Lm Vũđình Tường Phúc Âm không ghi lại cho biết vị nào tổ chức cuộc họp, do ai hẹn ai. Chúng ta chỉ biết là có MC 2-ABC451
Phúc Âm không ghi lại cho biết vị nào tổ chức cuộc họp, do ai hẹn ai. Chúng ta chỉ biết là có cuộc gặp mặt trên núi thánh giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elijah. Sau đó có tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây kêu gọi môn đệ hãy ‘Vâng nghe lời Ngài’. Cuộc gặp mặt lần nữa xác định Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Ngài vác thập giá hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại.
Tuần trước Thánh Thần Chúa dẫn Đức Kitô vào hoang địa. Ngài chịu cám dỗ sau bốn mươi ngày chay tịnh. Tuần này Đức Kitô chủ động, Ngài dẫn môn đệ lên núi thánh. Kinh nghiệm quí hiếm một đời không gặp, Đức Kitô dành riêng cho các môn đệ. Các ông được Đức Kitô ban ơn riêng. Các ông gặp tổ phụ Môisen, tiên tri Elijah và được nghe tiếng Chúa Cha phán bảo. Đức Kitô mặc khải vinh quang cho các môn đệ. Có khác biệt về vinh quang Thiên Chúa và các tổ phụ. Tổ phụ nhận vinh quang từ Chúa; trong khi chính Đức Kitô là nguồn vinh quang sáng hơn chớp trời sáng toả. Môisen sống một ngàn năm trăm năm trước Đức Kitô; tiên tri Elijah sống chín trăm năm trước Đức Kitô. Sự hiện diện của hai vị xác định sự thật niềm tin Kitô hữu. Đó là sau cuộc sống trần gian, còn cuộc sống mới sáng chói, chan hoà niềm vui, cho những ai tin theo Thiên Chúa.
Môisen và Elijah mỗi vị đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ dân Chúa. Môisen nhận Mười Điều Răn Chúa ban trên núi Sinai; Elijah đại diện cho tiên tri mọi thời đại. Tiên tri rao giảng tình yêu vô bờ Chúa dành cho toàn dân. Tiên tri kêu gọi con người thống hối, từ bỏ lối sống sa đoạ, trở về đường công chính. Tiên tri bị chế nhạo, phỉ báng. Tiên tri sống cho Chúa; sống là nhân chứng trung thành; chết làm sáng Danh Thiên Chúa. Đức Kitô một mình Ngài hoàn thành tất tốt đẹp hai vai trò. Thứ nhất là vai trò tiên tri; thứ hai là vai trò chính Ngài là Con Thiên Chúa. Tiên tri kêu gọi thống hối nhận ơn thứ tha, ơn cứu độ. Đức Kitô, Đấng có quyền ban ơn tha thứ, và ban ơn cứu độ. Tiên tri vác thập giá của chính mình bước theo Thiên Chúa. Đức Kitô vác thập giá thay nhân loại làm hoà cùng Chúa Cha. Tiên tri chết. Chúa ban sự sống trường sinh. Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban ơn trường sinh cho ai tin, bước theo Ngài.
Thánh Luca ghi lại cuộc đàm đạo giữa Đức Kitô và các tổ phụ. Cuộc đàm đạo tóm gọn hai sứ vụ Đức Kitô trong một câu vắn gọn.
Các vị ‘nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Jerusalem’ Lc 9:31
Hai chữ ‘xuất hành’ và ‘Jerusalem’ đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ câu nói. ‘Xuất hành’ chính là nhắc lại hành trình vượt qua Biển Đỏ Môisen dưới sức mạnh và ơn Chúa soi sáng dẫn dân Israelites thoát ách nô lệ bên Ai Cập để vào miền Đất Hứa. ‘Xuất hành’ của Đức Kitô chính là nói đến ơn Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi chết muôn đời. Thập giá Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài sống lại ban sự sống trường sinh cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’, tin theo, bước theo. Jerusalem chính là nói đến cuộc thươngg khó, Đức Kitô bắt đầu tại Jerusalem và hoàn thành sứ mạng cứu độ cũng tại Jerusalem.
Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây phán bảo môn đệ ‘Hãy vâng nghe lời Ngài’. Lc 9:35. Vâng nghe ba lần Đức Kitô tiên báo cuộc thương khó.
‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kì mục, Thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trôi dậy’ Lc 9: 22.
Ngay sau đó Đức Kitô phán bảo môn đệ: ‘Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo’ Lc 9: 23
Vâng nghe lời Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng Chúa tuyển chọn, chính là vâng nghe lời của chính Thiên Chúa. Vâng nghe bằng cách vác thập giá, bước theo.
Ngày lễ Chúa Biến Hình ban cho con tim các môn đệ niềm vui dạt dào. Các ông tràn ngập hạnh phúc, dù chỉ được nếm thử một chút vinh quang Thiên Chúa, các ông đã mong mỏi lưu lại đó luôn mãi. Các ông được ơn đặc biệt nếm thử ‘Miền Đất Hứa’ của sống trường sinh. ‘Miền Đất Hứa’ này Chúa ban cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’. Chúng ta dâng trọn con tim cho Đức Kitô để cuối đời vào ‘Miền Đất Hứa’.
-------------------------------- MC 2-ABC452: CHÚA GIÊSU VÀ TRÀO LƯU BIẾN HÌNH
Quỳnh Thoại
“Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh, chói lòa” (Lc 9,29)
Trào lưu biến hình Ngày nay, chúng ta không lạ gì với những ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, đặc biệt là trào lưu biến MC 2-ABC452
Ngày nay, chúng ta không lạ gì với những ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, đặc biệt là trào lưu biến hình trên tiktok. Ứng dụng này đã thu hút lượng lớn những người theo dõi và sử dụng chúng như một phần sinh hoạt hằng ngày. Và cũng với ứng dụng này, người xem được mãn nhãn với màn biến hóa thần tốc từ dung mạo bình thường sang thần thái vô cùng sành điệu chỉ bằng một cái vỗ tay, hay một cái đạp chân trước ống kính camera.
Câu hỏi được đặt ra là: những ứng dụng này đã đáp ứng nhu cầu cốt lõi gì nơi những người đang theo dõi và sử dụng chúng? Phải chăng vì con người với tính hiếu kỳ luôn muốn trải nghiệm những gì mới mẽ, nhất là đối với những ai yêu thích công nghệ và giải trí. Hoặc có thể khi một bức ảnh được qua chỉnh sửa thì trông sẽ bắt mắt hơn, thú vị hơn, và sáng đẹp hơn ảnh gốc…Và càng đi vào tìm hiểu sâu xa hơn nữa những lý do bên trong của con người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, sở dĩ những ứng dụng này luôn được đón nhận và thường xuyên sử dụng là do bởi nhu cầu bản thân muốn được người khác đón nhận, và để ý một cách tích cực nhất, đẹp đẽ nhất. Vì theo lẽ thường, ai cũng muốn xây dựng cho mình một hình ảnh thật đẹp, thật xinh tươi và dễ thương trong mắt người khác. Vậy nên những ứng dụng công nghệ kể trên mới được ứng dụng rộng rải bằng những cập nhật mới liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu này của con người.
Chúng ta có thể kể ra một vài ứng dụng biến hình với các phiên bản như: hất tóc biến hình, đá chân biến hình, chỉ tay biến hình…rồi giờ là biến hình thành siêu nhân giải cứu thế giới…Người chơi càng ngày càng bị cuốn vào ánh hào quang của những hiệu ứng màu sắc, âm thanh, và ánh sáng mà xa dần phiên bản đời thực của chính mình…
Chúa Giêsu biến hình
Hôm nay, Chúa Giêsu như hòa vào trào lưu biến hình của con người hôm nay. Nhưng khác với mọi cuộc biến hình trên các nền tảng mạng xã hội, Ngài biến hình trong sự đồng hành của Mô-sê và Elia, hai nhân vật trong Cựu Ước, như đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Ngài biến hình không bởi ánh sáng của những chiếc đèn màu rực rỡ nhưng trong đám mây. Ngài cũng không biến hình với tiếng nhạc xập xình nhưng bằng tiếng nói của Chúa Cha: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người!” (Lc 9,35).
Và điều đáng nói hơn ở đây, đó là: Các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan không chiêm ngắm việc biến hình này qua màn ảnh nhỏ của chiếc smartphone, với một sản phẩm đã hoàn tất. Các vị này chiêm ngưỡng Chúa Giê su biến hình một cách trực tiếp, và sống động, sống động đến nỗi dù đem đến cho các ông sự thích thú muốn được dựng lều để chiêm ngắm mãi vinh quang Chúa, nhưng cũng làm các ông “hoảng sợ, và nín thinh đến tận mấy ngày sau, không dám kể cho ai biết về những điều mình đã thấy…” (Lc 9,34). Vì sao vậy? vì dung mạo Chúa quá khác biệt với những gì các ông đã thấy hằng ngày, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (Lc 9,29) Có thể các ông đã kinh nghiệm chút nào đó thiên tính của Thầy mình, điều vượt quá trí tưởng tượng và tiếp nhận của con người bình thường như các ông.
Cách thức Chúa biến hình
Thánh sử Luca chỉ cho chúng ta biết cách thức Chúa biến hình. Ngài không “hất tóc, cũng chẳng đá chân, hoặc chỉ tay”…như những gì chúng ta thường thấy trên các nền tảng mạng xã hội. Ngài chỉ làm một điều đơn giản: cầu nguyện! Và đang lúc cầu nguyện như vậy, dung mạo Ngài biến đổi. Điều này nói cho chúng ta điều gì? Sức mạnh của lời cầu nguyện, của những giờ phút kết hiệp với Chúa Cha luôn đem lại sinh khí và sinh lực cho Chúa Giêsu trong suốt hành trình làm người và thi hành sứ vụ trên trần gian của Ngài.
Chúng ta thường cảm thấy hả dạ trước một Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những thói giả hình và lối sống bất công của những người quyền thế trong dân? Chúng ta cũng thường ngưỡng mộ những lời Ngài phán ra có sức mạnh xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, và nuôi dưỡng những ai đói khát cơ cầu…Nhưng chúng ta có từng chiêm ngắm một Chúa Giêsu âm thầm lánh riêng ra một nơi để cầu nguyện không? Và chúng ta có thường nhận ra rằng trước và sau khi làm một việc gì đó quan trọng, Chúa Giêsu thường bắt đầu bằng việc cầu nguyện hay không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, vì Chúa không ngừng bày tỏ cho chúng con biết về Chúa để hiểu và yêu mến Ngài hơn. Ngài là một Thiên Chúa không ngại mặc lấy thân phận con người (nhân tính) để trở nên gần gủi với chúng con, nhưng cũng không quên nhắc nhớ chúng con về Thiên Tính của Ngài: là Con của Chúa Cha, và cũng là Thiên Chúa! Điều đó đem lại niềm vui và vinh dự cho chúng con khi được chia sẻ vinh quang với Ngài qua khát vọng biến đổi từng ngày của chúng con.
Xin dạy chúng con đang khi chạy theo những ảnh ảo, phù vân của những hào nhoáng bên ngoài, biết quay về với Chúa trong mùa chay thánh này, để tìm lại hình ảnh chân thực của chúng con: là con cái của Chúa!
Xin cho chúng con biết cài đặt, ứng dụng, và lưu giữ phiên bản Giêsu biến hình này trong cầu nguyện, ăn chay, và việc lành bác ái, để mỗi một hiện diện của chúng con đều đem đến giá trị tích tực cho mọi người xung quanh, nhất là xây dựng nơi chính chúng con dung mạo của một Giêsu biến hình để hiến mình cho nhân loại qua mầu nhiệm Thập Giá. Amen.
---------------------------------- MC 2-ABC453: LỘT XÁC Có nhiều loài động vật phải lột xác để phát triển – rắn, cua, ve sầu, tắc kè, bướm,... Con người không MC 2-ABC453
Có nhiều loài động vật phải lột xác để phát triển – rắn, cua, ve sầu, tắc kè, bướm,... Con người không lột xác nhưng cũng phải thay đổi mạnh mẽ và dứt khoát như dạng “lột xác” vậy, đặc biệt vào mỗi Mùa Chay.
Về động vật, tạp chí The National Geographic cho biết:
RẮN – Tùy vào độ tuổi, mỗi năm rắn lột xác từ 4-8 lần, nó nằm yên một chỗ, từ từ uốn thân để loại bỏ lớp da cũ. CUA – Trước khi lột xác một ngày, cua bắt đầu hấp thụ nước biển để cơ thể bắt đầu phồng lên như trái bóng, giúp nó mở rộng lớp vỏ cũ và tạo một đường nứt nhỏ, nó thu mình lại nhiều lần và rút chân trước, tách hoàn toàn khỏi lớp vỏ cũ, quá trình lột xác thường kéo dài trong vòng 15 phút. VE SẦU – Ấu trùng ve sầu trải qua 3-6 năm sống trong lòng đất, đến lần lột xác cuối cùng, nhộng chui ra và bò lên cây, tự gồng mình làm nứt vỏ và từ từ chui ra theo phần lưng.
TẮC KÈ – Mỗi năm tắc kè lột da khá nhiều lần vì lớp da cũ không đủ đàn hồi với sự phát triển của cơ thể, sau khi lột da nó ăn lớp da cũ như phần ăn nhiều vitamin. BƯỚM – Sau 2-3 tuần ăn uống no nê, sâu bướm lớn hơn sẽ nhả tơ kết thành kén, nó chui vào đó, thoát xác và hóa thành nhộng. Khoảng 2 tuần sau, bướm cọ lưng vào kén tạo thành lỗ nhỏ để chui ra, sau khoảng 60 phút, đôi cánh có kích thước đầy đủ, khô ráo và sẵn sàng để bướm bay.
Như vậy, quá trình lột xác cần thiết để thay da đổi thịt, chắc chắn phải chịu đau đớn. Về thể lý, người ta muốn duy trì vẻ đẹp nên tìm cách để trì hoãn sự lão hóa, sẵn sàng chịu tốn nhiều tiền để “được” mổ xẻ, bơm, đắp, hút, cắt,... thế nhưng cũng chỉ được một thời gian, không thể vĩnh viễn. Vậy mà người ta vẫn chấp nhận để... “coi được” hơn. Còn về tinh thần, tại sao lại không cố gắng để “đẹp” hơn trong mắt Chúa?
Không gì bền vững, tất cả mọi thứ đều biến đổi theo dòng thời gian. Người trẻ hóa già, người đẹp hóa xấu, hoa tươi hóa héo, lá xanh hóa vàng, cổ thụ cũng khô,… Đá tưởng chừng trơ trơ cùng tuế nguyệt, nhưng rồi đá cũng mòn vì nức chảy qua. Ngay cả tình cảm của con người cũng có thể bị biến đổi: “Xa mặt, cách lòng.” Tình cảm cũng thất thường với thất tình, lục dục.
Khi nói biến đổi, có thể xuôi hay ngược, tiêu cực hay tích cực, nhưng người ta muốn nói đến chiều hướng tích cực, tốt hơn. Cuộc sống có nhiều thứ cần biến đổi, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Mùa Chay là cơ hội tốt để biến đổi, là hành trình hoàn thiện, là “mùa lột xác” để từ tội nhân trở nên thánh nhân. Thiên Chúa khuyến cáo: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 11:44; Lv 19:2; Lv 20:7) Đó là cách “lột xác” mà Thiên Chúa mong muốn.
1. BIẾN ĐỔI THEO GIAO ƯỚC
Có một cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thiên Chúa với ông Ápram và lời hứa của Ngài dành cho ông, đực trình bày qua trình thuật St 15:5-12, 17-18.
Thiên Chúa đưa ông Ápram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” Ông tin ngay, vì thế Đức Chúa kể ông là người công chính. Đức tin làm cho phàm nhân xấu xa trở nên công chính. Chính Chúa Giêsu xác định là một mối phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:19) Quả thật, đức tin vô cùng quan trọng!
Rồi Thiên Chúa nói với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Canđê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” Ngài nói: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.”
Cuộc đối thoại rất đơn giản và tự nhiên, không có gì cầu kỳ. Điều đó cho thấy Thiên Chúa rất thân thiện với con người, và con người cũng rất chân thành. Đúng là “nhân chi sơ tính bổn thiện.” Rồi ông Ápram kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì để nguyên con. Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Ápram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Ápram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.
Khi mặt trời lặn, màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Ápram như sau: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến Sông Cả, tức sông Êuphơrát.”
Mặc dù nhân loại bất xứng mà vẫn được Thiên Chúa yêu thương, được ký kết với Thiên Chúa. Và rồi Thiên Chúa đã thay tên đổi họ cho ông Ápram, nghĩa là ông trở nên một con người mới hoàn toàn: “Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Ápram nữa, nhưng là Ápraham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.” (St 17:5) Thiên Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải thực sự biến đổi, từ con người CŨ trở thành con người MỚI, đặc biệt là trong mỗi Mùa Chay Thánh.
Chúng ta sẽ khả dĩ biến đổi nếu có Thiên Chúa, nhưng muốn có Ngài thì chúng ta phải đón nhận Ngài – tức là phải tin Ngài. Cứ tín thác vào Ngài thì Ngài sẽ hành động, Ngài sẽ soi đường dẫn lối, vì Ngài là Ánh Sáng Vĩnh Cửu, điều này được tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1)
Cn làm gia tăng đức tin. Do đó, cần phải cầu nguyện liên lỉ và xin ơn phù trợ: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.” (Tv 27:7-9) Thật vậy, giả sử Ngài chỉ vắng bóng trong tích tắc, mọi loài sẽ chết ngay lập tức!
Lời hứa của Thiên Chúa là thật, chắc chắn sẽ nên trọn. Hãy tự động viên và lấy lại niềm tin: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 27:13-14) Tự giúp mình rồi trời sẽ giúp. Và hãy ghi nhớ điều quan trọng này: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con.” (Tv 27:10) Cuộc sống nhiêu khê, không ít lần chúng ta đã thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc như muốn buông xuôi, cố gắng đừng chết trước khi tắt thở!
Con người dễ thoái hóa nên cần biến đổi, chưa biến đổi là đối lập với Thập Giá, vì Thập Giá là thuốc mạnh giúp “lột xác.” Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian.” (Pl 3:17-19) Chắc hẳn những điều này chẳng xa lạ gì, thế nhưng người ta nghe mãi hóa quen tai. Vì thế, người ta vẫn tranh giành nhau mọi thứ, tranh chấp nhau bằng mọi giá.
Thánh Phaolô phân tích: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3:20-21) Một cuộc biến đổi thú vị mà lại không dễ dàng chút nào, tức là khó lắm, nhưng KHÓ không có nghĩa là KHÔNG làm được. Khó mà làm được mới có giá trị.
“Từ bỏ chính mình và vác thập giá”là điều kiện theo Chúa. (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23) Hạnh phúc nào cũng không thể thiếu đau khổ, niềm vui nào cũng có nỗi buồn, thành công nào cũng do khổ luyện, nước mắt càng mặn thì nụ cười càng rạng rỡ. Tabor chói lọi thì cũng có Canvê u ám. Đó là sự cân bằng hợp lý của đời thường.
Loại ổ khóa nào cũng có chìa khóa, khó khăn nào cũng có cách xử lý, quá trình biến đổi cũng có bí quyết, như Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng.” (Pl 4:1) Đơn giản nhưng không đơn điệu, mà lại rất hiệu quả.
2. BIẾN ĐỔI CỤ THỂ
Ước muốn dẫn tới hành động, lý thuyết dẫn tới kết luận, lời hứa dẫn tới việc làm,… Trình thuật Lc 9:28-36 (≈ Mt 17:1-8; Mc 9:2-8) nói về cuộc hiển dung của Đức Giêsu. Các nhân chứng là ba môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Chúa Giêsu muốn dẫn chứng cụ thể để củng cố niềm tin cho họ, nhờ đó họ đủ can đảm mà hành động quyết liệt, dứt khoát.
Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa. Bỗng dưng có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật kia. Khi đó, ông Phêrô thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”
Quá hạnh phúc nên ông không biết mình đang nói gì. Ông say sưa giữa không gian kỳ diệu, không thể cảm nhận hết. Bản tính ông chất phác, thật thà, nghĩ sao nói vậy, ông quên mình và chỉ nghĩ đến người khác. Tình yêu thương đã đạt tới đỉnh cao. Hạnh phúc tuyệt vời!
Vinh quang đó chính là vinh quang của Thiên Quốc, Chúa Giêsu cho ba ông được nếm thử để động viên các ông làm nhân chứng về Ngài, và có trách nhiệm hướng dẫn người khác biến đổi trên hành trình tâm linh. Trong khi ông Phêrô còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Thật tiếc! Khi thấy mình ở giữa đám mây, các ông hoảng sợ. Nhưng không sao, sự lạ đó là thật, không mơ hồ hoặc ảo giác. Và rồi còn lạ hơn nữa khi có tiếng nói vang từ đám mây: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”
Lời đó nghe được rất rõ ràng. Nhưng tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Các môn đệ không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy, theo lời dặn của Thầy Giêsu. Từ đó, các ông thực sự được biến đổi, được “lột xác” hoàn toàn. Một Phêrô yếu đuối trở thành một Phêrô can đảm phi thường.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tận dụng thời gian thuận tiện này để có thể thay da đổi thịt từ trong ra ngoài, tích cực hoán cải để xứng đáng là chứng nhân của Ngài giữa cuộc sống nhiêu khê này. Xin giúp chúng con dám trút bỏ con người cũ để thành con người mới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trầm Thiên Thu
--------------------------- MC 2-ABC454: BIẾN DẠNG ĐAU KHỔ - BIẾN HÌNH VINH QUANG Trong cuốn “Những cánh hoa đơn” kể về cuộc đời thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô với bạn hữu, có MC 2-ABC454
Trong cuốn “Những cánh hoa đơn” kể về cuộc đời thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô với bạn hữu, có câu chuyện về một tu sĩ tên Bê-na-đô Quin-ta-van-lê (Bernard of Quintavalle), môn đệ đầu tiên của thánh nhân. Bê-na-đô là một tâm hồn nghèo khó, yêu Chúa rất mực và hết sức sống trọn vẹn Tin Mừng. Chính vì thế, thầy thường được ơn ngất trí khi cầu nguyện. Một lần đang lúc dự lễ, tâm hồn thầy bay lên, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, không còn biết gì nữa. Vị linh mục tế lễ nâng Mình Thánh lên, thầy cũng chẳng thấy, chẳng quỳ, chẳng cất lúp đội đầu như các anh em khác. Mắt thầy vẫn mở và chăm chú nhìn, nhưng toàn thân như xác không hồn, chẳng nhúc nhích động đậy, gương mặt thì sáng ngời lên. Thầy xuất thần như thế từ sáng đến khoảng ba giờ chiều. Sau khi tỉnh lại, thầy chạy khắp cùng tu viện, nói thật to: “Anh em ơi! Nếu người giàu có sang trọng nhất ở miền này được Chúa hứa cho cái kho tàng quý giá như tôi vừa thấy, thì bảo người ấy làm gì người ấy cũng làm; bảo mang một bị bùn đất dơ dáy mà đi, người ấy cũng vui lòng mang ngay”. Vì được Chúa cho thấy kho tàng quý báu trên trời dành cho những ai mến Chúa, nên từ đó về sau, suốt 15 năm (thầy mất năm 1241), đi đâu Bê-na-đô Quin-ta-van-lê cũng hướng mắt đưa trí về trời. Và tâm hồn ngày càng thêm thoát tục.
1. Luật sống của con người
Câu chuyện thầy Bê-na-đô giúp ta hiểu thêm kinh nghiệm kỳ diệu của Đức Giê-su cũng như ba môn đệ thân tín trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Nhưng phải nói ngay, đoạn này đã bị Sách Bài đọc Chúa nhật cắt bớt cụm từ đầu: “Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy”. Quả là một thiệt hại lớn vì các Tin mừng Nhất lãm đều nhất trí liên kết chặt chẽ cuộc Biến hình với buổi nói chuyện thời danh về con đường khổ nạn (x. Mt 17,1; Mc 9,2; Lc 9,28). Đây là một trong những trường hợp họa hiếm trong đó hai giai thoại đời Đấng Cứu thế được liên kết với nhau về mặt thời gian. Tám ngày trước, đã có một cuộc trò chuyện đáng nhớ, diễn tiến trong hai thì: trước hết Đức Giê-su hỏi họ: “Anh em bảo Thầy là ai?” và chính Phê-rô tuyên xưng Người như “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”… Đức Giê-su lập tức loan báo cái chết cận kề của mình. Cuộc Biến hình như thế có liên quan tới cuộc Khổ nạn và Phục sinh. Trong vài tuần nữa, Người cũng sẽ lại đem theo ba ông bạn ấy vào vườn Ghet-sê-ma-ni (x. Mt 26,37; Mc 14,33). Khuôn mặt Đức Giê-su mà họ sắp thấy sáng ngời vinh quang, lúc ấy sẽ đầm đìa mồ hôi máu (Lc 22,44) lãnh đủ bạt tai (Lc 22,64) và phủ đầy đờm rãi (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm thoại “tám ngày trước”, Đức Giê-su cũng đã loan báo cho họ hay chính họ cũng sẽ “vác thập giá theo Người” (Lc 9,23). Rồi còn thêm rằng “một số sẽ không phải chết trước khi thấy Vương quốc Thiên Chúa” (Lc 9,27). “Vương quốc” mầu nhiệm ấy, tức sự biểu lộ vinh quang Thiên Chúa trong bản tính con người, chẳng được bày tỏ trong cuộc Biến hình đó sao? Lạy Chúa, làm sao con dám đi tới niềm vui Phục sinh mà không đích thân đi qua con đường khổ nạn? Mùa Chay này đã chẳng cho con cơ hội hiệp thông vào các đau khổ của Ngài sao?
Như trong nhiều trình thuật khác, Lu-ca mở đầu câu chuyện với quang cảnh Đức Giê-su cầu nguyện, trước sự hiện diện của ba môn đồ thân tín. Đây là việc Người vẫn làm vào những giây phút quan trọng (x. Lc 3,21; 5,16; 6,12; 9,18.28; 10,21; 11,1; 22,32.41.42; 23,34 46). Và “đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Lu-ca rõ ràng tránh từ “biến đổi hình dạng” mà Mt (17,2) và Mc (9,2) sử dụng. Độc giả của Lu-ca đều là những cựu lương dân, có văn hóa Hy-lạp, từng biết đến những “biến đổi hình dạng” (métamorphoses) của các thần minh ngoại giáo (như thần Zeus biến thành con thiên nga hay một trận mưa vàng). Sử dụng một ngôn ngữ bên ngoài xem ra khiêm tốn hơn, ông bảo rằng đang lúc cầu nguyện, dung mạo của Đức Giê-su bỗng “đổi khác”. Trong thực tế, khi nhìn một số người cầu nguyện thật sốt sắng như thầy Bê-na-đô Quin-ta-van-lê, như cha Piô Năm Dấu thánh, có khi ta thấy khuôn mặt của họ như tỏa ra một thứ ánh sáng lạ lùng, ánh sáng nội tâm: cũng là con người ấy, nhưng có một cái gì đó bất thường xuất hiện.
Trong nền văn hóa của Kinh Thánh, hình ảnh biểu tượng “y phục” đến bổ túc cho nhận xét đầu tiên vừa nêu. Y phục “trắng tinh chói lòa” là “dấu chi” của các hữu thể thiên giới (x. Đn 7,9; 10,5-6); các Ki-tô hữu đầu tiên cũng sẽ luôn mô tả Đức Giê-su phục sinh như vậy (x. Kh 1,13; Lc 17,23; 24,4). Chiếc áo trắng ngày chúng ta chịu phép rửa tội rồi thêm sức, chiếc áo trắng của cô dâu ngày chịu phép hôn phối, chiếc áo trắng của linh mục nơi bàn thánh… đều là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của các môn đệ được liên kết với vinh quang của Thầy (x. Kh 3,4.5.18; 4,4; 7,9.13).
Khi gợi lại cho ta hình ảnh Đức Giê-su “có dung mạo đổi khác” nhờ cầu nguyện, Lu-ca muốn khuyến khích ta rằng trong cuộc sống chúng ta, vốn ghi dấu thử thách và thất bại, khổ đau và tội lỗi, chỉ có lời cầu nguyện, vào những giờ phút nào đó, là có thể biến đổi chúng ta. Vì chúng ta cũng “được biến đổi mà phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2Cr 3,18).
2. Thánh ý của Thiên Chúa
Và rồi “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Mt và Mc cũng ghi nhận sự hiện diện này, nhưng Lu-ca là người duy nhất cho ta biết đề tài cuộc nói chuyện giữa Đức Giê-su và hai đại chứng nhân Cựu Ước: họ bàn luận về cuộc ra đi, cuộc xuất hành của Người. Chúng ta khó mà nhận thức được Đức Giê-su đã bị viễn tượng cái chết ám ảnh và theo đuổi đến độ nào, cái chết mà Gio-an gọi là cuộc “vượt qua” của Người (x. Ga 13,1) còn Lu-ca thì gọi là cuộc “siêu thăng” (Lc 9,51; 24,51). Đức Giê-su là con người tự hy tế: Người biết tại sao mình đã đến và sẽ đi về đâu: đi về cùng Cha, “vào trong vinh hiển ngang qua cái chết”, theo như ý định của Thiên Chúa, lôi cả nhân loại theo mình. Mầu nhiệm vượt qua của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem tóm kết tất cả lịch sử nhân loại, tóm kết số phận của riêng tôi: muốn hay không, ý thức hay không, tôi cũng phải theo con đường dẫn tôi về cùng Thiên Chúa ngang qua cái chết, cũng ở trong tình trạng “xuất hành” rời mảnh đất nô lệ về miền đất hứa ban. Mở đầu mùa Chay ngày Lễ tro, Giáo hội đã nhắc ta chớ quên số phận của mình: “Người ơi hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro!” Nhưng cuộc Hiển dung biến đổi định mệnh tất yếu này thành viễn tượng vinh quang: hóa thành tro bụi, chúng ta đi về cùng Thiên Chúa.
Tuy nhiên, lúc này đây, đứng trước linh kiến lạ lùng mà họ đang mục kích, các Tông đồ một lần nữa không hiểu. Họ ở trong một thứ ánh sáng lờ mờ, nửa mê nửa tỉnh, ăn nói lung tung. Chính khi tất cả chấm dứt, lúc Mô-sê và Ê-li-a ra đi, họ mới nhập vào cảnh tượng, ấp úng phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” Rồi tự nguyện dựng ba cái lều cho Đức Giê-su, cho Mô-sê và cho Ê-li-a. Hai nhân vật, như đã nói, là hai đại chứng nhân của Giao ước cũ. Cả hai tiêu biểu đầy đủ và trọn vẹn cho Lề luật và Ngôn sứ. Cả hai là những con người của núi Xi-nai, từng được thị kiến trên đó Đấng Khôn Tả (x. Xh 33,18-22; 1V 19,9-14). Cả hai đều đã đau khổ vì sứ mệnh trước khi được trở về với Thiên Chúa cách nhiệm mầu vinh quang. Sự hiện diện của họ bên cạnh Đức Giê-su xác nhận Người là Đấng làm cho các lời tiên báo được ứng nghiệm, các tiền ảnh (mà Mô-sê và Ê-li-a là tiền ảnh tiêu biểu) được hoàn thành. Chính vì thế, lời Chúa Cha nói về Đức Giê-su sẽ ám chỉ Tôi Trung đau khổ trong I-sai-a.
“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”. Nơi đây, Mát-thêu và Mác-cô sử dụng từ “Con yêu dấu”. Những tay duy lý sính lịch sử sẽ hỏi: trong thực tế, Chúa Cha đã nói thế nào? Các Tin Mừng chẳng chút ưu tư trả lời kiểu tò mò như vậy. Lu-ca thích từ “được chọn” là có chủ ý. Nó quy chiếu về nhiều đoạn của I-sai-a, trong đó nó chỉ nhân vật bí ẩn “Tôi Trung Đức Chúa” (x. Is 42,1; 49,7). Vào lúc mô tả cuộc đóng đinh, Lu-ca sẽ lại sử dụng từ này (x. Lc 23,35) để nói lại rằng Đức Giê-su chính là Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện ý định cứu độ của Người, kinh qua đau khổ ô nhục.
Chúng ta cũng đã được tuyển chọn qua phép rửa để phục vụ Thiên Chúa và mọi người. Nhưng con đường phục vụ không thể không qua đau khổ, vì không đau khổ, không bỏ mình thì không thể yêu thương. Và càng không thể vào Thế giới của Yêu thương, Vương quốc của Thiên Chúa, nơi “người công chính sẽ chói lọi như mặt trời” (Mt 13,43). Muốn biến hình vinh quang, phải chấp nhận biến dạng đau khổ là vậy!
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
------------------------------- MC 2-ABC455: VINH QUANG CHÚA TRÊN NÚI TABOR Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay nói về chúa Biến Hình trên núi Tabor. Đây là một trong những viễn MC 2-ABC455
Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay nói về chúa Biến Hình trên núi Tabor. Đây là một trong những viễn kiến tuyệt vời và kỳ diệu nhất có liên quan đến chúng ta được diễn tả trong Ba Tin Mừng Nhất Lãm: Luca, Mathieu và Marco (Mc 9:2-8; Mt 17:1-8; Lc 9:28-36).
ĐỨC GIÊSU LÀ AI?
Theo Luca, câu chuyện tập trung ở chương 9 gồm những bài nói về căn tính của Chúa Giesu, đặc biệt là câu hỏi của Herode: “…Còn ông này là ai mà ta nghe đồn về những chuyện như vậy?” (Lc 9:9). Sau đó, là những câu trả lời cho Herode. Chúa Giesu là Thiên Chúa đầy quyền năng, có thể ban cho mọi người những điều cần thiết (Lc 9:10-17). Giesu là đấng Thiên Sai (Lc 9:18-21). Giesu là Con Người đau khổ (Lc 22:43-45). Giesu là Thầy mà mọi người phải bước theo dù có phải chết (Lc 9:23-27). Sau cùng Giesu là Con Thiên Chúa, người đã được Thiên Chúa tuyển chọn (Lc 9:28-36).
Cả Luca lẫn Mathieu và Marco đều kể chuyện Biến Hình liền sau lời tiên đoán về cuộc khổ nạn của Chúa. Việc này đã nâng cuộc Biến Hình thành quan trọng và ngang hàng với việc Chúa chịu Phép Rửa (Lc 3:21-22). Lúc chịu Phép Rửa và khi Biến Hình, đức Giesu đã được xác nhận là Con Thiên Chúa. Sau khi thông báo khổ nạn, cái chết và phục sinh, việc Biến Hình cho thấy cuộc khổ nạn của Chúa sẽ kết thúc trong vinh quang (Lc 9:32).
Trong sáu ngày, trên núi cao, diện mạo chúa tỏa sáng và mây trời bao phủ là những yếu tố đã thấy nói trong chuyện ông Maisen ở trên núi Sinai (Xh 19:16; 24:15-18; 34:19-35). “Núi” thường là nơi để cầu nguyện trong Tin Mừng Luca (Lc 6:12; 22:39-41). Elijah và Maisen là tiêu biểu cho luật cựu ước và các tiên tri. Theo tục truyền Do Thái thì các ông không chết mà đi thẳng về trời. “Nhà tạm” hay “lều” gợi lại hình ảnh Lễ Lều. Luca xác định cuộc đàm thoại trên đỉnh núi nói về cuộc “Xuất Hành” của Chúa Giesu là chịu khổ hình, chịu chết, sống lại và lên trời sẽ xẩy ra ở Jerusalem, thị trấn của số mệnh (Lc 9:51). Nói đến Xuất Hành, chúng ta nhớ lại biến cố dân Do Thái thoát khỏi Ai Cập đi về đất hứa. Tiếng nói từ trời, giống như tiếng nói lúc chúa chịu Phép Rửa ở sông Jordan xác định đức Giesu là đấng mà mọi người phải nghe lời (Lc 9:35).
HẬU TRƯỜNG CỦA CÂU CHUYỆN BIẾN HÌNH
Câu chuyện biến hình được Luca thuật lại làm ta nhớ tới sách Xuất Hành nói về Thiên Chúa tỏ mình ở trên núi (Xh 24:12-18). Trong chuyện này, “vinh quang Chúa bao phủ cả ngọn núi, và vào ngày thứ bảy tiếng Thiên Chúa gọi ông Maisen phát ra từ đám mây. Đối với dân Do Thái, vinh quang Thiên Chúa giống như lửa cháy trên đỉnh núi. Ông Maisen lúc đó đi vào đám mây cũng giống như ông đi lên đỉnh núi vậy. Và ông ở đó 40 ngày đêm.”
Câu chuyện Thiên Chúa Hiển Linh trong sách Xuất Hành có nhiều chi tiết giống truyện Biến Hình trong Tân Ước như núi, mây, sáu ngày (Mc 9:2), tám ngày (Lc 9: 28), Maisen, tiếng nói, vinh quang sáng chói. Thêm vào đó, mặt Maisen sáng chói khi đứng trước Thiên Chúa (Xh 34:29-35) chắc chắn có ảnh hưởng đến bài Tin Mừng hôm nay. Hiển Linh và Biến Hình đồng dạng với nhau.
Tiếp theo những ngày đêm bị cám dỗ trong hoang địa, và trước những giây phút đen tối trên đồi Golgotha, những tia sáng vinh quang trong lúc biến hình được bùng sáng trong bài Tin Mừng hôm nay. Rõ ràng là chúa Giesu và ba môn đệ lúc đó đã cảm nghiệm thấy có Thiên Chúa hiện diện. Số phận dân Kito hữu được nói ra giữa hai ngọn núi, Calvary lúc Chúa chịu chết và Tabor lúc Chúa biến hình. Đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy một xác quyết và hy vọng cho cuộc Hành Trình Mùa Chay Thánh này. Mỗi người chúng ta cần có một lúc vinh quang để giúp ta bước qua những đêm tối kinh hoàng trong đời mình.
ĐỊA DANH BIẾN HÌNH TRONG TIN MỪNG LUCA
Ở gần núi Tabor có hai thị trấn Dabborriyeh và Nain. Đức Giesu làm cho con trai một góa phụ đã chết được sống lại ở Nain. Chúa Giesu đã phải chiến đấu với sự chết. Chỉ cần chạm vào xác đứa bé, Chúa đã làm cho nó sống lại. Và tin đồn Chúa làm phép lạ đã nhanh chóng lan truyền toàn vùng.
Liền sau khi biến hình, Luca cho biết Chúa Giesu và các môn đệ xuống núi đến một tỉnh nhỏ ở dưới. Dù không nêu tên, nhưng tỉnh đó là Dabborriyeh, một tên Ả Rập theo truyện thần tiên và quan tòa Deborah trong sách Thẩm Phán. Khi chúa Giesu đến gần thị trấn thì một người từ đám đông chạy ra và xin Người chữa lành cho đứa con độc nhất của ông đang bị kinh phong. Một lần nữa, Chúa lại phải vật lộn với nỗi đau khổ và buốn phiền của con người. Chúa quở mắng ma quỉ, chữa lành đứa nhỏ rồi trao nó cho người cha (Lc 9:42).
Biến cố biến hình xẩy ra giữa Nain và Dabborriyeh coi như thời gian chuyển tiếp để Chúa Giesu bước vào hành trình đi đến Jerusalem. Làm sống lại đứa con bà góa phụ và chữa lành đứa nhỏ bị kinh phong là nền tảng cho những cảm nghiệm trên núi Tabor.
Các môn đệ thì uớc mong được ở lại trên núi. Họ muốn yên thân, không thích khó khăn, nguy hiểm, tranh luận và phấn đấu trong cuộc sống. Đúng lúc họ thích ở ẩn muốn xa lánh đám đông ồn ào giận dữ, cách biệt mọi nguy hiểm, không muốn đụng chạm với người chết, được miễn trừ mọi nghi thức tội lỗi ô uế, không phải chiến đấu với ma quỉ thì chúa Giesu lại dẫn họ xuống núi để đối đầu với ma quỉ và mang ơn chữa lành của Thiên Chúa cho những người đau khổ.
NHỮNG BÀI HỌC TRÊN ĐỈNH NÚI
Các môn đệ học được gì ở trên đỉnh núi? Họ biết được căn tính của chúa Giesu và hiểu rõ hơn sứ mệnh thiên sai của Chúa. Cảm nghiệm ở núi Tabor quả là cần thiết cho cuộc hành trình đi lên Jerusalem, vì nó làm cho chúa Giesu và các môn đệ trở nên mạnh mẽ, đồng thời giúp chúng ta thấy được một viễn ảnh cần thiết và đúng, có được sức mạnh phải có trong cuộc sống của người Kito hữu và làm môn đệ Chúa.
Những thắc mắc về hiện tượng Chúa biến hình. Tại sao Chúa lại che dấu vinh quang của chúa trên núi Tabor ngoại trừ Phero, Gioan và Giacobe? Tại sao Chúa không tỏ lộ vinh quang đó trên thập giá? Muốn biết ánh sáng chói lọi chan hòa thế nào, chúng ta cần phải cảm nghiệm bóng tối âm u dày đặc ra làm sao. Hiện tượng biến hình cho chúng ta thấy cuộc sống sáng chói của Thiên Chúa bao gồm cả sự chết, không có cách nào khác. Nó nhắc nhở chúng ta là bóng tối kinh hoàng có thể chiếu sáng và lan tỏa. Ánh sáng cũng có nghĩa là nó có thể xua đuổi đánh tan bóng tối của tội lỗi.
KẾT: NÚI TABOR CỦA CHÚNG TA
Nhìn lại quá khứ và xác định những lúc gọi là “Tabor” trong cuộc hành trình của chúng ta. Ai đã hiện diện với chúng ta lúc đó? Tại sao những lúc đó lại quan trọng? Cái gì khiến chúng ta sợ khi ở trên núi? Và tại sao ở đó lại tốt? Cái gì làm cho chúng ta sợ phải xuống núi? Ai và những gì đang chờ đợi chúng ta ở dưới chân núi? Đoạn đường nào trong cuộc hành trình của chúng ta giúp đưa chúng ta đến chỗ có được một viễn kiến mới? Viễn kiến mới là gì? Làm sao chúng ta có thể trở thành con người tràn đầy hy vọng giữa một chuyển tiếp để vượt qua đi vào cuộc sống mới.
Hãy coi chúa nhật này như một cuộc biến hình có Chúa Kito hiện diện. Người lo lắng mọi sự cho chúng ta, biến đổi mọi sự trong chúng ta, xâm nhập mọi nơi dù có trai đá đi nữa, cả những nơi bất ổn mà chúng ta không biết phải làm sao. Thiên Chúa sẽ xâm nhập những chỗ đó bằng ánh sáng chói lòa của Chúa Thánh Thần và ban cho diện mạo của chính Thiên Chúa.
Chúa nhật này, chúng ta nên để ý đến những người đã lắng nghe Lời Chúa Kito và được Lời Chúa biến đổi. Khi chúng ta xuống núi, hãy cầu nguyện bằng những lời nguyện của thánh Teresa thành Calcuta được linh hứng bởi Chân Phước Hông Y John Henry Newman.
Lạy Chúa Giesu! Xin giúp con lan tỏa hương thơm Chúa tới những nơi con đi tới. Xin tràn ngập hồn con, Với Thần Linh Chúa và cuộc sống của Chúa. Xin xâm nhập và làm chủ hoàn toàn đời con, Để đời con chỉ có thể tỏa ánh sáng của Chúa.
Xin chiếu sáng xuyên suốt đời con và ở trong con, Để mọi linh hồn con tiếp xúc, Có thể cảm nghiệm Chúa hiện diện trong con.
Xin để họ nhìn lên Chúa Đừng nhìn con, chỉ nhìn Chúa mà thôi!
Xin hãy ở với con, Để con chiếu soi như Chúa chiếu sáng, Ánh sáng của Chúa cho tha nhân.
Lạy Chúa! Tất cả ánh sáng đều do Chúa, không phải của con: Chúa chiếu rọi mọi người qua con. Xin hãy để con cầu xin Chúa theo cách của Chúa: Chiếu sáng trên những ai ở chung quanh con.
Xin cho con nói, không dám dạy bảo Chúa… Không phải chỉ nói nhưng bằng gương sáng, Bằng sức mạnh và ảnh hưởng những điều con làm, Chứng tỏ tình yêu của con có Chúa bên trong rõ ràng. Amen
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
------------------------------ MC 2-ABC456: KHUÔN MẶT CỦA CHÚA, MÀ TÔI TÌM KIẾM Khuôn mặt của Chúa Giêsu, gần hai ngàn năm qua không ai có thể nhìn thấy lại, không ai có MC 2-ABC456
Khuôn mặt của Chúa Giêsu, gần hai ngàn năm qua không ai có thể nhìn thấy lại, không ai có thể hình dung nét mặt đó hoặc vẽ ra được nét mặt đó một cách chắc chắn, bởi vì khuôn mặt này của Chúa Giêsu, con người thật và Thiên Chúa thật, chỉ có thể phác họa qua lời nói.
Thế nhưng, lời của Thiên Chúa lại không bao giờ xác định cho chúng ta một hình ảnh nào về Khuôn mặt của Chúa Giêsu: lời của Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta ba hình ảnh, đôi khi hợp nhất và đôi khi nổi bật, ba hình ảnh phản chiếu qua lại với nhau, như chúng ta nói, “Ngài đang sống, Đấng mà bạn đang tìm kiếm; Ngài là một mầu nhiệm, Đấng mà bạn yêu mến, và bạn sẽ chỉ tìm thấy Ngài bằng cách bước theo Ngài”.
Hình ảnh đầu tiên của khuôn mặt Chúa Giêsu.
Đã làm say mê và vẫn còn mê hoặc tất cả các bạn hữu của Chúa, là Khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu. Trước khuôn mặt này của Đấng bị kết án, của Đấng bị đóng đinh, của Đấng hấp hối, người ta chỉ có thể dừng lại nếu yêu thương, bởi vì đau khổ không bao giờ đẹp đẽ. Chúa Giêsu đang hấp hối: “Ngài chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Isaia 53: 3), và Isaia mô tả Đấng Mêsia đau khổ như một con người của đau khổ, bị người ta khinh thường, bỏ rơi, trước khi người ta ngoảnh mặt đi và nghĩ rằng: “Tôi không muốn thấy điều đó; Tôi không muốn nhìn thấy một con người phải chịu đựng khổ đau nhiều như vậy”.
Trong cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, chỉ có tình yêu là rực sáng. Mọi thứ khác là bạo lực, hận thù và phản bội. Và cuối cùng nếu Khuôn mặt sầu thảm của Chúa Giêsu đẹp đẽ, cao quý, hấp dẫn đến thế, đối với chúng ta là những người tin Chúa, nhất là trong những lúc đau khổ và kinh hãi, thì đó là bởi vì Khuôn mặt đó nói với chúng ta, kêu lên với chúng ta hoặc thì thầm với chúng ta một tình yêu đã đi đến cùng cực, một tình yêu đã trải qua cái chết.
Hình ảnh thứ hai của khuôn mặt Chúa Giêsu.
Khuôn mặt Thần linh, là hình ảnh mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy trong giây lát vào ngày Biến hình. Chúa Giêsu đã cùng họ leo núi để cầu nguyện, gặp gỡ Chúa Cha một cách mạnh mẽ trong thinh lặng và trong cuộc đối thoại đầy tin tưởng và hiếu thảo. “Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà”.
Các môn đồ đã nhìn thấy Khuôn mặt này của Chúa Giêsu được biến đổi trong lời cầu nguyện, được biến đổi bằng lời cầu nguyện. Không có gì chuẩn bị họ cho sự mặc khải này, cho sự tiết lộ bất ngờ này về mầu nhiệm Chúa Giêsu Con Thiên Chúa; họ thậm chí còn “ngủ mê mệt”; nhưng “nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu”.
Cũng không gì có thể mở lối cho chúng ta đi vào những khoảnh khắc ân sủng thuần khiết khi chúng ta dự cảm được vinh quang của Thiên Chúa lóe lên trên khuôn mặt của Chúa Giêsu trong chốc lát. Thậm chí còn hơn cả Phêrô và những người khác, chúng ta lên núi trong cơn mê ngủ. Cơn mê ngủ này, chúng ta biết rõ, ngay cả sau mười, hai mươi hay bốn mươi năm hành trình truyền giáo: - ngủ quên trong đức tin của chúng ta, quá quen thuộc với những kỳ công của Thiên Chúa, - ngủ quên trong hy vọng của chúng ta, mệt mỏi quá nhanh, chán chường quá nhanh, cam chịu quá nhanh, - ngủ quên trong tình yêu mến huynh đệ của chúng ta, khi chúng ta dừng lại giữa chừng trong một cuộc đối thoại thực sự, khi chúng ta đặt ra các điều kiện cho sự trao ban chính mình, khi chúng ta trả lại cho mình cái quyền có quyền lực.
Cơn mê ngủ đang rình rập chúng ta: chính vinh quang của Thiên Chúa giữ cho chúng ta tỉnh thức, “tỉnh thức trong đức tin của chúng ta”. Thuốc giải độc duy nhất cho sức nặng của tình yêu của chúng ta là sống toàn bộ cuộc sống của chúng ta như một khoảnh khắc ngạc nhiên, để cho phép chúng ta ngạc nhiên suốt đời trước vinh quang của Chúa Giêsu, và bước vào ánh sáng biến đổi của Ngài một cách khiêm nhường, nghèo khó.
Hình ảnh thứ ba của khuôn mặt Chúa Giêsu.
Và điều này dẫn chúng ta đến việc chiêm ngưỡng một khía cạnh thứ ba của Khuôn mặt Chí Thánh của Chúa Giêsu: Khuôn mặt vinh hiển của Chúa Phục sinh. Bởi vì sự Biến hình trên núi chỉ là phù du. Việc đó loan báo sự vinh hiển cuối cùng của Chúa, và chính sự vinh quang này, vinh quang của Giao ước mới và vĩnh cửu, mà ngay từ hừng đông chúng ta đã rình chờ trên Khuôn mặt của Chúa Giêsu: “Đã được chỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Côlôssê 3:1) .
Chúng ta đang ở nơi nào, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở nơi đó. Và bởi vì tình yêu của chúng ta nối liền với Ngài ở nơi Ngài đang ở, nên cuộc sống của chúng ta “sự sống mới của anh em hiện đang ẩn dấu với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa” (Côlôssê 3: 3). Cuộc sống của chúng ta bị che khuất trước mắt chúng ta, và đó là lý do tại sao đức tin vẫn là chuyện khó đối với chúng ta; nhưng sự sống của chúng ta ở trong Thiên Chúa, với Chúa Kitô; và ở đó, trong Thiên Chúa, với Chúa Kitô, trước Mặt Chúa Kitô, công việc của Chúa Cha tiếp tục trong chúng ta, vừa là sự soi sáng vừa là sự biến đổi.
Là sự soi sáng, vì Thiên Chúa, Đấng tự mình là ánh sáng, tự mình làm nên ánh sáng cho chúng ta. Và tại sao lại có sự soi sáng lòng trí chúng ta? - “Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Chúa Kitô” (2 Côrintô 4:6). Như vậy, chính ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi Khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu vì chúng ta và trong chúng ta.
Và nhờ đó, khi soi sáng Khuôn mặt Đấng Phục sinh bằng chính vinh quang của Ngài, Thiên Chúa là Cha biến đổi chúng ta, những người nhìn ngắm và hát trong Thánh Thần vinh quang này: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.” (2 Côrintô 3,18).
Khuôn mặt của Chúa Kitô “đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Isaia 53: 4), khuôn mặt của Đấng được biến hình trên núi, khuôn mặt của Chúa được tôn vinh trên trời: ba biểu tượng của Con Một mà Chúa Cha đã ban cho thế giới, ba khoảnh khắc Phục sinh đã cứu chúng ta. Nhờ Khuôn mặt này tất cả mọi thứ được nói ra, tất cả tình yêu được thể hiện. Vì Khuôn mặt này, chúng ta đã chấp nhận đánh mất tất cả:
“Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Phêrô Phạm Văn Trung, phỏng theo Jean-Christian Lévêque, ocd, carmel.asso.fr.
----------------------------- MC 2-ABC457: CHÚA KITÔ LÀ CHỦ LỊCH SỬ Chúng ta chú ý đến hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước cùng đàm đạo với Chúa Kitô, đó là MC 2-ABC457
Chúng ta chú ý đến hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước cùng đàm đạo với Chúa Kitô, đó là:
1. Ông Môsê: Người đã được Thiên Chúa chọn để đem dân Itraen ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; Người đã nhận từ tay Thiên Chúa Bia Đá ghi khắc Mười Giới Răn. Mười giới răn ấy vừa là dấu chỉ cùa Giao Ước vừa tượng trưng cho Lề Luật mà Thiên Chúa đòi dân của Người phải tuân giữ. Đồng thời ông Môsê còn là người hướng dẫn dân tiến về Miền Đất hứa mà Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham từ xưa….
2. Ông Êlia: Ngôn sứ vĩ đại được giao sứ mạng củng cố lòng tin của dân vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với tổ tiên của Itraen là Apraham, Ixaac và Giacob.
3. Cả hai ông Môsê và Êlia đều có mặt bên Chúa Kitô. Kể từ nay, từ khởi đầu của kỷ nguyên Tân Ước, hình ảnh của cả hai: Môsê - Êlia tập trung nơi chính Chúa Kitô. Từ nay không cần phân biệt "Lề luật (ý nói đến ông Môsê) và các Tiên tri" như Cựu Ước từng cho biết. Từ nay không còn là hai nhưng chỉ là Một: Chúa Kitô, Đấng toàn thắng và vinh dự của chúng ta.
Từ nay, chỉ một mình Chúa Kitô, Đấng duy nhất là Môsê Mới và Êlia Mới của thời đại mới, Thời Cứu Độ. Từ nay:
- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lãnh đạo, vừa là nhà giáo dục nhân loại.
- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lập luật, vừa là nhà dẫn dắt nhân loại đi trong đường lối mà chính lề luật ấy mở ra.
- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà giải phóng đích thực, vừa là Đấng bảo vệ lòng mến mà nhân loại phải dành cho Thiên Chúa.
- Chỉ một mình Chúa, Trung gian duy nhất thay thế tất cả mọi hình ảnh từ Tổ phụ, Thủ lãnh, đến Tiên tri.
- Chỉ một mình Chúa phục sinh và trao ban sức sống phục sinh cho từng con người.
- Chỉ một mình Chúa mới thực là hy tế duy nhất, hy tế dâng chính mình để cứu độ.
- Chỉ một hy tế duy nhất của Chúa mới có giá trị cứu độ vĩnh cửu, đưa nhân loại đến Trời mới Đất mới và trường tồn.
Điều đó có nghĩa là Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ, từ nay chỉ cần một mình Chúa Kitô là đủ. Chúa Kitô vừa là Giao Ước mới, vừa là lề luật mới.
Chính vì thế, Lời của Chúa Kitô là Lời đặc biệt quan trọng đối với mỗi chúng ta. Lời ấy chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Lời ấy chính là Lời Giao Ước vĩnh cửu, đưa chúng vào huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa, để ta được sống trong Chúa, sống bằng chính sự sống của Chúa.
Bởi Lời Chúa Kitô có tầm mức quan trọng và cần thiết đến vậy, nên Thiên Chúa không ngừng mời gọi: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người"!
Với phán quyết long trọng và công khai ấy, Thiên Chúa như muốn khẳng định: Vâng nghe lời Chúa Kitô, Con Duy nhất của Ngài là sống Giao Ước Mới, là chu toàn trách nhiệm của Lề Luật Mới.
Vâng nghe Lời Chúa Kitô, ta sẽ được biến đổi với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô như chính Chúa Kitô vinh hiển trong vinh quang phục sinh rạng ngời và đời đời của Ngài. Đó cũng là con đường duy nhất để đi về cùng Thiên Chúa nhằm đạt tới sự sống bất diệt mà Thiên Chúa ấn định cho cả nhân loại.
Bởi vậy, sống Lời Chúa Kitô là điều kiện tối cần thiết, không thể bỏ qua của cả cuộc đời người Kitô hữu. Vậy ta đừng chỉ nghe Lời Chúa bằng tai, bằng mắt mà còn bằng tất cả lòng trí, sự ham muốn và không rời quy chiếu suy nghĩ cũng như hành động của mình theo lời, theo nội dung những giáo huấn mà Chúa Kitô dạy.
Trên hết mọi điều kiện, hãy yêu mến Lời Chúa. Chỉ nhờ lòng yêu mến, ta mới có thể thực tâm ấp ủ, ngụp lặn trong Lời Chúa. Nhờ đó, ta sẽ suy nghĩ là suy nghĩ với Lời Chúa, phản ứng là phản ứng với Lời Chúa, hành động là hành động với Lời Chúa, thể hiện là thể hiện với Lời Chúa, tương quan với nhau hay với mọi hoàn cảnh là tương quan trong Lời Chúa...
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
----------------------------- MC 2-ABC458: Con yêu dấu của Ta
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu) Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ về những gì đang chờ MC 2-ABC458
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ về những gì đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem (Mt 16,21). Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị giết, rồi được trỗi dậy. Lời Ngài nói làm các ông sững sờ, và Phêrô vội vã can ngăn. Nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi nói về thân phận các môn đệ. Nếu họ muốn đi theo Thầy, làm môn đệ của Thầy, họ cũng phải chịu chung số phận với Thầy, chấp nhận mất cả mạng sống mình vì Thầy (Mt 16,24-26). Chắc hẳn sau cuộc nói chuyện này, bầu khí khá buồn và căng thẳng. Bóng tối của cái chết làm mọi sự trở nên nặng nề. Sáu ngày sau, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Đó là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1). Chính ở đây các ông đã có một kinh nghiệm không thể nào quên. Bao năm sau, Phêrô vẫn nhớ như in điều ông đã thấy: “chúng tôi đã được chứng kiến vẻ uy phong lẫm liệt của Người.” Và ông cũng không thể quên điều ông đã nghe: “ ‘Đây là Con của Ta, người Con Ta yêu dấu, Ta hết lòng quý mến.’ Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở với Người trên núi thánh” (2 Pr 1,16-18). Kinh nghiệm này đã xóa đi phần nào nỗi buồn phiền lo âu, và đem lại sự ủi an nâng đỡ cho các môn đệ. Sau biến cố này, các ông hiểu Thầy mình là ai. Chính Thiên Chúa chứng nhận Thầy là Người Con yêu dấu, dù Người Con ấy sắp chịu chết như Người Tôi Trung đau khổ (Is 42,1). Khi thấy Thầy Giêsu chói lòa rực rỡ, nơi khuôn mặt và nơi y phục, thấy hai ông Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Thầy, Phêrô quá đỗi hạnh phúc, chỉ muốn ở lại mãi trên ngọn núi này. Ông quên rằng cuộc đời Thầy Giêsu gắn liền với những ngọn núi. Thầy đã ở trên núi để chịu quỷ cám dỗ, đã giảng Bài Giảng trên núi đầu tiên. Núi là nơi Thầy cầu nguyện và chữa bệnh cho đám đông (Mt 14,23; 15,29). Hôm nay, Thầy được biến đổi hình dạng trên ngọn núi này, Nhưng Thầy còn phải lên núi Ô-liu để làm chọn lựa cuối (Mt 26,36-46), còn phải lên núi Sọ để hiến mạng sống mình (Mt 27,33), để rồi cuối cùng hiện ra như Đấng phục sinh cho môn đệ trên núi (Mt 28,16). Sau những giây phút ngất ngây của trải nghiệm thiêng liêng, ba môn đệ sẽ phải xuống núi cùng với Thầy, để cùng Thầy sẽ trèo lên những ngọn núi khác (Mt 17,9). Mùa Chay là thời gian ta cùng lên núi với Thầy Giêsu. Núi cao làm lòng ta thanh thoát nhẹ nhàng. Nơi đây ta thấy được khuôn mặt bừng sáng rực rỡ của Thầy Giêsu, nghe được lời Thiên Chúa Cha nhủ bảo, và cảm được sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc như đám mây. Hôm nay, Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhân tính của Ngài tỏa sáng, vĩnh viễn và trọn vẹn trên thiên quốc. Chính khi vâng nghe và sống lời của Chúa Giêsu mà ta được tham dự vào sự biến đổi sáng láng như Ngài. Đời kitô hữu gồm nhiều cuộc biến hình, bắt đầu từ ngày được rửa tội. Chúng ta đã được gọi là con yêu dấu, đã được mang tấm áo trắng tinh, đã được đặt vào tay ngọn nến sáng. Làm sao để khuôn mặt của tôi dần dần tỏa sáng như khuôn mặt Chúa? Làm sao để tôi trở nên hình ảnh trung thực của Đấng đã dựng nên tôi?
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa, trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
-------------------------------- MC 2-ABC459: Đấng đang biến hình giữa chúng ta
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên) Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến MC 2-ABC459
Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.
Khi tường thuật sự kiện Chúa biến hình trên núi, thánh Matthêu mở đầu bằng chi tiết “sáu ngày sau”. Vậy, sáu ngày trước đó là sự kiện gì? Đó là lời loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Đối với các môn đệ, việc Đức Giêsu chịu thương khó là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phêrô đã can gián và thậm chí còn trách Người. Sự can gián của Phêrô bị Chúa quở trách là Satan (x. Mt 16 21- 23). Cùng với việc loan báo cuộc thương khó, Đức Giêsu cũng đưa ra những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ của Người, đó là vác thập giá theo Chúa. Như thế, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm mục đích khai trí các môn đệ, để các ông hiểu hơn về thân phận và sứ mạng của Người. Qua sự kiện này, Chúa muốn khẳng định với các ông: dù Người có phải trải qua cuộc thương khó, nhưng Người sẽ chiến thắng sự chết và sẽ trỗi dậy. Ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê ngỡ ngàng trước việc Chúa Giêsu thay hình đổi dạng, vì lúc đó, các ông được thấy Chúa với một hình dạng hoàn toàn khác so với từ trước tới nay. Sự kiện này làm các ông bàng hoàng và sợ hãi.
Hai nhân vật của Cựu ước hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu, đó là Môisen và Êlia. Môisen là người dẫn đưa Dân tuyển chọn ra khỏi Ai Cập. Ông cũng là người được Chúa trao bia Giao ước và được người Do Thái tôn kính như tác giả của sách Luật. Êlia là vị ngôn sứ đã luôn “đứng hầu cận trước nhan Chúa hằng sống (x. 1 V 17). Trên núi Carmel, ông đã giúp dân Do Thái từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng để chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa. Ông là biểu tượng cho những người được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn và là những người phát ngôn nhân danh Thần Khí. Giống như Chúa Giêsu, cả hai vị này đã ăn chay 40 đêm ngày (x. Xh 24,18; 1 V 19,8). Cả hai vị đều được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x. Xh 33,18-23; 1 V 19,12-13). Qua sự kiện biến hình, Môisen và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Họ được chiêm ngắm Con Thiên Chúa, Đấng liên kết hai nhân vật này nơi nhân tính của Người, tức là Người vừa là người ban lề luật, vừa là ngôn sứ. Thánh Máthêu trình bày Chúa Giêsu như Môisen mới. Một số bản văn của Tân ước cũng trình bày Chúa Giêsu như Êlia mới. Người đã liên kết truyền thống lề luật và truyền thống ngôn sứ nơi chính bản thân Người. Bởi lẽ hai truyền thống “lề luật” và “ngôn sứ” là tóm lược toàn bộ Kinh Thánh Cựu ước.
Cùng với chứng từ của Môisen và Êlia, còn có chứng từ khác quan trọng hơn nhiều, đó là lời phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đức tin Kitô giáo khẳng định: đó là lời của Chúa Cha. Qua lời này, Chúa Cha nói lên tình thương mến của Ngài với Chúa Con, đồng thời nhắc bảo chúng ta: hãy nghe lời Người. Theo Thánh Gioan Thánh giá, Chúa Cha chỉ nói một lời và một lần nơi Chúa Con. Chúa Con là Lời của Chúa Cha. Nơi Chúa Con, có đầy đủ tất cả những gì Chúa Cha muốn ngỏ với nhân loại. Vì thế, “hãy nghe lời Người” tức là đón nhận những gì Chúa Cha muốn mạc khải qua Chúa Con, nhờ đó, loài người được cứu thoát. “Hãy nghe lời Người”, đó cũng là đón nhận và thực hành giáo huấn của Đức Giêsu.
Phụng vụ hôm nay còn cho chúng ta nghe tường thuật về ơn gọi của Áp-ram, tổ phụ của dân Do Thái. Một lời gọi đơn sơ: “hãy đi đến đất Ta sẽ chỉ cho”. Áp-ram đã vâng lời, đã lên đường. Ông không tính toán, không vặn hỏi, nhưng hoàn toàn phó thác. Ông Áp-ram đã nghe lời Chúa và đã thực thi lời Ngài. Ông đã trở nên mẫu mực cho tất cả những kẻ tin ở mọi thời đại (Bài đọc I).
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta. Quả vậy, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).
Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, ba môn đệ xuống núi, có Chúa cùng đi. Các ông trở về với đời thường, với tâm trạng được biến đổi và với quan niệm mới mẻ về Đấng Thiên Sai. Sự kiện Chúa biến hình trên núi cũng nhắc chúng ta cần phải biến đổi đời sống, biến đổi hình ảnh của Chúa trong đời và biến đổi nhận định về tha nhân. Hãy nghe lại lời của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời đầu tiên Chúa Giêsu nói với các môn đệ liền tiếp sau đó là: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”. Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.
---------------------------- MC 2-ABC460: Biến đổi khi vượt qua chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.) Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều MC 2-ABC460
Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều Chúa dạy! Phải đặt mình trong hoàn cảnh thời đó, khi con người còn sống theo luật rừng "mạnh được yếu thua" chứ chưa có luật pháp bảo vệ "ai đúng là người thắng", thì việc bỏ quê cha đất tổ, hàm chứa mình không còn được bảo vệ bởi một tập thể nữa, trở thành đối tượng hay miếng mồi cho bao người ham của. Nếu vậy, Abram thật liều lĩnh và mạo hiểm khi vâng lời Thiên Chúa để đi đến một nơi xa lạ. Thiên Chúa là nhất, và Abram đã vâng phục Thiên Chúa, ra đi theo tiếng gọi của Ngài.
Đức Yêsu đã biến hình, dung mạo Ngài ra khác, và Phêrô bị cuốn hút bởi điều này đến độ không muốn xuống núi nữa. Chúa biến hình chỉ trong giây lát, nhưng qua đó người ta biết:
. Ngài thế nào, chúng ta cũng sẽ như vậy (1Ga.3, 2); nếu chúng ta quảng đại đáp trả lời mời của Chúa như Abram đã đáp trả, chúng ta cũng sẽ được biến đổi, và chúng ta cũng sẽ nên giống Chúa Yêsu.
. Những gì chúng ta biết về cuộc sống mai hậu, không được làm chúng ta quên cuộc sống tại thế này. Chúng ta phải trở về với đời thường, để xây dựng thế giới này, để làm thế giới này đẹp hơn. Khi chúng ta làm như vậy, là chúng ta đang chuẩn bị hành trang để vào Nước Trời, quê thật của chúng ta.
Chúng ta được mời gọi trở nên con Thiên Chúa.
Để trở nên con Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi như Abram, hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay quan phòng đầy thương yêu của Ngài. Ơn gọi của chúng ta là nên giống Đức Yêsu. Thân xác mỏng dòn của chúng ta, cũng như thân xác bị đòn vọt và mong manh của Đức Yêsu khi Ngài chịu khổ hình, sẽ được biến đổi như hôm nay chúng ta thấy Đức Yêsu.
Vượt qua chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Yêsu, trở nên giống Đức Yêsu mỗi ngày mỗi hơn. Đó là ơn gọi của chúng ta. Xin cho chúng ta được quảng đại để đáp trả tiếng Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
------------------------ MC 2-ABC461: Tuyệt vời qua từng hành vi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.) Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm MC 2-ABC461
Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm con người trở nên tuyệt vời. Những hành vi tuyệt vời vẫn luôn có thể xảy ra trong đời mỗi người, và giá trị con người được hình thành bởi những hành vi này.
1. Ra đi trong niềm tin phó thác
Thiên Chúa đã mời gọi Abram bỏ gia đình họ hàng để đi tới miền đất Ngài sẽ chỉ cho. Trong một xã hội chưa có luật lệ, người ta chỉ tựa vào sức mạnh, thì con người chỉ được bảo vệ nhờ vào những người thân quen họ hàng chống lại những kẻ bất lương. Việc cô thân cô thế đi vào vùng đất xa lạ với gia tài của cải và vợ đẹp, là một hành vi vô cùng nguy hiểm, vì như vậy rất dễ bị những kẻ bất lương giết hại nhằm chiếm đoạt của cải và vợ con. Ra đi như vậy, là một hành vi liều lĩnh và dại dột.
Nếu không có niềm tin phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Abram không thể ra đi như vậy. Thiên Chúa mời gọi Abram kèm với lời hứa. Thiên Chúa hứa sẽ cho Abram thành cha một dân vĩ đại; Ngài sẽ chúc phúc cho Abram; sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho Abram; đến độ mọi dân tộc dưới trần sẽ nhờ Abram mà được chúc phúc. Tuy vậy, liệu những lời hứa này có đủ bảo đảm để ra đi như vậy không? Phần lớn người Việt Nam đều biết chuyện thằng bờm và phú ông; phú ông là người giầu, khi thằng bờm nghèo xác nghèo xơ, chỉ có cái “quạt mo” (cái quạt làm bằng mo cau); xảy ra một hôm trời nóng, phú ông và thằng bờm gặp nhau; phú ông không có gì để che nắng, vì bị cái nóng nung nấu, phú ông muốn cái quạt mo của thằng bờm; phú ông đề nghị đổi cái quạt mo thằng bờm đang có với “ba bò chín trâu”, với “một ao cá mè”, “một bè gỗ lim”; thằng bờm lắc đầu không chịu, vì nó thấy điều đó quá xa vời, làm sao thành hiện thực; nhưng khi phú ông đề nghị đổi “nắm xôi” ông đang có để lấy cái quạt mo, thì bờm cười (đồng ý). Thiên Chúa hứa với Abram những điều tốt đẹp, những điều tuyệt vời, nhưng liệu có tin được không? Làm sao có thể an toàn trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm như vậy? Có gì chắc để trở thành một dân tộc vĩ đại? Có gì chắc mình sẽ là một mối chúc lành? chắc gì có đất! Ai trong chúng ta cũng biết, sau này khi vợ của Abraham là Sara chết, Abraham vẫn chưa có đất nên phải mua đất để chôn vợ; Isaac cũng chôn cha Abraham cùng nơi mà cha ông đã mua đất để chôn mẹ ông.
Abram đã tin vào Thiên Chúa và ra đi. Thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và điều kiện, làm Abraham trở thành tuyệt vời, trở thành cha những người tin vào Thiên Chúa. Hành vi tin vào Thiên Chúa, không phải là hành vi duy nhất, một lần trong đời của Abraham. Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi, và Abraham luôn luôn đáp trả lời mời gọi phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh; chẳng hạn khi có Isaac, Thiên Chúa lại muốn Abraham hiến tế Isaac cho Thiên Chúa, và Abraham cũng sẵn sàng vâng phục. Thái độ luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, làm Abraham luôn luôn tuyệt vời.
2. Được mời gọi nên thánh
Mỗi người được mời gọi nên thánh. Nên thánh, không phải là điều dành riêng cho một số người, nhưng là lời mời cho tất cả mọi người. Mỗi Kitô hữu đều là thánh. Thánh Phaolô trong các thư, Ngài gọi các Kitô hữu là thánh. Thánh, là người thuộc về Thiên Chúa; và mỗi người khi được rửa tội, là đã thuộc về Thiên Chúa, đã là thánh.
Sống theo lời mời gọi yêu thương, là nên thánh. Vì yêu Chúa yêu người, nên tôi tha thứ cho người xúc phạm tới tôi. Vì yêu thương, nên tôi lắng nghe những khốn khổ của người khác. Vì yêu thương, nên tôi giúp đỡ những người cần tôi cách đặc biệt. Vì yêu thương, nên tôi cố gắng làm cuộc đời đẹp hơn bằng nụ cười, bằng lời êm dịu dàng, bằng lời chào hỏi, v.v…
Một vị thánh, là người làm cho người khác hạnh phúc khi sống chung với họ, được gặp gỡ họ, được tiếp xúc với họ. Hãy coi hình ảnh Đức Maria: mẹ luôn là người giúp đỡ những người khốn cùng kêu đến mẹ: Mẹ Hằng Cứu Giúp. Một người là thánh, sẽ làm cho cuộc đời của những người sống chung quanh tươi hơn, vui hơn, dễ sống hơn, đẹp hơn. Một đời sống thánh, là đời sống toả hương và là lời rao giảng về Thiên Chúa tình yêu một cách tuyệt vời.
3. Giây phút biến hình là dấu chỉ thực trạng tuyệt vời tương lai
Đức Yêsu, cả cuộc đời lam lũ, chỉ có giây phút biến hình là huy hoàng. Ngài sinh trong chuồng chiên cừu, sống tại làng quê Nazaret, không được học hành như nhiều người, làm nghề thợ mộc. Khi đi rao giảng, cũng sống nay đây mai đó, rong ruổi từ nơi này tới nơi khác, màn trời chiếu đất, bữa đói bữa no. Khi chết, phải chết trần trụi trên thập giá, phải chôn nhờ vào ngôi mộ của người khác.
Xét về khía cạnh trần thế, Đức Yêsu quá lam lũ và vất vả. Tuy vậy, Đức Yêsu đã sống tự do với tất cả, để chỉ tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Giây phút biến hình trên núi mà Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe, chỉ là biểu hiện của bao giây phút sống tuyệt vời của Đức Yêsu trong đời sống của Ngài.
Ơn gọi Kitô hữu, là sống và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày, như Abraham đã sống, đã nghe và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày của ông. Sống ơn gọi Kitô hữu, là nhiều khi phải chấp nhận thua lỗ và dại dột theo cái nhìn nhân loại. Sống ơn gọi Kitô hữu, là sống như Đức Yêsu, chấp nhận cuộc sống như hoàn cảnh xảy tới cho mình, không oán trách Thiên Chúa và con người; và không chỉ thế, vẫn vươn lên và sống yêu thương từng ngày từng giây phút. Kitô hữu cần có đức tin của Abraham, để chấp nhận và sống thực tại hằng ngày của mình, như Đức Yêsu đã chấp nhận và sống trước. Sống như vậy, mỗi người được biến hình trong từng chọn lựa và hành động của mình. Yêu thương là hành vi tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn liệt kê những giây phút “huy hoàng” trong cuộc đời của Đức Yêsu? Nếu cộng tất cả những thời gian này, nó kéo dài bao nhiêu giờ? Theo bạn, nhiều hay ít? 2. Cuộc đời bạn và cuộc đời Đức Yêsu, nếu được chọn, bạn chọn cuộc đời nào? Tại sao? 3. Yêu thương, dễ hay khó? Tại sao?
-------------------------------- MC 2-ABC462: Đây là con yêu dấu của Ta
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc) Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy MC 2-ABC462
Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy giảng dạy, thân tình và bình thường, nhưng hôm nay, họ khám phá ra nơi Thầy của họ một chiều kích bất ngờ và thật thú vị.
Ngài dẫn ba người Ngài chọn lên núi với Thầy. Ba người này sẽ có mặt trong vườn cây dầu, và sẽ chứng kiến một chiều kích khác nữa của Ngài, là con người thống khổ tột độ, van xin họ thức với Thầy một giờ.
Thầy trò lên núi cao, vắng lặng, xa tất cả mọi người, xa những ồn ào của những ngày bị đám đông bao vây. Và trong nơi thanh vắng đó, họ khám phá ra Thầy trong khuôn mặt tuyệt vời: dung nhan Người chói lọi như mặt trời… Họ được đưa vào trong một thế giới khác, thế giới của riêng Thầy, của vinh quang khôn tả của Người Con Một, đầy ân sủng và chân lý.
Chúng ta tin Chúa, nhưng chưa bao giờ chúng ta khám phá được khuôn mặt thật của Ngài. Chúng ta chỉ nhìn thấy những dấu hiệu, và chỉ biết Ngài sơ sài, nông cạn. Làm sao khám phá ra khuôn mặt thật của Thầy?
Chúng ta hãy lên núi cao, nơi vắng lặng, nơi mà chỉ có riêng một mình Thầy với ta. Núi cao hôm nay của chúng ta không phải là ngọn núi nào, mà trong một nơi không còn tiếng ồn ào náo nhiệt của tivi, điện thoại, con người, công việc… Một góc nhà thờ, một bờ sông, một căn phòng im lặng… Chúng ta sẽ thấy được dung nhan Ngài. Ngài sẽ tỏ cho chúng ta thấy khuôn mặt đáng yêu của Ngài. Ngài sẽ nói với chúng ta như đã nói với tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình… Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu… Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa”. (Biết ở đây có nghĩa là yêu).
Có những lời nào ngọt ngào hơn nữa không? Có những lời nào đầy ắp tình yêu như thế không?
Đó là khuôn mặt thật của Chúa chúng ta, Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta cần khám phá ra khuôn mặt đáng yêu đó, chúng ta mới nếm được sự êm dịu ngọt ngào của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta sẽ ấm lên trong ta. Chúng ta sẽ thấy muốn ở lại với Ngài mãi, như Phêrô: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt vời! Xin Thầy cho chúng con dựng ba lều…” Chúng ta muốn nếm được sự êm dịu đó không? Hãy can đảm đi vào vắng lặng, chỉ chú tâm đến một mình Chúa thôi.
Phêrô, khi khám phá khuôn mặt vinh quang của Chúa, ông đã muốn ở lại với Thầy mãi, không muốn trở về với cuộc sống hằng ngày nữa. Ông muốn kéo dài, vui hưởng hạnh phúc với Thầy mãi. Ông đã sống những giây phút tuyệt dịu với Thầy, ông không còn muốn điều gì khác. Nhưng đây chỉ là một dấu chỉ, một nếm trước mà thôi. Còn nhiều việc phải làm, còn nhiều giai đoạn phải trải qua. Thị kiến đã hết, bây giờ phải xuống núi, phải bước vào giai đoạn quyết liệt: “Con Người sẽ bị nộp, sẽ chết… và ngày thứ ba, sống lại”.
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn đang rất gần chúng ta, nhưng chúng ta quá xa Ngài. Hãy đến, hãy ở lại với Ngài như Ngài vẫn nài nỉ chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa phải nài nỉ chúng ta như thế sao? Có cái gì mà Ngài không làm để chứng tỏ tình thương của Ngài, nhưng chúng ta có chú ý đến Ngài đâu! Chúng ta chạy theo đủ các thứ thần tượng trần thế: minh tinh màn bạc, siêu sao bóng đá, ca sĩ ăn khách… Ngài là ai đối với chúng ta?
Các thánh đã say mê Chúa Giêsu, quỳ lâu giờ dưới chân Chúa, thâu đêm như Cha Charles de Foucauld và rất nhiều thánh khác. Sao chúng ta không thử ở lại với Chúa một vài phút sau khi ăn lấy Chúa? Sao chúng ta không mang Chúa vào cuộc sống, làm việc với Chúa, lao động với Chúa, phục vụ mọi người với Chúa. Biết bao nhiêu cách để gần gũi với Ngài.
Có lẽ chúng ta nói rằng, các tông đồ được diễm phúc hơn chúng ta, được thấy Ngài, còn chúng ta, chúng ta chỉ thấy dấu hiệu. Phải, nếu chúng ta chỉ thấy dấu hiệu, thì cũng đủ để chúng ta thấy Ngài. Nhưng chúng ta có ở lại với Ngài đâu! Chúng ta bận bịu đến nỗi không còn một giây phút nào để ở với Ngài. Chúng ta đủ lý do để từ chối Ngài. Chỉ vì chúng ta không yêu Ngài. Những người yêu nhau không bao giờ cảm thấy đủ thời giờ ở bên nhau. Đối với họ, thời giờ sao quá nhanh. Còn chúng ta, chúng ta cứ thấy thời gian quá dài khi đến với Chúa. Tình yêu của chúng ta là như thế sao? Những người yêu nhau , dù bận bịu thế nào, cũng tìm cách liên lạc với nhau. Vắng là nhớ là thương. Họ tìm mọi cách để gặp nhau, để chuyện trò, không cách này thì cách khác, phải nói với nhau cái gì đó… nhắn tin, điện thoại, thư từ... Một tiếng nói yêu thương thôi cũng đủ. Chúa Giêsu, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp được, không cần điện thoại hay một phương tiện nào, sao chúng ta không tìm cách liên lạc với Ngài? Sao chúng ta không nói với Ngài những tiếng nói yêu thương? Ngài xa lạ lắm sao?
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu trên đỉnh núi, vẫn là Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời, vẫn là Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta tưởng hôm nay, Ngài chỉ là tấm bánh nhỏ thôi sao? Ngài vẫn là Đấng tràn đầy ân sủng, tràn đầy chân lý. Ngài vẫn là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên một tấm bánh nhỏ vì chúng ta, để nuôi dưỡng những con người li ti nhỏ hèn là chúng ta, thế mà chúng ta đã đối xử tệ với Ngài, không chú ý đến Ngài, và vô tình lạnh nhạt một cách có thể nói là tàn nhẫn. Chúng ta có đạo không? Chúng ta có tin không? Chúng ta hà tiện một tiếng nói, một ánh nhìn sao?
Trên đỉnh núi đó, Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Ngài. Hai tổ phụ quan trọng đó đại diện cho Lề Luật và tiên tri đã đến, điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu gồm tóm nơi Ngài cả hai nền tảng của Cựu Ước. Ngài kiện toàn Lề Luật và thực hiện những gì các tiên tri đã báo trước. Ngài là điểm quy tụ của cả hai dòng lịch sử, Ngài là trung tâm của mọi hồng ân, của ơn cứu rỗi. Vì thế Chúa Cha đã bảo chúng ta: “Hãy lắng nghe lời Ngài”.
Chúng ta có nghe lời Người Con Yêu Dấu của Chúa không? Nghe như thế nào? Nghe với tất cả tình yêu hay lơ đảng, chán buồn?
Lời Chúa là ánh sáng. Hãy để cho ánh sáng thần linh đó rọi chiếu vào trong u tối của chúng ta, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên rực sáng niềm vui và can đảm. Ngài đã tỏ vinh quang phục sinh trước khi Ngài bước vào cuộc tử nạn tăm tối, nhờ đó, khi nhục nhã phủ đầy, các tông đồ mới nhận ra khuôn mặt đau thương của Ngài, Đấng xóa tội trần gian, người đầy tớ của Thiên Chúa, chết cho muôn người, mà tiên tri Isaia đã báo trước. Vì thế, khi xuống núi, Ngài căn dặn các môn đệ, đừng nói cho ai biết về thị kiến kẻo gây hiểu lầm. vì giờ của Ngài chưa đến.
Hôm nay, tham dự vào hiến tế này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu với cái nhìn của các tông đồ trên đỉnh núi, một cái nhìn say mê, và hãy ước mong sống với Ngài mãi mãi, dù cuộc sống chúng ta không dễ dàng, dù mọi sự đều trở nên thập giá. Hãy như Phêrô, xin cất ba lều để chúng ta không tách rời Ngài ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Liên kết bền chặt với Ngài vì chính Ngài đã liên kết chúng ta trước.
-------------------------------- MC 2-ABC463: Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà) Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm MC 2-ABC463
Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm bức tượng Phật đang ở tư thế ngồi cao đến 3 mét, được đúc bằng vàng nguyên khối, nặng đến 5 tấn rưỡi!
Theo sử sách ghi lại thì bức tượng này được đúc vào khoảng từ thế kỷ 13 đến 15. Trong thời chiến tranh nổ ra giữa Thái Lan và Miến Điện, người Thái sợ bức tượng vàng quý báu này lọt vào tay người Miến nên đã trát bê tông bao bọc tượng, che giấu khối vàng bên trong nhằm đánh lừa quân địch. Thế là những thế hệ người Thái sau này cứ tưởng đây chỉ là bức tượng bê tông tầm thường nên có thời bức tượng này bị đặt vào nơi bất xứng và bị lãng quên.
Vào năm 1955, bức tượng được di dời đến một ngôi đền mới, trong khi vận chuyển, một số giây thừng ràng quanh tượng bị đứt làm cho tượng ngã lăn xuống đất, lớp bê tông bọc tượng bị nứt ra, cho thấy ánh vàng lấp lánh bên trong. Thế là nhờ sự cố không may này, người ta phát hiện được đây là bức tượng vàng nguyên khối tuyệt đẹp và vô cùng quý báu đã bị che phủ bằng bê tông suốt hàng trăm năm qua.
Từ đó, bức tượng Phật vàng được rất nhiều Phật tử chiêm bái, được du khách khắp nơi thăm viếng, được xem là báu vật của Thái Lan.
Trong 33 năm sống ở dương gian, Chúa Giê-su cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Ngài vốn là Thiên Chúa toàn năng uy quyền vinh hiển, nhưng Ngài đã mặc lấy thân xác người phàm, xác thịt phàm trần đã che phủ thần tính vinh hiển của Ngài, vì thế Ngài bị người đời xem thường.
Thế rồi qua biến cố hiển dung trên núi được thánh Mát-thêu thuật lại trong Tin mừng hôm nay (Mt 17, 1-9), thần tính của Chúa Giê-su được biểu lộ, nên ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan mới thấy được sự sáng láng vinh hiển của Ngài, mới biết được Ngài là Con chí ái của Thiên Chúa Cha.
Hôm nay, Ki-tô hữu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự.
Mặc dù chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có giá trị cao quý hơn bất cứ kho tàng hay báu vật nào trên thế gian.
Tuy nhiên, sự cao quý tốt đẹp này có thể bị bao bọc bởi một “lớp bê tông”, tựa như bức tượng Phật vàng ở Thái Lan, làm cho chúng ta bị mất giá trị trước mặt người đời.
Nơi người này, lớp “bê tông” bao bọc có thể là tính kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ… Nơi người khác là lòng ghen ghét, hận thù… Những “lớp bê tông” này làm cho người ta trở nên tầm thường, xấu xa, mất giá…
Tiếc thay, những “lớp bê tông” này rất cứng chắc, bám chặt vào người ta và khó lòng phá vỡ được.
Sở dĩ nhiều người không phá nổi những “lớp bê tông” này, không chừa bỏ được những thói hư tật xấu bao quanh mình, là vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, không tự biết mình.
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời mà chúng ta không thể thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính ta. Người ta thấy rõ nốt ruồi nhỏ bằng hạt tấm trên khuôn mặt người khác; trong khi cả một vết dơ lớn như đồng tiền trên mặt mình thì lại không thấy.
Mà vì không nhìn thấy được những tì vết của mình, những thói hư tật xấu của mình nên người ta không thể lột bỏ chúng được, cũng như ta không thấy khuôn mặt mình dơ thì ta không cần rửa mặt, không thấy tay mình bẩn thì không cần rửa tay.
Ngoài ra, khi có ai đó chỉ cho thấy những khiếm khuyết, những lầm lỗi của bản thân mình, thì người được chỉ lỗi cảm thấy bị tổn thương, bị xúc phạm… nên đâm ra tức tối, căm giận người chỉ lỗi cho mình. Vì thế, không ai còn dám chỉ lỗi cho và người ta cứ mang tật xấu suốt đời.
Thứ hai, tính xấu bám chặt vào bản thân ta như da bọc thân.
Những “lớp bê tông” này bám chặt vào bản thân chúng ta, trở thành như da thịt của chúng ta nên không dễ gì lột bỏ đi được. Có một số người đã mang tính kiêu căng thì kiêu căng cho đến chết; mang tính tham lam, ích kỷ… thì cũng sẽ mang chúng xuống mồ. Chính vì thế mà xưa nay người ta thường nói: “Cái nết đánh chết không chừa.”
Thế là phẩm chất cao cả của người Ki-tô hữu bị những nết xấu bao bọc, che phủ như bê tông che phủ bức tượng vàng, khiến cho họ bị người khác xem thường và chê trách.
Lạy Chúa Giê-su, Xưa kia trên núi cao, Chúa để cho thiên tính của Chúa biểu lộ ra, xuyên qua nhân tính phàm trần, để cho ba môn đệ thân tín được thấy chân dung đích thực của Chúa. Xin Chúa cũng giúp chúng con lột bỏ “lớp bê tông” thói hư tật xấu đang bao bọc chúng con, để dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con cũng được tỏ ra trước mặt mọi người.
-------------------------------- MC 2-ABC464: Vinh quang đích thực
(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng) Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh MC 2-ABC464
Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang sáng láng của Ngài. Aó Ngài trắng tinh như tuyết; mặt Ngài sáng chói như mặt trời. Chứng kiến cảnh tượng đó các tông đồ ngây ngất hạnh phúc (x. Mt 17,1-9).
Danh dự, vinh quang là điều thường ai cũng mong được. Danh dự vinh quang đôi khi còn được đặt cao hơn cả lợi lộc, hơn cả miếng cơm manh áo. Tục ngữ Việt Nam, có câu “Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp”. Hẳn là chúng ta cảm thấy hạnh phúc vui sướng khi có được danh dự, vinh quang.
Đức Giêsu tỏ mình vinh quang để làm gì? Phải chăng Ngài cũng thích danh dự vinh quang như con người chúng ta?
Có người tưởng như vậy, vì đã từng được nghe sách Thánh nói trên trời các thiên thần hằng ca tụng Thiên Chúa, hằng tung hô ngài là “Thánh, Thánh, Thánh”. Ở trần thế này, chúng ta được dạy rằng phải ca tụng Thiên Chúa, hãy làm vinh danh Ngài và để rồi chúng ta cũng được vinh quang với Ngài trên thiên đàng.
Vậy phải chăng Chúa Giêsu cũng muốn tỏ vinh quang kiểu như con người chúng ta, khi Ngài biến hình trên núi?
Chắc chắn là Chúa Giêsu không muốn tỏ vinh quang như kiểu con người chúng ta. Tuy nhiên, ta có thể hỏi, kiểu tỏ vinh quang của Ngài phải chăng là để chứng tỏ mình là đấng thánh, đấng thần thiêng, có đủ quyền năng, đầy cao sang, để rồi các tông đồ luôn trung thành theo Ngài?
Nếu chỉ như vậy thì xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại nặng nề, vì các tông đồ đã không trung thành gần ngay sau đó. Ở vườn Cây Dầu, khi Đức Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn hết! Phêrô, người đứng đầu nhóm, chối Chúa đến ba lần!
Vậy thì việc biến hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu có ý nghĩa như thế nào?
Chìa khóa để hiểu, chính là lời dạy của Chúa Giêsu: “Các con không được nói với ai thị kiến này cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17,9). Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ loan truyền vinh quang của Ngài cho tới khi Ngài từ cõi chết sống lại. Điều này hàm ý rằng: Nếu loan truyền sớm trước đó, thì sẽ bị hiểu lầm. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ bị hiểu lầm như kiểu vinh quang thế gian.
Như thế vinh quang đích thực của Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với sự chết và sống lại của Ngài.
Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng quay trở về bài Tin Mừng tuần trước: Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Ma quỷ đã nói: “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy biến đá thành bánh đi ... Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy nhảy từ nóc đền thờ xuống đi.” (x. Mt 4,1-11).
Đức Giêsu đã không tỏ mình ra là Con Thiên Chúa theo kiểu ma quỷ nói. Điều này có nghĩa là, Ngài đã không bày tỏ vinh quang bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Đức Giêsu đã từ chối chước cám dỗ đó. Nhưng Người sẽ tỏ mình ra là Con Thiên Chúa trong Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh. Chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa. Chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết, và nhờ đó chúng ta được vượt qua sự chết. Cái vinh quang thật sự của Thiên Chúa là sự cứu thoát chúng ta. Có thể nói đó là vinh quang cứu độ, vinh quang cứu giúp chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự chết muôn đời.
Chính cái vinh quang mà Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, sẽ chỉ đạt được trong Mầu nhiệm Thập giá. Qua sự biến hình, Ngài muốn cho các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là mơ ước rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được như những ông quan lớn, cao sang, có nhiều quyền lực. Đồng thời, Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng sau này, khi đi rao giảng, bị bắt, bị lên án và chịu tử đạo.
Vì vậy, qua việc biến hình, Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và các Kitô hữu rằng, vinh quang đích thực không là con đường của danh giá, của quyền lực, nhưng phải là con đường của hy sinh đau khổ vì yêu thương, yêu cho đến cùng, cho dù có chết vì yêu.
Ở trong tập nhật ký của Charles de Foucaul, người ta đọc thấy câu này:
“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới.”
Năm năm sau đó, người ta cũng lại đọc thấy câu này, nhưng có dài thêm một ít: “Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh cầu nguyện.” Ngài đã thêm dòng chữ: “bằng sự hy sinh cầu nguyện.”
Và mười năm sau, người ta lại đọc thấy câu đó, nhưng dài hơn một chút nữa:
“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh và cầu nguyện và bằng cái chết của tôi.” Ngài đã thêm dòng chữ: “và bằng cái chết của tôi”.
Và đúng như thế! Charles de Foucaul đã bị một kẻ cuồng tín đâm chết. Sau đó tu hội tiểu đệ tiểu muội đã nổi tiếng, phát triển nhanh, hầu như có mặt khắp nơi trên thế giới.
Con đường vinh quang qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu ban đầu đã bị các Tông đồ chối từ, nhưng sau này trở thành con đường cho chính các Tông đồ đã đi. Các ngài đã hy sinh, hy sinh ngay cả chính mạng sống mình để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tiếp theo sau các Tông đồ biết bao nhiêu thế hệ cha ông chúng ta cũng đã đi con đường vinh quang đích thực đó. Các ngài đã trở nên thánh. Cách riêng là các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Còn chúng ta chúng ta sẽ đi con đường vinh quang nào?
----------------------------------- MC 2-ABC465: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Cao Nhất Huy)
BƯỚC VÀO HÀNH TRÌNH THẬP GIÁ CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU
Tin mừng Mt 17: 1-9: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông... Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ MC 2-ABC465
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Con người của Chúa Giêsu là người tôi trung đau khổ như Isaia đã loan báo, sứ mệnh của Chúa Giêsu là hoàn tất con đường thập giá.
Vì thế, xét theo mạch văn của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì cuộc Biến hình của Chúa Giêsu có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang này đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ phải nghe lời và cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.
Tiếp đến, chúng ta thấy 3 môn đệ của Chúa đã say trong vinh quang và muốn ở lại trong vinh quang đó nên nói rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Mt 17, 4). Thế nhưng, tiếng của Thiên Chúa Cha đã phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Vinh quang không thể tự mà có, cũng không ai sống mãi trong vinh quang được, vinh quang phải được kín múc ra từ trong thập giá và được nuôi dưỡng nó trong thập giá. Vì thế, để có được vinh quang thì hãy vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu. Đó là bước theo con đường của Chúa Giêsu, con đường đi lên Giêrusalem để đón nhận thập giá.
Hình ảnh đó, cho chúng ta nghiệm thấy rằng, muốn tìm thấy được hạnh phúc thì con người phải chấp nhận bước vào những khó khăn và thử thách thì mới tìm thấy hạnh phúc, và hạnh phúc đó cũng phải tiếp tục được nuôi dưỡng trong những thử thách và thậm chí là đau khổ.
Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài có đủ quyền năng để bỏ qua đau khổ của thập giá để tới thẳng vinh quang, nhưng Ngài lại không làm như vậy, Ngài ôm lấy đau khổ của thập giá vào mình để thanh luyện nó, biến đổi nó thành vinh quang vĩnh cửu. Và qua đó, Ngài muốn cho con người nhận ra rằng, không ai ngồi không mà có được hạnh phúc, không ai không chịu cực khổ mà có thể đạt được hạnh phúc, không ai bỏ qua được đau khổ trên bước đường đời mà có thể đến được vinh quang hạnh phúc được, cũng không có con đường tắt nào có thể đến thẳng vinh quang và hạnh phúc. Nghĩa là, hạnh phúc luôn phải đánh đổi bằng một hành trình gian khổ và thậm chí là đau khổ nữa. Điều này không cần phải chứng minh bằng những chứng cứ nào hết, nhưng chính mỗi người chúng ta, mỗi kinh nghiệm đời sống của chúng ta là những chứng cứ hữu hiệu nhất cho điều khẳng định trên.
Điều đó cũng khẳng định, nếu ai trong cuộc đời này chối bỏ hay bỏ cuộc trước thập giá là những đau khổ và thất vọng thì chắc chắn chúng ta không thể nào đạt tới vinh quang được. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong Tin Mừng rằng: “Hãy trỗi dậy, Đừng Sợ!” (Mt 17, 7). Bởi vì Ngài biết, các môn đệ sợ phải đối diện với hành trình thập giá, hay đúng hơn là các môn đệ chưa thực sự nhận ra rằng thập giá chính là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó ta thấy rõ ràng khi nhìn vào hình ảnh Phêrô ngăn cản không cho Chúa lên Giêrusalem (Mc 8,31-33)
Đôi khi trong hành trình đời sống đức tin, chúng ta sợ hãi khi đối diện với những khó khăn của cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình. Chúa ban cho chúng ta mỗi người một ơn gọi đặc biệt và riêng biệt, chính sự đặc biệt và riêng biệt đó lại trao ban cho chúng ta mỗi người một thánh giá đặc biệt và riêng biệt, không ai giống ai, nhưng đều là thánh giá Chúa gửi đến để chúng ta có thể vác trên vai cùng theo Chúa lên Giêrusalem mà tìm đến vinh quang của hạnh phúc bất diệt: “ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá và theo Thầy” (Mt 16, 24).
Tuy nhiên, khi đối diện với thánh giá Chúa trao, chúng ta thường sợ hãi và muốn trốn tránh. Ngày nay trong cuộc sống, rất nhiều các gia đình, vì sự khác biệt giữa vợ - chồng, con cái, và các thành viên trong gia đình không chấp nhận được những khác biệt đó khiến cho gia đình ngày càng trở nên nặng nề, rồi đến một lúc khi sự nặng nề đó trở nên quá sức thì gia đình tan vỡ. Chúng ta nên nhớ rằng, hành trình thập giá là một hành trình của sự biến tận căn. Biến đổi để trở nên phù hợp với vinh quang bất diệt. Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, thập giá của mỗi thành viên là sự biến đổi chính mình để nên phù hợp hơn với gia đình đặc biệt và riêng biệt của mình, chứ không mong người khác biến đổi theo ý mình.
Ta thấy hình ảnh của chú chim đại bàng, một loài chim được mệnh danh là chúa tể bầu trời, nhưng còn được biết đến như một loài động vật thông minh và sẵn sàng đối đầu với thử thách. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua cách chúng đối đầu với mỗi cơn bão.
Không như tất cả mọi loài đều chạy trốn cơn bão, Đại bàng sẽ bay lên đỉnh núi thật cao đứng chờ. Và khi cơn bão ập đến, Đại bàng sẽ tận dụng sức mạnh của cơn bão để đưa đôi cánh của mình bay thật cao lên bầu trời. Đối với Đại bàng, cơn bão không hề là một điềm dữ. Nó là đòn bẩy, là cơ hội để củng cố thêm quyền lực thống trị bầu trời cho Đại bàng.
Hầu hết những ai biết về câu chuyện của Đại bàng đều khâm phục bản tính kiên cường, trí thông minh và sức sống mãnh liệt của nó. Có lẽ chính những thử thách khắc nghiệt ấy đã rèn giũa nó trở thành một loài mạnh mẽ và đáng nể như ngày hôm nay. Hơn bất cứ điều gì, cuộc sống và cách Đại bàng đối đầu với khó khăn chính là nguồn cảm hứng cho tất cả các loài, kể cả loài người chúng ta.
Chúng ta thì thế nào? Khi đối diện với khó khăn, chúng ta có sẵn sàng đương đầu không hay chúng ta tìm cách chạy trốn nó?
Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Chúa Giêsu, đặc biệt là hành trình thập giá của Ngài, cũng như công trình tạo dựng của Ngài qua hình ảnh chim đại bàng, chúng ta tự xét lại chính mình, xem chúng ta đã thực sự bước vào hành trình thập giá của Chúa Giêsu qua đời sống thường ngày của chúng ta chưa?
Xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết can đảm đối diện với khó khăc của cuộc sống, nhất là cuộc sống gia đình, nhờ đó chúng ta có đủ sức mạnh và sự can đảm để vượt qua những khó khăc đó mà cùng với Chúa Giêsu tiến đến vinh quang bất diệt. Amen.
------------------------------------- MC 2-ABC466: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
DÕI THEO BƯỚC CHÚA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG ĐỂ ĐẾN VINH QUANG Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và MC 2-ABC466
Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Tabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, qua thị kiến Chúa Giêsu biến hình, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan đã thấy thần tính và nhân tính của Đức Giêsu. Thần tình được biểu lộ nơi dung nhan của Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời, đầy vinh quang, quyền lực. Y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết. Còn nhân tính của Ngài được biểu lộ qua việc sau khi Chúa biến hình các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi, con người bằng xương thịt đang ở bên các ông như mọi ngày và nhân tính của Chúa Giêsu biểu lộ rõ nết khi khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói về cuộc chịu nạn, chịu chết và ba ngày sống lại. Cho nên, về thiên tính, Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Còn nhân tính thì xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt, để rồi bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”.
Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào những ngày trong Mùa Chay nhằm muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đón nhận người, rước Ngài vào trong cuộc đời chúng ta để Ngài thức tỉnh chúng ta giúp chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mà vui sống với mọi gian nan đau khổ trên đường đời rồi sẽ đến đỉnh vinh quang chiến thắng tất cả như Thánh Phaolô xác quyết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12). Còn Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương chúng ta cho đến chết trên Thập Giá sẽ luôn ở bên chúng ta. Ngài luôn ân cần nói với chúng ta: Hãy can đảm lên! Các con không vác Thánh Giá một mình, Ta mang nó với các con. Ta đã vượt qua cái chết để mang đến cho các con sự sống của tin yêu hy vọng” (ĐGH Phanxicô). Vì vậy, niềm tự hào của chúng ta là Thánh Giá Chúa tôi. Niềm tự hào của chúng ta là vác Thánh Giá đi lên mỗi ngày trong hy vọng niềm tin sáng tươi, không hoang mang lo âu nhưng vui mừng hiên ngang tiến lên vì đường thập tự giá là đường vinh phúc. Qua bao nhiêu thương đau, tình yêu Chúa là lẽ sống chúng ta đi không có gì sợ lo đắn đo vì có Chúa bước đi cùng chúng ta.
Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi, Ngài đã chọn và đã đi đến đồi Canvê và đến đỉnh vinh quang. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày Chúa sống lại.
Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.
Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường đời, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục dõi bước theo dấu chân của Ngài trên mọi nẻo đường dù có bình yên hay gian nan thử thách đau khổ để dành lấy vinh quang chiến thắng tội tội, đạt đến sự thánh thiện, bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi. Amen.
------------------------------- MC 2-ABC467: Biến đổi giống Chúa mỗi ngày
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn) Thay đổi một thói quen của con người thì dễ, nhưng rất khó lòng thay đổi tính hư tật xấu một MC 2-ABC467
Thay đổi một thói quen của con người thì dễ, nhưng rất khó lòng thay đổi tính hư tật xấu một khi đã ăn sâu trong con người. Cho nên người ta thường nói “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, bản tính đây là tính xấu, tật xấu chứ tốt dời làm gì, đổi làm gì. Bởi vì ngay từ đầu con người đã là “nhân chi sơ tính bản thiện”, “ăn hiền ở lành”, “làm lành lánh dữ” cho nên tật xấu tính xấu này Ông Trời, Thiên Chúa không có làm ra, mà do con người tạo ra đó thôi. Vì chưng, trong Sách Thế nói rằng tất cả mọi sự Thiên Chúa tạo dựng đều tốt đẹp. Nhưng “vì một người duy nhất là Ađam, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12). Cho nên rõ ràng rằng tính hư tật xấu là do bởi ta mà ra. Chẳng hạn, tức quá hóa dại. Cho nên, Chúa ban cho ta ơn khôn ngoan, khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.
Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ đồng thời nhờ ơn Chúa chúng ta hãy biến đổi những khuynh hướng xấu của tội thành thánh và thiện. Cho nên, Mùa Chay là mùa của biến đổi, đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.
Tin Mừng Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Chúa. Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến. Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người trở về tình trạng nguyên tuyền, là hình ảnh Thiên Chúa. Qua biến cố biến hình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang. Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ chúng ta hôm nay phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, từ bỏ tính hư tật xấu để trở nên người con của Chúa, xứng đáng là hình ảnh của Chúa để vào Nước Ngài.
Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên tội lỗi tổ tông và tội riêng của chúng ta được Chúa biến đổi thành một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh. Nhờ cuộc biến hình này mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi phủ vây. Vì vậy, chúng ta lại cần phải chạy đến Bí Tích giao hòa để Chúa biến đổi từ tội nhân thành trong sạch.
Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình nhờ năn chạy đến với Chúa và lãnh nhận các Bí tích, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thửa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người. Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
------------------------------ MC 2-ABC468: Biến hình trên núi Tabor
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mt 17: 1-9: Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo... Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến MC 2-ABC468
Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến 70 năm.
Nhưng nếu muốn sống thọ như vậy, chúng buộc phải có một chọn lựa quan trọng và rất khó khăn ở tuổi 40.
Khi sống đến 40 tuổi, móng vuốt của chim ưng bắt đầu lão hóa, không thể túm chặt được con mồi nữa.
Mỏ của nó trở nên vừa dài vừa cong, gần như đụng đến ngực.
Ngoài ra, cánh của nó cũng trở nên vô cùng nặng nề, khiến nó mất rất nhiều sức khi bay lượn.
Lúc này, nó chỉ có hai lựa chọn: một là đợi chết, hai là trải qua quá trình lột xác và tái sinh vô cùng đau đớn.
Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo.
Việc đầu tiên mà nó cần làm ở đó là mổ liên tục vào vách đá cho đến khi cái mỏ cũ của nó hoàn toàn tróc đi.
Sau đó, nó phải nằm chờ đến khi cái mỏ mới được mọc lại.
Tiếp theo, nó phải trải qua một quá trình đau đớn hơn - dùng cái mỏ mới nhổ từng cái móng cũ ra và chờ móng mới mọc lại.
Cuối cùng, nó phải nhổ đi từng chiếc lông vũ và tiếp tục chờ đợi để đám lông vũ mới mọc ra.
Đến lúc này, diều hâu mới có thể bay lượn lại và sống thêm ba mươi năm nữa.
(First News, Điều bình dị thông thái p.57-58)
Hôm nay ngày lễ Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.
Chúng ta sẽ chẳng hiểu được dụng ý của Chúa Giêsu khi hiển dung trên núi Tabor, nếu chúng ta không đặt trong bối cảnh của sự kiện.
Sau khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: vậy các con bảo Thầy là ai?
Simon Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Tiếp đó, Chúa Giêsu nói về cái chết sắp đến của Người:
Thầy phải lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tế và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21).
Nghe thế Phêrô đã can ngăn Chúa.
Cho tới lúc này các môn đệ vẫn chưa hiểu sứ vụ Messia của Chúa Giêsu.
Các ông theo Chúa và các ông vẫn thầm mong rằng khi Nước Chúa hiển trị các ông cũng sẽ được chia chác quyền lợi cũng như địa vị trong vương quốc của Chúa.
Chính vì vậy sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao.
Chúa đã tỏ vinh quang của Người trước mặt các ông.
Và Phêrô đã thốt lên: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy cho phép, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.
Chính ở đây Phêrô hiểu ra rằng để được tham dự vào vinh quang của Chúa Phêrô phải chấp nhận con đường khổ giá mà Chúa Giêsu nói đến cách đây sáu ngày.
Để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor, chắc chắn chúng ta cũng phải qua con đường thập của Chúa Giêsu.
Chính con đường thập gía, chúng ta sẽ được biến đổi, biến đổi để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor.
Nhưng phải biến đổi như thế nào?
Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói với tín hữu Êphêsô:
”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22.24). Phải lột bỏ con người cũ như thế nào?
Hình dung lại những giai đoạn lột xác của chú chim ưng chúng ta sẽ thấy:
- Trước hết nó mổ liên tục vào vách đá để cho lớp mỏ già cũ tróc đi.
Quả là một hy sinh đau đớn và tốn nhiều công sức.
- Sau đó lại phải dùng chính cái mỏ mới này để rút những móng vuốt già cũ của đôi chân. Một tác động phải can đảm lắm.
- Sau cùng phải rút tỉa những chiếc lông già cũ.
Công việc này chắc chắn sẽ làm chú chim ưng ê ẩm đau nhức một thời gian khá dài.
Chú chim ưng chỉ muốn kéo dài kiếp sống thêm 30 năm mà còn phải chấp nhận 150 ngày thử thách đau thương, phương chi là con người chúng ta, từ một con người yếu đuối, tội lỗi để đi vào sự chia sẻ thiên tính vinh quang của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải trải qua những giai đoạn lột xác như con chim ưng.
Lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.
Và để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa lúc Chúa biến hình trên núi Tabor, nhưng chúng con lại muốn dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không muốn trèo lên núi Canvê.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mạnh dạn theo Chúa trên con đường Chúa đã đi, con đường thập giá, con đường dẫn lên Núi Sọ. Amen.
----------------------------- MC 2-ABC469: Vẻ đẹp của phẩm giá con người
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Mt 17: 1-9: Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá...
SUY NIỆM Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt MC 2-ABC469
Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt trội, thìon người kỳ vọng về một cuộc sống hạnh phúc hơn, an bình hơn. thế nhưng sự kỳ vọng luôn là một ước mơ xa vời, cho dẫu y khoa có tiến bộ đó, nhưng con người vẫn luôn đối diện với những căn bệnh ngặt nghèo mà không có một phương thuốc chữa trị được; cho dẫu khoa học kỹ thuật đang nỗ lực tạo ra cho con người những tiện nghi để cuộc sống đỡ vất vả hơn, thế nhưng cuộc sống của con người vẫn luôn đầy dẫy khó khăn; sự văn minh có tiến bộ đó, nhưng đời sống con người luôn ở trong tình trạng bất an. Sự bất an đó không chỉ đến từ mối lo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về an ninh xã hội…, nhưng trên hết chính là sự vô cảm ngày càng phát trển nơi cộng đồng xã hội về việc tôn trọng phẩm giá con người.
Con người trong thế kỷ tiến bộ nầy đã biến thành phương thế kiếm tiền cho các tổ chức tội phạm như nạn bắt cóc trẻ em để buôn bán nội tạng hoặc biến thành nô lệ tình dục cho những người nhiều tiên nhiều bạc nhưng bệnh hoạn, nạn buôn bán phụ nữ cho các quán lầu xanh để phục vụ cho những con người chỉ tìm thoả mãn nhục thú, và nhất là sự sống con người càng ngày càng bị khinh rẻ, cho nên người ta đã không gớm tay khi phá thai, hoặc ra tay giết chết đồng loại. Người thời đại hầu như không còn nhận ra đặc tính thần linh nơi con người, mà hầu như chỉ còn coi sự hiện hữu của con người giống như bao sinh vật khác, và vì thế phẩm giá con người bị chà đạp cách thô bỉ.
Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá. Nhờ phẩm giá đó mà con người được Thiên Chúa yêu thương và được gọi là con. Quả thật, lời Kinh Thánh đã minh xác: Đức Kitô đã mặc lấy thân xác con người như chúng ta, nghĩa là một thân xác được cấu tạo từ bụi đất, mỏng dòn và hư hoại. Nhưng thân xác đó đã được Đức Kitô biến đổi để trở nên chói lọi như mặt trời, có nghĩa là thân xác đó được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa. Và điều đó thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng về sự vinh quang mà thân xác của chúng ta sẽ được dự phần.
Niềm hy vọng đó không là chuyện hão huyền, bởi Đức Kitô đã trở thành trưởng tử của đàn em đông đúc, cũng có nghĩa là người anh cả không để đàn em hư mất, nhưng trái lại người anh ở đâu thì đàn em cũng ở đấy. Vì thế, cuộc biến hình trên núi của Chúa là lời mời gọi chúng ta bước theo Người để cùng được biến đổi như Người. Con đường theo Chúa, chính là con đường của Thập Giá, con đường của hy sinh, của từ bỏ lối sống hưởng thụ ích kỷ, để yêu thương và biết xót thương.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tôn trọng phẩm giá của chính mình và của ngừoi khác để chúng con luôn biết điểm tô cho phẩm giá bẳng tình yêu thương, và sự dấn thân phục vụ thiện ích cho nhau. Amen
--------------------------- MC 2-ABC470: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông) Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình MC 2-ABC470
Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố này nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng trong thời gian Mùa Chay họ không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm Thương Khó và Tử Nạn, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang của Đức Giê-su.
St 12: 1-4a
Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài, như thư gởi tín hữu Do thái viết: “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).
2Tm 1: 8b-10
Viết cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhớ hiệu quả tâm linh của đau khổ, vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.
Mt 17: 1-9
Tin Mừng trình thuật cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt vào trong bối cảnh Đức Giê-su loan báo lần đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã khiến cho các môn đệ bàng hoàng. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao, ở đó Ngài cho các ông thoáng thấy trước vinh quang Phục Sinh của Ngài, qua đó Ngài đảm bảo với các ông rằng Thương Khó và Tử Nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh quang.
BÀI ĐỌC I (St 12: 1-4a)
Sách Sáng Thế được chia thành hai phần: phần thứ nhất (1: 1-11: 26) trình thuật nguồn gốc nhân loại và phần thứ hai (11: 27-50: 26) trình thuật nguồn gốc dân Ít-ra-en qua các Tổ Phụ của họ. Bài Đọc I, trích từ đoạn đầu của phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.
1. Ơn gọi (St 12: 1)
Lời mở đầu của Bài Đọc 1: “Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi’” (12: 1), quy chiếu đến những sự kiện trước đó (11: 27-32). Quê quán của ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, là thành Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua cùng với gia tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng ông Te-ra cùng gia tộc của mình định cư lập nghiệp ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và ở đó ông qua đời (11: 32).
A- Cuộc hành trình đức tin
Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham, người con trưởng của ông Te-ra, muốn tiếp tục thực hiện ước nguyện của cha mình? hay vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về cuộc hành trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.
Trước hết, vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất khi loại bỏ các vị thần linh khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en. Thứ nữa, khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi ông thực hiện một hành vi đức tin: cắt đứt mọi mối dây liên hệ với quê hương, bà con thân thuộc và nhà cha của mình để đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người” (12: 1). Hơn nữa, vào lúc đó, Thiên Chúa chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (12: 4).
B- Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa
Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà tổ phụ Áp-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó với Thiên Chúa mật thiết hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.
Đây là khuôn mẫu các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước. Khi nào Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … , Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân. Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ từ bỏ cách dứt khoát như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng phải có một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, Ngài cũng đòi hỏi những người mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý như vậy: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi!”.
2. Lời hứa (St 12: 2)
Lời đầu tiên Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…” (12: 2), lời hứa này sẽ còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần xuyên suốt “truyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham (St 11: 27-25: 11).
Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực trạng trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già bảy mươi lăm tuổi không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không tương xứng với những gì mà ông hiện có trong tầm tay: một kẻ không có gì bảo đảm cho tương lai (vợ ông, bà Xa-rai hiếm hoi, không con: St 11: 30) được mời gọi lên đường đến một nơi chưa được xác định. Tuy nhiên, truyền thống Ít-ra-en luôn luôn xem tổ phụ Áp-ra-ham là cha của lời hứa. Chính vì lời hứa nầy mà ông sống. Quả thật, chính từ lời hứa này, ông sinh ra một dân mà Chúa đặc tuyển làm dân riêng của Ngài, một dân mà Thiên Chúa ưu ái cách đặc biệt.
3. Lời chúc phúc (12: 3)
Lời chúc phúc của Thiên Chúa là dấu chỉ hữu hình cho thấy tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hữu hiệu và nhắc nhớ ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:
“Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho người;
ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3).
Lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham, nhưng mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo mạch văn của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của ông Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của ông Kham và ông Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông Áp-ra-ham cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một người, một dân tộc, trong cái khung lịch sử để truyền đạt giao ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân tộc trên mặt đất, ngay từ nguyên khởi của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích phổ quát của Ki-tô giáo rồi.
4. Viễn cảnh thần học
Tác giả Gia-vít đã suy niệm sâu xa về địa vị ưu đẳng của con người và sự thất bại do tội lỗi gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính tác giả đã nhắc nhớ huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Ca-in và A-ben, lụt Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong vũng lầy của sự ác và là đối tượng của những trừng phạt và những lời chúc dữ của Thiên Chúa.
A- Tổ phụ Áp-ra-ham là phản đề của nguyên tổ A-đam
Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng lệnh Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ Áp-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập vào nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ: “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.
B- Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của những người tin
Tổ phụ Áp-ra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi thờ phượng: Xi-khem, Bê-then… Từ cuộc sống du mục của vị tổ phụ nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh: “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 8-12).
BÀI ĐỌC II (2 Tm 1: 8-10)
Thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm rất nghiêm ngặt ở Rô-ma: thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính” (2Tm 4: 6-8).
1. Ông Ti-mô-thê
Ông Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã nhận ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16: 1-3).
Cha ông là người Hy lạp, còn mẹ ông là người Do thái đã theo Ki-tô giáo, ông Ti-mô-thê đã được mẹ ông là bà Êu-ni-kê và bà ngoại ông là bà cụ Lô-ít dạy Kinh Thánh lúc còn thơ ấu, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn kiến thức sâu xa về Kinh Thánh, như thánh Phao-lô đã nhận định về lòng tin của ông: “Tôi hồi tưởng lại niềm tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (1Tm 1: 5).
Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau vô cùng mật thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có ông Ti-mô-thê là người đồng gởi, trong đó có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê trông coi cộng đoàn Ê-phê-xô để đảm bảo công việc loan báo Tin Mừng vẫn được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, thánh Phao-lô đưa ra những huấn thị của mình cho những người kế nghiệp ngài.
2. Lý do của bức thư
Vào lúc đó, cộng đoàn Ê-phê-xô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Khi phải đối mặt với những trào lưu tư tưởng, người tông đồ phải giữ vững một thái độ duy nhất là “loan báo Tin Mừng”. Trong đoạn trích dẫn ngắn này, thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo được.
3. Tính hiệu quả của sự đau khổ
Để lời khích lệ mình có tác dụng, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình: “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (1: 8). Nhờ đau khổ, lời rao giảng Tin Mừng được sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê: “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).
4. Ơn gọi tông đồ
Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy ân sủng của Thiên Chúa, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ chúng ta đã làm”. Những lời nầy âm vang Bài Đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống: chính thánh nhân, xưa kia là một Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật và là người nhiệt thành bách hại Ki-tô giáo, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài không do công trạng của mình, nhưng do “kế hoạch và ân sủng của Chúa”.
5. Sự chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh
Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao hàm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được biểu lộ qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Trong những thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn trích nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết giữa lòng cộng đoàn Ê-phê-xô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Thánh Phao-lô ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.
Thư này không được gởi cho cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy, như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (“Parole sur le chemin”, tr. 52).
TIN MỪNG (Mt 17: 1-9)
Bài trình thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài trình thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng là một trong những bài trình thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Trước đó, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Thánh Phê-rô đáp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15-16). Nghĩ rằng thời điểm đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã ngăn cản Ngài. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.
1. Thời điểm, nhân vật và nơi chốn
Bài trình thuật bắt đầu với thời điểm: “Sáu ngày sau”, diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài trình thuật tiếp theo sau, nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài trình thuật đi trước. Thời điểm “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16).
Bài trình thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị” (Mt 16: 28), trong khi bài trình thuật Biến Hình bắt đầu với việc kể ra ba nhân vật được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: “Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao”. Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy rằng câu nói bí nhiệm nầy loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt kiểu nói: “trong số người có mặt ở đây”, có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Ngoài ra, thời điểm “Sáu ngày sau” và nơi chốn “một ngọn núi cao” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người mà sau nầy cũng sẽ được chứng kiến lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).
Trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều xác định biến cố Biến Hình xảy ra “sáu ngày sau” lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Mc 9: 2; Mt 17: 1), thì thánh Lu-ca lại xác định “khoảng tám ngày sau” (Lc 9: 28), tức là ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, ngày các truyền thống Tin Mừng tưởng niệm ngày Phục Sinh của Đức Giê-su. Tuy các Tin Mừng Nhất Lãm đưa ra thời điểm có khác nhau, nhưng cả ba đều có chung quan điểm thần học như lời nhận định của cha Guillemette: “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ phải vâng lời đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang qua thập giá” (“L’Evangile de Matthew”, 195).
Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta câu trả lời: “Người lên núi để cầu nguyện”. (Lc 9: 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và là nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, sự kiện núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì “ngọn núi cao” không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc Thần Hiển.
2. Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài
Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su thành một con người rạng ngời vinh hiển: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”, còn thánh Lu-ca thì mô tả sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Chúa Giê-su thân thưa với Cha của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9: 29). Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có quyền gì trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là tham dự trước cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
3. Sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a
Chính trên một ngọn núi Xi-nai (còn gọi là Khô-rếp), ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp gỡ Thiên Chúa. Cũng trên ngọn núi Biến Hình nầy, “ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”. Sự hiện diện của hai nhân vật này là một bảo chứng tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai ông được xem như báo trước Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã báo trước rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18: 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến.
Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện khởi đầu và chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Bài trình thuật của thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9: 31). Thuật ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian khổ nhất của dân Ít-ra-en: ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn họ đến miền Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian khổ nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang. Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong kiếp sống phàm nhân trên con đường tiến về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, Chúa Giê-su được Chúa Cha an ủi cách đặc biệt bằng biến Cố Biến Hình. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua của cuộc Biến Hình.
4. Ba nhân chứng
Chỉ có ba môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, được diễm phúc chứng biến cuộc Biến Hình. Trước đây, chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5: 37), và sau này cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su dẫn theo với Ngài vào trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Ngài (Mt 26: 37). Trước đây, trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên sự chết (Mc 5: 37), còn nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ nghe Chúa Cha chứng nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17: 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.
Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Ki-tô chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Sau này, vị lãnh tụ của các Tông Đồ sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, còn lúc nầy thánh nhân chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Sọ. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.
Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình:
“Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
Ẩn hiện sau Tựa Ngôn này là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
5. Phản ứng của Phê-rô
Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ một mình thánh nhân bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh.
Trong câu chuyện Biến Hình nầy, thánh nhân cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, bộc trực, nghĩ sao thì nói vậy, thánh Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều: một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu như vậy, thánh nhân không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể thánh nhân liên tưởng đến lễ Lều, lễ tưởng niệm dân Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng niềm mong đợi thời Thiên Sai.
Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Ngài (Ed 37:27 ; Hs 12: 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Ki-tô của họ (Ga 1: 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, thánh Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Ki-tô. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên mặt đất ngỏ hầu cuộc Thần Hiển trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.
6. Cuộc Thần Hiển
“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”. Trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời phủ che sự hiện diện hữu hình nhưng siêu việt của Thiên Chúa trước mắt phàm nhân (Xh 40: 34-35 ; 1V 8: 10-12 ; Ed 10: 3-4 ; Tv 18: 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả, tuy nhiên ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” với lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su. Lời công bố này không chỉ nhấn mạnh đặc tuyển, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trên môi miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18: 15). Như vậy, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ làm một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại (17: 9). Nói cho cùng, chỉ trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Giê-su, các ông mới có thể hiểu được những gì các ông đã chứng kiến trong cuộc Biến Hình này. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.
7. “Chỗi dậy đi”
Trước đây, các ông đã nghe lệnh truyền nầy vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia, lúc này Đức Giê-su cũng lập lại lệnh truyền này với các ông: “Chỗi dậy đi!”, đó cũng là lời căn dặn được ngỏ với các ông: “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”. Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia và cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết: “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21).
--------------------------------- MC 2-ABC471: CON THIÊN CHÚA TỎ MÌNH Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi MC 2-ABC471
TMĐP- Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi người chúng ta và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” trong mùa chay trở về với Ngài và trên hành trình đi theo Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ.
Mùa chay nói riêng, và cuộc đời đi theo Đức Giêsu nói chung là con đường Vượt Qua: vượt qua những nghi nan, sợ hãi, những yếu đuối, lỗi lầm, những chán nản, thất vọng, những buông xuôi, gục ngã, những thử thách bên trong, và thách đố bên ngoài để đạt đến ngày phục sinh được cứu độ.
Các môn đệ của Đức Giêsu đều trải qua những kinh nghiệm vượt qua rất cam go khi đi theo Đức Giêsu, đến nỗi “nhiều môn đê rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66) như Tin Mừng Gioan kể lại, khi các ông nghe chướng tai lời giảng dạy của Thầy mình: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54).
Sở dĩ các môn đệ chưa dám liều lĩnh “từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu” (x. Mt 16,24) như đòi hỏi của Ngài, vì niềm tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng được sai đến thế gian để cứu thế gian của các ông chưa đủ lớn. Vì thế, Đức Giêsu đã “đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” (Mt 17, 1-2). Ngài làm thế là để các ông tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Như chúng ta biết, núi cao trong Cựu Ước là núi của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người, như trên núi Sinai, Thiên Chúa Giavê đã gặp Môsê và ban Lề Luật cho dân Ngài.
Khi biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đê, Đức Giêsu tỏ cho các ông thiên tính của Ngài, để các ông tin Ngài là Thiên Chúa, qua “dung nhan chói lọi như mặt trời, y phục trắng tinh như ánh sáng”, lại có hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước là Môsê và Êlia có mặt đàm đạo với Ngài (x. Mt 17, 2-3).
Trước vinh quang của Thiên Chúa, ba môn đệ đã có sáng kiến và đề nghị ngay với Đức Giêsu một giải pháp tốt ưu, đó là “Thầy trò không xuống núi nữa , nhưng định cư vĩnh viễn ở nơi này, vì “chúng con ở lại đây thật qúa tuyệt!” (Mt 17,4), và lập tức Phêrô mau mắn xung phong dựng ba lều: một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia.
Giải pháp tức thời của ba môn đệ là chọn lựa quen thuộc của con người, vì không ai muốn vất vả, khó nhọc, cũng không ai chịu đổ mồ hôi máu, như hầu hết các ông đã chau mày khó chịu, không muốn nghe Đức Giêsu loan báo về cuộc thương khó và tử nạn Ngài sắp phải chịu ở Giêrusalem, hoặc như Phêrô đã không ngần ngại lên tiếng can gián Thầy mình: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22).
Không muốn xuống núi hôm ấy, ba môn đệ đã tưởng rằng theo Chúa là sẽ đi thẳng vào vinh quang phục sinh, mà không cần phải đi qua đau khổ của Thánh Giá, cũng như lầm tưởng đã thấy thiên tính huy hoàng, chói lọi của Thầy rồi, thì chẳng ngại gì mà không quên đi mầu nhiệm làm người của Thầy.
Đứng trước nỗi kinh hoàng, sợ hãi của ba môn đệ, sau khi các ông nghe tiếng phán từ đám mây sáng ngời bao phủ các ông: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, Đức Giêsu đã lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17,7).
Chạm vào các ông để các ông đừng sợ những bước chân ngày mai, dù là những bước chân do dự, run rẩy, lỡ nhịp giữa cuộc sống nhiều rủi ro, đe dọa; chạm vào các ông để các ông đừng sợ, nhưng “dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa” và chấp nhận “đồng lao cộng khổ”để loan báo Tin Mừng (x. 2 Tm 1,8); chạm vào các ông để nâng các ông dậy từ những yếu đuối, “vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1,7); chạm vào các ông để đánh thức các ông tỉnh dậy từ bóng tối u mê, vì vinh quang Thiên Chúa của Ngài đã được biểu lộ; và sau cùng, chạm vào các ông để các ông được chỗi dậy với Ngài từ cõi chết, vì chính Ngài đã “tiêu diệt thần chết mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” cho hết những ai tin Ngài là “Con yêu dấu của Chúa Cha”, và là Đấng Cứu Độ tràn đầy ân sủng (x. 2 Tm 1,9).
Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi người chúng ta và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” trong mùa chay trở về với Ngài và trên hành trình đi theo Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ.
Jorathe Nắng Tím
--------------------------------------
MC 2-ABC472: Rực rỡ trắng tinh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, các vị hoàng đế Byzantin, đã ra lệnh đập phá các ảnh tượng tôn giáo MC 2-ABC472
Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, các vị hoàng đế Byzantin đã ra lệnh đập phá các ảnh tượng tôn giáo, bởi họ tin rằng Kinh Thánh cấm không được tạc ảnh tượng. Đầu thế kỷ thứ 8, thánh Gioan Đamascô đã chống lại chuyện này. Ngài viết: “Vào thời xưa, Thiên Chúa không có hình có dạng, nên không bao giờ có thể được vẽ ra. Nhưng nay, khi Thiên Chúa đã mang xác thể, trò chuyện với con người, tôi sẽ vẽ một bức tranh theo Thiên Chúa mà tôi thấy.” Nhờ khẳng định mạnh mẽ này của thánh nhân mà ngày nay chúng ta có những ảnh tượng thánh. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, nơi con người Đức Giêsu, Thiên Chúa vô hình đã có một khuôn mặt, một thân xác, giống như bất cứ người nào trong chúng ta. Các môn đệ đã rất quen với khuôn mặt ấy, thân xác ấy. Họ đã có thời gian sống chung, trò chuyện và gặp gỡ với người mà họ gọi là Thầy, là Rabbi ! Cách đây sáu ngày, tại vùng đất dân ngoại (Mc 8,27), Thầy đã nói cho các môn đệ biết về tương lai của mình: bị đau khổ, bị loại trừ, bị giết và sống lại. Thầy cũng nói cho các môn đệ biết về tương lai của họ: từ bỏ mình, vác thập giá, mất mạng sống để rồi tìm được lại. Họ đã có dấu hiệu chùn bước khi nghe về tương lai u ám… Chẳng ai để ý đến việc Thầy nói về phục sinh (Mc 8,31), hay về việc Thầy sẽ đến trong vinh quang rực rỡ (Mc 8,38). Hôm nay, Thầy dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao, nơi Thầy quen gặp Cha, Đấng sai Thầy. Chính nơi đây Thầy đã được Cha biến đổi hình dạng. Không phải chỉ khuôn mặt, nhưng toàn bộ con người. Cả con người Thầy rạng ngời ánh vinh quang thần linh. Cả y phục của Thầy cũng mang sắc trắng của thiên giới. Vị Thầy thân quen của họ như bước ra từ một thế giới khác. Rồi có hai nhân vật đáng kính là Êlia và Môsê xuất hiện. Các vị này trò chuyện với Thầy Giêsu. Cảnh tượng linh thiêng này làm họ ngây ngất và hoảng sợ. Đỉnh điểm của thị kiến này là tiếng nói phát ra từ đám mây. Mây vừa che giấu, vừa tỏ bày sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa trực tiếp nói với các môn đệ từ đám mây. Ngài giới thiệu cho họ biết Thầy Giêsu của họ là ai. Thầy không chỉ là Đấng Kitô như Phêrô tuyên xưng. Thầy chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, có tương quan thân thiết với Cha chẳng ai sánh bằng. Hai ông Êlia và Môsê xuất hiện rồi lại biến đi. Chỉ Thầy Giêsu còn ở lại, chỉ Thầy được gọi là Con yêu dấu. Thiên Chúa Cha ra lệnh: Hãy lắng nghe Người (Mc 9,7). Lắng nghe về định mệnh đang chờ đợi cả Thầy lẫn trò, rồi chấp nhận và đi vào con đường Thiên Chúa dọn sẵn, con đường hẹp, chẳng ai muốn đi, nhưng lại dẫn đến sự sống, chứ không phải là ngõ cụt. Cứ mỗi Chúa nhật 2 Mùa Chay ta lại đọc bài Chúa Biến hình. Đây là một hy vọng xanh ngát ngay giữa màu tím của phụng vụ. Rồi cũng đến lúc Thầy trò phải xuống núi hạnh phúc này để lên núi Cây Dầu và núi Sọ. Rồi có lúc ba môn đệ sẽ thấy khuôn mặt xao xuyến của Thầy, khuôn mặt đầy máu và thương tích trong cuộc Khổ nạn. Nhưng Phêrô sẽ không quên được kinh nghiệm này (2 Pr 16-18): nghe tiếng của Thiên Chúa Cha phán từ trời trên núi thánh. thấy Thầy Giêsu với vẻ lẫm liệt uy phong. Biến hình là quà tặng của Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu. Khi Ngài đón lấy ý định nhiệm mầu của Cha, thì thần tính vốn bị che giấu nay được Cha vén mở. Mùa Chay là thời gian chúng ta lên núi để được biến hình, nếu chúng ta chấp nhận lắng nghe và tuân giữ lời Con Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hon sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
---------------------------------
MC 2-ABC473: “Lên núi”
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì MC 2-ABC473
Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người. Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.
Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19). Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb. Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng. Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ. Và cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.
Để lên được núi cao, con người phải buông bỏ những ràng buộc. Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có thể tới đỉnh núi. Lên núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để con người thanh thoát. Chỉ khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa.
Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.
Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười”, như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi xế chiều. Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa. Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của Ngài. Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông. Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu”. Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa con thừa tự của mình. Chính do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương lai. Đó là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.
Cuộc lên núi thứ hai được diễn tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Tác giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật. Đó là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh. Trước lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì. Vậy nên ông Phêrô mới can gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33). Chính trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Ba môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi. Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu.
Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người. Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Nếu trước đó sáu ngày, ông Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình, ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình. Ông đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia. Tác giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh hoàng. Khi chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.
Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử. Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa. Mùa Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta. Theo Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ. Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình. Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực đối với chúng ta.
“Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).
---------------------------------
MC 2-ABC474: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
“NGƯỜI BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG TRƯỚC MẮT CÁC ÔNG”
1. Đi riêng ra một chỗ
Trên đường đi theo Đức Ki-tô, vào một lúc nào đó, các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được MC 2-ABC474
Trên đường đi theo Đức Ki-tô, vào một lúc nào đó, các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được chọn để đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Trong Kinh Thánh, núi là nơi Thiên Chúa tỏ hiện và con người đi lên núi để gặp gỡ Ngài. Núi có ý nghĩa như thế, vì đó là hình ảnh diễn tả việc giữ khoảng cách với những vấn đề của cuộc sống, vốn hay trói buộc con người, để có thể hướng về trời cao và những gì thuộc về trời cao. Chính vì thế, Đức Giê-su hay lên núi cầu nguyện, giảng ở trên núi, chẳng hạn Bài Giảng Trên Núi trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Mt 5-7); và đặc biệt lần này, trên một ngọn núi cao, Ngài bày tỏ căn tính thần linh của Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và lịch sử cứu độ.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, trong ơn gọi thánh hiến và cả trong ơn gọi gia đình nữa, chúng ta cũng được Chúa mời gọi, và phải nói mạnh hơn, được Chúa chọn, đi riêng ra một chỗ, tới “ngọn núi cao” biểu tượng, nghĩa là tới nơi Thiên Chúa tỏ hiện và ngỏ lời với chúng ta, để lắng nghe Lời của Ngài, để nhận ra ân huệ Ngài ban và cảm nếm được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta, qua đó, có thể ca tụng và tạ ơn Chúa, và cũng để xin Ngài chữa lành, soi sáng, thêm sức và tái tạo chúng ta, và có khi một cách đơn sơ, để ở với Ngài một cách nhưng không. Cuộc sống của chúng ta vốn đầy thách đố đủ loại, vì thế, chúng ta cần biết bao, cùng với Chúa, đi riêng ra một nơi, lên ngọn núi cao.
Thật ra, những lúc đi riêng ra một nơi với Chúa, vẫn được ban cho chúng ta đấy thôi, nhưng chúng ta lại thường không đón nhận cách quảng đại như một ơn huệ Chúa ban.
* Đó là thời gian cầu nguyện cá nhân hằng ngày. * Đó là thời gian chúng ta dâng Thánh Lễ, đọc kinh Phụng Vụ, thời gian chúng ta cầu nguyện chung với nhau. * Đó là thời gian tĩnh tâm, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm hay những lúc chúng ta khao khát cầu nguyện và sắp xếp được thời gian.
Ước gì trong những lúc “đi riêng ra một nơi” với Chúa, Chúa ban cho chúng ta có cùng kinh nghiệm thiêng liêng như các tông đồ, đó là cảm nếm căn tính chói ngời của Chúa, để có thể nói: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”.
2. Dung nhan rạng ngời của Đức Giê-su
Ánh sáng chói lòa của Đức Giê-su trên đỉnh núi (Mc 9, 2-8) muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói trước đó:
Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
(Mc 8, 34-38)
Chính lúc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3).
Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giê-su trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 2-3); và theo lời kể của thánh Mát-thêu: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giê-su, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).
Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Ki-tô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Ki-tô.
Vậy, trên hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Ki-tô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta ; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!”
3. “Chúng con ở đây thật là hay”
Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của các môn đệ để hiểu hết lời nói này của ông Phê-rô:
Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều…
Có người hiểu câu nói này của ông Phê-rô như sau: “Rất may, có chúng con ở đây để phục vụ các Ngài…”. Tuy nhiên, như Thánh Mác-cô thuật lại, thực ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Vì thế, chúng ta phải hiểu đó đơn giản là lời diễn tả cảm xúc, diễn tả niềm hạnh phúc khôn tả được chiêm ngắm vĩnh cửu ; và ông Phê-rô muốn duy trì hạnh phúc này mãi mãi, bằng cách dựng lều cho các vị. Lều là biểu tượng của sự an nghỉ cánh chung. Và đối với ông Phê-rô, cánh chung là đây.
Chúng ta hãy ước ao có được kinh nghiệm này khi chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giê-au, và nhất là Cuộc Thương Khó của Ngài, vì có một lúc nào đó, Ngài sẽ trở lên chói lọi đối với chúng ta. Và chính với kinh nghiệm chiêm ngắm Đức Ki-tô chói ngời trong các Tin Mừng và trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận ra Chúa chói ngời, ngay trong đời sống đi theo Người đầy thách đố của chúng ta.
Thật vậy, đó chính là điều Chúa Cha muốn, khi Ngài đáp lời Phê-rô. Bởi vì, khi ông còn đang nói, có đám mây sáng ngời bao phủ cách ông. Đám mây là hình ảnh của sự di động, không thể làm chủ hay nắm bắt được, thay vì cố định, dễ làm chủ và nắm bắt như căn lều ; và từ đám mây Thiên Chúa Cha lên tiếng:
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời người.
Như thế, chính khi chúng ta vâng nghe Đức Giê-su, và đi theo Ngài trên con đường Thập Giá, trong ơn gọi của chúng ta với tâm tình biết ơn và yêu mến, chúng ta sẽ có được niềm hạnh phúc thần linh của Thiên Chúa. Và khi đó, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là hay!”.
---------------------------------
MC 2-ABC475: Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Thánh, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho chúng ta cảnh MC 2-ABC475
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Thánh, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho chúng ta cảnh đẹp lộng lẫy biến hình của Chúa Giêsu, có Phêrô, Giacôbê và Gioan làm chứng. Tin Mừng mô tả: “Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các ông và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết” (Mc 9, 2-3). Chúa Giêsu biến hình Trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá. Xin ơn biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần Chúa biến hình, báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng con mắt cũng như trái tim để nhìn thấy Ánh Sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu như sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13), thì giờ đây chúng ta cũng phải xin Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta biết biến đổi. Nhưng để biến đổi đâu có dễ, cần phải ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay, đặc biệt là xin Ngài biến đổi. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người khô khan biếng trễ xưng tội rước lễ, lười đi nhà thờ bỏ lễ Chúa nhật thành người đạo đức thánh thiện và siêng năng. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự mãn thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa Thánh Thần đã biến đổi các giác quan của các tông đồ, họ mới có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Cặp mắt được đổi mới, các ông mới nhìn rõ hơn những gì tỏa sáng, tai được biến đổi để nghe rõ hơn tiếng nói tuyệt vời và có thật: là tiếng nói của Thiên Chúa Cha, Đấng hài lòng về Con yêu dấu của Ngài. Chúng ta cũng thế, hãy để Chúa Thánh Thần tác động mới mong được biến đổi, giác quan của chúng ta mới có thể nhìn thấy và nghe được những điều kỳ diệu và vui mừng trong Thiên Chúa cùng với hàng ngũ các thánh đã được Chúa Giêsu phục sinh từ trong cõi chết. Để được biến đổi Hãy vâng nghe lời Chúa. Nhờ vâng nghe và thực hành lời Chúa, tổ phụ Abraham đã lên đường. Chúa bảo đi là đi. Thế nên, Abraham đã trở nên tổ phụ của một dân tộc đông đảo như sao trời cát biển. Trong lúc biến hình, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Có vâng nghe lời Chúa Cha, Đức Giêsu mới trở nên người con chí ái đẹp lòng Cha mọi đàng. Nhờ vâng nghe Lời Chúa, chúng ta mới xứng đáng là người môn đệ của Đức Giêsu. Cầu nguyện Đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trở nên sáng láng. Chúng ta cũng chỉ được biến đổi thân phận tội lỗi của mình bằng việc tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp và thứ tha. Đây là Mùa Chay, mùa biến đổi, chúng ta cần đến với Chúa để được biến đổi trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chẳng hạn như tham dự tĩnh tâm, giục lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm sửa đổi thói hư tật xấu bằng việc thực hành nhân đức mỗi ngày để đền tội. Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con. Xin biến đổi con mắt, môi miệng và lỗ tai con, để con biết thấy cái hay cái đẹp của tha nhân, biết nói lời hay lẽ phải, biết nghe Lời Chúa, và nhất là thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC476: Lên núi
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba MC 2-ABC476
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên ngọn núi Tabor. Đây là ba môn đệ thân tín của Chúa. Người yêu họ cách đặc biệt. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu khi xuống trần gian, Người cũng rất người. Người yêu mọi người nhưng vẫn có những tình cảm đặc biệt cho một số người. Người biến hình trước mặt ba môn đệ. Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không một thợ giặt trên trần gian nào có thể giặt trắng đến thế. Đó là một khoảnh khắc kỳ diệu trong đời. Ba môn đệ đã ngơ ngẩn, ngẩn ngơ khi chứng kiến khoảng khắc đó. Phêrô đã thốt lên “chúng con ở đây thật là hay”. Ông nói mà không biết mình nói gì vì tất cả các ông đều hoảng sợ. Quả thực, không hay sao được khi được ở bên Chúa, được xem thấy Chúa. Nếu có một điều để ước, tôi cũng ước được ở đó cùng với ba môn đệ để chứng kiến khoảnh khắc Chúa biến hình. Chỉ một lần và chỉ một lần thôi, được thấy Chúa là mãn nguyện lắm rồi.
Nếu như Chúa Nhật I, Chúa mời tôi vào sa mạc, thì Chúa Nhật II hôm nay, Chúa mời tôi lên núi với Người. Sa mạc và núi cao đều là những nơi Chúa hẹn gặp con người. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, Chúa ngỏ lời với con người. Để gặp được Chúa, tôi cũng phải ra khỏi bản thân để lên núi với Người.
Có một lần, tôi cùng với một nhóm Linh mục đi lên núi Yên Tử. Đây là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển, có ngôi Chùa Đồng nổi tiếng, nằm ở ranh giới của hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Dù đã có hệ thống cáp treo nhưng du khách vẫn phải tự leo lên một quãng đường khá dài. Trong nhóm của chúng tôi, một số cha lớn tuổi xin đầu hàng ngay từ đầu. Một số khác leo được giữa chừng thì bỏ cuộc vì bụng to quá. Chỉ có một nhóm nhỏ lên được tới đỉnh núi. Người lên đỉnh núi đầu tiên là một vị linh mục nhỏ nhất. Có lẽ ngài chỉ khoảng hơn 40 kg.
Quan sát vị linh mục chinh phục đỉnh núi đầu tiên, tôi rút ra được một bài học cho riêng mình. Để leo lên một ngọn núi cao, tôi cần phải có những hành trang cần thiết.
Thứ nhất đó là một niềm tin kiên vững không bỏ cuộc. Leo núi đòi tôi phải tốn nhiều sức lực. Có những đoạn đường nhiều chông gai không dễ đi. Tôi dễ dàng bỏ giữa chừng. Tôi cũng có thể thấy một cái gì đó trên đường lôi cuốn khiến tôi xao lãng. Tôi cần phải mạo hiểm, phải ra khỏi bản thân để có một cú nhảy của niềm tin, như niềm tin của cụ Abraham trong bài đọc 1 (St 22, 1-18 ). Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế chính con một yêu dấu của mình là Isaac cho Ngài. Đây là điều vượt quá luân thường đạo lý. Không có một nền luân lý nào cho phép cha giết con. Đó là một tội ác không thể dung thứ. Vì thế mà hành động của Abraham chỉ có thể hiểu được trong viễn cảnh ông tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa có thể trả lại sự sống cho Isaac và ông vẫn sẽ là tổ phụ của một dân đông đảo. Trong tác phẩm “Kinh hãi và run sợ” (Crainte et Tremblement), Soren Kierkegaard đã viết những dòng vô cùng tuyệt vời để diễn tả niềm tin của Abraham “Tôi nghiêng mình bảy lần trước quý danh Ngài và tôi nghiêng mình bảy mươi lần trước hành động đó của Ngài”. Abraham đã trở thành cha của những người có niềm tin là thế.
Thứ hai, để lên núi, tôi cần buông bỏ. Tôi cần bỏ lại những hành trang cồng kềnh khiến con người tôi ra nặng nề. Bụng càng to càng khó leo núi. Biết bao thứ trong cuộc đời bủa vây tôi. Tham luyến, sân hận, si mê đó là những thứ như muốn kéo ghì tôi xuống. Tôi cần can đảm chặt đứt những thứ đó để có thể nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng, tôi càng dễ dàng bay cao. Có những thói quen đã ăn sâu vào con người tôi. Muốn bỏ đi quả là điều không hề dễ dàng.
Lạy Chúa, xin biến đổi con mỗi ngày. Xin cho con một niềm tin kiên vững vào Chúa. Xin cho con biết thành tâm sám hối mỗi ngày để loại bỏ đi những Virus độc hại vẫn thường xâm chiếm linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa mỗi ngày bởi vì: “Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề. Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11).
-----------------------------------
MC 2-ABC477: Con người phải lòng Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng MC 2-ABC477
Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa giáng xuống những con người tội lỗi. Nhưng nhìn về tình yêu bao la của Chúa, con người lại e dè, xấu hổ. Nó tự thấy mình bất xứng với tình yêu mà Chúa Cả Trời Đất dành tặng cho nó. Thiên Chúa thì mải mê tìm kiếm và tỏ tình với con người. Rồi cũng đến lúc con người ngã vào lòng Thiên Chúa. Lịch sử cuộc tình ấy tiếp tục được trình bày trong Chúa nhật thứ II này.
Người đầu tiên thuận lòng theo Chúa
Sau khi đơn phương ký kết với ông Noe, Thiên Chúa không ngừng bày tỏ tình thương của Ngài với con người. Nhưng sau biến cố Đại Hồng thủy bi thương, dường như con người chẳng sợ hãi Thiên Chúa; Con người tiếp tục làm ngơ trước tình thương của Ngài. Câu chuyện tháp Babel như lặp lại cái tội kiêu ngạo của con người, tội đòi được bằng Trời. Tuổi thọ của các tổ phụ được mô tả dần dần bị giảm xuống cho thấy hậu quả của tội lỗi con người tiếp tục đè nặng trên đôi vai của nó.
Abraham, một người cụ thể phải lòng Chúa đã đột ngột bước vào lịch sử cuộc tình giữa Trời và người. Một con người chính thức gục ngã trước tình thương của Chúa. Ông đã không thể cưỡng lại được tình cảm yêu mến và sự chăm lo của Chúa dành cho Ông. Abraham đã thất thần phải lòng Thiên Chúa. Ông bước đi theo Ngài bất chấp mọi sự. Ra đi nhưng Ông không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ đơn giản là Ông đi theo tiếng gọi của Ngài.
Bài đọc thứ nhất (St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18) trích lại phần cao trào thử thách mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Chấp nhận đi theo Chúa rồi, nhưng những gì trải ra trước mắt Ông chỉ toàn là những trái ngang và mù mịt. Lời Chúa hứa ban cho Ông Bà một dòng dõi đông đúc luôn được Chúa nhắc lại. Nhưng điều quan trọng là tuổi Ông Bà đã già mà vẫn chưa có con thì nói gì đến dòng dõi. Thế rồi niềm hy vọng được khơi lên mạnh mẽ khi đứa con trai duy nhất của Ông Bà đến tuổi khôn. Nhưng chính lúc ấy thì Thiên Chúa kêu Ông hãy hiến tế con mình. Trái ngang và mịt mù làm vậy, nhưng Abraham vẫn nhanh nhẹn bước đi và thi hành theo Lời Chúa. Ông đã phải lòng Chúa thật rồi.
Tại sao Chúa lại cứ thử thách con người như thế? Người ta có thể than trách về Ngài cứ như là Chúa chỉ nói lời chứ không thực hiện. Nhưng lịch sử cho thấy Thiên Chúa đã dần thực hiện lời hứa của Ngài với tổ phụ Abraham về một dòng dõi đông đúc, một miền đất phì nhiêu và một lời chúc phúc. Ngược lại, lịch sử của con người lại phơi bày những yếu đuối, đổ vỡ, phản bội và bất trung với Chúa. Những thử thách trong tình yêu nhằm thanh tẩy con người ấy càng làm cho câu chuyện tình của Chúa và con người ngày càng trở nên mãnh liệt và đầy thi vị.
Cảm nếm cảnh xum vầy chan hòa hạnh phúc
Trong bài đọc thứ hai (Rm 8, 31b-34) trích từ thư Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh nhân đã thốt lên: “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Tình yêu mà Chúa dành cho con người quả thực không có biên giới. Thiên Chúa đã không để cho Tổ phụ Abraham dâng hiến đứa con một của mình cho Ngài. Nhưng đến lượt Ngài, thì Ngài đã trao ban chính Con Một của mình cho con người. Thiên Chúa không bao giờ để cho con người bị tận diệt; và để cứu con người khỏi cảnh hư vong, Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người.
Nếu có giây phút nào đó khiến con người nghi ngờ tình yêu của Chúa, thì Ngài sẵn sàng cho con người hưởng kiến vinh quang ngày chiến thắng, ngày đoàn tụ trong hân hoan. Khung cảnh thần hiện của Chúa Giêsu trên núi Tabor được thuật lại trong bài Tin mừng Chúa nhật này (Mc 9, 1-9). Chúa Giêsu biến hình trở nên sáng láng cùng sự xuất hiện của Môsê và Êlia. Tất cả làm cho không gian trở nên lạ thường. Các môn đệ chứng kiến cảnh này đã bị choáng ngợp trước vẻ huy hoàng. Phêrô lên tiếng nhưng “Phêrô không rõ mình nói gì”. Các ông như không còn ý thức về thân phận mình nữa mà chỉ còn lại là sự thâm nhập của Chúa vào trong con người các ông.
Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”. Được cảm nếm giây phút rạng ngời trong Chúa, các ông chẳng còn thiết tha gì ở thế gian này. Ông đã thốt lên một lời trong tâm trạng hoảng sợ. Đứng trước cảnh tượng mà người ta chỉ còn có thể ngây người, há miệng, trố mắt nhìn thì làm sao mà còn nghĩ được gì. Phêrô nói mà còn chẳng biết mình nói gì. Nhưng nó lại cho ta thấy khát vọng sâu xa của con người là được ở lại trong Chúa. Lời thốt lên ấy của Phêrô là tiếng vọng từ tận sâu thẳm của tâm hồn con người. Chứng kiến một tình yêu cao cả đến thế nơi Chúa thì con người cũng dần phải lòng hết thôi.
Ngẫm
Phải lòng Thiên Chúa là hạnh phúc cho con người. Tình yêu Chúa có sức thanh tẩy con người tội lỗi, tái tạo và biến đổi con người đổ vỡ trở nên thánh thiện tinh tuyền. Chỉ một lần bạn được cảm nếm sự dịu ngọt của Chúa, bạn sẽ thấy tâm hồn trở nên tươi mới. Và cũng chỉ một lần bạn được ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa sẽ muôn đời bạn không thể quên Ngài. Những ngày tháng, hay chỉ là những phút giây bạn phải lòng Thiên Chúa, bạn bị Chúa chiếm hữu tâm hồn, thì bạn sẽ đủ nghị lực và niềm tin để vượt qua tất cả mọi chông gai thử thách trên đường đời.
Nếu không màng chi đến thời khắc lịch sử, thì Mùa Chay đến rồi lại đi. Chẳng còn gì đọng lại trong tôi, trong bạn. Mùa Chay là cơ hội, là dịp mà con người tự tạo ra cho nhau để mà cùng nhau cảm nếm Tình yêu Chúa. Trong tĩnh lặng hay trong hoảng loạn, trong không gian thiêng thánh hay giữa chốn phồn hoa, lời tỏ tình của Chúa vẫn không ngừng vang lên.
Hãy dừng lại một chút để cảm nếm bạn ạ. Hãy nuốt đi những miếng nhai nhồm nhoàm để hớp lấy giọt sương sa thanh khiết mát rượi; hãy bỏ xuống chiếc kính màu chắn nắng để diện kiến vinh quang rạng ngời của Tạo Hóa; hãy rút cái phone ra khỏi tai để bạn có thể nghe thấy âm thanh thực của cuộc sống, những âm thanh từ trời cao hay tiếng róc rách của con suối dưới chân đồi; hãy mở rộng tâm hồn để được cảm nhận tất cả những cung bậc của tình Trời và người đang rung lên từ những tế bào sống trong ta.
-----------------------------------
MC 2-ABC478: Lên núi để được biến đổi
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ không bất ngờ khi nói, Mùa Chay là mùa cầu nguyện; nhưng sẽ khá bất ngờ khi bảo, Mùa Chay MC 2-ABC478
Sẽ không bất ngờ khi nói, Mùa Chay là mùa cầu nguyện; nhưng sẽ khá bất ngờ khi bảo, Mùa Chay là ‘mùa lên núi’ và bất ngờ hơn khi cho rằng, Mùa Chay còn là mùa biến đổi. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ‘lên núi lòng mình’ để cầu nguyện; ở đó, như các môn đệ, chúng ta sẽ được đổi thay. Và như thế, Mùa Chay là mùa ‘lên núi để được biến đổi’.
Bài đọc Sáng Thế tường thuật cuộc lên núi nghiệt ngã của Abraham; ở đó, vị tổ phụ vâng lời Thiên Chúa, đã chấp nhận hiến tế Isaac con mình. Thế nhưng, ngọn núi này còn có tên là núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’, vì Abraham còn nhận ra khuôn mặt của một Ngôi Vị thần linh có trái tim thương xót vô bờ; Người là Thiên Chúa nhân hậu, đã tha chết cho con ông, cũng là Đấng đã đưa ông ‘lên núi để được biến đổi’. Lòng tin của ông vào Người càng tuyệt đối hơn, ông sẽ là “Cha các kẻ tin”.
Ngôi Vị thần linh có trái tim xót thương vô bờ đó, ‘đã liệu’ cho con của Abraham thoát chết, lại ‘không liệu’ cho Con Một của mình khỏi chết. Thánh Phaolô hẳn đã nhớ lại ngọn núi ân phúc ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ cho Abraham ấy để nói đến cái chết cần thiết của Chúa Giêsu, một cái chết không thể thiếu cho ơn cứu độ nhân loại vốn cũng xảy ra trên một ngọn núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ khác; Phaolô viết, “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con, vì tất cả chúng ta”.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy sự cần thiết việc các môn đệ ‘lên núi để được biến đổi’. Chúa Giêsu biết rõ những ai theo Ngài, cụ thể là các môn đệ, sẽ khó chấp nhận Ngài. Bởi lẽ, yêu kẻ thù, vác thập giá, hy sinh mạng sống và lời kêu gọi nên hoàn thiện, với họ, thật là cay nghiệt; và nhất là, họ sẽ trải qua những gì Ngài đã báo trước về cuộc thương khó và tử nạn của Ngài; cùng lúc, họ sẽ chịu bắt bớ và tan tác như chiên mất chủ. Vì những lý do đó, Chúa Giêsu đã đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi; ở đó, Ngài biến hình trước mặt họ, tỏ cho họ thoáng thấy Ngôi Vị thần linh cao cả của Ngài; đó là một mặc khải về Ngôi Vị thật của Con Thiên Chúa, Ngôi Vị Thiên Chúa. Việc chứng kiến sự vĩ đại và vinh quang của một vị Thiên Chúa nơi Thầy mình hẳn sẽ đọng lại trong họ và giúp họ mỗi khi bị cám dỗ dẫn đến nản lòng hay tuyệt vọng trước những quẩn bách hay những đòi hỏi thánh thiện Ngài đặt ra. Tắt một lời, cuộc hiển dung của Chúa Giêsu là sự ‘chuẩn bị gần’ trước khi họ đi vào thương khó của Thầy và trò; ‘lên núi để được biến đổi’ là thế!
Sau năm 373, muốn biết Chúa nhiều hơn, Thánh Gioan Kim Khẩu đã lên núi, một vùng cao gần Antioch. Mặc dù vì bệnh tật, thời gian cô tịch này không được nhiều năm, nhưng thánh nhân đã học được rằng, có Chúa ở bên, ngài có thể một mình chống lại bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Sau đó, là giám mục Constantinople, ngài đã chống lại những sai lạc của hoàng đế Theodosius, người khiến ngài phải lưu đày. Gioan Kim Khẩu đã để lại những lời bất hủ, “Điều gì khiến tôi có thể sợ hãi? Cái chết ư? Các người biết rằng, Đức Kitô là sự sống của tôi, tôi sẽ có được nó nhờ cái chết! Hay là lưu đày? Trái đất và tất cả sự sung mãn của nó đều thuộc về Chúa! Nghèo khó ư? Tôi không sợ; vì tôi chẳng ước mơ giàu có! Và chết ư? Tôi chẳng chồn chân!”.
Anh Chị em,
Như Thánh Gioan Kim Khẩu, những ngày Mùa Chay, chúng ta được mời gọi ‘lên núi’ không ngừng để biết Chúa Giêsu, hiểu Ngài như các môn đệ hiểu. Một khi đã xác tín Đấng tôi đi theo là ai, chúng ta mới có thể dễ dàng noi gương Ngài, nghĩa là sẵn sàng hiến tế ‘Isaac đời mình’, hiến tế cái tôi của mình. Và đây đích thực là sự biến đổi tận căn mà Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người. Chúng ta ‘lên núi lòng mình’ bằng lời cầu nguyện thầm lặng của trái tim, ra sức tìm kiếm Thiên Chúa, hầu có thể nhìn vào nội tâm của mình, và nhất là để nhìn vào khuôn mặt của Chúa Giêsu và cho phép ánh sáng Ngài tràn ngập, chiếu sáng và biến đổi cuộc sống của chúng ta. Và như thế, thật ý nghĩa, Mùa Chay này, chúng ta đã ‘lên núi để được biến đổi’ vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã cho con thấu hiểu và cảm nghiệm, con đang bước theo một Giêsu nhân từ và giàu lòng xót thương. Cho con không ngừng hiến tế ‘Isaac đời con’, vươn ra khỏi cái tôi ích kỷ; cho con biết yêu mến việc ‘lên núi để được biến đổi’ hầu nên giống Ngài ngày một hơn”, Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC479: Hãy Nghe Lời Người
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 9,2-9 thuộc phần thứ hai của văn mạch 8,31-9,29. Trong phần thứ nhất (8,31-9,1), Chúa Giêsu MC 2-ABC479
Đoạn 9,2-9 thuộc phần thứ hai của văn mạch 8,31-9,29. Trong phần thứ nhất (8,31-9,1), Chúa Giêsu loan báo công khai lần đầu tiên về cuộc thương khó, cái chết, và sự sống lại, và các môn đệ đã tỏ ra không hiểu (8,31-33). Người còn nói thêm những điều kiện xem ra khó thực hiện để làm môn đệ của Người và để cứu lấy mạng sống (8,34-9,1). Do đó, trong phần thứ hai, việc biến hình (9,2-9), đối thoại về Êlia (9,10-13) và biểu hiện quyền năng của Chúa Giêsu (9,14-29) là để mạc khải Chúa Giêsu cho các môn đệ và để kêu gọi các ông hãy tin và nghe lời Người.
Mọi chi tiết cuộc biến hình tập trung về Chúa Giêsu, mà cao điểm là tiếng nói từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (9,7). Chúa Cha thực hiện việc biến hình nầy. Cuộc biến hình diễn ra trong khung cảnh của thế giới Thiên Chúa. Phần chuẩn bị: chiếc áo rực rỡ và trắng tinh Chúa Giêsu đang mặc biểu thị tình trạng của Người sau khi sống lại (x.16,5), hai khuôn mặt lớn của Cựu Ước: Môsê đại diện cho Lề luật và giao ước (1,44; 7,10; 10,3; 12,26). Êlia tranh đấu để dân chúng trung thành với giao ước mà chuẩn bị cho Chúa đến (Mal 3,22.24; Dnl 18,15). Phần mạc khải: đám mây biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 19,9.16; 20,21; 24,15-18; 34,5). Tiếng nói từ đám mây ngỏ với ba môn đệ là tiếng của Thiên Chúa (Xh 24,16). Lời ấy xác quyết với họ Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa (1,11, nói trực tiếp với Chúa Giêsu; 14,61; 15,39), và ra một mệnh lệnh là phải nghe lời Người.
“Hãy nghe lời Người” được ban ra như một giới răn. Như xưa, trong khung cảnh núi Sinai, đám mây, Thiên Chúa đã tỏ mình ra (Xh 20,2-17; Đnl 5,6-21) và đã ban Mười Giới Răn trên bia đá cho Môsê (Xh 34,28; Đnl 4,13; 5,22; 10,4), bây giờ, cũng trên núi cao và có đám mây, Thiên Chúa tỏ mình ra trong Chúa Giêsu và giới răn của Người là hãy nghe lời Con Yêu Dấu của Người. Giới răn nầy được đặt trước cả giới răn thứ nhất: “Hãy nghe, hỡi Israel” (12,29). Như thế, những khó khăn của các môn đệ đã được soi sáng. Chúa Giêsu mà Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô (8,29), cũng chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Cuộc khổ nạn và sự chết của Người (8,31) sẽ được vượt qua bằng sự sống lại bởi quyền năng của Thiên Chúa. Những đòi hỏi của Người về việc vác thánh giá và từ bỏ chính mình (8,34-38) là có thể thực hiện, vì điều ấy được bảo đảm bởi lời của Con Thiên Chúa.
Lời của Chúa Giêsu bây giờ đáng nghe hơn cả lề luật của Môsê và lời của Êlia. Hãy nghe lời của Chúa Giêsu cách tuyệt đối để được chia sẻ vinh quang của Người (x. 8,38).
-----------------------------------
MC 2-ABC480: Tin vào Đức Giêsu Kitô
(Suy niệm của Lm. Fx. Vũ Phan Long)
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đem 3 người Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một MC 2-ABC480
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đem 3 người Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao để tỏ mình ra cho các Ngài thấy. Trong cuộc tỏ mình này có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Có thể khẳng định đây là một sự kiện hùng vĩ và vượt xa sức tưởng tượng của con người.
Theo cách diễn tả của các Tin mừng Nhất lãm, sau khi loan báo cuộc Thương khó sắp đến, Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên núi và biến đổi hình dạng trước mắt các ông.
Biến cố này có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, niềm tin mà mới đây Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cung cấp trước cho các ông một điểm tựa để các ông khỏi chao đảo khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Người.
Chúng ta cũng có thể theo truyền thống Đông phương coi đây là một mạc khải về thần tính của Đức Giêsu, khi liên kết ba cuộc “tỏ mình ra” của Đức Kitô trong các biến cố hiển linh, phép Rửa tại sông Giođan và cuộc hiển dung này.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,2-10
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ chọn lọc đi (2a-b).
Cuộc hiển dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Giaia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa ; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8).
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quen thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người ; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu, cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về lãnh vực của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Ngài. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta có thể có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18 ; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc hiển dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Người ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ người ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này chúng ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu ; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa ; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc hiển dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10).
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự "đóng khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở các câu 2 và 8. Một đàng, Maccô viết rằng: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao". Đàng khác, ông nói rằng: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài các câu 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của Tin mừng Maccô, là bí mật Thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Maccô cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Messia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật hiển dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Messia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi ; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con ; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng hoàn tất chương trình của Thiên Chúa.
Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào mà thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Ngài. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai vị.
Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thời giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại "Đức Giêsu là Con Thiên Chúa" ; khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe lời" Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
2. Vâng theo giáo huấn của Đức Giêsu:
Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Đức Giêsu luôn nói lời Thiên Chúa và kêu mời môn đệ đón nhận để thuộc về gia đình thiêng liêng của Người: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em Tôi, là mẹ Tôi" (Mc 3,35). Hoặc: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14,23-24).
Đi vào đường lối của Đức Giêsu không chỉ có nghĩa là "làm ba lều" rồi ở lại đó với Người. Chúng ta có xử sự như thế khi đi vào các giờ cầu nguyện thờ phượng trong nguyện đường. Nhưng chúng ta còn được mời bước theo Đức Giêsu, có những tâm tình như Người: "Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người" (Pl 2,6-9).
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, hôm nay, do yêu thương các môn đệ, Đức Giêsu đưa ba đại diện môn đệ lên núi cao để chuẩn bị cho các ông đi vào cuộc thương khó với Người. Chính tại đây, Người đã được Chúa Cha giới thiẹu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Tin tưởng vào lòng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh biết trân trọng lời Chúa Cha giới thiẹu Đức Giêsu hôm nay, mà luôn chăm chú lắng nghe giáo huấn của Người, tha thiết nghiền ngẫm để hiểu đúng đắn và trung thành thực hiện trong đời sống hằng ngày.
2. Ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, cho thấy Người chính là Đấng nối tiếp và làm trọn Cựu ước. Chúng ta cùng cầu nguyện để cho mọi dân tộc đang đi tìm Thiên Chúa, có thể tìm ra Đấng chân thật duy nhất, để tôn thờ cho phải đạo, và có thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Đức Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại. Người đã chết trên cây thập giá trên đồi Sọ xưa kia, nhưng cũng đã sống lại. Người tái diễn cuộc Tử nạn, Phục sinh hôm nay trên bàn thờ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các tín hữu đang gặp thử thách biết tin tưởng để cho Đức Giêsu dẫn dắt, hầu có thể làm chứng về quyền năng Phục sinh trong cuộc sống hằng ngày.
Lời kết: Lạy Chúa Cha cực thánh, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời Con Cha dạy trong Kinh thánh và qua các giáo huấn của các mục tử, để chúng con bước đi vững vàng trên đường lối của Cha, làm chứng được trước mặt thế giới về nẻo đường cứu độ duy nhất và giúp nhau đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
-----------------------------------
MC 2-ABC481: Biến hình trong đời thường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 9: 2-10: Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Chúng ta vừa nghe thánh Marcô thuật lại quang cảnh hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor MC 2-ABC481
Chúng ta vừa nghe thánh Marcô thuật lại quang cảnh hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Sự Biến Hình của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa:
1. Đây là một điều thật quí báu cho Chúa Giêsu
- Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là phải đối diện và chấp nhận thập giá. Người cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước trên con đường khổ giá. Trên đỉnh núi, Người đã nhận ra quyết định của Người.
- Êlia và Môsê đã đến gặp Chúa Giêsu: Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố Lề Luật cho dân Israel. Êlia là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố lề luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “xin cứ tiến lên!” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ đã từng mong đợi. Nó cũng có nghĩa là họ thấy nơi Chúa Giêsu tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tròn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Người đang đi đúng đường, vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
2. Đây là một điều quí báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa Giêsu
Các môn đệ đang bị tan nát cõi lòng khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Người sắp phải lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như đã thiêu hủy tất cả những gì họ được biết về Đấng Mêsia. Các môn đệ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng.
Những gì đã thấy trên núi cao cho họ một cơ hội để bám lấy Chúa Giêsu ngay cả khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là "Người Con Yêu Dấu". Nó khiến các môn đệ trở thành các chứng nhân cho vinh quang của Chúa Giêsu vì chính họ đã được thấy vinh hiển của Người.
3. Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi...
- Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi, vì trên núi hạnh phúc hơn cuộc sống đời thường... nhưng phải xuống núi. Hiểu được điều đó nên Susanna Wesley đã có lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng đạo không chỉ hạn hẹp trong nhà thờ hay trong cầu nguyện, suy ngẫm, mà là ở khắp mọi nơi trước nhan Chúa”.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: "vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời." Maslow gọi lúc đó là "giây phút tột đỉnh".
"Giây phút tột đỉnh" là thời khắc ngắn ngủi quí báu làm chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác. Ý tưởng về "giây phút tột đỉnh" giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Phúc Âm hôm nay.
Các ngài đã cảm nghiệm được những "giây phút tột đỉnh"
Chỉ trong một mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa sáng láng và vinh hiển. Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi cao. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối.
- Mặt tối là đêm Vườn Cây Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt mặt u ám của đêm Vườn Cây Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng láng của Người trên núi cao, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ông đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng Cứu Độ? Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Cây Dầu sắp đến. Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi cao để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC482: Một thoáng Thiên Đàng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn MC 2-ABC482
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho họ cảm nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng.
[Một thoáng Thiên Đàng đã làm cho ông Phêrô ngây ngất và muốn ở lại đó luôn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”. Ông Môsê đại diện cho luật, ông Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông đến chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đấng mà hai ông đã loan báo và chờ đợi. Ông Môsê đã xin cho được thấy dung nhan Thiên Chúa mà không được (x.Xh 33,19-22). Ông Êlia là “ông Ba Lửa”, ba lần khiến lửa từ trời xuống, một lần để đốt của lễ trên núi Cat Minh (1V 18, 36-38), hai lần để đốt lính của vua (2V 1,9-12); ông không xin được thấy dung nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa tỏ cho ông thấy Người không ở trong gió bão, không ở trong cơn động đất, không ở trong lửa. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông” (1V 19,11-13). Hôm nay cả hai ông được chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đức Kitô.
Ông Phêrô ngây ngất không biết phải nói gì, “vì các ông kinh hoàng”. Đây không phải lần đầu các ông kinh hoàng. Nhưng hôm nay nỗi kinh hoàng lên tới cực độ khi đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Đó là câu trả lời cho sự phản kháng của ông Phêrô. Hãy vâng nghe lời Người, kể cả lời về thập giá mà loài người không thể chấp nhận. Chỉ có Con Yêu Dấu của Thiên Chúa mới chấp nhận và cho ta sức mạnh để vác mà đi đàng sau Người, để có thể vào trong vinh quang với Người. Tại sao Thiên Đàng lại ở cuối con đường thập giá? Tại sao lại cần đến Con Yêu Dấu của Thiên Chúa để dẫn ta đi trên con đường ấy mà vào trong vinh quang?
Một thoáng Thiên Đàng trôi qua như gió thoảng, như mây bay: “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”. Trên đường xuống núi, Đức Giêsu lại truyền cho các ông giữ bí mật: “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”]. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô; Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 269).
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(x.sđd, trang 273).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân. Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC483: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một MC 2-ABC483
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một”.
St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18
Bài Đọc I kể cho chúng ta tổ phụ Áp-ra-ham đã sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa, I-xa-ác, “đứa con một” mà ông hết lòng yêu mến.
Rm 8: 31b-34
Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Mc 9: 2-10
Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta.
BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)
Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương, lại có thể thử thách một người công chính đến tận mức như vậy. Cho dù ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là sự việc không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang. 1. Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay:
Tuy nhiên, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau trong việc hình thành chuyện tích nầy:
-Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của dân Do thái và tôn giáo của dân Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.
-Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong tập truyện của vị tổ phụ Áp-ra-ham để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-xa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Ít-ra-en miền Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó, sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” (Xh 4: 22-23) phải bị họa diệt vong.
2. Tôn giáo của dân Ca-na-an:
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me, nhưng là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.
Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, hay vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).
Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?
3. Tôn giáo của dân Ít-ra-en:
Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi man rợ như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).
Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-xa-ác minh chứng quyết định của luật Mô-sê: I-xa-ác được chuộc lại bởi hy tế của “con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây” (St 22: 13). Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.
A. Một con người có tấm lòng quảng đại:
Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom, nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.
B. Một con người có niềm tin kiên vững:
Việc hiến tế I-xa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt nay đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.
Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trái lại, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn thế hệ.
Đáp lại niềm tin và sự vâng phục đến mức anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.
4. Thần học về sự thử thách:
Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).
Để soi sáng cho những biến cố mà tác giả đã trải qua, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-xa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-xa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.
Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-xa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.
5. Khía cạnh ngôn sứ:
Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để cứu độ nhân loại.
Khi ám chỉ đến hy tế của I-xa-ác, thánh Gioan áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16), và thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người được bày tỏ cách rực rỡ ở nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, Con Một của Ngài.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)
Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi các Ki-tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.
1. Bối cảnh:
Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.
2. Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả:
Chương 8 nầy kết thúc với một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (8: 32). Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!
Thánh Phao-lô hình dung một phiên tòa ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.
TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)
Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.
Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.
Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su đang hướng đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.
“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, Chúa Cha đã công bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Nay vào lúc Đức Giê-su biến hình, Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”, lời tuyên bố nầy một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Ngài, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Đức Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài (Mc 14: 33). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Đức Giê-su an ủi họ trước.
Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.
Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sựu thật” (Ga 1: 14). Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.
Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin tưởng vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.
“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.
“Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.
Vào lúc nầy, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.
Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, diễn tả rõ ràng điều nầy: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).
-----------------------------------
MC 2-ABC484: “Hãy nghe Lời Người”
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ!
Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo MC 2-ABC484
Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.
Trước hết, Thiên Chúa - Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.
Thứ đến, Thiên Chúa - Đấng hằng bên đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời.
Sau cùng, Thiên Chúa - Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-rê-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ cho ít nhất ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô - Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn nó, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (x. Mc 9, 7). Chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa - Đấng trung tín Xin cho con luôn nhủ mình tín trung Giữ trọn lời Chúa đến cùng Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền. Lạy Thiên Chúa - Đấng mãi liên Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng Che chở con, tình chứa chan Luôn chính trực, đời bình an thiết tha. Lạy Thiên Chúa - Đấng ngợi ca Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu Chịu khổ hình Thập tự treo Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền. “Đây là Con Ta tinh tuyền, Vâng nghe Người dạy, hằng luôn thi hành”. Amen!
-----------------------------------
MC 2-ABC485: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Thưa ACE,
Trong hành trình Mùa Chay năm nay, không biết chúng ta đã có những quyết tâm và đã lựa chọn MC 2-ABC485
Trong hành trình Mùa Chay năm nay, không biết chúng ta đã có những quyết tâm và đã lựa chọn ra được những hướng đi, hành động như thế nào cho riêng mình? Liệu rằng những quyết tâm và hành động đó có làm cho Chúa yêu thích? Hay nói khác hơn, thái độ và cách sống của chúng ta trong Mùa Chay này có thực sự làm cho Chúa hài lòng, để rồi chính Chúa Cha Ngài sẽ vinh danh chúng ta là những người con mà Ngài yêu quý? Các bài đọc Lời Chúa hướng dẫn, đồng hành và soi sáng cho chúng ta, hầu giúp chúng ta đi đúng hướng để đạt đến mục đích tối hậu là được trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa.
Chúa muốn chúng ta phải làm gì? Không biết đây có phải là mối quan tâm chính của chúng ta trong thời gian Mùa Chay này? Đối với Apraham, trên mỗi chặng đường của hành trình theo Chúa, ông luôn cố gắng để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để sống đẹp lòng Chúa, ông đã từ bỏ quê hương để đến nơi mà Chúa hứa. Sau không biết bao nhiêu gian nan thử thách trên hành trình theo Chúa, cho đến khi về già thì Chúa mới cho ông sinh hạ được một “người con thừa tự Isaac”. Thế nhưng, để sống đẹp lòng Chúa, ông phải làm gì với “của lễ đầu lòng Isaac” mà Chúa ban tặng đây? Đứng trước những suy tính phải hành động thế nào, ông đã nghe được tiếng Chúa phán: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Nếu là chúng ta, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại dám mạo hiểm để làm theo tiếng Chúa dạy. Nhưng với Apraham, trong mọi hoàn cảnh ông đều thưa với Chúa: “Dạ, con đây”. Đó chính là thái độ, cách sống hoàn toàn tín thác trong khiêm tốn. “Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình”. Một hành động mà không một người Cha nào lại nỡ lòng để làm cho một người con mà mình yêu quý. Thật vậy, Thiên Chúa đã thấy hành động của Apraham, hành động của một con người luôn kính sợ Thiên Chúa, hành động của một người con luôn hiếu thảo với Thiên Chúa đến nỗi không ngại để hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả chính người con duy nhất là Isaac cho Chúa. Chúa đã hài lòng, Chúa đã chúc phúc cho Apraham và cho dòng dõi của Isaac. Thưa ACE, với mẫu gương tuyệt vời của Apraham, mỗi người chúng ta phải nên làm gì?
Chúa biết rõ những giới hạn và sức của chúng ta, Chúa biết chúng ta còn chần chừ, còn tính toán hơn thiệt, nên Chúa đã ban cho chúng ta một quà tặng cao quý gấp bội còn hơn “của lễ Isaac” mà Apraham đã dâng cho Chúa. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về ơn thánh Chúa. Vì yêu thương chúng ta, vì muốn ban ơn cho chúng ta, vì muốn nên mẫu gương cho chúng ta noi theo, Thiên Chúa “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Người Con Chí Ái duy nhất là Chúa Giêsu, Thiên Chúa cũng không nỡ, nhưng đã hiến ban cho chúng ta, để qua đó, thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào.
Thật vậy, Tin mừng hôm nay minh chứng cho chúng ta thấy thái độ và cách sống tuyệt hảo của Chúa Giêsu, đó chính là vâng theo, thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha. Thánh ý của Thiên Chúa chính là để tỏ cho con người thấy chúng ta rất đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, vì thế, Ngài muốn trao ban những ơn phúc tốt lành nhất cho chúng ta. Thật vậy, khi bước vào con đường khổ nạn thập giá, chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu vừa làm đẹp lòng Chúa Cha, vừa trở nên mẫu gương tuyệt hảo mà Ngài muốn dành tặng riêng cho chúng ta noi theo: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thái độ, hành động và cách sống của mỗi người chúng ta có đẹp lòng Thiên Chúa Cha hay không tùy thuộc vào việc chúng ta có nghe theo lời và làm theo mẫu gương mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Trong cuộc biến hình trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu biết được những giới hạn, yếu đuối của các môn đệ nên Ngài đã nâng đỡ, củng cố và đã tỏ vinh quang cùng ơn thánh, sức mạnh của Chúa cho các ông. Chính qua ơn thánh này, ai chấp nhận, tin và sống thì sẽ được ơn cứu rỗi và thánh hóa.
Ước mong rằng, trên hành trình Mùa Chay, dẫu có gặp phải những khó khăn, thử thách, nhưng đời sống đức tin của chúng ta luôn được Chúa củng cố, gia tăng và trao ban những ơn thánh qua Giáo hội, qua các bí tích ban ơn sủng. Lạy Chúa, được đồng hành với Chúa trên hành trình tử nạn là ơn phúc cho chúng con, xin cho chúng con được ở mãi và sống kết hiệp mật thiết với Ngài. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC486: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Mc 9: 2-10: Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy.
SUY NIỆM
Khi xem các kênh truyền hình, có lúc chúng ta bắt gặp mục quảng cáo về một loại xà bông MC 2-ABC486
Khi xem các kênh truyền hình, có lúc chúng ta bắt gặp mục quảng cáo về một loại xà bông, một chất tẩy rửa, đánh bay mọi vết bẩn tới 99,9%, đem lại sự sáng bóng như mới v.v.. Thế nhưng để làm sáng tâm hồn một con người thì chất tẩy nào đây?
Bài đọc thứ I trích sách Sáng Thế kể cho chúng ta một thử thách mà Thiên Chúa đem đến cho Apraham thật chằng dễ chịu chút nào, và độc giả thính giả khó mà chấp nhận được lòng tin của vị tổ phụ như thế. Thiên Chúa hứa ban cho ông Apraham một dòng dõi đông đúc, trong khi thực tế, vợ chồng ông già yếu mà không có con cái nối dòng. Đã vậy, khi có được mụn con trai duy nhất, đứa con cầu con khẩn là Isaác mà ông hết lòng yêu mến, thì Ngài lại biểu đem lên núi để hiến tế. Apraham buồn lắm nhưng ông vẫn tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa sẽ có cách của Ngài, nên đã làm theo mà không do dự. Tâm hồn được khai sáng nhờ lòng tin không do dự của Ápraham vào Thiên Chúa giúp ông trở nên tổ phụ của mọi dân tộc, là Cha của những kẻ tin.
Đó cũng chính là hình ảnh tiên trưng cho Người Con Một mà Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng Ngài đã trao ban để làm của lễ đền tội cho hết thảy mọi người. Người Con yêu dấu của Thiên Chúa đã tin tưởng hoàn toàn vào chương trình cứu chuộc của Cha mình. Chương trình ấy được chứng thực bởi hai nhân vật vĩ đại trong Cựu ước là Môisen tượng trưng cho “Lề luật”, vàÊlia tượng trưng cho “các tiên tri” loan báo Lời Chúa mà dân Israel coi là hai cột trụ vững chắc, qua đó Thiên Chúa không thất tín bao giờ. Trên núi Tabor này, những môn đệ thân tín được chứng kiến cảnh tượng hai vị hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, để minh chứng Người là Đấng phải đến.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy, có bước vào khổ nạn mới có thể tiến tới phục sinh. Có thể nói, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu được coi là những người vào sanh ra tử với Người, là những người được khai sáng tâm hồn trước tiên để trong những giây phút quan trọng và quyết định, các ông vững tin và giúp cho các anh em khác cũng tin.
Câu chuyện về một vị vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu? – Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở. – Ông hãy đẫp vỡ nó ra ! – Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu? – Bằng nửa vương quốc. – Hãy đập vỡ nó ra ! – Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho một chàng lính:
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không? – Muôn tâu, đẹp không thể nói được. – Hãy đập nát nó đi.
Lập tức chàng lính ấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của chàng lính. Họ hỏi:
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Chàng lính bình tỉnh đáp: – Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính
Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của chàng lính và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.
Lạy Chúa, trên đỉnh Tabor, các môn đệ được chứng kiến Thầy mình biến hình, để các ông vững tin mà vác thập giá theo Con Chúa lên đồi Golgotha. Xin cho mỗi người chúng con cũng được khai sáng tâm hồn, biết vâng nghe Lời Con của Chúa để trong mọi phút giây của cuộc đời, chúng con luôn vững tin đón nhận thập giá Chúa trao, nhờ đó Chúa biến thập giá ấy thành thánh giá cứu độ cho đời chúng con. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC487: Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
MÙA CHAY NHẮC TA NHỚ RẰNG CHÚNG TA KHÔNG ĐƠN ĐỘC TRONG HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM SỰ HIỂU BIẾT
Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gây tác động mạnh mẽ và MC 2-ABC487
Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gây tác động mạnh mẽ và khó hiểu. Cả hai bài đọc đều là những trình thuật quan trọng nhưng chúng thường đưa đến nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Các bài đọc này nhắc nhở chúng ta phải đọc và suy niệm dựa trên Kinh Thánh, cầu xin sự sáng tỏ và bằng lòng với sự vô tri về một số vấn đề.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe câu chuyện ông Abraham sẵn sàng hiến tế người con trai của mình là Isaac, một hành động thường được hiểu là dấu chỉ của đức tin. Sau khi ban cho Abraham và Sara một người con trai là Isaac khi ông bà đã già, Thiên Chúa lại ra lệnh cho ông hiến tế người con của mình. Yêu cầu này có vẻ đi ngược lại với trình thuật Kinh Thánh vì Isaac là người con của giao ước.
Hơn nữa và thậm chí đáng báo động hơn, điều này ngược lại với trách nhiệm bảo vệ con cái của cha mẹ và cho thấy Thiên Chúa mong muốn sự hy sinh của con người. Thế nhưng, Abraham lại ưng thuận mà không hề chất vấn chương trình của Thiên Chúa. Điều này cho thấy sự cam kết của Abraham với Thiên Chúa và sự hiểu biết của ông rằng Isaac là ân huệ của Thiên Chúa, hoặc nó cũng có thể cho thấy sự thiếu quan tâm của ông về mạng sống của Isaac. Tương tự như vậy, điều này có vẻ giống như một thử thách đức tin vô lý mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Khi Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, Thiên Chúa liền can thiệp và thay thế bằng một con cừu đực, một hành động thường được hiểu như là dấu chỉ của việc Thiên Chúa không chấp nhận hy lễ của con người. Nhiều cuộc tranh luận về tính chất phức tạp về mặt thần học và triết học đã kéo dài qua hàng thế kỷ và tiếp tục đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù Abraham thể hiện một đức tin mạnh mẽ và sự tin cậy vững vàng nơi Thiên Chúa thế nhưng những hành động của ông chắc chắn không nên bắt chước. Trình thuật có thể cho thấy một yêu cầu đầy thử thách như thế để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dâng hiến và vâng phục. Thiên sứ khẳng định điều này khi tuyên bố: “Giờ đây ta biết ngươi hết lòng với Thiên Chúa vì ngươi đã không tiếc dâng hiến đứa con yêu dấu của ngươi cho Ta.”
Trình thuật cũng là một lời nhắc nhở hãy luôn rộng mở và chú ý đến Thiên Chúa. Trong ba lần, Abraham đều thưa “Hineni” (này con đây) khi trả lời Thiên Chúa, Isaac và thiên sứ. Điều này gợi nhớ lại câu chuyện về lời kêu gọi tiên tri với Samuel (được đọc vào Chúa nhật thứ hai Thường niên năm nay) và những lần cậu đáp trả “này con đây”. Có thể Abraham không phải là một hình mẫu về trách nhiệm làm cha mẹ nhưng ông là hình mẫu cho sự sẵn sàng và chấp nhận quyền năng Thiên Chúa. Câu chuyện đồng thời đưa ra những song đối đáng chú ý về việc Thiên Chúa hiến tế Chúa Giêsu, Người Con duy nhất của Ngài, hai biến cố đặt liền nhau đáng để cầu nguyện và suy niệm nhất là trong mùa Chay thánh.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lắng nghe câu chuyện về cuộc biến hình, trong đó thân hình Chúa Giêsu được biến đổi cũng như mối liên hệ của Ngài với tiên tri Môsê và Êlia được xác nhận qua một thị kiến. Sự hiện ra của Êlia là đặt biệt quan trọng vì sự trở lại của ông được mong đợi để báo trước về Đấng Messia. Cũng vậy, theo truyền thống, Êlia đã không chết nhưng được đưa lên trời bằng một cơn lốc lửa (2V 2,1-12), một tham chiếu để giúp các môn đệ của Chúa Giêsu hiểu về sự phục sinh.
Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến cuộc hiển dung và đã sửng sốt, kinh hãi. Phêrô đề nghị xây ba cái lều, điều này cho thấy ông muốn ghi nhớ vị trí này với những đền thờ di chuyển được. Các môn đệ cũng nghe thấy lời tuyên bố từ trời rằng Chúa Giêsu chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà họ phải lắng nghe, một lời vang vọng từ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. Cuối cuộc hiển dung, Chúa Giêsu yêu cầu các ông không được tiết lộ sự kiện này cho đến sau cuộc phục sinh nhưng các môn đệ bối rối “tự hỏi việc sống lại từ cõi chết có nghĩa là gì.” Việc các môn đệ không biết chắc là điều thú vị vì những sự kiện mà các ông chứng kiến thì rất khó nà hiểu trọn vẹn được. Khi tiếp tục hành trình mùa Chay, các bài đọc có thể gợi hứng cho chúng ta, nhắc nhớ rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình tìm kiếm hiểu biết và làm sáng tỏ, cũng như chúng ta nên dành thời gian nghiêm túc học hỏi và cầu nguyện.
Với đôi mắt tinh tường, người ta biết nhìn nhận sự việc, phân tích được vấn đề đẹp và đúng. Khuynh MC 2-ABC488
Với đôi mắt tinh tường, người ta biết nhìn nhận sự việc, phân tích được vấn đề đẹp và đúng. Khuynh hướng tự nhiên nơi mỗi người, ai ai cũng hướng về cái đẹp, cái tốt, và ước muốn gia đình, người thân, được bình an hạnh phúc. Sống trong thời đại công nghệ hôm nay, người ta chỉ cần bỏ ra một chút tiền, có thể làm mới, làm đẹp diện mạo, rất đơn giản. Nhờ sự thông thái, người ta có thể quan sát, điều khiển công việc từ xa, có thể tư vấn, chọn lựa, vì thế mà thành quả lao động của họ có thể đạt tới tầm mức cao nhất. Sau một thời gian theo Thầy thọ giáo, những ngư phủ ấy được nghe, được nhìn, được chứng kiến điều hay lẽ phải. Rồi hôm nay, đại diện cho số các học trò, các ông theo Thầy Giêsu lên núi cao, một vinh dự như ở đời vẫn nói vui vui mang nhiều ý nghĩa: đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Bằng cả khối óc và con tim, mắt thể xác và tâm hồn, ba người học trò thỏa thích trước vẻ đẹp trên núi cao, các ông còn được thôi thúc bởi thứ ánh sáng của niềm tin: “áo Thầy Giêsu chói lọi, trắng như tuyết, cùng với sự đàm đạo giữa Thầy và hai chứng nhân cựu ước”. Niềm tin sẽ sáng mãi nơi tình Thầy Giêsu, là tình thông hiệp cầu nguyện, niềm tin sẽ trở nên vĩ đại và kỳ diệu, khi ta nghe, hiểu, rồi một ngày nào sẽ được biến đổi nên trong sáng như Thầy. Kitô giáo không chủ trương theo Chúa Giêsu để hưởng vinh quang phú quý ở đời này. Người môn đệ được diễm phúc theo Thầy lên núi cao, cũng không phải để nhìn để xem Thầy trở nên sáng chói, xinh đẹp cho vui mắt. Theo Thầy lên núi cao cầu nguyện, xác tín hơn vào tình yêu của Chúa Cha, biết nghe và hiểu giáo huấn của “Con Chí Ái”, hầu khao khát được biến hình đổi dạng, trở nên môn đệ thật của Đức Kitô.
Người xưa có câu: cơm cha áo mẹ chữ thầy, gắng công mà học có ngày thành danh. Đúng, tình yêu thương nơi cha mẹ, nơi giáo hội, lúc nào cũng mở ra cho ta một cơ hội, một dịp thuận tiện, nhằm giúp ta gặp Chúa, hiểu và sống thánh ý Chúa cách tốt nhất. Được biết Thầy Giêsu là một ân huệ nhưng không, được mời gọi trở nên môn đệ Đức Kitô chính là một sứ mạng đặc biệt cao cả. Ơn ban tự nhiên nơi mỗi tâm hồn là nhận biết: phẩm giá con người là những viên ngọc quý, viên đá sẽ còn lấp lánh đẹp đẽ hơn, nếu được lồng vào bài học khiêm tốn. Người kitô hữu được mời gọi tin theo Đức Giêsu, đâu phải để nhận ơn ban làm môn đệ Chúa ở đời này, hạnh phúc hơn, là mỗi người được cùng Thầy Giêsu đi trọn vẹn đường thập giá đời mình.
Ngày hôm nay, người tín hữu vẫn cho rằng, được sống ơn gọi làm linh mục tu sĩ là vinh dự nhất, thực ra thì ơn gọi nên thánh, nên giống Đức Kitô, mới là trọng tâm của đời người theo Chúa làm môn đệ. Nếu hiểu cùng Thầy lên núi cao để tận hưởng vinh quang trần thế, theo Thầy Giêsu làm linh mục tu sĩ để được vinh quang ở đời này, hẳn Thầy Giêsu sẽ thất vọng lắm ! Ba môn đệ đại diện cùng Thầy lên núi cao, chắc không phải các ông đi theo Thầy cho vui, nhưng đó là sứ mạng riêng, khi mà các ông đã cùng Thầy hiệp thông cầu nguyện, các ông được nhìn được xem thấy, và nghe rõ ràng lời nhắc nhớ: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Cùng Thầy lên núi cao, cùng Thầy đi sâu vào đời sống cầu nguyện, cùng Thầy sống thánh ý Chúa Cha, uống cạn chén đắng cuộc đời, có ai cho là dễ không, nếu thiếu sức mạnh của tình yêu và tác động của ơn Thánh Thần. Cùng Thầy Giêsu đi khắp đó đây để được tung hô, được ghi dấu là con Chúa, là con Hội thánh, đó mới là khởi đầu của việc nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống. Hãy vâng nghe lời Người, hãy tin và bày tỏ niềm tin bằng việc làm của tình yêu, hẳn ta sẽ thấy sự biến hình đổi dạng để được nên giống Thầy, là hạnh phúc hơn cả. Cùng Thầy lên núi cao hay cùng Thầy đi suốt cuộc đời, đều là diễm phúc. Có cùng Thầy cầu nguyện, cùng Thầy sống thánh ý Chúa mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, còn gì hạnh phúc hơn ?
Được sức mạnh và tình yêu của Chúa trong các tương quan gia đình, xã hội, hay được Chúa Giêsu trợ giúp, để biết bỏ mình vác thập giá theo Chúa cách trọn vẹn, tự do và cơ hội này người tín hữu nào cũng có. Ở đời có vui có buồn, có đau khổ nước mắt, cũng có hy vọng và bình an niềm vui ở phía trước. Được lên núi cao như ba môn đệ, được mời gọi sống ơn gọi linh mục tu sĩ, hay chỉ là một tín hữu giới hạn về năng lực hiểu biết, tất cả đều là đối tượng lòng Chúa thương xót, mọi người đều được nhắc nhớ để ý thức sống thập giá đời mình. Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, là Thầy, là bạn đồng hành, mỗi người đều có cơ hội để sống niềm tin và thao thức có Ngài trong suốt cuộc đời mình. Xin đừng ai vô ơn với bậc làm cha mẹ, đừng ai chỉ sống hình thức với chức danh là môn đệ Đức Kitô, bởi vì chính tình yêu của các Đấng bậc mà ta hiện hữu trên đời, và ta đang là ai trong xã hội này. Amen.
------------------------------
MC 2-ABC489: NHỜ COVID CON NGƯỜI BIẾT TRỞ VỀ
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Đại dịch đã nhắc nhở con người phải sống chậm lại vì sức khỏe và an toàn không chỉ mỗi cho MC 2-ABC489
Đại dịch đã nhắc nhở con người phải sống chậm lại vì sức khỏe và an toàn không chỉ mỗi cho bản thân, gia đình mà còn cho cả cộng đồng. Sống chậm lại là dịp để con người ngừng tham vọng và tranh giành lẫn nhau. Sống chậm lại sẽ mang lại cho con người cuộc sống thanh thản bình yên vì bớt bon chen và đấu đá lẫn nhau. Sống chậm lại sẽ giúp con người trở về với bản tính lương thiện và biết sống đùm bọc nâng đỡ lẫn nhau.
Sống chậm lại để con người ngừng khai thác tài nguyên thiên nhiên nhờ vậy mà thiên nhiên sẽhồi phục, và làm cho bầu khí quyển tốt hơn cho con người. Hướng đến xa hơn là khi thiên nhiên đã tái tạo lại môi trường tốt, tự nó sẽ chữa lành bệnh tật cho con người. Dịch bệnh và thiên tai đến với nhân loại phần lớn là do môi trường bị hủy diệt hoặc đã trở nên quá ô uế, dơ bẩn . . .
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự ban đầu đều tốt đẹp, nhưng vì lòng tham của con người qua mọi thời đại đã phá hủy thiên nhiên dẫn đến môi trường không còn đáng sống. Nơi thì bị tàn phá nên dẫn đến thiên tai lũ lụt. Nơi thì ô uế nên dẫn đến dịch bệnh tràn lan.
Ngày nay người ta đang cố gắng tái tạo lại những dòng sông, dòng suối đang bị ô uế bởi nước thải và rác bẩn để mang lại dòng sông xanh và sạch cho sự sống hồi sinh.
Ngày nay người ta cũng đang cố gắng trồng rừng, giữ rừng để lá phổi của trái đất mang lại không khí mát mẻ trong lành cho người.
Và dường sau bao nhiêu năm thay nhau phá hủy môi trường thiên nhiên của buổi đầu tạo dựng, ngày nay con người mới thấy cần phải kiến tạo thiên nhiên trở về với tình trạng ban đầu thì môi trường thiên nhiên mới bảo vệ và nuôi dưỡng con người.
Điều quan trọng hơn mà Mùa chay mời gọi con người là hãy trở về với hình ảnh ban đầu của tạo dựng là giống hình ảnh Thiên Chúa. Con người là họa ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thánh, ngàn lần chí thánh thì con người cũng được tạo dựng với trái tim biết yêu thương, biết sống có ích cho đời, và biết xây dựng cuộc sống cho nhau bình an hạnh phúc.
Chúa Giê-su hôm nay khi hiển thị dung nhan thật của Ngài là Thiên Chúa như muốn nhắc nhở con người cũng hãy gìn giữ vẻ đẹp thần linh thánh thiện trong con người chúng ta. Khi được chiêm ngắm dung nhan của một vì Thiên Chúa ngàn lần chí thánh, Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết mình nói gì, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan thánh thiện của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen
---------------------------------
MC 2-ABC490: HIỂN DUNG
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Phụng vụ Lời Chúa tuần thứ nhất Mùa Chay dẫn chúng ta vào sa mạc, để chứng kiến Đức Giêsu MC 2-ABC490
Phụng vụ Lời Chúa tuần thứ nhất Mùa Chay dẫn chúng ta vào sa mạc, để chứng kiến Đức Giêsu chịu cám dỗ. Ở đó, ta thấy Chúa thể hiện nhân tính của Ngài: một con người yếu đuối, mỏng giòn, đói khát, chịu cám dỗ. Chúa Nhật tuần hai này, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng Đức Giêsu hiển dung trên núi cao. Ở đó, ta thấy Chúa thể hiện thiên tính của Ngài: sáng láng, rực rỡ, vinh hiển, thánh thiện. Đức Giêsu vẫn là một, không hề phân chia trong bản tính, và luôn hiệp nhất trong Ngôi vị, Ngài thật sự là Thiên Chúa và cũng thật sự là con người, nên sự hiện diện của Ngài vô cùng sinh động và phong phú cho nhân loại.
Trong cuộc hiển dung này, có ba môn đệ thân tín được Chúa Giêsu đưa lên núi Tabo. Ngài muốn củng cố niềm tin cho họ, trước khi họ chứng kiến Ngài bị giới lãnh đạo tôn giáo khai trừ, bị mọi người ruồng rẫy, và bị Chúa Cha như bỏ rơi trong cuộc khổ hình trên núi Sọ.
Trong khi Chúa Giêsu hiển dung còn có sự xuất hiện của Môsê: người đón nhận lề luật từ Thiên Chúa; và Elia: người đứng hàng đầu trong số các ngôn sứ của Thiên Chúa. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn cho thấy nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Với ý nghĩa đó, Ngài là Môsê mới vừa là Elia mới, mở ra một trang sử mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Trước thị kiến đầy kinh ngạc này, Phêrô nói lên cảm xúc đầy hạnh phúc mà ông và các bạn đang tận hưởng, bằng cách xin Thầy cho dựng ba lều để ở lại luôn trên núi. Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông kinh hoàng. Tiếp theo là một đám mây bao phủ, nói lên sự xuất hiện của Thiên Chúa với việc trao ban một sứ điệp quan trọng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Lời này lặp lại lời của biến cố phép rửa của Chúa Giêsu, với một chút thay đổi, nhằm khích lệ các môn đệ hãy đặt trọn vẹn niềm tin vào Thầy mình. Tuy nhiên trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy vâng nghe Lời Người”. Chắc chắn lời này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với họ trước đó về sự thương khó và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu nhận lãnh vinh quang bên kia cái chết, thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo thầy mình trên con đường thập giá không?
Cũng như Phêrô, Giacôbê và Gioan, mỗi người chúng ta được Chúa dẫn riêng ra một chỗ để được Ngài biểu lộ chính mình cho ta. Nhưng nhiều khi ta muốn tránh né Chúa, chỉ muốn lao đầu vào công việc để thể hiện chính mình. Nhất là giới trẻ với tính khí sôi động, chỉ muốn chạy theo cuộc sống để tìm lợi lộc, danh giá; tìm đến những thú vui bên ngoài, và không ngần ngại ngồi lê với bạn bè, với ly trà chén rượu suốt đêm thâu, nhưng ngồi lại với Chúa một chút thì đã thấy quá lâu. Quen với lối sống ồn ào và bon chen ở đời, nên ta không còn khả năng để sống cái thinh lặng nội tâm, hầu nhận ra sự hiện diện của Chúa đang chờ đợi mình. Ngài vẫn luôn có điều gì đó sâu xa hơn để trao ban, để củng cố đức tin và gia tăng đức mến. Chỉ khi có giờ cận kề bên Chúa, ta mới vững vàng hơn trước những lôi kéo của thế tục, vững tâm hơn trước những nghi nan, vững lòng hơn trước những đêm tối cuộc đời, vững mạnh hơn trước những đau thương thử thách.
Chúa Giêsu vẫn đưa ta vào từng biến cố quan trọng, nhưng rồi cũng giống như Phêrô, ta chẳng hiểu gì. Tuy nhiên, với tình yêu sâu thẳm, Ngài vẫn tiếp tục khai mở tâm hồn ta. Nếu ta biết “lắng nghe Lời Ngài” từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình, biết chấp nhận đi vào con đường hẹp của Ngài, ta sẽ được biến đổi từ “cái tôi bên ngoài” thành “cái tôi sâu thẳm” của mình, là chính mình trong chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ với sự biến đổi hôm nay trong Chúa, mới hứa hẹn cho ta cuộc biến đổi mai ngày trong vinh quang Nước Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã chuẩn bị cho các tông đồ, trước biến cố đau thương và tử nạn, bằng cách hiển dung trong sáng láng.
Con tin rằng trong cuộc sống hôm nay, trước gian nan và thử thách hằng ngày, chẳng mấy khi con nhìn ra hay nhận thấy, Chúa chuẩn bị cho con để vượt qua, bằng hành động yêu thương đầy mới lạ.
Nhưng đòi con phải can đảm đi ra, ra khỏi mình, ra khỏi những tiện nghi, ra khỏi những ù lì và ươn lười thất vọng, để thấy điều mà Chúa vẫn ước mong, đem lại cho con niềm vui và sức sống.
Xem ra đời con vẫn còn những tối tăm, vẫn còn phải lần mò trong rối rắm, nên không tránh được những sai lầm, chỉ khi con biết lặng trầm bên Chúa, biết lắng nghe Lời Chúa tận thâm tâm, thì cuộc sống con mới âm thầm tỏa sáng.
Chỉ có Chúa mới chiếu sáng đời con, khi con biết chấp nhận đi vào đường hẹp, chính là cách sống đẹp ý Chúa Cha, cũng là con đường mà Chúa đã đi qua, để con tiếp bước trở thành người môn đệ, đem lại những ân huệ Chúa cho đời.
Xin Chúa mỗi ngày là điểm hẹn cho con, để con được gặp gỡ và hớn hở vui mừng, là chính sức mạnh làm con nên nhân chứng, loan báo tình thương và ân phúc Tin Mừng, cho thế giới và lòng người đổi mới, để Nước Trời lan tỏa khắp mọi nơi. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC491: CHỈ CÒN ĐỨC GIÊSU VỚI CÁC ÔNG MÀ THÔI
Jorathe Nắng Tím
Sáu ngày sau lần thứ nhất loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của mình, “Đức Giêsu đem MC 2-ABC491
Sáu ngày sau lần thứ nhất loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của mình, “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình… tới một ngọn núi cao. Rồi người biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2). Ba tông đồ này cũng sẽ là ba nhân chứng của giờ phút hãi hùng, kinh khiếp trong vườn Cây Dầu, trước khi bị bắt, ở đó Đức Giêsu đã xao xuyến, lo sợ đến nỗi phải thốt lên : “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,33).
Trong cuộc biến hình này, ba tông đồ đã nhận ra vinh quang Thiên Chúa của Thầy mình, và tương quan mật thiết cha – con giữa Thầy và Chúa Cha qua tiếng phán từ trời : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Cũng lời này đã được Chúa Cha phán hôm nào, bên bờ sông Giođan, khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa của Gioan (x. Mc 1,11).
Choáng ngợp bởi quang cảnh rực rỡ, hoành tráng khi “thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (Mc 9,4), cả ba tông đồ đếu ngất ngây và đồng thanh thưa với Đức Giêsu : “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!”, và mau mắn đề nghị : “Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho ông Êlia, một cho ông Môsê” (Mc 9,5.6).
Ở đây sướng quá là phải rồi, vì sẽ không phải nghe những lời chửi rủa, khích bác của đám Biệt Phái, Kinh Sư độc mồm ác miệng ; sẽ không bị những người giữ đạo cực đoan, qúa khích lên án, xua đuổi ; không phải ăn uống thất thường, vất vưởng đó đây, không nhà không cửa, nhất là không phải nghe những lời tiên báo cuộc thương khó sắp tới và Thầy sẽ “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, giết chết…” (Mc 8,31).
Nhưng ước mơ ở mãi trên núi Biến Hình với Đức Giêsu, ông Êlia và Môsê của ba ông sẽ không bao giờ được thực hiện, khi “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9,8). Và đây chính là chi tiết quan trọng trong trình thuật Biến Hình mà người viết xin được chia sẻ với qúy Bạn:
“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như Đức Giêsu là Cứu Chúa duy nhất của chúng ta, vì Đức Giêsu là Tất Cả, như thánh Phaolô khẳng định, khi Thiên Chúa đã chẳng tha chính Con Một của Ngài, “nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8, 32). Như thế, có Đức Giêsu là có Tất Cả, với Đức Giêsu, chúng ta chẳng còn lo lắng, sợ hãi gì, như lời thánh vịnh : “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi… Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,1-3.6).
“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như một mình Đức Giêsu là Tình Yêu thương xót cứu sống mọi người, giống như Ixaác đã được cứu sống khỏi lưỡi gươm từ tay Ápraham, cha mình, khi sứ thần Chúa kịp thời hiện đến can thiệp : “Ápraham! Ápraham!… Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó!” (St 22,11. 12).
“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng bảo vệ, che chở chúng ta, và một khi “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8,31).
“Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, như chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng thánh hóa, làm cho chúng ta nên công chính, khi tha tội chết, và cho chúng ta sống lại với Ngài, vì ai sẽ có thể buộc tội, nếu Đức Giêsu không buộc tội nhưng chuộc tội chúng ta? Ai sẽ kết án, nếu Đức Giêsu không kết án, nhưng trắng án cho chúng ta? Thế lực nào có thể bắt chúng ta phải chết, nếu Đức Giêsu đã chết thay cho chúng ta và đã sống lại ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng ta? (x. Rm 8,33-35).
Thực vậy, cũng như ba tông đồ sau khi được chứng kiến vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài biến hình sáng láng trên núi hôm nào đã cùng Đức Giêsu xuống núi, trở về đời sống thường ngày để tiếp tục đối diện với bao khó khăn, thách đố, nhất là cùng Ngài bước vào đường Thánh Giá đau thương, nhục nhằn, chúng ta cũng được mời gọi đi với Đức Giêsu trên đường đời nhiều chông gai, trắc trở ; được kêu gọi lên thuyền với Đức Giêsu ra khơi nhiều sóng gió nguy hiểm, và cũng như các tông đồ, “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).
Mùa Chay là thời gian thuận tiện Chúa dùng để biến đổi mỗi người, là cơ hội chúng ta theo Đức Giêsu “đi riêng ra một chỗ” (Mc 9,2), chỉ mình ta với Ngài, để được chiêm ngưỡng tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài, cũng là tình yêu Ngài dành cho mỗi người chúng ta, đồng thời để được tình yêu ấy biến đổi, thanh luyện đến độ không một ai, một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Giêsu, “cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lưc, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8,38-39), bởi hành trình trở về của Mùa Chay là trở về với Đức Giêsu, trở về gặp gỡ Đức Giêsu, trở về sống với Đức Giêsu, trở về kết hiệp nên một với Đức Giêsu, như ba tông đồ sau khi đã thấy mọi vinh quang trên núi, “đã không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”; như hai môn đệ trên đường Emmau sầu thảm đã chẳng có ai làm bạn đường, nhưng “chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (x. Lc 24,13-35) ; như các môn đệ đóng kín các cửa vì sợ người Do Thái, sau khi Đức Giêsu chết và chôn trong mồ đã “chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi, khi Ngài hiện đến ban cho các ông Bình An phục sinh của Ngài” (x. Ga 20, 19-23).
Như các vị, chúng ta cũng phải cố gắng đạt đến tình trạng “chỉ còn Đức Giêsu với ta mà thôi”, vì trong cuộc đời sẽ có những lúc chúng ta chẳng còn ai, chẳng còn gì, nhưng tất cả đều bỏ ta đi, tất cả đều hững hờ, lãnh đạm, tất cả đều chối từ, xua đuổi, tất cả đều thay mặt đổi lòng, kể cả những người ta dồn hết hy vọng, cho hết tình yêu. Trong những hoàn cảnh bi đát, thê lương ấy, ước gì chúng ta đừng quên “chỉ còn Đức Giêsu với ta mà thôi”, như người tử tội bị đóng đinh bên phải Đức Giêsu ở giây phút cuối cùng của cuộc đời, khi không còn ai đoái hoài , không một ân tình thương cảm, ủi an đã chợt nhớ ra : “ngay bên cạnh mình còn có Đấng Cứu Độ giầu lòng xót thương, giữa cuộc đời cô độc, tội lỗi, bị nguyền rủa, kết án, “còn có Đức Giêsu” ở với và chia sẻ gánh nặng tội lỗi, cũng như thân phận bị lên án, loại trừ của mình .
Ước gì trong Mùa Chay, chúng ta gặp được Đức Giêsu, Đấng không bao giờ xa ta, bỏ ta, cả khi ta không còn ai, và ta bỏ Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu ta vô cùng và đến cùng, vì Ngài là Thiên Chúa Cứu Độ rất nhân hậu, bao dung, thương xót.
-----------------------------------
MC 2-ABC492: CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU
Bông hồng nhỏ
Có hai ngọn núi đã ghi dấu ấn rất đặc biệt trong cuộc đời của Thầy Giêsu: núi Tabor và Canvê MC 2-ABC492
Có hai ngọn núi đã ghi dấu ấn rất đặc biệt trong cuộc đời của Thầy Giêsu: núi Tabor và Canvê. Núi Tabor, nơi Thầy Giêsu bày tỏ vinh quang cho ba môn đệ thân tín trong cuộc Biến Hình. Trước khuôn mặt chói người của Thầy trong cuộc Hiển Dung, ba môn đệ sợ hãi kinh hoàng, nhưng lòng chan chứa niềm hạnh phúc. Trên đỉnh Canvê, Thầy Giêsu bày tỏ vinh quang trong khuôn mặt của Người Tôi Trung chịu đang khổ. Trên đỉnh đồi Canvê, ba môn đệ thân tín giờ chỉ còn lại một mình Gioan trung kiên theo Thầy trong suốt cuộc Thương Khó. Phêrô chối Thầy nay đang tìm nơi khóc lóc, Giacôbê cũng sợ hãi mà bỏ chạy ngay trong vườn Cây Dầu. Cuộc đời của ta cũng sẽ là những tháng ngày cùng với Chúa Giêsu bước vào vinh quang trong cuộc Biến Hình và trong cuộc Khổ Nạn của Người.
Trên núi Tabor hôm nay, Thầy Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan theo mình. Trước sự chứng kiến của ba môn đệ, Thầy Giêsu bày tỏ vinh quang của Người: “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (Mc 9,3-4). Trong vinh quang chói lòa rực rỡ ấy, cả ba ông đều kinh hoàng. Thầy Giêsu mà các ông vẫn yêu mến quả thực là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông Phêrô xin Thầy dựng lều để ở luôn tại đó. Nhưng có một đám mây bao phủ các ông và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (x. Mc 9, 5-7). Một lần nữa, Chúa Cha đã xác thực rằng Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Người. Mỗi ngày, ta cũng được Chúa Giêsu mời gọi hãy cũng Chúa biến hình. Đó là khi ta để Chúa biến đổi trái tim, tâm trí, miệng lưỡi, đôi tai, đôi tay, đôi chân và trọn vẹn con người ta. Để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, ta hãy dành thời gian để ở riêng với Người. Chỉ khi được Chúa dẫn riêng ra một nơi, ta mới được cùng Người sống thân mật. Trong thinh lặng của tâm hồn, ta sẽ lắng nghe được lời mời gọi của Chúa, sẽ chiêm ngắm thật sâu khuôn mặt của Đấng mình yêu mến, nhìn ngắm từng hành động đầy yêu thương của Người. Khi đã được thôi thúc hành động như Chúa mời gọi, ta hãy tiếp tục để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, Người sẽ cho ta biết mình phải làm gì. Nếu không đọc và suy gẫm Lời Chúa, làm sao ta nhớ được Lời Người dạy dỗ. Cuộc sống vốn dĩ rất ồn ào và giữa lúc giằng co của những chọn lựa, làm sao ta có thể nghe được sự thúc đẩy của Lời Chúa? Bằng việc đọc và suy gẫm một câu Lời Chúa mỗi ngày, để Lời khắc sâu vào trong tâm khảm của mình, ta sẽ từng bước cảm nhận được sự sống thần linh đang trào lên trong tâm hồn.
Ánh sáng chói lòa của Chúa Giêsu trên núi Tabor là một sự cuốn hút mãnh liệt và mang lại cho các môn đệ niềm hạnh phúc tuyệt vời. Chiều buồn trên đồi Canvê loang máu lại buồn thê lương. Trước khuôn mặt bầm dập và cả thân hình loang máu của Thầy, người môn đệ chỉ thấy trái tim thắt lại và đau đớn vì bị đâm nát. Các anh em khác đã bỏ trốn vì sợ hãi, hoảng loạn. Còn đâu vinh quang rực rỡ của Thầy! Ở trong nỗi đau tận cùng, ta cũng sẽ thất vọng và đau khổ. Ta có thấy mình đang đứng dưới chân thập giá không? Hãy ngước nhìn lên Đấng bị đâm thâu, Người đang chia sẻ với ta cùng một nỗi đau. Người dạy ta tâm tình của một người con biết phó thác mọi sự cho Thiên Chúa Cha. Người mời gọi ta hãy thông phần đau khổ với Người. Trước khi những đau khổ ấy ập đến với ta, đè nặng lên đôi vai và trái tim ta, nó đã đè nặng lên đôi vai của Người, nó đã đâm nát trái tim Người, đã đâm thủng đôi tay và đôi chân của Người. Những lằn roi đẫm máu đã làm cho Người đớn đau và kiệt sức. Người vẫn đang chịu cùng một nỗi đau với ta và với cả nhân loại này. Người mang lấy nhân loại trong trái tim của Người, Người ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Đừng thất vọng, đừng đánh mất niềm hy vọng nhưng hãy đặt hy vọng vào Chúa, Người là sự phục sinh và là sự sống. Người mở ra cho ta một con đường dẫn vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con cảm nhận niềm hạnh phúc được làm con Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa đến với con, cho con được cùng Chúa bước vào cuộc Biến Hình để con cũng can đảm cùng Chúa bước vào cuộc Khổ Nạn. Xin cho con luôn khắc ghi Lời Chúa trong tâm khảm để Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC493: ĐƯỢC BIẾN HÌNH
Thiên San
Đức Giêsu dẫn riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người dẫn họ lên một ngọn núi cao MC 2-ABC493
Đức Giêsu dẫn riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người dẫn họ lên một ngọn núi cao. Ở đó, Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Có ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Một đám mây bao phủ các ông, từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7).
Việc Đức Giêsu dẫn riêng ba môn đệ thân tín đi riêng ra một nơi, lên một ngọn núi cao cho ta thấy điều gì? Tại sao Ngài không dẫn cả nhóm Mười hai? Thực ra, Đức Giêsu hoàn toàn tự do trong việc tuyển chọn. Cũng như trong biến cố phục sinh, Ngài đã không hiện ra với tất cả mọi người nhưng chỉ với một số người. Tại biến cố biến hình, Đức Giêsu gọi ba môn đệ đi theo mình để tỏ cho các ông thấy vinh quang, dung nhan biến hình của Ngài. Ngài muốn cho các ông xem thấy vinh quang của mình, đồng thời củng cố đức tin cho các ông, giúp các ông thoát khỏi nguy cơ bối rối trước gương mặt “xấu xí” của Người trên thập giá (x. Tông huấn ĐSTH số 15).
Trước dung nhan biến hình của Thầy Giêsu, các môn đệ hoàn toàn kinh hoàng (Mc 9, 6). Như các môn đệ, chúng ta có sẵn sàng đi theo lời mời gọi của Thầy Giêsu? Lên một “ngọn núi” và ở đó với Thầy để Thầy tỏ mình ra cho ta? Dường như cuộc sống mưu sinh khiến ta sẵn sàng từ chối Chúa và không thể dành thời gian để đến với Ngài, chẳng hạn như không muốn đi lễ, không muốn đọc kinh vì sợ mất giờ. Mùa Chay là cơ hội thuận lợi để ta trở về với Chúa, đến và ở lại cách riêng với Ngài. Ở lại với Ngài là điều rất cần cho ta. Đó cũng là kinh nghiệm của sự tin tưởng để trở về với Thiên Chúa, để có thể thổ lộ con người của ta cách chân thành, cùng nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình. Ta hãy tha thiết xin Chúa Giêsu trong biến cố biến hình giúp ta thực hiện một cuộc hoán cải, một cuộc “biến hình” từ say rượu thành say Chúa, từ gái điếm thành thánh nhân (x. Suy niệm kinh Mân côi thứ bốn Mùa Sáng)…
Cũng trong biến cố này, một mạc khải lớn lao được ban cho nhân loại: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7). Đức Giêsu chính là Con yêu dấu của Chúa Cha. Lời mời gọi từ Thiên Chúa thật cụ thể và rõ ràng. Không gì khác hơn trong sự hoán cải của ta ngoài việc tin yêu Con Một Thiên Chúa, quay trở về với Người. Ý muốn của Chúa Cha chính là chúng ta tin nhận Đức Giêsu Kitô chính là Đấng Chúa Cha sai đến. Tin có nghĩa là sống điều Đức Giêsu mời gọi. Chính trong tương quan cá vị với Ngài, chúng ta sẽ được “biến hình”, được trở nên con cái đích thực của Ngài. Đó cũng là động lực thúc đẩy ta sống cho những đòi hỏi của Chúa, để diễn tả tương quan tình yêu của ta với Ngài, với xác tín ta được Ngài yêu cách rất riêng.
Cuộc sống ồn ào, nhiều cạm bẫy khiến ta không còn là chính mình. Ở lại với Chúa Giêsu giúp ta có được một cuộc “biến hình”, để khi biết sám hối, trở về với Ngài, ta sẽ được mặc lấy con người mới. Con người mới ấy sẵn sàng đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị với Thiên Chúa, sẵn sàng “lên núi cao” và cũng sẵn sàng “xuống núi” với Chúa. Nhờ đó, ta được thông dự cả thập giá cũng như vinh quang cùng với Người.
-----------------------------------
MC 2-ABC494: HÀO QUANG THIÊN CHÚA
Lm Vũđình Tường
Hào Quang Thiên Chúa trên đỉnh núi ngày Chúa Biến Hình vượt khỏi trí tưởng của các tông đồ MC 2-ABC494
Hào Quang Thiên Chúa trên đỉnh núi ngày Chúa Biến Hình vượt khỏi trí tưởng của các tông đồ. Sự hiện diện sáng chói của hai tổ phụ Môisen and Elijah chứng tỏ sau cuộc sống trần gian còn một cuộc sống khác tươi sáng hơn, chói lọi hơn, hào quang hơn. Cuộc sống đó dành riêng cho những kẻ tín trung với Thiên Chúa. Hai tổ phụ là những nhân chứng đức tin, vị trước biểu tượng của lề luật và vị sau đại diện các tiên tri. Cả tổ phụ Môisen lẫn Elijah sống trước các tông đồ ngàn năm và các tông đồ không hề gặp trở ngại trong việc nhận ra các ngài. Nhận ra các tổ phụ ngay tức khắc. Chúng ta vẫn thắc mắc làm sao nhận ra tiền nhân khi chúng ta gặp lại các ngài nơi Thiên Quốc. Tông đồ Đức Kitô có câu trả lời xác đáng, bởi chính các ngài đã có kinh nghiệm đó.
Tựa như mặt trăng nhận ánh sáng từ mặt trời. Chúa tỏ vinh quang Chúa qua các tạo vật Chúa dựng nên. Nhân loại không gặp trở ngại gì trong việc thưởng thức loại vinh quang thứ hai Chúa ban tạo vật. Thực ra, tạo vật được tạo dựng cho nhân loại hưởng dùng. Nhân loại bàng hoàng cảnh rực rỡ ban mai, hừng đông hay chiều tà. Con người ngạc nhiên cảnh hùng vĩ của núi rừng, thả hồn nơi bầu trời xanh mát, hay thất thần ngắm nhìn vực thẳm, kinh ngạc vẻ bao la của đại dương, thất thần nhìn sóng thần cuồn cuộn đổ. Cánh hoa sau nhà, trước ngõ, rực rỡ, sáng nở, tối tàn cũng mang lại nguồn vui, nguồn cảm hứng và là quà tặng cao quí trong hầu hết mọi trường hợp. Còn có loại vinh quang thứ ba do con người tạo nên. Loại vinh quang này khi nó mang tiếng cười cho người này, nó lại làm lệ rơi người khác; người này dư thừa của ăn, thức uống, kẻ khác đói đêm, khát ngày. Vinh quang đó là tiền tài, danh vọng, chức tước, bổng lộc.
Vinh quang Thiên Chúa sáng hơn mặt trời, trong hơn tuyết, không gì có thể làm lu mờ vinh quang Chúa. Vinh quang đó chính là tình yêu Chúa. Tham vọng con người không thể đụng chạm đến. Vinh quang nơi tạo vật, con người có thể dùng quyền lực tranh giành, làm vẩn đục vinh quang nơi tạo vật. Chúa dựng nên cho mọi người dùng chung, nhưng tham vọng khiến con người dùng quyền thế, ngăn người này, cấm người kia, dành riêng cho phe nhóm hưởng dùng. Loại vinh quang thứ ba do con người tạo ra là loại vinh quang tồi tệ nhất. Vinh quang trần thế là đầu mối mọi đau khổ, đầu mối mọi tội phạm, gây nên bởi tính kiêu ngạo và lòng tham con nguời. Vinh quang trần thế bị Satan lợi dụng, chúng là mồi nhử gây thù, tạo hận, nuôi ghen, dưỡng ghét. Satan tự nhận đó là của chúng, do chúng làm chủ. Có lần Satan nói với Đức Kitô, ‘Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa, lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy í’. Lc 4, 6. Lời nói vừa đại nghịch, vừa đại lừa dối. Ai trao cho chúng hay chính chúng phịa ra câu nói tụ phụ kia. Tù nhân nghe kẻ có quyền trong tay tuyên bố, ‘tao để cho mày sống thì mày được sống, tao bắt mày chết thì mày phải chết, tao cho ăn thì được ăn, cho uống thì được uống’. Cách nói lạm quyền, giọng điệu, ngôn ngữ của Satan.
Trên đỉnh núi ánh sáng vinh quang Chúa chói loà khiến các tông đồ không thể nhìn thẳng vào, mà phải cúi gằm mặt xuống đất tránh bị loá mắt. Nhân loại không được tạo dựng để trực tiếp đối diện Thiên Chúa. Môn đệ trung tín Đức Kitô hy vọng trực diện vinh quang Chúa trong lần Đức Kitô quang lâm lần thứ hai. Môn đệ Đức Kitô nghe tiếng Chúa và tiếng các tổ phụ. Phêrô đại diện anh em xin cùng Đức Kitô lập ba lều trên núi thánh. Điều xin, Đức Kitô chưa đáp trả thì có tiếng Chúa Cha phán bảo các ông, ‘Đây là Con Ta hằng yêu mến, các ngươi hãy nghe lời Ngài’. c.8. Nghe lời Đức Kitô, các ông xuống núi và trên đường đi Ngài dặn thêm, ‘Không được kể lại cho ai những điều tai nghe, mắt thấy cho đến sau khi Con Người từ cõi chết sống lại’. c. 9.
Môn đệ Đức Kitô thích lưu lại trên núi bởi các ông chưa hiểu nhìn thấy vinh quang Chúa có kèm theo sứ vụ. Trường hợp Môisen, sứ vụ của ông là dẫn dân Chúa vào miền Đất Hứa. Sứ vụ Đức Kitô là cứu dân Chúa thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi, ma qủi và dẫn đưa dân Chúa vào cuộc sống trường sinh.
Trong cuộc sống đôi khi chúng ta chọn vinh quang Chúa, khi khác lại lầm lẫn, yếu đuối chọn vinh quang trần thế. Thiên Chúa yêu thương không bỏ mặc con người, dù người đó đang sống trong tình trạng tội lỗi, Thiên Chúa vẫn thương, tha thứ, cứu giúp, kiên nhẫn đợi chờ con người nhận điều sai trái, thống hối, ăn năn, trở về cùng Chúa. Nhìn thấy vinh quang Chúa nhắc nhở chúng ta, Thiên Chúa luôn ở cùng nhân loại. Ngài tiếp tục hướng dẫn, bảo vệ và chia sẻ đau khổ, khó khăn của con người. Bước theo Đức Kitô trong tin yêu, hy vọng. Đức Kitô hứa sai Thánh Thần xuống hướng dẫn, cùng đồng hành với ta trong mọi tình huống của cuộc sống. Điều này lần nữa cho biết nhân loại không bao giờ cô đơn trên đường lữ hành, nhưng luôn có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành.
Mùa chay là mùa làm cho vinh quang Chúa sáng toả cho mọi người. Qua ăn chay, hãm mình, cầu nguyện, và việc bác ái, hy vọng vinh quang Chúa sáng toả nơi muôn dân.
-----------------------------------
MC 2-ABC495: LÂNG LÂNG LẠ LÙNG
Trầm Thiên Thu
Một số vị thánh được Thiên Chúa ban đặc ân khác thường mà chúng ta gọi là thần bí – được Thiên MC 2-ABC495
Một số vị thánh được Thiên Chúa ban đặc ân khác thường mà chúng ta gọi là thần bí – được Thiên Chúa mặc khải những điều bí ẩn. Đời thường cũng có dạng khác lạ, được gọi là xuất thần.
Ở dạng bình thường, hằng ngày chúng ta gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa qua Thánh Lễ, Kinh Thánh, cầu nguyện, suy niệm,… Thánh Isaak Syria nói: “Nếu không xa lánh thế gian, chẳng ai có thể gặp được Thiên Chúa. Khi nói xa lánh, tôi không có ý nói về việc thay đổi chỗ ở thể lý, nhưng là xa lánh các sự trần tục. Nhân đức siêu thoát hệ tại ở chỗ không để tâm trí vướng bận về trần thế.”
Tín nhân cần biết sống khoảng sa mạc ngay giữa xã hội ồn ào náo nhiệt của đời thường, không chỉ trong những lúc đặc biệt như tĩnh tâm hoặc tham dự Phụng Vụ, mà có thể “tách” mình ra khỏi mọi thụ tạo bất cứ lúc nào. Đó là cách kết hiệp với Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39)
Thuận tiện nhất là Mùa Chay Thánh, mùa “xé lòng” để “tách” khỏi sự xấu xa, cơ hội sửa đổi bằng cách sám hối và đền tội để hoàn thiện, tức là cố gắng nên thánh. Đó là điều rất cần thiết và cấp bách, bởi vì “không thánh thiện thì không được thấy Chúa.” (Dt 12:14) Ngài là Đấng Thánh nên Ngài chỉ trò chuyện với những ai thành tâm cố gắng hoàn thiện.
Nhân vô thập toàn. Ai cũng sai lầm. Ai cũng giả dối. (Rm 3:4) Ai cũng là tội nhân. (Rm 5:12) Ai cũng vốn dĩ xấu xa. (Mt 7:11; Lc 11:13) Đại nhân Khổng Tử phân tích chí lý: “Có sai lầm mà không sửa, đó mới thật là sai lầm.” Sai lầm thì phải chịu sửa, có tội thì phải bị phạt. Đó là điều tất nhiên. Nhưng không sai lầm và vô tội mà vẫn phải chịu đau khổ, thế mới… lạ. Trường hợp điển hình nhất là Thánh Gióp. Ông là người tốt lành, nhân hiền, công chính, nhưng ông đã phải chịu đau khổ tới tột cùng. Thiên Chúa không “chơi ép” ông mà Ngài làm vậy để nêu gương cho chúng ta, muốn chúng ta tôn vinh Ngài cách đặc biệt – theo cách “khác người.” Vả lại, chịu đau khổ là một mối phúc. (Mt 5:11)
Phàm nhân chúng ta không biết hết nên mới thử thách hoặc thử lòng nhau, còn Thiên Chúa thì không, vì Ngài thấu suốt mọi sự. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Dùng từ ngữ thử thách đối với Ngài chỉ là cách nói của loài người mà thôi.
Ngày xưa, sau khi xảy ra nhiều chuyện, Thiên Chúa còn thử lòng ông Abraham. Ngài gọi ông và ông thưa: “Dạ, con đây!” (St 22:1) Ngài bảo ông đem đứa con yêu dấu duy nhất là Ixaác đến xứ Môrigia để dâng làm lễ toàn thiêu ở trên một ngọn núi mà chính Ngài sẽ chỉ cho. Chắc chắn Ngài chẳng thử thách hoặc thử lòng ai, Ngài chỉ muốn chúng ta “lập công” cho chính mình bằng cách chịu đau khổ – tuyệt đối vâng theo Thánh Ý. Thật vậy, Thánh Faustina cho biết: “Đau khổ là đại hồng ân; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên tinh tuyền; càng chịu đau khổ, tình yêu càng tinh khiết.” (Nhật Ký, số 57)
Sau khi tới nơi đã được chỉ định, ông Abraham dựng bàn thờ, xếp củi, rồi trói con trai Ixaác và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Ông cầm lấy dao để sát tế con mình. Nó là đứa con trai yêu quý nhưng ông vẫn vâng lời Chúa mà sẵn sàng sát tế con, không thắc mắc, không so đo, không chần chừ. Nếu là chúng ta, chắc là chúng ta không dám. Có thể chúng ta sẽ lý luận: Thiên Chúa là Đấng tốt lành mà lại bảo mình làm điều ác. Ngài là Sự Sống (Ga 14:6) mà lại bảo mình giết người? Thế thì Ngài mâu thuẫn, mình không thể làm theo mệnh lệnh này. Thế nhưng ông Abraham vẫn thi hành mệnh lệnh “ngược đời” như vậy. Vô cùng lạ lùng. Tuyệt đối tin tưởng. Đức Tin lớn quá!
Nhưng ngay khi ông sắp hạ sát con mình, sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông và ông thưa ngay: “Dạ, con đây!” (St 22:11) Ngài nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” (St 22:12) Ông Abraham ngước mắt lên nhìn thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây, ông liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và trao cho ông lời hứa: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.” (St 22:16-18) Thiên Chúa coi trọng đức vâng lời hơn của lễ. (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9) Tổ phụ Abraham đã vâng lời vô điều kiện, do đó ông được Thiên Chúa hứa ban những điều tốt lành, được công chính hóa và là cha của các dân tộc.
Đau khổ tạo nên hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc tỷ lệ thuận với nhau. Đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn. Thánh Vịnh gia nói: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: ‘Ôi nhục nhã ê chề!’” (Tv 116:10) Cay đắng lắm, thế mà vẫn tin, thật đáng khâm phục! Cái gì cũng có lý do, có cái giá nhất định: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa.” (Tv 116:15-17) Đau khổ và hạnh phúc đều vô giá.
Đức vâng lời và tình yêu thương có hệ lụy với nhau. Vâng lời vì yêu thương, yêu thương thì sẵn sàng vâng lời. Rất lô-gích! Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, tại khuôn viên đền Chúa, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem! Alleluia.” (Tv 116:18-19) Vâng lời là chấp nhận thực hiện điều gì đó với sự vui vẻ và trong niềm tin tưởng. Nếu không yêu thương thì người ta không muốn vâng lời. Một hệ lụy tất yếu.
Có gì đó mâu thuẫn trong cuộc sống, chúng ta vẫn nghĩ là mình tin Chúa nhưng đôi khi lại ngại vâng lời. Thật vậy, chúng ta chưa dám thi thành theo Ý Chúa, nhất là khi Ý Chúa không thuận với ý mình. Chưa dám thực hiện, đó là chưa thực sự tin tưởng hoặc tín thác. Không hề đơn giản chút nào, thế nên luôn phải nỗ lực.
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31b) Ông lý luận: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:32-34) Theo nhân tính, chính Chúa Giêsu cũng cảm thấy cô độc và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34; x. Tv 22:2) Thế mà Chúa Cha vẫn lặng im. Ôi, lạy Chúa!
Phàm nhân không thể hiểu hết ý muốn của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã xác định rạch ròi: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55:8-9) Thật vậy, khi ngăn cản Thầy Giêsu đi chịu chết, đệ tử Phêrô đã bị Thầy mắng nặng lời: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8:3) Người Việt gọi kiểu khôn đó là “trứng khôn hơn vịt” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô.” Chúng ta cũng thường mắc “tật” này, không chỉ với tha nhân, mà với cả Chúa. Thật đáng quan ngại!
Sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc thương khó và phục sinh, (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22) rồi đưa ra điều kiện làm môn đệ, (Mt 16:24-28; Mc 8:34-38; Lc 9:23-27) Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.” (Mc 9:1)
Sáu ngày sau, Ngài đem ba “đệ tử ruột” (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đi theo mình, đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao, rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Họ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Sư Phụ. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mc 9:5) Hạnh phúc đang dâng trào.
Qua trình thuật Mc 9:2-10, Thánh Máccô cho biết: “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.” Chắc hẳn là kinh hoàng thôi, phần thì chưa thấy bao giờ, phần thì quá kỳ diệu. Lạ thì lạ nhưng sướng cũng sướng. Quá “đã” luôn! Thật vậy, ông Phêrô sướng đến nỗi quên mình và hai anh bạn, chỉ xin làm lều cho Sư Phụ và hai VIP kia mà thôi. Đúng vậy, một khi người ta thực sự thấy “phép lạ” (chính hiệu chứ không là “sự lạ”) thì người ta sẽ quên hết mọi sự và thay đổi cách sống ngay, nhất định không lần lữa.
Trong lúc cả ba đệ tử đang ngon trớn thì bất ngờ có một đám mây bao phủ các ông. Từ đám mây phát ra tiếng nói: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Ôi chao, lại lạ nữa! Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Tiếc ghê đi! Và rồi khi từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
Được nhiều sẽ bị đòi lại nhiều, được ít thì bị đòi ít. Thiên Chúa chí công. Đừng tưởng được nhiều mà kiêu ngạo, nhưng cũng đừng thấy mình được ít mà buồn hoặc so đo với người được nhiều! Ba môn đệ được “ưu tiên” thấy Chúa Giêsu biến hình vì Ngài muốn củng cố đức tin cho họ, và tất nhiên được ưu tiên thì cũng phải “trả giá” cân xứng thôi. Thánh Gioan Tẩy Giả xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27)
Thiên Chúa đại lượng và nhân từ, dành trọn tình thương cho chúng ta, mặc dù chúng ta chỉ là tội nhân và hoàn toàn bất xứng với Ngài, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Thế nhưng Ngài đã bắt Con Yêu Dấu Giêsu chịu đau khổ tới cùng thay cho chúng ta. Vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình để chúng ta khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12:3) khi phải chịu đau khổ. Chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu nói: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Thực sự đau khổ có giá trị lắm, và là cái giá để mua hạnh phúc. Chính đau khổ tạo nên những thiên tài, những kiệt tác thuộc nhiều lĩnh vực.
Chắc chắn cuộc chiến nào cũng cam go, càng cam go hơn khi đó là cuộc chiến tâm linh. Thánh Phaolô so sánh: “Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu.” (Dt 12:3-4) Cuộc đời luôn có sự đấu tranh, và ai cũng phải chiến đấu không ngừng với mọi thứ, nhất là phải chiến đấu với chính mình. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta và rất yêu thương chúng ta, do đó Ngài cũng muốn chúng ta sống “khác người” bằng cách tất cả phải NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài.
Mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể, Kitô hữu được “chạm” vào Chúa Giêsu và được trò chuyện với Ngài. Chúng ta như được lên Tabor với Chúa Giêsu, đó là điều diễm phúc vô cùng đối với tội nhân chúng ta. Các phép lạ Thánh Thể củng cố niềm tin của chúng ta: Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Bánh Thánh.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, để tôn vinh Ngài và sinh ích cho chúng con trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là trong lúc khó khăn vì dịch bệnh như hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC496: SỐNG HAI MẶT
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là : Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được MC 2-ABC496
Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là : Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa – đi với ma mặc áo giấy”?
Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:
“ Biết mặt khó biết được lòng Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.
Đôi khi xoáy giữa sang hèn Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ
Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù. . . Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa . . .
Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC497: CÙNG CHÚA BIẾN HÌNH
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, ngọn núi Tabor dường như cao hơn, đẹp hơn và trở thành ngọn núi vinh dự nhất khi MC 2-ABC497
Hôm nay, ngọn núi Tabor dường như cao hơn, đẹp hơn và trở thành ngọn núi vinh dự nhất khi được chứng kiến vinh quang của Đức Giêsu. Trên núi, Thầy Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mắt các môn đệ thân tín nhất. Ta hãy cùng Thầy bước vào khung cảnh tuyệt vời ấy.
Có lẽ, ta không lạ lẫm gì khi Thầy lại chọn một ngọn núi cao để gặp gỡ Chúa Cha và đàm đạo với các ngôn sứ của Cựu Ước. Cũng như ba môn đệ thân tín, ta hết sức kinh hoàng trước cảnh tượng tuyệt vời ấy. Thầy biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy ( x. Mc 9, 3). Được sống trong khung cảnh ấy, ta có thốt lên một ý tưởng táo bạo như môn đệ Phêrô: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”? ( Mc 9, 5). Phải chăng, khi được sống trong hạnh phúc ngập tràn như thế, ta luôn ao ước và mong mỏi được sống mãi trong hạnh phúc. Thế nhưng, Thầy Giêsu không muốn điều ấy. Thầy cho các ông được chiêm ngưỡng vinh quang của Thầy để củng cố lòng tin cho các ông trước khi loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Bởi trước đó, chính môn đệ Phêrô đã kéo Thầy ra mà trách khi nghe Thầy loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Thầy luôn làm đẹp lòng Chúa Cha khi sống vâng phục Người đến cùng khi tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn. Thầy biết rõ tâm tư của các môn đệ và sự yếu đuối nơi các ông. Rồi Thầy dẫn các ông xuống núi để cùng các ông tiếp tục cuộc hành trình: hành trình lắng nghe và thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi lần được rước Chúa vào lòng, con lại được đụng chạm đến Chúa và được gặp gỡ vinh quang Thiên Chúa. Mỗi ngày, xin cho con được cùng Chúa biến hình để bước vào vinh quang Thiên Chúa và gặp gỡ Chúa nơi từng người bên cạnh. Amen.
-----------------------------------
MC 2-ABC498: CHỨNG KIẾN
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa cùng môn đệ lên cao, Biến hình sáng láng, bước vào đám mây. Áo Người chói lọi trời MC 2-ABC498
Chúa cùng môn đệ lên cao, Biến hình sáng láng, bước vào đám mây. Áo Người chói lọi trời tây, Tông đồ hiện diện, ngất ngây tâm hồn. Môi-sen xuất hiện kính tôn, Ê-li-a đến, thiền môn dự phần. Ở đây tốt lắm ẩn thân, Ba lều xin dựng, cõi trần linh thiêng. Đám mây bao phủ tư riêng, Các ông hoảng sợ, thần thiêng đón chào. Tòa mây lên tiếng xen vào, Con Ta Yêu Dấu, từ cao vọng về. Hãy nghe Lời Chúa mọi bề, Loan tin cứu độ, trọn thề trung kiên. Khổ đau cõi chết trước tiên, Ngày sau sống lại, nơi miền trường sinh.
Mầu nhiệm Nhập Thể ẩn dấu nơi con người của Chúa Giêsu. Chúa mang thân xác như mọi người, nhưng người đó chính là Con Thiên Chúa. Chúa thường biểu lộ bản tính của Ngài qua các dấu lạ Ngài đã thực hiện. Với một quyền năng vô biên, Chúa đã chữa lành tất cả các loại bệnh hoạn tật nguyền, truyền khiến thiên nhiên vâng phục và còn cho kẻ chết sống lại.
Biến hình trước mắt các tông đồ, đó chính là bản tính thật của Ngài. Chúa biến hình trong sáng chói. Quyền năng bao trùm vạn vật. Ngắm nhìn Chúa thay đổi diện mạo, các tông đồ đều hoảng sợ. Thầy mà các ông vẫn chung đụng, hàng ngày đối thoại, gặp gỡ, ăn uống và dạy bảo, giờ đây là Chúa uy linh của trời đất. Ngài chính là Con Yêu Dấu của Chúa Cha.
Từng bước, Chúa đã mặc khải cho chúng ta chương trình cứu độ. Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện, nhưng nhiều người vẫn không nhận ra quyền năng của Chúa. Họ nghi kỵ, ghen tương và tìm đủ mọi cách để loại trừ Chúa ra khỏi đời sống và xã hội của họ. Họ đã gán cho Chúa biết bao danh xưng nào là mất trí, phạm thượng, phản quốc và nào là dùng quyền tướng qủy Bêelzebut để trừ qủy. Họ không muốn chấp nhận một Thiên Chúa làm người cách khiêm hạ và nghèo khó.
Con đường Chúa đi là con đường của thập giá và khiêm nhượng khổ đau. Chúa đi từ thấp lên cao. Chúa từ trời cao hạ thân làm người trong nghèo khó. Chúa muốn đồng hành cùng với những người cùng khổ, yếu đuối và bị khinh rể nhất. Chúa muốn xuống thấp để rồi nâng mọi người lên làm con Chúa. Chúa đi ngược dòng từ đáy nguồn để cùng kéo mọi người lên thượng nguồn chính là tình yêu nơi Chúa Cha.
Hãy nghe lời Ngài. Được nghe lời của Chúa là một hạnh phúc tuyệt vời. Có biết bao người chưa hề được nghe lời Chúa dạy. Chưa biết quyền phép lạ lùng của Chúa. Nhiều người không biết, không nghe, không chứng kiến viêc Chúa làm. Họ không nhận biết để tôn thờ Chúa cho phải đạo. Còn chúng ta rất hạnh phúc khi được lắng nghe lời Chúa dạy. Lời Chúa là lời hằng sống, có sức thánh hóa và đổi mới con người.
Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta chứng kiến các biến cố xảy ra trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa đã chọn con đường của khổ đau thập giá. Con đường của tình yêu hy sinh mạng sống. Chúa đã hiến thân chịu chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Chúa sẽ sống lại vinh hiển. Qua thập giá tới vinh quang. Đây chính là con đường Chúa đã đi qua.
-----------------------------------
MC 2-ABC499: TỪ CÕI CHẾT SỐNG LẠI
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Chết là hết.Đức Giêsu sau khi báo trước cho các môn đệ biết: “ Con người phải chịu đau khổ MC 2-ABC499
Chết là hết.Đức Giêsu sau khi báo trước cho các môn đệ biết: “ Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại”. Khi nghe Thầy loan báo như thế, có lẽ các môn đệ đang sống trong tâm trạng thất vọng, chán nản, vì có sống lại như Lazarô rồi Thầy cũng lại chết; vì thế, ông Phêrô đã cản ngăn Thầy đừng đi, nhưng đã bị Thầy mắng: “Xa tan! Lui lại đằng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”Nhưng thế nào là sống từ cõi chết sống lại?
Hiểu được sự non yếu về đức tin nơi các môn đệ, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi. Và trên núi, Ngài đã biến hình hiển dung. Qua biến cố hiển dung, chúng ta thấy có ba nội dung quan trọng:Đức Giêsu biến đổi hình dạng: Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Ngài, và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” ( xem Mc 9: 2-10)
Trước tiên, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ của Ngài biết rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp phải chịu không phải là con đường tuyệt vọng, nhưng là con đường dẫn đến vinh quang; từ đó, Ngài hướng các môn đệ về một niềm hy vọng tương lai vinh hiển để củng cố niềm tin của các ông.
Hai nhân vật đã chết từ lâu, nhưng vẫn còn là những biểu tượng cho chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Ông Môisê tượng trưng cho Lề Luật. Ông Êlia tượng trưng cho vai trò của ngôn sứ. Hai nhân vật này là những chứng nhân cho sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Đấng được Lề Luật và các ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để thực hiện chương trình cứu độ con người của Thiên Chúa.
Sau khi nhận phép rửa của ông Gioan, có tiếng từ trời phán: “ Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” Lời tuyên bố ấy nhằm cho nhân loại biết Đức Giêsu là con của Bà Maria theo xác thịt, nhưng là Con yêu dấu của Cha trên trời. Lần này, trên núi Tabo, sau khi biến hình, lại có một tiếng từ trời phán ra : “ Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Đây không phải chỉ là một lời giới thiệuvề Con yêu dấu của Ngài cho nhân loại sau khi chết và phục sinh về trời mà Chúa Cha còn thêm một mệnh lệnh cho hậu thế: “ Hãy vâng nghe lời Ngài.” Vâng nghe lời của người Con chí ái của Ngài cũng là nghe lời Giáo Hội hôm nay.
Choáng ngợp trước cảnh vinh quang và huy hoàng củaThầy biến dạng, với cái nhìn phàm tục, ông Phêrô đã thưa với Thầy: “ Chúng con ở đây, thật là hay, chúng con xin dựng ba lều.” Ông Phêrô chỉ nhìn thấy hiện tại mà chưa nhìn thấy tương lai! Lên núi chỉ mới là cái nhìn về vinh quang của tương lai. Nhưng để đạt đến được sự biến hình ấy, con người phải xuống núi, sống với cuộc sống thực tại của mình mà vẫn luôn hướng về viễn cảnh vinh quang ấy. Không con đường nào có thể dẫn đến vinh quang ấy ngoài con đường mà Đức Giêsu đã đi qua.
Từ trên núi xuống, Đức Giêsu đã truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại.Các ông vẫn chưa hiểu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con đường dẫn đến sự biến dạng vinh quang ấy không còn con đường nào khác ngoài con đường Thầy chí thánh đã đi qua:Con đường đau khổ phía trước mà Đức Giêsu sẽ đi qua là một thử thách con người để đi đến sự sống vinh quang đời đời.
Chúa nhật I Mùa Chay, Phụng vụ mời gọi chúng ta cùng Đức Giêsu đi vào sa mạc để ăn chay, sám hối và cầu nguyện, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Ngài để nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu phục sinh để vững tin vào Ngài.
Ngày xưa, các môn đệ chưa hiểu thế nào là “ từ cõi chết sống lại”; nhưng người tín hữu hôm nay đã hiểu từ cõi chết sống lại là gì, nhưng chúng ta đã và sẽ chuẩn bị thế nào cho ngày sống lại của mình?
-----------------------------------
MC 2-ABC500: HIỂN THỊ CHÂN DUNG THIÊN CHÚA
JM. Lam Thy
Trong sách Thánh Kinh Tân Ước, bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay năm B (Mc 9, 2-10) MC 2-ABC500
Trong sách Thánh Kinh Tân Ước, bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay năm B (Mc 9, 2-10) có tiêu đề “Đức Giê-su biến đổi hình dạng”. Cùng chủ đề, Thánh sử Mat-thêu (Mt 17, 1-8) và Thánh sử Lu-ca (Lc 9, 28-36) đều ghi là “Đức Giê-su hiển dung”. Tuy nhiên, khi trình thuật, cả 3 Thánh sử đều viết là “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” (Thánh Mac-cô viết: “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.”; Thánh Mat-thêu viết: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.”; Thánh Lu-ca viết: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.” Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình ?
Hiển dung là bày tỏ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Đặt một giả thiết có người cắc cớ hỏi: “Đức Ki-tô đã sống 33 năm nơi trần thế, với một hình dạng bình thường là con bác thợ mộc Giu-se và bà Maria, cho đến khi tử nạn trên thập giá vẫn không thay đổi. Đó chẳng phải là chân dung của Người sao? Còn trên núi Ta-bo, Người chỉ biến đổi hình dạng trong chốc lát thì sao gọi là hiển dung được?” Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Người biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa.
Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giê-su Ki-tô có 2 hình dạng: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung – bản chất đích thực của Người – là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giê-su “biến hình” là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa, còn nói “hiển dung” là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Người bộc lộ bản chất đích thực (hiển hiện chân dung) của Thiên Chúa ẩn kín bên trong. Như vậy cả 2 cách nói đều đúng, nhưng vì đây cũng là một dịp Thiên Chúa mạc khải công trình cứu độ loài người, nên nói ”Đức Giê-su hiển dung” chính xác hơn.
Sự kiện mạc khải này đã có tác dụng cụ thể khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mc 6, 45-52). Lần trước, thánh nhân còn bán tín bán nghi cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã thực sự tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a được. Khi Đức Giê-su Ki-tô từ hình dạng con người trần thế biến sang chân dung Thiên Chúa, thì tấm màn che phủ bí mật được mở ra (mạc khải – revelatio) qua Lời phán dạy của chính Thiên Chúa Ngôi Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mt 9, 7). Hiển nhiên Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; điều đó đã giúp củng cố đức tin, đồng thời cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và nói chung là các Ki-tô hữu.
Nghe nói đến biến đổi hình dạng tự nhiên lại nghĩ tới vấn đề con người chỉ thích thay hình đổi dạng ở cái thế kỷ XXI này. Có đủ kiểu, đủ cách: Nào là giải phẫu thẩm mỹ, cấy da, ghép thịt, cắt mắt, kẻ môi, nhuộm tóc, rồi thì tô son trét phấn, tắm sữa đắp kem…, ấy là chưa kể thời trang nọ, mô đen kia, thậm chí còn thay đổi cả giới tính nữa… Nhiều, nhiều lắm những cách thức biến đổi hình dạng bên ngoài, nhưng dù có thay đổi cả giới tính, thì trước sau “Mèo vẫn hoàn mèo”, con người vẫn là… loài người, không hơn không kém. Chỉ có Đức Giê-su Ki-tô mới có thể từ bản chất loài người, biến hình và hiển dung thành bản thể Thiên Chúa. Tuy rằng con người không thể nào biến đổi chân dung thành Thiên Chúa được, nhưng vẫn có thể biến đổi chân tướng nên giống với Thiên Chúa, bởi chính khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã làm theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 27). Nói cách khác, con người vẫn rất có thể và rất nên biến đổi cõi lòng, biến đổi tâm hồn của mình, để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Thiên Chúa.
Có một minh hoạ rất thật, rất cụ thể, rất sống động cho sự biến đổi này, đó chính là thánh Phao-lô với biến cố Damas (Cv 22, 6-11). Trải qua biến cố Damas, hình dạng thánh nhân vẫn không có gì thay đổi, nhưng chân tướng của ngài, bản chất của ngài đã biến đổi hoàn toàn. Thánh nhân đã cảm nhận được bản thân trở nên giống, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, đến nỗi phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Như vậy, vấn đề đặt ra không phải là thay hình đổi dạng bên ngoài, mà chính là làm sao biến đổi được cõi lòng bên trong, canh tân được đời sống tâm linh. Bởi vì và trên hết, Mùa Chay phải là mùa các tín hữu “hãy xé lòng, chớ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Đừng xé áo để mặc áo mới cho hợp thời trang, cho đúng mốt thời đại, mà cần phải xé lòng ra để rũ bỏ hết những tì ố, những xấu xa, tội lỗi, đồng thời đón nhận “luồng ánh sáng chói lọi” là chính Đức Giê-su Ki-tô đến để thanh tẩy tâm hồn, canh cải con người cũ, hầu trở nên con người mới, “đồng hình đồng dạng với Người” (Rm 8, 29).
Thông qua các lời tiên tri của các ngôn sứ, các lời rao truyền về sấm ngôn của Đức Chúa, Dân Chúa thời Cựu Ước mới chỉ được biết Con Một Thiên Chúa sẽ giáng trần cứu độ nhân loại, chưa được trực diện chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giê-su, chưa được như ba môn đệ thân tín của Đức Ki-tô được trực tiếp nghe Lời Đức Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 36). Vậy mà Cựu Ước đã có lời nhắn nhủ: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em.” (Ge 2, 13). Đến như các Ki-tô hữu ngày nay thì không những được nghe lời tiên tri, tiên báo về Đấng Cứu độ Giê-su Ki-tô, mà còn được chính các môn đệ thân tín của Người tường thuật lại biến cố hiển dung của Con Thiên Chúa và nghe Lời phán dạy của Chúa Cha.
Rõ ràng là Dân Chúa ngày hôm nay được biết nhiều hơn Dân Chúa thời Cựu Ước; nhưng thử hỏi đã mấy ai dám mạnh dạn xé lòng hơn là xé áo? Kể ra thì con số những người dám “xé lòng” đã là con số khá nhiều, đó là các vị Tông đồ tiên khởi, và biết bao nhiêu vị hiển thánh – nhất là các thánh Tử vì Đạo – hiện đang được diễm phúc vui hưởng thành quả của hành động “xé lòng” trên Thiên quốc. Tuy nhiên, con số người chỉ thích “xé áo” vẫn là những con số nhiều hơn, áp đảo cả con số những kẻ biết “xé lòng”. Người ta chỉ thích xé áo để khoác vào người bộ áo sặc sỡ thế trần. “Cái áo không làm nên thầy tu” nhưng muốn có cái mác thầy tu để loè (hay “lừa”?) đời thì lại rất cần cái áo đó, để trục lợi về vật chất (khất thực, quyên góp tiền của), hãnh tiến về tinh thần (tín đồ o bế, xã hội trọng vọng).
Mùa Chay 2018 đã tới, xin hãy mạnh dạn bước vào Mùa-Chay-cuộc-đời trong hoang địa trần thế với quyết tâm như một lời đoan hứa: Tôi nhất định không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, không tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Tất cả những thói hư tật xấu, tôi quyết tâm từ bỏ, như một lần nữa tôi tuyên xưng đức tin.
Ôi! Lạy Chúa! Con xin vâng nghe Lời Ngài, như lời Mẹ con hằng nhắc nhở: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 6). Cũng chính vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119). Con quyết không cầu xin cho con biến đổi hình dạng bên ngoài, mà con dốc lòng cúi xin Chúa thương ban cho con một trái tim mới, một thần trí mới, để con có đủ nghị lực và quyết tâm biến đổi tâm hồn con thành con người mới như lòng Chúa mong đợi. Ôi! Lạy Chúa! “Xin ban cho con một trái tim mới, để con yêu Chúa đến trọn đời. Xin ban cho con một thần trí mới, để con thi hành thánh ý Cha. TK: Xin rảy nước trong ngần để con sạch mọi vết nhơ. Xin đổi thay trái tim bao năm cằn khô sỏi đá. Xin đặt Thần Khí Chúa vào lòng chúng con. Xin ban tặng chúng con trái tim vẹn tuyền.” (“Trái tim mới” – TCCĐ). Amen.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?” - Ðó là lời Chúa. ----------------------------------
Phúc Âm không ghi lại cho biết vị nào tổ chức cuộc họp, do ai hẹn ai. Chúng ta chỉ biết là có cuộc gặp mặt trên núi thánh giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elijah. Sau đó có tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây kêu gọi môn đệ hãy ‘Vâng nghe lời Ngài’. Cuộc gặp mặt lần nữa xác định Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Ngài vác thập giá hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại.
Tuần trước Thánh Thần Chúa dẫn Đức Kitô vào hoang địa. Ngài chịu cám dỗ sau bốn mươi ngày chay tịnh. Tuần này Đức Kitô chủ động, Ngài dẫn môn đệ lên núi thánh. Kinh nghiệm quí hiếm một đời không gặp, Đức Kitô dành riêng cho các môn đệ. Các ông được Đức Kitô ban ơn riêng. Các ông gặp tổ phụ Môisen, tiên tri Elijah và được nghe tiếng Chúa Cha phán bảo. Đức Kitô mặc khải vinh quang cho các môn đệ. Có khác biệt về vinh quang Thiên Chúa và các tổ phụ. Tổ phụ nhận vinh quang từ Chúa; trong khi chính Đức Kitô là nguồn vinh quang sáng hơn chớp trời sáng toả. Môisen sống một ngàn năm trăm năm trước Đức Kitô; tiên tri Elijah sống chín trăm năm trước Đức Kitô. Sự hiện diện của hai vị xác định sự thật niềm tin Kitô hữu. Đó là sau cuộc sống trần gian, còn cuộc sống mới sáng chói, chan hoà niềm vui, cho những ai tin theo Thiên Chúa.
Môisen và Elijah mỗi vị đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ dân Chúa. Môisen nhận Mười Điều Răn Chúa ban trên núi Sinai; Elijah đại diện cho tiên tri mọi thời đại. Tiên tri rao giảng tình yêu vô bờ Chúa dành cho toàn dân. Tiên tri kêu gọi con người thống hối, từ bỏ lối sống sa đoạ, trở về đường công chính. Tiên tri bị chế nhạo, phỉ báng. Tiên tri sống cho Chúa; sống là nhân chứng trung thành; chết làm sáng Danh Thiên Chúa. Đức Kitô một mình Ngài hoàn thành tất tốt đẹp hai vai trò. Thứ nhất là vai trò tiên tri; thứ hai là vai trò chính Ngài là Con Thiên Chúa. Tiên tri kêu gọi thống hối nhận ơn thứ tha, ơn cứu độ. Đức Kitô, Đấng có quyền ban ơn tha thứ, và ban ơn cứu độ. Tiên tri vác thập giá của chính mình bước theo Thiên Chúa. Đức Kitô vác thập giá thay nhân loại làm hoà cùng Chúa Cha. Tiên tri chết. Chúa ban sự sống trường sinh. Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban ơn trường sinh cho ai tin, bước theo Ngài.
Thánh Luca ghi lại cuộc đàm đạo giữa Đức Kitô và các tổ phụ. Cuộc đàm đạo tóm gọn hai sứ vụ Đức Kitô trong một câu vắn gọn.
Các vị ‘nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Jerusalem’ Lc 9:31
Hai chữ ‘xuất hành’ và ‘Jerusalem’ đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ câu nói. ‘Xuất hành’ chính là nhắc lại hành trình vượt qua Biển Đỏ Môisen dưới sức mạnh và ơn Chúa soi sáng dẫn dân Israelites thoát ách nô lệ bên Ai Cập để vào miền Đất Hứa. ‘Xuất hành’ của Đức Kitô chính là nói đến ơn Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi chết muôn đời. Thập giá Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài sống lại ban sự sống trường sinh cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’, tin theo, bước theo. Jerusalem chính là nói đến cuộc thươngg khó, Đức Kitô bắt đầu tại Jerusalem và hoàn thành sứ mạng cứu độ cũng tại Jerusalem.
Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây phán bảo môn đệ ‘Hãy vâng nghe lời Ngài’. Lc 9:35. Vâng nghe ba lần Đức Kitô tiên báo cuộc thương khó.
‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kì mục, Thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trôi dậy’ Lc 9: 22.
Ngay sau đó Đức Kitô phán bảo môn đệ: ‘Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo’ Lc 9: 23
Vâng nghe lời Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng Chúa tuyển chọn, chính là vâng nghe lời của chính Thiên Chúa. Vâng nghe bằng cách vác thập giá, bước theo.
Ngày lễ Chúa Biến Hình ban cho con tim các môn đệ niềm vui dạt dào. Các ông tràn ngập hạnh phúc, dù chỉ được nếm thử một chút vinh quang Thiên Chúa, các ông đã mong mỏi lưu lại đó luôn mãi. Các ông được ơn đặc biệt nếm thử ‘Miền Đất Hứa’ của sống trường sinh. ‘Miền Đất Hứa’ này Chúa ban cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’. Chúng ta dâng trọn con tim cho Đức Kitô để cuối đời vào ‘Miền Đất Hứa’.
Ngày nay, chúng ta không lạ gì với những ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, đặc biệt là trào lưu biến hình trên tiktok. Ứng dụng này đã thu hút lượng lớn những người theo dõi và sử dụng chúng như một phần sinh hoạt hằng ngày. Và cũng với ứng dụng này, người xem được mãn nhãn với màn biến hóa thần tốc từ dung mạo bình thường sang thần thái vô cùng sành điệu chỉ bằng một cái vỗ tay, hay một cái đạp chân trước ống kính camera.
Câu hỏi được đặt ra là: những ứng dụng này đã đáp ứng nhu cầu cốt lõi gì nơi những người đang theo dõi và sử dụng chúng? Phải chăng vì con người với tính hiếu kỳ luôn muốn trải nghiệm những gì mới mẽ, nhất là đối với những ai yêu thích công nghệ và giải trí. Hoặc có thể khi một bức ảnh được qua chỉnh sửa thì trông sẽ bắt mắt hơn, thú vị hơn, và sáng đẹp hơn ảnh gốc…Và càng đi vào tìm hiểu sâu xa hơn nữa những lý do bên trong của con người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, sở dĩ những ứng dụng này luôn được đón nhận và thường xuyên sử dụng là do bởi nhu cầu bản thân muốn được người khác đón nhận, và để ý một cách tích cực nhất, đẹp đẽ nhất. Vì theo lẽ thường, ai cũng muốn xây dựng cho mình một hình ảnh thật đẹp, thật xinh tươi và dễ thương trong mắt người khác. Vậy nên những ứng dụng công nghệ kể trên mới được ứng dụng rộng rải bằng những cập nhật mới liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu này của con người.
Chúng ta có thể kể ra một vài ứng dụng biến hình với các phiên bản như: hất tóc biến hình, đá chân biến hình, chỉ tay biến hình…rồi giờ là biến hình thành siêu nhân giải cứu thế giới…Người chơi càng ngày càng bị cuốn vào ánh hào quang của những hiệu ứng màu sắc, âm thanh, và ánh sáng mà xa dần phiên bản đời thực của chính mình…
Chúa Giêsu biến hình
Hôm nay, Chúa Giêsu như hòa vào trào lưu biến hình của con người hôm nay. Nhưng khác với mọi cuộc biến hình trên các nền tảng mạng xã hội, Ngài biến hình trong sự đồng hành của Mô-sê và Elia, hai nhân vật trong Cựu Ước, như đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Ngài biến hình không bởi ánh sáng của những chiếc đèn màu rực rỡ nhưng trong đám mây. Ngài cũng không biến hình với tiếng nhạc xập xình nhưng bằng tiếng nói của Chúa Cha: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người!” (Lc 9,35).
Và điều đáng nói hơn ở đây, đó là: Các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan không chiêm ngắm việc biến hình này qua màn ảnh nhỏ của chiếc smartphone, với một sản phẩm đã hoàn tất. Các vị này chiêm ngưỡng Chúa Giê su biến hình một cách trực tiếp, và sống động, sống động đến nỗi dù đem đến cho các ông sự thích thú muốn được dựng lều để chiêm ngắm mãi vinh quang Chúa, nhưng cũng làm các ông “hoảng sợ, và nín thinh đến tận mấy ngày sau, không dám kể cho ai biết về những điều mình đã thấy…” (Lc 9,34). Vì sao vậy? vì dung mạo Chúa quá khác biệt với những gì các ông đã thấy hằng ngày, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (Lc 9,29) Có thể các ông đã kinh nghiệm chút nào đó thiên tính của Thầy mình, điều vượt quá trí tưởng tượng và tiếp nhận của con người bình thường như các ông.
Cách thức Chúa biến hình
Thánh sử Luca chỉ cho chúng ta biết cách thức Chúa biến hình. Ngài không “hất tóc, cũng chẳng đá chân, hoặc chỉ tay”…như những gì chúng ta thường thấy trên các nền tảng mạng xã hội. Ngài chỉ làm một điều đơn giản: cầu nguyện! Và đang lúc cầu nguyện như vậy, dung mạo Ngài biến đổi. Điều này nói cho chúng ta điều gì? Sức mạnh của lời cầu nguyện, của những giờ phút kết hiệp với Chúa Cha luôn đem lại sinh khí và sinh lực cho Chúa Giêsu trong suốt hành trình làm người và thi hành sứ vụ trên trần gian của Ngài.
Chúng ta thường cảm thấy hả dạ trước một Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những thói giả hình và lối sống bất công của những người quyền thế trong dân? Chúng ta cũng thường ngưỡng mộ những lời Ngài phán ra có sức mạnh xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, và nuôi dưỡng những ai đói khát cơ cầu…Nhưng chúng ta có từng chiêm ngắm một Chúa Giêsu âm thầm lánh riêng ra một nơi để cầu nguyện không? Và chúng ta có thường nhận ra rằng trước và sau khi làm một việc gì đó quan trọng, Chúa Giêsu thường bắt đầu bằng việc cầu nguyện hay không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, vì Chúa không ngừng bày tỏ cho chúng con biết về Chúa để hiểu và yêu mến Ngài hơn. Ngài là một Thiên Chúa không ngại mặc lấy thân phận con người (nhân tính) để trở nên gần gủi với chúng con, nhưng cũng không quên nhắc nhớ chúng con về Thiên Tính của Ngài: là Con của Chúa Cha, và cũng là Thiên Chúa! Điều đó đem lại niềm vui và vinh dự cho chúng con khi được chia sẻ vinh quang với Ngài qua khát vọng biến đổi từng ngày của chúng con.
Xin dạy chúng con đang khi chạy theo những ảnh ảo, phù vân của những hào nhoáng bên ngoài, biết quay về với Chúa trong mùa chay thánh này, để tìm lại hình ảnh chân thực của chúng con: là con cái của Chúa!
Xin cho chúng con biết cài đặt, ứng dụng, và lưu giữ phiên bản Giêsu biến hình này trong cầu nguyện, ăn chay, và việc lành bác ái, để mỗi một hiện diện của chúng con đều đem đến giá trị tích tực cho mọi người xung quanh, nhất là xây dựng nơi chính chúng con dung mạo của một Giêsu biến hình để hiến mình cho nhân loại qua mầu nhiệm Thập Giá. Amen.
Có nhiều loài động vật phải lột xác để phát triển – rắn, cua, ve sầu, tắc kè, bướm,... Con người không lột xác nhưng cũng phải thay đổi mạnh mẽ và dứt khoát như dạng “lột xác” vậy, đặc biệt vào mỗi Mùa Chay.
Về động vật, tạp chí The National Geographic cho biết:
RẮN – Tùy vào độ tuổi, mỗi năm rắn lột xác từ 4-8 lần, nó nằm yên một chỗ, từ từ uốn thân để loại bỏ lớp da cũ. CUA – Trước khi lột xác một ngày, cua bắt đầu hấp thụ nước biển để cơ thể bắt đầu phồng lên như trái bóng, giúp nó mở rộng lớp vỏ cũ và tạo một đường nứt nhỏ, nó thu mình lại nhiều lần và rút chân trước, tách hoàn toàn khỏi lớp vỏ cũ, quá trình lột xác thường kéo dài trong vòng 15 phút. VE SẦU – Ấu trùng ve sầu trải qua 3-6 năm sống trong lòng đất, đến lần lột xác cuối cùng, nhộng chui ra và bò lên cây, tự gồng mình làm nứt vỏ và từ từ chui ra theo phần lưng.
TẮC KÈ – Mỗi năm tắc kè lột da khá nhiều lần vì lớp da cũ không đủ đàn hồi với sự phát triển của cơ thể, sau khi lột da nó ăn lớp da cũ như phần ăn nhiều vitamin. BƯỚM – Sau 2-3 tuần ăn uống no nê, sâu bướm lớn hơn sẽ nhả tơ kết thành kén, nó chui vào đó, thoát xác và hóa thành nhộng. Khoảng 2 tuần sau, bướm cọ lưng vào kén tạo thành lỗ nhỏ để chui ra, sau khoảng 60 phút, đôi cánh có kích thước đầy đủ, khô ráo và sẵn sàng để bướm bay.
Như vậy, quá trình lột xác cần thiết để thay da đổi thịt, chắc chắn phải chịu đau đớn. Về thể lý, người ta muốn duy trì vẻ đẹp nên tìm cách để trì hoãn sự lão hóa, sẵn sàng chịu tốn nhiều tiền để “được” mổ xẻ, bơm, đắp, hút, cắt,... thế nhưng cũng chỉ được một thời gian, không thể vĩnh viễn. Vậy mà người ta vẫn chấp nhận để... “coi được” hơn. Còn về tinh thần, tại sao lại không cố gắng để “đẹp” hơn trong mắt Chúa?
Không gì bền vững, tất cả mọi thứ đều biến đổi theo dòng thời gian. Người trẻ hóa già, người đẹp hóa xấu, hoa tươi hóa héo, lá xanh hóa vàng, cổ thụ cũng khô,… Đá tưởng chừng trơ trơ cùng tuế nguyệt, nhưng rồi đá cũng mòn vì nức chảy qua. Ngay cả tình cảm của con người cũng có thể bị biến đổi: “Xa mặt, cách lòng.” Tình cảm cũng thất thường với thất tình, lục dục.
Khi nói biến đổi, có thể xuôi hay ngược, tiêu cực hay tích cực, nhưng người ta muốn nói đến chiều hướng tích cực, tốt hơn. Cuộc sống có nhiều thứ cần biến đổi, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Mùa Chay là cơ hội tốt để biến đổi, là hành trình hoàn thiện, là “mùa lột xác” để từ tội nhân trở nên thánh nhân. Thiên Chúa khuyến cáo: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 11:44; Lv 19:2; Lv 20:7) Đó là cách “lột xác” mà Thiên Chúa mong muốn.
1. BIẾN ĐỔI THEO GIAO ƯỚC
Có một cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thiên Chúa với ông Ápram và lời hứa của Ngài dành cho ông, đực trình bày qua trình thuật St 15:5-12, 17-18.
Thiên Chúa đưa ông Ápram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” Ông tin ngay, vì thế Đức Chúa kể ông là người công chính. Đức tin làm cho phàm nhân xấu xa trở nên công chính. Chính Chúa Giêsu xác định là một mối phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:19) Quả thật, đức tin vô cùng quan trọng!
Rồi Thiên Chúa nói với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Canđê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” Ngài nói: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.”
Cuộc đối thoại rất đơn giản và tự nhiên, không có gì cầu kỳ. Điều đó cho thấy Thiên Chúa rất thân thiện với con người, và con người cũng rất chân thành. Đúng là “nhân chi sơ tính bổn thiện.” Rồi ông Ápram kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì để nguyên con. Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Ápram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Ápram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.
Khi mặt trời lặn, màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Ápram như sau: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến Sông Cả, tức sông Êuphơrát.”
Mặc dù nhân loại bất xứng mà vẫn được Thiên Chúa yêu thương, được ký kết với Thiên Chúa. Và rồi Thiên Chúa đã thay tên đổi họ cho ông Ápram, nghĩa là ông trở nên một con người mới hoàn toàn: “Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Ápram nữa, nhưng là Ápraham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.” (St 17:5) Thiên Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải thực sự biến đổi, từ con người CŨ trở thành con người MỚI, đặc biệt là trong mỗi Mùa Chay Thánh.
Chúng ta sẽ khả dĩ biến đổi nếu có Thiên Chúa, nhưng muốn có Ngài thì chúng ta phải đón nhận Ngài – tức là phải tin Ngài. Cứ tín thác vào Ngài thì Ngài sẽ hành động, Ngài sẽ soi đường dẫn lối, vì Ngài là Ánh Sáng Vĩnh Cửu, điều này được tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1)
Cn làm gia tăng đức tin. Do đó, cần phải cầu nguyện liên lỉ và xin ơn phù trợ: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.” (Tv 27:7-9) Thật vậy, giả sử Ngài chỉ vắng bóng trong tích tắc, mọi loài sẽ chết ngay lập tức!
Lời hứa của Thiên Chúa là thật, chắc chắn sẽ nên trọn. Hãy tự động viên và lấy lại niềm tin: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 27:13-14) Tự giúp mình rồi trời sẽ giúp. Và hãy ghi nhớ điều quan trọng này: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con.” (Tv 27:10) Cuộc sống nhiêu khê, không ít lần chúng ta đã thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc như muốn buông xuôi, cố gắng đừng chết trước khi tắt thở!
Con người dễ thoái hóa nên cần biến đổi, chưa biến đổi là đối lập với Thập Giá, vì Thập Giá là thuốc mạnh giúp “lột xác.” Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian.” (Pl 3:17-19) Chắc hẳn những điều này chẳng xa lạ gì, thế nhưng người ta nghe mãi hóa quen tai. Vì thế, người ta vẫn tranh giành nhau mọi thứ, tranh chấp nhau bằng mọi giá.
Thánh Phaolô phân tích: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3:20-21) Một cuộc biến đổi thú vị mà lại không dễ dàng chút nào, tức là khó lắm, nhưng KHÓ không có nghĩa là KHÔNG làm được. Khó mà làm được mới có giá trị.
“Từ bỏ chính mình và vác thập giá”là điều kiện theo Chúa. (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23) Hạnh phúc nào cũng không thể thiếu đau khổ, niềm vui nào cũng có nỗi buồn, thành công nào cũng do khổ luyện, nước mắt càng mặn thì nụ cười càng rạng rỡ. Tabor chói lọi thì cũng có Canvê u ám. Đó là sự cân bằng hợp lý của đời thường.
Loại ổ khóa nào cũng có chìa khóa, khó khăn nào cũng có cách xử lý, quá trình biến đổi cũng có bí quyết, như Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng.” (Pl 4:1) Đơn giản nhưng không đơn điệu, mà lại rất hiệu quả.
2. BIẾN ĐỔI CỤ THỂ
Ước muốn dẫn tới hành động, lý thuyết dẫn tới kết luận, lời hứa dẫn tới việc làm,… Trình thuật Lc 9:28-36 (≈ Mt 17:1-8; Mc 9:2-8) nói về cuộc hiển dung của Đức Giêsu. Các nhân chứng là ba môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Chúa Giêsu muốn dẫn chứng cụ thể để củng cố niềm tin cho họ, nhờ đó họ đủ can đảm mà hành động quyết liệt, dứt khoát.
Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa. Bỗng dưng có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật kia. Khi đó, ông Phêrô thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”
Quá hạnh phúc nên ông không biết mình đang nói gì. Ông say sưa giữa không gian kỳ diệu, không thể cảm nhận hết. Bản tính ông chất phác, thật thà, nghĩ sao nói vậy, ông quên mình và chỉ nghĩ đến người khác. Tình yêu thương đã đạt tới đỉnh cao. Hạnh phúc tuyệt vời!
Vinh quang đó chính là vinh quang của Thiên Quốc, Chúa Giêsu cho ba ông được nếm thử để động viên các ông làm nhân chứng về Ngài, và có trách nhiệm hướng dẫn người khác biến đổi trên hành trình tâm linh. Trong khi ông Phêrô còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Thật tiếc! Khi thấy mình ở giữa đám mây, các ông hoảng sợ. Nhưng không sao, sự lạ đó là thật, không mơ hồ hoặc ảo giác. Và rồi còn lạ hơn nữa khi có tiếng nói vang từ đám mây: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”
Lời đó nghe được rất rõ ràng. Nhưng tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Các môn đệ không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy, theo lời dặn của Thầy Giêsu. Từ đó, các ông thực sự được biến đổi, được “lột xác” hoàn toàn. Một Phêrô yếu đuối trở thành một Phêrô can đảm phi thường.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tận dụng thời gian thuận tiện này để có thể thay da đổi thịt từ trong ra ngoài, tích cực hoán cải để xứng đáng là chứng nhân của Ngài giữa cuộc sống nhiêu khê này. Xin giúp chúng con dám trút bỏ con người cũ để thành con người mới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong cuốn “Những cánh hoa đơn” kể về cuộc đời thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô với bạn hữu, có câu chuyện về một tu sĩ tên Bê-na-đô Quin-ta-van-lê (Bernard of Quintavalle), môn đệ đầu tiên của thánh nhân. Bê-na-đô là một tâm hồn nghèo khó, yêu Chúa rất mực và hết sức sống trọn vẹn Tin Mừng. Chính vì thế, thầy thường được ơn ngất trí khi cầu nguyện. Một lần đang lúc dự lễ, tâm hồn thầy bay lên, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, không còn biết gì nữa. Vị linh mục tế lễ nâng Mình Thánh lên, thầy cũng chẳng thấy, chẳng quỳ, chẳng cất lúp đội đầu như các anh em khác. Mắt thầy vẫn mở và chăm chú nhìn, nhưng toàn thân như xác không hồn, chẳng nhúc nhích động đậy, gương mặt thì sáng ngời lên. Thầy xuất thần như thế từ sáng đến khoảng ba giờ chiều. Sau khi tỉnh lại, thầy chạy khắp cùng tu viện, nói thật to: “Anh em ơi! Nếu người giàu có sang trọng nhất ở miền này được Chúa hứa cho cái kho tàng quý giá như tôi vừa thấy, thì bảo người ấy làm gì người ấy cũng làm; bảo mang một bị bùn đất dơ dáy mà đi, người ấy cũng vui lòng mang ngay”. Vì được Chúa cho thấy kho tàng quý báu trên trời dành cho những ai mến Chúa, nên từ đó về sau, suốt 15 năm (thầy mất năm 1241), đi đâu Bê-na-đô Quin-ta-van-lê cũng hướng mắt đưa trí về trời. Và tâm hồn ngày càng thêm thoát tục.
1. Luật sống của con người
Câu chuyện thầy Bê-na-đô giúp ta hiểu thêm kinh nghiệm kỳ diệu của Đức Giê-su cũng như ba môn đệ thân tín trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Nhưng phải nói ngay, đoạn này đã bị Sách Bài đọc Chúa nhật cắt bớt cụm từ đầu: “Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy”. Quả là một thiệt hại lớn vì các Tin mừng Nhất lãm đều nhất trí liên kết chặt chẽ cuộc Biến hình với buổi nói chuyện thời danh về con đường khổ nạn (x. Mt 17,1; Mc 9,2; Lc 9,28). Đây là một trong những trường hợp họa hiếm trong đó hai giai thoại đời Đấng Cứu thế được liên kết với nhau về mặt thời gian. Tám ngày trước, đã có một cuộc trò chuyện đáng nhớ, diễn tiến trong hai thì: trước hết Đức Giê-su hỏi họ: “Anh em bảo Thầy là ai?” và chính Phê-rô tuyên xưng Người như “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”… Đức Giê-su lập tức loan báo cái chết cận kề của mình. Cuộc Biến hình như thế có liên quan tới cuộc Khổ nạn và Phục sinh. Trong vài tuần nữa, Người cũng sẽ lại đem theo ba ông bạn ấy vào vườn Ghet-sê-ma-ni (x. Mt 26,37; Mc 14,33). Khuôn mặt Đức Giê-su mà họ sắp thấy sáng ngời vinh quang, lúc ấy sẽ đầm đìa mồ hôi máu (Lc 22,44) lãnh đủ bạt tai (Lc 22,64) và phủ đầy đờm rãi (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm thoại “tám ngày trước”, Đức Giê-su cũng đã loan báo cho họ hay chính họ cũng sẽ “vác thập giá theo Người” (Lc 9,23). Rồi còn thêm rằng “một số sẽ không phải chết trước khi thấy Vương quốc Thiên Chúa” (Lc 9,27). “Vương quốc” mầu nhiệm ấy, tức sự biểu lộ vinh quang Thiên Chúa trong bản tính con người, chẳng được bày tỏ trong cuộc Biến hình đó sao? Lạy Chúa, làm sao con dám đi tới niềm vui Phục sinh mà không đích thân đi qua con đường khổ nạn? Mùa Chay này đã chẳng cho con cơ hội hiệp thông vào các đau khổ của Ngài sao?
Như trong nhiều trình thuật khác, Lu-ca mở đầu câu chuyện với quang cảnh Đức Giê-su cầu nguyện, trước sự hiện diện của ba môn đồ thân tín. Đây là việc Người vẫn làm vào những giây phút quan trọng (x. Lc 3,21; 5,16; 6,12; 9,18.28; 10,21; 11,1; 22,32.41.42; 23,34 46). Và “đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Lu-ca rõ ràng tránh từ “biến đổi hình dạng” mà Mt (17,2) và Mc (9,2) sử dụng. Độc giả của Lu-ca đều là những cựu lương dân, có văn hóa Hy-lạp, từng biết đến những “biến đổi hình dạng” (métamorphoses) của các thần minh ngoại giáo (như thần Zeus biến thành con thiên nga hay một trận mưa vàng). Sử dụng một ngôn ngữ bên ngoài xem ra khiêm tốn hơn, ông bảo rằng đang lúc cầu nguyện, dung mạo của Đức Giê-su bỗng “đổi khác”. Trong thực tế, khi nhìn một số người cầu nguyện thật sốt sắng như thầy Bê-na-đô Quin-ta-van-lê, như cha Piô Năm Dấu thánh, có khi ta thấy khuôn mặt của họ như tỏa ra một thứ ánh sáng lạ lùng, ánh sáng nội tâm: cũng là con người ấy, nhưng có một cái gì đó bất thường xuất hiện.
Trong nền văn hóa của Kinh Thánh, hình ảnh biểu tượng “y phục” đến bổ túc cho nhận xét đầu tiên vừa nêu. Y phục “trắng tinh chói lòa” là “dấu chi” của các hữu thể thiên giới (x. Đn 7,9; 10,5-6); các Ki-tô hữu đầu tiên cũng sẽ luôn mô tả Đức Giê-su phục sinh như vậy (x. Kh 1,13; Lc 17,23; 24,4). Chiếc áo trắng ngày chúng ta chịu phép rửa tội rồi thêm sức, chiếc áo trắng của cô dâu ngày chịu phép hôn phối, chiếc áo trắng của linh mục nơi bàn thánh… đều là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của các môn đệ được liên kết với vinh quang của Thầy (x. Kh 3,4.5.18; 4,4; 7,9.13).
Khi gợi lại cho ta hình ảnh Đức Giê-su “có dung mạo đổi khác” nhờ cầu nguyện, Lu-ca muốn khuyến khích ta rằng trong cuộc sống chúng ta, vốn ghi dấu thử thách và thất bại, khổ đau và tội lỗi, chỉ có lời cầu nguyện, vào những giờ phút nào đó, là có thể biến đổi chúng ta. Vì chúng ta cũng “được biến đổi mà phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2Cr 3,18).
2. Thánh ý của Thiên Chúa
Và rồi “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Mt và Mc cũng ghi nhận sự hiện diện này, nhưng Lu-ca là người duy nhất cho ta biết đề tài cuộc nói chuyện giữa Đức Giê-su và hai đại chứng nhân Cựu Ước: họ bàn luận về cuộc ra đi, cuộc xuất hành của Người. Chúng ta khó mà nhận thức được Đức Giê-su đã bị viễn tượng cái chết ám ảnh và theo đuổi đến độ nào, cái chết mà Gio-an gọi là cuộc “vượt qua” của Người (x. Ga 13,1) còn Lu-ca thì gọi là cuộc “siêu thăng” (Lc 9,51; 24,51). Đức Giê-su là con người tự hy tế: Người biết tại sao mình đã đến và sẽ đi về đâu: đi về cùng Cha, “vào trong vinh hiển ngang qua cái chết”, theo như ý định của Thiên Chúa, lôi cả nhân loại theo mình. Mầu nhiệm vượt qua của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem tóm kết tất cả lịch sử nhân loại, tóm kết số phận của riêng tôi: muốn hay không, ý thức hay không, tôi cũng phải theo con đường dẫn tôi về cùng Thiên Chúa ngang qua cái chết, cũng ở trong tình trạng “xuất hành” rời mảnh đất nô lệ về miền đất hứa ban. Mở đầu mùa Chay ngày Lễ tro, Giáo hội đã nhắc ta chớ quên số phận của mình: “Người ơi hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro!” Nhưng cuộc Hiển dung biến đổi định mệnh tất yếu này thành viễn tượng vinh quang: hóa thành tro bụi, chúng ta đi về cùng Thiên Chúa.
Tuy nhiên, lúc này đây, đứng trước linh kiến lạ lùng mà họ đang mục kích, các Tông đồ một lần nữa không hiểu. Họ ở trong một thứ ánh sáng lờ mờ, nửa mê nửa tỉnh, ăn nói lung tung. Chính khi tất cả chấm dứt, lúc Mô-sê và Ê-li-a ra đi, họ mới nhập vào cảnh tượng, ấp úng phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” Rồi tự nguyện dựng ba cái lều cho Đức Giê-su, cho Mô-sê và cho Ê-li-a. Hai nhân vật, như đã nói, là hai đại chứng nhân của Giao ước cũ. Cả hai tiêu biểu đầy đủ và trọn vẹn cho Lề luật và Ngôn sứ. Cả hai là những con người của núi Xi-nai, từng được thị kiến trên đó Đấng Khôn Tả (x. Xh 33,18-22; 1V 19,9-14). Cả hai đều đã đau khổ vì sứ mệnh trước khi được trở về với Thiên Chúa cách nhiệm mầu vinh quang. Sự hiện diện của họ bên cạnh Đức Giê-su xác nhận Người là Đấng làm cho các lời tiên báo được ứng nghiệm, các tiền ảnh (mà Mô-sê và Ê-li-a là tiền ảnh tiêu biểu) được hoàn thành. Chính vì thế, lời Chúa Cha nói về Đức Giê-su sẽ ám chỉ Tôi Trung đau khổ trong I-sai-a.
“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”. Nơi đây, Mát-thêu và Mác-cô sử dụng từ “Con yêu dấu”. Những tay duy lý sính lịch sử sẽ hỏi: trong thực tế, Chúa Cha đã nói thế nào? Các Tin Mừng chẳng chút ưu tư trả lời kiểu tò mò như vậy. Lu-ca thích từ “được chọn” là có chủ ý. Nó quy chiếu về nhiều đoạn của I-sai-a, trong đó nó chỉ nhân vật bí ẩn “Tôi Trung Đức Chúa” (x. Is 42,1; 49,7). Vào lúc mô tả cuộc đóng đinh, Lu-ca sẽ lại sử dụng từ này (x. Lc 23,35) để nói lại rằng Đức Giê-su chính là Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện ý định cứu độ của Người, kinh qua đau khổ ô nhục.
Chúng ta cũng đã được tuyển chọn qua phép rửa để phục vụ Thiên Chúa và mọi người. Nhưng con đường phục vụ không thể không qua đau khổ, vì không đau khổ, không bỏ mình thì không thể yêu thương. Và càng không thể vào Thế giới của Yêu thương, Vương quốc của Thiên Chúa, nơi “người công chính sẽ chói lọi như mặt trời” (Mt 13,43). Muốn biến hình vinh quang, phải chấp nhận biến dạng đau khổ là vậy!
Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay nói về chúa Biến Hình trên núi Tabor. Đây là một trong những viễn kiến tuyệt vời và kỳ diệu nhất có liên quan đến chúng ta được diễn tả trong Ba Tin Mừng Nhất Lãm: Luca, Mathieu và Marco (Mc 9:2-8; Mt 17:1-8; Lc 9:28-36).
ĐỨC GIÊSU LÀ AI?
Theo Luca, câu chuyện tập trung ở chương 9 gồm những bài nói về căn tính của Chúa Giesu, đặc biệt là câu hỏi của Herode: “…Còn ông này là ai mà ta nghe đồn về những chuyện như vậy?” (Lc 9:9). Sau đó, là những câu trả lời cho Herode. Chúa Giesu là Thiên Chúa đầy quyền năng, có thể ban cho mọi người những điều cần thiết (Lc 9:10-17). Giesu là đấng Thiên Sai (Lc 9:18-21). Giesu là Con Người đau khổ (Lc 22:43-45). Giesu là Thầy mà mọi người phải bước theo dù có phải chết (Lc 9:23-27). Sau cùng Giesu là Con Thiên Chúa, người đã được Thiên Chúa tuyển chọn (Lc 9:28-36).
Cả Luca lẫn Mathieu và Marco đều kể chuyện Biến Hình liền sau lời tiên đoán về cuộc khổ nạn của Chúa. Việc này đã nâng cuộc Biến Hình thành quan trọng và ngang hàng với việc Chúa chịu Phép Rửa (Lc 3:21-22). Lúc chịu Phép Rửa và khi Biến Hình, đức Giesu đã được xác nhận là Con Thiên Chúa. Sau khi thông báo khổ nạn, cái chết và phục sinh, việc Biến Hình cho thấy cuộc khổ nạn của Chúa sẽ kết thúc trong vinh quang (Lc 9:32).
Trong sáu ngày, trên núi cao, diện mạo chúa tỏa sáng và mây trời bao phủ là những yếu tố đã thấy nói trong chuyện ông Maisen ở trên núi Sinai (Xh 19:16; 24:15-18; 34:19-35). “Núi” thường là nơi để cầu nguyện trong Tin Mừng Luca (Lc 6:12; 22:39-41). Elijah và Maisen là tiêu biểu cho luật cựu ước và các tiên tri. Theo tục truyền Do Thái thì các ông không chết mà đi thẳng về trời. “Nhà tạm” hay “lều” gợi lại hình ảnh Lễ Lều. Luca xác định cuộc đàm thoại trên đỉnh núi nói về cuộc “Xuất Hành” của Chúa Giesu là chịu khổ hình, chịu chết, sống lại và lên trời sẽ xẩy ra ở Jerusalem, thị trấn của số mệnh (Lc 9:51). Nói đến Xuất Hành, chúng ta nhớ lại biến cố dân Do Thái thoát khỏi Ai Cập đi về đất hứa. Tiếng nói từ trời, giống như tiếng nói lúc chúa chịu Phép Rửa ở sông Jordan xác định đức Giesu là đấng mà mọi người phải nghe lời (Lc 9:35).
HẬU TRƯỜNG CỦA CÂU CHUYỆN BIẾN HÌNH
Câu chuyện biến hình được Luca thuật lại làm ta nhớ tới sách Xuất Hành nói về Thiên Chúa tỏ mình ở trên núi (Xh 24:12-18). Trong chuyện này, “vinh quang Chúa bao phủ cả ngọn núi, và vào ngày thứ bảy tiếng Thiên Chúa gọi ông Maisen phát ra từ đám mây. Đối với dân Do Thái, vinh quang Thiên Chúa giống như lửa cháy trên đỉnh núi. Ông Maisen lúc đó đi vào đám mây cũng giống như ông đi lên đỉnh núi vậy. Và ông ở đó 40 ngày đêm.”
Câu chuyện Thiên Chúa Hiển Linh trong sách Xuất Hành có nhiều chi tiết giống truyện Biến Hình trong Tân Ước như núi, mây, sáu ngày (Mc 9:2), tám ngày (Lc 9: 28), Maisen, tiếng nói, vinh quang sáng chói. Thêm vào đó, mặt Maisen sáng chói khi đứng trước Thiên Chúa (Xh 34:29-35) chắc chắn có ảnh hưởng đến bài Tin Mừng hôm nay. Hiển Linh và Biến Hình đồng dạng với nhau.
Tiếp theo những ngày đêm bị cám dỗ trong hoang địa, và trước những giây phút đen tối trên đồi Golgotha, những tia sáng vinh quang trong lúc biến hình được bùng sáng trong bài Tin Mừng hôm nay. Rõ ràng là chúa Giesu và ba môn đệ lúc đó đã cảm nghiệm thấy có Thiên Chúa hiện diện. Số phận dân Kito hữu được nói ra giữa hai ngọn núi, Calvary lúc Chúa chịu chết và Tabor lúc Chúa biến hình. Đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy một xác quyết và hy vọng cho cuộc Hành Trình Mùa Chay Thánh này. Mỗi người chúng ta cần có một lúc vinh quang để giúp ta bước qua những đêm tối kinh hoàng trong đời mình.
ĐỊA DANH BIẾN HÌNH TRONG TIN MỪNG LUCA
Ở gần núi Tabor có hai thị trấn Dabborriyeh và Nain. Đức Giesu làm cho con trai một góa phụ đã chết được sống lại ở Nain. Chúa Giesu đã phải chiến đấu với sự chết. Chỉ cần chạm vào xác đứa bé, Chúa đã làm cho nó sống lại. Và tin đồn Chúa làm phép lạ đã nhanh chóng lan truyền toàn vùng.
Liền sau khi biến hình, Luca cho biết Chúa Giesu và các môn đệ xuống núi đến một tỉnh nhỏ ở dưới. Dù không nêu tên, nhưng tỉnh đó là Dabborriyeh, một tên Ả Rập theo truyện thần tiên và quan tòa Deborah trong sách Thẩm Phán. Khi chúa Giesu đến gần thị trấn thì một người từ đám đông chạy ra và xin Người chữa lành cho đứa con độc nhất của ông đang bị kinh phong. Một lần nữa, Chúa lại phải vật lộn với nỗi đau khổ và buốn phiền của con người. Chúa quở mắng ma quỉ, chữa lành đứa nhỏ rồi trao nó cho người cha (Lc 9:42).
Biến cố biến hình xẩy ra giữa Nain và Dabborriyeh coi như thời gian chuyển tiếp để Chúa Giesu bước vào hành trình đi đến Jerusalem. Làm sống lại đứa con bà góa phụ và chữa lành đứa nhỏ bị kinh phong là nền tảng cho những cảm nghiệm trên núi Tabor.
Các môn đệ thì uớc mong được ở lại trên núi. Họ muốn yên thân, không thích khó khăn, nguy hiểm, tranh luận và phấn đấu trong cuộc sống. Đúng lúc họ thích ở ẩn muốn xa lánh đám đông ồn ào giận dữ, cách biệt mọi nguy hiểm, không muốn đụng chạm với người chết, được miễn trừ mọi nghi thức tội lỗi ô uế, không phải chiến đấu với ma quỉ thì chúa Giesu lại dẫn họ xuống núi để đối đầu với ma quỉ và mang ơn chữa lành của Thiên Chúa cho những người đau khổ.
NHỮNG BÀI HỌC TRÊN ĐỈNH NÚI
Các môn đệ học được gì ở trên đỉnh núi? Họ biết được căn tính của chúa Giesu và hiểu rõ hơn sứ mệnh thiên sai của Chúa. Cảm nghiệm ở núi Tabor quả là cần thiết cho cuộc hành trình đi lên Jerusalem, vì nó làm cho chúa Giesu và các môn đệ trở nên mạnh mẽ, đồng thời giúp chúng ta thấy được một viễn ảnh cần thiết và đúng, có được sức mạnh phải có trong cuộc sống của người Kito hữu và làm môn đệ Chúa.
Những thắc mắc về hiện tượng Chúa biến hình. Tại sao Chúa lại che dấu vinh quang của chúa trên núi Tabor ngoại trừ Phero, Gioan và Giacobe? Tại sao Chúa không tỏ lộ vinh quang đó trên thập giá? Muốn biết ánh sáng chói lọi chan hòa thế nào, chúng ta cần phải cảm nghiệm bóng tối âm u dày đặc ra làm sao. Hiện tượng biến hình cho chúng ta thấy cuộc sống sáng chói của Thiên Chúa bao gồm cả sự chết, không có cách nào khác. Nó nhắc nhở chúng ta là bóng tối kinh hoàng có thể chiếu sáng và lan tỏa. Ánh sáng cũng có nghĩa là nó có thể xua đuổi đánh tan bóng tối của tội lỗi.
KẾT: NÚI TABOR CỦA CHÚNG TA
Nhìn lại quá khứ và xác định những lúc gọi là “Tabor” trong cuộc hành trình của chúng ta. Ai đã hiện diện với chúng ta lúc đó? Tại sao những lúc đó lại quan trọng? Cái gì khiến chúng ta sợ khi ở trên núi? Và tại sao ở đó lại tốt? Cái gì làm cho chúng ta sợ phải xuống núi? Ai và những gì đang chờ đợi chúng ta ở dưới chân núi? Đoạn đường nào trong cuộc hành trình của chúng ta giúp đưa chúng ta đến chỗ có được một viễn kiến mới? Viễn kiến mới là gì? Làm sao chúng ta có thể trở thành con người tràn đầy hy vọng giữa một chuyển tiếp để vượt qua đi vào cuộc sống mới.
Hãy coi chúa nhật này như một cuộc biến hình có Chúa Kito hiện diện. Người lo lắng mọi sự cho chúng ta, biến đổi mọi sự trong chúng ta, xâm nhập mọi nơi dù có trai đá đi nữa, cả những nơi bất ổn mà chúng ta không biết phải làm sao. Thiên Chúa sẽ xâm nhập những chỗ đó bằng ánh sáng chói lòa của Chúa Thánh Thần và ban cho diện mạo của chính Thiên Chúa.
Chúa nhật này, chúng ta nên để ý đến những người đã lắng nghe Lời Chúa Kito và được Lời Chúa biến đổi. Khi chúng ta xuống núi, hãy cầu nguyện bằng những lời nguyện của thánh Teresa thành Calcuta được linh hứng bởi Chân Phước Hông Y John Henry Newman.
Lạy Chúa Giesu! Xin giúp con lan tỏa hương thơm Chúa tới những nơi con đi tới. Xin tràn ngập hồn con, Với Thần Linh Chúa và cuộc sống của Chúa. Xin xâm nhập và làm chủ hoàn toàn đời con, Để đời con chỉ có thể tỏa ánh sáng của Chúa.
Xin chiếu sáng xuyên suốt đời con và ở trong con, Để mọi linh hồn con tiếp xúc, Có thể cảm nghiệm Chúa hiện diện trong con.
Xin để họ nhìn lên Chúa Đừng nhìn con, chỉ nhìn Chúa mà thôi!
Xin hãy ở với con, Để con chiếu soi như Chúa chiếu sáng, Ánh sáng của Chúa cho tha nhân.
Lạy Chúa! Tất cả ánh sáng đều do Chúa, không phải của con: Chúa chiếu rọi mọi người qua con. Xin hãy để con cầu xin Chúa theo cách của Chúa: Chiếu sáng trên những ai ở chung quanh con.
Xin cho con nói, không dám dạy bảo Chúa… Không phải chỉ nói nhưng bằng gương sáng, Bằng sức mạnh và ảnh hưởng những điều con làm, Chứng tỏ tình yêu của con có Chúa bên trong rõ ràng. Amen
Khuôn mặt của Chúa Giêsu, gần hai ngàn năm qua không ai có thể nhìn thấy lại, không ai có thể hình dung nét mặt đó hoặc vẽ ra được nét mặt đó một cách chắc chắn, bởi vì khuôn mặt này của Chúa Giêsu, con người thật và Thiên Chúa thật, chỉ có thể phác họa qua lời nói.
Thế nhưng, lời của Thiên Chúa lại không bao giờ xác định cho chúng ta một hình ảnh nào về Khuôn mặt của Chúa Giêsu: lời của Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta ba hình ảnh, đôi khi hợp nhất và đôi khi nổi bật, ba hình ảnh phản chiếu qua lại với nhau, như chúng ta nói, “Ngài đang sống, Đấng mà bạn đang tìm kiếm; Ngài là một mầu nhiệm, Đấng mà bạn yêu mến, và bạn sẽ chỉ tìm thấy Ngài bằng cách bước theo Ngài”.
Hình ảnh đầu tiên của khuôn mặt Chúa Giêsu.
Đã làm say mê và vẫn còn mê hoặc tất cả các bạn hữu của Chúa, là Khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu. Trước khuôn mặt này của Đấng bị kết án, của Đấng bị đóng đinh, của Đấng hấp hối, người ta chỉ có thể dừng lại nếu yêu thương, bởi vì đau khổ không bao giờ đẹp đẽ. Chúa Giêsu đang hấp hối: “Ngài chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Isaia 53: 3), và Isaia mô tả Đấng Mêsia đau khổ như một con người của đau khổ, bị người ta khinh thường, bỏ rơi, trước khi người ta ngoảnh mặt đi và nghĩ rằng: “Tôi không muốn thấy điều đó; Tôi không muốn nhìn thấy một con người phải chịu đựng khổ đau nhiều như vậy”.
Trong cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, chỉ có tình yêu là rực sáng. Mọi thứ khác là bạo lực, hận thù và phản bội. Và cuối cùng nếu Khuôn mặt sầu thảm của Chúa Giêsu đẹp đẽ, cao quý, hấp dẫn đến thế, đối với chúng ta là những người tin Chúa, nhất là trong những lúc đau khổ và kinh hãi, thì đó là bởi vì Khuôn mặt đó nói với chúng ta, kêu lên với chúng ta hoặc thì thầm với chúng ta một tình yêu đã đi đến cùng cực, một tình yêu đã trải qua cái chết.
Hình ảnh thứ hai của khuôn mặt Chúa Giêsu.
Khuôn mặt Thần linh, là hình ảnh mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy trong giây lát vào ngày Biến hình. Chúa Giêsu đã cùng họ leo núi để cầu nguyện, gặp gỡ Chúa Cha một cách mạnh mẽ trong thinh lặng và trong cuộc đối thoại đầy tin tưởng và hiếu thảo. “Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà”.
Các môn đồ đã nhìn thấy Khuôn mặt này của Chúa Giêsu được biến đổi trong lời cầu nguyện, được biến đổi bằng lời cầu nguyện. Không có gì chuẩn bị họ cho sự mặc khải này, cho sự tiết lộ bất ngờ này về mầu nhiệm Chúa Giêsu Con Thiên Chúa; họ thậm chí còn “ngủ mê mệt”; nhưng “nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu”.
Cũng không gì có thể mở lối cho chúng ta đi vào những khoảnh khắc ân sủng thuần khiết khi chúng ta dự cảm được vinh quang của Thiên Chúa lóe lên trên khuôn mặt của Chúa Giêsu trong chốc lát. Thậm chí còn hơn cả Phêrô và những người khác, chúng ta lên núi trong cơn mê ngủ. Cơn mê ngủ này, chúng ta biết rõ, ngay cả sau mười, hai mươi hay bốn mươi năm hành trình truyền giáo: - ngủ quên trong đức tin của chúng ta, quá quen thuộc với những kỳ công của Thiên Chúa, - ngủ quên trong hy vọng của chúng ta, mệt mỏi quá nhanh, chán chường quá nhanh, cam chịu quá nhanh, - ngủ quên trong tình yêu mến huynh đệ của chúng ta, khi chúng ta dừng lại giữa chừng trong một cuộc đối thoại thực sự, khi chúng ta đặt ra các điều kiện cho sự trao ban chính mình, khi chúng ta trả lại cho mình cái quyền có quyền lực.
Cơn mê ngủ đang rình rập chúng ta: chính vinh quang của Thiên Chúa giữ cho chúng ta tỉnh thức, “tỉnh thức trong đức tin của chúng ta”. Thuốc giải độc duy nhất cho sức nặng của tình yêu của chúng ta là sống toàn bộ cuộc sống của chúng ta như một khoảnh khắc ngạc nhiên, để cho phép chúng ta ngạc nhiên suốt đời trước vinh quang của Chúa Giêsu, và bước vào ánh sáng biến đổi của Ngài một cách khiêm nhường, nghèo khó.
Hình ảnh thứ ba của khuôn mặt Chúa Giêsu.
Và điều này dẫn chúng ta đến việc chiêm ngưỡng một khía cạnh thứ ba của Khuôn mặt Chí Thánh của Chúa Giêsu: Khuôn mặt vinh hiển của Chúa Phục sinh. Bởi vì sự Biến hình trên núi chỉ là phù du. Việc đó loan báo sự vinh hiển cuối cùng của Chúa, và chính sự vinh quang này, vinh quang của Giao ước mới và vĩnh cửu, mà ngay từ hừng đông chúng ta đã rình chờ trên Khuôn mặt của Chúa Giêsu: “Đã được chỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Côlôssê 3:1) .
Chúng ta đang ở nơi nào, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở nơi đó. Và bởi vì tình yêu của chúng ta nối liền với Ngài ở nơi Ngài đang ở, nên cuộc sống của chúng ta “sự sống mới của anh em hiện đang ẩn dấu với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa” (Côlôssê 3: 3). Cuộc sống của chúng ta bị che khuất trước mắt chúng ta, và đó là lý do tại sao đức tin vẫn là chuyện khó đối với chúng ta; nhưng sự sống của chúng ta ở trong Thiên Chúa, với Chúa Kitô; và ở đó, trong Thiên Chúa, với Chúa Kitô, trước Mặt Chúa Kitô, công việc của Chúa Cha tiếp tục trong chúng ta, vừa là sự soi sáng vừa là sự biến đổi.
Là sự soi sáng, vì Thiên Chúa, Đấng tự mình là ánh sáng, tự mình làm nên ánh sáng cho chúng ta. Và tại sao lại có sự soi sáng lòng trí chúng ta? - “Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Chúa Kitô” (2 Côrintô 4:6). Như vậy, chính ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi Khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu vì chúng ta và trong chúng ta.
Và nhờ đó, khi soi sáng Khuôn mặt Đấng Phục sinh bằng chính vinh quang của Ngài, Thiên Chúa là Cha biến đổi chúng ta, những người nhìn ngắm và hát trong Thánh Thần vinh quang này: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.” (2 Côrintô 3,18).
Khuôn mặt của Chúa Kitô “đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Isaia 53: 4), khuôn mặt của Đấng được biến hình trên núi, khuôn mặt của Chúa được tôn vinh trên trời: ba biểu tượng của Con Một mà Chúa Cha đã ban cho thế giới, ba khoảnh khắc Phục sinh đã cứu chúng ta. Nhờ Khuôn mặt này tất cả mọi thứ được nói ra, tất cả tình yêu được thể hiện. Vì Khuôn mặt này, chúng ta đã chấp nhận đánh mất tất cả:
“Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Chúng ta chú ý đến hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước cùng đàm đạo với Chúa Kitô, đó là:
1. Ông Môsê: Người đã được Thiên Chúa chọn để đem dân Itraen ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; Người đã nhận từ tay Thiên Chúa Bia Đá ghi khắc Mười Giới Răn. Mười giới răn ấy vừa là dấu chỉ cùa Giao Ước vừa tượng trưng cho Lề Luật mà Thiên Chúa đòi dân của Người phải tuân giữ. Đồng thời ông Môsê còn là người hướng dẫn dân tiến về Miền Đất hứa mà Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham từ xưa….
2. Ông Êlia: Ngôn sứ vĩ đại được giao sứ mạng củng cố lòng tin của dân vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với tổ tiên của Itraen là Apraham, Ixaac và Giacob.
3. Cả hai ông Môsê và Êlia đều có mặt bên Chúa Kitô. Kể từ nay, từ khởi đầu của kỷ nguyên Tân Ước, hình ảnh của cả hai: Môsê - Êlia tập trung nơi chính Chúa Kitô. Từ nay không cần phân biệt "Lề luật (ý nói đến ông Môsê) và các Tiên tri" như Cựu Ước từng cho biết. Từ nay không còn là hai nhưng chỉ là Một: Chúa Kitô, Đấng toàn thắng và vinh dự của chúng ta.
Từ nay, chỉ một mình Chúa Kitô, Đấng duy nhất là Môsê Mới và Êlia Mới của thời đại mới, Thời Cứu Độ. Từ nay:
- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lãnh đạo, vừa là nhà giáo dục nhân loại.
- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lập luật, vừa là nhà dẫn dắt nhân loại đi trong đường lối mà chính lề luật ấy mở ra.
- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà giải phóng đích thực, vừa là Đấng bảo vệ lòng mến mà nhân loại phải dành cho Thiên Chúa.
- Chỉ một mình Chúa, Trung gian duy nhất thay thế tất cả mọi hình ảnh từ Tổ phụ, Thủ lãnh, đến Tiên tri.
- Chỉ một mình Chúa phục sinh và trao ban sức sống phục sinh cho từng con người.
- Chỉ một mình Chúa mới thực là hy tế duy nhất, hy tế dâng chính mình để cứu độ.
- Chỉ một hy tế duy nhất của Chúa mới có giá trị cứu độ vĩnh cửu, đưa nhân loại đến Trời mới Đất mới và trường tồn.
Điều đó có nghĩa là Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ, từ nay chỉ cần một mình Chúa Kitô là đủ. Chúa Kitô vừa là Giao Ước mới, vừa là lề luật mới.
Chính vì thế, Lời của Chúa Kitô là Lời đặc biệt quan trọng đối với mỗi chúng ta. Lời ấy chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Lời ấy chính là Lời Giao Ước vĩnh cửu, đưa chúng vào huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa, để ta được sống trong Chúa, sống bằng chính sự sống của Chúa.
Bởi Lời Chúa Kitô có tầm mức quan trọng và cần thiết đến vậy, nên Thiên Chúa không ngừng mời gọi: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người"!
Với phán quyết long trọng và công khai ấy, Thiên Chúa như muốn khẳng định: Vâng nghe lời Chúa Kitô, Con Duy nhất của Ngài là sống Giao Ước Mới, là chu toàn trách nhiệm của Lề Luật Mới.
Vâng nghe Lời Chúa Kitô, ta sẽ được biến đổi với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô như chính Chúa Kitô vinh hiển trong vinh quang phục sinh rạng ngời và đời đời của Ngài. Đó cũng là con đường duy nhất để đi về cùng Thiên Chúa nhằm đạt tới sự sống bất diệt mà Thiên Chúa ấn định cho cả nhân loại.
Bởi vậy, sống Lời Chúa Kitô là điều kiện tối cần thiết, không thể bỏ qua của cả cuộc đời người Kitô hữu. Vậy ta đừng chỉ nghe Lời Chúa bằng tai, bằng mắt mà còn bằng tất cả lòng trí, sự ham muốn và không rời quy chiếu suy nghĩ cũng như hành động của mình theo lời, theo nội dung những giáo huấn mà Chúa Kitô dạy.
Trên hết mọi điều kiện, hãy yêu mến Lời Chúa. Chỉ nhờ lòng yêu mến, ta mới có thể thực tâm ấp ủ, ngụp lặn trong Lời Chúa. Nhờ đó, ta sẽ suy nghĩ là suy nghĩ với Lời Chúa, phản ứng là phản ứng với Lời Chúa, hành động là hành động với Lời Chúa, thể hiện là thể hiện với Lời Chúa, tương quan với nhau hay với mọi hoàn cảnh là tương quan trong Lời Chúa...
Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ về những gì đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem (Mt 16,21). Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị giết, rồi được trỗi dậy. Lời Ngài nói làm các ông sững sờ, và Phêrô vội vã can ngăn. Nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi nói về thân phận các môn đệ. Nếu họ muốn đi theo Thầy, làm môn đệ của Thầy, họ cũng phải chịu chung số phận với Thầy, chấp nhận mất cả mạng sống mình vì Thầy (Mt 16,24-26). Chắc hẳn sau cuộc nói chuyện này, bầu khí khá buồn và căng thẳng. Bóng tối của cái chết làm mọi sự trở nên nặng nề. Sáu ngày sau, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Đó là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1). Chính ở đây các ông đã có một kinh nghiệm không thể nào quên. Bao năm sau, Phêrô vẫn nhớ như in điều ông đã thấy: “chúng tôi đã được chứng kiến vẻ uy phong lẫm liệt của Người.” Và ông cũng không thể quên điều ông đã nghe: “ ‘Đây là Con của Ta, người Con Ta yêu dấu, Ta hết lòng quý mến.’ Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở với Người trên núi thánh” (2 Pr 1,16-18). Kinh nghiệm này đã xóa đi phần nào nỗi buồn phiền lo âu, và đem lại sự ủi an nâng đỡ cho các môn đệ. Sau biến cố này, các ông hiểu Thầy mình là ai. Chính Thiên Chúa chứng nhận Thầy là Người Con yêu dấu, dù Người Con ấy sắp chịu chết như Người Tôi Trung đau khổ (Is 42,1). Khi thấy Thầy Giêsu chói lòa rực rỡ, nơi khuôn mặt và nơi y phục, thấy hai ông Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Thầy, Phêrô quá đỗi hạnh phúc, chỉ muốn ở lại mãi trên ngọn núi này. Ông quên rằng cuộc đời Thầy Giêsu gắn liền với những ngọn núi. Thầy đã ở trên núi để chịu quỷ cám dỗ, đã giảng Bài Giảng trên núi đầu tiên. Núi là nơi Thầy cầu nguyện và chữa bệnh cho đám đông (Mt 14,23; 15,29). Hôm nay, Thầy được biến đổi hình dạng trên ngọn núi này, Nhưng Thầy còn phải lên núi Ô-liu để làm chọn lựa cuối (Mt 26,36-46), còn phải lên núi Sọ để hiến mạng sống mình (Mt 27,33), để rồi cuối cùng hiện ra như Đấng phục sinh cho môn đệ trên núi (Mt 28,16). Sau những giây phút ngất ngây của trải nghiệm thiêng liêng, ba môn đệ sẽ phải xuống núi cùng với Thầy, để cùng Thầy sẽ trèo lên những ngọn núi khác (Mt 17,9). Mùa Chay là thời gian ta cùng lên núi với Thầy Giêsu. Núi cao làm lòng ta thanh thoát nhẹ nhàng. Nơi đây ta thấy được khuôn mặt bừng sáng rực rỡ của Thầy Giêsu, nghe được lời Thiên Chúa Cha nhủ bảo, và cảm được sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc như đám mây. Hôm nay, Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhân tính của Ngài tỏa sáng, vĩnh viễn và trọn vẹn trên thiên quốc. Chính khi vâng nghe và sống lời của Chúa Giêsu mà ta được tham dự vào sự biến đổi sáng láng như Ngài. Đời kitô hữu gồm nhiều cuộc biến hình, bắt đầu từ ngày được rửa tội. Chúng ta đã được gọi là con yêu dấu, đã được mang tấm áo trắng tinh, đã được đặt vào tay ngọn nến sáng. Làm sao để khuôn mặt của tôi dần dần tỏa sáng như khuôn mặt Chúa? Làm sao để tôi trở nên hình ảnh trung thực của Đấng đã dựng nên tôi?
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa, trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.
Khi tường thuật sự kiện Chúa biến hình trên núi, thánh Matthêu mở đầu bằng chi tiết “sáu ngày sau”. Vậy, sáu ngày trước đó là sự kiện gì? Đó là lời loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Đối với các môn đệ, việc Đức Giêsu chịu thương khó là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phêrô đã can gián và thậm chí còn trách Người. Sự can gián của Phêrô bị Chúa quở trách là Satan (x. Mt 16 21- 23). Cùng với việc loan báo cuộc thương khó, Đức Giêsu cũng đưa ra những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ của Người, đó là vác thập giá theo Chúa. Như thế, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm mục đích khai trí các môn đệ, để các ông hiểu hơn về thân phận và sứ mạng của Người. Qua sự kiện này, Chúa muốn khẳng định với các ông: dù Người có phải trải qua cuộc thương khó, nhưng Người sẽ chiến thắng sự chết và sẽ trỗi dậy. Ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê ngỡ ngàng trước việc Chúa Giêsu thay hình đổi dạng, vì lúc đó, các ông được thấy Chúa với một hình dạng hoàn toàn khác so với từ trước tới nay. Sự kiện này làm các ông bàng hoàng và sợ hãi.
Hai nhân vật của Cựu ước hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu, đó là Môisen và Êlia. Môisen là người dẫn đưa Dân tuyển chọn ra khỏi Ai Cập. Ông cũng là người được Chúa trao bia Giao ước và được người Do Thái tôn kính như tác giả của sách Luật. Êlia là vị ngôn sứ đã luôn “đứng hầu cận trước nhan Chúa hằng sống (x. 1 V 17). Trên núi Carmel, ông đã giúp dân Do Thái từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng để chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa. Ông là biểu tượng cho những người được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn và là những người phát ngôn nhân danh Thần Khí. Giống như Chúa Giêsu, cả hai vị này đã ăn chay 40 đêm ngày (x. Xh 24,18; 1 V 19,8). Cả hai vị đều được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x. Xh 33,18-23; 1 V 19,12-13). Qua sự kiện biến hình, Môisen và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Họ được chiêm ngắm Con Thiên Chúa, Đấng liên kết hai nhân vật này nơi nhân tính của Người, tức là Người vừa là người ban lề luật, vừa là ngôn sứ. Thánh Máthêu trình bày Chúa Giêsu như Môisen mới. Một số bản văn của Tân ước cũng trình bày Chúa Giêsu như Êlia mới. Người đã liên kết truyền thống lề luật và truyền thống ngôn sứ nơi chính bản thân Người. Bởi lẽ hai truyền thống “lề luật” và “ngôn sứ” là tóm lược toàn bộ Kinh Thánh Cựu ước.
Cùng với chứng từ của Môisen và Êlia, còn có chứng từ khác quan trọng hơn nhiều, đó là lời phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đức tin Kitô giáo khẳng định: đó là lời của Chúa Cha. Qua lời này, Chúa Cha nói lên tình thương mến của Ngài với Chúa Con, đồng thời nhắc bảo chúng ta: hãy nghe lời Người. Theo Thánh Gioan Thánh giá, Chúa Cha chỉ nói một lời và một lần nơi Chúa Con. Chúa Con là Lời của Chúa Cha. Nơi Chúa Con, có đầy đủ tất cả những gì Chúa Cha muốn ngỏ với nhân loại. Vì thế, “hãy nghe lời Người” tức là đón nhận những gì Chúa Cha muốn mạc khải qua Chúa Con, nhờ đó, loài người được cứu thoát. “Hãy nghe lời Người”, đó cũng là đón nhận và thực hành giáo huấn của Đức Giêsu.
Phụng vụ hôm nay còn cho chúng ta nghe tường thuật về ơn gọi của Áp-ram, tổ phụ của dân Do Thái. Một lời gọi đơn sơ: “hãy đi đến đất Ta sẽ chỉ cho”. Áp-ram đã vâng lời, đã lên đường. Ông không tính toán, không vặn hỏi, nhưng hoàn toàn phó thác. Ông Áp-ram đã nghe lời Chúa và đã thực thi lời Ngài. Ông đã trở nên mẫu mực cho tất cả những kẻ tin ở mọi thời đại (Bài đọc I).
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta. Quả vậy, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).
Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, ba môn đệ xuống núi, có Chúa cùng đi. Các ông trở về với đời thường, với tâm trạng được biến đổi và với quan niệm mới mẻ về Đấng Thiên Sai. Sự kiện Chúa biến hình trên núi cũng nhắc chúng ta cần phải biến đổi đời sống, biến đổi hình ảnh của Chúa trong đời và biến đổi nhận định về tha nhân. Hãy nghe lại lời của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời đầu tiên Chúa Giêsu nói với các môn đệ liền tiếp sau đó là: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”. Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.
Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều Chúa dạy! Phải đặt mình trong hoàn cảnh thời đó, khi con người còn sống theo luật rừng "mạnh được yếu thua" chứ chưa có luật pháp bảo vệ "ai đúng là người thắng", thì việc bỏ quê cha đất tổ, hàm chứa mình không còn được bảo vệ bởi một tập thể nữa, trở thành đối tượng hay miếng mồi cho bao người ham của. Nếu vậy, Abram thật liều lĩnh và mạo hiểm khi vâng lời Thiên Chúa để đi đến một nơi xa lạ. Thiên Chúa là nhất, và Abram đã vâng phục Thiên Chúa, ra đi theo tiếng gọi của Ngài.
Đức Yêsu đã biến hình, dung mạo Ngài ra khác, và Phêrô bị cuốn hút bởi điều này đến độ không muốn xuống núi nữa. Chúa biến hình chỉ trong giây lát, nhưng qua đó người ta biết:
. Ngài thế nào, chúng ta cũng sẽ như vậy (1Ga.3, 2); nếu chúng ta quảng đại đáp trả lời mời của Chúa như Abram đã đáp trả, chúng ta cũng sẽ được biến đổi, và chúng ta cũng sẽ nên giống Chúa Yêsu.
. Những gì chúng ta biết về cuộc sống mai hậu, không được làm chúng ta quên cuộc sống tại thế này. Chúng ta phải trở về với đời thường, để xây dựng thế giới này, để làm thế giới này đẹp hơn. Khi chúng ta làm như vậy, là chúng ta đang chuẩn bị hành trang để vào Nước Trời, quê thật của chúng ta.
Chúng ta được mời gọi trở nên con Thiên Chúa.
Để trở nên con Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi như Abram, hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay quan phòng đầy thương yêu của Ngài. Ơn gọi của chúng ta là nên giống Đức Yêsu. Thân xác mỏng dòn của chúng ta, cũng như thân xác bị đòn vọt và mong manh của Đức Yêsu khi Ngài chịu khổ hình, sẽ được biến đổi như hôm nay chúng ta thấy Đức Yêsu.
Vượt qua chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Yêsu, trở nên giống Đức Yêsu mỗi ngày mỗi hơn. Đó là ơn gọi của chúng ta. Xin cho chúng ta được quảng đại để đáp trả tiếng Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm con người trở nên tuyệt vời. Những hành vi tuyệt vời vẫn luôn có thể xảy ra trong đời mỗi người, và giá trị con người được hình thành bởi những hành vi này.
1. Ra đi trong niềm tin phó thác
Thiên Chúa đã mời gọi Abram bỏ gia đình họ hàng để đi tới miền đất Ngài sẽ chỉ cho. Trong một xã hội chưa có luật lệ, người ta chỉ tựa vào sức mạnh, thì con người chỉ được bảo vệ nhờ vào những người thân quen họ hàng chống lại những kẻ bất lương. Việc cô thân cô thế đi vào vùng đất xa lạ với gia tài của cải và vợ đẹp, là một hành vi vô cùng nguy hiểm, vì như vậy rất dễ bị những kẻ bất lương giết hại nhằm chiếm đoạt của cải và vợ con. Ra đi như vậy, là một hành vi liều lĩnh và dại dột.
Nếu không có niềm tin phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Abram không thể ra đi như vậy. Thiên Chúa mời gọi Abram kèm với lời hứa. Thiên Chúa hứa sẽ cho Abram thành cha một dân vĩ đại; Ngài sẽ chúc phúc cho Abram; sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho Abram; đến độ mọi dân tộc dưới trần sẽ nhờ Abram mà được chúc phúc. Tuy vậy, liệu những lời hứa này có đủ bảo đảm để ra đi như vậy không? Phần lớn người Việt Nam đều biết chuyện thằng bờm và phú ông; phú ông là người giầu, khi thằng bờm nghèo xác nghèo xơ, chỉ có cái “quạt mo” (cái quạt làm bằng mo cau); xảy ra một hôm trời nóng, phú ông và thằng bờm gặp nhau; phú ông không có gì để che nắng, vì bị cái nóng nung nấu, phú ông muốn cái quạt mo của thằng bờm; phú ông đề nghị đổi cái quạt mo thằng bờm đang có với “ba bò chín trâu”, với “một ao cá mè”, “một bè gỗ lim”; thằng bờm lắc đầu không chịu, vì nó thấy điều đó quá xa vời, làm sao thành hiện thực; nhưng khi phú ông đề nghị đổi “nắm xôi” ông đang có để lấy cái quạt mo, thì bờm cười (đồng ý). Thiên Chúa hứa với Abram những điều tốt đẹp, những điều tuyệt vời, nhưng liệu có tin được không? Làm sao có thể an toàn trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm như vậy? Có gì chắc để trở thành một dân tộc vĩ đại? Có gì chắc mình sẽ là một mối chúc lành? chắc gì có đất! Ai trong chúng ta cũng biết, sau này khi vợ của Abraham là Sara chết, Abraham vẫn chưa có đất nên phải mua đất để chôn vợ; Isaac cũng chôn cha Abraham cùng nơi mà cha ông đã mua đất để chôn mẹ ông.
Abram đã tin vào Thiên Chúa và ra đi. Thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và điều kiện, làm Abraham trở thành tuyệt vời, trở thành cha những người tin vào Thiên Chúa. Hành vi tin vào Thiên Chúa, không phải là hành vi duy nhất, một lần trong đời của Abraham. Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi, và Abraham luôn luôn đáp trả lời mời gọi phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh; chẳng hạn khi có Isaac, Thiên Chúa lại muốn Abraham hiến tế Isaac cho Thiên Chúa, và Abraham cũng sẵn sàng vâng phục. Thái độ luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, làm Abraham luôn luôn tuyệt vời.
2. Được mời gọi nên thánh
Mỗi người được mời gọi nên thánh. Nên thánh, không phải là điều dành riêng cho một số người, nhưng là lời mời cho tất cả mọi người. Mỗi Kitô hữu đều là thánh. Thánh Phaolô trong các thư, Ngài gọi các Kitô hữu là thánh. Thánh, là người thuộc về Thiên Chúa; và mỗi người khi được rửa tội, là đã thuộc về Thiên Chúa, đã là thánh.
Sống theo lời mời gọi yêu thương, là nên thánh. Vì yêu Chúa yêu người, nên tôi tha thứ cho người xúc phạm tới tôi. Vì yêu thương, nên tôi lắng nghe những khốn khổ của người khác. Vì yêu thương, nên tôi giúp đỡ những người cần tôi cách đặc biệt. Vì yêu thương, nên tôi cố gắng làm cuộc đời đẹp hơn bằng nụ cười, bằng lời êm dịu dàng, bằng lời chào hỏi, v.v…
Một vị thánh, là người làm cho người khác hạnh phúc khi sống chung với họ, được gặp gỡ họ, được tiếp xúc với họ. Hãy coi hình ảnh Đức Maria: mẹ luôn là người giúp đỡ những người khốn cùng kêu đến mẹ: Mẹ Hằng Cứu Giúp. Một người là thánh, sẽ làm cho cuộc đời của những người sống chung quanh tươi hơn, vui hơn, dễ sống hơn, đẹp hơn. Một đời sống thánh, là đời sống toả hương và là lời rao giảng về Thiên Chúa tình yêu một cách tuyệt vời.
3. Giây phút biến hình là dấu chỉ thực trạng tuyệt vời tương lai
Đức Yêsu, cả cuộc đời lam lũ, chỉ có giây phút biến hình là huy hoàng. Ngài sinh trong chuồng chiên cừu, sống tại làng quê Nazaret, không được học hành như nhiều người, làm nghề thợ mộc. Khi đi rao giảng, cũng sống nay đây mai đó, rong ruổi từ nơi này tới nơi khác, màn trời chiếu đất, bữa đói bữa no. Khi chết, phải chết trần trụi trên thập giá, phải chôn nhờ vào ngôi mộ của người khác.
Xét về khía cạnh trần thế, Đức Yêsu quá lam lũ và vất vả. Tuy vậy, Đức Yêsu đã sống tự do với tất cả, để chỉ tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Giây phút biến hình trên núi mà Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe, chỉ là biểu hiện của bao giây phút sống tuyệt vời của Đức Yêsu trong đời sống của Ngài.
Ơn gọi Kitô hữu, là sống và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày, như Abraham đã sống, đã nghe và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày của ông. Sống ơn gọi Kitô hữu, là nhiều khi phải chấp nhận thua lỗ và dại dột theo cái nhìn nhân loại. Sống ơn gọi Kitô hữu, là sống như Đức Yêsu, chấp nhận cuộc sống như hoàn cảnh xảy tới cho mình, không oán trách Thiên Chúa và con người; và không chỉ thế, vẫn vươn lên và sống yêu thương từng ngày từng giây phút. Kitô hữu cần có đức tin của Abraham, để chấp nhận và sống thực tại hằng ngày của mình, như Đức Yêsu đã chấp nhận và sống trước. Sống như vậy, mỗi người được biến hình trong từng chọn lựa và hành động của mình. Yêu thương là hành vi tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn liệt kê những giây phút “huy hoàng” trong cuộc đời của Đức Yêsu? Nếu cộng tất cả những thời gian này, nó kéo dài bao nhiêu giờ? Theo bạn, nhiều hay ít? 2. Cuộc đời bạn và cuộc đời Đức Yêsu, nếu được chọn, bạn chọn cuộc đời nào? Tại sao? 3. Yêu thương, dễ hay khó? Tại sao?
Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy giảng dạy, thân tình và bình thường, nhưng hôm nay, họ khám phá ra nơi Thầy của họ một chiều kích bất ngờ và thật thú vị.
Ngài dẫn ba người Ngài chọn lên núi với Thầy. Ba người này sẽ có mặt trong vườn cây dầu, và sẽ chứng kiến một chiều kích khác nữa của Ngài, là con người thống khổ tột độ, van xin họ thức với Thầy một giờ.
Thầy trò lên núi cao, vắng lặng, xa tất cả mọi người, xa những ồn ào của những ngày bị đám đông bao vây. Và trong nơi thanh vắng đó, họ khám phá ra Thầy trong khuôn mặt tuyệt vời: dung nhan Người chói lọi như mặt trời… Họ được đưa vào trong một thế giới khác, thế giới của riêng Thầy, của vinh quang khôn tả của Người Con Một, đầy ân sủng và chân lý.
Chúng ta tin Chúa, nhưng chưa bao giờ chúng ta khám phá được khuôn mặt thật của Ngài. Chúng ta chỉ nhìn thấy những dấu hiệu, và chỉ biết Ngài sơ sài, nông cạn. Làm sao khám phá ra khuôn mặt thật của Thầy?
Chúng ta hãy lên núi cao, nơi vắng lặng, nơi mà chỉ có riêng một mình Thầy với ta. Núi cao hôm nay của chúng ta không phải là ngọn núi nào, mà trong một nơi không còn tiếng ồn ào náo nhiệt của tivi, điện thoại, con người, công việc… Một góc nhà thờ, một bờ sông, một căn phòng im lặng… Chúng ta sẽ thấy được dung nhan Ngài. Ngài sẽ tỏ cho chúng ta thấy khuôn mặt đáng yêu của Ngài. Ngài sẽ nói với chúng ta như đã nói với tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình… Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu… Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa”. (Biết ở đây có nghĩa là yêu).
Có những lời nào ngọt ngào hơn nữa không? Có những lời nào đầy ắp tình yêu như thế không?
Đó là khuôn mặt thật của Chúa chúng ta, Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta cần khám phá ra khuôn mặt đáng yêu đó, chúng ta mới nếm được sự êm dịu ngọt ngào của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta sẽ ấm lên trong ta. Chúng ta sẽ thấy muốn ở lại với Ngài mãi, như Phêrô: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt vời! Xin Thầy cho chúng con dựng ba lều…” Chúng ta muốn nếm được sự êm dịu đó không? Hãy can đảm đi vào vắng lặng, chỉ chú tâm đến một mình Chúa thôi.
Phêrô, khi khám phá khuôn mặt vinh quang của Chúa, ông đã muốn ở lại với Thầy mãi, không muốn trở về với cuộc sống hằng ngày nữa. Ông muốn kéo dài, vui hưởng hạnh phúc với Thầy mãi. Ông đã sống những giây phút tuyệt dịu với Thầy, ông không còn muốn điều gì khác. Nhưng đây chỉ là một dấu chỉ, một nếm trước mà thôi. Còn nhiều việc phải làm, còn nhiều giai đoạn phải trải qua. Thị kiến đã hết, bây giờ phải xuống núi, phải bước vào giai đoạn quyết liệt: “Con Người sẽ bị nộp, sẽ chết… và ngày thứ ba, sống lại”.
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn đang rất gần chúng ta, nhưng chúng ta quá xa Ngài. Hãy đến, hãy ở lại với Ngài như Ngài vẫn nài nỉ chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa phải nài nỉ chúng ta như thế sao? Có cái gì mà Ngài không làm để chứng tỏ tình thương của Ngài, nhưng chúng ta có chú ý đến Ngài đâu! Chúng ta chạy theo đủ các thứ thần tượng trần thế: minh tinh màn bạc, siêu sao bóng đá, ca sĩ ăn khách… Ngài là ai đối với chúng ta?
Các thánh đã say mê Chúa Giêsu, quỳ lâu giờ dưới chân Chúa, thâu đêm như Cha Charles de Foucauld và rất nhiều thánh khác. Sao chúng ta không thử ở lại với Chúa một vài phút sau khi ăn lấy Chúa? Sao chúng ta không mang Chúa vào cuộc sống, làm việc với Chúa, lao động với Chúa, phục vụ mọi người với Chúa. Biết bao nhiêu cách để gần gũi với Ngài.
Có lẽ chúng ta nói rằng, các tông đồ được diễm phúc hơn chúng ta, được thấy Ngài, còn chúng ta, chúng ta chỉ thấy dấu hiệu. Phải, nếu chúng ta chỉ thấy dấu hiệu, thì cũng đủ để chúng ta thấy Ngài. Nhưng chúng ta có ở lại với Ngài đâu! Chúng ta bận bịu đến nỗi không còn một giây phút nào để ở với Ngài. Chúng ta đủ lý do để từ chối Ngài. Chỉ vì chúng ta không yêu Ngài. Những người yêu nhau không bao giờ cảm thấy đủ thời giờ ở bên nhau. Đối với họ, thời giờ sao quá nhanh. Còn chúng ta, chúng ta cứ thấy thời gian quá dài khi đến với Chúa. Tình yêu của chúng ta là như thế sao? Những người yêu nhau , dù bận bịu thế nào, cũng tìm cách liên lạc với nhau. Vắng là nhớ là thương. Họ tìm mọi cách để gặp nhau, để chuyện trò, không cách này thì cách khác, phải nói với nhau cái gì đó… nhắn tin, điện thoại, thư từ... Một tiếng nói yêu thương thôi cũng đủ. Chúa Giêsu, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp được, không cần điện thoại hay một phương tiện nào, sao chúng ta không tìm cách liên lạc với Ngài? Sao chúng ta không nói với Ngài những tiếng nói yêu thương? Ngài xa lạ lắm sao?
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu trên đỉnh núi, vẫn là Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời, vẫn là Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta tưởng hôm nay, Ngài chỉ là tấm bánh nhỏ thôi sao? Ngài vẫn là Đấng tràn đầy ân sủng, tràn đầy chân lý. Ngài vẫn là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên một tấm bánh nhỏ vì chúng ta, để nuôi dưỡng những con người li ti nhỏ hèn là chúng ta, thế mà chúng ta đã đối xử tệ với Ngài, không chú ý đến Ngài, và vô tình lạnh nhạt một cách có thể nói là tàn nhẫn. Chúng ta có đạo không? Chúng ta có tin không? Chúng ta hà tiện một tiếng nói, một ánh nhìn sao?
Trên đỉnh núi đó, Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Ngài. Hai tổ phụ quan trọng đó đại diện cho Lề Luật và tiên tri đã đến, điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu gồm tóm nơi Ngài cả hai nền tảng của Cựu Ước. Ngài kiện toàn Lề Luật và thực hiện những gì các tiên tri đã báo trước. Ngài là điểm quy tụ của cả hai dòng lịch sử, Ngài là trung tâm của mọi hồng ân, của ơn cứu rỗi. Vì thế Chúa Cha đã bảo chúng ta: “Hãy lắng nghe lời Ngài”.
Chúng ta có nghe lời Người Con Yêu Dấu của Chúa không? Nghe như thế nào? Nghe với tất cả tình yêu hay lơ đảng, chán buồn?
Lời Chúa là ánh sáng. Hãy để cho ánh sáng thần linh đó rọi chiếu vào trong u tối của chúng ta, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên rực sáng niềm vui và can đảm. Ngài đã tỏ vinh quang phục sinh trước khi Ngài bước vào cuộc tử nạn tăm tối, nhờ đó, khi nhục nhã phủ đầy, các tông đồ mới nhận ra khuôn mặt đau thương của Ngài, Đấng xóa tội trần gian, người đầy tớ của Thiên Chúa, chết cho muôn người, mà tiên tri Isaia đã báo trước. Vì thế, khi xuống núi, Ngài căn dặn các môn đệ, đừng nói cho ai biết về thị kiến kẻo gây hiểu lầm. vì giờ của Ngài chưa đến.
Hôm nay, tham dự vào hiến tế này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu với cái nhìn của các tông đồ trên đỉnh núi, một cái nhìn say mê, và hãy ước mong sống với Ngài mãi mãi, dù cuộc sống chúng ta không dễ dàng, dù mọi sự đều trở nên thập giá. Hãy như Phêrô, xin cất ba lều để chúng ta không tách rời Ngài ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Liên kết bền chặt với Ngài vì chính Ngài đã liên kết chúng ta trước.
Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm bức tượng Phật đang ở tư thế ngồi cao đến 3 mét, được đúc bằng vàng nguyên khối, nặng đến 5 tấn rưỡi!
Theo sử sách ghi lại thì bức tượng này được đúc vào khoảng từ thế kỷ 13 đến 15. Trong thời chiến tranh nổ ra giữa Thái Lan và Miến Điện, người Thái sợ bức tượng vàng quý báu này lọt vào tay người Miến nên đã trát bê tông bao bọc tượng, che giấu khối vàng bên trong nhằm đánh lừa quân địch. Thế là những thế hệ người Thái sau này cứ tưởng đây chỉ là bức tượng bê tông tầm thường nên có thời bức tượng này bị đặt vào nơi bất xứng và bị lãng quên.
Vào năm 1955, bức tượng được di dời đến một ngôi đền mới, trong khi vận chuyển, một số giây thừng ràng quanh tượng bị đứt làm cho tượng ngã lăn xuống đất, lớp bê tông bọc tượng bị nứt ra, cho thấy ánh vàng lấp lánh bên trong. Thế là nhờ sự cố không may này, người ta phát hiện được đây là bức tượng vàng nguyên khối tuyệt đẹp và vô cùng quý báu đã bị che phủ bằng bê tông suốt hàng trăm năm qua.
Từ đó, bức tượng Phật vàng được rất nhiều Phật tử chiêm bái, được du khách khắp nơi thăm viếng, được xem là báu vật của Thái Lan.
Trong 33 năm sống ở dương gian, Chúa Giê-su cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Ngài vốn là Thiên Chúa toàn năng uy quyền vinh hiển, nhưng Ngài đã mặc lấy thân xác người phàm, xác thịt phàm trần đã che phủ thần tính vinh hiển của Ngài, vì thế Ngài bị người đời xem thường.
Thế rồi qua biến cố hiển dung trên núi được thánh Mát-thêu thuật lại trong Tin mừng hôm nay (Mt 17, 1-9), thần tính của Chúa Giê-su được biểu lộ, nên ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan mới thấy được sự sáng láng vinh hiển của Ngài, mới biết được Ngài là Con chí ái của Thiên Chúa Cha.
Hôm nay, Ki-tô hữu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự.
Mặc dù chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có giá trị cao quý hơn bất cứ kho tàng hay báu vật nào trên thế gian.
Tuy nhiên, sự cao quý tốt đẹp này có thể bị bao bọc bởi một “lớp bê tông”, tựa như bức tượng Phật vàng ở Thái Lan, làm cho chúng ta bị mất giá trị trước mặt người đời.
Nơi người này, lớp “bê tông” bao bọc có thể là tính kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ… Nơi người khác là lòng ghen ghét, hận thù… Những “lớp bê tông” này làm cho người ta trở nên tầm thường, xấu xa, mất giá…
Tiếc thay, những “lớp bê tông” này rất cứng chắc, bám chặt vào người ta và khó lòng phá vỡ được.
Sở dĩ nhiều người không phá nổi những “lớp bê tông” này, không chừa bỏ được những thói hư tật xấu bao quanh mình, là vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, không tự biết mình.
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời mà chúng ta không thể thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính ta. Người ta thấy rõ nốt ruồi nhỏ bằng hạt tấm trên khuôn mặt người khác; trong khi cả một vết dơ lớn như đồng tiền trên mặt mình thì lại không thấy.
Mà vì không nhìn thấy được những tì vết của mình, những thói hư tật xấu của mình nên người ta không thể lột bỏ chúng được, cũng như ta không thấy khuôn mặt mình dơ thì ta không cần rửa mặt, không thấy tay mình bẩn thì không cần rửa tay.
Ngoài ra, khi có ai đó chỉ cho thấy những khiếm khuyết, những lầm lỗi của bản thân mình, thì người được chỉ lỗi cảm thấy bị tổn thương, bị xúc phạm… nên đâm ra tức tối, căm giận người chỉ lỗi cho mình. Vì thế, không ai còn dám chỉ lỗi cho và người ta cứ mang tật xấu suốt đời.
Thứ hai, tính xấu bám chặt vào bản thân ta như da bọc thân.
Những “lớp bê tông” này bám chặt vào bản thân chúng ta, trở thành như da thịt của chúng ta nên không dễ gì lột bỏ đi được. Có một số người đã mang tính kiêu căng thì kiêu căng cho đến chết; mang tính tham lam, ích kỷ… thì cũng sẽ mang chúng xuống mồ. Chính vì thế mà xưa nay người ta thường nói: “Cái nết đánh chết không chừa.”
Thế là phẩm chất cao cả của người Ki-tô hữu bị những nết xấu bao bọc, che phủ như bê tông che phủ bức tượng vàng, khiến cho họ bị người khác xem thường và chê trách.
Lạy Chúa Giê-su, Xưa kia trên núi cao, Chúa để cho thiên tính của Chúa biểu lộ ra, xuyên qua nhân tính phàm trần, để cho ba môn đệ thân tín được thấy chân dung đích thực của Chúa. Xin Chúa cũng giúp chúng con lột bỏ “lớp bê tông” thói hư tật xấu đang bao bọc chúng con, để dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con cũng được tỏ ra trước mặt mọi người.
Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang sáng láng của Ngài. Aó Ngài trắng tinh như tuyết; mặt Ngài sáng chói như mặt trời. Chứng kiến cảnh tượng đó các tông đồ ngây ngất hạnh phúc (x. Mt 17,1-9).
Danh dự, vinh quang là điều thường ai cũng mong được. Danh dự vinh quang đôi khi còn được đặt cao hơn cả lợi lộc, hơn cả miếng cơm manh áo. Tục ngữ Việt Nam, có câu “Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp”. Hẳn là chúng ta cảm thấy hạnh phúc vui sướng khi có được danh dự, vinh quang.
Đức Giêsu tỏ mình vinh quang để làm gì? Phải chăng Ngài cũng thích danh dự vinh quang như con người chúng ta?
Có người tưởng như vậy, vì đã từng được nghe sách Thánh nói trên trời các thiên thần hằng ca tụng Thiên Chúa, hằng tung hô ngài là “Thánh, Thánh, Thánh”. Ở trần thế này, chúng ta được dạy rằng phải ca tụng Thiên Chúa, hãy làm vinh danh Ngài và để rồi chúng ta cũng được vinh quang với Ngài trên thiên đàng.
Vậy phải chăng Chúa Giêsu cũng muốn tỏ vinh quang kiểu như con người chúng ta, khi Ngài biến hình trên núi?
Chắc chắn là Chúa Giêsu không muốn tỏ vinh quang như kiểu con người chúng ta. Tuy nhiên, ta có thể hỏi, kiểu tỏ vinh quang của Ngài phải chăng là để chứng tỏ mình là đấng thánh, đấng thần thiêng, có đủ quyền năng, đầy cao sang, để rồi các tông đồ luôn trung thành theo Ngài?
Nếu chỉ như vậy thì xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại nặng nề, vì các tông đồ đã không trung thành gần ngay sau đó. Ở vườn Cây Dầu, khi Đức Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn hết! Phêrô, người đứng đầu nhóm, chối Chúa đến ba lần!
Vậy thì việc biến hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu có ý nghĩa như thế nào?
Chìa khóa để hiểu, chính là lời dạy của Chúa Giêsu: “Các con không được nói với ai thị kiến này cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17,9). Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ loan truyền vinh quang của Ngài cho tới khi Ngài từ cõi chết sống lại. Điều này hàm ý rằng: Nếu loan truyền sớm trước đó, thì sẽ bị hiểu lầm. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ bị hiểu lầm như kiểu vinh quang thế gian.
Như thế vinh quang đích thực của Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với sự chết và sống lại của Ngài.
Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng quay trở về bài Tin Mừng tuần trước: Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Ma quỷ đã nói: “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy biến đá thành bánh đi ... Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy nhảy từ nóc đền thờ xuống đi.” (x. Mt 4,1-11).
Đức Giêsu đã không tỏ mình ra là Con Thiên Chúa theo kiểu ma quỷ nói. Điều này có nghĩa là, Ngài đã không bày tỏ vinh quang bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Đức Giêsu đã từ chối chước cám dỗ đó. Nhưng Người sẽ tỏ mình ra là Con Thiên Chúa trong Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh. Chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa. Chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết, và nhờ đó chúng ta được vượt qua sự chết. Cái vinh quang thật sự của Thiên Chúa là sự cứu thoát chúng ta. Có thể nói đó là vinh quang cứu độ, vinh quang cứu giúp chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự chết muôn đời.
Chính cái vinh quang mà Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, sẽ chỉ đạt được trong Mầu nhiệm Thập giá. Qua sự biến hình, Ngài muốn cho các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là mơ ước rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được như những ông quan lớn, cao sang, có nhiều quyền lực. Đồng thời, Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng sau này, khi đi rao giảng, bị bắt, bị lên án và chịu tử đạo.
Vì vậy, qua việc biến hình, Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và các Kitô hữu rằng, vinh quang đích thực không là con đường của danh giá, của quyền lực, nhưng phải là con đường của hy sinh đau khổ vì yêu thương, yêu cho đến cùng, cho dù có chết vì yêu.
Ở trong tập nhật ký của Charles de Foucaul, người ta đọc thấy câu này:
“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới.”
Năm năm sau đó, người ta cũng lại đọc thấy câu này, nhưng có dài thêm một ít: “Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh cầu nguyện.” Ngài đã thêm dòng chữ: “bằng sự hy sinh cầu nguyện.”
Và mười năm sau, người ta lại đọc thấy câu đó, nhưng dài hơn một chút nữa:
“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh và cầu nguyện và bằng cái chết của tôi.” Ngài đã thêm dòng chữ: “và bằng cái chết của tôi”.
Và đúng như thế! Charles de Foucaul đã bị một kẻ cuồng tín đâm chết. Sau đó tu hội tiểu đệ tiểu muội đã nổi tiếng, phát triển nhanh, hầu như có mặt khắp nơi trên thế giới.
Con đường vinh quang qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu ban đầu đã bị các Tông đồ chối từ, nhưng sau này trở thành con đường cho chính các Tông đồ đã đi. Các ngài đã hy sinh, hy sinh ngay cả chính mạng sống mình để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tiếp theo sau các Tông đồ biết bao nhiêu thế hệ cha ông chúng ta cũng đã đi con đường vinh quang đích thực đó. Các ngài đã trở nên thánh. Cách riêng là các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Còn chúng ta chúng ta sẽ đi con đường vinh quang nào?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Con người của Chúa Giêsu là người tôi trung đau khổ như Isaia đã loan báo, sứ mệnh của Chúa Giêsu là hoàn tất con đường thập giá.
Vì thế, xét theo mạch văn của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì cuộc Biến hình của Chúa Giêsu có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang này đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ phải nghe lời và cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.
Tiếp đến, chúng ta thấy 3 môn đệ của Chúa đã say trong vinh quang và muốn ở lại trong vinh quang đó nên nói rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Mt 17, 4). Thế nhưng, tiếng của Thiên Chúa Cha đã phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Vinh quang không thể tự mà có, cũng không ai sống mãi trong vinh quang được, vinh quang phải được kín múc ra từ trong thập giá và được nuôi dưỡng nó trong thập giá. Vì thế, để có được vinh quang thì hãy vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu. Đó là bước theo con đường của Chúa Giêsu, con đường đi lên Giêrusalem để đón nhận thập giá.
Hình ảnh đó, cho chúng ta nghiệm thấy rằng, muốn tìm thấy được hạnh phúc thì con người phải chấp nhận bước vào những khó khăn và thử thách thì mới tìm thấy hạnh phúc, và hạnh phúc đó cũng phải tiếp tục được nuôi dưỡng trong những thử thách và thậm chí là đau khổ.
Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài có đủ quyền năng để bỏ qua đau khổ của thập giá để tới thẳng vinh quang, nhưng Ngài lại không làm như vậy, Ngài ôm lấy đau khổ của thập giá vào mình để thanh luyện nó, biến đổi nó thành vinh quang vĩnh cửu. Và qua đó, Ngài muốn cho con người nhận ra rằng, không ai ngồi không mà có được hạnh phúc, không ai không chịu cực khổ mà có thể đạt được hạnh phúc, không ai bỏ qua được đau khổ trên bước đường đời mà có thể đến được vinh quang hạnh phúc được, cũng không có con đường tắt nào có thể đến thẳng vinh quang và hạnh phúc. Nghĩa là, hạnh phúc luôn phải đánh đổi bằng một hành trình gian khổ và thậm chí là đau khổ nữa. Điều này không cần phải chứng minh bằng những chứng cứ nào hết, nhưng chính mỗi người chúng ta, mỗi kinh nghiệm đời sống của chúng ta là những chứng cứ hữu hiệu nhất cho điều khẳng định trên.
Điều đó cũng khẳng định, nếu ai trong cuộc đời này chối bỏ hay bỏ cuộc trước thập giá là những đau khổ và thất vọng thì chắc chắn chúng ta không thể nào đạt tới vinh quang được. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong Tin Mừng rằng: “Hãy trỗi dậy, Đừng Sợ!” (Mt 17, 7). Bởi vì Ngài biết, các môn đệ sợ phải đối diện với hành trình thập giá, hay đúng hơn là các môn đệ chưa thực sự nhận ra rằng thập giá chính là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó ta thấy rõ ràng khi nhìn vào hình ảnh Phêrô ngăn cản không cho Chúa lên Giêrusalem (Mc 8,31-33)
Đôi khi trong hành trình đời sống đức tin, chúng ta sợ hãi khi đối diện với những khó khăn của cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình. Chúa ban cho chúng ta mỗi người một ơn gọi đặc biệt và riêng biệt, chính sự đặc biệt và riêng biệt đó lại trao ban cho chúng ta mỗi người một thánh giá đặc biệt và riêng biệt, không ai giống ai, nhưng đều là thánh giá Chúa gửi đến để chúng ta có thể vác trên vai cùng theo Chúa lên Giêrusalem mà tìm đến vinh quang của hạnh phúc bất diệt: “ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá và theo Thầy” (Mt 16, 24).
Tuy nhiên, khi đối diện với thánh giá Chúa trao, chúng ta thường sợ hãi và muốn trốn tránh. Ngày nay trong cuộc sống, rất nhiều các gia đình, vì sự khác biệt giữa vợ - chồng, con cái, và các thành viên trong gia đình không chấp nhận được những khác biệt đó khiến cho gia đình ngày càng trở nên nặng nề, rồi đến một lúc khi sự nặng nề đó trở nên quá sức thì gia đình tan vỡ. Chúng ta nên nhớ rằng, hành trình thập giá là một hành trình của sự biến tận căn. Biến đổi để trở nên phù hợp với vinh quang bất diệt. Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, thập giá của mỗi thành viên là sự biến đổi chính mình để nên phù hợp hơn với gia đình đặc biệt và riêng biệt của mình, chứ không mong người khác biến đổi theo ý mình.
Ta thấy hình ảnh của chú chim đại bàng, một loài chim được mệnh danh là chúa tể bầu trời, nhưng còn được biết đến như một loài động vật thông minh và sẵn sàng đối đầu với thử thách. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua cách chúng đối đầu với mỗi cơn bão.
Không như tất cả mọi loài đều chạy trốn cơn bão, Đại bàng sẽ bay lên đỉnh núi thật cao đứng chờ. Và khi cơn bão ập đến, Đại bàng sẽ tận dụng sức mạnh của cơn bão để đưa đôi cánh của mình bay thật cao lên bầu trời. Đối với Đại bàng, cơn bão không hề là một điềm dữ. Nó là đòn bẩy, là cơ hội để củng cố thêm quyền lực thống trị bầu trời cho Đại bàng.
Hầu hết những ai biết về câu chuyện của Đại bàng đều khâm phục bản tính kiên cường, trí thông minh và sức sống mãnh liệt của nó. Có lẽ chính những thử thách khắc nghiệt ấy đã rèn giũa nó trở thành một loài mạnh mẽ và đáng nể như ngày hôm nay. Hơn bất cứ điều gì, cuộc sống và cách Đại bàng đối đầu với khó khăn chính là nguồn cảm hứng cho tất cả các loài, kể cả loài người chúng ta.
Chúng ta thì thế nào? Khi đối diện với khó khăn, chúng ta có sẵn sàng đương đầu không hay chúng ta tìm cách chạy trốn nó?
Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Chúa Giêsu, đặc biệt là hành trình thập giá của Ngài, cũng như công trình tạo dựng của Ngài qua hình ảnh chim đại bàng, chúng ta tự xét lại chính mình, xem chúng ta đã thực sự bước vào hành trình thập giá của Chúa Giêsu qua đời sống thường ngày của chúng ta chưa?
Xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết can đảm đối diện với khó khăc của cuộc sống, nhất là cuộc sống gia đình, nhờ đó chúng ta có đủ sức mạnh và sự can đảm để vượt qua những khó khăc đó mà cùng với Chúa Giêsu tiến đến vinh quang bất diệt. Amen.
Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Tabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, qua thị kiến Chúa Giêsu biến hình, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan đã thấy thần tính và nhân tính của Đức Giêsu. Thần tình được biểu lộ nơi dung nhan của Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời, đầy vinh quang, quyền lực. Y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết. Còn nhân tính của Ngài được biểu lộ qua việc sau khi Chúa biến hình các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi, con người bằng xương thịt đang ở bên các ông như mọi ngày và nhân tính của Chúa Giêsu biểu lộ rõ nết khi khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói về cuộc chịu nạn, chịu chết và ba ngày sống lại. Cho nên, về thiên tính, Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Còn nhân tính thì xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt, để rồi bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”.
Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào những ngày trong Mùa Chay nhằm muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đón nhận người, rước Ngài vào trong cuộc đời chúng ta để Ngài thức tỉnh chúng ta giúp chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mà vui sống với mọi gian nan đau khổ trên đường đời rồi sẽ đến đỉnh vinh quang chiến thắng tất cả như Thánh Phaolô xác quyết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12). Còn Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương chúng ta cho đến chết trên Thập Giá sẽ luôn ở bên chúng ta. Ngài luôn ân cần nói với chúng ta: Hãy can đảm lên! Các con không vác Thánh Giá một mình, Ta mang nó với các con. Ta đã vượt qua cái chết để mang đến cho các con sự sống của tin yêu hy vọng” (ĐGH Phanxicô). Vì vậy, niềm tự hào của chúng ta là Thánh Giá Chúa tôi. Niềm tự hào của chúng ta là vác Thánh Giá đi lên mỗi ngày trong hy vọng niềm tin sáng tươi, không hoang mang lo âu nhưng vui mừng hiên ngang tiến lên vì đường thập tự giá là đường vinh phúc. Qua bao nhiêu thương đau, tình yêu Chúa là lẽ sống chúng ta đi không có gì sợ lo đắn đo vì có Chúa bước đi cùng chúng ta.
Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi, Ngài đã chọn và đã đi đến đồi Canvê và đến đỉnh vinh quang. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày Chúa sống lại.
Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.
Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường đời, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục dõi bước theo dấu chân của Ngài trên mọi nẻo đường dù có bình yên hay gian nan thử thách đau khổ để dành lấy vinh quang chiến thắng tội tội, đạt đến sự thánh thiện, bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi. Amen.
Thay đổi một thói quen của con người thì dễ, nhưng rất khó lòng thay đổi tính hư tật xấu một khi đã ăn sâu trong con người. Cho nên người ta thường nói “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, bản tính đây là tính xấu, tật xấu chứ tốt dời làm gì, đổi làm gì. Bởi vì ngay từ đầu con người đã là “nhân chi sơ tính bản thiện”, “ăn hiền ở lành”, “làm lành lánh dữ” cho nên tật xấu tính xấu này Ông Trời, Thiên Chúa không có làm ra, mà do con người tạo ra đó thôi. Vì chưng, trong Sách Thế nói rằng tất cả mọi sự Thiên Chúa tạo dựng đều tốt đẹp. Nhưng “vì một người duy nhất là Ađam, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12). Cho nên rõ ràng rằng tính hư tật xấu là do bởi ta mà ra. Chẳng hạn, tức quá hóa dại. Cho nên, Chúa ban cho ta ơn khôn ngoan, khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.
Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ đồng thời nhờ ơn Chúa chúng ta hãy biến đổi những khuynh hướng xấu của tội thành thánh và thiện. Cho nên, Mùa Chay là mùa của biến đổi, đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.
Tin Mừng Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Chúa. Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến. Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người trở về tình trạng nguyên tuyền, là hình ảnh Thiên Chúa. Qua biến cố biến hình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang. Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ chúng ta hôm nay phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, từ bỏ tính hư tật xấu để trở nên người con của Chúa, xứng đáng là hình ảnh của Chúa để vào Nước Ngài.
Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên tội lỗi tổ tông và tội riêng của chúng ta được Chúa biến đổi thành một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh. Nhờ cuộc biến hình này mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi phủ vây. Vì vậy, chúng ta lại cần phải chạy đến Bí Tích giao hòa để Chúa biến đổi từ tội nhân thành trong sạch.
Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình nhờ năn chạy đến với Chúa và lãnh nhận các Bí tích, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thửa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người. Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
Tin mừng Mt 17: 1-9: Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo...
Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến 70 năm.
Nhưng nếu muốn sống thọ như vậy, chúng buộc phải có một chọn lựa quan trọng và rất khó khăn ở tuổi 40.
Khi sống đến 40 tuổi, móng vuốt của chim ưng bắt đầu lão hóa, không thể túm chặt được con mồi nữa.
Mỏ của nó trở nên vừa dài vừa cong, gần như đụng đến ngực.
Ngoài ra, cánh của nó cũng trở nên vô cùng nặng nề, khiến nó mất rất nhiều sức khi bay lượn.
Lúc này, nó chỉ có hai lựa chọn: một là đợi chết, hai là trải qua quá trình lột xác và tái sinh vô cùng đau đớn.
Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo.
Việc đầu tiên mà nó cần làm ở đó là mổ liên tục vào vách đá cho đến khi cái mỏ cũ của nó hoàn toàn tróc đi.
Sau đó, nó phải nằm chờ đến khi cái mỏ mới được mọc lại.
Tiếp theo, nó phải trải qua một quá trình đau đớn hơn - dùng cái mỏ mới nhổ từng cái móng cũ ra và chờ móng mới mọc lại.
Cuối cùng, nó phải nhổ đi từng chiếc lông vũ và tiếp tục chờ đợi để đám lông vũ mới mọc ra.
Đến lúc này, diều hâu mới có thể bay lượn lại và sống thêm ba mươi năm nữa.
(First News, Điều bình dị thông thái p.57-58)
Hôm nay ngày lễ Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.
Chúng ta sẽ chẳng hiểu được dụng ý của Chúa Giêsu khi hiển dung trên núi Tabor, nếu chúng ta không đặt trong bối cảnh của sự kiện.
Sau khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: vậy các con bảo Thầy là ai?
Simon Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Tiếp đó, Chúa Giêsu nói về cái chết sắp đến của Người:
Thầy phải lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tế và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21).
Nghe thế Phêrô đã can ngăn Chúa.
Cho tới lúc này các môn đệ vẫn chưa hiểu sứ vụ Messia của Chúa Giêsu.
Các ông theo Chúa và các ông vẫn thầm mong rằng khi Nước Chúa hiển trị các ông cũng sẽ được chia chác quyền lợi cũng như địa vị trong vương quốc của Chúa.
Chính vì vậy sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao.
Chúa đã tỏ vinh quang của Người trước mặt các ông.
Và Phêrô đã thốt lên: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy cho phép, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.
Chính ở đây Phêrô hiểu ra rằng để được tham dự vào vinh quang của Chúa Phêrô phải chấp nhận con đường khổ giá mà Chúa Giêsu nói đến cách đây sáu ngày.
Để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor, chắc chắn chúng ta cũng phải qua con đường thập của Chúa Giêsu.
Chính con đường thập gía, chúng ta sẽ được biến đổi, biến đổi để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor.
Nhưng phải biến đổi như thế nào?
Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói với tín hữu Êphêsô:
”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22.24). Phải lột bỏ con người cũ như thế nào?
Hình dung lại những giai đoạn lột xác của chú chim ưng chúng ta sẽ thấy:
- Trước hết nó mổ liên tục vào vách đá để cho lớp mỏ già cũ tróc đi.
Quả là một hy sinh đau đớn và tốn nhiều công sức.
- Sau đó lại phải dùng chính cái mỏ mới này để rút những móng vuốt già cũ của đôi chân. Một tác động phải can đảm lắm.
- Sau cùng phải rút tỉa những chiếc lông già cũ.
Công việc này chắc chắn sẽ làm chú chim ưng ê ẩm đau nhức một thời gian khá dài.
Chú chim ưng chỉ muốn kéo dài kiếp sống thêm 30 năm mà còn phải chấp nhận 150 ngày thử thách đau thương, phương chi là con người chúng ta, từ một con người yếu đuối, tội lỗi để đi vào sự chia sẻ thiên tính vinh quang của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải trải qua những giai đoạn lột xác như con chim ưng.
Lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.
Và để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa lúc Chúa biến hình trên núi Tabor, nhưng chúng con lại muốn dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không muốn trèo lên núi Canvê.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mạnh dạn theo Chúa trên con đường Chúa đã đi, con đường thập giá, con đường dẫn lên Núi Sọ. Amen.
Tin mừng Mt 17: 1-9: Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá...
Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt trội, thìon người kỳ vọng về một cuộc sống hạnh phúc hơn, an bình hơn. thế nhưng sự kỳ vọng luôn là một ước mơ xa vời, cho dẫu y khoa có tiến bộ đó, nhưng con người vẫn luôn đối diện với những căn bệnh ngặt nghèo mà không có một phương thuốc chữa trị được; cho dẫu khoa học kỹ thuật đang nỗ lực tạo ra cho con người những tiện nghi để cuộc sống đỡ vất vả hơn, thế nhưng cuộc sống của con người vẫn luôn đầy dẫy khó khăn; sự văn minh có tiến bộ đó, nhưng đời sống con người luôn ở trong tình trạng bất an. Sự bất an đó không chỉ đến từ mối lo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về an ninh xã hội…, nhưng trên hết chính là sự vô cảm ngày càng phát trển nơi cộng đồng xã hội về việc tôn trọng phẩm giá con người.
Con người trong thế kỷ tiến bộ nầy đã biến thành phương thế kiếm tiền cho các tổ chức tội phạm như nạn bắt cóc trẻ em để buôn bán nội tạng hoặc biến thành nô lệ tình dục cho những người nhiều tiên nhiều bạc nhưng bệnh hoạn, nạn buôn bán phụ nữ cho các quán lầu xanh để phục vụ cho những con người chỉ tìm thoả mãn nhục thú, và nhất là sự sống con người càng ngày càng bị khinh rẻ, cho nên người ta đã không gớm tay khi phá thai, hoặc ra tay giết chết đồng loại. Người thời đại hầu như không còn nhận ra đặc tính thần linh nơi con người, mà hầu như chỉ còn coi sự hiện hữu của con người giống như bao sinh vật khác, và vì thế phẩm giá con người bị chà đạp cách thô bỉ.
Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá. Nhờ phẩm giá đó mà con người được Thiên Chúa yêu thương và được gọi là con. Quả thật, lời Kinh Thánh đã minh xác: Đức Kitô đã mặc lấy thân xác con người như chúng ta, nghĩa là một thân xác được cấu tạo từ bụi đất, mỏng dòn và hư hoại. Nhưng thân xác đó đã được Đức Kitô biến đổi để trở nên chói lọi như mặt trời, có nghĩa là thân xác đó được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa. Và điều đó thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng về sự vinh quang mà thân xác của chúng ta sẽ được dự phần.
Niềm hy vọng đó không là chuyện hão huyền, bởi Đức Kitô đã trở thành trưởng tử của đàn em đông đúc, cũng có nghĩa là người anh cả không để đàn em hư mất, nhưng trái lại người anh ở đâu thì đàn em cũng ở đấy. Vì thế, cuộc biến hình trên núi của Chúa là lời mời gọi chúng ta bước theo Người để cùng được biến đổi như Người. Con đường theo Chúa, chính là con đường của Thập Giá, con đường của hy sinh, của từ bỏ lối sống hưởng thụ ích kỷ, để yêu thương và biết xót thương.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tôn trọng phẩm giá của chính mình và của ngừoi khác để chúng con luôn biết điểm tô cho phẩm giá bẳng tình yêu thương, và sự dấn thân phục vụ thiện ích cho nhau. Amen
Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố này nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng trong thời gian Mùa Chay họ không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm Thương Khó và Tử Nạn, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang của Đức Giê-su.
St 12: 1-4a
Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài, như thư gởi tín hữu Do thái viết: “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).
2Tm 1: 8b-10
Viết cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhớ hiệu quả tâm linh của đau khổ, vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.
Mt 17: 1-9
Tin Mừng trình thuật cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt vào trong bối cảnh Đức Giê-su loan báo lần đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã khiến cho các môn đệ bàng hoàng. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao, ở đó Ngài cho các ông thoáng thấy trước vinh quang Phục Sinh của Ngài, qua đó Ngài đảm bảo với các ông rằng Thương Khó và Tử Nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh quang.
BÀI ĐỌC I (St 12: 1-4a)
Sách Sáng Thế được chia thành hai phần: phần thứ nhất (1: 1-11: 26) trình thuật nguồn gốc nhân loại và phần thứ hai (11: 27-50: 26) trình thuật nguồn gốc dân Ít-ra-en qua các Tổ Phụ của họ. Bài Đọc I, trích từ đoạn đầu của phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.
1. Ơn gọi (St 12: 1)
Lời mở đầu của Bài Đọc 1: “Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi’” (12: 1), quy chiếu đến những sự kiện trước đó (11: 27-32). Quê quán của ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, là thành Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua cùng với gia tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng ông Te-ra cùng gia tộc của mình định cư lập nghiệp ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và ở đó ông qua đời (11: 32).
A- Cuộc hành trình đức tin
Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham, người con trưởng của ông Te-ra, muốn tiếp tục thực hiện ước nguyện của cha mình? hay vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về cuộc hành trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.
Trước hết, vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất khi loại bỏ các vị thần linh khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en. Thứ nữa, khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi ông thực hiện một hành vi đức tin: cắt đứt mọi mối dây liên hệ với quê hương, bà con thân thuộc và nhà cha của mình để đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người” (12: 1). Hơn nữa, vào lúc đó, Thiên Chúa chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (12: 4).
B- Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa
Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà tổ phụ Áp-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó với Thiên Chúa mật thiết hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.
Đây là khuôn mẫu các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước. Khi nào Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … , Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân. Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ từ bỏ cách dứt khoát như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng phải có một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, Ngài cũng đòi hỏi những người mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý như vậy: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi!”.
2. Lời hứa (St 12: 2)
Lời đầu tiên Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…” (12: 2), lời hứa này sẽ còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần xuyên suốt “truyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham (St 11: 27-25: 11).
Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực trạng trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già bảy mươi lăm tuổi không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không tương xứng với những gì mà ông hiện có trong tầm tay: một kẻ không có gì bảo đảm cho tương lai (vợ ông, bà Xa-rai hiếm hoi, không con: St 11: 30) được mời gọi lên đường đến một nơi chưa được xác định. Tuy nhiên, truyền thống Ít-ra-en luôn luôn xem tổ phụ Áp-ra-ham là cha của lời hứa. Chính vì lời hứa nầy mà ông sống. Quả thật, chính từ lời hứa này, ông sinh ra một dân mà Chúa đặc tuyển làm dân riêng của Ngài, một dân mà Thiên Chúa ưu ái cách đặc biệt.
3. Lời chúc phúc (12: 3)
Lời chúc phúc của Thiên Chúa là dấu chỉ hữu hình cho thấy tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hữu hiệu và nhắc nhớ ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:
“Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho người;
ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3).
Lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham, nhưng mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo mạch văn của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của ông Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của ông Kham và ông Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông Áp-ra-ham cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một người, một dân tộc, trong cái khung lịch sử để truyền đạt giao ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân tộc trên mặt đất, ngay từ nguyên khởi của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích phổ quát của Ki-tô giáo rồi.
4. Viễn cảnh thần học
Tác giả Gia-vít đã suy niệm sâu xa về địa vị ưu đẳng của con người và sự thất bại do tội lỗi gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính tác giả đã nhắc nhớ huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Ca-in và A-ben, lụt Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong vũng lầy của sự ác và là đối tượng của những trừng phạt và những lời chúc dữ của Thiên Chúa.
A- Tổ phụ Áp-ra-ham là phản đề của nguyên tổ A-đam
Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng lệnh Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ Áp-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập vào nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ: “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.
B- Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của những người tin
Tổ phụ Áp-ra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi thờ phượng: Xi-khem, Bê-then… Từ cuộc sống du mục của vị tổ phụ nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh: “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 8-12).
BÀI ĐỌC II (2 Tm 1: 8-10)
Thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm rất nghiêm ngặt ở Rô-ma: thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính” (2Tm 4: 6-8).
1. Ông Ti-mô-thê
Ông Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã nhận ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16: 1-3).
Cha ông là người Hy lạp, còn mẹ ông là người Do thái đã theo Ki-tô giáo, ông Ti-mô-thê đã được mẹ ông là bà Êu-ni-kê và bà ngoại ông là bà cụ Lô-ít dạy Kinh Thánh lúc còn thơ ấu, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn kiến thức sâu xa về Kinh Thánh, như thánh Phao-lô đã nhận định về lòng tin của ông: “Tôi hồi tưởng lại niềm tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (1Tm 1: 5).
Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau vô cùng mật thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có ông Ti-mô-thê là người đồng gởi, trong đó có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê trông coi cộng đoàn Ê-phê-xô để đảm bảo công việc loan báo Tin Mừng vẫn được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, thánh Phao-lô đưa ra những huấn thị của mình cho những người kế nghiệp ngài.
2. Lý do của bức thư
Vào lúc đó, cộng đoàn Ê-phê-xô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Khi phải đối mặt với những trào lưu tư tưởng, người tông đồ phải giữ vững một thái độ duy nhất là “loan báo Tin Mừng”. Trong đoạn trích dẫn ngắn này, thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo được.
3. Tính hiệu quả của sự đau khổ
Để lời khích lệ mình có tác dụng, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình: “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (1: 8). Nhờ đau khổ, lời rao giảng Tin Mừng được sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê: “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).
4. Ơn gọi tông đồ
Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy ân sủng của Thiên Chúa, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ chúng ta đã làm”. Những lời nầy âm vang Bài Đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống: chính thánh nhân, xưa kia là một Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật và là người nhiệt thành bách hại Ki-tô giáo, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài không do công trạng của mình, nhưng do “kế hoạch và ân sủng của Chúa”.
5. Sự chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh
Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao hàm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được biểu lộ qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Trong những thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn trích nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết giữa lòng cộng đoàn Ê-phê-xô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Thánh Phao-lô ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.
Thư này không được gởi cho cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy, như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (“Parole sur le chemin”, tr. 52).
TIN MỪNG (Mt 17: 1-9)
Bài trình thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài trình thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng là một trong những bài trình thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Trước đó, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Thánh Phê-rô đáp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15-16). Nghĩ rằng thời điểm đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã ngăn cản Ngài. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.
1. Thời điểm, nhân vật và nơi chốn
Bài trình thuật bắt đầu với thời điểm: “Sáu ngày sau”, diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài trình thuật tiếp theo sau, nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài trình thuật đi trước. Thời điểm “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16).
Bài trình thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị” (Mt 16: 28), trong khi bài trình thuật Biến Hình bắt đầu với việc kể ra ba nhân vật được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: “Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao”. Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy rằng câu nói bí nhiệm nầy loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt kiểu nói: “trong số người có mặt ở đây”, có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Ngoài ra, thời điểm “Sáu ngày sau” và nơi chốn “một ngọn núi cao” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người mà sau nầy cũng sẽ được chứng kiến lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).
Trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều xác định biến cố Biến Hình xảy ra “sáu ngày sau” lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Mc 9: 2; Mt 17: 1), thì thánh Lu-ca lại xác định “khoảng tám ngày sau” (Lc 9: 28), tức là ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, ngày các truyền thống Tin Mừng tưởng niệm ngày Phục Sinh của Đức Giê-su. Tuy các Tin Mừng Nhất Lãm đưa ra thời điểm có khác nhau, nhưng cả ba đều có chung quan điểm thần học như lời nhận định của cha Guillemette: “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ phải vâng lời đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang qua thập giá” (“L’Evangile de Matthew”, 195).
Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta câu trả lời: “Người lên núi để cầu nguyện”. (Lc 9: 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và là nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, sự kiện núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì “ngọn núi cao” không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc Thần Hiển.
2. Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài
Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su thành một con người rạng ngời vinh hiển: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”, còn thánh Lu-ca thì mô tả sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Chúa Giê-su thân thưa với Cha của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9: 29). Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có quyền gì trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là tham dự trước cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
3. Sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a
Chính trên một ngọn núi Xi-nai (còn gọi là Khô-rếp), ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp gỡ Thiên Chúa. Cũng trên ngọn núi Biến Hình nầy, “ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”. Sự hiện diện của hai nhân vật này là một bảo chứng tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai ông được xem như báo trước Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã báo trước rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18: 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến.
Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện khởi đầu và chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Bài trình thuật của thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9: 31). Thuật ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian khổ nhất của dân Ít-ra-en: ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn họ đến miền Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian khổ nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang. Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong kiếp sống phàm nhân trên con đường tiến về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, Chúa Giê-su được Chúa Cha an ủi cách đặc biệt bằng biến Cố Biến Hình. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua của cuộc Biến Hình.
4. Ba nhân chứng
Chỉ có ba môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, được diễm phúc chứng biến cuộc Biến Hình. Trước đây, chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5: 37), và sau này cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su dẫn theo với Ngài vào trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Ngài (Mt 26: 37). Trước đây, trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên sự chết (Mc 5: 37), còn nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ nghe Chúa Cha chứng nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17: 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.
Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Ki-tô chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Sau này, vị lãnh tụ của các Tông Đồ sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, còn lúc nầy thánh nhân chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Sọ. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.
Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình:
“Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
Ẩn hiện sau Tựa Ngôn này là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
5. Phản ứng của Phê-rô
Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ một mình thánh nhân bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh.
Trong câu chuyện Biến Hình nầy, thánh nhân cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, bộc trực, nghĩ sao thì nói vậy, thánh Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều: một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu như vậy, thánh nhân không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể thánh nhân liên tưởng đến lễ Lều, lễ tưởng niệm dân Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng niềm mong đợi thời Thiên Sai.
Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Ngài (Ed 37:27 ; Hs 12: 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Ki-tô của họ (Ga 1: 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, thánh Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Ki-tô. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên mặt đất ngỏ hầu cuộc Thần Hiển trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.
6. Cuộc Thần Hiển
“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”. Trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời phủ che sự hiện diện hữu hình nhưng siêu việt của Thiên Chúa trước mắt phàm nhân (Xh 40: 34-35 ; 1V 8: 10-12 ; Ed 10: 3-4 ; Tv 18: 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả, tuy nhiên ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” với lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su. Lời công bố này không chỉ nhấn mạnh đặc tuyển, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trên môi miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18: 15). Như vậy, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ làm một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại (17: 9). Nói cho cùng, chỉ trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Giê-su, các ông mới có thể hiểu được những gì các ông đã chứng kiến trong cuộc Biến Hình này. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.
7. “Chỗi dậy đi”
Trước đây, các ông đã nghe lệnh truyền nầy vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia, lúc này Đức Giê-su cũng lập lại lệnh truyền này với các ông: “Chỗi dậy đi!”, đó cũng là lời căn dặn được ngỏ với các ông: “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”. Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia và cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết: “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21).
TMĐP- Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi người chúng ta và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” trong mùa chay trở về với Ngài và trên hành trình đi theo Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ.
Mùa chay nói riêng, và cuộc đời đi theo Đức Giêsu nói chung là con đường Vượt Qua: vượt qua những nghi nan, sợ hãi, những yếu đuối, lỗi lầm, những chán nản, thất vọng, những buông xuôi, gục ngã, những thử thách bên trong, và thách đố bên ngoài để đạt đến ngày phục sinh được cứu độ.
Các môn đệ của Đức Giêsu đều trải qua những kinh nghiệm vượt qua rất cam go khi đi theo Đức Giêsu, đến nỗi “nhiều môn đê rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66) như Tin Mừng Gioan kể lại, khi các ông nghe chướng tai lời giảng dạy của Thầy mình: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54).
Sở dĩ các môn đệ chưa dám liều lĩnh “từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu” (x. Mt 16,24) như đòi hỏi của Ngài, vì niềm tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng được sai đến thế gian để cứu thế gian của các ông chưa đủ lớn. Vì thế, Đức Giêsu đã “đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” (Mt 17, 1-2). Ngài làm thế là để các ông tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Như chúng ta biết, núi cao trong Cựu Ước là núi của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người, như trên núi Sinai, Thiên Chúa Giavê đã gặp Môsê và ban Lề Luật cho dân Ngài.
Khi biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đê, Đức Giêsu tỏ cho các ông thiên tính của Ngài, để các ông tin Ngài là Thiên Chúa, qua “dung nhan chói lọi như mặt trời, y phục trắng tinh như ánh sáng”, lại có hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước là Môsê và Êlia có mặt đàm đạo với Ngài (x. Mt 17, 2-3).
Trước vinh quang của Thiên Chúa, ba môn đệ đã có sáng kiến và đề nghị ngay với Đức Giêsu một giải pháp tốt ưu, đó là “Thầy trò không xuống núi nữa , nhưng định cư vĩnh viễn ở nơi này, vì “chúng con ở lại đây thật qúa tuyệt!” (Mt 17,4), và lập tức Phêrô mau mắn xung phong dựng ba lều: một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia.
Giải pháp tức thời của ba môn đệ là chọn lựa quen thuộc của con người, vì không ai muốn vất vả, khó nhọc, cũng không ai chịu đổ mồ hôi máu, như hầu hết các ông đã chau mày khó chịu, không muốn nghe Đức Giêsu loan báo về cuộc thương khó và tử nạn Ngài sắp phải chịu ở Giêrusalem, hoặc như Phêrô đã không ngần ngại lên tiếng can gián Thầy mình: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22).
Không muốn xuống núi hôm ấy, ba môn đệ đã tưởng rằng theo Chúa là sẽ đi thẳng vào vinh quang phục sinh, mà không cần phải đi qua đau khổ của Thánh Giá, cũng như lầm tưởng đã thấy thiên tính huy hoàng, chói lọi của Thầy rồi, thì chẳng ngại gì mà không quên đi mầu nhiệm làm người của Thầy.
Đứng trước nỗi kinh hoàng, sợ hãi của ba môn đệ, sau khi các ông nghe tiếng phán từ đám mây sáng ngời bao phủ các ông: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, Đức Giêsu đã lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17,7).
Chạm vào các ông để các ông đừng sợ những bước chân ngày mai, dù là những bước chân do dự, run rẩy, lỡ nhịp giữa cuộc sống nhiều rủi ro, đe dọa; chạm vào các ông để các ông đừng sợ, nhưng “dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa” và chấp nhận “đồng lao cộng khổ”để loan báo Tin Mừng (x. 2 Tm 1,8); chạm vào các ông để nâng các ông dậy từ những yếu đuối, “vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1,7); chạm vào các ông để đánh thức các ông tỉnh dậy từ bóng tối u mê, vì vinh quang Thiên Chúa của Ngài đã được biểu lộ; và sau cùng, chạm vào các ông để các ông được chỗi dậy với Ngài từ cõi chết, vì chính Ngài đã “tiêu diệt thần chết mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” cho hết những ai tin Ngài là “Con yêu dấu của Chúa Cha”, và là Đấng Cứu Độ tràn đầy ân sủng (x. 2 Tm 1,9).
Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi người chúng ta và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” trong mùa chay trở về với Ngài và trên hành trình đi theo Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ.
Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, các vị hoàng đế Byzantin đã ra lệnh đập phá các ảnh tượng tôn giáo, bởi họ tin rằng Kinh Thánh cấm không được tạc ảnh tượng. Đầu thế kỷ thứ 8, thánh Gioan Đamascô đã chống lại chuyện này. Ngài viết: “Vào thời xưa, Thiên Chúa không có hình có dạng, nên không bao giờ có thể được vẽ ra. Nhưng nay, khi Thiên Chúa đã mang xác thể, trò chuyện với con người, tôi sẽ vẽ một bức tranh theo Thiên Chúa mà tôi thấy.” Nhờ khẳng định mạnh mẽ này của thánh nhân mà ngày nay chúng ta có những ảnh tượng thánh. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, nơi con người Đức Giêsu, Thiên Chúa vô hình đã có một khuôn mặt, một thân xác, giống như bất cứ người nào trong chúng ta. Các môn đệ đã rất quen với khuôn mặt ấy, thân xác ấy. Họ đã có thời gian sống chung, trò chuyện và gặp gỡ với người mà họ gọi là Thầy, là Rabbi ! Cách đây sáu ngày, tại vùng đất dân ngoại (Mc 8,27), Thầy đã nói cho các môn đệ biết về tương lai của mình: bị đau khổ, bị loại trừ, bị giết và sống lại. Thầy cũng nói cho các môn đệ biết về tương lai của họ: từ bỏ mình, vác thập giá, mất mạng sống để rồi tìm được lại. Họ đã có dấu hiệu chùn bước khi nghe về tương lai u ám… Chẳng ai để ý đến việc Thầy nói về phục sinh (Mc 8,31), hay về việc Thầy sẽ đến trong vinh quang rực rỡ (Mc 8,38). Hôm nay, Thầy dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao, nơi Thầy quen gặp Cha, Đấng sai Thầy. Chính nơi đây Thầy đã được Cha biến đổi hình dạng. Không phải chỉ khuôn mặt, nhưng toàn bộ con người. Cả con người Thầy rạng ngời ánh vinh quang thần linh. Cả y phục của Thầy cũng mang sắc trắng của thiên giới. Vị Thầy thân quen của họ như bước ra từ một thế giới khác. Rồi có hai nhân vật đáng kính là Êlia và Môsê xuất hiện. Các vị này trò chuyện với Thầy Giêsu. Cảnh tượng linh thiêng này làm họ ngây ngất và hoảng sợ. Đỉnh điểm của thị kiến này là tiếng nói phát ra từ đám mây. Mây vừa che giấu, vừa tỏ bày sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa trực tiếp nói với các môn đệ từ đám mây. Ngài giới thiệu cho họ biết Thầy Giêsu của họ là ai. Thầy không chỉ là Đấng Kitô như Phêrô tuyên xưng. Thầy chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, có tương quan thân thiết với Cha chẳng ai sánh bằng. Hai ông Êlia và Môsê xuất hiện rồi lại biến đi. Chỉ Thầy Giêsu còn ở lại, chỉ Thầy được gọi là Con yêu dấu. Thiên Chúa Cha ra lệnh: Hãy lắng nghe Người (Mc 9,7). Lắng nghe về định mệnh đang chờ đợi cả Thầy lẫn trò, rồi chấp nhận và đi vào con đường Thiên Chúa dọn sẵn, con đường hẹp, chẳng ai muốn đi, nhưng lại dẫn đến sự sống, chứ không phải là ngõ cụt. Cứ mỗi Chúa nhật 2 Mùa Chay ta lại đọc bài Chúa Biến hình. Đây là một hy vọng xanh ngát ngay giữa màu tím của phụng vụ. Rồi cũng đến lúc Thầy trò phải xuống núi hạnh phúc này để lên núi Cây Dầu và núi Sọ. Rồi có lúc ba môn đệ sẽ thấy khuôn mặt xao xuyến của Thầy, khuôn mặt đầy máu và thương tích trong cuộc Khổ nạn. Nhưng Phêrô sẽ không quên được kinh nghiệm này (2 Pr 16-18): nghe tiếng của Thiên Chúa Cha phán từ trời trên núi thánh. thấy Thầy Giêsu với vẻ lẫm liệt uy phong. Biến hình là quà tặng của Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu. Khi Ngài đón lấy ý định nhiệm mầu của Cha, thì thần tính vốn bị che giấu nay được Cha vén mở. Mùa Chay là thời gian chúng ta lên núi để được biến hình, nếu chúng ta chấp nhận lắng nghe và tuân giữ lời Con Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hon sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người. Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.
Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19). Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb. Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng. Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ. Và cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.
Để lên được núi cao, con người phải buông bỏ những ràng buộc. Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có thể tới đỉnh núi. Lên núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để con người thanh thoát. Chỉ khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa.
Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.
Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười”, như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi xế chiều. Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa. Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của Ngài. Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông. Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu”. Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa con thừa tự của mình. Chính do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương lai. Đó là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.
Cuộc lên núi thứ hai được diễn tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Tác giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật. Đó là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh. Trước lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì. Vậy nên ông Phêrô mới can gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33). Chính trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Ba môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi. Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu.
Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người. Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Nếu trước đó sáu ngày, ông Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình, ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình. Ông đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia. Tác giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh hoàng. Khi chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.
Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử. Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa. Mùa Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta. Theo Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ. Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình. Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực đối với chúng ta.
“Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).
Trên đường đi theo Đức Ki-tô, vào một lúc nào đó, các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được chọn để đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Trong Kinh Thánh, núi là nơi Thiên Chúa tỏ hiện và con người đi lên núi để gặp gỡ Ngài. Núi có ý nghĩa như thế, vì đó là hình ảnh diễn tả việc giữ khoảng cách với những vấn đề của cuộc sống, vốn hay trói buộc con người, để có thể hướng về trời cao và những gì thuộc về trời cao. Chính vì thế, Đức Giê-su hay lên núi cầu nguyện, giảng ở trên núi, chẳng hạn Bài Giảng Trên Núi trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Mt 5-7); và đặc biệt lần này, trên một ngọn núi cao, Ngài bày tỏ căn tính thần linh của Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và lịch sử cứu độ.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, trong ơn gọi thánh hiến và cả trong ơn gọi gia đình nữa, chúng ta cũng được Chúa mời gọi, và phải nói mạnh hơn, được Chúa chọn, đi riêng ra một chỗ, tới “ngọn núi cao” biểu tượng, nghĩa là tới nơi Thiên Chúa tỏ hiện và ngỏ lời với chúng ta, để lắng nghe Lời của Ngài, để nhận ra ân huệ Ngài ban và cảm nếm được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta, qua đó, có thể ca tụng và tạ ơn Chúa, và cũng để xin Ngài chữa lành, soi sáng, thêm sức và tái tạo chúng ta, và có khi một cách đơn sơ, để ở với Ngài một cách nhưng không. Cuộc sống của chúng ta vốn đầy thách đố đủ loại, vì thế, chúng ta cần biết bao, cùng với Chúa, đi riêng ra một nơi, lên ngọn núi cao.
Thật ra, những lúc đi riêng ra một nơi với Chúa, vẫn được ban cho chúng ta đấy thôi, nhưng chúng ta lại thường không đón nhận cách quảng đại như một ơn huệ Chúa ban.
* Đó là thời gian cầu nguyện cá nhân hằng ngày. * Đó là thời gian chúng ta dâng Thánh Lễ, đọc kinh Phụng Vụ, thời gian chúng ta cầu nguyện chung với nhau. * Đó là thời gian tĩnh tâm, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm hay những lúc chúng ta khao khát cầu nguyện và sắp xếp được thời gian.
Ước gì trong những lúc “đi riêng ra một nơi” với Chúa, Chúa ban cho chúng ta có cùng kinh nghiệm thiêng liêng như các tông đồ, đó là cảm nếm căn tính chói ngời của Chúa, để có thể nói: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”.
2. Dung nhan rạng ngời của Đức Giê-su
Ánh sáng chói lòa của Đức Giê-su trên đỉnh núi (Mc 9, 2-8) muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói trước đó:
Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
(Mc 8, 34-38)
Chính lúc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3).
Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giê-su trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 2-3); và theo lời kể của thánh Mát-thêu: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giê-su, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).
Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Ki-tô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Ki-tô.
Vậy, trên hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Ki-tô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta ; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!”
3. “Chúng con ở đây thật là hay”
Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của các môn đệ để hiểu hết lời nói này của ông Phê-rô:
Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều…
Có người hiểu câu nói này của ông Phê-rô như sau: “Rất may, có chúng con ở đây để phục vụ các Ngài…”. Tuy nhiên, như Thánh Mác-cô thuật lại, thực ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Vì thế, chúng ta phải hiểu đó đơn giản là lời diễn tả cảm xúc, diễn tả niềm hạnh phúc khôn tả được chiêm ngắm vĩnh cửu ; và ông Phê-rô muốn duy trì hạnh phúc này mãi mãi, bằng cách dựng lều cho các vị. Lều là biểu tượng của sự an nghỉ cánh chung. Và đối với ông Phê-rô, cánh chung là đây.
Chúng ta hãy ước ao có được kinh nghiệm này khi chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giê-au, và nhất là Cuộc Thương Khó của Ngài, vì có một lúc nào đó, Ngài sẽ trở lên chói lọi đối với chúng ta. Và chính với kinh nghiệm chiêm ngắm Đức Ki-tô chói ngời trong các Tin Mừng và trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận ra Chúa chói ngời, ngay trong đời sống đi theo Người đầy thách đố của chúng ta.
Thật vậy, đó chính là điều Chúa Cha muốn, khi Ngài đáp lời Phê-rô. Bởi vì, khi ông còn đang nói, có đám mây sáng ngời bao phủ cách ông. Đám mây là hình ảnh của sự di động, không thể làm chủ hay nắm bắt được, thay vì cố định, dễ làm chủ và nắm bắt như căn lều ; và từ đám mây Thiên Chúa Cha lên tiếng:
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời người.
Như thế, chính khi chúng ta vâng nghe Đức Giê-su, và đi theo Ngài trên con đường Thập Giá, trong ơn gọi của chúng ta với tâm tình biết ơn và yêu mến, chúng ta sẽ có được niềm hạnh phúc thần linh của Thiên Chúa. Và khi đó, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là hay!”.
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Thánh, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho chúng ta cảnh đẹp lộng lẫy biến hình của Chúa Giêsu, có Phêrô, Giacôbê và Gioan làm chứng. Tin Mừng mô tả: “Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các ông và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết” (Mc 9, 2-3). Chúa Giêsu biến hình Trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá. Xin ơn biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần Chúa biến hình, báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng con mắt cũng như trái tim để nhìn thấy Ánh Sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu như sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13), thì giờ đây chúng ta cũng phải xin Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta biết biến đổi. Nhưng để biến đổi đâu có dễ, cần phải ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay, đặc biệt là xin Ngài biến đổi. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người khô khan biếng trễ xưng tội rước lễ, lười đi nhà thờ bỏ lễ Chúa nhật thành người đạo đức thánh thiện và siêng năng. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự mãn thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa Thánh Thần đã biến đổi các giác quan của các tông đồ, họ mới có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Cặp mắt được đổi mới, các ông mới nhìn rõ hơn những gì tỏa sáng, tai được biến đổi để nghe rõ hơn tiếng nói tuyệt vời và có thật: là tiếng nói của Thiên Chúa Cha, Đấng hài lòng về Con yêu dấu của Ngài. Chúng ta cũng thế, hãy để Chúa Thánh Thần tác động mới mong được biến đổi, giác quan của chúng ta mới có thể nhìn thấy và nghe được những điều kỳ diệu và vui mừng trong Thiên Chúa cùng với hàng ngũ các thánh đã được Chúa Giêsu phục sinh từ trong cõi chết. Để được biến đổi Hãy vâng nghe lời Chúa. Nhờ vâng nghe và thực hành lời Chúa, tổ phụ Abraham đã lên đường. Chúa bảo đi là đi. Thế nên, Abraham đã trở nên tổ phụ của một dân tộc đông đảo như sao trời cát biển. Trong lúc biến hình, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Có vâng nghe lời Chúa Cha, Đức Giêsu mới trở nên người con chí ái đẹp lòng Cha mọi đàng. Nhờ vâng nghe Lời Chúa, chúng ta mới xứng đáng là người môn đệ của Đức Giêsu. Cầu nguyện Đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trở nên sáng láng. Chúng ta cũng chỉ được biến đổi thân phận tội lỗi của mình bằng việc tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp và thứ tha. Đây là Mùa Chay, mùa biến đổi, chúng ta cần đến với Chúa để được biến đổi trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chẳng hạn như tham dự tĩnh tâm, giục lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm sửa đổi thói hư tật xấu bằng việc thực hành nhân đức mỗi ngày để đền tội. Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con. Xin biến đổi con mắt, môi miệng và lỗ tai con, để con biết thấy cái hay cái đẹp của tha nhân, biết nói lời hay lẽ phải, biết nghe Lời Chúa, và nhất là thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên ngọn núi Tabor. Đây là ba môn đệ thân tín của Chúa. Người yêu họ cách đặc biệt. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu khi xuống trần gian, Người cũng rất người. Người yêu mọi người nhưng vẫn có những tình cảm đặc biệt cho một số người. Người biến hình trước mặt ba môn đệ. Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không một thợ giặt trên trần gian nào có thể giặt trắng đến thế. Đó là một khoảnh khắc kỳ diệu trong đời. Ba môn đệ đã ngơ ngẩn, ngẩn ngơ khi chứng kiến khoảng khắc đó. Phêrô đã thốt lên “chúng con ở đây thật là hay”. Ông nói mà không biết mình nói gì vì tất cả các ông đều hoảng sợ. Quả thực, không hay sao được khi được ở bên Chúa, được xem thấy Chúa. Nếu có một điều để ước, tôi cũng ước được ở đó cùng với ba môn đệ để chứng kiến khoảnh khắc Chúa biến hình. Chỉ một lần và chỉ một lần thôi, được thấy Chúa là mãn nguyện lắm rồi.
Nếu như Chúa Nhật I, Chúa mời tôi vào sa mạc, thì Chúa Nhật II hôm nay, Chúa mời tôi lên núi với Người. Sa mạc và núi cao đều là những nơi Chúa hẹn gặp con người. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, Chúa ngỏ lời với con người. Để gặp được Chúa, tôi cũng phải ra khỏi bản thân để lên núi với Người.
Có một lần, tôi cùng với một nhóm Linh mục đi lên núi Yên Tử. Đây là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển, có ngôi Chùa Đồng nổi tiếng, nằm ở ranh giới của hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Dù đã có hệ thống cáp treo nhưng du khách vẫn phải tự leo lên một quãng đường khá dài. Trong nhóm của chúng tôi, một số cha lớn tuổi xin đầu hàng ngay từ đầu. Một số khác leo được giữa chừng thì bỏ cuộc vì bụng to quá. Chỉ có một nhóm nhỏ lên được tới đỉnh núi. Người lên đỉnh núi đầu tiên là một vị linh mục nhỏ nhất. Có lẽ ngài chỉ khoảng hơn 40 kg.
Quan sát vị linh mục chinh phục đỉnh núi đầu tiên, tôi rút ra được một bài học cho riêng mình. Để leo lên một ngọn núi cao, tôi cần phải có những hành trang cần thiết.
Thứ nhất đó là một niềm tin kiên vững không bỏ cuộc. Leo núi đòi tôi phải tốn nhiều sức lực. Có những đoạn đường nhiều chông gai không dễ đi. Tôi dễ dàng bỏ giữa chừng. Tôi cũng có thể thấy một cái gì đó trên đường lôi cuốn khiến tôi xao lãng. Tôi cần phải mạo hiểm, phải ra khỏi bản thân để có một cú nhảy của niềm tin, như niềm tin của cụ Abraham trong bài đọc 1 (St 22, 1-18 ). Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế chính con một yêu dấu của mình là Isaac cho Ngài. Đây là điều vượt quá luân thường đạo lý. Không có một nền luân lý nào cho phép cha giết con. Đó là một tội ác không thể dung thứ. Vì thế mà hành động của Abraham chỉ có thể hiểu được trong viễn cảnh ông tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa có thể trả lại sự sống cho Isaac và ông vẫn sẽ là tổ phụ của một dân đông đảo. Trong tác phẩm “Kinh hãi và run sợ” (Crainte et Tremblement), Soren Kierkegaard đã viết những dòng vô cùng tuyệt vời để diễn tả niềm tin của Abraham “Tôi nghiêng mình bảy lần trước quý danh Ngài và tôi nghiêng mình bảy mươi lần trước hành động đó của Ngài”. Abraham đã trở thành cha của những người có niềm tin là thế.
Thứ hai, để lên núi, tôi cần buông bỏ. Tôi cần bỏ lại những hành trang cồng kềnh khiến con người tôi ra nặng nề. Bụng càng to càng khó leo núi. Biết bao thứ trong cuộc đời bủa vây tôi. Tham luyến, sân hận, si mê đó là những thứ như muốn kéo ghì tôi xuống. Tôi cần can đảm chặt đứt những thứ đó để có thể nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng, tôi càng dễ dàng bay cao. Có những thói quen đã ăn sâu vào con người tôi. Muốn bỏ đi quả là điều không hề dễ dàng.
Lạy Chúa, xin biến đổi con mỗi ngày. Xin cho con một niềm tin kiên vững vào Chúa. Xin cho con biết thành tâm sám hối mỗi ngày để loại bỏ đi những Virus độc hại vẫn thường xâm chiếm linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa mỗi ngày bởi vì: “Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề. Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11).
Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa giáng xuống những con người tội lỗi. Nhưng nhìn về tình yêu bao la của Chúa, con người lại e dè, xấu hổ. Nó tự thấy mình bất xứng với tình yêu mà Chúa Cả Trời Đất dành tặng cho nó. Thiên Chúa thì mải mê tìm kiếm và tỏ tình với con người. Rồi cũng đến lúc con người ngã vào lòng Thiên Chúa. Lịch sử cuộc tình ấy tiếp tục được trình bày trong Chúa nhật thứ II này.
Người đầu tiên thuận lòng theo Chúa
Sau khi đơn phương ký kết với ông Noe, Thiên Chúa không ngừng bày tỏ tình thương của Ngài với con người. Nhưng sau biến cố Đại Hồng thủy bi thương, dường như con người chẳng sợ hãi Thiên Chúa; Con người tiếp tục làm ngơ trước tình thương của Ngài. Câu chuyện tháp Babel như lặp lại cái tội kiêu ngạo của con người, tội đòi được bằng Trời. Tuổi thọ của các tổ phụ được mô tả dần dần bị giảm xuống cho thấy hậu quả của tội lỗi con người tiếp tục đè nặng trên đôi vai của nó.
Abraham, một người cụ thể phải lòng Chúa đã đột ngột bước vào lịch sử cuộc tình giữa Trời và người. Một con người chính thức gục ngã trước tình thương của Chúa. Ông đã không thể cưỡng lại được tình cảm yêu mến và sự chăm lo của Chúa dành cho Ông. Abraham đã thất thần phải lòng Thiên Chúa. Ông bước đi theo Ngài bất chấp mọi sự. Ra đi nhưng Ông không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ đơn giản là Ông đi theo tiếng gọi của Ngài.
Bài đọc thứ nhất (St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18) trích lại phần cao trào thử thách mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Chấp nhận đi theo Chúa rồi, nhưng những gì trải ra trước mắt Ông chỉ toàn là những trái ngang và mù mịt. Lời Chúa hứa ban cho Ông Bà một dòng dõi đông đúc luôn được Chúa nhắc lại. Nhưng điều quan trọng là tuổi Ông Bà đã già mà vẫn chưa có con thì nói gì đến dòng dõi. Thế rồi niềm hy vọng được khơi lên mạnh mẽ khi đứa con trai duy nhất của Ông Bà đến tuổi khôn. Nhưng chính lúc ấy thì Thiên Chúa kêu Ông hãy hiến tế con mình. Trái ngang và mịt mù làm vậy, nhưng Abraham vẫn nhanh nhẹn bước đi và thi hành theo Lời Chúa. Ông đã phải lòng Chúa thật rồi.
Tại sao Chúa lại cứ thử thách con người như thế? Người ta có thể than trách về Ngài cứ như là Chúa chỉ nói lời chứ không thực hiện. Nhưng lịch sử cho thấy Thiên Chúa đã dần thực hiện lời hứa của Ngài với tổ phụ Abraham về một dòng dõi đông đúc, một miền đất phì nhiêu và một lời chúc phúc. Ngược lại, lịch sử của con người lại phơi bày những yếu đuối, đổ vỡ, phản bội và bất trung với Chúa. Những thử thách trong tình yêu nhằm thanh tẩy con người ấy càng làm cho câu chuyện tình của Chúa và con người ngày càng trở nên mãnh liệt và đầy thi vị.
Cảm nếm cảnh xum vầy chan hòa hạnh phúc
Trong bài đọc thứ hai (Rm 8, 31b-34) trích từ thư Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh nhân đã thốt lên: “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Tình yêu mà Chúa dành cho con người quả thực không có biên giới. Thiên Chúa đã không để cho Tổ phụ Abraham dâng hiến đứa con một của mình cho Ngài. Nhưng đến lượt Ngài, thì Ngài đã trao ban chính Con Một của mình cho con người. Thiên Chúa không bao giờ để cho con người bị tận diệt; và để cứu con người khỏi cảnh hư vong, Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người.
Nếu có giây phút nào đó khiến con người nghi ngờ tình yêu của Chúa, thì Ngài sẵn sàng cho con người hưởng kiến vinh quang ngày chiến thắng, ngày đoàn tụ trong hân hoan. Khung cảnh thần hiện của Chúa Giêsu trên núi Tabor được thuật lại trong bài Tin mừng Chúa nhật này (Mc 9, 1-9). Chúa Giêsu biến hình trở nên sáng láng cùng sự xuất hiện của Môsê và Êlia. Tất cả làm cho không gian trở nên lạ thường. Các môn đệ chứng kiến cảnh này đã bị choáng ngợp trước vẻ huy hoàng. Phêrô lên tiếng nhưng “Phêrô không rõ mình nói gì”. Các ông như không còn ý thức về thân phận mình nữa mà chỉ còn lại là sự thâm nhập của Chúa vào trong con người các ông.
Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”. Được cảm nếm giây phút rạng ngời trong Chúa, các ông chẳng còn thiết tha gì ở thế gian này. Ông đã thốt lên một lời trong tâm trạng hoảng sợ. Đứng trước cảnh tượng mà người ta chỉ còn có thể ngây người, há miệng, trố mắt nhìn thì làm sao mà còn nghĩ được gì. Phêrô nói mà còn chẳng biết mình nói gì. Nhưng nó lại cho ta thấy khát vọng sâu xa của con người là được ở lại trong Chúa. Lời thốt lên ấy của Phêrô là tiếng vọng từ tận sâu thẳm của tâm hồn con người. Chứng kiến một tình yêu cao cả đến thế nơi Chúa thì con người cũng dần phải lòng hết thôi.
Ngẫm
Phải lòng Thiên Chúa là hạnh phúc cho con người. Tình yêu Chúa có sức thanh tẩy con người tội lỗi, tái tạo và biến đổi con người đổ vỡ trở nên thánh thiện tinh tuyền. Chỉ một lần bạn được cảm nếm sự dịu ngọt của Chúa, bạn sẽ thấy tâm hồn trở nên tươi mới. Và cũng chỉ một lần bạn được ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa sẽ muôn đời bạn không thể quên Ngài. Những ngày tháng, hay chỉ là những phút giây bạn phải lòng Thiên Chúa, bạn bị Chúa chiếm hữu tâm hồn, thì bạn sẽ đủ nghị lực và niềm tin để vượt qua tất cả mọi chông gai thử thách trên đường đời.
Nếu không màng chi đến thời khắc lịch sử, thì Mùa Chay đến rồi lại đi. Chẳng còn gì đọng lại trong tôi, trong bạn. Mùa Chay là cơ hội, là dịp mà con người tự tạo ra cho nhau để mà cùng nhau cảm nếm Tình yêu Chúa. Trong tĩnh lặng hay trong hoảng loạn, trong không gian thiêng thánh hay giữa chốn phồn hoa, lời tỏ tình của Chúa vẫn không ngừng vang lên.
Hãy dừng lại một chút để cảm nếm bạn ạ. Hãy nuốt đi những miếng nhai nhồm nhoàm để hớp lấy giọt sương sa thanh khiết mát rượi; hãy bỏ xuống chiếc kính màu chắn nắng để diện kiến vinh quang rạng ngời của Tạo Hóa; hãy rút cái phone ra khỏi tai để bạn có thể nghe thấy âm thanh thực của cuộc sống, những âm thanh từ trời cao hay tiếng róc rách của con suối dưới chân đồi; hãy mở rộng tâm hồn để được cảm nhận tất cả những cung bậc của tình Trời và người đang rung lên từ những tế bào sống trong ta.
Sẽ không bất ngờ khi nói, Mùa Chay là mùa cầu nguyện; nhưng sẽ khá bất ngờ khi bảo, Mùa Chay là ‘mùa lên núi’ và bất ngờ hơn khi cho rằng, Mùa Chay còn là mùa biến đổi. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ‘lên núi lòng mình’ để cầu nguyện; ở đó, như các môn đệ, chúng ta sẽ được đổi thay. Và như thế, Mùa Chay là mùa ‘lên núi để được biến đổi’.
Bài đọc Sáng Thế tường thuật cuộc lên núi nghiệt ngã của Abraham; ở đó, vị tổ phụ vâng lời Thiên Chúa, đã chấp nhận hiến tế Isaac con mình. Thế nhưng, ngọn núi này còn có tên là núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’, vì Abraham còn nhận ra khuôn mặt của một Ngôi Vị thần linh có trái tim thương xót vô bờ; Người là Thiên Chúa nhân hậu, đã tha chết cho con ông, cũng là Đấng đã đưa ông ‘lên núi để được biến đổi’. Lòng tin của ông vào Người càng tuyệt đối hơn, ông sẽ là “Cha các kẻ tin”.
Ngôi Vị thần linh có trái tim xót thương vô bờ đó, ‘đã liệu’ cho con của Abraham thoát chết, lại ‘không liệu’ cho Con Một của mình khỏi chết. Thánh Phaolô hẳn đã nhớ lại ngọn núi ân phúc ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ cho Abraham ấy để nói đến cái chết cần thiết của Chúa Giêsu, một cái chết không thể thiếu cho ơn cứu độ nhân loại vốn cũng xảy ra trên một ngọn núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ khác; Phaolô viết, “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con, vì tất cả chúng ta”.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy sự cần thiết việc các môn đệ ‘lên núi để được biến đổi’. Chúa Giêsu biết rõ những ai theo Ngài, cụ thể là các môn đệ, sẽ khó chấp nhận Ngài. Bởi lẽ, yêu kẻ thù, vác thập giá, hy sinh mạng sống và lời kêu gọi nên hoàn thiện, với họ, thật là cay nghiệt; và nhất là, họ sẽ trải qua những gì Ngài đã báo trước về cuộc thương khó và tử nạn của Ngài; cùng lúc, họ sẽ chịu bắt bớ và tan tác như chiên mất chủ. Vì những lý do đó, Chúa Giêsu đã đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi; ở đó, Ngài biến hình trước mặt họ, tỏ cho họ thoáng thấy Ngôi Vị thần linh cao cả của Ngài; đó là một mặc khải về Ngôi Vị thật của Con Thiên Chúa, Ngôi Vị Thiên Chúa. Việc chứng kiến sự vĩ đại và vinh quang của một vị Thiên Chúa nơi Thầy mình hẳn sẽ đọng lại trong họ và giúp họ mỗi khi bị cám dỗ dẫn đến nản lòng hay tuyệt vọng trước những quẩn bách hay những đòi hỏi thánh thiện Ngài đặt ra. Tắt một lời, cuộc hiển dung của Chúa Giêsu là sự ‘chuẩn bị gần’ trước khi họ đi vào thương khó của Thầy và trò; ‘lên núi để được biến đổi’ là thế!
Sau năm 373, muốn biết Chúa nhiều hơn, Thánh Gioan Kim Khẩu đã lên núi, một vùng cao gần Antioch. Mặc dù vì bệnh tật, thời gian cô tịch này không được nhiều năm, nhưng thánh nhân đã học được rằng, có Chúa ở bên, ngài có thể một mình chống lại bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Sau đó, là giám mục Constantinople, ngài đã chống lại những sai lạc của hoàng đế Theodosius, người khiến ngài phải lưu đày. Gioan Kim Khẩu đã để lại những lời bất hủ, “Điều gì khiến tôi có thể sợ hãi? Cái chết ư? Các người biết rằng, Đức Kitô là sự sống của tôi, tôi sẽ có được nó nhờ cái chết! Hay là lưu đày? Trái đất và tất cả sự sung mãn của nó đều thuộc về Chúa! Nghèo khó ư? Tôi không sợ; vì tôi chẳng ước mơ giàu có! Và chết ư? Tôi chẳng chồn chân!”.
Anh Chị em,
Như Thánh Gioan Kim Khẩu, những ngày Mùa Chay, chúng ta được mời gọi ‘lên núi’ không ngừng để biết Chúa Giêsu, hiểu Ngài như các môn đệ hiểu. Một khi đã xác tín Đấng tôi đi theo là ai, chúng ta mới có thể dễ dàng noi gương Ngài, nghĩa là sẵn sàng hiến tế ‘Isaac đời mình’, hiến tế cái tôi của mình. Và đây đích thực là sự biến đổi tận căn mà Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người. Chúng ta ‘lên núi lòng mình’ bằng lời cầu nguyện thầm lặng của trái tim, ra sức tìm kiếm Thiên Chúa, hầu có thể nhìn vào nội tâm của mình, và nhất là để nhìn vào khuôn mặt của Chúa Giêsu và cho phép ánh sáng Ngài tràn ngập, chiếu sáng và biến đổi cuộc sống của chúng ta. Và như thế, thật ý nghĩa, Mùa Chay này, chúng ta đã ‘lên núi để được biến đổi’ vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã cho con thấu hiểu và cảm nghiệm, con đang bước theo một Giêsu nhân từ và giàu lòng xót thương. Cho con không ngừng hiến tế ‘Isaac đời con’, vươn ra khỏi cái tôi ích kỷ; cho con biết yêu mến việc ‘lên núi để được biến đổi’ hầu nên giống Ngài ngày một hơn”, Amen.
Đoạn 9,2-9 thuộc phần thứ hai của văn mạch 8,31-9,29. Trong phần thứ nhất (8,31-9,1), Chúa Giêsu loan báo công khai lần đầu tiên về cuộc thương khó, cái chết, và sự sống lại, và các môn đệ đã tỏ ra không hiểu (8,31-33). Người còn nói thêm những điều kiện xem ra khó thực hiện để làm môn đệ của Người và để cứu lấy mạng sống (8,34-9,1). Do đó, trong phần thứ hai, việc biến hình (9,2-9), đối thoại về Êlia (9,10-13) và biểu hiện quyền năng của Chúa Giêsu (9,14-29) là để mạc khải Chúa Giêsu cho các môn đệ và để kêu gọi các ông hãy tin và nghe lời Người.
Mọi chi tiết cuộc biến hình tập trung về Chúa Giêsu, mà cao điểm là tiếng nói từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (9,7). Chúa Cha thực hiện việc biến hình nầy. Cuộc biến hình diễn ra trong khung cảnh của thế giới Thiên Chúa. Phần chuẩn bị: chiếc áo rực rỡ và trắng tinh Chúa Giêsu đang mặc biểu thị tình trạng của Người sau khi sống lại (x.16,5), hai khuôn mặt lớn của Cựu Ước: Môsê đại diện cho Lề luật và giao ước (1,44; 7,10; 10,3; 12,26). Êlia tranh đấu để dân chúng trung thành với giao ước mà chuẩn bị cho Chúa đến (Mal 3,22.24; Dnl 18,15). Phần mạc khải: đám mây biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 19,9.16; 20,21; 24,15-18; 34,5). Tiếng nói từ đám mây ngỏ với ba môn đệ là tiếng của Thiên Chúa (Xh 24,16). Lời ấy xác quyết với họ Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa (1,11, nói trực tiếp với Chúa Giêsu; 14,61; 15,39), và ra một mệnh lệnh là phải nghe lời Người.
“Hãy nghe lời Người” được ban ra như một giới răn. Như xưa, trong khung cảnh núi Sinai, đám mây, Thiên Chúa đã tỏ mình ra (Xh 20,2-17; Đnl 5,6-21) và đã ban Mười Giới Răn trên bia đá cho Môsê (Xh 34,28; Đnl 4,13; 5,22; 10,4), bây giờ, cũng trên núi cao và có đám mây, Thiên Chúa tỏ mình ra trong Chúa Giêsu và giới răn của Người là hãy nghe lời Con Yêu Dấu của Người. Giới răn nầy được đặt trước cả giới răn thứ nhất: “Hãy nghe, hỡi Israel” (12,29). Như thế, những khó khăn của các môn đệ đã được soi sáng. Chúa Giêsu mà Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô (8,29), cũng chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Cuộc khổ nạn và sự chết của Người (8,31) sẽ được vượt qua bằng sự sống lại bởi quyền năng của Thiên Chúa. Những đòi hỏi của Người về việc vác thánh giá và từ bỏ chính mình (8,34-38) là có thể thực hiện, vì điều ấy được bảo đảm bởi lời của Con Thiên Chúa.
Lời của Chúa Giêsu bây giờ đáng nghe hơn cả lề luật của Môsê và lời của Êlia. Hãy nghe lời của Chúa Giêsu cách tuyệt đối để được chia sẻ vinh quang của Người (x. 8,38).
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đem 3 người Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao để tỏ mình ra cho các Ngài thấy. Trong cuộc tỏ mình này có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Có thể khẳng định đây là một sự kiện hùng vĩ và vượt xa sức tưởng tượng của con người.
Theo cách diễn tả của các Tin mừng Nhất lãm, sau khi loan báo cuộc Thương khó sắp đến, Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên núi và biến đổi hình dạng trước mắt các ông.
Biến cố này có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, niềm tin mà mới đây Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cung cấp trước cho các ông một điểm tựa để các ông khỏi chao đảo khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Người.
Chúng ta cũng có thể theo truyền thống Đông phương coi đây là một mạc khải về thần tính của Đức Giêsu, khi liên kết ba cuộc “tỏ mình ra” của Đức Kitô trong các biến cố hiển linh, phép Rửa tại sông Giođan và cuộc hiển dung này.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,2-10
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ chọn lọc đi (2a-b).
Cuộc hiển dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Giaia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa ; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8).
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quen thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người ; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu, cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về lãnh vực của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Ngài. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta có thể có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18 ; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc hiển dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Người ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ người ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này chúng ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu ; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa ; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc hiển dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10).
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự "đóng khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở các câu 2 và 8. Một đàng, Maccô viết rằng: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao". Đàng khác, ông nói rằng: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài các câu 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của Tin mừng Maccô, là bí mật Thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Maccô cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Messia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật hiển dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Messia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi ; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con ; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng hoàn tất chương trình của Thiên Chúa.
Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào mà thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Ngài. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai vị.
Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thời giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại "Đức Giêsu là Con Thiên Chúa" ; khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe lời" Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
2. Vâng theo giáo huấn của Đức Giêsu:
Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Đức Giêsu luôn nói lời Thiên Chúa và kêu mời môn đệ đón nhận để thuộc về gia đình thiêng liêng của Người: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em Tôi, là mẹ Tôi" (Mc 3,35). Hoặc: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14,23-24).
Đi vào đường lối của Đức Giêsu không chỉ có nghĩa là "làm ba lều" rồi ở lại đó với Người. Chúng ta có xử sự như thế khi đi vào các giờ cầu nguyện thờ phượng trong nguyện đường. Nhưng chúng ta còn được mời bước theo Đức Giêsu, có những tâm tình như Người: "Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người" (Pl 2,6-9).
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, hôm nay, do yêu thương các môn đệ, Đức Giêsu đưa ba đại diện môn đệ lên núi cao để chuẩn bị cho các ông đi vào cuộc thương khó với Người. Chính tại đây, Người đã được Chúa Cha giới thiẹu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Tin tưởng vào lòng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh biết trân trọng lời Chúa Cha giới thiẹu Đức Giêsu hôm nay, mà luôn chăm chú lắng nghe giáo huấn của Người, tha thiết nghiền ngẫm để hiểu đúng đắn và trung thành thực hiện trong đời sống hằng ngày.
2. Ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, cho thấy Người chính là Đấng nối tiếp và làm trọn Cựu ước. Chúng ta cùng cầu nguyện để cho mọi dân tộc đang đi tìm Thiên Chúa, có thể tìm ra Đấng chân thật duy nhất, để tôn thờ cho phải đạo, và có thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Đức Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại. Người đã chết trên cây thập giá trên đồi Sọ xưa kia, nhưng cũng đã sống lại. Người tái diễn cuộc Tử nạn, Phục sinh hôm nay trên bàn thờ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các tín hữu đang gặp thử thách biết tin tưởng để cho Đức Giêsu dẫn dắt, hầu có thể làm chứng về quyền năng Phục sinh trong cuộc sống hằng ngày.
Lời kết: Lạy Chúa Cha cực thánh, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời Con Cha dạy trong Kinh thánh và qua các giáo huấn của các mục tử, để chúng con bước đi vững vàng trên đường lối của Cha, làm chứng được trước mặt thế giới về nẻo đường cứu độ duy nhất và giúp nhau đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Tin mừng Mc 9: 2-10: Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Chúng ta vừa nghe thánh Marcô thuật lại quang cảnh hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Sự Biến Hình của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa:
1. Đây là một điều thật quí báu cho Chúa Giêsu
- Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là phải đối diện và chấp nhận thập giá. Người cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước trên con đường khổ giá. Trên đỉnh núi, Người đã nhận ra quyết định của Người.
- Êlia và Môsê đã đến gặp Chúa Giêsu: Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố Lề Luật cho dân Israel. Êlia là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố lề luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “xin cứ tiến lên!” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ đã từng mong đợi. Nó cũng có nghĩa là họ thấy nơi Chúa Giêsu tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tròn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Người đang đi đúng đường, vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
2. Đây là một điều quí báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa Giêsu
Các môn đệ đang bị tan nát cõi lòng khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Người sắp phải lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như đã thiêu hủy tất cả những gì họ được biết về Đấng Mêsia. Các môn đệ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng.
Những gì đã thấy trên núi cao cho họ một cơ hội để bám lấy Chúa Giêsu ngay cả khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là "Người Con Yêu Dấu". Nó khiến các môn đệ trở thành các chứng nhân cho vinh quang của Chúa Giêsu vì chính họ đã được thấy vinh hiển của Người.
3. Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi...
- Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi, vì trên núi hạnh phúc hơn cuộc sống đời thường... nhưng phải xuống núi. Hiểu được điều đó nên Susanna Wesley đã có lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng đạo không chỉ hạn hẹp trong nhà thờ hay trong cầu nguyện, suy ngẫm, mà là ở khắp mọi nơi trước nhan Chúa”.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: "vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời." Maslow gọi lúc đó là "giây phút tột đỉnh".
"Giây phút tột đỉnh" là thời khắc ngắn ngủi quí báu làm chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác. Ý tưởng về "giây phút tột đỉnh" giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Phúc Âm hôm nay.
Các ngài đã cảm nghiệm được những "giây phút tột đỉnh"
Chỉ trong một mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa sáng láng và vinh hiển. Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi cao. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối.
- Mặt tối là đêm Vườn Cây Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt mặt u ám của đêm Vườn Cây Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng láng của Người trên núi cao, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ông đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng Cứu Độ? Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Cây Dầu sắp đến. Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi cao để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho họ cảm nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng.
[Một thoáng Thiên Đàng đã làm cho ông Phêrô ngây ngất và muốn ở lại đó luôn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”. Ông Môsê đại diện cho luật, ông Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông đến chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đấng mà hai ông đã loan báo và chờ đợi. Ông Môsê đã xin cho được thấy dung nhan Thiên Chúa mà không được (x.Xh 33,19-22). Ông Êlia là “ông Ba Lửa”, ba lần khiến lửa từ trời xuống, một lần để đốt của lễ trên núi Cat Minh (1V 18, 36-38), hai lần để đốt lính của vua (2V 1,9-12); ông không xin được thấy dung nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa tỏ cho ông thấy Người không ở trong gió bão, không ở trong cơn động đất, không ở trong lửa. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông” (1V 19,11-13). Hôm nay cả hai ông được chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đức Kitô.
Ông Phêrô ngây ngất không biết phải nói gì, “vì các ông kinh hoàng”. Đây không phải lần đầu các ông kinh hoàng. Nhưng hôm nay nỗi kinh hoàng lên tới cực độ khi đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Đó là câu trả lời cho sự phản kháng của ông Phêrô. Hãy vâng nghe lời Người, kể cả lời về thập giá mà loài người không thể chấp nhận. Chỉ có Con Yêu Dấu của Thiên Chúa mới chấp nhận và cho ta sức mạnh để vác mà đi đàng sau Người, để có thể vào trong vinh quang với Người. Tại sao Thiên Đàng lại ở cuối con đường thập giá? Tại sao lại cần đến Con Yêu Dấu của Thiên Chúa để dẫn ta đi trên con đường ấy mà vào trong vinh quang?
Một thoáng Thiên Đàng trôi qua như gió thoảng, như mây bay: “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”. Trên đường xuống núi, Đức Giêsu lại truyền cho các ông giữ bí mật: “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”]. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô; Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 269).
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(x.sđd, trang 273).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một”.
St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18
Bài Đọc I kể cho chúng ta tổ phụ Áp-ra-ham đã sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa, I-xa-ác, “đứa con một” mà ông hết lòng yêu mến.
Rm 8: 31b-34
Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Mc 9: 2-10
Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta.
BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)
Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương, lại có thể thử thách một người công chính đến tận mức như vậy. Cho dù ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là sự việc không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang. 1. Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay:
Tuy nhiên, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau trong việc hình thành chuyện tích nầy:
-Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của dân Do thái và tôn giáo của dân Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.
-Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong tập truyện của vị tổ phụ Áp-ra-ham để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-xa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Ít-ra-en miền Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó, sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” (Xh 4: 22-23) phải bị họa diệt vong.
2. Tôn giáo của dân Ca-na-an:
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me, nhưng là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.
Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, hay vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).
Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?
3. Tôn giáo của dân Ít-ra-en:
Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi man rợ như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).
Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-xa-ác minh chứng quyết định của luật Mô-sê: I-xa-ác được chuộc lại bởi hy tế của “con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây” (St 22: 13). Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.
A. Một con người có tấm lòng quảng đại:
Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom, nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.
B. Một con người có niềm tin kiên vững:
Việc hiến tế I-xa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt nay đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.
Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trái lại, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn thế hệ.
Đáp lại niềm tin và sự vâng phục đến mức anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.
4. Thần học về sự thử thách:
Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).
Để soi sáng cho những biến cố mà tác giả đã trải qua, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-xa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-xa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.
Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-xa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.
5. Khía cạnh ngôn sứ:
Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để cứu độ nhân loại.
Khi ám chỉ đến hy tế của I-xa-ác, thánh Gioan áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16), và thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người được bày tỏ cách rực rỡ ở nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, Con Một của Ngài.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)
Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi các Ki-tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.
1. Bối cảnh:
Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.
2. Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả:
Chương 8 nầy kết thúc với một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (8: 32). Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!
Thánh Phao-lô hình dung một phiên tòa ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.
TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)
Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.
Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.
Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su đang hướng đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.
“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, Chúa Cha đã công bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Nay vào lúc Đức Giê-su biến hình, Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”, lời tuyên bố nầy một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Ngài, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Đức Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài (Mc 14: 33). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Đức Giê-su an ủi họ trước.
Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.
Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sựu thật” (Ga 1: 14). Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.
Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin tưởng vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.
“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.
“Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.
Vào lúc nầy, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.
Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, diễn tả rõ ràng điều nầy: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).
Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.
Trước hết, Thiên Chúa - Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.
Thứ đến, Thiên Chúa - Đấng hằng bên đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời.
Sau cùng, Thiên Chúa - Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-rê-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ cho ít nhất ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô - Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn nó, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (x. Mc 9, 7). Chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa - Đấng trung tín Xin cho con luôn nhủ mình tín trung Giữ trọn lời Chúa đến cùng Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền. Lạy Thiên Chúa - Đấng mãi liên Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng Che chở con, tình chứa chan Luôn chính trực, đời bình an thiết tha. Lạy Thiên Chúa - Đấng ngợi ca Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu Chịu khổ hình Thập tự treo Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền. “Đây là Con Ta tinh tuyền, Vâng nghe Người dạy, hằng luôn thi hành”. Amen!
Trong hành trình Mùa Chay năm nay, không biết chúng ta đã có những quyết tâm và đã lựa chọn ra được những hướng đi, hành động như thế nào cho riêng mình? Liệu rằng những quyết tâm và hành động đó có làm cho Chúa yêu thích? Hay nói khác hơn, thái độ và cách sống của chúng ta trong Mùa Chay này có thực sự làm cho Chúa hài lòng, để rồi chính Chúa Cha Ngài sẽ vinh danh chúng ta là những người con mà Ngài yêu quý? Các bài đọc Lời Chúa hướng dẫn, đồng hành và soi sáng cho chúng ta, hầu giúp chúng ta đi đúng hướng để đạt đến mục đích tối hậu là được trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa.
Chúa muốn chúng ta phải làm gì? Không biết đây có phải là mối quan tâm chính của chúng ta trong thời gian Mùa Chay này? Đối với Apraham, trên mỗi chặng đường của hành trình theo Chúa, ông luôn cố gắng để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để sống đẹp lòng Chúa, ông đã từ bỏ quê hương để đến nơi mà Chúa hứa. Sau không biết bao nhiêu gian nan thử thách trên hành trình theo Chúa, cho đến khi về già thì Chúa mới cho ông sinh hạ được một “người con thừa tự Isaac”. Thế nhưng, để sống đẹp lòng Chúa, ông phải làm gì với “của lễ đầu lòng Isaac” mà Chúa ban tặng đây? Đứng trước những suy tính phải hành động thế nào, ông đã nghe được tiếng Chúa phán: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Nếu là chúng ta, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại dám mạo hiểm để làm theo tiếng Chúa dạy. Nhưng với Apraham, trong mọi hoàn cảnh ông đều thưa với Chúa: “Dạ, con đây”. Đó chính là thái độ, cách sống hoàn toàn tín thác trong khiêm tốn. “Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình”. Một hành động mà không một người Cha nào lại nỡ lòng để làm cho một người con mà mình yêu quý. Thật vậy, Thiên Chúa đã thấy hành động của Apraham, hành động của một con người luôn kính sợ Thiên Chúa, hành động của một người con luôn hiếu thảo với Thiên Chúa đến nỗi không ngại để hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả chính người con duy nhất là Isaac cho Chúa. Chúa đã hài lòng, Chúa đã chúc phúc cho Apraham và cho dòng dõi của Isaac. Thưa ACE, với mẫu gương tuyệt vời của Apraham, mỗi người chúng ta phải nên làm gì?
Chúa biết rõ những giới hạn và sức của chúng ta, Chúa biết chúng ta còn chần chừ, còn tính toán hơn thiệt, nên Chúa đã ban cho chúng ta một quà tặng cao quý gấp bội còn hơn “của lễ Isaac” mà Apraham đã dâng cho Chúa. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về ơn thánh Chúa. Vì yêu thương chúng ta, vì muốn ban ơn cho chúng ta, vì muốn nên mẫu gương cho chúng ta noi theo, Thiên Chúa “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Người Con Chí Ái duy nhất là Chúa Giêsu, Thiên Chúa cũng không nỡ, nhưng đã hiến ban cho chúng ta, để qua đó, thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào.
Thật vậy, Tin mừng hôm nay minh chứng cho chúng ta thấy thái độ và cách sống tuyệt hảo của Chúa Giêsu, đó chính là vâng theo, thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha. Thánh ý của Thiên Chúa chính là để tỏ cho con người thấy chúng ta rất đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, vì thế, Ngài muốn trao ban những ơn phúc tốt lành nhất cho chúng ta. Thật vậy, khi bước vào con đường khổ nạn thập giá, chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu vừa làm đẹp lòng Chúa Cha, vừa trở nên mẫu gương tuyệt hảo mà Ngài muốn dành tặng riêng cho chúng ta noi theo: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thái độ, hành động và cách sống của mỗi người chúng ta có đẹp lòng Thiên Chúa Cha hay không tùy thuộc vào việc chúng ta có nghe theo lời và làm theo mẫu gương mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Trong cuộc biến hình trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu biết được những giới hạn, yếu đuối của các môn đệ nên Ngài đã nâng đỡ, củng cố và đã tỏ vinh quang cùng ơn thánh, sức mạnh của Chúa cho các ông. Chính qua ơn thánh này, ai chấp nhận, tin và sống thì sẽ được ơn cứu rỗi và thánh hóa.
Ước mong rằng, trên hành trình Mùa Chay, dẫu có gặp phải những khó khăn, thử thách, nhưng đời sống đức tin của chúng ta luôn được Chúa củng cố, gia tăng và trao ban những ơn thánh qua Giáo hội, qua các bí tích ban ơn sủng. Lạy Chúa, được đồng hành với Chúa trên hành trình tử nạn là ơn phúc cho chúng con, xin cho chúng con được ở mãi và sống kết hiệp mật thiết với Ngài. Amen.
Tin mừng Mc 9: 2-10: Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy.
Khi xem các kênh truyền hình, có lúc chúng ta bắt gặp mục quảng cáo về một loại xà bông, một chất tẩy rửa, đánh bay mọi vết bẩn tới 99,9%, đem lại sự sáng bóng như mới v.v.. Thế nhưng để làm sáng tâm hồn một con người thì chất tẩy nào đây?
Bài đọc thứ I trích sách Sáng Thế kể cho chúng ta một thử thách mà Thiên Chúa đem đến cho Apraham thật chằng dễ chịu chút nào, và độc giả thính giả khó mà chấp nhận được lòng tin của vị tổ phụ như thế. Thiên Chúa hứa ban cho ông Apraham một dòng dõi đông đúc, trong khi thực tế, vợ chồng ông già yếu mà không có con cái nối dòng. Đã vậy, khi có được mụn con trai duy nhất, đứa con cầu con khẩn là Isaác mà ông hết lòng yêu mến, thì Ngài lại biểu đem lên núi để hiến tế. Apraham buồn lắm nhưng ông vẫn tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa sẽ có cách của Ngài, nên đã làm theo mà không do dự. Tâm hồn được khai sáng nhờ lòng tin không do dự của Ápraham vào Thiên Chúa giúp ông trở nên tổ phụ của mọi dân tộc, là Cha của những kẻ tin.
Đó cũng chính là hình ảnh tiên trưng cho Người Con Một mà Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng Ngài đã trao ban để làm của lễ đền tội cho hết thảy mọi người. Người Con yêu dấu của Thiên Chúa đã tin tưởng hoàn toàn vào chương trình cứu chuộc của Cha mình. Chương trình ấy được chứng thực bởi hai nhân vật vĩ đại trong Cựu ước là Môisen tượng trưng cho “Lề luật”, vàÊlia tượng trưng cho “các tiên tri” loan báo Lời Chúa mà dân Israel coi là hai cột trụ vững chắc, qua đó Thiên Chúa không thất tín bao giờ. Trên núi Tabor này, những môn đệ thân tín được chứng kiến cảnh tượng hai vị hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, để minh chứng Người là Đấng phải đến.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy, có bước vào khổ nạn mới có thể tiến tới phục sinh. Có thể nói, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu được coi là những người vào sanh ra tử với Người, là những người được khai sáng tâm hồn trước tiên để trong những giây phút quan trọng và quyết định, các ông vững tin và giúp cho các anh em khác cũng tin.
Câu chuyện về một vị vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu? – Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở. – Ông hãy đẫp vỡ nó ra ! – Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu? – Bằng nửa vương quốc. – Hãy đập vỡ nó ra ! – Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho một chàng lính:
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không? – Muôn tâu, đẹp không thể nói được. – Hãy đập nát nó đi.
Lập tức chàng lính ấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của chàng lính. Họ hỏi:
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Chàng lính bình tỉnh đáp: – Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính
Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của chàng lính và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.
Lạy Chúa, trên đỉnh Tabor, các môn đệ được chứng kiến Thầy mình biến hình, để các ông vững tin mà vác thập giá theo Con Chúa lên đồi Golgotha. Xin cho mỗi người chúng con cũng được khai sáng tâm hồn, biết vâng nghe Lời Con của Chúa để trong mọi phút giây của cuộc đời, chúng con luôn vững tin đón nhận thập giá Chúa trao, nhờ đó Chúa biến thập giá ấy thành thánh giá cứu độ cho đời chúng con. Amen.
Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gây tác động mạnh mẽ và khó hiểu. Cả hai bài đọc đều là những trình thuật quan trọng nhưng chúng thường đưa đến nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Các bài đọc này nhắc nhở chúng ta phải đọc và suy niệm dựa trên Kinh Thánh, cầu xin sự sáng tỏ và bằng lòng với sự vô tri về một số vấn đề.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe câu chuyện ông Abraham sẵn sàng hiến tế người con trai của mình là Isaac, một hành động thường được hiểu là dấu chỉ của đức tin. Sau khi ban cho Abraham và Sara một người con trai là Isaac khi ông bà đã già, Thiên Chúa lại ra lệnh cho ông hiến tế người con của mình. Yêu cầu này có vẻ đi ngược lại với trình thuật Kinh Thánh vì Isaac là người con của giao ước.
Hơn nữa và thậm chí đáng báo động hơn, điều này ngược lại với trách nhiệm bảo vệ con cái của cha mẹ và cho thấy Thiên Chúa mong muốn sự hy sinh của con người. Thế nhưng, Abraham lại ưng thuận mà không hề chất vấn chương trình của Thiên Chúa. Điều này cho thấy sự cam kết của Abraham với Thiên Chúa và sự hiểu biết của ông rằng Isaac là ân huệ của Thiên Chúa, hoặc nó cũng có thể cho thấy sự thiếu quan tâm của ông về mạng sống của Isaac. Tương tự như vậy, điều này có vẻ giống như một thử thách đức tin vô lý mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Khi Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, Thiên Chúa liền can thiệp và thay thế bằng một con cừu đực, một hành động thường được hiểu như là dấu chỉ của việc Thiên Chúa không chấp nhận hy lễ của con người. Nhiều cuộc tranh luận về tính chất phức tạp về mặt thần học và triết học đã kéo dài qua hàng thế kỷ và tiếp tục đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù Abraham thể hiện một đức tin mạnh mẽ và sự tin cậy vững vàng nơi Thiên Chúa thế nhưng những hành động của ông chắc chắn không nên bắt chước. Trình thuật có thể cho thấy một yêu cầu đầy thử thách như thế để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dâng hiến và vâng phục. Thiên sứ khẳng định điều này khi tuyên bố: “Giờ đây ta biết ngươi hết lòng với Thiên Chúa vì ngươi đã không tiếc dâng hiến đứa con yêu dấu của ngươi cho Ta.”
Trình thuật cũng là một lời nhắc nhở hãy luôn rộng mở và chú ý đến Thiên Chúa. Trong ba lần, Abraham đều thưa “Hineni” (này con đây) khi trả lời Thiên Chúa, Isaac và thiên sứ. Điều này gợi nhớ lại câu chuyện về lời kêu gọi tiên tri với Samuel (được đọc vào Chúa nhật thứ hai Thường niên năm nay) và những lần cậu đáp trả “này con đây”. Có thể Abraham không phải là một hình mẫu về trách nhiệm làm cha mẹ nhưng ông là hình mẫu cho sự sẵn sàng và chấp nhận quyền năng Thiên Chúa. Câu chuyện đồng thời đưa ra những song đối đáng chú ý về việc Thiên Chúa hiến tế Chúa Giêsu, Người Con duy nhất của Ngài, hai biến cố đặt liền nhau đáng để cầu nguyện và suy niệm nhất là trong mùa Chay thánh.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lắng nghe câu chuyện về cuộc biến hình, trong đó thân hình Chúa Giêsu được biến đổi cũng như mối liên hệ của Ngài với tiên tri Môsê và Êlia được xác nhận qua một thị kiến. Sự hiện ra của Êlia là đặt biệt quan trọng vì sự trở lại của ông được mong đợi để báo trước về Đấng Messia. Cũng vậy, theo truyền thống, Êlia đã không chết nhưng được đưa lên trời bằng một cơn lốc lửa (2V 2,1-12), một tham chiếu để giúp các môn đệ của Chúa Giêsu hiểu về sự phục sinh.
Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến cuộc hiển dung và đã sửng sốt, kinh hãi. Phêrô đề nghị xây ba cái lều, điều này cho thấy ông muốn ghi nhớ vị trí này với những đền thờ di chuyển được. Các môn đệ cũng nghe thấy lời tuyên bố từ trời rằng Chúa Giêsu chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà họ phải lắng nghe, một lời vang vọng từ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. Cuối cuộc hiển dung, Chúa Giêsu yêu cầu các ông không được tiết lộ sự kiện này cho đến sau cuộc phục sinh nhưng các môn đệ bối rối “tự hỏi việc sống lại từ cõi chết có nghĩa là gì.” Việc các môn đệ không biết chắc là điều thú vị vì những sự kiện mà các ông chứng kiến thì rất khó nà hiểu trọn vẹn được. Khi tiếp tục hành trình mùa Chay, các bài đọc có thể gợi hứng cho chúng ta, nhắc nhớ rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình tìm kiếm hiểu biết và làm sáng tỏ, cũng như chúng ta nên dành thời gian nghiêm túc học hỏi và cầu nguyện.
Với đôi mắt tinh tường, người ta biết nhìn nhận sự việc, phân tích được vấn đề đẹp và đúng. Khuynh MC 2-ABC488
Với đôi mắt tinh tường, người ta biết nhìn nhận sự việc, phân tích được vấn đề đẹp và đúng. Khuynh hướng tự nhiên nơi mỗi người, ai ai cũng hướng về cái đẹp, cái tốt, và ước muốn gia đình, người thân, được bình an hạnh phúc. Sống trong thời đại công nghệ hôm nay, người ta chỉ cần bỏ ra một chút tiền, có thể làm mới, làm đẹp diện mạo, rất đơn giản. Nhờ sự thông thái, người ta có thể quan sát, điều khiển công việc từ xa, có thể tư vấn, chọn lựa, vì thế mà thành quả lao động của họ có thể đạt tới tầm mức cao nhất. Sau một thời gian theo Thầy thọ giáo, những ngư phủ ấy được nghe, được nhìn, được chứng kiến điều hay lẽ phải. Rồi hôm nay, đại diện cho số các học trò, các ông theo Thầy Giêsu lên núi cao, một vinh dự như ở đời vẫn nói vui vui mang nhiều ý nghĩa: đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Bằng cả khối óc và con tim, mắt thể xác và tâm hồn, ba người học trò thỏa thích trước vẻ đẹp trên núi cao, các ông còn được thôi thúc bởi thứ ánh sáng của niềm tin: “áo Thầy Giêsu chói lọi, trắng như tuyết, cùng với sự đàm đạo giữa Thầy và hai chứng nhân cựu ước”. Niềm tin sẽ sáng mãi nơi tình Thầy Giêsu, là tình thông hiệp cầu nguyện, niềm tin sẽ trở nên vĩ đại và kỳ diệu, khi ta nghe, hiểu, rồi một ngày nào sẽ được biến đổi nên trong sáng như Thầy. Kitô giáo không chủ trương theo Chúa Giêsu để hưởng vinh quang phú quý ở đời này. Người môn đệ được diễm phúc theo Thầy lên núi cao, cũng không phải để nhìn để xem Thầy trở nên sáng chói, xinh đẹp cho vui mắt. Theo Thầy lên núi cao cầu nguyện, xác tín hơn vào tình yêu của Chúa Cha, biết nghe và hiểu giáo huấn của “Con Chí Ái”, hầu khao khát được biến hình đổi dạng, trở nên môn đệ thật của Đức Kitô.
Người xưa có câu: cơm cha áo mẹ chữ thầy, gắng công mà học có ngày thành danh. Đúng, tình yêu thương nơi cha mẹ, nơi giáo hội, lúc nào cũng mở ra cho ta một cơ hội, một dịp thuận tiện, nhằm giúp ta gặp Chúa, hiểu và sống thánh ý Chúa cách tốt nhất. Được biết Thầy Giêsu là một ân huệ nhưng không, được mời gọi trở nên môn đệ Đức Kitô chính là một sứ mạng đặc biệt cao cả. Ơn ban tự nhiên nơi mỗi tâm hồn là nhận biết: phẩm giá con người là những viên ngọc quý, viên đá sẽ còn lấp lánh đẹp đẽ hơn, nếu được lồng vào bài học khiêm tốn. Người kitô hữu được mời gọi tin theo Đức Giêsu, đâu phải để nhận ơn ban làm môn đệ Chúa ở đời này, hạnh phúc hơn, là mỗi người được cùng Thầy Giêsu đi trọn vẹn đường thập giá đời mình.
Ngày hôm nay, người tín hữu vẫn cho rằng, được sống ơn gọi làm linh mục tu sĩ là vinh dự nhất, thực ra thì ơn gọi nên thánh, nên giống Đức Kitô, mới là trọng tâm của đời người theo Chúa làm môn đệ. Nếu hiểu cùng Thầy lên núi cao để tận hưởng vinh quang trần thế, theo Thầy Giêsu làm linh mục tu sĩ để được vinh quang ở đời này, hẳn Thầy Giêsu sẽ thất vọng lắm ! Ba môn đệ đại diện cùng Thầy lên núi cao, chắc không phải các ông đi theo Thầy cho vui, nhưng đó là sứ mạng riêng, khi mà các ông đã cùng Thầy hiệp thông cầu nguyện, các ông được nhìn được xem thấy, và nghe rõ ràng lời nhắc nhớ: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Cùng Thầy lên núi cao, cùng Thầy đi sâu vào đời sống cầu nguyện, cùng Thầy sống thánh ý Chúa Cha, uống cạn chén đắng cuộc đời, có ai cho là dễ không, nếu thiếu sức mạnh của tình yêu và tác động của ơn Thánh Thần. Cùng Thầy Giêsu đi khắp đó đây để được tung hô, được ghi dấu là con Chúa, là con Hội thánh, đó mới là khởi đầu của việc nhận biết Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống. Hãy vâng nghe lời Người, hãy tin và bày tỏ niềm tin bằng việc làm của tình yêu, hẳn ta sẽ thấy sự biến hình đổi dạng để được nên giống Thầy, là hạnh phúc hơn cả. Cùng Thầy lên núi cao hay cùng Thầy đi suốt cuộc đời, đều là diễm phúc. Có cùng Thầy cầu nguyện, cùng Thầy sống thánh ý Chúa mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, còn gì hạnh phúc hơn ?
Được sức mạnh và tình yêu của Chúa trong các tương quan gia đình, xã hội, hay được Chúa Giêsu trợ giúp, để biết bỏ mình vác thập giá theo Chúa cách trọn vẹn, tự do và cơ hội này người tín hữu nào cũng có. Ở đời có vui có buồn, có đau khổ nước mắt, cũng có hy vọng và bình an niềm vui ở phía trước. Được lên núi cao như ba môn đệ, được mời gọi sống ơn gọi linh mục tu sĩ, hay chỉ là một tín hữu giới hạn về năng lực hiểu biết, tất cả đều là đối tượng lòng Chúa thương xót, mọi người đều được nhắc nhớ để ý thức sống thập giá đời mình. Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, là Thầy, là bạn đồng hành, mỗi người đều có cơ hội để sống niềm tin và thao thức có Ngài trong suốt cuộc đời mình. Xin đừng ai vô ơn với bậc làm cha mẹ, đừng ai chỉ sống hình thức với chức danh là môn đệ Đức Kitô, bởi vì chính tình yêu của các Đấng bậc mà ta hiện hữu trên đời, và ta đang là ai trong xã hội này. Amen.
Đại dịch đã nhắc nhở con người phải sống chậm lại vì sức khỏe và an toàn không chỉ mỗi cho MC 2-ABC489
Đại dịch đã nhắc nhở con người phải sống chậm lại vì sức khỏe và an toàn không chỉ mỗi cho bản thân, gia đình mà còn cho cả cộng đồng. Sống chậm lại là dịp để con người ngừng tham vọng và tranh giành lẫn nhau. Sống chậm lại sẽ mang lại cho con người cuộc sống thanh thản bình yên vì bớt bon chen và đấu đá lẫn nhau. Sống chậm lại sẽ giúp con người trở về với bản tính lương thiện và biết sống đùm bọc nâng đỡ lẫn nhau.
Sống chậm lại để con người ngừng khai thác tài nguyên thiên nhiên nhờ vậy mà thiên nhiên sẽhồi phục, và làm cho bầu khí quyển tốt hơn cho con người. Hướng đến xa hơn là khi thiên nhiên đã tái tạo lại môi trường tốt, tự nó sẽ chữa lành bệnh tật cho con người. Dịch bệnh và thiên tai đến với nhân loại phần lớn là do môi trường bị hủy diệt hoặc đã trở nên quá ô uế, dơ bẩn . . .
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự ban đầu đều tốt đẹp, nhưng vì lòng tham của con người qua mọi thời đại đã phá hủy thiên nhiên dẫn đến môi trường không còn đáng sống. Nơi thì bị tàn phá nên dẫn đến thiên tai lũ lụt. Nơi thì ô uế nên dẫn đến dịch bệnh tràn lan.
Ngày nay người ta đang cố gắng tái tạo lại những dòng sông, dòng suối đang bị ô uế bởi nước thải và rác bẩn để mang lại dòng sông xanh và sạch cho sự sống hồi sinh.
Ngày nay người ta cũng đang cố gắng trồng rừng, giữ rừng để lá phổi của trái đất mang lại không khí mát mẻ trong lành cho người.
Và dường sau bao nhiêu năm thay nhau phá hủy môi trường thiên nhiên của buổi đầu tạo dựng, ngày nay con người mới thấy cần phải kiến tạo thiên nhiên trở về với tình trạng ban đầu thì môi trường thiên nhiên mới bảo vệ và nuôi dưỡng con người.
Điều quan trọng hơn mà Mùa chay mời gọi con người là hãy trở về với hình ảnh ban đầu của tạo dựng là giống hình ảnh Thiên Chúa. Con người là họa ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thánh, ngàn lần chí thánh thì con người cũng được tạo dựng với trái tim biết yêu thương, biết sống có ích cho đời, và biết xây dựng cuộc sống cho nhau bình an hạnh phúc.
Chúa Giê-su hôm nay khi hiển thị dung nhan thật của Ngài là Thiên Chúa như muốn nhắc nhở con người cũng hãy gìn giữ vẻ đẹp thần linh thánh thiện trong con người chúng ta. Khi được chiêm ngắm dung nhan của một vì Thiên Chúa ngàn lần chí thánh, Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết mình nói gì, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan thánh thiện của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen
Phụng vụ Lời Chúa tuần thứ nhất Mùa Chay dẫn chúng ta vào sa mạc, để chứng kiến Đức Giêsu MC 2-ABC490
Phụng vụ Lời Chúa tuần thứ nhất Mùa Chay dẫn chúng ta vào sa mạc, để chứng kiến Đức Giêsu chịu cám dỗ. Ở đó, ta thấy Chúa thể hiện nhân tính của Ngài: một con người yếu đuối, mỏng giòn, đói khát, chịu cám dỗ. Chúa Nhật tuần hai này, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng Đức Giêsu hiển dung trên núi cao. Ở đó, ta thấy Chúa thể hiện thiên tính của Ngài: sáng láng, rực rỡ, vinh hiển, thánh thiện. Đức Giêsu vẫn là một, không hề phân chia trong bản tính, và luôn hiệp nhất trong Ngôi vị, Ngài thật sự là Thiên Chúa và cũng thật sự là con người, nên sự hiện diện của Ngài vô cùng sinh động và phong phú cho nhân loại.
Trong cuộc hiển dung này, có ba môn đệ thân tín được Chúa Giêsu đưa lên núi Tabo. Ngài muốn củng cố niềm tin cho họ, trước khi họ chứng kiến Ngài bị giới lãnh đạo tôn giáo khai trừ, bị mọi người ruồng rẫy, và bị Chúa Cha như bỏ rơi trong cuộc khổ hình trên núi Sọ.
Trong khi Chúa Giêsu hiển dung còn có sự xuất hiện của Môsê: người đón nhận lề luật từ Thiên Chúa; và Elia: người đứng hàng đầu trong số các ngôn sứ của Thiên Chúa. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn cho thấy nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Với ý nghĩa đó, Ngài là Môsê mới vừa là Elia mới, mở ra một trang sử mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Trước thị kiến đầy kinh ngạc này, Phêrô nói lên cảm xúc đầy hạnh phúc mà ông và các bạn đang tận hưởng, bằng cách xin Thầy cho dựng ba lều để ở lại luôn trên núi. Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông kinh hoàng. Tiếp theo là một đám mây bao phủ, nói lên sự xuất hiện của Thiên Chúa với việc trao ban một sứ điệp quan trọng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Lời này lặp lại lời của biến cố phép rửa của Chúa Giêsu, với một chút thay đổi, nhằm khích lệ các môn đệ hãy đặt trọn vẹn niềm tin vào Thầy mình. Tuy nhiên trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy vâng nghe Lời Người”. Chắc chắn lời này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với họ trước đó về sự thương khó và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu nhận lãnh vinh quang bên kia cái chết, thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo thầy mình trên con đường thập giá không?
Cũng như Phêrô, Giacôbê và Gioan, mỗi người chúng ta được Chúa dẫn riêng ra một chỗ để được Ngài biểu lộ chính mình cho ta. Nhưng nhiều khi ta muốn tránh né Chúa, chỉ muốn lao đầu vào công việc để thể hiện chính mình. Nhất là giới trẻ với tính khí sôi động, chỉ muốn chạy theo cuộc sống để tìm lợi lộc, danh giá; tìm đến những thú vui bên ngoài, và không ngần ngại ngồi lê với bạn bè, với ly trà chén rượu suốt đêm thâu, nhưng ngồi lại với Chúa một chút thì đã thấy quá lâu. Quen với lối sống ồn ào và bon chen ở đời, nên ta không còn khả năng để sống cái thinh lặng nội tâm, hầu nhận ra sự hiện diện của Chúa đang chờ đợi mình. Ngài vẫn luôn có điều gì đó sâu xa hơn để trao ban, để củng cố đức tin và gia tăng đức mến. Chỉ khi có giờ cận kề bên Chúa, ta mới vững vàng hơn trước những lôi kéo của thế tục, vững tâm hơn trước những nghi nan, vững lòng hơn trước những đêm tối cuộc đời, vững mạnh hơn trước những đau thương thử thách.
Chúa Giêsu vẫn đưa ta vào từng biến cố quan trọng, nhưng rồi cũng giống như Phêrô, ta chẳng hiểu gì. Tuy nhiên, với tình yêu sâu thẳm, Ngài vẫn tiếp tục khai mở tâm hồn ta. Nếu ta biết “lắng nghe Lời Ngài” từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình, biết chấp nhận đi vào con đường hẹp của Ngài, ta sẽ được biến đổi từ “cái tôi bên ngoài” thành “cái tôi sâu thẳm” của mình, là chính mình trong chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ với sự biến đổi hôm nay trong Chúa, mới hứa hẹn cho ta cuộc biến đổi mai ngày trong vinh quang Nước Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã chuẩn bị cho các tông đồ, trước biến cố đau thương và tử nạn, bằng cách hiển dung trong sáng láng.
Con tin rằng trong cuộc sống hôm nay, trước gian nan và thử thách hằng ngày, chẳng mấy khi con nhìn ra hay nhận thấy, Chúa chuẩn bị cho con để vượt qua, bằng hành động yêu thương đầy mới lạ.
Nhưng đòi con phải can đảm đi ra, ra khỏi mình, ra khỏi những tiện nghi, ra khỏi những ù lì và ươn lười thất vọng, để thấy điều mà Chúa vẫn ước mong, đem lại cho con niềm vui và sức sống.
Xem ra đời con vẫn còn những tối tăm, vẫn còn phải lần mò trong rối rắm, nên không tránh được những sai lầm, chỉ khi con biết lặng trầm bên Chúa, biết lắng nghe Lời Chúa tận thâm tâm, thì cuộc sống con mới âm thầm tỏa sáng.
Chỉ có Chúa mới chiếu sáng đời con, khi con biết chấp nhận đi vào đường hẹp, chính là cách sống đẹp ý Chúa Cha, cũng là con đường mà Chúa đã đi qua, để con tiếp bước trở thành người môn đệ, đem lại những ân huệ Chúa cho đời.
Xin Chúa mỗi ngày là điểm hẹn cho con, để con được gặp gỡ và hớn hở vui mừng, là chính sức mạnh làm con nên nhân chứng, loan báo tình thương và ân phúc Tin Mừng, cho thế giới và lòng người đổi mới, để Nước Trời lan tỏa khắp mọi nơi. Amen.
Sáu ngày sau lần thứ nhất loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của mình, “Đức Giêsu đem MC 2-ABC491
Sáu ngày sau lần thứ nhất loan báo về cuộc thương khó và phục sinh của mình, “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình… tới một ngọn núi cao. Rồi người biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2). Ba tông đồ này cũng sẽ là ba nhân chứng của giờ phút hãi hùng, kinh khiếp trong vườn Cây Dầu, trước khi bị bắt, ở đó Đức Giêsu đã xao xuyến, lo sợ đến nỗi phải thốt lên : “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,33).
Trong cuộc biến hình này, ba tông đồ đã nhận ra vinh quang Thiên Chúa của Thầy mình, và tương quan mật thiết cha – con giữa Thầy và Chúa Cha qua tiếng phán từ trời : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Cũng lời này đã được Chúa Cha phán hôm nào, bên bờ sông Giođan, khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa của Gioan (x. Mc 1,11).
Choáng ngợp bởi quang cảnh rực rỡ, hoành tráng khi “thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (Mc 9,4), cả ba tông đồ đếu ngất ngây và đồng thanh thưa với Đức Giêsu : “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!”, và mau mắn đề nghị : “Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho ông Êlia, một cho ông Môsê” (Mc 9,5.6).
Ở đây sướng quá là phải rồi, vì sẽ không phải nghe những lời chửi rủa, khích bác của đám Biệt Phái, Kinh Sư độc mồm ác miệng ; sẽ không bị những người giữ đạo cực đoan, qúa khích lên án, xua đuổi ; không phải ăn uống thất thường, vất vưởng đó đây, không nhà không cửa, nhất là không phải nghe những lời tiên báo cuộc thương khó sắp tới và Thầy sẽ “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, giết chết…” (Mc 8,31).