,28-30), những người bị áp bức. Con vật Người cưỡi phù hợp với sứ mạng này. Đấng Mêsia đã đi vào Giêrusalem, không phải như một nhà giải phóng quốc gia, nhưng như một đưa vua hòa bình. Đức Giêsu là đức vua thiên sai được ngôn sứ loan báo, nhưng ngược lại với các nỗi niềm chờ mong, Người không đến ban tặng cho dân cư Giêrusalem chiến thắng trên quân thù, nhưng ban tặng ơn cứu độ và tình bằng hữu của Thiên Chúa.
3. Hôm nay, chúng ta thấy mình ở trong đám đông nào? Đoàn người đi theo Đức Giêsu từ Giêrikhô hay dân cư Giêrusalem? Chúng ta thấy mình được tượng trưng bởi đoàn người vẫn đang đi theo Đức Giêsu: đây là Họi Thánh lữ hành đang tiến đi mà loan báo cho cà người Do-thái (cc. 10-11) lẫn Dân ngoại (x. 28,19) biết Đức Giêsu là “con cháu vua Đavít”, là Đấng Cứu độ loài người. Chúng ta mời gọi mọi người đón tiếp một Đấng Mêsia nghèo hèn và khiêm nhường.
- Ðã bao lần chúng ta nghe đọc bài Thương Khó, nhưng có khi nào chúng ta cảm được tình thương bao la của Ðức Giêsu khiến Ngài phải chịu bao đau khổ như thế vì chúng ta không?
- Trong cuộc Thương khó, Ðức Giêsu đã hạ mình xuống đến mức thẳm sâu nhất. Phần chúng ta, chúng ta lại thường thích nâng mình lên.
- Ðức Giêsu đã phán "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình và vác thập giá mà theo". Chúng ta có thực hiện lời Ngài dạy không?
III. LỜI CHÚA
1. Bài Tin Mừng khi kiệu lá (Mt 21,1-11)
Trong trình thuật của mình, Thánh Matthêu giới thiệu một Ðấng Messia mà toàn dân trông đợi. Nhưng đó không phải là một Ðấng Thiên sai sử dụng quyền lực để thống trị, mà là một vị Thiên sai khiêm nhu, hiền hậu, không một vũ khí trong tay. Hình ảnh Ðấng Thiên sai hiền hòa đó đã được ngôn sứ Dacaria miêu tả: "Hãy bảo thiếu nữ Sion: Kìa Ðức vua của ngươi đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ". Thánh Matthêu cố ý không trích dẫn câu "Ngài là người công minh và hiển hách" để tránh cho người nghe ý nghĩ về một Ðấng Thiên sai quyền lực lẫm liệt uy phong. Ðối với Matthêu, Ðức Giêsu là Ðấng Thiên sai khiêm tốn, giản dị, hiền hòa như con cừu người ta đem đi sát tế. Ngài luôn luôn vâng theo thánh ý Ðức Chúa Cha với tất cả tâm tình của người con thảo. (Trích số đặc biệt của Báo Công giáo và dân tộc, Giáng sinh 98, trang 140-141).
2. Bài đọc Cựu Ước (Is 50,4-7)
Ðây là phần đầu bài ca thứ ba của Người Tôi Tớ trong sách Isaia. Có 3 ý chính:
- Người Tôi Tớ không chống lại Thiên Chúa. Ngược lại luôn tỉnh táo nghe Lời Ngài. - Người Tôi Tớ không dùng bạo lực để chống lại bạo lực. - Người Tôi Tớ đặt trọn niềm tin cậy phó thác vào Thiên Chúa là Ðấng sẽ đến giải thoát mình.
3. Ðáp ca: Tv 21
Tv này là tiếng than van của người đang phải chịu khổ đến cùng cực, đến nỗi có lúc người đó tưởng như Thiên Chúa cũng bỏ rơi mình. Dù vậy, tác giả cũng vẫn một niềm trông cậy vào Chúa, nên sau những lời than thống thiết đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa và còn kêu gọi mọi người hãy cùng mình chúc tụng Chúa.
Trong lúc bị đóng đinh trên Thập giá, Ðức Giêsu đã dùng Tv này để cầu nguyện.
4. Bài thánh thư (Pl 2,6-11)
Ðức Kitô có thể làm một Ðấng Messia chiến thắng buộc mọi người phải công nhận uy quyền của mình. Thế nhưng Ngài muốn làm một Người Tôi Tớ hạ mình cho đến tận cùng.
Ðáp lại thái độ hạ mình khiêm tốn ấy, Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Ðức Chúa của muôn loài muôn vật.
5. Bài Thương khó (Mt 26,14--27,66)
Bốn bài thương khó trong các sách Tin Mừng đều có chất liệu và bố cục gần giống nhau, nhưng mỗi quyển Tin Mừng nhấn mạnh một ý tưởng khác nhau: Máccô sử dụng như một bài giảng truyền giáo; Luca nhấn mạnh đến lòng nhân hậu của Ðức Giêsu; Gioan nhấn mạnh đến sự tự do và vương quyền của Ðức Giêsu; còn bài thương khó của Mátthêu thì giống như một bài giáo lý cho biết Giêsu là ai. Bài thương khó trong Mátthêu có thể chia làm 2 phần: Ðức Giêsu với các môn đệ, và Ðức Giêsu với các nhà cầm quyền Do Thái và Rôma.
- Ðức Giêsu với các môn đệ: phần này diễn ra trong phòng tiệc ly và vườn Cây Dầu. Mặc dù Ngài rất thương mến các ông, nhưng Phêrô chối Ngài, Giuđa nộp Ngài và các môn đệ kia bỏ Ngài.
- Ðức Giêsu với các nhà cầm quyền: Mátthêu muốn cho thấy trách nhiệm của các nhà cầm quyền đối với cái chết của Ðức Giêsu. Giuđa đã mang tiền trả lại cho các thượng tế nhưng các ông không nhận và tiếp tục ung dung xúc tiến vụ án. Bà vợ của Philatô khuyên chồng đừng nhúng tay vào vụ án. Nhưng sự can thiệp này không kết quả.
Khi Ðức Giêsu tắt thở, lời của viên đại đội trưởng chính là câu trả lời cho câu hỏi giáo lý ("Giêsu là ai"): "Quả thật người này là Con Thiên Chúa".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Lên và xuống
Ðoạn thư Philipphê ngầm so sánh Ðức Giêsu với Ađam và nói lên cái nghịch lý giữa "lên" và "xuống": Ađam đã muốn lên "bằng Thiên Chúa" và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Ðức Giêsu "tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn". Kết quả là "Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu...". Thật đúng như lời Ðức Giêsu đã nói "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên".
Chúng ta cũng thường theo con đường của Ađam, tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Nhưng cái "mình" mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngoài chứ không phải là bản thân thực sự của mình. Hãy theo con đường của Ðức Giêsu, con đường vâng lời và từ bỏ. Qua con đường này, Ngài đã được Thiên Chúa tôn lên làm Ðức Chúa. Thánh Phanxicô Assisi đã xác tín điều ấy: "Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân".
2. Bài học của Ðức Giêsu chịu đau khổ
Chúng ta nghĩ gì khi nghe bài tường thuật cuộc thương khó của Ðức Giêsu? Phải chăng chúng ta xúc động vì một người vô tội mà phải gánh chịu biết bao đau khổ như thế? Phải chăng chúng ta giật mình nhìn lại bản thân để xem coi mình thuộc về loại "cây khô" gồm những kẻ lạnh lùng hành khổ Ngài, hay "cây xanh" đang vui lòng chịu khổ như Ngài?
Nhưng còn một bài học khác đáng chúng ta để ý hơn: Ðức Giêsu đã tha thứ cho tất cả những kẻ làm khổ Ngài, những người có mặt hôm đó cũng như những người của các thế hệ về sau, trong đó có chính chúng ta nữa. Bài học Chúa dạy là phải liên kết lại cả 3 yếu tố: đau khổ, tình yêu và tha thứ.
3. Lời nguyện xin tha
Trong trại tù Auschwitz, một trại tù nổi tiếng của Ðức Quốc Xã giam giữ những người Do Thái, người ta đã tìm được một lời cầu nguyện rất cảm động như sau: Lạy Chúa, xin đừng chỉ nhớ đến những người thiện chí, mà hãy nhớ cả những kẻ ác tâm.
Ðừng chỉ nhớ những nỗi khổ đã đổ dồn xuống chúng con. mà cũng hãy nhớ đến những hoa trái mà các đau khổ ấy đã sinh ra cho chúng con: tình bạn chân thành, sự khiêm tốn, lòng can đảm, tính quảng đại và con tim nhân ái.
Khi những người hành hạ chúng con phải ra trước toà Chúa phán xét, xin cho tất cả những hoa trái ấy thành những lời xin ơn tha thứ cho họ.
4. Xử án Thiên Chúa
Tôi có một giấc mơ. Tôi mơ thấy ngày tận thế. Hàng tỉ tỉ người tập trung tại một cánh đồng rộng lớn trước toà Thiên Chúa để chờ Ngài xét xử. Nhiều người sợ hãi. Nhưng nhiều khác nổi giận.
Một phụ nữ nói: "Sao Chúa có thể xét xử chúng tôi được? Ngài có biết gì về đau khổ đâu! Chúng tôi đã phải chịu khủng bố, đánh đập, tra tấn và giết chết." Vừa nói bà vừa vạch tay áo cho thấy một con số do một trại tập trung Ðức quốc xã xâm vào cánh tay bà.
Tiếp theo, một người đàn ông da đen cúi đầu xuống, để lộ một sợi dây thừng đang quấn quanh cổ ông: "Tôi đã bị buộc cổ như thế này chỉ vì tội làm người da đen, bị rứt khỏi những người thân yêu, rồi bị dẫn xuống chiếc tàu chật cứng như nêm, bị bán làm nô lệ, làm việc nặng nhọc cho đến chết".
Sau đó, một cô gái với dòng chữ "con hoang" khắc trên trán lên tiếng: "Tôi phải chịu đựng sự sỉ nhục này vượt sức... vượt sức...". Cô nghẹn ngào không nói tiếp được.
Nhiều tiếng nói khác tiếp theo... Mọi người đều trách Chúa vì những khổ đau họ đã gánh chịu khi còn sống. Ngài sung sướng quá vì cứ sống ở trên trời chỉ toàn ngọt ngào và sáng láng, chẳng hề có một chút mồ hôi, nước mắt, đói khát, sợ hãi, hận thù. Bởi vậy Ngài có biết gì về những nỗi khổ của loài người đâu!
Thế rồi họ nhất trí xử Ngài phải xuống sống ở trần gian. Tuy nhiên phải làm sao cho Ngài sống y như một người thường không ai biết Ngài là Thiên Chúa, và cũng không cho Ngài sử dụng quyền phép Thiên Chúa của Ngài. Rất nhiều góp ý được đưa ra:
- Hãy cho Ngài làm một người Do Thái. - Làm sao cho người ta nghĩ Ngài là một đứa con hoang, để không ai biết Cha thật của Ngài là ai. - Ngài phải làm việc rất bận rộn đến nỗi bà con Ngài tưởng Ngài bị mất trí. - Ngài phải nếm nỗi đau bị những bạn thân nhất phản bội. - Ngài phải bị đưa ra một toà án có sẵn bảng luận tội Ngài. - Ngài phải bị kết án là tay lừa đảo và bị xử tử. - Trước khi chết, Ngài còn phải nếm mùi tra tấn và lăng nhục. - Cuối cùng phải cho Ngài biết cảnh chết trong hoàn toàn cô đơn là khủng khiếp đến mức nào.
Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người im lặng... Và bỗng nhiên họ nhận ra rằng Chúa đã thi hành bản án ấy của họ từ lâu! (Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Ðể chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt Mùa Chay chúng ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau. Hôm nay phụng vụ tung hô Chúa Giêsu khải hoàn, đồng thời mời gọi ta bước theo Người trên con đường thập giá. Với tâm tình biết ơn và chia sẻ sự đau khổ của Ðức Giêsu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Ðức Kitô đã lên Giêrusalem chịu khổ hình để cứu độ nhân loại và bước vào vinh quang / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh Chúa / sau khi vượt qua cõi đời này / được đạt tới vinh quang bất diệt.
2. Hiện nay / bạo lực vẫn tràn lan trên khắp thế giới / người ta sẵn sàng lao vào giết chóc nhau / nhiều khi chỉ vì những lý do rất nhỏ nhặt / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / thay lòng đổi dạ con người trên trái đất hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
3. Không nên tự phụ vào sức riêng mình / nhưng phải trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp / Ðó phải là điều tâm niệm hằng ngày của mọi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / đừng tự cao tự đại / nhưng phải khiêm tốn / tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa / vì bản tính con người vốn yếu đuối mỏng dòn.
4. Bước theo Ðức Kitô trên con đường thập giá / là điều xem ra không phải lúc nào cũng dễ dàng thuận lợi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng vượt qua mọi thử thách gian nan / để có thể dấn thân theo Chúa đến cùng.
CT: Lạy Chúa Giêsu, xin cho mầu nhiệm thập giá là mầu nhiệm của tình thương luôn sống động trong cuộc đời chúng con, để trong cuộc sống thường ngày, lúc nào chúng con cũng biết yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, đồng thời không bao giờ trở nên thánh giá cho người chung quanh. Chúa hằng sống...
Bạn có biết tại sao khi nghe hai chữ "thập giá" chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó ? Có lẽ vì chúng ta chỉ thấy những cây thánh giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi-măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong ta không có gì đáng sợ.
Còn các môn đệ thì trái lại chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc... và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng.
Chính vì thế mà các Tông Đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng và Chúa đòi ai muốn theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: "Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy".
Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa thì Ngài lại bắt đầu nói đến thập giá. Thập giá xuất hiện ở đây như "mặt sau của tấm huân chương". Nhưng sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, và cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môsê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để công bố giao ước Sinai, vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.
Theo Thánh Luca thì Chúa Giêsu đàm đạo với hai vị này về cuộc xuất hành Ngài phải hoàn thành tại Giêrusalem. Như vậy thì ta có thể đảo lại: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì. Sau này trên đường Emmaus, Chúa sẽ quở trách hai người môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: "Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao ?"
Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có Đức Tin mới cho ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa ta mới tới được vinh quang ở sau cây thập giá.
Trong cuộc sống, có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi bạn cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa chát chúa của khách qua đường; bạn cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giửa trời và đất; bạn khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh bạn chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy bạn mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi bạn cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Bạn cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: "Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con..."
Những lúc ấy bạn phải vận dụng hết sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng Đức Tin, để thấy được đàng sau cây thập giá. Bạn hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá đi đàng trước bạn, chớ rời mắt xa Ngài.
Nhưng bạn đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Bạn phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi mọi lúc, mọi việc. Bạn hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài, và trong Ngài.
Nếu bạn biết sống với Ngài trong niềm vui, bạn cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn. Nếu bạn biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, bạn cũng biết sống trong Ngài lúc khổ đau. Nếu bạn biết sống với Ngài trong ngày hội, bạn cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn.
Điều tôi muốn nhắc bạn ngàn lần là bạn đừng mang thập giá một mình. Bạn sẽ không bước nổi đâu, và nếu bạn có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của bạn chỉ là cây gỗ chết thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang Con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống mà thôi:
"Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài..." ( 2Tm 2, 11 )
Nhưng tôi cũng nhắc bạn rằng thường khi thập giá đè nặng lên vai thì chúng ta cũng tối tăm mắt mũi, hầu như chẳng còn nhớ ra điều gì, chẳng nhớ đến ai nữa. Cái khó nhất là ở đó. Chính lúc ta cần nhớ đến Chúa nhất thì hầu như ta không nhớ nổi. Chính lúc ta cần cảm nhận sự hiện diện của Chúa nhất, thì lại là lúc Chúa như ở xa ngàn trùng và lẩn trốn trong bóng đêm dày đặc. Đó là khi mà cuộc đời bạn trở nên phong phú nhất, như hạt giống khi được vùi xuống đất. Lúc ấy bạn hãy giữ lòng mình hướng về ánh sáng như loài thảo mộc, và khi mầm lách được vỏ hạt giống thì nó xé qua màn đêm của lòng đất để vươn lên ánh sáng, hứng lấy màu xanh và sức sống. ( Còn hạt giống nào nằm khơi khơi trên mặt đất thì có nẩy mầm cũng héo khô).
Lm. NGUYỄN CÔNG ĐOAN, Dòng Tên ---------------------------
Vào đầu Tuần Thánh năm 1997, nhà văn Adolto Eskivei, người Ac-hen-ti-na bị cảnh sát bắt giam vì các hoạt động bất bạo động để bênh vực giới nông dân nghèo. Trong 32 ngày liên tiếp, ông bị giam trong một cái ống - một loại củi chật hẹp. Một hôm, ông tìm cách viết được một lá thư cho các người bạn ở Sao Paolo như sau:
Các bạn thân mến, tôi không muốn nói với các bạn về nỗi khổ đau, nhưng về niềm hy vọng và về ơn mà Chúa đã ban cho tôi, đó là được chịu khổ đau và sống với những anh chị em là nạn nhân của bất công, sống với những người mà, sau hai ba năm bị giam giữ, họ cũng không biết tại sao họ phải chịu những hình phạt như vậy.
Tuy nhiên, mỗi ngày có một ánh sáng chiếu soi các đau khổ này, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi giây phút, trong mọi cử chỉ, Thiên Chúa của tình yêu thương, Ðấng tha thứ trên thập giá qua mọi thời đại: "Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm".
Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, đây không phải là một câu chuyện xảy ra ở đâu đó, để người ta kể cho nhau nghe chơi, để bàn tán xì xào hoặc để cảm thương cho Chúa của mình.
Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết vì mỗi người chúng ta và trong mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn chia sẻ trọn vẹn những khổ đau, vất vả và cái chết của cuộc sống con người.
Những đau khổ, vất vả, sỉ nhục, và cái chết vẫn còn đấy, nhưng nếu chúng ta hiệp thông vào cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu; thì những khổ đau đó không còn có thể đè bẹp con người nữa; thân phận phải chết của con người không còn là điều gì phi lý nữa; những vất vả không còn là gánh nặng xiềng xích con người nữa.
Tin vào Chúa, người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận khổ đau, vì biết rằng Thiên Chúa đã cùng chia sẻ cuộc đời với mình và đã đánh tan sức mạnh của thần chết bằng tình yêu tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trở thành người để đến với con người, Chúa đã chịu bao khổ đau để cùng chia sẻ những đau khổ chất chồng của cuộc sống con người Chúa đã chịu chết như bao nhiêu tội nhân, như bao nhiêu bệnh nhân như bao nhiêu người khác đang chết.
Và lạy Chúa Giêsu,Ngày hôm nay Chúa lại hiện diện trong tấm bánh nhỏ bé này để đến với con. để chia sẻ gánh nặng của con, để cùng con chết đi hằng ngày vì những khổ đau của con. Con chẳng biết nói gì hơn lời tạ ơn, tạ ơn vì đời con có Chúa.
Ðể sửa soạn vào thành, Ðức Giê-su sai hai môn đệ đến ngôi làng trước mặt để mượn tạm con lừa. Có lẽ không nơi nào cho thấy sự mâu thuẫn như trong biến cố này: một bên là Thiên Chúa uy quyền, một bên là "tính con người". Cả hai đều thể hiện trong con người Ðức Giê-su. Ðó là sự pha trộn giữa quyền năng Thiên Chúa và sự lệ thuộc, giữa giàu sang và bần cùng. Và đó cũng là hiệu quả của mầu nhiệm nhập thể.
Vì lòng yêu thương con người, Ðấng vốn giàu có đã trở nên khó nghèo, để con người được giàu có. Trong cuộc đời, có lần Ðức Giê-su đã mượn chiếc thuyền của dân chài làm chôỵ đứng giảng dạy ; lần khác Người đã mượn hai cái bánh và năm con cá của cậu bé vô danh để làm phép lạ nuôi cả đám đông ; sau này, khi trút hơi thở cuối cùng, Ðức Giê-su còn mượn tạm ngôi mộ để gửi tấm thân trong khi đợi ngày sống lại vinh hiển. Vẫn có những chuyện bi đát như thế trong cuộc đời Ðức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người. Nhưng chưa hết.
Hãy bảo thiếu nữ Xi-on Kìa Ðức Vua đến với ngươi khiêm tốn ngổi trên lưng lừa lưng lừa con là con của thú vật chở đổ. (Mt 21,5)
Thời đó, các vị hoàng đế thường ngồi trên chiến mã, oai hùng tiến vào thành phố. Ngược lại, ở đây, Ðấng khải hoàn khiêm tốn ngổi trên lưng lừa con. Nếu Phi-la-tô có dịp đứng quan sát cảnh này, hẳn ông phải bật cười vì tính cách khôi hài của con người tự xưng là Vua. Con người ấy đang ngổi trên lưng một con vật biểu tượng của sự tự huỷ, tượng trưng cho việc tiến dần đến cái chết.
Nếu Ðức Giê-su tiến vào thành phố trong tiếng nhạc hùng tráng, trong tư thế của người chiến thắng, chắc sẽ có kẻ nghĩ rằng Người là Ðấng giải phóng về mặt chính trị. Trái lại, Ðức Giê-su chọn những hoàn cảnh để chứng thực cho lời tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Như thế, chẳng có gì cho thấy vị vua này có thể là đối thủ của Xê-da.
Phía sau những lời tung hô
Khi Ðức Giê-su đến gần thành phố, một "đám rất đông" dân chúng ra đón Người. Trong số đó, không chỉ có những người cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, nhưng còn có những người từ nơi khác về thủ đô dự lễ, và dĩ nhiên, cả những người Pha-ri-sêu.
Trong những lần trước đây, Ðức Giê-su luôn ngăn cản lòng nhiệt thành, sự phấn khởi của dân chúng. Người đã lánh mặt khi đám đông hứng khởi, Người tránh tạo nên những quang cảnh náo nhiệt (x.Mt 16,20; Mc 5,43; Mc 9,9; Ga 6,15). Vậy mà, trong khi Ðức Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem, các người Pha-ri-sêu phải thốt lên: "Kìa thiên hạ theo ông ấy hết" (Ga 12,19). Ðiều này ngược hẳn với thái độ của Ðức Giê-su. Trước đây, Người xoa dịu sự hứng khởi của dân chúng, còn bây giờ, Người lại khơi lên. Tại sao vậy ?
Bởi vì "Thời" đã đến. Lúc này, sẽ đến giờ Người công khai tỏ cho dân chúng biết về uy quyền của Người, và đây là lần cuối cùng. Ðức Giê-su biết rõ điều này sẽ đưa Người lên đỉnh Can-vê, đến việc Thăng Thiên và thiết lập vương quốc trên trần gian. Ðây là cơ hội cuối cùng để Ðức Giê-su đưa ra tiếng nói quyết định và đặt con người trước lựa chọn: hoặc tuyên xưng, hoặc từ khước.
Những cái áo được trải trên đường, những ngành ô-liu được phất cao ; đám đông vui mừng tung hô:
"Hoan hô Thế tử nhà Ða-vít, hoan hô ! Vạn phúc Ðấng ngự đến nhân danh Chúa !
Hoan hô Chúa ngự chốn cửu trùng" (Mt 21,9).
Ðức Giê-su là Hoàng tử thuộc dòng dõi Ða-vít. Người là Ðấng được sai đến để thực hiện công trình của Thiên Chúa. Hosana, khởi đầu là một lời cầu nguyện, giờ đây trở thành bài ca chiến thắng để đón tiếp Ðấng Cứu Tinh. Mặc dù đám dân đang reo hò không hiểu rõ lý do Người được sai đến, họ cũng chẳng hiểu được bình an do Người mang lại, nhưng họ cũng biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến.
Ðúng là một cuộc khải hoàn, nhưng Ðấng Cứu Thế biết rõ rằng lời tung hô "Hosana" sẽ được đỗi thành "đóng đinh nó đi", và vòng gai sẽ thay cho ngành vạn tuế. Ngày hôm nay, người ta trải áo dưới chân Người, nhưng ngày thứ Sáu tới đây, cả áo của Người họ cũng lột hết. Mặc dù Người là Vua, và dân chúng nhận rằng Người là Ngôn Sứ, là Thầy ... nhưng Ðức Giê-su biết rõ hoàng cung được dành cho Người chính là đổi Can-vê.
●●●
Lạy Chúa, dù con có thế nào chăng nữa, cũng xin cho con được tung hô Chúa trong ngày hôm nay. Ngày thứ Sáu, tất cả tội lỗi của con sẽ bị phơi trần, nhưng con biết lòng thương xót của Chúa sẽ ngập tràn trên con: đó là ngày Phục Sinh. Cùng với tất cả mọi người con sẽ reo lên "Vạn phúc Ðấng ngự đến nhân danh Chúa "Ðó là hy vọng, là niềm cậy trông cho suốt cả hành trình tăm tối của con.
Theo nghĩa thông thường, khi chúng ta gọi ai là tiên tri, tức ám chỉ khả năng dự đoán tương lai của người đó. Sách Isaia hôm nay phản ánh đúng bản chất của một tiên tri chân thật. Nghĩa là những việc ông làm, những hậu quả ông chịu. Ðó là đau khổ và đôi khi là cái chết thê thảm. Mỗi câu, mỗi đoạn mô tả một khía cạnh của cuộc đời tiên tri. Ðiều này thật am hợp khi Hội Thánh khởi sự một tuần lễ đặc biệt. Tuần lễ tập trung suy gẫm về đau khổ Chúa Giêsu phải gánh chịu vì nhân loại, vì chúng ta. Cho nên bài đọc liên quan trực tiếp đến số phận của Ngài. Nói cách khác Chúa Giêsu ứng nghiệm đầy đủ và hoàn toàn đời sống tiên tri mà Isaia đã mô tả trong Cựu ước.
Trong phần thứ nhì của sách tiên tri Isaia, từ chương 40 đến chương 55, quen gọi là Isaia đệ nhị, có tất cả 4 bài ca về người tôi tớ trung tín của Giavê. Những bài ca này mô tả số phận của một người tôi tớ Thiên Chúa đã chọn một cách đặc biệt. Các chuyên viên Thánh kinh đặt tên là "Các bài ca người tôi tớ đau khổ của Giavê". Bài đọc hôm nay là bài ca thứ ba. Chúng ta đã đọc hai bài trước ở các tuần lễ thứ 4 và thứ 5 mùa Chay. Tiên tri đã cho chúng ta hay, Thiên Chúa tuyển chọn một con người đặc biệt. Trao cho ông nhiệm vụ nói tiên tri, tức an ủi, khích lệ một dân tộc đang trong số phận nguy khốn. Người này cũng phải chịu khổ đau, chịu cực hình bởi nhiệm vụ của mình như các tiên tri khác trong lịch sử. Tuy nhiên ông đã hoàn toàn tự hiến cho thánh ý Thiên Chúa và trung thành trong ơn gọi của mình bất kể mọi hy sinh. Ai là người tiên tri đó ? Có thể là dân tộc Do thái khi dân tộc đó làm tròn ơn gọi "ánh sáng cho muôn dân". Cũng có thể là một lãnh tụ vĩ đại nào đó hay một hiền nhân quân tử đứng ra lãnh đạo tuyển dân trở về với Thiên Chúa. Người tôi tớ này thánh thiện nổi bật, cho nên thường được giải thích là một nhân vật Thiên sai. Ðó là lý do Hội Thánh đồng hóa với Chúa Giêsu và nhìn nhận Ngài như nhân vật ứng nghiệm lời tiên tri của Isaia.
Như vậy song song với bài thương khó hôm nay, người tôi tớ vô tội và dịu dàng này phải chịu đau khổ. Ðau khổ không một lời oán trách. Bởi vì người tôi trung đã được chọn để nói "lời nâng đỡ những ai rã rời, kiệt sức". Tuy trong Thánh kinh không thấy bằng chứng nào là người tôi tớ thay đổi được tình trạng của các kẻ rã rời, nhưng rõ ràng ông đã trung tín với ơn gọi của mình. Ông đã can đảm nói lên "một lời" với những kẻ kiệt sức. Tác giả Isaia đệ nhị hơn bất cứ tiên tri nào khác tin tưởng vào quyền năng của Lời Thiên Chúa. Và những lời đó được ban cho các kẻ đang rã rời. Có sự khác biệt rất rõ giữa phần một và phần hai của Isaia: Phần một nói với cư dân Giêrusalem, cảnh cáo họ, thúc giục họ sửa đổi lối sống. Phần hai nói với những người Do thái đang lưu đầy ở Babilon, yên ủi họ và đầy giọng hy vọng tiên đoán sự khôi phục của Giêrusalem, canh tân dân tộc. Hai giọng văn hoàn toàn khác nhau. Nên mới có giả thuyết Isaia đệ nhất và Isaia đệ nhị.
Người tôi tớ được sai đến để nói lời an ủi. Lời hứa có thể chỉ là lời rỗng tuếch. Lời bách vẽ "pie-in-the-sky encouragements", như các chính khách thường làm. Nhưng đây là lời của Thiên Chúa. Lời mang sức mạnh, sáng sáng được ban ra cho tuyển dân trong những cơn khủng hoảng, khó khăn. Khi người nào đó không giữ lời mình hứa, chúng ta thường bình phẩm "lời hứa cuội". Nhưng cũng có những lời thực sự mang sức nặng chữa lành trái tim, phấn khởi tinh thần và người nói ra thực sự đứng đàng sau những lời của mình, tỷ như: "Tôi sẽ giúp bạn giải quyết cho xong công việc này." "Tôi sẽ không làm bạn thất vọng." "Tôi tha thứ cho bạn." "Anh yêu em cho đến khi tắt hơi thở"… Những phát biểu như vậy cho chúng ta cảm nhận được tính thuyết phục Lời Thiên Chúa nói với tuyển dân đang mệt mỏi trong cảnh lưu đày. Và dân Ngài ý thức được Thượng đế không bao giờ quên họ. Thiên Chúa của biến cố "Xuất hành" sẽ thực hiện những bất ngờ để cứu giúp họ thoát khỏi tay các thế lực áp bức. Rất có thể họ cảm thấy thất vọng và đơn độc. Nhưng trong tâm trí vẫn đinh ninh Thiên Chúa sẽ cứu vớt họ, bởi lẽ Ngài đã sai ngôn sứ nói những điều an ủi, khích lệ. Thiên Chúa đứng sau những lời đó.
Xã hội chúng ta thường lầm lẫn khi gọi ai đó là tiên tri chung chung nếu ông hay bà ta có khả năng đoán biết tương lai. Bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhìn chính xác hơn vào sứ vụ tiên tri trong cuộc đời. Nói cách khác nó mô tả công việc tiên tri phải như thế nào. Trước hết, những ai được Chúa chọn, được Ngài ban ơn làm tiên tri thì Ngài cũng ban cho miệng lưỡi đã được rèn luyện hoàn hảo (Well - trained tongue). Bản dịch Việt Nam là: Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ. Người tiên tri không tự tiện đảm nhận thẩm quyền. Thiên Chúa là nguồn mạch những điều cốt yếu để tiên tri hoàn thành nhiệm vụ. Thứ hai, miệng lưỡi hoàn hảo hiểu ngậm một lối sống đạo đức. Ðến đây tôi liên tưởng đến các luật gia tốt lành dám hy sinh quyền lợi để bênh vực những kẻ thấp cổ bé miệng, những nạn nhân của biết bao nhiêu sự kiện "cả vú lấp miệng em" trong xã hội, trên thế giới. Những công việc đó thường thường chẳng lợi lộc gì, có khi còn nguy hiểm đến tính mạng, vất vả dùi mài để kiếm ra sự thật và bênh vực sự thật. Ðạo đức có rất nhiều hình thức: Cầu nguyện, học hành, đời sống đơn giản, khó nghèo, dám sống đói khát với những người đói khát để lắng nghe được họ, chú tâm đến những nhu cầu của người khốn khổ để hiểu được Thiên Chúa muốn nói gì với họ và cho họ v.v…
Sứ vụ tiên tri luôn đòi hỏi hy sinh. Sống sung sướng không thể làm tiên tri được ! Người tôi tớ trong bài đọc hôm nay chịu rất nhiều ngược đãi. Chúng ta không hiểu tại sao các đối thủ của ông lại nổi sùng vì ông. Isaia không nói, có lẽ tại vì ông đã thẳng thừng tuyên bố lời của Thiên Chúa. Ông khích động những kẻ rã rời nhìn lại số phận của họ. Các tiên tri thời nay cũng vậy thôi. Họ bị trù dập khốn khổ vì đã can đảm nói lên những bất công xã hội, những thói xấu của các kẻ cầm quyền, không tôn trọng sự thật, không nể vì lẽ phải, lợi dụng địa vị để ăn bớt ăn xén của công, mồ hôi nước mắt dân lành vô tội. Có thể người tôi tớ hôm nay bị giật râu, móc mắt, đánh nhừ đòn, mắng nhiếc, phỉ nhổ vì ông ta đứng trong hàng ngũ dân đen mà lại dám nói lời Thiên Chúa cho số phận nghèo hèn, thức tỉnh họ tranh đấu cho một xã hội công bằng hơn. Vì thế ông bị những kẻ có chức, có quyền ghen ghét, muốn trừ khử ông. Người tiên tri không cần phải dao to, búa lớn, không cần phải súng đạn mới được lắng nghe, đặc biệt trong những trường hợp nguy hiểm, như dân tộc Do thái dưới ách nô lệ lưu đày ở Babilon. Chỉ cần những gợi ý nhẹ nhàng nhưng đầy uy lực của sự thật và lẽ phải cũng đủ đốt cháy cả thế gian, giải phóng dân lành và ban đời sống mới, tự do, công bình và bác ái … Ðến đây tôi lại nghĩ đến các tiên tri trong các giáo hội thầm lặng trên thế giới hiện nay.
Nhưng chẳng thế lực nào ngăn cản được họ trung thành với ơn gọi của mình. Cô đơn, khó khăn không làm cho họ nhụt chí. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả. Lúc này xem ra họ bị Thiên Chúa bỏ rơi, không về phe với họ nữa. Họ bị cắt đứt với số đông chung quanh. Nếu như Thiên Chúa còn ưu ái họ, tại sao họ lại phải chịu đau khổ khi thi hành công việc của Ngài ? Có phải họ đang thực hiện nhiệm vụ Ngài trao ? Có phải sứ mệnh của họ là tốt, hợp với thánh ý Thiên Chúa ? Chính Chúa Giêsu đã cảm nghiệm như vậy khi chịu treo trên thập giá: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, tại sao Chúa bỏ con !" Cô đơn và yên lặng. Chúng ta có thể gợi nhớ lại những lời thách thức của Satan hôm Chúa Nhật I Mùa chay: "Nếu ông là con Thiên Chúa…" Chúng ta sẽ rùng mình nghi ngờ sự thành công của các tiên tri trong mọi thời đại. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một thất bại hoàn toàn và ê chề trên Thánh giá khi nhìn bằng con mắt xác thịt.
Do đó, chúng ta hiểu được lý do tại sao Hội thánh chọn đoạn văn này của Isaia để đọc song song với trình thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trong thánh lễ hôm nay và với các biến cố của tuần lễ này. Ngài không đi chân đất vào thành thánh Giêrusalem như các khách hành hương khác. Ngài chọn đi trên lưng một con lừa nhỏ, dịu dàng và nhân ái như một ông vua thuộc hoàng tộc David. Nhưng dáng điệu của Ngài là dáng điệu của người tôi tớ mà tiên tri Isaia đã mô tả từ nhiều thế kỷ trước: "Chai mặt trơ như đá" để thi hành thánh ý Thiên Chúa, bất chấp mọi hậu quả đang chờ đợi ở Giêrusalem bởi tay các thượng tế đền thờ.
Như thế, hôm nay chúng ta cũng cử hành tưởng niệm tất cả các tiên tri của Thiên Chúa mọi nơi, mọi thời đại. Họ đã tỏ ra cực kỳ can đảm, rắn mặt với thế gian để nói lời Thiên Chúa. Họ tranh đấu với ý kiến đa số thay cho những kẻ cô thế, cô thân. Họ phải chịu đựng đau khổ, ngược đãi, chết chóc để thực hiện điều ngay, lẽ phải giữa một thế giới đầy dẫy gian dối và bạo lực. Họ chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Thiên Chúa không giả ngây làm điếc trước tiếng kêu than của kẻ khốn cùng vì áp bức, bất công. Thiên Chúa không chỉ khởi sự công việc, Ngài còn theo đuổi cho đến khi hoàn thành. Ngài dần dần mở tai, ở miệng cho các tôi tớ Ngài. Ngày lại ngày Ngài dẫn dắt họ đi trên con đường kiến thức thiêng liêng, và nhận ra nhu cầu của thế giới văn minh hiện đại. Những cảnh lầm than như thời Isaia vẫn còn tràn ngập trên trái đất ngày nay. Hội thánh đã được Chúa Giêsu sai đi làm tiên tri. Mỗi người khi chịu phép thánh tẩy cũng được xức dầu để làm ngôn sứ. Chúng ta hãy nhận ra quyền năng của Thiên Chúa đứng sau các bài đọc thánh lễ, để đủ can đảm nói lời của Ngài trong các môi trường mình sống. Như vậy, việc cử hành Ơn Cứu Ðộ tuần này mới có ý nghĩa. Amen
Thời gian nào cũng là thời gian. Nhưng không phải thời gian nào cũng giống thời gian nào. Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan trọng. Ðức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi vinh nhục.
TÌM MỘT CON ÐƯỜNG.
Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa roi, Ðức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. Ðó là con đường dẫn tới vinh quang. Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng chịt và biến cố bất ngờ. Tương quan trần gian thật mỏng manh. Có ai đáng tin cậy hơn các môn đệ ? Thế mà ông Phêrô "chối Chúa trước mặt mọi người" (Mt 26:71). Giuđa "nộp Ðức Giêsu." (Mt 26:16.48) "Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26:56). Cháy nhà mới ra mặt chuột ! Nhưng Ðức Giêsu không lệ thuộc vào con người dòn mỏng. Chỗ dựa không phải là con người. Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là "Cha Thầy" với "mười hai đạo binh thiên thần" (Mt 26:53) Bởi vậy, Người mới có thể đứng vững trước bao thử thách. Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn thẳng bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát.
Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa. Có lúc vinh danh Chúa Cha và Chúa Con không tách lìa. Chính lúc vào thành Giêrusalem, Ðức Giêsu tưởng như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: "Hoan Hô Con vua Ðavít ! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa ! Hoan hô trên các tầng trời." (Mt 21: 9) Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay cả lúc nghe những lời nhục mạ: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó ?" (Mt 26: 68) hay khi "lính của tổng trấn quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: 'Vạn tuế Ðức Vua dân Do thái !'" (Mt 26:29) Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh "kẻ qua người lại đều nhục mạ Người." (Mt 27:39) Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong đêm đen hận thù: "Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Ítraen ! Hắn đã nói: 'Ta là Con Thiên Chúa !'" (Mt 27: 40.42.43) Ðã đến lúc Cha làm vinh danh Con. Ðứng trước các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng, Người vẫn khẳng quyết mình "là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa." (Mt 26:65) và trước mặt tổng trấn Philatô, Người xác nhận mình là "vua dân Do thái." (Mt 27:11) Ðứng giữa đám đông khát máu đang gào thét: "Ðóng đinh nó vào thập giá !" (Mt 27:23.25.26), Ðức Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Ðấng "Kitô" (Mt 27:22)
Tất cả xảy ra không ngoài "ý cha" (Mt 26:39). Những lúc "làm thinh" (Mt 26:63) hay "không trả lời một tiếng" (Mt 27:12) là những lúc Ðức Giêsu kiên cường bất khuất trước cường lực đối phương. Người như chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế tắc hiện tại. Càng nhìn lên cao, Người càng không thấy lý do phải đối đầu với những toan tính thấp hèn như thế. Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định mệnh. Nếu chối bỏ sự thật về mình, chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa căm hờn trong lòng các thượng tế và dân chúng. Nhưng Ðức Giêsu đã không hèn nhát đi tìm một con đường dễ dãi như thế. Ngay cả khi giang tay trên thập giá, Người cũng không chấp nhận những thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là "Con Thiên Chúa" (Mt 27:43). Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn ào phức tạp đó. Chính trong thinh lặng và cầu nguyện, Ðức Giêsu đã khám phá được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của tình yêu Thiên Chúa.
Tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðức Giêsu đã có thể mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa "nộp Người" (Mt 26:48) và "tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy." (Mt 26:31) Chính khi mọi tương giao nhân loại bị bứt tung, Ðức Giêsu lại mạc khải "đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội." (Mt 26:28) Máu Thầy đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra theo đúng chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Khám phá và chấp nhận tất cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi nhiều sáng suốt và can đảm. Chính vì vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân lính thượng tế và kỳ mục, Ðức Giêsu đã cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani. Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó, các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ trước đến nay. Lúc nào họ cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng. Họ có thể dùng chính những mỹ từ thân thương và cử chỉ âu yếm để che dấu sự phản bội (x. Mt 26:49). Những dấu chỉ tình yêu đó và những lời khẳng quyết "không chối Thầy" (Mt 26:35) đều mất hết ý nghĩa. Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi nội dung diễn đạt. Nhưng nếu cố tình phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ phải trả giá. Sau khi nuốt lời hứa, ông Phêrô "ra ngoài, khóc lóc thảm thiết." (Mt 26:75) Giuđa cũng hối hận không kém: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan." (Mt 27:4) rồi "Giuđa ném số bạc vào Ðền Thờ và ra đi thắt cổ." (Mt 27:5) Hối hận đến thế vẫn chưa đủ sao ? Tại sao phải thắt cổ mới xứng với việc đền bù ? Thật là một mầu nhiệm. Giuđa đã trả giá quá mắc ! Chúa có đòi vậy đâu !
NGƯỜI MÔN ÐỆ CHÂN CHÍNH.
Ðiều Chúa đòi là người môn đệ phải chân thành với chính mình. Sau khi chối Chúa, ông Phêrô đã "khóc lóc thảm thiết" vì thấy mình quá yếu đuối. Còn ông Giuđa không hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự xử cho mình, không kiên nhẫn đợi giây phút trở về với Cha nhân lành. Từ chỗ ồn ào hăm hở trả giá Thầy, ông đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn nhận ra sự thật về mình. Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, "trên hết trong xã hội tục hóa ngày nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí kiên vững, trực tiếp phát sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính." (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 18/03/2002) Sống với Thầy suốt một quãng đường dài, nhưng ông Giuđa không hề một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt. Thói quen và lối sống hằng ngày đã bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về Thầy. Mọi sự đương nhiên phải như thế !
Thực tế mọi sự chẳng sẵn sàng như ta tưởng. Chính Thầy cũng không hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn trong tầm tay. Không coi Thầy như một giá trị tuyệt đối, không thể khám phá Thầy như một chân lý giải thoát. Nhất là trong thế giới ngày càng xa lạ với Thiên Chúa hôm nay, con người không biết mình là ai và tại sao mình sống. Triết lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều kích sâu xa đó. Nhưng chỉ "khi triết lý gặp gỡ Ðức Kitô trong Tin Mừng, thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan tỏa khắp thế giới." (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) Hiện nay, công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002). Trong thế giới quá ồn ào hôm nay con người không còn thời giờ khám phá những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Nếu không thấy mình có "bổn phận nặng nề phải chuyển đạt những giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng cho các thế hệ trẻ," (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) cha mẹ và nhà giáo sẽ không thể cung cấp cho xã hội tương lai những con người chân chính và đầy trách nhiệm đối với xã hội.
Chỉ trong xã hội đầy những con người như thế mới có thể loan báo Tin Mừng về Ðức Giêsu như Ðấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
Thánh Maximilien Kolbe, một Linh Mục người Balan, chuyên hoạt động tông đồ truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ, ngài say mê yêu mến Đức Mẹ đến nỗi người ta đã tặng cho ngài một biệt danh rất xứng đáng là "Người con điên của Đức Mẹ".
Lúc quân đội Phát Xít Đức Quốc Xã chiếm đóng Balan, thấy ảnh hưởng của ngài nơi dân chúng quá mạnh, nên họ đã bắt tống giam ngài. Một đêm kia, trại giam có một tù nhân vượt ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh thấy thiếu một người, viên sĩ quan áp dụng luật Phát Xít Đức Quốc Xã: "Nếu một tù nhân trốn thoát, mười người tù khác phải đền mạng".
Trong hàng ngũ tù nhân, ai nấy đều lặng thinh khiếp đảm. Viên sĩ quan cai tù vừa giận dữ rảo bước, vừa quác mắt trừng trừng nhìn vào hàng ngũ tù nhân giơ tay chỉ định: "Tên này! Tên này! Tên này!" Ai vô phúc lâm vào số phận này thì phải sang sắp hàng một bên. Bỗng một tiếng kêu thất thanh vang lên: "Khốn cho tôi, vì tôi còn vợ dại con thơ!". Giữa bầu không khí nặng nề rùng rợn ấy, một tù nhân thản nhiên bước ra khỏi hàng, đứng im lặng. Viên sĩ quan cai tù quát hỏi:
- Ngươi là ai? - Tôi, Maximilien Kolbe, Linh Mục Công Giáo. - Ngươi muốn gì? - Tôi xin tình nguyện chết thay cho người bạn tù này, vì anh ta còn vợ dại con thơ. - Muốn ngu thì cho ngu. Vào sắp hàng thế. Còn tên kia tha cho.
Mọi tù nhân đều sửng sốt, ngạc nhiên, thán phục. Viên sĩ quan Đức Quốc Xã hô lớn: "Sắp sẵn! Đi!" Mọi người lặng lẽ bước vào phòng giam đói của ngục thất. Nhưng với sự hiện diện của Cha Maximilien Kolbe, người ta không còn nghe thấy tiếng khóc lóc chửi rủa như mọi khi; mà trái lại, còn được nghe tiếng các tù nhân sốt sắng cầu kinh hát xướng vang ra... Bắt đầu lớn tiếng, rồi yếu dần, sau cùng hoàn toàn im bặt.
Ngày thứ 12, cửa phòng giam đói mở ra, mọi người đã chết, trừ một mình Cha Maximilien Kolbe với đôi mắt vẫn sáng ngời, dù thân xác đã kiệt lực. Viên cai tù bắt ngài đưa tay ra và chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị Linh Mục thánh thiện đã chết ngay. Sau đó họ đưa xe đến, xúc xác ngài và các bạn tù đổ vào lò thiêu.
Trong buổi đại lễ, Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong Chân Phước Maximilien Kolbe lên bậc Hiển Thánh, có một cụ già đáng kính trong đoàn người dâng lễ vật, được Đấng Đại Diện Chúa ôm hôn. Đó chính là người tù đã được Thánh Maximilien Kolbe chết thay. Trong giây phút nghiêm trọng đó, toàn thể cộng đồng sốt sắng hát vang khúc tình ca: "Không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì yêu". Đây, một chứng tích tình yêu sờ sờ trước mắt, khiến mọi người hiện diện đều xúc động và cảm phục đến rơi lệ.
I. CHÂN DUNG ĐẤNG THIÊN SAI ĐÍCH THỰC
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, long trọng mừng kỷ niệm Chúa Cứu Thế khải hoàn vào Thành Thánh Jerusalem, để khai mạc Tuần Thánh, một tuần lễ quan trọng nhất trong Năm Phụng Vụ, kính nhớ và tưởng niệm Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh vinh hiển của Đấng Thiên Sai đã chịu chết vì yêu thương chúng ta.
Trước hết, chúng ta cùng nhau chiêm ngắm bức chân dung đích thực của Đấng đã được Thiên Chúa sai đến trần gian. Ngài đến không có tính cách oai hùng sang trọng như các vị Đế Vương hay Quốc Trưởng thời quân chủ xưa; cũng không có các nghi lễ trang nghiêm, các bài diễn văn chúc mừng của các chính khách, các phái đoàn ngoại giao của các quốc gia, các đoàn quân danh dự thao diễn với 101 phát súng đại bác long trời lở đất chào mừng; cũng không có yến tiệc xa hoa linh đình như chúng ta thường thấy, trong các ngày đăng quang nhậm chức của vị nguyên thủ các quốc gia trong thế giới hôm nay.
Trái lại, Đấng Thiên Sai, dầu là Con Thiên Chúa cao cả, quyền năng và giầu sang vô cùng, là Ngôi Hai Thiên Chúa hằng hữu, nhưng Ngài đã không nệ nhập thể làm người, đội lốt phàm nhân, mặc hình tôi tớ, mang kiếp tội nhân vì yêu thương chúng ta. Chính Chúa đã từng phán dạy các môn đệ: "Thầy không đến để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28).
Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Cứu Thế đã thực thi biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi, người phong cùi được lành sạch, người đã chết được phục sinh... Không có một nỗi khốn cùng nào của con người mà không được Ngài quan tâm săn sóc, chữa lành mọi thứ bệnh nạn tật nguyền... Ngài còn làm cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống từng đoàn lũ dân chúng, bao ngàn người say mê đi theo nghe Ngài giảng dạy hết ngày này qua ngày khác.
Hôm này, những ngày cuối đời, Ngài đã cùng với các môn đệ chính thức khải hoàn vào Thành Thánh, như để công bố sứ mạng của Đấng Thiên Sai, dưới hình thức rất khiêm nhu như Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Ngài ngồi trên lưng lừa đi giữa tiếng hoan hô vang trời của đoàn lũ dân chúng đơn sơ quê mùa, của bày trẻ thơ ngây còn măng sữa: "Vạn tuế Con Vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hoan hô trên các tầng trời!" Những lời tung hô ca ngợi của dân chúng, đã khiến các bậc vị vọng trong dân phải tức tối kêu trách, đòi Ngài bảo họ im đi, nhưng họ đã được Ngài đáp lại: "Nếu họ im đi thì những viên đá này sẽ la lên".
II. ĐÁP TRẢ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG
Để tỏ lòng tri ân và đền đáp Đấng đã từng trào đổ muôn vàn ơn phúc, thì chính những người vừa mới hôm nay hoan hô ca ngợi vang trời, mấy ngày sau họ lại phản bội điên cuồng la hét kết án Chúa: "Nó đáng chết! Nó đáng chết!" Hơn nữa, họ còn kêu nài: "Đóng đanh Nó đi! Đóng đanh Nó đi! Đóng đanh Nó vào thập giá!" Đối với chúng ta là con cái Chúa, chúng ta phải làm gì để đền đáp một trong muôn phần Đấng đã hiến dâng mạng sống làm lễ hy sinh đền tội chúng ta, để chúng ta khỏi án chết đời đời; phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Thiên Chúa, cho chúng ta được cùng Người phục sinh và được đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trong vinh quang bất diệt?
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy vâng theo lời kêu gọi của Giáo Hội, suy ngắm để tưởng niệm Cuộc Tử Nạn của Chúa đã hy sinh chịu chết vì yêu thương chúng ta. Chính Chúa đã tỏ lòng thương yêu khi phán với chúng ta: "Không có tình yêu thương nào lớn lao hơn tình yêu thương của kẻ đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu" (Jn 15:13).
Chúa đã hiến thân chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Để chứng minh lòng chúng ta kính mến Chúa, chúng ta cũng hãy tự hy sinh bản thân, chết đi cho bản ngã thú tính tự nhiên vì yêu Người, bằng cách khước từ tội lỗi, tuyệt căn các nguyên nhân hư hèn, các tính mê nết xấu, sống trong ơn nghĩa Chúa, làm hòa với Chúa và với anh chị em, để chiếm được sự sống đích thực và tận hưởng ơn an bình của Chúa.
Kết Luận
Vậy để tỏ lòng chúng ta kính mến Chúa và đền đáp phần nào lòng Chúa yêu thương, chúng ta hãy lo sinh hoa kết quả xứng với lòng thống hối khi vâng theo lời Chúa dạy: "Cha nói thật với các con, nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà không chịu mục nát đi, thì nó chỉ trơ trơ thôi. Nó có mục nát đi mới sinh được nhiều bông hạt". Chúa còn quả quyết: "Ai yêu sự sống mình sẽ mất sống, ai hy sinh sự sống mình ở đời này, sẽ giữ cho linh hồn mình được sự sống đời sau" (Jn 12:24-25).
Thánh Ignatiô Tử Đạo đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương ngài, đồng thời ý thức được sứ mạng Chúa ủy thác, nên ngài đã bày tỏ lòng khát khao: "Tôi ước ao trở nên những hạt lúa miến được răng sư tử nghiền nát, làm thành những tấm bánh thơm tho dâng tiến Chúa Kitô" và để được thông phần cùng với Chúa Kitô đem lại Ơn Cứu Rỗi cho các linh hồn.
Thánh Maximilien Kolbe trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã thể hiện đúng giáo huấn của Thánh Gioan Tông Đồ: "Căn cứ vào điều này mà chúng ta biết được lòng Chúa yêu thương chúng ta. Đó là Đức Kitô đã hiến mạng sống vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy hiến mạng sống mình vì anh chị em chúng ta" (I Jn 3:16).
Còn chúng ta, chúng ta đã làm những ơn lành nào cho những người thân yêu, cho bạn hữu, cho những kẻ đối nghịch với chúng ta vì yêu mến Chúa?
Đầu tháng 3 năm 1999, nhà thương tâm bệnh DePaul ở New Orleans bảo trợ một cuộc hội thảo do bác sĩ Patrick Carnes điều khiển, về đề tài: Lành Mạnh Tính Dục và Tinh Thần.
Bác sĩ Carnes nói ngay: Đây không phải là cuộc hội thảo về tính dục, mà về nỗi khổ của tình dục. Người bị tình dục ám ảnh thì khổ sở lắm. Nhiều dấu hiệu cho thấy cơn nghiện đang hành hạ nhiều người. Có người khi lên cơn thì phải lẩn lút mò tìm những hộp đêm một cách tội nghiệp, đầy mặc cảm. Có người phải mất rất nhiều giờ và tốn phí nhiều tiền cho điện thoại khiêu dâm hay đi vào đường dây gợi dục qua mạng lưới, hoặc nổi cơn thành những hành động liều lĩnh hơn nữa bất kể hậu quả ra sao!
KHI CƠN NGHIỆN HÀNH KHỔ
Khoa tâm lý đã chứng minh rằng quá mê tình dục cũng là một loại nghiện, giống như nghiện rượu, nghiện xì ke, nghiện cờ bạc. Cơn nghiện này nuốt tươi cả một đời người, và nhiều khi đến chỗ tàn phá khủng khiếp. Nó tạo ra một sức mạnh đè bẹp ý chí, không dễ dàng tự ý từ bỏ được, trừ một số trường hợp đặc biệt!
Bác sĩ Carnes đã viết cuốn sách đầu tiên về bệnh nghiện tình dục vào năm 1993. Ông cho biết có nhiều lý do dẫn tới bệnh nghiện này. Có thể vì tuổi nhỏ bị mặc cảm hất hủi lẻ loi, mất tự tin, có thể vì những dồn nén, những thiếu hụt trong đời, hay bị phim ảnh, báo chí gợi dục ám ảnh thái quá. Vì thế mà cần phải chữa trị. Bác sĩ Carnes hiện là giám đốc điều trị bệnh lệch lạc tính dục tại trung tâm The Meadows ở Wickenburg, bang Arizona, và thiết lập tại nhiều nơi. Theo Tổ Chức Toàn Quốc về những vấn đề nghiện tình dục, thì có khoảng từ 6 đến 8% người Mỹ bị bệnh mê dâm này, nghĩa là vào khoảng từ 16 đến 20 triệu người.
Bài báo do Siona LaFrance bình luận trong The Times-Picayune ở New Orleans ngày 3 tháng 3 năm 1999 còn đặt câu hỏi về Bill Clinton với cái thói kiếm chác qua nhiều vụ tai tiếng, có phải rằng ông ta cũng bị thứ bệnh này hành hạ đến suýt mất chức tổng thống không? Vì một trong những tiêu chuẩn để biết rằng có thể bị thứ bệnh này, là cứ tiếp diễn cái trò kiếm chác dù biết hậu quả của nó. Họ không còn đủ sức từ bỏ nữa.
PHƯƠNG PHÁP CHỮA NGHIỆN
Hiện nay phương pháp tâm lý thực nghiệm của chương trình chữa nghiện rượu AA (Alcoholics Anonymous) đang được áp dụng rất hiệu quả vào các loại nghiện khác như nghiện ăn thái quá, nghiện cờ bạc, nghiện tình dục v.v. Phương pháp này gồm 12 bước.
- Bước 1: công nhận sức mình không tự chừa bỏ được. - Bước 2: tin vào một Quyền Năng lớn hơn từ trên có thể làm cho mình hồi phục. Đối với người tin đạo Chúa thì niềm tin này thật rõ rệt. - Bước 3: quyết định trao phó ý chí và đời mình cho Đấng Quyền Năng lo lắng - Bước 4: quyết tìm một lối sống mới. - Bước 5: công nhận với Chúa, với chính mình và người khác về những sai trái đã gây ra. - Bước 6: Sẵn sàng mở rộng để Chúa giải thoát cất bỏ. - Bước 7: Khiêm nhường xin Chúa tháo gỡ. - Bước 8: Kể ra những người mình đã làm tổn hại, và muốn đền bù lại. - Bước 9: Đền bù trực tiếp những người mình đã làm tổn hại, trừ trường hợp làm thế có thể gây tổn hại khác. - Bước 10: Tiếp tục tìm ra một lối sống mới. - Bước 11: Tìm phương cách cầu nguyện để luôn tiếp xúc được với Chúa, nhận ra ý Chúa cho đời mình và xin ơn sức mạnh để thể hiện. - Bước 12: Nhiệt thành chuyển Tin Vui có thể chữa bệnh nghiện này cho những người khác.
TIN VUI GỬI NGƯỜI MUỐN VƯỢT THOÁT
Hậu quả của những loại bệnh nghiện thật khủng khiếp, ai cũng thấy. Tình trạng nhiều gia đình bị tan vỡ cũng do bệnh nghiện này. Bị ám ảnh cũng giống như bị quỉ ám. Không phải chỉ có nghiện rượu, cờ bạc, tình dục, xì kè... mà còn nhiều hình thức khác nữa. Truyền thống đạo Chúa gọi là "bẩy mối tội đầu", tức là bẩy thứ bệnh, bẩy loại quỉ nằm sẵn trong máu, "từ khi mới sinh", đôi khi do di truyền từ dòng họ nữa. Bẩy tội gốc đó là: kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng. Nét văn hóa Việt cũng nói tới ba loại quỉ hoành hành là ngư tinh dưới nước, mộc tinh trên rừng và hồ tinh trong làng mạc. Lạc Long Quân phải cần ơn trên mới trừ khử được.
Mê tiền bạc vật chất quá không ngờ cũng là một thứ bệnh nghiện. Mê danh quá cũng là bệnh nghiện. Bệnh ươn lười chiều dưỡng thân xác cũng là một loại nghiện. Hiện tượng quỉ ám không chỉ là chuyện đời xưa, mà có thể cũng đang gây nhức nhối trong mạch máu nhiều người, khiến không sao mà cưỡng lại và vượt thoát ra khỏi được!
Thì đây Tin Vui tuần này chỉ cho cách chữa được bệnh nghiện, vượt thoát được tình trạng khổ sở. Câu truyện Chúa Giêsu chữa một thanh niên bị mù từ khi mới sinh chính là câu truyện bị ám của mỗi người, không còn biết đường nào mà bước tới nữa. Và phương pháp chữa bệnh của Chúa cũng chính là điều mà khoa tâm lý thực nghiệm đã khám phá ra nơi 12 bước của chương trình chữa nghiện rượu.
Người mù không tự làm mắt sáng ra được, nhưng nhờ vào niềm tin phó thác vào Đấng Toàn Năng là chính Nguồn Sáng mà được chữa khỏi. Sau khi nghe lời Chúa Giêsu đi tới suối Si-lô-e mà rửa, người thanh niên đã được sáng mắt.
Để cho người thanh niên có dịp biểu lộ niềm tin, Chúa Giêsu đã hỏi: "Anh có tin vào Con Thiên Chúa không?". Anh ta trả lời: "Thưa Ngài, xin bảo cho tôi hay vị ấy là ai, để tôi tin vào Người." Đức Giêsu nói: "Anh đang thấy vị ấy trước mắt; vị ấy đương nói chuyện với anh.". Anh ta liền nói: "Lạy Thầy, tôi tin," nói rồi anh phục xuống lạy Người. (Gioan 9:35-38).
PHÚT TỊNH TÂM
Đôi khi một chấn động mạnh cũng là yếu tố then chốt cho một khúc quặt. Như một câu chuyện thật của một người trẻ bỗng từ bỏ được vòng tỏa xì ke. Anh và đám đàn em đã quá đi sâu vào con đường bệ rạc, cho đến một thời gian làm ăn đổ bể tùm lum, xuống dốc cùng độ, khiến anh phải bắt đầu suy nghĩ. Một buổi sáng sớm, anh thức dậy thì thấy một cảnh tượng hèn hạ: mấy đứa đàn em đang lom khom quì xuống liếm những bụi thuốc rơi rớt. Tự nhiên anh thấy rùng mình kinh tởm, sao đời mình lại có thể xuống dốc tới độ này, chắc chắn hèn hơn một con vật rồi. Bỗng anh nôn ọe ngay tại chỗ. Và đó là giây phút anh bừng tỉnh, trở về làm lại cuộc sống.
Trong mạch máu mình cũng có thể đang bị một thứ bệnh nghiện mê nào đó chế ngự, ám ảnh, cứ sai khiến bắt phải miệt mài tìm kiếm thêm mà không bao giờ thỏa. Như vậy là mình đang tự nộp mình làm nô lệ cho những mệnh lệnh đòi hỏi không cùng, tự đầy ải cuộc sống mình, làm mất đi nét tự do thanh thản.
Lúc này, mình cũng muốn dành một phút giây tĩnh lặng để cho Chúa hồi phục sức khỏe tinh thần, dám đối diện với hiện trạng bị một cơn mê nào đó ám ảnh, và áp dụng 12 bước để vượt thoát vòng xích mà tìm lại tự do thực sự.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".
Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa".
Suy Niệm:
Không tuần lễ nào nhiều lễ nghi bằng tuần Thương khó này. Giáo hội cử hành mầu nhiệm trọng nhất, nên tuần lễ này đáng gọi là Tuần Lễ Thánh. Và để chúng ta dễ tham dự các mầu nhiệm cử hành, Phụng vụ tuần này đầy những biểu thị cụ thể, lọt vào mắt và rót vào tai. Chúng ta sẽ cố gắng tham dự hết. Mở đầu, Phụng vụ mời gọi chúng ta cử hành việc Chúa long trọng vào thành Yêrusalem. Phụng vụ muốn chúng ta như diễn lại chính sự kiện ấy. Thế nên chúng ta làm phép lá ở chỗ này, để rồi rước vào nhà thờ, như Ðức Kitô ngày trước đã đến đứng ở Núi Cây Dầu rồi mới khởi hành vào Yêrusalem.
Như chúng ta ngày nay chọn chỗ này là chỗ thuận tiện nhất trong hoàn cảnh hiện đại để khởi sự cuộc kiệu, thì ngày trước Ðức Kitô cũng đã chọn nơi ý nghĩa nhất để đi vào thành. Yacaria ngày trước đã loan báo (14,4), khi đến cứu Dân, Chúa sẽ dừng chân trên Núi Cây Dầu, Núi ở trước mặt Yêrusalem về phía Ðông. Người Dothái tin ở lời tiên tri ấy. Khi một nhân vật nọ muốn xưng mình là Cứu Thế, ông đã hô hào dân chúng cùng ông lên Núi Cây Dầu để xem ông ta hóa phép giải cứu Yêrusalem như thế nào. Ông ta chỉ ngụy biện thôi, chứ có làm được gì. Tuy nhiên đối với dân chúng, lời tiên tri Yacaria không vì vậy mà mất giá trị. Hôm nay mô tả Ðức Kitô khởi hành vào Yêrusalem từ Núi Cây Dầu, các tác giả thánh muốn tuyên xưng Người là Cứu Thế và Người vào thành để cứu độ chúng ta.
Matthêô còn thêm chi tiết hai con lừa. Ông trích dẫn Yacaria (9,9) để làm chứng thêm Ðấng vào Yêrusalem hôm nay là Vị Cứu tinh hiền hòa. Chỉ có điều ông đọc lời tiên tri hơi méo mó một tí. Ông cắt bớt mấy câu trước quá hân hoan khải hoàn để cuộc vào thành của Ðức Kitô có vẻ khiêm tốn hơn. Và nhất là thay vì đọc "một lừa con, con của lừa mẹ" ông muốn có cả hai lừa mẹ cùng lừa con. Ông vẫn có thói quen tính gấp đôi như thế trong tác phẩm. Ông là người "khôn ngoan trong Nước Trời biết rút tự trong kho điều mới và điều cũ" (13,52). Yacaria chỉ nói đến "lừa con, con của lừa mẹ", là cốt nhấn mạnh tính cách mới mẻ, chưa ai động tới, chưa ai cỡi của con vật để Ðấng Cứu Thế dùng. Matthêô không bỏ điều ấy, nhưng cũng không muốn thấy Ðức Kitô cỡi nguyên trên một lừa con yếu ớt. Ông muốn có cả lừa mẹ, để nhấn mạnh thêm tính cách chắc chắn của việc Chúa sắp làm; và như vậy cả mới cả cũ, cả con lẫn mẹ đều được sử dụng. Tuy nhiên ý tưởng chính vẫn là việc Ðức Kitô cỡi lừa vào thành hôm nay thể hiện rõ rệt lời sách Yacaria và làm chứng Người là Cứu Thế vào thành để cứu độ trong thái độ dịu hiền, khiêm tốn.
Người được đón tiếp như một Hoàng đế theo kiểu Ðông phương: dân chúng tấp nập, kẻ trước người sau, trải áo trên đường, rắc lá cho sang, reo hò inh ỏi. Những tiếng "Hosanna, Con Vua Ðavít Ðấng đến nhân danh Thiên Chúa" nói lên niềm tin Ðức Yêsu là Thiên Sai, Cứu Thế.
Nhưng đó chỉ là ý kiến của quần chúng, của những kẻ đơn sơ khó nghèo. Vào tới thành, chỗ ở của những người giàu sang, Ðấng Thiên Sai hiền từ khiêm nhu không được đón tiếp như vậy nữa. Và nếu chúng ta còn nhớ: thánh Matthêô hay có những suy nghĩ về Giáo hội khi viết tác phẩm của người; và Nagiarét xứ Galilê đối với người là biểu tượng về dân ngoại, thì câu kết bài Tin Mừng vừa nghe đọc có nghĩa là: Ðức Yêsu, vị Tiên Tri thành Nagiarét xứ Galilê, Vị Thủ Lãnh của Giáo hội gồm đa số các tín hữu từ dân ngoại, đang ở giữa Yêrusalem cũ, đối nghịch và không muốn chấp nhận Tin Mừng.
Như vậy, khi thuật lại việc Chúa vào thành hôm nay, Matthêô không những chỉ muốn giới thiệu Người là Ðấng Thiên sai cứu thế hiền từ và khiêm nhu, đến để chịu nạn; nhưng tác giả còn muốn nhắc nhở chúng ta về thân phận của Hội Thánh, của mọi cộng đoàn Dân Chúa, của mọi tín hữu hết thảy đã đến từ dân ngoại: tất cả chỉ là hiện thân của Vị Tiên tri thành Nagiarét xứ Galilê đang đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế mà vẫn bị hất hủi. Thế thì chúng ta phải xin Người cho chúng ta được những tâm tình của Người để làm công việc vào Ðền Thờ hôm nay, để rồi vào đời cứu thế như Người. Chúng ta hết thảy hãy tiến lên với những tâm tình ấy.
Bản văn đã dài. Chúng ta không muốn nghe ai nói gì khác nữa. Có lẽ chúng ta còn muốn được yên lặng để tưởng niệm mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này sẽ ít có kết quả nếu không được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài mà chúng ta vừa nghe đọc có lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc. Chúng ta phải nói với nhau về bài tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm nay.
A. Bài Tường Thuật Việc Chúa Chịu Chết
Cả bốn sách Tin Mừng đều dụng công thuật lại việc Chúa chịu chết. Ðó là điều hơi lạ. Trước hết việc ấy "ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi các Tông đồ phải là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", thế mà lại dài dòng tỉ mỉ về việc Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn cả khi các ông giảng về việc Chúa phục sinh nữa. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định: không thể coi việc Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới nữa. Trái lại đó là sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Mà như thế là vì việc Chúa chịu chết đã không thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa chỉ cứu độ chúng ta ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà thôi. Tử nạn và Phục sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn qua rồi và hiện nay chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh hiện mang các dấu thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải như một giai đoạn bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc phục sinh. Và như việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn cứu độ cũng rực lên trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ về việc Chúa chịu chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách của mình. Ðạo của chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên giáo lý của đạo phải nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết.
Cả bốn sách Tin Mừng đều dụng công thuật lại việc này. Và điều lạ thứ hai: cả bốn sách đều giống nhau khi làm công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do đó người ta có thể quả quyết: khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã trình bày suy nghĩ chung của Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của mình. Nhiều người nhìn thấy sự giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý trong cách thức tường thuật của mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường thuật là đủ; hơn nữa có thể chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết của ba bài khác vào. Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để mỗi tác giả đưa chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị sẽ giúp ta thấy mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng.
Hôm nay chúng ta theo thánh Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Yuđa mặc cả với Hội đồng Dothái về số tiền thưởng y muốn được để nộp Ðức Kitô cho họ. Tác giả rõ ràng đã hàm ý vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn thỉu. Và bẩn thỉu thật, cái hôn nộp thầy của tên môn đồ phản phúc!
Còn thái độ của những người khác thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh chống lại sức mạnh. Nhưng Ðức Yêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn không có lối thoát: kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của những kẻ muốn xin Thiên Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu được kẻ có tội và do đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời Kinh Thánh nên trọn; hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải là hết...
Hai chủ đề trên tiếp tục được Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi bẩn thỉu của bọn Yuđa và Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Yuđa đem trả 30 đồng bạc. Người Dothái không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa ruộng máu. Rõ ràng bọn chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Ðức Yêsu chịu chết đã được viết trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn.
Nhưng như trên đã nói, Matthêô luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở đây cũng vậy, trong bài tường thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo này muốn tha Ðức Yêsu. Vợ ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính này. Ðang khi đó các tư tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen biết và xin tha bổng cho Baraba, một tên tử tội. Ðó là hình ảnh về Giáo hội gồm đa số dân ngoại và về cộng đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ lại một lần nữa khi kể chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục và hàng niên trưởng chế diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên của ông là dân ngoại lại kinh hãi mà nói: "Ðích thực, Ông này là Con Thiên Chúa" (27,54).
Tuy nhiên, nói cho đúng, dân ngoại chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc ấy màn phân nơi cực thánh xé ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào. Người Dothái không còn đặc quyền và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Ðức Yêsu đã cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người đã ban đức tin cho viên bách quân, đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại, hướng họ về niềm tin phục sinh, đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính gác mồ một cách vô ích.
Như vậy Matthêô đã có cả một lối suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi người đã đến Yêrusalem vào dịp lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết ghi nhận. Nhưng khi Ðức Yêsu đã phục sinh và đã tập họp các Tông đồ lại, đức tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi nhận kia cũng tập họp lại đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện tình cờ. Bề ngoài nó có do việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như sai lầm của kỳ mục Dothái. Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ đã được viết trước trong Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người Dothái phải trở lại; và để như Lời Ðức Yêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ lúc Ðức Kitô bị xét xử, người ta sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và Người cứu độ chúng ta trong vinh quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người làm nổi bật sự vô tội của Người, và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu chuộc chúng ta. Do đó sự sống công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ các thương tích của Người, mà còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử thách đớn đau.
B. Bài Học Chúa Ðể Lại Cho Chúng Ta
Thánh Phaolô không bao giờ viết một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng bài thư Philip hôm nay có thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta có thể nghĩ đây là một ca vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy, đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó không thể khác với bài tường thuật của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói, các bài tường thuật về việc Chúa chịu chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý chung của Hội Thánh mà thôi. Ðọc các bài tường thuật này, chúng ta phải chia sẻ đức tin của Giáo hội. Thánh giá Ðức Kitô nói lên sự vô tội thánh thiện của Người ở giữa những người mà Người đã gọi là anh em nhưng lại thật là độc dữ. Chính cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến chúng ta nhận ra Người là Người Tôi Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên thánh và cứu thế.
Isaia ngày trước đã được linh ứng để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức là về thân phận Ðức Kitô và thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa phải "sáng sáng, mở tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung thành của môn sinh để lấy Lời Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ lưng cho người ta đánh đập, chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục nhằn khạc nhổ, biết rằng chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...". Isaia thật đã vẽ trước khuôn mặt và đời sống của Ðức Kitô. Mọi lời của ông được bài tường thuật của Matthêô làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy nghĩ và thấu hiểu đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Ðức Kitô. Phụng vụ hôm nay dùng cả ba bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành trên bàn thờ để chúng ta nhận lấy Ðức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình vào đời mà chiếu tỏa ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống, tiếp tục con đường nên thánh và cứu thế của Ðức Kitô, xứng đáng với danh hiệu Con Thiên Chúa.
Trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, ngày tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi hiểu được chọn lựa này của Thiên Chúa, để cũng biết chọn lựa trong cuộc sống. - UBKT-HĐGMVN
1. Ta thấy rõ qua các bài đọc Kinh Thánh là cái chết đóng đinh đã được Đức Giêsu tiên liệu và loan báo. Người hoàn toàn ý thức về thời gian chính xác Người phải chết, một cái chết lẽ ra Người có thể tránh, nhưng Người đã thong dong quyết định không làm như thế. Người biết rằng Người đang hoàn tất một điều đã được quy định từ trước. Tuy nhiên, dù đã quen với cách tường thuật của Tin Mừng, chúng ta vẫn có thể hỏi “tại sao”. Tại sao Thiên Chúa đã chọn đúng cái kiểu đặc biệt như thế để can thiệp vào trong đời sống nhân loại và trong lịch sử? Chúng ta nhận ra được điều gì về thực tại cuộc sống của chúng ta tại đây và bây giờ? Thiên Chúa đang truyền đạt cho chúng ta kinh nghiệm gì?
Có những chân lý đã trở nên minh nhiên một cách đầy kịch tính do cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Mỗi người cần được “cứu độ”. Đức Giêsu đã “trả giá” cho ơn cứu độ này cho từng cá nhân. Chúng ta tự do chọn lựa (và cần thiết là chúng ta chọn cách tự do) hoặc từ chối ơn cứu độ này. Cách nào đó, chúng ta được kêu gọi tham dự với Đức Giêsu vào việc cứu độ người khác. Trong tư các là Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi sống thực tại cái chết làm hy lễ này để cho chúng ta được sống, vì chúng ta và vì những kẻ khác.
2. Rất có thể đối với chúng ta, thật khó mà đi sâu vào và trải nghiệm ý nghĩa đích thực của cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Chúng ta đã quen với các biến cố và các từ ngữ thần học vẫn được dùng để diễn tả thực tại này. Nhưng chúng ta cũng còn khó mà gặp được kinh nghiệm về cuộc Thương Khó và đánh giá đúng mức vai trò của cuộc Thương Khó trong đời sống chúng ta. Trong tâm trí chúng ta, cuộc Thương Khó có vẻ như là một mảnh thuộc viện bảo tàng lịch sử, có giá trị vào một thời đại khác và tại một nơi khác.
Nếu chúng ta khó mà hiểu được kinh nghiệm về cuộc Thương Khó, rất có thể là vì chúng ta có những cách thức suy nghĩ và sống các đòi hỏi của những tiền đề khác không phải là Kitô giáo. Rất có thể chúng ta tự giới hạn vào việc nghĩ tới đời này và các bận tâm tức thời. Rất có thể chúng ta không thể hoặc không sẵn sàng nhìn thấy tính chất tạm thời của tất cả những gì chúng ta biết. Rất có thể chúng ta không còn lắng nghe các nguyện vọng sâu xa của con tim chúng ta nữa, vì đã để cho nó bị cuốn vào trong cơn lốc của những lo âu khắc khoải. Rất có thể chúng ta đang sống những cuộc sống rất vô trật tự, dù bề ngoài thì rất có tổ chức.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu nhắm một mục đích khác trong đời sống và nhắm một cách thức suy nghĩ và lượng giá khác. Con cái Israel biết rõ hoàn cảnh nô lệ thê thảm của họ, và họ đã hết sức mong được tự do. Họ đã sẵn sàng và tức khắc bỏ đi một hoàn cảnh không thỏa mãn, không chịu nổi, của cuộc sống, để bước theo lời Thiên Chúa hứa ban một quê hương và ban bình an trong tự do. Chúng ta phải đạt được một cái nhìn tương tự về cuộc đời, nên cuộc Thương Khó phải tượng trưng cho chúng ta điều gì đó hơn là một câu truyện sử lạ kỳ về kiểu sống anh hùng mà không đi đến đâu.
Nếu chúng ta biết nhìn sang bên kia tình trạng mê hoạt động đến điên rồ, chúng ta sẽ thấy đâu là điều chúng ta thực sự tìm kiếm. Chúng ta sẽ thấy giá trị chân thực, không phóng đại của mỗi sự việc. Khi đó, cuộc Thương Khó của Đức Giêsu trở thành lời giải thích, mục đích và tiến trình của chính đời sống chúng ta.
Một trong những phương diện tiêu biểu của Kitô giáo là, vì kết luận chung kết đã được đảm bảo, chúng ta lại không được chắc chắn về bất cứ điều gì. Chúng ta không được hứa ban cho một sự che chở chắc chắn khỏi bất cứ thiệt hại nào, cũng không được đảm bảo là sẽ đạt kết quả thấy được. Điều chúng ta được đảm bảo, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể. Chúng ta phải trở làm quen với sự hiện diện này, để sự hiện diện này trở thành một kinh nghiệm cá nhân, đầy an ủi. Trong những thời buổi rất phức tạp, xô bồ này, chúng ta cần có một nền sư phạm Thánh Thể để có thể học biết lắng nghe với trái tim, cũng như rút được sức mạnh và ánh sáng từ Bí tích Thánh Thể.
Trong giây phút này, chúng ta thử chiêm ngắm cảnh tượng Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách long trọng. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa. Ngoài ra còn có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính theo phong tục vùng Cận Đông.
Tiếng reo hò vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Messia, là vua thuộc dòng dõi Đavid, Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Chúa Giêsu lặng lẽ để dân chúng tung hô. Ngài để cho lời tiên tri Giacaria được ứng nghiệm:
- Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy hân hoan reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Ngài là Đấng chính trực, toàn thắng, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa.
Quả thực, Ngài là Vua, nhưng rồi đây, người ta sẽ biết cách thức làm Vua độc đáo của Ngài. Đó là qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá. Sau những giây phút tưng bừng và náo nhiệt này, Phụng vụ hôm nay còn để lại nơi chúng ta một nỗi buồn thấm thía, bởi vì trong thánh lễ chúng ta được nghe đọc bài thương khó. Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là để hoàn tất mầu nhiệm vượt qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Từ hai sự việc trên chúng ta rút ra hai điểm chính yếu để suy nghĩ.
Điểm thứ nhất đó là, theo thánh Gioan, đám đông đón rước Chúa hôm nay là những người đã nghe biết hay chứng kiến việc Ngài làm cho Lagiarô sống lại. Chắc hẳn những người này đã thực lòng tung hô Chúa như vị cứu tinh. Thế nhưng cũng chính đám người này, sau đó một vài ngày khi Ngài bị đem ra trước Philatô, thì không thấy một người nào dám lên tiếng bênh vực cho Ngài, thậm chí còn có những người kêu gào:
- Đóng đanh nó vào thập giá.
Đúng như tục ngữ Việt Nam đã diễn tả:
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Biết đâu chính chúng ta lại chẳng cư xử bạc bẽo như vậy với Chúa, bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta cũng lớn tiếng kêu gào và đóng đanh Chúa một lần nữa vào thập giá.
Điểm thứ hai, đó là phải can đảm và kiên nhẫn bước theo Chúa. Thực vậy, đi theo Chúa Giêsu trong một vài giờ rước lá là điều không khó khăn cho lắm, biết đâu còn là điều thích thú nữa. Kinh nghiệm cũng cho hay: Bước theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục bước theo Ngài khi Ngài bị mọi người bỏ rơi và kết án, điều đó khó hơn nhiều. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Đức Kitô thì chắc chắn có những lúc chúng ta nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mình không muốn đến.
Con đường theo Chúa có những lúc vui và cũng có những lúc buồn. Nếu chúng ta đã có mặt trong đám đông tung hô Chúa khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cũng không được thiếu vắng khi Ngài vác thập giá và chịu chết trên đỉnh Canvê. Đừng sống theo kiểu:
- Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Hãy trung thành bước theo Chúa và gắn bó mật thiết với Ngài ở mọi nơi và trong mọi lúc vì ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu thoát.
Bài tường thuật cuộc đau khổ của Chúa Giêsu thật khó diễn giải. Tự nó đã nói rất nhiều rồi. Phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, phải để nó thấm nhập vào mình, tìm cách chịu đựng tính chất thực tế của nó, mở lòng đón nhận cái sứ điệp nó đề nghị.
Chúng ta thử dừng lại ở một điểm: ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ tự phụ, yếu đuối, ăn năn.
1) Hai câu 26,33-34 cho ta thấy Phêrô trung tín chừng nào, nhưng đồng thời cũng không biết rằng chước cám dỗ có thể bất ngờ và dữ dội ra sao. Trong những trường hợp khác, ông nghe lời Chúa Giêsu mà quyết định ngược lại với chính mình, còn đây ông lại phản đối lời Người. Chúa báo trước các môn đệ sẽ lìa bỏ Người. Phêrô cho là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa nói thêm rằng ông sẽ chối Chúa trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, đàng này ông phản ứng mạnh mẽ, đầy tin tưởng vào mình. Ông thành thực lắm. Ông cảm thấy không gì lay chuyển tình yêu đối với Thày. Ông không thể chấp nhận lời Chúa Giêsu báo trước rằng ông sẽ sa ngã. Cuối cùng, khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện, thì Phêrô không thức, nhưng lại ngã ra ngủ, lòng vẫn đầy tin tưởng vào mình. Phải chăng ta gặp thấy một ‘âm vang’ của cái kinh nghiệm đau đớn này trong lời căn dặn mà sau này Người sẽ viết ra: “Hỡi anh em, hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé…” (1Pr 5,8).
2) Kẻ thù ồn ào và gầm thét đã tấn công Phêrô, đó là đám đông đã bắt Chúa Giêsu và tìm hết cách tỏ lòng căm phẫn đối với Người. Phêrô lo sợ, mà không biết mình sợ. Vì không biết mình, nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh: Phêrô theo Chúa xa xa, đến dinh thày cả thượng phẩm. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng sẽ kết thúc như bao nhiêu lần Chúa Giêsu đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn Do thái. Ông chờ đợi mà không đề phòng. Ông sẵn sàng để sa ngã. Chỉ một câu hỏi của một người đàn bà cũng làm ông bối rối, một nỗi bối rối xen lẫn sợ hãi, tính hèn nhát và bản năng bảo tồn, mặc cảm tự ti là người xứ Galilêa, ‘khả năng’ nói dối. Ông chối Chúa Giêsu.
3) Nhưng Phêrô hối hận. Tiếng gà gáy làm ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là ở lòng khiêm nhường, thành thực, tin tưởng dù đã sa ngã. Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm nghịch lại lời cam kết với Chúa Giêsu. Ông cảm thấy lờ mờ rằng nhờ nhận lỗi mình cách thành thật, ông được Thày khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động, và vì đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi. Phêrô thống hối đã được tha thứ và nên hùng tráng.
Có thể nói, trong suốt 3 năm miệt mài, vất vả rao truyền lời chân lý, chữa lành bao kẻ tật nguyền, thực hiện bao phép lạ vỹ đại, hôm nay là ngày Chúa Giêsu được vinh hiển nhất, được tôn kính trọng vọng nhất. Dân chúng đứng chật hai vệ đường, người người vui mừng reo hò. Họ tung hô vạn tuế và không ngừng ca tụng: “Hoan hô con Vua Đavít. Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Lòng sùng mộ và yêu kính của dân chúng bấy giờ đã khiến họ hành động một cách hết sức đặc biệt. Họ cởi áo ngoài trải đường như một tấm thảm kéo dài trên đường Ngài đi qua. Và họ cầm trên tay ngành vạn tuế để vẫy chào Ngài khi Ngài đi qua chỗ họ. Thánh Kinh kể lại, số người theo tung hô Ngài mỗi lúc một thêm đông, đến độ khiến các Pharisiêu phải ghen tị.
Nhưng nếu để ý quan sát đám rước hôm đó, ta sẽ thấy một chi tiết có thể làm chúng ta phải dừng lại mà suy nghĩ. Đó là Chúa Giêsu không cỡi trên voi, trên ngựa, hay không ngồi trên kiệu mà tham dự cuộc khải hoàn này, nhưng Ngài lại ngồi trên lưng một con lừa con. Thánh Mátthêu ghi: “Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các anh hãy mở dây và dẫn về đây cho thầy” (Mt 21:2). Ngài làm thế còn để ứng nghiệm lời Thánh Kinh: “Hãy nói với thiếu nữ Sion rằng, này vua các ngươi đang ngự đến, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, là con lừa mẹ” (Mt 21:5).
Chúa cỡi lừa con để khải hoàn vào thành Giêrusalem. Chúa không cỡi voi hay cỡi ngựa, hoặc ngồi trên kiệu vì Ngài không muốn làm các thiếu nữ Sion phải hoảng sợ. Ngài không muốn bất cứ ai nhìn Ngài bằng cái nhìn đầy kinh ngạc, hoảng hốt và trốn tránh. Ngài không muốn tạo hình ảnh một kẻ có quyền, hưởng thụ, và kiêu hãnh, vì cỡi voi thì đòi nhiều người phục dịch. Ngồi kiệu cũng phải có kẻ khiêng. Ngồi trên lưng ngựa tuy đơn giản hơn ngồi trên mình voi hay trên kiệu, tuy nhiên, ngồi trên lưng ngựa vẫn là hình ảnh của những kẻ anh hùng, những kẻ chiến thắng nên có quyền kiêu hãnh và cũng khiến nhiều người phải sợ hãi, nể phục. Chúa Giêsu đã không muốn bất cứ ai phải bắt buộc theo và miễn cưỡng mến Ngài. Ngài cũng không dùng sức mạnh, quyền lực của kẻ chiến thắng để khống chế và thu phục nhân tâm. Chính vì thế những hình ảnh liên quan đến sức mạnh quyền lực đều bị Ngài từ chối. Ngài chỉ muốn một mình đơn sơ ngồi trên lưng một con lừa con, nhỏ bé để tiến vào thành. Một hình ảnh nói lên vẻ thanh bình, đơn sơ, nhẹ nhàng, và tự nhiên. Và đó chính là Ngài, con chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian.
Ngài là vua chứ không phải chỉ là con Vua Đavít như người ta đã chúc tụng Ngài. Danh Ngài đáng được vang vọng chúc tụng trên các tầng trời, vì Ngài là Chúa tạo thành vũ trụ. Cả nhân loại phải phủ phục dưới chân Ngài và trước nhan Ngài. Mọi đầu gối, như Thánh Phaolô đã viết, trên trời, dưới đất và trong lòng đất phải quì gối trước mặt Ngài. Và nếu Ngài dùng voi, dùng ngựa, dùng kiệu hay bất cứ phương tiện nào thì vẫn chỉ là những phương tiện tầm thường chưa xứng với Ngài. Tuy nhiên, Ngài đã không làm như thế. Ngài đã khiêm nhường, đơn sơ ngồi trên lưng một con lừa con. Hành động ấy của Chúa như nói trước với chúng ta về những gì mà Ngài sẽ làm trong Bữa Tiệc Ly, khi hạ mình khiêm hạ rửa chân cho các môn đệ. Khi bị bọn lý hình hành hạ và chế diễu. Khi chấp nhận bản án bất công. Và khi bị đóng đinh chết treo trên thập tự giá.
Làm sao tâm trạng của một người mang trong mình hình ảnh chiến thắng hiển hách, ngồi trên lưng một con chiến mã, ngồi trên lưng một con voi, hay ngồi trong một cái kiệu sang trọng tiến lên giữa tiếng tung hô, lại có thể chấp nhận được việc quì gối xuống, bưng chậu nước đến và quì trước mặt các môn đệ của mình để rửa chân cho chúng.
Làm sao một vị đại tướng, một hoàng đế uy nghi trên lưng ngựa dạo qua rừng người hôn hô vang dội lại có thể chấp nhận chịu cảnh trao nộp, chịu đánh đòn, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đội mão gai, chịu xét xử bất công, và chịu đóng đinh chết trần truồng trên thập giá mà không một lời than van, trách móc.
Ngồi trên lưng ngựa, lưng voi, hay kiệu sang trọng thì không dễ cúi mình xuống được. Nhất là trong tư thế của kẻ có quyền, kẻ chiến thắng. Cũng không dễ chấp nhận thua thiệt, không dễ đón nhận nhục nhã, không dễ vâng phục thiên ý. Cứ nhìn bọn Pharisiêu qua thái độ ghen tức của bọn họ với Chúa Giêsu khi thấy Ngài được dân chúng tung hô, chúc tụng thì quá rõ.
Phải đơn sơ, phải nhân từ, và phải hiền hậu thì họa may mới có thể đón nhận được những thử thách, bất công, và nhục nhã. Và có lẽ vì lý do đó, Chúa đã dùng con lừa để làm phương tiện di chuyển hôm đó. Làm như vậy là Chúa muốn nói với mọi người rằng, Ngài xứng đáng với tất cả mọi lời chúc tụng. Ngài chính là vua. Ngài là vua chiến thắng. Nhưng trên hết, Ngài là một vị vua nhân từ. Vua thái bình. Vua của tâm hồn con người. Và vì thế, Ngài đã cỡi lừa con mà không cỡi chiến mã.
Chúa là vua nhân từ, hiền dịu chứ không phải là vua quyền uy, độc tài, và hà khắc. Ngài thương yêu tất cả. Ngài mong mọi người hãy đến với Ngài, để học cùng Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường”. Làm như vậy, chúng ta mới dễ mở rộng lòng mình đón nhận mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh mà Ngài đã thực hiện vì chúng ta và cho chúng ta.
Đức Kitô vào thành thánh Giêrusalem không được chuẩn bị đón tiếp. Không ban tiếp tân, chẳng khán đài và cũng không nhạc vàng, kèn trống. Nhà cầm quyền làm ngơ, vờ như không biết sự kiện này.
Ý Chúa nhiệm mầu, dù không có tổ chức Con Chúa vẫn được đón tiếp trọng thể, linh đình, ngoài dự đoán của thành phần chống đối. Dùng cành lá vệ đường làm cờ phất phới miệng ca vang ‘hoan hô con vua Đavít’. Dân chúng đón Ngài như đón vị quân vương đại thắng trở về. Quả thế Ngài chiến thắng sự chết. Ban sự sống trường sinh cho những ai tin theo.
Hơn nữa, đám đông còn người lấy lá trải đường, kẻ cởi áo choàng trải lối, thay thảm đỏ đón Chúa. Sự việc chưa từng xảy ra.
Trong chiến tranh lính bại trận thường trút bỏ giáp trận, quăng vất vũ khí tứ tung, ngổn ngang tháo chạy. Ngày đón chào Con Chúa cũng áo choàng đầy đường, cành lá phủ khắp chốn. Đám đông không hoảng sợ, trốn chạy nhưng tìm đến reo hò, ca vang. Cởi áo choàng đang mang trên người trải đường diễn tả tâm tình yêu mến. Đức Kitô đi trên áo choàng kia nhưng đám đông cảm thấy như Ngài đang đi vào lòng mỗi người.
Đoàn người lũ lượt đông đảo ca dậy vang trời
‘chúc tụng Đấng Nhân Danh Chúa mà đến’.
Lạ thay chủ tướng đại thắng không cưỡi ngựa, chẳng hoàng bào hay xa giá mà cưỡi một con lừa nhỏ. Đoàn quân thắng trận lại thưa thớt, hơn chục người tính cả Thầy lẫn môn đệ.
Đức Kitô khiêm nhường tiến vào thành Thánh. Kẻ chống đối Ngài dù cao ngạo, dù bực dọc vẫn chỉ lấp ló, lén lút nhìn. Chúng run sợ trước sức mạnh của đám đông bên đường reo hò, ca vang đón mừng quân vương oai phong lẫm liệt trên lưng lừa.
Với kẻ chống đối cưỡi lừa thiếu oai phong của đấng quân vương. Với đại chúng Ngài lại là vị vua họ mong đợi. Với Đức Kitô oai phong không phải do con vật mà do người ngồi trên con vật. Thật thế, nói điều tốt chưa đủ. Làm điều tốt, sống lành thánh giúp ta nên thánh.
Đức Kitô cưỡi lừa vào thành cho biết mọi biến cố xảy ra trong đời đều mang ân sủng Chúa khi chúng ta đón nhận trong tin yêu, khiêm tốn. Ân sủng Chúa có đó nhưng ta không nhận ra vì thiếu xét mình mỗi ngày.
Chúa dùng cuộc thương khó dậy ta sống khiêm nhường, phó thác và vâng phục. Các nhân đức trên chinh phục lòng người. Cao ngạo và quyền thế không chinh phục nhưng chiếm đoạt. Chiếm đoạt khẩu phục, tâm không phục. Chúa chinh phục lòng người bằng cách chết thay, vác thập giá thay, đau khổ thay. Vì thế người ta tâm phục, khẩu phục. Chúa còn dậy hạnh phúc, đau khổ và khốn khó ở đời đều qua đi. Chúng xuất hiện khi cao ngạo và chuyên quyền lãnh đạo, làm chủ. Đau khổ không dễ gì chấp nhận và cũng không thể tránh khỏi. Không thể tránh. Tốt hơn học đối diện để đón nhận. Kết quả chúng biến đổi đời ta nên tốt hơn.
Đón mừng Phục Sinh trọn vẹn nhất là từ bỏ cao ngạo, tiếm quyền, thói hư, tật xấu, ngõ tối trong tâm hồn. Mở rộng tâm hồn, vui mừng đón nhận ánh sáng Phục Sinh hầu nhận sự sống mới Chúa ban.
Không thể thành tâm cầm nhành lá đón Chúa khi nội tâm thiếu khiêm hạ. Sống vâng phục và khiêm hạ là môn đệ chân chính của Đức Kitô.
* Tưởng nhớ Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem, * Phụng vụ lời Chúa, * và phụng vụ Thánh Thể.
Có 2 Phúc âm để chọn khi kiệu lá. Tôi thích Phúc âm thánh Mác-cô, và sẽ chú trọng bài đó. Chúng ta có bài Thương Khó của thánh Mác-cô.Tôi không muốn phân chia bài này, nhưng sẽ triển khai đề tài trong bài Phúc âm đó. Chúng ta thường ít nghe trọn vẹn bài Thương Khó. Sách lễ khuyến khích nên có một bài giảng ngắn gọn, không nên vì bài Thương Khó dài mà bỏ bài giảng.
Hôm nay Chúa Giêsu đi vào thành thánh, nơi Ngài sẽ gặp nhiều thử thách, chống đối. Và Ngài sẽ chẳng ngại ngùng gì khi gặp việc này, Ngài không sợ những lời vu khống, và quyền lực ức chế Ngài. Ngài không có vũ khí, và Ngài cũng không kêu gọi quần chúng đón chào Ngài bằng bạo động. Ngài không kín đáo đi vào thành để tổ chức bạo loạn. Có người trong số quần chúng muốn Ngài lãnh đạo để chống đối chính quyền bằng bạo lực. Những kẻ chống đối Ngài không cần phải dùng an ninh chìm cài vào các môn đệ để xem Ngài rao giảng những gì, vì những lời Ngài nói với quần chúng và hành vi của Ngài rất công khai, ai cũng có thể trông thấy được nếu họ muốn.
Chúa Giêsu đi vào thành một cách khiêm nhường để ứng nghiệm lời ngôn sứ Da-ca-ri-a (9:9) "Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ". Đó là lời ca ngợi của quần chúng trong lời "Hosanna, Giêsu". Đây là một vị "vua" tiến vào thành trên lưng lừa. Thật là một hình ảnh không có vẻ long trọng tí nào. Ngài vào thành không kèn trống, ăn mặc như dân thường, ngồi trên lưng lừa. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu không có tài sản gì: Ngài mượn một chiếc thuyền để giảng dạy, Ngài mượn một cái phòng để ăn bữa tiệc lễ Vượt Qua với các môn đệ. Ngay cả mộ Ngài cũng là mộ mượn. Vậy, làm sao Ngài có thể giải phóng một dân tộc đang bị nô lệ bởi một cường quốc có binh lực hùng mạnh như đế quốc La-Mã được? Và giới lãnh đạo Do Thái ở Giê-ru-sa-lem nghe được gì và sợ gì nơi người nông dân ở Ga-li-lê-a này?
Mặc dù bề ngoài của Chúa Giêsu có vẻ khiêm nhường, nhưng dân chúng vẫn không rời xa Ngài, nhất là ngày hôm nay. Thường người ta hay dùng quyền lực để ra oai với kẻ khác cho họ sợ mình. Trong một số lễ lớn của các nước giàu mạnh, có phi cơ phản lực bay trên không, khiến quần chúng trố mắt nhìn, kèm theo tiếng gầm rú đầy khí thế của đoàn phi cơ. Chúa Giêsu không thu hút người ta với những cách bày tỏ uy quyền bên ngoài, nhưng Ngài mang hy vọng đến cho những người lo lắng và thất vọng do đang bi áp lực của quyền lực tôn giáo, quân sự, hay kinh tế ở trần gian.
Nhà thần học Đức, Dietrich Bonhoeffer, bị lính Quốc Xã giết, cảnh báo, nếu chúng ta bỏ qua hành vi tội lỗi, sự tha thứ sẽ trở nên dễ dàng, và mời gọi hãy nên người phục vụ. Trong tuần này, chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô, được mời gọi để chết với Ngài, chết với tội, và chết với chính mình. Suốt tuần này, chúng ta phải chú trọng đến sự chết của Chúa Kitô, và nổi thất vọng của các môn đệ Ngài không phải là đoạn cuối của câu chuyện. Vì mọi sự sẽ được hoàn tất trong sáng Chúa Nhật khi Chúa Kitô chiến thắng sự chết và Sống lại với sự sống mới. Đây chính là sự sống mới được triển nở trên cái chết. Trong tuần này, khi đi vào sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta sẽ thấy quyền lực của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, vì Ngài là Đấng có quyền cho người chết sống lại với một sức sống mới.
Phúc âm thánh Mác-cô từ đầu đến giờ trình bày mọi sự việc một cách nhanh chóng. Nhưng đến đây Phúc âm lại thay đổi, diễn tả mọi chi tiết một cách khoan thai và rõ ràng hơn. Ví như việc Chúa Giêsu vào Giê-ru-sa-lem, thánh Mác-cô diễn tả chi tiết việc Chúa Giêsu chỉ cách cho hai môn đệ đem con lừa về cho Ngài. Dù rằng, đây chỉ là những việc làm bình thường của người dân sở tại.
Trước đó, hai môn đệ muốn kẻ ngồi bên tả, người ngồi bên hữu Chúa Giêsu khi Ngài về nước Trời. Thái độ của hai môn đệ là hành vi đặc biệt được mô tả trong phúc âm thánh Mác-cô. Hai môn đệ không bao giờ để ý đến chủ đích giảng dạy của Chúa Giêsu về cách phục vụ và cây Thập giá. Dù vậy, Chúa Giêsu vẫn muốn dạy các môn đệ trở nên những tôi tớ khiêm nhường, ngay cả khi Ngài thấy giờ sau cùng sắp đến. Chúng ta không biết tên hai môn đệ Ngài sai đi mượn con lừa. Có lẽ vì vậy mà Mác-cô diễn tả nhiều chi tiết về câu chuyện đơn sơ này.
Dân chúng đang mong đợi một vua vinh quang, nhưng Chúa Giêsu lại ngồi trên lưng lừa. Đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng Ngài không phải là vị Vua mà mọi người đang mong đợi. Và ai muốn theo chân Ngài phải giống Ngài là biết phục vụ người khác, không huy hoàng như họ muốn. Ở giáo xứ tôi vừa giảng, Hội đồng giáo xứ đang giúp những người tinh nguyện ỏ tầng dưới nhà thờ để làm bánh mì với bơ đậu phọng và mứt cho người nghèo ăn. Dưới một cách nhìn chung đó là chúng ta đang phục vụ.
Giáo sư thần học Thomas Long, ở trường Candler có viết một bài báo nói về môn đệ Chúa Giêsu phải là những người dẩn lừa về cho Chúa, họ phải phục vụ một cách khiêm nhường. Mở đầu Phúc âm thánh Mác-cô: có tiếng người hô to: "Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa", nhưng Phúc âm diễn tả rõ là dọn đường đó là làm những việc thường ngày, đôi khi cũng có việc nặng nhọc. Cuối cùng bài viết, "dọn đường cho Đức Chúa" là những việc thường làm trong chuồng lừa để đem lừa về cho Chúa Giêsu.
Phúc âm Mác-cô viết rất giản dị và rỏ nét. Mặc dù có nhiều phấn kích cho những người chung quanh Chúa Giêsu, Ngài chỉ hướng dẫn đường cho hai môn đệ, và Ngài rất im lặng trong suốt câu chuyện. Chúng ta muốn biết thêm chi tiết của cuộc "đi vào vinh quang", chúng ta hãy đọc Phúc âm thánh Mát-thêu chứ trong Phúc âm thánh Mác-cô không có. Chúa Giêsu cảm thấy Ngài không còn đi trên đường ở Ga-li-lê-a để đối đáp với những kẻ chống đối Ngài. Thay vào đó Ngài đang ở kinh đô, nơi có nhiều chức sắc tôn giáo và chinh trị thách đố Ngài.
Vào những ngày cuối đời tại thế, Ðức Giêsu bị Giuđa phản bội, nộp Thầy mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc (Mt 26:15). Nghĩ đến viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Ðức Giêsu đi ra Núi Cây Dầu cầu nguyện. Cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán vệ binh Đền thờ đến bắt Ðức Giêsu bằng một dấu hiệu là nụ hôn. Ðể bảo vệ Thầy mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai phải tên đầy tớ của thượng tế (Mc 14:46). Phúc âm Nhất lãm không nêu danh người chém. May thay, Phúc âm thánh Gioan có xác định là ông Phêrô chủ động và nêu danh cả viên đầy tớ bị chém là Man-khô nữa (Ga 18:10).
Nói đến việc chém đứt tai tên đầy tớ, thì có linh mục kia từ khi vào chủng viện trung học cứ thắc mắc: Sao thánh Phêrô chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương vai hay cổ? Hay phải dịch là xẻo tai? Mà xẻo tai thì lại không thực tế trong trường hợp này. Ðể xẻo, thì một tay cần phải cầm tai của tên đầy tớ, còn tay kia cầm gươm để xẻo thì mới có điểm tựa. Nếu vậy, đối phương thấy đau sẽ vùng vẫy để tẩu thoát. Còn nếu nhờ các tông đồ khác kìm kẹp hắn lại để thực hiện việc xẻo, thì cũng không giúp được gì, bởi vì vệ binh Đền thờ đi bắt Ðức Giêsu thế nào cũng phải đông hơn và có khí giới lợi hại hơn để áp đảo nhóm Mười Một.
Trở lại việc chém đứt tai thì linh muc đó lý luận: Nếu thánh Phêrô bổ thẳng từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị thương vai của tên đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà còn làm bị thương cả đầu hay cổ nữa. Nếu tai cụp gần vào đầu thì lại càng khó chém. Có lẽ tên đầy tớ có tai vảnh ra như tai lừa nên mới dễ chém như vậy. Dầu sao đi nữa, linh mục đó cũng kết luận rằng thánh Phêrô phải có võ thuật, nhất là làm nghề chài lưới ở biển hồ Tibêria thì càng phải biết võ mà đề phòng hải tặc, nếu có. Như vậy khi chém tên đầy tớ, thánh Phêrô đã phải dùng thiên giác để cho thanh gươm dừng lại ở điểm nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đầy tớ. Nói cách khác, thánh Phêrô phải dùng trí óc để điều khiển thần kinh, rồi thần kinh phối trí với nhãn quan và bắp thịt cánh tay để điều khiển hướng đi của thanh gươm, cho gươm dừng lại ngay trước vai. Như thế thánh Phêrô chỉ chém để cảnh cáo nhóm người đến bắt Thầy mình như là ngụ ý nói với chúng: Tụi bay đừng có đụng đến Thầy của chúng ta nghe không, kẻo phải ăn đòn như thế này. May thay, Phúc âm thánh Luca có ghi lại việc Chúa chữa tên đầy tớ: Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành (Lc 22:51).
Như vậy đường lối của Ðức Giêsu khác với đường lối loài người. Ðường lối của Ðức Giêsu là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho nên Người bảo Phêrô dừng lại và xỏ gươm vào bao (Mt 26:52). Hãy tưởng tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một nụ hôn, tông đồ khác chối Thầy. Số còn lại thì lẩn trốn như trạch, không dám xuất đầu lộ diện để khỏi bị liên lụy. Có một chàng trai đi theo Đức Giêsu, thấy nguy cơ, liền trút tấm vải che thân, tẩu thoát, mình trần như nhộng (Mc 14:51-52). Những nhà chú giải Thánh kinh đưa ra nhận định: chàng trai đó chính là thánh sử Mác-cô. Nếu theo nhận định của những nhà chú giải Thánh kinh về căn tính của chàng thanh niên tẩu thoát, mình trần trụi, thì tình tiết trần truồng có thể được giải thích như sau. Đức Giêsu và các tông đồ có lẽ ăn bữa Vượt qua tại nhà thân mẫu ông Mác-cô, trong một căn lầu, rộng rãi, có trường kỉ như Người đã chỉ bảo (c. 12). Khi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống lầu đi ra vườn Gét-sê-ma-ni, Mác-cô ở dưới lầu nghe hay nhìn thấy – có lẽ vữa tắm xong - cũng đi theo, vội lấy khăn bằng vải gai khoác vào người cho đỡ lạnh - lạnh vì ông Phêrô phải ngồi gần lửa mà sưởi (c. 54).
Philatô thấy Ðức Giêsu không làm chi đáng tội cho nên muốn tha cho Người, nhưng lại nể dân. Còn dân chúng thì nhạo báng, vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa.
Trên thập giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại, chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thập giá, và không có bệ đỡ chân Chúa đâu. Ða số những cây thập giá mà người ta làm để tôn kính thì thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc bốn mươi lăm độ như vậy thì cũng không đỡ được chân Chúa khỏi trụt xuống. Ðóng đinh ai trên thập giá là một hình phạt của tội nhân. Với hình phạt xưa kia khi chưa có phong trào nhân quyền bảo vệ phạm nhân, người ta đâu có quan tâm đến việc làm cho tội nhân đỡ đau đớn bằng cách đặt bệ chân đâu? Cho nên thân xác kéo ghì xuống, làm vết thương ở hai cổ tay và hai chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Ðau đớn, nhức nhối, kiệt sức và ngộp thở mà chết!
Ðừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu không là gì vì Người là Thiên Chúa. Không phải vậy đâu. Chúa Giêsu cũng là người. Và Chúa chịu đau khổ và chịu chết với tư cách là người. Ðức Giêsu không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Nơi Ðức Giêsu có 100% Chúa và 100% người. Ai chủ trương nơi Ðức Giêsu chỉ có 50% thiên tính và 50% nhân tính cộng lại là rối đạo. Ðức Giêsu là Chúa hoàn toàn và trọn vẹn. Ðức Giêsu cũng là người hoàn toàn và trọn vẹn, ngoại trừ tội lỗi. Với tư cách là Chúa, Ðức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết được. Còn với tư cách là người, Ðức Giêsu cũng sợ đau khổ và sợ chết. Vì thế mà Ðức Giêsu đã xin với Thiên Chúa Cha - nếu có thể được - cho Người khỏi uống chén đắng, nghĩa là khỏi chịu đau khổ và chịu chết, nhưng Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (Mc 14:36). Và Ðức Giêsu đã chịu đau khổ tột bậc.
Phúc âm hôm nay ghi lại, vào giờ sầu khổ trong vườn cây dầu: Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến (Mc 14:33). Rồi Người nói với các môn đệ: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được (Mc 14:34). Phúc âm thánh Luca ghi thêm: Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44). Sầu khổ hay khổ nạn theo nguyên tự Hy ngữ mà La ngữ gọi là agonia. Theo Ronald Rolheiser thì vào thời Đức Giêsu, agonia là từ ngữ mà giới thể tháo gia dùng để làm ấm hay làm nóng thân thể cho ra mồ hôi để tranh giải ô lim pích. Theo nghĩa này thì thánh sử Luca muốn nói trong giờ khổ nạn Chúa cũng cầu nguyện, chiến đấu với nội tâm đến toát mồ hôi ra để sửa soạn cho bản án đóng đinh trên thập gía (1).
Ðức Giêsu xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Tuy nhiên Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Ðức Giêsu đã phải đồng hoá mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6). Còn thánh Phaolô thì ghi lại về Ðức Giêsu như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá (Pl 2:8).
Nếu việc suy niệm về cuộc thương khó và khổ hình của Ðức Giêsu không khơi dậy được tâm tình sám hối về tội lỗi mình và khóc thương Chúa, thì nên đi coi phim: The Passion of the Christ của Mel Gibson. Những học giả Thánh kinh cho rằng đó là cảnh diễn tả khá trung thực việc quân lính đánh đòn Chúa. Ðó là hình phạt mà các thể chế có pháp lý thời Chúa Giêsu tại miền Trung Đông dùng để phạt phạm nhân. Hình phạt phạm nhân của những thể chế chịu ảnh hưởng Hồi giáo đời nay, xuất phát từ Trung Ðông, vẫn dùng roi da để cho lí hình có vai u thịt bắp quật vào phạm nhân.
Trong rạp coi phim The Passion of the Christ, mà nhậy cảm, ta sẽ thấy nước mắt mình tuôn trào ra làm ướt đẵm hai gò má. Ta sẽ nhận ra chính tội lỗi mình đã khiến Chúa bị đóng đinh. Rồi sẽ thấy mình ngậm ngùi khóc thương Chúa trên đường ra về. Kín đáo hơn thì có thể khóc thầm từ rạp hát tới lúc mở cửa vào xe. Rồi cũng sẽ thấy mình bớt phạm tội.
Chúa Giêsu đã chịu chết không phải chỉ cho nhân loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi người để ta được sống. Vậy thì trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đóng thêm gai nhọn và đinh sắt vào đầu và mình Chúa? Ta đã làm gì để an ủi Chúa và an ủi những người xấu số là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia cư, vô nghề nghiệp? Hay ta chỉ phàn nàn, than thân trách phận và còn kêu trách Chúa?
Lời cầu nguyện của kẻ sám hối:
Lạy Ngôi Hai Thiên Chúa làm người! Vì tội lỗi nhân loại và cả tội riêng con, mà Chúa phải chịu khổ hình và chịu chết, đau đớn và ô nhục trên thập giá. Con xin sám hối ăn năn tội lỗi con: những tội con đã xúc phạm đến Chúa, và những tội xúc phạm đến anh chị em là thân thể Mầu nhiệm của Chúa. Xin Chúa thương xót thứ tha để con được sống lại về phần linh hồn. Với Chúa PHỤC SINH. Amen. ________________________ 1. Dựa theo Ronald Rolheiser trong Catholic Update. Cincinnati, Ohio: St Anthony Messenger Press, February 2008
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh với hy vọng được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì nịnh bợ để được thêm nhiều bỗng lộc hoặc được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ nhà vua, sẵn sàng chết thay cho vua bất cứ lúc nào.
Nhà vua vốn là người đơn sơ tốt bụng, dễ tin vào những lời nịnh hót nên đã ban phát cho họ bỗng lộc dồi dào khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung nghĩa. Ông đã nhiều lần can gián, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y tâu trình vua là bệnh của vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của công chúa, của lính hầu cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày nhộn nhịp người ra kẻ vào để cầu xin ân huệ, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Hoá ra, chính quan ngự y đã khéo dàn dựng kịch bản lấy tim làm thuốc để chứng tỏ cho vua thấy rằng chẳng có ai trên đời nầy, ngay cả những người thân yêu nhất, chịu hy sinh mạng sống vì vua!
Cuộc đời là thế! Không mấy ai trên đời có lòng yêu thương đủ lớn đến độ dám hy sinh trái tim của mình để cứu mạng người khác, cho dù người đó là cha mẹ hay ân nhân của mình.
Vậy mà có một Đấng vô cùng cao cả không chỉ cống hiến trái tim mà còn trao ban toàn bộ cuộc đời và hiến dâng cả mạng sống trên thập giá để cứu mạng cho cả những kẻ phản bội mình.
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3, 14-16)
Tình Chúa yêu thương loài người thật cao vời khôn ví. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15,13)
Tình thương đã khiến Thiên Chúa Ngôi Hai “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philip 2,7) để chia sẻ thân phận con người, mang lấy tội lỗi của muôn người và chịu chết để đền tội thay cho họ.
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2, 21-24)
***
Ôi, Chúa Giê-su, tình thương của Ngài thật bao la! Chúa thương chúng con hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên đã trao ban tất cả vì chúng con. Chúng con xin cúi mình thẳm sâu để cảm tạ tình thương Chúa. Chúng con nguyện ghi sâu dấu ấn yêu thương của Chúa tận đáy lòng. Chúng con quyết đem hết tình yêu mọn hèn của chúng con để đáp trả tình yêu cao vời của Chúa, nguyện hiến dâng cuộc đời còn lại để báo đền cuộc sống của Chúa đã trao hiến vì chúng con.
Chúa Nhật Thương Khó, tức là Chúa Nhật Lễ Lá, mở đầu Tuần Thánh. Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay có phần mở đầu đặc biệt kỷ niệm việc Chúa Giêsu long trọng đi vào Thành Thánh Giêrusalem. Chủ tế mặc phẩm phục màu đỏ, làm phép lá và kiệu lá hoặc rước lá trọng thể hoặc đơn giản trước Thánh Lễ, sau đó đọc Bài Phúc Âm (Matcô 11,1-10) ghi lại việc Chúa Giêsu đi vào Thành Thánh Giêrusalem một cách long trọng; trên đường đi có nhiều ngừơi vui mừng hoan hô đón rước Chúa. Sau đó Chủ Tế đọc Lời Nguyện Đầu Lễ và tiếp theo là phần phụng vụ Lời Chúa: Bài Đọc I (Isaia 50,4-7) là “Bài Ca III về Người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được giáo huấn để nhẫn nhục chịu đựng mọi hành hà nhục nhã.
Trong Bài Đoc II (Philiphê 2,6-11), Thánh Phaolô trình bày việc Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa thật, nhưng đã vâng lời Đức Chúa Cha, hạ mình xuống để trở nên như một con ngừơi nghèo khó, chịu đựng mọi đau khổ và chết nhục nhã trên Thánh Gía để chuộc tội nhân loại. Vì thế Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người lên và mọi loài, mọi vật đều phải kính tôn thờ lạy. Bài Phúc Âm là Bài Thương Khó theo Thánh Matcô (chương14 &15) ghi lại đầy đủ các chi tiết về những đau khổ, nhục nhã Chúa Giêsu đã chịu cho đến chết, chết trên Thánh Giá để chuộc tội nhân loại, sau đó được tháo xác xuống và táng trong mộ đá.
Tuần Thánh là cao điểm của năm phụng vụ để chúng ta sống lại những kỷ niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu: Đặc biệt là Thứ Năm, Thứ Sáu, và Thứ Bảy.
Thứ Năm Tuần Thánh kỷ niệm Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ ăn bữa Tiệc Ly, Bữa Tiệc Tình Thương. Trong giờ phút linh thiêng đó, Chúa Giêsu ban những huấn dụ đặc biệt cho các Tông Đồ về tình đoàn kết và yêu thương nhau, rồi Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các Tông Đồ để dạy chúng ta bài học phục vụ trong khiêm tốn. Sau đó, Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục (Xin đọc Phúc Âm theo Thánh Gioan từ chương 13 đến 17). Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin ơn thánh hóa cho các linh mục, và cầu nguyện cho mỗi người chúng ta thêm lòng sùng kính “Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể,” và xin cho chúng ta luôn noi gương Chúa, hạ mình xuống và yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Buổi sáng ngày Thứ Năm Tuần Thánh, tại Nhà Thờ Chánh Tòa, Đức Giám Mục cử hành Thánh Lễ làm phép các Dầu Thánh để đưa về các Giáo Xứ dùng trong Phép Rửa tội, Thêm Sức và xức dầu bịnh nhân. Thánh Lễ làm Phép Dầu Thánh cũng là dịp để các Linh mục toàn Giáo phận trở về Nhà Thờ Chánh Tòa cùng đồng tế với Đức Giám Mục Giáo phận để bày tỏ sự hiệp nhất với Đức Giám Mục và các Linh Mục trong Giáo phận; đồng thời cùng nhắc lại lời tuyên hứa khi chịu chức Linh Mục, trước mặt Đức Giám Mục và toàn thể dân Chúa. Rồi Đức Giám Mục cũng mời gọi Giáo dân cầu nguyện cho chính Ngài và các Linh Mục được ơn Chúa thánh hóa, để dù vẫn mang thân phận yếu hèn của con người, các vị luôn cố gắng sống xứng đáng các chủ chăn trong Hội Thánh Chúa. Tại Hoa Kỳ, để các Linh Mục có thể về đồng tế đầy đủ với Đức Giám Mục, và để Giáo Dân có thể tham dự đông đảo, Thánh Lễ làm Phép Dầu Thánh thường được cử hành vào buổi chiều ngày Thứ Năm một tuần trước Thứ Năm Tuần Thánh.
Thứ Sáu Tuần Thánh kỷ niệm Chúa Giêsu chịu bao sự thương khó và chịu chết trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại. Hôm nay không có Thánh Lễ, nhưng có nghi thức đặc biệt, thường vào lúc 3 giờ chiều (giờ Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh Gía --Xin xem Luca 23,44 và phần chú thích): gồm có việc cử hành Lời Chúa, những lời cầu nguyện, tôn vinh và hôn kính Thánh Giá, và rước Mình Thánh Chúa. Hôm nay, chúng ta ăn chay và kiêng thịt, và dâng nhiều hy sinh hãm mình để đền tội, để cầu nguyện cho những người đau khổ trên thế giới, và cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở về cùng Chúa.
Thứ Bảy Tuần Thánh chúng ta cố gắng giữ im lặng để tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu táng trong mồ và để chuẩn bị tâm hồn long trọng mừng Thánh Lễ Vọng Phục Sinh và Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.
Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh bầu cử, ban muôn ơn phúc lành cho chúng ta, cho gia đình chúng ta và cùng hiệp lời cầu nguyện chung để chúng ta cùng chuẩn bị tâm hồn xứng đáng mừng những ngày thánh sắp tới.