Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: "Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ". Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!" Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa". - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (11,1-10)
“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa.”
Khi Ðức Giê-su và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem, lúc sắp vào làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi cây Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là: “Thầy có việc cần dùng, rồi sẽ trả về ngay”. Hai môn đệ ấy ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. Mấy người đứng đó hỏi: “các ông cởi lừa người ta ra làm gì vậy?” Hai ông trả lời như Ðức Giêsu đã dặn. Và họ để cho đi. Hai ông dắt con lừa về cho Ðức Giêsu, trải áo choàng của mình lên lưng nó, và Ðức Giêsu cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống mặt đường, môt số khác lại chặt cành chặt lá ngoài đồng rải lên lối đi. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô Chúa trên các tầng trời!” - Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm: Lc 19, 28-40 “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”. - Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng theo th1nh Matthêu: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài) C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu. Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy". C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy. Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần". C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại: S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi". Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá. - Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa". C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô (14,1-15,47) Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân". C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người: S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?" C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó". C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người đáp: J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn". C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta". C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa". C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô thưa Người: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không". C. Chúa Giêsu bảo ông: J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần". C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng: S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả đều nói như vậy. Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện". C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức". C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng: J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô: J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi". C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng: S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh". C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần. Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng: S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra". C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng: S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông". C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi: S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây". C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói: S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng: S. "Hãy đoán xem!" C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người. Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói: S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét". C. Nhưng ông chối phắt mà rằng: S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì". C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng: S. "Ông này thuộc bọn đó". C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa". C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng: S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó". C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!" C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người. Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng. Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39 C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người: S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng: S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!" C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi: S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?" C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng: S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?" C. Nhưng chúng lại kêu lên: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Philatô đáp lại: S. "Người này đã làm gì nên tội?" C. Song chúng càng la to hơn: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng: S. "Tâu Vua dân Do-thái". C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào. Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói: S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau: S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!" C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng: S. "Kìa, nó gọi Elia!" C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng: S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?" C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở. (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
Kiệu Lá: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-40: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". - Ðó là lời Chúa.
Bài Thương Khó: Lc 22, 14 - 23. 56 (bài dài):
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu) C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca. Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: J. "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: J. "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: J. "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: J. "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: J. "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!" C. Rồi Chúa nói: J. "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". C. Ông thưa Người: S. "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". C. Nhưng Người đáp: J. "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". C. Và Người bảo các ông: J. "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" C. Các ông thưa: S. "Không thiếu gì cả". C. Vậy Người nói: J. "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: "Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác". Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". C. Các ông thưa Người: S. "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". C. Và Người bảo: J. "Ðủ rồi". C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông: J. "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: J. "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: J. "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ". C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: J. "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: J. "Thôi, đủ rồi". C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm". C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. "Cả ông này cũng theo hắn". C. Nhưng ông chối và nói: S. "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. "Chính ông cũng là người trong bọn đó". C. Nhưng Phêrô đáp: S. "Này anh, đâu có phải tôi". C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. "Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". C. Phêrô đáp: S. "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". C. Người trả lời: J. "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". C. Mọi người đều hỏi lại: S. "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" C. Người đáp: J. "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa". C. Bấy giờ họ nói: S. "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói". C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. "Ta không thấy người này có tội gì". C. Nhưng họ cố nài rằng: S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây". C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi". C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?" C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát) Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. "Ông này quả thật là người công chính". C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
Đã đến sát cuộc Thương Khó, Đức Giêsu bố trí cuộc tiến vào Giêrusalem trong tư cách là một Đức Vua, nhưng Đức Vua khiêm tốn và hòa bình, là Đấng Mêsia, nhưng là một Đấng Mêsia của Thiên Chúa.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
TM Máccô giới thiệu cho chúng ta thấy Đức Giêsu luôn đi đường. Người không có một nơi cố định cho hoạt động của Người, nhưng đi xuyên qua toàn xứ sở. Người đến sông Giođan gặp Gioan Tẩy Giả (1,9), rồi đi vào hoang địa (1,12), trở lại Galilê và đi dọc theo bờ hồ Ghennêxarét (1,16). Hành trình của Người đưa Người sang miền đất Dân ngoại (5,1), đến Tia và Xiđon, trong Miền Thập Tỉnh (7,24.31), cho đến tận nguồn sông Giođan, đến Xêdarê Philípphê (8,27). Cuộc đời của Đức Giêsu là một chuyến lữ hành không ngơi nghỉ. Ngoại trừ những lần đi thuyền, Người luôn đi bộ. Người cũng vẫn đi như thế trong chuyến đi từ Galilê về Giuđê (9,30; 10,32), ngang qua Giêrikhô (10,46) để đến tận các cửa thành Giêrusalem, đến làng Bếtphaghê và Bêtania. Người dừng chân bên triền núi Ôliu, và đứng nhìn Đền Thờ và thành thánh (11,1).
Tại đây, bất ngờ Người thay đổi thói quen trước đây: Người không muốn đi bộ nốt đoạn đường còn lại; Người bảo các môn đệ đưa về một con lừa con. Người không muốn đi bộ vào Giêrusalem, Người muốn vào thành thánh trên lưng lừa.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
4) Địa điểm (11,1a); 5) Chuẩn bị con vật để cỡi (11,1b-7)
c- giao nhiệm vụ (cc. 1b-3), d- thực hiện nhiệm vụ (cc. 4-7);
6) Vào thành thánh (11,8-10): c- các cử chỉ chào đón (c. 8), d- lời reo hò chào đón (cc. 9-10).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Giêrusalem … Bếtphaghê … Bêtania (1): Vào thời Thượng Cổ, thành này được gọi bằng hai kiểu, Hierosolyma và Hierousalêm. Mc luôn luôn dùng tên thứ nhất. Trong khi tên thứ hai có tính trang trọng và linh thánh, tên thứ nhất (dạng hy-hóa) được những người không phải là Do-thái coi như một tên phàm tục để gọi thành này. Tên thứ nhất được chọn không phải là tình cờ, bởi vì chỉ ở 3,8, tên này mới được nêu ra với giọng trung lập, còn thì luôn được coi là căn cứ của các đối thủ của Đức Giêsu (3,22; 7,1), là nơi mà họ sẽ giết Người (10,32; 15,41).
Về Bếtphaghê (nguyên nghĩa là “nhà của trái vả”), chúng ta không biết được gì chắc chắn. Đây là một làng hay là một cơ sở? Dường như đây là một vùng đất ở bên ngoài Giêrusalem, bắt đầu với ranh giới Đền Thờ, nghĩa là đàng trước các tường phía đông của thành.
Còn Bêtania (nguyên nghĩa không rõ: “nhà của người nghèo”? hay là “nhà của ông Khanania”?) cách thành thánh khoảng hơn 2,5 cs, ở về phía đông núi Ôliu.
- con lừa con (2): Chi tiết này gợi tới Dcr 9,9-10, theo đó đức vua thiên sai hòa bình sẽ ngồi trên lưng một con lừa con vẫn còn theo mẹ mà đến, ngài sẽ quét sạch các chiến xa, chiến mã và cung nỏ, và sẽ mang lại hòa bình cho muôn dân. Con lừa con “bị cột” là một gợi nhớ đến St 49,11, lời chúc phúc của Giacóp trên Giuđa, từ ông này sẽ phát xuất người làm chủ gậy chỉ huy.
- cứ nói là Chúa cần đến nó (3): Từ ngữ “Chúa” (kyrios) này không có nghĩa là “ông chủ (của con lừa)”, nhưng là chính Đức Giêsu dùng để tự xác định về mình. Người dùng kiểu gọi này để cho thấy quyền Người có trên các sự vật. Nhưng từ này cũng làm nổi lên nghịch lý: vị Chúa này thật nghèo.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Địa điểm (1a)
Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu chuyến đi. Trong ba địa danh mở đầu cho bài tường thuật cuộc vào thành, Giêrusalem được nêu ra đầu tiên, kế đó là Bếtphaghê và Bêtania.
* Chuẩn bị con vật để cỡi (1b-7)
Tại một điểm ở ngoài ba địa danh vừa nêu, Đức Giêsu cử hai môn đệ đi tìm một con lừa con. Ta chỉ hiểu được nhiệm vụ huyền bí được giao cho các môn đệ khi dựa trên Dcr 9,9-10 và St 49,11. Quả thật, các bản văn Cựu Ước không được trích ra (như ở Mt 21,5), nhưng các bản văn ấy rõ ràng nằm ở tại nền của bài tường thuật. Với nhiệm đã vụ ký thác cho các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hoàn tất những gì đã được nói về Đấng Mêsia trong Kinh Thánh, và bằng cách đó, Người loan báo rằng ngay khi vào thành thánh, Người cương quyết bước theo thánh ý Thiên Chúa hoàn toàn. Tác giả không thấy cần phải xác định nơi con lừa bị cột, nhưng cần phải cho thấy rằng những người được cử đi đã thi hành chính xác nhiệm vụ được giao.
Hai môn đệ đã tìm thấy con vật đúng như được báo trước. Họ đã dẫn nó về cho Đức Giêsu, lấy áo choàng trải lên lưng con vật để làm cái yên và trang sức cho nó, rồi Đức Giêsu cỡi lên. Quang cảnh này nhắc nhớ lại một cuộc đăng quang của nhà vua tại Israel (x. 1 V 1,38-40; 2 V 9,13).
Chúng ta ghi nhận là tác giả đã dành 7 câu trong 10 câu của đoạn này mà nói về cách thức đi tìm con lừa. Lý do: việc cỡi lừa đi vào thành có một giá trị chứng minh. Người muốn cho hiểu rằng Người đến Giêrusalem, trung tâm của dân tộc Israel, với danh nghĩa nào.
* Vào thành thánh (8-10)
Đoàn người đã cùng đi với Người từ Galilê đến, bây giờ reo hò vang dậy để chào đón Người. Người ta trải áo trên đường và rải các cành cây mà rải lên đường để Người bước qua. Người ta reo hò Hôsanna (hoan hô!) và chào đón Người bằng các lời của Tv 117,26a (LXX). Đức Giêsu không vào thành như một khách hành hương, cũng chẳng phải như một vị tôn sư hay một vị thầy chuyên làm phép lạ, mà là như Đức Vua đã được hứa cho thời cuối cùng. Tuy nhiên, Người không đến như một nhà chinh phục, hay như một vị vua hiếu chiến với binh lính và vũ khí, mà đến không vũ khí, trong tình trạng khiêm tốn và hoà bình. Khi vào thành thánh, Đức Giêsu thực hiện được các lời hứa thiên sai, nhưng không để thỏa mãn những niềm hy vọng chính trị. Tác giả không nói đến danh hiệu “vua” là vì ngài muốn để dành cho truyện Thương Khó, khi đó phẩm cách vương giả của Đức Giêsu sẽ được tỏ lộ. Cuộc tiến vào thành lại không có phản ứng từ phía dân chúng và kết thúc mà không hề bị ghi nhận (khác với Mt 21,10t). Đây là cách Mc chuẩn bị cho cuộc tranh luận thật sự trong vụ xử án liên hệ đến phẩm cách vương giả của Người.
+ Kết luận
“Con đường” vừa là lộ trình vừa là lối sống của Đức Giêsu hôm nay đã đưa Người đến Giêrusalem, thành định mệnh, nơi Người sẽ thực hiện trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người đi theo ý muốn của Thiên Chúa từng bước một. Hôm nay, đã đến sát cuộc Thương Khó, Người bố trí cuộc tiến vào Giêrusalem trong tư cách là một Đức Vua, nhưng Đức Vua khiêm tốn và hòa bình, là Đấng Mêsia, nhưng là một Đấng Mêsia của Thiên Chúa, chứ không phải một vị cứu tinh bằng sức mạnh quân sự như dân chúng vẫn mong đợi.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đức Giêsu không có gì phải dính dáng đến sự huy hoàng và quyền lực bên ngoài, với sức mạnh và bạo lực. Người không mang gì ngoài chính bản thân, uy tín và lời nói của Người. Người không muốn tạo ra bất cứ ảnh hưởng nào với những phương tiện quyền lực, nhưng chỉ với bản thân Người mà thôi. Người không muốn ép buộc và đè bẹp bất cứ ai, nhưng muốn chính phục mọi người về theo Người, theo tương quan của Người với Thiên Chúa, theo hành trình của Người, như Người đã cho thấy qua cách xử sự trước đó và như Người sẽ cho thấy sau này tại Giêrusalem.
2. Đức Giêsu chưa bao giờ loan báo Người sắp tái lập triều đại vua Đavít, nhưng đã công bố rằng Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Người không hề nhắm tới vẻ hào nhoáng và quyền lực, nhưng chỉ nhắm tới Thiên Chúa và lòng từ bi thương xót của Ngài; Người đã kêu gọi hoán cải về với Thiên Chúa và tin vào Người (Mc 1,15). Tại Giêrusalem, Người sẽ bảo vệ Đền Thờ như là nhà cầu nguyện (11,17), Người mời người ta trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa (12,17), mời gọi người ta tin vào quyền lực của Thiên Chúa có thể chiến thắng cái chết (12,27), mời gọi yêu mến Ngài hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực (12,30). Cách hành động của Đức Giêsu không hướng về một triều đại trần thế và một quyền lực của thế gian này. Người loan báo tình thương và lòng từ bi của Thiên Chúa và muốn dẫn đưa người ta đến chỗ tin vô điều kiện vào Thiên Chúa. Người nào chờ đợi nơi Người một điều gì khác, thì phải giải thích Người theo kiểu khác và cuối cùng sẽ thất vọng mà lìa bỏ Người.
3. Đức Giêsu vào Giêrusalem như vị Vua đã được Thiên Chúa hứa. Nhưng Triều Đại của Người chẳng có gì giống với các vương quyền trần thế. Con lừa con mà Người cỡi, Người đã mượn, và các môn đệ đã hứa là sẽ trả lại ngay khi vừa xong việc (11,3). Trên con lừa này, Người cũng chẳng có lấy một cái yên, và các môn đệ Người phải tạo ra một cái yên bằng cách lót áo choàng của họ lên cho Người ngồi (11,7). Tuy cỡi lừa, Người đến cách đơn giản và không phương tiện, cũng y như Người đã yêu cầu Nhóm Mười Hai khi cử họ đi truyền giáo (6,8t). Chỉ người nào biết nhận ra Người và trân trọng Người thì mới có thể tiếp đón Người ngự đến và hiện diện trong niềm hân hoan vui sướng.
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa nhật Lễ Lá, cuộc rước Chúa Giêsu đi vào thành Thánh Giêrusalem với lời tung hô của trẻ em và người lớn Do Thái cho thấy một cuộc vinh quang thường tình dưới con mắt trần gian. Cuộc vinh quang này, quả dạy mọi người bày học bất hủ ở đời này: vinh quang chỉ tạm bợ, chỉ chóng qua và điều còn lại là sự ê chề của kiếp sống. Chúa nhật Lễ Lá dạy chúng ta:” Đức Kitô đã sống giây phút vinh quang trần gian mau qua, nhưng cái cốt lõi của Ngài không giống bất cứ một Vị Vua Chúa trần gian nào, Ngài đi vào Giêrusalem trong tiếng tung hô: Hoan hô Con Vua Đavít nhưng để chấp nhận sự tự nguyện chết cứu độ trần gian theo ý Thiên Chúa Cha. Đây là vinh quang của Ngài, vinh quang chỉ có được nơi Thập Giá bởi “ Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người chết vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Tôi vẫn còn nhớ như in trong đầu, ngày tôi đến phục vụ các anh chị em Dân tộc Kơho. Việc đến phục vụ họ chẳng có gì là ghê gớm và đó cũng chỉ là chuyện thường tình của một người được bề trên sai đi phuc vụ. Nhưng điều đáng nói là tôi và một Cha bạn được sai đi phục vụ khi mới lãnh nhận sứ vụ Linh mục được gần một tháng. Sứ vụ linh mục, chúng tôi lãnh nhận cũng là một sự tự nguyện và nói cách linh thiêng hơn là được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng đến một vùng xa xôi trong hoàn cảnh tất cả đều mới, giữa một hoàn cảnh mới là một điều rất đáng ghi nhớ của tôi. Đến giữa người Dân tộc, sống giữa họ và phục vụ họ là một ơn huệ và một điều hết sức linh thánh giữa lúc tuổi đời của chúng tôi còn quá trẻ 28, 29 tuổi để lãnh đạo một giáo xứ, một vùng truyền giáo.
Có thể nói một cách dân dã, chúng tôi đi tới vùng truyền giáo trong vinh quang của tuổi trẻ như Chúa Giêsu đi vào Giêrusalem trong tiếng tung hô của trẻ em Do Thái tay cầm lá cọ, lá vạn tuế và cưỡi trên mình lừa. Chúa đi vào Giêrusalem vinh quang tạm bợ để lãnh nhận cái chết cứu độ nhân loại. Anh em chúng tôi đến với người Dân tộc không phải trong vinh quang của tuổi trẻ để rồi được chết như Chúa, nhưng là để sống, phục vụ anh chị em mình, giúp anh chị em mình và mình sống đỡ bất xứng hơn để không đang tâm đóng đinh Chúa vào Thập Giá. Thật vậy, bài Tin Mừng Lễ Lá hôm nay trình bầy rất nhiều nhân vật và cho thấy cả đoàn lũ đám đông dân chúng. Thực tình mà nói, tất cả dù trẻ nhỏ, dù người lớn, dù là các vị lãnh đạo tôn giáo và thế quyền lúc đó, ai cũng một cách nào đó không ít thì nhiều đã tiếp tay đóng đinh Chúa vào Thập Giá. Những nhân vật chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng ngày hôm nay như Giuđa, như Phêrô, như các tông đồ, hay như Philatô, các vị lãnh đạo Do Thái, Roma, các quân lính hay dân chúng lúc đó quả một cách nào đó diễn tả hình ảnh của mỗi người chúng ta.
Chúng ta có thể là một Giuđa đã đang tâm bán Chúa do thái độ vô tâm của chúng ta khi chúng ta theo Chúa nhưng lại không biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mà lại sống hoàn toàn thờ ơ, lãnh đạm hơn một kẻ vô tín.
Chúng ta có thể là một Phêrô dù cương quyết theo Chúa, làm con cái Chúa qua Bí tích rửa tội và đã sống lâu trong Hội Thánh nhưng đức tin thì không sâu xa nên khi gặp khó khăn thử thách dễ chùn bước, tỏ ra như người không biết Chúa.
Chúng ta cũng có thể như Philatô biết Chúa là Đấng vô tội nhưng lại không dám bảo vệ Chúa, không dám tuyên xưng mình là người có đạo, khi gặp sóng gió dễ phủi tay để không phải chịu liên lụy vì mình là nguồi theo Chúa.
Chúng ta cũng có thể là những người lính chỉ biết làm theo người trên mà không dám bênh vực sự thật dẫu biết đó là sự thật vì con người quá hèn nhát, yếu đuối.
Chúng ta cũng có thể là người của đám đông, a dua, bị kích động, dẫu biết hùa theo là không đúng nhưng vẫn cứ nhẹ dạ hùa theo.
Đọc bài Tin Mừng tường thuật về sự thương khó của Chúa Giêsu với một bản án bất công và vô lý. Chúng ta cảm thấy thật xót xa, ê chề, chua cay và mệt mỏi. Chúng ta có lúc đã đấm ngực khóc lóc van xin vì một cách nào đó chính chúng ta cũng đã góp phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Chúng ta xin cho mọi Kitô hữu luôn có một tình thương quả cảm, trung tín của thánh Gioan, luôn đi theo Chúa và ngay khi Chúa bị treo trên Thập Giá, Ngài đã không sợ sệt, không hoang mang, Ngài đã đứng dưới chân Thập Giá để biểu lộ lòng trung tín với Thầy và nói lên tình thương không gì cản ngăn đối với Thầy.
Chúng ta cũng xin cho mọi Kitô hữu luôn có tấm lòng bao la dạt dào như Mẹ Maria, đứng dưới chân Thập Giá, cùng Con Mẹ là Đức Kitô đồng công chịu đau khổ để góp phần cứu chuộc nhân loại với Ngài.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa Giêsu đã chết vì yêu:” Khi Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “ “ Ơn cứu độ chứa chan nơi Người “.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con vì chúng con đã nhiều lần xúc phạm và làm tổn thương Chúa. Amen.
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất hẻo lánh mất hút đi giữa rừng cây và rừng cỏ. Kinh khủng nhất là thời tiết với bầu khí nồng nực ẩm ướt vì mùa mưa thường kéo dài tới 9-10 tháng mỗi năm. Vùng đất ấy gọi là Phong Dinh (Fontem) có dân số chừng 20,000 người thuộc một bộ lạc đang bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh dun chỉ.
Tộc trưởng bộ lạc Phong Dinh đã uổng công đi cầu cứu nhiều nước và nhiều Giáo hội. Cuối cùng ông đến đặt một số tiền vào tay một vị Giám mục Công giáo là Ðức Cha Pesters của giáo phận Buea ở Camơrun. Ông nói: "Bộ lạc chúng tôi biết chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhậm lời. Vậy chúng tôi xin dâng Ðức Cha số tiền nhỏ này xin Ðức Cha vui lòng yêu cầu các tín hữu của Ðức Cha cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Chúng tôi hy vọng Chúa sẽ nhậm lời họ thay chúng tôi."
Ba mươi mấy năm đã trôi qua kể từ biến cố nói trên. Có thể nói Thiên Chúa quả thật đã nhậm lời kêu cầu của những ai biết noi gương Ðức Giêsu để dấn thân phục vụ tha nhân ngay trong hoàn cảnh hầu như thất vọng của họ.
Ðiều đặc biệt là Ðức Cha Peeters và các thân hữu của ngài đã không chỉ cầu nguyện trên môi. Ðức Cha đã kêu gọi và nhiều anh chị em giáo dân đã là những người thiện nguyện đến kề vai sát cánh nhau để mang lại cho Phong Dinh những điều kiện sinh sống tốt đẹp hơn. Ðó là vào năm 1963. Ban đầu chỉ là 2 bác sĩ và một thú y cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào giáo dân hoạt động cho thế giới được hiệp nhất trong yêu thương.
Ngày nay người ta thấy bộ lạc Phong Dinh của Camơrun như đã chết mà được sống lại. Trung tâm của họ xưa là nơi khỉ ho cò gáy, nay trở nên một thành phố sầm uất. Ðiều đáng kể hơn nữa là chính thành phố ấy đã là khởi điểm khởi xuất cho cả một phong trào giáo dân thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Ðời sống Tin Mừng của những người giáo dân ấy đã có một sức hút lạ thường, khiến cho rất đông người Phi Châu đến xin học đạo và gia nhập Giáo hội. Nhiều người khác tuy không thể sắp xếp để chịu phép rửa, nhưng đã trở nên những bạn thân của những anh chị em thiện nguyện tới phục vụ ở nhiều nước Phi Châu.
Câu chuyện hồi sinh của bộ lạc Phong Dinh tại Camơrun khởi đi từ thời điểm đen tối nhất, gợi ý cho thấy ý nghĩa của bài Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Chính từ thời điểm bi đát nhất của đời Ðức Giêsu, Tin Mừng được loan báo cho biết rằng "Quả thật Người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15,39)
Sách Tin Mừng của Máccô khởi đi từ lời khẳng định làm nên đề tài cho toàn bộ cuốn sách. Tác giả giới thiệu với chúng ta nhân vật chính của tác phẩm là Ðức Giêsu Kitô. Con người xuất xứ từ Nadarét này đã từng lăn lộn trên địa bàn Phalệtinh trên ba mươi năm, rồi ba năm cuối cùng đã đi giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho nhiều người dân, nhân vật ấy đã bị xử tử giữa những phạm nhân trộm cướp. Nhân vật ấy nay đã sống lại. Người quả thực là Con Thiên Chúa!
Các sách Tin Mừng khác như Mátthêu và Luca, nêu rõ gia phả của Ðức Giêsu và cho biết mẹ của Người là cô trinh nữ Maria làng Nadarét, đã đính hôn với chàng trai Giuse. Xảy ra khi trinh nữ Maria mang thai do sự can thiệp của Thần Linh của Thiên Chúa, thì Giuse định bụng từ bỏ Maria một cách lặng lẽ cho êm chuyện. Nhưng ông được sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông biết rằng: "Này ông Giuse, là con cháu Ðavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21).
Quả thật, Ðức Giêsu đã cứu dân mình khỏi các tội họ đã phạm và còn tiếp tục phạm. Người đã cứu họ bằng cách sống trọn kiếp người như được Thiên Chúa an bài giữa muôn người. Khi bước vào trần gian, Ðức Kitô nói: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con" (Dt 10,5-7).
Làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương
Nếu như ý nghĩa của mầu nhiệm nhập thể như được thư tín hữu Do thái trình bày ở trên chưa được người dân tộc ở Phong Dinh, Camơrun lãnh hội ngay được, thì trái lại, lời kế tiếp của thư đó mà đưa thực thi là: "Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt" (10,24), họ sẽ hiểu ngay nhờ sự hy sinh của những Kitô hữu đến cứu họ khỏi nạn diệt chủng. Nhưng thực ra những người thiện nguyện này cũng chỉ tham dự vào công trình hy sinh của vị Mục Tử nhân lành đã "đến để chiên được sống và được sống dồi dào" (Ga 10,10).
Một số câu hỏi gợi ý
1. So sánh câu chuyện hồi sinh của bộ lạc Phong Dinh tại Camơrun với biến cố Chúa Giêsu chết và ba ngày sau đã sống lại, bạn thấy chính bạn có thể tâm đắc được điều gì bổ ích chăng? Riêng bạn có kinh nghiệm gì về sự hy sinh của ai đó hoặc chính bạn đã giúp đỡ một người hoặc một nhóm người mà bạn biết?
2. Bạn tâm đắc được gì về ông Simon, gốc Kyrênê, vác thập giá đỡ Ðức Giêsu (Mc 15,21)? Chính bạn có kinh nghiệm gì về loại giúp đỡ đó? Bạn nghĩ có nhiều người trong xã hội ta đang sống cần sự giúp đỡ đó chăng?
Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào cuộc tưởng niệm con đường Thương Khó của Đức Giê-su.
Is 50: 4-7
Bài đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vị ngôn sứ hé mở cho chúng ta Người Công Chính đau khổ, dưới dung mạo của Người Tôi Trung của Gia-vê, dù bị nhạo báng, bị lăng nhục, nhưng không đả kích và đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.
Pl 2: 6-11
Tiếp đó, chúng ta suy niệm mầu nhiệm của Đức Giê-su tự hạ mình và được tôn vinh mà thánh Phao-lô họa lại trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê dưới hình thức một bài thánh thi Ki tô học, bằng chứng đáng chú ý của Giáo Hội tiên khởi.
Mc 14: 1-12; 15: 1-47
Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc thương khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô, nhắc nhở chúng ta qua những con đường đau khổ và chết nào Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống.
BÀI ĐỌC I Is 50: 4-7
Với đoạn trích nầy chúng ta dự phần vào những xác tín của vị ngôn sứ. Chính nhờ thường hằng chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa hằng ngày, nên ông không tránh né sứ mạng của mình và "biết lựa lời mà nâng đỡ ai mệt mỏi chán chường". Vị ngôn sứ đã không nhận được bất cứ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại những lời lăng mạ và khổ nhục. Ông bị đánh đòn, tra tấn (giật râu là một hình phạt rất đau đớn và sĩ nhục), chịu những lời mắng nhiếc, phỉ nhổ vào mặt, khinh bĩ đến tột cùng.
Nhưng "người tôi trung nầy" đặt niềm tin tưởng của mình ở nơi Đức Chúa; ông "trơ mặt ra", có nghĩa "kiên vững không hề nao núng". Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng "Đức Giê-su đã trơ mặt ra" khi Ngài lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc Tử Nạn của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết mọi can đảm và khẳng định ý muốn của Ngài.
Đoạn trích này thuộc bài ca thứ ba trong số bốn bài ca mà chúng ta gọi "các bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ", và được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời cuối cùng của cuộc lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Chân dung của "Người Tôi Tớ" nầy lúc thì gợi lên dân Ít-ra-en (ngôn sứ I-sai-a đệ nhị thường gọi dân Ít-ra-en "người tôi tớ của Đức Chúa") lúc thì một cá nhân biệt phân và đón nhận một sư mạng riêng biệt. Vả lại, cách giải thích tập thể và cách giải thích cá nhân không loại trừ nhau; cả hai đều chồng chéo lên nhau trong nhiều đoạn văn.
Người tôi trung nầy xử sự với một cung cách dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất); ông được giao phó giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ông phải chịu những bách hại và những lăng nhục (bài ca thứ ba), ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).
Ở đây chúng ta ở một khúc quanh rất quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến một dung mạo của một vị vua vinh quang, thuộc dòng dõi vua Đa-vít, Đấng sẽ thiết lập triều đại công lý và hòa bình. Ấy vậy, vào lúc nầy không còn vua; vương triều đa-vít đã bị nhận chìm vào trong phong ba bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị thiêu hủy, dân thành Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh đời tôi mọi và một phần lớn dân cư bị lưu đày. Đây là thời điểm thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thuở xưa không hề bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a vẫn sẽ thuộc vào dòng dõi Đa-vít), nhưng điều mà những viễn cảnh mới hé mở, chính là sự can thiệp của "một người Thiên Chúa tuyển chọn", "một người Đức Chúa xức dầu tấn phong", Đấng nầy sẽ âm thầm hành động, bên ngoài trông có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ và bị giết chết trước khi được tôn vinh.
1. Vị ngôn sứ bị lăng nhục:
Tất cả sấm ngôn bao gồm một khía cạnh đầu tiên, có thể đạt được ngay tức khắc cho những ai mà sứ điệp gởi đến.
Ở nơi nhân vật nhục nhã ê chề nầy phải nhận ra chính vị ngôn sứ. Được Thiên Chúa trao phó sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh, mệt mỏi chán chường, ông không lẫn tránh công việc phụ bạc nầy; ông cố giúp cho họ hiểu ý nghĩa của sự thử thách của họ, kêu mời họ hoán cải, hứa với họ một cuộc cứu thoát; ông vấp phải sự vô tri, ngờ vực và nổi cáu của những người đã nếm mùi đắng cay của một cuộc lưu đày dài lâu.
2. Người Công Chính bị bách hại:
Bên kia dung mạo của một vị ngôn sứ hiện hình dung mạo của Người Công Chính thập toàn. Bản văn mang một cung giọng Mê-si-a. Cũng chính Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong một thái độ hoàn toàn vâng phục. Cũng chính Ngài sẽ mang Tin Mừng cho những người nghèo hèn khốn khổ. Như vị ngôn sứ vô tội, thay vì lòng biết ơn, Ngài sẽ bị đánh đập, nhục mạ, khổ hình mà "chẳng hổ ngươi và trơ mặt ra như đá vì biết mình sẽ không phải thẹn thùng".
Bài ca thứ ba nầy cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư bi thương về Người Tôi Trung sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.
BÀI ĐỌC II Pl 2: 6-11
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê là một bài thơ sáu khổ, theo thể văn xuôi có vần có điệu. Ba khổ thơ đầu tiên họa lại việc Đức Giê-su tự nguyện hạ mình, và ba khổ thơ còn lại, theo một chiều hướng ngược lại, thuật lại ba giai đoạn Cha Ngài tôn vinh Ngài.
Trong bức thư với giọng nói nồng nàn, đúng hơn thân quen nầy, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta gặp thấy những câu thơ khôn sánh như tuôn trào từ ngòi bút nầy. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay chỉ là người trích dẫn bài thánh thi giàu hình tượng nầy. Dù sao chúng ta cũng vẫn có một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn cổ xưa nhất về thần học Đức Ki tô; nhất là bài thơ nầy mang đến một lời chứng quý báu đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của thánh Gio-an) về niềm tin nguyên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su.
1. Ba giai đoạn tự hạ:
• Đức Giê-su, tuy vẫn là Thiên Chúa, từ bỏ không chỉ Thiên Tính nhưng còn cả vinh quang vốn dĩ nội tại ở nơi Ngài.
• Ngài tự hủy mình ra hư không, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn, sống kiếp phàm nhân, để chia sẻ tận cùng những cảnh đời cơ cực yếu hèn của con người (ngoại trừ tội lỗi).
• Ngài còn tự hạ hơn nữa khi vâng lời chấp nhận chết ô nhục trên thập giá.
2. Ba giai đoạn vinh quang:
• Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu. Danh ở đây mang lấy một ý nghĩa tuyệt đối, nghĩa là chỉ dành riêng cho một mình Ngài. Đây là Danh của Đức Chúa, Danh mà trong truyền thống Do thái dành riêng để chỉ danh khôn tả của Thiên Chúa như phần tiếp theo chỉ cho thấy: "trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu", vì thế, "vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, vf trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ".
• Diễn ngữ "cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty" chỉ toàn thể vũ trụ. Điều nầy muốn nói rằng không chỉ nhân loại, nhưng ngay cả toàn thể mọi tạo vật điều phải cung kính thờ lạy Ngài. Đó cũng là chủ đề được gặp thấy trong sách Khải Huyền: "Tôi lại nghe mọi tạo vật trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời" (Kh 5: 13).
3. Mẫu gương của Đức Giê-su:
Thánh Phao-lô rất mực yêu mến Giáo Đoàn Phi-líp-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đồng Ki tô hữu đầu tiên trên vùng đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-xê-đoan; thành phố mang tên vua Phi-líp-phê, thân phụ của đại đế Alexandre, người đã xâm chiếm thành nầy vào năm 360 trước Công Nguyên.
Khi viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang bị giam cầm có thể ở Ê-phê-sô. Thánh nhân mong ước các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài sống trong sự hiệp nhất và nhất là trong sự khiêm hạ sâu xa. Thánh nhân lấy Đức Ki tô làm mẫu gương cho họ noi theo.
TIN MỪNG Mc 14: 1-15, 47
Như các thánh ký khác, thánh Mác-cô dành một vị thế quan trọng cho bài tường thuật cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô. Như vậy chúng ta có chứng từ làm chứng rằng Giáo Hội tiên khởi đã hiểu: biến cố đồi Can-vê không là một tình tiết xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đến để tẩy xóa đi, nhưng trái lại là tuyệt đỉnh công trình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại, là nơi Đức Giê-su hoàn tất sứ mạng cứu độ. Các Ki tô hữu tiên khởi đảm nhận sự thách đố của Thập Giá, bất chấp Thập Giá gây nên sự kỳ chướng đối với lương dân.
Thánh Mác-cô đặc biệt dọi chiếu sự mâu thuẩn của những hoàn cảnh: dù bị nhạo báng, nhục mạ, bị kết án khổ hình ô nhục, nhưng Đức Giê-su vẫn khẳng định quyền năng và tính siêu việt của Ngài với một phẩm chất cao vời.
I. KHÚC DẠO ĐẦU 14: 1-11:
Trước khi bắt đầu bài tường thuật của mình, thánh Mác-cô gợi lên ba tình tiết dạo đầu: âm mưu của những thủ lãnh Do thái giáo, xức dầu tại Bê-ta-ni-a, cuộc phản bội của Giu-đa.
1. Âm mưu của các thủ lãnh Do thái giáo (14: 1-2):
Thánh ký định vị cuộc họp bàn của các thượng tế và các kinh sư hai ngày trước các ngày lễ. Thế nên, họ bàn tính với nhau phải dùng mưu bắt Đức Giê-su như thế nào để không làm dân chúng náo động. Điều nầy cho thấy Ngài rất được lòng dân chúng. Không phải đám đông tung hô Ngài khi Ngài vào Thành Thánh sao? Vì thế, tốt hơn nên đợi khi các ngày lễ chấm dứt, lúc đó không còn có dân chúng quy tụ đông đúc ở Giê-ru-sa-lem.
Ấy vậy, lễ Vượt Qua nói riêng kéo dài một ngày; lễ Bánh Không Men thêm bảy ngày nữa. Vì thế, các vị thủ lãnh đồng ý "hoãn lại thêm một tuần nữa trước khi ra tay hành động".
Nhưng những biến cố sắp xảy đến nhanh hơn người ta mong muốn; việc Giu-đa phản bội thúc bách mọi việc; đó là lý do tại sao họ ra sức xúi dục dân chúng chống lại Đức Giê-su vì họ lo sợ đám đông đổi ý.
Khi đặt vào đầu bài tường thuật của mình quyết định của giai cấp lãnh đạo Ít-ra-en: "Không nên làm vào chính ngày lễ" vì có nhiều trở ngại, thánh ký hàm ý nhấn mạnh rằng thực tế, chính Đức Giê-su dẫn dắt các biến cố bất chấp những sự kiện bên ngoài. Ngài sẽ chết, như Ngài đã loan báo, thậm chí vào chính lễ Vượt Qua; chính xác từ khung cảnh lễ Vượt Qua mà việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể và cuộc Tử Nạn nhận được ý nghĩa sâu xa của chúng: Đức Giê-su vừa con chiên chịu sát tế vừa tấm bánh hoàn toàn mới và tinh tuyền.
2. Xức dầu ở Bê-ta-ni-a (14: 3-9):
Bê-ta-ni-a là một ngôi làng được định vị ở phía đông Giê-ru-sa-lem, bên kia đồi Ô-liu. Chính ở nơi ngôi làng nầy mà ba chị em: La-da-rô, bà Ma-ri-a và bà Mát-ta ở.
Chúng ta không biết ông Si-mon Cùi nầy là ai. Chắc chắn ông không còn bị bệnh cùi nữa, bởi vì ông đón tiếp khách vào nhà mình (thánh Giê-rôm đưa ra giả thuyết rằng ông đã được Đức Giê-su chữa lành).
Thánh Mác-cô không nêu tên người phụ nữ đổ dầu thơm đắt tiền trên đầu Đức Giê-su. Cử chỉ nầy giả sử rằng Đức Giê-su ngồi tựa vào gối dựa, trước một cái bàn thấp, theo cách đông phương. Trong số những nghi thức hiếu khách, xức dầu thơm trên đầu khách là một dấu hiệu tỏ bày lòng kính trọng và vinh dự. Những bình dầu thơm cổ dài cho phép chỉ đổ từng giọt dầu thơm quý giá nầy. Nhưng người phụ nữ nầy "đập vỡ bình ra, đổ dầu thơm trên đầu Ngài" để dầu thơm được chảy tràn đầu Ngài; cô muốn bày tỏ rằng cô nhận ra ở nơi Đức Giê-su một vị khách đặc biệt xứng với một hành vi quảng đại ngoại lệ.
Vài môn đệ (trong số đó có ông Giu-đa, theo Tin Mừng Gio-an) chỉ thấy quá phí của. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh hai giá trị của cử chỉ người phụ nữ nầy: "giá trị hiện tại": một việc nghĩa ma cô ấy làm cho Ngài, bởi vì chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ không còn hiện diện ở giữa họ; "ý nghĩa ngôn sứ": thân thể nầy mà người phụ nữ xức dầu thơm chẳng bao lâu sẽ bị giết chết, đoạn được mai táng hấp tấp nên không đón nhận những vinh dự khâm liệm như tập tục dành cho những người qua đời. Người phụ nữ đã tham dự trước nghi thức mai táng. Đây là cách thức mới, Đức Giê-su loan báo cái chết sắp đến của Ngài.
Ngầm chứa ở nơi lời nói của Đức Ki tô, chúng ta nhận ra hai loại "việc thiện" mà người Do thái thường phân biệt: bố thí cho người nghèo và lòng thành kính đối với những người qua đời.
3. Tên Giu-đa phản bội (14: 10-11):
Ông Giu-đa, một trong Nhóm Mười Hai. Qua những từ ngữ giản dị nầy, thánh Mác-cô làm nổi bật sự ghê tởm của hành động phản bội. Đây là một trong những đau khổ thấm thía nhất của Đức Giê-su, vào đêm bi thảm nầy: một trong các môn đệ thân yêu của Ngài, một trong những người đồng hành mà Ngài đã chọn, đã nộp Ngài cho quân thù Ngài. Nhiều lần Ngài để lộ nỗi đau khổ của Ngài – vào lúc rửa chân và vào lúc thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể.
Ông Giu-đa sắp ra đi gặp các vị thượng tế. Ông tìm đúng người đúng chỗ. Chính ở nơi nhóm nầy mà sự cuồng tín làm sôi sục lòng căm ghét. Chính xác họ vừa mới quyết định thủ tiêu Đức Giê-su. Họ gặp thấy ở nơi Giu-đa một kẻ cộng tác bất ngờ và hứa cho ông tiền, tiền làm sáng mắt tên phản bội, kẻ hám lợi. Thánh Gio-an đã phác họa Giu-đa là "một tên ăn cắp": y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỷ chung (Ga 12: 6). Thiên Chúa dùng những ti tiện của con người để thực hiện ý muốn của Ngài.
II. LỄ VƯỢT QUA VÀ BÀN TIỆC THÁNH THỂ 14: 12-25:
1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):
"Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua". Hai ngày đại lễ nầy từ lâu được cử hành cùng một cặp song đôi với nhau: vào lễ Vượt Qua, lễ của những người chăn nuôi, họ giết một con chiên tơ, và lễ Bánh Không Men, lễ của những người trồng trọt, họ dâng hiến những sản phẩm đầu mùa và làm bánh không men với những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dể dàng hơn vì bữa ăn lễ Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.
Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên, bị sát tế
trong khuôn viên Đền Thờ, "phải được ăn ở trong thành". Điều nầy khiến các môn đệ bận tâm. Đức Giê-su là một tôn sư lưu động không nơi cố định; thêm nữa, Ngài là người Ga-li-lê. Vì thế, họ hỏi Ngài: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?".
Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Cả hai lần, những biến cố xảy ra đúng như Chúa Giê-su mong muốn: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài với các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
2. Loan báo Giu-đa phản bội (14: 17-21):
Cả bốn Tin Mừng đều thuật lại lời tiên báo nầy của Đức Giê-su: "Có người trong anh em sẽ nộp Thầy". Cả bốn đều nhấn mạnh Giu-đa cùng ngồi đồng bàn với Đức Giê-su (thánh Gio-an xác định: "chia sẻ cùng một miếng bánh"). Theo quan niệm xưa, "ngồi đồng bàn" đồng nghĩa "cùng chung một hội một thuyền" sống chết có nhau. Như thế, sự phản bội nêu bật thái độ vô liêm sỉ.
Đức Giê-su tế nhị không chỉ rõ ai hết. Những lời: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là một người đang chấm chung một đĩa với Thầy" thật mơ hồ, vì theo tập quán, mọi người đều cùng chấm chung một đĩa.
Bầu khí trở nên ngột ngạt. Ấy vậy, trong những hoàn cảnh trang nghiêm, Đức Giê-su thích gợi lên tước hiệu "Con Người" để nói về sứ mạng của mình. Dưới tước hiệu nầy, Ngài ẩn dấu mầu nhiệm của mình: "Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người".
Còn về những lời: "Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!", không thể nào nghĩ là lời nguyền rủa từ miệng Đức Giê-su vào giờ Ngài sẽ đổ máu mình để xóa tội nhân loại; nhưng đúng hơn là một lời ghi nhận đượm nỗi buồn phiền. Giả như hắn đừng sinh ra, thì sẽ không phạm một tội ác tày trời như vậy. Đức Giê-su không bao giờ nguyền rủa. Quả thật, Ngài đã đe dọa khi loan báo những trừng phạt: "Khốn cho các ngươi…", nhưng đây không là những lời nguyền rủa.
3. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-25):
Lễ Vượt Qua Do thái, mà Đức Giê-su cử hành với các môn đệ thành bữa Tiệc Ly, được biến thành lễ Vượt Qua Ki tô giáo bởi việc thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt: song đối sâu xa và mới mẻ tận căn.
Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã tha chết cho họ.
Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài "đổ ra vì muôn người". Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en như dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn nầy đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ.
Nhờ ân ban thân thể của Ngài và máu của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Chúa chọn mới; Giao Ước Mới được đóng dấu trong máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước vừa cuộc Tử Nạn của Ngài vừa cuộc Phục Sinh của Ngài.
Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như vậy, thì bữa ăn nầy cũng là bữa tiệc ly, mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương, những người mà Ngài trao phó truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ, bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân mình, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.
Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh "giá trị cánh chung" của "bàn tiệc Thánh Thể". Bàn tiệc này là một sự tiếp cận, một sự tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: "Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".
Cuộc sống tương lai thường thường được biểu thị như bàn tiệc; và rượu nho như một trong những dấu chỉ của "niềm vui thời Mê-si-a" và niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của phép lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo dầu của phép lạ bàn tiệc Thánh Thể. Nước biến thành rượu đáp ứng với rược biến thành máu.
4. Tiên báo mọi người sẽ vấp ngã và ông Phê-rô sẽ chối Thầy (14: 26-31):
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: "Hát Thánh vịnh xong…" Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi "Hallel", mà người ta hát sau bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118 (một trong những Thánh vịnh nầy đã được trích dẫn rồi trong bữa ăn); như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su đích thực là bữa ăn Vượt Qua, ít ra theo các Tin Mừng Nhất Lãm.
Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài rời phòng tiệc; họ đi xuống thung lũng Xê-ron phân cách Giê-ru-sa-lem với núi Ô-liu. Trên đường, Đức Giê-su báo trước cho tất cả họ: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã". Ngài nhắc lại cho họ sấm ngôn của ngôn sứ Da-ca-ri-a 13: 7-9: "Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác". Vị ngôn sứ nầy đã loan báo rằng thời cứu độ sẽ được đi trước bởi một cơn thử thách lớn lao giáng xuống trên một phần dân Thiên Chúa để thanh tẩy họ; "nhóm còn lại" nầy bất ngờ không có người chăn dắt; vào lúc đó họ sẳn sàng đón nhận Giao Ước Mới…
Để an ủi các ông, Ngài loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ gặp lại các ông ở Ga-li-lê, sau khi Ngài sống lại. Về việc các ông sẽ vấp ngã vì Ngài, với một giọng trìu mến, Ngài cho hiểu rằng Ngài sẽ không tính sổ với họ; Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp rồi.
Thánh Phê-rô hăm hở cam đoan: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nứa, thì con cũng nhất định là không". Đức Giê-su trả lời với ông là nội trong đêm nay ông sẽ chối Ngài ba lần. Nhưng thánh Phê-rô lại càng quả quyết hơn và tất cả mọi người cũng đều quả quyết như vậy.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Mác-cô nhắc lại tính tự phụ của các môn đệ, đặc biệt là thánh Phê-rô; chắc chắn đây là âm vang của vị lãnh tụ các Tông Đồ và… về sự khiêm hạ của ông. Cuối cùng, thánh ký nhiều lần nêu bật Đức Giê-su quán triệt mọi người và mọi việc: Ngài biết rõ những gì sắp xảy đến.
III. CON ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ 14: 32-15: 47:
1. Cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni (14: 32-42):
Trên triền đồi Ô-liu có một khu vườn được gọi Ghết-sê-m-ni. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài rút vào trong khu vườn nầy. Khi cuộc khổ nạn của Ngài đến gần, Đức Giê-su cảm thấy hãi hùng và xao xuyến. Không thể nào chịu đựng nỗi một mình, Ngài dẫn theo với mình ba Tông đồ, họ đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình của Ngài: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gio-an. Trước thân phận yếu nhược làm người của Ngài, sự hiện diện của họ là nguồn an ủi cho Ngài. Mác-cô là thánh ký duy nhất xác định rằng Đức Giê-su đi cách ba vị Tông Đồ "xa hơn một chút", vì thế, họ có thể nghe được những lời khẩn nguyện van xin của Ngài và thấy Ngài sấp mình xuống đất.
1.1- Đức Giê-su sấp mình xuống đất mà cầu nguyện:
Cử chỉ "sấp mình xuống đất" cho thấy thân xác yếu nhược của Đức Giê-su, nhưng cũng là thái độ cầu nguyện khiêm tốn và khẩn thiết. Không có nơi nào trong Tin Mừng mô tả Đức Giê-su cầu nguyện như thế cả.
Thánh Mác-cô nhấn mạnh sự mật thiết của Đức Giê-su như Người Con đối với Cha Mình khi Ngài cầu nguyện. Chính trong sự hiêp thông của Ngài với Cha Ngài mà Đức Giê-su lấy lại sức mạnh chế ngự nỗi sợ hãi và cõi lòng xao xuyến của Ngài, và hoàn toàn chấp nhận cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài.
"Áp-ba, Cha ơi, xin cất chén nầy xa con!". Chén là hình ảnh kinh thánh để nói lên một sự thử thách, một vận mệnh đau thương; đồng thời nó cũng gợi lên chén máu của hy lễ.
"Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn". Đức Giê-su không giao phó cuộc chiến nội tâm mà đối tượng sẽ là vâng lời hay không vâng lời cho ý muốn của Cha Ngài; Ngài là "một" với Cha Ngài; chỉ có một ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Nỗi xao xuyến của Đức Giê-su bàn về "phương tiện" nhờ đó ý muốn duy nhất nầy phải được thực hiện. Nỗi xao xuyến của vườn Ghết-sê-ma-ni không phải không nhắc lại sự thử thách ở sa mạc ở đó cuộc tranh luận nội tâm bàn về phương cách theo đó Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng của Ngài.
1.2- Các môn đệ:
Ba lần Đức Giê-su trở lại với ba người bạn của mình. Thật cảm động biết bao vị Thiên Chúa làm người toan tính dựa vào những anh em nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô hạn của mình. Nhưng thất vọng biết bao! Những môn đệ rốt cuộc không thể cưỡng kháng được giấc ngủ. Qua bài tường thuật của thánh Mác-cô, chúng ta nhận thức những ân hận của Phê-rô. Những lời quở trách của Đức Giê-su vẫn hằn sâu trong tâm khảm của ông: "Si-mon, anh ngủ à ? Anh không thức nổi một giờ sao…!"
Lần thứ ba Đức Giê-su không còn mong chờ sự nâng đỡ nào từ họ: "Lúc nầy mà còn ngủ, còn nghỉ sao ? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm…". Đức Giê-su hoàn toàn cô độc trong cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni.
2. Đức Giê-su bị bắt (14: 43-47):
Thánh Mác-cô nhắc lại thêm một lần nữa rằng Giu-đa là một trong Nhóm Mười Hai để nêu bật cách hành xử ô nhục của hắn.
Tên phản bội biết nơi chốn; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây; hắn không lầm khi dẫn đến đây đội cận vệ Thượng Hội Đồng được trang bị gươm giáo được "các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến", và chắc chắn kéo theo những thành phần vô lại nhặt những gậy gộc trên đường.
Những kẻ lãnh nhiệm vụ bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài, dù sao trong đêm tối có nguy cơ nhầm lẫn. Giu-đa đã ước định một ám hiệu: một nụ hôn. Cử chỉ thật ghê tởm nhưng không khác thường; một môn đệ thường chào thầy mình theo cách nầy; nhưng Giu-đa đã cho nó một ý nghĩa khác: dấu hiệu nộp Thầy mình: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận !".
"Nhưng một trong những kẻ có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế làm nó đứt tai". Nhờ Tin Mừng Gio-an, chúng ta biết rằng tác giả của hành động nầy là Phê-rô, và nhờ Tin Mừng Lu-ca, tai bị chém đứt là tai phải (những chi thể được định vị ở bên phải được xem như quý hơn những chi thể ở bên trái). Dường như một vết thương ở bên phải là dấu hiệu sỉ nhục.
3. Các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn (14: 48-52):
Đức Giê-su phản đối việc bắt Ngài một cách vụng trộm, vào lúc đêm tối. Chắc chắn đây không là đám đông đã nghe Ngài khi Ngài giảng dạy trong Đền Thờ và vẫy cành lá tung hô Ngài vài ngày trước đây.
"Nhưng thế nầy là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm". Đức Giê-su quy chiếu đến bài ca Người Tôi Tớ chịu đau khổ mà Ngài đã áp dụng nhiều lần vào vận mệnh của chính mình.
"Bấy giờ, các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết". Trước những người xét xử Ngài, Đức Giê-su sẽ không có bất kỳ người bào chữa nào, bất kỳ nhân chứng nào bênh vực Ngài; Ngài một mình bước đi trên con đường Thương Khó của mình.
Tuy nhiên, hai Tông Đồ quay trở lại mà theo Ngài xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế Cai-pha; nhưng một trong hai người sẽ chối Ngài. Chỉ một mình thánh Gioan sẽ hiện diện dưới chân thập giá.
Thánh Mác-cô là vị thánh ký duy nhất đã ghi nhận một sự cố lạ thường: "Trong khi đó, có một cậu thanh niên theo Người, mình khoắc vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải gòn lại, bỏ chạy trần truồng". Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng chàng thanh niên nầy là thánh Mác-cô, thánh ký tương lai.
4. Đức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (14: 53-65):
Đức Giê-su bị điệu đến dinh thượng tế. Thanh Mác-cô không nêu tên vị thượng tế nầy. Đây có lẽ là Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm (thánh Gioan là thánh ký duy nhất nêu lên việc Đức Giê-su bị điệu ra trước vị cựu thượng tế Kha-nan, bố vợ của Cai-pha). Dù thế nào, đây là dinh thượng tế nơi mà các thành viên của Thượng Hội Đồng nhóm họp, nghĩa là Công Nghị tối cao của người Do thái.
Như thánh Mác-cô cho biết, Thượng Hội Đồng bao gồm ba loại thành viên:
- Các lãnh tụ tư tế (thượng tế, các cựu thượng tế và các tư tế đảm trách chức vụ thường hằng ở Đên Thờ).
- Các Kỳ Mục là những bậc vị vọng, những chủ nhân giàu có, những nhà quý phái.
- Các kinh sư là những tiến sĩ Luật, đa số giáo dân, thuộc vào tầng lớp trung lưu hay thậm chí khiêm tốn. Phần lớn là những người Biệt Phái.
Thượng Hội Đồng gồm có bảy mươi thành viên không kể vị thượng tế đương nhiệm. Để có thể tiên hành phiên xử, cần phải có tối thiểu hai mươi ba thành viên. Chắc chắn có hơn nhiều vào đêm Đức Giê-su bị điệu đến.
Thượng Hội Đồng tiến hành sự thẩm cứu pháp lý cho qua chuyện, sự thẩm cứu được định hướng sẳn rồi, bởi vì thật ra bản án được quyết định rồi. Tuy nhiên, Đức Giê-su cần phải ra trước tòa án Do thái. Nếu Ngài bị nộp trức tiếp cho chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ chung số phận với những người kháng khiến và hưởng được vinh quang tử vì đạo. Án tử cần phải trước hết đến từ giáo quyền Ít-ra-en, để làm mất uy tín Đức Giê-su.
Thánh Mác-cô nhấn mạnh những lời chứng lộn xộn và những chứng nhân không thể đưa ra chứng cớ buộc tội Ngài được. Đối mặt với họ, Đức Giê-su thật trầm tỉnh và uy nghi, khẳng định rõ ràng phẩm tính của Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa của Ngài và nhận cho mình những đặc quyền của Con Người mà ngôn sứ Đa-ni-en thoáng thấy: "Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây tròi mà đến". Đức Giê-su quả quyết: "Rồi các ông sẽ thấy". Quả thật, trong ba ngày nữa Ngài sẽ sống lại và chẳng bao lâu sau Giáo Hội của Ngài sẽ chiến thắng và trong vài năm nữa kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ sẽ bị phá hủy…
Như vậy cho đến lúc đó Đức Giê-su bao phủ chung quanh con người của Ngài một mầu nhiệm nào đó, dù hiện giờ bị xiềng xích và bị sỉ nhục, Ngài vẫn lớn tiếng công bố sự siêu việt của Ngài.
Lúc đó vị thượng tế kêu mời tất cả thành viên Thượng Hội Đồng làm chứng. Cần phải có tối thiểu hai nhân chứng có đủ chứng cớ buộc tội để có thể công bố bản án. Chẳng cần nhân chứng nào nữa: tất cả họ vừa mới nghe lời phạm thượng và có thể làm chứng điều nầy!
Vị thượng tế làm trò xé áo mình. Theo tập tục chung, xé áo mình là dấu chỉ tang chế. Người ta gặp thấy nghi thức nầy tại dân Ba-by-lon cũng như tại dân Do thái. Nhưng vị thượng tế không có quyền xé áo mình cho một tang chế riêng tư (Lv 21: 10); ông phải dành riêng cử chỉ nầy cho những hoàn cảnh nghiêm trọng, công cộng, nhất là khi thi hành chức vụ thẩm phán của mình, ông phải công bố sự phẩn nộ của mình.
Làm thế nào người ta có thể biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng nầy ? Câu trả lời thật đơn giản. Trong số các thành viên Thượng Hội Đồng có những cảm tình viên của Đức Giê-su, như ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê và có lẽ ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại sau nầy, theo lời chứng của sách Công Vụ (6: 7), có rất đông tư tế đón nhận đức tin.
Ngay từ phiên xử đầu tiên, Đức Giê-su chịu những nhục nhã ê chề: khạc nhổ vào mặt, lăng mạ, đánh đập. Thánh Mác-cô không bỏ qua những chi tiết tàn bạo nào.
Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, ông Phê-rô trốn chạy, như tất cả các môn đệ khác. Đoạn ông trấn tĩnh, cũng như một "người môn đệ khác", có lẽ là thánh Gioan, và cả hai theo xa xa đội cảnh vệ đang áp tải Đức Giê-su đi.
Trong khi thánh Gioan quen biết vị thượng tế (Ga 18: 15) nên được đi vào bên trong dinh thượng tế, còn thánh Phê-rô đứng ở sân ngoài gần cổng ở đó những người túc trực đã nhóm một lò lửa để sưởi ấm.
Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô chối Thầy. Đáng lưu ý là vị lãnh tụ Giáo Hội đã để lưu truyền cho thế hệ sau tình tiết nầy làm mất thể diện của ông và chỉ mình ông mới có thể cung cấp những chi tiết. Thánh Mác-cô là cộng tác viên thân cận của thánh nhân, chính xác là một trong các tác giả Tin Mừng nhấn mạnh nhất khuyết điểm nầy.
Sự khiêm hạ của vị lãnh tụ các Tông Đồ, những hối hận sâu xa của thánh nhân trước sự vấp ngã nầy được bày lộ ngay tức thời bởi những dòng nước mắt ăn ăn của ông, đã thắng thế. Mẫu gương của thánh nhân không phải là một bài học cho các Ki tô hữu trong cơn bách hại vào thời điểm thánh Mác-cô soạn thảo những dòng nầy sao? Thánh Phê-rô làm cho chúng ta xúc động vì ngài là một vị thánh rất người.
6. Thượng Hội Đồng họp bàn lần thứ hai (15: 1):
Cuộc họp bàn của Thượng Hội Đồng lần thứ hai đã xảy ra sau cuộc họp bàn trong đêm. Thánh Mác-cô nói: "Vừa tảng sáng". Theo Luật, cuộc họp bàn nầy cần thiết. Khi một hình phạt nghiêm trọng được công bố, các thành viên Thượng Hội Đồng cần một kỳ hạn để suy nghĩ. Đúng luật, kỳ hạn nầy phải là hai mươi bốn tiếng: một phiên họp thứ hai phải xác nhận hay hủy bỏ quyết định.
Thật ra, Thượng Hội Đồng đã công bố án tử: "Tất cả đều kết án Người phải chết". Kể từ thời Rô-ma chiếm đóng, người Do thái không còn quyền tiến hành cuộc xử tử nữa. Vì thế, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô. Nhưng kể từ lúc đó, phiên tòa được chuyển sang bình diện chính trị. Từ tội phạm thượng nghịch với Thiên Chúa Ít-ra-en đến tội phản nghịch với cuộc chiếm đóng Rô-ma.
7. Đức Giê-su ra trước tổng trấn Phi-la-tô (15: 2-5):
Quan tổng trấn Phi-la-tô, đại diện chính quyền Rô-ma, cai trị trực tiếp miền Giu-đê. Thật ra, từ khi vua Hê-rô-đê Archilaüs, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, băng hà, Rô-ma đã không còn cử người của mình đến chính quyền địa phương nữa, vì họ sợ những phong trào phản loạn nổi lên ở Giê-ru-sa-lem hay trong miền. Khác với trường hợp miền Ga-li-lê, một người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là vua Hê-rô-đê An-ti-pát cai trị, vì thế, Đức Giê-su, người Ga-li-lê, bị điệu ra trước vua nầy (cf. Lc 3: 1).
Nơi cư ngụ quen thuộc của các vị tổng trấn Rô-ma là thành Xê-da-rê duyên hải, nhưng vào những ngày đại lễ, đặc biệt vào lễ Vượt Qua, dân chúng quy tụ lại rất đông ở Giê-ru-sa-lem, thế nên, quan tổng trấn lên Giê-ru-sa-lem. Đó là lý do tại sao tổng trấn Phi-la-tô lúc đó có mặt trong Thành Thánh.
Quan tổng trấn Phi-la-tô chất vấn Đức Giê-su trên bình diện chính trị: "Ông là vua dân Do thái sao?" Chính vì tội danh nầy mà sau nầy Phi-la-tô truyền ghi bản án xử tội Ngài trên thập giá: "Giê-su, vua người Do thái". Đức Giê-su trả lời: "Đúng như ngài nói đó", hay một cách tinh tế hơn, nếu đại danh từ được nhấn mạnh: "Chính ngài nói đó". Đức Giê-su lãng tránh trả lời trực tiếp, nhưng câu trả lời nầy không phải kém khẳng định. Đây cũng là câu trả lời của Đức Giê-su cho Giu-đa khi hắn hỏi Ngài: "Thưa Thầy, chẳng lẽ là con sao?" – "Chính anh nói đó" (Mt 26: 25).
"Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều tội". Quả thật, qua các Tin Mừng khác, chúng ta biết rằng hoạt cảnh diễn ra bên ngoài. Các thành viên Thượng Hội Đồng, các cận vệ của họ, và đám đông dân chúng càng lúc càng đông, ở bên ngoài dinh quan tổng trấn.
Đức Giê-su im lặng. Phi-la-tô ngạc nhiên. Chung chung, không có luật sư biện hộ, những bị cáo tự biện hộ cho mình.
8. Ân xá vào dịp lễ Vượt Qua (15: 6-15):
Theo phong tục của người Do thái, vào mỗi lễ Vượt Qua một tù nhân được phóng thích, chắc chắn để kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi Ai-cập mà người ta tưởng niệm vào ngày đại lễ nầy. Phi-la-tô biết tập tục nầy; ông đề nghị đám đông chọn một kẻ giết người khét tiếng và Đức Giê-su. Việc cho dân chúng có quyền chọn lựa làm ngạc nhiên; không phải là không có những ví dụ khác. Ở kinh thành Rô-ma, trong những cuộc đấu ở hý trường, dân chúng quyết định tha hay giết chết, vua phải tuân theo ý muốn của dân.
Theo truyền thống Do thái, việc dân chúng dự phần vào việc xét xử được kể ra nhiều lần như phiên xử bà Su-dan-na.
Việc yêu cầu phóng thích tên Ba-ra-ba nêu bật những trách nhiệm khác nhau:
- trách nhiệm của các thành viên Thượng Hội Đồng, họ sách động dân chúng chống lại Đức Giê-su.
- trách nhiệm của đám đông, họ để cho mình bị xỏ mũi dẫn đi và thích tên phản loạn hơn. Tội ác của hắn không phải là không có hậu ý chính trị, chống lại chính quyền chiếm đóng.
- sau cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã tính sai một nước cờ khi nghĩ rằng phong trào quần chúng ủng hộ Đức Giê-su. Ông thích thú muốn thấy cuộc vận động của các thượng tế thất bại, bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Đức Giê-su. Nhưng Phi-la-tô nhượng bộ đám đông; ông muốn vừa lòng dân chúng bản địa, và đồng thời cũng muốn tránh bị tố cáo ở Rô-ma và bị coi là nhu nhược trước một toan tính chính trị của kẻ mạo danh "vua dân Do thái nầy".
Như vậy, quyết định chung cuộc chính do bởi tổng trấn Rô-ma, và chính bởi thập giá, khổ hình Rô-ma, mà Đức Giê-su bị kết án. Khổ hình Do thái là ném đá.
9. Đức Giê-su chịu đánh đòn (15: 15):
Đánh đòn tự nó là một khổ hình. Án phạt nầy cũng là một biện pháp mở đầu cho khổ hình thập giá; nó làm cho tội nhân kiệt quệ vì mất nhiều máu và như vậy rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của tội nhân trên thập giá. Có nhiều loại hình phạt bị đánh đòn: người ta dùng gậy nếu tội nhân là công dân Rô-ma; dây da phủ có gắn những hạt chì đối với tội nhân có địa vị thấp kém, huống gì hạng nô lệ. Chắc chắn loại hình phạt đánh đòn thứ hai mà Đức Giê-su chịu.
10. Đức Giê-su chịu đội mão gai (15: 16-20):
Phi-la-tô giao cho quân lính thi hành án. Ấy vậy, dân chúng bị trị chẳng ưa gì quân lính Rô-ma chiếm đóng, vì thế, những người lính nuôi dưỡng sự căm ghét đối với dân tộc nầy. Đây là dịp họ đổ hết sự căm ghét của mình trên đầu tên Do thái nầy được giao vào trong tay họ. Tất cả lính cận vệ dinh tổng trấn tụ tập lại để chế giễu Đức Giê-su. Hoạt cảnh thật thâm hiểm.
Họ kết một vòng gai làm vương niệm đội lên đầu Đức Giê-su và khoắc cho Ngài một tấm áo điều; chắc chắn là tấm áo khoắc của quân đội Rô-ma, nhưng áo khoắc màu đỏ là dấu chỉ của sự chiến thắng. Thế nên, khoắc cho Đức Giê-su một áo khoắc màu đỏ trở thành trò nhạo báng của họ.
11. Con đường khổ giá (15: 21-27):
Người Rô-ma không tạo ra khổ hình thập giá; họ mượn ở nơi những dân tộc Đông Phương, người ta không biết đích xác nguồn gốc của nó. Xi-xê-ron mô tả khổ hình thập giá như "một cái chết kinh khiếp nhất và tàn bạo nhất". Người Rô-ma có nhiều hình thức khổ hình tùy theo các tầng lớp xã hội, khổ hình thập giá dành cho tầng lớp thấp kém nhất: tầng lớp nô lệ.
Việc hành hình xảy ra chỉ ở bên ngoài thành. Lãnh địa của thành là vùng đất thánh vì thế không thể nào bị nhiễm uế bởi xác chết của tội nhân. Đồi Gôn-gô-tha sát với bức tường thành Giê-ru-sa-lem. Chữ Gôn-gô-tha theo tiếng A-ram có nghĩa "Sọ", vì ngọn núi trơ trọi không có bóng dáng của cây cối.
Chi dù đoạn đường mà Đức Giê-su phải vác thập giá đi ngang qua tương đối ngắn, nhưng vì đã phải chịu những hành xử tồi tệ nên Ngài kiệt sức bước đi không vững. Vì thế, quân lính bắt một người qua đường vác thập giá giúp Ngài. Đó là "ông Si-môn, gốc Ky-rê-nê, thân phụ của hai ông A-lê-xan đê và Ru-phô". Sở dĩ thánh Mác-cô nêu tên hai người nầy, vì họ không xa lạ gì với các Ki tô hữu.
Quân lính điệu Đức Giê-su đi đến đồi Gôn-gô-tha. Nhóm lính nầy gồm bốn người, bởi vì họ chia áo xống của Ngài thành bốn phần, mỗi người mỗi phần (Ga 19: 23), được một viên đại đội trưởng chi huy, ông chịu trách nhiệm thi hành bản án và sẽ túc trực bên cạnh thập giá.
"Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người uống". Đây không là tập quán của người Rô-ma, nhưng của người Do thái: rượu pha mộc dược giúp cho tội nhân giảm cơn đau. Nhưng Đức Giê-su từ chối ân huệ nầy; Ngài muốn đảm nhận cho đến cùng toàn bộ những đau đớn hàm chứa ở nơi cái chết tàn bạo mà Ngài phải chịu với một sự ý thức tròn đầy.
Sau khi đã đóng đinh Ngài vào thập giá, quân lính đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Khía cạnh nầy phù hợp với luật Rô-ma: áo của tội nhân thuộc về tên lý hình. Đồng thời, sấm ngôn của Thánh vịnh 22 được ứng nghiệm: "Áo mặc ngoài chúng đem chia nhau. Còn áo trong chúng cũng bắt thăm luôn" (Tv 22: 19).
"Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba", tức chín giở sáng. Thánh Gioan định vị việc đóng đinh vào giữa trưa. Đây là một trong những tiểu dị giữa các thánh ký. "Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp", đối với Đức Giê-su, điều nầy là một sỉ nhục thêm nữa.
12. Trên đồi Can-vê (15: 29-32):
Chỗ hành hình được định vị ở bên vệ đường dẫn đến Giê-ru-sa-lem. Đây là chỗ chính quyền muốn: cảnh tượng những tội nhân hấp hối trong đau đớn quằn quại phải có hiệu quả răn đe đối với những người qua đường. Chính đó là lý do tại sao thánh ký nêu lên việc "kẻ qua người lại đều nhục mạ Người".
Đức Giê-su trên thập giá chịu những lời nhục mạ của ba hạng người.
- Những người Do thái qua đường và nhận ra Ngài.
- Các thành viên Thượng Hội Đồng (các thượng tế và các kinh sư) đến tham dự vào cuộc hành hình và buông những lời chế giễu Ngài cho đến tận lúc đó.
- Sau cùng, hai tên cướp. Thánh Mác-cô không nói về "tên trộm lành" như Lu-ca.
Như vậy, Đức Giê-su thật sự bị bỏ rơi và thật sự bị nộp vào trong tay của những kẻ thù Ngài. Chính ở nơi đây theo bài tường thuật của thánh Mác-cô mà phải đọc Thánh vịnh 22 mô tả những đau khổ của Người Công Chính và niềm hy vọng đầy tin tưởng của ông. Chính những câu đầu tiên của Thánh vịnh nầy mà Đức Giê-su sắp thốt lên: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa con, sao Ngài bỏ rơi con !". Xin được trích dẫn những câu 7, 8, và 9:
"Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mõ buông lời mĩa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó ! Người có thương, giải gỡ đi nào !"
13. Đức Giê-su chết trên thập giá (15: 33-37).
"Vào giờ thứ sáu (tức giữa trưa), bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín (tức ba giờ chiều)". Chúng ta nhận thấy thánh Mác-cô phân phối những biến cố thành ba giai đoạn, mỗi giai đoạn gồm ba giờ: đóng đinh vào lúc chín giờ, bóng tối vào lúc giữa trưa và chết vào lúc ba giờ. "Bóng tối bao phủ khắp mặt đất", thánh ký đọc thấy ở đây một dấu chỉ: cái chết của Đức Giê-su trên thập giá có một tầm mức hoàn vũ.
Chúng ta không thể bỏ qua sấm ngôn của ngôn sứ A-mốt gợi lên Ngày của Chúa như ngày chịu tang đứa con một:
"Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sẩm giữa lúc ngày đang sáng.
….
Ta sẽ làm cho đất nầy chịu tang
như người ta chịu tang đứa con một"
Những sấm ngôn khác (Giô-en, Xô-phô-ni, vân vân) loan báo rằng ngày Xử Án được đi kèm theo những dấu chỉ vũ trụ (mặt trời tối sầm…). Tuy nhiên, những sấm ngôn nầy phác họa "Ngày của Chúa" như ngày thịnh nộ. Ngay cả nếu giờ Đức Giê-su chết, trong một mức độ nào đó rồi, là giờ xử án đi nữa, thì cũng không là giờ thịnh nộ, nhưng trái lại, giờ của lòng xót thương vô hạn của Thiên Chúa, giờ tha thứ, giờ của tình yêu Thiên Chúa cho đến tận cùng.
"Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa con, sao Ngài bỏ rơi con ?" Đây là tiếng kêu bi thương trong cảnh khốn quẫn mà Người Công Chính thốt lên trong Thánh vịnh 22. Đức Giê-su trích dẫn. Sau khi biết con người, bạn bè Ngài, những môn đệ thân thiết nhất của Ngài đã bỏ rơi Ngài, Đức Giê-su cảm nhận một sự chơ vơ cô quạnh tuyệt mức, ngay cả chính Chúa Cha dường như cũng bỏ mặc Ngài. Đức Giê-su chết trong nỗi cô đơn tuyệt mức. Đây thật sự là một sự dâng hiến trọn vẹn bản thân mình, một sự quên mình tuyệt đối cho đến mức nó mang dấu ấn của Thiên Chúa.
"Ê-lô-I, Ê-lô-i…" Những từ được trích dẫn bằng tiến A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su. Những người tham dự xem ra nghe hình thức tiếng Hy bá (Mát-thêu phiên âm: Ê-li, Ê-li). Ấy vậy, chúng ta biết rằng, theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li phải trở lại trên cõi đời nầy để giới thiệu cho các tín hữu Đấng Mê-si-a. Lời cười cợt thật độc địa: Hắn đang hấp hối, bị đóng đinh trên thập giá, mà vẫn còn tin mình là Đấng Mê-si-a khi cầu cứu ông Ê-li !
"Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm". Cử chỉ nầy được hiểu tốt hơn ở nơi bản văn của thánh Gioan ở đó Đức Giê-su vừa mới nói: "Ta khát". Thánh Mác-cô dường như nói bóng gió rằng một trong những người tham dự - hay một trong những người lính – thử làm Đức Giê-su tỉnh lại để xem Ê-li có đáp trả lời cầu cứu của Ngài hay không ! Nhưng Đức Giê-su không nếm; Ngài tắt thở.
Cả bốn Tin Mừng đều giữ lại sự cố nầy vì nhiều bản văn Kinh Thánh soi sáng cho nó. Chúng ta đọc ở Thánh vịnh 69 những tiếng rên rỉ của một người tôi trung, nạn nhân của lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa.
14. Tiên báo một thế giới mới (15: 38-39).
Đức Giê-su vừa tắt thở. Thánh Mác-cô dẫn chứng hai sự kiện, cả hai đều giàu có ý nghĩa và bổ túc cho nhau:
a- "Bức màn trướng trong Đền Thờ bổng xé ra làm hai từ trên xuống dưới". Hoặc là bức màn cửa được giăng trong tiền sảnh; hay bức màn phân cách nơi thánh với nơi cực thánh ở đó chỉ vị thượng tế mới có thể bước vào, một năm một lần, để thực hiện nghi thức Xá Tội. Dù bức màn nào bị xé ra làm hai, ý nghĩa vẫn như nhau: "con đường đến với Thiên Chúa từ đây được mở rộng cho tất cả mọi người", việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn quyền ưu tiên của dân Ít-ra-en: cái chết của Đức Giê-su trương rộng ra cho hết mọi người. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của sự hiện diện của Thiên Chúa, đã không còn đóng vai trò của mình nữa; đền thờ thực sự của Thiên Chúa sẽ là "Thân Thể Phục Sinh" của Đức Ki tô – như chính Ngài đã công bố.
b- Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Ngài tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, Người nầy là Con Thiên Chúa". Viên đội trưởng đã nghe nhiều lần những giọng nói ở giữa đám đông: "Người nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa". Ông lập lại diễn ngữ nầy, dù không hiểu hết mức độ của nó, nhưng bị thuyết phục, bởi những gì ông đã chứng kiến, rằng tội nhân nầy là một người Công Chính đặc biệt. Lời tuyên xưng nầy của viên đội trưởng là "dấu chỉ tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân"; đây là lời chứng đầu tiên về ơn cứu độ phổ quát mà việc bức màn của Đền Thờ bị xé ra làm hai loan báo.
15. Các người phụ nữ (15: 40-41).
Thánh ký trích dẫn đích danh ba người phụ nữ tín trung và đạo đức đứng xa xa, nhưng không xa lắm cảnh tượng Đức Giê-su đang hấp hối.
a- Trước tiên, "bà Ma-ri-a Mác-đa-la" (nghĩa là bà Ma-ri-a quê quán Mác-đa-la), người phụ nữ mà Đức Giê-su đã trừ bảy và từ đó bà luôn theo Đức Giê-su và phục vụ Ngài. Đừng lẫn lộn với người phụ nữ tội lỗi vô danh khóc sướt mướt về tội lỗi của mình (Lc 7: 36-50).
b- "Bà Ma-ri-a, mẹ các ông Gia-cô-bê thứ và Giô-sê". Chính hai ông nầy mà trước đây thánh Mác-cô gọi "anh em của Đức Giê-su" (Mc 6: 3). Quả thật, dường như bà Ma-ri-a, mẹ của hai ông, là bà con gần của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Sự hiện diện của hai người phụ nữ nầy rất gần với bản văn của thánh Gio-an: "Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la" (Ga 19: 25). Danh xưng "chị" có thể chỉ chị họ. Có một truyền thống luôn luôn muốn rằng Tông Đồ Gia-cô-bê thứ là anh họ của Đức Giê-su – truyền thống nầy đã gặp thấy những âm vang trong nghệ thuật thánh.
c- Người phụ nữ thứ ba mà thánh Mác-cô nêu tên là "bà Sa-lô-mê" chung chung được nhận dạng là vợ ông Dê-bê-đê, mẹ của hai Tông Đồ Gioan và Gia-cô-bê (Một Gia-cô-bê khác, được gọi Gia-cô-bê trưởng). Chúng ta biết rằng thánh Gioan là vị Tông Đồ duy nhát hiện diện dưới chân thập giá. Mẹ của ông cũng vậy.
Vả lại, thánh ký xác định rằng có nhiều phụ nữ khác đến từ Ga-li-lê. Điều nầy xác minh những lo lắng của các thượng tế, họ sợ rằng trong đám người hành hương có những cảm tình viên của Đức Giê-su. Có lẽ những người phụ nữ nầy không đến một mình, nhưng với gia đình của họ, chồng, con vân vân. Những người Ga-li-lê nầy không thể hay không dám tỏ mình ra.
16. Mai táng Đức Giê-su (15: 42-47).
Theo tập tập Rô-ma, để có hiệu quả răn đe, xác của tội nhân phải bị bêu rếu trong nhiều ngày; nhưng luật Do thái hoàn toàn khác: hoàng hôn không được phủ bóng trên xác chết của tội nhân; sách Đệ Nhị Luật xác định rằng thi hài tội nhân phải được mai táng trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22).
Mặt khác, nếu không có ai can thiệp, thi hài của Đức Giê-su có nguy cơ bị ném vào trong một hố chung cùng với thi hài của hai tử tội khác, và chỉ có quan tòa mới có thể quyết định cho nhận thi hài lại.
Cuối cùng, theo cách tính của người Do thái, chiều bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng tất cả mọi việc làm. Vì thế, việc mai táng phải gấp rút. Ấy vậy, có một ngôi mộ trống ở gần bên cuộc hành hình: một giải pháp nhanh và tạm thời. Chính đây là điều mà chủ nhân của ngôi mộ nầy nghĩ đến, ông là một môn đệ bí mật; ông chưa bao giờ dám bày tỏ sự thiện cảm của mình khi Đức Giê-su còn sống, vì ông là một thành viên Thượng Hội Đồng; ông là một trong những người giàu có thế giá chủ trì công nghị tối cao với các Kỳ Mục. Lúc đó, thu hết can đảm, ông mạnh dạn đến gặp tổng trấn Phi-la-tô xin thi hài Đức Giê-su. Viên tổng trấn chấp nhận luật Do thái bởi vì ông nghĩ rằng việc bêu xấu như tập tục Rô-ma là vô ích. Theo luật, tổng trấn phải giao lại thi hài cho gia đình của nạn nhân, nhưng có lẽ cuộc vận động của ông Giô-xếp, uy tín của một thành viên Thượng Hội Đồng, đã gây ấn tượng trên quan tổng trấn; mặt khác, ông Giô-xếp không thể nào hành động mà không có sự đồng ý của Đức Nữ Trinh.
Những biến cố sau cùng nầy khiến chúng ta không thể không nghĩ đến những lời của Đức Ki tô: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12: 24). Ngay khi Đức Giê-su vừa trút hơi thở cuối cùng, nhiều dấu hiệu cho thấy lời loan báo nầy xác thực: một viên đội trưởng công bố sự siêu việt của người tử tội nầy, đám đông ra về vừa đấm ngực ăn năn (thánh Lu-ca nói với chúng ta), một môn đệ bí mật vượt thắng nỗi sợ hãi của mình, viên tổng trấn Rô-ma chấp nhận lời thỉnh cầu ngoại lệ.
Vì thế, Đức Giê-su, sứ giả nghèo khổ nầy, vài ngày trước đây đã chấp nhận cho một người phụ nữ tội lỗi có lòng hối cải xức dầu thơm đắt tiền cho thân thể mình, nay được nghỉ yên trong ngôi mộ của một nhân vật giàu có, ngôi mộ hoàn toàn mới (những sản phẩm đầu mùa nầy không phải thuộc vào Thiên Chúa ư ?), như thử những dấu chỉ danh dự mai táng nầy là những dấu chỉ báo trước việc Ngài bước vào trong vinh quang!
Ngôi mộ thực tế là một phòng tang ở giữa có một băng ghế dài để đặt thi thể; ở phía trước là tiền sảnh; lối vào thì hẹp và thấp. Để lấp cửa mộ, người ta lăn một phiến đá lớn.
Thi hài Đức Giê-su được đặt ở trên băng ghế dài. Thánh Mác-cô nói với chúng ta bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a, mẹ ông Giô-sê quan sát cẩn thận những chi tiết của việc mai táng. Thế nên, chính hai bà vào sáng tinh sương ngày hôm sau sẽ là hai người đầu tiên chứng nhận ngôi mộ trống. Lời chứng của họ chẳng có giá trị gì.
Như vậy ngày đau thương được hoàn tất giữa những dấu ấn của lòng trung thành và tình yêu mến.
KẾT LUẬN:
Bài tường thuật của Mác-cô – như bài tường thuật của các thánh ký khác – được diển tả một cách rất đơn giản. Không một chi tiết bi thương nào được thêm vào cho bài tường thuật đơn giản nầy; những sự kiện tự nó đủ để nẩy sinh tình cảm.
Ba tấn thảm kịch được chồng chéo nhau trong cuộc thương khó của Đức Giê-su:
- tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối; - tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người; - tấn thảm kịch của tội lỗi.
1. Tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối:
Đức Giê-su đã công bố sứ điệp khó khăn, tuy nhiên không nhượng bộ và thỏa hiệp; Ngài đã lật đổ những ý tưởng cố hữu, kết án câu nệ luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, rồi sự thù hận liên kết với nhau tấn công Ngài. Những vị lãnh đạo tôn giáo Ít-ra-en đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a vì Ngài không đáp ứng đúng hình ảnh mà họ tự tạo nên. Việc họ quyết tâm ăn thua đủ với Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ nghĩ tưởng: Đức Giê-su đã chiến thắng cái chết, nhưng Ít-ra-en với tư cách dân thừa hưởng Lời Hứa, không còn hiện hữu nữa.
2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người:
Khi đón nhận kiếp người, Đức Giê-su chấp nhận thân phận "sinh ly tử biệt". Vì thế, Ngài muốn đảm nhận cái chết trong tất cả sự khiếp sợ cùng với những đau khổ của nó. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến cho Ngài phải chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài. Số phận nầy nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa: "Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi nhận được" (Ga 10: 17-18). Đây là cử chỉ bác ái tột cùng: Đức Giê-su đã muốn chia sẻ số phận của những kẻ bị tra tấn, bị khổ hình, những người chết vì đạo, để tất cả những ai phải chết trong những khốn khổ thậm tệ nhất, và tất cả những ai phải chịu đau đớn về thể xác cũng như luân lý, gặp thấy trong cuộc thương khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Chúng ta nên lưu ý rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có sự sung mãn: sự sung mãn của sự sống, sung mãn của những điều thiện hảo, sung mãn của ân sủng.
3. Tấm thảm kịch của tội lỗi:
"Nầy là Mình Thầy bị nộp vì anh em. Vì nầy là máu Thầy đổ ra để muôn người được tha tội". Đức Giê-su đã giải thích rõ cái chết của Ngài. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì cả nếu chúng ta không để mình vào trong mầu nhiệm. Mầu nhiệm của "ơn Cứu Chuộc". Người cứu chuộc (gô-en), chính là người phục hồi nhân phẩm cho thành viên của gia đình bị hoạn nạn, và chuộc lại, nếu phải chịu cảnh đời nô lệ vì nợ nần. Chính đó là ý nghĩa đặc thù của từ ngữ Hy bá mà chúng ta dịch "Đấng cứu chuộc".
Bất chấp sự soi sáng thánh kinh nầy, biết bao câu hỏi nẩy sinh trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Sự Thiện. Ấy vậy, Sự Thiện, chính là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa chan chứa tình yêu, Đấng đã không muốn con người một mình gánh chịu những hậu quả của tội lỗi mình. Ngài đã sai Con Một Ngài để chia sẻ tận mức gánh nặng tội lỗi và xóa đi những vết nhơ của chúng ta. Đó là lý do tại sao Thập Giá là "vinh quang" của Thiên Chúa như thánh Gioan phát biểu.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn , hoặc vừøa đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế:
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
85% đau khổ là do người làm khổ người.
5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh , nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị , thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm:”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy:”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi !
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý Khách tài tình nên trải vị gian truân, Một mai gặp hội phong vân. (Cao bá Quát) hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói:”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái ; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này:”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến:”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích? Phải phân biệt:
Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
Cứ mỗi năm khi cử hành lễ lá mỗi người chúng ta đều có những suy nghĩ, đều có những cảm nghiệm thật đẹp, thật lạ lùng.Lễ Lá là ngày lễ vui bởi vì mỗi người sẽ được phát một cành lá để cầm ta, để rước Chúa vào thành thánh như trẻ Do thái lúc xưa, nhưng đồng thời chúng ta cũng tưởng niệm lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
HAI ĐÁM RƯỚC, HAI HÌNH ẢNH TRÁI NGƯỢC NHAU:
Lễ Lá dân Do Thái, đặc biệt các trẻ em náo nức, tay cầm cành vạn tuế, trải áo trên đường, đón rước Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem như một vị cứu tinh, một vị anh hùng, một Đấng Mêsia lẫm liệt, oai phong ngồi trên mình con lừa. Dân và trẻ con hát hò, tung hô vang lừng để đón chào Đấng Mêsia như một vị vua chiến thắng. Hình ảnh vui mừng, hình ảnh tung hô Vua Giêsu trong ngày lễ lá hoàn toàn trái ngược với vài ngày sau đó, Chúa Giêsu mặt mũi tả tơi, máu me bê bết, vác cây thập giá tiến lên đồi Golgotha, không trống không kèn, không tiếng hát hò du dương, không có những cành cây xanh, không có những nhánh cây vạn tuế, mà chỉ có những lời xỉ vả, nhiếc mắng và những lời kết án hầm hồ. Thay vì những nhánh cây xanh tươi, chúng ta chỉ thấy mỗi cây thập giá nặng nề đè trên vai Chúa. Đây là hai hình ảnh, hai đám rước hoàn toàn trái ngược nhau.Có suy nghĩ kỹ về hai đám rước này, chúng ta mới cảm nghiệm được thân phận làm người của Chúa và mới nhận ra được Con-Người-Chúa-Của-Chúa.
NỖI CƠ ĐƠN CỦA CHÚA NÀO AI THẤU ?:
Ngày Chúa Nhật Lễ Lá thường người ta có cảm tưởng phải nghe bài Tin Mừng khá dài và có người thấy mệt mỏi khi phải nghe các bài Tin Mừng này. Tuy nhiên, chúng ta cần phải công bằng để nghe chậm rãi bài Tin Mừng của các thánh sử tường thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Chúng ta phải dừng lại từng đọan, từng chặng để suy đi nghĩ lại về cuộc khổ hình diễm phúc của Chúa Giêsu. Chúng ta phải cảm thông với nỗi cô đơn của Chúa trong giây phút đau khổ này. Phêrô, Giacôbê và Gioan là ba môn đệ thân tín nhất của Chúa cũng đã bỏ rơi Chúa. Các ông ngủ khì mặc cho Thầy đang phải trằn trọc, đau buồn đổ mồ hôi máu.Giuđa chỉ điểm cho
quan quân tới bắt Chúa bằng một nụ hôn. Tất cả các môn đệ đều sợ hãi, đều nhát đảm bỏ Chúa mà chạy trốn. Phêrô yếu nhược đến chối Thầy trước lời nói của một cô tớ gái. Chúa Giêsu bị đám đông cuồng nhiệt la ó xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Thật Chúa Giêsu đang trong tình trạng cô đơn đến tột cùng. Ngài có cảm tưởng như Cha Ngài cũng bỏ Ngài:” Lạy Cha, sao Cha lỡ bỏ con ?”. Vâng phải dừng lại, chiêm ngắm Con-Người-Chúa-Của-Chúa trong thân phận làm người, chúng ta mới hiểu được thế nào là con người đau khổ, con người tan nát của Chúa. Ngài không còn hình tượng người khi người ta đối xử hết sức tàn nhẫn đối với Chúa. Chúng ta cảm nhận làm sao khi danh dự và phẩm giá của Chúa Giêsu bị chà đạp, họ quấy nhiễu bêu diếu chúa như thế nào; đầu bị đội mão gai thay cho mũ triều thiên, thay cho vương miện vua của Ngài. Ngài bị lột áo, chỉ còn một chút che thân mà thôi. Chúa đau khổ và cô đơn đến tột cùng.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu vẫn còn kéo dài cho tới ngày tận cùng thế giới. Chúa yêu thương con người, loài người và từng người. Ngài chấp nhận nỗi cô đơn cay đắng, đau khổ tột cùng để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho mỗi người cho từng người.
Thập giá là nỗi khổ nhụ, nhưng lại là sự vinh quang cho con người. Xưa dân Do Thái đi trong sa mạc bị rắn độc cắn, khi họ nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát, ngày nay với lòng tin sâu thẳm mỗi lần nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ nhận ra lòng thương xót của Chúa và đón nhận được ơn cứu độ. Chỉ có ơn cứu độ nơi thập giá của Chúa Giêsu mà thôi bởi vì ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận vác thập giá mà theo chân Chúa. Amen.
Nhằm chuẩn bị tâm hồn người tín hữu bước vào Tuần Thánh - tuần lễ cuối đời của Ðức Giêsu. Hội thánh cho tường thuật trước biến cố tử nạn của Ngài. Chúng ta cùng chia sẻ những lo buồn, đau khổ của Ðức Giêsu và cùng sống với Ngài qua "Vụ án Ðức Kitô".
1 - Thời gian
• Lễ Vượt Qua của người Do thái;
• Thời quan toàn quyền Lamã Philatô cai trị; Hêrôđê làm vua dân Do thái, Caipha là thượng tế;
• Chúa Giêsu bị bắt và xét xử vào ban đêm.
2 - Tính chất
• Bất công và ngạo ngược.
• Luật không cho phép xử ai lúc ban đêm, vì không quang minh chính đại, và thiếu các nghị viện trong hội đường xét xử (gồm 70 vị).
• Vì Chúa bị giải đến thượng tế Anna (bố vợ của Caipha) đã về hưu, thay vì đến Caipha.
• Tội danh không thống nhất giữa tòa đạo và tòa đời.
3 - Lý do
• Xung đột tư tưởng giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo • tinh thần Do Thái; • Làm quần chúng thất vọng từ chối hình ảnh vị cứu thế về phương diện chính trị và xã hội.
4 - Vụ án
a - Trước Caipha:
Tội danh:
• Lộng ngôn phạm thượng; tự xưng là Thiên Chúa, Ðấng Cứu Thế; • Xúc phạm đền thờ: "Phá đền thờ này đi, ba ngày sau sẽ xây lại" (ý nnói đền thờ là thân thể Người).
• Vì không được quyền kết án tử hình cho Chúa, nên họ dẫn Chúa qua toà đời. b - Tòa đời: trước Philatô Tội danh • Xúi dân làm loạn (điều này vô căn cứ); • Kêu gọi không nộp thuế cho Xê-da (điều này là gian dối, vì Chúa nói "trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da" • Tự xưng vương (Chúa là vua linh thiêng, không phải chính trị). Tóm lại: Chúa Giêsu chịu kết án không phải vì tội lỗi của chính Ngài; nhưng "chính vì tội lỗi chúng ta mà Ngài đã phải tan xương nát thịt".
Lạy Chúa Giêsu, Con biết Chúa đã chấp nhận đau khổ, chịu tử nạn, vì yêu thương. Xin cho con thêm tình yêu của Chúa, Ðể con cũng dám chịu khổ cho anh chị em của con.
Bình minh thế kỷ 21 mới lóe lên. Nhiều cánh cửa còn khép kín. Người ta mong chờ những giải pháp tốt đẹp cho bao nhiêu vấn đề bế tắc hôm nay. Bế tắc như những ngày cuối đời của Ðức Giêsu dày đặc bóng tối. Ðâu là lối thoát cho nhân loại ? Lối thoát cho nhân loại cũng chính là lối đã dẫn Ðức Giêsu ra khỏi bóng đêm dày đặc đó.
BÓNG ÐÊM DÀY ÐẶC
Hơn ai hết, Ðức Giêsu cảm thấy một bóng tối dầy đặc bao phủ thân phận con người. "Từ một vị Thiên Chúa, Người đã chọn làm một con người ; trong loài người, Người đã chọn làm thân nô lệ ; trong giới nô lệ, Người lại chọn cái chết thập giá hổ nhục" (Thánh Kinh Tân Ước 1995:796). Bóng tối ghê rợn đã không buông tha Người. Người đã từ một miền tràn ngập ánh sáng đến miền tăm tối khủng khiếp, tối tăm của cây thập giá, bắt nguồn từ một sự phản bội ghê tởm. Ðó là thân phận độc nhất của Ðức Giêsu trong kiếp sống trần gian. Người không còn con đường nào thoát khỏi trần gian, ngoài khổ giá.
Như Chiên Vượt Qua sẽ đổ máu Giao Ước cho muôn người (Mc 14:24), Ðức Giêsu đã phải đối đầu với chính các môn đệ thân tín nhất. Các môn đệ lâm vào cảnh xáo trộn lớn, vì chính Thày cũng chao đảo trước cái chết kinh hồn đang chờ đợi. "Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến" (Mc 14:33). Các môn đệ trước sau không như một. Thề thốt bao nhiêu, phản bội bấy nhiêu. Phêrô là một điển hình. Giuđa là khuôn mầu mọi sự phản bội. Chẳng tin ai được. Thày phải chống cả thù trong lẫn giặc ngoài.
Giặc ngoài, với những âm mưu thâm độc, đã đánh gục Thày thê thảm. "Một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: 'Hãy nói tiên tri đi ! "Và bọn lính canh túm lấy Người mà tát túi bụi" (Mc 14:65). Sau cùng cái gì phải đến đã đến. "Chúng điệu Người ra để đóng đinh vào thập giá" (Mc 15:20), giữa "hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái" (Mc 15:27). Còn cảnh nào bi thảm hơn ! Ngón đòn độc ác dí tới cùng. Giữa đớn đau cùng cực, Người vẫn phải nghe những tiếng la ó thô bỉ. "Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người . . . Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy" (Mc 15:29, 31).
Ðức Giêsu như rơi vào quãng không. Không còn chỗ bấu víu nơi trần gian. Hình như Thiên Chúa Cha cũng quay mặt trước cảnh cô đơn cùng cực ấy, đến nỗi Người phải thốt lên: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?" (Mc 15:34). Ðến mức này, Người như mất tất cả. Ánh sáng không hề le lói cuối đường hầm. Người như chìm trong tuyệt vọng !
Nhưng ánh sáng mạc khải đã bừng lên. Sau khi chứng kiến một cảnh kỳ lạ: một người sắp tắt thở kêu lớn tiếng (TKTƯ 1995:231), "viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: 'Qủa thật, người này là Con Thiên Chúa'" (Mc 15:39). Sức tàn của Người làm rúng động lòng người. Ðúng hơn, tiếng kêu lớn đó diễn tả lòng can đảm vô biên muốn dốc hết ý chí thần phục và chứng tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa Cha đến cùng.
ÐIỂM HẸN
Lòng can đảm đó còn phản ánh nơi những môn đệ trung thành như các phụ nữ theo Chúa, người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa, ông Simon vác đỡ thánh giá Chúa và ông Giuse người Arimathea táng xác Chúa. Họ không ồn ào hứa hẹn, thề thốt, không hèn nhát chối bỏ thẳng thừng, không đang tâm bán đứng Thày chỉ vì mấy chục bạc, không tranh giành địa vị ngay giữa lúc tâm tư Thày trĩu nặng nỗi buồn chết người, không tháo chạy lúc Thày gặp cơn nguy biến . . .
Nếu sự ác hoạt động dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau nơi các kẻ thù và nơi chính các môn đệ, thì sự lành cũng mang nhiều bộ diện nơi các người theo Chúa. Tình yêu có nhiều cách diễn tả khác nhau. Nhưng điểm hẹn vẫn là lòng tin và can đảm như một điều kiện tối thiểu để trở thành môn đệ Ðức Giêsu.
Một biến cố đã phơi bày tất cả sự thật. "Cháy nhà mới ra mặt chuột." Nếu Thày không gặp bước khốn cùng, chắc gì đã phân trắng đen giữa đám vàng thau lẫn lộn. Nhưng giữa cơn chao đảo cực kỳ đó, Thày vẫn đứng vững như thành đồng, nhờ tinh thần vâng phục tuyệt đối Thánh ý Chúa Cha. "Thày hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa Cha, đã biến mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, và chấp nhận vâng lời cho đến chết khổ nhục" (Disciples in Mission 1999:25). Chính vì thế, Thày cũng có quyền đòi hỏi người môn đệ phải hết lòng tin tưởng và can đảm trong mọi biến cố cuộc đời. Can đảm dám loan báo và sẵn sàng đau khổ vì Tin Mừng. Khi chịu đau khổ, "người môn đệ đã tỏ ra nhũn nhặn, khiêm tốn, và kiên nhẫn phi thường, không chống lại lời Chúa, cũng chẳng kháng cự lại kẻ thù." (Disciples in Mission 1999:26).
Làm môn đệ như thế thật khác xa với dự tính đầy nham hiểm của những kẻ quyền hành lúc nào cũng sẵn sàng trút lên đầu lên cổ người Tôi Tớ những vu oan, khổ thống và ngay cả cái chết.Chết là một hình thức phục vụ lớn lao nhất. Nhưng các môn đệ đã không thấu hiểu được bài học đó. "Họ theo Ðức Giêsu, nhưng thiếu đức tính cơ bản nhất là lòng cam kết trọn nghĩa với Người" (Disciples in Mission 1999:27). Chính vì thế, họ đã không lướt thắng được cơn thử thách lớn lao. Nếu tuyệt đối tin vào Thiên Chúa, họ đã có thể dễ dàng biến đau khổ thành nguồn ơn cứu độ như Thày mình.
Lịch sử Giáo hội là lịch sử của lòng can đảm trước những thách đố muôn mặt. "Thế kỷ vừa qua, một thế kỷ - với đặc điểm là có nhiều chế độ độc tài khác nhau và chống đối Giáo hội" (Gioan Phaolô II, VietCatholic 4/3/2000) - đã cống hiến cho Chúa Kitô bao nhiêu anh hùng tử đạo. Giáo hội mạnh hơn người ta tưởng. Nhưng Giáo hội vẫn không bao giờ quên được sự yếu đuối của Ðức Giáo Hoàng tiên khởi khi chối bỏ Thày Chí Thánh. "Chính trên sự yếu đuối này của con người mà Người đã đóng ấn bí tích sự hiện diện của Người" (Gioan Phaolô II, VietCatholic 4/3/2000). Nếu không, Giáo hội hoàn toàn chỉ là công trình của loài người.
Chính vì quên mất đặc tính thần linh của Giáo hội, nhiều môn đệ Ðức Giêsu đã tạo ra lớp hỏa mù che khuất cả dung nhan Ðức Giêsu. Nhưng người môn đệ đích thực không bao giờ lãng quên sự hiện diện của Người như bảo đảm vững chắc nhất cho niềm hi vọng giữa những thử thách lớn lao. "Thế giới hôm nay rất cần niềm hi vọng này. Những nguyên lý cho niềm hi vọng của người Kitô hữu đòi buộc và khuyến khích việc tăng cường sự tín thác nơi Chúa và những sự khoan dung độ lượng hơn nữa đối với những người anh em xung quanh" (Gioan Phaolô II, VietCatholic 4/3/2000).
Một bằng chứng cụ thể cho niềm hi vọng là Ðức Hồng Y Nguyễn văn Thuận. Sau 13 năm tù đầy tại Việt Nam, Ðức Hồng Y đã học được một bài học đắt giá: "Ðức Giêsu tử nạn khổ giá và phục sinh là niềm hi vọng đích thực và duy nhất của chúng ta". Trước khi trở thành niềm hi vọng cho chúng ta, Ðức Giêsu đã múc được nguồn hi vọng đầy hứng khởi nơi tình yêu Thiên Chúa. Ðúng hơn, nhờ cái chết khổ giá, Ðức Giêsu đã làm cho hi vọng vào Thiên Chúa thành hiện thực. Chúng ta có dám tin như Ðức Hồng Y "rằng khi mọi chuyện xung quanh ta hầu như sụp đổ, ngay trong tâm hồn chúng ta, Chúa Giêsu Kitô vẫn không ngừng hỗ trợ chúng ta không" (Gioan Phaolô II, VietCatholic 4/3/2000). Nhờ Mầu nhiệm Phục sinh, Người đã trở thành chìa khóa vàng cho tương lai thế giới (Gaudium et Spes, số 25). Ánh sáng Phục sinh đã lóe lên ngay trên cây khổ giá, khi Ðức Giêsu kêu lên: "Lạy Cha, Con xin phó thác hồn Con trong tay Cha" (Lc 23:46).
Khi các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con 'Sao các ông làm thế?', thì hãy nói rằng: 'Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây'". Hai môn đệ ra đi và gặp lừa con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: "Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?" Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Bốn mươi ngày của mùa Chay đã chấm hết để nhường chỗ cho Tuần Thánh, tuần Khổ nạn của Ðức Yêsu. Năm nay Người lại vào thành Yêrusalem; Người sẽ được cộng đoàn giáo dân hoan hô, để rồi lại sẽ bị kết án và tử hình trên Thập giá! Người lại đau khổ và đang đau khổ qua thân phận làm người của chúng ta.
Nghe lại những bài đọc Kinh Thánh trong Chúa Nhật mở đầu tuần Thương khó, chúng ta nhận thấy, hơn bao giờ hết, khuôn mặt của Ðức Yêsu như hiện ra cách rõ rệt, cụ thể. Người trở nên thật sự "cái đinh" của các nghi lễ Phụng vụ, khiến ta có thể quả quyết là tất cả mọi tư tưởng, tất cả mọi nhân vật đều đang chú tâm theo dõi những bước đi của Người.
Thánh sử Marcô năm nay thuật lại các việc Ðức Yêsu tiến vào Yêrusalem. Cũng như thánh Matthêu, Luca và Yoan, Marcô ghi lại biến cố này với một sắc thái đặc biệt. Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước thái độ xem ra có vẻ mâu thuẫn của Người: Người vẫn khước từ mọi lời tung hô, mọi câu tán tụng và nhất là luôn từ chối nguyện vọng của dân chúng, khi họ định tôn phong Người lên làm vua (Yn 6,15; Cf Mc 6,45; Mt 14,22). Thế mà, trong bối cảnh thuật lại ở Marcô 11,1-11, Ðức Yêsu chẳng những không khước từ lời tán tụng, mà còn đóng vai chủ động khi bảo hai môn đệ chuẩn bị cuộc "đăng quang" cho mình (Mc 11,1-3).
Ngoài ra, Yêrusalem không phải là một thành phố xa lạ đối với Người: từ lúc bé, Người đã được cha mẹ đem lên đây để được dâng hiến cho Thiên Chúa (Lc 2,22-39); lúc đến tuổi thành niên về phương diện tôn giáo, Người cũng đã trẩy hội hành hương Yêrusalem (Lc 2,41-49); trong suốt gần 3 năm hoạt động công khai, từ mùa xuân 28 đến mùa xuân 30, thánh Yoan cũng đã ghi lại nhiều lần Ðức Yêsu xuất hiện ở Yêrusalem (Yn 2,23; 7,10-14; 12,12). Nhưng lần này, sự xuất hiện của Người ở đây mang một ý nghĩa đặc biệt: vào Yêrusalem để thực hiện "giờ" của Người.
Quả vậy, đoạn văn của Marcô mở ra cho chúng ta bối cảnh đó: Ðức Yêsu vào Yêrusalem với tư cách là Vị Thiên Sai của Thiên Chúa, Vị Thiên Sai Thiên Chúa hứa ban cho Dân Người, Vị Thiên Sai đã từng được loan báo qua các sấm ngôn của Kinh Thánh:
"Dòng dõi Người sẽ đạp dập đầu ngươi..." (Kn 3,15).
"Vương trượng sẽ không xa lìa khỏi nhà Yuđa, chiếc gậy thủ lãnh cũng sẽ không rời khỏi chân Người, cho đến khi xuất hiện..." (Kn 49,10).
"Ngay trong dân tộc ngươi, ngay giữa anh em ngươi, Yavê Thiên Chúa sẽ gầy dựng cho ngươi một vị tiên tri như Ta! Các ngươi phải nghe theo Người!" (Tl 18,15).
"Ta sẽ củng cố ngai báu của Người đến muôn đời..." (2S 7,12-16).
"Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân hoan! Hỡi thiếu nữ Yêrusalem, hãy reo hò! Này đây Vua ngươi đến cùng ngươi..." (Za 9,9).
Nhưng có thật Ðức Yêsu là Vị Thiên Sai mà mọi người mong đợi không? Thánh Marcô trong bài ghi lại việc Ðức Yêsu vào Yêrusalem (11,1-11) và cuộc thọ hình của Người (14,1-15,47) sẽ soi sáng cho chúng ta tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi trên:
"Ðấng Thiên Sai đến như một nô bộc!"
1. Ðấng Thiên Sai Ðến
Việc Ðức Yêsu vào thành Yêrusalem không những khiến chúng ta liên tưởng đến những cuộc đăng quang hay kinh lý của các hoàng đế La Mã, Hylạp ngày xưa, mà còn như diễn lại cảnh lên ngôi của các vị vua trong lịch sử Dothái.
Ðavít đã ra chỉ thị rõ rệt về việc đăng quang của Salômon:
"Các ngươi hãy cho đoàn phòng vệ tháp tùng rồi hãy đặt Salômon ngồi trên chính con lừa của ta, đoạn dẫn người đến thung lũng Ghikhon..." (1V 1,33).
Hoặc trong bối cảnh Yêhu được đặt làm vua, Thánh Kinh thuật lại:"Tức thì họ cởi áo choàng của mình ra và trải dưới đất người. Họ thổi tù và và la to: "Yêhu là vua!" (2V 9,13).
Khi ghi lại biến cố trên, chắc hẳn Marcô như muốn trình bày cho ta thấy rõ chính dân Yêrusalem đã tiếp đón Ðấng Thiên Sai và rước Người vào thành của mình. Ngoài ra, hai từ ngữ quan trọng của Marcô giúp ta thêm xác tín về thân thế và sứ mạng của Ðức Yêsu: đó là tước hiệu "Chúa" mà chính Ðức Yêsu gán cho mình, cũng như lời hoan hô của dân chúng: "Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Marcô sử dụng danh từ "Chúa" (Kyrios) với một ý rất thông dụng và thường để chỉ một nhân vật đáng kính, một vị luật sĩ nổi danh nào đó, hoặc dùng trong ngôn ngữ xã giao hằng ngày... như tiếng "ông", tiếng "Ngài" của chúng ta chẳng hạn hoặc để chỉ Ðức Yavê Thiên Chúa theo bản dịch LXX, và khi nói về Ðức Kitô thì từ ngữ thông dụng nhất là "Thầy" hoặc "Con Người", chứ không phải là "Chúa". Câu 3 đoạn 11 là trường hợp duy nhất trong Phúc Âm Marcô, trong đó từ ngữ "Chúa" được áp dụng cho Ðức Yêsu, mà lại do chính Người nói về mình.
"Nếu có ai hỏi chúng con: "Tại sao các ông làm như thế?", thì các con hãy đáp: "Vì Chúa cần dùng, rồi Người sẽ giao hoàn lại sau" (Mc 11,3).
Ðó chính là tước hiệu mà Cựu Ước luôn dành cho Thiên Chúa hoặc Ðấng Thiên Sai, đồng thời cũng là danh hiệu mà các tín hữu tiên khởi sau này sẽ dùng để chỉ về Ðức Kitô Phục sinh: "Chúa Yêsu Kitô".
Ðồng thời tiếng hoan hô chào mừng của dân chúng mang một ý nghĩa rõ rệt:
"Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến" (Mc 11,9).
Trong khi Luca lại ghi:
"Chúc tụng Ðức Vua..." (Lc 19,38).
Các lời hoan hô trên quả như muốn giới thiệu Ðức Yêsu chính thật là Ðấng Thiên Sai đang đến với Dân Người. Lời hoan hô đó là tiếng nói thoát ra từ tâm tình Thánh vịnh ca ngợi 118,25-26. Dân Dothái thường hát bài tán tụng này vào các dịp đại lễ, đặc biệt dịp lễ Vượt qua để tán dương Thiên Chúa.
Hosanna! Xin hãy thi ân! (2S 14,4).
Có nghĩa: Xin hãy cứu tôi! Xin dủ tình ban ơn cứu độ!
Trong khung cảnh tưng bừng, giữa tiếng ồn ào náo nhiệt của dân chúng, Marcô ghi thêm: "Ðức Yêsu đã tiến vào đền thờ Yêrusalem".
Người đến như một Vị Thiên Sai. Dân chúng đón tiếp Người với nghi lễ xứng đáng dành cho một Vị Thiên Sai như thấy mô tả trong Kinh Thánh (Za 9,9), nhưng bí mật vẫn bao trùm trên Người: "Sau khi quan sát chung quanh, và vì trời đã về chiều, Người ra khỏi thành để trở về Bêthania với 12 môn đệ!" (Mc 11,11).
Dân chúng hoan hô Người! Dân chúng chờ đợi Người tỏ uy quyền như một Môsê, một Ðavít, một Salômon xưa, hoặc như một lãnh tụ trong ngày công khai ra mắt, nhưng tại sao Người không lưu lại Yêrusalem, hoặc tại sao không đọc một tuyên ngôn vạch rõ chương trình hoạt động?
Người đã khiến đám dân ủng hộ mình phải thất vọng, hoặc chính Người đã phải chua chát trước thái độ vụ hình thức và không hiểu biết của họ...? Hầu như để bổ túc và giải đáp bí ẩn đó, Marcô mới mời gọi chúng ta nghe thuật lại cuộc Khổ nạn của Người (Mc 14,1-15,47).
2. Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc
Quả thật dân chúng đã không gặp được nơi Ðức Yêsu vinh hiển vào Yêrusalem như một Ðavít chiến thắng, một Salômon trẻ trung xưa, cũng như không tìm thấy nơi Người khuôn mặt kiêu hãnh của một vị lãnh tụ, khả dĩ đáp lại nỗi chờ mong của họ.
Ðức Yêsu đã vào Yêrusalem khiêm nhu trên lưng lừa qua hình dáng một người nô bộc! Sự thật quá phũ phàng!
Có lý nào Ðấng Thiên Sai toàn dân mong đợi trông lại thê thảm và tầm thường như thế?
Bằng một lối tả chân sống động, Marcô loan báo cho ta việc Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi một cách "tréo cẳng ngỗng", không ai có thể ngờ! Ngoài vẻ mặt quen thuộc của người nô bộc được ghi trong Ðệ nhị Isaia mà Ðức Yêsu đã sống lại cách trọn vẹn, hai đặc tính khiêm nhu của Ðấng Thiên Sai, Marcô muốn vẽ lại cho chúng ta, sau biến cố vào Yêrusalem, đó là: sự cô đơn và thinh lặng của Ðức Yêsu trong suốt thời kỳ Khổ nạn!
Marcô đã cố gắng trình bày một cách linh động sự cô đơn tuyệt đối của Ðức Yêsu sau những tiếng hoan hô tán tụng của dân chúng. Chẳng những Người đã bị dân bỏ rơi, mà ngay cả các môn đệ thâm tín của Người cũng xa lìa, trốn tránh!
Tại Ghếtsêmani, đáng lẽ những người này phải tỉnh thức, lắng nghe tâm sự của Người, thế mà họ lại ngủ mê mệt (Mc 14,37-40).
Lúc Người bị bắt, tất cả đều bỏ trốn (Mc 14,50). Và có lẽ để tăng thêm vẻ bi đát cho cảnh cô đơn này, Marcô đã không ngần ngại ghi lại cách châm biếm cảnh một môn đệ trẻ vứt bỏ áo quần mình để thoát thân (Mc 14,51-52). Phêrô cũng mạnh dạn chối từ (Mc 14,62-71). Có chăng là sự hiện diện của một con gà vô tội, cố gáy lên hai lần (Mc 14,72) như thức tỉnh những người thân! Người bị ngay cả Cha của mình bỏ rơi (Mc 15,34-35). Thật là một cảnh cô đơn tuyệt đối:
Ngoài ra, đóng vai thân phận người nô bộc Yavê "bị hành hạ, nhưng Người vẫn khiêm nhu, và không mở miệng thốt lên lời nào. Như một con trừu bị điệu đi giết, như một con chiên câm miệng trước người thợ xén lông, Người đã không mở miệng" (Is 53,7).
Qua sự im lặng lạ kỳ này, Ðức Yêsu, như muốn mời gọi và khiêu khích tính tò mò của ta:
"Ông ấy có phải là Ðấng Thiên Sai thật không?"
Những ai chờ đợi nơi Người những hành động phi thường, những biện bác hùng hồn, chắc hẳn đã thất vọng! Vì nếu họ không hiểu được Người, làm thế nào có thể khiêm nhường và im lặng khám phá ra ý nghĩa của nghịch cảnh khổ giá mà Người sẽ chịu sau này?
Trước cảnh lạ đời ấy, có lẽ chỉ có "những tâm hồn nghèo khao khát Tin Mừng, những kẻ thiếu tự do, những kẻ đui mù, những người bị áp bức, những tâm hồn tan vỡ, những kẻ bị lưu đày, những con người không tiếng nói" (Lc 4,18; Cf Is 61,1; 58,6) mới nhận ra khuôn mặt thật của Người và bắt gặp Người trong địa vị đích thực của Ðấng Thiên Sai Thiên Chúa.
Ðức Yêsu đến, và đến với con người chúng ta qua hình ảnh một người nô bộc; chân lý đó sau này trong tư thế của "con người ngã ngựa", Phaolô sẽ xưng tụng bằng bài ca tuyệt tác trong Ph 2,6-11 mà lịch sử Giáo hội không ngớt loan truyền và làm chứng. Chân lý đó quả đã khiến bao người vấp ngã như đám dân Yêrusalem xưa, bởi họ không nhận ra ý nghĩa cuộc hành trình gian khổ về Ðất Hứa xưa của dân Dothái cũng chính là cuộc hành trình khiêm nhu và thinh lặng của Ðấng Thiên Sai trong giờ Khổ nạn. Ðó cũng chính là cuộc hành trình cứu độ của dân Chúa qua cuộc sống nhân loại ngày hôm nay.
GIẢNG LỄ
Ngày Chúa nhật Lễ Lá hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành Yêrusalem. Dân chúng đã đón rước Người như trong một cuộc khải hoàn. Họ chặt lá, cởi áo trải ra đường để Người đi qua. Họ tung hô chúc tụng Người là Con Vua Ðavít, là Ðấng đến nhân danh Thiên Chúa. Họ muốn lần này Người dứt khoát tuyên bố mình là Thiên Sai và thiết lập triều đại mới cho dân tộc đã từng bao năm chờ đợi được giải phóng.
Nhưng nhìn vào Chúa, những người có kinh nghiệm thấy ngay khuôn mặt Người không diễn tả những cảm tình của quần chúng. Người không đến đáp lại những chờ đợi trần gian. Người sẽ không cỡi một con ngựa trận to lớn, nhưng lại ngồi trên một con lừa nhu mì và tầm thường. Khuôn mặt Người chỉ giãi ra một vẻ hiền dịu trong trắng chứ không có vẻ quắc thước và đắc thắng. Ðám rước lúc đầu có vẻ muốn đưa đến một cuộc suy tôn lãnh tụ, nhưng thực ra đã đi vào chốn lặng lẽ tôn nghiêm của Ngôi Ðền Thờ. Ðức Kitô vào thành không phải để làm Vua theo ước muốn của quần chúng nhưng để thi hành một sứ mệnh siêu nhiên, đòi phải từ bỏ hết mọi vinh hoa quyền thế, cho đến cả sự sống của mình. Bài Thương khó tường thuật cuộc Thụ khổ như chúng ta vừa nghe cho thấy rõ: Ðức Kitô đã vào thành để chịu chết, và chết ô nhục trên Thập giá.
Hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành, Phụng vụ muốn đưa chúng ta đi theo Người cho đến khi chết trong mồ, để có như vậy, chúng ta mới hy vọng được cùng Người chỗi dậy trong đời sống vĩnh cửu. Chân lý này, chúng ta đã rõ. Nhưng hôm nay, Giáo hội muốn chúng ta đào sâu, để thâm tín, để thi hành. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến chết. Phải cùng chết với Người, mới được phục sinh. Thế mà có nhiều người không theo Chúa cho đến chỗ chết. Họ giống như hầu hết quần chúng Dothái ngày trước: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày Chúa nhật Lễ Lá, nhưng như trong bài Thương khó chúng ta vừa nghe, họ đã từ bỏ, phủ nhận, lên án, đóng đinh Chúa. Họ thay lòng đổi dạ ư? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những con người ham sống, muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, trước mắt rẻ tiền. Họ đang sống trong lầm than, hay ít ra, vất vả của cuộc đời. Nghe nói ông Yêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho ngay cả Lazarô chết rữa ra rồi mà còn sống lại. Họ liền nô nức chạy đến với nhà tiên tri đó, muốn công kênh Người lên làm vua, để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Ðến khi thấy Người bất lực trước đối thủ, không cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai, họ chỉ còn một thái độ: xô luôn con người đó nhào xuống chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi bực bội vì đã hy vọng hão huyền. Họ không xứng đáng với con người của Ðức Kitô, với sứ mạng cao cả của Người.
Dĩ nhiên chúng ta không ai muốn đồng hóa mình với đám người Dothái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì thế quyền. Mùa Chay khuyến khích, đòi hỏi mỗi người phải kiểm thảo chính mình, chứ không phải là cứ nhìn vào người khác để phê phán anh em. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống đạo đức của mình, để thấy rõ chúng ta có còn đi theo Chúa không, và có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ, để cùng chết với Người và sống lại với Người không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang, không theo đường lối Chúa nữa, nay giấu giếm che đậy chân lý Phúc Âm này, mài có thể bớt dần các thái độ tỏ ra mình là người tín hữu? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc Âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những điều ấy không? Ngày xưa, đi theo Chúa cho đến Núi Sọ, không có mấy người. Mười hai tông đồ, bảy mươi hai môn đệ cũng không. Chỉ có Ðức Maria và một số người rất ít.
Như vậy, chúng ta đừng mặc cảm nhận ra cuộc đời đạo đức hời hợt hiện nay của mình. Ðiều cốt yếu trong mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh này, là nhận ra tình trạng còn khuyết điểm của ta để cầu xin ơn tha thứ, để hưởng ơn tha tội của Thập giá Ðức Kitô, mà được sống lại đi vào cuộc đời mới.
Cuộc sống mai ngày vẫn là cuộc đời đi theo Ðức Kitô cho đến chết để được sống lại với Ngài. Thế nên tham dự tinh thần của Tuần Thánh này là hun đúc lại niềm tin, sưởi nóng lại lòng mến, để thề hứa lại trong đêm Vọng Phục Sinh: chúng ta nhất định chọn Chúa, đời đời chọn Chúa, mãi mãi trung thành với đức tin, với Giáo Hội; vì dù được lợi tất cả thế gian, mà mất hạnh phúc muôn thuở, cũng là trơ trơ hai bàn tay trắng cộng thêm ân hận vì đã hỏng cả cuộc đời. Nói đơn sơ hơn, trong Tuần Thánh cử hành mầu nhiệm cái chết và cuộc Phục sinh của Chúa chúng ta, không chân lý nào cần được suy nghĩ và thâm tín bằng lời Phúc Âm sau đây: ai ham sống thì chết; còn ai coi nhẹ sự sống sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm và ao ước hạnh phúc trường cửu của mình.
Người biết khinh chê những mối lợi nhỏ trước mắt như thế, mới dễ có lòng nhân, hy sinh tư kỷ cho hạnh phúc của đồng bào, làm gương và giúp ích được cho việc xây dựng quê hương dân tộc. Chúa Yêsu biết trước môn đệ của mình nhút nhát, sợ đi vào con đường Thập giá. Nhưng Người đã hứa ban Thánh Thần cho các ông sau khi sống lại. Và quả thực, khi nhận được Thánh Thần rồi, các tông đồ không còn ham sống, sợ chết nữa, nhưng nhiệt thành xả kỷ theo chân Chúa tiếp tục việc cứu thế. Ngày nay, chúng ta cũng có ơn Thánh Thần để sẵn trong mầu nhiệm Thánh Thể, để ai có lòng tin nhận lấy, sẽ được thêm tinh thần của Ðức Kitô, không ngại xả thân cứu đời, và hằng lập đi lập lại câu nói diễn tả đường lối Thánh Kinh, đường lối dẫn đến hạnh phúc chân thật: "Con Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang". Chúng ta có chấp nhận vác Thánh giá hằng ngày để cùng chết với Chúa, thì mới hy vọng được cùng Người phục sinh trong hạnh phúc trường sinh.
Hôm nay chúng ta đã vào thành với Chúa, và rồi đây sẽ rước Chúa vào lòng; chúng ta xin Ngài cho chúng ta được kết hợp với Người hằng ngày và mãi mãi, vì chỉ có như vậy chúng ta mới được ơn cứu độ và được tham dự vào công cuộc cứu thế của Người.
Truyện kể rằng: có hai người thổ dân Nam phi rất ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn: “Trả được thù rồi” .
Ngày qua tháng lụn, thấm thoát mười mấy năm, cô gái đã có chồng con. Một hôm có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà nhận ra đó là kẻ chặt tay mình, vội vàng trở vào nhà biểu đầy tớ đem sữa bánh ra cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt ra cho hắn coi và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi”. Tên ăn mày xúc động khóc ngất.
Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, người đàn bà, nạn nhân của sự trả thù đã dùng tình thương để xoá bỏ hận thù. Không những tha thứ mà bà con lấy lòng bao dung để thương xót người đã hại mình. Nhìn vào người đàn bà ta dễ dàng nhận ra một tấm lòng thật vĩ đại về thái độ đối xử với kẻ thù. Nhưng so với thái độ của Chúa Giêsu thi không bằng hạt cát ngoài sa mạc, như giọt nước giữa biển đông. Vì bà này bị chính kẻ thù của mình ra tay bắt hại. Còn Chúa Giêsu bị chính những người thân yêu nhất phản bội. Người học trò nhiệt tình được coi như trưởng nhóm lại phản bội ngay trong lúc Thầy mình buồn rầu nhất. Người môn đệ chính mình lựa chon lại đem bán mình với 30 đồng, chỉ bằng một phần mười giá trị chai dầu thơm lúc bấy giờ. Thật đau khổ và xót xa khi người ta vừa mới tung hô mình như một vị vua thì lại nhiệt liệt ủng hộ những người bắt bớ mình. Trước khi bước vào tuần khổ nạn Đức Giêsu đã gặp phải những thái độ làm cho Ngài rất đau buồn:
1. Thái độ của Phêrô
Khi nói đến việc chay trốn, thì không ai trong chúng ta lại nghĩ đến Phêrô, môn đệ được Chúa chọn lên đứng đầu trong các môn đệ và làm đầu Hội Thánh. Mới ngày nào ông tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Rồi ông còn xác tín: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Mạnh hơn nữa, ông còn vỗ ngực xưng tên: “Dù tất cả anh mọi người bỏ Thầy, nhưng “thằng này” dứt khoát không bỏ thầy”. Vả lại, ông lại thể hiện là người nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hay nói đúng hơn không ai trong chúng ta là người cho mình là mạnh mẽ được, vì ai cũng có thẻ sa ngã. Chính Phêrô cũng đã bị vấp vào lỗi này vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh, nên ông đã sa ngã
Lý do thứ hai khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn. Chứng tỏ Phêrô dám hy sinh theo Chúa, nhưng ông không hoàn toàn từ bỏ hết, mà ông chỉ đi theo với một giới hạn nào đó. Vì vậy khi cần đền mạng sống thì ông quá lo sợ, sợ đến nỗi quên mất thầy mình, chỉ còn biết chối để chạy thoát thân.
2. Thái độ của dân chúng
CG đã tiên đoán trước số phận của mình khi nhiều lần nói cho các môn đệ hay, đặc biệt qua dụ ngôn “ Ông chủ vườn nho và các tá điền”. Các tá điền đã giết và hành hạ các gia nhân của chủ, khi họ được sai đến để thu hoa lợi cho chủ. Cuối cùng, chủ đích thân sai con một của mình đến và nghĩ rằng các tá điền sẽ nể. Nhưng chẳng những họ không nể, mà còn giết luôn. Ý nói về số phận của các ngôn sứ và của Chúa Giêsu. Kết cục quả là bi thảm. Buồn thay cho Chúa. Buồn thay nhân tình thế thái, lòng người hiểm độc.
Hãy nhìn ngắm lại những gì mà con người đã đối xử với Chúa:Mới hôm nào, dân chúng hoan hô, rải áo xuống đường, cầm cành lá tung hô vạn tuế con vua Đa- vít ( Giống như hình ảnh chúng ta rước lá vào nhà thờ hôm nay). Vậy mà hôm nay họ lại trở mặt cách đột ngột: Một hai đòi giết, đòi đóng đinh Chúa cho bằng được.
3. Thái độ của Giuđa
Buồn hơn hết, chính là hành hộng trơ trẽn của Giuđa, môn đệ được Chúa chọn và theo Chúa những 3 năm, cùng Chúa chia sẻ vui buồn với Chúa. Vậy mà nhẫn tâm bán Chúa chỉ với 30 đồng bạc. Nham nhở hơn, hắn còn muốn lừa Chúa bằng một cái hốn giả dối nhằm chỉ điểm cho bọn lính bắt Chúa.Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì nên hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Đức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động. Cho dù như thế nào đi nữa thì Đức Giêsu cũng rất đau khổ vì thái độ của người học trò mình coi danh vọng là điểm tựa, coi vật chất lớn hơn tình thầy trò.
4. Thái độ của chúng ta trong tuần Thánh này
Cũng là môn đệ của Thầy Giêsu, đòi hỏi của thánh giá đã và sẽ tiếp tục không khước từ chúng ta. Theo Chúa giữa lúc Chúa được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Chúa, ở lại với Chúa giữa lúc Chúa bị loại trừ, bị bách hại là một thách thức lớn. Càng dấn bước theo Chúa bao nhiêu, đòi hỏi sự hy sinh càng dữ dội bấy nhiêu. Ta hãy nhìn lên Đức Maria, nhìn mẫu gương của tông đồ Gioan, mà hiến dâng tình yêu, hiến dâng lòng trung thành của mình.
Nếu đã có lần nào ta va vấp trong cuộc đời, thì hãy nhìn mẫu gương của mười tông đồ còn lại, là những người đã từng khiếp đảm trốn chạy, nhưng cũng đã lấy lại niềm tin để tiếp tục sống trung thành. Những tấm gương ấy sẽ tạo thêm nghị lực để ta đủ sức đứng lên làm lại những gì đã mất. Mẫu gương trung thành của Đức Mẹ, của các thánh tông đồ, của nhiều chứng nhân khác trong Hội Thánh… sẽ là động lực để chúng ta hoàn thành những đòi hỏi của thập giá suốt cuộc đời mình cách trọn vẹn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết can đảm phó thác cuộc sống cũng như những đau khổ khó khăn trong cuộc sống, để Chúa nâng đỡ, và để chúng con thanh thản hầu có thể bước vào tuần thánh này một cách sốt sắng. Amen
Chúa nhật vừa quanhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một cách diễn tả khác cho sự thật này là hình ảnh vác thập giá của chính chúng ta. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về thực tại thập giá và đau khổ trong cuộc sống của Chúa Giêsu. Việc suy niệm này chắc chắn làm chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta đã mang lấy thập giá đau khổ và hy sinh trong cuộc sống của chúng ta như thế nào ?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ trong cuộc sống và mang lấy thập giá mà Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm điều mà Chúa Giêsu đã làm trước chúng ta và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến chiến thắng cuối cùng trong cuộc đời của chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường trước mắt có vẻ tối tăm và bấp bênh, những lúc đó chúng ta cần xác tín Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã nhắc cho chúng ta, cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và Người sẽ lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà Chúa Cha muốn ban cho Người. Đây cũng là lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta chọn lựa trung thành chịu đựng đau khổ cùng với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo Hội không bao giờ khẳng định đau khổ tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai lại khẳng định giá trị cứu độ của đau khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức”. Khi chúng ta gặp phải bất kỳ một loại đau khổ nào thì đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự thiện hảo đến cho con trong những tình huống đau thương nhất. Xin giúp con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống., chúng ta đã suy nghĩ về việc chết đi cho chính mình để sinh
Với Chúa nhật Lễ Lá hôm nay, cùng với tất cả anh chị em tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong năm Phụng Vụ. Đồng thời, Chúa nhật Lễ Lá hôm nay cũng có một ý nghĩa đặc biệt đối với người trẻ Công Giáo. Bởi vì hằng năm, Giáo Hội đã chọn ngày này làm ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Chọn ngày Lễ Lá, ngày khởi đầu Tuần Thánh là ngày Quốc Tế Giới Trẻ, Giáo Hội cũng muốn kêu gọi người trẻ Công Giáo bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thập Giá, cùng chịu đóng đinh với Người để được Phục Sinh với Người trong cuộc sống mới.
Do đó, Tuần Thánh là thời gian đặc biệt đối với người Công Giáo, thời gian mà cây Thập Giá của Chúa Giêsu được giương cao hơn bao giờ hết. Trong bài Thương Khó chúng ta vừa nghe, cho thấy Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem để chịu chết và chết ô nhục trên cây Thập Giá. Người Công Giáo nào cũng quý mến cây Thập Giá, nhưng mà hình như cách quý mến của chúng ta nặng về tình cảm. Và chúng ta thường lấy cây Thập Giá để an ủi nhau, nhất là khi mình bị bệnh, bị tai nạn, thất nghiệp, hoặc là bất cứ một đau khổ nào ập đến, thì mình an ủi nhau là “Chúa gởi Thập Giá đến chịu khó mà vác”. Rất là đạo đức. Thế nhưng cách an ủi đó dường như cây Thập Giá xuất hiện như một thái độ cam chịu, nhẫn nhục chứ không có gì tích cực. Và ngày hôm nay, không phải chỉ riêng người Công Giáo chúng ta, mà nhìn ra bên ngoài, chúng ta thấy cây Thập Giá của Chúa Giêsu đang bị “phá giá”. Các minh tinh màn bạc, các diễn viên điện ảnh nào cũng thấy đeo một cây Thập Giá trên ngực. Cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã trở thành món trang sức và nhiều khi là một trò hề. Thành thử ra, chúng ta cần phải đi tìm lại ý nghĩa của cây Thập Giá. Và dĩ nhiên, ý nghĩa của cây Thập Giá rất phong phú, hôm nay chúng ta chỉ quan tâm đến một vài ý nghĩa khi suy niệm bài Thương Khó của Chúa nhật Lễ Lá này.
Trước hết, nơi cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa, Ngài ôm lấy tất cả nhân loại trong vòng tay của Ngài, mang lấy tất cả tội lỗi của chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Và chính vì thế mà chúng ta được hưởng nhờ ơn tha thứ mà Ngài thể hiện ra nơi cây Thập Giá.
Cùng với mặc khải đó, thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu còn tỏ lộ một điều thứ hai là sự độc ác dã man và tội lỗi của con người. Bởi lẽ, có cây Thập Giá trên đồi Canvê là có sự hèn nhát của ông Phêrô, có sự phản bội của Giuđa, có sự toan tính quyền lực của những người lãnh đạo lúc bấy giờ, có sự toan tính lợi lộc của những người làm ăn thời bấy giờ. Tất cả gộp lại tạo nên cái chết của Chúa Giêsu trên cây Thập Giá. Ơû trong quá khứ, người Công Giáo chúng ta có thói quen đổ tội cho dân Do Thái đã giết Chúa Giêsu.
Ngày hôm nay thì Giáo Hội có một cái nhìn khác, Giáo Hội đã nói trong Sắc lệnh “Đối Thoại Với Các Tôn Giáo” rằng: “Không thể nào kết án một cách hàm hồ cho dân cư ở Giêrusalem lúc bấy giờ và cho toàn dân Do Thái phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu, cho dẫu những người cầm quyền lúc bấy giờ đã quyết định như thế”. Hơn nữa, Giáo Hội còn nói thêm rằng: “Mỗi một người Công Giáo phải thấy rằng tội lỗi của mình chính là những cái đinh đóng vào Chúa Giêsu”. Thánh Phanxicô Assisi cũng đã nói rằng: “Anh chị em không biết rằng mỗi một tội anh chị em phạm là anh chị em đóng đinh Chúa Giêsu trên cây Thập Giá hay sao?”. Chúng ta chứ không phải người Do Thái. Chính vì thế, cây Thập Giá của Chúa Giêsu bộc lộ sự dã man, độc ác, tội lỗi của anh, của chị, của tôi. Cho nên, khi đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu thì con người thật của chúng ta được phơi bày ra: có những lúc chúng ta cũng phản bội Chúa như Giuđa, có những lúc chúng ta cũng chối Chúa như Phêrô, có những lúc chúng ta cũng làm ngơ, hại người như Philatô, có những lúc chúng ta cũng lên án và vô ơn bạc nghĩa như đám đông dân chúng Do Thái.
Và cùng với việc tỏ lộ khuôn mặt tội lỗi của chúng ta thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu cũng bộc lộ khuôn mặt của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo đó chính là Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, Đấng mà khi phải đối diện với đau khổ và cái chết, mà theo bản tính tự nhiên, Ngài đã run rẩy, sợ hãi, kinh khiếp đến nỗi Ngài phải thốt lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” và “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”. Thế nhưng, người con ấy vẫn cố gắng vượt qua khổ đau để thưa lên rằng “Xin theo ý Cha”, và lời cầu nguyện cuối cùng trong cuộc đời là: “Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha”. Ước gì chúng ta trong những giây phút mà cuộc đời gặp thử thách và đau khổ chứ không phải là hạnh phúc và sướng vui mà mình có thể nói lên câu đó: “Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha”. Tâm tư đó là tâm tư chỉ có những người con hiếu thảo với cha mình trên trời mới dám dâng hiến như vậy, mới dám trao phó và tín thác như thế.
Cho nên, cây Thập Giá Chúa Giêsu, một đàng Thiên Chúa tỏ mình là Đấng yêu thương tha thứ, hy sinh mạng sống vì chúng ta; một đàng chúng ta bị vạch trần tội lỗi của mình và đồng thời Chúa Giêsu bộc lộ dung nhan của người con hiếu thảo.
Chính vì thế, khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay và nhất là trong Tuần Thánh này, mỗi lần chúng ta chiêm ngắm cây Thập Giá Chúa Giêsu, ước gì chúng ta nhận ra ở đó khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha thương xót và tha thứ, ước gì chúng ta nhận ra ở đó con người tội lỗi của mình và ước gì chúng ta cũng nhận ra ở đó khuôn mặt của người con hiếu thảo là Chúa Giêsu để mình bắt chước lối sống của người con hiếu thảo đó. Khi chúng ta khám phá được như vậy, lúc mà mình đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu và ngước nhìn lên Ngài với lòng tin thì lúc đó ơn cứu độ sẽ đến với chúng ta. Amen
Lễ lá hôm nay cho thấy sự oai phong của Messia khởi hành vào đền thánh Giêrusalem. Ngài vào thành trong sự tung hô chúc tụng vang trời của dân chúng. Điều này rất hợp lý, vì Thiên chúa viếng thăm dân người thì đáng được dân Người đón tiếp trong niềm hoân hoan, trong tiếng tung hô vang dậy vì Người ngự đến là để cứu chuộc dân người và đem hòa bình cho các dân các nước. Tuy nhiên, mục đích vào thành của Chúa Giêsu không nhằm đến việc tung hô bên ngoài bằng môi miệng nhưng Ngài nhằm thực hiện lời sấm các tiên tri về Ngài.
Ðức Giêsu vào thành trong những lời hoan hô chúc tụng của dân chúng vốn coi Người là Vị Cứu Thế. Chúa Giêsu cũng có ý tỏ mình cho Israel và cho biết sứ mệnh thiên sai cao cả của Ngài. Tuy nhiên, dân chúng chưa hiểu đúng đắn mạc khải của Ngài. Đa số dân chúng còn nghĩ rằng sứ mệnh Mesia là đòan kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi của họ. Đức Giêsu cỡi lừa con vào thành là đi ngược lại ý tưởng đó, vì Chúa Giêsu không phải là ông vua dùng sức mạnh quân sự để bắt các dân làm nô lệ cho Isrel nhưng đến để cứu các dân khỏi nghèo khổ, đói khát, thù hận và những hình thức bất công. Ngài không đến để kết án người khác nhưng là để tha thứ cho họ. Ngài đến để cho dân chúng tìm được một cuộc sống có giá trị vững bền. Ngài tiến vào thành với tư cách một vị vua hiền từ cỡi lừa con tiến vào như Giacaria đã nói trước: Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!…Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Zac 9,9). Vị vua hiền từ này chiến thắng những thế lực thù địch mạnh nhất bằng cái chết trên thập giá chứ không bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên La mã.
Chúng ta là môn đệ Chúa hãy theo tinh thần của Chúa, sống phù hợp với niềm tin và luân lý yêu thương để làm chứng cho Chúa trước mặt người thế. Chúng ta không bắt chước dân Do thái đón nhận Chúa để rồi kết án thập hình cho Chúa nhưng đón nhận lời Chúa và giữ đúng đường lối Chúa dạy, biết vác thập giá hàng ngày để mai sau được vào vinh quang với Người.
Chúa Giêsu để dân chúng tung hô Người là con vua Đavid nhưng không vì thế mà người quên bổn phận chịu tử nạn để rồi Phục sinh. Chúng ta sống giữa thế gian không vì sự khen tặng, lôi cuốn, dễ dãi của thế gian mà xao lãng bổn phận người kitô hữu. Chúng ta theo Chúa không vì lợi lộc trần gian chóng qua nhưng vì hạnh phúc vĩnh cửu bền lâu Chúa sẽ ban cho.
Lạy Chúa Giêsu, trong ngày Chúa sắp chịu nạn này, chúng con bỗng nhớ đến những ý tưởng dại dột của mình. Chúa từ bỏ những lợi lộc trần gian vì chúng con. Vậy mà hôm nay chúng con đang còn tìm lợi lộc và danh lợi. Nhiều khi vì những danh lợi đó mà con xao lãng việc thờ phượng Chúa, đối xử bất công với anh em tha nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng con xin hứa sẽ thay đổi cuộc sống để làm sáng danh Chúa và mai sau được Chúa thưởng công bội hậu trên Thiên đàng.
Sau hành trình dài sống trong những ngày chay tịnh, hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào tuần Thánh với Chúa nhật Lễ Lá và cao điểm là tam nhật thánh (thứ năm, thứ sáu, thứ bảy). Bầu khí Phụng vụ hôm nay là đi từ niềm vui đến nổi buồn. Vui vì dân chúng hân hoan chào đón Đức Giêsu như vị Vua tiến vào thành để đăng quang. Nhưng sau đó là không khí u buồn vì cũng chính những người hồ hởi đón rước Đức Giêsu giờ đây trở thành những chống báng Ngài và đòi đóng đinh Ngài vào Thập giá. Lý do là vì Ngài đã không đi theo con đường mà họ mong chờ.ø Ngài đã không trở thành vị “Vua chinh chiến”, không dùng bạo lực để giải phóng họ khỏi sự đô hộ của Đế quốc Rôma, nhưng Ngài đã chọn con đường khiêm hạ, đi đến cùng con đường yêu thương với tước hiệu “Vua Hoà Bình – Vua Tình yêu”.
Vào năm1900, Phong trào “Nghĩa Hoà Đoàn” nổi lên ở Trung Quốc. Đó là phong trào nổi dậy nhằm chống lại người ngoại quốc và người Kitô hữu ở Trung quốc. Những người nổi dậy chiếm một trường truyền giáo ở đây. Họ đóng kín các cửa của trường này, chỉ chừa lại một cánh cửa duy nhất để ra vào mà thôi. Nhưng ngay cửa nàyï, họ đặt một cây Thánh giá và họ ra điều kiện là ai bước qua Thánh giá để đi ra ngoài thì sẽ được tự do; còn ai đi vòng qua Thánh giá để đi ra thì sẽ bị bắn chết. Bảy học sinh đầu tiên đã bước qua Thánh giá và ra đi tự do. Người thứ tám là một em bé gái mười tuổi tiến lại gần Thánh giá. Em không bước qua nhưng lại quỳ gối xuống trước cây Thánh giá, cung kính hôn chào Thánh giá và đứng lên đi vòng qua để ra ngoài. Tức thì, em bị bắn chết. Điều lạ lùng là tất cả các học sinh còn lại, khoảng một trăm học sinh, đã theo gương em bé gái đi vòng qua Thánh giá chứ không bước qua. Và tất cả đều bị bắn chết. Và người ta đã thống kê, trong năm1900, có hơn 30.000 Kitô hữu ở Trung quốc đã bị sát hại. Họ thà chọn cái chết hơn là được sống nhưng phải từ chối Thầy Giêsu là Đấng mà mình hết lòng yêu mến. Trong lịch sử Trung quốc và nhiều nơi truyền giáo khác, hàng triệu người đã chết vì đã tin vào Đức Kito và Hội thánh của Ngài.
Lòng trung thành và anh dũng của em bé gái người Trung quốc cũng như của hàng chục ngàn người Kitô hữu như em gợi ý cho chúng ta suy nghĩ về hành trình đức tin của chúng ta trong việc bước theo Đức Giêsu Kitô. Chúng ta theo Chúa với thái độ nào? Với tinh thần nào?
Dân Do thái cầm cành lá trên tay, trải áo xuống đường cung nghinh Đức Giêsu Kitô như vị vua khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Họ xem Ngài như vị Vua mà họ hết lòng mong chờ, tôn kính và mến yêu. Nhưng mấy ngày sau đó, họ cũng chính là những người hò hét đòi đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Tại sao vậy? Tại sao có sự đổi trắng thay đen nhanh chóng như vậy? Đó là vì lòng ích kỷ và hám lợi nơi bản năng tự nhiên của con người. Khi họ thấy Đức Giêsu không còn đem lại lợi ích vật chất cho họ nữa; khi họ thấy Đức Giêsu thất thế trước quyền đời là họ thay lòng đổi dạ, quay lưng lại với những gì mà mình đã từng mong mỏi, tôn kính và ôm ấp yêu thương. Thế mới thấy lòng con người, đúng câu tục ngữ người ta thường nói: “nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Dù bị phản bội như vậy, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương họ và yêu thương họ đến cùng. Ngài yêu thương ngay đến chính những kẻ đã ra tay làm khổ Ngài và hành hạ Ngài đến chết. Ngài đã van xin Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chúng ta hãy chiêm ngắm và cảm nghiệm tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Louis Evely đã nói: “chúng ta là Kitô hữu không phải là vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta là Kitô hữu vì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương chúng ta”. Chúng ta có cảm nghiệm nào cụ thể về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta?
Kỷ niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem, Phụng vụ muốn mời gọi chúng ta đi theo Người cách trung thành trên mọi nẻo đường Ngài tiến bước, nhất là theo Ngài đi vào con đường tử nạn cho đến khi chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Vì có như vậy, chúng ta mới hy vọng cùng Người chỗi dậy trong vinh quang và bước vào đời sống vĩnh cửu. Chân lý này chúng ta đã rõ. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến hết con đường, phải theo Ngài cách trung thành cho đến chết. Chúng ta phải cùng chết với Đức Giêsu thì mới hy vọng được phục sinh với Ngài.
Thế nhưng trong hành trình đức tin, có nhiều người không theo Chúa cách trung thành, không theo Ngài cho đến cuối chặng đường. HoÏ có thái độ và tâm trạng giống như những người Do Thái ngày xưa: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày vinh quang... nhưng khi thấy sóng gió, gặp khó khăn, thử thách trong đời sống đạo là họ chao đảo, nao núng, chối bỏ đức tin của mình. Rất có thể những khi đó, họ sẽ phủ nhận và sẵn sàng lên án tử cho Chúa. HoÏ thay lòng đổi dạ ư ? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những con người ham sống! Họ muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, thứ hạnh phúc trước mắt, thứ hạnh phúc rẻ tiền không phải tốn công tốn sức. Nhưng khốn thay đó chỉ là hạnh phúc giả tạo!
Cũng có rất nhiều người theo Chúa, giữ đạo chỉ vì họ đang sống trong lầm than và vất vả bởi những ngang trái trong cuộc đời. Nên khi họ nghe rao giảng một Đức Giêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho kẻ chết sống lại được, thế là họ liền nô nức chạy theo, muốn tôn phong Ngài lên làm vua để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Nhưng khi thấy Ngài bất lực trước đối thủ, không “cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai” là họ liền bỏ Ngài, thậm chí còn muốn xô Ngài nhào xuống để chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi chướng tai gai mắt. Chắc chắn những con người như thế không thể làm môn đệ của Đức Giêsu được rồi! Chắc chắn họ sẽ không được chung phần vinh quang Phục sinh với Ngài được rồi!
Dĩ nhiên không ai trong chúng ta muốn đồng hoá mình với đám người Do Thái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì thế quyền . . . Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta kiểm điểm lại chính mình, chứ không phải chỉ nhìn vào người khác để phê phán họ. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống của mình để thấy rõ chúng ta có thật lòng đi theo Chúa không? Có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ để cùng chết với Ngài và sống lại với Ngài không ?
Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang và không theo đường lối Chúa nữa bằng thái độ giấu giếm, che đậy chân lý Phúc Âm không dám tỏ ra mình là người tín hữu khi cần thiết? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải biết chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những đều ấy không ? Ngày xưa, không có mấy người đi theo Chúa cho đến Núi Sọ! Mười hai tông đồ cũng không, bảy mươi hai tông đồ cũng không. Chỉ có Đức Maria và một số người rất ít người khác. Nhưng khi nhìn lại như vậy, không phải để hổ thẹn, mặc cảm, nhưng là để chúng ta biết thanh lọc động cơ theo Chúa của chúng ta cho được tốt đẹp và đúng nghĩa hơn. Đồng thời cũng đừng có ai tự vỗ ngực xưng tên mình là kẻ trung thành trong việc theo Chúa, nhưng chúng ta khiêm tốn cầu xin cho mình được ơn ấy bằng đời sống cầu nguyện “kẻo sa chước cám dỗ”.
Xin ơn Chúa giúp để chúng ta mãi mãi là một chiến sĩ can trường trong hành trình đức tin và là một tôi trung của Đức Giêsu Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời này. Amen.
Người Việt Nam chúng ta giờ đây rất quen với danh từ nghĩa địa: người chết mang ra nghĩa địa, đó là chuyện bình thường. Nhưng chúng ta cũng quen dùng đồ vật từ nghĩa địa, thí dụ như xe nghĩa địa, TV nghĩa địa, không biết làm sao kể cho hết những đồ nghĩa địa mà chúng ta đang dùng. Chúng ta vẫn biết đây là những thứ không còn đáp ứng nhu cầu của một số người, nên họ cho vào nghĩa địa. Thế mà đó lại là những thứ cần thiết và đôi khi rất quí giá đối với một số người khác. Đồ vật là như thế, số phận của nó là như thế. Khi không còn hữu dụng nữa, thì nó phải bị vứt ra ngoài. Con người nhiều khi cũng chịu chung số phận với đồ vật. Khi không còn giúp ích được cho người khác nữa, thì khó có thể tồn tại. Chúng ta đang sống trong một xã hội với thời buổi kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận, nên đôi khi chúng ta cũng cảm thấy vướng bận, đối với những người già cả không còn giúp ích gì cho chúng ta nữa, mà trái lại còn gây nên đủ thứ phiền hà. Nghe thì thật bất nhẫn, nhưng chúng ta cũng muốn sớm đưa những thứ vướng bận đó ra nghĩa địa. Con người muốn tìm sự thoải mái cho chính mình mà nhiều khi họ bỏ qua, hay không còn biết gì đến nhiều thứ rất cần thiết, những thứ mà một người bình thường không thể thiếu được: như chữ hiếu, lòng biết ơn và tôn trọng nhân phẩm.
Trong việc cử hành phụng vụ ngày hôm nay, chúng ta vừa chứng kiến một cảnh bi hài kịch. Những con người đó, những môi miệng đó, những đôi tay đó: Họ vừa hoan hô mừng rở, vì họ đã được ăn bánh, đã được chữa bệnh, đã được nghe giảng dạy và họ cũng đã từng mơ ước được sống với Ngài. Nhưng rồi cũng những con người đó, giờ đây họ lại lớn tiếng đòi đóng đinh Đấng đã từng thi ân cho họ. Vì giờ nầy đây, họ thấy Chúa Giêsu không còn cần thiết nữa. Họ cũng nhận thấy Ngài không biết vâng lời họ, Ngài cũng không phục vụ cho những lợi nhuận riêng tư của họ, Ngài không thực hiện đúng với những gì họ mong muốn. Nói đúng ra Ngài không đáp ứng nhu cầu họ đòi hỏi, nên họ loại Ngài ra khỏi cuộc sống của họ. Họ muốn cho Chúa Giêsu vào nghĩa địa của họ. Nhưng Ngài vẫn yêu thương những con người như thế, Ngài biết họ lầm lạc trong suy tư, thiển cận trong tầm nhìn và nông nỗi trong hành động. Ngài đã chịu treo cao lên để kéo họ lên với Ngài, Ngài đã chịu chết vì họ và đã sống lại, để mang cho họ sức sống mới.
Vở bi hài kịch của năm xưa, mặc dù đã trải qua 2000 năm, vậy mà nó cứ vẫn diễn ra hằng ngày. Khi nghe đọc bài thương khó chắc chúng ta không khỏi đau lòng. Nhưng nếu nhìn lại, mỗi người cũng không khỏi giật mình. Nhiều khi chúng ta cũng góp phần vào những tiếng la vang dội, đòi đóng đinh Thiên Chúa của mình. Đôi lúc chúng ta cũng cộng tác với những người cầm roi, để làm cho thân thể nhiệm mầu thêm đau đớn. Cũng có những lần, chúng ta đệm thêm những chiếc gai nhọn, đặt lên đầu Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Thế mà chúng ta vẫn cứ ung dung tự tại, đôi khi còn tự hào về chính mình, tự hào vì mình đã đè bẹp được người khác, tự hào vì bao nhiêu người phải khiếp sợ khi nhìn thấy chúng ta. Cuộc sống hằng ngày chúng ta chỉ biết đòi hỏi để thỏa mản những nhu cầu riêng tư, vì tính ích kỷ đã vương lên quá cao, nên chúng ta bất chấp những thủ đoạn, miễn sao cho bản thân của mình có lợi. Còn người khác ra sao thì mặc kệ. Chúng ta cứ lạnh lùng trước những lời van xin thống thiết, cứ hành động mà chẵng biết đó có phải là sự công bằng hay không, vì con tim yêu thương mà Thiên Chúa đã đặt trong bản thân mỗi người, giờ đây chắc có lẽ, nó không còn có những nhịp đập bình thường nữa. Những lúc đó, là những lúc chúng ta cộng tác vào cái chết đau thương của Đấng đã từng yêu thương chúng ta. Những lúc đó, chúng ta đã muốn loại trừ Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Những lúc đó, chúng ta muốn đem Thiên Chúa của mình vào nghĩa địa, vì trong những lúc đó Ngài không thể phục vụ cho những lợi ích ngông cuồng của chúng ta, cho nên Ngài không còn hữu dụng, không còn cần thiết cho cuộc sống của mình nữa. Không lẽ, cái thế thái nhân tình của năm xưa, giờ đây lại hiện diện nơi chính bản thân của chúng ta sao ? Không lẽ Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, chúng ta lại xem Ngài như một món đồ dùng hằng ngày , để khi nào có lợi thì chúng ta chạy đến van xin, khi nào Ngài cản trở những việc làm bất chính của mình, không phục vụ cho những lợi ích cá nhân, thì chúng ta loại trừ Ngài ra. Thế mà Thiên chúa vẫn yêu thương, vẫn tha thứ, Thiên Chúa vẫn kêu mời chúng ta hướng lên cao với Ngài, Thiên chúa vẫn thông truyền sự sống mới cho chúng ta. Thiên Chúa vẫn mong muốn chúng ta được đỗi mới và sống trong vòng tay của Ngài.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi của Chúa, luôn bước đi trong tình thương của Ngài và có đời sống mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay dân Do thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem hết sức long trọng, đây là một hình thức đón tiếp vị vua chiến thắng vinh quang trở về. Họ lấy những cánh lá, trải xuống đường, tung hô vị vua của họ “hoan hô con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Thật là náo nhiệt, thật là tưng bừng, biết bao nhiêu lời chúc tụng, biết bao nhiêu lời hoan hô, không thể đếm nổi, không thể kể hết được.
Do đâu mà có cảnh náo nhiệt tưng bừng này ? Dịp này là đại lễ của người Do thái, mọi người từ khắp nơi tề tựu về Giêrusalem để dự lễ. Trong số này có những người chưa hề nghe biết về Đức Giêsu, có người cũng đã nghe, người nghe ít, kẻ nghe nhiều và có những người từng chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm, nào là cho người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được, người mù thấy được, người bị quỷ ám được lành mạnh, người chết được sống lại, họ đã từng chứng kiến và hưởng nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư thừa; và họ đã từng nghe lời giảng của Ngài, họ thích thú nghe và Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền.
Trong đám đông dân chúng hôm nay, có rất nhiều thành phần, có những người tò mò hiếu kỳ, có những người ngưỡng mộ, có những người thọ ơn của Đức Giêsu … Những người này hò reo vang dậy để tung hô và đón rước Chúa vào thành.
Đáng buồn là những lời hoan hô chúc tụng không khéo dài được bao lâu, nó như một thứ lửa rơm mà thôi, bùng lên rồi tắt lim, bạo phát, nhưng cũng bạo tàng. Thật buồn cho Đức Giêsu trong hoàn cảnh này, tình người thật đen bạc, đổi trắng thay đen, như ông bà ta dạy “dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”. Chỉ mấy ngày sau đó, cũng những con người này, cũng những môi miệng này, cũng những cánh tay này, lại kết án Đức Giêsu, nhưng lời hoan hô chúc tụng không còn nữa mà thay vào đó những lời đả đảo, quá khích “giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá”.
Ta không biết Đức Giêsu nghĩ gì ? Nhưng có lẻ Chúa buồn lắm, buồn đến chết đi được, có lẻ Ngài đã cảm nghiệm được điều đó, nên Ngài đã cầu nguyện thống thiết với Chúa Cha trong vườn cây dầu “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng theo ý Cha, đừng theo ý con”. Buồn lắm nhưng cũng thương lắm, buồn vì lòng người đen bạc, nhưng thương vì con người đang bị tội lỗi thống trị cần phải được cứu chuộc. Cuối cùng thì tình thương đã chiến thắng, tình yêu đến thì nỗi buồn không còn nữa. Dù lòng người có thay đổi nhưng Chúa vẫn trung thành yêu thương cứu chuộc con người.
Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp để chúng con luôn trung thành sống ơn gọi làm con Chúa đến trọn đời. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa lấy tình thương mà đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh sống của chúng con. Amen.
Bài thương khó chúng ta vừa nghe, đã ghi lại một chuỗi những diễn biến thật bất ngờ. Thực vậy, mới chỉ một tuần trước, các vị lãnh đạo tôn giáo còn tỏ ra dè dặt với Chúa Giêsu, thì hôm nay họ ra mặt tố cáo Ngài, đích thân bắt bớ Ngài, công khai xách động quần chúng ghét bỏ Ngài, cương quyết tiêu diệt Ngài.
Mới ngày nào đông đảo dân chúng đã tràn ra đường để đón rước Ngài, chúc tụng Ngài là Con vua Đavid, thì hôm nay họ kéo nhau vào sân tổng trấn Philatô, hò hét và yêu cầu giết chính Đấng mà họ mới hoan hô. Bây giờ họ coi Ngài xấu xa nguy hiểm còn hơn một tên cướp.
Mới chỉ vài giờ trước, mười hai tông đồ đã được rước lễ bởi chính tay Chúa Giêsu, đã được phong chức giám mục bởi chính Trái Tim Ngài, đã được dạy dỗ bởi chính miệng Ngài, bây giờ tất cả đều thay đổi kẻ thì bán Thầy, kẻ thì bỏ Thầy, kẻ thì chối Thầy. Thế nhưng trong cái bối cảnh sụp đổ kinh hoàng ấy, chúng ta thấy xuất hiện những người tốt mới thật bất ngờ.
Đúng vậy, đâu có ngờ trên quãng đường nặng nhọc, kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu lại là một người đi qua đường.
Đâu có ngờ trong giây phút đen tối nhất, kẻ tuyên xưng Chúa được Chúa phong thánh và đưa vào thiên đàng lại là một tên trộm bị đóng đanh bên phải Ngài.
Đâu có ngờ trong cảnh sụp đổ của niềm tin, kẻ đã chúc tụng Chúa và tin vào sự công chính của Ngài lại là một sĩ quan ngoại đạo đã vâng lệnh đóng đinh Ngài.
Đâu có ngờ trong lúc bối rối đầy sợ sệt, kẻ đã ra mặt chôn cất Ngài và dâng cho Ngài ngôi mộ của mình lại là một nghị viện.
Trước đây tất cả những người ấy kể như xa Chúa, nhưng trong hoàn cảnh bi đát nhất của Chúa, họ đã xuất hiện như những người tốt, và đó là một sự xuất hiệt đầy bất ngờ. Tuy nhiên cái bất ngờ nhất đối với chúng ta đó là những lựa chọn của Chúa Giêsu.
Thực vậy, Ngài có thể tránh khỏi cuộc tử nạn, nhưng Ngài đã tự nạp mình. Ngài có thể lợi dụng dịp may đông đảo quần chúng qui tụ với sự hiện diện của các cấp chính quyền và tôn giáo, để làm một vài phép lạ gây uy tín cho đạo và lấy lại thanh thế cho chính mình, nhưng Ngài đã yên lặng.
Ngài có thể đổi lòng đám đông đang chống đối Ngài một cách điên cuồng, thành làn sóng người nhiệt thành ủng hộ Ngài, nhưng Ngài cam lòng chịu đựng cô đơn.
Ngài có thể khiến muôn vàn thiên thần từ trời xuống, để bênh vực Ngài, nhưng Ngài đã để mình bị hành hạ, xỉ vả và kết án. Ngài như kẻ quá yếu, và yếu một cách ngu dại. Ngài như kẻ bị thua và thua một cách đầy nhục nhã. Thế nhưng Ngài thực sự mạnh mẽ khi vượt thắng mọi thử thách đớn đau, để luôn trung thành với tình yêu. Dù như bị Chúa Cha bỏ rơi, Ngài vẫn mến yêu cậy tin phó thác và Ngài đã kêu lên: Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con ở trong tay Cha. Dù bị bao người hành hạ, xỉ vả, Ngài vẫn yêu thương họ và Ngài đã cầu nguyện: Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm không biết. Tình yêu của Ngài đã thắng vì tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tất cả mọi tội lỗi nhân loại và chính Tình yêu ấy đã cứu chuộc loài người.
Việc phối trí những đoạn ký sự khác nhau trong bốn bộ Phúc Âm nêu ra những vấn đề không thể đề cập ở đây. Các thánh chép sử trước hết không chú ý viết tiểu sử Đức Giêsu và thuật lại theo lối viết sử biến cố đã xảy ra ở Palestine. Các ông chỉ muốn là những nhân chứng. Các ông làm chứng cho lòng tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, Đấng Cứu Tinh. Những sự kiện do các ông thuật lại cho dù có chính xác đến đâu, bố cục hợp lý đến đâu, điều đó đối với các ông không quan trọng lắm. Vì thế, tuy cùng đặt cơ sở trên một nền chung không thể chối cãi, mỗi thiên ký sự lại mang những mầu sắc khác nhau cho thấy vẻ độc đáo trong cung điệu mỗi thánh chép sử làm chứng cho niềm tin của mình. Chúng ta cần nhớ thế khi muốn so sánh những ký sự nói về cuộc Thương Khó.
Đoạn văn suy niệm hôm nay cho thấy những nét nổi bật sau:
1) Ngay phần đầu, thánh Maccô thuật lại mấy sự kiện cốt nhấn mạnh vào sự vâng lời cách tự nguyện và sáng suốt của Chúa Giêsu dấn thân vào cuộc Khổ nạn của Người.
Chúa biết Chúa đi về đâu. Chúa nói ra điều đó trong dịp người phụ nữ đập vỡ bình bạch ngọc và đổ dầu thơm trong bình lên đầu Người. Trước khi xảy ra, bà đã lấy thuốc thơm ướp xác Ta, chờ khi liệm táng. Chúa biết rằng ngày hôm sau Chúa sẽ chết.
Sự quyết tâm của Chúa không phải là việc dễ làm. Vâng lời Cha là tự chinh phục bản thân. Chúa trải qua một cơn hấp hối trong vườn Giệtsêmani, cuối cơn khắc khoải Người nói một lời ngắn và dứt khoát: Thế là xong, có nghĩa là Người đã quyết rồi, giao kết xong rồi, ưng thuận rồi.
Chúa lưu ý những kẻ đến bắt Chúa rằng nếu Người muốn, Người có thể vô hiệu hóa bọn chúng những đã từng làm trong bao lần giảng dạy ở Đền thờ và những nơi khác. Chúa nhấn mạnh, Người để chúng bắt giữ chỉ vì Người đã làm theo ý Thiên Chúa như loan báo trong Kinh Thánh. Đoạn Phúc Âm tiếp đó đưa ra những ví dụ khác được thánh Maccô nêu lên và làm chứng, đó là sự vâng lời tự nguyện của Chúa.
2) Thánh chép sử lưu ý chúng ta đến sự cô đơn của Chúa Giêsu. Người bị cô lập, bị tách rời dân chúng. Mấy ngày trước đây, chính dân đó đã hoan hô Người. Những thày tư tế và ký lục chuẫn bị chọn giờ hành động và sắp đặt thời gian để vận động quần chúng. Quần chúng dễ thay lòng đổi ý (cái gọi là “dư luận” được uốn nắn do những nhà kỹ thuật về khoa điều khiển dân ý, dân tình). Dân chúng đã bỏ Chúa.
Trong cơn hấp hối, Chúa cô đơn. Hơn ai hết, Chúa biết rõ các môn đệ Người là những kẻ bất lực chẳng thể đem đến 1 sự giúp đỡ nào cho Người, nhưng dù sao nếu có họ lúc đó thì cũng là một niềm an ủi. Thế mà họ ngủ.
Chúa chỉ có một mình trong khi dấn thân. Lúc Chúa dấn thân bằng cách nộp mình cho toán quân dữ đến bắt Người, các môn đệ có một dịp hành động theo lời cam kết của Phêrô mà tất cả các ông đã tán đồng: Dù có phải chết vì Thày, con sẽ chẳng bỏ Thày. Ấy vậy mà, theo thánh Maccô ghi lại, họ bỏ Chúa, tất cả trốn hết.
Chúa một mình giữa pháp đình. Không một ai dám tới làm chứng gỡ tội cho Người. Chúa Giêsu đã muốn biết thế nào là nỗi chua xót đắng cay của tình bạn khi mà một người “bạn” vì sợ hay vì tư lợi không muốn bị liên can, không muốn bị “dính”, để bỏ rơi Người mà lẽ ra y phải cứu giúp.
Chúa một mình trên thập giá. Cả những kẻ trộm cướp cũng thóa mạ Chúa (tuy rằng sau đó một kẻ trong bọn này sẽ ăn năn trở lại). Một nỗi cô đơn tột bực: Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa bỏ con?
Sự vâng lời tự nguyện của Chúa, một sự vâng lời thuần khiết và cô đơn, có lẽ đấy là phương thế Chúa Giêsu dùng để sống cách thấm thía tấn bi kịch của số mệnh chúng ta.
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba”. Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
Chúng ta sang giai đoạn chót của chuyến đi. Trong hành trình cuối cùng có lúc Chúa Giêsu lui về vùng Xêdarê Philipphê ở phía bắc, có lúc ở vùng Galilê rồi đến vùng đồi Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Ngài đã đi trên đường xuyên qua Giêricô và đang tiến đến Giêrusalem. Tại đây, chúng tôi phải lưu ý vài điều, bằng không chúng ta không thể hiểu được câu chuyện. Khi đọc ba sách Matthêu, Máccô và Luca, chúng ta sẽ tưởng đây là lần đầu Chúa Giêsu đến viếng Giêrusalem. Các sách ấy chỉ quan tâm kể lại công tác của Chúa Giêsu tại xứ Galilê. Chúng ta phải luôn nhớ rằng các sách Phúc Âm đều rất ngắn. Trong phạm vi ngắn gọn đó, các sách ấy phải tổng kết phần công tác suốt ba năm cho nên các tác giả bị bắt buộc chọn lọc những điều mà họ quan tâm và được biết rõ đặc biệt. Nhưng khi đọc Phúc Âm Gioan chúng ta thấy Chúa Giêsu rất thường đến Giêrusalem (Ga 2,13; 5,1; 7,10). Thật vậy, Chúa Giêsu thường lên Giêrusalem vào những ngày đại lễ. Ở đây chẳng có gì mâu thuẫn. Ba sách Phúc Âm đầu tiên quan tâm đặc biệt đến sứ vụ tại Galilê, còn sách Phúc Âm thứ tư quan tâm đến Giuđê. Thật ra ba sách đầu không hề khẳng định Chúa Giêsu không thường đến Giêrusalem. Các sách ấy vẫn đề cập tình bạn thân thiết của Ngài với Mátta, Maria và Lagiarô tại Bêtania, mối thân tình được nói lên bằng nhiều lần thăm viếng. Có sự kiện Giuse ở Arimathia vốn là bạn của Chúa Giêsu trong âm thầm.
Nhất là câu nói của Chúa Giêsu chép ở Mt 23,37 khi Ngài bảo Ngài vốn thường hội họp dân chúng tại Giêrusalem lại như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh nó, nhưng họ lại không bằng lòng. Chúa Giêsu không thể nói thế trừ khi trước đó Ngài đã hơn một lần kêu gọi họ, nhưng chỉ được đáp lại bằng thái độ lạnh lùng. Chính sự kiện đó giải thích biến cố về con lừa ở đây. Chúa Giêsu không đợi đến giờ phút chót mới quyết định công việc. Chúa biết những gì Ngài sắp làm. Từ lâu Chúa đã sắp xếp với một người bạn của Ngài về những việc Ngài sắp làm. Khi sai các môn đệ đi, Ngài chỉ dùng một mật khẩu đã được dàn xếp từ trước “Chúa cần dùng nó”. Đây không phải là một quyết định thình lình, bất chợt của Chúa Giêsu. Đây là một việc căn bản để Chúa Giêsu xây dựng cả cuộc đời Ngài trên đó.
Bếtphaghê và Bêtania là hai làng gần Giêrusalem. Có thể Bếtphaghê có nghĩa là Nhà Trái Vả, còn Bêtania có nghĩa là Nhà Trái Chà Là. Cả hai chắc ở gần nhau vì chúng ta biết theo luật Do Thái, Bếtphaghê là một trong những làng nằm trong giới hạn được phép đi trong ngày sabát, nghĩa là không quá một dặm trong khi Bêtania vốn được thừa nhận là nơi tạm trú cho khách hành hương đến dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem không còn chỗ trọ.
Các ngôn sứ Israel vốn có một phương pháp đặc biệt để truyền đạt thông điệp của họ. Khi ngôn từ không gây ấn tượng cho dân chúng, họ thực hiện một số điều mang kịch tính, dường như muốn nói “Nếu các ngươi không chịu nghe, thì các ngươi sẽ bị bắt buộc phải thấy” (đối chiếu với trường hợp đặc biệt trong 1V 11, 30-32). Những hành động đầy kịch tính này có thể gọi là những lời cảnh cáo bằng động tác hoặc những bài giảng mang kịch tính. Đó là phương pháp Chúa Giêsu đang áp dụng ở đây. Hành động của Chúa Giêsu là một lời tuyên bố rõ ràng đầy kịch tính. Ngài chính là Đấng Mêsia. Nhưng chúng ta phải cẩn thận ghi nhận những gì Ngài đang làm. Ngôn sứ Dacaria đã nói “Hỡi con gái Sion, hãy mừng rỡ. Hỡi con cái Giêrusalem hãy reo vui. Này vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài là Đấng công chính ban ơn cứu rỗi, nhu mì và cỡi lừa, con của lừa mẹ… (Dcr 9,9). Toàn thể nội dung của câu này có nghĩa là nhà Vua giá lâm trong hòa bình. Tại Palestine, lừa cái không phải là con vật bị khinh dể, nó là một con vật quý phái. Khi một vị vua ra trận thì cỡi ngựa, nhưng khi ngự giá với ý nghĩa hòa bình, thì cỡi lừa cái. Ngày nay, lừa cái bị chúng ta khinh rẻ, nhưng vào thời Chúa Giêsu, nó là con vật dành cho bậc đế vương. Chúng ta phải chú ý là Chúa Giêsu muốn tự xưng là vị vua thuộc loại nào. Ngài đã đến với thái độ khiêm nhu, hạ mình, Ngài đến trong hòa bình, vì hòa bình. Thiên hạ đã chào đón Ngài với tư cách: con vua Đavít, nhưng họ không hiểu.
Đó là nhà vua mà dân chúng đang trông đợi. Thi ca Do Thái từ xưa vẫn củng cố cho dân Israel các ý niệm ấy, họ vẫn trông đợi một nhà vua sẽ đánh tan, giày xéo và nghiền nát. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài lại đến một cách khiêm hạ, nhu mì, cỡi lừa cái.
Ngày hôm đó, lúc Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành Giêrusalem là Ngài tự xưng vương, nhưng là Vua Hòa Bình. Hành động của Ngài hoàn toàn trái ngược với tất cả những gì mọi người đang trông chờ, đang hy vọng.
ĐẤNG ĐANG NGỰ ĐẾN Mc 11,7-10
Con lừa các môn đệ Chúa đem về chưa có ai cỡi. Việc này phù hợp với con vật được dùng cho mục đích thánh, phải không bao giờ được sử dụng cho bất cứ mục đích nào khác. Cùng một cách này được áp dụng cho con bò cái tơ sắc hoe mà tro của nó tẩy sạch mọi ô uế (Ds 19,2; Đnl 21,3)
Toàn thể bức tranh này là hình ảnh của cả một đám quần chúng đang hiểu lầm. Nó cho thấy một đám người chỉ nghĩ về vương quyền bằng hình thức chinh phục mà từ lâu nay họ vẫn mơ tưởng. Bức tranh này khiến người ta nhớ lại hình ảnh mà Simô Macabêô đã vào thành Giêrusalem 150 năm trước đó, sau khi đã chiến đấu và quét sạch quân thù. “Và người vào thành, ngày 23 tháng 7 năm 171, với lễ cảm tạ và nhành chà là, có đàn cầm, đàn sắt, trống lớn, đàn dây, thánh ca và bài hát, vì một số thù địch đông đảo đã bị trừ diệt khỏi xứ Israel” (1Mcb 13,51). Họ đã tìm cách chào đón Chúa Giêsu trong cương vị một người chiến thắng mà không bao giờ mơ tới loài người chiến thắng mà Chúa Giêsu đang muốn trở thành.
Chính những tiếng reo hò của đám đông tung hô Chúa Giêsu đã cho thấy họ đang suy nghĩ những gì. Khi họ cởi áo trải xuống đất trước mặt Chúa Giêsu, họ làm đúng y như điều quần chúng đã làm lúc Giêhu được xức dầu để làm vua (2V 9,13). Họ la lớn “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa”. Đây là câu trích dẫn Thánh vịnh 118,28, thật ra thì phải đọc khác hơn một chút là “Đấng đến đang được chúc phúc trong danh Chúa”.
Chúa Giêsu đã tự xưng là Đấng Mêsia nhưng theo một cách thức nhằm cố gắng chứng tỏ cho dân chúng thấy họ đã hiểu sai các ý niệm về Đấng Mêsia. Nhưng họ vẫn không thấy được điều đó. Toàn thể cuộc chào mừng của họ chỉ phù hợp cho vị anh hùng chinh phục kẻ thù của dân Israel mà không phù hợp với Vua tình yêu.
Trong hai câu 9, 10 có từ Hôsana. Từ này luôn luôn bị hiểu sai. Người ta hay trích dẫn và sử dụng nó dường như nó có nghĩa là đáng chúc tụng, nhưng nó chỉ đơn giản là từ chuyển âm từ Do Thái có nghĩa là “Hãy giải cứu tức khắc”. Nó đã xuất hiện đúng hình thức đó ở 2Sm 14,4 và 2V 6,26 nơi nó được dùng để bày tỏ việc dân chúng muốn được vua giúp đỡ, bảo vệ. Khi dân chúng hô to Hôsana, đó không phải là lời tung hô tán tụng Chúa Giêsu như người ta vẫn tưởng khi trích dẫn từ ấy. Đó là tiếng kêu gào Thiên Chúa hãy can thiệp, giải cứu dân Ngài ngay bây giờ, vì Đấng Mêsia đã đến.
Không hề có biến cố nào bày tỏ rõ lòng can đảm của Chúa Giêsu cho bằng biến cố này. Trong hoàn cảnh mà mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu sẽ lén lút vào thành Giêrusalem, sẽ tránh mặt các nhà cầm quyền đang muốn tiêu diệt Ngài. Thế mà Ngài lại vào thành Giêrusalem theo một hình thức khiến mọi mắt đổ dồn vào Ngài. Một trong những điều nguy hiểm nhất mà một người có thể thực hiện là đến với thiên hạ bảo rằng mọi quan điểm, mọi khái niệm họ đang thừa nhận đó đều sai lầm. Bất cứ ai cố nhổ tận gốc các giấc mơ ái quốc của thiên hạ cũng phải gặp rắc rối. Nhưng đó lại chính là việc Chúa Giêsu đang cố ý làm ở đây. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đang đưa ra lần chót tiếng kêu gọi của tình thương và đang làm việc ấy bằng thái độ can đảm của bậc anh hùng.
Trang Tin Mừng hôm nay muốn giúp mọi Kitô hữu đang ước ao sống trọn một tuần lễ “thánh”. Những lễ nghi trong tuần này là những lễ nghi đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất trong năm. Nhưng chúng ta chỉ thực sự sống những lễ nghi đó cách nội tâm, nếu cá nhân mỗi người trong ta đã suy gẫm những “biến cố” tạo nên “tuần lễ” này, chắc chắn, đó là những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Chúng ta đã làm nghiêng ngả dòng lịch sử và thay đổi bộ mặt hành tinh trái đất chúng ta.
Đọc bài thương khó một lần, cách phớt qua, là không đủ. Cần phải để cho nó thẫm nhiễm trong ta. Nên đọc đi đọc lại. Chúng ta chưa lưu ý đúng mức “vị trí” mà bài thương khó nắm giữ trong toàn bộ “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô”! Trong trình thuật của Maccô, bài thương khó là phần thứ năm của Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về một tiểu sử, màphần quan trọng nhất trong đó, lại dành để kể lại cái chết của một nhân vật ta muốn nói tới? Ta lại càng ngỡ ngàng hơn khi những trình thuật đó đã được viết sau sự kiện sống lại, bởi những người đang sống trong ánh sáng của biến cố Phục sinh vinh hiển. Thế mà, các nhà trước tác lại không nhấn mạnh đến biến cố Phục sinh đó. Trong bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Maccô, bài thương khó đã chiếm tới 160 dòng chữ viết… và cuộc Phục sinh chỉ có 46 dòng, hay 19 dòng, nếu ta không kể những câu 16,9 đến 20, là những câu được một người khác với Maccô thêm vào văn bản sau đó.
Đúng vậy, cái chết của Đức Giêsu phải là vấn đề chủ yếu: có một "bí mật" nào đó cần phải được khám phá. Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: "Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai táng" (Mc 14,8).
Toàn thể phần đầu Bài Thương Khó (14,1-42) kể lại "âm mưu ám hại Đức Giêsu”, "việc xức dầu tại Bêtania", “Giuđa phản bội", "chuẩn bị mừng lễ Vượt qua", "báo trước việc Giuđa phản bội", "thiết lập Bí tích Thánh Thể và "cơn hấp hối tại Giệtsêmani"... tất cả những chi tiết đó cho ta thấy, Đức Giêsu bắt đầu sống trong nội tâm Ngài cuộc thụ khổ, trước khi nó diễn ra trên thân xác cách cụ thể. Các bạn hãy đọc 42 dòng đầu chương 14 của Maccô. Trong khi đọc như thế, các bạn hãy tìm hiểu tư tưởng và tâm tình của Đức Giêsu. Phải, trước khi xảy ra cuộc bắt giữ, khởi đầu cho tiến trình thụ khổ bên ngoài, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn cuộc thụ khổ đó trong lương tâm, trong ý thức trước về việc tự nguyện dâng hiến của mình: Người đã thấy trước mình sẽ được "mai táng" (14,8), "bị phản bội" (14, 10.14,17), "phải đổ máu” (14,24), "bị mọi người bỏ rơi và bị Phêrô chối từ" (14, 27-30). "hấp hối" (14,34-36) Nhưng Đức Giêsu đã bắt đầu ý thức vấn đề sớm hơn nhiều. Thế thì Người đã nói đến cái chết sắp tới của Người từ lúc nào? Hiển nhiên hơn cả là lúc "Phêrô tuyên xưng Đức tin tại Xêdarê (Mc 8,31): kể từ ngày đó, đã ba lần Đức Giêsu nói với các bạn hữu Người về cái chết dữ dằn và khổ nhục của mình (Mc 8,3,31 - 9,30 - 10,33). Nhưng cũng cần phải ngược lên xa hơn. Các bạn hãy đọc câu 14 của chương I Tin Mừng Maccô: Đức Giêsu tiếp tục sự nghiệp của Gioan Tẩy Giả, khi Người biết rằng điều đã xảy đến cho cái ngôn sứ sẽ xảy đến cho ông và cũng xảy đến cho Người. Do đó, Đức Giêsu trải qua phần lớn đời Người, trong sự cảm nhận trước cái chết của mình. Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm cách tránh né khỏi phải nghĩ đến cái chết không? Đối với chúng ta, cái chết của ta không phải là "tác động" quan trọng nhất của đời người và hướng dẫn mọi hành động khác sao?
BỮA ĂN VƯỢT QUA Mc 14,12.13.14.16.
Trong đoạn này, đã bốn lần sử dụng từ "Vượt qua". Lễ Vượt qua của người Do Thái là để tưởng niệm công cuộc “giải phóng"! Một dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trong những đau khổ trần gian những gì áp đặt ta, không gì có thể hủy diệt ta, kể cả trong cái chết của mình; nhờ đức tin, chúng ta có thể tiếp gặp sự hiện diện tuy bí ẩn nhưng hiển nhiên của Thiên Chúa, để giúp ta vượt thoát những khó khăn đó, tới hạnh phúc bất diệt. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của Người như một cuộc "vượt qua": thay vì trốn chạy thực tế đau đớn và nhục nhã của thân phận làm người, Người đã phó mặc cho số phận bằng một thái độ liên kết yêu thương với Thiên Chúa! Cảm nghiệm về cái chết như thế, Người đã "thay đổi ý nghĩa" cho nó: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá" (Pr 2,8). Lạy Chúa, xin cho con biết chấp nhập mọi trái ý trong cuộc sống: đau khổ, thử thách, bệnh tật, già nua, thất bại, cô đơn, tội lỗi... như một cuộc vượt qua, như một bước đường dẫn đến Chúa.
“Đây là Mình Thầy... Đây là Máu Thầy...” Đức Giêsu đã nói như thế, sau khi dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy ghi nhận một số chi tiết lý thú: trong Tin Mừng Maccô, Đức Giêsu "truyền phép rượu”, sau khi các môn đệ đã uống rượu đó ("tất cả đều uống" câu 23... Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy câu 24...). Chi tiết này có thể dẹp bỏ những tranh cãi về phụng vụ và các nghi thức chặt chẽ... như thể tuyệt đối đọc những lời trên bằng tiếng La-tinh hay tiếng địa phương, rước lễ trên tay hay phải đặt Mình Thánh nơi miệng... Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá để ý đến những chuyện tầm phào đó, nhưng hãy tiến vào tình yêu mầu nhiệm của Chúa, Đấng đã phó mình trước, cách vui tươi, trong một thái độ "tạ ơn" (câu 22) "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình" (Mc 10,45; Ga 10,18). Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta không lợi dụng việc suy niệm cuộc thương khó để "ngay từ bây giờ và một cách tự nguyện hiến dâng" cái chết của ta, hợp ý cùng cái chết của Đức Giêsu? Đó là cách thế tuyệt diệu giúp chúng ta không còn sợ cái chết nữa, nhưng có thể bình thản nhìn nó đến, trong bình an, như Đức Giêsu và cùng với Người.
Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được uống thứ nrợu mới trong nước Thiên Chúa.
Đó là niềm vui, sự yên tĩnh, an bình biết bao! Đó là thái độ thanh thản chờ đợi "ngày đó", ngày của Thiên Chúa, ngày mà Thiên Chúa cuối cùng sẽ hiển trị, ngày mà tất cả sẽ là sự sống, tình yêu, hạnh phúc, bữa tiệc mới, rượu mới; ngày đó "sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, nhưng là Tiệc Cưới Của Con Chiên" (Kh 21,4). Đó là "ngày cuối cùng", kết thúc thời gian, hoàn tất công trình của Thiên Chúa, ngày thế mạt, và tất cả chúng ta đang tiến tới ngày đó. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa. Chớ gì mỗi bữa tiệc Thánh Thể là bước chuẩn bị dẫn chúng con tới bữa tiệc rượu mới trong Nước của Chúa Cha, trong tình yêu.
TIẾN ĐẾN TÌNH TRẠNG CÔ ĐỘC HOÀN TOÀN.
Chúng ta hãy theo sát Đức Giêsu. Người báo trước: “mọi người" sẽ bỏ rơi Người (Mc 14,27), Phêrô, người có trách nhiệm, sẽ chối từ Người (Mc 14,30). Người chọn "ba" người trong các môn đệ để ở bên Người trong cơn hấp hối, và ba lần Người trở lại với họ để nài xin họ cùng thức, nhưng họ đều “ngủ" cả (Mc 14, 33-37.40-41), tất cả đều "bỏ Người trốn chạy hết" (Mc 14, 50) và trên thập giá, Người cảm thấy Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người (Mc 15,34). Thật là cô độc hoàn toàn. Mọi người đều phải chết cách cô lẻ. Đức Giêsu đã không tìm cách tránh né; Người vâng theo định mệnh con người".
Anh em ngồi lại đây. Thầy đi cầu nguyện (Mc 14,32)... Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho Con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha" (14,36).
Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Ê-lô-i, Ê- lô-i, la-ma-sa-bác-tha-ni!" nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con" (Mc 15,34).
Như thế, trong cuộc thụ khổ, Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện. Trên đây là hai lối cầu nguyện: cầu nguyện tại Giệtsêmani và cầu nguyện tại Golgotha. Maccô còn cho ta biết, Đức Giêsu đã cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ tiếng A-ra- mên, thứ tiếng mà khi Người còn là cậu bé, Đức Maria đã dạy Người cầu nguyện: "Aùp-ba" có nghĩa là "Ba ơi", "Ê-lô-i” có nghĩa là "Thiên Chúa của con". Lạy Chúa, xin giúp con khi gặp đau khổ dám cầu nguyện thưa gửi như Chúa:
1. Xin cho con khỏi đau khổ này!
2. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.
Nếu tôi có sách Kinh Thánh (nhưng một gia đình Công giáo đã chắc gì có Kinh thánh!), tôi sẽ đọc lại trọn Thánh Vịnh 21. Đức Giêsu đã dùng Thánh Vịnh này để cầu nguyện trên thập giá. Khởi đầu Thánh Vịnh hoàn toàn có tính chơ vơ cô lẻ nhưng khi kết thúc thì lại hớn hở mừng vui một cách hết sức nghịch lý. Đây là một trong những chìa khóa bí mật của huyền nhiệm mà ta đang tìm hiểu trong cuộc thương khó này.
HAI LỜI TỐ CÁO ĐỂ NÓI TRƯỚC MẶT THIÊN HẠ RẰNG: ĐỨC GIÊSU LÀ "CON THIÊN CHÚA" VÀ LÀ “VUA".
Trong Tin Mừng Maccô, có hai lời tố cáo Đức Giêsu: Một lời tố cáo có tính “tôn giáo" (Mc 14, 53-65), trước Thượng hội đồng, trước "tất cả các vị Thượng tế; và một lời tố cáo mang tính “chính trị" (Mc 15, 1-20), trước Philatô, viên tổng trấn đại diện cho Rôma, để “bí mật" về căn tính đích thực của kẻ bị kết án đó, Đức Giêsu Nagiarét, được công bố trước mặt thiên hạ.
Ông có phải là Đấng Kitô, con Đấng chí tôn không?
Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy con người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng, và còn thấy Người ngự giá mây trời mà đến.
Ông là Vua dân Do Thái sao? Đúng như ngài nói đó.
Bây giờ "bí mật" đã được tiết lộ. Cuối cùng thì Đức Giêsu cũng đã nói ra Người là ai. Trong suốt đời sống công khai của mình, Đức Giêsu đã yêu cầu mọi người đoán nhận ra bí mật này phải im lặng, bởi vì con người chỉ có thể "hiểu được" Thiên Chúa khi nhìn lên thập giá: Người là "Con", nhưng không như con người nghĩ tưởng. Người là "Vua", nhưng không như người ta chờ mong. Người con đó hoàn toàn yêu thương, không giữ lại cho mình chút nào: Đó là tình yêu tuyệt đối, liều chết cho "kẻ khác"; ông Vua này yêu thương trọn vẹn, không dành quyền thống trị; mà trở nên "tôi tớ", tặng ban mạng sống mình cho "muôn dân".
Đây là một điều hết sức mới lạ, hết sức gây ngỡ ngàng, đến nỗi không ai có thể hiểu được: những kẻ qua đường thì “lắc đầu” trước ông Vua người Do Thái này (Mc 15, 29-30), những người tố cáo thì tiếp tục buộc Người muốn phá Đền thờ (14,58), các thượng tế vẫn nghĩ rằng 'nếu là Thiên Chúa thì hẳn là sẽ xuống khỏi thập giá’ (15, 31-32), hai tên trộm cướp bên tả và bên hữu thì sỉ nhục Người (15,32), còn các tông đồ thì chẳng thấy mặt mũi đâu cả!
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa".
Ta cần ghi nhận, cách Đức Giêsu chết đã làm phát sinh thái độ đức tin trên, chứ không phải biến cố "Phục sinh" xảy ra sau này. Phải, trước khi suy niệm về cuộc sống lại vinh hiển, cần phải suy gẫm về "cái chết" của Đức Giêsu: Cái chết này nói lên nhiều điều. Lạy Chúa, qua cái chết đó, Chúa nói gì với con? Con sẽ đọc lại trình thuật này. Con sẽ lắng nghe bí mật của Chúa.
Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Maccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:
+ Aâm mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2). + Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác. + Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.
- Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức
Giêsu với các môn đệ.
+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16). + Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21). + Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26). + Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31). + Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42). + Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).
- Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).
+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:
Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65) Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.
Phêrô chối Thầy (14,66-72)
- Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20) + Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).
- Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)
- Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật.
Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
2. Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin.
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi.
- Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Maccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong "Lire ba Bible" số 55, trang 1 13).
3. Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc.
E. Charpentier, giải thích: "Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị "tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực, " (Sđd) .
Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:
+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là "Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung.
+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải "Vua dân Do Thái" không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng ("Đức Giêsu không trả lời gì nữa") ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ "Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: "Bị ngược đãi Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xé lông " (Is 53, 7) .
+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con" để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.
Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Maccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá.
- Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.
- J. Hervieux nhận xét: "Maccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là "Con Thiên Chúa". Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.
Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (...).
Đồng thời Maccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “Ông này là ai" Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng" Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. " Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa, điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1, 11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian" ("L’evangile de Marc", Centurion, trang 230) .
- Sau cùng, địa vị của phụ nữ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa - việc hi hữu đối với một Rabbi Do Thái - trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế "nhân chứng" duy nhất: "họ đứng nhìn”, "đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng "Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).
II. BÀI ĐỌC THÊM
Bí mật rồi cũng được mạc khải
("La Bible du dimanche" trang 403-404).
Xuyên suốt Tin Mừng, Maccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.
Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).
Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Maccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách.
Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy."
1. Dân chúng nô nức reo hò mừng đón Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Họ là những kẻ đã được chữa lành bệnh, và được Người cho ăn no thỏa mới ngày nào đây. Lời hoan hô của họ rút ra từ Tv 117-118, một bài hát ngày Lễ Lều ca ngợi, cảm tạ những ơn lành Thiên Chúa đã thông ban cho Israel. Ở đây người ta ca ngợi Chúa Giêsu vì hy vọng người đến cho họ ăn no thỏa, cứu chữa họ khỏi bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tái lập triều đại vàng son của Đavít. Họ là những kẻ mong chờ vị Cứu Thế theo mối lợi, theo tham vọng riêng. Các môn đồ cũng phấn khởi hân hoan vì cái ngày họ nôn nóng mong chờ dường như sắp đến: họ thầm mơ sẽ được ngồi bên hữu, bên tả Thầy. Còn nhà cầm quyền thì sửng sốt kinh ngạc. Lại chấn động, họ nhốn nháo cả lên: "phải chăng tên Giêsu đầy ma thuật kia bắt dầu cho nổ bùng cuộc cách mạng?".
2. Nhưng từ trong thái độ, cách đi đứng, Chúa Giêsu đã tỏ ra một ý muốn khác hẳn. Thay vì cưỡi ngựa chiến với quân đội tiên hô hậu ủng, Người chỉ cưỡi lừa con như vị vua khiêm tốn, nhân liền mà Dacaria 9,9 đã tiên báo. Người thuận để cho đoàn lũ hoan hô. Nhưng việc Người tiến vào Giêrusalem không theo như kiểu họ tính toán. Quyền năng của Người là để phục vụ chứ không để cai trị. Người không muốn ngự trong cung điện nhưng muốn hiện diện trong tâm hồn mỗi người ... để thông cảm với tất cả những vui buồn đau xót của kiếp nhân sinh. Con đường Người phải đi qua để đến với nhân loại là con đường gian khổ với cái chết trên thập giá.
3. Từ xưa, trong một thánh vịnh, vua Đavít hầu như đã diễn tả trước cảnh bị nhạo báng đau khổ và hấp hối của Chúa Kitô trên núi Sọ (Đáp ca). Trong một thị kiến trước 7,8 trăm năm, tiên tri Isaia cũng đã tiên báo phần nào những sỉ nhục, tra tấn, cười nhạo trong nhà thượng tế cai pha và trong dinh tổng trấn (Bài đọc 1). Vì là chương trình cứu thế, là thánh ý Chúa Cha, nên Chúa Kitô đã chấp nhận từ bỏ chính mình, vâng lời cho đến chết trên thập giá (Bài đọc 2). Cuộc Khổ nạn và cái chết đau thương của Người được tả lại thực rõ ràng, sống động và tỉ mỉ do Mc trong Tin mừng thứ hai (Bài Thương khó). Tuy nhiên cuộc Khổ nạn và cái chết tức tưởi ấy lại có một kết thúc huy hoàng: vì nhờ đó toàn thể loài người được ơn cứu độ, còn Chúa Kitô thì không phải hổ thẹn như Isaia đã tiên báo, mà được Thiên Chúa cho phục sinh, tôn vinh và tặng ban danh hiệu là Chúa (Bài đọc 2).
4. Đời sống tùng phục Chúa Cha cho đến chết của Chúa Kitô vừa là tấm gương vừa là con đường phải theo. Nếu kết thúc cuộc đời đau khổ và cái chết thảm thương của Người là sự sống lại và tôn vinh, thì kết cuộc nếp sống tuân theo thánh ý Chúa của Kitô hữu cũng sẽ là sống lại vinh hiển và sự sống vĩnh cửu, và được tặng một danh hiệu chỉ mình kẻ ấy biết (x Kh 2, 17; 3, 12).
Sau một cuộc hành trình dài, Chúa Giêsu cũng các môn đệ đã đến Giêrusalem. Đây chính là thời kỳ quan trọng –Maccô cũng như ba vị thánh sử kia (Mt 21,1-10; Lc 19,28-40; Ga 12,12-19), đã kể lại biến cố này bằng một bối cảnh rất rõ ràng. Bản tường thuật của Maccô đầy tràn các hình ảnh Kinh Thánh. Nghĩa là các Kitô hữu sơ khai vẫn ấp ủ và chiêm ngắm việc Chúa Giêsu vào thủ đô như là hình ảnh báo trước việc Đấng Phục Sinh sẽ trả lời trong vinh quang.
Bối cảnh cho giai đoạn này cũng rất đặc sắc. Từ Giêricô, Chúa Giêsu tiến về thành thánh từ hướng đông. Ngài băng qua các làng Betphaghê và Bêtania, theo hướng xuôi xuống triền núi Ôliviê (c.2a). vào thời Chúa Giêsu, có một truyền thống Do Thái xa xưa cho rằng chính Thiên Chúa –và Đấng Mêsia của Ngài- chắc chắn sẽ theo lộ trình đó để đến phán xét vào thời cuối cùng. “Vào ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliviê đối diện với Giêrusalem về hướng đông” (Dc 14,4). Chính bối cảnh tiên tri này đã mang lại âm sắc độc đáo cho biến cố xảy ra ngay sau đoạn khơi mào: sự thanh tẩy Đền thờ (11,15-18).
Trong lúc ấy, việc Đấng Mêsia vào thành vẫn chưa mang vẻ uy nghi gì cả. Chúa Giêsu chưa phát biểu gì. Ngài chỉ phái hai môn đệ đi tìm cho Ngài một con vật để cỡi (c.1b-6). Kiểu tường thuật này được lặp lại trong việc chuẩn bị chi cảnh cuối cùng (14,12-16). Trong cả hai lần, Chúa Giêsu muốn chính mình sắp đặt mọi sự, và muốn mọi việc Ngài ủy thác phải được thi hành hoàn hảo. Điều này càng nhấn mạnh tính chất linh thiêng của biến cố sắp xảy ra. Đó là một sáng kiến cao cả và hoàn toàn không do ngẫu nhiên. Việc Chúa Giêsu ra lệnh đem về cho mình “một con lừa nhỏ có cột dây, chưa có ai cỡi” (c.2) rất đáng ta chú ý đến. Con vật đó phải còn nguyên tuyền, chưa ai dùng đến. Đó phải là một con vật thánh. Ở xứ Israel, lừa là một gia súc quen thuộc với công việc gia đình. Và trong Thánh Kinh, đó là con vật để cỡi theo truyền thống của vua chúa (1V 32-35). Chính trong trường hợp này, qua việc chọn lấy một con lừa, Chúa Giêsu đã hoàn tất một trong những lời tiên tri mang tính Mêsia được biết đến nhất. “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên! Này đây Vua ngươi ngự đến, Ngài công minh và vinh quang, nhưng khiêm tốn cỡi trên lừa còn nhỏ. Ngài sẽ cất khỏi Êphraim các cỗ chiến xa và khỏi Giêrusalem các xe trận. Người sẽ bẻ gẫy cung nỏ chiến tranh và tuyên bố hòa bình cho mọi dân nước” (Dc 9,9-10).
Nghịch lý đã được bộc lộ ra ở đây. Chúa Giêsu muốn tỏ mình ra là Đấng Mêsia của Israel. Ngài khiêm hạ, đem đến sự an bình. Con vật tầm thường của Ngài cỡi trái ngược hẳn với đoàn hộ tống của vua chúa thân chinh: ngựa chiến oai phong, chiến xa. Trang phục kín đáo của Ngài cũng không xứng với danh xưng dân chúng gán cho Ngài. Ngài là “Chúa” (c.3). Dưới ngòi bút của Maccô, tước hiệu này có lẽ chỉ là do sự lầm lẫn khi viết ra. Maccô rất ít khi dùng đến tước hiệu này khi Chúa Giêsu còn sống (7,28 và 12,36-37). Trước tiên, nó muốn ám chỉ Đấng mà các Kitô hữu sẽ thờ phương sau khi Ngài sống lại vinh quang, đó chính là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Những câu 7-10 gợi lên nghi thức phong vương. Các môn đệ dắt lừa con tới, trải áo làm yên, Chúa Giêsu ngồi lên (c.7). Những cử chỉ này làm nhận biết tính cách vương đế của Thầy họ. Và dân chúng phấn khởi (c.8). Họ trải thảm cho Chúa Giêsu đi, thảm danh dự trong các ngày lễ thánh (xem chuyện Jêhu trong 2V 12b-13) #. Việc chặt lá cây là mượn hình ảnh ngày lễ Trại. Thời Chúa Giêsu vào dịp lễ này người ta hoan hỉ đón mừng vương quyền của Giavê. Niềm mong chờ Đấng Mêsia bỗng trở nên sống động nhờ một cuộc diễn hành trong đó dân chúng tán tụng Thiên Chúa, tay cầm các nhành vạn tuế và lá dừa (x. Lv 23,39-40) miệng tung hô.
Chúa Giêsu là vị anh hùng y như trong nghi thức trên đây. Người ta tung hô đón tiếp Ngài. Họ hoan hỉ hộ tống Ngài vào thành (c.9). những lời ca tụng tán dương dân chúng dành cho Ngài mang một sắc thái lễ nghi rõ rệt. Chúng được trích từ Thánh vịnh 118, và cũng được hát trong dịp lễ trại “Hosana!” là một từ ngữ Hy Bá Lai có nghĩa “Xin cứu giúp chúng tôi!”. Dần dà, lời kêu cầu xin giúp đỡ này trở thành một tiếng tán dương, một lời “hoan hô”. Chúa Giêsu đã được hoan hô, được công nhận là Mêsia, “Đấng sẽ đến” (Tv 118,26). Maccô còn làm cho thời điểm này mang tính Mêsia hơn khi ông thêm vào: “Vạn tuế vạn phúc triều đại đang tới, triều đại vua Đavit, tổ phụ chúng ta” (c.10a). dân chúng nhận ra Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, vị vua đã hoàn thành được những lời hứa hẹn của Thiên Chúa với các vị vua Giuđa (2V 7,12-16). Tiếng kêu cuối cùng của dân chúng có thể khiến ta ngạc nhiên, tựa như một âm vang: “Hoan hô Chúa!” (c.10b).
Sau cùng, thánh sử khéo léo ghi nhận đích đến của đám rước hoan hỉ này: “Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và đi vào Đền thờ” (c.11a). Vị Vua Mêsia hoàn tất cuộc diễn hành tại nơi trung tâm của thành thánh: nơi thờ phượng Thiên Chúa. Toàn bộ hành trình của Chúa Giêsu hướng về Giêrusalem như nơi Ngài chọn để hoàn tất sứ vụ. Những cuộc gặp gỡ, tranh luận sau đó đều xảy ra xung quanh hoặc chính trong nơi thánh này của Israel (11,12-12,44). Những từ Maccô dùng để kết thúc bản tường thuật không làm ta ngỡ ngàng chút nào. Khi đã vào đền, Chúa Giêsu “rảo mắt nhìn xem mọi sự” (c.11b). Chắc hẳn Thầy đã biểu lộ sự hiện diện uy nghi của mình qua việc đảo mắt dò xét xung quanh. Và Maccô biết điều bí mật đó.
Nhưng trong cái nhìn của Chúa Giêsu vẫn ẩn náu một vẻ bình thản lạ lùng. Hội hè lễ lạc đã xong hẳn. Một tấn kịch đang hình thành và sắp mở màn. Ngài đợi đến ngày hôm sau mới ra tay hành động bởi vì trời đã về chiều. Chúa Giêsu cùng với Mười Hai môn đệ trở về nghỉ ở Bêtania (c.11b). Cuộc rút lui chiến thuật này thật đầy ý nghĩa. Bêtania, tiếng Hy Bá Lai có nghĩa là “nhà của kẻ nghèo”. Với vẻ trang trọng lạ thường, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem có thể làm người ta quên đi điều này: Con Người đến đó để trải qua cuộc khổ nạn (10,32-34).
Người ta thường cho rằng cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Giêrusalem chỉ xảy ra vắn vỏi. Mọi người đều tin rằng bản văn tường thuật hiện nay chỉ mang màu sắc hội hè sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh mà thôi. Cộng đoàn sơ khai hẳn rất thích thú đọc lại, qua ánh sáng Kinh Thánh, về một biến cố nguyên tuyền, đồng thời lại khiêm nhường nhất. Gioan đã nói lại điều đó khi ông viết: “Thoạt đầu các môn đệ không hiểu điều này, nhưng khi Chúa Giêsu đã được vinh hiển rồi, họ mới nhớ lại rằng điều đó chỉ về Ngài…” (Ga 12,16). Chúng ta chỉ kết luận rằng vào dịp lễ độc đáo đó, Chúa Giêsu đã được dân chúng tiếp rước nồng hậu nhưng vẫn hàm hồ. Những biến cố kế tiếp sẽ chứng tỏ điều này.
ÂM MƯU CHỐNG LẠI CHÚA GIÊSU (14,1-2)
Lần đầu tiên độc giả có dịp đặt mình vào bối cảnh “Lễ Vượt Qua”. Trước kia, Vượt Qua chỉ là một dịp lễ hội của dân du mục. Vào mùa xuân, khi gia súc đã qua mùa sinh sản, người ta dâng cúng cho thần thánh các con chiên sinh ra đầu tiên (x. Xh 12,1-11). Đến khi dân Israel đã định cư, họ tổ chức một lễ hội khác, cũng mang dáng dấp nông nghiệp như trên, gọi là “bánh không men”. Họ mừng mùa gặt mới. Hai lễ hội này –Vượt Qua và bánh không men- nhanh chóng được nhập làm một với nhau. Thay vì tổ chức mừng đón thiên nhiên đâm chồi nẩy lộc khi xuân đến, họ lại tưởng nhớ việc được giải phóng khỏi ách nô lệ (ra khỏi xứ Ai Cập) và thiết lập dân Thiên Chúa (Dt 16,1-8). Ở Israel, Vượt Qua đã trở thành lễ hội quan trọng và lớn nhất của dân Do Thái. Do đó không phải ngẫu nhiên mà bản tường thuật khổ nạn lại được đặt vào khung cảnh của lễ hội này. Nó tạo nên một bầu khí phụng vụ rõ nét.
Và thế là một sự diễn ra rất chính xác (c.1b). Trước đây ta thấy đã có một âm mưu chống lại Chúa Giêsu, dù mới chỉ là nét phác họa sơ sài (c.3,6). Nhưng âm mưu này chỉ liên quan đến nhóm biệt phái và các kẻ thuộc phe Hêrôđê. Nhưng khi Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem, kế hoạch bắt Ngài được vạch ra chính xác hơn, phát xuất từ giới tư tế, và được giới thường dân hùa theo, nhất là sau “vụ việc” Đền thờ (11,15-18; 12,12). Đến bây giờ các thượng tế, với sự giúp đỡ của các ký lục, đang cố tìm ra cách thức cụ thể để bắt Chúa Giêsu. Họ “tìm mưu” hầu tránh gây kích động nơi dân chúng (c.2). Vào dịp lễ Vượt Qua rất nhiều khách hành hương tuôn về Giêrusalem, họ là những người Do Thái tản mác khắp bốn phương thiên hạ. Đó hẳn là một thời cơ thuận lợi để nổi dậy: Vả lại, Chúa Giêsu được dân mến mộ vì những lời giảng dạy sáng chói trong Đền thờ (12,12-57). Các thủ lãnh Do Thái phải nhanh chóng hành động, trước khi ngày lễ bắt đầu: phải đảm bảo trật tự công cộng.
XỨC DẦU THƠM Ở BÊTANIA (14,3-9)
Đây chính là lời dẫn nhập về Cuộc Khổ Nạn. Câu chuyện xảy ra ở Bêtania, một làng nhỏ gần Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu thường ghé lại nghỉ ngơi khi rời thành Giêrusalem (11,11). Người tiếp đón Ngài không ai khác hơn là chính người phong cùi trước đây tên là Simon (c.3a). Ông đã được lành bệnh và đã tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình.
Chỉ một mình Maccô ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một phụ nữ đang khi Ngài ngồi ăn ở nhà một người bạn (c.b). Ta không biết tên của người phụ nữ ấy. Tác giả Tin Mừng không chú trọng đến con người, mà là hành động của cô ta. Cô mang một bình dầu thơm quý, “rất tinh tuyền”. Có lẽ đó là loại dầu thơm chiết xuất từ một loài cây cỏ Ấn Độ. Đập bể bình ra, “Cô đổ dầu thơm trên đầu Người” (c.3c). Maccô nhấn mạnh đến sự hoang phí này. Người phụ nữ không ngần ngại đập bể bình để đổ thật nhiều và thật nhanh. Chuyện đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu là việc quá dễ dàng: Chúa Giêsu ngồi vào bàn theo lối xưa, nghĩa là Ngài tựa mình dài lên một cạnh bàn tiệc. Cử chỉ bất ngờ này mang ý nghĩa gì? Về phía người phụ nữ, chắc chắn đó là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính Thầy. Có thể cô đã nhận ra tính cách Thiên sai nơi Chúa Giêsu. Bởi vì khi xức dầu lên đầu cho ai, người ta xác định kẻ ấy là vua. Theo như sự mong đợi của người Do Thái thì Đấng Mêsia đã được “xức dầu” (x. Is 61,1). Nhưng việc vừa xảy ra khiến các môn đệ Chúa Giêsu phản ứng dữ dội.
Người ta quên rằng ngoài Simon, Chúa Giêsu và người phụ nữ còn có nhóm Mười Hai môn đệ nữa chứ. Họ mới là những kẻ nổi xung lên, cho rằng làm như thế là phí phạm quá. Họ ước tính bình dầu thơm đó phải hơn ba trăm đồng: tương đương với ba trăm ngày công vất vả của một nông dân chớ đâu phải ít gì! (c.4-5). Thà rằng đem bán lấy tiền cho kẻ khó còn hơn. Lời phê phán này cũng có lý đấy chứ, nhưng Chúa Giêsu vẫn bênh đỡ cho hành vi của cô ấy: “Cô ấy vừa làm cho Tôi một việc nghĩa” (c.6). Các môn đệ phải nhận thức ra điều này. Người ta chẳng thiếu gì người nghèo để mà giúp đỡ. Hẳn thực là theo luật Môsê thì Thiên Chúa đã đòi hỏi dân Ngài phải ra tay cứu giúp kẻ bần hàn, xóa bỏ bất công: “Ước chi kẻ nghèo khó sẽ không có nơi ngươi” (Đnl 15,4). Nhưng cũng không nên quá nhiều ảo tưởng. “Vì sẽ không hề thiếu người nghèo khó trong xứ đâu. Bởi thế Ta truyền dạy rằng: Ngươi phải mở rộng tay ngươi cho anh em ngươi, cho kẻ bần cùng và nghèo hèn trên đất ngươi” (Đnl 15,11).
Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc phải cấp tốc giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, ngay chính trong đám môn đệ, vẫn có một kẻ đặc trách việc phân phát tiền bố thí. Theo Gioan, đó chính là phần vụ của Giuđa, thủ quỹ của nhóm Mười Hai (Ga 12,4-6). Vậy rõ ràng là các Tông đồ, mà đầu tiên là Giuđa, đã tỏ ra giả dối khi lên án người phụ nữ đó phí phạm. Và Chúa Giêsu bất ngờ mặc cho hành động của cô ta một ý nghĩa cao cả hơn thế nữa: vả lại, “Cô ấy đã lấy dầu thơm để chuẩn bị ngày mai táng” (c.8). Ý Chúa Giêsu muốn nói về hành động mang tính tiên tri của cô ấy. Cô đã thấy trước sự ướp thơm tử thi Chúa Giêsu. Đó là một việc rất có giá bởi lẽ ta nên nhớ rằng nấm mồ nơi chôn cất Chúa Giêsu là mồ của kẻ đã bị kêu án tử; phải nhanh chóng táng xác Ngài và cũng không cần chi mà phải ướp dầu thơm (15,46). Ta cũng nên lưu ý rằng theo đạo Do Thái hồi ấy, người ta vẫn thường coi trọng việc thực thi bác ái. Theo truyền thống thì chôn xác kẻ chết là một nghĩa cử rất đáng biểu dương, tương tự như việc bố thí cho kẻ nghèo khó vậy (x. Tb 1,16-18).
Chúa Giêsu đã không ngần ngại liên kết hành động của người phụ nữ vô danh đó với thảm kịch Ngài sắp phải chịu. Và Maccô cũng không bỏ qua việc kết thúc bài tường thuật bằng cách ghi nhận lời tuyên bố long trọng của Thầy mình là: Khắp cả thế giới hễ nơi nào được loan báo Tin Mừng, thì biến cố này cũng sẽ được biết đến (c.9). Khi ghi lại cảnh này, thánh sử biết rằng việc xức dầu ở Bêtania hẳn sẽ được nối kết với lời rao truyền “Tin Mừng” loan báo cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Ta nhận thấy Maccô rất quan tâm đến việc thông truyền Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho cả thế giới (1,1; 8,35; 10,29; 13,10). Tâm điểm của Tin Mừng này là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đấng Mêsia, và dĩ nhiên, cử chỉ khiêm hạ của người phụ nữ kia phải chiếm một vị trí thích hợp ở đó.
NGẢ GIÁ ĐỂ GIUĐA PHẢN THẦY (14,10-11)
Như ta đã nói ở trên, trong số các môn đệ chống đối việc người phụ nữ xức dầu thơm cho Chúa Giêsu (14,3-9), chắc chắn có “Giuđa Iscariot, một trong nhóm Mười Hai” (c.10a). nhờ vào Tin Mừng Gioan, ta biết thêm rằng chính y là người quản lý tiền bạc cho nhóm Tông đồ. Ngoài việc lo lắng chi tiêu cho cả nhóm, y còn đảm trách luôn việc bố thí cho người nghèo. Vậy mà y chẳng bận tâm gì đến những nhiệm vụ ấy, bởi lẽ “y là một tên trộm cướp… y ăn cắp” hết thảy những gì người ta cho vào trong túi ấy (Ga 12,4-6). Và ta có cần phải tưởng tượng nhiều lắm mới nhận ra chính y là kẻ biển lận và dễ bị mua chuộc phản bội lại Thầy mình nhất không? Thực tế cho thấy rằng chính y là kẻ “đã đi gặp các thượng tế, để tính chuyện nộp Chúa Giêsu cho họ”. Bù lại, y sẽ nhận được tiền (c.10b-11a). Như thế mưu mô mà họ đã âm thầm nuôi dưỡng (14,1b) nay sắp tới lúc chín muồi. Và qua những dòng đơn sơ Maccô đã chỉ cho thấy rằng chỉ vì một lợi lộc bẩn thỉu một tên phản bội đã len lỏi vào hàng ngũ bạn hữu của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn Giuđa làm Tông đồ như những Tông đồ khác, tin tưởng y, cùng sống với y và giúp đỡ y (3,13-19). Cần ghi nhớ rằng một trong những nguyên nhân dẫn Chúa Giêsu đến cái chết lại đến từ một trong các kẻ thân cận với Ngài.
Bây giờ Giuđa chỉ còn tìm dịp thuận tiện để giao nộp Chúa Giêsu (c.11b). Dịp này sẽ xảy ra trong vài giờ nữa, không cần phải chờ đến hết ngày (14,43-50).
CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).
Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13)-cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a). và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..
Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiết một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đệ với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).
Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.
KIỆU LÀ: Bài Phúc Âm: Lc 19, 28-4 "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi r?ng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp: "Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên".
Chúa nhật hôm nay khai mạc tuần lễ thánh. Phụng vụ sẽ cử hành những mầu nhiệm trọng đại nhất trong lịch sử cứu độ. Ðể chúng ta dễ dàng tham gia, phụng vụ cố gắng cụ thể và hầu như muốn diễn lại tất cả những gì đã xảy ra trong tuần lễ cuối cùng cuộc đời của Chúa. Chúng ta sẽ đáp lại bằng cách đến dự mọi lễ nghi trong tuần này và nhất là bằng lòng yêu mến suy niệm các nghi lễ ấy.
Ðể mở đầu chúng ta hãy ý thức hành vi sắp làm. Chúng ta sẽ cầm lá đi vào nhà thờ. Chúng ta gọi đây là cuộc kiệu lá. Và các bài hát sẽ cho chúng ta có cảm tưởng đang cùng đi với Chúa Giêsu vào đền thờ. Chúng ta đừng có nghĩ mình rước Chúa đi; nhưng hãy nhớ chính Người đi trước và chúng ta bước chân theo chân Người.
Ðiều này chính thánh Luca làm chứng trong câu đầu bài Tin Mừng. Người viết: Bấy giờ Ðức Giêsu cầm đầu các môn đệ để lên Giêrusalem. Người đi một cách quả cảm, đang khi môn đệ rụt rè và ngại ngùng. Người biết những gì sẽ xảy ra; còn họ chỉ có những cảm tình hoang mang.
Ðến núi cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi đến một làng trước mặt mượn một con lừa đem về. Mọi sự xảy ra như đã sắp đặt từ trước, vì đây là kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã ấn định từ ngàn đời. Dẫn lừa về, môn đệ vứt áo của họ lên lưng con lừa và để Ðức Giêsu cưỡi lên. Vì sao họ làm như thế, có lẽ thoạt đầu họ chưa hiểu hết. Họ làm theo một thúc đẩy bên trong và chỉ dần dần họ chỉ mới ý thức được ý nghĩa. Vì kìa, người ta đang trải áo choàng của họ trên đường Ngài đi. Thái độ của người ta làm nức lòng môn đệ. Và đoàn lũ môn đệ bắt đầu lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa vì hết thảy các phép lạ họ được thấy.
Rõ ràng tác giả Luca đã chú trọng tới họ. Người ít để ý đến Ðức Giêsu. Người hầu như không nói gì đến những người khác. Người nhìn kỹ các môn đồ. Trước mặt Người, họ đã trở thành những con người khác. Ðây không còn chỉ là đoàn 12 rụt rè, ngại ngùng không muốn tiến lên Giêrusalem nữa. Có thể nói cũng không phải là đoàn 72 môn đệ như có lần nào đã được Chúa sai đi từng đội làm việc truyền giáo.Luca nói đến tất cả đoàn lũ môn đồ bắt đầu lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa. Người ám chỉ Hội Thánh ở thời đại của Người, như Người đang nhìn thấy trước mắt. Ðó là cộng đoàn dân Chúa ở buổi sơ khai, vừa hiểu ra ý nghĩa của hết các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, tức là vừa nhận ra Người thật là Chúa.
Thế nên họ tung hô Người như tập đoàn các thiên thần trong ngày Người Giáng sinh. Họ biến bài ca các thiên thần trở thành bài ca của mình và như vậy họ cũng biến mình nên cộng đoàn phụng vụ thờ phượng tung hô Thiên Chúa. Họ chúc tụng Chúa đã sai Ðức Giêsu đến. Họ chúc tụng Ngài là Vua nhân danh Chúa. Họ không còn nhìn thấy Ngài ở dưới đất nữa, nhưng đang ở trên trời rồi; nên họ mới tung hô: Bình an trên trời (chớ không phải dưới đất) và vinh quang trên chốn cao vời!
Ðó phải là thái độ của chúng ta trong cuộc rước này. Chính thánh Luca cũng không nói rõ Ðức Giêsu đã vào Giêrusalem một cách long trọng. Người cho chúng ta hiểu Ðức Giêsu đã tiến vào đền thờ, để chúng ta có tâm trạng tôn giáo và phụng vụ. Chúng ta không đưa (hay không theo) Chúa Giêsu vào Giêrusalem để chịu chết lại. Chúng ta theo Người vào đền thờ, không phải ở dưới đất mà ở trên trời để chúng ta chúc tụng cuộc phục sinh của Người và để chúng ta thấy mình đã được đưa sang một thế giới khác, thế giới của sự thánh thiện và phụng vụ, để chúng ta cũng chúc tụng thờ phượng Chúa như các thiên thần.
Thế nên đừng ai coi phụng vụ của Tuần Thánh như diễn lại các việc xưa kia đã xảy ra. Phụng vụ nhắc lại những việc ấy một cách khác cụ thể và tỉ mỉ, nhưng không phải chúng ta ôn lại điều cũ, mà để chúng ta ngưỡng mộ, tham gia như các thiên thần ở trên trời, tức là với lòng mến yêu, thờ lạy và nhận lấy các mầu nhiệm cứu độ.
Chính với những tâm tình như thế mà chúng ta cầm lá rước vào nhà thờ. Chúng ta không đi như đoàn lũ môn đệ của Chúa, tức là như Hội Thánh đi vào cử hành Phụng vụ. Chúng ta bắt chước các thiên thần sốt sắng chúc tụng các việc Chúa Giêsu làm để cứu độ chúng ta, đặc biệt trong cuộc thương khó mà chúng ta sẽ nghe thuật lại trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta hãy tiến lên để tham dự các mầu nhiệm ấy.
***
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có lối trình bày riêng cuộc khổ nạn của Chúa. Họ có tự do đến nỗi không bó buộc phải tường thuật tỉ mỉ đầy đủ và theo thứ tự như một máy quay phim. Mọi người đã biết diễn tiến của các sự việc, vì ngay từ khi Phêrô bắt đầu thay mặt anh em Tông đồ rao giảng Chúa Giêsu lần đầu tiên, người ta đã được nghe kể rõ ràng về việc Chúa chịu chết và sống lại. Do đó, những việc mà ai ai cũng biết, các tác giả không cần kể lại theo diễn biến; nhưng độc giả chờ đợi họ một cái nhìn sâu sắc để hiểu ý nghĩa các sự việc. Và tác giả các sách Tin Mừng đã làm công việc này. Mỗi ông cho chúng ta một cái nhìn về diễn biến của cuộc tử nạn để chúng ta hội nhập, tham dự, chia sẻ. Hôm nay chúng ta theo sự hướng dẫn của thánh Luca.
Chúng ta không thể đi theo Người từng bước. Theo lối chia quen thuộc, chúng ta dừng lại ở mấy chặng sau đây: Lúc Ðức Giêsu bị bắt - khi Người ở trước tòa án Do Thái - rồi Philatô xử Người - và sau cùng Người chết trên thập giá. Dường như ở chặng nào chúng ta cũng nhận được một luồng sáng đức tin không phải chỉ để nhìn thấy sự việc xảy ra mà còn được hướng dẫn để đến gần Chúa Giêsu hơn.
Vậy, đang lúc Người còn nói với môn đệ thì một đoàn lũ đã kéo đến mà đi đầu là Giuđa. Y lại gần mà hôn Người như thói quen của môn sinh sau lâu ngày gặp lại Thầy mình. Nhưng Người thấy rõ ý xấu của y; và Người bộc lộ ý xấu cho y hiểu. Người bảo: "Giuđa ngươi dùng cái hôn để nộp Con Người sao?".
Những kẻ đứng quanh Người thấy Người không phải chỉ là bậc Thầy trong cả thái độ và lời nói. Họ xin phép "Chúa" cho phép dùng gươm. Và một người trong họ đã làm liền. Y chém vào tai tên đầy tớ thầy "Thượng tế". Nhưng Ðức Giêsu thật là Chúa. Người bảo "thôi cứ để như vậy", tức là cứ để theo ý Chúa Cha và Người chữa tai cho tên đầy tớ kia. Rồi Người nhắc lại cho mọi người nhớ: hằng ngày Người đã ở nơi Ðền thờ mà chẳng ai dám tra tay vào Người; nhưng bây giờ là thời của các quyền lực tối tăm.
Như vậy, chúng ta không thấy Ðức Giêsu bị bắt như một người có tội. Ngược lại, chúng ta vẫn thấy Người là Chúa. Tác giả Luca luôn luôn chú ý đến điểm này. Trong suốt bài tường thuật, cái đèn pha của Người vẫn pha ánh sáng vào tư cách cao cả của Chúa, đến nỗi những gì xúc phạm đến Chúa như đòn vọt, xỉ nhục đều như bị dìm trong bóng tối. Tác giả chỉ lướt qua một cách nhẹ nhàng để dừng lại trên khuôn mặt khả ái và khả kính của Ðức Giêsu.
Do đó, tác giả muốn môn đệ của Chúa phải xứng đáng để tham dự Mầu nhiệm Tử nạn. Người kể ngay đến câu chuyện Phêrô chối Chúa trước khi người ta đưa Chúa ra tòa. Có vẻ Người thông cảm với Phêrô không để cho ông sa ngã đến chỗ phải thề để chối Chúa. Nhất là Người đã để cho Phêrô trở lại, rồi mới kể đến việc người ta hành hạ và xét xử Chúa. Dường như Người muốn tách rời tội của môn đệ và tội của người ta. Môn đệ sa ngã vì yếu đuối và đã được cái nhìn đầy thương xót của Chúa làm cho khóc lóc rửa sạch linh hồn để tham dự cuộc tử nạn cứu độ của Người.
Thật ra rất hiếm những nét tả về cái chết đau thương và nhục nhã của Ðức Giêsu. Ngược lại nơi tòa án Do Thái, cũng như trước mặt Philatô và trên cây thập giá, Người vẫn là Chúa. Tại tòa Do Thái, chẳng có thể nói là đối diện với Người. Thầy Thượng tế cũng bị chìm ở giữa "người ta". Họ không hỏi Người những điều bất xứng. Họ chỉ muốn biết Người có phải là Ðấng Thiên Sai không? Con Người thì bộc lộ tâm tư của họ ra và cho họ thấy nay đã đến lúc Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng. Như vậy, ai đang xử ai? Ðến nỗi chính họ đã phải thốt ra: "Vậy ra ông là Con của Thiên Chúa!" Và họ cũng chẳng dám coi lời khẳng định của Người là phạm thượng. Tức là ở đây, tại tòa Do Thái, tác giả Luca cũng vẫn cho chúng ta thấy Ðức Giêsu là Chúa.
Ðiều này tác giả cũng chẳng quên khi kể lại việc ở trước tòa Philatô. Ông này luôn trở đi trở lại nhận định "không tìm ra tội trạng nào nơi người ấy". Ông nại đến cả thái độ của Hêrôđê cũng không thấy Người có tội gì. Luca nhấn mạnh đến sự vô tội, nhưng có thể để an ủi các môn đệ của Chúa Kitô bị đưa ra tòa xét xử. Họ hãy nhớ lại phiên tòa Philatô. Ðức Giêsu có cần trả lời gì đâu. Người nói duy nhất một câu để đáp lại câu Philatô hỏi: Ông là vua dân Do Thái sao? Người bảo: Chính ông nói thế. Người nói để khẳng định bản chất cao cả của mình; đang khi đối phương lúng túng và loay hoay trong vấn đề tội trạng.
Khuôn mặt của Hêrôđê đã được tác giả Luca chú ý đặc biệt. Cả tâm lý của ông cũng bị phơi bày ra. Từ lâu rồi ông chỉ mong có ngày được giáp mặt Ðức Giêsu để thấy một phép lạ. Ông không biết rằng Người đã không đến cho hạng người có tâm lý như vậy. Nước Trời không phải là chuyện kỳ lạ, nhưng là ơn độ trì đổi mới con người. Thế nên Ðức Giêsu đã lặng thinh trước mặt Hêrôđê, và đạo của Người sẽ chẳng bao giờ nói gì với những con người hiếu kỳ, chuộng lạ. Và những kẻ chỉ thấy những sự lạ trong đạo của Người sẽ chẳng bao giờ được nghe thấy tiếng Người thực sự. Ngược lại các môn đệ chân chính của Người phải có can đảm nhìn thẳng vào cây thập giá đã được mang đến cho Người để Người vác đi và rồi họ cũng vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi theo Người như Simon, người Kyrênê và đám dân đông đảo cùng phụ nữ hôm nay đã theo sau Người trên đàng đến núi Sọ.
Những người này đã được Chúa nhắn nhủ phải ăn năn thống hối. Họ tiếp tục đi theo Người và được thấy không những Ðức Giêsu cầu xin Chúa Cha tha thứ cho người ta; mà Người còn ban thiên đàng cho kẻ tội lỗi kêu xin. Họ được thấy vạn vật u sầu chia sẻ sự đau khổ của Người và chính Người đang chết ngoan ngoãn trong tay Ðức Chúa Cha. Họ thấy đoàn lũ ra về đấm ngực ăn năn và ông Giuse đến táng liệm xác Chúa một cách trung thành. Tất cả những điều mắt thấy tai nghe ấy làm cho các phụ nữ thấy rõ rệt Chúa đã chết cho kẻ có tội và những người này đã bắt đầu thống hối ăn năn. Cuộc tử nạn của Chúa thật sinh ơn cứu độ.
Ðó chính là điều mà tác giả Luca muốn dùng để kết thúc bài tường thuật. Người muốn chúng ta thấy Chúa đã chết cho chúng ta và chúng ta hãy trở về với Chúa. Chúa không cần chúng ta khóc thương các vết thương của Người vì tác giả Luca đã không chú ý đến khía cạnh đau khổ của cuộc tử nạn. Tác giả muốn chúng ta thấy Ðức Giêsu là Chúa; Người biết rõ tâm can mọi người; Người không chấp tội chúng ta; Người hiến thân chịu chết để biểu lộ lòng thương xót; Người kêu gọi mọi người thống hối ăn năn và độ trì mọi kẻ kêu cầu Người. Sự chết của Người đã đem lại ơn cứu độ chúng ta. Thế nên chúng ta phải có tâm hồn môn đệ để tham dự cuộc khổ nạn hồng phúc của Người. Chúng ta phải khóc lóc tội lỗi mình trước. Như Phêrô, rồi chúng ta gia nhập đoàn lũ đi theo Người cùng các phụ nữ; tức là với tất cả Hội Thánh, chúng ta đi đến chân thánh giá Chúa Giêsu mà chiêm ngưỡng lòng thương xót của Người đang hy sinh mình để cứu độ những ai kêu xin Người. Ðó là tâm tình và thái độ của chúng ta phải có trong tuần lễ thánh này. Xin các mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu tràn ngập hồn xác chúng ta.
Chuyện kể rằng khi quân Mông Cổ mở mang bờ cõi đến vùng Ba Tư, họ bắt được một tu sĩ công giáo. Quân Mông Cổ giải vị tu sĩ đến gặp Thành Cát Tư Hãn. Thấy người tù binh đeo một cây thánh giá trước ngực, vị đại hãn hỏi về ý nghĩa của dấu hiệu này. Thế là vị tu sĩ nhân cơ hội ngàn vàng kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu cho cả triều đình Mông Cổ nghe. Vị đại hãn tỏ ra thích thú, cho đến khi nghe đoạn thương khó.
Khi nghe đến chuyện Chúa Giêsu bị phản bội, bị bắt, bị đánh đòn, rồi bị đóng đinh, càng lúc khuôn mặt của đại hãn càng lộ vẻ tức giận. Đến lúc vị tu sĩ nói: “Chúa Giêsu kêu lớn: Elôi, Elôi lamma sabác thani” (Mc 15:34), Thành Cát Tư Hãn gầm lên: “Rồi sao nữa?” Sau khi nghe chuyện Chúa Giêsu gục đầu tắt thở, màn đền thờ xé làm đôi, rồi viên đại đội trưởng tuyên bố “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:38), đại hãn trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Thế Thượng đế của các ngươi đã làm gì?” “Ngài có sai quân binh trên trời xuống tàn sát những kẻ giết con của Ngài không?”
Khi thấy vị tu sĩ lắc đầu, Thành Cát Tư Hãn khoát tay đuổi ông ra và không muốn nghe thêm nữa. Đại hãn bình luận: “Một chủ tể mà không bảo vệ được con của ngài, một quân vương mà không trả thù cho con của ngài, thì có gì mà đáng kính phục.” Và dĩ nhiên là Thành Cát Tư Hãn không theo đạo.
***
Tội nghiệp vị đại hãn chưa có dịp nghe đoạn kết câu chuyện, vì nếu đã được nghe, có lẽ ông đã có một kết luận khác. Còn chúng ta, dĩ nhiên là chúng ta biết hết câu chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Chúa chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại và ba ngày sau Ngài sẽ sống lại. Nhưng chúng ta có thật sự hiểu câu chuyện này không? Chúng ta có thực sự hồi hộp theo dõi từng tình tiết một, như vị đại hãn đã làm không?
Có lẽ vì chúng ta nghe quá nhiều lần nên có khi đã không còn tâm tình cùng đi với Chúa Giêsu trên con đường tử nạn. Có lẽ vì chúng ta biết Chúa sẽ sống lại nên khó cảm nghiệm được cảm giác của người nghe câu chuyện lần đầu. Bi thương, hùng tráng, giận dữ, chua xót, mất mát, đau buồn, v.v... Những cảm giác đó mới chính là những gì chúng ta cần được cảm nghiệm trong Tuần Thánh này. Kể từ hôm nay, chúng ta được mời cùng đi với Chúa Giêsu, với Mẹ của Ngài, từng ngày một, từng bước một, vào trong câu chuyện Thương Khó.
Cuộc Thương Khó giúp tôi ý thức sự giới hạn của lý trí khi tôi không có câu trả lời cho những vấn nạn của cuộc đời: Tại sao tôi mất việc? Tại sao gia đình tôi đổ vỡ? Tại sao con cái tôi hư hỏng? Tại sao em tôi bị bạo bệnh? Tại sao bạn tôi chết khi còn quá trẻ? Tại sao và tại sao? Đó là những vấn nạn, đôi khi không có câu trả lời. Nhìn lên Chúa, Chúa im lặng. Nhìn sang Phật, Phật nhắm mắt. Hỏi những người thông thái, họ lắc đầu: Không biết! Phải chăng lúc đó tôi cũng kêu lên rằng: Lạy Chúa sao Chúa bỏ con?
***
Bạn thân mến,
Đau khổ là một thực tế không thể chạy trốn trong kiếp người. Tôi chỉ có thể trực diện với nó khi tôi biết Con Thiên Chúa cũng đã đi qua cái chung cuộc tồi tàn nhất của kiếp người. Bị bạn bè bán đứng, bị người thân chối bỏ. Thân phận Ngài còn thua xa tên tội phạm Barabba. Con Thiên Chúa đã chết một cách thầm lặng trần truồng trên thập giá. Đứng dưới chân thập giá, có mấy người nhỏ lệ? có bao nhiêu người hả hê? Nếu Con Thiên Chúa, Đấng vô tội mà còn bị người đời đối xử thế đó, thì làm sao tôi là môn đệ Ngài có quyền đòi hỏi cái gì khác hơn. Nếu Thiên Chúa đã im lặng khi Con của Ngài bị giết, thì làm sao tôi có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải lên tiếng khi tôi gặp đau khổ.
Chúa Giêsu đã mang lấy một số phận nghiệt ngã hơn chúng ta nhiều lắm. Thế nên khi gặp đau khổ hoạn nạn, tôi đừng vội trách Chúa sao lại gửi cho con thập giá quá nặng nề. Không, Thiên Chúa không phải là tác giả của hình phạt dã man độc ác đó. Chính con người chúng ta nghĩ ra những trò độc ác, những hình phạt dã man để hại nhau, giết nhau. Và rồi chính con ngưòi đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đó nữa.
Nhưng phần Ngài, sao Ngài lại chấp nhận như thế? Phải chăng khi chọn chén đắng của cuộc đời, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy đau khổ và sự chết không phải là tiếng nói sau cùng? Phải chăng Ngài muốn chia sẻ thân phận mỏng dòn yếu hèn của chúng ta? Đúng như lời thánh Phaolô tuyên bố: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Quả thế, Con Thiên Chúa đã cúi mình xuống để nâng chúng ta lên với Ngài. Dù chúng ta phải đi qua con đường khổ giá, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đi một mình. Qua những người chung quanh, Chúa Kitô ghé vai cùng vác thập giá cùng chia sẻ cuộc đời với chúng ta.
Chủ Nhật Lễ Lá hôm nay cũng còn gọi là Chủ Nhật Thương Khó. Đây là chủ nhật đặc biệt nhất trong năm vì có đến hai bài Phúc âm được đọc. Một bài Phúc âm về reo hò mừng vui của việc đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem… và sau đó là bài Phúc âm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, bắt đầu từ âm muu nộp Chúa của Giuđa cho đến lúc táng xác Chúa.
Hai bài Phúc âm với hai tâm tình trái ngược. Dân chúng hôm trước thì tung hô, mấy hôm sau thì đả đảo. Các môn đệ hôm trước thì hãnh diện đi với Thầy, vài hôm sau trốn chui trốn nhủi. Các kinh sư và Biệt phái hôm trước thì e dè, vài bữa sau thì hả hê. Tâm tình của con người là thế đó. Và Chúa Giêsu biết điều đó. Ngài chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả.
Thật dễ dàng để suy tư về ý nghĩa của Tuần Thương Khó, nhưng không thật dễ dàng để cảm nghiệm được những đau đớn của Tuần Thương Khó. Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy để những cảm giác đau đớn, giận dữ, khó chịu, kinh sợ, v.v... nổi lên trong lòng chúng ta. Những cảm xúc này thật cần thiết để mỗi khi bị phản bội, bị bỏ rơi, bị lăng mạ hay bị kết án, bị trù dập hay bị sỉ nhục, bị chế diễu, bị lột trần hay bị đóng đinh, chúng ta có thể nhìn lên thập giá với một niềm an ủi.
Ước gì mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thương Khó với tâm tình cuả Chúa Giêsu, để rồi khi chúng ta cùng chết đi với Ngài, chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài.
Xin cầu chúc bạn một Tuần Thánh được cử hành trong niềm tin và ân sủng của Đấng đã chịu chết vì chúng ta. Amen.
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Giáo Hội mời gọi ta bước vào Tuần Thánh. Tuần Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta đã bắt đầu.
Hôm nay Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, mang lại Ơn Cứu Độ cho con người. Nhìn bề ngoài, việc tiến vào thành Giêrusalem giữa đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá, giữa tiếng tung hô vang dội: “Hoan hô Con Vua Đavít”. Điều này có vẻ như là một cuộc vinh quang toàn thắng. Nhưng thực ra đây lại là việc mở màn cho cuộc Thương Khó. Đây cũng là một việc mỉa mai nhất vì hôm nay dân chúng giơ cao tay tung hô chúa, nhưng chỉ mấy ngày sau, cũng chính những cánh tay ấy lại được giơ cao để hò hét lên án Chúa. Và có lẽ đây cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội với những tiếng kêu gào và những bàn tay nắm chặt đưa lên cao: “Đả đảo! đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một người nào dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu, mà chỉ thấy người ta bênh vực cho Baraba, lên tiếng đòi phóng thích cho tên trộm cướp mà thôi.
Nếu người kitô được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có nhiều cảm nghiệm về những khó khăn vất vả trên đường theo Chúa. Con đường bước đi theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chắc hẳn ta phải có mặt trong đám đông hoan hô Chúa khi Ngài vào thành Giêrusalem, và cũng không thể vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Hãy thử bình tâm để hỏi lại lòng mình: Nếu tôi sống tại Giêrusalem trong thời Chúa Giêsu , tôi sẽ là ai ? Sẽ đứng trong nhóm người nào? Tôi sẽ có thái độ nào trước bản án của Giêsu? Tôi sẽ là Simon vác đỡ thánh giá cho Chúa ? Sẽ là Phêrô chối Chúa ? Sẽ là Giuda bán Chúa ? Sẽ là Philatô dửng dưng rửa tay trước kẻ vô tội ? Sẽ là các vị thương tế và kinh sư âm mưu cáo gian để kết án Chúa? Sẽ là những người dân thấp cổ bé miệng, bị thúc dục và lôi kéo vào trong đám đông để hò hét “ Giết! Giết!! Giết nó đi!!! Hãy đóng đinh nó vào thập giá!”
Bạn thân mến! Trong tuần thánh nầy, mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành thời giờ để đọc lại một cách chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy canh thức với Chúa trong vườn Cây Dầu. Hãy bước đi theo Ngài qua từng chặng đường, từ tòa án đạo đến tòa án đời. Hãy cùng đi với Ngài, cùng vác với Ngài cây thập tự của chính mình để cùng đi với Ngài ra pháp trường, và hãy ở lại thật lâu với Ngài trên Núi Sọ… Đừng theo Chúa như một người xa lạ, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và tôi. Bởi lẽ Ngài thương yêu ta, hy sinh mạng sống của Ngài vì ta…
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của cuộc đời: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết..v..v.. Nhưng trên hết, ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn lao của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau trở thành giá trị cứu độ. Vậy ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao la tiềm ẩn trong từng phản ứng, từng lời nói của Ngài.
Ước gì ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, càng yêu thánh giá của mình hơn và càng kính trọng thánh giá của người khác nhiều hơn.
Hãy cảm nghiệm sâu xa tình yêu bao la của Giêsu dành cho đời ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Ngài thấm nhuần và biến đổi đời ta. Bạn nhé !
***
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Cây Dầu, xin ban cho con sức mạnh để đối diện với những khó khăn vất vả trong cuộc sống.
Vì Chúa chịu sỉ nhục và bị nhạo báng, xin cho con luôn biết khiêm nhượng và vâng phục.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề , xin cho con biết noi gương bắt chước Chúa, biết can đảm chấp nhận vác lấy thập giá của đời mình.
Vì Chúa bị lột áo, xin cho con biết cởi bỏ những đam mê yếu hèn của kiếp người, biết mặc lấy tâm tình thống hối và yêu thương.
Vì Chúa bị đóng đinh, xin cho con đóng đinh tính xác thịt của con vào thánh giá Chúa.
Vì Chúa đã giang tay chết trên thập giá, xin cho con biết qúy trọng Ơn Cứu Độ vì Chúa đã chết để cho con được sống, để con được hưởng nhờ Ơn Tái Sinh mà Chúa đã hứa ban, Amen .
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1: Isaiah 50:4-7 - BĐ2: Phil 2:6-22 - PÂ: Luca 22:14-23:56)
Khu vực nội thành Giêrusalem rất nhỏ nên không có những khu vườn rộng rãi. Nhiều người giàu sang có những khu vườn riêng ở ngoại thành, trên sườn núi Ôliu. Có người bạn nào đó đã cho Chúa Giêsu sử dụng một khu vườn như vậy và nay Chúa Giêsu đi tới đó để một mình chiến đấu trận quyết liệt. Chúa Giêsu chỉ mới 33 tuổi và không ai muốn chết ở tuổi này. Ngài hiểu rõ tử hình đóng đinh trên thập tự là thế nào. Ngài đã từng chứng kiến việc đó. Ngài ở trong cơn hấp hối. Danh từ Hy Lạp dùng ở đây chỉ về một người nào phải chiến đấu với tâm hồn đầy kính sợ. Đây chính là điểm mấu chốt và là chỗ ngoặt trong đời sống Chúa Giêsu. Ngài vẫn còn có thể tháo lui. Ngài có thể từ chối thập giá. Sự cứu rỗi nhân loại đang treo trên cán cân khi Con Thiên Chúa kịch liệt chiến đấu trong vườn Giệtsimani và Ngài đã chiến thắng.
Một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng đã nói về nhạc phẩm “Đêm Xưa” của Chopin rằng: “Tôi phải nói cho anh về điều đó. Chopin đã bảo Liszt và Liszt đã bảo tôi. Trong bản nhạc này tất cả là u sầu và khổ não, ôi biết bao u sầu khổ não, cho tới khi người ta bắt đầu nói với Chúa, bắt đầu cầu nguyện, bấy giờ mọi sự đều tốt đẹp”. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài vào vườn Giệtsimani trong tối tăm. Ngài ra khỏi vườn trong ánh sáng bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Ngài vào vườn Giệtsimani trong cơn hấp hối, Ngài trở ra trong chiến thắng, với sự bình an trong tâm hồn, bởi Ngài đã nói chuyện với Chúa Cha. Thật hoàn toàn có sự khác biệt được thể hiện qua âm điệu của một người khi nói: “Ý Cha được nên trọn”.
1. Người đó có thể nói bằng một giọng hoàn toàn khuất phục như một kẻ đã nằm bất lực dưới một sức mạnh phi thường. Mấy lời đó nghe như tiếng chuông báo tử cho hy vọng.
2. Người đó có thể nói bằng giọng của một kẻ bại trận, đầu hàng. Mấy lời đó nghe như tiếng của kẻ thú nhận thất bại.
3. Người đó có thể nói bằng giọng của kẻ bị thất vọng hoàn toàn khi thấy giấc mộng của mình không thể thành sự thật. Đó là những lời tiếc xót và cũng chất chứa uất hận, tệ hơn nữa là biết mình không thể làm gì trong tình trạng đó.
4. Người đó có thể nói bằng giọng hoàn toàn tin cậy. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm. Ngài đang nói với một Đấng là Cha. Ngài đang nói với Chúa Cha là Đấng hằng bao bọc nâng đỡ Ngài dù Ngài đang trên thập tự. Ngài chịu khuất phục, nhưng là khuất phục một tình yêu không rời bỏ Ngài. Việc khó nhất của đời sống là chấp nhận điều mà chúng ta không thể hiểu, nhưng chúng ta cũng có thể làm điều đó nếu chúng ta tin chắc vào tình yêu Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nói như vậy, và khi chúng ta có thể nói như vậy, chúng ta có thể nhìn lên và hoàn toàn tin cậy mà thưa rằng “Lạy Chúa, xin cho ý Ngài được nên trọn”.
CÁI HÔN CỦA KẺ PHẢN BỘI (Lc 22,47-53)
Giuđa đã tìm ra cách nộp Chúa để các nhà cầm quyền bắt Ngài khi dân chúng vắng mặt. Hắn biết rằng ban đêm Chúa thường đến khu vườn trên đồi và hắn dẫn các tay sai của Toà Công Luận tới đó. Viên đội trưởng của Đền Thờ cũng gọi là sagan, là một sĩ quan có trách nhiệm giữ an ninh trật tự cho Đền Thờ, còn các thầy đội coi Đền Thờ được đề cập đây là những sĩ quan có trách nhiệm thi hành lệnh bắt Chúa Giêsu. Khi một môn đệ gặp rabbi quý mến thì chàng đặt tay phải mình lên vai trái của thầy và hôn thầy. Cái hôn giữa môn đệ với thầy yêu quý này là cái hôn mà Giuđa đã dùng làm dấu hiệu để phản thầy mình. Có bốn thành phần khác nhau liên hệ trong việc truy bắt này. Hành động và phản ứng của họ rất có ý nghĩa.
1. Giuđa, kẻ phản bội. Hắn là con người đã bỏ Thiên Chúa và đi liên hiệp với Satan. Chỉ khi nào người ta bỏ Chúa ra ngoài đời sống và rước Satan vào lòng mình thì người đó mới có thể bán Chúa Giêsu.
2. Những người Do Thái đến bắt Chúa Giêsu. Họ là những người mù loà đối với Thiên Chúa. Khi Chúa nhập thể, đến thế gian thì họ chỉ có một ý nghĩ là làm thế nào để mau treo Ngài lên cây thập tự. Từ lâu họ đã chọn con đường riêng của họ, bịt tai trước tiếng gọi của Chúa, nhắm mắt trước sự dẫn dắt của Ngài, đến nỗi sau cùng khi Ngài ngự đến thì họ không thể nhận biết. Thật đáng sợ khi người ta trở nên mù và điếc đối với Chúa.
3. Các môn đệ. Họ là những người bỏ Chúa. Thế giới của họ đã sụp đổ, họ tin chắc thôi thế là hết. Điều sau cùng mà họ còn nhớ được lúc đó là Thiên Chúa, trí óc họ chỉ còn suy nghĩ đến một điều là tình trạng khủng khiếp đang vây bủa họ. Hai điều xảy ra cho người quên Chúa và bỏ Chúa ra ngoài cuộc sống của mình. Một là người ấy rất sợ hãi và hoàn toàn rối loạn tâm thần; hai là người ấy mất năng lực đối diện với đời sống và thích nghi với cuộc sống. Trong giờ thử thách, đời sống sẽ bị tiêu huỷ nếu thiếu Chúa.
Chỉ khi nào con người biết cúi đầu xuống trước mặt Chúa, bấy giờ người ấy mới có thể nói năng và hành động như người chiến thắng được.
ĐƯỜNG LÊN ĐỒI GÔNGÔTHA (Lc 23,26-31)
Khi một tên tù đã bị kết án đóng đinh trên thập tự, thì hắn bị lôi ra khỏi toà án và giao cho bốn người lính Rôma. Cây thập hình của hắn được đặt lên vai hắn, hắn phải vác nó đến pháp trường bằng con đường dài nhất trong lúc một tên lính đi trước hắn mang tấm bảng ghi rõ tội trạng để điều đó trở thành một sự khủng khiếp cho người nào còn có ý muốn phạm thứ tội tương tự như hắn. Họ đã làm điều đó cho Chúa Giêsu, Ngài bắt đầu vác thập tự của mình (Ga 19,17), nhưng sức nặng của nó vượt quá sức lực của Ngài nên Ngài không thể vác đi được nữa. Palestine là một xứ bị chiếm đóng, nên mọi người dân đều có thể tức khắc bị xung vào công tác phục dịch chính phủ Rôma. Dấu hiệu của sự ép buộc đó là khi thấy có lưỡi giáo Rôma đặt nhẹ lên vai người nào thì người đó phải phục dịch. Khi Chúa Giêsu đã ngã quỵ dưới sức nặng của cây thập tự thì viên đội trưởng Rôma nhìn quanh tìm kiếm một người để vác thập giá đó. Bấy giờ có một người tên là Simon quê ở Kyrênê xa xôi, đang từ vùng quê đi vào thành. Chắc chắn ông là người Do Thái đã suốt đời chắt chiu dành dụm để có thể dự một Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Lưỡi giáo Rôma đã chạm vai ông, tức khắc, dù muốn hay không, ông cũng đành vác cây thập tự của người tử tù.
Chúng ta thử tưởng tượng lúc bấy giờ Simon đã nghĩ gì? Ông đã đến Giêrusalem để thực hiện hoài bão của đời mình, thế mà ông phải vác cây thập tự lên đồi Gôngôtha. Lòng ông hẳn chứa đầy cay đắng đối với quân Rôma và đối với tên tử tù ngày là kẻ khiến ông bỗng dưng phải liên luỵ vào tội của hắn. Nhưng nếu chúng ta đọc thêm một số chi tiết, thì sẽ biệt câu chuyện không chấm dứt ở đây. J.A.Robertson coi đó là một trong những chuyện cảm động nhất của Tân Ước, Máccô tả rõ Simon là cha của Alecxandơ và của Ruphô (Mc 15,21). Bạn không thể nhận diện một người bằng tên các con của người đó trừ khi các con đó rất được quen thuộc trong cộng đồng của người mà bạn viết thư cho. Mọi người đều công nhận rằng Máccô đã viết Phúc Âm của ông cho Hội Thánh tại Rôma. Giữa ác lời chào ở cuối thư, ông viết rằng “Xin hãy chào thăm Ruphô, người được chọn của Chúa, và chào thăm mẹ người cũng là mẹ tôi” (Rm 16,13). Như vậy trong Hội Thánh Rôma có Ruphô, một Kitô hữu quý báu đến nỗi Phaolô gọi người đó là một trong những kẻ được chọn của Chúa, với một bà mẹ rất yêu dấu đối với Phaolô, đến nỗi ông gọi bà là mẹ của ông trong đức tin. Rất có thể Ruphô này là Ruphô con của Simon ở Kyrênê, mẹ chàng là vợ ông Simon ấy. Rất có thể khi Simon nhìn thấy Chúa Giêsu, bao nhiêu cay đắng của ông đã biến thành ngạc nhiên và sau cùng ông đã tin, đã trở thành Kitô hữu và gia đình ông đã cung cấp cho Hội Thánh những tâm hồn quý giá nhất. Có thể Simon nghĩ rằng ông đến đó để thực hiện một ước vọng của đời sống, ông đang chuẩn bị mọi sự để mừng Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, nhưng ông đã phải vác thập giá cho một phạm nhân, thật hoàn toàn trái ngược với ý muốn của mình, nhưng khi ông nhìn xem Ngài, thì nỗi buồn bực của ông đã trở thành nỗi ngạc nhiên và niềm tin, và trong sự việc mà thoạt đầu ông coi như một điều sỉ nhục đó đã cho ông gặp được chính Cứu Chúa của đời ông.
Theo sau Chúa Giêsu là một đám phụ nữ khóc thương Ngài. Ngài quay lại bảo họ đừng khóc vì Ngài, nhưng hãy khóc cho chính mình. Những ngày khủng khiếp sắp xảy đến. Trong gia đình người Do Thái không có thảm kịch nào cho người vợ bằng cuộc hôn nhân không con, vì không con là lý do đủ mạnh để ly dị. Nhưng sẽ đến một ngày mà người đàn bà son sẻ lại vui mừng vì không con. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhìn thấy trước sự tàn phá thành này là thành đã nhiều phen và hiện giờ vẫn còn đang từ chối lời mời gọi của Chúa. Câu 31 là câu châm ngôn, có thể dùng trong nhiều trường hợp. Ở đây nó có nghĩa là nếu họ làm điều này cho một người vô tội thì một ngày kia, họ sẽ còn làm gì nữa cho những kẻ có tội?
TẠI ĐÓ CHÚNG ĐÓNG ĐINH NGÀI (23,32-38)
Khi đã tới chỗ đóng đinh, tội nhân đặt thập giá nằm xuống đất. Thường thì thập giá giống hình chữ T, không có phần nhô lên trên để có thể dựa đầu. Nó khá thấp, đến nỗi chân của tội nhân chỉ cách xa mặt đất độ 6-8 tấc. Có một nhóm phụ nữ nhân đức ở Giêrusalem thường tới chỗ tội nhân và tặng một chén rượu pha thuốc mê có tác dụng làm tê liệt những cảm giác đau đớn ghê gớm đó. Họ đến tặng Chúa Giêsu chén rượu và Ngài từ chối (Mt 27,34). Ngài quyết định nếm tới tận cùng vị cay đắng nhất của sự chết, với một tâm trí minh mẫn và giác quan tinh tường. Hai tay phạm nhân bị căng ra trên đà ngang của thập giá, đinh đóng xiên qua hai bàn tay. Thường hai bàn chân thì không đóng đinh, nhưng được buộc sơ vào thập giá. Ở lưng chừng có một miếng gỗ nhô ra để đỡ sức nặng thân thế phạm nhân, kẻo các đinh xé rách toạc hai bàn tay. Rồi thập giá được dựng thẳng đứng, cắm vào lỗ sâu. Sự khủng khiếp của tử hình đóng đinh nằm ở chỗ cơn đau đớn rất dữ dội, nhưng lại không giết chết ngay, phạm nhân bị để cho chết đói, chết khát dần dưới sức nóng của mặt trời ban trưa và giá lạnh của đêm trường. Có nhiều phạm nhân bị đóng đinh sống ngắc ngoải đến cả một tuần lễ trên thập giá, sau cùng chết trong cơn điên cuồng.
Quần áo của tử tù thuộc về bốn tên lính áp giải phạm nhân ra pháp trường. Mỗi người Do Thái có năm loại trang phục: áo trong, áo ngoài, dây thắt lưng, khăn đội đầu và giầy dép. Bốn thứ chia cho bốn tên, còn lại chiếc áo choàng bên ngoài, áo đó dệt thành một tấm không có đường nối (Ga 19,23-24). Nếu cắt nó ra để chia thì làm hỏng cả áo, vì thế bọn lính ngồi ngay dưới chân thập giá gieo súc sắc, bắt thăm chiếc áo đó. Tên tử tù có hấp hối bao lâu cũng chẳng có nghĩa lý gì với bọn này.
Tấm bảng gắn trên đầu thập giá chính là bảng chữ mà người lính mang đi trước tội nhân qua các đường phố đến nơi hành hình.
Chúa Giêsu đã nói nhiều lời tuyệt diệu, nhưng có lẽ câu tuyệt diệu nhất mà Ngài nói là “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không hiểu việc họ làm. Sự tha thứ trong Kitô giáo thật sự là một sự lạ lùng. Khi Stephanô bị ném đá chết, ông cũng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ” (Cv 7,60). Không có điều gì đáng yêu, cũng không có gì hiếm cho bằng sự tha thứ của người Kitô hữu. Khi nào tinh thần thiếu tha thứ đe doạ biến lòng chúng ta thành cay đắng, hãy nhớ lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài và lời Phaolô dặn dò các bạn hữu “Hãy ở lại với nhau cách nhân từ, đầy lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô vậy” (Ep 4,32).
LỜI HỨA THIÊN ĐÀNG (Lc 23,39-43)
Chủ ý của nhà cầm quyền là họ đóng đinh Chúa ở giữa hai tên cướp khét tiếng. Họ làm như vậy để sỉ nhục Ngài trước mặt cả dân chúng, liệt Ngài vào hạng trộm cướp. Người ta đã nói nhiều về tên trộm biết hoán cải. Hắn được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ Robin Hood của Do Thái, ăn trộm của người giàu để phân phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai Cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con một thủ lãnh đảng cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương qua, nên người đó không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói “Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé”. Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ, nay gặp lại Ngài trên thập giá trên đồi Gôngôtha. Lần này thì Chúa Giêsu đã cứu anh ta.
Parađi là từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là “Một khu vườn rào kín”. Khi vị vua Ba Tư muốn đặc biệt tôn trọng một bầy tôi nào của ông thì người ấy được cùng dạo mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giêsu đã hứa cho tên trộm cướp ăn năn đó một sự gì quý hơn là sự bất tử. Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của Ngài trong vườn thượng uyển trên trời.
Trên hết mọi điều khác, chắc chắn câu chuyện này cho chúng ta biết rằng không bao giờ là quá trễ để trở lại với Chúa. Về các việc khác, chúng ta có thể nói “Thì giờ để làm việc đó đã qua rồi”. “Bây giờ tôi đã quá lớn tuổi, không làm được việc đó”. Nhưng không bao giờ chúng ta có thể nói như thế về sự trở lại với Chúa. Bao lâu trái tim còn đập, bấy lâu lời kêu gọi của Chúa Giêsu vẫn còn hiệu lực đối với chúng ta. Sự thật vẫn chính xác là hơi thở còn thì vẫn còn hy vọng.
NGÀY DÀI CHẤM DỨT (Lc 23,44-49)
Trong đoạn Kinh Thánh này, mỗi câu đều có nhiều ý nghĩa.
1. Có sự tối tăm khủng khiếp khi Chúa Giêsu tắt thở. Dường như mặt trời cũng không thể nhìn xem việc gớm ghiếc mà tay loài người vừa làm ra. Thế giới bao giờ cũng tối tăm khi con người tìm cách loại bỏ và khai trừ Chúa Kitô.
2. Màn trong Đền Thờ xé ra làm đôi. Đây là tấm màn ngăn Nơi Cực Thánh, là nơi có sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa nơi không ai được phép vào trừ vị thượng tế, và ông chỉ được vào mỗi năm một lần trong ngày Đại Lễ Chuộc Tội. Chúng ta hạnh phúc mà nói rằng con đường vào nơi Thiên Chúa hiện diện một cách bí nhiệm, bấy lâu nay ngăn cách với loài người, thì nay đã được mở toang cho mọi người. Trái tim của Chúa bấy lâu giữ kín nay được phơi bày ra cho loài người. Sự Giáng Sinh, đời sống và sự chết của Chúa Giêsu đã xé đôi bức màn bấy lâu nay che giấu Chúa khỏi loài người. Chúa Giêsu đã phán: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Nơi thập giá, loài người đã được nhìn thấy cao điểm của tình yêu Thiên Chúa như họ chưa hề thấy trước đó bao giờ.
3. Chúa Giêsu đã kêu lên một tiếng lớn. Cả ba sách Phúc Âm đều nói về tiếng kêu lớn này (Mt 27,50; Mc 15,37). Gioan thì không nói đến tiếng kêu lớn ấy, nhưng ông cho biết Chúa Giêsu khi chết đã nói: “Mọi việc đã hoàn tất”. (Ga 19,30). Trong tiếng Hy Lạp và tiếng Aram thì “mọi việc đã hoàn tất” chỉ gồm trong một từ mà thôi. Cho nên mọi việc đã được trọn vẹn và tiếng kêu lớn cũng là một mà thôi, và Chúa Giêsu thật đã chết với tiếng kêu chiến thắng trên môi. Ngài đã không nói thì thầm “Thế là hết” như một người bị hành hạ đến nỗi phải quỳ gối xuống và bị buộc phải chấp nhận sự thua bại. Ngài kêu lớn như một người chiến thắng, đã thắng đối thủ trong trận cuối cùng và đã đưa một công tác vĩ đại tới chỗ kết thúc tối hậu đầy vẻ vang. “Đã xong” đó là tiếng kêu của Chúa Cứu Thế, Đấng chịu đóng đinh, nhưng là Đấng toàn thắng.
4. Chúa Giêsu chết với lời cầu nguyện trên môi. “Lạy Cha, con xin trao phó linh hồn con trong tay Cha”. Câu này có trong Thánh Vịnh 31,5 với tiếng “Cha” được thêm vào. Câu này là lời cầu nguyện trước nhất mà mỗi bà mẹ Do Thái dậy cho con mình đọc trước giờ đi ngủ, trước khi bóng tối ghê rợn đổ xuống: “Con trao phó linh hồn con trong tay Chúa”. Chúa Giêsu đã nói câu đó tha thiết hơn nhiều vì Ngài đã bắt đầu với tiếng Cha, dù trên thập giá Chúa Giêsu đã chết như đứa con nằm ngủ trong cánh tay Cha mình.
5. Viên đội trưởng và đám dân chúng đã xúc động sâu xa khi chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết của Ngài đã thực hiện điều mà khi sống Ngài đã không thể làm, tức là làm tan vỡ những tấm lòng sắt đá của loài người. Lời phán của Ngài trước đó giờ đây được ứng nghiệm “Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”. Ngay lúc Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì sức thu hút của thập giá đã bắt đầu thực hiện.
Hôm nay, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng một con lừa để tiến vào thành Giêrusalem giữa những tiếng tung hô vạn tuế. Chính vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh con lừa.
Đối với nhiều người, hình ảnh con lừa chẳng phải là một hình ảnh hấp dẫn, bởi vì lừa là một con vật đần độn và ưa nặng. Tuy nhiên, trong một bài thơ, Chesterton diễn tả một chú lừa đã quan sát vẻ xấu xí của mình và tự nhủ:
“Chắc hẳn tôi đã được sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu, khi cá lượn trên không, lúc cây rừng cất bước và cây vả trổ gai. Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm, đôi tai khác nào cặp cánh lạc loài và dáng đi kỳ cục nhất trong các loài động vật bốn chân. Thế nhưng, tôi cũng có giờ của tôi chứ. Một giờ thật oanh liệt và êm dịu, khi bên tai tôi văng vẳng tiếng reo hò và ngành thiên tuế chập chờn dưới bước chân tôi đấy”.
Và chú lừa đã thốt lên:
“Quí vị cứ cười nhạo tôi đi, nhưng nên nhớ rằng tôi đã được chọn trong tất cả thú vật trần gian, để cõng trên mình Đấng Cứu Độ nhân loại”.
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa, nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh lại ngợi khen chúng. Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa, là giống vật dành cho chiến tranh. Tiên tri Giacaria đã tiên báo: Đấng Messia, tức là Đấng Thiên Sai, sẽ cưỡi trên lưng lừa mà tiến vào thánh Giêrusalem.
Và hôm nay, Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên báo ấy. Làm như thế, Ngài đã chu toàn hai điều xác quyết sau đây: Điều xác quyết thứ nhất, Ngài xác nhận mình là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia của dân Do Thái. Điều xác quyết thứ hai, Ngài mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng thiên sai của Ngài là gì?
Vào thời Chúa Giêsu, việc mạc khải này có thể dẫn tới những hiểu lầm tai hại. Thực vậy, có nhiều người nghĩ rằng sứ mạng của Đấng Thiên Sai hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại, để đánh đuổi quân xâm lược Rôma ra khỏi đất nước họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu cưỡi trên lưng con vật hiền lành mà tiến vào thành Giêrusalem. Hành động này đi ngược lại với ý tưởng trên. Đồng thời còn cho thấy Đấng Thiên Sai không phải là một ông vua chinh chiến, bắt kẻ thù phải làm nô lệ cho mình.
Ngài đến và đã quỳ gối rửa chân cho thần dân của Ngài, chứ không phải là để ngồi trên ngai vàng, rồi bắt mọi người phải hầu hạ mình. Ngài đoàn kết dân chúng sau lưng mình, không phải là để đi giao tranh với các dân tộc khác, nhưng liên kết họ để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát, thu hận và mọi hình thức bất công.
Ngài đến không phải để kết án, nhưng để tha thứ. Ngài đến không phải để phá đổ những giấc mơ của dân chúng, nhưng để làm cho những giấc mơ ấy trở thành hiện thực bằng một phương cách lạ lùng nhất. Ngài không cưỡng bức, nhưng kêu mời chúng ta bước theo Ngài.
Thế nhưng, chúng ta có đáp trả lời mời gọi ấy hay không, thì đó là việc làm riêng tư của mỗi người chúng ta. Còn giờ đây, chúng ta hãy vui mừng và cùng với các tín hữu ở khắp mọi nơi, hãy tung hô Chúa: Vạn tuế Đấng Nhân Danh Chúa mà đến.
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
Bài tường thuật của thánh Luca về Tiệc Ly cho thấy ở khoảnh khắc quan trọng nhất lịch sử Đức Kitô, diễn ra một biến cố rất quan trọng: Giao Ước cũ kết thúc, Giao Ước mới bắt đầu. Đức Giêsu ăn mừng lễ Vượt Qua theo luật Do Thái quy định, và nói rõ lần này là lần cuối cùng Người mừng lễ đó. Tới khi nào Chúa lại ăn mừng lễ, lúc đó sẽ là lễ Vượt Qua mới. Người khởi sự bằng việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Ngôn từ sử dụng ở đây dễ hiểu: bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Này là Mình Ta… Các tông đồ không có một ý niệm gì về Lời Chúa, Chúa nói sao các ông nghe và nhớ đúng thế, lúc đó các ông không hiểu gì về ý nghĩa tượng trưng. Các ông không hiểu cũng như chúng ta ngày nay không hiểu, các ông ghi nhớ rằng, Đức Giêsu đưa ra bánh và rượu, Chúa nói đó là Mình và Máu Người, Chúa bảo các ông sau này hãy làm lại việc ấy để nhớ đến Người. Các ông chỉ biết nghe và hiểu theo nghĩa đen. Niềm tuân phục của các tông đồ đối với lệnh truyền của Đức Kitô sẽ làm phát sinh thực tại kỳ diệu là Thánh Lễ của chúng ta. Đoạn Phúc Âm vượt lên trên bất cứ chú giải nào. Chúng ta nêu ra hai điểm:
1) Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.
Nhớ, theo một nghĩa Cựu Ước, là tưởng niệm một biến cố làm đổi mới và hiện tại hoá tương quan Thiên Chúa với nhân loại. Thiên Chúa vượt khỏi tầm thời gian. Người hiện hữu và hành động trong hiện tại cũng như hằng có và hành động trong quá khứ. Tương quan giữa Giao Ước Thiên Chúa với nhân loại luôn mãi có tính chất hiện tại. Chỉ con người mới có quá khứ và hiện tại. Khi con người cử hành nghi lễ để nhớ đến một hành vi của Thiên Chúa, con người hiệp thông với một hành vi thần linh trong hiện tại của mình. Đức Giêsu đã muốn rằng bí tích Thánh Thể phải hiện thực trong hiện tại của mỗi người để nhớ đến Chúa.
2) Tay kẻ nộp Ta… Chúa loan báo sự phản bội của Giuđa trong tiệc Vượt qua Do Thái hay trong bừa Tiệc Ly?
Người ta nghiêng về thuyết Chúa loan tin ấy trong tiệc Vượt qua. Dẫu sao, ở đây chúng ta đứng trước một trong những vực thẳm tâm lý con người. Sự thiết lập bí tích Thánh Thể là một hành vi thần diệu, nhưng kèm theo một sự phản Thày của Giuđa và một cuộc cãi vã giữa các môn đệ, vì sau khi tranh luận để nhận diện ai là kẻ bán Thày, các ông xoay ra cãi nhau để biết trong anh em ai là người đáng được coi là lớn nhất. Tất cả chúng ta dễ sinh ra nhỏ nhen hèn hạ. Chúng ta cố gắng dẹp bỏ những chuyện ti tiện, nhất là trong những Thánh Lễ của chúng ta.
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56.
ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”.
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu
lộ hận thù oán ghét… tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá…
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
Một buổi tối, một người đi làm bằng xe tháng ở Luân Đôn vội vã trở về nhà. Khi nhìn thấy Vương Cung Thánh Đường Wesminter, tự nhiên anh ta được lôi kéo đi vào trong đó. Anh không thể giải thích được nguyên nhân tại sao, bởi vì anh đã bỏ đạo từ lâu. Vừa bước vào toà nhà, anh hoảng hốt khi nhận thấy cây thánh giá treo từ trên mái vòm. Anh sửng sốt khi nhìn vào người đàn ông ở trên thánh giá, bị tra tấn, bỏ rơi, và đã chết. Anh đã từng nhìn thấy những bức hình khủng khiếp của những người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em bị giết chết ở Bosnia, họ cũng đã bị bỏ rơi. Ở những nơi khác, anh đã được xem bức hình của những người dân bị đói lả, hốc hác, với từng đàn ruồi bò trên mặt họ, với những đôi mắt nhìn trừng trừng, không còn chờ đợi sự giúp đỡ nào nữa, mà chỉ còn chờ đợi cái chết.
Người đàn ông này ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào cây thánh giá trong một lúc. Dần dần, ý nghĩa nội tại của cây thánh giá đã tự mặc khải cho anh ta. Qua nhân vật bị tra tấn và đã chết trên cây thánh giá, anh bắt đầu nhận ra được sự chịu đựng nỗi đau đớn về tâm lý và thể lý của một bà mẹ đang than khóc cái chết của những đứa con trai bà ở Bosnia, của một đứa trẻ đang đói lả ở Châu Phi, của những ông bố bà mẹ đau khổ vì đứa con thân yêu của họ bị chết vì tai nạn. Dường như tất cả nỗi đau của nhân loại đều tập họp ở đây, và đã được người đàn ông trên cây thánh giá biến thành của mình.
Thế rồi anh ta nhìn ra xung quanh, và thấy những người đàn ông và phụ nữ đang im lặng cầu nguyện. Dường như họ chứa đựng một điều bí mật quý giá nào đó. Trong Vương Cung Thánh Đường này, họ cảm thấy thoải mái với chính mình như ở trong nhà. Thế rồi anh nhìn thấy một bà cụ già tiến lại gần một cây thánh giá được đặt gần gian cung thánh. Lúc hôn xong những vết thương của Đức Kitô, bà cụ quay trở ra, sau khi đã được khích lệ và an ủi nhờ tình yêu vĩ đại đó.
Trong lúc quan sát, dường như tâm trí và cõi lòng của anh được nâng lên cao, để đưa vào một thực tại khác. Lần đầu tiên trong cuộc đời, anh biết cầu nguyện. Cây thánh giá không nói nhiều về cái chết, cho bằng ca ngợi tình yêu thương, sự sống và niềm hy vọng. Cây thánh giá của sự khủng khiếp đã trở thành cây thánh giá của niềm hy vọng, thân thể bị tra tấn trở thành thân thể của sự sống mới, những vết thương rộng toang hoác trở thành nguồn gốc của ơn tha thứ, chữa lành và hoà giải. Cuối cùng, khi anh rời khỏi ngôi thánh đường, và hoà mình vào dòng xe cộ đang lưu thông buổi tối, anh cảm thấy được bình an với chính mình và với thế giới. Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu không phải là một vở kịch, mà có thật, và được Người tự do chọn lựa. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị các bạn hữu của mình bỏ rơi. Người đã phải chịu đựng nỗi đau bị Giuđa –một người trong số họ phản bội. Người đã phải chịu đựng nỗi sợ hãi và cơn hấp hối trong vườn cây dầu, và Người không hề được một ai nâng đỡ trong suốt cơn hấp hối của Người.
Người là đối tượng của một hàng rào gồm những lời tố cáo gian ác. Người đã phải chịu đựng những lời xỉ vả, những trận đòn, khạc nhổ, chế nhạo, những trận đòn roi, mạo gai và những cây đinh xuyên thấu da thịt. Người đã phải chịu đựng nỗi ô nhục vì bị kết án đến chết, giống như một tên tội phạm. Khi sắp chết, Người vẫn còn phải chịu đựng thêm những lời chế nhạo, xỉ vả, và giễu cợt. Ai có thể thăm dò được hết chiều sâu của những điều mà Người đã phải chịu đựng?
Chúng ta có thể tìm được sự bình an, bằng cách liên kết nỗi đau khổ của Đức Giêsu. Không có nỗi cô đơn, đói khát, bị áp bức, khai thác, tra tấn, tù tội, bạo lực hoặc đe doạ nào mà Đức Giêsu đã không phải chịu đựng. Bởi vì Thiên Chúa đã trở thành Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, trong và thông qua Đức Giêsu, nên không một người nào có thể phải hoàn toàn bị cô độc trong nỗi đau khổ của mình.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu đem lại lòng can đảm, sức mạnh và niềm hy vọng cho tất cả những người đau khổ. Điều này có nghĩa là chúng ta không còn cô độc nữa.
Thành Giêrusalem chỉ cách Giêrikhô khoảng 27km, giờ đây Chúa Giêsu đã gần tới đích của Ngài. Giêrusalem điểm cuối cùng của hành trình đang ở trước mặt Ngài. Các ngôn sứ có thói quen mà họ vẫn thường áp dụng, là khi lời nói không đủ tác động, khi dân chúng không muốn tiếp nhận, không muốn hiểu sứ điệp đã được công bố, thì các vị có hành động đặc biệt để đặt sứ điệp của mình vào một bức tranh mà ai cũng nhìn thấy. Chúng ta gặp những hành động ngôn sứ đặc biệt như thế ở 1Vua 11,29-31; Giêrêmia 13,1-11; Êdêkien 4,1-3; 5,1-4. Giờ đây Chúa Giêsu đang dự định vào thành Giêrusalem một cách đặc biệt, đến nỗi chính hành động đó sẽ là lời tuyên bố không thể lầm lẫn rằng Ngài chính là Đấng Mêsia, là vị vua được Thiên Chúa xức dầu. Chúng ta ghi nhận một số điểm cụ thể về việc vào thành Giêrusalem.
1. Công việc được chuẩn bị kỹ càng. Đó không phải là hành động tức thời, đột xuất. Chúa Giêsu không để mọi sự cho đến phút cuối. Ngài đã thương lượng trước với chủ của con lừa: “Chúa cần dùng nó”, đó là một mật khẩu đã chọn từ trước.
2. Đó là một hành động thách thức đầy vinh hiển, đầy can đảm. Vào thời điểm này, người ta đã treo giá cái đầu của Chúa Giêsu rồi (Ga 11,57). Theo lẽ thường tình, nếu Ngài có lên Giêrusalem, Ngài cũng nên đi kín đáo và ẩn mình trong chỗ bí mật nào đó ở ngoại thành. Nhưng không thế Ngài vào thành một cách long trọng, công khai, khiến toàn dân phải chú ý và Ngài trở nên trung tâm của sân khấu. Chúng ta phải nín thở khi nghĩ đến một con người mà đầu đã bị treo giá, bị đặt ngoài vòng pháp luật, lại hiên ngang cỡi lừa vào trong thành khiến mọi người phải chú ý vào mình, quả thật không thể mô tả hết được mức độ can đảm của Chúa Giêsu.
3. Đó là cách quả quyết xưng vương, là việc làm ứng nghiệm hoàn toàn bức hoạ tiên tri trong Dacaria. Trong việc này Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến vương quyền đặc biệt của Ngài. Ở Palestine, con lừa không phải là con vật hèn hạ như ở các nước khác, nhưng là một con vật sang trọng. Các vua cỡi ngựa khi đi đánh giặc, còn trong lúc thái bình thì các người cỡi lừa. Như vậy, bằng hành động này, Chúa Giêsu đã ngự giá như một vị vua đến với dân mình trong hoà bình và yêu thương. Ngài không đến như một anh hùng chiến thắng như dân chúng từng trông mong chờ đợi.
4. Đó là một lời kêu gọi sau cùng. Chúa Giêsu đến trong hành động này, khác nào với hai tay giơ ra, nài xin dân Ngài rằng “Ngay cả trong lúc này các ngươi cũng không muốn nhận Ta làm vua các ngươi sao?”. Trước khi sự ghen ghét của loài người vùi dập Ngài, một lần nữa, Ngài vẫn cứ kêu mời nhân loại tiếp nhận tình yêu của Ngài.
Khi hoạ lại cho chúng ta con đường khổ giá Thánh Luca không trực tiếp đả động gì đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, như việc Ngài ngã xuống đất, những lăng nhục Ngài phải chịu… Cái nhìn của ông hướng về những người chung quanh Chúa.
1. Simon quê Xyrênê
Ông Simon quê Xyrênê là một người chúng ta không rõ tông tích, ông bất ngờ qua đường lúc Đức Giêsu đang vác thập giá. Không phải ông tự ý vác đỡ thập giá Chúa, nhưng bị người ta ép buộc. Ấy thế nhưng truyền thống lại dạy rằng: chính cái cử chỉ bị áp đặt ấy đã đem lại cho ông ơn cứu độ. Sự kiện ấy vẫn hằng tái diễn trong cuộc sống của nhân loại. Một sự đau khổ nào đâu đột nhiên ập tới hoàn toàn bất ngờ, và phải vác thập giá mà chưa có chuẩn bị chi hết: một căn bệnh đột nhiên ập đến hoặc là thất bại về tiền bạc, những vất vả trong gia đình, những khó khăn trong nghề nghiệp, những khủng hoảng trong cuộc sống hôn nhân, những thảm hoạ chính trị, những đối xử bất công… Ban đầu người ta ở thế phòng thủ, thế nhưng rồi chống cự cũng chẳng ích chi, và dù muốn dù không người ta vẫn phải đưa vai ra đỡ lấy thập giá. Nếu người ta tiếp xúc với Đức Kitô như thể đồng thời những liên hệ thuần tuý bên ngoài sẽ dần đổi thành sự thâm hiểu bên trong. Như thế, một giáo hữu bình thường sẽ trở thành một Kitô hữu nhiệt thành, những xác tín về mặt lý thuyết sẽ biến thành sự thông dự cụ thể, nguyên tắc sẽ thành thực hành và khuôn mặt cuộc đời sẽ thay đổi khiến người ta đi đến chỗ coi giờ phút đáng nguyền rủa là giây phút đáng mừng rỡ và là lúc phải dâng lời cảm tạ Thiên Chúa thay vì dấy lên ngỗ nghịch với Người. Những người theo gót Simon sẽ còn tiếp tục qua bao thế hệ 2. Những người phụ nữ
Thái độ của các phụ nữ than khóc Chúa Giêsu coi như đáng quí hơn, vì các bà công khai đến bên Chúa và bày tỏ tâm tình chia sẻ sự đau khổ của Người. Thế nhưng Chúa Kitô đã không khen ngợi lại còn khiển trách các bà. Ước chi họ đừng than khóc Người, mà hãy than khóc chính bản thân mình. Không phải Người đáng cho họ khóc thương, nhưng chính họ mới là kẻ đáng thương khóc. Thứ thương hại chỉ dựa trên tình cảm mà thôi chẳng nghĩa lý gì cả.
Nước mắt cá sấu chẳng giá trị gì. Không nên khóc thương người phải chịu đau khổ khi mà đau khổ đó đưa đến hạnh phúc. Kẻ hoang phí đời mình, không lưu tâm chi đến cùng đích tối hậu, chỉ lo những việc trần thế, đó mới là kẻ đáng cho chúng ta thương hại. Có khi việc kết hợp với Đức Kitô có thể coi như thuần tuý là của cảm giác. Việc đó không có giá trị đối với Đức Giêsu: thứ thương hại do tình cảm là cái gì mau qua chóng hết. Người không thèm thứ đó. Đó là những bộ tịch chẳng báo bổ gì. Kẻ nào chỉ lấy cảm giác mà suy gẫm sự thương khó Chúa thời sẽ chẳng hiểu được ý nghĩa bao nhiêu. Qua các thế hệ sẽ mãi mãi còn vô số phụ nữ theo Chúa trên đường lên núi Canvê. Đối với những người đó có lẽ người ta không còn nghe thấy lời ngăm đe của Chúa Kitô: ‘Nếu cây tươi còn bị xử như vậy thì gỗ khô sẽ ra sao?’.
3. Chúa Kitô
Đi sâu vào trong cuộc Khổ nạn, Đức Kitô chẳng còn nghĩ đến mình nữa. Lúc này đây Người thực sự bị trao nộp cho những mưu kế thủ đoạn của họ như bất cứ con người bị khổ đau cùng cực nào, hầu như Người hoàn toàn bị chìm ngập trong chính bản thân mình. Từ nay tư tưởng Người vươn cao hơn nữa, vượt khỏi những người thân cận và phút giây hiện tại. Cái nhìn của Người hướng về những mục đích sau cùng. Ở đây cũng như bữa tiệc ly và trước pháp đình của người Do thái Người chiêm ngưỡng thấy –bên kia cái kết cuộc của riêng mình- cái kết cuộc của Giêrusalem và của thế giới.
Người nhìn thấy cái hoạ tai cuối cùng: thời mà người ta nói với núi non: hãy đổ xuống đè chúng tôi và nói với gò nổng rằng: hãy che lấp chúng tôi đi. Giả như Israel tiếp nhận Người là Đấng Cứu Thế thì có lẽ lịch sử thế giới đã diễn biến theo chiều hướng khác hẳn. Nhưng Israel đã nhất định khai trừ Người, đó là lý do khiến cho Israel bị diệt vong và Giêrusalem bị phá huỷ, điềm tiên báo những biến cố vĩ đại khi xảy ra cùng tận thế giới. Chỉ có ở đó, ý nghĩa của con đường Canvê mới tỏ lộ, chỉ có ở đó, sức mạnh canh tân tiềm tàng trong việc huỷ mình và chỉ có ở đó sự sống Chúa Kitô ban xuống qua cái chết của Người mới được tỏ hiện. Ở đây thái độ độc nhất của Người là thái độ của người công chính, chính Người là Đấng cho chúng ta thấy sự vĩ đại đích thực, Đấng mà người Xyrênê đã buộc lòng bước theo và những kẻ khác không hiểu. Chỉ kẻ nào biết lắng nghe các tư tưởng và tâm tình thâm sâu nhất của Chúa Giêsu mời là người đồng hành với Người thực sự trong suốt chặng đường thánh giá của Người.
TRÊN KHỔ GIÁ (23, 33-43)
Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: ‘Vua dân Do thái’ và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: ‘Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa’. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: ‘Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm’. Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ tha… Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. ‘Nemo contra Deum nihi Deus solus”. (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch lại mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: ‘Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến trong nước của Ngài’. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: ‘Phần chúng ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm’. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, ‘nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái’. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: ‘Quả thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi’. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng ‘phản kháng’: Một lời Ngài ‘nài’ xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời ‘chấp nhận’ Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU (23, 44-49)
Việc hạ mình thế là hoàn tất. Dẫu vậy Người phải được đưa lên cao trước khi tắt thở. Với một lối trình bày thật đơn giản của trình thuật, cái chết ấy được kể lại như một biến cố chủ chốt, mang một tầm cỡ vĩ đại chưa từng thấy.
1. Biến cố xảy ra
Tối tăm bao trùm toàn cõi đất. Khi Đức Kitô sinh ra, ánh sáng ngập đánh tan đêm tối; mà khi chết, ánh sáng lại tối sầm lại, bởi vì ánh sáng đến thế gian giải ánh sáng trong đêm đen Belem giờ đây tắt ngúm trên đồi Gongôta u tối. Qua các phép lạ Ngài đã làm chứng tỏ Ngài có chủ quyền trên thiên nhiên, thì chính thiên nhiên cũng chứng tỏ chủ quyền ấy của Ngài trong giờ Ngài hấp hối. Từ khởi nguyên đã có Ngôi Lời và lời sáng tạo đầu tiên là: ‘Hãy có ánh sáng’. Qua cái chết, Ngôi Lời đã trở về với im lặng. Đó là lý do tại sao tối tăm bao trùm trên cõi đất. Israel chiếm hữu được ánh sáng mạc khải. Họ đã khai trừ ánh sáng mạc khải ấy khi cho giết chết Đấng Thiên Sai; cái bóng đen bề ngoài của thiên nhiên chỉ là biểu tượng cho cái u tối của tinh thần bên trong.
‘Màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa’. Hy tế của Giacaria trong đền thờ báo trước về Đức Giêsu. Cái chết của Đức Giêsu, biểu hiệu hy tế duy nhất và tối cao của nhân loại, nói lên đích đáng cái cùng tận của những hy tế tôn thờ của Israel. Màn rách làm đôi có nghĩa là những lễ nghi phụng vụ đó chẳng còn giá trị nữa, hoàn toàn bị phá bỏ. Bức rèm nặng nề che đậy Nơi Cực Thánh và tách biệt Nơi Cực Thánh ấy khỏi đền Thánh. Qua cái chết, Đức Giêsu đích thân về trời, dâng chén hy tế bằng chính máu Ngài, như thư Do thái chỉ thấy Đền Thánh; Nơi Cực Thánh ở dưới thế này không còn lý do tồn tại nữa, bởi vì đền thờ thực sự của toà nhà thiêng liêng là Giáo Hội cũng như nơi Cực Thánh chân thực trên trời được Đức Kitô mở ra, từ đây thay thế cho những biểu trưng rồi. Sự ngăn cách giữa trời và đất giữa Giáo Hội trần thế với Giáo Hội trên trời hoàn toàn không còn nữa. Bức màn đã trở thành vô dụng. Chỉ có một Thánh điện duy nhất của Chúa không ngăn cách cũng chẳng tách biệt.
Đức Giêsu kêu lớn tiếng: ‘Lạy Cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha’. Đó không phải là cơn hấp hối dai dẳng và ghê sợ, cũng không phải là sự suy nhược dần dần do bất lực hoàn toàn nhưng đó là một tiếng kêu lớn. Cuộc đời kết thúc bằng một lời cuối, đầy vẻ oai nghi. Suốt đoạn đường vác cây Thập Giá và khi ở trên đồi Canvê Chúa đã ngỏ lời với những người chung quanh, thì những lời sau cùng của Ngài lại thưa với Chúa Cha. Ngài chết đang khi cầu nguyện. Đó không phải là lời thốt ra trong cơn tuyệt vọng, cũng không phải là kêu la thê thảm của kẻ hấp hối nhưng là tiếng nói trang trọng của Đấng trở về chỗ ngụ cư của mình. Đó cũng là lời của Thánh-Vịnh-Gia thốt lên đang khi nép mình nơi Chúa xin thoát khỏi mọi hiểm nguy thế trần và nhân loại. Đức Giêsu đến từ Cha và lại trở về cùng Cha. Vòng tròn của đời sống khép kín lại, chu trình đã hoàn tất. Hơi thở thật êm dịu và trang trọng chiếu rọi trên sự phân cách và cái chết kia.
2. Hiệu quả
Ta thấy có sự phản tỉnh trong số những người đứng chung quanh chứng kiến. Không còn nhạo báng cười chê nữa. Trước nhất là Viên bách quản ngoại đạo, ông là chứng tá hàng đầu. Đó là điều ít nhất người ta trông chờ được ở ông. Những người cuối hết đã bắt đầu trở thành người đầu hết và những người đầu hết đã trở thành những người cuối hết. Giáo Hội của những người ngoại đạo và những người Do thái khai mào ngay dưới chân Thập Giá. Người ngoại giáo ca ngợi Thiên Chúa, xét dưới khía cạnh rất sâu xa, vì ông tuyên xưng cái chết kia không phải là một việc đầy tội ác của loài người, nhưng là kỳ công nói lên Thiên Chúa luôn thi ân giáng phúc. Cái chết đó mang một chiều kích siêu nhân loại. Nên phải ca khen Thiên Chúa đã sai một người như thế đến cho nhân loại. Viên bách quản nhận ra Đức Giêsu là một người công chính. Dầu vậy Ngài vẫn bị hành xử như một tên gian phi và đầy tội ác. Phán quyết đã đổi thay. Đứng sau viên bách quản Rôma là thế giới dân ngoại, họ nhờ vào Đức Kitô mà tìm được con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dân chúng tự đấm ngực. Những người đã vây quanh cây Thập Giá giờ đây quay về nhà mình, lòng ngậm ngùi xúc động, nửa ngờ nửa tin. Nhưng họ tuyên nhận rằng họ không phải là những nhân chứng suông mà thôi, mà còn chịu trách nhiệm về cái chết kia nữa. Họ nhận mình có lỗi. Họ trở lại Giêrusalem mà tâm hồn cũng quay trở về và thực tình sám hối, kết quả đầu tiên của thập giá Chúa Kitô là khơi dậy lòng sám hối. Còn các bà, thánh ký cho ta biết rất đơn giản: họ là những người đã đi theo Ngài từ Galilê, họ chứng kiến cuộc hành hình từ đầu chí cuối. Họ là những chứng nhân câm, im hơi lặng tiếng. Các bà theo Chúa Kitô không phải chỉ hiểu theo nghĩa bên ngoài, tức là theo Ngài trong sứ vụ công khai và phong phú của Ngài trên núi Galilê khi Ngài lâm nạn thảm sầu tại đồi Gôngôtha nhưng họ theo Ngài với một lòng trung thành thẳm sâu tức là họ theo Ngài đến phút chót đời Ngài. Ở đây, Tin mừng khen ngợi lòng kiên vững của họ. Họ là những chứng nhân trung thành tiên khởi vì họ đã kể lại những gì họ đã chứng kiến cho tất cả những ai không được xem thấy.
Trình thuật về cái chết của Đức Kitô không phải là một trình thuật đau xót hay than trách đắng cay nhưng là bài tường thuật một biến cố lớn, đánh dấu một kỷ nguyên mới thực sự bắt đầu và bài tường thuật này mang một tầm mức rộng lớn vô cùng. Thiên nhiên và lịch sử làm chứng và con người phản tỉnh quay đầu trở lại. Thập giá đứng vững giữa lòng vũ trụ, giữa dòng lịch sử và số phận nhân loại.
1200 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, một cuộc giải phóng đã diễn ra, một cuộc giải phóng do Thiên Chúa tính toán và đặt kế hoạch, nghĩa là Thiên Chúa đã sai ông Mô-sê giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập. Tuy nhiên, con người có thể được giải phóng khỏi nô lệ về phương diện xã hội, chủng tộc v.v… nhưng không vì thế mà thoát khỏi ách nô lệ của sự dữ nguy hiểm hơn nhiều. Đó là điều người ta nhận thấy, ngay khi dân Do Thái vừa ra khỏi Ai Cập, lữ thứ trên các đường mòn băng qua sa mạc, trong thời gian dựng nước tại Pa-lét-tin, và suốt lịch sử của dân tộc đó. Bên cạnh những tình cảm đẹp, những hy sinh cao cả, có biết bao là ghen tị, độc ác, chia rẽ, tội lỗi, chiến tranh, không thiếu lý do khiến người ta tuyệt vọng.
Từ đó, về lâu về dài, người ta đã đi tới những kết luận: Thế giới và con người được Thiên Chúa dựng nên thực sự rất tốt lành, nhưng rồi con người bị nhiễm chất độc của sự dữ do đôi vợ chồng đầu tiên là A-dong E-và đã lạm dụng tự do, ngả theo chước cám dỗ và chống lại Thiên Chúa, vì thế mất ơn nghĩa Thiên Chúa, bị cắt đứt liên hệ với Thiên Chúa và rơi vào sự thống trị của ma quỷ. Tuy nhiên, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một mối tình cao cả, bằng chứng là Người không bao giờ bỏ dân Do Thái, mặc dầu nhiều lần họ chống lại Người, tỏ ra bội bạc đối với Người. Và cuối cùng để thể hiện trọn vẹn tình yêu đó, Người đã sai một vị giải phóng mới, cao trọng hơn Mô-sê bội phần, đến giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của sự dữ và tội lỗi, để nhân loại tìm lại được mối tình thân thiết với Thiên Chúa.
Vị giải phóng mới đó chính là Chúa Giêsu. Ngài là một nhân vật vừa có nhân tính vừa có thần tính. Ngài tuyên bố Ngài có quyền năng của Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi tâm hồn, Ngài tuyên bố Nước Trời đã đến và Ngài dẫn chứng cho người ta thấy bằng những phép lạ: chữa lành những người bệnh tật, giải thoát những kẻ bị quỷ ám, cho kẻ chết sống lại. Đó là những dấu chỉ cho người ta biết bệnh tật của linh hồn dưới ách tội lỗi và sự chết bị đánh bại. Và Ngài tuyên bố: ai muốn thuộc về nước trời thì phải tin vào Ngài, nhưng Ngài không ép buộc ai, bởi vì với quyền năng của Ngài, Ngài có thể dùng vũ lực và uy thế buộc mọi người phải chấp nhận nước trời, nhưng Ngài không hành động như vậy, vì Ngài sẽ giải thoát nhân loại bằng phương thế gánh hết tội trần gian, đền tội cho mọi người bằng sự hạ mình, chịu đau khổ và chịu chết.
Quả thực, Chúa Giêsu đã hiến mình làm lễ vật hiến tế, bằng cách để cho một môn đệ phản bội, để cho người ta bắt, đem xử, lên án, tra tấn, đánh đập và giết chết trên thập giá, nhưng ngày thứ ba Ngài sống lại. Thế là sứ mạng Chúa Cha sai Ngài đến trần gian, Ngài đã thực hiện xong, và công cuộc giải phóng con người khỏi tội lỗi đã thành tựu. Như vậy, nhiệm vụ của Chúa đã hoàn tất, nên chỉ còn bổn phận của chúng ta đối với công cuộc cứu chuộc của Chúa mà thôi. Thực vậy, chuộc tội là việc vủa Chúa, đền tội là việc của chúng ta, thánh Phao-lô đã nói: “Ai thuộc về Chúa Ki-tô thì phải đóng đinh xác thịt và đam mê của mình”. Vậy nếu chúng ta không chịu treo trên thập giá như Chúa thì nhiệm vụ của chúng ta chẳng bao giờ chu toàn được, vì trong đời chúng ta, nếu không có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ chẳng bao giờ có Chúa nhật phục sinh, nếu không có vòng gai nhọn sắc, sẽ chẳng bao giờ có thân xác vinh quang, nếu không có chiến cuộc, sẽ chẳng bao giờ có chiến thắng, nếu không có thập giá, sẽ chẳng bao giờ có nấm mồ trống rỗng.
Chúa nhật lễ Lá hôm nay, chúng ta tưởng nhớ sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem và được dân chúng cầm ngành lá thiên tuế long trọng đón rước. Đây là một cuộc khải hoàn của Chúa, vì thời đó, người ta thường tặng ngành thiên tuế cho những người thắng giải tại đấu trường hay vận động trường. Với Chúa Giêsu, họ tặng ngành thiên tuế cho Ngài để biểu dương Ngài đã chiến thắng sự chết, vì mấy ngày trước đó Ngài đã cho La-da-rô sống lại. Với chúng ta hôm nay cũng mừng lễ với ý nghĩa và niềm tin đó, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Thực vậy, đây là lần cuối cùng Chúa Giêsu về Giêrusalem, Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài. Người ta đã không tin lời Ngài, Ngài phải công bố một lần nữa, và lần này bằng chính cái chết của Ngài. Khi Chúa tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng đã hồ hởi tung hô Ngài, nhưng vòng vây âm mưu cũng đang bắt đầu thắt chặt lại quanh Ngài. Chúa Giêsu lên Giêrusalem, có thể nói đó là đích điểm của đời Ngài. Ngài lên Giêrusalem để thiết lập một thành đô mới, một Giêrusalem không còn vây kín bởi các bức tường của chia rẽ nữa, một Giêrusalem mà tường vách chính là tận cùng trái đất, mọi dân tộc, mọi mầu da, mọi tiếng nói đều qui tụ vào thành đô mới ấy.
Nhưng Giêrusalem cũng là biểu tượng cho chính cái chết của Ngài, lên Giêrusalem tức là đương đầu với cái chết đang chờ đợi Ngài. Thế nhưng, chính nhờ cái chết vì vâng phục Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã đem lại ơn cứu rỗi cho nhân loại, trong đó có mỗi người chúng ta. Con đường vâng phục và tín thác nơi Chúa Cha ấy, Chúa Giêsu cũng mời gọi tất cả chúng ta bước theo Ngài.
Đức Giêsu đã chấm dứt chuyến đi lên Giêrusalem kéo dài 10 chương (Lc 9,51–19,27). Hành vi Người vào Giêrusalem long trọng được mô tả trong phân đoạn Lc 19,28-43. Phân đoạn Lc 19,45–21,38 được dành để nói về hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Giêrusalem. Bây giờ tác giả Luca bắt đầu một phần quan trọng khác của TM: Đức Giêsu sẽ đi đến đỉnh cao của cuộc “xuất hành” (x. 9,31), vì Người bắt đầu cuộc “đi lên” với Chúa Cha. Bài tường thuật cuộc Thương Khó bắt đầu với Lc 22,1-2, “Lễ Bánh Không Men, cũng gọi là lễ Vượt Qua, đã đến gần. Các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giêsu, vì họ sợ dân”.
II. BỐ CỤC
Có thể nói, Bài Thương Khó bắt đầu với 22,1 và kết thúc với 23,54, nghĩa là từ khi Đức Giêsu chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua cho đến khi Người được an táng trong mộ; các câu 23,55-56 là những câu chuyển mạch đưa sang truyện Phục Sinh. Như thế, Bài Thương Khó 22,1–23,54 có thể chia thành hai phần:
1. Đêm hôm trước – Đức Giêsu bị bắt (22,1-65); 2. Ngày hôm sau – Đức Giêsu bị kết án và bị xử tử (22,66–23,54).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Lễ Vượt Qua (22,1): Lễ Vượt Qua được cử hành vào lúc mặt trời lặn đánh dấu ngày 15 Nisan, là tháng đầu năm theo lịch Babylon/Do-thái (tháng Ba/Tư; tên cũ là tháng Aviv: x. Đnl 16,1). Dịp này người ta giết chiên Vượt Qua vào chiều ngày 14 Nisan, nướng lên và ăn trong gia đình vào lúc mặt trời lặn (Lv 23,6). Tất cả những gì có men đều phải loại ra khỏi nhà trước khi giết chiên (Đnl 16,4). Không những hôm ấy, người ta phải ăn với bánh không men (Xh 12,8), mà con tiếp tục ăn như thế bảy ngày sau đó (Xh 12,17-20; 23,15; 34,18). Thời gian bảy ngày này được gọi kiểu chuyên môn là “Lễ Bánh Không Men”. Tuy nhiên, với thời gian, “Lễ Vượt Qua” trở thành tên gọi cho cả bảy hoặc tám ngày (Đnl 16,1-4; Ed 45,21-25). Dường như trước khi có Ít-ra-en, lễ Vượt Qua là một lễ của dân du mục (Xh 5,1; 10,9), còn lễ Bánh Không Men là lễ của dân định cư nguồn gốc nông dân (Xh 23,15-16).
- ngày phải sát tế chiên Vượt Qua (7): Động từ dei, “phải”, thường diễn tả ý muốn của Thiên Chúa, chứ không chỉ nhắm đến quy định của luật là phải sát tế một con chiên để ăn lễ Vượt Qua. Điều này càng đúng với TM III, vì tác giả cho thấy Đức Giêsu thấy cuộc đời, hoạt động và cuộc Thương Khó của Người được điều hành bởi ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn này được diễn tả trong Kinh Thánh.
- Satan (22,31): Ngoại trừ Ga 13,27, Satan chỉ xuất hiện trong bài tường thuật Thương Khó trong TM Lc. Rất có thể Lc đã làm như thế để tao một kết nối trực tiếp với 22,3 và xa hơn với 4,13, cũng như tiên báo 22,53.
- Các môn đệ cũng theo Người (22,39): Chi tiết này cho hiểu là đến lúc này các môn đệ vẫn trung thành với tư cách của mình và tỏ ra là sẵn sàng cchia sẻ định mệnh của Thầy.
- hôn (22,47): Động từ philein là “yêu mến”, nhưng cũng được dùng theo một nghĩa cụ thể là “hôn”, hành vi diển tả lòng yêu mến.
- Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy (22,56): Đại từ chỉ định houtos có sắc thái coi thường hoặc khinh bỉ, “cái ông này / tên này” (x. 23,2). Dựa vào kiểu nói này, có thể cho rằng đây là một lời kết án (khác với Ga 18,17).
- Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội người này (23,4): Độc giả của TM Lc nhìn nhận sự thật của kết luận này: Đức Giêsu và các môn đệ Người không phải là mối đe dọa cho quyền bính Rôma.
- đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu (23,26): Tuy không nói ông Simôn Kyrênê là một môn đệ, tác giả Lc mô tả ông có thái độ của người môn đệ Kitô hữu (x. 9,23; 14,27).
IV. Ý NGHĨA BẢN VĂN
Trong Bài Thương Khó, tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu hiểu rõ nhũng gì Người sắp trải qua, đặc biệt nài không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào mà không nêu bật lòng từ bi của Người.
* Đêm hôm trước – Đức Giêsu bị bắt (22,1-65)
Được đóng khung bởi các chi tiết về thời gian, bản văn mở ra với một quy chiếu về lễ Vượt Qua (đang đến gần) (22,1.7) và khép lại với những quy chiếu về ngày áp lễ và ngày sa-bát sắp bắt đầu (23,54). Như vậy đoạn văn có một cái khung phụng vụ: Những gì Đức Giêsu sống trong các chương này, cũng như trọn cuộc đời của Đức Giêsu, đều nhắm đi theo thánh ý của Thiên Chúa và thờ phượng Người. Điều này được ghi nhận từ động từ “phải, dei”: “Phải sát tế chiên Vượt Qua” (22,7) bởi vì “Con Người phải (dei) chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (9,22) để thực hiện chương trình cứu độ đã được Thiên Chúa thiết lập. Điều đáng chú ý nữa là sau 22,7, bản văn không còn nói đến con chiên Vượt Qua nữa: từ bây giờ, chương trình của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trọn vẹn bằng việc sát tế Đức Giêsu, là chiên Vượt Qua chân thật. Đức Giêsu Phục Sinh cũng đi theo chiều hướng ấy khi nói với các môn đệ Emmau: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (24,26).
Một chi tiết tạo sự thống nhất cho bản văn nữa, là động từ paradidonai, “bị trao nộp” (22,4.6.21.22.48) nói về việc Giuđa nộp Đức Giêsu cho các thượng tế và kinh sư, và Philatô trao nộp Đức Giêsu theo ý họ (23,25). Đề tài Vương Quốc cũng xuyên suốt bản văn (22,16.18.29.30; 23,42.51). Lời sấm “Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp” (22,37) nên ứng nghiệm khi Đức Giêsu bị điệu đi hành quyết cùng với các tên gian phi và bị đóng đinh giữa hai tên gian phi (23.32-33; 23,39-43).
Trong liên hệ với âm mưu của giới lãnh đạo, toàn bản văn rất thống nhất. Các thượng tế và kinh sư được giới thiệu ở 22,2a là đang tìm cách thủ tiêu Đức Giêsu nhưng lại bị khựng vì dân chúng (22,2b; x. 20,19). Được Satan thúc đẩy, Giuđa cung cấp một phương thế giúp vượt qua trở ngại này (22,3-6a), nhưng ngay cả với hắn, đám đông vẫn là một vấn đề phải quan tâm (x. 22,6b). Điểm này làm gia tăng sự căng thẳng trong bài tường thuật. Chi tiết “Satan đã nhập vào Giuđa gọi là Ítcariốt” (22,3) gợi đến một đề tài lớn của TM IV, đó là Đức Giêsu, “Đấng mạnh hơn” (11,14-22; x. 3,16), đã chiến thắng Satan khi nó cám dỗ Người trong hoang địa (4,1-13), cũng như đã nhiều lần xua đuổi quỷ (x. 6,18; 8,2.26-39; 9,37-43; 11,14; 13,16.32). Đức Giêsu không bị Satan cám dỗ trong thời gian Người hoạt động công khai. Nhưng nó đã trở lại tấn công nhằm tiêu diệt Đức Giêsu khi tạo điều kiện thuận lợi cho các thủ lãnh Do-thái hãm hại Người (x. 22,2-6). Tuy nhiên, chiến thắng bề ngoài của nó chỉ là nhất thời, vì cuộc Phục Sinh sẽ làm cho cuộc thất bại bề ngoài của Người trở thành một chiến thắng mới nữa, một chiến thắng đã được tiên báo trước khi Người chết nơi sự cố người gian phi sám hối (x. 23,40-43) và bởi phản ứng của những người có mặt tại Đồi Sọ (x. 23,47-48).
Để lại đó Giuđa còn đang chờ đợi một cơ hội thuận tiện, tác giả kể lại việc chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (22,7-13), rồi chính cuộc cử hành (22,14-23) và lời từ biệt của Đức Giêsu (22,24-38). Các sinh hoạt này cũng như mọi chi tiết nằm trong 22,7-65 đều xảy ra ban đêm. Đức Giêsu bắt đầu bằng lời tuyên bố: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (22,15). Rồi Người báo cho các ông biết là Người sẽ không ăn lễ Vượt Qua nữa cho đến khi Nước Thiên Chúa đến (22,16-18). Sau khi Người lập Bí tích Thánh Thể (22,19-20), có một điểm phức tạp được đưa vào với lời tiên báo Phêrô sẽ chối Thầy (22,31-34). Lời tiên báo này tạo một khoảng cách giữa Đức Giêsu và các môn đệ (họ “bàn tán với nhau”) và giữa họ với nhau (“cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất”).
Sang 22,39, khung cảnh chuyển sang Núi Ôliu; tình hình căng thẳng thêm. Tác giả cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện rất nghiêm túc trước khi thử thách xảy đến. Tại đây đề tài quan trọng TM III là sự trung thành của Đức Giêsu với chương trình của Chúa Cha lại được nêu bật đặc biệt trong cơn hấp hối: “Xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” (22,42). Ngay khi còn thơ bé, Đức Giêsu đã ý thức rằng mình phải chu toàn chương trình của Cha Người với đau khổ (2,49). Dọc theo thời gian hoạt động công khai, Người đã đưa chương trình hành động công bố tại Nadarét ra thực hiện (4,18-22; x. Is 61,1-2). Sự trung thành của Đức Giêsu với sứ vụ của Người được chứng tỏ đặc biệt rõ ràng qua việc Người chấp nhận định mệnh bi thương của các ngôn sứ (x. 9,22.31.44.51; 13,33; 18,31-33; 22,42.53b; 23,46).
Tại Núi Ôliu, đám đông không có mặt. Vậy, thời cơ của Giuđa đã đến. Sự căng thẳng gia tăng với sự kiện giới chức Do-thái đến do Giuđa dẫn đường (22,47a), kế đó là hành vi phản bội (22,47b-48), sự cố cái tai bị chém (22,49-50) và các lời Đức Giêsu nói về việc người bắt Người (22,51-53a). Đức Giêsu biết đã đến giờ Người đi vào cuộc Thương Khó (22,53b), nên Người để cho người ta bắt Người (22,54). Phần thứ nhất của âm mưu hãm hại Đức Giêsu (x. 22,5-6) đã được thực hiện. Chi tiết phức tạp được đưa vào ở 22,31-34 (Phêrô sẽ chối Thầy) được giải quyết ở 22,55-62 với việc Phêrô chối Thầy (chuyện bắt đầu khi ông “cũng ngồi chung với họ”: y như ông muốn đổi phe!); độc giả cũng ghi nhận là Phêrô chỉ hành động trong phần đêm của ngày lễ. Quang cảnh Đức Giêsu bị chế nhạo và bị đánh đòn ở 22,63-65 là một chỗ nghỉ ngắn trong bài tường thuật: kết thúc một đêm đau đớn của Đức Giêsu và chuẩn bị đi vào ngày hôm sau.
* Ngày hôm sau – Đức Giêsu bị kết án và bị xử tử (22,66–23,54)
Trong 22,66–23,54, mọi sự xảy ra ban ngày, nhưng đây là một ngày bị ám ảnh bởi bóng tối, bởi vì “kể từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất…” (23,44-45).
Khi trời sáng (22,66a), ta thấy cuộc âm mưu lại tiếp tục. Cuộc tra hỏi vào lúc sáng sớm trước Thượng Hội Đồng (22,66-71) cung cấp lý do để buộc tội (x. 22,70-71) nên đã cho phép họ điệu Đức Giêsu đến trước Philatô (23,1-5). Các lời tố cáo dồn dập khiến Philatô phải lên tiếng hỏi (23,3) và rồi câu chuyện trở thành phức tạp khi Philatô tuyên bố Đức Giêsu vô tội. Một lời tố cáo tiếp đến nhắc đến miền Galilê (23,5) gợi cho Philatô chuyển Đức Giêsu sang cho Hêrôđê (23,6-12); vị tiểu vương này đã làm cho các sự việc thêm phức tạp khi tỏ ra đồng ý với phán quyết của Philatô (23,9).
Tình hình càng trở nên căng thẳng khi Philatô lại phải đối diện với một quyết định ở 23,13-25. Ông càng khẳng định rằng Đức Giêsu vô tội (23,14.15.22) và càng ra sức muốn thả Người đi (23,16.20.22) thì tất cả mọi người lại càng ra sức đáp lại bằng cách la hét phản đối (23,18.21.23). Ý muốn của giới lãnh đạo Do-thái giáo được biểu lộ bằng cuộc la hét ầm ĩ (23,23) cuối cùng đã cất đi trở ngại là xác tín của Philatô; thế là Đức Giêsu bị trao nộp theo ý muốn của họ (23,25). Một điểm căng thẳng đã được giải quyết.
Cuộc âm mưu bây giờ chuyển nhanh tới kết cục khi Đức Giêsu bị điệu đi (23,26-32) và bị đóng đinh (23,33). Tuy nhiên, các ánh sáng vẫn có đó nơi bóng dáng vô vàn môn đệ: Simôn đã vác thập giá “theo sau” Đức Giêsu (Mc và Mt không nói như thế); dân chúng (hẳn là có các tông đồ và môn đệ, vì TM III không nói rằng các môn đệ bỏ “Người mà chạy trốn hết” như Mc 14,50 và Mt 26,56) và nhiều phụ nữ. Tại Đồi Sọ, lại có một chút căng thẳng do những lời chế nhạo của các thủ lãnh Do-thái (23,35), bọn lính (23,36) và tên gian phi “xấu” (23,39). Nhưng như những tia sáng làm dịu bức tranh quá tàn nhẫn và đẫm máu, là lời Đức Giêsu xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ hãm hại Người (23,34) và ơn cứu độ ban cho người gian phi sám hối (23,39-43). Rồi như đã được báo trước ở 23,42-43 (x. 22,37), cái chết của Đức Giêsu cuối cùng đã đến ở 23,46; nhưng cái chết này không phải là một định mệnh khắc nghiệt, mà là dấu ấn đóng trên một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Cha (23,46).
Bài tường thuật tiếp tục bằng cách cho thấy, trước cái chết của Đức Giêsu, có các phản ứng của viên sĩ quan (23,47), đám đông (23,48), các người quen biết Người (23,49a), các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (23,49b), và Giôxếp Arimathê, một thành viên của Thượng Hội Đồng và là người an táng thi thể Người (23,50-53). Hai chi tiết về thời gian ở 23,54 đánh dấu một điểm dừng trong bài tường thuật và cung cấp một kết luận thuyết phục không những cho truyện mai táng mà còn cho toàn đơn vị 22,1–23,54.
Hai câu 23,55-56 có vẻ như kết thúc tất cả: nhắc lại đời môn đệ của các phụ nữ; xác định ngôi mộ đã có thi hài Đức Giêsu; việc các bà chuẩn bị hương liệu để tẩm liệm lại thi hài. Nhưng đoạn văn ngắn này cũng là phần chuyển mạch đưa sang biến cố Phục Sinh.
+ Kết luận
Toàn bài tường thật khiến độc giả nhớ đến lời cụ Simêôn nói với Đức Maria về số phận của Đức Giêsu khi Người được cha mẹ đưa lên Giêrusalem đến tiến dâng cho Thiên Chúa: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (2,34-35).
“Bị loại trừ / được đón nhận”, đây chính là số phận của Đức Giêsu. Ngay trong 4,14-44, hai đề tài này đã được phác ra. Trong việc dân Nadarét tìm cách tiêu diệt Người ở 4,29, câu truyện Đồi Sọ đã xuất hiện tại chân trời cuộc đời Người. Trong thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai, thái độ tiêu cực của các kinh sư và người Pharisêu (x. 5,21.30; 6,7.11) tương phản lại với thái độ tích cực của các môn đệ, những người dân Do-thái và cả những người ngoại (x. 5,1.15.26.28; 6,17; 7,1-10; 8,1-3.26-39). Đây là một sự “căng thẳng” chạy xuyên suốt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu. Cái khung “loại trừ / đón nhận” này vẫn được vận dụng trong phân đoạn tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem1, nhưng có sự phân biệt rõ ràng giữa các thủ lãnh Do-thái và dân chúng (x. 19,47-48). Khi Đức Giêsu đã đến Giêrusalem, hai đề tài này vẫn có đó2. Nhưng sự phân biệt giữa hai đề tài đó đã mờ đi vào lúc Philatô quyết định trao nộp Đức Giêsu cho các thủ lãnh Do-thái (x. 23,24-25) đưa đến khổ hình thập giá và chóp đỉnh của việc con người loại trừ Đức Giêsu.
Tin Mừng Luca bắt đầu với Đức Giêsu ở giữa những người nghèo nhất, những người bị khinh bỉ nhất tại Israel, đó là những người chăn chiên. Tác giả tiếp tục cho chúng ta thấy Đức Giêsu sống với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm. Thế rồi Tin Mừng đã kết thúc với việc Đức Giêsu chết không phải giữa các bạn bè (hai người bạn của Người đã làm điều rất xấu), mà là giữa những tên gian phi. Và Người đã trở về với Cha Người, cùng với một người tượng trưng cho tất cả chúng ta, một người tội lỗi, vừa được tình yêu của Người thu phục.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
Đây là một bài tường thuật dài. Ta có thể dừng lại với nhiều đoạn để suy niệm. Chẳng hạn:
1. Cuộc chiến đấu của Đức Giêsu để trung thành với chương trình của Thiên Chúa (22,41-44)
Đứng trước cuộc Thương Khó ghê rợn sắp xảy tới, Đức Giêsu sợ hãi, Người bi cám dỗ rút lui. Người đã xin với Thiên Chúa: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con”. “Xin Cha cất chén này xa con”, nhưng với điều kiện là “nếu Cha muốn” và “xin đừng cho ý con thề hiện, mà là ý Cha”. Ý Chúa Cha và ý con người không mấy khi trùng hợp. Nhưng ý Chúa Cha là nhắm ban ơn cứu độ cho con người.
2. Phêrô chối Thầy (22,54-62)
Phêrô đã hùng hổ tuyên bố về lòng dũng cảm: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (22,33), nhưng ông đã chối Thầy. Lần thứ nhất, Phêrô chối liên hệ giữa mình và Đức Giêsu (một người rất thân thiết). Lần thứ hai, ông chối liên hệ giữa mình và anh em (một nhóm người thân thiết). Lần cuối cùng, ông chối liên hệ giữa mình với quê hương (một nhóm người ít nhiều quen biết). Khi chối Đức Giêsu, người ta cũng chối anh em xa gần.
3. Đời môn đệ
Đi theo Đức Giêsu bằng đôi chân lên Núi Ôliu (22,39), nhưng không hiệp thông với Người (“các ông ngủ”, 22,45-46), thì không ích gì. Đi theo Đức Giêsu dù xa xa, như Phêrô (22,54), nhưng sẵn sàng bỏ rơi Người vì không dám chối mình, thì không ích gì. Simôn Kyrênê, không biết có phải chăng là môn đệ Đức Giêsu, vác thập giá theo sau Người (22,26): ông đúng là người môn đệ. Các phụ nữ, những người không được xã hội Do-thái trân trọng, đã đi theo Đức Giêsu từ Galilê và có mặt để hiệp thông với Người trong cuộc Thương Khó, và còn đi đến tận mộ (23,55b), đấy là những người môn đệ.
4. Thái độ bình thản và từ bi của Đức Giêsu
Đức Giêsu biết giờ chết đau thương đã tới, Người vẫn bình tĩnh giáo huấn và tiến tới. Đứng trước Thượng Hội Đồng và trước tòa Philatô, Người đã nói những gì cần nói, đúng chiều hướng của giáo lý Người rao giảng lâu nay. Không một đe dọa nào có thể làm cho Người lạc hướng.
Trên đường lên Núi Sọ, Người đã đứng lại để an ủi các phụ nữ Giêrusalem (23,28-31). Ở trên thập giá, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ sát hại Người (23,34). Người cũng ban ơn cứu độ cho người gian phi sám hối (23,43). Cuộc đời của Người Con, ngay từ thuở có trí khôn, đã sống cho Cha (2,49), giới thiệu tình yêu của Chúa Cha (x. Lc 15,1-32), nay đã trọn: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (23,46).
Hôm nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần lễ tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Thập giá là con đường dẫn tới vinh quang. Chúng ta hãy cùng đi theo Ngài trên con đường thập giá, chết cho con người cũ để sống lại thành con người mới.
II. LỜI CHÚA
1. Tin Mừng Lúc rước lá: Lc 19,28-40
Trong đoạn này, Luca gói ghém 3 ý tưởng chính:
Chúa Giêsu đích thân thu xếp cuộc vào thành Giêrusalem, Ngài căn dặn các môn đệ từng chi tiết nhỏ như đi vào làng, tìm gặp một con lừa đã cột sẵn ở một chỗ, cách trả lời với người chủ lừa v.v. Điều này chứng tỏ Ngài coi việc vào thành là quan trọng.
Quan trọng thế nào? Vì qua cuộc vào thành lần này, Ngài sẽ tỏ cho mọi người biết Ngài là vua. Ý nghĩa này thể hiện qua các chi tiết đám rước long trọng (lưng lừa và con đường được lót áo, dân chúng tung hô, lời hoan hô "Chúc tụng Đức Vua" v.v.
Thế nhưng một số người thuộc nhóm Pharisêu vẫn không công nhận vương quyền Ngài và còn đề nghị Ngài quở trách các môn đệ đã tung hô Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đáp "Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên", nghĩa là dù một số người không công nhận Ngài là vua thì thực chất Ngài cũng vẫn là vua.
2. Bài đọc I Is 50,4-7
Đây là bài ca thứ 3 về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Người Tôi Tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại luôn lắng nghe lời Ngài và làm theo ý Ngài. Người Tôi Tớ này cũng không chống lại sự áp bức của người khác. Người Tôi Tớ đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Mặc dù bản thân đang chịu đau khổ, Người Tôi Tớ lại tìm cách nâng đỡ những người khác đang chịu đau khổ.
3. Đáp ca Tv 21
Đây là lời cầu nguyện của kẻ đang chịu đau khổ. Tuy nhiên không phải chỉ có những lời than vãn, mà phần sau, tác giả bày tỏ niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình.
4. Bài đọc II Pl 2,6-11
Đây là một thánh thi diễn tả những bước thăng trầm của Chúa Giêsu: Ngài đã hạ mình xuống đến mức tột cùng, nên Thiên Chúa đã nâng Ngài lên địa vị cao sang nhất.
5. Bài thương khó theo Thánh Luca Lc 22,14-23,56
Mỗi quyển Tin Mừng nhìn ra một nét riêng biệt nơi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết. Raymond E. Brown đã tóm tắt rất súc tích như sau:
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Matthêu và Marcô là một Thiên Chúa "gục đầu" vì đau khổ và bị bỏ rơi.
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Gioan là một "Vị Vua đang ngự trên ngai".
Chúa Giêsu chịu nạn trong Tin Mừng Luca là một Thiên Chúa nhân từ đang "mở rộng vòng tay" đón tiếp các tội nhân.
Như thế, nhân từ là nét nổi bật nhất về Chúa Giêsu trong bài tường thuật của Luca: Ngài đã chữa lành tai người đầy tớ của Vị Thượng Tế, Ngài đưa mắt nhìn Phêrô ngay sau khi ông này chối Ngài nhờ đó làm cho ông sám hối, Ngài dừng lại an ủi những phụ nữ khóc thương Ngài, Ngài hứa ban thiên đàng cho người trộm lành v.v.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Vinh quang của Chúa Giêsu
Cuộc rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem đã biểu dương vinh quang của Ngài. Nhưng vinh quang hôm nay chỉ thoáng qua và chóng lụi tàn vì vài ngày sau thì Ngài bị giết chết nhục nhã trên thập giá. Vinh quang thực sự của Chúa Giêsu chỉ biểu lộ trọn vẹn khi Ngài sống lại và tiến vào Giêrusalem trên trời.
Hôm nay chúng ta cầm lá đi kiệu và biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta chỉ thực sự biểu dương vinh quang Chúa Giêsu khi để cho Ngài thực sự làm vua ngự trị trong lòng mình, bằng cách tuân giữ những giới răn của Ngài và sống theo tinh thần của Ngài.
Tinh thần của Chúa Giêsu chính là tinh thần của Người Tôi Tớ được diễn tả trong các bài đọc hôm nay: sẵn sàng tự hạ, chấp nhận hy sinh để bước theo Ngài và cùng chết với Ngài để được cùng sống lại với Ngài.
2. Làm chứng cho Đức Kitô giữa nơi công cộng
Hôm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, các môn đệ đã công khai bày tỏ lòng tin tưởng và trung thành với Ngài. Điều đáng khen là các ông đã làm điều ấy trước mặt những người biệt phái đang quyết liệt chống đối Chúa Giêsu. Khi những người biệt phái nói với Chúa Giêsu hãy bảo môn đệ im đi, thì Ngài trả lời: "Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên". Nhiều khi cũng cần có những sự ủng hộ công khai. Bởi thế thông thường Chúa Giêsu rất âm thầm nhưng hôm nay Ngài tán thành việc làm của các môn đệ.
Tuy nhiên trong thái độ của các môn đệ cũng có điều đáng nghi ngờ. Không phải nghi ngờ về lòng trung thành của các ông, mà nghi ngờ vì đó là một phản ứng theo đám đông. Phản ứng theo đám đông thì thường là ồn ào, nhưng không sâu sắc.
Chúng ta dễ làm chứng cho Chúa Giêsu trong Nhà thờ, vì nơi đây chúng ta đang ở giữa những người cùng quan điểm với mình. Nhưng không dễ chút nào khi phải làm chứng cho Ngài giữa một môi trường rất khác với mình và có khi còn thù nghịch với mình nữa. Dù vậy nhiều khi chúng ta cần phải can đảm làm chứng trong hoàn cảnh khó khăn như thế.
Thực ra, sỏi đá không thể kêu lên. Chỉ con người mới kêu lên được. Có nhiều trường hợp chúng ta được im lặng mà phải nói lên: nói lên để bênh vực một người đang bị đối xử bất công, nói lên để khích lệ một người đang âm thầm đóng góp cho việc chung, nói lên sự thật để đầy lùi những lời dối trá...
Chúng ta đang làm chứng cho Chúa trong Nhà thờ. Nhưng đừng quên làm chứng cho Ngài ở giữa chợ đời. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ai tuyên xưng Ta trước mặt người khác thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta trên trời". (FM)
3. Con đường vinh quang
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô đã ngầm so sánh Chúa Giêsu với Ađam.
Ađam đã đi tìm vinh quang bằng cách muốn được "ngang hàng với Thiên Chúa". Nhiều người chúng ta cũng tìm vinh quang bằng cách khẳng định chính mình. Đây là con đường chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
Còn Chúa Giêsu thì chỉ biết làm theo ý Thiên Chúa nên sẵn sàng tự hạ mình xuống đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập giá. Nhưng đây là con đường đưa đến vinh quang thật. Chính nhờ thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt mọi danh hiệu... khiến mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa".
Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
4. Yêu cho đến cùng
Tại nhà thờ chính toà Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trỗ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
***
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến. Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: "Quỉ rút lui để chờ dịp khác" (4,13). Dịp ấy, hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này đùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Ghếtsêmani quả thật là nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hoà ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: "Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15,13). Vậy, Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1b).
***
Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bạn thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác.
Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen. (TP)
5. Chiến thắng của Tình yêu
Mỗi năm đến ngày Chúa nhật Lễ Lá là chúng ta lại được nghe Bài Thương khó của Chúa Giêsu. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của những môn đệ Ngài: họ đã bỏ Ngài ngay giữa lúc Ngài cần họ ở bên cạnh nhất; chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo Do Thái: họ đã tìm cách để giết Ngài; chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ của những người lính: họ đã hành hạ Ngài rất tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ những điều ấy, bởi vì chúng có liên hệ với chúng ta. Tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính của những bài tường thuật việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết. Điểm nhấn mạnh của những tường thuật này không phải là ở chỗ đó, mà là ở tấm lòng của Chúa Giêsu, nhân vật chính của các bài tường thuật ấy. Điều mà các tác giả Tin Mừng muốn chúng ta nhớ nhiều nhất, đó là lòng trung thành, lòng can đảm và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Trên nền trời u ám của đồi Canvê, lòng nhân từ của Chúa Giêsu càng chiếu tỏa sáng ngời.
Nhìn bề ngoài thì xem ra Chúa Giêsu đã thất bại. Nhưng thực ra, đó là một chiến thắng, chiến thắng của sự Thiện trên sự dữ, của Tình yêu trên hận thù, của ánh sáng trên bóng tối, của sự sống trên sự chết. Trong lòng Ngài lúc đó, chẳng có tình cảm nào khác ngoài Tình yêu. Nếu không có Tình yêu thì tất cả những khổ đau Ngài chịu đều vô ích. Không phải những đau khổ của Chúa Giêsu mang lại ơn cứu độ, mà chính Tình yêu của Ngài. Ai nói rằng mình thích chịu đau khổ thì đó là người khùng, bởi vì ai cũng muốn tránh đau khổ, tuy nhiên vì yêu mà người ta sẵn sàng chịu đau khổ cho người mình yêu. Chính Tình yêu làm cho đau khổ có ý nghĩa. Hơn nữa, tình yêu còn đem lại niềm vui ngay giữa những đau khổ.
Noi gương Chúa Giêsu, kitô hữu chúng ta hãy chấp nhận những đau khổ. Nhưng không chỉ có thế, chúng ta hãy thánh hóa những đau khổ ấy. Tình yêu làm cho đau khổ được thánh hóa. (FM)
6. Những đau khổ của Chúa Giêsu và của chúng ta
Một buổi tối, một người trên đường từ sở làm về nhà. Khi đi ngang một nhà thờ, người ấy như bị thúc đẩy bước vào. Hình ảnh đầu tiên đập vào đôi mắt anh là Chúa Giêsu trên thánh giá. Thoạt nhìn, anh cảm thấy ghê sợ và muốn thụt lùi. Nhưng sau đó, anh nhận ra có một mối giây liên kết giữa người đang chịu đóng đinh trên thánh giá với những người mẹ khóc con bị chết vì chiến tranh, với những trẻ em sắp chết đói bên Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai nạn, với những bệnh nhân thể xác và tâm thần... Hình như tất cả những khổ đau của loài người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh trên thánh giá.
Sau đó anh nhìn chung quanh mình và thấy cũng có một số người đang quỳ cầu nguyện trong thinh lặng. Một bà cao tuổi bước đến bên Thánh Giá và kính cẩn hôn những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó Bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an, có vẻ như Bà đã tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống. Từ trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu nguyện. Và anh khám phá rằng thập giá của sự khủng khiếp đã biến thành Thánh giá của hy vọng, thân thể bì hành hạ của Chúa Giêsu biến thành thánh thể của sự sống mới, những vết thương mở toang của Ngài trở thành nguồn thứ tha, cứu chữa và hòa giải... Khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy lòng mình rất bình an thanh thản.
Cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch mà là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ, trong than xác và trong tinh thần. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài tự ý tự nguyện gánh chịu, vì yêu.
Khi chúng ta liên kết những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, chúng ta sẽ tìm được bình an. Chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong đau khổ, mà có Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. (FM)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, đã nói: Một khi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. với ước muốn được chia sẻ chén đắng với Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh mời gọi con cái mình cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thương Khó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết can đảm vác thập giá theo chân Chúa đến cùng.
2. Trên thế giới ngày nay / khuynh hướng thích hưởng thụ và ngại hy sinh rất phổ biến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội.
3. Con đường rộng rãi thênh thang là con đường dẫn tới cái chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cố gắng sống theo con đường hẹp của Tin mừng / để nhờ đó mà được sống đời đời.
4. Tuần Thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm Phụng vụ / đặc biệt là Tam Nhật Vượt Qua / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sắp xếp / để tham dự lễ nghi thật đông đảo và sốt sắng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã tự nguyện đón nhận cái chết trên thập giá để cho chúng con được sống dồi dào. Xin Chúa cho chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương cao cả ấy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong thời thế chiến II, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng một đại học tại Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc Xã đem về trại tập trung ở Dachau. Nơi đây, ngài bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ. Bọn lính gác mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua. Cuối cùng ngài bị chết vì bị tra tấn. Bọn lính kia đâu có ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách, vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dòng chữ in trong quyển sách kinh cũ của ngài. Ngài kể lại rằng, sở dĩ ngài có thể chịu đựng được nỗi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ như thế. Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, ngài viết: "Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con." (Kilian Healy, Walking with God).
Sự thống khổ của Chúa Giêsu được chúng ta đặc biệt nhắc lại trong ngày hôm nay đã từng là nguồn sức mạnh cho rất nhiều người trong lịch sử. Giống như linh mục Brandsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi sự đau đớn nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ như vậy, và Ngài hiện đang nâng đỡ họ trong giây phút thử thách.
Khi nhìn lại sự thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người đã chịu đau khổ dưới cả ba hình thức khác nhau.
Trước hết là đau khổ tinh thần. Chúa Giêsu chịu đau khổ này trong vườn Cây Dầu, Người đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến thử thách trước mặt, đồng thời Người rất đau khổ khi các môn đệ phản bội và bỏ Người chạy trốn hết. Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm sự đau khổ tinh thần này, tỉ như một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đã mô tả sự đau khổ tinh thần của mình trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: "Tôi không bao giờ thực sự có được một mái nhà, tôi không bao giờ được thực sự nhìn thấy người cha của tôi. Tôi luôn cô độc... Tôi cảm thấy có gì sái quấy nơi tôi. Chắc là tôi tệ lắm. Tôi cảm thấy mình không hiện hữu, vì chẳng có ai yêu mến tôi." Trong lúc đau khổ tinh thần như thế, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất, đó la biết rằng chính Chúa Giêsu từng bị đau khổ như thế trước chúng ta, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong khi bị thử thách.
Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đau khổ nơi thể xác. Người bị đánh đập tàn bạo, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Và chúng ta, ít nhiều cũng đã từng chịu những đau đớn phần xác. Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đã phải gánh chịu khi ở Chile vào đầu thập niên 1970. Cô là một bác sĩ y khoa và đã phạm một lỗi lầm tai hại là đã chữa lành vết thương cho một phần tử chống đối chính phủ. Cảnh sát đã bắt cô và tra tấn buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối.
Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, cô cũng bị căng thây trong bốn ngày. Nhớ về sự thử thách ấy cô viết: "Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ về sự đau đớn mà Chúa Giêsu từng chịu. Trong suốt cơn thử thách, tôi luôn luôn cảm thấy Người ở đó, và tôi nài xin Người giúp tôi được kiên vững."
Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác, chúng ta thường chỉ còn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau đớn như thế, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này. Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về tâm linh. Tỉ như, khi Người bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Chúa Cha cũng đã ruồng bỏ Người. Chúa Giêsu cầu xin: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ rơi con" (TV 22:1). Tất cả chúng ta cũng từng gặp đau khổ tâm linh giống như Người. Nhiều lần, chúng ta cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Đây là sự đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Hoa Kỳ đã từng chịu khi bị cầm tù ở Nga suốt 23 năm. Có lúc, tâm linh ngài bị suy sụp đến mức gần như tuyệt vọng. Nhưng thay vì đầu hàng, ngài lại biết noi gương Chúa Giêsu trên thập giá, hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách. Cha Walter Ciszel viết:
"Tôi thưa với Chúa rằng, hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ còn Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của tôi... Tôi chỉ có thể mô tả lại cảm nghiệm này giống như một sự 'phó mặc'"
Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: "Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha" (Lc. 23:46). Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó thác ấy đã giúp ngài kiên định và sống sót.
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba sự đau đớn mà con người có thể gặp phải. Người đau đớn tinh thần vì bị các môn đệ phản bội. Người đau đớn thể xác vì bị tra tấn, và sau cùng Người đau đớn tâm linh khi cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi. Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, để khi gặp bất cứ đau khổ nào, chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu. Người hiểu được sự đau khổ của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Từ đó, chúng ta hãy trở lại câu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma. Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức nào, không có gì tốt hơn là chúng ta hãy lập lại những lời mà Cha Brandsma đã cầu nguyện với Chúa Giêsu: "Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa. Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan. Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ. Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi. Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con."
Phụng Vụ Chúa Nhật Lễ Lá này tập trung vào một chủ đề duy nhất: “tưởng niệm cuộc Thương Khó của Đức Giê-su”.
Is 50: 4-7 Bài đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vị ngôn sứ cho chúng ta thoáng thấy dung mạo người tôi trung của Đức Chúa chịu đau khổ, nhạo báng, sĩ nhục, nhưng không một lời oán than, trái lại đặt trọn niềm tin tưởng vào một mình Thiên Chúa.
Pl 2: 6-11 Tiếp đó, chúng ta tiếp tục suy niệm mầu nhiệm hạ mình và tôn vinh của Đức Giê-su, được thánh Phao-lô họa lại trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, dưới dạng một bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô, đây là một lời chứng đáng chú ý về niềm tin Giáo Hội tiên khởi.
Lc 22: 14-23: 56 Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc Thương Khó của Đức Giê-su theo thánh Lu-ca, nhắc cho chúng ta nhớ rằng bằng con đường Thương Khó và Tử Nạn Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống.
BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)
Bản văn này nói cho chúng ta về những xác tín của vị ngôn sứ. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chuyên tâm suy gẫm lời của Ngài, ông đã không tránh né sứ mạng của mình và biết lựa lời mà nâng đỡ những người bất hạnh. Ông đã không đón nhận bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, đã phải hứng chịu muôn vàn ê chề nhục mạ: bị đánh đòn, chịu những lời mắng nhiếc phỉ nhổ.
1. Dung mạo người tôi trung:
Nhưng người tôi trung này đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Chúa; ông “trơ mặt ra như đá”, nghĩa là “nhất quyết, không hề nao núng, vững như bàn thạch”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng “Chúa Giê-su trơ mặt ra như đá”, nghĩa là, Ngài nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc khổ nạn của Ngài, tức là Ngài thu hết can đảm và khẳng định ý muốn của mình (Lc 9: 51).
Bài ca này là bài ca thứ ba trong bốn bài ca được gọi “bài ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
“Người Tôi Trung” này được quy chiếu đến hoặc dân Ít-ra-en (vị ngôn sứ thường gọi họ là “người tôi trung của Đức Chúa”), hay một nhân vật biệt phân và đón nhận sứ mạng đặc thù. Vả lại, lời giải thích tập thể và lời giải thích cá nhân không loại trừ nhau; chúng chồng chéo lên nhau ở nhiều đoạn văn.
Người tôi trung này hành xử một cách khiêm nhu (bài ca thứ nhất); ông được trao phó cho việc giải thoát dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ông phải hứng chịu những bách hại và nhục mạ (bài ca thứ ba), ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).
Đây là một khúc quanh của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến một dung mạo một vị vua vinh quang thuộc dòng dõi vua Đa-vít, Ngài sẽ thiết lập nền hòa bình và công lý. Ấy vậy, vào lúc này, dân Ít-ra-en không còn có vua, vương quyền Đa-vít đã bị tiêu tan trong cơn bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, Giê-ru-sa-lem phải làm tôi và phần lớn dân cư bị lưu đày. Đây là giờ thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua những linh tính của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa tiến một bước tiến vĩ đại. Không phải những sấm ngôn thuở xưa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít bị hủy bỏ, nhưng điều mà những viễn cảnh mới cho thấy, chính là sự can thiệp của “một người được Thiên Chúa tuyển chọn”, “một người được Đức Chúa xức dầu tấn phong”, Đấng này sẽ hành động không ồn ào nháo nhiệt, bên ngoài có vẻ thất bại: đau khổ và chết, trước khi được tôn vinh.
2. Vị ngôn sứ chịu sĩ nhục:
Ở nơi nhân vật chịu nhiều nỗi truân chuyên này chúng ta dể dàng nhận ra chính vị ngôn sứ. Lãnh nhận sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh mệt mõi chán chường, ông đã không thể tránh khỏi thái độ vô ơn bạc nghĩa này. Ông đã cố giúp họ hiểu ý nghĩa của cuộc thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa với họ sự giải thoát; tuy nhiên, ông đã vấp phải thái độ không hiểu, ngờ vực và hung hăng của những người mà cuộc lưu đày dài lâu đã khiến họ nên chua chát đắng cay.
3. Người công chính chịu đau khổ:
Qua dung mạo của vị ngôn sứ, ẩn hiện dung mạo người công chính thập toàn. Bản văn có cung giọng Mê-si-a. Chúa Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo; Ngài sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ và phiền muộn. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận, thay vì những lời cám ơn, những đòn vọt, lăng mạ, nhục hình mà Ngài sẽ gánh chịu không hề nao núng “vì biết mình sẽ chẳng phải thẹn thùng hổ ngươi bẽ mặt”.
BÀI ĐỌC II Pl 2: 6-11
Đoạn thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này là một bài thơ, bằng văn xuôi có nhịp điệu, gồm sáu khổ thơ. Ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn tự nguyện hạ mình của Đức Ki-tô, và ba khổ thơ còn lại, trái lại, ba giai đoạn được Chúa Cha tôn vinh.
Người ta không khỏi ngạc nhiên khi gặp thấy ở nơi cung giọng nồng nàn nhưng thân quen, những dòng thơ khôn sánh này, như tuôn trào từ ngọn bút. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả chỉ là người trích dẫn bài thơ này. Bài thơ này, bằng Hy ngữ, được phô diễn rất văn chương. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn phát hiện ở đây những ảnh hưởng của ngôn ngữ A-ram. Phải chăng có một bản văn bằng tiếng A-ram trước bản văn Hy ngữ này? Nếu vậy, chúng ta đang đứng trước một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao chúng ta có ở đây một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn xưa về thần học Đức Ki-tô; nhất là nó mang đến một lời chứng có giá trị đầu tiên về đức tin tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su, trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan.
1. Ba giai đoạn hạ mình:
• Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất quyết đòi cho mình được ngang hàng Thiên Chúa.
• Ngài tự hủy mình ra hư không và mặc lấy thân phận thấp hèn, nên giống phàm nhân, nghĩa là chia sẻ tất cả mọi yếu đuối của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
• Ngài lại còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết ô nhục trên thập giá.
2. Ba giai đoạn tôn vinh:
• Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban tặng cho Ngài danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Chữ “danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối: “Danh khả danh phi thường Danh”, nghĩa là danh hiệu này chỉ dành riêng cho một mình Ngài, đây là danh của “Đức Chúa”, mà theo truyền thống Do thái dành riêng để chỉ tên khôn tả của Thiên Chúa.
Danh hiệu “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”, vì danh này trổi vượt, thậm chí trên muôn loài muôn vật trên trời dưới đất.
• Muôn loài muôn vật phải phụng thờ Ngài.
“Để vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ”. Không phải chỉ vì danh Giê-su, vì tên này khá phổ biến, đó là lý do tại sao tên này thường được đám đông xác định: “ông Giê-su thành Na-da-rét”; nhưng vì danh Giê-su đồng nhất với danh Đức Chúa như khổ thơ trước chỉ cho thấy.
“Cả trên trời dưới đất, và trong cõi âm ty”: chỉ toàn thể vũ trụ. Điều này muốn nói rằng, không chỉ nhân loại phải tôn thờ Ngài, nhưng còn muôn loài thọ tạo nữa. Đây là đề tài chúng ta sẽ gặp lại ở sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chức tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5: 13).
• Sau cùng, Thiên Chúa ban cho Đức Giê-su quyền tối thượng hoàn vũ, nghĩa là tước vị “Chúa”. Vì những người Ki tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Giê-su tước vị này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Đây là lời tuyên tín đặc trưng tiên khởi; thánh Phao-lô nhấn mạnh nhiều lần, cũng như thánh Lu-ca trong sách Công Vụ, Thiên Tính của Ngài.
Câu cuối của bài thánh thi định rõ “để tôn vinh Chúa Cha”. Đây cũng là một nét thần học xứng đáng nhấn mạnh: siêu tôn Đức Giê-su đồng nghĩa tôn vinh Chúa Cha. Phụng Vụ Ki tô giáo sẽ theo đường hướng này: mọi lời chúc tụng dâng lên Đức Ki-tô đều là tôn vinh Chúa Cha.
3. Mẫu gương:
Thánh Phao-lô rất yêu quý các tin hữu Phi-líp-phê mà thánh nhân đã sáng lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn Ki tô giáo đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng thuộc miền Ma-xê-đoan; thành phố này được đặt tên theo vua Phi-líp-phê, cha của đại đế A-lệ-xan. Khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh nhân đang sống trong cảnh xiềng xích. Thánh nhân ước mong các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài biết đồng tâm nhất trí với nhau, nhất là khiêm tốn tận đáy lòng. Vì thế, thánh nhân đưa ra cho họ mẫu gương của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG Lc 22: 14-23: 56
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ THEO THÁNH LU-CA
Như tất cả các thánh ký khác, thánh Lu-ca dành một phần lớn tác phẩm của mình cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế chúng ta có bằng chứng theo đó Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố đồi Can-vê, không là một giai đoạn hổ ngươi bẽ mặt mà biến cố Phục Sinh xóa đi, nhưng rõ ràng là đỉnh cao công trình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Sự thánh đố của thập giá đã được những Ki-tô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chất sự kỳ chướng gây ra cho người Do thái lẫn lương dân.
Bài tường thuật của thánh Lu-ca bộc lộ một cảm xúc mãnh liệt, tuy nhiên thánh ký tránh đề cập những chi tiết quá tàn bạo, nhưng chỉ gợi ý; kho đọc bài tường thuật của ông, người ta có thể không biết rằng Đức Giê-su đã bị đánh đòn và bị đội mảo gai. Mặt khác, chân dung mà thánh ký phác họa về Đức Giê-su hoàn toàn phù hợp với những gì ông đã mô tả về Ngài trước đó. Suốt lộ trình đau thương của Ngài, Đức Giê-su gieo rắc sự tha thứ, hòa giải và lòng xót thương. Sau cùng, người ta nhận ra rằng thánh ký, tác giả của sách Công Vụ sau này, rất quan tâm đến Giáo Hội: thánh ký muốn rằng bài Thương Khó của ông phải giúp cho người Ki tô hữu gặp thấy ở nơi Đức Giê-su một mẫu gương noi theo cho đến phúc tử đạo.
ĐỨC GIÊ-SU LẬP PHÉP THÁNH THỂ (22: 14-20)
Chúng ta bắt đầu bài tường thuật của thánh Lu-ca với việc Chúa Giê-su lập phép Thánh Thể. Hai tình tiết đi trước việc thiết lập phép Thánh Thể:
- Các thượng tế âm mưu và thông đồng với ông Giu-đa, tên phản bội.
- Chúa Giê-su sai hai môn đệ, thánh Phê-rô và thánh Gioan, chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua.
Thánh Lu-ca là một trong các thánh ký đã khôi phục tốt nhất việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể trong bối cảnh của bữa ăn Vượt Qua Do thái.
1. Lễ Vượt Qua Mới:
“Khi giờ đã đến”, tức là vào lúc mặt trời lặn, Chúa Giê-su và các Tông Đồ “ngồi vào bàn”. Từ lâu bữa ăn Vượt Qua không còn theo cách thức cựu trào nữa, nghĩa là “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy” (Xh 12: 11), nhưng theo cách thức Hy-La, nằm duổi dày trên trường kỷ.
Bữa ăn Vượt Qua Do thái được người cha hay vị thủ lãnh của nhóm chủ trì, như cộng đồng nhỏ bé của Đức Giê-su cùng các môn đệ của Ngài. Người cha hay vị thủ lãnh có nhiệm vụ giải thích diễn tiến và ý nghĩa của các nghi thức, trả lời các câu hỏi. Vì thế Chúa Giê-su lên tiếng trước, trong và sau bữa ăn. Ngài xác định ý nghĩa các cử chỉ của Ngài; Ngài sắp biến đổi lễ Vượt Qua truyền thống thành lễ Vượt Qua Mới; vừa đoạn tuyệt vừa nối tiếp, vừa đối chiếu sâu xa vừa có tính cách mới tận căn.
Ngay lập tức, Đức Giê-su đem lại cho nghi lễ sắc điệu của Ngài: lễ Vượt Qua này thể hiện một trong những ước muốn nồng nàn nhất tấm lòng của Ngài và nó mang một ý nghĩa cánh chung.
2. “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình”:
Chúa Giê-su đã bày tỏ mong ước này rồi: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12: 49-50). Đó là ngọn lửa tình yêu mà Ngài sẽ tỏ cho nhân loại thấy Thiên Chúa yêu thương họ đến độ nào.
3. Ý nghĩa cánh chung:
Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm việc dân Do thái được giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, biến cố quyết định của lịch sử dân Ít-ra-en. Cuộc tưởng niệm này được hiểu như đảm bảo những lần Đức Chúa can thiệp trong tương lai, việc Đấng Mê-si-a ngự đến (ở bữa ăn Vượt Qua, một chỗ tượng trưng được dành riêng cho ngôn sứ Ê-li-a), cũng như ơn cứu độ vĩnh viễn (người ta nghĩ rằng ơn cứu độ này bất chợt đến vào đêm Vượt Qua). Như vậy, bữa ăn Vượt Qua Do thái là một trong những tiên trưng của bữa tiệc cánh chung mà Thánh Kinh mô tả để diễn tả niềm vui của những người công chính trong thế giới hậu lai như: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người” (I s 25: 6-8; 55: 1-3; Cn 9: 1-6).
Lễ Vượt Qua mà Chúa Giê-su chuẩn bị thiết lập mặc lấy dấu chỉ cứu độ “cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa”. Thánh Thể là lương thực cánh chung, bảo chứng cuộc sống đời đời.
4. Chén rượu thứ nhất:
Đức Giê-su đổi mới viễn cảnh này khi cầm chén rượu người ta đưa cho Ngài. Quả thật, bản văn viết: “Rồi Người nhận lấy chén”. Đức Giê-su chủ trì bữa ăn Vượt Qua. Chỉ một mình thánh Lu-ca kể ra chén rượu thứ nhất này.
Trong suốt bữa ăn Vượt Qua Do thái, có đến bốn chén rượu. Lời tạ ơn được đọc trên chén rượu thứ nhất, trước khi bữa ăn khởi sự, nhằm mục đích thánh hiến nghi lễ: Đức Giê-su dâng lời tạ ơn thứ nhất trên chén rượu này.
Tiếp đó, người ta ăn “rau diếp đắng”, đoạn đọc lời tạ ơn và cùng ăn bánh không men.
5. Đọc lời tạ ơn trên bánh:
Lúc đó, Đức Giê-su dâng lời tạ ơn trên bánh, nhưng Ngài biến đổi nghi thức: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Bản văn của thánh Lu-ca rất gần với bản văn của thánh Phao-lô. Chỉ hai người kể ra “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11: 24).
6. Chén rượu cuối bữa ăn:
“Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy”. Những lời theo sau ở đây vẫn còn tương tự với những lời mà thánh Phao-lô trích dẫn (1Cr 11: 25). Chén rượu mà Chúa Giê-su dâng lời tạ ơn có thể là chén thứ tư, chén mà người ta uống ngay khi bữa ăn được hoàn tất, trước khi đọc các Thánh Vịnh 113-118, để nói lên Giao Ước Mới và phân biệt rõ nét Chén Máu của Ngài với các chén khác.
Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ Ngài cái chết dữ dội của Ngài, Ngài chết như một hiến lễ: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”.
DIỄN TỪ TỪ BIỆT (22: 21-38)
Trái với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, nhưng như thánh Gioan, thánh Lu-ca tường thuật bài diễn từ của Chúa Giê-su như diễn từ từ biệt, dưới hình thức của những lời loan báo, dặn dò và hứa hẹn.
1. Loan báo Giu-đa phản bội:
Trước tiên, Đức Giê-su loan báo rằng một người trong họ sẽ phản bội Ngài. Đây là nét chung cho cả bốn sách Tin Mừng: thánh Lu-ca đặt lời loan báo này sau bữa ăn, thánh Gioan thì trong bữa ăn, còn thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thì trên đường đến vườn Cây Dầu. Chỉ mình thánh Gioan trích dẫn Tv 41: 10: “Kẻ đã cùng chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13: 18). Thánh Lu-ca chỉ dành cho lời loan báo này chỉ ba dòng mà không đưa ra bất kỳ sự xác định nào, vì thánh ký không thích trì hoãn trên những cử chỉ ô nhục. Lời than thở: “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người” không là lời kết án, càng không là lời nguyền rủa. Đó chỉ là một ánh nhìn đượm buồn trên người bạn lầm đường lạc lối này.
“Đã hẳn Con Người ra đi như đã ấn định”, nghĩa là cuộc Thương Khó của Đức Giê-su đã được ấn định bởi kế hoạch của Chúa Cha. Chúng ta không gặp thấy bản văn Kinh Thánh nào mà Chúa Giê-su có thể ám chỉ đến, nhưng phải nhớ rằng Đức Giê-su đã thường liên kết mật thiết dung mạo Con Người với dung mạo Người Tôi Trung. Vả lại, bài học phục vụ đến rất đúng lúc như một lời quở trách gởi đến các môn đệ Ngài.
2. Lý tưởng phục vụ:
Sau một thoáng xúc động vì lời loan báo một người trong họ sẽ phản bội Thầy, các ông, vẫn chứng nào tật nấy, tranh cãi sôi nổi với nhau xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất.
Đức Giê-su nhắc lại cho họ giáo huấn mà Ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại: kẻ rốt hết sẽ là người làm đầu, ai trở thành bé mọn như con trẻ sẽ đi vào Nước Trời, vân vân. Kẻ lớn nhất phải nên như người phục vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”. Người ta nghĩ rằng thánh Gioan đặt việc rửa chân vào bữa ăn này, Đức Giê-su mặc lấy y phục người nô lệ, khăn thắt ngang lưng, để cúi xuống trước mỗi vị Tông Đồ.
3. Xa-tan trở lại:
Sự phản bội của Giu-đa không là cuộc tấn công duy nhất của các thế lực sự dữ. Chúng ta gặp thấy ở đây một trong những tuyến phát triển của Tin Mừng Lu-ca, cuộc tấn công này xuất hiện ngay từ câu chuyện Cám Dỗ trong hoang địa: ở đó Đức Giê-su chiến thắng Xa-tan và cuộc chiến thắng khởi đầu này bao quát toàn bộ sứ mạng của Ngài; nhưng Xa-tan chờ đợi giờ của nó (Lc 4: 13). “Xa-tan đã nhập vào Giu-đa” (Lc 22: 3). Ngoài ra “Xa-tan đã xin được sàng các Tông Đồ như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31), tức là đưa các ông vào một cuộc thử thách cam go đối với đức tin của các ông. Chính thánh Phê-rô sẽ vấp ngã.
4. Lòng nhân từ của Thiên Chúa:
Chúng ta lưu ý đến lòng nhân từ của Đức Giê-su; Ngài gợi lên cuộc tấn công của Xa-tan này chỉ sau khi đã làm yên lòng các Tông Đồ của Ngài; Ngài nói với họ về cuộc thử thách này, khi nhấn mạnh rằng rốt cuộc họ sẽ chiến thắng: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao vương quốc này cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được dồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”, tức là dân Thiên Chúa.
Đối với thánh Phê-rô cũng thế, để thánh nhân khỏi phải quá buồn phiền, Đức Giê-su công bố cho ông, trước khi tiên báo ông sẽ chối Thầy: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh”.
Chỉ một mình thánh Lu-ca gợi lên ngay từ giây phút này uy quyền mà Đức Giê-su ban cho thánh Phê-rô trên Nhóm Mười Hai, và đảm bảo rằng lời cầu nguyện của Ngài sẽ phù trợ đức tin của Giáo Hội.
Thánh Phê-rô cực lực biện bác, nhưng Chúa Giê-su nói trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay ba lần ông sẽ chối Thầy, nhưng Ngài cũng giúp cho thánh nhân hiểu trước rằng Ngài sẽ bỏ qua cho ông. Đây là một trong những trang Tin Mừng ghi đậm nét lòng nhân từ của Thiên Chúa.
5. Giờ chiến đấu quyết liệt:
Đoạn Chúa Giê-su với một nghị lực đáng kinh ngạc cho các môn đệ mình hiểu rằng giờ chiến đấu quyết liệt đã đến. Không còn ra đi không hành trang như trước đây Ngài đã truyền lệnh cho họ, nhưng phải trang bị vũ khí chống lại sự thù hận khủng khiếp. Chúa Giê-su nói bằng ngôn ngữ biểu tượng về khí giới thiêng liêng.
Bây giờ sấm ngôn Is 53: 12 sắp được ứng nghiệm: “Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất”. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất áp dụng bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về người tôi trung chịu đau khổ vào cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su bước đi trong khi hoàn toàn ý thức rằng mình bị bêu xấu cho đến mức bị liệt vào hàng những kẻ phạm pháp và phải chịu chết một cách ô nhục. Ngài thử truyền đạt điều này cho các môn đệ, nhưng các ông lại hiểu theo nghĩa vật chất, vì thế họ trình cho Ngài hai thanh gươm. Chúa Giê-su, thất vọng, cắt ngang: “Đủ rồi!”.
CƠN HẤP HỐI TẠI NÚI Ô-LIU (22: 39-46)
Bài tường thuật của thánh Lu-ca thì ngắn gọn: thánh ký bỏ qua nhiều chi tiết được thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô cung cấp, chỉ để tâm đến lời cầu nguyện, lời cầu nguyện căng thẳng của Chúa Giê-su, lời cầu nguyện mà Ngài khuyên bảo các môn đệ ngay từ đầu và được lập lại ở phần cuối; một kỷ thuật đóng khung có ý nghĩa.
Chẳng có gì phải ngạc nhiên: thánh Lu-ca là thánh ký của lời cầu nguyện; chính thánh nhân ghi nhận thái độ thường hằng này của Chúa Giê-su: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu” (21: 37). Chúa Giê-su không thay đổi thói quen của mình; hơn nữa, Ngài biết rõ rằng Ngài đang đối mặt với nguy hiểm. Vào chiều hôm đó, các môn đệ theo Ngài; Ngài bận lòng trước hết về họ; họ đã thật sự không ý thức về cơn kỳ chướng kinh khiếp đang chờ đợi họ. Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Chính Ngài tách riêng một mình mà cầu nguyện.
1. Chúa Giê-su cầu nguyện:
Thánh Lu-ca viết: “Chúa Giê-su quỳ gối cầu nguyện”. Thái độ này không thông thường: dân Do thái cũng như dân Hy-lạp và dân Rô-ma đứng cầu nguyện; tuy nhiên, Cựu Ước nhiều lần kể ra thái độ quỳ cầu nguyện này (2Sb 6: 13; Đn 6: 11). Đây cũng là thái độ cầu nguyện Ki tô hữu được nhiều lần ghi nhận trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 9: 40; 20: 36; 21: 5).
Trong suốt buổi cầu nguyện dài lâu này, Chúa Giê-su đã có thể thay đổi tư thế. Tuy nhiên, thánh Lu-ca thích kể việc Chúa Giê-su quỳ cầu nguyện hơn “sấp mình xuống mà cầu nguyện” như Mát-thêu hay Mác-cô.
Lời cầu nguyện của Đức Giê-su ở vườn Ô-liu nhắc nhớ Kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ. Đức Giê-su thân thưa với Cha Ngài với trọn niềm tin tưởng của người con thảo; nhưng thân phận con người khiến Ngài xao xuyến: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con”. “Chén” là hình ảnh Kinh Thánh chung chung được liên kết với ý tưởng trừng phạt, “chén cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, chén dành cho số phận của những người tội lỗi. Khi chấp nhận uống chén này, thay cho những người tội lỗi, Chúa Giê-su sẽ cho phép họ được uống chén cứu độ: chén máu Thánh Thể, tức là máu Ngài đổ ra cho họ.
2. Thiên sứ:
“Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người”. Đây là nét riêng của thánh Lu-ca.
Đây là câu trả lời của Chúa Cha cho tấm lòng hiếu thảo của Đức Giê-su. Điểm nhấn này rất gần với Tin Mừng Gioan; quả thật, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã chưa bao giờ yêu mến Chúa Con cho bằng khi Chúa Con chịu cuộc Tử Nạn của mình. Một tình tiết song đối được gặp thấy chính xác trong Tin Mừng Gioan. Chúng ta biết rằng thánh Gioan không tường thuật cơn hấp hối của Chúa Giê-su ở vườn Ô-liu, nhưng phải nói là thánh nhân cho một sự tham dự trước cơn hấp hối này: khi những người Hy-lạp bày tỏ ước muốn được gặp Chúa Giê-su, thái độ của họ làm Ngài xao động. Lương dân đến với Ngài; Ngài sắp chết cho tất cả họ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến…Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này…Bây giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’. Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ‘Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!’” (Ga 12: 27-28). 3. Mồ hôi lẫn với máu:
“Mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”. Chi tiết này gây chú ý cho thánh Lu-ca, thầy thuốc. Nó chỉ cho thấy nỗi đau cùng cực của Chúa Giê-su. Mỗi Ki tô hữu tự hỏi chính mình: phải chăng việc thấu hiểu nỗi đau khổ kinh khiếp và cái chết là nguyên nhân duy nhất gây nên nỗi phiền muộn bao la của Đức Giê-su, hay còn có nỗi đau đớn lớn lao do tội lỗi của con người? Ở đây chúng ta đi vào trong mầu nhiệm.
4. Cầu nguyện không ngừng:
Sau khi cầu nguyện, Chúa Giê-su trở lại các môn đệ và Ngài gặp thấy họ đang ngủ. Thánh Lu-ca viết một cách độ lượng: “họ ngủ vì buồn phiền”. Chúa Giê-su lại khuyên họ cầu nguyện, “kẻo sa chước cám dỗ”.
Họ đã không cầu nguyện đủ; họ khó mà cưỡng nỗi chước cám dỗ, và chẳng mấy chốc nữa, tất cả họ sẽ trốn chạy mà bỏ rơi Đức Giê-su. Bên kia các môn đệ, thánh Lu-ca nghĩ đến tất cả những Ki tô hữu.
ĐỨC GIÊ-SU BỊ BẮT 22: 47-53
Bài tường thuật của thánh Lu-ca không khác mấy với các bài tường thuật khác, ngoại trừ vài sắc thái.
1. Nụ hôn của Giu-đa:
Thánh Lu-ca từ chối ghi lại nụ hôn của Giu-đa bằng những ngôn từ thô thiển; thánh ký chỉ gợi ý: “Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người”; tiếp liền ngay sau đó là lời của Đức Giê-su: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?”. Trong khi đó thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô viết: “Rồi hắn hôn Người”; còn thánh Gioan không kể ra nụ hôn của Giu-đa.
Chúa Giê-su gọi đích danh người môn đệ phản bội này nhằm cố ý giúp hắn ý thức về cử chỉ bỉ ổi của hắn; Đức Giê-su xưng mình “Con Người”, tước hiệu mà Ngài đã luôn luôn sử dụng khi tiên báo cuộc Thương Khó của mình, nhằm lay động, nếu có thể, những tâm tư tình cảm của tên phản bội.
2. Chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế:
Tình tiết chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế đều được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Thánh Lu-ca xác định tai bị chém đứt là tai bên phải. Những phần thân thể bên phải được xem là cao cả hơn bên trái. Nhưng chỉ mình thánh Lu-ca tường thuật Chúa Giê-su chữa lành tai của hắn. Đức Giê-su đã cư xử kẻ thù của Ngài như thế đó…Thánh Lu-ca là thầy thuốc, vì thế ông có một tấm lòng nhạy cảm.
3. Các thượng tế và kỳ mục:
Thánh Lu-ca không kể đám đông cầm gậy gộc và gươm giáo. Trái lại, ông lưu ý đến sự hiện diện của các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ cũng như kỳ mục. Việc lãnh binh Đền Thờ có mặt ở đây là chuyện thường tình để điều hành việc bắt giữ. Nhưng những nhân vật vị vọng, như các thượng tế và kỳ mục, đêm hôm lặn lội đi bắt Ngài thì đáng ngạc nhiên. Thánh ký muốn vạch mặt chỉ tên những người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Ki-tô ngay từ giây phút bắt giữ Ngài.
Đức Giê-su vạch ra cho thấy việc ra tay Ngài vào ban đêm là hành động không quang minh chính đại, bởi vì hằng ngày Ngài công khai giảng dạy cho dân chúng trong Đền Thờ; nếu muốn bắt Ngài thì quá dể dàng, cần gì phải lén lút bắt Ngài như vậy. Nhưng cách thức bắt Ngài như thế rõ ràng cho thấy có một sự thông đồng với Giu-đa: “Giu-đa ưng thuận và tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22: 6), trong khi các thượng tế và kỳ mục muốn hoản cuộc bắt giữ cho đến sau ngày lễ, kẻo gây náo loạn trong dân (Mt 26: 5). Thánh Lu-ca còn kể thêm: “Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”. Chúng ta gặp lại bóng tối của Xa-tan.
THÁNH PHÊ-RÔ CHỐI THẦY (22: 54-62)
“Họ bắt Đức Giê-su”. Chỉ vào lúc này thánh Lu-ca mới kể việc bắt giữ Đức Giê-su, trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt việc bắt giữ liền ngay sau Giu-đa ôm hôn Ngài. Thánh Lu-ca muốn chứng tỏ rằng cho đến lúc đó Đức Giê-su tự do, làm chủ biến cố, vạch cho thấy những sai trái của tên phản bội và của những kẻ đến bắt Ngài, ra lệnh cho các môn đệ và chữa lành kẻ bị thương. Tin Mừng Gioan cũng đưa ra một quan điểm như thế, nhưng chỉ cho thấy Đức Giê-su bị trói. Thánh Lu-ca không bao giờ nói việc Đức Giê-su bị trói.
“Họ điệu Người đến nhà vị thượng tế”. Vị thượng tế này không được nêu tên, chắc hẳn là Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm. Chỉ một mình thánh Gioan kể ra việc Chúa Giê-su bị điệu ra trước Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, bố vợ của Cai-pha. “Còn thánh Phê-rô thì theo xa xa”; thánh Phê-rô cẩn trọng giữ một khoảng cách nào đó. Tuy nhiên, vào đêm xuân, khí trời thì lạnh. Thánh Phê-rô thấy những người canh gác đã nhóm một bếp lửa giữa sân nên đến gần để sưởi ấm. Dưới ánh lửa bập bùng, thánh nhận dể bị nhận dạng và vì thế ông bị tra hỏi đến ba lần.
Bài tường thuật Lu-ca về việc thánh Phê-rô chối Thầy không khác mấy với các bài tường thuật của các thánh ký khác, tuy nhiên thánh Lu-ca không diễn tả mức độ tăng dần của việc thánh Phê-rô ba lần chối Thầy liên tiếp, nhưng nêu lên cường độ kịch tính một cách đặc biệt bởi cái nhìn gây xúc động của Chúa Giê-su trên vị Tông Đồ, cái nhìn của Ngài khiến thánh Phê-rô xao động. Tiếng gà gáy nhắc cho thánh nhân nhớ lại lời của Chúa Giê-su. Thánh nhân ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
ĐỨC GIÊ-SU BỊ ĐÁNH ĐẬP (22: 63-65)
Trong khi chờ đợi, Đức Giê-su bị giao lại vào tay những kẻ canh giữ, chúng nhục mạ Ngài và đánh đập Ngài; chúng chế nhạo Đấng đã xưng mình là “ngôn sứ”. Thánh Lu-ca không nhấn mạnh những chi tiết của màn bỉ ổi và đau buồn này; thánh ký tránh kể ra những cái tát tai và những khạt nhổ vào mặt.
PHIÊN TÒA DO THÁI (22: 66-71)
Đức Giê-su cần phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài bị giao nộp trực tiếp vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ bị đồng hóa với những người ái quốc và được hưởng triều thiên tử đạo. Điều quan trọng trước tiên là làm mất uy tín của Ngài trước mắt toàn dân Ít-ra-en.
1. Thượng Hội Đồng:
Thượng Hội Đồng Giê-ru-sa-lem là tòa án tối cao của người Do thái. Giới học giả tranh luận về thẩm quyền của Thượng Hội Đồng này; dù thế nào đi nữa về lãnh vực tôn giáo, ba trường hợp chính buộc phải xét xử ở Thượng Hội Đồng này: thờ ngẫu tượng, một ngôn sứ giả, hay một vị thượng tế phạm một tội danh nào đó. Tước hiệu “ngôn sứ” sẽ là trung tâm của phiên tòa xét xử Đức Giê-su trước Thượng Hội Đồng, trong khi tước hiệu “vua” sẽ là trung tâm của phiên tòa Rô-ma trước quan tổng trấn Phi-la-tô.
Thượng Hội Đồng gồm có bảy mươi thành viên không tính vị thượng tế, người chủ trì Thượng Hội Đồng này; lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ có giá trị nếu hội đủ ít nhất hai mươi ba thành viên. Xem ra có nhiều hơn khi Chúa Giê-su bị điều ra trước Thượng Hội Đồng.
2. Hai tước vị của Ngài:
Thánh Lu-ca chỉ tường thuật một phiên tòa Thượng Hội Đồng, phiên tòa xảy ra vào ban ngày. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu gợi lên một phiên tòa trước, phiên tòa xảy ra vào ban đêm. Theo luật, trong trường hợp nghiêm trọng, Thượng Hội Đồng phải nhóm họp hai lần cách nhau khoảng hai mươi bốn tiếng, ngỏ hầu những người xét xử có đủ thời gian để suy nghĩ. Phiên tòa thứ hai phải khẳng định hay hủy bỏ quyết định của phiên tòa thứ nhất chứ không có quyền tăng thêm bản án. Thánh ký không trì hoãn ở nơi những hình thức nực cười của phiên tòa mà bản án đã được định sẵn trước rồi; ông muốn hướng sự chú ý đến con người của Đức Giê-su, nơi hai tước vị của Ngài: Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa. Khác với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca phân biệt rất rõ hai tước vị này, như thánh ký đã làm lần đầu tiên, vào biến cố Truyền Tin. Sự phân biệt này nói lên nỗi bận lòng của một sử gia. Tác giả sách Công Vụ sau này biết rằng khi Giáo Hội được phát triển, nhất là ở môi trường lương dân, tước vị Do thái: “Mê-si-a” được bảo tồn ở nơi tước hiệu Hy-lạp: “Ki-tô”, nhưng điểm nhấn chính được đặt trên tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su, tức là nhận ra Thần Tính của Ngài.
Đối với câu hỏi về tước vị Mê-si-a của Ngài, Đức Giê-su trả lời bằng cách làm cho những người xét xử Ngài hiểu rằng tước vị này không tương hợp chút nào với những gì họ nghĩ: nó không thuộc trần thế, nhưng siêu việt vì “Từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca liên kết sấm ngôn Đa-ni-en và Thánh Vịnh 110, cả hai đều loan báo việc con vua Đa-vít sẽ được tôn vinh bên hữu Đức Chúa.
Đối với câu hỏi về tước vị Con Thiên Chúa của Ngài, Đức Giê-su trả lời bằng cách biến đối thủ của Ngài thành người công bố chân lý: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây”. Tại thánh Mác-cô, Đức Giê-su trả lời rõ ràng: “Phải, chính thế”.
3. Bản án:
Thượng Hội Đồng chỉ có thể tuyên án khi dựa vào tối thiểu hai lời chứng ăn khớp với nhau. Thánh Lu-ca để cho hiểu rằng điều kiện này không hội đủ. Sau lời công bố của Đức Giê-su, các thành viên Thượng Hội Đồng gào lên: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”. Thánh Lu-ca không nói về việc kết án, ông cũng không kể ra lời tuyên án: “Hắn đáng chết!”; thánh ký sẽ không nói ở bất cứ nơi nào rằng Đức Giê-su đã bị kết án, bởi vì lời tuyên án của Thượng Hội Đồng thì bế tắt. Tòa án này đã mất đi quyền thi hành án tử. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền này khỏi người Do thái. Vì thế, để có thể giết Ngài, phải tìm thấy một lý do không là tôn giáo nhưng chính trị, vì thế phải cậy nhờ đến quan tổng trấn Rô-ma.
PHIÊN TÒA RÔ-MA (23: 1-5)
Thánh Lu-ca nêu bật việc chuyển biến từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị; thánh ký trích dẫn những lời buộc tội mà các thành viên Thượng Hội Đồng nêu lên để ép buộc Phi-la-tô phải can dự: tên Giê-su này sách động quần chúng phá rối trị an; hắn chống đối việc nộp thuế cho hoàng đế, hơn nữa, hắn còn xưng mình là Đấng Mê-si-a, là Vua nữa.
Phiên tòa tôn giáo dựa trên một nền tảng xác thực nào đó: Đức Giê-su công bố mình vừa là Đấng Mê-si-a vừa là Con Thiên Chúa, đó là những lời phạm thượng dưới quan điểm của những người xét xử Ngài. Phiên tòa chính trị sẽ dựa trên những lời chứng gian. Phi-la-tô khó mà khỏi nghi ngờ, ông sẽ khẳng định sự vô tội của Đức Giê-su đến ba lần (như trong Tin Mừng Gioan).
Quan tổng trấn đặt câu hỏi chủ chốt liền ngay với Đức Giê-su: “Ông là Vua dân Do thái sao?”. Chỉ tham vọng này thôi cũng đủ chính quyền Rô-ma trừng trị nghiêm khắc. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp; tuy nhiên, câu trả lời của Ngài rõ ràng mang sắc thái khẳng định: “Chính ngài nói đó”, ngầm hiểu: “Tôi là vua, nhưng không theo như cách ngài nghĩ”.
Thánh Lu-ca tóm tắt rất ngắn gọn phiên tòa của Đức Giê-su trước Phi-la-tô; vả lại, thánh ký chia phiên tòa này ra làm hai phần, bởi việc áp giải Đức Giê-su đến trước mặt vua Hê-rô-đê.
Ngay từ cuộc nói chuyện đầu tiên, Phi-la-tô tin rằng những lời buộc tội là vô căn cứ. Các thượng tế liền đáp lại: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây”. Địa danh “Ga-li-lê” gợi cho quan tổng trấn một lối thoát. Bởi vì Đức Giê-su là người Ga-li-lê, ông giao lại cho Hê-rô-đê, tiểu vương miền Ga-li-lê. Vào lúc đó, Hê-rô-đê có mặt ở Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ Vượt Qua.
ĐỨC GIÊ-SU RA TRƯỚC MẶT VUA HÊ-RÔ-ĐÊ (23: 6-12)
Việc Đức Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê là một tình tiết riêng của thánh Lu-ca. Lập luận pháp lý mà Phi-la-tô viện dẫn được các bản văn khẳng định. Chúng ta biết rằng miền Ga-li-lê không có cùng quy chế chính trị như miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma đã để cho miền Ga-li-lê một tiểu vương cai trị, lúc đó là Hê-rô-đê An-ti-pát, một trong những người con của Hê-rô-đê đại đế.
Động cơ duy nhất của Phi-la-tô là làm tròn những yêu sách của luật thì đáng nghi ngờ; vả lại luật không đòi buộc như thế; nhưng chắc chắn ông bằng lòng chia sẻ trách nhiệm về một công việc tinh tế với chính quyền Do thái. Phi-la-tô nắm bắt cơ hội để xoa dịu vị tiểu vương mà quan hệ giữa hai người vốn rất hiềm thù. Thêm nữa, Phi-la-tô hy vọng vị tiểu vương này tìm ra một giải pháp, vì Hê-rô-đê nổi tiếng là một nhân vật xảo quyệt (Đức Giê-su đã gọi vị tiểu vương này là “con cáo già”: Lc 13: 32).
Hê-rô-đê bày tỏ một sự hiếu kỳ không đúng chỗ và hỏi Ngài dồn dập. Với thái độ như thế, Đức Giê-su không thèm trả lời. Bị thương tổn, Hê-rô-đê khinh dể Ngài ra mặt nên ra lệnh cho thị vệ khoác cho Ngài một chiếc áo rực rỡ để chế giễu tham vọng vương quyền của Ngài. Chi tiết này phù hợp với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu khi miêu tả bọn lính tráng khoác cho Đức Giê-su một tấm áo điều mà chế giễu Ngài. Hê-rô-đê không tuyên án, rồi cho giải Ngài lại cho tổng trấn Phi-la-tô. “Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau”. Phải chăng thánh ký thấy ở đây lời tiên báo về sự hòa giải giữa người Do thái và dân ngoại trong những cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi?
ĐỨC GIÊ-SU LẠI RA TRƯỚC PHI-LA-TÔ (23: 13-25)
Đức Giê-su lại bị điệu ra trước Phi-la-tô nhưng không còn có đối thoại nữa giữa tổng trấn và Đức Giê-su. Lối thoát của tấn thảm kịch được diễn ra giữa chính quyền Rô-ma và giai cấp lãnh đạo Do thái; chính ở nơi giai cấp lãnh đạo này mà thánh ký sắp quy những trách nhiệm nặng nề nhất.
Phi-la-tô triệu tập các thượng tế và các thủ lãnh dân chúng; ông cao giọng công bố Đức Giê-su vô tội và tố cáo những lời buộc tội gian trá chống lại Đức Giê-su. Bài tường thuật Lu-ca rất gần với bài tường thuật Gioan. Tuy nhiên, để xoa dịu giai cấp lãnh đạo Do thái, vị tổng trấn loan báo một cách đê hèn rằng ông sẽ ra lệnh trừng trị Ngài cho dù ông vừa mới công bố Ngài vô tội và hứa sẽ thả Ngài. Thánh Lu-ca chỉ kể ra sự nhục hình đòn vọt một cách gợi ý chứ không miêu tả chi tiết. Như thánh Gioan, thánh Lu-ca tách riêng việc đánh đòn mà ý định của nó chỉ nhằm ngăn ngừa, chứ không như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu xem việc đánh đòn như điều kiện tiên quyết của việc đóng đinh trên thập giá.
Nhưng các giai cấp lãnh đạo nhất quyết đòi hỏi án tử của Ngài cho bằng được: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi”. Thánh Lu-ca không cung cấp bất kỳ lời giải thích nào về yêu sách này; ông giả sử rằng tập tục này ai cũng biết cả, theo đó vào dịp lễ Vượt Qua, người Do thái yêu cầu phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng niệm ngày giải thoát khỏi Ai-cập. Chính quyền Rô-ma thuận theo truyền thống Ít-ra-en.
Trái với thánh Mác-cô (15: 11) và thánh Mát-thêu (27: 20), thánh Lu-ca không kể ra tiếng gào thét của đám đông, cũng như áp lực của các thượng tế trên đám đông, bởi vì thánh ký không làm loãng đi trách nhiệm của dân Ít-ra-en. Còn Phi-la-tô, ông luôn luôn cho rằng những lời buộc tội là bất công, cuối cùng đành phải nhượng bộ, thả Ba-ra-ba, kẻ bạo động và sát nhân, và trao nộp Đức Giê-su, người vô tội, “theo ý họ muốn”. Thánh Lu-ca không muốn nói rằng Phi-la-tô giao cho các thượng tế tế và các thủ lãnh dân chúng việc hành hình Đức Giê-su, vì đối với người Do thái cuộc hành hình phải là ném đá chứ không đóng đinh vào thập giá, nhưng thánh ký muốn nói rằng cuối cùng, ý muốn của họ đã thắng.
ĐƯỜNG LÊN “ĐỒI SỌ” (23: 26-31)
Bốn bài tường thuật về phần cuối của tấn thảm kịch này rất phù hợp với nhau, ngoài trừ vài tiểu tiết. Cả bốn bài tường thuật đều mực thước, thậm chí ngắn gọn. Đặc biệt thánh Lu-ca theo đuổi ý muốn của mình là không nhấn mạnh những khía cạnh quá bi thương; thánh ký thổi vào những trang Tin Mừng của mình một hơi mát thanh bình như thử để quét sạch mọi điều ghê tởm. Lòng xót thương của Thiên Chúa thống trị trên sự thù hận của con người, lòng sám hối của kẻ gian phi phát xuất từ cái nhìn của anh trên Đức Ki-tô hấp hối, đám đông đến xem thay đổi từ thái độ bàng quang đến đấm ngực ăn năn; Đức Giê-su hơi tàn lực tận cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây nên cái chết của Ngài, hứa cõi đời đời cho tên gian phi hối cải, phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha.
1. Ông Si-mon thành Ky-rê-nê:
“Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-mon, thành Ky-rê-nê, đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su”.
Thánh Lu-ca không xác định ai trưng dụng người qua đường này, nhưng cách diễn tả rất gợi ý: “họ đặt thập giá trên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su”. Thánh ký rõ ràng ám chỉ đến những lời của Đức Giê-su: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14: 27). Ông Si-mon thành Ky-rê-nê chắc chắn là một người Ki tô hữu hiện đang sống giữa cộng đoàn Ki tô hữu; dù thế nào, thánh Mác-cô trích dẫn tên của các con ông như những nhân vật rất quen thuộc trong Giáo Hội tiên khởi.
2. Khóc thương thành Giê-ru-sa-em:
“Dân chúng đi theo Người đông lắm”. Chúng ta gặp lại cũng một từ vựng được dùng để chỉ dân chúng thiện cảm này. “Trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc”. Những người phụ nữ này làm chứng về sự vô tội của Đức Giê-su theo cách của họ. Thánh Lu-ca là thánh ký nêu lên nhiều nhất những gương mặt phụ nữ.
“Đức Giê-su quay lại”, tại thánh Lu-ca, cử chỉ này loan báo một sứ điệp quan trọng hay một giây phút quyết định (Lc 14: 25). Lúc đó, Đức Giê-su tiên báo cho các bà cuộc sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu…”. Tình tiết này, riêng của Lu-ca, song đối với tình tiết mà thánh ký đã đặt vào giây phút Chúa Giê-su chuẩn bị vào thành thánh Giê-ru-sa-lem: khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương thành khi nghĩ đến việc thành bị tàn phá thành bình địa, vì thành đã không nhận biết thời giờ nó được Thiên Chúa viếng thăm (Lc 19: 41-44). Khi ra khỏi thành thánh, Đức Giê-su cũng có những cảm xúc như vậy.
Thánh Lu-ca đặt trên môi miệng Chúa Giê-su ngôn từ của các ngôn sứ: “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” gợi nhớ những hô ngữ của ngôn sứ I-sai-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a; “Vì này đây sẽ tới những ngày” là cách nói rất tâm đắc của ngôn sứ A-mốt và được ngôn sứ Giê-rê-mi-a lấy lại; cách nói này báo trước những tai ương hoạn nạn. “Phúc thay đàn bà hiếm hoi”: Đức Giê-su đã diễn tả cùng tư tưởng với lời tiên báo khác về cuộc sụp đổ thành Giê-ru-sa-lem (Lc 21: 23).
Sau cùng, lời trích dẫn này mượn của ngôn sứ Hô-sê: “Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi!”, lời cầu nguyện khốn cùng này được lấy lại trong sách Khải Huyền để diễn tả sự khủng khiếp của ngày Chung Thẩm.
Chúa Giê-su hoàn tất lời tiên báo của Ngài khi nhắc lại câu cách ngôn: “Cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế (cây không phải bị đốt cháy, ám chỉ đến cái chết bất công của Ngài), thì cây khô héo sẽ ra sao?”. Nói cách khác, nếu người công chính bị đày đọa cho đến chết, thì người ta sẽ cư xử với những tội nhân như thế nào?
KHỔ HÌNH THẬP GIÁ (23: 32-33)
“Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá”. Địa danh này gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài thánh thánh. Vùng đất thành thánh, được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem, vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn đe.
Trên đồi hành hình, Chúa Giê-su bị đóng đinh giữa hai tên gian phi. Sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Sự nhục nhã càng tăng thêm đối với Đức Giê-su, nhưng đó là số phận mà Thiên Chúa dành cho người tôi trung thập toàn của Ngài “bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53: 12). Trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu, Đức Giê-su đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ Ngài: “Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh này” (Lc 22: 37).
LÒNG XÓT THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA (23: 34-43)
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất truyền đạt cho chúng ta lời khẩn nguyện của Đức Giê-su cho các lý hình, và cho tất cả những ai đã nhúng tay vào cái chết của Ngài.
1. Lời khẩn nguyện:
Toàn bộ Tin Mừng Lu-ca chuẩn bị cho lời cầu nguyện cao cả về sự tha thứ này. Thánh Lu-ca đã không giữ lại tiếng kêu thống thiết của Đức Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”, tiếng kêu bi thương xuất phát từ nỗi cô độc cùng cực. Thánh ký chuộng nêu lên lời khẩn cầu đầy lòng xót thương. Đức Giê-su đã dạy hãy yêu thương kẻ thù và Ngài bảo chúng ta đọc trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cùng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Giê-su dâng hiến một mẫu gương cho các người Ki tô hữu và đặc biệt cho Các Thánh Tử Đạo (x. Cv 7: 60).
Đối diện với tình yêu và sự tha thứ, thánh Lu-ca phác họa sự thù hận và lòng căm thù. Những chi tiết mà họ phô bày không là giai thoại; chúng ta đọc thấy ẩn hiện ở nơi những bản văn ngôn sứ: Dcr 12: 10: “Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu”, và Tv 22, lời cầu nguyện dài của người công chính chịu đau khổ trong đó chúng ta đọc thấy: “Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 17-19).
2. Dân chúng đứng nhìn:
Thánh Lu-ca đã không nói đến dân chúng vào lúc xét xử Chúa Giê-su; bây giờ thánh ký giới thiệu họ trên Đồi Sọ, trong thái độ tôn kính và trung thành. Thánh Lu-ca không nói đám đông (plethos), nhưng dân chúng (laos); có một dị biệt tinh tế giữa hai từ vựng này. Qua từ vựng “dân chúng” thường có hậu ý Giáo Hội, thánh ký mời gọi dân Thiên Chúa chiêm ngắm mầu nhiệm thập giá.
Thánh Lu-ca đối lập thái độ dân chúng với thái độ của những giai cấp lãnh đạo, họ cười nhạo và đắc thắng (thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô còn thêm những người qua đương).
3. Binh lính cũng chế nhạo Người:
Lần đầu tiên thánh Lu-ca nói về binh lính Rô-ma và những lời chế giễu của họ; thánh ký đã không gợi lên mũ gai và trò bỉ ổi của họ. Những binh lính đưa giấm cho Đức Giê-su uống; sự kiện được cả bốn Tin Mừng tường thuật, đặc biệt ở Tin Mừng Gioan cử chỉ này được giải thích rõ hơn: Đức Giê-su vừa nói: “Ta khát”.
Bọn lính làm như vậy một cách vô tình mà không biết bản văn ngôn sứ. Quả thật, người ta đọc thấy ở thánh vịnh 69 lời phàn nàn của một người công chính, nạn nhân vì lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa: “Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng, mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn , chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 21-22).
4. Vua dân Do thái:
Một tấm bảng viết “vua dân Do thái” được treo trên đỉnh thập giá. Sự kiện được cả bốn thánh ký ghi nhận. Thánh Gioan xác định rằng nó đã được Phi-la-tô ra lệnh viết. Quan tổng trấn Rô-ma biết rõ rằng tước hiệu này chỉ là cái cớ; nhưng để biện minh cho bản án tử hình, trong bản báo cáo của ông trình lên hoàng đế, tội khi quân rõ ràng phải đặt lên hàng đầu.
5. Người gian phi sám hối:
Tình tiết này riêng của thánh Lu-ca. Đức Giê-su thực hiện sứ mạng đầy lòng xót thương của Ngài cho đến giây phút sau cùng. Tấm lòng khiêm hạ của hối nhân được đáp trả bởi ân ban soi sáng. Người gian phi nhận ra ở nơi Đức Giê-su tước vị Mê-si-a vương đế của Ngài. Lời khẩn cầu của hối nhân này: “Xin nhớ đến tôi” là lời mở đầu kinh nguyện Do thái của những người hấp hối: “Lạy Đức Chúa, xin nhớ đến tôi”.
Đức Giê-su trả lời cho anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Lời khẳng định của Đức Giê-su rất trang trọng: “Tôi bảo thật anh” thánh Lu-ca hiếm khi sử dùng cách nói này.. Từ ngữ “hôm nay” tại Tin Mừng Lu-ca luôn luôn được liên kết với ý tưởng cứu độ.
Trong niềm tin Do thái giáo, “Thiên Đàng” gợi lên một chốn bồng lai cực lạc ở đó những người công chính sau khi qua đời chờ đợi sự phục sinh; từ này được hoán chuyển với cách nói: “vào lòng ông Áp-ra-ham” mà thánh Lu-ca gợi lên trong dụ ngôn người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ: “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham” (Lc 16: 22).
Đức Giê-su cho người gian phi sám hối hiểu rằng từ nay chính Ngài đón tiếp nhũng người công chính và đưa họ vào “Thiên Đàng”. Thánh Lu-ca không tìm cách xác định giây phút Đức Giê-su phục sinh, khi định vị biến cố này ngay sau cái chết của Đức Giê-su. Không ai biết chính xác giây phút Đức Giê-su phục Sinh, đừng nhầm lẫn với giây phút khám phá ngôi mộ trống (giữa cái chết của Đức Giê-su và việc các người phụ nữ đến viếng mộ, ngày sa-bát đã trôi qua).
Nhưng thánh Lu-ca ghi lại bài tường thuật của mình theo những viễn cảnh Ki tô giáo. Đừng quên rằng thánh ký vừa là môn đệ vừa là bạn đồng hành của thánh Phao-lô. Đoạn Tin Mừng này gặp lại tư tưởng của vị Tông Đồ, được diễn tả trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê (Pl 1: 21-23), cũng như trong thư thứ hai gởi cho ông Ti-mô-thê (2Tm 4: 8): người Ki tô hữu qua đời được đoàn tụ với Đức Ki-tô. Trong sách Công Vụ, thánh ký sẽ cho thấy rằng thánh Tê-pha-nô, ngay từ trước khi bị ném đá, “thấy trời mở ra” (Cv 7: 56).
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊ-SU (23: 44-49)
“Bây giờ đã gần tới giờ thứ sáu (tức mười hai giờ trưa), thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất”. Không loại trừ bầu trời thường trở nên âm u vào mùa xuân, nhưng việc gợi lên trước tiên là Kinh Thánh: những dấu chỉ vũ trụ loan báo hay thường đi theo những cuộc can thiệp của Thiên Chúa vào Lịch Sử (x. Xh 10: 22; vân vân). Các ngôn sứ đã biến các dấu chỉ này thành nét đặc trưng của ngày tận thế, ví dụ như Am 8: 9-10: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng….Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một”. Cái chết của Đức Giê-su khai mở kỷ nguyên cánh chung, nghĩa là kỷ nguyên phán xét; từ nay kỷ nguyên này sẽ được đặt dưới dấu chỉ trung gian của Ngài.
1. Bức màn trướng trong Đền Thờ:
Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất đặt việc “bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa” trước cái chết của Đức Giê-su. Bức màn trướng này, hoặc bức màn người ta giăng trước tiền đường để che phần bên trong Đền Thờ khỏi những người ở trên sân tiền đình, hay bức màn trướng phân cách phần còn lại của Đền Thờ với Nơi Cực Thánh ở đó chỉ vị thượng tế mới có thể đi vào, mỗi năm một lần, để thực hiện nghi thức xóa tội. Xem ra bức màn trướng này mà thánh Lu-ca nghĩ đến, khi nối tiếp tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái: nhờ máu Ngài đã đổ ra, Đức Giê-su khai mở cho nhân loại lối vào bên Thiên Chúa trong cung thánh trên trời (Dt 10: 19-20).
Dù thế nào, biểu tượng thì rõ ràng. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã không còn đóng vai trò của mình; việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn ưu tiên cho dân Ít-ra-en; nó được dâng hiến cho hết mọi người. Đền Thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể của Đức Giê-su Phục Sinh, như chính Ngài đã loan báo.
2. Lời cầu nguyện cuối cùng:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.
Tại thánh Lu-ca, cuộc đời của Đức Giê-su được hoàn tất trên lời cầu nguyện, trong khi thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô ghi nhận “một tiếng kêu lớn” của Đức Giê-su hấp hối; còn thánh Gioan đặt trên môi miệng của Đức Giê-su như những lời sau cùng: “Thế là đã hoàn tất!”, nhưng thánh Gioan nói thêm khi nối kết với thánh Lu-ca: “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”. Lời cầu nguyện này được trích từ Tv 31 ở trong số kinh nguyện truyền thống ban chiều. Chúa Giê-su thân thưa với Cha Ngài, nhưng lời cầu nguyện hấp hối của Ngài cũng định vị Ngài vào trong sự hiệp nhất với dân Ngài.
3. Lời chứng của viên bách quản:
Viên bách quản Rô-ma, đứng canh dưới chân thập giá, “cất tiếng tung vinh Thiên Chúa”: “Người này đích thật là người công chính”.
Lời chứng của viên bách quản được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm kể lại, với vài biến thể; cách diễn tả của Lu-ca xem ra gần với sự thật nhất; viên bách quản nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su. Tiếng reo vui của viên bách quản là lời tôn kính đầu tiên mà lương dân tỏ bày cho Đức Ki-tô; lời này loan báo chiều kích ơn cứu độ phổ quát, đồng nghĩa với việc tấm màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai.
4. Thái độ dân chúng:
“Toàn thể dân chúng đã đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về”. Đây là cử chỉ tang chế, nhưng cũng là nghi thức ăn năn, dấu chỉ sám hối. Chỉ một mình thánh Lu-ca cho dân chúng thái độ này.
5. Những người thân quen:
Thánh Lu-ca cũng là thánh ký duy nhất kể ra sự hiện diện của những người thân quen: “Đứng đằng xa, có những người quen biết Đức Giê-su”. Thật ra, thánh ký nhạy bén trước tất cả những gì có thể làm giảm bớt những đau khổ của Đức Giê-su.
“Đứng đàng xa”: ngôn từ có âm hưởng Kinh Thánh khiến chúng ta nghĩ đến Tv 38, thánh vịnh này gợi lên nỗi cô độc của người tôi trung trong cảnh khốn cùng: “Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa” (Tv 38: 12).
6. Những phụ nữ xứ Ga-li-lê:
Thánh Lu-ca không quên kể ra sự hiện diện của những người phụ nữ xứ Ga-li-lê trên Đồi Sọ. Những người phụ nữ này đã luôn luôn đồng hành với Đức Giê-su, đã lấy của cải của mình mà giúp đỡ Ngài (Lc 8: 2-3).
MAI TÁNG ĐỨC GIÊ-SU (23: 50-56)
Theo phong tục tập quán Rô-ma, để việc răn đe có tác dụng, phải phơi bày thi thể của nạn nhân trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lận trên xác chết của nạn nhân, nhưng phải chôn cất trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22). Ngoài ra, buổi chiều hôm đó lại là ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng cử mọi công việc. Vì thế, phải vội vả chôn cất ngay kẻo không kịp.
1. Ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê:
“Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng”. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta, “ông là một người giàu sang”; còn thánh Mác-cô nói ông là “thành viên có thế giá của hội đồng”; trong khi Lu-ca lại nói ông là “một người lương thiện, công chính”, thánh ký thích đặt ưu tiên những giá trị luân lý. Với tư cách thành viên của Thượng Hội Đồng, “ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng”. Đây là điều chỉ dẫn quý báu: vì thế việc kết án Đức Giê-su không được mọi thành viên đồng thuận. Ông xuất thân từ A-ri-ma-thê, một thành phố duyên hải xứ Giu-đê. Ông định cư ở Giê-ru-sa-lem và đã cho đục ngôi mộ trong núi đá, ở một thuở vườn (Ga 19: 40) bên cạnh Đồi Sọ.
2. Cuộc mai táng Đức Giê-su:
Người môn đệ kín đáo này can đảm đến xin Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống khỏi thập giá để mai táng. Phi-la-tô chấp thuận theo luật Do thái, có lẽ vì ông quan niệm rằng nhập gia tùy tục; hơn nữa ông tin rằng Đức Giê-su vô tội.
Như vậy, Đức Giê-su, khi còn ấu thơ, đã được ẳm trong tay cụ già Si-mê-ôn, “một người công chính và sùng đạo”, “ông những mong chờ niềm an ủi của dân Ít-ra-en” (Lc 2: 25); bây giờ, khi chết, được ẳm trong tay ông Giô-xếp, “một người lương thiện công chính”, “ông vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa”.
“Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào trong ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ”. Hoa trái đầu mùa không phải thuộc về Thiên Chúa sao?
3. Ánh sáng Giê-ru-sa-lem:
“Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng”.
Trong Tin Mừng Lu-ca, có những yếu tố khó lường mà tác giả giải thích với một độ nhạy bén gần với độ nhạy bén của thánh Gioan. Vào lúc Đức Giê-su được đặt vào ngôi mộ, mọi nhà trong thành thánh Giê-ru-sa-lem bắt đầu lên đèn. Nét đặc trưng này nêu bật tính xác thực lịch sử hơn cái ý nhị của lời văn, nhưng nhất là nó có giá trị dấu chỉ. Khi Đức Giê-su bị bắt, Ngài tuyên bố: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22: 53). Khi Đức Giê-su chết, bây giờ là những tia sáng đầu tiên, tia sáng của ơn cứu độ, tia sáng hy vọng, những điềm báo cho vầng sáng phục sinh.
4. Những người phụ nữ ân cần:
Phận sự của các bà là chuẩn bị dầu và thuốc thơm để chăm lo thân xác của Ngài. Vì thế, những người phụ nữ xứ Ga-li-lê theo chân Đức Giê-su này để ý đến nơi đặt thi thể Ngài trong ngôi mộ; họ sẽ trở lại sau ngày sa-bát, thực hiện công việc đạo đức của họ. Trong khi chờ đợi, họ tuân giữ ngày hưu lễ.
5. Ngày sa-bát, ngày hưu lễ:
Thánh Lu-ca chấm dứt bài tường thuật của mình trên viễn cảnh của ngày hưu lễ. Chắc chắn mọi công việc phải ngừng lại đó là lý do giải thích tại sao những nghi thức tang chế còn dang dỡ, và vì thế các bà vội vả đến mồ khi trời vừa tảng sáng. Nhưng thánh Lu-ca kín đáo gợi ý rằng Đức Giê-su đã bước vào nơi an nghỉ, vì thế việc mai táng Ngài vào lúc sắp bắt đầu ngày sa-bát mặc một ý nghĩa. Ngay từ đầu, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo của Ngài, Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Công trình của Đức Giê-su không phải là một cuộc tạo dựng mới sao? Công trình này được hoàn tất. Chúa Giê-su vào nơi an nghỉ của Thiên Chúa, giai đoạn mầu nhiệm trước khi Ngài phục sinh.
BA TẤN THẢM KỊCH
Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.
1. Dân Ít-ra-en từ chối:
Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.
2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người:
Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.
3. Tấn thảm kịch của tội lỗi:
“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.
Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”. “Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.
Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mục tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.
Qua bài thương khó năm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta vô vàn đau khổ mà Đức Giê-su Ki-tô phải chịu vì tội lỗi chúng ta. Người ta đua nhau lên án Chúa Giê-su, xô đẩy Người vào chỗ chết.
Trước hết, “các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Chúa Giê-su” (Lc 22,2).
Biết trước những khổ đau hết sức khủng khiếp sắp giáng xuống trên mình, Chúa Giê-su “lâm cơn xao xuyến bồi hồi”, Người cầu nguyện khẩn thiết với Chúa Cha. Người kinh hoàng đến nỗi “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44).
Dù vậy, cả ba môn đệ thân tín được Chúa Giê-su đem theo Người vào vườn Dầu vẫn say ngủ li bì, không màng gì đến nỗi thống khổ Thầy mình đang chịu (Lc 22,45).
Kế đó, Giu-đa dẫn đầu một đám đông mang gươm giáo gậy gộc đến bắt Chúa Giê-su như bắt một tên gian ác (Lc 22,47). Các môn đệ còn lại bỏ trốn. Sau đó, Phê-rô theo Người xa xa nhưng rồi cũng đã chối bỏ Chúa đến ba lần. (Lc 22, 57. 58. 59). “Những kẻ canh giữ Đức Giê-su thì nhạo báng đánh đập Người” (Lc 22, 63). Còn “các thượng tế và kinh sư thì tố cáo Người dữ dội” (Lc 23, 10).
“Cả vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu” (Lc 23, 11).
Về phần mình, Phi-la-tô muốn tha cho Chúa Giê-su, nhưng dân chúng lại đòi: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!”
Khi Phi-la-tô tỏ ý muốn tha Chúa Giê-su lần thứ hai, thì dân chúng “cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!
"Lần thứ ba, ông Phi-la-tô biện minh rằng Chúa Giê-su không làm gì nên tội đáng phải chết, thì "họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội” (Lc 23, 20-23).
Thế là rốt cuộc, ông Phi-la-tô phải trao Chúa Giê-su cho họ. Họ bắt Người vác thập giá đến pháp trường.
Rồi khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái” (Lc 23, 33)
Các thủ lãnh, cả lính tráng cũng cười nhạo Người. Ngay cả một trong hai tên gian phi cùng chịu án thập giá với Chúa Giê-su cũng nhục mạ Người dù Người đang bị treo thân trên thập giá. (Lc 23,39)
Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn còn tiếp tục chịu khổ hình
Trước muôn vàn đau thương Chúa Giê-su phải chịu; trước bao lăng nhục, nhạo cười, phỉ nhổ trút lên Chúa Giê-su, những người con cái Chúa có đem lại cho Người một chút an ủi nào chăng hay đang đồng lõa với đám dân vô ơn để lăng nhục Người?
Biết bao lần con cái Chúa đã vô tình hùa theo quân nhạo báng để phỉ nhổ Chúa Giê-su khi gây ra những điều tai tiếng khiến cho khuôn mặt của Giáo Hội và Chúa Giê-su bị lem luốc thảm hại (như vụ lạm dụng tính dục nơi một số giáo sĩ mới được công bố gần đây).
Biết bao lần con cái Chúa đã quất những lằn roi xé thịt vào thân mình Chúa khi họ gây ra đau khổ hay thương tích cho người khác.
Biết bao lần con cái Chúa đã thọc sâu lưỡi đòng vào tim Chúa khi chạy theo xa hoa, lạc thú mà bỏ rơi bao người cùng khổ quanh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Khổ nạn Chúa chịu hôm xưa chắc chắn ít nhức nhối đau thương như khổ nạn mà Chúa đang chịu hiện nay.
Nỗi đau của Chúa càng tăng thêm vạn lần hơn khi chính con cái trong nhà lại trở thành những tên đao phủ, những người hành hình Chúa cách tàn bạo bằng vô vàn tội lỗi dưới mọi hình thức của mình.
Biết đến bao giờ chúng con mới cảm thương những đớn đau Chúa chịu do tội chúng con gây ra và biết rằng đã đến lúc phải dừng tay lại, không còn hành hình Chúa nữa?
Đọc lại Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng thứ tư của thánh Gioan, nhân loại sẽ chẳng bao giờ hết bàng hoàng, xúc động bởi vì một Đấng cứu tinh lại có thể bị kết án một cách thảm sầu, chết treo trên thập giá. Tuy nhiên, càng suy nghĩ, càng chìm sâu trong cầu nguyện, con người sẽ nhận ra rằng đây là cái chết hồng phúc của Chúa Giêsu.” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Vâng, đọc lại Tin Mừng, chúng ta nhận ra một Đức Kitô đầy lòng nhân ái, một Đức Kitô luôn yêu thương con người. Do đó, suốt đời sống công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã yêu thương mọi người, Ngài đã chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỉ, gần gũi những người nghèo khó, những kẻ tội lỗi, những người bần cùng bị xã hội đặt ra bên lề xã hội, Ngài đã dạy dỗ dân chúng, âu yếm yêu thương trẻ thơ, tha thứ cho những tội nhân. Hôm nay, theo ý định của Thiên Chúa Cha, Đức Kitô đã đi vào giai đoạn cuối cùng của đời Ngài: Ngài đã quyết định yêu nhân loại cho tới cùng, yêu cho đến chấp nhận đau khổ tột cùng và chấp nhận cái chết trên thập giá.
Đức Kitô đã được Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa ăn chay, tĩnh dưỡng và chịu để ma quỉ cám dỗ. Tuy nhiên, Tin Mừng cho hay, Ngài đã chiến thắng ma quỉ khi chúng đánh vào Ngài bằng ba phương diện hết sức thực tế, nhưng cũng rất thâm độc. Đó là vật chất, danh vọng và lòng trung tín đối với Chúa Cha biểu lộ qua đức khiêm nhượng của Ngài. Đức Kitô đã chiến thắng tất cả nhưng Tin Mừng lại viết: ” Quỉ rút lui để chờ dịp khác “ ( Lc 4, 13 ). Đây là cơn cám dỗ cuối cùng. Dịp khác, đó là ngày hôm nay, khi ma quỉ nhập vào môn đệ Giuđa, người tông đồ phản nghịch, ham tiền ham của đã dùng cái hôn để nộp Thầy mình. Ma quỉ sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo, để Phêrô chối Thầy đến ba lần và các môn đệ khác thì bỏ Thầy trốn tán loạn. Vườn Cây Dầu là nơi diễn ra giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự thiện và sự ác. Chúa Giêsu đã dùng lời cầu nguyện, liên kết mật thiết với Thiên Chúa Cha để thắng cám dỗ. Chúa Giêsu đã phải đương đầu với cuộc chiến nội tâm thật gay go, căng thẳng. Ngài đã xin Chúa Cha cất khỏi Ngài chén đắng nhưng không theo ý Ngài mà theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến nội tâm ấy đã làm cho Ngài xao xuyến, mồ hôi máu đổ ra. Đau khổ và đau khổ tột độ.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu luôn tỏ ra hiền hòa, quảng đại, bao dung. Ngài đã ra đón Giuđa và nhắc nhở Giuđa về nghĩa Thầy trò. Ngài chữa lành tên đầy tớ Mancô bị Phêrô chém đứt tai. Ngài nhìn Phêrô với ánh mắt nhân hiền, cảm thông và tha thứ cho Phêrô khi ông đang tâm chối Thầy. Ngài đứng lại an ủi những người phụ nữ đi theo khóc than, thương Ngài. Ngài xin Thiên Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm khổ và đóng đinh Ngài. Ngài thưởng thiên đàng cho tên trộm lành biết thống hối ăn năn.
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng yêu thương mọi người và đã hoàn thành ý định của Thiên Chúa Cha. Chúa đã yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người cho đến giọt máu, cho đến hơi thở cuối cùng.
Cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu là một cuộc tử nạn hồng phúc bởi vì Chúa đã hoàn toàn tự do, tự nguyện thực hiện kế hoạch yêu thương loài người của Thiên Chúa Cha. Nhờ cuộc tử nạn hồng phúc của Chúa mà muôn người được ơn cứu độ. Đúng như lời Ngài nói: ” Khi nào Ta bị giương cao lên khỏi mặt đất Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu Chúa hơn để chúng con luôn mến Chúa hơn là yêu bản thân chúng con vì Chúa đã yêu thương chúng con đến nỗi hy sinh chính mạng sống vì chúng con. Amen.
Đỉnh cao của Phụng Vụ Công Giáo khởi đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá, một Tuần Thánh và kết thúc bằng Chúa Nhật Phục Sinh. Người ta dễ nhận ra bầu không khí thánh thiêng, trầm lắng nơi các xứ đạo tạm gọi là truyền thống và toàn tòng. Tấp nập người đến tòa cáo giải. Rộn ràng chuyện nguyện ngắm cũng như chuẩn bị các nghi lễ của Tam Nhật Thánh. Dĩ nhiên các cây dừa, cây vạn tuế… đều chung số phận tả tơi cho một ngày Lễ mà hình như không ai chịu nỗi cảnh mình thiếu lá cầm tay. Nghi lễ nhiều, bài Thương Khó dài, thế là nhiều vị mục tử tự châm chước việc giảng giải Lời Chúa cách bình tâm như vại. Lễ dài, giảng nữa thì chỉ có dại. Lại có Đấng siêu nhiên hơn: Hãy để cho các nghi thức và chính các bản văn Lời Chúa trực tiếp nói với đoàn tín hữu.
Quả là những lập luận rất hữu lý. Thậm chí rất nhiều tín hữu còn vỗ tay hoan hô. Mới đây một đấng vị vọng ở Tòa Thánh đã khẳng định rằng một bài giảng ngày Chúa Nhật không nên qua tám phút! Bản thân thì nhận đây là một hình thức cường điệu (ngoa ngôn) để muốn nhắc nhở các mục tử quen thói giảng dài, giảng dai, giảng dại… Quy định con số tối đa mà là tám phút thì đúng là “nói quá”. Dù biết nghi thức dài, nhưng một vài chia sẻ ngắn gọn cũng không là vô ích hay phản tác dụng mà trái lại sẽ giúp tín hữu tham dự Thánh Lễ sốt sắng và ích lợi hơn.
Một vài tâm tình của Chúa nhật Lễ Lá:
1. Sáng nắng chiều mưa là chuyện bình thường của kiếp người. Vừa mới hồ hởi: “hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”, thì mấy ngày sau lại giơ cao nắm đấm hùng hỗ thét gào: “đóng đinh nó vào thập giá” là chuyện như không tưởng mà lại rất thật, đã xảy ra với đám đông dân chúng Do Thái ngày nào. Hãy cẩn trọng để giữ lòng mình khỏi sự đổi thay bất chợt kiểu nắng mưa. Không ai biết được tương lai và mọi sự đều là có thể. Chớ có thất vọng vì quá khứ đầy lỗi lầm và cũng đừng tự hào vì những công lao lẫy lừng của một thời hay sự đạo hạnh đang có.
2. Chiến thuật “cò mồi”: con dao hai lưỡi. Trước đây, khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ, thì dân chúng đã muốn tôn Người lên làm vua. Chẳng biết khi ấy các môn đệ của Người có làm “người cò mồi” không, nhưng trong chuyến khải hoàn vào Giêrusalem thì chính các môn đệ là những người đóng vai trò tác nhân chính khiến cho một vài Biệt phái tức tối thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!”(Lc 19,39).
Nếu cậy dựa vào “những người sống theo chiều gió” thì quả là nguy hiểm. Bởi chưng, gió đổi chiều nào thì họ sẽ ngã theo chiều ấy. Theo sự xúi giục của các Thượng tế và ký mục, đám đông dân chúng đã đổi ngược thái độ với Chúa Giêsu và “đồng thanh la to: Đóng đinh nó vào thập giá”(Mt 27,20-23). Một niềm tin, một đời sống đạo dựa trên phong trào hay lễ hội chắc chắn không bền.
3. Đã yêu thì không bao giờ chịu thúc thủ, chịu “bó tay”. Tình yêu đích thực đòi hỏi phải đến cùng. Chúa Kitô đã bày tỏ tình yêu đến cùng của Người bằng cái chết thập giá. Đôi tay Chúa Kitô giang ra, trái tim của Người mở ra đón nhận tất cả những gì là của nhân loại chúng ta. Người đón nhận sự hồ hởi, tán dương, mộ mến của dân chúng trước các lời dạy dỗ của Đấng có uy quyền, trước bao kỳ công Người thực hiện. Người đón nhận cả sự hận thù ghen ghét của nhiều người biệt phái, luật sĩ, của nhiều thượng tế và kỳ mục Do Thái giáo bấy giờ. Người còn nhận cả sự thay đổi thất thường kiểu nắng mưa của đám đông dân chúng, đón nhận cả sự phản bội bất trung của một Giuđa, của Phêrô và nhóm môn đệ thân tín. Chúa đón nhận tất cả để rồi lại trao ban điều tốt đẹp cho nhân trần.
Đôi tay Người giang ra, trái tim Người mở ra để trao ban tất cả những gì Người có và những gì Người là. Đó là lời chân lý từ miệng Người. Đó là các hành vi, cử chỉ yêu thương của Người xoa dịu nỗi đau thể lý và tâm linh cho nhiều người. Và cuối cùng đó chính là sự sống của Người. Khi trao ban chính sự sống thần linh của mình, thì Chúa Kitô đã đón nhận toàn thể nhân loại làm em của Người. Nhân loại được thứ tha. Con người được cứu sống.
Đã yêu thì không bao giờ chịu bó tay. Đã yêu thì quyết đi cho đến cùng và điểm đến cùng ấy chính là cái chết. Tình yêu mạnh hơn sự chết là thế đấy. Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Tình yêu Người dắt dìu ta vươn lên. Đã yêu là đi, đi mãi. Đã yêu là đi cho đến cùng.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương, Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả tình yêu đến tột cùng. Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã chẳng nhói: ”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo: ”Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài đã chỉ vẽ: đường thập giá: ”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ngài nơi chúng ta để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
1. Nói về đau khổ.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà (x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ: đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần. Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau: đau đớn có thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn, hoặc vừa đau đớn vừa đau khổ. Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn, mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế: Vừa sinh ra sao đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì. (Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người, nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài người thì được biết:
• 85% đau khổ là do người làm khổ người. • 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất… • 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy, mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
* Thiên Chúa giáo:
Theo nhiều bản kinh, nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng thời gian dự bị, thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm: ”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy: ”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Lm Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể: Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình trước đau khổ: coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không. Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng:
b. Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói:
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi ! * Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để đạt tới mục đích đó. Ví dụ:
Trời đất sinh ta âu hữu ý Khách tài tình nên trải vị gian truân, Một mai gặp hội phong vân. (Cao bá Quát) hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này: càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế, tr 108). Cũng một lẽ: chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời. 3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái; hoặc muốn được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này: ”Quả thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúa rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý kiến: ”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ). Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965). a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho ta ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ? Phải phân biệt:
- Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi ngay vì nó làm ta đau khổ.
- Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ? Con sò sẽ tiết ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh: chính nhờ cây thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn:
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người. Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng: Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”. (Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
Cuộc đời Chúa Giê-su dường như luôn chuẩn bị cho Giờ của Thiên Chúa. Giờ cứu độ. Giờ mà chính Chúa sẽ hiến mình làm của lễ dâng mình cho Chúa Cha và để cứu độ trần gian. Chúa đã từng nói “chính vì Giờ này mà Ta đến trong thế gian”. Và cuộc đời của Chúa Giê-su dường như lúc nào cũng có bóng thập giá. Thập giá đã thấp thoáng ngay từ ngày Chúa sinh ra. Hê-rô-đê đã kết án tử cho Chúa. Trong suốt ba năm rao giảng tin mừng, bóng thập giá luôn lấp ló trên mọi hành trình Chúa đi qua.
Nét đẹp nơi Chúa Giê-su khi phải đối diện với Giờ cứu độ chính là thái độ cương quyết dấn thân của Chúa Giê-su. Ngài không chùn bước. Ngài không sờn lòng. Ngài vẫn mạnh dạn tiến về phía trước. Ngài đã từng nhiều lần mời gọi các môn đệ: “nào chúng ta cùng lên Giê-ru-sa-lem”. Ngài biết rằng ở đó có thập giá, có khó khăn, có đau khổ đến với Ngài. Nhưng Ngài vẫn tiến bước, vì đó là sứ vụ của Ngài. Đó cũng là điều đẹp lòng Chúa Cha. Dầu trên hành trình này, Ngài đã tiến bước trong cô đơn. Dầu chẳng ai đủ can đảm theo Ngài, nhưng Chúa Giê-su vẫn phải uống chén đắng để vui lòng Chúa Cha.
Trong tin mừng hôm nay, thánh Luca đã miêu tả Chúa Giê-su thật sự cô đơn trong 12 giờ cuối cùng của cuộc đời. Các môn đệ ngủ vùi trong vườn cây Dầu và bỏ chạy khi đối diện với gian nguy. Các thành viên của thượng hội đồng Do Thái chống đối, âm mưu làm hại, môn đệ Giuđa phản bội, và cố gắng của Phêrô đã cố đi cho tới bên trong dinh thượng tế, nhưng đáng tiếc, ông không bênh vực Thầy mà đã chối bỏ Thầy mình, không chỉ một lần mà là 3 lần, dù rằng ông đã được nhắc trước về những gì sẽ đến với ông. “Ngay trong đêm nay khi gà chưa kịp gáy con đã chối Thầy 3 lần”.
Nhưng vượt lên trên sự bỏ rơi của các môn đệ, sự cô lập của các thế lực thù địch đó là thái độ bình thản của Chúa Giêsu trước các biến cố. Ngài hoàn toàn tự do để có thể lẩn tránh hay đón nhận. Ngài có thể khước từ chén đắng, nhưng Ngài đã đón nhận trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha. Tuy nhiên khi giờ đã đến, Ngài vẫn cảm thấy hãi hùng, xao xuyến. Ngài sợ hãi, vì viễn tượng chết vẫn vượt qúa những dự phóng của con người nên Ngài đã phải cầu nguyện. Cầu nguyện trong cô đơn, sợ hãi đến nỗi mồ hôi máu bịn rịn nơi thân thể Ngài. Qua đây ta thấy rõ hơn nhân tính của Ngài. Vì con người là yếu tố bất định trong lịch sử. Do đó Chúa Giêsu cũng không thể biết được ngày mai ra sao. Dòng đời sẽ xô đẩy Ngài đi đến đâu. Thực vậy, nếu Ngài biết thì không còn là con người nữa. Tất cả những gì đang diễn ra, Ngài đều phải cầu nguyện để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha. Đây quả là giờ của đau khổ, giờ của hãi hùng, giờ bị mọi người khước từ. Đây quả là chén đắng của cuộc đời. Chén chua chát bị ruồng bỏ, của nhạo báng, của cái chết, đến nỗi Ngài đã nại đến quyền năng vô biên của Cha: “Cha có thể làm mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng khi hiểu được đâu là thiên ý Ngài lại tiếp tục bình thản “xin đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bóng tối của lòng người, khi chúng ta nuôi dưỡng hận thù, tìm cách hãm hại anh em. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện bị trù dập và cô lập giữa xã hội mà công bình bác ái đã không còn công minh. Đồng tiền và quyền lực đã làm cán cân công lý bị bẻ gẫy. Người công chính, kẻ lương thiện vẫn là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nỗi chà đạp lương tri và nhân phẩm của bản thân và đồng loại. Con người ngày nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử hình người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con trong lòng mình một cách dửng dưng đáng sợ. Con người chỉ vì lòng tham, chỉ vì tính ghen tỵ, chỉ vì thói kiêu căng giả hình vẫn đang tìm cách làm hại cuộc đời của nhau. Bao lâu chúng ta còn nuôi dưỡng những ý đồ bất chính, những thủ đoạn gian tham, những ích kỷ nho nhen là bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và loại trừ. Và như thế, Đức Kytô vẫn lại phải chịu những bản án bất công mà con người dành cho Chúa. Đức Kytô vẫn tiếp tục bị cô đơn và khước từ giữa dòng đời này.
Hôm nay ngày khởi đầu tuần thương khó, mỗi người chúng ta hãy rà xét lại lối sống của mình để ăn năn thống hối về lời nói việc làm của mình, dù là vô tình hay hữu ý đã và đang gây đau khổ cho người khác. Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta ban ơn tha thứ và giúp chúng ta chỉnh sửa lại lối sống của mình cho xứng với lòng ăn năn sám hối. Amen
Đó là những lời chúc tụng, ca vang, ngợi khen Đức Vua Kitô khi Ngài tiến vào thành Jêruslaem. Dân chúng không được báo trước, chuẩn bị đón chào vị vua họ ngày nhớ, đêm mong có ngày được gặp. Hôm nay đây tình cờ trên đường đi, gặp Ngài, dù thiếu chuẩn bị nhưng không thiếu niềm vui. Không biết lấy gì đón chào vị cứu tinh. Họ nghĩ ra sáng kiến, cởi áo choàng trải đường, tay cầm cành lá mới bẻ bên đường làm cờ phất phới đón chào, nhảy múa điệu chân chim, miệng ca hát, reo hò, vui mừng, đón chào Đấng Cứu Thế.
Ghen tức
Dân chúng ca tụng Đức Chúa trong khi những kẻ chống đối Ngài lại bực dọc, giận dữ, ngăn cấm họ ca hát, nhảy múa.
Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Bình an trên trời cao, vinh quang trên các tầng trời.Luca c.38
Những câu này tạo nên sự ghen tức, bực dọc của các người lãnh đạo đương thời. Họ ra lệnh ngăn cấm dân chúng. Cho họ là những kẻ thất học, mất dậy. Đức Kitô lên tiếng
Tôi bảo thật các ông, họ mà làm thinh, sỏi đá bên đường sẽ reo hò. c.40
Uy phong Đức Chúa
Đức Kitô Vua dân Do Thái tiến vào thành Jêrusalem với một phong thái khác thường. Ngài không tiến vào thành với tiếng kèn, tiếng trống. Ngài không cưỡi chiến mã, cũng không có quân binh và các tướng lãnh, tiền hô, hậu ủng. Ngài vào thành một cách âm thầm, không kèn, không trống, cưỡi trên lưng con lừa nhỏ bé mượn của dân làng. Cùng tiến vào thành thánh với Ngài vỏn vẹn có 12 tông đồ, không gậy gộc, giáo mác. Có lẽ hàng ngũ cũng không thứ tự, kẻ trước người sau, lẽo đẽo bước theo Thầy. Quang cảnh đơn hèn thế không có uy nghi, sức mạnh của một quân vương. Đức Kitô không muốn thế. Ngài không muốn tách rời ra khỏi con dân Ngài yêu quí. Một Đấng Minh Quân không cai trị dân bằng roi sắt, sức mạnh nhưng dùng tình thương, dùng thứ tha để hoán cải. Ngài hoà đồng với đại chúng. Họ ca mừng, đón chào với tất cả tâm tình, tự nguyện, bộc phát, của những lòng thành, mộ mến, kính tin. Sức mạnh nào ngăn cản được nếu đám người tầm thường bé nhỏ kia bị cấm reo vui thì sỏi đá là vật vô tri, vô giác sẽ lên tiếng. Ai dịch được ý nghĩa tiếng thông reo bên rừng. Ai giải thích nổi tiếng suối reo sau cơn mưa lũ. Tiếng rì rào của gió biển vô nghĩa hay tiếng chúng ngày này qua năm nọ ca tụng Đấng dựng nên chúng.
Được ca tụng Đức Chúa là một ân huệ. Ngài không cần tiếng con người ca ngợi bởi vì lời ca ngợi không sinh ích gì cho Chúa.
Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời (Kinh tiền tụng chung số IV)
Vua muôn dân
Đức Kitô vào thành thánh không có lính tráng, quân canh nhưng có đám đông dân chúng tụ họp quanh Ngài, reo vang. Điều này cho thấy Ngài không là vua riêng cho một nhóm người, một dân, một nước. Ngài là vua vũ trụ, vua của đám đông. Vua của toàn thể nhân loại, bất kì ai thành tâm đều là con dân của Ngài như thánh vịnh 23 diễn tả
Ai được ở trong đền thánh của người Đó là kẻ tay sạch, lòng thanh, Chẳng mê theo ngẫu tượng, Không thề gian, thề dối…….. Đức Vua vinh hiển đó là Chúa tể càn khôn.
Tạm bợ
Đức Kitô biết tất cả những lời chúc tụng, tung hô trước Phục Sinh chỉ là tạm bợ, chóng qua, mau hết. Điều rõ ràng chúng ta nhận thấy ngay trong những lời tung hô của đám đông có pha lẫn lời dị nghị, phàn nàn. Gieo mầm chống đối đến từ nhóm lãnh đạo, nhóm cầm quyền cai trị trong tay. Chính kẻ cầm quyền châm mồi lửa, ngấm ngầm quạt cho nó bùng lên thành phong trào chống đối dẫn đến cái chết tàn bạo, khốc liệt mà Đức Kitô sắp gánh chịu. Nhóm lãnh đạo khơi mào chống đối rồi cũng chính họ ngồi toà xét xử. Kết quả phiên toà được định trước. Mọi tranh biện, tra hỏi chỉ là hình thức, giả dối.
Đức Kitô biết rõ mọi sự trên trần thế chỉ là tạm bợ. Con đường nào đi mãi cũng phải hết, kể cả đường khổ giá. Tiếng hoan ca nào cũng tàn, tràng pháo tay nào cũng nhỏ dần, tắt ngúm khi cánh tay mỏi, bàn tay rát. Vinh quang trần thế cũng vậy, bùng lên rồi tàn lụi. Mọi vinh quang trước Phục Sinh đều là tạm bợ, chóng qua, mau tàn.
Vinh quang thực sự Đức Kitô nhận từ Chúa Cha. Vinh quang mà Ngài nhận không phải bằng tiếng hoan ca của đám đông, không phải tràng pháo tay, hay điệu múa, câu hò. Vinh quang Đức Kitô giành được nhờ chiến thắng tử thần, đè bẹp tội lỗi, sống lại từ cõi chết. Nói cách khác vinh quang sau Phục Sinh là vinh quang được chính Chúa Cha ban cho. Chính vinh quang này mới thực sự là vinh quang trường cửu. Vinh quang chiến thắng sự chết. Sự chết bị tháo lui nên vinh quang đó không bao giờ chết.
Người chuyên bị bách hại hoặc nạn nhân là nhân vật được biết đến đối với tất cả chúng ta. Những cá nhân này tận hưởng hàng loạt sự tự thán, thảm trạng và quả quyết tin rằng “sự hành hạ” của họ là bởi vì họ chân chính còn những người khác là bất chính, bỉ ổi. Họ sẽ đứng ra đấu tranh cho những gì là lẽ phải trong khi người khác hành động trên lợi ích cá nhân hoặc tham nhũng thối nát. Nhưng không thường như thế, họ chịu đau khổ vì những ý kiến, những định kiến và cách ứng xử của chính họ đó là sự tự tin và không khoan nhượng.
Thời đại của chính chúng ta trôi nổi những tiên tri tự phong y như thế - vậy làm thế nào chúng ta nhận ra đâu là bài báo, điều mục chính thống? Chúng ta có thể quay lại đoạn trích từ Isaiah, vì “Người Tôi Tớ Khổ Đau” – với sự nhấn mạnh từ “tôi tớ” – là mô thức cho tất cả những ai nói về sự bảo hộ của Thiên Chúa. Trên hết tất cả, người tôi tớ ấy sẵn sàng từ bỏ bản ngã và những xét đoán cá nhân. Điều này cho phép người tôi tớ lắng nghe một cách thực tế tiếng nói của Thiên Chúa – thường bị nhầm lẫn với những xét đoán cá nhân và kết tội của con người. Trong thực tế thông điệp mà người tôi tớ nhận lãnh thì thường là sự chấn động hoặc thử thách. Và phương thức điển hình đó nó được biểu đạt thông qua những ngôn từ của hy vọng và khuyến khích động viên – cam chịu sự mệt mỏi với một từ. Nhận thức tiềm ẩn của sự sống đã hướng dẫn và giáo huấn từ mạch nguồn thiêng liêng trở thành một nguồn lực vô biên cần thiết để đối phó phe nhóm đối lập và tổ chức đối kháng mà chắc chắn sẽ đến.
Hai điều cần phải tránh bằng mọi giá. Điều thứ nhất là hèn hạ và nhu nhược khi đứng trước sự đối kháng mà gây cho người ta phải đầu hàng. Điều thứ hai là kiêu ngạo khẳng định mình là đúng có thể dẫn con người đến lăng mạ, công kích và hậu quả là từ bỏ những đường lối mà thế giới đang thực hiện. Người đầy tớ đau khổ chân chính là người đầy tớ cam chịu vì những lý do chính đáng và nhu cầu bản ngã không phải là một trong những lý do đó.
Nhiều người tin rằng sự khiêm hạ và loại trừ bản ngã là dấu hiệu của nhu nhược và là một lời mời cho sự thống trị và áp bức. Nhưng cuộc đời của Chúa Giê-su đã chứng tỏ sự đối lập: hãy từ bỏ địa vị, đặc ân, an toàn và quyền lực không chỉ là giải phóng mà còn là nâng cao vị thế một cách thiêng liêng. Thậm chí không gắn bó với địa vị thiêng liêng và cao cả của Người, Chúa Giê-su đã chấp nhận thân phận loài người – ngay cả thân phận của một người nô lệ - và chấp nhận con đường dẫn đến cái chết trên thập giá. Nhưng sự phó mặc này chính là ý định của Thiên Chúa và là sự tận tụy không nao núng đối với sự thiện hảo của tha nhân, và đó là khí cụ cao quý của Người. Và vì thế, nó ở cùng chúng ta: thường đó là lo sợ tổn thương và mất mát mà cản trở chúng ta khỏi cương vị môn đệ nhiệt thành và phục vụ tha nhân. Nhưng ở một nơi nào đó trong Tân Ước đã nói với chúng ta rằng tình yêu hoàn hảo xua tan sợ hãi.
Tất cả những điều này là bằng chứng hiển nhiên trong cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta có thể hỏi: tại sao Chúa giê-su đã phải chịu đau khổ và tại sao chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó này hàng năm? Cuộc thương khó và đóng đinh trên thập giá không phải là đối tượng thuộc sứ mệnh của Người cũng chẳng phải sự đau khổ thiện hảo tự thân. Sự đau khổ không nên thần thánh hóa hoặc thi vị hóa – điều này rất dễ có thể dẫn đến áp bức và bất công. Sứ vụ của Chúa Giê-su là chứng tá những đường lối của Thiên Chúa – bác ái, công lý và hiệp nhất – trong sự trung kiên và phương thức không dao động. Người phải chịu những xét đoán, truyền thống, định kiến của loài người thử thách cùng những sợ hãi trong niềm hy vọng bắt đầu hoàn toàn ló dạng và giải phóng tâm trí và tâm hồn của những ai mà Người đã bất ngờ gặp gỡ. Thậm chí tại bữa tiệc ly (cuối cùng) và hơn thế nữa Người sẽ phải thực hiện với những yếu đuối loài người điển hình trong những người xung quanh: mánh khóe lừa bịp và thừa nhận, phản bội, những hành động bạo lực cùng lời lẽ cũng như việc đối xử tàn ác của cong người.
Chúa Giê-su đã phải chịu đau đớn để nhận ra không nhiều những môn đệ của Người đã hiểu Người như thế nào và hấp thụ tấm gương cùng những lời giảng huấn của Người. Mà thậm chí trên thập giá Người khước từ để nhượng bộ trước những lối cư xử của con người: thay vì giận dữ và trả thù, Người tha thứ cho những ai chịu trách nhiệm về cái chết của Người – một điển hình cao cả về sự đầu hàng tuyệt vời của cái tôi trước Thiên Chúa. Lễ kỷ niệm của riêng chúng ta về sự thương khó của Đức Chúa không nên tập trung hoàn toàn vào sự đau khổ của Người. Lý do khổ nạn của Người – lòng trung thành trước sứ mệnh của Thiên Chúa – có tầm quan trọng cao cả hơn. Và đó là tiếng gọi tới tất cả mọi tín hữu đối với cương vị môn đồ - đừng đau khổ vì lợi ích riêng của mình mà phải gạt cái tôi sang một bên, an toàn và thư thái vì lợi ích, hạnh phúc của thế giới và những người đang hiện hữu.
Hôm nay Chúa nhật Lễ Lá, Giáo hội tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được mọi người tung hô là con vua Đavít. Dân Do Thái vẫn hy vọng Người làm một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của người La mã. Nhưng Người đã không đáp ứng niềm hy vọng đó. Người chỉ muốn một cuộc giải phóng tâm linh đó là hòa giải nhờ thập giá, biểu tượng của tình yêu và sự tuân phục. "Mọi sự đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người" (2Cr 5,18). Hòa giải là một sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là chủ xướng, còn chúng ta là người được hưởng công trình hòa giải đó. Đây thực là một sáng kiến tràn đầy ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.
"Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà chúng ta được hòa giải với Người" (Rm 5,10). Hòa giải chính là ơn cứu độ Thiên Chúa thực hiện khi chúng ta còn là tội nhân và thù địch với Người.
"Nhờ thập giá Người đã làm cho đôi bên - dân Do Thái và dân ngoại - được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất" (Ep 2,15). Không thể có hòa giải với Thiên Chúa nếu không có hòa giải với anh chị em mình. Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với chính Người và giữa chúng ta với nhau. "Nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ tại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23-24).
Vì Thiên Chúa đã làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Đức Giêsu, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình" (Cl 1,19). Hoa trái của hòa giải là sự bình an cho muôn loài dưới đất và muôn vật trên trời (Cl 1,22). Thiên Chúa là bình an cho mọi người, mọi người là bình an cho nhau.
"Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" (Pl 2,8). Đức Giêsu đã hòa giải thế gian với Thiên Chúa bằng tình yêu và sự vâng phục. Thập giá là dấu chỉ của hận thù, của xung đột. Đó là nơi mà lòng ghen ghét đã lên đến đỉnh cao. Đó cũng là nơi sự kiêu ngạo, sự khước từ Thiên Chúa thể hiện rõ nét. Khi đóng đinh Đức Kitô trên thập giá, con người đã đóng đinh tình yêu và sự vâng phục. Ađam xưa đã phạm tội nguyên tổ khi khước từ và bất tuân phục Thiên Chúa. Nhưng thập giá không phải là tận điểm. Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu phục sinh.
Như thế thập giá Đức Kitô là một lời mời gọi phải hòa giải. Hòa giải với Thiên Chúa. Thập giá Đức Kitô đứng giữa trời đất bao la như giao hòa đất với trời, con người tội lỗi với Thiên Chúa.
Hòa giải với anh chị em mình. "Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa" (2Cr 5,20).
Bí tích Thánh tẩy là một sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa. Bí tích này mang lại ơn hòa giải đầu tiên với Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm hòa giải của Đức Kitô tử nạn và phục sinh trong cộng đoàn Giáo hội, một cộng đoàn qui tụ trong và quanh Đức Kitô. Được hoà giải trong bí tích Thánh Thể, các chi thể của thân mình Đức Kitô trở thành những tôi tớ phục vụ sự hòa giải giữa loài người, đồng thời trở thành những chứng nhân của niềm vui Phục sinh.
Lạy Chúa, Thập giá là khổ đau, là bất tuân phục, nhưng thánh giá cứu độ, là hoà giải với Thiên Chúa và với nhân loại.
Đôi khi có quá nhiều thập giá trong cuộc sống, thập giá làm người khác khó chịu. Đây thực là một khổ tâm. Thập giá đó không phải là thánh giá, Thánh giá là bác ái.
Lạy Chúa, chúng con không hiểu rõ mình đang mang gánh nặng của thập giá hay sự cứu độ của thánh giá trong đời sống mỗi ngày. Xin cho chúng con biết lãnh lấy thánh giá của hoà giải và bác ái trong đời sống chúng con.
Ngày xưa, khi còn ngồi ghế nhà trường tiểu học, chúng tôi thường hát bài suy tôn Ngô Tổng Thống trước khi vào lớp: “Ai bao năm vì dân nước quên thân mình. Cứu đất nước, thề tranh đấu cho tự do …” Tiếng hát làm sống lại cả một tuổi thơ đầy mơ mộng trong tôi. Những ngày tháng đó thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ cho Tổng Thống dẹp yên những bạo loạn và đặt nền tảng cần thiết cho cuộc sống tự do cho toàn dân .
Nhưng khi chưa kịp bước vào tuổi trưởng thành, tôi đã trải qua những đêm lịch sử kinh hoàng cho Tổng thống và dân tộc. Ngày 26.10.1963 vinh quang Tổng Thống lên tột đỉnh, sau khi được tái đắc cử. Không đầy một tuần sau, ngày 01.11.1963, Tổng Thống đã gục ngã trên vũng máu đào cùng với bào đệ trong hầm tối.
Tổng thống là một Kitô hữu. Cuộc đời ông khác gì Thày Chí Thánh ? Từ vinh quang giữa rừng người cầm lá, trải khăn trên đường đón tiếp tung hô, đến cái chết tủi nhục tang thương trên Thánh giá, Đức Giêsu chỉ có một thời gian rất ngắn để sống bình an trên mặt đất. Vinh quang trần gian nào chẳng đầy quyến rũ ? Đau khổ nào chẳng là ma lực trấn áp con người ? Đó là hai lằn đạn. Cả nhân loại bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn đó. Chúa Giêsu cũng là con người, nên cũng không thoát khỏi thân phận đó.
Trong khi nhiều người ngã gục giữa hai lằn đạn, tại sao Chúa Giêsu đứng vững ? Giữa cảnh tưng bừng nhộn nhịp “gần chỗ dốc xuống núi Ôliu,” (Lc 19:37) Chúa xuất hiện như Vị Thiên Sai. Tất cả dân chúng và đoàn môn đệ tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa !” Bước đi giữa cảnh nườm nượp cành ôliu và trên các tấm áo choàng dân chúng trải xuống mặt đường, chắc chắn các ông không thể không nghĩ tới vị trí hai bên tả bên hữu trong Vương Quốc Thày. Trước đó ít lâu, “các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm đươc coi là người lớn nhất.” (Lc 22:24). Nếu có cùng tâm trạng với các môn đệ như thế, Thày đã sa vào chước cám dỗ trong hoang địa rồi.
Rõ ràng ngay giữa những thành công, Người vẫn nhất quyết chọn theo hướng Chúa Cha. Người đang muốn mọi người rời xa thứ vinh quang mau qua và giả tạo nơi trần thế. Sứ mạng của Người hướng mọi người tới “bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời !” (Lc 19:38) Thật khác hẳn những gì các tông đồ vẫn mơ mộng.
Chỉ có vinh quang Thiên quốc mới đủ sức thúc đẩy Người vượt trên những giới hạn tầm thường của kiếp người và mạnh dạn vác Thánh giá lên tận đỉnh đồi Canvê. Người chìm ngập trong đau khổ và uống chén đắng đến giọt cuối cùng. Chén đắng đó có đủ mùi vị của kẻ thù lẫn người thân. Nếu Giuđa không phản bội, kẻ thù cũng không biết cách nào hại Thày. Khuôn mặt môn đệ thân tín như Phêrô cũng in đậm nét bất trung khi ngang nhiên chối Thày tới ba lần. Những con người phản bội như thế làm Thày đau khổ gấp mấy lần kẻ thù ! Mặc dù đã tiên liệu, Thày cũng không tránh khỏi đau khổ.
Đau khổ do kẻ thù gây ra cũng có nhiều hình thức khác nhau. Có những đau khổ tinh thần như những lời nhạo báng, xúc phạm đến chính sứ mệnh tiên tri của Chúa. Hạng vô lại và thất học lại dám cả gan nhục mạ Đấng Toàn Tri ! Hạng lãnh đạo cũng không khá hơn. Họ lợi dụng khả năng và địa vị để xuyên tạc và vu cáo Người như một tên bạo loạn chống chính quyền. Trước những cật vấn của bọn cầm quyền, Người không hề run sợ. Người vẫn giữ thái độ thinh lặng, mặc cho những trận cười chế diễu và thái độ khinh dể trong triều đình Hêrôđê. Sự đau khổ tinh thần lên đến tột độ khi Chúa bị mọi người hạ nhục. Số phận Người không bằng một tên cướp. Họ la hét đòi giết Người cho bằng được ! Tới giờ linh thiêng nhất trên thập giá, Người vẫn còn phải trải qua những cơn thách đố ghê rợn về chính sứ mạng Thiên Sai và địa vị cao cả nhất của Người.
Còn những đau khổ nơi thân xác Chúa, bút mực nào tả xiết ?! Người đã bị bắt như một tên cướp, trong khi Người là Đấng công chính ! Những trận đòn tan xương nát thịt xối xả tuôn xuống thân xác gầy gò của Người. Những vết thương bật máu rải đều khắp thân thể. Cây Thánh giá ngàn cân vừa đè nặng vừa ghì chặt Thân Người bằng những mũi đinh nhọn. Từ đỉnh đầu tới bàn chân, không chỗ nào không rướm máu. Thật khủng khiếp ! “Quyền lực tối tăm” (Lc 22:47) nhất trí đẩy Người ra khỏi cõi sống.
Nhưng có chết đi, Người mới đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. Bước theo Người, các vị tử đạo đã trở thành “niềm hy vọng cho thế giới, vì họ làm chứng cho mọi người biết rằng tình yêu Đức Kitô mạnh hơn bạo lực và hận thù.” [1] Người Anh Cả đã hành động phi thường để chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và đàn em đông đúc.
Nhờ tình yêu đó, Người đứng vững giữa hai lằn đạn ! Chính nhờ Thần Khí, Người kiên vững giữa bao cơn phong ba bão táp. Thánh ý Chúa Cha xác định Người là Con Thiên Chúa và đã được Chúa Cha tuyển chọn làm Đấng Cứu độ muôn dân (Lc 9:35) nhờ Thánh giá, một chứng từ mãnh liệt nhất cho tình yêu. Thánh giá trở thành lời nói vượt trên mọi ngôn từ. Lời nói đó chính là tình yêu Đấng Vĩnh hằng ban tặng cho dân Người, cho mọi người và mỗi người, cho từng người chúng ta. Thánh giá cũng là dấu chỉ sự vâng phục tuyệt đối Thánh Ý Chúa Cha. Nhờ đó, giữa những cơn thử thách lớn lao, Người vẫn hiên ngang xác định mình là “Con Thiên Chúa,”(Lc 22:70-71)“ là Mêsia, là Vua nữa.”(Lc 23:2-3)
Ngay khi Người vừa tắt thở, “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Người này đích thực là người công chính !’” (Lc 23:47) Tại sao lời tôn vinh này lại được đặt vào miệng viên sỹ quan ? Hẳn ông đã điều động toán lính thi hành việc bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Chúa Giêsu. Trước khi dẫn Tử tội ra pháp trường, chắc chắn ông đã đọc kỹ bản án. Nhưng sau chứng kiến tất cả những gì đã diễn ra trước và sau cuộc hành hình, ông nhận thấy Tử tội là nạn nhân của những âm mưu đen tối bất công và chính sách bất công. Lời tôn vinh đó trở thành lời phủ nhận tất cả những tố cáo trước kia của giới lãnh đạo cũng như quần chúng. Tất cả sự thật đã được phơi bày.
Đức Giêsu đã sống và chết như người công chính. Người dám chết để nói lên tiếng nói của những người thấp cổ bé họng trước bọn cường quyền và đám đông ngông cuồng. Dù không làm chính trị, Người vẫn chết cho quyền làm người và làm con Chúa. Người chết cho tự do con người !
Lạy Chúa, giữa cơn khát vọng nhân quyền hôm nay, xin cho chúng con biết phải làm gì cho dân tộc và giáo hội chúng con. Dù đang ở giữa quê hương hay lưu lạc khắp bốn phương trời, xin cho chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa và hăng say hành động theo tiếng gọi và sự thôi thúc của Chúa cũng như của quê hương. Xin cho tất cả mọi phán đoán, mọi kế hoạch, mọi hành xử của chúng con đều khơi nguồn từ cầu nguyện. Xin đừng để chúng con hành động vì danh lợi cá nhân, nhưng chỉ nhằm phục hưng Dân Chúa và dân tộc chúng con.[2] Amen ________________________________________ [1] ĐGH Bênêđictô XVI, Zenit 25.03.2007. [2] Theo Hoàng Quý, “Nêhêmia, Gương Mặt Lãnh Đạo Giáo Dân,” Tiengnoigiaodan.net 28-03-07. Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Chắc chắn rằng trình thuật Thương Khó được đọc lại trong Chúa nhật hôm nay là phần nòng cốt sơ khởi của Tin Mừng. Các tác giả đã cùng hướng về một biến cố rất đơn giản, nhưng đầy bi tráng, và cố gắng thuật lại cuộc Thương Khó. Các ông đã nỗ lực minh chứng rằng Kitô giáo không phải là một hoạt động phản loạn hay hình sự. Các ông đã tố giác âm mưu đẩy Đức Giêsu đến chỗ chết đồng thời cũng cho thấy sự vô tội của Người Tôi Tớ bị các tội nhân đóng đinh thập giá.
Qua các trình thuật này, dân Ít-ra-en khám phá ra những điểm trùng hợp giữa cái chết của Người Tôi Tớ và những lời Thánh Kinh. Những lời này đã được nên trọn, không chỉ qua biến cố chính, nhưng cả trong những chi tiết. Trình thuật Tin Mừng cho biết bối cảnh lịch sử của cuộc Thương Khó là dịp cử hành lễ Vượt Qua của người Do-thái. Vì thế, cuộc Thương Khó chính là một hy lễ, một nghi thức mới của giao ước thay thế cho việc tế sát con chiên. Sau cùng, trình thuật cũng nêu lên mẫu gương về đức khiêm nhường, việc cầu nguyện, sự nhẫn nhục và những đau khổ của Đức Giêsu. Đó là con đường dành cho Hội Thánh.
Ngoài ra cũng nên để ý đến một vài yếu tố khác được xếp đặt trong biến cố thập giá: mối tương quan giữa Đức Giêsu và Giu-đa giáo; nguồn gốc, bản chất và sứ mạng của Hội Thánh; vai trò của các Tông Đồ nói chung và cách riêng của ông Phê-rô.
Như cành Ô-liu
Hôm nay là Chúa nhật của cây Ô-liu - Chúa nhật Ô-liu: những cành Ô-liu, núi Ô-liu. Cây Ô-liu vẫn là biểu tượng cho hoà bình, cho bình minh trong sáng và êm đềm. Nó vẫn xuất hiện ở mỗi khúc quanh của bản văn Tin Mừng hôm nay.
Trong tiếng ồn ào đang làm náo động thành phố Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành, khi Người bị bắt, bị xét xử và tiến lên đồi Can-vê, cây Ô-liu nhắc lại rằng tất cả những điều ấy đều khởi đầu ý nghĩa từ ngôi vườn chan hoà ánh sáng êm dịu của mặt trời ngày Vượt Qua.
Cây Ô-liu chính là Đức Kitô. Chỉ mình Người biết được tính khắc nghiệt của cuộc Vượt Qua cũng như vinh quang ở cuối hành trình. Không phải là Người không rung động, nhưng Người bình tĩnh đợi chờ.
Chung quanh Đức Giêsu, người ta xô lấn nhau và xô lấn Người. Dân chúng hoan hô: "Chúc tụng Đức Vua", và ít giờ sau, họ lại hô to: "Giết nó đi, giết nó đi !" Ông Phê-rô quả quyết là hết lòng theo Người, "sẵn sàng vào tù, chết cũng can đảm", nhưng lại bỏ rơi Người.
Trong tất cả những sự kiện ấy, Đức Kitô vẫn luôn tỏ ra Người là Thầy, là Người Tôi Tớ. Người xin Chúa Cha tha thứ, yên ủi, nâng đỡ.
Nếu có câu nào cần ghi nhớ, có lẽ sẽ là câu nói của Đức Giêsu với ông Phê-rô: "Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho cho các anh em của anh nên vững mạnh."
"Một khi đã trở lại" từ những sai lầm, từ những nghi ngờ, từ những thay đổi, từ những cám dỗ về quyền lực, từ những ý nghĩ u ám về cuộc sống, từ tính ích kỷ ... Một khi đã trở lại với Tình yêu, với sự thật ...
"Hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh", chính là hãy làm cho họ trở thành những người biết tin tưởng vào tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, những người mến yêu Sự Sống, những người luôn vui tươi trước những điều phật ý, những người trong sáng trước những biến động của cuộc sống. Hãy đưa tay nâng đỡ họ để tất cả anh em được hưởng sự sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ, sự sống đã trào vọt từ một ngôi mộ vào buổi sáng ngày lễ Vượt Qua.
Với mọi người, giữa những sợ hãi và tủi nhục, giữa những cô đơn và muộn phiền, Đức Kitô luôn nhắc lại lời mời đã được ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói trước: "Hãy trở lại và được sống."