Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ". Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!" Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)
“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”
Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 19, 28-40 “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47) Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người đáp: J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn". C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô thưa Người: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không". C. Chúa Giêsu bảo ông: J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần". C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả đều nói như vậy. Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện". C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức". C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh". C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra". C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông". C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây". C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. "Hãy đoán xem!" C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét". C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. "Ông này thuộc bọn đó". C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó". C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng. Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39 C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu) C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Ðủ rồi". C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi". C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Anh chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã dùng việc hãm mình đền tội và công việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng ta, thì hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với toàn thể Hội Thánh khai mạc mầu nhiệm vượt qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người. Để thực hiện điều đó, chính Người đã tiến vào thành Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến việc Người vào thành mang lại ơn cứu độ, chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ ơn thánh, chúng ta được tham dự vào thập giá, chúng ta cũng được dự phần vào sự phục sinh và sự sống.
II. GỢI Ý SÁM HỐI (Không có)
III. LỜI CHÚA 1. Bài Tin Mừng lúc kiệu lá: Mc 11,1-10
Việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần long trọng (dân chúng đón rước, tung hô...) nhưng không phải là một cuộc biểu dương chính trị, trái lại nhằm cho biết Đức Giêsu là người như thế nào:
- Đức Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích thân Ngài thu xếp từng chi tiết cho cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ lừa, dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước bước và lời ăn tiếng nói).
- Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong âm thầm kín đáo (những lời đối đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao đổi mật hiệu với nhau).
- Đức Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.
- Lời chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo hơn là chính trị ("Hoan hô Đấng nhân danh Chúa mà đến", "Hoan hô trên các tầng trời")
Như thế, Đức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là vua nhưng là một vị vua cứu nhân độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.
2. Bài đọc Cựu Ước: Is 50,4-7
Đây là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách Isaia.
- Người Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. - Người Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi hành ý Chúa. - Người Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ hành hạ.
3. Đáp ca: Tv 21
Tâm tình của người công chính bị bách hại:
- Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải chịu
- Đồng thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào Chúa và vẫn chúc tụng Ngài.
4. Bài Thánh Thư: Pl 2,6-11
Thánh Phaolô vẽ 2 con đường của Đức Giêsu:
- Con đường hạ mình: dù là Con Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết trên thập giá)
- Con đường được tôn vinh: Ngài càng hạ mình thì Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến tột cùng (danh Ngài trổi vượt mọi danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong địa ngục đều phải tôn thờ Ngài).
5. Bài Thương khó: Mc 14,1Ụ15,47
Diễn tiến cuộc chịu nạn của Đức Giêsu đều giống nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn:
a/ Đức Giêsu "bị trao nộp": Động từ này được dùng 9 lần trong bài tường thuật. Tác nhân trao nộp Đức Giêsu là: Giuđa (nộp Đức Giêsu cho các thượng tế), các Thượng tế (nộp Đức Giêsu cho Philatô), Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng đàng sau và chủ động nhất là chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người. Phần Đức Giêsu, Ngài cũng tự trao nộp mình.
Lý do trao nộp cũng khác nhau: vì tiền (Giuđa), vì lòng ganh ghét (các Thượng tế), vì mĐ dân (Philatô), và vì yêu thương (Chúa Cha, Đức Giêsu).
b/ Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa": Tin Mừng Mc diễn tiến theo sơ đồ từ từ hé lộ về con người Đức Giêsu: Ngài là người à là Kitô (Messia) à Con Thiên Chúa (Câu đầu tiên của tác phẩm vạch rõ sơ đồ này. Mc 1,1: "Tin Mừng Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa". Mặc khải cao nhất về Đức Giêsu là tư cách Con Thiên Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt ra khi Ngài tắt thở: "Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (15,39).
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chúa chọn con lừa
Nhiều độc giả Tin Mừng rất ngạc nhiên trước những lời căn dặn của Đức Giêsu với hai môn đệ mà Ngài sai vào thành trước: "Các anh vào làng trước mặt kia. Tới noi sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay" (các câu 2-3). Mọi việc đã diễn ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ gì cả, mà là chính Đức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của Ngài trong làng: đến ngày đó, tại đĐa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ có hai môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một câu trả lời đã quy ước sẵn.
Tại sao Đức Giêsu phải đích thân thu xếp các chi tiết cho chuyến vào thành Giêrusalem lần này ? Thưa có hai lý do:
1/ Sự việc diễn ra "mấy ngày trước lễ Vượt Qua" (c 1). Lễ này kỷ niệm việc dân do thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này, ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang nằm dưới ách thống trị của ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình thường vẫn an tâm ở tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua thì phải đến Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn. Trong bầu khí nhạy cảm đó, Đức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước chuyến vào thành của Ngài.
2/ Mọi chi tiết mà Đức Giêsu đích thân thu xếp đều liên hệ đến con lừa. Tại sao ? Vì Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh chiến thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.
Tuy nhiên xem ra không ai hiểu đúng ý Chúa: các môn đệ "lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó", dân chúng thì cũng "chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy" (các câu 7-9). Sự hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng: Hôm nay ngày giải phóng đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện ! Tóm lại mọi người đều nghĩ rằng hôm nay Đức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.
****
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay bắt đầu Tuần Thánh. Chúng ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để soi sáng ý nghĩa những sự việc sẽ xảy ra trong Tuần Thánh:
- Tại sao các Thượng Tế do thái tìm bắt Đức Giêsu ? Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một chính khách nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này, các vị lãnh đạo ấy đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Đức Giêsu sẽ dẫn đến sự đàn áp của quân Rôma: "Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta" (Ga 11,48).
- Tại sao Giuđa nộp Đức Giêsu cho các Thượng Tế ? Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì nên hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Đức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động.
- Tại sao dân chúng hùa theo các Thượng Tế đòi giết Đức Giêsu ? Đó là phản ứng thất vọng của những người đã từng hy vọng quá nhiều: Họ hy vọng Đức Giêsu giải phóng đất nước nhưng khi Ngài không làm vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.
****
Hôm nay chúng ta cũng tay cầm lá, miệng tung hô Đức Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài là ai và mong gì nơi Ngài ?
. Nếu chúng ta coi Đức Giêsu là một vị vua uy quyền, chúng ta sẽ như các lãnh tụ do thái tìm cách trừ khử Ngài khi cảm thấy uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của chúng ta.
. Nếu chúng ta coi Ngài là một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ như quần chúng hôm ấy chán bỏ Ngài khi Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy.
. Nếu chúng ta coi Ngài là một thứ ô dù cho chúng ta núp bóng, chúng ta sẽ như các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn khi ước vọng của chúng ta không thành.
Đức Giêsu là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Đi theo Ngài có lẽ chúng ta sẽ không được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an.
* 2. Con đường dẫn đến vinh quang
Trong bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh Ađam và Đức Giêsu.
- Ađam đã muốn "dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa". Nhưng kết quả chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi khỏi hạnh phúc địa đàng.
- Còn Đức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống đến mức tột cùng. Kết quả là được nâng lên tới mức tột cùng.
Tự nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam: tìm cách khẳng định mình, tưởng rằng làm thế thì giá trị của mình sẽ được nâng cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng ta là do Thiên Chúa tạo dựng, vì thế chúng ta có giá trị hay không, được nâng cao hay không là do Thiên Chúa chứ không do chúng ta. Con đường tốt nhất là vâng lời Thiên Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên đúng theo ý Ngài muốn.
* 3. Trao nộp Đức Giêsu
Bài Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người đều trao nộp Đức Giêsu, nhưng vì những động cơ khác nhau (xin xem lại phần giải thích phía trên).
Suy nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao khác nhau:
- Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa, Philatô): cách trao vụ lợi
- Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các Thượng tế): cách trao ác độc.
- Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa Cha): cách trao yêu thương.
- Trao chính mình (Đức Giêsu): yêu thương tột cùng.
Chúng ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình và về cách mình trao Đức Giêsu cho người khác.
* 4. Cách chịu đau khổ là thước đo nhân phẩm
Một điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau khổ. Giáo lý đạo Phật dạy "Đời là bể khổ". Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết và diệt hết được.
Đức Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài "vác" lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình "Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo".
Nino Salveneschi có suy nghĩ này: "Thật lạ khi người ta có thể tính toán chính xác về sức nặng có thể chất lên một chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy bay... nhưng không tính nổi sức nặng có thể chất lên vai con người. Xét cho cùng, càng có thể vác nặng bao nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu" (Savoir souffrir)
* 5. Phêrô chối Thầy
Việc ông Phêrô chối Thầy gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ:
- Ông là người nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh.
- Lý do khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.
Phêrô đã dám theo Đức Giêsu suốt 3 năm khi Ngài đi rao giảng, khi Ngài làm phép lạ... Trong thời gian đó không phải là Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được. Nhưng hôm nay ông chối vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn đề an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy sinh đến một giới hạn nào đó thôi.
Có lẽ cũng có những giới hạn mà chúng ta đặt ra - tuy một cách vô ý thức Ợ cho việc chúng ta theo Chúa, việc chúng ta từ bỏ, việc chúng ta hy sinh.
* 6. Vương quốc Tình yêu
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là "số tiền vấy máu hài nhi vô tội". Người không ngần ngại gọi Dodd là "môn đệ của thần chết".
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: "Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui".
***
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: "Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem... Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: "Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu !" Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt" (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: "Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ" (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
****
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI Chủ tế:
Anh chị em thân mến, hôm nay bước vào Tuần Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô hữu bước theo Đức Giêsu trên đường thập giá, để được phục sinh với Người trong cuộc sống mới. Chúng ta hãy tha thiết nguyện xin:
1. Đức Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem không phải để biểu dương uy quyền / mà là để bày tỏ lòng yêu thương và nhân lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội thánh / biết noi gương Người để phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.
2. Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để thống trị / nhưng để phục vụ mọi người / Xin cho các vị có chức quyền trong xã hội / biết lo cho công ích và quan tâm giúp đỡ mọi người.
3. Đức Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và chết trên thập giá / Xin cho tất cả những ai đang phải đau khổ trong tâm hồn hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người / được luôn can đảm và vững tin nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
4. Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh phúc thật cho mọi người / Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta đừng bao giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh chị em mình.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Đức Giêsu Con Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho mỗi người chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
VI. TRONG THÁNH LỄ - Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu đã hiến mình làm lễ vật tình yêu nên đã thiết lập Nước Thiên Chúa. Xin cho Nước Thiên Chúa mau trị đến nhờ những hy sinh của chúng ta.
VII. GIẢI TÁN Chúng ta đã bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ. Chúng ta hãy sống tuần này một cách hết sức sốt sắng trong tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, với Đức Mẹ và với toàn thể Giáo Hội. Hãy cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay được gọi là bài Thương Khó. Kể lại đầy đủ diễn tiến cuộc xét xử và kết án Chúa Giêsu. Đây không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo. Chúa Giêsu bị kết án tử hình không phải vì đã xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là con Thiên Chúa. Ngài bị giết chết không phải vì có những lời phạn động hay những việc làm chống đối chính quyền hay giáo quyền thời đó, nhưng vì Tin Mừng người công bố đụng chạm đến những sai trái của mọi người và những việc Ngài làm thể hiện tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa. Vì thế, mãi mãi bản án Phi-la-tô dành cho Chúa vẫn là bản án bất công nhất. Nó là tiêu biểu cho biết bao hành động bất công và dã man mà những người vô tội phải gánh chịu qua suốt dòng lịch sử nhân loại.
Thực vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã chia sẻ phận làm người mà Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi suy nghĩ về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi, nhưng là chuyệt rất thực của hôm nay. Trên thế giới, mỗi ngày có biết bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết. Và như thế Chúa Giêsu còn bị đónh đinh cho đến tận thế, bao lâu còn những người anh chị em của Ngài ngược đãi, bị khốn khổ. Suy nghĩ về thập giá của Chúa, giúp chúng ta nhạy cảm hơn với thập giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước những đau khổ đang diễn ra trên toàn cầu.
Suy nghĩ về cuộc thương khó của Chúa, tức là vụ án xét xử Chúa, chúng ta còn thấy điều gì nữa không ? Theo tôi, chúng ta thấy mình không phải là những kẻ đứng ngoài cuộc, mà thấy mình có những nét giống nhân vật này hay nhân vật khác, một cách nào đó, những nhân vật đặc biệt có mặt trong vụ án xét xử Chúa.
Chẵng hạn chúng ta thấy mìnhc có nét giống Giuđa: một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Được chứng kiến bao phép lạ, được nghe bao lời vàng ngọc. Nhưng tất cả đã tan vỡ khi Giuđa bán thầy với giá ba mươi đồng bạc cùng với một cái hôn giả dối. Chúng ta có nét giống Giu-đa khi chúng ta bán rẻ lương tâm mình vì một sự giả dối hay tham lam gì chăng?
Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Phêrô: ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy, thế mà lại dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Thật là tầm thường và hèn nhát. Nhưng tiếng gà gáy khiến Phêrô chợt tỉnh, và nhất là ánh mắt Chúa nhìn ông khiến ông hết sức hối hận và khóc lóc ăn năn thống hối. Trong cuộc đời, vẫn có những tiếng gà và ánh mắt của Chúa, chúng ta có òa khóc, có ăn năn thống hối không ?
Chẳng hạn chúng ta thấy mình có nét giống Philatô: ông bị trói chặt bởi sự sợ hãi: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức mất quyền Ông không đủ bản lãnh và không đủ cương quyết để tha một người vô. Chính ông đã chuẩn nhận bản án tử hình của tòa án tôn giáo Do Thái. Chúng ta có im lặng không dám bênh đỡ mà lại còn a dua để xét đoán hoặc kết án ai không ?
Tuy nhiên, suy nghĩ cuộc thương khó của Chúa, chúng ta thấy cũng có những điểm sáng, những điều tốt đẹp. Đó là Simon vác đỡ thập giá Chúa. Đó là các phụ nữ than khóc Chúa: họ tội nghiệp Chúa, họ thương hại Chúa chăng ? Dù sao họ cũng thể hiện được một nét đặc biệt của người phụ nữ là dễ mũi lòng, dễ xúc động trước một cảnh thương tâm, khổ cực. Chúng ta có dễ động lòng trắc ẩn và nhất là có biết giúp đỡ trước nổi thương đau của người khác chăng ?
Sau hết, một điểm sáng nhất, một khuôn mặt rực rỡ hơn cả là người trộm lành: một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh không những nhìn nhận tội lỗi của mình mà còn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu. Anh tin Chúa vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi". Chính vì thế mà anh là người đầu tiên được chính Chúa phong thánh, qua lời tuyên bố: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng". Thật là một gương sáng cho con tội lỗi của chúng ta.
Tóm lại, trong tuần thánh này, chúng ta hãy suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để xác tín vào tình yêu thương của Chúa và khiêm nhường nhìn nhận những sai lỗi, những thiếu sót của mình để quyết tâm sửa đổi và sống tốt đẹp hơn.
Gilbert Frankau kể lại câu chuyện của một người bạn ông từng là sĩ quan pháo binh trong Đệ nhất thế chiến. Thời đó không có rađa để hướng dẫn pháo binh vào đúng mục tiêu. Vô số trái đạn chỉ lăn lỏng chỏng trên các ngọn đồi và bụi cây tự như người ta lấy đá ném vào tấm bia. Thỉnh thoảng, một binh sĩ được lệnh dùng một nhiệt khí cầu bay trên không để hướng dẫn các tay súng. Anh ta từ cao nói như hét xuống “Qua bên trái một chút” hoặc “Qua phải một chút!”. Anh bạn của Frankau nói: “Hễ cứ leo lên khí cầu là tôi chết khiếp đi được. Tôi biết rõ mình trở thành mục tiêu tuyệt hảo cho họng súng quân thù. Chẳng bao giờ tôi chế ngự được nỗi sợ nhưng tôi cũng chẳng hề để cho nỗi lo sợ giữ tôi nán lại ở mặt đất”.
***
Câu chuyện trên đây sẽ gíup chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc.
“Đức Giêsu phải can đảm kinh khủng khi tiến về Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua đặc bịêt này. Ngài can đảm đến độ không thể nào tin nổi. Phúc Âm thánh Gioan giải thích cho chúng ta biết như sau;
“Sắp lễ vượt qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem... Họ đang tìm đến Đức Giêsu và... hỏi han nhau” bạn nghĩ sao? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu!” Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài” (Ga 11: 55-57)
Điều đó khiến chúng ta hồi hộp lo ngại cho việc Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Ý nghĩa sâu xa đằng sau cách thức Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem và cách thức dân chúng chào đón con Ngài là gì? Để trả lời cho câu hỏi ấy, chúng ta hãy xem lại cách thức Đức Giêsu tiến vào thành. Phúc Âm thánh Gioan kể lại:
“Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con” (Ga 12, 14-15)
Khi Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và reo lên: “Hosanna ! vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô vua Irsael” (Ga 12: 13)
Thánh Gioan kết thúc bài mô tả bằng lời phê bình khác thường như sau:
“Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa lên chốn quang vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài” (Ga 12: 16)
Vậy ý nghĩa xâu xa đằng sau cách thức Chúa Giêsu vào thành và cách thức dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và hô to lời “Hosanna” để chào đón Ngài là gì?
Thật là khôi hài, chìa khoá để trả lời câu hỏi này lại nằm nơi chú lừa Đức Giêsu cỡi. Đối với thế giới hiện nay, con lừa chẳng phải là một ý niệm hấp dẫn gì! Chúng ta thường nghĩ lừa là một con vật đần độn.
Gilbert Keith Chesterton đã làm một bài thơ phổ biến ý niệm này. Trong bài thơ ấy, chú lừa quan sát vẻ xấu xí của mình và tự nhủ:
“Chắc hẳn ta sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu, khi cá lượn trên không, lúc cây rừng cất bước, và vả mọc trên gai...
“Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm,
Đôi tai khác nào đôi cánh lạc loài, dáng đi qủi quái nhất trong các loài động vật bốn chân...
“Hỡi lũ điên rồ! ta cũng có “giờ” của ta chứ, Một giờ thực hiện oanh và êm dịu, khi bên tai ta vẳng vẳng tiếng hò reo Và nhành thiên tuế chập chờn trước bước chân ta đấy” Và thế là chú lừa ta thốt lên: “Qúi vị thời nay có lẽ cười nhạt tớ nhưng nên nhớ rằng tớ đã được chọn, trong tất cả giống thú vật trần gian để cõng trên mình Đấng Cứu Tinh thế giới”.
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh đã khen ngợi chúng. Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa là giống vật dành cho chiến tranh thường chở chiến binh vào chiến địa.
Giacaria đã tiên báo Đấng Mêsia sẽ cỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Giờ đây Đức Giêsu đang thực hiện lời tiên báo ấy của Giacaria. Làm thế Ngài đã thực hiện hai điều xác quyết: Thứ nhất: Ngài xác nhận mình là Đấng Mesia của Israel. Thứ hai; Ngài mặc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của Ngài là gì.
Vào thời Chúa Giêsu, việc mặc khải này không được cho là hay ho gì cả bởi nhiều người hiểu rất mơ hồ về sứ mệnh của Đấng Mêsia. Chẳng hạn, có nhiều người nghĩ rằng sứ mệnh của Đấng Mêsia phần lớn hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestine, đẩy chúng ra ngoài biển. Đức Giêsu cỡi trên mình con vật hiền lành tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại ý tưởng ấy. Nó mặc khải cho thấy Đấng Mêsia không phải là ông vua chinh chiến, bắt đám quân đến để ngồi trên ngôi báu và bắt đám dân bị chinh phục hầu hạ. Ngài đã đến quì gối xuống trên sàn nhà và rửa chân cho các thần dân của mình.
Đức Giêsu đã không đến để đoàn kết dân chúng sau lưng mình và đi giao tranh với các dân tộc khác. Ngài đến liên kết họ lại với nhau sau lưng Ngài để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát, thù hận và tất cả mọi hình thức bất công, Đức Giêsu không đến để kết án kẻ khác, Ngài đến để tha thứ cho họ, Đức Giêsu không đến để phá đổ những giấc mơ của quần chúng. Ngài đến để làm cho những giấc mơ đó thành hiện thực bằng một phương cách lạ lùng nhất, không thể tưởng tượng nổi. Đức Giêsu không đến cưỡng bức quần chúng theo Ngài, Ngài đến để kêu mời họ.
Hôm nay chúng ta đón mừng một Đức Giêsu như thế đấy. Chính Đức Giêsu đó muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc biệt trong Tuần Thánh sắp tới. Chính Đức Giêsu như thế đang hiện diện giữa chúng ta ngay lúc này đây, lúc chúng ta bắt đầu nghi thức phụng vụ rước lá chung quanh giáo đường.
Vậy chúng ta hãy vui mừng và cùng hát với các tín hữu khắp mọi nơi:
“Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh mà Chúa mà đến! Vạn tuế Đức Vua của Israel!”.
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một hoạ sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá. Đặc điểm của bức hoạ là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời hoạ sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là hoạ sĩ. Người ta hỏi hoạ sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu của Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín ở gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng xa vắng vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!”.
Chúa Giêsu bị kết tội trước toà đạo cũng như trước toà đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối mật của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhận mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng, Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu.
Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên Thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
Nghĩa Hoà Đoàn nổi lên ở Trung Quốc năm 1900, mọi cuộc nổi dậy chống người ngoại quốc và người Kitô hữu Trung Quốc. Những người nổi dậy chiếm một trường truyền giáo. Họ đóng kín các cửa, chỉ trừ một. Dưới đất trước cửa ấy, họ đặt một cây thập giá, đi bước qua thập giá đó sẽ được tự do. Ai đi vòng quanh sẽ bị bắn chết. Bảy học sinh đầu bước qua và được tự do. Tới người thứ tám, một em gái mới mười tuổi, quì gối trước thập giá và cung kính đi vòng quanh, tức thời em bị bắn chết. Tất cả hàng trăm em học sinh khác còn lại đã theo gương em, tất cả đều bị bắn. Có hơn 30 ngàn kitô hữu Trung Quốc thà chọn cái chết vào năm 1900 hơn là phải từ chối Thầy mình. Trong lịch sử Trung Quốc và nhiều nơi truyền giáo khác, hàng triệu người đã chết vì đức tin vào Đức Kitô.
Lòng trung thành anh dũng của bé gái Trung Quốc và của hàng ngàn người như em, gợi ý cho chúng ta, cho tuần thánh sắp tới này. Hôm nay, với đám đông ngày chúa nhật lễ Lá đầu tiên, chúng ta hô lên: Hosana, nghĩa là “Vạn tuế”. Cành lá trong tay chúng ta tuyên xưng lòng trung thành với Đức Kitô, vua của chúng ta. Tôi cầu xin không ai trong chúng ta phải chết như em gái Trung Quốc để minh chứng lòng trung thành với Đức Kitô. Nhưng mỗi người chúng ta phải làm một vài hy sinh để bày tỏ niềm tin của chúng ta với Đức vua, chúng ta tôn kính hôm nay.
Chúng ta gọi tuần này là tuần thánh vì nó gợi lại và làm sống lại những biến cố thánh . Chúng ta cũng gọi được là “tuần lễ trung thành” vì nó là lúc chúng ta hy sinh thời giờ, khả năng và giải trí để tham dự việc phụng tự chung của Giáo hội Đức Kitô. Các nghi lễ chiếu toả trên chúng ta những biến cố thánh, để thúc đẩy lòng trung thành với Đức Kitô mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta đã bất trung với Người trong quá khứ. Lúc này là lúc chúng ta xin Người tha thứ và thề hứa lại lòng trung thành của chúng ta. Đây cũng là tuần lễ chúng ta phải quyết định khi nào, ở đâu và bằng cách nào chúng ta chứng tỏ lòng tin vào Đức Giêsu, bằng việc thi hành những gì Người truyền dạy. Chúng ta sẽ học hỏi về Người làm sao? Chúng ta sẽ tôn kính thánh danh người thế nào? Chúng ta sẽ phụng thờ Người làm sao? Chúng ta tôn kính Cha Mẹ và làm gương cho con cái thế nào? Chúng ta tôn trọng sức khoẻ và mạng sống của tha nhân làm sao? Chúng ta sẽ giữ gìn khả năng sinh trưởng làm sao? Chúng ta sẽ tôn trọng tài sản và danh dự của người khác thế nào?
Thường thường lòng trung thành không đòi hỏi chúng ta những việc lớn lao, nhưng là những việc nho nhỏ. Những việc nho nhỏ thực hiện vì tình yêu.
Tuần này chúng ta cử hành đỉnh cao của tình yêu Đức Kitô đối với chúng ta. Tuần này là lúc chúng ta phục hồi lòng trung thành với Đấng đã đi trọn con đường tình yêu cho mỗi người chúng ta.
Trong 7 ngày sắp tới, chúng ta sẽ sống những biến cố thánh đã cứu chuộc chúng ta. Những biến cố đó chúng ta làm sống lại trong mỗi thánh lễ. Trong thánh lễ này, trong tuần thánh này mọi người chúng ta hãy thề hứa trung thành với Đức Kitô Ợ vua của chúng ta - bằng cách cố gắng thi hành những gì Người muốn.
Tuần Thánh được mở màn bằng cuộc rước lá tưng bừng kỷ niệm Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem. Nói là khải hoàn, nhưng thực ra Ngài vào thành thánh là để chịu khổ nạn và chịu chết.
Bài Tin Mừng ngày lễ hôm nay tường thuật lại cuộc thọ nạn ( passio) của Đức Giêsu . Các thánh sử đều tường thuật cuộc thọ nạn này như nhau, chỉ khác đôi chút về chi tiết. Thí dụ trong Tin Mừng Matthêu và Marcô, những lời sau cùng của Đức Giêsu là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con". Trong khi Tin Mừng Luca thì thuật lại lời sau cùng của Ngài trên thập gía: "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha". Các thánh sử đều tường thuật bữa ăn sau cùng của Chúa với các môn đệ, mà hằng ngày chúng ta tưởng niệm khi tham dự thánh lễ.
Thánh Phaolô khẳng định: " Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến thành hiện thân của tội lỗi, vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người"(2Cr. 5, 21). Trong suốt cuộc sống và trong cuộc tử nạn của Ngài, Đức Giêsu đã đảm nhiệm trọn vẹn thân phận làm người như chúng ta để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi phải chết muôn đời.
Suy niệm cuộc tử nạn của Đức Giêsu là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn cảm tạ Chúa, vì những gì Chúa đã làm cho ta vì yêu thương ta. Như Chúa đã nói: " Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy"( Ga 15, 13-14). Tổ tiên chúng ta có những hình thức suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa rất ảo não, rất sốt sắng, qua những hình thức ngắm nguyện theo làn điệu bi ai của nhạc dân tộc. Đó là cung cách suy niệm của các cụ. Liệu ngày nay, chúng ta có được cung cách suy niệm sốt sắng hơn, đem lại nhiều ơn ích hơn?
Suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa, nhưng ta cũng đừng quên rằng, đối với Chúa, chết không phải là thất bại. Ngài đã chiến thắng sự chết, vì sau ba ngày, Ngài đã từ cõi chết sống lại. Trong viễn tượng đó, tuần thánh mang lại cho chúng ta, những người đang bước đi trong “thung lũng tối tăm sự chết" một niềm hy vọng lớn, ấy là sẽ được phục sinh hằng sống cùng Chúa .
(Vì bài Tin Mừng hôm này rất dài, nên chỉ xin trích dẫn các tiểu đề như sau):
- An tiệc Vượt Qua (22,14-18),
- Đức Giê-su lập Phép Thánh Thể (22, 19-20), - Đức Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (22, 21-23), - Kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ (22, 24-27), - Phần thưởng dành cho các Tông đồ (22, 28-30), - Đức Giê-su tiên báo: Ong Phê-rô sẽ chối Thầy, nhưng sẽ trở lại (22, 31-34), - Giờ chiến đấu quyết liệt (22, 35-38), - Tại núi O-liu (22, 39-46), - Đức Giê-su bị bắt (22, 47-53), - Ong Phêrô chối Thầy (22, 54-62), - Đức Giê-su bị đánh đập (22, 63-65), - Đức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (22, 66-70), - Đức Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (23, 1-7), - Đức Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê (23, 8-12), - Đức Giê-su lại ra trước tòa tổng trấn Phi-la-tô (23, 13-25), - Trên đường lên Núi Sọ (23, 26-32), - Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá (23, 33-34), - Đức Giê-su bị nhục mạ (23, 35-38), - Người gian phi sám hối (23, 39-43), - Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng (23, 44-46), - Sau khi Đức Giê-su tắt thở (23, 47-49), - Mai táng Đức Giê-si (23, 50-56).
Bài Thương Khó của Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá giúp chúng ta hiểu biết thêm về cách suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa như thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Phân biệt điều chính điều phụ:
Thường thường người giáo dân chúng ta dễ bị lôi cuốn bởi những chi tiết bên ngoài, phụ thuộc và dễ gây cảm xúc của biến cố Tử Nạn của Đức Giê-su, mà ít quan tâm đến yếu tố trọng tâm và ít đi vào chiều sâu của biến cố, cũng là của Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Con Một Thiên Chúa. Chúng ta thường dừng lại ở cảnh đón rước Chúa tưng bừng của dân chúng thành Giê-ru-sa-lem, cảnh cô đơn và đau khổ của Đức Giê-su trong cuộc Khổ NạnTất cả những chi tiết, những quang cảnh ấy đều có giá trị nhưng điều quan trọng và đáng chúng ta chú ý nhất là Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người nơi Đức Giê-su đã sống cuộc Khổ Nạn ấy như thế nào và tại sao Người lại chấp nhận cuộc Khổ Nạn ấy?
2. Đức Giê-su đã sống cuộc Khổ Nạn như thế nào?
Dựa vào Kinh Thánh Cựu và Tân Ước chúng ta thấy nổi bật những yếu tố sau đây:
2.1 Đức Giê-su đã biết trước cuộc khổ nạn, nghĩa là Người rất ý thức và tỉnh táo trước cuộc Khổ Nạn và đã chuẩn bị mọi việc chu đáo trước ngày xẩy ra biến cố trọng đại ấy:
a) Đức Giê-su đã loan báo ít nhất là ba lần biến cố Khổ Nạn và Phục Sinh của Người để chuẩn bị tâm hồn các Tông đồ biết đón nhận và hiểu được rằng biến cố ấy nằm trong Chương Trình của Thiên Chúa và có ý nghĩa Cứu Độ chúng sinh.
b) Đức Giê-su đã để lại một bài học sống động, cụ thể về tình thương yêu huynh đệ, về tinh thần và cung cách phục vụ lẫn nhau trong cộng đoàn, qua việc Người quì xuống rửa chân cho Nhóm Mười Hai
c) Đức Giê-su đã lập Phép Thánh Thể và Truyền Chức để duy tri sự hiện diện "bí tích" của Ngài giữa cộng đoàn môn đệ thay cho sự hiện diện thể lý. Sự hiện diện thể lý là sự hiện diện bằng xương bằng thịt mà giác quan chúng ta cảm nhận được. Còn sự hiện diện "bí tích" là sự hiện diện siêu hình nhưng có thật và chúng ta chỉ cảm nhận được bằng đời sống tâm linh và bằng Đức Tin mà thôi.
2.2 Đức Giê-su đã chấp nhận mọi Khổ Đau (thể xác, tinh thần, tâm linh) một cách bình tĩnh, can trường, khiêm hạ và vâng phục.
a) Đức Giê-su đi đầu Nhóm Tông Đồ ra đón đám quân lính được sai đến bắt Người.
b) Đức Giê-su không kêu than, van vỉ, không phản bội sứ mạng khi bị tra tấn, đánh đập, xí nhục, bị kết án và bị đóng đinh trên Cây Thập Tự.
c) Đức Giê-su phó thác xác hồn và sự nghiệp của Người vào tay Thiên Chúa Cha.
3. Tại sao Đức Giê-su lại chấp nhận cuộc Khổ Nạn ấy?
3.1 Trước hết vì Đức Giê-su vâng phục Thiên Chúa Cha.
3.2 Kế tiếp là vì Đức Giê-su phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa Cha Quyền Năng và Thượng Trí khi Thiên Chúa Cha để sự việc xẩy ra như vậy.
3.3 Và sau cùng là vì Đức Giê-su muốn thể hiện Sức Mạnh và Sự Điên Cuồng của Thiên Chúa là Tình Yêu (Deus Caritas est) khi chấp nhận là một tử tội, yếu đuối, hèn hạ trước mắt loài người.
NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người cho thế gian (Ga 3, 16), chúng con cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Cha!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã yêu thương những kẻ thuộc về Người và đã yêu thương họ đến cùng (Ga 13, 1), chúng ta cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa!
Lạy Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh và là Tình Yêu của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su có Sức Mạnh cứu độ chúng con, chúng con cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa!
Sau khi đã giới thiệu về các khía cạnh của con người Đức Giê-su trong các Chúa Nhật Mùa Chay vừa qua, hôm nay, Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu cho tuần Thương Khó của Đức Giê-su, lời Chúa mời gọi chúng ta cùng suy niệm về những giờ phút cuối cùng của Ngài trên con đường thập giá.
Suy niệm về những đau khổ Đức Giê-su đã trải qua, không phải để chúng ta bi quan, nhưng là cơ hội để từng người chúng ta nhận ra sự nặng nề của tội lỗi, đồng thời, cũng là cơ hội giúp chúng ta nhận ra tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta. Nhờ đó, chúng ta đủ can đảm và nghị lực để đi trọn con đường thập giá của mình, ngõ hầu chúng ta cũng có thể tham dự vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, Chúa chúng ta.
1. THÁI ĐỘ CỦA ĐÁM ĐÔNG ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊ-SU:
Trước hết, chúng ta cùng nhìn lại thái độ của dân chúng đối với Đức Giê-su. Ngay khi Đức Giê-su vào thành để dự Lễ Vượt Qua, dân chúng đã đổ xô ra đường, chặt cành lá, trải áo, tung hô để đón rước Ngài như một vị vua. Họ muốn Ngài đứng ra làm vua Thiên Sai theo ý họ, giải thoát họ khỏi ách thống trị của ngoại bang. Thế nhưng, Đức Giê-su đã vào thành không phải trên lưng một con ngựa chiến, nhưng là trên lưng một con lừa khiêm nhu. Ngài đã không thoả mãn những đòi hỏi theo cái nhìn trần thế của đám đông dân chúng. Ngài đến là để thực hiện chương trình của Chúa Cha như lời ngôn sứ I-sai-a đã báo trước: “Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn... Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười và nhưng người phỉ nhổ tôi”.
Như thế, Đức Giê-su đến trần gian không phải để làm một vị vua theo nghĩa chính trị, nhưng là để “gánh tội trần gian” ( Ga 1, 29 ). Thánh Phao-lô đã đúc kết sứ mạng của Đức Giê-su như sau: “Chúa Giê-su Ki-tô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình... Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Thế là dân chúng đã thay đổi thái độ. Họ chuyển những lời tung hô, chúc tụng thành lời kết án. Chính họ đã trao nộp Đức Giê-su cho tổng trấn Phi-la-tô, một người dân ngoại. Tin mừng thuật lại: “Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giê-su và giải nạp Người cho Phi-la-tô”. Tệ hơn nữa, khi được Phi-la-tô hỏi về số phận của Đức Giê-su, dân chúng đã xin quan tha cho Ba-ra-ba, một tên trộm cướp, giết người và đòi đóng đinh Đức Giê-su. Họ đã coi Đức Giê-su không bằng một tên cướp.
Tới đây, có lẽ chúng ta chê trách thái độ vô ơn, bạc bẽo, phụ bạc của dân Do-thái. Thế nhưng, đây cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta. Khi có người không vừa ý với chúng ta, chúng ta đã vội kết án, và tìm đủ cách để dìm người đó xuống, mà không màng tới lẽ phải và công bằng. Chẳng phải chúng ta cũng từng bỏ giờ thờ phượng Chúa chỉ vì một vài lợi ích nào đó trước mắt sao ?
2. THÁI ĐỘ CỦA CÁC MÔN ĐỆ ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊ-SU:
Chúng ta cũng hãy cùng nhau suy niệm về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su, đó là sự phản bội của những người thân tín nhất, trong những giờ phút quan trọng nhất. Đó là sự phản bội của Giu-đa, và việc chối Thầy của Phê-rô. Đây là sự bội phản mà Đức Giê-su đã biết trước. Ngay trong bữa tiệc sau hết với các môn đệ, Ngài nói: “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”. Và cũng trong bữa tiệc này, mặc dù Phê-rô lên tiếng mạnh mẽ: “Dù tất cả vấp phạm về Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm”, nhưng Ngài biết rõ yếu đuối của ông: “Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”.
Giu-đa và Phê-rô là hai môn đệ được Ngài tin tưởng nhất. Vì tin tưởng nơi các ông, nên Đức Giê-su đã giao cho Giu-đa nhiệm vụ “tay hòm, chìa khoá”, nghĩa là làm nhiệm vụ thủ quỹ cho các Ngài. Còn Phê-rô, thì Ngài đã đặt làm đầu các Tông Đồ. Thế mà giờ đây, cả hai đều vấp ngã. Còn các môn đệ khác đều chạy trốn hết cả. Thử hỏi còn đau khổ nào hơn thế nữa. Nỗi đau khi bị chính những người mình thân yêu, tin tưởng nhất phản bội. Nỗi đau này còn lớn hơn nữa bởi Ngài đã được nhìn thấy trước mà không thể tránh. Hiểu như thế, chúng ta mới có thể cảm thông được phần nào lời tâm sự của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni: “Linh hồn Thầy buồn đến chết đựơc”.
3. THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊ-SU VỚI CHÚA CHA
Chúng ta cũng nhận ra điều này: có lẽ sự đau khổ lớn nhất của Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn này là sự im lặng của Chúa Cha. Từ khi Đức Giê-su bị trao nộp, chịu các cực hình, bị dân chúng và binh lính sỉ vả và đóng đinh trên thập giá, chúng ta không hề thấy có sự xuất hiện của Chúa Cha. Đau khổ này lớn đến nỗi, Ngài đã phải kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi ?” Tuy nhiên, đây không phải là một lời than trong tuyệt vọng, nhưng khi dùng lại lời của Thánh Vịnh 22 này như lời kinh trước giờ chết của mình, Đức Giê-su đã chứng tỏ một lòng cậy trông vững chắc của Ngài vào sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa.
Vâng, đứng trước tất cả những đau đớn bởi đòn vọt, tra tấn nhất là những đau khổ trong tâm hồn như thế, với sức tự nhiên của con người, quả thật, không thể chịu đựng nổi. Nhưng Đức Giê-su đã vượt qua tất cả. Ngài đã đi trọn vẹn con đường Thương Khó, đến hơi thở cuối cùng trên thập giá. Ngài đã hoàn tất nhờ sức mạnh của tình yêu mà Ngài dành cho loài người chúng ta, như lời Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ). Và nhất là vì Đức Giê-su đã luôn phó thác trọn vẹn cuộc sống mình trong tay Chúa Cha như một người tôi tớ khiêm hạ mà ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn”.
4. THÁI ĐỘ CỦA CHÍNH CHÚNG TA:
Cuối cùng, khi suy niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su hôm nay, phụng vụ còn cho chúng ta thấy rằng: Sự chết của Đức Giê-su trên thập giá không phải là dấu chấm hết. Nhưng đó là một sự khởi đầu, như lời Ngài nói mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật vừa qua: “Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Và kết quả đầu tiên từ cái chết của Ngài đó là: “Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới”. Với cái chết của mình, Đức Giê-su đã thực sự xé tan bức màn ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa. Bức màn đã được dựng nên do bởi tội Nguyên tổ và tội riêng của từng người chúng ta. Ngài đã giao hoà chúng ta với Thiên Chúa ngang qua thân xác của Ngài. Từ đây, mỗi người chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa. Và cũng từ cái chết của Đức Giê-su, ơn cứu độ đã đựơc ban cho mọi dân tộc mà lời tuyên xưng của chính viên sĩ quan là một khởi đầu: “Đúng người này là Con Thiên Chúa”.
Hôm nay, ngày đầu tiên của Tuần Thánh, chúng ta vừa cùng nhau suy niệm về cuộc Thương khó của Đức Giê-su. Những đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu chính là do tội lỗi của tôi và quý ông bà anh chị em. Giờ đây, trong tâm tình tạ ơn, chúng ta cùng xin Chúa ban ơn giúp sức cho từng người chúng ta can đảm từ bỏ tội lỗi, cùng với đời sống bất công, thiếu bác ái. Đồng thời, sẵn sàng chấp nhận thập giá Chúa gởi đến hàng ngày trong cuộc sống để kết hiệp với cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô. Nhờ đó, chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang sau này. Amen.
Nhà đạo diễn Mỹ Mác-tin Co-sê đã thực hiện một cuốn phim, có tựa đề là “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”, dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng một tựa đề của Ni-kót Ka-gian-da-kít. Cuốn phim này đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo, bởi vì nó đã bóp méo hoàn toàn khuôn mặt lịch sử của Chúa Giêsu, như người ta có thể đọc thấy qua các sách Tin Mừng. Nhà đạo diễn Mỹ này đã bóp méo như thế nào ? Ông đã tưởng tượng ra một cuộc tình vô cùng éo le của Chúa Giêsu, để rồi khi thoi thóp hấp hối trên thập giá, Ngài còn phải trải qua cơn cám dỗ cuối cùng, đó là muốn bỏ cuộc để trở về sống với người tình Mai Đệ Liên.
Sự thật hoàn toàn không phải như vậy. Chúng ta hãy ôn lại những giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu như bài Tin Mừng đã thuật lại, để thấy được đâu là cơn cám dỗ cuối cùng của Ngài và đâu là tâm tình đích thực của Ngài.
Sau khi Philatô tuyên án tử hình Chúa Giêsu, binh lính Rôma đã bắt Ngài vác thập giá đi đến nơi gọi là Núi Sọ. Tại đây, chúng đóng đinh và treo Ngài lên giữa hai tên trộm cướp. Trong ba giờ liền, Ngài đã phải quằn quại trên thập giá, lãnh nhận tất cả những xỉ nhục, khinh bỉ, nhạo báng của con người.
Trong khi đó, Thiên Chúa vẫn giữ thinh lặng. Cơn cám dỗ trong giờ phút ấy thật là kinh khủng, bởi vì Chúa Giêsu đã giảng dạy: “Hãy yêu thương thù địch của ngươi”. Và lúc này đây kẻ thù đã hành hạ Ngài một cách đau đớn, bỉ ổi, làm sao có thể yêu thương kẻ thù như thế được ? Đàng khác, khi giảng dạy, Chúa Giêsu cũng luôn nhấn mạnh đến lòng tín thác vào Thiên Chúa. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa lại để kẻ thù giết Ngài mà không làm gì để giải thoát Ngài. Làm sao có thể tin tưởng nơi một Thiên Chúa như thế ? Đó là cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải trải qua trong những giờ phút cuối đời của Ngài, chứ không phải là cơn cám dỗ về cuộc tình mà nhà đạo diễn Mỹ đã tưởng tượng ra.
Chúa Giêsu đã đối phó với cơn cám dỗ ấy thế nào ? Sự đối phó của Ngài vẫn luôn luôn là: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Đó là lời đầu tiên của Ngài khi vừa bị treo lên thập giá. Đó là phản ứng của Ngài đối với cơn cám dỗ thứ nhất: Ngài vẫn yêu thương và tha thứ, ngay cả những kẻ phản bội, thù ghét và loại bỏ Ngài.
Rồi để đáp trả lại cơn cám dỗ thứ hai, Chúa Giêsu hướng về Cha Ngài và nói: “Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con”. Với niềm tín thác trước sau như một, cũng như sự vâng lời tùng phục tuyệt đối của một người con hiếu thảo đối với Cha, Chúa Giêsu đã nói lên những lời đó rồi cúi đầu trút hơi thở cuối cùng.
Như vậy, chúng ta có thể nói: cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một bản tình ca đối với Thiên Chúa và con người. Cái chết của Ngài là tột đỉnh của tình yêu ấy. Tình yêu của một Thiên Chúa yêu thương con người. Viên sĩ quan điều khiển cuộc hành quyết Ngài, đứng dưới chân thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài, ông đã cảm nhận được điều đó và ông đã thốt lên: “Quả thực, người này là Con Thiên Chúa”.
Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã nêu cao tấm gương xây dựng hòa bình. Ngài đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài. Cũng vậy, con người chỉ có thể xây dựng hòa bình nếu biết thực sự tha thứ cho nhau. Nhưng hai ngàn năm qua, nhân loại vẫn chưa hưởng được hòa bình thực sự, bởi vì nhân loại chưa đón nhận hay chưa sống đầy đủ Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đối với chúng ta, nếu chúng ta sống theo Tin Mừng của Chúa, chúng ta sẽ có được sự bình an đích thực trong tâm hồn và sống an hòa với mọi người.
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian, tuần lễ diễn lại cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa. Nếu có ai đó nói rằng: yêu là điên dại, thì trong số những người điên dại này, điên dại theo ý nghĩa cao thượng và cao quí, người điên dại nhất chính là Chúa Giêsu. Ngài chỉ biết yêu thương, yêu thương tất cả mọi người, kể cả những con người xem ra không đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ, vẫn yêu thương họ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp nguy hiểm, và cuối cùng đã hy sinh đến chết chỉ vì tình yêu thương. Chúa Giêsu quả thật là một người điên dại của thế giới.
Mỗi Chúa nhật chúng ta họp nhau để phụng thờ và tôn vinh Đấng yêu thương điên dại này. Ngài đã chấp nhận mọi hiểm nguy, Ngài đã bị thương tích, Ngài đã chịu hình phạt cuối cùng trên thập giá vì yêu thương thế giới, một thế giới luôn mơ tưởng đến tình yêu, nhưng mãi sống trong hận thù. Chúng ta phụng thờ Chúa như một người vì quá yêu thương để chiến bại. Nhưng Ngài vẫn sống để ban sức mạnh cho tất cả những ai sẵn sàng chấp nhận đi theo con đường tình yêu điên dại này: yêu anh, yêu chị, yêu em, yêu quê hương, yêu đồng loại, và yêu tất cả mọi người. Đó là con đường của tình yêu, và cuối cùng, tình yêu sẽ thắng.
1. Tại sao người Do Thái thay đổi nhanh như thế: vừa mới tung hô Đức Giê-su như một vị vua, thế mà chỉ mấy ngày sau đã xin thế quyền đóng đinh Ngài? Tại sao Phê-rô quả quyết như đinh đóng cột là dù chết vẫn trung thành với Thầy, thế mà chỉ mấy tiếng đồng hồ sau đã chối Thầy? Bạn có thể thay đổi nhanh như thế chăng?
2. Lý do gì đã khiến người ta thay đổi nhanh chóng? Lý do ấy có ở trong bản thân tôi không? Khi nhận ra lý do ấy cũng có trong tôi, tôi có thông cảm với những thay đổi của người khác không?
Suy tư gợi ý:
1. Con người dễ thay đổi
Trong bài Tin Mừng của nghi thức rước lá, ta thấy thái độ của người Do Thái là nhiệt tình tung hô Đức Ki-tô, như muốn tôn Ngài làm vua. Nhưng trong bài Tin Mừng thương khó, ta lại thấy thái độ của họ là đòi giết Ngài mà tha Ba-ra-ba. Hai sự kiện, hai thái độ đó xảy ra cách nhau không bao lâu. Điều nhiều khi làm tôi rất ngạc nhiên là tại sao dân chúng lại thay đổi thái độ nhanh như vậy đối với Đức Ki-tô? Tương tự, đầu bài thương khó, ta thấy Phê-rô quả quyết: "Thưa Thầy, dù có phải vào tù hay phải chết với Thầy đi nữa, con cũng sẵn sàng". Nhưng chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, ông đã chối Thầy mình tới ba lần, chỉ vì sợ người ta biết mình là môn đệ của Thầy, cho dù lúc đầu chỉ là một đứa đầy tớ gái của vị thượng tế hỏi ông.
Đôi khi tôi tự hỏi: liệu mình có thể thay đổi thái độ nhanh chóng như thế không? Tôi thường tự nhủ rằng mình sẽ không thay đổi, sẽ trước sau như một, sẽ trung thành với Chúa, với lập trường của mình, sẽ chung thủy với người bạn trăm năm của mình mãi mãi, v.v Và tôi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ thay đổi. Nhưng kìa chung quanh tôi có biết bao người đã thay đổi!
2. Kinh nghiệm của tôi
Có những người tôi tưởng rằng sẽ không bao giờ thay đổi, vì tôi đã từng nghe họ tâm sự một cách chân thành về sự quyết tâm không thay đổi của họ. Thế mà họ đã thay đổi! Có những người tỏ ra bất mãn cực độ về thái độ đáng ghét của một người khác, khiến tôi tưởng rằng họ sẽ không bao giờ có thái độ như thế với ai. Nhưng tôi thấy khi họ ở vào địa vị hay trường hợp giống như người kia, thì họ cũng lại hành xử y như thế.
Đọc lịch sử, tôi thấy có những ông vua: khi còn phải nằm gai nếm mật để chiến đấu với kẻ thù, thì tỏ ra hết mực yêu thương dân chúng, quý trọng những thuộc hạ cùng sống chết với mình, và lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho họ. Nhưng khi đã lên ngôi vua, thì chẳng bao lâu tính tình ông vua thay đổi, trở nên hống hách, tàn ác, sẵn sàng giết hại thuộc cấp, bóc lột dân chúng. Tôi đã từng gặp những người khi còn là chủng sinh hay tu sĩ thì thật là khiêm nhường, dễ thương, tinh thần phục vụ rất cao, nhưng chỉ một vài năm sau khi làm nên danh này phận nọ, thì tính tình và cách xử sự của họ tự nhiên thay đổi hẳn. Có những cặp vợ chồng trước đám cưới thì thề non hẹn biển, dù thế nào đi nữa cũng quyết chung thủy với nhau trọn đời, thế mà chỉ sống với nhau được vài năm thì đã có người thay dạ đổi lòng. Biết bao nhiêu kinh nghiệm khác tương tự như thế!
Những kinh nghiệm ấy làm tôi không còn dám quả quyết rằng mình sẽ không bao giờ thay đổi. Và cũng không dám kết án những ai thay đổi, làm như thể mình là người không thể thay đổi. Tôi cảm thấy cần phải bao dung, thông cảm cho sự thay đổi của người khác, vì bản tính yếu đuối của con người. Chúng ta hãy xem thái độ của Đức Ki-tô như thế nào đối với Phê-rô, kẻ đã phản bội vì chối Ngài tới 3 lần. Thấy ông hối lỗi, Đức Ki-tô không những đã không phiền trách ông, mà còn tín nhiệm ông hơn nữa, Ngài đã đặt ông làm thủ lãnh của cả nhóm 12 tông đồ.
3. Con người bị giới hạn về đủ mọi mặt và lệ thuộc vào nhiều điều kiện bên ngoài
Dù không sa ngã, nhưng Đức Giê-su đã cảm nghiệm được sự yếu đuối trong thân phận con người của Ngài. Nhờ sự minh mẫn của thần tính, nên với kinh nghiệm về sự yếu đuối ấy, Ngài hiểu rõ hơn ai hết sự yếu đuối và giới hạn của con người. Vì thế, Ngài luôn luôn thông cảm với những lầm lỗi, tính hay thay đổi, sự bất trung của con người. Thái độ của Ngài đối với Phê-rô, đối với những người đàn bà ngoại tình, tội lỗi, được diễn tả bằng thái độ của người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, nói lên sự bao dung đầy tính thông cảm của Ngài. Chúng ta cũng nên tập cho mình thái độ bao dung và thông cảm ấy, nhất là khi chính ta cũng là con người yếu đuối, chẳng dám tự hào mạnh mẽ hơn ai.
Khi tự xét bản thân, tôi thấy có những lúc tinh thần tôi lên rất cao, nhưng cũng có lúc tinh thần xuống rất thấp. Điều này tùy thuộc khá nhiều vào ngoại cảnh. Tinh thần tôi thường lên cao vào những dịp tĩnh tâm, khi được một ai đó khích lệ, hay khi sống gần những người đức hạnh, gương mẫu, v.v Nhưng tinh thần tôi xuống rất thấp khi sức khỏe tôi suy yếu, khi gặp toàn những thất bại, hay khi gặp quá nhiều khó khăn, thử thách, cám dỗ, v.v Tôi nhận thấy độ cứng của lương tâm tôi có giới hạn, nó có thể đứng vững trước những cám dỗ bình thường, nhưng có lẽ nó sẽ bị gẫy trước những cám dỗ nặng nề và kéo dài. Có thể tôi không bán rẻ lương tâm với giá 10 triệu, 20 triệu, nhưng rất có thể trước những mối lợi trị giá 100 triệu, 200 triệu, tôi sẵn sàng bán lương tâm của tôi. Quả thật, tôi không dám mạnh miệng tuyên bố là tôi luôn đứng vững. Câu Kinh Thánh "Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã" (1Cr 10,12) khiến tôi không dám tự hào và chê bai hay kết án ai. Biết bao người thiện chí hơn tôi, thánh thiện hơn tôi rất nhiều đã sa ngã. Tôi chỉ còn biết trông cậy vào ơn Chúa, Chúa có gìn giữ tôi thì tôi mới đứng vững, mới không sa ngã, còn tự sức tôi thì thật đáng nghi ngờ.
4. Trong chính bản thân tôi, có hai lực lượng đối kháng nhau
Lúc nào tôi cũng thấy trong tôi có hai lực ngược nhau tác động trên tôi: một lực kéo tôi lên, khuyến khích tôi làm những việc tốt đẹp, cao thượng, vị tha, một lực trì tôi xuống, thúc đẩy tôi làm những chuyện xấu xa, bỉ ổi, ích kỷ. Muốn làm theo lực kéo tôi lên thì tôi phải cố gắng rất nhiều, phải làm ngược lại ý riêng, bản năng, dục vọng của tôi, điều này thật khó. Còn muốn làm theo lực kéo xuống thì tôi cảm thấy rất dễ dàng, thậm chí thật hấp dẫn, chẳng cần phải cố gắng gì cả. Chính vì thế, tôi luôn luôn cảm nghiệm y hệt như Phao-lô: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,19).
Như vậy, trong tôi luôn luôn có khuynh hướng xấu, ác. Chính những lúc tôi nghĩ mình yếu đuối, sợ mình không thắng nổi sự ác, nên tôi cậy trông vào Chúa, thì tôi lại không làm điều ác. Nhưng chính những lúc tôi tưởng mình mạnh mẽ, tự cho mình là công chính, nghĩ mình đã hơn được rất nhiều người, tự hào về chính mình, cho rằng mình có khả năng thắng sự ác một cách dễ dàng, thì lại là lúc tôi làm nhiều điều xấu ác, nhiều điều ngu xuẩn, hớ hênh hơn lúc nào hết. Chính vì thế, tôi rất cảm thông với sự yếu đuối khiến người ta thay đổi như những trường hợp đã nói trên.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, trong tuần thánh này, xin cho con nhận ra sự yếu đuối và sự dễ dàng thay đổi của con, để con đừng bao giờ tự hào mình mạnh mẽ hơn người, mà luôn trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Xin cho con học được bài học của Phao-lô: chính lúc khiêm nhường tự nhận ra mình yếu đuối, lại là lúc mạnh mẽ nhất vì đã bám vào Chúa.
Tin Mừng hôm nay trình bày Đức Giêsu được dân Do thái đón tiếp vào thành Giêrusalem như một vị anh hùng, như một vị vua. Tại sao Ngài lại được đón tiếp như thế ? Phải chăng Ngài là người sẽ mang lại cho họ tự do và hạnh phúc ? Điều gì họ đang mong ước và trông đợi ? Nêu ra những vấn nạn đó để mỗi người rút ra cho chính bản thân bài học từ nơi Đức Giêsu. Ngài đã được dân chúng tiếp đón vào thành và cũng chính Ngài đang tiến vào thành để đón tiếp, đón nhận cuộc khổ nạn. Dẫu Ngài đã biết trước.
Trong tâm tình đó chúng ta cùng với Đức Giêsu tiến vào thành để được đón tiếp và đồng thời cũng đón nhận và chia sẻ cuộc vượt qua với Ngài.
Đức Giêsu được người Do thái đón tiếp rất là nồng hậu. Họ trải áo, bẻ cành lá trải trên đường và dành cho Ngài những lời tán dương, chúc tụng “hoan hô, tung hô con vua Đavid”. Vì sao Ngài được vinh dự đó ? Thưa, vì họ hy vọng ông Giêsu là người sẽ giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ Rôma, mang lại cho họ một cuộc sống tự do hạnh phúc, giàu sang. Quí ông bà còn nhớ khi ông Bill Cliton vào thăm Việt Nam ? Việt Nam đã đón tiếp ông ra sao ? Oi ! Nào là bao nhiêu câu chuyện được bàn cãi, tranh luận từ giới trí thức cho tới giới bình dân ít học, từ giới báo chí đến giới làm ăn xem ông đến để làm gì và sẽ làm gì cho Việt Nam. Mục đích sâu xa nhất của sự kiện ông đến Việt Nam và được đón tiếp đặc biệt không có gì khác hơn là Việt Nam mong ông giúp mình để phát triển đất nước trở nên giàu mạnh.
Trong cuộc sống đời thường của mỗi người cũng thế. Chúng ta đã tiếp đón biết bao nhiêu người và đón tiếp bằng nhiều cách. Thế nhưng, tiếp đón không có nghĩa là giúp người gặp hoàn cảnh khó khăn để họ khỏi làm phiền mình, tiếp đón cũng không có nghĩa là để giữ lịch sự với người khác và tiếp đón càng không có nghĩa người được tiếp đón sẽ mang lại cho mình một mối lợi gì đó. Vậy, ta nên có một thái độ tiếp đón không tính toán vụ lợi, không mưu toan ích lợi cá nhân hẹp hòi, nhưng nên có một con tim luôn cởi mở để có thể tiếp đón hết mọi người không phân biệt quyền thế hay hèn yếu, giàu sang hay nghèo khổ. Nếu không tiếp đón chỉ là cho đi những thứ dư thừa hầu ru ngủ những đòi hỏi của lương tâm mình mà thôi.
Trang Tin Mừng không chỉ dừng lại việc mô tả Đức Giêsu được dân thành Giêrusalem đón tiếp. Nhưng sâu xa hơn, tiếp tục mời gọi mỗi người cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón nhận những khổ đau mà Ngài đang tiến bước vào thành để tiếp nhận. Dẫu Ngài biết trước sẽ xảy đến với Ngài. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài tiến bước vào thành một cách trung kiên.
Trong bối cảnh sống hôm nay, con người đang đánh mất dần tinh thần đón nhận những thử thách, gian nan, bệnh tật, đau khổ đến với mình. Nói thế không có nghĩa là đề cao đau khổ, tâng bốc bệnh tật vì chính nó nhưng nên biết rằng cuộc sống trần gian không thể nào đáp ứng được tất cả những khát vọng, và làm thỏa mãn mọi ước muốn. Chúng ta đón nhận bệnh tật, đau khổ, thử thách như là một điều phải có không thể thiếu trong đời sống mình, để làm nảy sinh những giá trị tốt đẹp hơn. Đức Giêsu phải tiến bước vào thành đón nhận khổ đau mới đạt tới vinh quang. “Hạt lúa mì xuống đất không thối đi thì nó vẫn là nó mà thôi”.
Đức Giêsu trong suốt cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã đón nhận thử thách, đau khổ… đặc biệt là Ngài đón nhận cuộc khổ nạn mà đỉnh cao là cái chết thập giá. Ta không thể cảm nghiệm được nỗi đau của Đức Giêsu ở mức độ nào khi Ngài bị treo trên thập giá, “Thức đêm mới biết đêm dài”. Thế nhưng, không phải vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài đón nhận đau khổ một cách dễ dàng. Chắc chắn nơi Đức Giêsu có một sự đấu tranh giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa sức sống và sự chết. Nhưng chính vì tâm tình vâng phục và nhất là vì tình yêu, nên Ngài đón nhận chúng một cách can đảm và trung kiên như thế.
Người Kitô hữu đón nhận thử thách, đau khổ, bệnh tật là điều cần có, nhưng nếu nhìn dưới ánh mắt quá bi quan, nó sẽ dồn ta vào chân tường, đẩy ta vào đường cùng không lối thoát.
Cuộc đời của mỗi người, ai cũng gặp những thử thách, bệnh tật, đau khổ. Nhưng hãy nhìn lên thập giá Đức Giêsu để có thể sẵn sàng đón nhận những trắc trở khó khăn mà mình gặp. Đành rằng khi ta thức đêm mới biết đêm dài như thế nào. Xin quí ông bà nhớ cho, người Kitô hữu đón nhận và sống theo Tin Mừng không phải là người không bao giờ biết mệt, nhưng dù biết mệt mỏi vẫn can trường đón nhận, sống theo Tin Mừng. Đó mới đích thực là người Kitô hữu.
Trước khi kết thúc bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay. Xin được trao lại quí ông bà đôi câu hỏi để mỗi người cùng tiếp tục tự vấn con tim của mình.
Mỗi người xử sự thế nào khi tiếp một người nghèo, một người bệnh tật ? Hơn thế nữa, trong bối cảnh hôm nay chúng ta có thể cùng với Đức Giêsu chấp nhận, đón nhận những trở ngại, thử thách gian nan để cùng với Ngài can đảm tiến bước vào thành không chút sợ hãi được chăng ?
Để kết thúc xin cùng nhìn lên Đức Maria, Ngài đã cùng với Đức Giêsu tiến bước vào thành đón nhận cuộc khổ nạn cho đến chân đồi Canvê. Xin Mẹ luôn đồng hành, để ta có thể can đảm tiến bước vào thành, chấp nhận và đón nhận những thử thách, bệnh tật, đau khổ mà mỗi ngày gặp phải.
Trong nghi thức của Chúa nhật lễ Lá hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Messia. Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên mình lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Đấng Messia được ghi lại trong sách Giacaria: “Nào thiếu nữ Sion hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Người là Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ”.
Hình ảnh dân chúng hò reo tung hô Chúa Giêsu cũng được nhắc đến trong sách Các Vua quyển I. Qua việc công khai vào thành cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng Messia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc mà họ muốn đánh nam dẹp bắc, hoặc bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế mà bằng cách tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa Cha, một vai trò tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia miêu tả trong bốn bài ca của ông.
Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa Cha.
Phụng vụ thánh lễ nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong Chúa nhật hôm nay được ngôn sứ Isaia viết về người tôi tớ đau khổ trung thành của Thiên Chúa phải chịu: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc xỉ nhục”.
Kế đó là bài trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê nói về sự từ bỏ và cái chết tủi nhục mà Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu Kitô không nghĩ mình là Thiên Chúa, không nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với Chúa Cha, Ngài đã trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống như phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại luôn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.
Cao điểm của phần Phụng vụ Lời Chúa là bài thương khó Chúa Giêsu được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta tham dự vào những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài thương khó như nghe một câu chuyện bi hùng đã xảy ra trong lịch sử, nhưng chúng ta nghe và đồng thời cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó của Ngài. Chúng ta có mặt bên cạnh Chúa Giêsu ở mọi diễn tiến đau thương đang xảy ra. Lịch sử cứu độ đã xảy dài đến chúng ta và chúng ta đón nhận Tin Mừng ấy ngay tại đây và ngay lúc này. Chúng ta không là người chứng kiến lịch sử cứu độ, nhưng chúng ta là người sống và lãnh nhận hiệu quả của ơn cứu độ.
Con đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường dài, khởi đi từ biến cố Nhập thể, ấp ủ và hình thành trong 30 năm sống ẩn dật được thực hiện từng bước trong ba năm rao giảng để tiến đến cao điểm của cuộc khổ nạn và hoàn tất bằng cái chết tủi nhục và việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp và đầy gian nan, con đường này không giành cho những ai lười biếng hoặc nhát đảm, nhưng giành cho những ai kiên tâm và dám dấn thân.
Hằng năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho ta sống 40 ngày Mùa Chay để giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện chúng ta có dịp rà xét lại con người của mình, nhận ra những lỗi phạm và thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với Thiên Chúa, với anh em và với chính bản thân chúng ta. Chúng ta thấy được mình đã xây dựng những mối tương quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lỏng lẻo, chân tình hay giả dối.
Nhờ thực hành các việc hy sinh hãm mình chúng ta tập tự chủ, tập chế ngự các thói quen nuông chiều bản thân, tập chế ngự các thói hư tật xấu của mình. Qua đó chúng ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của người khác, tập bao dung tha thứ cho những lỗi lầm mà người khác xúc phạm đến chúng ta. Tập nâng đỡ người khác vượt qua được những thói hư tật xấu của họ. Nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ vật chất và tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là người nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp đỡ. Chúng ta cũng cần phải nhận ra gía trị đích thực của những người khác, dù họ là những con người cần sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị của sự chia sẻ qua lại, chúng ta cung cấp cho người khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những cái chúng ta còn thiếu.
Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết 40 ngày Mùa Chay không có nghĩa là chúng ta được quyền nghỉ ngơi để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để vượt thắng bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tuần Thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên những quyết liệt của cuộc chiến này. Chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh với những gì chúng ta đã tập tành được trong 40 ngày Mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta cách sống thế nào cho phù hợp thánh ý Chúa Cha. Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản thân, chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào niềm tin của Chúa Kitô Phục sinh mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính.
Mỗi năm, vào ngày này, Giáo Hội đọc lại bài thương khó của Đức Giêsu. Khi nghe bài đọc này, chúng ta được nhắc nhở về sự nhút nhát của các môn đệ đã từng đi theo Người, mà lại từ bỏ Người trong giây phút gay go nhất, về sự thâm độc của những nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người, và về sự tàn nhẫn của quân lính đã hành hình Người. Chúng ta cần được nhắc nhở những điều này, bởi vì chúng ta có quan hệ với họ. Nhưng đó không phải là mục đích của bài đọc thương khó, qua đó, chúng ta phải lắng nghe quá nhiều tin xấu.
Bài đọc này không nhấn mạnh đến những tin xấu đó, mà nhấn mạnh đến Đức Giêsu, nhân vật trung tâm của câu chuyện. Chúng ta đang nhớ đến lòng trung thành, đức can đảm, và lòng nhân ái tuyệt đối của Đức Giêsu. Ngược lại với cảnh tối tăm của đồi Canvê, lòng nhân ái của Người lại càng tỏa sáng ra trên vạn vật nhiều hơn. Ngày chết của Người không được gọi là “Ngày thứ sáu buồn thảm”, nhưng là “Ngày thứ sáu tốt đẹp”. Yếu tố làm cho ngày đó trở thành tốt đẹp chính là nhờ tình yêu của Đức Giêsu. “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hiến mạng sống mình vì bạn hữu”. Tuần này, chúng ta đang nhớ đến tình yêu đó.
Các Kitô hữu tiên khởi đã nhìn vào cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu như là cuộc chiến thắng của sự thất bại. Nhờ Kinh thánh, họ đã đi đến chỗ thấu hiểu được rằng đây chính xác là cách Đức Giêsu chiến thắng và đi vào vinh quang của Người. Không thể tách rời vinh quang với cuộc thương khó của Người.
Xét về bề mặt, thì dường như thể đó là sự thất bại của Đức Giêsu. Nhưng thật ra, đó không là sự thất bại, mà là cuộc chiến thắng, chiến thắng của sự tốt lành vượt lên trên sự dữ, của tình yêu vượt lên trên lòng hận thù, của ánh sáng vượt lên trên bóng tối, và của sự sống vượt lên trên cái chết.
Câu chuyện về cuộc thương khó cho thấy cách thế Đức Giêsu đáp trả những gì người ta làm cho Người. Người đã nhận lấy tất cả cảnh bạo lực, biến đổi nó, và xoay chuyển thành tình yêu thương và sự tha thứ. Đây chính là chiến thắng của tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh hủy diệt. Nơi Người, không có gì cả, mà chỉ có tình yêu. Ngay cả khi người ta đóng đinh tay chân Người, thì Người vẫn cứ yêu thương. Suy nghĩ về điều này sẽ mang lại ích lợi, khi chúng ta đang phải trải qua thời kỳ khó khăn.
Thật là niềm an ủi cho chúng ta, khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ. Tuy nhiên, nỗi đau khổ của Người sẽ bị lãng phí, nếu Người không chịu đựng đau khổ vì tình yêu. Không phải nỗi đau khổ của Đức Giêsu cứu độ thế gian, mà chính nhờ tình yêu của Người. Bất cứ ai giả vờ yêu mến nỗi đau khổ đều là kẻ điên rồ. Đau khổ là điều gì đó mà bạn nên hết sức tránh né. Tuy nhiên, chúng ta lại vui mừng được chịu đau khổ vì người mình yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta đã đem lại ý nghĩa cho nỗi đau khổ của chúng ta. Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân hậu đã chịu chết vì yêu thương đàn chiên của Người.
Nếu chỉ đơn thuần chịu đựng đau khổ mà thôi, thì chẳng làm được gì cho linh hồn của chúng ta, ngoại trừ việc chất thêm gánh nặng. Chính nhờ tinh thần mà chúng ta mang vác gánh nặng của mình. Tất cả than và gỗ trên thế giới này đều không thể sử dụng được, nếu không có ngọn lửa.
Không phải việc chịu đựng đau khổ mới giải thoát được thế giới, nhưng là tình yêu. Thiên Chúa không muốn chúng ta phải đau khổ, nhưng Người muốn tình yêu của chúng ta. Tuy nhiên, tình yêu không tránh khỏi việc mang lại đau khổ. Nhưng tình yêu còn đưa đến niềm vui vĩ đại nữa. Người Kitô hữu không được chấp nhận đau khổ, mà phải biến đau khổ thành sự thánh thiện. Chính tình yêu làm cho nỗi đau khổ trở nên thánh thiện.
Trong ngày Chúa nhật lễ lá, các môn đệ của Đức Giêsu đã hoàn toàn nhận ra được lòng tin của họ nơi Người và lòng trung thành đối với Người. Điều làm cho việc bày tỏ sự ủng hộ của họ càng trở nên đáng khen hơn, đó là vì hành động này được thực hiện trong sự nghiến răng cay đắng chống đối của người Pharisêu. Khi một số người Pharisêu đến phản đối Đức Giêsu, Người phán rằng: “Họ mà làm thinh, thì chính những viên sỏi đá cũng sẽ kêu lên”. Có những cơ hội đòi hỏi một sự minh chứng công khai. Đây là một trong những trường hợp này. Đây là trường hợp duy nhất, mà Đức Giêsu chấp nhận một điều gì đó tương tự cảnh được dân chúng sùng bái như một vị anh hùng. Người biết rằng các môn đệ của Người có quyền và có nhu cầu được công khai diễn tả lòng tin của họ nơi Người. Nhưng người ta lại nghi ngờ về lời cam kết của các môn đệ. Không phải là người ta nghi ngờ về sự chân thành của họ, nhưng đó là một sự đáp ứng của công chúng, và khi dân chúng hùa theo như vậy, thì thường có tính cách ồn ào hơn là có chiều sâu. Thật dễ dàng trong việc làm chứng cho Đức Giêsu ở nơi đây, trong nhà thờ. Chúng ta đang ở giữa những người cùng vây cánh với chúng ta. Nhưng không phải là chuyện dễ dàng, để làm chứng cho Người trong một thế giới hững hờ và đôi khi còn thù địch nữa.
Có những lúc chúng ta cần phải tuyên xưng lòng tin của mình nơi Đức Giêsu một cách công khai. Và có những khi hoàn cảnh đòi buộc chúng ta phải làm như vậy.
Những viên đá sẽ không biết nói ra. Chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Chúng ta đừng nên giữ im lặng nữa, khi có một tiếng kêu đòi hỏi chúng ta phải nói ra: lời nói ủng hộ, để bảo vệ một người nào đó đang bị đối xử bất công ; lời nói khen ngợi một người nào đó, mà sự đóng góp của họ đang bị quên lãng ; hoặc lời nói lên sự thật, ở nơi nào mà người ta cố tình nói dối. Nhưng nói ra không phải là điều dễ dàng. Giữ im lặng thì dễ dàng hơn và an toàn hơn nhiều. Như vậy, chúng ta hãy cẩn thận, trong khi tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Kitô ở nơi đây, trong nhà thờ, sao cho chúng ta không phớt lờ hoặc chối từ Người tại nơi công cộng. Đức Kitô nói với chúng ta “Bất cứ kẻ nào tuyên xưng về Ta trước mặt những người khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người đó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời”. Chúng ta có thể rút ra được nguồn cảm hứng từ các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng, họ được biết đến như là những người không e ngại trong việc thừa nhận những hoài nghi, nhu cầu và sự thiếu lòng tin của mình. Tuy nhiên, trong ngày Chúa nhật lễ lá đầu tiên, họ đã mạnh mẽ và gan dạ trong việc làm chứng cho Đức Giêsu. Xin Chúa rủ lòng thương xót trên chúng ta, là những người môn đệ nhút nhát và đầy sợ hãi của Người, và ban cho chúng ta lòng can đảm, để cuộc sống của chúng ta có thể mang lời chứng về lòng tin mà chúng ta tuyên xưng.
Một buổi tối, một người trên đường từ sở làm về nhà. Khi đi ngang một nhà thờ, người ấy như bị thúc đẩy bước vào. Hình ảnh đầu tiên đập vào đôi mắt anh là Chúa Giêsu trên thánh giá. Thoạt nhìn, anh cảm thấy ghê sợ và muốn thụt lùi. Nhưng sau đó, anh nhận ra có một mối dây liên kết giữa người đang chịu đóng đinh trên thánh giá với những người mẹ khóc con bị chết vì chiến tranh, với những trẻ em sắp chết đói bên Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai nạn, với những bệnh nhân thể xác và tâm thần… Hình như tất cả những khổ đau của loài người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh trên thánh giá.
Sau đó anh nhìn chung quanh mình và cũng có một số người đang quì cầu nguyện trong thinh lặng. Một bà cao tuổi bước đến bên thánh giá và kính cẩn hôn những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an, có vẻ như bà đã tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống. Từ trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu nguyện. Và anh khám phá rằng thập giá của sự khủng khiếp đã biến thành thánh giá của hy vọng, thân thể bị hành hạ của Chúa Giêsu biến thành thánh thể của sự sống mới, những vết thương mở toang của Ngài trở thành nguồn thứ tha, cứu chữa và hòa giải… Khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy lòng mình rất bình an thanh thản.
Cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch mà là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ, trong thân xác và trong tinh thần. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài tự ý tự nguyện gánh chịu, vì yêu.
Khi chúng ta liên kết những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta sẽ tìm được bình an. Chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong đau khổ, mà có Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Yêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Yêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Yêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?” Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Yêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Yêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Yêsu không “khôn” một chút?
Đức Yêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Yêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Yêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Yêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hòa. Đức Yêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Yêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là thử thách lớn nhất của kiếp người, theo ý riêng bạn? 2. Theo bạn, các tông đồ nên thánh qua những việc nào và bằng cách nào? 3. Bạn có tuyệt vọng bao giờ chưa? Mong ước nào không thành sự đến nỗi bạn tuyệt vọng? Làm sao bạn vượt qua được? 4. Bạn đã yêu và được yêu bao giờ chưa? Làm sao bạn biết người ta yêu bạn?
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Trong Giao Ước cũ, máu Chiên rắc ngoài cửa đã cứu con cái Israel. Trong Giao Ước Mới, máu Đức Giêsu trên thánh giá sẽ cứu rỗi những ai tin vào Ngài (22:14-20).
LOÀI NGƯỜI YẾU ĐUỐI:
Bản tính yếu đuối của nhân loại trong cuộc chiến với thế gian được thể hiện qua các sự việc Giuda ngả theo quyền lực của thế gian (22:21,48), Phêrô sợ hãi trước sự áp đảo của đám đông (22:31,54-60), các môn đệ không phân biệt được giữa vinh quang nơi trần thế và vinh quang trên nước Trời (22:24-29), giữa sự chiến đấu của thể xác và sự chiến đấu của linh hồn (22:35-38). Để chiến đấu với sự yếu đuối của bản tính loài người khi đối diện với cái chết trên thập giá, Đức Giêsu đã dùng hết sức mình để cầu nguyện cùng Chúa Cha (22:39-46).
QUYỀN LỰC CỦA BÓNG TỐI VÀ THẾ GIAN:
Bị bắt trong đêm tối (22:53) và bi xét xử bởi đám đông, Con Thiên Chúa đã chấp nhận chịu chung số phận của nhân loại để chịu xét xủ bởi quyền lực này (22:1-25). Nhưng cuối cùng tất cả sẽ bi tiêu diệt bởi Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã báo trước khi Ngài khuyên các phụ nữ thành Gierusalem hãy lo khóc lóc cho thân phận của họ (23:28-31).
SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN:
Sau khi vấp ngã, Phêrô nhìn nhận tội lỗi và sám hối, để đức tin của ông trở nên mạnh mẽ trong việc thi hành sư mệnh mở mang Giáo Hội sau này (22:31, 54-62).
SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU:
Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm (23:34).
SỰ CHIẾN THẮNG CỦA LINH HỒN:
Lạy Cha, con phó linh hồn Con trong tay Cha (23:46).
BỊ TRIỆT HẠ BỞI THẾ GIAN DỂ MẶC LẤY VINH QUANG NƯỚC TRỜI:
Dưới con mắt trần thế Đức Giêsu đã trải qua những cực hình, bị đóng đinh trên thập giá, đã chết và được mai táng (23:49,55), nhưng Ngài đã chiến thắng khải hoàn trong vinh quang của Nước Trời qua sự việc Phục Sinh của Ngài sau đó để khai mở con đường cứu rỗi cho nhân loại.
Một Điểm Chính
Cuộc thương khó Đức Giêsu trải qua đã cho thấy quyền lực của thế gian sẽ thống trị và tiêu diệt cuộc đời trần thế của chúng ta, nhưng những linh hồn mạnh mẽ và biết chuẩn bị trước sẽ vượt qua được tất cả để thực sự chiến thắng trên đường về Nước Trời.
Suy Niệm
Tôi thấy mình có những sự yếu đuối, mê muội, và tàn ác của loài người như được diễn tả trong cuộc thương khó của Đức Kitô không? Khi Đức Kitô xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã phản bội, nhạo báng, đánh đập, kết tội và giết Ngài, tôi có cảm nhận được tình yêu của Ngài dành cho kẻ tội lỗi như tôi chăng?, vì tôi cũng đã làm những điều đó đối với những người chung quanh? Làm sao tôi có thể theo gương Ngài để bày tỏ Tình Yêu với mọi người?
Đức Kitô đã để cho quyền lực của thế gian chiến thắng, nhưng Ngài đã thực sự chiến thắng trong sứ mệnh cứu chuộc con cái của Thiên Chúa. Tôi có sẵn sàng cho đi đời sống vật chất của tôi, và lắng nghe Đức Kitô dạy phải chuẩn bị ra sao để có thể đương đầu với sự tối tăm của tội lỗi, những cám dỗ và thử thách cam go của cuộc đời nơi trần thế mà không bị gục ngã, để linh hồn tôi được hội nhập vào cuộc hành trình về Nước Trời?
Tôi phải làm gì để sống theo Tin Mừnmg của Đức Kitô cho người chung quanh nhận ra sự sáng, để rồi tất cả đều được cứu thoát ra khỏi bóng tối của tội lỗi?
Chứng kiến Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn trong Tin Mừng Luca, chúng ta nhận thấy Dung mạo Người nổi bật với những nét sau đây:
1.Yêu thương đặc biệt đối với các môn đệ: Ở phần đầu bài tường thuật, Đức Giêsu chia sẻ tâm tình với các môn đệ, lập Bí tích Thánh Thể, căn dặn các môn đệ về khiêm nhường và phục vụ, củng cố lòng tin và nhắc nhở thử thách đang chờ đợi các ông. Riêng với Phêrô, tông đồ trưởng, thì lòng yêu thương của Đức Giêsu trở thành ơn thứ tha ngút trời sau khi ông chối Thày.
2. Bình tĩnh trước khổ đau và bất công: Xem phim Cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu Kitô của Mel Gibson, đố ai cầm được nước mắt, trước cảnh bạo tàn mà quân lính Do Thái và Rôma đã dành cho Đức Giêsu. Khán giả càng thán phục con người vĩ đại ấy luôn thể hiện sự bình tĩnh và tự chủ trước mọi khổ đau và bất công đổ ập xuống trên thân thể và tâm hồn Người. Không một phàm nhân nào có được những phẩm chất tuyệt vời ấy!
3. Quảng đại và bao dung đối với kẻ thù: Không chỉ phải chịu đau đớn khắp thân mình mà Đức Giêsu còn bị kẻ thù chế giễu, nhạo báng và hành hạ nhiều kiểu nhiều cách, từ nhà vị thượng tế cho đến đỉnh Núi Sọ. Thế nhưng tâm hồn Người vẫn rộng mở, tràn đầy bao dung đối với những kẻ đánh đập, nhạo báng và giết chết Người. Không một chút đắng cay, hằn học, bực tức trong cử chỉ, lời nói, hành động của Người. Thật phi thường!
4. Cởi mở đón nhận và chúc phúc cho những ai biết khát khao được chia sẻ đau khổ và hạnh phúc với Người: Những người phụ nữ thành Giêrusalem biết đấm ngực và than khóc đã được Người vỗ về ủi an. Anh chàng trộm lành nhận ra tội lỗi của mình và ước mong được Người thứ tha và đón nhận đã được toại nguyện. Viên đại đội trưởng La Mã ngoại đạo nhìn thấy cảnh bất công của Đấng Vô Tội đã được ban ơn nhận ra dung mạo “Người Công Chính” nơi tội phạm vừa tắt thở trên thập giá. Đó là ba hạng người đã được ơn đặc biệt. Dù Đức Giêsu có bị vùi dập cho đến chết trên con đường Thương Khó thì Người vẫn đủ tỉnh táo và rộng mở cõi lòng và thiên đường cho những ai biết khát khao được chia sẻ đau khổ và hạnh phúc với Người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Tình Yêu, Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian để chúng con được sống và được ơn làm con Cha trong Đức Giêsu Kitô. Chúng con chúc tụng, ngợi khen và yêu mến Cha.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã chịu khổ nạn vì tội lỗi loài người, tội lỗi chúng con. Chúng con cảm tạ Tình Yêu Thương vô bờ vô bến của Chúa. Chúng con cám ơn Chúa vì được chiêm ngắm Dung Nhan Chúa trong cuộc Thương khó. Chúng con cảm nghiệm sâu sắc hơn những nỗi khổ đau về tinh thần và trên thân xác của Chúa. Chúng con nhận rõ hơn Dung Mạo và Tâm Hồn bao la Tình Yêu Thương của Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết khát khao chia sẻ khổ đau và hạnh phúc với Chúa, để chúng con luôn được ở kề bên Chúa, trong vòng tay yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Đức Kitô, xin Chúa hãy đưa chúng con vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô Giêsu, để chúng con được biến đổi và thanh luyện hầu chúng con được kết hiệp mật thiết với Đấng Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá, cho phần rỗi chúng con và phần rỗi mọi người. Amen
Tin Mừng Luca 19, 28-40 tường thuật lại việc Đức Giêsu Kitô vào thành thánh Giêrusalem với cung cách của một nhà vua khải hoàn, nhưng hết sức khiêm tốn và mau qua. Chúa Giêsu quả đã biết trước mọi việc: sinh mạng của Ngài đang bị đe dọa trầm trọng. Ngài vẫn tiến vào Giêrusalem để dân chúng tung hô Người, tôn vinh vương quyền của Ngài, Ngài là vua yêu thương, hòa bình và khiêm nhượng. Bởi vì, Ngài được tôn vinh là vua nhưng là vua hiền lành, khiêm nhu và yêu chuộng hòa bình. Vương quyền của Ngài chỉ có thể tồn tại bởi cây thập giá. Chính cái chết trên thập hình nói lên vương quyền của Chúa Giêsu.
Ngài là nạn nhân của bạo động, của tàn ác, của tội lỗi, của ghen tỵ, Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả bằng tình yêu thương cao vời của Ngài “ Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mình vì người mình yêu mến”( Ga 15, 13 ). Đây là mầu nhiệm đức tin, mầu nhiệm của tình thương, Thiên Chúa mời gọi nhân loại, con người đón nhận thập giá với tình yêu sâu thẳm.
II. THÁNH LỄ:
Từ rất xa xưa, chúa nhật lễ lá mở đầu tuần thánh. Chúa nhật lễ lá cũng cho ta nhớ về một thời mà Hội Thánh chỉ rửa tội cho các tân tòng vào đêm vọng phục sinh, chúa nhật lễ lá lại được Giáo Hội dùng để cử hành nghi thức mở tai cho các tân tòng. Nghi thức này gợi lại việc làm cho các tân tòng từng giai đoạn trở thành người Kitô hữu đích thực. Mở tai để nghe Lời Chúa, mà có lắng nghe Lời Chúa thì đời sống con người mới trở nên giá trị. Thánh lễ hôm nay, bây giờ, Giáo Hội trình bầy cho ta về cuộc thương khó hoàn toàn vâng phục ý Cha của Chúa Giêsu. Do đó, lên Giêrusalem không có nghĩa là để chịu chết nhuốc hổ với Chúa Giêsu mà là đón nhận sự đau khổ trong vinh quang tự nguyện với Đức Kitô Giêsu và cùng sống lại với Người.
MỘT CÂU CHUYỆN. MỘT CON NGƯỜI. MỘT SỰ VÂNG PHỤC TUYỆT ĐỐI:
Tin Mừng Luca 22, 14-23, 56 hôm nay tường thuật lại một câu chuyện hoàn toàn như đang hiện thực, dù rằng nó đã xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm. Tin Mừng nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu với nhiều diễn biến bất ngờ, với nhiều sự kiện rất tỉ mỉ, rất hiện thực. Chúa Giêsu mới đi vào Giêrusalem với tư cách là vua, với sự tung hô rầm rộ của trẻ em và người lớn: họ cởi cả áo trải đường, các trẻ nhỏ tay cầm lá vạn tuế, tung hô, hát Hosanna, chúc tụng con vua Đavít, Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Cũng chính những người đó, hôm nay lại toa rập, vào hùa với quân lính tới bắt Chúa Giêsu như một tội nhân. Các thượng tế, kỳ lão, ký lục, biệt phái tha hồ hồ hởi, tha hồ phấn khởi, họ đã diệt được một con người lâu nay họ từng căm thù, rình mò để gày bẫy, để chống đối vì Đức Kitô Giêsu không thỏa hiệp với họ. Còn các môn đệ, những đệ tử thân tín nhất của Chúa, những người Ngài đặt hết tin tưởng, chính các người này đã lợi dụng sự tín nhiệm của Chúa để rồi Giuđa Iscariốt đã dùng nụ hôn để chỉ điểm cho quân lính bắt Chúa Giêsu, người khác chối Ngài, người khác nữa bỏ rơi Ngài, cô đơn, lẻ loi. Thánh giá nặng nề, thân mình bị bầm nát vì bị đánh đập, phỉ nhổ, người vác đỡ thập giá cho Chúa lại là một kẻ qua đường: ông Simon, gốc Kyrênê( Lc 23, 26 ). Kẻ tin và tuyên xưng vào tình thương giải thoát của Chúa, kẻ được Chúa phong thánh lại là một người trộm nhân lành ( Lc 23, 43 ).
Chúa Giêsu đã hoàn toàn chấp nhận cuộc đau khổ và cái chết trên thập giá theo ý Thiên Chúa Cha để cứu độ nhân loại. Ngài không chạy trốn cái chết, Ngài không nại vào quyền năng, sức mạnh của phép lạ Ngài dễ dàng làm để chống lại những kẻ bắt Ngài. Ngài đã vui lòng chấp nhận thương khó và sự chết không bắt buộc ai phải cùng đau khổ, cùng chết với Ngài. Ngài đón nhận sự xỉ vả, lên án bất công, khinh bỉ vô cớ để hoàn toàn vâng phục và lẻ loi chịu đựng một mình. Chúa Giêsu không oán ghét, không trả thù bất cứ ai đã làm khổ Ngài, nhưng ngay cả lúc đau khổ, hầu như tuyệt vọng, Ngài đã xin Cha:” Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” ( Lc 23, 34 ).
CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI:
Qua cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá, Ngài muốn dậy nhân loại bài học vâng phục để hoàn toàn làm theo ý Thiên Chúa Cha. Đây cũng là tấm gương sáng chói, giúp nhân loại, giúp từng người nhìn vào chính mình để ăn năn, để sám hối, để đổi mới con người mình. Chúa Giêsu nói:” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá của mình hằng ngày mà theo Ta “. Liệu nhân loại, liệu chúng ta có dám chấp nhận vác thập giá và quảng đại tha thứ cho những người đã làm hại ta như Chúa Giêsu đã tha thứ cho kẻ không biết việc họ làm?. Liệu ta có tin tưởng, phó thác nơi Chúa khi các biến cố dồn dập xẩy đến trong đời ta không ?.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận đau khổ và chấp nhận thập giá của mình với tất cả niềm tin và tình thương cứu độ mà Chúa luôn sẵn sàng trao ban cho chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn cảm nghiệm thế nào về cuộc thương khó của Chúa Giêsu ? 2. Bạn có sẵn sàng vác thập giá không ? vì sao ? 3. Bạn nghĩ gì về đau khổ ở đời này ?
Cùng với Giáo hội, chúng ta đang sống trong những ngày trọng đại nhất của năm Phụng vụ. Với Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm những giờ phút cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu từ bàn tiệc Ly đến nơi huyệt mộ. Đặc biệt hơn, với thánh sử Luca- vốn được mệnh danh là “Ký giả của lòng Chúa nhân hậu”- chúng ta còn được chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa Giêsu trên đường Thương khó dưới cách nhìn rất độc đáo và tấm lòng trân quý về người Thầy Chí Thánh của mình.
1. Chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu Khổ hình vì nhân loại
Có thể thấy điểm khác biệt rõ nhất nơi Tin mừng Luca so với các Tin mừng khác là ông luôn dành cho Chúa Giêsu một tình cảm đặc biệt. Chính vì thế, rất nhiều lần nếu như Máccô trình bày cuộc Thương khó cách trần trụi và bi đát, “có sao nói vậy” thì Luca, trái lại, trình bày cuộc Thương khó của Chúa Giêsu như một bài suy niệm để các môn đệ có dịp chiêm ngắm hình ảnh Thầy mình chịu Khổ hình vì tình yêu nhân loại. Vì thế, trong trình thuật Thương khó, Luca đã giảm nhẹ hầu hết những gì quá bi đát như không quá nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Giêsu bị bắt; không trích những lời sỉ vả hay xúc phạm đến thân thể của Người của quân lính Rôma;…
Vì là bài suy niệm dành cho các môn đệ, nên Luca cách nào đó đã lồng vào trình thuật Thương khó những sự kiện rất riêng của mình như lời giáo huấn của Chúa Giêsu trước và sau việc lập Bí tích Thánh Thể; trên núi Ôliu, Thiên sứ hiện ra để tăng sức cho Người hay sự kiện mồ hôi máu rơi xuống đất; chữa tai tên đầy tớ thầy thượng tế; ánh mắt đầy yêu thương của Chúa khiến cho Phêrô bừng tỉnh trong sự khóc lóc ăn năn; ba lần Philatô tuyên bố Chúa Giêsu vô tội; trên Thập giá, Chúa Giêsu xin Cha tha tội cho những kẻ hành quyết Người; lời đối thoại với anh trộm lành và lời sau hết được xem như lời kinh chiều Người cầu nguyện với Cha trước khi trút hơi thở cuối cùng. Cho hay, khi chiêm ngắm đường Thương khó của Thầy, người môn đệ phải chân nhận, con đường đi qua của Thầy rồi đây cũng sẽ là con đường gắn bó với mình trong suốt cuộc đời bước theo Thầy Chí Thánh.
2. Chiêm ngắm Chúa Giêsu là Đấng vô tội
Luca đã không quá tốn công để bào chữa cho những lời kết án mà thủ lãnh Dothái cố tình gán ghép cho Chúa Giêsu hòng kết án Người; trái lại thánh sử đã để cho những con người từ những nhà lãnh đạo quyền thế, những ông quan toà cho đến quân lính và dân chúng tự nói lên, tự tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng vô tội, là Đấng công chính. Thật thế, chúng ta thấy, trong phiên toà xét xử Chúa Giêsu, vua Hêrôđê không thấy có bằng chứng gì để tố cáo Người nên mới trả về cho Philatô tiếp tục xét xử. Về phần mình, có đến ba lần Philatô công khai tuyên bố rằng ông không thấy Chúa Giêsu có tội gì (23,4.14.22). Rồi viên đại đội trưởng khi nhìn thấy toàn bộ sự việc đã phải thốt lên: “Người này quả thật là công chính”, đám đông thay vì biểu tình hò hét, giờ đây lại đấm ngực, lầm lũi trở về.
3. Chiêm ngắm Chúa Giêsu là Đấng nhân từ và tha thứ
Đường Thương khó của Chúa Giêsu còn là dịp để chúng ta chiêm ngắm lòng nhân ái bao dung và tha thứ của Người. Hãy xem ánh mắt đầy tình yêu thương của Chúa khi quay lại nhìn Phêrô trong khi ông vẫn đang “hăng hái” chối bỏ mối quan hệ giữa mình với Thầy chỉ vì một tên tớ gái vô danh nào đấy. Anh mắt của Chúa đã kịp thời uốn nắn con người ông - một con người mà chỉ mới đây thôi còn vỗ ngực vênh váo trước mặt Thầy cũng như đồng môn: “Với Chúa, con sẵn sàng vào tù và có chết cũng cam”, giờ đây phải khóc lóc thảm thiết, ăn năn về lầm lỗi của mình. Còn đối với Giuđa, dù biết rằng anh ta phản bội, dùng cái hôn để bán đứng Thầy, nhưng không vì thế Chúa Giêsu trách mắng, trái lại Người dùng những lời lẽ nhân từ để trao đổi với anh: “Giuđa ơi! Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao!”. Còn với người trôm lành, Chúa Giêsu cho thấy việc anh nhận ra lầm lỗi của mình, nhận ra người đang cùng chịu treo với mình là “người không làm điều gì sai trái” đủ để anh được cùng Người hưởng phúc vinh quang. Ngay như tội tày đình của thủ lãnh Dothái, của dân chúng và tất cả những ai tham dự vào vụ án này cũng được đón nhận sự tha thứ rất chân thành của Chúa khi Người cầu xin Cha đừng chấp tội lỗi của họ. Rõ ràng là, làm sao Chúa Giêsu có thể chấp nhất tội lỗi của con người, có thể quy kết tội lỗi của họ khi mà Máu Người đổ ra để cứu rỗi cho muôn người. Thập giá của Người chính là Tình yêu, chính là lòng nhân từ, sự tha thứ và cứu rỗi chứ không phải lòng oán thù, lên án và khinh khi.
Chiêm ngắm đường Thương khó Chúa là dịp để mỗi người chúng ta đồng hành và chia sẻ những đớn đau mà Chúa phải trải qua trên đường Thập giá; là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu, lòng bao dung và sự tha thứ Chúa dành cho con người. Chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh trong vâng phục và yêu thương để rao giảng và làm chứng cho thế giới này biết thế nào là tình yêu đích thực, tình yêu tự hiến mà Thiên Chúa ưu ái dành cho nhân loại.
Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời tại thế, Chúa bị Giuđa phản bội. Giuđa nộp Thày mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc. Nghĩ đến cái viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Chúa đi ra núi Ôliu cầu nguyện. Chúa cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán người đến bắt Chúa bằng một dấu hiệu là cái hôn. Để bảo vệ Thày mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai bên phải của tên đày tớ của thượng tế. Phúc âm không nói ai chém. Tuy nhiên các học gỉa Kinh thánh và hầu hết mọi người đồng ý là Phêrô. Nói đến việc chém đứt tai thì có người kia từ nhỏ vẫn thắc mắc sao ông Phêrô chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương vai hay cổ? Người đó lý luận: nếu Thánh Phêrô bổ từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị thương vai của người đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà còn làm bị thương cả cổ nữa. Cho nên người nêu thắc mắc kết luận rằng Thánh Phêrô đã phải luyện chưởng, biết dùng nội công để cho thanh gươm dừng lại ở điểm nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đày tớ. Như vậy thánh Phêrô chỉ chém để cảnh cáo cho quân lính đến bắt Chúa như là nói với chúng: Tụi bay đừng có đụng đến Thày của tụi tao kẻo sẽ phải chung số phận. Tuy nhiên đường lối của Chúa thì khác với đường lối loài người. Đường lối của Chúa là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho nên Chúa Giêsu bảo Phêrô dừng lại và rồi chữa cho lành tai của tên đầy tớ.
Hãy tưởng tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một cái hôn, tông đồ khác chối Chúa. Số còn lại thì lẩn trốn, không dám xuất đầu lộ diện để khỏi bị liên lụy. Philatô thấy Chúa Giêsu không làm gì đáng tội cho nên muốn tha cho Người. Còn dân chúng thì nhạo bánh, vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa. Trên thánh giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại, chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thánh giá, và không có bệ đỡ chân Chúa. Đa số những cây thánh giá mà người ta làm để tôn kính thì thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc như vậy thì cũng không đỡ được chân Chúa khỏi trụt xuống. Cho nên thân xác kéo ghì xuống làm vết thương ở hai tay và chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Kiệt sức mà chết. Đừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu không là gì vì Chúa là Chúa. Không phải vậy. Chúa Giêsu cũng là người. Chúa không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Chúa Giêsu là 100% Chúa và là 100% người. Với tư cách là người, Chúa cũng sợ đau khổ và sợ chết. Chúa đã chịu đau khổ tột bậc.
Phúc âm hôm nay ghi lại, trong vườn Ôliu, lòng Chúa xao xuyến bồi hồi (Lc 22:44). Chúa xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Vì thế trong khi cầu nguyện, mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44). Tuy nhiên Chúa cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã phải đồng hoá mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê trong sách tiên tri Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6). Còn Thánh Phaolô thì ghi lại về Chúa như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá (Pl 2:8).
Chúa đã chịu chết không hẳn cho nhân loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi người để ta được sống. Trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đónh thêm gai nhọn và đinh vào đầu và mình Chúa? Ta đã lãm gì để an ủi Chúa và an ủi những người xấu xố là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia cư, vô nghề nghiệp…? Hay ta chỉ phàn nàn, kêu trách Chúa, và than thân trách phận?
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh cữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao ?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: “Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người”.
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Tôi đã giết người”. Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Tôi cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa ; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Trong thời thế chiến thứ hai, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng trường đại học tại Hoà Lan. Ngài bị bọn Đức Quốc x bắt đem về trại tập trung ở Dachau. Nơi đây ngài bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ. Lũ lính gác mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua. Cuối cùng ngài đ chết vì bị tra tấn. Đám lính quốc x kia đâu ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dịng chữ in trong quyển sch kinh cũ kỹ của ngi. Ngi kể lại rằng sở dĩ ngi cĩ thể chịu đựng được nỗi đau đớn và vì ngi biết rằng Cha Gisu đ từng chịu đau đớn như thế trước ngài. Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, ngài viết: “Sẽ không có nỗi đau đớn làm con ng xuống đựơc, bởi con luơn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc Chúa từng bước qua đ gip con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khơn ngoan. Tình yu của Cha đ biến mn đêm tăm tối trong con thành nguồn ánh sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin hy ở lại với con, chỉ cần Cha ở lại với con thơi. Nếu khi đưa đôi tay ra, con cảm thấy Chúa đang ở bên con, con sẽ chẳng cịn sợ hi chi (Kilian Healy, Walking with god – Cùng bước đi với Chúa)
Nỗi đau đớn của Chúa Giêsu được chúng ta nhắc lại đặc biệt trong ngày hôm nay đ từng l nguồn sức mạnh cho vơ số người trong suốt dịng lịch sử. Giống như linh mục Bradsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi cơn đau đớn của họ nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đ từng chịu đau đớn như vậy trước họ, và Ngài hiện đang nâng đỡ họ trong giờ phút họ gặp thử thách.
Khi nhìn lại nỗi đau đớn của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đ chịu đau đớn dưới cả ba hình thức khc nhau.
Trước hết là nỗi đau đớn tinh thần. Chúa Giêsu chịu đau khổ loại này trong vườn Giệtsêmani Ngài đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách trước mắt, đồng thời Ngài rất đau đớn khi các môn đệ phản bội và bỏ Ngài trốn chạy hết. Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm nỗi đau tinh thần này, chẳng hạn một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đ mơ tả nỗi đau tinh thần của cậu trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: “Tôi chả bao giờ có được một mái gia đình thực sự, tơi chả bao giờ nhìn thấy người bố thực sự của tôi. Tôi luôn cô độc…. Tôi cảm thấy có điều sai trái nơi tôi. Chắc hẳn tôi tệ lắm. Tôi cảm thấy như tôi không hiện hữu bởi vì chẳng cĩ ai từng yu mến tơi”. Trong giờ phút đớn đau tinh thần như thế, chúng ta thường chỉ cịn một nguồn an ủi duy nhất, đó là biết rằng Chúa Giêsu từng bị đau đớn như thế trước chúng ta, và Ngài hiện đang nâng đỡ chúng ta trong phút giây chúng ta bị thử thách này.
Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đớn đau nơi thn xc. Ngài bị đánh đập tàn bạo, bị đội mo gai v bị đóng đinh vào thập giá. Và chúng ta kẻ ít người nhiều cũng từng chịu những đớn đau thể xác. Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đ chịu ở Chi L đầu thập niên 1970. Cô là một bác sĩ y khoa, cô phạm một lỗi lầm tai hại là đ chữa lnh thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ. Cảnh sát đ bắt cơ v tra tấn để buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối. Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập tự, cô cũng bị nọc ra chịu đau đớn suốt bốn ngày trời. Cô đ ghi lại hồi tưởng về cơn thử thch ấy.
“Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ nỗi đau đớn Chúa Giêsu từng chịu. Trong suốt cơn thử thách… tôi luôn cảm thấy Ngài ở đó và tôi nài xin Ngài giúp tôi được kiên vững”. Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác chúng ta thường chỉ cịn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đ từng chịu đau đớn như thế và Ngài hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này.
Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về mặt tm linh. Chẳng hạn, khi Ngài bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Cha Ngài cũng đ ruồng bỏ Ngi. Ngi cầu xin “Lạy Cha Con, Lạy Cha Con, sao Ngi lại bỏ rơi Con” (Tv 22;1) Tất cả chúng ta cũng từng gặp nỗi đau tâm linh giống như Ngài. Nhiều lần chúng ta đ cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Đây là nỗi đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Mỹ đ từng chịu đựng ở Nga khi bị cầm tù suốt 23 năm. Vào một dịp nọ, tâm linh ngài bị suy sụp đến mức hầu như đi đến chỗ hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng thay vì đầu hàng, ngài lại biết bắt chước Chúa Giêsu trên thập giá đ hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách. Walter Ciszel viết:
“Tôi nói với Chúa rằng hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ cịn Ngi l nguồn hy vọng duy nhất của tơi… Tơi chỉ cĩ thể mơ tả lại cảm nghiệm ny giống như một sự “phó mặc”… Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó mặc ấy đ gip ngi kin định và sống sót.
Như thế, Chúa Giêsu đ từng chịu cả ba nỗi đau đớn mà con người có thể gặp phải. Ngài đau đớn tinh thần vì bị cc tơng đồ phản bội, Ngài đau đớn thn xc vì bị qun lính tra tấn, v cuối cng Ngi chịu đau đớn tm linh khi cảm thấy bị Cha Ngài bỏ rơi. Đây chính là sứ điệp Ngài truyền lại cho chúng ta để khi chúng ta gặp bất cứ nỗi đau đớn loại nào chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu. Ngài hiểu được nỗi đau của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Từ đó chúng ta hy trở lại cu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma. Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức no khơng gì tốt hơn là chúng ta hy lập lại những lời cha Brandsma cầu nguyện với Cha Gisu: “Sẽ khơng cĩ nỗi đau đớn làm con ng xuống được vì con luơn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa; con đường cô độc mà Chúa đ từng bước qua giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan.. Tình yu của Cha đ biến mn đêm tăm tối trong con thành ánh sáng rực rỡ…. Lạy Chúa Giêsu, xin hy ở lại với con, chỉ cần Cha ở lại với con thơi. Con sẽ chẳng cịn sợ hi chi nếu khi giơ đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con”.
Constantino Cả sống 1.600 năm trước đây là Hoàng đế Kitô hữu đầu tiên của đế quốc Rôma đ cho php những người theo Chúa Kitô lần đầu tiên được cử hành phụng tự công khai. Thân phụ của Ngài, Hoàng đế tiền nhiệm là lương dân, tên là Constantino. Khi Constantino lên ngôi Hoàng đế, ông đ khm ph ra l nhiều Kitơ hữu chiếm địa vị quan trọng trong chính quyền và toà án. Ông ra lệnh cho những người Kitô hữu đó: “Phải bỏ Chúa Kitô hoặc bỏ chức vụ”. Phần lớn đ bỏ địa vị chứ không bỏ Chúa Kitô. Một ít kẻ nhát gan, đ bỏ đạo để giữ địa vị mình.
Thế rồi Hoàng đế xoay ngược lại, ông trả lại địa vị, chức tước cho những người trung thành với Chúa Kitô và bi chức những kẻ bỏ Cha Kitơ. Ngi nĩi: “Nếu cc khanh khơng trung thnh với Đức Kitô, các khanh cũng sẽ không trung thành với ta”.
Hôm nay chúng ta gia nhập đoàn người ngày lễ lá, tung hô Chúa Kitô và Tuyên xưng lịng trung thnh với Cha Kitơ. Đáng tiếc, một số chúng ta sẽ không trọn lời hứa. Một số trong chúng ta coi trọng tiện nghi dễ di, lm biếng tham dự cc nghi lễ tuần thnh, nĩ nhắc nhở những gì Cha Kitơ đ lm cho chng ta. Những nghi lễ thờ phượng đầy ý nghĩa v cảm động tuần này chuẩn bị và đưa chúng ta tới chiến thắng Phục sinh.
Như các Kitô hữu thời hoàng đế Constantino, chúng ta phải lựa chọn dứt khoát. Chúng ta có thể trung thành hay bất trung với Đức Kitô. Các tín hữu thời đó không biết trước rằng Hoàng đế sẽ thưởng cho những ai trung thành với Đức Kitô. Nhưng bạn và tôi biết rằng chúng ta tung hô Chúa Kitô là Vua trong ngày thứ nhất Tuần Thánh, sẽ được Chúa Giêsu ân thưởng cho những ai trung thành với Người. Thế mà cũng có kẻ coi trọng một vài sự vật khác hơn Chúa Kitô.
Hy nhớ, chng ta trung thnh với Cha Gisu trong tuần lễ sắp tới l một dấu chỉ chng ta trung thnh với Người trong cả năm và cả cuộc sống.
Việc phụng thờ của chúng ta ngày nay, mỗi thánh lễ, là một tuần thánh rút gọn. Ngày lễ lá chúng ta hát mừng, ca ngợi Chúa Kitô. Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta ca ngợi Chúa chúng ta.
Ngày thứ năm tiệc ly, Chúa Giêsu biến đổi bánh và rượu nho nên thân thể và Máu Người. Mỗi thánh lễ qua vị linh mục, Chúa Giêsu biến đổi bánh và rượu thành của ăn và của uống Chí Thánh. Ngày thứ sáu tử nạn, Chúa Giêsu đ chết đẫm máu vì chng ta. Trong mỗi thnh lễ, Người cũng chịu chết dưới hình thức khơng đổ máu. Ngày Phục sinh Chúa Giêsu sống lại từ ci chết. Trong thnh lễ, Người sống lại cho chúng ta. Hy lm cho Thnh lễ hơm nay v mỗi Thnh lễ đầy ý nghĩa. Hy hứa: bạn trung thnh với Cha, trong tuần ny, v trong suốt cuộc sống bạn. Hy hơ lớn bằng tiếng nĩi cũng như bằng cuộc sống bạn, những lời làm vang động cả Thiên đàng của Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay. “Đức Giêsu Kitô là Chúa” xin Chúa chúc lành bạn. Amen.
1. Bạn có nhận ra sự sắp đặt của Thiên Chúa trong biến cố Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách Mê-si-a hôm nay không ? Ta có thể từ đó rút ra bài học về sự sắp đặt của Thiên Chúa và sự phó thác của ta khi cộng tác với Ngài trong công việc của Ngài không ?
2. Ngài cỡi “một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ”. Điều này có ý nghĩa gì ? Tại sao?
3. Biết và tin Ngài là Đấng Cứu Tinh nhân loại, điều đó có ảnh hưởng thực tế trong đời sống của ta không ? Ảnh hưởng thế nào ?
CHIA SẺ
1. Thiên Chúa sắp đặt mọi sự trong những công việc của Ngài
Đọc phần đầu bài Tin Mừng trước nghi thức làm phép lá, ta thấy việc Đức Giêsu đi vào thành Giêrusalem đã được Thiên Chúa lo liệu trước mọi sự. Tự nhiên có người chuẩn bị sẵn cho Ngài “một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó”, các môn đệ Ngài chỉ việc đến lấy. Có lẽ chủ của con lừa không biết được con lừa của họ hôm nay sẽ được dùng vào việc gì, nhưng khi nghe thấy các môn đệ Đức Giêsu nói: “Chúa có việc cần dùng”, thì họ sẵn sàng cho mượn.
Tất cả mọi chuyện xảy ra trong bài Tin Mừng là để chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia, là vị Vua phải đến mà muôn dân trông đợi bao thế kỷ nay. Vì những chuyện xảy ra hôm ấy đều ứng nghiệm lời ngôn sứ Dacaria đã tiên báo trước đó 500 năm: “Hỡi thiếu nữ Giêrusa-lem, hãy vui sướng reo hò! Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” ( Dc 9,9 ).
Như vậy, ta thấy Thiên Chúa tự lo liệu lấy những công việc của Ngài, những công việc mà Ngài muốn thực hiện. Nhưng rõ ràng Ngài vẫn phải dùng những con người, những con vật cũng như những đồ vật như những dụng cụ để thực hiện. Trong việc đưa Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tư cách Đấng Mêsia, Thiên Chúa đã sử dụng những con người là các tông đồ ( đi lấy lừa, tiếp tục tung hô Ngài ), chủ của con lừa ( cho mượn lừa vô điều kiện ), dân chúng ( tung hô Ngài ); và sử dụng con vật như con lừa, đồ vật như quần áo và cành lá trải trên đường…
2. Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác với Ngài
Vì con người chúng ta có tự do, nên khi muốn sử dụng ta cho công việc của Ngài, Thiên Chúa thường mời gọi ta cộng tác với Ngài, và Ngài để ta tự do đáp lại hoặc từ chối. Khi mời gọi ta, Ngài luôn mong muốn ta tự nguyện đáp lại lời mời gọi của Ngài một cách quảng đại, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, thiệt thòi để công việc của Ngài thành công. Nhưng rất nhiều lần ta từ chối lời mời gọi ấy, khiến cho việc thực hiện kế hoạch hay ý định của Ngài ít nhiều bị trở ngại. Một khi đáp lại lời mời gọi cộng tác với Ngài, ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu và sắp đặt mọi sự một cách kỳ diệu để công việc của Ngài hoàn tất tốt đẹp. Ta chỉ cần phó thác mọi sự cho Ngài và nỗ lực hết sức có thể thực hiện những gì Ngài muốn nơi ta.
3. Thiên Chúa muốn ta dành sự ưu tiên và trọn vẹn cho Ngài
Một chi tiết nhỏ trong bài Tin Mừng là con lừa Ngài cưỡi là “một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ”. Điều đó có nghĩa là Ngài là người đầu tiên cỡi con lừa ấy. Từ đó, ta có thể suy ra tâm lý của Thiên Chúa là muốn những người cộng tác vào công việc của Ngài hãy dành sự ưu tiên và trọn vẹn cho Ngài. Ngài muốn những ai lo việc cho Ngài phải coi việc của Ngài là quan trọng nhất, hơn tất cả mọi công việc khác của mình. Như thế không có nghĩa là việc của chúng ta sẽ không có ai lo, vì một khi ta lo việc cho Ngài, thì chính Ngài sẽ lo lắng mọi việc thay cho ta, ta không cần quan tâm quá nhiều đến việc của ta nữa. Ngài nói: “Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước đã, còn tất cả mọi sự khác, Người sẽ ban cho sau” ( Mt 6,33 ). Vậy, việc của ta, cứ để Ngài lo liệu, phần ta, ta hãy dành ưu tiên cho công việc của Ngài.
Trong một dịp tĩnh tâm, cô gái nọ cho cha hướng dẫn tĩnh tâm biết cô cảm thấy có tiếng Chúa mời gọi cô hiến thân cho công việc của Ngài. Nhưng nghĩ đến tuổi thanh xuân của mình còn quá đẹp và còn dài, cô cảm thấy ngần ngại. Cô cho vị linh mục biết ý định của cô là cô sẽ hưởng tuổi thanh xuân cho biết cuộc đời đã, rồi sau đó sẽ dâng mình phụng sự Chúa. Khi thấy trên bàn vị linh mục có một đoá hồng rất đẹp, cô bèn xin ông cho cô bông hồng ấy. Vị linh mục muốn nhân dịp này cho cô bé một bài học, nên không trả lời gì cả. Buổi chiều đến, vị linh mục đem bông hồng ban sáng – lúc này đã bắt đầu hơi tàn héo – đến tận phòng cô để tặng cô. Cô gái tỏ vẻ bất mãn ra mặt. Vị linh mục bèn nói: “Sao con lại bất mãn ? Con đã chẳng đối xử với Thiên Chúa y hệt như vậy sao ? Hiện nay con y như đoá hồng còn tươi, thế mà con lại định chờ khi đời con hết tươi rồi mới đem ra tặng Ngài!” Cô gái nhận ra bài học của vị linh mục, nên sau đó quyết dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa ngay từ tuổi thanh xuân.
4. Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh của ta và của toàn nhân loại
Qua bài Tin Mừng trước nghi thức làm phép lá và rước lá hôm nay, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho mọi người biết Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Tinh ( Mêsia ) của nhân loại và của mỗi người chúng ta. Ngài là Đấng Cứu Tinh mà các ngôn sứ đã loan báo hàng mấy trăm năm trước, mà dân Chúa đã ngóng đợi suốt mấy trăm năm qua. Ngài là Đấng Cứu Tinh phải đến. Là Đấng Cứu Tinh, Ngài đem sự giải thoát cho những ai bị giam giữ, đem an bình cho người âu lo, đem vui tươi cho ai sầu khổ, đem hạnh phúc cho người đau khổ, đem vinh quang cho người sống tủi nhục, đem trong sạch cho những ai đang sống trong bùn nhơ, tội lỗi… Đúng ra ta phải rất vui mừng và thật sự vui mừng khi biết tin này như khi ta đang gặp nạn mà có người đến giải cứu.
Ta biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh từ rất lâu rồi, nhưng cuộc đời ta cho tới nay đã được Ngài giải cứu chưa ? Dường như ta vẫn chưa được hạnh phúc, vẫn còn rất nhiều đau khổ, vẫn còn nhiều khát vọng chưa được thỏa mãn. Tại sao vậy ? Chính vì ta vẫn chưa coi Ngài là lẽ sống của cuộc đời ta, ta vẫn coi Ngài như một người xa lạ ở ngoài bản thân ta, đang khi chính Ngài lại tự đồng hóa với những người đau khổ, trong đó có ta ( x. Mt 25,40.45; 10,40; 18,5; Lc 10,16; Cv 9,4-5 ). Ta chỉ hạnh phúc khi ta nhận ra và luôn ý thức Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài ( x. Ga 14,20; 15,4-7 ), nghĩa là Ngài với ta thành một. Ý thức như thế, ta sẽ luôn nhận được sức mạnh của Ngài. Có sức mạnh của Ngài, ta mới luôn an vui và hạnh phúc.
Một cách khác để ta có được sức mạnh của Ngài là ta gắn bó với Ngài, chọn Ngài làm chủ cuộc đời ta, hoàn toàn sống cho Ngài, luôn tuân theo thánh ý Ngài. Không phải là vô ý mà Đức Giêsu dùng chữ “lương thực” trong câu: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” ( Ga 4,34 ). Lương thực hay thức ăn là cái nuôi sống, đem lại chất bổ dưỡng và sức mạnh cho các sinh vật. Thi hành thánh ý Thiên Chúa, coi ý muốn của Thiên Chúa là trên hết, đó là “lương thực” đem lại sức mạnh thiêng liêng cho đời sống tâm linh của ta.
Muốn hoàn toàn tuân theo thánh ý Thiên Chúa để có sức mạnh tâm linh, ta phải sống tinh thần “tự xóa mình” ( kenosis ) như Đức Giêsu như tinh thần của bài đọc Pl 2,6-11 hôm nay: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa… đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Khi không coi mình là gì cả, không coi trọng ý riêng mình, không mong muốn gì khác hơn làm theo thánh của Thiên Chúa, thì ta sẽ thấy nguồn sức mạnh của Ngài đến với ta thật dồi dào. Chỉ khi hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa, ta mới thấy mình được giải thoát thật sự, cuộc đời ta mới thật sự hạnh phúc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, biến cố mà chúng con kỷ niệm hôm nay nhắc nhở chúng con ý thức rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh, đến để giải cứu chúng con. Xin cho chúng con được thật sự giải cứu để cuộc đời chúng con hạnh phúc, tràn đầy sức mạnh và niềm vui. Xin cho chúng con ý thức rằng chúng con chỉ thật sự được giải cứu khi chúng con gắn bó với Đức Giêsu, bằng cách sống theo tinh thần tự xóa mình của Ngài, để có thể hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, phim CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ ( The Passion of Jesus Christ ) của đạo diễn Mel Gibson đang được nhắc đến một cách đầy ngưỡng mộ. Mới đây tài tử Jim Caviezel, người đóng vai Đức Giê-su trong phim kể trên, đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 tiếp kiến tại thư viện riêng của Ngài trong điện Va-ti-can. Phải nhìn nhận rằng cuốn phim của Mel Gibson đã cống hiến cho khán giả một chân dung sống động của Đức Giê-su trong những giờ cuối cùng của Người ở trần thế, rất sát với các bài tường thuật thương khó của các tác giả Phúc âm. Lu-ca là một trong bốn Phúc Âm đã cho chúng ta thấy những nét độc đáo về chân dung và tâm hồn của Đấng bị đóng đinh thập giá trong bài tường thuật mà Giáo Hội đọc trong Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay.
I. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
2.1 Bài đọc 1: Is 50, 4-7: ( a ) I-sai-a là cuốn lớn thứ nhất trong các sách ngôn sứ. Sách gồm ba phần thuộc ba thời kỳ khác nhau. ( 1o ) 1-39 gọi là I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ rao giảng ở xứ Giu-đa vào thế kỷ 8 trước Công nguyên. Một vài chương của thời kỳ sau được chen vào đây ( 24-27 và 34-35 ) ( 2 ) 40 – 55 gọi là sách An Ủi, tức I-sai-a đệ nhị. Công trình của một ngôn sứ thời lưu đầy, loan báo niềm hy vọng cứu độ và sứ mạng mới của Dân Chúa. ( 3 ) 56 – 66 gọi là I-sai-a Đệ Tam, có lẽ là một bộ sưu tập lời rao giảng của nhiều nhiều vị ngôn sứ từ lúc xây xong đền thờ mới ( 515 trước CN ) cho đến 445 trước CN” ( Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Cựu Ước, trang 28-29 ).
( b ) Is 50,4-7: là những lời diễn tả cách ứng xử của người tôi tớ của Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Sở dĩ người tôi tớ của Thiên Chúa có thể làm như thế là vì: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng tôi phù trợ tôi, vì thế tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” Những lời sấm ngôn trên đã được thực hiện trọn vẹn trong cuộc Thương khó của Đức Giê-su.
2.2 Bài đọc 2: Pl 2,6-11: ( a ) là tuyệt tác của Thánh Phao-lô, tán tụng Đức Giê-su Ki-tô hay vào bậc nhất trong Tân Ước, vừa về ý nghĩa thần học vừa về giá trị tu đức Ki-tô giáo: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ mình phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”
( b ) Thánh Phao-lô chẳng những đã khéo tóm tắt cuộc đời trần thế của Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, giống như mọi người và trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, lại còn bị bắt, bị đánh đòn và bị nhạo báng, bị kết án chết trên thập giá. Chính vì Người đã hoàn toàn vâng phục Cha mà chấp nhận cuộc thương khó nên Cha đã làm cho Người chỗi dậy và tôn vinh Người bằng tước hiệu cao quý nhất, đặt Người lên ngai cao nhất để được mọi loài bái lạy.
2.3 Bài Tin Mừng: Lc 22,14-23,56: Lu-ca tường thuật cuộc Thương Khó của Đức Giê-su. Cuộc Thương Khó trải dài trong 7 cảnh như sau:
1).- Đức Giê-su dự tiệc với các môn đệ và lập Bí tích Thánh Thể. Trong khung cảnh Thày trò sắp chia tay này, Đức Giê-su còn phải bận rộn với việc dạy dỗ chỉ bảo cho các môn đệ về khiêm nhường và phục vụ. Đức Giê-su cũng củng cố các môn đệ để họ vững vàng trong cơn thử thách sắp tới.
2).- Đức Giê-su đến Vườn Cây Dầu cầu nguyện. Các thượng tế và lãnh binh đền thờ và kỳ mục đến bắt. Giu-đa phản bội Thày bằng nụ hôn cho người ta nhận dạng. Đức Giê-su xác định Người vô tội, nhưng để cho những người kia bắt Người và đem Người về nhà vị thượng tế.
3).- Trong khi chờ trời sáng, Đức Giê-su bị quân lính đánh đập, nhạo báng. Còn Phê-rô, tông đồ trưởng đã chối bỏ Thầy những 3 lần, khi bị một người tớ gái và gia nhân vị thượng tế hạch hỏi về mối tương quan của ông với kẻ vừa bị bắt.
4).- Sáng ra, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp để tra hỏi Đức Giê-su. Trong cuộc khảo cung này Đức Giê-su đã xác nhận Người là Con Thiên Chúa. Trước lời khẳng định ấy người Do Thái dẫn Đức Giê-su đến dinh Phi-la-tô là tổng trấn Rô-ma tại Giê-ru-sa-lem để tố cáo Người phạm tội phản loạn chống lại triều đình La mã và hoàng đế Xê-da.
5).- Phi-la-tô tra vấn Đức Giê-su và Đức Giê-su xác nhận Người là Vua Do Thái. Để tránh trách nhiệm, Phi-la-tô ra lệnh đem Đức Giê-su đến Hê-rô-đê. Nhà Vua mừng rỡ vì từ lâu đã nghe nói và muốn gặp Đức Giê-su, nên hỏi Người nhiều câu, nhưng Người giữ im lặng không trả lời, khiến ông và thị vệ khinh dể Người ra mặt và trả Người lại cho Phi-la-tô. Phi-la-tô cho triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng mà phân bua. Nhưng dưới áp lực của người Do Thái, Phi-la-tô đã không dám tha Đức Giê-su, mà giao Người cho người Do Thái đem Người đi đóng đinh thập giá.
6).- Đức Giê-su bị dẫn đến nơi hành hình gọi là Núi Sọ. Dọc đường, quân lính bắt ông Si-mon vác đỡ thập giá cho Người. Dù khó nhọc nhấc bước, Đức Giê-su cũng ủi an những người phụ nữ Giê-ru-sa-lem khóc than Người. Khi đến nơi, họ đóng đinh Người vào Thập giá cùng với hai tên gian phi. Các thủ lãnh chế nhạo Người. Một trong hai tên gian phi cũng nhạo báng Người, nhưng tên kia lại cầu cứu Người và được Người nhận lời. Cảnh trời chuyển biến lạ thường vào giờ thứ chín, giờ Đức Giê-su tắt thở sau khi phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha.
7).-Sau khi Đức Giê-su tắt thở, viên đại đội trưởng cất tiếng xưng tụng “Người này đích thực là người công chính”. Thi hài Đức Giê-su được ông Gio-xép thành viên của Hội đồng đứng ra xin với tổng trấn cho hạ xuống và chôn cất trong ngôi mộ.
III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
Chứng kiến Đức Giê-su trong cuộc Khổ Nạn trong Tin Mừng Lu-ca, chúng ta nhận thấy Dung mạo Người nổi bật với những nét sau đây:
1.Yêu thương đặc biệt đối với các môn đệ: Ở phần đầu bài tường thuật, Đức Giê-su chia sẻ tâm tình với các môn đệ, lập Bí Tích Thánh Thể, căn dặn các môn đệ về khiêm nhường và phục vụ, củng cố lòng tin và nhắc nhở thử thách đang chờ đợi các ông. Riêng với Phê-rô, tông đồ trưởng, thì lòng yêu thương của Đức Giê-su trở thành ơn thứ tha ngút trời sau khi ông chối Thày.
2. Bình tĩnh trước khổ đau và bất công: Xem phim Cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su Ki-tô của Mel Gibson, đố ai cầm được nước mắt, trước cảnh bạo tàn mà quân lính Do Thái và Rô-ma đã dành cho Đức Giê-su. Khán giả càng thán phục con người vĩ đại ấy luôn thể hiện sự bình tĩnh và tự chủ trước mọi khổ đau và bất công đổ ập xuống trên thân thể và tâm hồn Người. Không một phàm nhân nào có được những phẩm chất tuyệt vời ấy !
3. Quảng đại và bao dung đối với kẻ thù: Không chỉ phải chịu đau đớn khắp thân mình mà Đức Giê-su còn bị kẻ thù chế giễu, nhạo báng và hành hạ nhiều kiểu nhiều cách, từ nhà vị thượng tế cho đến đỉnh Núi Sọ. Thế nhưng tâm hồn Người vẫn rộng mở, tràn đầy bao dung đối với những kẻ đánh đập, nhạo báng và giết chết Người. Không một chút đắng cay, hằn học, bực tức trong cử chỉ, lời nói, hành động của Người. Thật phi thường!
4. Cởi mở đón nhận và chúc phúc cho những ai biết khát khao được chia sẻ đau khổ và hạnh phúc với Người: Những người phụ nữ thành Giê-ru-sa-lem biết đấm ngực và than khóc đã được Người vỗ về ủi an. Anh chàng trộm lành nhận ra tội lỗi của mình và ước mong được Người thứ tha và đón nhận đã được toại nguyện. Viên đại đội trưởng La Mã ngoại đạo nhìn thấy cảnh bất công của Đấng Vô Tội đã được ban ơn nhận ra dung mạo “Người Công Chính” nơi tội phạm vừa tắt thở trên thập giá. Đó là ba hạng người đã được ơn đặc biệt. Dù Đức Giê-su có bị vùi dập cho đến chết trên con đường Thương Khó thì Người vẫn đủ tỉnh táo và rộng mở cõi lòng và thiên đường cho những ai biết khát khao được chia sẻ đau khổ và hạnh phúc với Người.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa Cha là Tình Yêu, Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian để chúng con được sống và được ơn làm con Cha trong Đức Giê-su Ki-tô. Chúng con chúc tụng, ngợi khen và yêu mến Cha.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã chịu khổ nạn vì tội lỗi loài người, tội lỗi chúng con. Chúng con cảm tạ Tình Yêu Thương vô bờ vô bến của Chúa. Chúng con cám ơn Chúa vì được chiêm ngắm Dung Nhan Chúa trong cuộc Thương khó. Chúng con cảm nghiệm sâu sắc hơn những nỗi khổ đau về tinh thần và trên thân xác của Chúa. Chúng con nhận rõ hơn Dung Mạo và Tâm Hồn bao la Tình Yêu Thương của Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con ơn biết khát khao chia sẻ khổ đau và hạnh phúc với Chúa, để chúng con luôn được ở kề bên Chúa, trong vòng tay yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Đức Ki-tô, xin Chúa hãy đưa chúng con vào cuộc khổ nạn của Chúa Ki-tô Giê-su, để chúng con được biến đổi và thanh luyện hầu chúng con được kết hiệp mật thiết với Đấng Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá, cho phần rỗi chúng con và phần rỗi mọi người. Amen.
Hơm nay Gio Hội cử hnh mầu nhiệm thương khó của Chúa Giêsu. Qua việc Chúa Giêsu vào thành cách long trọng giúp chúng ta nhận biết rằng: giờ của Ngài đ đến. Ngài đ tự nguyện bước vào cái chết để sinh ơn cứu độ cho nhân loại. Hạt lúa có thối đi thì mới sinh được nhiều bông trái. Ngài đ đi vào cái chết cách trọng thể và tự do, Người tự hiến mình l để thi hành thánh ý Thin Cha Cha. Vì thế, đ cĩ nhiều lần bị người ta chống đối tìm mưu giết Ngài, như ném đá hoặc định kế để xô Ngài xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được, vì giờ Ngài chưa đến; hoặc đ nhiều lần dn chng họp lại tìm cch bắt Ngi, nhưng Ngài lẩn trốn sang thành khác cũng chỉ vì giờ Ngi chưa đến.
Biến cố Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem được mọi người tung hô Ngài là Vua. Ðy l lần đầu tiên trong cuộc đời mà Ngài đồng ý cho dn chng tung hơ Con Vua David, chc tụng Ðấng nhn danh Cha m đến. Vậy, Chúa Nhật Lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa là để tuyên xưng niềm tin của mình vo Vua cc vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi ci lịng.
Mặt khc, Cha Nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết rằng, đau khổ và vinh quang là hai chiều kích luôn song đôi với nhau. Sống trên đời là đối đầu với đau khổ, rồi qua đau khổ dẫn đến vinh quang. Vì Lễ L đưa chúng ta vào sự khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô. Ðĩ l khi chấp nhận bằng lịng vc Thập Gi mình v theo chn Cha Gisu, như thế là chúng ta cùng chia sẻ gánh nặng với Người, noi gương Người vác đi trong than khóc, mà là trong hy vọng. Vì với Cha Gisu, Thập Gi v cuộc sống vinh quang khơng thể tch rời nhau. Với Cha Gisu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ng bí, m l dẫn đưa con người đến vinh quang của ngày sống lại hiển vinh.
Hôm nay, trong cái nghịch lý của Lễ L l vị Vua cả của chng ta tiến ln, đ bnh vực nhn vị của con người, chịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần cho những ai đến với Ngài. Vị Vua đó đ thu gom tất cả mọi đau khổ thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân Ngài, để chết đi cho tất cả và đ mở ra cnh cửa vo chốn trường sinh. Ðĩ l niềm hy vọng của mọi người chúng ta.
Ðể cĩ việc lm cụ thể trong Tuần Thnh ny, tơi sẽ tìm cch tế nhị gip cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn Cây Dầu khi Ngài cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu có thể được xin Cha cất chén đắng này khỏi Con, nhưng xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha m thơi".
Nếu việc rước lá được cử hành trong ý hướng tưởng niệm Chúa Kitô về thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Người thì việc cử hnh Tuần Thnh cũng được gọi mời như dấu chỉ của đường về khổ nạn. Cuộc vào thành Giêrusalem của Đức Giêsu là bước chân dẫn vào đường về khổ nạn vì chính Đức Giêsu đ tự nguyện bước vào lộ trình đó nhận lấy khổ nạn và xuyên qua sự chết để làm giá máu cứu chuộc muôn dân.
Đường về khổ nạn khởi hành bằng việc cử hành phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh khởi đầu Tam Nhật Vượt Qua. Tam Nhật Vượt Qua được kết thúc bằng việc tưởng niệm mầu nhiệm Chúa sống lại. Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh như dấu chỉ hoàn tất công trình cứu chuộc của Đức Giêsu một cách trọn vẹn.
Công trình cứu chuộc của Đức Giêsu chỉ trọn vẹn khi chính Người đ “hồn tồn trt bỏ vinh quang mặc xc thn nơ lệ, trở nn giống phm nhn sống như người trần thế”. Thế vẫn cịn chưa đủ, Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê cịn nhắc nhớ rằng Đức Giêsu đ hạ mình vâng lời đến nỗi bằng lịng chịu chết trn cy thập tự. Con Thin Cha mặc lấy xc phm nhn khơng chỉ để chia sẻ phận người mà cịn sống trong cảnh cơ hèn để đồng hành với kẻ cô thân yếu thế.
Người ta chỉ đồng cảm được với người khác khi kinh nghiệm được nỗi đau của chính mình. Khơng thể hiểu được cảm giác của chính mình thì khơng thể no chia sẻ được cảm nghiệm của người khác. Chính trong tương quan nhân sinh đó mà Đức Giêsu đ đến làm một với con người để sẻ chia an ủi, để nâng đỡ đồng hành, để cảm thông thấu hiểu.
Ta vẫn thường mong gặp dung mạo Đức Giêsu trong khuôn mặt của những người thân quen nhưng lại quên rằng những người thân quen cũng mong gặp được chân dung Đức Giêsu trong cuộc sống thường ngày của chính ta. Làm sao để cuộc sống mưu sinh không xóa mờ chân dung Giêsu nhưng sáng tỏ một dung mạo Giêsu sống động cho tha nhân trong chính bản thân mỗi người. Con người trong x hội hơm nay vẫn cần v rất cần Đức Giêsu hiện sinh hiện diện trong mọi góc phố ng hẻm, trong những mảnh đời vất vả mưu sinh, trong những phận người cịn rất lầm than lận đận.
Đức Giêsu đ lận đận suốt ba năm cuối đời nay đây mai đó để thi hành sứ vụ thi ân giáng phúc. Từ tiệc cưới Cana tưởng chừng tan vỡ ngày vui một đời vì bình khơng rượu hết đến cô gái điếm bị đấu tố suýt chết thiệt thân, từ mẻ lưới cá bất ngờ sau đêm của bác thợ thuyền Phêrô làng chài đến việc nuôi ăn mấy nghìn người cách lạ lùng khó hiểu, từ phép lạ cho anh mù được thấy đến việc chữa lành cho kẻ bại liệt biết đi; đi đâu Đức Giêsu cũng “làm lành lánh dữ”. Thế mà người ta vẫn rắp tâm gài bẫy hại Người. Vậy mà Đức Giêsu vẫn cô đơn giữa đám đông reo hị cho mừng ở cửa thnh Gisuralem.
Đường về Giêrusalem hôm ấy là đường về khổ nạn vì tiệc ly cận kề qun dữ sắp đến tử nạn chực chờ. Phải chia tay những môn đệ yêu mến, phải để lại tình mẫu tử thing ling, phải rời xa những năm tháng kỉ niệm từ Bêlem đến Giêrusalem. Đức Giêsu đối diện cái chết bằng tự do duy nhất là thi hành thánh ý Cha Cha ng hầu cho thế gian được ơn cứu độ.
Chẳng phải vô tình m Hội Thnh mời gọi lắng nghe tường thuật cuộc Thương Khó trong ngày cử hành việc Đức Giêsu cưỡi lừa vào thành trong tiếng hị reo của b tnh thin hạ, nhưng hữu ý cho thấy mong muốn được nhắc nhớ đến cuộc Thương Khó ấy như điệp khúc yêu thương của chan chứa hồng ân cứu độ. Hồng ân cứu độ được trao ban không chỉ một người một lần một thời mà thôi nhưng được tiếp tục không ngừng tuôn đổ chứa chan cho mọi người mọi lúc mọi nơi. Hồng ân cứu độ mời gọi ta cùng hiệp thông với Đức Giêsu trên đường khổ nạn như chính Mẹ Maria đ bước theo đến cùng đến trọn.
Bước theo Đức Giêsu trên đường khổ nạn không phải là đường về khó thương với những khổ đau chồng chất chực chờ nhưng theo bước Đức Giêsu là đi vào thế giới hôm nay cùng anh chị em đồng loại với cảm thông chia sẻ như Simon vác đỡ thập giá trĩu nặng, như Veronica nhạy cảm lau vơi đi những giọt máu tuôn rơi, như tên trộm lành thật lịng thống hối ăn năn nài xin ơn cứu thoát.
40 ngày sống trong mùa Chay đ qua đi như hối thúc đường về chẳng cịn qu xa để thật lịng thống hối ăn năn. Thống hối vì lỗi phạm với Thin Cha, ăn năn vì lầm lỡ với tha nhn.
Thành tâm thống hối ai ơi trở về với Chúa làm hịa với nhau, sao cho Cha bớt cơn đau sao cho nhân thế u sầu nhẹ vơi.
Theo đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có một số chi tiết cho thấy Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa:
Ngài báo trước những việc sắp xảy ra, và đã xảy ra đúng như vậy.
Ngài tự xưng mình bằng từ “Chúa” là từ được áp dụng cho Ngài sau biến cố Phục Sinh, khi Ngài được tôn vinh là Chúa.
Ngài tỏ mình là Cua đáng chúc tụng, nếu con người không tung hô và nhìn nhận Ngài, thì đến những viên đá cũng sẽ nhìn nhận và la lên.
Vậy Ngài là Thiên Chúa, hôm nay ngự đến ( “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” ) để khai trương Triều Đại Thiên Chúa, Vương Quyền Thiên Chúa, khai trương kỷ nguyên mới, làm vinh danh Thiên Chúa ( “Vinh quang trên các tầng trời”).
Kỷ nguyên mới này...
nhiều người tưởng là kỷ nguyên trong đó Thiên Chúa giải phóng Ít-ra-en khỏi đế quốc Rô-ma và mở ra một nếp sống thong dong thoải mái; hoặc nhiều người có lẽ ngán sợ sự áp đặt của các Biệt Phái, Luật Sĩ mà thầm mong một chế độ luân lý cởi mở nhẹ nhàng hơn.
nhưng mới đối với Đức Giê-su chính là lấy lại cương vị làm con Cha, chính là đưa con người đạt tới cương vị ấy, và do đó, mới chính là không còn sống theo những sự cũ kỹ hủ lậu của con người xác thịt và thế gian nữa, mà sống theo cương vị con Thiên Chúa: làm vua muôn loài, làm vua chính bản thân mình, làm vua cả thế gian tội lỗi. Tái lập trật tự và bình an cho nhân loại, để làm vinh danh Thiên Chúa.
Chúng ta hãy chiêm ngắm và bước theo Đức Giê-su trên con đường khai trương kỷ nguyên mới của Nước Trời qua các nghi thức được cử hành trong Tuần Thánh năm nay. Giờ đây, qua cuộc kiệu lá, chúng ta đi theo Ngài, không phải vào Giê-ru-sa-lem hay vào một ngôi Nhà Thờ hữu hình, nhưng là vào Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc. Tinh thần chúng ta phải có là kết hợp với chương trình cứu chuộc, với đường lối cứu chuộc của N. Chúng ta thiết tha xin ơn được quý chuộng và thấm nhuần sự mới mẻ Ngài mang đến.
BÀI GIẢNG SAU BÀI THƯƠNG KHÓ:
Chúa Giê-su trong cuộc Thương Khó ( bị bắt, bị xử án, bị treo trên Thập Giá ) chắc chắn làm nản lòng những người Do-thái. Họ nhìn nhau tự thương hại mình vì đã dại khờ tin ông Giê-su làng Na-da-rét là Đấng Mê-si-a, hoặc họ dè bỉu những kẻ nhẹ dạ chạy theo ông Giê-su trong nhiều tháng qua. Họ tham dự vụ án trong đắng cay. Họ ra về tiu nghỉu, tuyệt vọng, biết đến bao giờ số phận họ mới hết đen tối, biết đến bao giờ mới có được Vị Cứu Tinh thật sự ?
Đúng là Chúa Giê-su không đáp ứng các kỳ vọng trần tục. Nhưng Ngài đã thực hiện một cuộc giải phóng, và cuộc giải phóng này quý hơn cuộc Xuất Hành khỏi Ai-cập ngày xưa. Ngài đã mang lại hy vọng, vì đây là hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn nhiều. Cụ thể là đối với anh trộm lành, Đức Giê-su mang lại điều mà không ai ở trần gian mang lại cho anh ta được, và Ngài mang lại cho anh ta chính trong hiện tại: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”.
Vậy Chúa Giê-su giải phóng nhân loại khỏi tội và sự chết, để đưa vào cõi trời và sự sống vĩnh hằng. Anh trộm lành cũng như tất cả chúng ta, khi hiểu ra, phải sung sướng biết chừng nào. Vì có còn ơn nào, còn sự giải phóng nào, tương lai nào đẹp và quý hơn Ơn Cứu Chuộc của Chúa.
Nhưng để có được sự sống vĩnh hằng và sự mới mẻ mà thế gian không thể mang lại này, Đức Giê-su phải bỏ thế gian và hy sinh mạng sống. Đây là đòi hỏi và là đường lối đương nhiên của Nước Trời, như Cựu Ước ( Bài Đọc I ) từng báo trước: do đau khổ của Người Tôi Tớ của Gia-vê, nhân loại được cứu thoát.
Vì thế, chúng ta hãy cảm tạ Đức Giê-su, Đấng đã khai trương kỷ nguyên mới cho chúng ta và mang lại sự mới mẻ đáng giá ngàn vạn lần hơn bất kỳ sự mới mẻ nào của thế gian. Chúng ta nỗ lực giữ lòng trong sạch và sốt sắng trong suốt Tuần Thánh năm nay, để được ơn hiểu biết, quý chuộng sự mới mẻ Đức Giê-su ban và được ơn đổi mới cuộc sống.
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: “Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình”.
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình”.
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng”, “bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người”.
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa”.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không ? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây ? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết ? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không ? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
Không còn nghi ngờ gì nữa, trình thuật khổ nạn của Luca có liên hệ chị em với trình thuật của Máccô. Tuy nhiên Luca vẫn có nét khác biệt. Ngoài việc đảo lộn trật tự, những đoạn văn Luca còn bỏ qua nhiều đoạn có trong Máccô và nhất là có thững đoạn riêng biệt của ông.
- A. Vanhoye nhận định .rằng. " Việc bỏ qua những đoạn văn có mục đích giảm nhẹ những gì xúc phạm sỗ sàng tới phẩm cách nhân loại của Đức Giêsu ("Đọc Kinh Thánh" số 55, trang 25). Chính vì thế Ngài không nhấn mạnh đến sự kiện bắt Đức Giêsu. Ngài cũng không nhắc đến những chứng từ gian dối trích dẫn lời Đức Giêsu nói về Đền thờ, những lời sỉ vả của quân lính Rôma, lời đề nghị cho người chịu đóng đinh đang hấp hối uống dấm pha mộc dược.
- Trái lại, Luca thêm vào nhiều đoạn riêng của mình. Trong tổng số 127 câu có 50 câu:' - trong số đó. có hơn 20 câu từ miệng Đức Giêsu nói ra - Trong rất nhiều những câu ấy, ta ghi nhận có: triển khai giáo huấn trước và sau khi lập phép Thánh Thể; việc thiên thần xuất hiện và mồ hôi máu đổ ra trong cảnh hấp hối; việc chữa tai cho người đầy tớ thầy cả thượng phẩm và ra lệnh đừng có hành vi chống cự; ánh mắt Đức Giêsu nhìn Phêrô vừa chối Người; ba lần Philatô tuyên bố Người vô tội; lời cầu nguyện cho các đao phủ; đối thoại với người trộm lành; tiếng kêu lớn trên thánh giá trước khi tắt thở không phải là tiếng kêu vì đau khổ phần xác trước cái chết: "Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa nỡ bỏ rơi tôi ". (Tv 21 trong Mátthêu và Máccô), nhưng là tiếng kêu nói lên sự mật thiết bất ngờ với Thiên Chúa, là lời kinh chiều của mọi người Do Thái: "Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha".
2. Con đường của Thầy, con đường của trò.
Xuyên qua những nét độc đáo trong trình thuật khổ nạn của Đấng Cứu thế, Luca quảng diễn hai đề tài mà Hugues Cousin nhận định là "hội tụ". ông viết: "Cái chết của Đức Giêsu là cuộc tử đạo của người công chính và các môn đệ coi đó là kiểu mẫu phải noi theo ".
Qua những đoạn văn bị loại bỏ và nhất là qua những đo)ạn riêng của mình, Luca, khi giúp ta cảm nhận được vẻ tôn quý và sự cao cả của Đấng Vô tội bị kết án một cách bất công, đồng thời cũng cho thấy sức chiếu tỏa của lòng thương xót của Người qua suốt trình thuật, đã khẳng định rằng Đức Giêsu, khi tự hiến mạng sống vì tình yêu, là người chiến thắng sự dữ, rằng nhờ cuộc khổ nạn, Người chính là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người, rằng triều đại Thiên Chúa và sự phục sinh đã bắt đầu. Thật vậy, Giuđa đã được đón tiếp rất lịch sự. Tai của anh lính hầu bị chém đã được chữa lành. Trái tim của Phêrô đã bồi hồi thống hối qua ánh mắt của người Thầy mà ông vừa chối bỏ; các đao phủ nhận được sự tha thứ; anh trộm lành hoán cải khi thấy thái độ của Người dữ nhận được lời hứa ban Nước thiên đàng; vì khi Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trong lời cầu nguyện phó thác linh hồn cho Chúa Cha, viên sĩ quan đã tuyên xưng: "Quả thật, người này là người công chinh", các chứng nhân hối hận "đâm ngực ăn năn ", các bạn bè và các phụ nữ theo Người "hướng nhìn" về Người.
- Đồng thời, qua các nhân vật xuất hiện trong trình thuật, Luca muốn nhắn gởi các độc giả xưa cũng như nay một lời khuyên tha thiết - hãy bước theo Đức Giêsu.
E. Charpentier đã viết trong " Đức Kitô " số 55 trang 118-119: "Luca mời ta bước vào cuộc khổ nạn với Đức Giêsu, cùng Phêrô nhận biết thân phận yếu hèn của mình mà ăn năn sám hối khi gặp ánh mắt nhân hậu, cùng Simon vác thập giá mình theo Người, cùng Người phó linh hồn trong tay Chúa Cha... Ngay từ đầu, một câu hỏi đã được đặt ra: "Ta, môn đệ của Chúa, sẽ bước theo cuộc khổ nạn như thế nào?". Nếu, như Phêrô, ta đã có lần chối bỏ Đức Giêsu, thì cũng như Phêrô, ta vẫn còn cơ hội cảm thấy ánh mắt tha thứ của Đức Kitô đang nhìn ta. Chắc chắn ta không thể bước theo cuộc khổ nạn như một đấng thánh, nhưng ta vẫn luôn luôn có thể bước theo cuộc khổ nạn như một tội nhân được tha thứ "
I. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đối diện với lửa thù hừng hực, Bức Giêsu tỏa ra ánh sáng của lòng thương xót.
("Sách lễ các ngày Chúa nhật Emmaus , trg 196-197).
Trong trình thuật khổ nạn, qua khối lượng lo lớn các chi tiết Luca đã nêu bật thái độ của Đức Giêsu, trước lửa hận thù hừng hực, đã chiếu tỏa ánh sáng của lòng thương xót cho đến cùng. Bữa Tiệc ly đã cho thấy sự tương phản giữa một người tự hạ mình làm tôi tớ, tự hiến thân thân cho bạn hữu với các môn đệ mù quáng khép kín trong hưởng thụ, lại còn mâu thuẫn chống báng nhau. Tương phản nữa, giữa các tông đồ, là những người dang chống lại bọn lính đến tấn cồng, với người Thầy chữa lành vết thương cho đầy tớ vị thượng tế. Thánh sử nêu bật sự dịu hiền của người bị tố cáo khi đứng trước những kẻ tố cáo Người. Trên đường lên núi Sọ, Người vẫn lo âu cho sự khốn khổ của đám dân đã chối bỏ Người. Trên thập giá, Người tha thứ cho anh trộm hối cải. Philatô quả đã không lầm: ông nhận biết Người vô tội. Nhưng vì yếu đuối, ông đành cộng tác với các kẻ thù của Đức Giêsu mà kết án Người. Sau khi đóng đinh Người, cả một viên sĩ quan ngoại đạo cũng thốt lên chân lý hiển nhiên, chân lý mà tòa án Do Thái phá huỷ; "Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa ".
2. Thánh giá, công trình hòa giải
("Kinh thánh ngày chúa nhật", trg 493-494).
Luca là thánh sử của tình yêu. Thiên Chúa và lòng thương xót của Người. Chẳng lạ gì mà thánh nhân đã đọc và giải thích các biến cố của cuộc Khổ nạn khởi đi từ hai thái độ ấy. Tin Mừng thứ ba, khi dõi theo đường thánh giá Đức Giêsu, đã khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho Con của Người và cho tất cả mọi người, kể cả những kẻ thù nghịch.
Chính vì thế Luca không giữ lại những món nợ đè nặng trên vai người Do Thái và trên các môn đệ Đức Giêsu: tìm trách nhiệm làm gì khi máu Đức Giêsu đã chuộc tội tất cả? Vì thế thánh nhân chẳng nhắc đến chuyện các môn đệ thiếp ngủ trong vườn Giêtsêmani, hay chuyện các ông đào tẩu lúc Người bị bắt; không giữ lại những lời nguyền rủa của vị thượng tế, những lời nhục mạ của quân lính. Thánh nhân không muốn thấy Đức Giêsu cô đơn trên thập giá nên đã lo cho bạn hữu và các môn đệ vây quanh để tham dự vào sự đau khổ của Người.
Cuộc Khổ nạn trở nên một phép lạ hàm chứa ơn tha thứ: người lính có vành tai bị cắt được chữa lành tức khắc, Đức Giêsu vẫn còn thời gian nhìn Phêrô sau khi ông phản bội để giúp ông sám hối. Ngay cả những lời Đức Giêsu thốt ra trên thập giá cũng được thay thế bằng những lời tha thứ và xót thương đối với anh ăn trộm, với những người Do Thái nhạo cười và với chính viên sĩ quan. Hoà giải hiện diện khắp nơi. Ngay cả kẻ cừu địch bất cộng đái thiên như Hêrôđê và Philatô cũng lợi dụng cuộc khổ nạn của Đức Giêsu để làm bắt tay nhau, cũng như trong Giáo Hội, hai phe Do Thái và dân ngoại cũng đã làm như thế.
Chúa Cha không ngừng bày tỏ tình yêu với Chúa Con: Luca thay đổi bản văn tả cảnh cầu nguyện của Đức Giêsu tại vườn Giêtsêmani, biến nó thành một mạc khải về sự kết hiệp mật thiết giữa Đức Giêsu và Cha Người. Thánh nhân lưu ý ta về mối quan tâm của Thiên Chúa: khích lệ Con của Người trong cơn hấp hối.
Thật bất ngờ, nhưng thử thách lớn lao vẫn là sự hiện diện của Thiên Chúa và bí tích tình yêu cùng sự tha thứ lạ lùng của Người. Thánh giá là công trình hòa giải và lễ dâng của Đức Giêsu hiệu quả ở điểm qui tụ được tất cả những kẻ thù địch ác liệt nhất trong một mối hiệp nhất.
Cứ mỗi năm vào độ này, câu truyện Giuđa bán Chúa với ba mươi đồng bạc lại nhắc nhớ chúng ta rằng sự "bán đứng" không phải là một vấn đề mới mẻ trong đời sống nhân loại. Thất hứa, bất trung, vất bỏ các tiêu chuẩn đạo đức -- những điều đó không phải là các sáng tác trong thời đại chúng ta. Cái mới ở đây đó là xã hội thời nay quá dễ dàng chấp nhận tinh thần "bán đứng" đó.
Oscar Wilde đã viết về xã hội thời nay như vầy, "Người ta biết giá cả mọi sự nhưng lại không định giá trị mọi sự". Cũng có những người đã gọi thời đại chúng ta là "Thời Bán Hết" (Age of the Sellout), nghĩa là "Mọi sự đều bán được. Mọi người đều có một giá có thể mua. Thành thật và thanh liêm đều bị mang bán, giống như những đồ vật, vì tiền bạc và chức quyền". Mặc dầu câu nói này có vẻ hơi quá đáng, song nó cũng nói lên được một phần tính chất trung thực -- và thật sự nó vừa đủ để chúng ta phải suy nghĩ xâu xa về vấn đề này. Mặc cho nó có là "Thời Bán Hết", hay "Thời Suy Đồi", hoặc là "Thời Buông Trôi" gì đi nữa thì nó vẫn là Thời Đại của chúng ta. Đây chính là lúc mà chúng ta là những Kitô Hữu được mời gọi để tỏa ánh sáng; và đây là cơ hội duy nhất của chúng ta để "làm muối đất".
Chuyên gia tâm lý học Thomas Bever của Đại Học Columbia có lần nói rằng những quảng cáo, phim ảnh trên TV báo chí về cuộc sống thường nhật đã làm sai lạc hoàn toàn những quan niệm của trẻ em về luân lý, xã hội và thương mại. Câu nói đó của ông dựa trên cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng qua những trẻ em thường xem TV tuổi từ năm đến mười hai. Ông kết luận rằng các em vào khoảng mười hai đã nhiễm những tính cách do TV nhồi vào óc các em. Các em cho rằng tin vào sự giả dối của các quảng cáo còn dễ hơn tìm cách phân biệt những gì là sự thật, nếu có. Giáo Sư Bever phát biểu: "Các em đã bị thâm nhiễm vì tin rằng, cũng tựa như những lời quảng cáo, tất cả các việc làm ăn và dạy dỗ của người lớn đều mang tính cách bí ẩn và giả dối".
Giuđa Iscariô đi gặp các thượng tế và nói: "Tôi sẽ được gì nếu tôi nộp Ngài cho các ông?" Họ đã trả cho hắn ba mươi đồng bạc, và từ đó hắn tìm dịp để nộp Chúa Giêsu cho họ (Mt 26:16). Một cuộc buôn bán lớn nhất trong mọi thời đại nhưng chỉ được ba mươi đồng bạc: giá của kẻ nô lệ vào thời đó! Một nhà giảng thuyết lừng danh đã nói như thế khi phân tích đoạn Phúc Âm này.
Chúa của chúng ta có giá trị như thế nào? Chỉ đáng ba mươi đồng bạc! Một con người nô lệ! Trong Tân Ước, tiếng Hy-lạp để chỉ về người nô lệ là hạng người phải làm hai công việc: tất cả các việc nặng và bẩn thỉu (ngay cả gánh chịu hình phạt vì tội của dân). Khi giá đã định rồi, thì các thượng tế mang ba mươi đồng bạc và đặt từng đồng một vào đôi tay đã được chúc phúc bởi chính Chúa khi Ngài gọi Giuđa theo Ngài làm tông đồ. Giuđa ra đi và nắm chặt lấy ba mươi đồng bạc; tuy nhiên hãy nhớ điều này hỡi tất cả những ai có thể nghe lời tôi là: chúng ta tất cả đều có thể bán Chúa nhưng không bao giờ có thể mua được Ngài! Cũng nên nhớ rằng, Thiên Chúa cũng luôn bị mang bán một cách không tương xứng theo phẩm giá chân thật của Ngài. Điều chắc chắn rằng chúng ta, những kẻ phản bội, sẽ phải hối hận đau khổ tự oán mình với điều mình nhận lãnh như Giuđa đã oán hận chính hắn. Giuđa ném các đồng bạc trả lại vào mặt các thượng tế và nói: "Tôi đã phản bội, nộp máu người vô tội".
Trong tập san "Atlantic Monthly" có kể một câu truyện mang tính cách "anh hùng thời đại" của một anh chàng đi vào một tiệm bán đồ ăn kiểu "ăn liền" và gọi một miếng ram-bông (ham) với bánh mì xăng-quít kẹp bơ. Cô bán hàng có vẻ hơi ngỡ ngàng, cô nói: "Ô! Phải anh muốn bánh mì xăng-quít kẹp bơ với thịt ram-bông phải không?" "Ờ, đúng vậy. Một bánh mì xăng-quít kẹp bơ và ram-bông". Cô bán hàng trả lời: "Dạ, cái đó gọi là kếch-xù (jumbo). Vậy anh có muốn một cặp kếch-xù nữa không?" Tự động viên mình, anh thanh niên nói: "À, có chứ. Làm ơn cho một xăng-quít ram-bông và bơ". Cô bán hàng trả lời: "Này anh, còn rất nhiều người đang đợi phía sau anh đó và tôi còn phải làm món khách hàng đặt đây; vậy anh có muốn cặp kếch-xù không?" Tới lúc đó, người thanh niên quay mình và bỏ đi. -t ra trong một hình thức nào đó thì người thanh niên ấy là một anh hùng thời đại. Một miếng ram-bông kẹp giữa hai miếng xăng-quít thì là ram-bông xăng-quít, cho thêm một miếng bơ thì là xăng-quít kẹp bơ với ram-bông vậy thôi; thật đơn giản, rõ ràng và thẳng thắn. Đó là điều vị anh hùng thời đại ấy muốn-- không cần phải bày đặt thay đổi này nọ hay kích thích chi thêm khúc mắc. Những người tạo hình có quyền giữ cái kếch-xù của họ còn chúng ta có quyền không bán đứng chính mình.
Hãy là những anh hùng thời đại, đừng để dễ dàng bị kẻ buôn bán dụ dỗ và cho họ biết rằng nhân phẩm chúng ta không thể mua bán được. Hãy vững vàng chống lại những gì là kếch-xù! Hãy quăng đi tất cả những cái gì là kích thích giả dối ra khỏi con người chúng ta và hãy là thật sự chính mình. Bạn và tôi là ai? Chúng ta có phải loại người mà người khác cho hay nghĩ chúng ta là như thế? Hay chúng ta đóng kịch trở thành con người khác? Chúng ta phải rất cẩn thận để làm sao đừng tạo cho mình một diện mạo bên ngoài hầu có thể lừa dối người khác, và kinh tởm hơn nữa là lừa dối chính mình chúng ta. Tại sao chúng ta phải tự giam hãm mình trong những diện mạo giả dối đó chứ? Tại sao chúng ta tự đầu độc nội tâm chúng ta cũng như những mối liên hệ với tha nhân bằng những sự bất lương như vậy? Có phải tại vì chúng ta không thành thật xác tín vào sự sống Chúa Kitô? Vinh quang tự do đích thực chỉ có khi chúng ta xác tín vào sự sống ấy!
Thánh Phaolô viết: "Không phải tôi sống nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi". Hãy để Chúa Kitô sống trong bạn. Bạn có thể sẽ thấy mình đi trong đường thánh giá nhiều hơn trong con đường Phục Sinh vinh quang; nhưng ngay trong thung lũng tối bạn cũng sẽ không lo bị bỏ quên. Chúa Giêsu đã hứa rằng Ngài sẽ ở bên bạn luôn mãi và sẽ không bao giờ bỏ rơi bạn. Ngài sẽ hướng dẫn bạn đạt tới vĩnh phúc toàn vẹn, bạn có thể vững tin vào điều ấy vì Ngài là Đấng tuyệt đối trung tín. Ngài trung thành trong điều Ngài hứa và chẳng bao giờ Ngài bán đứng bạn. Chúng ta có thể bán đứng Ngài nhưng Ngài không thể bị mua chuộc.
Chúng ta vừa đi lại con đường tử nạn của Chúa Giêsu, trong đám đông những người trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa, mỗi người chúng ta cũng có thể nhận diện được chính mình. Chúng ta có thể là các môn đệ của Chúa Giêsu, những người cho đến giờ phút chót vẫn còn thề thốt theo Ngài nhưng liền sau đó đều bỏ trốn. Chúng ta có thể là Giuđa, người chỉ vì một chút lợi lộc vật chất mà có thể bán chính lương tâm của mình để phản bội Thầy. Chúng ta có thể là đám đông ngày hôm trước tung hô vạn tuế Ngài, ngày hôm sau hô hoán "đóng đinh nó vào thập giá". Chúng ta có thể là các thượng tế, những người chỉ có mù quáng mà kết án người vô tội. Chúng ta có thể là Tổng Trấn Philatô, người chỉ vì chức quyền, danh vọng mà chà đạp công lý. Chúng ta cũng có thể là đám lý hình, những kẻ chà đạp và hành hạ người khác không chút xót thương. Đâu là chỗ đứng của chúng ta trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu? Đâu là mối tương quan của chúng ta với Ngài?
Trong suốt Tuần Thánh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta trở lại con đường thập giá của Chúa Giêsu và tỉnh thức lại chọn lựa canh tân đời sống chúng ta. Ước chi Tuần Thánh không diễn ra do những nghi thức quen thuộc trống rỗng, trong đó chúng ta chỉ đứng nhìn như khách bàng quan mà là những bước đường thập giá, qua đó chúng ta quyết tâm đi theo Chúa Giêsu đến cùng, để trong sự Phục Sinh của Ngài, chúng ta được thực sự trở thành con người mới.
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
1. Philatô có tìm cách tha cho Đức Giêsu không? Tại sao ông lại không tha được? Ông can đảm ở điểm nào và hèn nhát ở điểm nào? Nếu ở địa vị của ông ta, tôi có hành xử khá hơn ông không? Nếu ông ta ở địa vị của tôi hiện nay khi đối diện với những bất công, ông sẽ hành xử kém hay khá hơn tôi?
2. Tình yêu và lòng dũng cảm của Đức Giêsu thế nào? Ngài có xứng đáng là Vua Nước Trời, tức vương quốc tình yêu không? Để là công dân trong Nước Ngài, thì tình yêu và lòng dũng cảm có cần thiết không? Cần thiết đến mức nào?
3. Muốn có tình yêu và lòng dũng cảm theo gương Đức Giêsu, ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ hèn nhát của Philatô
Trong bài Thương Khó, Philatô hỏi Đức Giêsu: «Ông là vua dân Do Thái sao?» Là một vị quan và một nhà chính trị của đế quốc, ông có bổn phận phải xác định lập trường chính trị của Đức Giêsu. Vì thế, xác nhận mình là vua trước mặt Philatô là một điều khá nguy hiểm, thậm chí đến tính mạng, thế mà Đức Giêsu vẫn xác định như thế (Mt 27,11b). Tuy nhiên Ngài cũng xác định thêm: «Nước tôi không thuộc về thế gian này» (Ga 18,36). Chính vì xác định này mà Philatô nhận thấy Ngài không phải là một người đối lập nguy hiểm cho đế quốc Rôma.
Phải nói rằng Philatô cũng có ít nhiều lương tâm khi dám lên tiếng bênh vực Đức Giêsu: «Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?» (Mt 27,23); «Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội người này» (Ga 18,38). Và ông đã thật sự tìm cách tha cho Đức Giêsu bằng cách đưa một tên cướp nổi tiếng ra cùng với Ngài để dân chúng lựa chọn tha cho ai. Ông không ngờ được là dân chúng lại chọn tha cho Baraba. Quả là Philatô có phần nào hèn nhát khi đành phải chiều theo ý dân chúng để Đức Giêsu bị giết. Nhưng phải nói rằng ông đã tìm đủ cách để tha Đức Giêsu. Điều ông hy vọng cuối cùng để dựa vào đó làm cơ sở tha cho Ngài là chính Đức Giêsu tự lên tiếng biện hộ cho mình. Ông khuyến khích Đức Giêsu làm điều ấy: «Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?» Nhưng hy vọng của ông tắt ngấm khi thấy «Đức Giêsu không trả lời về một điều nào», sự im lặng này «khiến ông rất đỗi ngạc nhiên», và làm cho ông không còn lý do nào mạnh mẽ để tha cho Ngài.
Chúng ta có thói quen kết án Philatô là hèn nhát, và ông ta quả là như thế. Nhưng nếu tự xét mình, thì chính chúng ta, nhất là những người có quyền lên tiếng trước công chúng, hay có nghĩa vụ phải bảo vệ công lý, có thể sẽ nhận ra mình hèn nhát hơn Philatô rất nhiều. Thật vậy, đôi khi ta biết chắc chắn một ai đó là vô tội, thậm chí là người bênh vực Giáo Hội, bảo vệ chân lý hay công lý, nhưng bị kết án oan ức. Thế mà chúng ta đành chấp nhận thái độ hoàn toàn câm lặng, ngay cả một câu như Philatô: «Tôi không thấy người này có tội gì!» (Lc 23,14), chúng ta cách không đủ can đảm nói lên được, cho dù có nói thì ta cũng chỉ bị phiền hà đôi chút chứ chẳng đến nỗi nào. Vì thế, mạnh miệng kết án Philatô là hèn nhát, chúng ta không thể không cảm thấy ngượng ngùng.
2. Thái độ dũng cảm của Đức Giêsu
Trái với Philatô, sợ bị mất chức, sợ bị phiền nhiễu mà đành để Đức Giêsu bị xử án bất công, Đức Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết để cứu mọi người, để làm chứng cho chân lý và công lý. Ngài sẵn sàng bênh vực các em nhỏ khi các tông đồ muốn la rầy xua đuổi chúng (x. Lc 18,15-17), Ngài dám chữa lành những con bệnh đến với Ngài cả vào ngày nghỉ lễ bất chấp sẽ bị phiền hà rất nhiều bởi những kẻ đạo đức giả (x. Ga 5,1-18; 9,1-41; Lc 6,6-11; 13,10-17; 14,1-6). Tình yêu và sự dũng cảm của Ngài đã được thánh Phaolô tóm gọn trong bài đọc 2: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8). Tình yêu to tát đối với con người khiến Ngài không sợ bị mất địa vị, mất hạnh phúc đang có, mà sẵn sàng chịu đau khổ, chịu hủy diệt. Vì thế, Ngài rất xứng đáng là Vua trong Nước Trời, vương quốc của chân lý, công lý và tình yêu. Tư cách Vua Nước Trời đòi hỏi một tình yêu cao cả và một sự dũng cảm to tát như vậy.
Cũng vậy, để là công dân của Nước Trời, chúng ta cũng phải noi gương tình yêu và sự dũng cảm của Ngài. Nếu không, chúng ta sẽ không xứng đáng là công dân của vương quốc ấy. Làm sao chúng ta có thể vào vương quốc của tình yêu khi ta không có tình yêu hay không đủ tình yêu để có thể dũng cảm hy sinh chút ít theo sự đòi hỏi của tình yêu? Trong vương quốc của tình yêu, sự có mặt của những người không có tình yêu hay có quá ít tình yêu – nếu có – sẽ làm ô nhiễm môi trường tinh khiết ấy, và biến nó trở lại thành trần gian điên loạn này! 3. Để có được tình yêu và sự dũng cảm theo gương Đức Giêsu
Để xứng đáng vào Nước Trời, điều tối cần là chúng ta không những phải có tình yêu mà còn phải thể hiện tình yêu bằng lòng dũng cảm nữa. Đức Giêsu nói: Để vào Nước Trời, «ai cũng phải dùng sức mạnh mà vào» (Lc 16,16). «Sức mạnh» ở đây chính là sự dũng cảm của tình yêu. Sự dũng cảm trong tình yêu chứng tỏ tình yêu ấy là tình yêu đích thực, không chỉ trên môi miệng. Muốn có tình yêu và lòng dũng cảm ấy, ta phải thật sự nhận Đức Giêsu làm vua của tâm hồn mình. Nhận Ngài làm vua của lòng mình có nghĩa là coi mệnh lệnh của Ngài lên trên hết tất cả, sẵn sàng thi hành thánh ý của Ngài với bất cứ giá nào. Khi quyết tâm như thế và thường xuyên lập lại quyết tâm ấy hằng giờ hằng phút, đến nỗi nó trở thành ý thức thường hằng trong tâm trí ta, tâm hồn ta sẽ tự động được biến đổi nên giống Ngài. Như thế, nhận Ngài làm vua của tâm hồn mình, chính là chấp nhận để «cái tôi» của mình chết đi, cùng với tất cả ý riêng của nó. Chỉ khi «cái tôi» ấy thật sự chết đi, nghĩa là trở nên «đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người» (Pl 3,10), thì nó mới được phục sinh hay biến đổi thành «cái tôi» mới, «đồng hình đồng dạng với Người trong tình yêu và sự dũng cảm của Người». Chính khi ta thật sự tôn Ngài làm vua của tâm hồn ta, ta sẽ thấy mình thật mạnh mẽ, và sức mạnh ấy phát xuất từ chính Ngài.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã ban Đức Giêsu, Con của Cha, cho nhân loại, để nhân loại «được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10): dồi dào bình an và hạnh phúc, dồi dào tình yêu và sức mạnh. Nhưng con người có được sống dồi dào hay không lại tùy thuộc vào việc con người có để cho Đức Giêsu làm vua trong tâm hồn mình hay không. Con người thường để «cái tôi» của mình, hoặc tiền bạc, danh vọng… làm vua tâm hồn mình. Nay hạ bệ những thứ ấy xuống để tôn Ngài làm vua là cả một cuộc «đảo chính», một cuộc «đổi đời», một cuộc «cách mạng» vĩ đại của bản thân. Nhưng nếu không nhất quyết thực hiện cuộc cách mạng ấy, thì dứt khoát con người không thể sống dồi dào như họ mong muốn. Xin Cha giúp con thực hiện được cuộc cách mạng bản thân ấy.
Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng... Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?
Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: "Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?" Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..
Phía trên đầu Người có bản bản án viết "Đây là Vua dân Do thái". Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa... nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu.
Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.
Sau bao nhiêu công phu trên động vật, các nhà sinh vật học cho biết: một con cá sấu có thể sống được 250 năm; con quạ hay con két có thể sống được 200 năm; cá chép thọ được 100 năm, riêng loài rùa, 100 tuổi vẫn còn rất xuân vì chúng có thể sống được đến 300 năm.
Tôi tự hỏi: những con vật chẳng đáng giá là bao mà sao được hưởng đời lâu thế, đang khi con người là loài cao quí mà sự sống nơi dương gian lại không bằng một góc các con vật kia vậy?
Đành rằng cũng có người sống được đến tuổi 100, nhưng con số đó đâu có nhiều. Cộng đi tính lại, người ta có được bản thống kê: năm 1900 tuổi thọ trung bình của nhân loại là 49; năm mươi năm sau, tuổi trung bình là 67; đến năm 2000 thì cao hơn 70 một chút.
Cuộc đời kéo dài 60,70 năm nhưng có phải tất cả đều được an lành vui sướng hết chăng? Những tháng ngày mình sống đều là những mùa xuân tươi thắm, hay vừa vào xuân đã thấy thu, mới được thanh bình đã gặp khổ đau?
Không ít người cảm thấy đời người sao có quá nhiều bất hạnh, tiếng khóc dường như nhiều hơn tiếng cười, khổ đau tràn đầy hơn niềm vui. Thế rồi phản kháng nảy sinh. Không chỉ nơi kẻ vô thần, nhưng còn từ những người tin nhận có Thượng đế. Không ít người uất ức đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không loại trừ sự dữ và khổ đau? Phải chăng Ngài bất lực?
Trước những đau khổ và mất mát, một câu trả lời triết lý thế nào đi nữa cũng khó xoa dịu lòng người. Chi bằng cứ nhìn vào khổ đau và cái chết của một con người có tên Giêsu hầu tìm gặp một sự cảm thông chia sẻ, hơn là một sự tránh né hay phản kháng.
Doãn qua cuộc đời Chúa Giêsu, tôi thấy Ngài cũng từng trải qua một cuộc vượt biên gian nan và vĩ đại. Vượt từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình, từ cao sang tột đỉnh qua nghèo hèn cùng đinh, từ Nước Trời vào nước Palestine. Ngài vượt biên không phải để tìm tự do, hạnh phúc, hay sự sống, nhưng đúng hơn, là để trao ban tự do, hạnh phúc và sự sống phong phú cho con người. Để làm nên chuyện đó, Ngài đã phải đánh đổi tự do và cả sự sống rất xuân của mình.
Đức Giêsu chấp nhận cái chết để mầm sống được nảy sinh. Nhưng cái chết của Ngài đâu có oai phong hay yên lành cho cam. Trái lại đó là một cái chết đầy tính bạo động, đau đớn, đơn côi, và quằn quại trên thập giá với những vết thương sâu hoắm hận thù.
Ngay trong chính khổ đau tận cùng của Đức Giêsu trên thập giá lại bừng lên chân lý sống của Tin Mừng: "Ai mất sự sống vì Ta thì sẽ sống."
Điểm then chốt trong chân lý này không phải là "mất sự sống," bởi vì ai lại không bị mất sự sống. Và sự mất mát đó đâu phải chỉ thuần túy xảy đến trong giờ chết, nhưng còn ngay trong giờ sống hàng ngày của con người. Mỗi ngày sống là một ngày chết. Người ta đang mất sự sống từng giờ, từng phút, từng giây. Thế nên "mất sự sống" là điều không thể tránh khỏi. Đau khổ vì phải chết hàng ngày là điều tất nhiên. Thế nhưng, trong sự tất nhiên và không tránh khỏi đó vẫn ánh lên một niềm hy vọng: tìm gặp sự sống mới, không phải chỉ kéo dài 60,70 năm, nhưng là vĩnh hằng trong Đức Kitô.
Hy vọng đó được kết tinh khi con người chấp nhận "mất sự sống" hàng ngày trong tâm tình phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Đây chính là bài học diệu kỳ nơi thập giá: ngay lúc sắp chết, với những hơi thở thoi thóp, cùng những cơn co giật nhức buốt, vậy mà Đức Giêsu đã thốt lên: "Lạy Cha, Con phó thác mạng sống con trong tay Cha."
Sự sống gần như tắt ngấm, đau khổ đã tiến đến đỉnh cao, cuộc đời của con người như thế thì còn gì nữa! Vậy mà vẫn còn đó một tâm tình tín thác, gắn bó trọn vẹn với Thiên Chúa. Phải chăng từ khởi điểm của sự phó thác này mà mầm phục sinh hay sự sống mới đã bắt đầu thành hình, và như thế, u sầu tang thương không còn sức mạnh thống trị, nhưng bắt đầu nhường chỗ cho niềm vui phục sinh lên ngôi?
Khi không thể tránh khỏi đau khổ và mất mát sự sống mỗi ngày thì sự bình an sâu thẳm và mầm Phục sinh vinh quang chỉ có thể đến được với tâm hồn nếu con người biết sống và chết vì Chúa, với Chúa, trong Chúa.
Thế nên, dù đang phải vất vả lăn lộn với bệnh tật, tai ương, khốn khó cuộc sống, hay bao trái ý do tha nhân mang lại, cho dù ngày đời bị pha trộn với bao buồn vui, sướng khổ, thành công, thất bại, hoặc chết chóc chia ly, tôi vẫn quyết giữ mãi cho mình một niềm cậy trông tín thác vào Thiên Chúa.
Chính khi biết đón nhận tất cả trong tin yêu và phó thác vào Đấng đã từng gánh vác, chia sẻ, để thánh hóa khổ đau, nước mắt con người, tôi sẽ tìm thấy ý nghĩa của sự sống trong những cái chết đang xảy ra.
Trong một lần nói chuyện, Đức Tổng giám mục Fulton Sheen chỉ vào thánh giá ngài đang đeo trên ngực rồi nói: "Thánh giá bạc mà tôi đang đeo đây, tôi đeo để đền tạ." Khi hỏi lý do, ngài trả lời: "Một hôm vào thăm một người bạn gốc Do thái bán đồ nữ trang ở Nữu Ước. Ông nói với tôi: "Tôi có một ít thánh giá bạc cho Đức Cha", và ông trao cho tôi một bao đựng khoảng hơn một trăm thánh giá. Tôi hỏi: "Ông kiếm được ở đâu nhiều vậy?" Ông trả lời: "Từ các nữ tu, họ mang đến và nói với tôi: "Chúng tôi không còn đeo tượng thánh giá nữa, vì chính những tượng này đã làm ngăn cách, chia rẽ chúng tôi với thế giới hôm nay. Ông trả cho chúng ta bao nhiêu tiền với số bạc này". Tôi cân và thấy nặng khoảng 30 miếng bạc". Rồi ông nói với tôi: "Tôi nghĩ rằng tượng thánh giá đã là một cái gì biểu hiệu quí giá đối với các Kitô hữu. Phải chăng có gì không ổn, có gì trục trặc với tôn giáo của Đức Cha?" (Through the Year with Fulton Sheen, trg 14-42).
Người ta bán tượng thánh giá và cho rằng thánh giá là căn cớ làm cho họ xa lạ với thế giới hôm nay. Giuđa đã bán Chúa và nộp Chúa bằng cái hôn của mình để lấy 30 đồng bạc. Ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, người ta đã đang bán Chúa với những giá của khác nhau, và với những lý do khác nhau.
Ngày hôm xưa Phêrô chối Chúa qua những lời chất vấn của cô đầy tớ gái. Ngày hôm qua một số người đã chối đạo trước những hạch sách đe dọa của quan quyền, và ngày hôm nay với những lý do này hay lý lẽ nọ cũng đã khiến cho có những người chối Đức Kitô, không dám nhận mình là Kitô hữu.
Dù cho con người có yếu đuối sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêư thương con người. Ánh mắt Chúa đã tìm, đã gặp, và đã cảm hóa được Phêrô, ánh mắt ấy cũng đã đi tìm Giuđa, nhưng không gặp được vì Giuđa thất vọng và lẩn tránh, dầu vậy chuyện kể rằng Chúa vẫn luôn hướng tìm và chờ đợi. Ngày tận thế đã đến, tất cả các thánh đều vui mừng ca hát, nhảy múa, reo hò trong hoan lạc sung sướng. Mọi người đều vui trừ một mình Chúa Giêsu. Ngài đứng yên lặng dưới bóng rợp cạnh cửa thiên đàng. Một vài vị thánh đến hỏi thăm xem Ngài đang làm gì thế. Ngài trả lời: "Cha đang đợi Giuđa".
Chắc hẳn trong đời sống nhiều lần chúng ta đã lam phiền lòng Chúa và thái độ của chúng ta có thể phần nào giống như của Phêrô hoặc Giuđa: ăn năn thống hối hay thất vọng buông xuôi. Hôm nay bắt đầu bước vào tuần trọng nhất trong năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta đừng nhẫn tâm xa tránh ánh nhìn đầy ắp yêu đương của Chúa, nhưng hãy thật tình trở về, khiêm nhượng xin ơn tha thứ, và tin cậy vào tình Chúa thương yêu.
Câu ca-dao và thành ngữ Việt Nam này là “lá số tử vi” của mọi Ki-tô hữu sống Mầu Nhiệm Khổ Nạn, cho dù muốn chấp nhận hay không, dù là ý thức hay miễn cưỡng ! Bên tai chúng ta vẫn như vang rõ lời hò hét của người Do-thái: đem đi ! Đóng đanh nó vào thập giá ! Chúa Giê-su không sụp đổ khi hoặc vì sa cơ lỡ vận, để phải “làm trò lạ mắt thứ đồ chơi” ( Bài thơ “Nhờ Rừng”, Thế Lữ ) và sẽ chịu “ngang hàng với bọn gấu dở hơi” là hai tên trộm.
Trái lại, oái oăm thay, cuộc vây bắt và kết án vội vàng lại xảy ra vào thời điểm uy danh và cả vinh quang của Chúa Giê-su có thể nói là đang lên tột đỉnh, với cảnh tượng dân chúng nô nức cầm lá, trải áo, tung hô vạn tuế: cảnh mà đất nước và người dân Do-thái chỉ nghe kể lại vì đã và chỉ xảy ra từ xa xưa; cảnh mà những dân ngoại thỉnh thoảng mới nghe thấy ở Rô-ma đối với các hoàng đế chiến thắng trở về, nhưng vẫn không thể sánh bằng, vì tưng bừng nhộn nhịp thì có; có cả những câu tung hô quen thuộc sáo rỗng; còn với Chúa Giê-su, dân chúng tin yêu, kính phục và cảm nhận một uy quyền vượt không gian thời gian và tầm vóc nhân loại: “Hoan hô đấng nhân danh Chúa mà đến !”
Vậy từ đâu sự quay mặt 180 độ này ? Làm sao có sự đổi trắng thay đen nghe vừa xót xa, vừa hài hước, lại bí hiểm và bi thảm, như đã xảy ra ? Chỉ có thể giải thích bằng thái độ giậu đổ, bìm leo ! Giậu có đổ, thì bìm mới leo được ! Bìm là thứ dây lá bò sát mắt đất, không có khả năng vươn lên, leo lên cao để che phủ bất cứ thứ gì còn đứng thẳng, đứng vững. Nhưng hể thứ gì nghiêng đổ, nằm rạp, thì tức khắc bì sẽ bò lên ngay, leo qua và phủ kín, như sẵn sàng chờ đợi tiêu diệt và không chút xót thương !
Các chức sắc đạo đời Do-thái hiểu rõ như thế và họ phải triệt hạ Chúa Giê-su, vốn không chỉ là một hàng giậu, mà rõ ràng như một tường luỹ. Lầm lẫn lớn nhất – ngoài mọi dư đoán của họ – là Chúa Giê-su đã sống lại. “Hàng Giậu Giê-su” gục đổ, nhưng đã vươn thẳng dậy, vững chãi hơn, như Vạn Lý Trường Thành, nên như Núi đá và muôn đời, bìm chẳng thể nào leo lên, hòng phủ kín được.
Nhưng bìm vẫn ở đó, ngay sát chân giậu và chờ đợi sơ hở, chờ đợi hàng giậu lung lay, nghiêng ngả, và sụp đổ: lúc ấy, bìm sẽ bò lên, phủ kín và tiêu diệt.
“Giậu” là Giáo Hội, mà từ khi Chúa Giê-su thành lập đến nay, đã có vô số kẻ thù do hoả ngục chỉ huy, rình rập phá hoại. Chúng hiểu rằng: muốn triệt hạ Giáo Hội, phải làm cho Giáo Hội hư hao, suy yếu từ bên trong, từ sự khô khan nguội lạnh của Giáo Dân; từ sự suy thoái đạo đức của hành Giáo Sĩ và hàng Giáo Phẩm; từ lòng kiêu ngạo và ưa thích tiện nghi, xa xỉ của những người sống đời tận hiến. Các phong trào chống phá Giáo Hội như Tam Điểm, Thời Mới, Chủ Nghĩa Vô Thần và những kẻ mạo danh Giáo Hội như phong trào “Chúng tôi cũng là Giáo Hội” v.v... được nhân lên sức mạnh vô hạn bằng các phương tiện truyền thông đại chúng, đang hối hả nội công ngoại kích gặm nhắm nền móng Giáo Hội, để chỉ cần một phần tử nào trong Giáo Hội mất Đức Tin, sa ngã, gục đổ, là đám dây bìm sẽ mau chóng bò lên, phủ kín và tiêu diệt. Như bìm không thể tấn công khi giậu còn nguyên khối, vững chắc, ma quỷ không bao giờ dại dột tấn công Giáo Hội trực diện và toàn khối.
“Bìm” là tội lỗi, mà nếu đời sống Đức Tin của chúng ta cùn mòn, thì chẳng khác gì “hàng giậu” bảo vệ linh hồn chẳng năng được kiểm tra, chăm sóc, củng cố, tu bổ những chỗ yếu kém, hư hao. Ta bình chân như vại, sống không màng đến Giáo Hội, chẳng màng chi đến tha nhân, quên rằng không có một hàng giậu nào thành hình và vững chắc từ một cá thể, nhưng là sự kết hợp gắn bó, đều đặn của nhiều cột, nhiều trụ và nhiều mối liên hệ hỗ tương. Xem thường, hờ hững, thì sẽ hối bất cập, khi thấy mình ngã đổ và bị phủ kín bởi những mối liên hệ tội lỗi như dây bìm leo lên, bám vào. Liệu khi ấy có thể vươn dậy nữa chăng ?
Cuối cùng, điều cũng không thể không để tâm tới, ấy là thói quen suy nghĩ và hành xử ích kỷ và đầy tham vọng của chúng ta, lắm khi không khác gì dây bìm, chỉ chờ anh em yếu thế, suy sụp để leo lên, không chế, thay vì cảm thông, nâng đỡ. Điều này đều đúng ở cả lãnh vực vật chất và tinh thần, khi mà chúng ta sống thiếu bác ái, thiếu tình thương, để cho ý chí quyền lực ( volonté de puissance ) và tham sân si chi phối. Chúa Giê-su chịu chết ! Giậu đã đổ ! Nhưng bìm không thể leo lên, phủ kín được, như người Do-thái mong muốn hay như Xa-tan chờ đợi, vì cái chết của Chúa Giê-su không kéo theo sự sụp đổ của nhân loại – dù đó là nhân loại tội lỗi, bất xứng – trái lại, như Lời Chúa đã nói trước: ”Ngày nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”. Hàng Giậu là Chúa ngã xuống, để sức mạnh Mình Máu Chúa, Thần Linh Chúa, sẽ:
- củng cố những tâm hồn vững niềm tin cậy - tu bổ những tâm hồn bắt đầu bị hư hao, lung lạc - vực dậy những tâm hồn đang ngã đổ - cứu vớt những linh hồn bắt đầu bị phủ lấp, nhưng vẫn cậy trông.
Đổi lại, cuộc sống mỗi Ki-tô hữu cũng phải là cái chết cho tha nhân, đơn giản vì đó là sứ mệnh của mỗi người: sứ mệnh truyền giáo ! Mỗi hy sinh, mỗi chia sẻ tinh thần và vật chất, mỗi thiện chí xây dựng và thăng tiến tha nhân, mỗi lời cầu nguyện, đều đòi chúng ta phải chết cho chính mình, để sống vì Đức Ki-tô và vì anh em. Đó chính là truyền giáo !
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt người Hà Lan, sống vào thế kỷ 17 đó là bức tranh "Ba cây thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa hai cây thập giá của kẻ bất lương, là thập giá của Đức Giê-su trổi lên một cách ngạo nghễ.
Dưới chân cây thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Đức Giê-su.
Nhìn kỹ giữa đám đông đằng đằng sát khí, người ta thấy có một gương mặt quen quen, đó chính là khuôn mặt của danh họa Rembrandt. Nhà danh họa muốn nói cho chúng ta rằng, không một ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Nghe và suy niệm bài Thương Khó trong ngày Lễ Lá, chúng ta thấy bóng dáng mình trong những nhân vật đã tham dự vaò việc đóng đinh Chúa. Chúng ta có thể là Giu-đa bán Chúa, khi đang tâm dứt bỏ tình nghĩa thầy tròm, để chạy theo lợi lộc trần gian.
Chúng ta có thể là các môn đệ bỏ Thầy mà trốn đi hết, khi gặp cơn gian nan khốn khó, vội vàng buông xuôi bỏ cuộc, nhanh chóng đánh mất niềm tin. Chúng ta có thể là Phê-rô chối Chúa, khi nhát đảm sợ sệt không dám bênh vực đạo thánh. Thậm chí chẳng dám biểu lộ niềm tin trước mặt mọi người. Chúng ta có thể là Phi-la-tô, làm ngơ cho công lý bị chà đạp, phớt lờ trước nỗi oan ức của những người thấp cổ bé miệng, cô thân cô thế, đói rách bần cùng. Chúng ta có thể là đám đông gào thét đòi lên án Chúa, khi gắt gao phê bình chỉ trích anh em, nhất là những người có trách nhiệm lãnh đạo dân Chúa. Chúng ta có thể là đám lý hình hành hạ sỉ nhục, đóng đinh Chúa, khi chúng ta chà đạp lên nhân phẩm của anh em, gây đau khổ cho người xung quanh.
Xin được như Gio-an, kiên vững dưới chân thập giá, để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giê-su. Xin được như Ma-ri-a can đảm dưới chân thập giá, cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Nghe xong bài Thương Khó, chúng ta mới hiểu rõ Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người. Bị các môn đệ phản bội, bỏ rơi; bị dân chúng vu khống, chế nhạo; bị các nhà lãnh đạo đối xử bất công; bị quân lính hành hạ cho đớn đau, nhục nhã; bị Chúa Cha như ruồng bỏ trong cô đơn, sợ hãi; và cuối cùng bị lý hình nhạo báng, đóng đinh trên thập giá.
Có một điều là Người đã không oán than, kêu trách; không kêu la, rên siết. Trái lại, Người đã đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loạị Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn Ơn Cứu Rỗi.
Nếu không một ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa thì mọi khổ đau Người đã gánh chịu là vì mỗi người chúng ta, và cho mỗi người chúng ta. Thư Do Thái viết: "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người" ( Dt 5, 8 – 9 ).
Lạy Chúa, thường chúng con chỉ đứng xa xa ngưỡng mộ tình yêu cao cả của Chúa, chứ không dám bước theo Ngài trên đường thập giá. Xin cho chúng con đừng theo Chúa như người xa lạ, dửng dưng, nhưng biết yêu mến Thánh Giá Chúa nhiều hơn, và đón nhận thánh giá của mình trong vâng phục và hân hoan.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Lá đọc lại Bài Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tiếp đến là Tuần Thánh, cao điểm tưởng niệm cuộc khổ nan của Chúa. Trong bầu khí suy niệm về thập giá-con đường Chúa chọn để cứu nhân lọai, chúng ta nghĩ về Mầu Nhiệm Đau Khổ.
Gọi đau khổ là một mầu nhiệm theo nghĩa “bí nhiệm, khó hiểu” cũng được; hay theo nghĩa của Gabriel Marcel: nó là “huyền nhiệm”, khác với “vấn đề”, chúng ta không thể giải quyết cách khoa học, mà là cảm nghiệm cá nhân của người từng kinh qua cũng mới hiểu, cũng đúng.
Người ta quá quen với lời than van “ Đời là bể khổ, hữu thân hữu khổ”. Cái khổ đ trở thnh qui luật của cuộc sống con người, do “bệnh, lo, tử”, v ngy nay cho rằng cả “sinh” nữa, đều làm cho con người đau khổ. Sợ “sinh” làm khổ nhân lọai nên ngày nay người ta “chống sinh”.
Có nhiều nguyên nhân gây đau khổ mà kinh nguyện xưa gọi là “.. . đói kém, ôn dịch, mất mùa, giặt giả”, có khi bí ẩn người ta cho là do “số phận”.
Tuy nhiên, có thể coi con người là nguyên nhân chính của sự đau khổ. Nỗi khổ của lụt lội, hạn hán, bệnh dịch.. . , hay ngay cả sống thần mà ta qui cho thiên tai, cũng có nguyên nhân sâu xa do con người tàn ph thin nhin, vắt kiệt thin nhin lm thin nhin “nổi giận”. Cịn chiến tranh, khủng bố, diệt chủng, ph thai, bắt con người làm thí nghiệm, vu khống, trù dập, chửi mắng.. . gây buồn, khổ và hại người khác, thì qu r trực tiếp l do con người. “Người với người là chó sói”, “tha nhân là hỏa ngục” l thế !
Thái độ của người Kitô Hữu trước đau khổ thế nào ?
Vẫn biết tội là nguyên nhân của sự đau khổ “Từ tội đầu tiên (nguyên tội), cả trần gian này chìm trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Cain giết Aben (St 4, 3-15), tiếp đến là sự xa đọa của loài người.. . ” (Gio Lý Tịan Cầu số 401), nhưng chúng ta không theo quan niệm “trời trả báo” để qui gán sự đau khổ là hậu quả tất yếu do tội lỗi của cá nhân đương sự hay sự thất đức của gia đình. Khi thấy người mù từ khi mới sinh đau khổ trong cảnh mù lịa, cc Tơng đồ hỏi Chúa: bởi tội của y hay do tội cha mẹ y mà y phải chịu vậy, Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy cơng trình của Thin Cha được tỏ hiện nơi anh ta.” (Ga 9, 2-3).
1.Cựu Ước:
Người công chính vẫn phải đau khổ, đau khổ nhiều hơn nữa thì phải. Chính ơng Giĩp trong Cựu ước là một bằng chứng. Rồi Môsê-Tôi tới trung thành, rất được Chúa yêu mến đ đau khổ vì Dn Cha: “Con phải lm gì cho Dn ny by giờ ? Một cht nữa l họ nm đá con !” (Xh 17, 4) khi dân chúng gây sự, kêu trách Môsê. Môsê đ đau khổ tột cùng đến nỗi phải xin được chết đi cho rồi: “Ông Môsê thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà than khĩc tại cửa lều mình. Cịn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ơng lấy lm khổ tm v thưa với Đức Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài ? Tại sao con lại không đẹp lịng Ngi, khiến Ngi đặt gánh nặng tất cả dân này lên con ? Có phải con đ cưu mang tất cả dân này không ? Có phải con đ sinh ra nĩ khơng m Ngi lại bảo con hy bồng nĩ vo lịng, như vú nuôi bồng trẻ thơ.. . nếu Ngài xử với con như vậy thì th giết con đi cịn hơn.” (Ds 11, 10-15). Nhân vật vĩ đại của Cựu Ước, người diễm phúc được Chúa hứa “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh), được diện đối diện với Chúa, đ đau khổ nhiều trong trong thân xác khi lữ hành 40 năm sa mạc, lại chịu những đau khổ tinh thần đến thế !
2.Đức Kitô
Từ đây chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên khi Đức Giêsu Kitô, Đấng Chúa Cha phán “đẹp lịng Ta mọi đàng” phải trở thành Người Tôi Tớ Đau Khổ, phải thốt lên lời Thánh Vịnh bi ai: “Lạy Cha, Lạy Thin Cha tơi, sao Cha bỏ tơi” (Tv 22, 2; Mt 27, 45) khi bị treo trên thập giá.
Chúa chúng ta không chỉ chịu đau đớn nơi thân xác mà cịn chịu đau khổ trong hồn khi bị Giuđa phản bội, Phêrô chối từ, môn đệ bỏ trốn, dân chúng sỉ nhục, bị nhổ vào mặt.. . Bởi Chính Ngài là “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của chúng ta, vì Người đ chịu thử thch về mọi phương diện cũng như chúng ta.” (Dt 4, 14-15) hưởng nếm trọn vẹn tiếng kêu than của thân phận con người bị vùi dập tứ bề, được diễn tả qua lời Thánh Vinh:
-Khi bị người tín cẩn phản bội: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tơi cũng cam lịng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tm phc với tơi, đ cng tơi chia ngọt sẻ bi.” (Tv 55, 13-14)
-Khi Chúa bị bao vây bắt trong vườn Dầu: “Kẻ th con lịng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạng khinh đời, rầm rập tới kìa chng đa bao quanh, mắt trừng trừng như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mnh th, rình rập ở bụi bờ” (TV 17, 10-12); “Sĩng tử thần dồn dập quanh tơi, mạng lưới âm ty bủa vy tứ phía” (Tv 18, 5);
-Khi bị đánh địn, giầy đạp, kéo lôi.. . “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con cùng, vì người ta giày xéo thân con, và suốt ngày tấn công chèn ép” (Tv 56, 2); “Lạy Chúa, xin xót thương, bởi vì con lm cảnh ngặt ngho. Xin giải thốt con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Lạy Chúa, xin đừng để con phải nhục nh, vì đ ku cầu Ngi” (Tv 31, 10.16.18);
-Khi Chúa bị nhổ vào mặt và bị chê là điên khùng: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi khinh thường” (Tv 21, 7);
-Khi bị người ta tố cáo vu khống: “Lạy Chúa, xin đừng phó mặt con cho kẻ thù hung hn; vì lũ chứng gian đứng dậy tố con, giương bộ mặt hằm hằm sát khí.” (Tv 27, 12)
Bộ phim cuộc thương khó nổi tiếng mới đây của đạo diễn Mel Gibson diễn tả khá đạt sự đau khổ này.
3.Thnh Phaolơ,
Chính Thánh Phaolô, Tông đồ dân ngoại cũng đ đau khổ nhiều. “Tôi nói như người điên: tôi cịn hơn họ nữa ! Hơn nhiều vì cơng khĩ, hơn nhiều vì ở t, hơn gấp bội vì chịu địn, bao lần syt chết. Năm lần bị người Dothái đánh 40 roi bớt một; ba lần bị đánh địn, một lần bị nm đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi…” (2 Cr 11, 23-25)
Đó là những đau khổ thể xác Phaolô chịu, ngài cịn bị một “ci dầm” m cc nh ch giải cho rằng đó là chứng bệnh kinh niên, phải mang cả đời: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại về những mạc khải phi thường tôi đ được, thân xác tôi đ bị một ci dầm đâm vào, một thủ hạ Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đ ba lần tơi xin Cha cho thĩat khỏi nổi khổ này. Nhưng Ngài quả quyết đối với tôi: ơn của Thầy đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (2 Cr 12, 7-9)
Phaolô cũng đ bị khổ tm do nhiều người khác gây nên trong ba cuộc hành trình truyền gio, ngi đ chia sẻ với cc tín hữu Corinthơ: “Thật thế, tôi đ đau khổ nhiều, nước mắt chan hịa, lịng se lại m viết cho anh em.. . ” (2Cr 2, 4) v với Timơthơ: “Alexandre, người thợ rèn, đ gy cho cha nhiều khốn khổ; Cha sẽ cứ việc anh lm m trả bo, cả con cũng hy đề phịng anh ta, vì anh ta mạnh mẻ chống lại lời chng ta rao giảng.” (2 Tm 4, 14-15)
4.Các thánh đ trải nghiệm sự đau khổ.
-Thnh Phanxicơ Assisi ốm đau liệt lâu ngày đến nổi hễ cử động tứ chi là phải đau đớn ghê sợ, nhưng đ gọi sự đau đớn của ngài là “chị em thn thiết”.
-Thnh nữ Bernadette, người được Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, đ từng chữa lnh bệnh tật cho người khác cũng phải đau khổ nhiều: bị chống đối, chịu sỉ nhục, bị bệnh xuyễn hành hạ từ nhỏ và ngày càng trầm trọng cho đến chết.
-Thnh nữ Magarit đệ Cortone chịu đau khổ vì Cha đ nĩi: “Ngy no con cịn sống, con hy chuẩn bị để chiến đấu và chịu những đau khổ gây gắt, vì vng lọc trong lửa, nn Ta cũng sẽ tẩy rửa con bằng khổ cực, cm dỗ, tn tật, đau đớn, lo sợ, thức khuya dây sớm, nước mắt, đói khát và ẩm thấp. Vì khi con đ được thanh tẩy, con sẽ vào nơi vinh hiển của hạnh phúc đời đời.” (Lm. Hocedez, Tin Mừng về Đau Khổ, trang 62)
Đó chính là giá trị của đau khổ mà thánh Phaolô đ xc quyết: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng đau khổ bây giờ chúng ta chịu bao giờ so sánh được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta.” (Rm 8, 18); “Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thch Đức Kitô cịn phải chịu, tơi xin mang lấy vo thn cho đủ mức, vì lợi ích của thn thể Người là Hội Thánh.” (Cl 1, 24)
Thánh Phêrô, người trước kia sợ đau khổ đ chối Thầy, nhờ sức mạnh của Thầy đ tự nguyện xin đóng đinh ngược vì khơng xứng chết như Thầy, khích lệ những ai đau khổ: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hy vui mừng bấy nhiu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hĩ.” (1 Pr 4, 13)
Vậy chúng ta phải tôn vinh đau khổ và chạy đi tìm đau khổ ư ? Không, không phải thế và nhất là không bao giờ gây đau khổ cho nhau.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, đau đớn trong bệnh tật tâm sự: “Em vui vẻ vì trong mình đang phải đau đớn, em vẫn phải cố gắng yêu quí sự đau khổ và tiếp nhận đau khổ cách niềm nở, tươi tỉnh.. . nay em mỉm cười trước đau khổ và trong đau khổ, với em đ l một tp qun.” Vị thánh nữ tiến sĩ, qua đời ở tuổi 24 trong bệnh tật, người mà bác sĩ trị bệnh phải thú nhận: “Chà, các bà mà hiểu được sự đau đớn của người ! Tôi chưa thấy ai phải đau đớn thế mà lại vui vẻ được thế ! Lạ lùng ! Chính là một thiên thần! Tôi không thể chữa được người, linh hồn ấy đ bất phục thủy thổ trần gian !”, người nữ tu trẻ vui cười trong đau khổ như là một tập quán, thế nhưng đ khim tốn nhìn nhận: “Tuy nhiên chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi đau khổ cả thể, vì con hn sức yếu đuối lắm ! Con mà xin thế những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh chịu, nhưng sức riêng con có làm nên trị trống gì bao giờ.” (Môt Tâm Hôn, trang 255-256).
Bởi vậy, đối đầu với đau thương thử thách, chúng ta chỉ biết chạy đến Chúa “là Đá Tảng, chiến lũy, cứu tinh, thạch động, khiên thuẩn, uy quyền cứu độ, sức hộ phù.” (x. Tv 17, 2-7) của chng ta. V hy khích lệ nhau, cũng như tự khích lệ mình rằng: “Hy cậy trơng vo Cha, mạnh bạo ln can đảm lên nào ! Hy cậy trơng vo Cha” (Tv 27, 14). “Lạy Cha, Cha cho của cải, Cha vuốt ve, vì sợ con qua mệt nhọc trn đường về quê, Chúa lấy lại, Chúa đánh mắng, Chúa điều khiển để chúng con khỏi rời xa nẻo chính. Nhưng dầu Chúa có vuốt ve hay đánh mắng, Chúa vẫn là nơi ẩn náu của chúng con” (Thnh Augustin)
Khơng cần tìm đau khổ (vì sẽ tự nĩ đến) và không ngạc nhiên gặp khổ. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng đang hy sinh trong những thử thách về sức khỏe của tuổi già sau quảng đường dài phục vụ quên mình. Ngi đang hướng dẫn Giáo Hội bằng con đường thập giá của Thầy Giêsu Chí Thánh.
Đối mặt với đau khổ hiện tại, chúng ta thực hành lời dạy của Thánh Giacôbê Tông Đồ: “Ai trong anh em đau khổ ư ? Người ấy hy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng ? Người ấy hy ht thnh ca.” (Gc5, 13) hầu hướng đến tương lai đầy hy vọng của trời mới đất mới, nơi: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không cịn sự chết, tang tĩc, ku than v đau khổ nữa, vì những điêu cũ đ biến mất.” (Kh 21, 4)
Ngày 13.2.2005, thế giới Công giáo ngậm ngùi tiễn đưa nữ tu Lucia tại đan viện Coimbra- Bồ Đào Nha, về Nhà Cha ở tuổi 97. Chị là chứng nhân cuối cùng của sự kiện Fatima năm 1917. Với thế giới, đây là tin buồn. Nhưng trong đức tin, ai cũng có thể quả quyết, đây là niềm vui lớn. Bởi cô bé Lucia ngày nào chỉ nhìn thấy Đức Mẹ bằng đôi mắt phàm trần. Sự nhìn thấy ấy chỉ l nh nhìn thống qua. Sau đó cô bé vẫn tiếp tục đời thường của mình như bao nhiêu người. Ngày vĩnh biệt ci đời, cô bé Lucia của 88 năm về trước, sẽ diện kiến Thiên Chúa, sẽ sống bên Mẹ của mình trong hạnh phc min trường, một hạnh phúc không bao giờ bị ai lấy mất. Hiểu và tin như thế, chắc chắn nữ tu Lucia đ sống những chuỗi ngy lm người của mình trong sự khắc khoải trơng chờ ci giy pht cuối đời thiêng liêng ấy. Vì khi nhắm mắt vĩnh biệt ci đời, chị đ thực sự sinh ra trong sự sống mới, một sự sống khơng tn, khơng phai.
Hôm nay, với nghi thức rước Lá, tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem vinh quang, Hội Thánh chính thức khai mạc tuần Thánh. Suy niệm bài Thương Khó tường thuật biến cố tử nạn đầy ảm đạm của Chúa, tôi thấy tiếng nói của thánh giá là một địi hỏi nghiêm chỉnh đến mức khắt nghiệt, ê chề, đau đớn. Địi hỏi đó, ngày xưa đ từng được ngỏ với các môn đệ của Chúa Giêsu, khiến các ông hoang mang đến nỗi khó chấp nhận, thậm chí bỏ cuộc khi chứng kiến cuộc thương khó của Thầy.
Chẳng khác các môn đệ xưa, lời thnh gi vẫn vang trong lịng cc mơn đệ thời nay. Nó tiếp tục địi hỏi cả một tm hồn quả cảm đón nhận để theo Chúa suốt đời. Chẳng hạn, nữ tu Lucia và hai trẻ ngày xưa có cả một hạnh phúc lớn vì được nhìn thấy tận mắt Mẹ Thin Cha viếng thăm thế giới. Nhưng những biến cố lẫy lừng của năm 1917 rồi cũng qua mau. Giaxinta và Phanxicô vội v rời thế giới. Cịn Chị Lucia, Cha muốn Chị ở lại lm chứng cho sự kiện Fatima. Nhưng mọi sự phải đâu trơn tru, dễ dàng. Khi dấu lạ Fatima được loan báo, hầu như mọi người đều chống đối. Sự chống đối có lúc căng thẳng dữ dội. Giữa một bên đối diện với thực tế cứng lịng tin của nhn loại, bn kia l mạc khải từ trời cao phải được loan báo, chắc chắn Lucia đ phải đau khổ nhiều.
Cũng là môn đệ của Thầy Giêsu, địi hỏi của thnh giá đ v sẽ tiếp tục khơng khước từ chúng ta. Theo Chúa giữa lúc Chúa được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Chúa, ở lại với Chúa giữa lúc Chúa bị loại trừ, bị bách hại là một thách thức lớn. Càng dấn bước theo Chúa bao nhiêu, địi hỏi của thnh gi cng dữ dội bấy nhiu. Ta hy nhìn ln Đức Maria, nhìn mẫu gương của tông đồ Gioan, ngay cả của Chị Lucia mà hiến dâng tình yu, hiến dng lịng trung thnh của mình.
Nếu đ cĩ lần no ta va vấp trong cuộc đời, thì hy nhìn mẫu gương của mười tông đồ cịn lại, l những người đ từng khiếp đảm trốn chạy, nhưng cũng đ lấy lại niềm tin để tiếp tục sống trung thành. Những tấm gương ấy sẽ tạo thêm nghị lực để ta đủ sức đứng lên làm lại những gì đ mất. Mẫu gương trung thành của Đức Mẹ, của các thánh tông đồ, của nhiều chứng nhân khác trong Hội Thánh, giống như nữ tu Lucia, phải là bài học thường xuyên liên tục suốt đời Kitô hữu của bạn và của tôi. Nguyện xin Đức Mẹ, xin các thánh Tông đồ cầu bàu cho chúng ta, để chúng ta hoàn thành những địi hỏi của thập gi suốt cuộc đời mình cch trọn vẹn.
( Những người lính) dùng cây sậy đập đầu Ngài, khạc nhổ vào Ngài, và quì gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra và cho Ngài mặc lại áo của Ngài. Rồi chúng điệu Ngài ra để đóng đinh vào thập giá ( Mc 15,19-20 ).
Con người muôn thời vẫn thích cái gì là dễ dãi, muốn bước trên những con đường rộng thênh thang, trải nhựa dát vàng. Con người tự cho mình là văn minh vượt bực, những phương tiện truyền thông đại chúng xem ra tối tân và đi đến chỗ rất tinh vi. Người ta thích danh vọng, quyền hành, tiền của. Người ta thích nói đến buôn bán, kinh doanh. Càng nhiều tiền, càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Càng tiện nghi, càng thoải mái, càng dễ dàng càng làm con người hạnh phúc và sung sướng. Người dại mới nói tới hy sinh, quảng đại, vị tha xả kỷ, chịu đau khổ và muốn cho người khác hạnh phúc.
Con người hầu như cố tình hay giả bộ quên đi cuộc thống khổ của Chúa Giêsu. Cuộc thương khó này dầu rằng người ta tin có thật nhưng cũng đã đi vào dĩ vãng quá xa vời vợi không còn dính dáng gì đến hạnh phúc tương lai hay hiện tại của con người. Người ta cũng hiểu rằng dù Đức Giêsu đã chết trên thập hình khổ giá, thì những vấn đề của thời đại như đau khổ, và nhiều vấn đề thực tế khác vẫn luôn còn đó như những vết hằn sâu của thế giới con người. Con người không muốn tham gia hay nói cách khác đi vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu do Người khởi xướng và mời gọi. Con người khó chấp nhận, khó tin vào tình yêu của Thiên Chúa và của loài người. Con người muốn tìm hạnh phúc, muốn tìm dễ dãi, muốn tìm lợi nhuận, muốn tìm sự thoải mái mà không cần đến thập giá Chúa Kitô. Họ cho thập giá chỉ là sự dại dột hay yếu hèn. Con người muốn đi lối tắt nhưng đường lối phải rộng thênh thang, dát vàng, trải nhựa.Họ không muốn đi ngõ hẹp, không muốn chấp nhận khó khăn, không muốn hy sinh quảng đại. Họ muốn khép chặt trái tim lại và làm cho con tim mình khô cằn.
Tuy nhiên, càng suy nghĩ, càng tỉnh tâm, tỉnnh thức, con người sẽ cảm nhận: chính lúc con người thích thoải mái, thích dễ dãi, chính lúc cộng đồng hay nhóm người muốn quên đi sự quảng đại, lòng hy sinh, tình yêu thương, phục vụ quên mình, sự gắn bó với thập giá Chúa Kitô….thì con người lại cảm thấy sao sao đó, cảm thấy như lạc loài, lẻ loi, đơn chiếc, neo đơn và chìm sâu trong chốn bùn lầy tanh hôi của tội lỗi, của đê hèn và thất vọng. Con người bị chìm sâu trong chốn ăn chơi trác táng, ham mê danh vọng, tiền tài, sắc dục vv…Chính những trò đùa này đã đóng đinh Chúa vào thập giá.
Do đó, hằng năm cứ vào lễ lá và tuần thánh, Giáo Hội lại cho đọc lại trong phụng vụ cách rất trân trọng các bài sách thánh tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa. Cuộc thương khó của Chúa Giêsu dù thánh sử nào ghi chép lại hay kể lại cũng muốn nhấn mạnh cho nhân loại hay rằng:” Tội Adam và Evà, tội lỗi của nhân loại đã lay động lòng Chúa, đã đụng tới sự thẩm sâu trong tâm hồn của Chúa, khiến Thiên Chúa không thể nào không mủi lòng để sai con một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần gian, gánh lấy tội nhân trần, gánh tội của mỗi người, đổ hết máu mình ra để chứng minh cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Con người được cứu độ là do ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Thiên Chúa đi bước trước đến với con người. Người yêu thương con người đến nỗi chấp nhận quên mình, chịu treo trên thập giá dù mình hoàn toàn vô tội để cứu độ nhân loại, cứu độ mọi người. Do đó, mọi đau khổ của con người, mọi thiếu thốn, hụt hẵng của con người, đặc biệt của những con người bé nhỏ, mọn hèn đều có giá trị góp vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa và góp vào việc cứu độ anh em khác.
Quả thực, những kẻ nhỏ bé, những Anawim của Thiên Chúa như thánh Giuse, mẹ Maria, các thánh là những gương mặt nổi bật sống Tin mừng tám mối phúc thật, sống đường ngay nẻo chính, sống vác thập giá mà theo Chúa Kitô. Chính lối sống ấy đã bù vào những xúc phạm của loài người, bù đắp những ơ hờ, những hờ hững của con người đến cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu vẫn còn đó. Cái chết của Chúa vẫn là một dấu hỏi lớn cho muôn người muôn thời. Tội lỗi của con người đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Tội lỗi của con người, của loài người đã làm Chúa đau khổ. Mỗi lần phạm tội là mỗi lần con người xúc phạm đến con người thánh của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được nói lên lời nói này: tôi đã, đang và có thể làm gì cho Chúa Kitô ?
Thánh Phanxicô Salêsiô đã nói một câu chí lý::” Thật bất hạnh, nếu chết mà không được hưởng tình yêu của Chúa Kitô. Cũng thật bất hạnh, nếu tình yêu không được thể hiện bằng cái chết của Ngài “.
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Suy nghĩ các bài Thương khó trong tuần Thánh, sao tôi thấy có quá nhiều trái ngược. Những trái ngược ấy lớn cho đến mức trở thành những nghịch lý. V lớn hơn nữa: trở thành mâu thuẫn đến nỗi có những lúc như tàn nhẫn, như đớn đau.
1. Đó là nghịch lý xuất pht từ phía dn chng: Cuộc tiến vo Girusalem giữa một đám đông dân chúng hân hoan, nơ nức, tay vẫy cao cnh l, cịn cĩ kẻ tỏ lịng mộ mến đ trải o xuống đường, miệng thì khơng ngớt tung hơ: "Hoan hô con vua Đavit" để long trọng rước Chúa Giêsu vào thủ đô Giêrusalem.
Nhưng có ai ngờ rằng, giữa những tiếng tung hô dậy trời ấy, giữa mọi cử chỉ, mọi hành động vô cùng tốt đẹp ấy, giữa cảnh tượng huy hoàng tưởng như Chúa Kitô đang chiến thắng, đang khải hoàn, và ngay giữa lịng dn chng cĩ vẻ như chỉ có niềm vui chan chứa, lại đang chất chứa cả một sự phản bội ghê gớm, một sự phản bội như dồn, như thúc để sau đó sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng Trấn Philatô trong tiếng gào thét và những bàn tay nắm chặt đưa lên một cách quyết tâm: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá". D cho Philatơ cĩ thật lịng v ngn lần muốn tha bỗng đi nữa, thì sự quyết tm đóng đinh Giêsu một cách mnh liệt như thế, sẽ không có chỗ cho ông thực hiện ý muốn của mình, đừng nói gì đến chuyện một Philatô lịng vẫn cịn đó đầy dẫy ham hố quyền - danh - lợi.
Cứ như thế, hết thời đại này đến thời đại khc, bất cơng nối tiếp bất cơng chỉ vì quyền - danh - lợi ấy.
2. Đó cũng là những nghịch lý khởi đi từ phía các môn đệ: Bao nhiêu tháng ngày được hướng dẫn, dạy dỗ, nhìn xem Thầy lm biết bao nhiu php lạ, chứng kiến Thầy hiển dung uy nghi trn ni cao..., vậy mà những lời dạy thân thương, những việc làm tốt đẹp ấy đ tan biến đâu hết rồi. Đến giờ này, chính trong hàng ngũ những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu lại xuất hiện những tâm hồn rắp tâm phản bội người Thầy khả ái và khả kính của mình. Khơng biết 30 đồng thời ấy so với 30 đồng thời nay, khoảng cách chênh lệch đến mức nào, nhưng dẫu cho giá trị có lớn đến đâu, thì khi bn đứng Thầy mình cho chính những người đang hận Thầy đến phát điên lên, Giuđatrở thành biểu tượng của kẻ phản bội. Hình ảnh thọ ơn và trả ơn bằng bội ơn không nghịch lý lắm sao. Nghịch lý ấy đ lm cho đời sống, không phải chỉ trong thời Chúa Giêsu, nhưng là mọi thời, trở nên nhiều lẽ xấu hơn, lịng người tệ bạc hơn.
Sự yếu đuối của thánh Phêrô cũng là một nghịch lý. Được Thầy yêu thương lắm, nên đ biến Phrơ thnh người học trị hng đầu, làm tông đồ trưởng, sau này sẽ là giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội. Vậy mà trước quyền lực của thế gian, đ lm thnh Phrơ sợ hi đến độ chối Thầy Ba lần. Nhưng không phải ba lần trong ba tháng hay ba ngày, nhưng ba lần liên tục trong vài giờ đồng hồ, chỉ cách nhau có hai canh gà mà thôi. Nghịch lý về sự chối Thầy của Phrơ đối diện với lịng thương vô cùng của Chúa Giêsu, sao cứ mi l nghịch lý khi lồi người đ khơng biết ơn Thiên Chúa, không chỉ vơ tm với lịng thương xót của Thiên Chúa, mà cịn đi xa hơn trong lầm lạc: phủ nhận và chối từ chính Thiên Chúa!
3. Đó cịn l nghịch lý trong phin tịa Philatơ. Cha Kitơ, Thin Cha lm người, bản thân Ngài đ l một nghịch lý: Từ một vì Thin Cha cao sang, quyền năng vô biên, lại hóa thân làm người sống như chính con người là người, đ l một sự khim hạ khĩ hiểu. Vậy m Thin Cha quyền năng vô biên ấy giờ lại để cho loài người "xử án". Một nghịch lý nhiệm mầu quá đỗi!
Phin tịa Philatơ đại diện cho cả loài người tàn nhẫn, bạo ngược đồng loạt tuyên án tử chính Thiên Chúa của mình. Bởi thế, Phin tịa Philatơ l một phin tịa hết sức bất cơng, hết sức ngược ngạo, chỉ có một không hai từ thủơ tạo thiên lập địa cho đến ngàn đời sau: Con người "xử tội" Thin Cha, một vì Thin Cha đ tạo dựng chính con người, và nắm quyền xét xử con người.
Dù ngày hôm nay, không cịn những phin tịa mặc nhin xt xử Thin Cha như Philatô đ từng xt xử Cha Gisu, nhưng vẫn cịn đó những lời phạm thượng, những hàng động, những lối suy nghĩ mà trong đó hàm chứa sự oán trách và kết án Thiên Chúa.
Vẫn cịn đó những phiên tịa xt xử, kết n những người vô tội, người nghèo khổ, cô thân cô thế không một quyền bính nào bảo vệ, dù quyền bính đó có thể là pháp luật. Và đôi lúc chính chúng ta cũng đ ln n nhau. D khơng nĩi ra, nhưng lương tâm ta đ từng ln n những cơ gi điếm, những em bé nghèo cơ nhỡ phải trộm cắp, những thanh niên nghiện nghập, những nạn nhân của nhiều vụ tự tử hay của con bệnh AIDS.
4. Hình ảnh Đức Maria cùng với thánh Gioan hiện diện giữa pháp trường cũng lại là một nghịc lý lớn khơng km. Cĩ ai ngờ rằng, những thanh nin trai trng như các thánh tông đồ, tưởng chừng đầy sức mạnh, đầy can trường, khó có một trở ngại nào làm chùng bước, làm thoái lui. Vậy mà khi Thầy lâm nạn, đ trở thnh những kẻ bạc nhược, khiếp đảm và run sợ. Các ngài không hiểu nỗi tại sao bình thường Chúa Giêsu quyền năng là thế, có sức thu hút là thế, đ cĩ lần những ho quang ấy lm cho cc ngi tưởng mình đ mạnh mẽ lắm, nn đ phát ngôn có khi nghe chướng tai: "Thầy cĩ muốn chng con khiến lửa từ trời xuống thiu hủy chng nĩ khơng?" (Lc 9, 54). Sao by giờ phải chứng kiến Cha Gisu ng gục dưới làn roi, dưới thập giá, dưới những lời phỉ báng ô nhục...Ao ảnh về một cứu chúa trần thế huy hoàng sụp đổ, đ ko tinh thần của cc thnh tơng đồ đổ quị theo.
Chỉ có Đức Maria, một phụ nữ chân yếu tay mềm như mọi phụ nữ, vì tình yu đối với Con của mình đ trở nn mạnh mẽ, bất chấp mọi nguy hiểm, mọi sĩ nhục, mọi đớn đau..., đối mặt với thập giá kinh hoàng. Người phụ nữ ấy đ kin trung, đ can đảm đến cùng, để chứng kiến cho bằng được người con ruột thịt yêu quí của mình quằng quại trn thập gi. Chứng kiến cảnh đau ci xĩt lịng khi người con duy nhất của mình trao linh hồn cho Cha Cha và thở hơi lần cuối trong sức tàn. Chính vì tình yu mlc những mũi đinh đau đớn treo Con của Mẹ, lúc Chúa Giêsu đang lịm dần, lúc máu chảy tràn từ cạnh nương long, cũng là lúc Mẹ chết từng giây và tan nát tâm hồn.
Cũng thế, thánh Gioan chỉ là một người em út trong đoàn tông đồ, đ can đảm không kém để cùng với Mẹ Chúa Giêsu chứng kiến đến giây phút sau cùng của một đời làm người của Chúa Giêsu. Thánh Gioan thật xứng đáng với chức vị của "Người môn đệ được Chúa yêu". Bởi vậy, Nhìn vo quang cảnh ấy, một lần nữa ta lại phát hiện ra rằng, chia sẻ thập giá Chúa, sao chỉ có những người yếu đuối về sức lực, nhỏ bé về thể xác lại lớn lao quá đổi về sức chịu đựng, quá đổi về sự dũng mnh v can trường. Tất cả có được chỉ nhờ tình yu. Hy yu để vác thập giá giữa đời mà bước đi với Chúa Kitô. Hy yu để xác quyết đức tin nơi thập giá cứu độ tuyệt vời ấy. Hy yu v hy tin để sức mạnh của tình yu v sức mạnh của niềm tin nng đỡ sức người. Nhờ đó, cho dù bé nhỏ, mỏng dịn đến đâu, sức người vẫn có thể chấp nhận sức nặng của thập giá, không phải một lần mà một đời.
5. Kết luận: Nếu chỉ nhìn bằng ci nhìn hiện thực v lịch sử, bất cứ ai gĩp phần đưa đến cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, cụ thể là những người Do-thái và La-m của thời Cha Gisu, l hnh động tội ác.
Nhưng nếu nhìn bằng nh mắt đức tin, cái chết bi thương trên thập giá của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm là bởi bạn và tôi đều cảm nhận rằng, ngay cả ngày hôm nay, bạn và tôi cùng có mặt trong vụ án Chúa Giêsu để cùng tham dự vào việc đóng đinh Ngài. Dẫu ta vẫn cùng nhau tuyên xưng rằng, Chúa chịu đóng đinh vì ta, thì ngay trong lời tuyn xưng ấy đủ để tố cáo chúng ta: bởi tội lỗi, cho nên đ cch xa hai ngn năm, ta vẫn là một kẻ chối bỏ, một tiếng reo hị, một lời co gian, một sự sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Nghịch lý về thập gi Cha Kitơ, một nghịch lý m muơn đời sau phải ghi nhớ: nghịch lý về một Thin Cha vì yu đ lm người, cúi xuống nâng phận người bé nhỏ lên. Nghịch lý về một Thin Cha tình yêu đ lm người chết thay cho muôn người. Nghịch lý về một Thin Cha đ sử dụng chính hnh vi tội c của con người để làm nên hoa trái của ơn cứu chuộc, quay lại cứu chuộc chính con người.
Từ những suy nghĩ về thập giá và nghịch lý của thập gi như thế, tôi muốn mời bạn cùng tôi cầu nguyện bằng một lời cầu nguyện ai đó đ viết khi ngắm nhìn những nghịch lý của thập gi Cha Kitơ:
Lạy Chúa, Sao cứ để con giàu có dư dật Nhưng lại mời gọi con phải sống khó nghèo? Sao cứ cho con thành công, danh giá Nhưng lại bảo con phải sống khiêm nhường? Sao ban cho con một trí khôn minh mẫn Nhưng lại để con "ngu dốt" trong tình Ngi yu con? Sao đặt trong con một quả tim muốn độc chiếm Nhưng lại muốn con phải mở ra với mọi người? Sao dựng nên con một thân xác muốm hưởng thụ Nhưng lại khuyên con phải phục vụ, hy sinh? Sao để trong con mạnh mẽ một cá tính Nhưng lại bảo con phải bỏ ý ring mình?... V tại sao ban cho con tất cả Rồi lại dạy con phải bỏ hết để theo Ngài?
***
Chúa ơi, bây giờ con mới biết Chỉ khi nào sống được nghịch lý này Con mới hiểu ra một nghịch lý khác: Nghịch lý về một kẻ phạm tội Nhưng một người khác lại đền tội vì yêu!.
Hnh trình 40 ngy Ma Chay đ kết thc với ngy thứ 7 của Cha Nhật V Ma Chay hơm qua. Hơm nay l Cha Nhật Lễ L: Khai mạc Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của năm phụng vụ, Hội Thánh hiền mẫu chúng ta tưởng niệm và kính nhớ biến cố Chúa Kitô, bạn trăm năm chí thánh, long trọng tiến vào thành Giêrusalem hoàn tất mầu nhiệm cứu thế, tức là tưởng niệm cuộc thương khó hồng phúc của Người bằng những nghi lễ rất long trọng của Lễ Vượt Qua.
Thánh lễ hôm nay trong phẩm phục màu đỏ, với cuộc rước kiệu lá và các bài thánh ca chúc tụng, tung hô Con vua Đavít, Đấng nhân danh Chúa ngự đến... ở phần đầu thánh lễ, diễn tả một khung cảnh huy hoàng lộng lẫy của một vị vua chiến thắng cỡi lừa tiến vào thành đô Salem. Tuy nhiên, khi thánh lễ khởi đầu, bầu khí hân hoan đó đ biến đổi và phảng phất một bầu khí ảm đạm thê lương cuộc tử nạn của Chúa Kitô và bóng thánh giá đ chập chờn xuất hiện ở cuối chân trời! Bài đọc I diễn tả hình ảnh của Người Tôi Tớ Giavê hiền từ khiêm hạ như con chiên hiền lành bị đem đi sát tế. Bài đọc II trích từ thư thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê ca ngợi gương khiêm nhường tự hạ của Chúa Kitô, đến nỗi từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để chịu chết một cách nhục nh trn cy Thnh Gi, chính vì thế, Đức Chúa Cha đ tơn vinh Ngi. V cuối cng l bi thương khó theo thánh Marcô tường thuật cho ta thấy r cuộc khổ nạn của Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Chúng ta xót xa, bĩu môi, nguyền rủa dân Do Thái thuở xưa vì thi độ bất trung, thất tín, lịng dạ thay trắng đổi đen như trở bàn tay: mới hôm nay reo hị tung hơ Con vua Đavít, thứ 6 tuần thánh lại đả đảo hô to: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" Ôi, tệ bạc quá! Chúng ta cũng chê trách sự hèn nhát của các thánh tông đồ, đều âm thầm cút hết chỉ cịn 3 vị Phrơ, Gioan v Giacơb trong vườn Cây Dầu với Chúa, nhưng cuối cùng Phêrô cũng nhát đảm chối Chúa 3 lần!
Thế nhưng: "Thấy người lại nhớ đến ta,
Nghĩ mình, mình lại thương mình xĩt xa!"
Vì tuy chng ta khơng ra mặt cơng khai phản bội, tố co địi đóng đinh Chúa như dân Do Thái, hoặc không chối Chúa như thánh Phêrô, nhưng trong cuộc đời, biết bao lần ta đ phạm tội trong, bỏ b Cha v vic đạo để chạy theo những ham mê xác thịt chóng qua, những của cải hoặc danh vọng phù vân giả trá, đó đều là những lần chúng ta phản bội Chúa, quay lưng lại với Người, đóng đinh Chúa vào thánh giá!
Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ, mỗi giờ khắc trôi qua đều thiêng thánh mà chóp đỉnh là Tam Nhật thánh Vượt qua khởi đầu từ thánh lễ Tiệc Ly chiều thứ Năm tuần thánh đến tối thứ Bảy Vọng Phục Sinh, đó là 3 ngày cực thánh.
Sốt sắng tham dự các nghi lễ Tuần thánh, chúng ta hy để lịng mình đắm chìm trong sự suy gẫm mầu nhiệm thương khó của Chúa Kitô. Chúng ta quyết tâm cùng chết với Người cho tội lỗi, cho con người cũ để cùng được phục sinh vinh hiển với Người trong con người mới, cuộc sống mới vào đêm thánh vọng Phục Sinh.
Tại một ngôi nhà thờ nọ ở Tây Ban Nha có một cây thập giá được rất nhiều người tôn sùng. Đó là tượng chịu nạn tha tội: Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải của Ngài thì thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
- Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải. Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc: - Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng đấy. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:
- Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
- Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:
- Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con. Lời ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong tuần thánh này. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và thất bại, là hình phạt được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng, Thiên Chúa đã biến đổi nó thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ và của sự tha thứ. Khi tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng cách chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của đau khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con đường của đau khổ, của thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy không đưa chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống như lời Ngài đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh .