Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-A Bài 51-100: Ta là sự sống lại và là sự sống.
------------------------------------------- Phúc Âm: Ga 11, 1-45 "Ta là sự sống lại và là sự sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển". Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại". Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông". Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người". Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian". Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em". Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Ðã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra". Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi". Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người. - Ðó là lời Chúa.
Những lời dẫn nhập trên đây trong Tin Mừng theo thánh Gioan được minh họa đầy đủ hơn qua trình thuật "Chúa chữa người mù" và "Phục sinh Lazarô". Rõ ràng, vị thánh sử muốn khẳng định: Đức Giêsu chính là Sự Sống và Sự Sáng cho muôn dân.
Trong bài Phúc âm tuần trước, khi được các môn đệ hỏi "Tội ai đã gây ra tình cảnh bất hạnh cho người mù mắt thuở mới sinh," Đức Giêsu trả lời: "Không phải tội ai cả, nhưng để nơi con người ấy công việc Thiên Chúa được rạng vinh." Trong bài Phúc âm tuần này, khi có người báo cáo về tình hình nguy tử của Lazarô, Chúa Giêsu lại xác quyết: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa, và do đó Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh."
Dưới đôi mắt loài người, bệnh hoạn, tật nguyền, đau thương, chết chóc là những mầm móng gieo rắc thống khổ, bất an và bất hạnh. Nhưng đối với Đức Giêsu, tất cả có thể trở thành phương thế ca ngợi quyền năng của tình yêu Thiên Chúa.
Như thế, một cái nhìn mới đã được trao ban cho nhân loại: thay vì kêu ca, nguyền rủa và khước từ khổ đau, con người có thể chấp nhận và sử dụng nó như phương tiện tiến tới vinh quang ngày mai.
Chúa Giêsu không đề cao đau khổ như cứu cánh của con người, nhưng Ngài lại dùng đau khổ để bày tỏ tình yêu là cội nguồn của ơn cứu độ. Bao năm trời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không ngừng ra tay giải thoát người ta khỏi những áp chế của bệnh tật, u sầu và chết chóc phần xác, nhưng chính Ngài lại đón nhận nỗi tang thương khủng khiếp nhất của kiếp người là cái chết ô nhục để mang lại cho thế giới sự sống thần linh phong phú.
Chúa Giêsu vừa "yếu đuối" để chia sẻ và cảm thông tận cùng nỗi khổ đau của con người, nhưng lại vừa "mạnh mẽ" để nâng đỡ và cứu độ cả thể xác lẫn linh hồn nhân thế. Thánh Gioan đã làm rõ nét chân dung của Chúa Giêsu với hai bản tính Thiên Chúa và con người, "mạnh mẽ" và "yếu đuối", trong phép lạ "Phục sinh Lazarô."
Kinh thánh kể: Đức Giêsu thương mến ba chị em Matha, Maria và Lazarô cách đặc biệt nên thường ghé nhà họ mỗi lần có dịp qua làng Bêtania. Thế nên khi Lazarô ốm nặng, Matha vội cho người cấp báo với Đức Giêsu, hy vọng rằng Ngài sẽ đến chữa ngay cho em mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy ra, nên Ngài tiếp tục lưu lại nơi đang ở là quận Pêrê thuộc mạn đông của giòng sông Giođan thêm hai ngày nữa, sau đó mới lên đường đi Bêtania. Như thế, người đưa tin đi hết một ngày đường, thêm hai ngày Chúa ở Pêrê, và một ngày đường Ngài đi về Bêtania, tổng cộng là 4 ngày, bằng số ngày Lazarô qua đời.
Tại Palestine, vì thời tiết nóng nực làm cho xác chết mau mục rữa và hôi thối, nên người ta thường đem chôn ngay trong ngày người chết vừa qua đời, sau đó mới tiến hành một tuần than khóc. Thế nên, Kinh thánh ghi nhận: "Có nhiều người bạn bè thân thích vẫn còn lưu lại với chị em Matha khi Chúa Giêsu đến."
Rồi khi thấy tang gia cùng bao bạn bè thân thích than khóc về sự ra đi của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức xúc động (Gn 11,33). Thế rồi, đang lúc đi ra mộ thì Ngài khóc (Gn 11,35).
Tại sao biết trước những gì sẽ xảy đến cho Lazarô và những gì mình sẽ làm để tôn vinh Thiên Chúa mà Đức Giêsu lại thổn thức? Phải chăng thánh sử Gioan muốn xác quyết Chúa Giêsu là một con người đích thực: biết thương, biết cam, biết chia sẻ thân phận và niềm đớn đau mất mát của con người? Phải chăng Ngài đang đi sâu vào cõi âm u của sự chết, để rồi từ đó đưa con người tiến ra với sự sống.
Ngoài việc bày tỏ nhân tính, Chúa Giêsu còn mạc khải thiên tính: "Ta là sự sống lại và là sự sống." Xưa nay, không người nào dám tuyên bố như thế, bởi vì có ai lại không bị thần chết khuất phục. Chỉ có Thiên Chúa mới là chủ tể của sự sống và sự chết. Không ai có thể tự mình bước vào cõi chết và sau đó lấy lại sự sống. Chỉ có Đức Giêsu mới làm được việc ấy.
Ngài hô lớn tiếng: "Lazarô! Hãy ra đây!". Người chết đi ra, chân tay và mặt còn quấn các mảnh vải và khăn liệm. Đáng ngạc nhiên là việc người chết lại có thể nghe được tiếng hô của Đức Giêsu để sống lại! Như thế lời tiên báo của Ngài trước dân Do thái đã bắt đầu thành sự: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các người: giờ đã đến - và là ngay bây giờ - các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ sống" (Gn 5,25)
Từ trong thâm cung của cõi chết, Lazarô đã nghe tiếng Con Thiên Chúa để rồi bước ra cõi sống. Điều đó hàm ngậm một chân lý: khi con người lắng nghe tiếng Chúa và thi hành, sự sống sẽ phát sinh. Đây là sự sống thần linh, không mục nát, không thối rữa mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Như thế, dù thân xác có bị tan biến theo thời gian, sự sống Thiên Chúa tặng ban sẽ giúp con người tồn tại muôn đời.
Vậy thì hôm nay Chúa muốn nói gì với tôi, và tôi phải làm gì để có được sự sống thần linh đó?
Chúa nói "Hãy cởi khăn liệm cho anh ấy." Như thế, Chúa muốn tôi ra tay tháo gỡ những mãnh khăn đang bó buộc tha nhân, đem lại cho họ nhân phẩm và sự sống đích thực của con người. Ngài muốn tôi thắp lên một ngọn lửa yêu thương, dù rất bé nhỏ, để góp phần soi sáng cuộc đời.
Chúa bảo dân chúng cởi khăn cho Lazarô, và Ngài cũng mời gọi tôi hãy cởi bỏ những đắng cay, buồn phiền, thất vọng, u mê cho kẻ khác.
Làm như thế là tôi đang sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay thánh, đồng thời đón nhận dồi dào ánh sáng Phục sinh của Đức Giêsu, Đấng Cứu độ con người.
1/ Cô Maria cho người đến nói với Đức Giêsu về anh La-za-rô bị đau nặng, Chúa liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi phải chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa…"Tôi đã có cảm nhận nào về Chúa khi bị bệnh tật? Những căn bệnh nào đang giết chết thể xác và tâm hồn của tôi?
Jesus said: "This sikness is not to end in death; rather it is for God"s glory… ( Gioan 11, 3 - 4 )
2/ Đức Giêsu nói với các môn đệ là La-da-rô đã yên giấc và Thầy đi đánh thức anh ấy dậy, các ông chỉ hiểu là anh ấy chưa chết. Bạn đang bị chết vì bệnh gì? Sống lại ngay bây giờ có cần cho bạn ?
Jesus added: "Our beloved Larazus has been asleep, but I am going there to awake him." ( Gioan 11, 11)
3/ Đức Giêsu nói với cô Mác-ta: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống…ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. Hàng ngày tôi đã Sống và hành động thế nào? Tại sao tôi phải khổ cực?
Jesus told her: "I am the resurrection and the life… and believes in Me will never die. ( Gioan 11, 25-26 )
4/ Trong thư gởi tín hữu Rôma,Thánh Phaolô quả quyết: "Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa; …nhưng anh em được Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em…" Bạn đang Sống theo Thần Khí Chúa hay theo xác thịt? Sự Phục sinh của người Tín hữu hôm nay là những việc gì?
Those who are in the flesh cannot please God., you are not in the flesh; you are in the Spirit. ( Rom. 8, 8-9 )
5/ Sách Tiên tri Ê-dê-ki-en viết: "Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi…Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi…" Tôi đã xin Chúa cứu thóat khỏi điều gì? Thần Khí Chúa gíup tôi Sống giống như ai?
I open your graves have you rise from them… I will put my Spirit in you that you may live… ( Ez. 37, 12-14 )
B- Câu Kinh Thánh hay nhất tôi chọn làm Châm ngôn Sống: ( The Best God"s Word )
* AI SỐNG VÀ TIN VÀO THẦY SẼ KHÔNG BAO GIỜ PHẢI CHẾT * (Gioan 11, 26 )
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống theo Lời Chúa dạy: ( So what am I doing/ For Action )
Tôi có thể chọn 1 trong 5 Gợi ý cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thi hành. ( Live out )
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice / Prayer in Action )
1- Lạy Chúa, Đức Kitô đã dạy: Chính Thầy là sự Sống lại và là Sự Sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được Sống. Xin gíup con mỗi ngày được Sống lại trong Thần Khí Chúa bằng việc làm.
2- Thánh Phaolô đã dạy: Ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể làm vừa lòng Thiên Chúa. Xin biến đổi con người nhiều đam mê tật xấu của con trong Thần Khí Chúa để phục sinh với Đức Kitô.
Lời hay ý đẹp: THẤY VIỆC NGHĨA CHẲNG DÁM LÀM,
LÀ NGƯỜI VÔ DŨNG ĐÀNH CAM CHỊU HÈN
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay khơi dạy trong ta cái cảm giác hy vọng ngay trong Mùa Chay khi ta suy niệm về sự thương khó và tử nạn của Chúa. Ta biết điều đó phải đến như vậy vì đời sống và sứ vụ của Chúa không thể nào chỉ được kết thúc trong cảnh tử nạn mà thôi. Trung tâm điểm của Mùa Chay không phải là Thứ Sáu Chịu Nạn mà là Chúa Nhật Phục Sinh khi ta đón mừng cái tiêu điểm của sứ điệp Kitô giáo: Chúa đã sống lại như Lời Người đã phán hứa. Tuy nhiên trong lễ nghi phụng vụ Giáo Hội nhắc nhở cho ta trong Mùa Chay về cuộc khổ hình và tử nạn của Chúa Kitô hầu giúp ta tìm ra ý nghĩa cho đời sống. Vì thế ta có thể có cái nhìn lệch lạc, nghĩa là chỉ nhìn đến những đau khổ của Chúa, mà quên đi cuộc phục sinh khải hoàn của Người. Do đó ta cần nhận thức rằng những mầu nhiệm trong đời sống và sứ vụ của Chúa, không phải chỉ kết thúc ở cuộc tử nạn mà thôi. Trong lễ nghi phụng vụ, ta cần nhắc nhở cho mình về cuộc phục sinh của Chúa. Ta cần ghi nhớ lại mỗi biến cố trong cuộc đời cứu chuộc: khổ giá, tử nạn và phục sinh của Chúa là một phần của toàn bộ chương trình cứu chuộc.
Cái chết của Lazarô và việc ông được cho sống lại trong Phúc âm hôm nay tiên báo cái chết và phục sinh của Chúa. Mặc dầu có những điểm tương đồng giữa hai cái chết và hai cuộc phục sinh, ta vẫn thấy có một sự khác biệt lớn. Cái phẩm chất của sự sống mới được phục sinh nơi Lazarô không thể nào được so sánh với cuộc phục sinh nơi Chúa Kitô, vì chính Người là sự sống lại và là sự sống.
Việc Lazarô bước ra khỏi mồ chưa phải là lúc có thể chia sẻ cuộc sống sung mãn với Chúa. Cuộc sống sung mãn dành cho người Kitô giáo là cái chìa khóa giúp ta hiểu cuộc đối thoại giữa hai chị em Marta và Maria trong Phúc Âm hôm nay về cuộc sống vĩnh cửu. Do đó Lazarô phải chết đi một lần nữa mới có thể tiến tới cuộc sống vĩnh cửu và sung mãn. Cái cuộc sống mới vĩnh cửu mà Chúa nói với Marta và Maria là cuộc sống siêu việt và sung mãn không bị ảnh hưởng bởi tử thần. Cuộc phục sinh của Chúa phải hướng dẫn tư tưởng hằng ngày của ta trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa là Đấng từ ngày này qua ngày khác thấm nhuần đời sống ta bằng sức sống mới. Cuộc phục sinh của Chúa phải đánh dấu cái việc khởi đầu cho cuộc biến đổi của tất cả những ai coi cuộc sống đời này là khó khăn, vất vả, nặng nhọc. Cuộc sống phục sinh không phải là cái gì ta có thể nhìn lại vì ta chưa có kinh nghiệm đạt tới, nhưng là cái gì ta đang nhìn tới với niềm hi vọng. Chính niềm hy vọng đó mà ngay cả với những ngày xuống tinh thần sẽ đem lại niềm vui và ý nghĩa cho đời sống.
Con người ta sinh ra để mà chết. Nhưng con người cũng sinh ra với cái ước muốn gọi là hy vọng. Đối với người tín hữu, Chúa Kitô là hy vọng của ta. Đưa cái tư tưởng hi vọng vào lúc gặp khó khăn thử thách không phải chỉ dành riêng cho người Kitô giáo mà thôi. Như ta học biết trong bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay, Tiên Tri Ê-dê-ki-en cũng đã nhắc nhở cho người Do Thái trong cuộc lưu đầy là họ sẽ được sinh tồn như là một dân tộc và một quốc gia mặc dầu với những khó khăn thử thách họ phải đương đầu. Lời Tiên Tri Ê-dê-ki-ên cho họ niềm hi vọng là họ sẽ được phục hồi sau cuộc lưu đầy, nghĩa là họ sẽ được giải phóng và cứu thoát. Tin vào điều đó có nghĩa là có hi vọng. Và cái hi vọng đó không phải chỉ hạn chế ở đời này mà thôi. Đó là điều mà Thánh Phaolô nhắc nhở người tín hữu: Còn anh em, anh em không thể sống cho xác thịt, nhưng la sống theo thần trí (Rm 8,9). Sống theo thần trí có nghĩa là mở rộng tâm hồn mong mỏi đến một đời sống sung mãn và vĩnh cửu của Chúa Kitô. Và cái đời sống vĩnh cửu sung mãn này có tính cách vượt qua thời gian và không gian. Cái niềm hi vọng vào cuộc sống sung mãn vĩnh cửu sẽ tạo cho người tín hữu cái niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống, mặc dầu phải trải qua những ngày đen tối. Niềm hi vọng hay cậy trông là một nhân đức đối thần. Cũng như đức tin và đức ái, đức cậy trông phải thấm nhập vào tất cả đời sống của người tín hữu. Đức cậy trông phải được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù với những bệnh tật, đau khổ, thất vọng, chán chường, người tín hữu có đức cậy trông vẫn giữ vững niềm cậy trông vào Chúa. Người tín hữu được kêu gọi sống trong cậy trông bất chấp những thăng trầm của cuộc sống. Với niềm cậy trông, người tín hữu đi tìm Chúa và phụng sự Chúa với hi vọng rằng Chúa sẽ không bỏ rơi họ. Đức cậy trông theo Thánh Phaolô đưa dẫn ta đến đời sống trường sinh.
Bất cứ những ai đọc chương 37 sách tiên tri Edekien đều cảm thấy rùng mình, sởn ốc. Ông trông thấy một::MC 5-A54
Bất cứ những ai đọc chương 37 sách tiên tri Edekien đều cảm thấy rùng mình, sởn ốc. Ông trông thấy một thung lũng đầy xương khô. Thiên Chúa khiến ông đi dọc đi ngang giữa những xương mà tuyên sấm: “Các xương khô kia ơi, lắng nghe lời Đức Chúa.” Tức thì các xương xích lại gần nhau, trở thành da thịt, rồi những con người sống động. Bài đọc 1 hôm nay ở cuối chương đó để giải thích thị kiến mà vị tiên tri ấy đã thấy. “Bấy giờ Người phán với tôi: hỡi con người, các xương đó là toàn thể nhà Israel. Này chúng vẫn nói: xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan. Chúng tôi đã rồi đời. Chính vì thế mà ngưoi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân ta, này chính Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi, sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel.” Tình trạng của dân tộc Do thái trong cuộc lưu đày Babylon chẳng khác gì thung lũng đầy xương khô đét: không đền thờ, không tư tế, không hy vọng, ở tản lạc giữa các dân ngoại. Họ không còn là một dân tộc nữa. Nhưng là những nhóm người lang thang trên đất lạ, tôn thờ những ngẫu tượng ngoại bang. Nếu đem so sánh với hiện trạng chúng ta ngày nay, thì không khác nhau là mấy. Chúng ta cũng di cư khắp đó đây trên những lục đại mênh mông, tiếp xúc thường xuyên với những nền văn hoá xa lạ, các phong tục tập quán vô luân. Nó cũng tương tự điều kiện sống của các linh hồn tín hữu về mặt thiêng liêng trong Mùa chay thánh này. Chúng ta cũng đã mất lòng nhiệt thành và sùng mộ, trở nên khô khan nguội lạnh sau nhiều năm theo đạo. Chúng ta chẳng còn chút sinh khí nào trong các buổi cầu kinh nguyện ngắm, chỉ trơ trơ như những chiếc xương khô.
Lúc tiên tri Edekien nhìn vào đống xương, Thiên Chúa hỏi: “Hỡi con người, liệu những xương khô này có hồi sinh được không ?” Dĩ nhiên, vị ngôn sứ chỉ còn biết lắc đầu thất vọng, bởi vì theo thường tình thì làm sao xảy ra như vậy được. Những người nóng tính có lẽ còn dơ cả hai tay lên trời, tỏ dấu đầu hàng. Tuy nhiên, ngôn sứ trả lời: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó.” Đối với quyền phép loài người, việc làm cho kẻ chết sống lại quả là viển vông, không khi nào có thể thực hiện được, huống chi là các xương khô, rải rắc khắp cánh đồng ! Toàn thể cánh đồng toàn xương cốt khô đét làm sao sống lại ? Tuy nhiên, vị tiên tri đã không dứt khoát xác quyết là không thể được. Ông nói: “Lạy Đức Chúa, chính Ngài mới biết điều đó.” Rồi ông vâng lời Thiên Chúa đọc lời sấm trên đống xương. Quả vị tiên tri có một Đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa toàn năng. Ông đã không nghi nan Thiên Chúa có thể thực hiện những điều bất ngờ. Các xương kia chưa phải là tận cùng của kiếp sống con người. Chúng ta chưa có quyền hoàn toàn thất vọng ! Đúng vậy, có sự chuyển động và các xương xích lại gần nhau, ăn khớp với nhau, gân cốt và da thịt mọc ra. Thiên Chúa truyền cho Edekien thổi sinh khí vào chúng và đống xương hồi sinh, đứng thẳng lên thành một đạo quân lớn, đông vô kể (37, 10).
Điều này cũng đúng đối với các linh hồn khô khan trong Mùa chay thánh thiện này, nếu họ biết lắng nghe lời Thiên Chúa mà ăn năn hối cải. Thực tế, dân tộc Israel đã phục hồi từ kiếp nô lệ Babylon, được Thiên Chúa đưa lên khỏi huyệt, trở về đất hứa và hợp thành một dân tộc hùng mạnh. Thiên Chúa gọi họ là “Dân của Ta”, nghĩa là dân đầy Thần Khí Ngài. Họ sẽ thực hiện những công việc của Ngôi Lời ban sự sống. Trước đó, không ai có thể tưởng tượng nổi họ sẽ họp thành một dân tộc, khi mà Nabucônôsô phân tán họ khắp đế quốc Ba tư. Điều mà Thiên Chúa làm khi sáng tạo vũ trụ thì Ngài lại thực hiện cho dân tộc Do thái khi xưa và cho chúng ta hôm nay. Những kẻ đã chết về phần tâm linh, tựa như những chiếc xương khô vung vãi khắp thung lũng tử thần, thì nhờ Thần Khí Chúa lại được sống đàng hoàng. “Ta sẽ đặt Thần Khí Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh.” (37, 14). Có lẽ quý vị đã nhìn ra lý do sách Edekien được chọn đọc trong buổi phụng vụ hôm nay. Nó liên quan đến chuyện của ông Lazarô, một người đã chết thối rữa bốn ngày. Nhưng “Lời” của Thiên Chúa tuyên phán trên ông: “Lazarô, hãy ra khỏi mồ.” Và Phúc âm kể: “Người chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải, mặt còn phủ khăn.” Một công việc kinh thiên động địa, không ai có thể thực hiện trừ một mình Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa thật sự ở đâu khi người ta cảm thấy “rồi đời”, khi hy vọng không còn đất sống ? Khi sức lực đã cạn kiệt ? Khi người ta buông xuôi tất cả ? Tiên tri Edekien trả lời: “Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, sẵn sàng nói với chúng ta và thực hiện những công việc chúng ta không thể tự thân làm nổi". Đó là quyền năng của Lời Chúa. Những xương khô và mồ mả của nhân loại không mằm ngoài hơi thở của Đức Chúa Trời. Thần Khí của Ngài sẽ xâm nhập cả vào những nơi mà chúng ta sợ hãi không dám đến gần và vực dậy những chi mà nhân loại coi như tan thành tro bụi. Nếu ai đó phải hỏi vị ngôn sứ: “Khi nào sự việc đó xảy ra ?” thì Edekien sẽ trả lời: “Đó là thời gian của Thiên Chúa. Mỗi giây phút đều đầy tràn ân phúc. Hãy tỉnh thức chờ đợi, ngó thẳng ra từ ngôi mộ đau thương của mình và dõi theo Thần Khí Thiên Chúa đang tiến đến với bạn.” Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta có thể liệt kê vô số những ngôi mộ mà mình từng bị giam hãm, những nơi chốn lưu đày, những hố sâu tự đào cho chính bản thân. Những hoàn cảnh vượt quá khả năng, sức lực chịu đựng hay đối đầu, những chia rẽ, những hiểu lầm hoặc những dị biệt quá đáng do ngu xuẩn, dốt nát, kiêu căng của con người gây nên. Chúng ta có thể ngồi đếm những cơn lốc xoáy của đời sống đã từng đè bẹp mình, những lực lượng đối kháng không tương xứng mình phải đối mặt. Những cú thụi, cú đấm, những bầm dập, những vật lộn đấu tranh do thân nhân, bạn bè làm nên vô tình hay hữu ý. Mặt khác có khi chúng ta tự mình đi vào những ngôi mộ giết người do lỗi lầm của mình, bỏ ngoài tai lời cảnh báo của Lời Chúa, từng bước làm những quyết định chẳng lợi lộc chi cho linh hồn, dấn thân vào những ăn chơi trác táng, vừa ý xác thịt, rượu chè, trai gái, dâm ô, nghiện ngập. Ôi nhiều vô kể những ngôi mộ xương khô mà con người vướng mắc vào. Nếu không ơn Chúa giúp đỡ, làm sao thoát khỏi ? Tạ ơn Thiên Chúa, sự phục sinh của Đức Ki-tô ban cho loài người hy vọng.
Đối với các nhà giảng thuyết, các mô phạm gia, các nhân viên từ thiện bác ái, sau bao nhiêu năm miệt mài với công việc cứu trợ, có lúc phải ngỡ ngàng vì không thấy biến chuyển chi hết trong tình hình xã hội loài người. Mọi sự vẫn y nguyên như cũ, có thể còn tồi tệ hơn. Chúng ta cảm thấy thất vọng, giống như dân Do thái lưu đày ở Babylon, đơn độc và tối tăm. Nhiều vị bị cám dỗ bỏ cuộc nói: “Ích chi nữa đâu ? Tôi chán ngấy công việc vô ích này ! Thay đổi loài người quả khó khăn hơn phá núi, rời non !” Chúng ta cố gắng cải tạo thế giới, thay đổi cái nhìn của nó về giàu nghèo, sang hèn, tội phúc. Chúng ta nghiêng về những số phận long đong, ngoài lề, dễ bị tổn thương trong khi thiên hạ tẩy chay, khinh bỉ họ. Chúng ta đã tiêu tốn ngày tháng trong những công việc như vậy và rồi phải ngạc nhiên đã chẳng làm gì nên “cơm cháo” ! Có chi khác biệt trong xóm làng, xã hội và thế giới ? Các cuộc rút lui vào thinh lặng sẽ cho phép chúng ta thấy rõ hơn mọi sự. Nhưng ở đây tôi không muốn nói đến loại rút lui đó, nhưng là về sự rút lui vì thất bại, như trường hợp sĩ quan, binh lính, quân đội thất trận. Ngôi mộ của sự cam chịu xem ra rất thương tâm. Nó là địa điểm xa chiến trường, người ta có thể nằm ngồi nguỵ trang và chữa lành các vết thương hôi thối của mình. Tạ ơn Thiên Chúa, ngôn sứ Edekien an ủi chúng ta rằng: Thiên Chúa nhìn thấy hết mọi sự. Ngài thấy những dấu hiệu của tử thần trên mình chúng ta và Ngài vội vàng đến cứu giúp, đúng thời, đúng lúc, cương quyết và bí nhiệm. Xin hãy nghe lòng ước muốn đó trong giọng nói của Chúa Giê-su lúc hồi sinh người em của Maria và Martha: “Lazarô, ta truyền cho anh ra khỏi mồ !” (Ga 11, 43)
Thánh Phaolô gọi thứ ngôi mộ vô hình này bằng một tên khác, khi thánh nhân nói đến công việc của xác thịt. Nghĩa là chúng ta nghĩ, chúng ta quyết định hoàn toàn dựa vào những lý do xác thịt không màng chi đến đường lối của Phúc âm. Thánh nhân cảnh cáo rằng Thiên Chúa biết rõ chúng ta, biết rõ những yêu thích của xác thịt, mà xác thịt sẽ đưa đến sự chết. Do đó, chúng ta là dân mồ mả. Nhờ mặc khải của Đức Ki-tô, Thiên Chúa ban cho loài người não trạng hoàn toàn mới để suy nghĩ và hành động, dựa trên căn bản của nếp sống mới. Nguồn sống mới của chúng ta lúc này chính là Chúa Giê-su và tinh thần của Ngài trong chúng ta. Đó là lối diễn tả của thánh Phaolô điều mà tiên tri Edekien đã nói trong sách của ông: Thiên Chúa sẽ mở huyệt cho dân Israel, sẽ đưa Israel lên khỏi mồ, sẽ đặt Thần Khí Ngài vào trong dân và dân được hồi sinh (37, 14). Nghĩa là thánh Phaolô muốn nói: Nếu chúng ta chỉ sống cho mình, bằng sức lực của mình, chiều theo ý muốn của xác thịt thì chẳng khác nào chọn cho mình những mấm mồ không có sự sống. Chúa Giê-su đã gọi chúng ta ra khỏi mồ, ban cho chúng ta Thần Khí để nhìn rõ cuộc đời này thực tế lớn hơn chúng ta có thể mường tượng. Và cuộc sống Chúa ban không chỉ gồm bản thân và bạn bè, nhưng còn cả gia đình nhân loại. Lắng nghe Lời Chúa, lãnh nhận tinh thần Đức Ki-tô sẽ mở rộng tầm nhìn của chúng ta về cuộc sống: Cuộc sống trong toàn thể vẻ đẹp và vĩ đại của nó, trong những điều kỳ diệu lớn nhỏ, trong cộng đồng dấn thân cho lời ban sự sống, cho hành động cứu độ. Cuộc sống trong tổng thể các sắc dân và văn hoá, trong môi trường và vũ trụ chung quanh chúng ta. Khi chúng ta thoát ra khỏi mồ với sức sống của Thiên Chúa trong mình, chúng ta sẽ xem tỏ các nguy hiểm, các cám dỗ, các lôi kéo của thế gian mà xa tránh. Quả thật, cuộc sống giữa trần ai đầy rẫy mỏng dòn và chông gai. Mỏng dòn trong những người nghèo khổ, bệnh tật, di dân, ngoài lề, thất vọng, trầm uất, tù tội, trẻ thơ, thai nhi, thất nghiệp. Chông gai trên những con đường nghề nghiệp, cạnh tranh, buôn bán, gia đình tan vỡ, ly dị, tái kết hôn, …
Những ai từng nghe Lời Chúa, từng kín múc Thần Khí mới của Đức Ki-tô như chúng ta trong buổi phụng vụ này, thì phải biết làm bổn phận: “Ra khỏi mồ.” Ra khỏi mồ để thi hành những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi chúng ta. Tức công bố và xác quyết lời ban sự sống bằng chứng từ và hành động. Chúng ta phải thổi hơi vào nơi thiên hạ khao khát sức sống và hy vọng. Xin cho phép tôi ghi chép lại mấy liệt kê “ra khỏi” của tác giả Patricia Datchuck Sanchez đăng trong Tập san “Celebration” tháng 3 năm 2002 trang 121. Quý vị sẽ theo đó mà khai triển thành danh sách riêng của mình, ngõ hầu rao giảng cho sát với thực tế của hoàn cảnh địa phương, Chúa nói:
“Hãy ra khỏi chiếc mồ của tính tự mãn, kiêu ngạo, tưởng mình như không cần ai, chẳng cần Thiên Chúa, chẳng cần anh em”.
‘ Hãy ra khỏi chiếc mồ của ích kỷ, tham lam chỉ chăm lo cho những nhu cầu của mình, bỏ quên những nhu cầu của kẻ khác”.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ của những bộn rộn quá mức. Cần tìm thời gian suy nghĩ, lắng nghe, yên lặng và cầu nguyện”.
“Hãy trỗi dậy khỏi nơi chôn vùi trong công việc tự áp đặt, những ràng buộc tưởng tượng, những lăng xăng kiểu Martha, trái lại nên noi gương Maria chỉ có một điều cần mà thôi đó là đời sống thiêng liêng, phần rỗi linh hồn mình”.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ tự đào cho mình, ngày một sâu hơn do ngu dốt, kỳ thị, lãnh đạm, tẩy chay và hãy tỉnh thức nhạy cảm đối với những số phận nghèo khổ, đói rét, bị áp bức.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ buồn phiền, trầm cảm, thất vọng và hãy mừng vui về ơn huệ nhận được từ tay Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân”.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ yếm thế, vô vọng để sống lạc quan yêu đời trong hiểu biết bạn thuộc về tôi, tôi thuộc về bạn, chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ kiên cố bằng những bức tường tự kỷ ám thị, những lo lắng vô ích, những xiếng xích, những bất an vô cớ và phó thác mình vào bàn tay toàn năng của Đấng Tối Cao, hằng yêu thương săn sóc nhân loại.
“Hãy thoát khỏi ngọn núi sợ hãi đang đè nặng trên vai, những buồn chán vì thất bại, bị phản bội, mất công ăn việc làm, thất nghiệp lâu ngày. Tháo gỡ mình ra khỏi những bận tâm không cần thiết và tìm sự can đảm mới, tự do mới nơi Ta”.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ tội lỗi, khỏi chính bản thân đầy tính mê nết xấu và tiến vào đường nhân đức trong sạch, ngay thẳng, công chính.
“Hãy ra khỏi chiếc mồ cô đơn lạnh giá của tính ghen tương, đố kỵ. Ngỡ mình khỏi muôn vàn suy nghĩ bất chính, toan tính ma quỷ, hậu ý xấu xa, âm mưu xảo trá. Hãy đến chia sẻ tự do của đời sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, Thần Khí và với Ta.”
“Hãy mở mắt ra xem thiên hạ đang cần thiếu những gì.
Như vậy, Mùa chay quả là hồng phúc, thuận lợi để chúng ta trở về với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình. Do mưu mô của satan, chúng ta đã bị lôi cuốn vào những sai lầm trí tuệ và lòng muốn, bị chôn vùi trong những chiếc mồ bảy mối tội đầu. Chúa Giê-su phục sinh Lazarô cũng là phục sinh mỗi tín hữu, ban sự sống mới cho ông cũng là cho mỗi chúng ta. Sau khi chữa lành bệnh nhân, Chúa ra lệnh: Đừng phạm tội nữa, cũng là mệnh lệnh Ngài ra cho chúng ta trong Mùa chay này. Hãy trỗi dậy để hưởng tự do của ơn thánh và vinh quang của nếp sống mới trong Thiên Chúa. Như thế, sự chết phần xác không phải là môi nguy, bởi nó không thể chia rẽ chúng ta khỏi Thiên Chúa. Amen.
Có một người ốm liệt, ông Ladarô”: Chúng ta chẳng biết nhân vật này ở nơi nào khác nữa, và:MC 5-A55
"Có một người ốm liệt, ông Ladarô”: Chúng ta chẳng biết nhân vật này ở nơi nào khác nữa, và hình như các độc giả Tin Mừng cũng không, vì ông được gọi như là em của Matta và Maria. Tuy nhiên, ông mang một cái tên tiền định mà trong tiếng Hy bá có nghĩa: "Thiên Chúa đến cứu giúp", và, đàng khác ông là bạn của Chúa Giêsu.
"Người Bêtania": Chắc chắn đây là ngôi làng mà ngày nay vẫn còn tồn tại với mỹ danh "El Azarich" (tiếng rút từ chữ Ladarô), cách Giêrusalem quãng 2km, và là nơi người ta còn thấy ngôi mộ của Ladarô đục sâu trong đá.
"Làng của Maria và Matta chị bà": Vì tác giả không nói gì đặc biệt về hai phụ nữ này, nên phải giả thiết là độc giả đã biết nhiều về họ. Người ta đã sớm đồng hóa họ với hai phụ nữ được nhắc đến trong lúc 10,38-42. Hình như họ có cùng một tính tình: Matta hoạt động, lanh lẹ, chủ gia đình; Maria trái lại trầm tư, chiêm niệm hơn, thường bị chị xỏ mũi. Luca không nói tên nơi xảy ra cảnh đó; cũng có thể là Bêtania lắm, nhưng chẳng có gì cho phép ta đồng hóa một cách chắc chắn nhân vật của hai câu chuyện.
"Maria là người đã xức dầu thơm cho Chúa": Hành động này được kể lại ở thì quá khứ, vì tác giả nhìn từ thời gian biên soạn, nên sự kiện này là một sự kiện đã qua. Nhưng ông lại tường thuật việc xức dầu ở chương 12, khi Chúa Giêsu sẽ trở về Bêtania, sau một thời gian rút vào sa mạc Ephraim. Không có gì cho phép quả quyết đây là người đàn bà tội lỗi mà Luca kể lại trong 7, 36tt.
"Chúa Giêsu yêu mến Matta cùng em bà và Ladarô": Câu này đính chính một lối giải thích sai lầm có thể có, dựa trên sự kiện Chúa Giêsu hãy còn nán lại thêm hai ngày nơi Người đang ở, dù đã nghe tin Ladarô đau liệt.
“Ngày không phải có 12 giờ sao": Dù có vẻ tượng hình và hai bí nhiệm, câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng. Bao lâu chưa đến giờ hoàng hôn? bấy lâu chưa có gì phải sợ; người ta có thể an toàn bước đi cho đến hết thời hạn 12 giờ của ngày. Nói cách khác, Người phán cùng các môn đồ vốn đang kinh hãi khi thấy Người lên Giêrusalem đáng sợ trước, chưa đến giờ nguy hiểm đâu!".
"Và chúng ta cũng hãy đi qua để chết với Người": Ngược lại với lối giải thích thông thường, hình như chữ với “Người" ám chỉ Ladarô, vì người ta vừa mới nói trong câu trước đó là Ladarô đã chết và Chúa Giêsu đã kết luận: chúng ta hãy qua gặp ông ấy. Trong trường hợp này, Tôma nói cách đơn sơ: nếu Người muốn đi bất cứ giá nào, thì chúng ta hãy tháp tùng theo để chung số phận với Lađarô là kẻ đã chết.
“Đã được chôn 4 ngày rồi ”: Vì khí hậu ở phương đông, nên người chết được chôn trong cùng ngày chết (Ga 11, 39; Cv 5, 6). Chữ "4 ngày" có một tầm quan trọng trong trình thuật người Do thái thời Chúa Giêsu tin rằng trong 3 ngày đầu tiên, hồn vía hãy còn lảng vảng bên thây ma; chỉ từ ngày thứ tư, lúc thây ma bắt đầu thối rữa, chúng mới bỏ mà di. Ngày thứ 4 là ngày chết thực sự.
"Ta là sự sống lại". Mấy chữ "và là sự sống" bị P45 cũng như một số thủ sao của truyền thống latinh và syria-sinai cũ xóa bỏ, cả Origène và Cyprien thỉnh thoảng cũng thế. Nhưng tất cả các thủ sao và các bản dịch khác đều giữ lại. Thành ra không có lý do gì để duy trì lối đọc vắn của BJ.
“Hãy cởi ra cho ông ấy". Đối với Ladarô, phải lăn hòn đá, cởi dải liệm; còn khi Chúa Giêsu phục sinh, các phụ nữ nhận định một sự kiện đã rồi: đá được lăn đi, các cuộn băng nằm dưới đất, còn khăn liệm được xếp lại ở một nơi riêng (20, 1-7). Các thiên sứ chỉ đứng đó để giúp các môn đồ ý thức sự kiện mà thôi.
"Nhiều người Do thái ...đã tin vào Người”: Gioan không bảo bấy giờ Ladarô thế nào, cũng chẳng nói đến sự thán phục của các chứng nhân. Ông đưa ta đến điểm cốt yếu: nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu. Đó là điều mà tác giả Tin Mừng mời gọi ta.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã ghi nhận việc nhấn mạnh đến đức tin trong Tin Mừng thứ tư, sự căng thẳng tăng dần theo các chương giữa Chúa Giêsu, Đấng tự mặc khải chính mình trong các việc làm, và lòng cứng tin của người Do thái. Giai thoại hôm nay thường xuyên nhắc đến đức tin. Động từ “tin" được dùng 8 lần để chỉ việc con người đáp trả khi thấy vinh quang Thiên Chúa. Ladarô đã chết và được an táng từ 4 ngày rồi. Người Do thái hình như hoài nghi quyền năng của Chúa Giêsu. Matta và Maria thì nói với Người: “nếu Thầy đã ở đây ...". Chứng cớ dứt khoát và không thể chối cãi mà người Do thái đòi hỏi (10, 24) giờ đây được ban cho họ. Ai có quyền trên sự sống, nếu không phải là chỉ mình Thiên Chúa? Chúa Giêsu làm phép lạ "để họ tin" rằng Chúa Cha đã sai Người. Như thế chấm dứt sứ vụ của Chúa Giêsu giữa người Do thái. Dấu chỉ này mặc khải một lần thay cho tất cả Chúa Giêsu là ai. Vì thế người Do thái đã lên án tử hình Người. Đối với Gioan, cuộc Tử nạn bắt đầu ngay sau phép lạ này với cuộc nhóm họp của hội đồng Công tọa và việc xức dầu ở Bêtania, dấu chỉ khâm liệm Chúa Giêsu. Chính phép lạ chuẩn bị điều đó. "Bệnh này ... phải được nhằm để tôn vinh Con Thiên Chúa". Việc phục sinh Ladarô là dấu chỉ của thực tại sẽ diễn ra trong các chương kế tiếp vậy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong thời đại chúng ta, nhan nhản những dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, chẳng hạn việc hồi sinh con người mà chúng ta đã từng mục kích nhiều lần qua các cuộc chúa bệnh thành công, là những dịp cho thấy cơ thể nhân loại có một sinh lực mãnh liệt chừng nào. Và ta phải nói gì về cuộc chiến thắng lạ lùng của sự sống trên sự chết như là việc sinh sản, rồi việc phát triển con người nên vóc trưởng thành? Trong các thành công về kỹ thuật, nhà bác học đã vượt qua nhiều khó khăn mà trước đây không thể khắc phục. Trong các lựa chọn dứt khoát, mỗi người chúng ta đều đã lướt thắng các cám dỗ bi quan, thất vọng. Tất cả chỉ vì trong con người có một khát vọng sống, có một động lực không ngừng thúc đẩy đi lên. Nhưng đồng thời trong nhân tính chúng ta có một cái gì đó đã bị đổ vỡ. Cái chết bắt chúng ta đương đầu với một giới hạn có thể bẻ gãy chúng ta. Gioan gợi lên nỗi thất vọng, sự ê chề của kinh nghiệm, các giới hạn của con người. Những câu Chúa trả lời: “Hỡi Ladarô, hãy đi ra" mời gọi tất cả lướt thắng các giới hạn đó. Bằng giáo huấn, cuộc sống, cái chết và sự sống lại của mình, Chúa Giêsu cho thấy Người có thể khơi dậy sinh lực nào trong con người. Nhưng Người chỉ hành động trong những ai, khi đối diện với sự chết, biết để cho sức mạnh Thần khí đến “lay tỉnh" mình dậy.
2. Sự can thiệp của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là một Đấng vô biên xa vời, dửng dưng với tạo vật. Thiên Chúa đã nhập thể trạng một trái tim con người, Ngài cũng muốn có khả năng cảm xúc, bồi hồi, xót dạ? "Chúa Giêsu xao xuyến tâm thần". Ngài cho thấy mình cũng chạnh lòng trước số mệnh thế nhân. Người yêu thương các bạn hữu với tình âu yếm. Bởi đấy Người ra tay uy quyền cho Ladarô sống lại.
3. Hãy lưu ý đến lời Matta đáp trả câu hỏi của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Con có tin điều đó không?” nghĩa là có tin rằng kẻ tin vào Ta sẽ sống mãi và không bao giờ chết chăng. Người hỏi Matta về một điều gì có, về niềm xác tín được sống của bà. Matta đã trả lời nhắm vào con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: “Vâng, con tin rằng con sẽ không chết, nhưng "Con tin Thầy là Chúa Kitô, Con 'Thiên Chúa". Chắc hẳn vì lời tuyên xưng đức tin đó (mà các môn đồ từng nghe) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các sứ đồ của Người, khi đến Bêtania, rằng Người đã vui mừng hoan lạc. Chúa Giêsu đã muốn có giai thoại phục sinh Ladarô để các chứng nhân tin Người là Đấng được Chúa Cha sai đến. Điều đó cho ta thấy niềm tin của Kitô hữu không phải là niềm tin vào các sự vật, dù là vào một thế giới được tái lập trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là niềm tin vào con người Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Niềm tin vào Chúa Giêsu tuyệt đối ưu tiên, sau mới đến những điều khác.
4. Sở dĩ Chúa Giêsu phục sinh Ladarô, là vì người là Lời sáng tạo của Thiên chúa Tuy nhiên Người cũng sắp chết. Chúa tể sự sống sắp lụy phục tử thần ... và đối thủ của người sẽ không quên nhấn mạnh nét mâu thuẫn đó trong sự nghiệp của Người: “Nó đã cứu được kẻ khác mà không thể cứu nơi chính mình". Nhưng Chúa Kitô đã chẳng muốn cứu lấy một mình mà thôi. Khi mặc lấy thân phận con người chúng ta cho đến cái chết, lời sự sống của Người không còn ở ngoài chúng ta nữa. Người chiến thắng tử thần qua cái chết. Như thế, Người đã cứu rỗi tất cả nhân loại cùng với chính bản thân Người.
5. Hoạt động của con người bị hạn chế và thượng thất bại. Song các giới hạn và thất bại này không thể triệt hạ sự tự do của kẻ tin vào Chúa Kitô. Cái chết đặt một giới hạn rõ rệt cho sự sống của con người, nhưng đức tin của Kitô hữu vượt qua giới hạn đó. Người Kitô hữu đã ở bên kia cái chết. Chắc chắn, sự chiến thắng cái chết mà Chúa Kitô đạt được cho ta không miễn cho ta chết như Người. Kitô hữu không phải là kẻ giảm thiểu hay đánh bóng sự chết. Đối với họ cũng như đối với Ladarô, cái chết không thơm tho gì. Và chẳng có hương thơm (thánh thiện hay đạo đức nào) có thể ru ngủ sức kháng cự của con người đối với cái chết. tuy nhiên Kitô hữu tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Kitô đã tin tưởng vào Chúa Cha, vì biết rằng Ngài luôn nhận lời mình xin. Ngài là vị Thiên Chúa hằng yêu con người và muốn con người sống để tôn vinh Ngài. Tin vào tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện trong Chúa Kitô tức là đã phục sinh và đã được bảo chứng sẽ sống mãi.
Chúng ta thường nghe nói: - Chết là hết. Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng:MC 5-A56
Chúng ta thường nghe nói:
- Chết là hết.
Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria, đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay:
- Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng.
Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói:
- Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin.
Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình:
- Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày.
Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha:
- Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.
Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời Ngài hỏi Martha:
- Con có tin điều đó không?
Và Martha đã tuyên xưng:
- Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian.
Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.
Cùng một sự kiện mà có người thì chấp nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa, thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó.
Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta, nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta.
Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng vững được trước những phong ba và bão táp.
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can:MC 5-A57
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Ladarô gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Ladarô chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”. Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người.
1) Cái chết của Ladarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Ladarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến.
2) Nên để ý tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?” Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn nữa, sẽ không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’ nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc Ladarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến. Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu.
Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa:MC 5-A58
Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:
- Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?
Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta?
Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết.
Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lazarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lazarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta.
Trong khi đi tới nhà Lazarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế.
Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!”
Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao?
Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lazarô, hãy đi ra!”
Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa.
Sự sống lại của Lazarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản:
- Ta là sự phục sinh.
Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lazarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt.
Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: “Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: “Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống” (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào.
Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em.
Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.
Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.
* Trích “Trong Ánh Sáng Niềm Tin” ở Chương 4, tác giả Trần Mỹ Duyệt
Biết rằng Thiên Chúa luôn ở bên tôi, chỉ là một phần của tri thức về những xác tín có chiều sâu tôn giáo. Nhưng: MC 5-A59
Biết rằng Thiên Chúa luôn ở bên tôi, chỉ là một phần của tri thức về những xác tín có chiều sâu tôn giáo. Nhưng cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố của cuộc đời, mới thực sự đi vào niềm tin đó. Mặt khác, dù tôi có cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa chung quanh cuộc sống, thì việc tin rằng Ngài yêu tôi và luôn chọn cho tôi phần tốt nhất, cũng vẫn là một thách đố lớn lao đối với niềm tin của tôi.
Không như Maria đã vội vã tới gặp Chúa Giêsu khi nghe chị mình là Mátta nói Chúa đang chờ bà. Mặc dầu tôi vẫn biết Chúa ở đàng kia và đang chờ tôi, tôi vẫn chưa hẳn tin là có Ngài. Trong nhiều trường hợp, tôi đã không dễ dàng nhận ra tiếng Ngài. Hoặc tôi vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào một phép lạ, Ngài sẽ làm cho cuộc đời tôi trong những lúc tãm tối và thử thách.
Mátta và Maria sau khi than thở, phàn nàn và tường trình về cái chết của em mình là Lagiarô. Chợt thấy Chúa tỏ ư muốn đến viếng thãm mộ của ông, hai bà liền ngãn cản Chúa. Bằng một thái độ rất thực tế, hai bà thưa: “Lậy Thầy, thối rồi!” (Jn 11:39).
Lagiarô đã chết và chôn được bốn hôm, đương nhiên thân thể phải rữa thối. Đến thãm một thây người rữa thối, là chấp nhận hít thở bầu khí thiếu trong lành. Là nhìn xem một thân xác chương phình, nứt nẻ với từng mảng thịt rơi rụng.
Thánh Phanxicô Bôgia, khi còn là một vị quan của triều đình Tây Ban Nha, gặp lúc hoàng hậu nước này qua đời. Theo tục lệ của Tây Ban Nha thời đó, Phanxicô được lệnh phải tới mở nắp quan, nhận diện hoàng hậu.
Phanxicô đã tới, và đã làm những gì bổn phận ông đòi hỏi. Nhưng vừa mở nắp quan ra, ông thấy gì? Một hoàng hậu sắc nước, hương trời của triều đình Tây Ban Nha, lúc này chỉ là một cái xác không hồn, nằm bất động. Con người khuynh nước, nghiêng thành kia bây giờ đã hoàn toàn đổi khác.
Không ai biết lúc đó Phanxicô nghĩ gì, chỉ biết rằng sau đám tang đó, ông đã hoàn toàn thay đổi. Ông đã từ giã triều đình cùng với những vinh quang của nó để mặc lấy bộ áo dòng tu, theo chân Thánh Inhaxiô Loyola.
Đối với cuộc đời của con người, và với khả nãng của con người, chết là hết. Thân xác phải được tẩm liệm và chôn cất đàng hoàng. Sau khi chết, thây người sẽ thành rữa mục, hôi thối, và làm mồi cho thú vật, hoặc giòi bọ. Đôi khi những xác chết không chôn cất kia còn gây nên bệnh tật cho nhiều người, và ô nhiễm không khí.
Cũng có lẽ vì quan niệm như vậy, cho nên Mátta và Maria đã can ngăn Chúa Giêsu đừng đến cái nơi hôi hám đó làm gì. Nhưng Chúa lại hành động khác. Ngài đã ra tới mồ nơi chôn Lagiarô.
Mặc dù Mátta và Maria vẫn tin vào sự sống lại của con người, nhưng quan niệm của hai bà trước cái chết của em mình, và quan niệm của Chúa Giêsu trước biến cố đó hoàn toàn khác biệt. Một bên chết là đi vào mục nát. Một bên chết chỉ là một giấc ngủ: “Lagiarô bạn ta đang ngủ. Chúng ta hãy đến đánh thức ông dậy” (Jn 11:11). Một bên chết thì thân xác thối tha. Một bên từ một thân xác hay chết được chuyển thành một thân xác tuyệt vời, và không mục rữa.
Có lẽ đây là điểm tương phản nhất, khiến qua cuộc sống thường nhật, tôi vẫn gặp những bất đồng giữa tôi và Chúa Giêsu. Cũng như Mátta và Maria, nhiều khi tôi đã dỗi hờn với Chúa bằng thái độ nửa thách thức, nửa nghi ngờ: “Lậy Thầy thối rồi! Vì đã chôn bốn hôm” (Jn 11:39).
Thật là thiếu may mắn tôi đã trượt kỳ thi vừa qua.
Thật là xui xẻo cho tôi, tháng vừa qua gặp phải tai nạn di chuyển trên đường từ sở làm về nhà.
Thật là bất hạnh, gia đình tôi phải tan nát vì hoàn cảnh thất nghiệp, vì con cái hư hỏng, vì người thân bệnh tật lâu ngày, lâu tháng.
Thật là tuyệt vọng, tôi cầu xin mà không được Chúa đáp trả. Tôi vẫn thấy mình khô khan, nguội lạnh, xu hướng về những hành động xấu.
Tôi vẫn thấy vợ tôi, chồng tôi, con tôi bê tha, thiếu gương sáng, thiếu đạo hạnh.
Tôi vẫn thấy những người chung quanh tôi nghèo khổ.
Tôi vẫn thấy tội ác xẩy ra khắp quanh tôi.
Tôi vẫn thấy chiến tranh bao trùm đó đây.
Và ngàn ngàn những cái thiếu may mắn, thiếu hạnh phúc như chiếc lưới đổ trùm trên đầu tôi. Trên đầu những người thân của tôi, và của chung nhân loại.
Thế là thối rồi. Trong hình thức diễn tả của con người thời đại, tôi coi đó như một cái gì hư hỏng, mất mát, thua thiệt, và xui xẻo.
Thế là lỡ một dịp may hiếm có để làm giầu, để tạo công danh sự nghiệp, và để được hạnh phúc.
Thế là lại một lần nữa, tôi gặp phải những điều làm cho tôi phải suy nghĩ, mất ãn, mất ngủ.
Những chuyện như vậy không thể gọi là hạnh phúc, sung sướng, và dễ chịu. Đúng ra, chúng chỉ là những cái khiến tôi kinh hoàng, và sợ hãi.
Tâm sự sau đây của một người, phải chãng cũng là tâm sự của riêng tôi, hoặc tâm sự chung của thân phận con người:
Tôi là một người đàng hoàng. Tôi được sinh ra và giáo dục trong một gia đình Công Giáo. Tôi kính Chúa và yêu thương đồng loại. Tôi giữ trọn đạo đối với bố mẹ. Tôi thương yêu, nâng đỡ anh chị em tôi. Tôi trung thành với chồng con.
Có lẽ vì tôi quan niệm và sống như vậy, nên tôi không chịu được cái cảnh bố mẹ tôi cứ tối ngày xào xáo nhau. Tôi không thể kìm hãm được cảm xúc khi nhìn thấy anh, chị, em tôi cứ tranh giành và gây hấn với nhau và với tôi.
Tệ nhất là đứa em kế tôi. Nó sống như một kẻ vô thần. Sống thác loạn. Sống buông thả. Hễ nó thấy người đàn ông nào hợp mắt nó, dù người đó là đen hay trắng, Mễ hay Mỹ, Việt hay Tầu. Dù người đó có vợ hay không có vợ, ly dị hay không ly dị. Dù người đó già hay trẻ. Hễ nó thích là nó tình nguyện vác xác tới, không cần phải mời mọc, hay van xin.
Nó có một đứa con gái mới sinh chưa được 2 tháng. Đứa trẻ không có cha. Đúng ra, cha đứa bé là một thằng nhãi ranh thua nó 5 tuổi. Nhưng nó đã bỏ thằng con trai đó từ lâu, khi mới có bầu được vài tháng. Bây giờ lại đang tằng tịu với một người đàn ông có vợ, ba con, và đang gặp rắc rối với vợ của ông ta.
Tôi không thể hiểu được tại sao Chúa để những chuyện đó xẩy ra. Tôi không thể dằn lòng được mỗi khi nghĩ đến bố mẹ, các anh chị em, và nhất là trường hợp đứa em mà tôi đang kể đây. Tại sao lại thế? Tại sao lại không phải là người khác, mà là nó? Tại sao nó lại là em tôi? Tại sao, và tại sao?
Tâm trạng trên là hình ảnh một cuộc đời đã tàn rụi, thối tha, và mục nát. Mọi chuyện kể như “đã thối”, theo từ ngữ mà Mátta và Maria đã dùng thưa với Chúa khi Ngài muốn đến thãm mộ Lagiarô. Nếu người này có dịp gặp Chúa Giêsu để thưa chuyện với Ngài về trường hợp em của mình, có lẽ cũng sẽ bắt chước Mátta và Maria, thưa với Chúa một lời tương tự “hỏng hết rồi”, hoặc “hoàn toàn thất vọng”!
Nhưng với Chúa thì sao? Ngài không thất vọng dễ dàng như Mátta, như Maria, như tôi, hoặc như nỗi thất vọng của câu chuyện trên. Ngài vẫn đến ngôi mộ nơi có xác chết đã rữa thối. Và chính ở nơi đó, nơi sự chết tung hoành, Ngài làm bừng tỉnh, và hồi sinh những gì kể như đã mất. Vì Ngài là sự sống, và là sự sống lại.
Nếu Chúa không thất vọng, chưa bỏ cuộc tại sao tôi lại thất vọng? Tại sao tôi lại bỏ cuộc một cách dễ dàng?
Nếu Chúa cho rằng cuộc đời tôi, hy vọng của tôi, và tương lai của tôi chưa thối rữa, chưa mục nát, tại sao tôi lại cứ nghĩ rằng nó đã thối rữa và mục nát?
Đúng ra, tôi không có quyền thất vọng, khi mọi chuyện xẩy ra không theo ư mình. Vì trong tận cùng những rã rời, tuyệt vọng, và mục nát của thân phận con người, hoặc niềm ước vọng của con người, Chúa vẫn ở đó và lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi. Tiên tri Giôna đã cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và sự nâng đỡ này, và ông đã thốt lên: “Trong gian chuân tôi đã kêu cầu, và Chúa đã đáp lời tôi. Từ vực sâu tôi nài van Chúa, và Chúa đã nghe tiếng tôi” (Jona 2:3-4).
Đối với tôi cũng thế, Ngài vẫn có thể biến đổi những nỗi thất vọng tuyệt cùng của tôi thành tràn trề hy vọng. Và Ngài luôn đủ quyền nãng phục sinh những gì con người cho là đã chết, chỉ cần tôi tin tưởng và phó thác nơi Ngài.
Có cái chết thể lý và cũng có cái chết tinh thần. Cái chết tinh thần làm con người tuyệt vọng:MC 5-A60
Có cái chết thể lý và cũng có cái chết tinh thần. Cái chết tinh thần làm con người tuyệt vọng và đôi khi dẫn tới cái chết thể lý. Đức Yêsu là sự sống lại, là Đấng làm cho những người tuyệt vọng được hy vọng trở lại. Ngài là lẽ sống và sự sống của con người.
1. Mong chờ được giải thoát khỏi buồn phiền
Có thể nói, ai cũng có kinh nghiệm về niềm vui nỗi buồn, về hy vọng và thất vọng, về thành công và thất bại. “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Ít có ai thành công trọn vẹn về mọi phương diện trên đời, làm sao tránh được những buồn phiền và chán nản! Ai có thể mang lại hạnh phúc cho con người!
Dân Do Thái thời bị lưu đày sang Babylon, xa quê cha đất tổ, nơi đất khách quê người, cô thế cô thân nên bị hà hiếp bóc lột, vẫn mong có một ngày được trở về quê hương. Thiên Chúa đã giải phóng dân khỏi cảnh lưu đày, khi cho một vị vua khác nổi lên chinh phục những nước láng giềng, và cả đế quốc Babylon. Vị vua này, theo tác giả sách tiên tri Ysaya, là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đối với người Do Thái. Vua Kyrô xứ Ba-Tư đã ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái lưu đày được trở về quê hương. Dân Do Thái vui mừng như từ cõi chết sống lại. Thiên Chúa là Đấng mang lại niềm vui và sự sống cho dân Ngài.
Thiên Chúa luôn là Đấng đong đầy khát vọng của con người. Nơi Kitô hữu, Đức Yêsu là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa ban tất cả cho con người trong và nhờ Đức Yêsu Kitô.
2. Ta là sự sống lại và là sự sống
Trong cuộc đời rao giảng, Đức Yêsu đã làm cho một vài người đã chết được sống lại, như con bà goá thành Naim, con gái ông Giairô, và Lazarô. Số người được Đức Yêsu làm sống lại trong suốt đời Ngài không nhiều, tuy nhiên đó là những dấu chỉ cho thấy Đức Yêsu là sự sống lại. Qua đời sống của Ngài và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu giúp những đầu gối rã rời, những người tuyệt vọng, thấy được lẽ sống trên đời.
“Ai tin vào Ta, thì dù người đó có chết, cũng sẽ sống lại; và ai đang sống mà tin Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Đức tin vào Đức Yêsu, sẽ làm cho người đó sống lại. Tin vào Đức Yêsu, hàm chứa tin rằng Thiên Chúa yêu thương con người và Ngài đang hành động qua Đức Yêsu, là tin rằng Thiên Chúa đang làm tất cả cho con người qua Đức Yêsu.
Thiên Chúa là Đấng vô cùng quan trọng, và là Đấng yêu thương con người vô cùng. Tại sao mình đi tìm những điều phụ thuộc, để rồi buồn phiền khi không được những điều đó? Con người sẽ thất vọng và tuyệt vọng khi không chọn Thiên Chúa là tất cả cho mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa là tất cả- và thực sự chỉ có Thiên Chúa là giá trị tuyệt đối, thì họ luôn luôn toại nguyện vì Thiên Chúa luôn yêu thương và Ngài ban tất cả cho họ, kể cả chính Thiên Chúa.
3. Niềm tin vào Đức Yêsu
Nơi Đức Yêsu có một điều gì đó vừa bình thường vừa đặc biệt. Ngài vẫn ăn uống ngủ nghỉ như mọi người, nhưng vẫn có một điều gì đó khác thường và siêu việt. Ngài là dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện với con người, Ngài là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài khát nước mệt mỏi ngồi phệt bên cạnh giếng, nhưng cũng không cần ăn để nói về Thiên Chúa, ngay cả chỉ có mỗi một thính giả là chị phụ nữ người Samaria. Ngài thổn thức thương cảm bà mẹ goá thành Naim cũng như chị em Maria Matta, nhưng cũng dứt khoát và xác tín “Lazarô, hãy bước ra”. Nơi Đức Yêsu có điều gì đặc biệt, làm người ta tin rằng, Ngài có thể làm được mọi chuyện.
Khi gặp Đức Yêsu, Matta nói: “nếu Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng ngay cả bây giờ, bất cứ gì Thầy xin Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy”. Dường như Matta có lúc đã dám tin rằng Đức Yêsu có thể phục sinh Lazarô nếu Ngài muốn. Biết đâu niềm tin này giúp Lazarô được phục sinh!
Xin cho chúng ta có niềm tin vào Đức Yêsu, để chúng ta có được tất cả như lòng mong ước, để rồi được sống lại với Ngài ngay từ giây phút này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có biết ai “như thể được sống lại” nhờ vào Đức Yêsu không? 2. Theo bạn, Matta và Maria, ai tin và yêu Đức Yêsu hơn? Tại sao? 3. Lazarô sống lại và Đức Yêsu sống lại khác nhau ở điểm nào?
Hình ảnh anh Ladarô với “tay chân còn quấn vải và mặt còn phủ khăn” đã được Ịức Giêsu cởi:MC 5-A61
Hình ảnh anh Ladarô với “tay chân còn quấn vải và mặt còn phủ khăn” đã được Đức Giêsu cởi bỏ tất cả để anh được tự do ra đi, giúp tôi nhớ lại người anh em đang cùng với tôi ra đi hòa mình với vài nhóm khuyết tật khác để hỗ trợ nhau nhận ra thánh ý Chúa qua Lời của Ngài.
Anh Nghĩa là người khuyết tật chân trái từ hồi còn rất nhỏ sau một cơn bạo bệnh. Khi vào đời với một gia đình gồm ba đứa con, anh phải bươn chải rất gian nan khổ cực, bởi sự gò bó do sức khỏe hạn chế của mình. Xã hội thời kinh tế mày mò gọi là thời mở cửa thị trường cũng làm cho đời sống kinh tế của anh chao đảo lộn xoay.
Anh buộc đưa vợ và các con về Saigòn sinh sống và cố gắng lần mò tìm lấy một công việc ổn định nào đó tương xứng với hòan cảnh hiện tại của mình. Từ một người chân chất ảnh hưởng sâu đậm nếp sống làng mạc chuyên canh tác nông nghiệp, anh lao vào xã hội có quá nhiều những tiểu xảo tinh quái do sự chuyển đổi trong trứng nước của một nến hành chính quá quen thuộc vào quan liêu bao cấp. Chính vì thực trạng quay cuồng liêu xiêu trong mò mẫm, trong chộp giật mà anh đã phải liên tục thất bại, từ việc bán hàng chợ trời cho đến những tháng năm cực nhọc lao công cho các xưởng thủ công mỹ nghệ. Với những thử nghiệm không thể kiểm soát được của chính quyền, thị trường điên đảo mạnh ai người ấy sống, với ưu thế nghiêng hẳn về phía những người có thế lực và có tài lực làm hậu thuẫn để rồi áp đảo những con người khốn khổ với khố rách áo ôm.
Trước những khuynh đảo “cá lớn nuốt cá bé” và chộp giật táo bạo của một thành phố có quá nhiều những di dân từ các tỉnh thành đổ xô về, anh Nghĩa bị rơi vào một tình huống túng quẫn do sự lừa đảo quá khôn ranh của một tay phỉnh gạt chuyên nghiệp và sự cố bi thảm này khiến anh phải đối diện với sự thất bại cay đắng vừa vật chất trắng tay, vừa tâm hồn tuyệt vọng. Niềm tin vào con người đã bằng không!!! Sự suy sụp hiện thực cuộc sống này đã bào mòn tâm hồn anh trở thành hư không trống rỗng cùng tận.
Trong giây phút muốn tự kết liễu đời mình, anh chợt nhận ra một tia sáng khi lương tâm anh nẩy sinh ra một vấn nạn mà từ lâu anh đã không hề nghĩ tới. Tia sáng ấy chính là sự dằn vặt từ sâu thẳm: “Tại sao ta lại phải u uất khốn cùng quá độ đến thế này? Trong khi Đức Giêsu đã công bố: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” Chính ánh sáng Mối Phúc Thật nhỏ bé này làm bừng sáng lên ngay trong giây phút bi thảm nhất của cuộc đời và đã làm anh tỉnh ngộ cùng gieo vào lòng anh một niềm hy vọng nơi Thiên Chúa mà từ thiếu thời anh đã được cha mẹ và Giáo Hội bảo ban, răn dậy. Từ luồng tư tưởng trở về với Ánh Sáng, anh đã chuyển hướng cùng quyết tâm chạy đến một ngôi nhà thờ gần nhất để dốc hết tất cả những gánh nặng buồn đau mà anh đang mang vác hầu trao dâng cho Chúa để phó thác cho Ngài ủi an.
Chỉ ít lâu sau đó, anh gặp được một vài ân nhân giúp đỡ và nhờ những bàn tay nhân ái đó, đời sống kinh tế của anh và gia đình đã có khởi sắc đi dần vào ổn định. Đồng thời đức tin của anh được nâng lên vững mạnh nhờ những khóa học Kinh Thánh tại giáo xứ. Để rồi, anh đã nhận ra chính Đức Giêsu Kitô là sự sống lại và là sự sống của anh, bởi anh đã cảm nghiệm sâu xa lời Đức Giêsu nói trước khi cho anh Ladarô sống lại là:
“Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, Sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 11, 25-26)
Lòng say mê Lời Kinh Thánh đã cho anh một cuộc sống mới. Một niềm say mê rao truyền về những kỳ công mà Chúa đã làm cho anh ngay khi anh còn là tội nhân và cũng để là nhân chứng về mặc khải của Đức Giêsu:
“Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. Thật, tôi bảo thật các ông: Giờ đã đến – và là lúc này đây – giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, ai nghe thì sẽ được sống.” (Ga 5, 24-25)
Cũng như thánh Phaolô truyền sang cho anh sức mạnh Thần Khí, khi ngài khuyên cộng đòan Êphêsô:
“Thiên Chúa giầu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dù chúng ta đã chết vì sa ngã, Người đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ. Người đã cho chúng ta cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên cõi trời.” (Ep 2, 4-6)
Từ anh Ladarô trong Phúc Âm cho đến những người được “Thiên Chúa đến cứu giúp” trong thời hiện tại, tôi đã cảm nghiệm thật chính xác rằng: “tay chân còn quấn vải và mặt còn phủ khăn” muốn diễn giải với chúng ta là hoạt động con người bị hạn chế và đôi khi thất bại, song các giới hạn và thất bại này không thể triệt hạ sự tự do của kẻ tin vào Đức Kitô. Hơn nữa, cái chết đặt ra một giới hạn cho sự sống của con người nhưng đức tin của người Kitô hữu vượt qua giới hạn đó. Như vậy, Kitô hữu đã ở bên kia cái chết tức “Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết nữa”.
Công Đồng Vaticanô II có một đoạn tuyệt vời mà tôi đã suy niệm và xin được trích ra đây để cùng nhau sống Mùa Chay Thánh đang đi dần vào Tuần Thánh sắp tới:
“Trước cái chết, óc tưởng của con người đành bất lực, nhưng Giáo Hội được mặc khải của Thiên Chúa dậy bảo, quả quyết rằng.... sự chết thể xác này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế tòan năng và nhân ái mang lại cho con người ơn cứu rỗi, mà vì tội họ đã đánh mất. Bởi Thiên Chúa đã vá đang kêu gọi con người kết hợp tòan thân họ với Ngừơi trong một hiệp thông vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chiến thắng ấy, Đức Kitô đã đoạt được khi Ngài sống lại, và bởi cái chết của Ngài, Ngài đã giải phóng con người khỏi cái chết”. (HCMV số 20)
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
Chính “Chúa là sự sống lại và là sự sống của con”. Con xin cảm tạ Ngài đã cho con nhận ra mình còn nhiều yếu kém bất toàn khi Mùa Chay đang di dần vào Tuần Thánh.
Xin giúp con luôn hướng nhìn lên Thập Giá Chúa để con sẵn sàng cởi trói những gì có thể chôn vùi con trong nấm mồ tội lỗi hầu xứng đáng là đứa con ngoan “sẽ không bao giờ phải chết” như lòng Chúa mong muốn. Amen.
Phụng vụ Chúa Nhật Thứ V Mùa Chay gần như đưa chúng ta đến sát Mầu nhiệm Tử Nạn-Phục sinh: MC 5-A62
Phụng vụ Chúa Nhật Thứ V Mùa Chay gần như đưa chúng ta đến sát Mầu nhiệm Tử Nạn-Phục sinh, một Mầu nhiệm trọng đại của đức tin Kitô giáo sắp được cử hành long trọng trong Tuần Thánh sắp tới. Chính vì thế mà ngày xưa, phụng vụ đã bắt đầu gọi tên Chúa Nhật và Tuần lễ nầy là “Chịu Nạn” (Dominica Passionis). Trong khi đó, các Bài đọc và ca kinh hôm nay gần như tập chú vào huyền nhiệm “Chết” và “Sống lại” như một lời tuyên tín về Đức Kitô, Đấng chiến thắng những quyền lực của sự dữ nhờ cuộc chiến thắng của Người trên tử thần. Sứ điệp phụng vụ hôm nay cũng gọi mời chúng ta mạnh mẽ dấn thân và hân hoan tiến bước vượt qua muôn tăm tối phũ phàng cuộc sống hôm nay trong niềm xác tín và hy vọng phục sinh trong vương quốc vĩnh hằng.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi và sám hối ăn năn để xứng đáng cử hành Thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
1. Tin vào sự sống:
Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn:
Để rồi không biết bao nhiêu câu hỏi đã đặt ra: Tại sao như thế ? Con người là “Nhân ư linh vạn vật” kia mà ? Và làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại để xảy ra như thế ? Như những câu thơ oán thán “Trời già” của một người cha mất đứa con yêu: “Ái ăn đâu, Ái ở đâu ?
Để thương để nhớ để u sầu.
Trời già độc địa làm chi bấy ?
Nỡ bắt con tôi bảy tuổi đầu !
Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái chết của người em trai yêu dấu: “Phải chi có Thầy ở đây thì em con không chết !”.
Phần chúng ta, vấn nạn “nhân sinh quan” nầy gần như đã được giải đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa “Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các ngươi sẽ phải chết” (St 2,17), nghe lời ma quỷ xúi dục, đã đưa tay “hái trái cấm”…và thế là “sự chết đã lan tràn tới mọi người” (Rm 5,12): Ca-in giết A-ben, lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy diệt Sodoma và Gomora…Và cho tới mãi hôm nay, hình như thế giới cứ lần mò tiến đi giữa một “nền văn minh sự chết”: khủng bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo, Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh…
Thế nhưng, đó lại không phải là ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ là “Chúa của kẻ chết” mà là “Chúa của người sống”.
Cho nên, từ hơn năm trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái “vũng lầy nhầy nhụa” đầy những đống xương khô của bóng tối và sự chết, của đọa đầy và thất vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587 B.C)…dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa như “tiếng kèn hy vọng” qua miệng của ngôn sứ Ê-giê-ki-en: “Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi huyệt…Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh...” (BĐ 1).
Nếu thân phận lưu đày của ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa đầy tội lỗi, thì “tin vui hy vọng” của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính là: niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ được hiểu rằng: chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm thúy của Gilbert K. Chesterton: “Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao”.
Và có một điều kỳ lạ là Thiên Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà “Lời luôn đi kèm hành động”. Biến cố “cải tử hoàn sinh” cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý nầy. Thật vậy, chính ngay “quê hương của tử thần”, ngay cánh cửa dẫn vào huyệt mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty: “Hỡi La-da-rô hãy bước ra”, “Ta là sự sống lại và là sự sống” (TM).
Như vậy bài học đầu tiên của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính là: Tin vào sự sống.
Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho thế giới hay chăng ? Thưa có đấy. Bởi vì chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc sống mới đáng sống làm sao, mới thấy mỗi một con người, mỗi một sinh linh là một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm, cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần hàn…vẫn là một “kỳ công vĩ đại của Thượng Đế” luôn cần được kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu thương và phục vụ. Bởi vì tất cả đều là sự sống tốt lành phát xuất từ nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh cửu rạng ngời vinh quang đó.
Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử thách, mới đủ can đảm mĩm cười với số phận cho dù số phận có khắc nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống cuộc sống hôm nay như một cuộc lên đường, một cuộc vượt qua, một cuộc tái sinh để bước vào quê hương vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh mẽ góp phần xây dựng nền “văn minh sự sống”, “văn minh tình yêu”, cho ta con tim rộng mở để đón nhận và yêu thương con người, cho ta nghị lực và hy vọng để chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và quanh ta.
Cách riêng đối với những anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của những con người vừa kết thúc một chặng đường “vượt qua” đầy nhiêu khê và thử thách để hân hoan tiến vào “miền đất của tái sinh”, hội nhập vào một cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân được cứu chuộc.
Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:
2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:
Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa nào tránh né cái kiếp phận long đong của con người. Hãy xem: những giọt nước mắt đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến cái chết của người bạn thân La-da-rô ở Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những “nụ cười” chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không có “trái tim trắc ẩn” của Ngài dừng lại trên quan tài của người thanh niêm xấu số bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ Naim ? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn người đói meo giữa hoang mạc có được bánh cá thơm ngon đã đời chắc ruột ? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu ? Phải chăng vì Ngài đã không kết án người phụ nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở cửa vào Vương quốc vĩnh hằng ?
Sống đức tin hôm nay đó chính là ý thức mãnh liệt rằng: Đức Kitô phục sinh đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố La-gia-rô qua đời.
Thê thảm nhất, khổ sầu nhất, thất vọng nhất, là khi con người chối từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ thấy được ánh sao hy vọng ở cuối trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ đang dõi nhìn theo…mà chỉ một mình loay hoay bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở thành đêm đông băng giá…Và như thế, một liều thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng đã trở nên “phương tiện gần gũi dẫn lối đưa đường vào cõi chết tuyệt vọng” ! Chúng ta đừng quên câu chuyện “Ngày Thứ Năm Tuần Thánh”: khi Giu-đa phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì “bóng tối dâng lên”…và “bóng tối quái ác” đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng để chọn cái chết buồn tênh tăm tối. Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết đớn đau oan nghiệt của con người tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan niềm hy vọng: “Khi Thầy vào Nước của Thầy xin nhớ đến tôi”. Và lập tức anh ta được đáp ứng: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Như thế đó, Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết để dẫn đưa những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích thực, như hôm nay Ngài xác quyết: “Ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ”.
Phải chăng đây cũng chính là kim chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh, chuẩn bị bằng sự can đảm “chết đi cho cái tôi đáng ghét” của mình, can đảm quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê và dục vọng...để đĩnh đạt cùng với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng.
Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã nhập thể trong nổi đau và cái chết để phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh sẽ không là một công thức suông được lặp đi lặp lại như “điệp khúc của mùa Chay”, mà phải hiện thực ngay trong thánh lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ trở nên lương thực trường sinh để biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn “Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức Kitô: “Con có tin như thế không ?” không phải bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô Matta: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”, nhưng là bằng tất cả con tim và cuộc sống: con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp thập giá.
Để yêu và để sống như thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi với thân phận con người, nhưng lại là chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để cho “Thần Khí chi phối”. Đó chính là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã được Thần Khí đổi mới toàn diện từ một tay “sát thủ” tận lực tiêu diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin Mừng sống lại. Nguyện xin Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến đổi tất cả chúng ta nên những con người mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống lại. Amen.
Người em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh:MC 5-A63
Người em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh viện tỉnh Khánh Hoà, ngay trước giờ tôi chuẩn bị bài nói chuyện với các em thuộc Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo hôm Đại Hội cuối tháng hai vừa qua. Tiêu đề bài nói chuyện hôm ấy là “Mục Đích Đời Sống”. Và mục đích của đời sống công giáo chân chính là gì nếu không phải là sống chết cho nhau, nhất là cho những người đã dày công dưỡng nuôi mình khôn lớn…
Và tôi đã đáp chuyến bay sớm nhất về lại Sàigòn. Rồi thuê một cuốc xe chạy ngày đêm ra Nha Trang. Vào ngay bệnh viện, ông cụ nhận ra tôi ngay -tuy vẫn còn mê man lắm- và ra hiệu muốn nắm lấy tay tôi. Tay đứa con tha phương quyện trong đôi bàn gầy guộc chai cứng theo ngày tháng của người cha già một đời lam lũ hy sinh vì đức tin và vì lý tưởng. Rồi đôi mắt nhoà đẫm lệ, ông cụ hôn tay tôi -như một nụ hôn giả từ vĩnh biệt…
Tôi đã chuẩn bị tinh thần ngay từ khi đuợc báo tin. Nhưng sáng hôm sau, vào lại phòng cấp cứu, ông cụ tỉnh hơn đôi chút. Rồi lạ lùng thay, ông cụ thều thào nói chuyện, kể cho tôi nghe là ông cụ đã đi đến một chỗ nào đó cao xa:. “Ba thấy toàn một màu trắng. Rồi thấy rất nhiều bà Sơ. Nhưng chẳng thấy ông cha nào cả!” Tôi phá lên cười: “Con biết tại sao rồi!”
Ai cũng cừời theo, trừ ông cụ. Và hình như vẫn còn mãi mê về một chỗ cao xa trắng xoá tinh tuyền nào đó, ông cụ ra hiệu cho tôi ghé tai gần: “Ba biết Ba chưa chết!” Tôi liền trấn an, vững tin như Martha về Lagiarô: “Không! Ba không chết đâu!” Phải cấy niềm tin và sức mạnh cho ông cụ, như Chúa Giêsu đã cấy cho Martha hai ngàn năm trước, tôi nhủ lòng mình.
Một điều tôi cảm xúc nhất về câu chuyện Lagiarô, là khi Chúa Giêsu nói cùng Martha: “Ta Là Sự Sống”. Sự Sống. Ngay chính giữa cảnh chết chóc khóc lóc tang thương, Chúa đến mang sự sống; ngay giữa lúc khóc than, Chúa mang đến nụ cười. “Ta Là Sự Sống”: Ta Là. Không Ta Đã Là hoặc Ta Sẽ Là. Ta Là: Hiện Tại; Bây Giờ. Vì với Chúa không thể có quá khứ và chẳng bao giờ có tương lai. Không thể chết, nếu tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại. Không thể chết, vì chết chỉ là một phần của đời sống trường sinh miên viễn...
Sắp bước vào Tuần Chay Thánh, và một lần nữa, câu chuyện người chết sống lại Lagiarô là một lời cảnh báo vừa nghiêm khắc vừa xúc động: là không thể có sự sống đời sau nếu không trọn vẹn và thành tín sống đời sống đời này. Không thể có tương lai hằng cữu nếu hiện tại chỉ là một con số không rỗng toác! “Ta Là Sự Sống”: nếu chúng ta đợi chờ sống đời sống trường sinh chỉ sau khi đã nhắm mắt xuôi tay thì chắc chắn đó là điều vô cùng ảo tưởng…
Là con người như bao con người, Chúa xúc động trước cái chết của Lagiarô: Người rơi lệ. Nhưng Người đã không để cho những bức xúc nhân tính lu mờ đi bản chất thiên tính của mình, như Lời Kinh Tiền Tụng: “Là người thật, Chía Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ.”
Nói một cách khác, giữa những đớn đau mất mát về vật chất xác thịt kia, điều tưởng chừng như phải khóc than đau buồn là khi niềm tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại đã phai nhoà mai một. Chúng ta phải khóc, phải buồn, phải xót thương khi người thân không còn nữa. Nhưng những giọt nuớc mắt và nỗi buồn kia phải quyện trong một niềm tin sắt đá là Sự Sống và Sự Sống Lại đã tiêu diệt sự chết 2000 năm trước đây trên đồi Golgotha cô liêu hoang vắng.
Điều cảm xúc và đáng suy nghĩ khác là khi Chúa Giêsu phán: “Lagiaro! Hãy ra đây!” Đó là một lệnh truyền! Hãy ra khỏi sự chết và hãy bước vào -mạnh dạn bước vào- Sự Sống.
Và vì thế, khi tâm trí dày đặc những ý tưởng sợ hãi, lo âu, buồn phiền, thất vọng; khi phải diện đối diện với những dục vọng vật chất xác thịt thấp hèn; khi phải vật lộn với những đam mê bất chính, những giả hình hèn kém vong nô, hãy nghe lệnh Chúa phán truyền với chính mình: “Bạn! Hãy ra đây!”
Và chúng ta phải nghe lệnh truyền ấy. Nghe và bước ra khỏi những hang mộ tối tăm kia, như Lagiarô đã nghe và đã bước ra từ mộ chết đời mình. Hãy đừng chần chừ! Hãy không do dự. Hãy mạnh dạn bước ra vì cuối đuờng hầm, Chúa Giêsu -Sự Sống và Sự Sống Lại- đang giang rộng tay chào đón.
Khi chúng ta khiêm cung nhận biết mình là phận hèn vật mọn, Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta quyền phép đến vô cùng…
Đối với nhiều người Việt Nam, sự chết không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết: MC 5-A64
Đối với nhiều người Việt Nam, sự chết không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết là mãn kiếp, tức là hết đời sống, nên thường ung dung thư thái đón chờ cái chết và chuẩn bị cho cái chết của mình ngay những tháng năm còn khoẻ mạnh. Chẳng hạn như mua sắm quan tài và những đồ khâm liệm đề phòng khi cái chết đến. Cho nên ông Nguyễn Khuyến, vì không muốn phí phạm xa hoa, nên đã căn dặn con cái:
- Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt, Kín chân tay đầu gót thì thôi.
Trong khi đó, người Tây phương thì không làm như vậy. Họ không sắm sẵn quan tài và những đồ khâm liệm. Thậm chí, họ còn sắp xếp để người thân yêu của mình không chết trong gia đình. Tốt hơn nên để người đó chết ở bệnh viện, rồi từ đó đưa thi hài người quá cố, tới quàn tại nhà xác trước khi đưa tới nhà thờ, và từ nhà thờ đưa thẳng ra nghĩa địa.
Còn Chúa Giêsu, Ngài nghĩ gì về cái chết? Theo Cựu Ước, người Do Thái không quan niệm chết là hồn lìa khỏi xác, vì đó là quan niệm của người Hy Lạp. Còn người Do Thái thì cho rằng chết là mất hết sự sống. Với phép lạ cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu không quan tâm đến việc tìm hiểu xem sự sống và sự chết là gì, nhưng điều chính yếu Ngài muốn gởi gấm, muốn xác quyết: Ngài chính là sự sống lại và là sự sống.
Đây cũng là một chủ đề được đề cập đến nhiều lần qua Tin Mừng theo thánh Gioan. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do Thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài đã mạnh mẽ công bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Mục đích của Ngài đến trong thế gian là gì, nếu không phải là để cho chúng ta được sống và được sống một cách dồi dào.
Và để thực hiện mục đích này Ngài đã phải trả một cái giá thật đắt bằng chính mạng sống của Ngài với cái chết trên thập giá. Ngài đã sánh ví mình như hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, có mục nát đi, thì mới sinh nhiều bông hạt. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, hiến mạng sống vì đàn chiên. Và chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy: Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình là giá cứu chuộc cho nhiều người.
Qua cái chết của mình, Ngài đã đem lại cho chúng ta ơn cứu độ, cũng như biểu lộ được tình yêu tuyệt vời Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người liều mạng sống mình vì bạn hữu.
Để chuẩn bị bước vào tuần thánh, chúng ta hãy suy gẫm lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrôme: MC 5-A65
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.
Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”
Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”
“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”
Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).
Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.
Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.
Thưa anh chị em,
Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?
Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.
Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.
Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.
Anh chị em thân mến,
Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.
“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.
Dấu lạ thứ bảy theo Tin Mừng Gioan là dấu lạ vĩ đại nhất, đến nỗi có vài nhà chú giải xem: MC 5-A66
Dấu lạ thứ bảy theo Tin Mừng Gioan là dấu lạ vĩ đại nhất, đến nỗi có vài nhà chú giải xem dấu lạ này như là sự biểu hiệu trước cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu hơn là đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng.
Luôn luôn như thế trong Tin Mừng Gioan, đây là một bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Cả bài đều được sắp đặt chung quanh Chúa Giêsu; chính trong tương quan với Người mà mọi nhân vật được mời gọi thực hiện việc lựa chọn. Cảnh tượng xảy ra ở hai nơi. Ở bên kia sông Giođan (10,40-11,16) nơi Chúa Giêsu ở ẩn cùng các môn đệ và tại Bêtania (11,16-45) nơi ở của Lagiarô và hai chị. Theo Ga 1,28 thành phố bên kia sông Giođan cũng gọi là Bêtania. Như vậy, có hai “Bêtania”, ngăn cách bởi dòng sông Giođan, nơi này cách xa nơi kia trước tiên không phải về địa lý: có một Bêtania tĩnh lặng, đầy sức sống và lòng tin và một Bêtania náo loạn, đầy chết chóc. Bêtania, gần Giêrusalem, là nơi cư ngụ của Lagiarô, Matta và Maria, được giới thiệu ở đây như ba chị em. Lagiarô –có nghĩa là “Éléazar” (Thiên Chúa đoái thương) theo dạng thức Hy Bá- không được nhắc đến ở nơi nào khác. Cũng danh xưng này còn gặp thấy trong dụ ngôn về anh Lagiarô và ông nhà giàu (Lc 16) trong một tình huống không liên quan gì đến đoạn sách của chúng ta. Maria và Matta cũng không xuất hiện nào khác ngoài Lc 10,38-42.
Phần Dẫn: 1-6
Bài trần thuật mở đề như một truyện ngắn: “Có một người đau nặng”. Lagiarô được đề cập đến trong tương quan với hai cô chị Maria và Matta. Chị Maria được đánh giá dựa vào việc xức dầu thơm cho Chúa Giêsu. Bởi vì cô chị này được đặt quan hệ với “ngày mai táng” của Chúa Giêsu, ta có thể hiểu điểm giải thích này như cách hướng dẫn để suy ngắm: Maria được đặt liền bên cạnh sự tang tóc và sự chết.
Ở điểm này, hai chị em đều không khác nhau. Cô này cũng như cô kia đều được Chúa Giêsu thương mến, cả hai cô đều cho người đến báo cho Chúa Giêsu hay Lagiarô đau nặng. Có hai ghi chú khiến bài trần thuật trở nên bi thảm: Chúa Giêsu thương mến, thế nhưng Người còn lưu lại thêm hai ngày nữa! Điều trái nghịch này có thể là quan trọng. Nó còn lặp lại trong 11,36-37 dưới dạng thức lời xác quyết của người Do Thái: Kìa xem ông ta thương anh Lagiarô biết mấy!... Ông ta lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư!
Phần dẫn nhập này tạo cho Chúa Giêsu một tư thế duy nhất bởi lẽ người báo trước biến cố này như một căn bệnh không phải đưa đến sự chết mà là tỏ hiện vinh quang của Thiên Chúa và của Chúa Con.
Chúa Giêsu Và Các Môn Đệ: 7-16
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ tạo nên một sự toàn nhất. Hơn nữa sự thống nhất của bài trần thuật được đánh dấu bằng sự bao hàm:
Người nói với các môn đệ (c.7) Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê người Do Thái tìm cách ném đá Thầy (c.8) nào chúng ta đến với anh ấy (c. 15) Tôma nói với các bạn đồng môn (c.16) chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy.
Trong phần này, các môn đệ hành xử như thế theo hai thái độ. Trước tiên, các ông là đối tượng để Thầy dạy bảo. Quả thực, đứng trước cái chết của anh Lagiarô và những lời Chúa Giêsu nói, các ông tỏ ra không hiểu gì hết và cần lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chứng tỏ mình thông hiểu và mời gọi các môn đệ cùng chia sẻ: đối với Chúa Giêsu, cái chết của anh Lagiarô là một giấc ngủ: điều đó khiến hiểu rằng Người có thể “đánh thức” nếu anh ta nghe tiếng của Chúa Giêsu. Sau nữa, các ông đi theo Người và sau khi phản đối, cuối cùng các ông cùng tham gia vào chương trình của Người: “Nào chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy”. Thực tế, các ông chứng tỏ thế nào là môn đệ: lắng nghe Thầy và tiếp bước theo Thầy cho đến chết (các Tin Mừng Nhất Lãm sẽ đề cập đến “vác lấy thập giá của mình”).
Người kể chuyện khéo léo đưa vào một tựa đề thích hợp cho mỗi độc giả (mỗi người phải là môn đệ) và một sự quy chiếu vào biến cố đặc biệt bằng cách nêu tên ông Tôma và nhờ vậy tạo nên một căn cứ lịch sử cho bài trần thuật. Như vậy bài trần thuật vừa có tính lịch sử vừa có tính tượng trưng.
Chúa Giêsu Và Cô Matta: 17-27
Bài trần thuật chuyển ngay sang bên kia sông Giođan nơi diễn biến cuộc đối thoại với các môn đệ, tại Bêtania gần Giêrusalem. Tác giả tự do tóm tắt trì hoãn để đạt đến các mục tiêu của mình. Kể từ câu 20, tác giả dùng bài trần thuật ngay tại cổng làng Bêtania để khai triển hai cảnh song song trong đó mỗi chị em đều có một vai trò khác biệt nhau.
Cô Matta bỏ đám đông đang buồn thảm gồm cô Maria và nhiều người Do Thái để đi đón Chúa Giêsu. Việc đi đón này đặt cô Matta vào trong mối liên hệ đặc biệt tin tưởng khi đối diện với Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu hiện diện, sự chết không thể lấn lướt được Người. Niềm xác tín này của cô Matta được diễn đạt bằng ba dụng ngữ.
Trước nhất cô xác tin rằng Chúa Giêsu có quyền trên sự chết. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là cơ hội để cô tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu: “Con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Lời quả quyết giống như một lời cầu xin (như trong 2,3). Về điểm này, cô nhận biết Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, theo cung cách của Êlia và Êlisê, những vị mà Thiên Chúa ban cho quyền làm cho kẻ chết sống lại (1V 17,17-24; 2V 4,18-37). Thế nhưng đối với một tín hữu Do Thái, rõ ràng chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống, như lời của một kinh sư Do Thái minh chứng: “Ôi lạy Chúa, Chúa nắm trong tay ba bí quyết: quyền năng làm mưa gió, làm thụ thai trong lòng người nữ và làm cho kẻ chết sống lại”.
Khi Chúa Giêsu ẩn mình đi để nhắc cho Matta niềm tin của người Do Thái vào việc làm cho kẻ chết sống lại (Ga 11,23), cô liền tiếp theo Người để tin vào tín điều của dân Israel: “Con biết em con sẽ sống lại trong ngày sau hết”.
Nhất là khi Chúa Giêsu tỏ hiện như là sự sống lại và là sự sống, cô Matta liền vượt qua sự hiểu biết để tin: “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (11,27). Ở đây cô là dung mạo của người nữ tín hữu nhận biết nơi Chúa Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa kẻ sống vào giữa loài người. Ở đây Chúa Giêsu trổi vượt các ngôn sứ Êlia và Êlisê: Người được nhận biết như Đấng ban sự sống, theo mẫu hình của Thiên Chúa. Quả vậy, nhờ đức tin cô Matta đã hiểu rằng nơi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa ngự đến giữa loài người. Thật hoàn toàn hợp lý để cô Matta tuyên xưng Chúa Giêsu trong căn tính đích thực của mình, Đấng Mêsia của Thiên Chúa (cùng đích của Do Thái giáo) và Con Thiên Chúa. Như thế, cô tổng hợp Do Thái giáo (Đấng Mêsia) và sự mới lạ của Kitô giáo (Con Thiên Chúa).
Tiểu đoạn này đã đạt đến đích điểm khiến cho việc anh Lazarô ra khỏi mồ sau này trở nên tương đối, bởi vì vận may đặc biệt của anh đã trở nên thứ yếu: “Ở đây điều hệ trọng là “ai sống và tin vào Chúa Giêsu” (11,25).
Chúa Giêsu Và Cô Maria: 28-37
Người kể chuyện muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa hai chị em: họ gặp Chúa Giêsu tại cùng một địa điểm và thưa với Chúa Giêsu những lời như nhau. Thế nhưng lời đầu tiên của cô Maria chỉ lặp lại phần tiêu cực của điều cô em đã nói –“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây”- còn thiếu phần tuyên xưng đức tin. Trong hành động và trong lời nói, cô Maria vẫn còn chìm đắm trong tang chế: cô đang ở với người Do Thái đến chia buồn (cc. 31.33). Cô đang khóc lóc thảm thiết.
Có một niềm tin quá mức nơi cô Matta và một sự buồn thảm nơi cô Maria, ta có thể nói như vậy chăng? Các bản văn đều phóng khoáng và cô Matta người phụ nữ đầy lòng tin lại xuất hiện ở câu 11,39 với những dấu hiệu của sự thiếu tin tưởng. Thế nhưng, theo cách thức của nhà mô phạm, Gioan đã đánh dấu hai thái độ trước sự chết; cô Maria, được đề cập đến ngay từ phần đầu của bài trần thuật với vẻ tang tóc và chết chóc (c.2), tiêu biểu cho con người thất vọng vì sự từ biệt: sự buồn thảm thái quá khiến cô không thể đón nhận nơi Chúa Giêsu Đấng mặc khải của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Đứng Trước Anh Lagiarô: 38-45
Cuộc hội ngộ với anh Lagiarô được đặt liền sau đoạn đau thương khóc lóc và phiền muộn. Chúa Giêsu lặp lại địa vị Chúa Tể của mình và tỏ bày bằng ba cách:
Bằng lời nguyện xin cùng Chúa Cha qua đó biểu hiện sự kết hợp giữa Người với Chúa Cha và niềm xác tín được lắng nghe: “Con biết Cha hằng nhậm lời con”.
Bằng quyền năng của Người nơi các nhân chứng. Người ra lệnh hai lần: “Đem phiến đá này đi”. Cô Matta còn do dự được hướng dẫn đến vinh quan của Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ (11,4). “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Như thế đó, Chúa Giêsu không những giải thoát anh Lagiarô khỏi xiềng xích sự chết, mà còn không ràng buộc con người vừa mới được cứu thoát phải lệ thuộc vào mình. Người gởi trả anh Lagiarô về với sự sống.
Bằng sự can thiệp ngắn gọn nhưng hiện hữu của Người: “Người kêu lớn tiếng: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”. Tiếng kêu này có tác dụng tạo được cho dấu lạ tính cách công khai không? Tiếng kêu có nêu lên được ý nghĩa tiếng nói của Người có thể vang đến xứ sở kẻ chết chăng? Cả hai ý nghĩa đều có thể, cùng với khả năng hướng đến tiếng kêu thảm thiết của Con Người vào thời cuối cùng lôi kéo kẻ chết ra khỏi mồ.
Anh Lagiarô
Khác hẳn với các nhân vật khác, nhân vật Lagiarô khá dài dòng: anh xuất hiện xuyên suốt bài trần thuật: anh là nguyên nhân làm phát sinh câu chuyện; anh là một câu chuyện của mỗi người và tạo cho tất cả các nhân vật khác khả năng làm cho sự chết một ý nghĩa. Anh xuất hiện với dáng vẻ thụ động, im lặng, một sự im lặng phong phú khiến cho mỗi nhân vật của bài trần thuật, và qua đó mỗi độc giả, đều có thể lên tiếng. Anh là người mặc khải cho mỗi người.
Thoạt đầu, không có một yêu cầu nào đặc biệt: chính hai cô chị cho người đến nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng. Sống lại ra khỏi mồ, anh Lagiarô tiếp tục im lặng và rút lui theo lời nói bí ẩn của Chúa Giêsu: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Người kể chuyện quan tâm đến “phần để trắng” trong tiến trình của anh Lagiarô: bốn ngày anh ở trong mồ có ý nghĩa gì? Sau khi sống lại ra khỏi mồ, anh làm gì? Bài trần thuật đạt đến tột đỉnh cùng với việc tuyên xưng đức tin của cô Matta. Anh Lagiarô đã được “đánh thức” bởi vì anh đã nghe lời của Chúa Giêsu. Đấy là chỗ duy nhất trong bài trần thuật: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”. Tuy nhiên, về cuộc hành trình cá nhân của anh Lagiarô, không có một dấu vết nào được thuật lại cho chúng ta ngoài sự kiện anh Lagiarô một trong những người đồng bàn cùng với Chúa Giêsu trong 12,2: Orgiène đã nói: “Anh Lagiarô đã trải qua một quãng đường dài, bởi vì anh đã đi từ ngôi mộ đến bàn tiệc của Chúa”. Anh biến khỏi bài trần thuật khi mà thánh sử thông báo rằng các vị thượng tế quyết định giết cả anh Lagiarô nữa (12,11): lời nói có hiệu quả đáng kinh ngạc. Chúng ta sẽ không còn biết gì về anh nữa, ngoài những tục truyền. Thánh sử đã đề cập khá đầy đủ về anh: từ nay cần phải nhường chỗ lại cho Chúa Giêsu, Người mà anh có nhiệm vụ chuẩn bị sự chết và sự vinh quang.
Chúa Giêsu Được Tỏ Hiện
Trọn bài trần thuật đều tập trung vào Chúa Giêsu. Trong mỗi phân đoạn, Người đều là biểu tượng chính yếu và lần lượt tỏ lộ một khía cạnh nhỏ về căn tính của Người, như được chứng mình khi ta nhìn thoáng qua các phần khác nhau của bài trần thuật.
1. Từ Bêtania của sự sống đến Bêtania của sự chết.
Cũng như cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ xứ Samaria, bên bờ giếng Giacob: MC 5-A67
Cũng như cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ xứ Samaria, bên bờ giếng Giacob, như bước chân của người mù bẩm sinh tiến về ánh sáng, Phúc âm về sự Lazarô là một trong những bản văn quan thuộc truyền thống Gioan mà Giáo Hội, ngay từ hai thế kỷ đầu tiên, đã dùng vào việc khai tâm cho tân tòng.
Đi liến với trình thuật về quyết định của Hội đường - dẫn đến việc kết án Đức Giêsu - trình thuật về sự phục sinh Lazarô là một văn bản bản lề trong Phúc âm Gioan. Trình thuật này hoàn tất phần một, với dấu chỉ thứ 7 (số 7 là số hoàn hảo) và cũng là dấu chỉ cuối cùng của Đức Giêsu.
Trình thuật này cũng khởi đầu phần hai vì sắp đề cập đến cái chết của Đức Giêsu khi nói với giới lãnh đạo Do Thái rằng đã đến lúc kết thúc với Người.
Trình thuật này dẫn ta từ một Bêtania này đến một Bêtania khác. Bắt đầu ở Bêtania bên kia sông Giođan, "nơi Gioan làm phép rửa" (1,28). Đức Giêsu đã tĩnh tâm ở đó sau một cuộc tranh luận vào dịp lễ Cung hiến Đền thờ và người Do Thái đã muốn ném đá Người (1,39 và 11,8). Trình thuật kết thúc ở Bêtania gần Giêrusalem nơi Matta và Maria đã phát ra thông tin báo động: "Thưa Thầy, người Thầy yêu mến đang bệnh nặng".
A. Marchadour nhận xét: Như thế có hai Bêtania cách nhau bởi con sông Giođan, xa nhau bằng một khoảng cách không chỉ đơn thuần là địa lý: Bêtania của yên tĩnh, của sự sống, của đức tin và Bêtania của lo âu, của cái chết. Sự chậm trễ của Đức Giêsu sẽ là nguyên nhân cho truyện kể - cho Người có cơ hội giải thích trước rằng cơn bệnh của Lazarô không nguy đến tính mạng, nhưng chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa và Con Người. nếu Đức Giêsu nói về cái chết của bạn Người là một “giấc ngủ” chính là để ta hiểu rằng ông có thể thức dậy nếu ông nghe tiếng Người.
Trình thuật này là truyện kể về sự trở lại đời sống hơn là về sự phục sinh theo đúng nghĩa. X. Leon Dufour viết: "Thực vậy, từ ngữ "phục sinh" thường được dùng trong phép lạ này là không chính xác, vì, theo dữ kiện Kinh Thánh, từ ngữ ấy được dành riêng để chỉ sự vượt qua từ cái chết đến sự sống vĩnh viễn; nó không được dùng để chỉ cuộc trở lại với đời sống ở trần gian này: Để nói về sự phục hồi sự sống gian trần, ta có thể dùng từ ngữ hồi sinh, nhưng từ ngữ này có tính chất y học được dùng. Vậy ta nên dùng kiểu nói "trở lại đời sống” để chỉ sự kiện này".
2. Một hành trình của nhận thức.
Một lần nữa Gioan lại đưa ta vào một hành trình nhận thức.
Một lần nữa, ta có thể quan sát những chuyển dịch có ý nghĩa biểu tượng rất cao của các nhân vật trong trình thuật. X. Leon Dufour ghi nhận: "Mọi người đều rời nơi mình ở. Mọi người đều ra đi. Đức Giêsu và các môn đệ từ bên kia sông Giođan; những người Do thái từ Giêrusalem, Matta từ ngôi làng, Maria với những người Do Thái từ nhà nàng trong làng; Lazarô từ nấm mộ. Nếu Đức Giêsu ngừng chân, khi đến Bêtania và không vào nhà hiếu, chính là để lại lên đường cùng với cả nhóm, tiến tới nơi Người phá tan sự chết, trong khi chuyển động của các nhân vật khác, kể cả Lazarô, đều hướng tới gặp gỡ Ngài".
Một lần nữa, ta có thể nhận ra những bí quyết luôn làm cho truyện kể thêm sinh động: Sự khinh thường của các môn đệ về giấc ngủ cái chết của Lazarô. Sự khinh thường của Matta vế vấn đề thời điểm phục sinh: ngày sau hết, ngay bây giờ. Phải đi xa hơn nữa để vượt qua mức độ đầu tiên của ý nghĩa:
Về ánh sáng: ta sẽ được mời, cùng với các chứng từ? vượt qua "ánh sáng của trần gian này đến với Đấng là Anh sáng soi trần gian" (câu 9-10).
Về ơn cứu độ: ta sẽ được mời, cùng với các chứng từ vượt qua thứ chữa khỏi bệnh một cách quá giản đơn, cả cuộc hồi phục sự sống về phương diện sinh lý, đến sự tiếp nhận ơn cứu dộ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
3. Lên đến tuyệt đỉnh trong lời tuyên xưng đức tin của Matta.
Tới Bêtania trong xứ Giuđêa này, Đức Giêsu phải đối diện ngay với nỗi đau khổ của hai chị em của Lazarô. Trước hết dó là cuộc gặp gỡ với Matta. Bà bỏ nhà ra đón Đức Giêsu. "Khi Matta hay tin Đức Giêsu đến, bà chạy ra gặp Ngài, trong khi Maria ở lại nhà" A. Marchadour cảm nhận: Matta rời bỏ nhóm đám tang gồm Maria và các người Do Thái để đi gặp Đức Giêsu. Sự ra đi này đặt Matta vào một mối tương quan tin tưởng đặc biệt, trước mặt Đức Giêsu. "Nếu Thầy có ở đây, em con đã không chết" bà nói với Đức Giêsu như thế, vì biết Người có một sức mạnh rất hiệu lực để chống lại cái chết và sự hiện diện của Người có thể cứu Lazarô thoát chết. Bà cũng nhận biết Người có uy tín với Thiên Chúa nên lời cầu của Người sẽ tác dụng? "Nhưng con biết rằng, ngay cả bây giờ, Chúa sẽ ban cho Thầy bất cứ điều gì Thầy xin".
“Em con sẽ sống lại" Đức Giêsu trả lời, bầng cách nhắc lại cho bà niềm tin của người Do Thái vào sự sống lại ngày sau hết. Matta không ngần ngại phụ hoạ vào niềm tin Irael ấy: "Con biết ngày tận thế em con sẽ sống lại”.
Ở đây Đức Giêsu lại vượt qua một ngưỡng cửa mới. Ngưỡng cửa ấy là thuộc tính của Thiên Chúa: làm cho sống và làm cho chết. Đức Giêsu tự nhận. Ngài long trọng tuyên bố: "Ta là Sự Sống lại và là sự sống". Không cần phải đợi đến ngày tận thế. Cuộc sống mới là một thực tại hiện diện nơi Người ngay lúc này. Sự sống ấy được ban tặng cho ai tin vào lời Người. "Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta, sẽ không chết đời đời. "Con có tin không. Matta trả lời: Vâng thưa Thầy, con tin Thầy là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa đến trong trần gian”. A. Marchadour bình luận "Ở đây Matta là khuôn mặt của kẻ tin nhận biết nơi Đức Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa của người sống đến giữa con người. Ở đây Đức Giêsu còn hơn Êlia hoặc Êlisêô: Ngài được nhận biết là Đấng làm cho sống, theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, nhờ đức tin Matta đã hiểu rằng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đến giữa nhân sinh. Thực là hợp lý khi bà tuyên xưng Đức Giêsu trong căn tính của Người là Messia của Thiên Chúa (điểm tới của Do Thái giáo) và là Con Thiên Chúa. vì thế, bà qui tụ Do Thái giáo (Đức Messia) và Kitô giáo (Con Thiên Chúa).
Rồi, đó là cuộc gặp gỡ với Maria, vẫn còn trong tang chế cả về thái độ lẫn lời lẽ: "Cô là một trong nhóm người Do Thái chịu tang chế". Ngay từ đầu trình thuật, cô vẫn chìm đắm trong tang chế với cái chết, cô tượng trưng cho con người bị sự chia lìa của cái chết đánh gục: Sự buồn bực thái quá đã cả ngăn cô ra đón tiếp Đức Giêsu, mạc khải của Thiên Chúa.
4. Và dấu chỉ hồi sinh của Lazarô.
Xúc động sâu xa khi thấy Maria và những người Do Thái theo cô cũng khóc, Đức Giêsu lại xúc động khi đứng trước mộ của Lazarô bạn Người.
- Dù đã tuyên xưng đức tin mạnh mẽ, Matta vẫn nghi ngại khi phải mở cửa mồ, bà thưa với Đức Giêsu: "Nhưng thưa Thầy, chôn đã 4 ngày rồi. X. leon Dufour lưu ý: khoảng thời gian 4 ngày chẳng phải là một lựa chọn ngẫu nhiên, nó liên hệ đến niềm tin dân giả cho rằng kể từ ngày thứ bốn linh hồn bay lởn vởn quanh xác chết nhưng không thể nhập vào được nữa. Lazarô phải thực sự chết và xác đã bắt đầu có mùi như thế mới biểu lộ được chiến thắng của Đức Kitô. Matta tức khắc ca ngợi vinh quang Thiên Chúa. Đức Giêsu bảo bà: "Thầy đã không nói với con rằng nếu con tin con sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”.
Theo lệnh Người, tảng đá che cửa mộ được mở ra, và lời cầu khẩn của Người quá vững chắc đến độ biến thành lời tạ ơn: Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã nhận lời con. Theo lệnh truyền oai quyền của Người: Lazarô, hãy đi ra! Người chết ra khỏi mộ. Thần chết nắm giữ ông trong vòng tay tượng trưng bằng các giải băng, nay không còn chút quyền hành nào trước mặt Đức Giêsu, Người kết luận: Hãy cởi dây và để cho ông đi.
Đức Giêsu đến từ xứ sở sự sống đã ở lại trong nhân tính bi đát nhất của Người, Đấng phá vỡ ranh giới chia Thiên Chúa - con người, sự sống - sự chết. Cái chết của Lazarô mà Maria và các người Do Thái coi như kết thúc ở đây trở thành một thoáng qua; các Kitô hữu đầu tiên, những người tuyên xưng chờ đợi lâu dài của Israel đã hoàn tất nơi Đức Giêsu Đấng được Cha Người phong làm Đức Chúa, đã cảm nghiệm rằng cái chết vẫn còn ảnh hưởng tới các bạn hữu của Đức Giêsu; khi cái chết đe doạ, Đức Giêsu và Người đến quá trễ không ngăn được thân xác huỷ hoại, tang chế và nỗi buồn. Trước những lời chất vấn này, trình thuật đề nghị một lời giải đáp bằng mượn lối văn kể chuyện để chuyển đạt một giáo huấn khá gần với giáo huấn của Phaolô trong thư thứ nhất giở dân thành Thesalonica.
Truyện kể chấm dứt, để lại độc giả - và cả chúng ta hôm nay - đối diện với Lazarô, đang sống, nhưng câm nín không nói gì về những gì ông đã cảm nghiệm, sự im lặng của ông buộc mỗi người chúng ta phải tự xác định mối quan hệ của mình với Đức Giêsu, trọng tâm của câu chuyện đi đến cái chết và sự phục sinh của Người. Còn về những người Do Thái, trong khi có nhiều người trong bọn họ tin vào Người, có vài kẻ đến tìm những người biệt phái và kể cho họ nghe những điều Người đã làm. Tiến trình tiếp diễn, sẽ dẫn đưa Đức Giêsu tới đồi Canvê nơi Người dâng hiến mạng sống để ban sự sống thật cho tất chúng ta là những Lazarô.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Lớn lên trong đức tin (N. Quesson, Les entretiens du dimanche A. Droguet et Ardant).
Trong câu chuyện này, cả Matta lẫn Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Matta đã có đức tin ở một mức độ nào đó, đức tin Do Thái: "Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế. Đức Giêsu mời bà tiến thêm một bước: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Con có tin điều đó không. Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho ai tin vào Người. Đó chính là mục đích của phép lạ này: "Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời Con. Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha đã sai Con”.
Kết thúc cuộc khám phá về Đức Giêsu, và để chuẩn bị cho việc tuyên xưng đức tin, chúng ta đã cùng Matta và Maria lãnh nhận bài giáo lý cuối cùng. Những người xứ Samaria đã nhận biết Người là Đấng Cứu Độ trần gian... người mù bẩm sinh đã nhận Ngài là Con Người... Matta và Maria đã tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Đối với nhiều trẻ em, những thanh niên và cả lứa tuổi trường thành, Đức Giêsu trước hết là một người bạn như thuở ban đầu Matta và Maria đã nhận biết. Có phải vào ngày phục sinh, ta sẽ tiến triển trong đức tin khi nói lên, không chỉ bằng môi miệng mà bằng cả một cử hành tạ ơn: "Vâng, lạy Chúa, Người là Đức Kitô, Đấng Messia, Con tin Nguớì là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thế gian... Hôm nay, con muốn xin Người đến lấp đầy lổ hổng của hữu thể con bằng Xác Thể hằng sống của Người, lương thực chân thật cho đức tin của con".
2. Từ “Phục Sinh” của Lazarô đến phục sinh của Đức Giêsu (Missel Communautaire).
Phép lạ đặt ngay trước cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đã tiên báo cái chết và sự phục sinh của Người. Thực vậy nếu Lazarô rút tay chân bị trói ra khỏi giải băng và khuôn mặt bị che phủ khỏi tấm chăn liệm, điều đó nhắc nhở một cách đầy biểu tượng rằng ông vẫn còn là một người phàm hay chết. Đức Giêsu sẽ thoát ra vào ngày Phục sinh như một người bất tử, được vĩnh viễn giải thoát khỏi sự chết. Nơi Đức Giêsu, sự sống đã khải hoàn.
3. Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa mở cửa mồ
Nhìn thế giới ta sẽ thấy nó thật bệnh hoạn. Sự phát triển của phương Bắc đã bị xét lại về sự coi thường môi trường và những nguy cơ nó gây ra cho tương lai của hành tinh và cho những thế hệ tương lai. Sự phát triển ấy càng bị chống đối khi ta nhìn thấy những người nghèo mới, số những người bị loại trừ chẳng bao giờ có thể tái hội nhập. Sự phát triển ở phía Đông cũng thế, tàng sinh ra sự thù hận chủng tộc, bạo lực và nghèo khổ. Sự phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba cũng bị công kích, vì nó không nuôi được dân trong vùng một cách đúng đắn, cũng không phân phối các sản phẩm cho công bình.
Đức Kitô đã nói: "Căn bệnh này không đến nỗi chết, nhưng chỉ lành vinh danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Lời lẽ lạ lùng, ngược hẳn với cái nhìn đầu tiên của ta: Hẳn Người đã cảm thấy điều gì... Thực ra đã 4 ngày rồi... (Ga 11,39). Tuy nhiên đó là đức tin, là niềm hy vọng của ta. Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa sự sống. Thiên Chúa của ta là Đấng mở những nấm mồ. Đức Kitô của ta là Đấng, giữa đoạn đường từ làng tới nghĩa trang, đã bảo đảm cho ta vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chúa của ta là Đấng kêu lên: Hãy đi ra. Người gọi chúng ta, những kẻ đang bị giam hãm. Người cởi trói và giải thoát ta khỏi mớ quần áo sự chết, khỏi các giải băng sợ hãi. Thế nên chiến đấu cho công lý trở thành có thể được Yêu thương là luôn luôn có thể được" Con người có thể gặp được nhân tính của mình: anh em không còn dưới áp lực của thân xác nhưng của thần linh vì Thánh Thần Thiên Chúa ở trong anh em (Rm 8,9).
Thành viên của CCFD làm chứng về những điếu đó mỗi ngày. Tình liên đới, đắt giá lắm, nhưng là suối nguồn vui tươi. Sự phát triển rất phức tạp nhưng tiến tới là điều có thể được nếu ta biết hợp tác với nhiều người: các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các xí nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, tư nhân, các Giáo Hội. Mỗi người có thể tham gia theo cách của mình. Đối với chúng ta những kẻ tin, thì trong cố gắng của nhân loại ấy có dấu vết của Thiên Chúa trong lịch sử hoạt động: các con sẽ biết rằng Ta là Chúa khi Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi mồ (Ez 37,13).
Chính Thánh Thần của Đức Kitô và của Thiên Chúa Cha cho ta đủ năng lực chiến đấu chống lại tất cá sức mạnh của sự chết. Chính Người, một ngày kia, sẽ mở cửa đưa ta vĩnh viễn vào sự sống.
Sống ở trần gian, con người vẫn cứ mơ tưởng tới một thần dược, một loại thuốc thần thiêng nào: MC 5-A68
Sống ở trần gian, con người vẫn cứ mơ tưởng tới một thần dược, một loại thuốc thần thiêng nào đó có thể kéo dài cuộc sống hay đúng hơn giúp con người trường sinh bất tử. Thực ra, ở đời chẳng có loại thuốc nào là thuốc bất tử cả.Chỉ có những con người ham sống sợ chết mới đi tìm loại thuốc bất tử mà thôi. Quả thực, nếu có loại thần dược đem lại sự sống vĩnh cửu thì những người giầu có lắm tiền sẽ có cơ hội sống lâu, sống thọ, nhưng đó chỉ là ước mơ, mơ ước trong huyền thoại, trong những chuyện giả tưởng hoang đường. Tuy nhiên, với đức tin Kitô giáo, chúng ta vẫn tin chắc có một loại thuốc bất tử, nhưng nó thuộc ở đời sau mà con người ngay còn ở trong thế giới này phải hết sức tìm cho bằng được…
Tôi vẫn còn nhớ khi còn là sinh viên triết học, tôi đã có nhiều dịp đi thăm trường mù, trường câm điếc. Tôi vẫn có cảm giác thật xót thương những con người xấu số: không nhìn thấy, không nghe được. Có những lần tới với những anh chị em mù, câm điếc, tôi buồn và xót xa vô hạn, nhưng đó chỉ là cảm giác mau qua của những con người được hạnh phúc thấy, nghe và nói được. Điều đọng lại ở nơi tôi sau nhiều lần thăm viếng, làm việc bác ái và cho đến bây giờ, đó là tâm tình ngưỡng mộ và lòng cảm phục những con người mà tôi cho là xấu đó. Ngưỡng mộ và cảm phục lòng tin của họ đặt nơi Chúa, Người mà họ đã đi theo khi họ được lãnh nhận Bí tích rửa tội.Nhiều lần đi thăm họ và đêm về nằm suy nghĩ, tôi nghiệm ra rằng những con người này có một niềm tin thật đáng trân trọng, họ cam số phận và tin tưởng vào Chúa. Họ cho rằng đời này mau qua và họ sẽ được sáng mắt, được nghe và được nói khi họ trở về với Chúa qua cái chết…
Đó là niềm tin kiên vững, một đức tin không ai có thể lay chuyển đúng như Lời của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay:” Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết “ ( Ga 11, 25-26 ). Những anh chị em mù, câm và điếc, tôi đã gặp trong cuộc đời là bằng chứng diễn tả niềm tin Kitô giáo, niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chính niềm tin này bảo đảm cho họ được sống đời đời. Cái loại thuốc trường sinh mà nghiều người vẫn mong ước đi tìm dù khó khăn biết mấy, dù đắt tiền đến đâu vẫn có người nong nả tìm kiếm để được sống thêm, sống dài, sống lâu ở thế giới này. Nhưng tất cả đều vô ích, y khoa kiếm được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện…Cả đời, thế hệ này qua thế khác vẫn chỉ là một cuộc tìm kiếm vô vọng…Lagiarô được Chúa Giêsu làm phép lạ cho hồi sinh dù anh ta chết, chôn đã bốn ngày trong mồ. Sở dĩ Chúa cho Lagiarô sống lại không phải vì Ngài thân thiết với Lagiarô và gia đình của anh ta, nhưng chính vì niềm tin của Maria và Mácta vào Chúa Giêsu là sự sống và sự sống lại ( Ga 11, 25).
Chúa Giêsu cho con người và cho mọi người hiểu rằng phép lạ cho Lagiarô sống lại chỉ là để chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lớn lao, vô cùng trọng đại: chính Ngài sẽ chết và sẽ sống lại khải hoàn vào sáng ngày thứ nhất trong tuần. Niềm tin cho chúng ta hay Chúa Giêsu chết để đưa chúng ta vào cõi sống và đưa chúng ta từ thế giới tạm bợ này tới quê hương vĩnh cửu trên trời.
Niềm tin Kitô giáo làm nổi bật Bí tích rửa tội bởi vì có qua phép rửa, có Chúa Thánh Thần, chúng ta mới ra khỏi sự tối tăm của tội lỗi. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma:” Nếu Đức Kitô ở trong anh em thì tuy thân xác vẫn là đồ hay chết vì tội, nhưng Thần Khí là sự sống vì đức công chính. Nếu Thần Khí của Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cư ngự trong anh em, thì Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ tác sinh thân xác chết dở của anh em, nhờ bởi Thần Khí của Người cư ngụ trong anh em “.
Mùa Chay đã giới thiệu cho chúng ta về Nước Trường Sinh, Lời mạc khải, Lời Hằng Sống:” Nước Chúa Giêsu ban sẽ trở thành mạch suối…vọt lên cho tới sự sống đời đời “. Nước ấy chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Nước ấy sẽ rửa mọi người muốn trở thành con cái Chúa…Chúa Nhật V Mùa Chay, năm A, hôm nay nói lên phép lạ lạ lùng Chúa làm cho Lagiarô sống lại, và đó cũng là lời tiên báo, nhờ phép rửa tội, chúng ta cũng sẽ được phục sinh từ cõi chết tới cõi sống đời đời. Đó là đức tin của người Kitô hữu và là đức tin của Hội Thánh Công Giáo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng yêu mến và hiểu sâu xa hơn về Bí tích rửa tội chúng con đã lãnh nhận. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Sống ở đời người ta thường tìm kiếm gì ?
Có loại thuốc trường sinh bất tử ?
Phép lạ Chúa làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ý nghĩa gì ? Nó tiên báo điều gì ?
Chúa làm phép lạ cho Lagiarô sống lại phải chăng do Ngài thân thiết với Lagiarô ?
Ông Bà Anh Chị Em nghĩ gì về phép lạ Chúa làm cho Lagiarô sống lại ?
Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển".
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại". Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông". Lúc đó Tôma, cũng có tên là Điđimô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người".
Đến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".
Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em". Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra".
Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi".
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Suy Niệm:
Chúa Nhật V Mùa Chay A
Ez 37,12-14; Rm 8,8-11; Yn 11,1-45
Cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều nói lên sự sống lại; không phải sự sống lại của Chúa mà: MC 5-A69
Cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều nói lên sự sống lại; không phải sự sống lại của Chúa mà là của ta, để ta sống lại trong tinh thần, hầu có khả năng tham dự Tuần lễ Phụng vụ lớn nhất trong năm, cử hành từ Chúa nhật tới. Đó cũng là phương pháp Đức Kitô đã dùng đối với các môn đệ của Người. Chỉ ít ngày trước khi bước vào tuần lễ Vượt qua, ra đi chịu chết một cách nhục nhã trên Thập giá, Người củng cố đức tin của các môn đệ. Người cho Lazarô sống lại để khi thấy Người nằm xuống, họ vẫn không mất niềm tin ở nơi Người. Thế nên bài Kinh Thánh chủ chốt trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bản văn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc. Nhưng hai bài kia cũng rất giàu ý nghĩa.
A. Từ Phục Sinh Thân Xác Đến Phục Sinh Tâm Hồn
Không ai có thể lầm về bài sách Êzêkiel. Ông là vị Tiên tri bấy giờ đang sống với dân lưu đày ở Babylon. Thoạt đầu Dân cứ tưởng cuộc lưu đày chỉ tạm thời thôi. Chúa phạt Dân một lúc rồi sẽ cứu độ. Người ta chờ được giải phóng từng ngày, từng giờ. Giêrêmia đã cảnh giác người ta: không như vậy đâu, hãy thích nghi với hoàn cảnh mới, hãy xây dựng đời sống trên những cơ sở mới mà thi hành Ý Chúa. Nhưng phải đợi khi Yêrusalem bị tàn phá, Dân mới thôi ảo tưởng... Khốn nỗi, họ lại bước sang một thái cực khác. Chẳng hy vọng có ngày hồi hương nữa, họ đâm chán Chúa và muốn bỏ Người. Êzêkiel bấy giờ được sai đến. Ông rao giảng niềm tin: Chúa sẽ ra tay cứu Dân. Người sẽ đem Dân lưu lạc về. Bài sách của ông chúng ta vừa nghe nằm trong lời giáo huấn đó. Và vì ông có óc tưởng tượng mãnh liệt, ông diễn tả việc Chúa hồi phục dân như việc mở cửa mồ cho người chết sống lại. Thật ra hình ảnh đó cũng không quá đáng. Dân lưu đày bấy giờ cũng như kẻ chết ở trong mồ. Mọi khí phách đều đã tiêu tan và nhất là không còn hy vọng nào chỗi dậy được nữa. Chỉ có Chúa có thể cứu độ. Và đưa Dân ra khỏi cảnh nô lệ sẽ khác nào như làm cho kẻ chết sống lại ra khỏi mồ. Hơn nữa Chúa còn hứa sẽ đặt Thần trí Người vào trong những xác chết kia, để sống lại rồi, ra khỏi nơi lưu đày Dân sẽ sống theo tinh thần của Chúa.
Bài sách Êzêkiel chắc chắn đáng suy nghĩ trong Mùa Chay. Những người tội lỗi nhất vẫn không có gì phải thất vọng. Những gia đình nhiều rủi ro nhất vẫn còn lý do để cậy trông. Hơn nữa chúng ta phải cầu nguyện cho tất cả Giáo hội được niềm tin mãnh liệt vào mầu nhiệm Phục sinh. Mọi vấn đề và khó khăn trong cơ thể của Chúa không phải là không có lối thoát. Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại: đó là lời Êzêkiel còn để lại cho chúng ta. Và thật sự Người đã làm như thế. Người đã đưa dân ra khỏi nơi lưu đày. Người đã ban tinh thần và định mệnh mới cho Dân. Dùng hình ảnh phục sinh thân xác, lời tiên tri khuyên nhủ ta tin vào sức mạnh phục sinh tinh thần. Niềm tin này cần cho mọi thời và cho chúng ta.
Nhưng có phúc hơn Êzêkiel, chúng ta còn có niềm tin vào quyền năng Chúa phục sinh thân xác thật sự để đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
B. Từ Sự Sống Lại Đến Sự Sống Đời Đời
Quả thật Đức Kitô đã không phục sinh thân xác Lazarô để ông sống thêm một số năm tháng ở trần gian; nhưng qua việc làm cho ông sống lại Người muốn ban cho chúng ta sự sống đời đời. Vì thế câu then chốt trong bài Tin Mừng hôm nay là chính lời Chúa phán: "Phục sinh và sự sống chính là Ta! Ai tin vào Ta, thì dẫu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta, sẽ không phải chết bao giờ. Ngươi có tin thế không?" (c.25). Và để giúp người ta tin như thế, Người đã cho Lazarô sống lại.
Câu truyện này, thánh Yoan đã thuật lại khá dài; và theo một cách thức khác hẳn khi kể chuyện Chúa chữa người mù. Có thể nói trong câu chuyện người mù, phép lạ đi trước để sau đó nói lên sự xung đột giữa ánh sáng và tối tăm, và tối tăm đã không triệt được sự sáng. Còn ở đây, phép lạ lại đến cuối cùng để củng cố và bảo đảm cho niềm tin đã nói trên. Thế nên vai chính ở đây không phải là Lazarô, mà là các môn đệ, chị em Martha và Maria, và nhất là người Dothái. Dĩ nhiên tất cả đều tùy thuộc vào Đức Kitô.
Người muốn dẫn đưa mọi người vào niềm tin ở nơi Người là sự sống lại và là sự sống. Không phải bây giờ Người mới dạy người ta điều đó. Từ ngày ra đi rao giảng Tin Mừng. Người không ngớt làm cho mọi người tin Người có sự sống đời đời đem đến cho người ta. Nhưng hôm nay, sắp bước vào con đường khổ tử nạn, Người thấy phải khẳng định mạnh mẽ, quyết liệt hơn để củng cố niềm tin của mọi người cũng như để nói lên ý nghĩa của việc Người chấp nhận sự chết.
Người thấy ngay cơ hội đã đến, khi người ta báo tin Lazarô bạn Người lâm bệnh. Vì "vinh quang Thiên Chúa" (c.4), Người còn lưu lại hai ngày nơi đang ở; chứ như vì tình bạn thắm thiết đó là những ngày chẳng sung sướng gì. Đến khi Người ngỏ ý ra đi, các môn đồ lại muốn cản chân. Người phải nhắc lại cho họ bài học hôm trước. Nào là chúng ta phải lao công vào việc của Đấng đã sai Ta, bao lâu còn là ngày; nào là việc Lazarô đã chết mà Ta không có mặt ở đó là để Thiên Chúa được hiển vinh, vì để các ngươi tin. Cuối cùng họ đã phải chịu "ra đi để chết với Người".
Họ có lý, vì cuộc lên đường này sẽ dẫn Người đến thập giá. Nhưng Người còn có lý hơn, vì nhìn xa hơn và đã thấy trước mầu nhiệm Phục sinh. Chẳng vậy mà Người lại chọn ngày thứ ba để lên đường, sau hai ngày ở lại đau khổ vì nghĩ đến người bạn đã chết.
Người đã chuẩn bị đức tin của môn đồ để hiểu việc Người sắp làm. Nhưng còn bao nhiêu người khác nữa: nào Martha, nào Maria, nào vô số người Dothái đến chia buồn với họ. Người chọn Martha là chủ nhà để dạy dỗ bà và mọi người khác về niềm tin Người là sự phục sinh và là sự sống. Lazarô đối với Người không quan trọng, mặc dầu Người rất thương ông. Người chẳng hỏi thăm gì về cái chết của ông. Người chỉ quan tâm đến đức tin của những người đang có mặt. Martha lưu ý Người rằng: "Đã nặng mùi rồi, vì đã được 4 ngày". Người trả lời ngay: Ta đã chẳng nói với ngươi rồi sao? Là nếu ngươi tin, ngươi sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa. Và để khẳng định một lần cuối cùng mục đích và ý nghĩa của việc sắp làm, Người ngước mắt lên mà nói: "Ngõ hầu họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói thế rồi, Người lớn tiếng gọi Lazarô; và ông đã ra khỏi mồ... khiến nhiều người tin vào Người. Nhưng đó chỉ là niềm tin tạm, niềm tin khởi đầu. Phải đợi đến hôm thấy chính mộ của Người đã trống và Đấng chịu đóng đinh hiện đến trước mắt họ, niềm tin vào Người từ đó mới không lay chuyển. Nhưng để có niềm tin hoàn toàn này, đã phải có niềm tin hôm nay sau khi Lazarô được gọi ra khỏi mồ.
C. Từ Tinh Thần Phục Sinh, Sang Đời Sống Phục Sinh
Chúng ta ngày nay có niềm tin đầy đủ. Không những chúng ta tin Đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta đã chết và đã sống lại, mà chúng ta còn tuyên xưng thân xác chúng ta sẽ được phục sinh trong ngày sau hết. Hơn nữa chúng ta còn tin rằng khi đã cùng chết với Người trong bí tích Rửa tội, chúng ta đã được Người ban cho sự sống phục sinh và đời đời của Người. Nói cách khác chúng ta đã là những người được phục sinh trong tinh thần chờ ngày được sống lại trong thân xác.
Niềm tin thật rõ ràng và thật chắc chắn. Nhưng có sống động không? Người tín hữu có sống đức tin của mình không? Cứ dấu nào, người tín hữu biết mình đang sống đức tin Con Thiên Chúa đã phục sinh và đã ban ơn phục sinh cho mình? Thánh Phaolô trả lời trong bài Thánh thư: nếu Đức Kitô ở trong anh em thì tuy thân xác vẫn là đồ chết dở (vì tội), nhưng Thần khí là sự sống (vì đức công chính). Thánh Tông đồ cho chúng ta phương thế để đạt được điều Êzêkiel từng trông chờ. Nhà Tiên tri mong đợi Chúa ban Thần trí cho Dân để họ được phục hồi như kẻ chết được ra khỏi mồ. Chúng ta đã nhận được Thần trí ấy nhờ mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Đức Kitô, vì sau khi Người được vinh hiển thì Thánh Thần đã được đổ xuống chan hòa trên mọi xác phàm. Chúng ta mà để Thần trí ấy hoạt động trong chúng ta thì đời sống chúng ta sẽ không còn những công việc của xác thịt nữa, nhưng mọi hành vi ngôn ngữ đều đã đầy Thánh Thần. Và như thánh Phaolô nói tiếp, nếu Thần khí của Đấng đã cho Đức Yêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ tái sinh thân xác chết dở của chúng ta. Nghĩa là thân xác chúng ta sẽ được sống lại vinh hiển, nhờ Thần khí của Chúa cư ngụ trong chúng ta.
Do đó chúng ta có thể có sự phục sinh và sự sống đời đời ngay từ bây giờ, nếu chúng ta mang trong mình chính Đức Kitô phục sinh. Người đang đến ban ơn đó cho chúng ta trong thánh lễ. Người sẽ theo chúng ta vào đời để tác sinh, hầu chúng ta luôn làm những công việc không phải của xác thịt nhưng của Thần khí. Chúng ta sẽ tích cực trong mọi công việc tốt lành, đặc biệt trong mọi công việc đem lại phục hồi cho Dân Nước. Chúng ta sẽ thể hiện lời tiên tri Êzêkiel và tin chắc nhân loại sẽ phục sinh trong ngày sau hết như Lazarô đã sống lại trong bài Tin Mừng. Và được như vậy là vì Đức Yêsu Kitô đã sống lại và đã ban ơn phục sinh của Người cho chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 11:1-45)
Tiếp tục giúp chúng ta tìm hiểu chân tính của Chúa Giê-su, thánh Gio-an kể lại dấu lạ Chúa cho: MC 5-A70
Tiếp tục giúp chúng ta tìm hiểu chân tính của Chúa Giê-su, thánh Gio-an kể lại dấu lạ Chúa cho anh La-da-rô được sống lại từ cõi chết để chứng tỏ Người là sự sống lại và sự sống đời đời, nhưng nhất là để chúng ta tin Người là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.
Anh La-da-rô và hai người chị là những người bạn thân của Chúa Giê-su tại Bê-ta-ni-a. Nhà của họ là nơi dừng chân cho Chúa và các môn đệ mỗi lần các ngài lên Giê-ru-sa-lem. Với tình bạn thâm giao ấy, khi anh La-da-rô bệnh nặng, các chị đã cho người báo tin cho Chúa Giê-su biết. Nhưng Người cố tình không đến ngay và muốn nhân cơ hội cái chết của anh để giúp người ta tin vào Người. Chúa bảo các môn đệ: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin”. Để chúng ta tin: đó là mục đích của phép lạ. Anh La-da-rô được sống lại thì ngoài lợi ích cho riêng cá nhân anh, phép lạ nhằm đến lợi ích cho những người chung quanh Chúa Giê-su, dân chúng và cả chúng ta hôm nay. Câu chuyện anh La-da-rô được sống lại khiến người ta kinh ngạc, nhưng đó chưa phải là mục đích của phép lạ. Mục đích chính là “để anh em tin”.
Biểu lộ lòng tin vào Chúa Giê-su trong câu chuyện này là hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. Phong cách của hai người khác nhau và cách tuyên xưng đức tin của họ cũng khác nhau. Cô Mác-ta dùng lời nói và cuộc đối thoại với Chúa để xác nhận: “Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Còn cô Ma-ri-a tuyên xưng đức tin bằng hành động. Nghe tin Chúa đến, cô “vội vã đứng dậy đi ra” để gặp Người. Khi gặp Người, cô “phủ phục dưới chân Người và nói: ‘Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết’. Là niềm tin tuyệt đối, nên cô Ma-ri-a yên lặng, không cần phân trần giải thích như cô Mác-ta rằng: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Trong khi cô Mác-ta can Chúa đừng bảo người ta rời phiến đá đậy cửa mộ vì sợ xác chết nặng mùi sau khi chôn được bốn ngày, thì cô Ma-ri-a vẫn yên lặng và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa.
Để kết thúc câu chuyện, thánh Gio-an ghi lại rằng trong số những người chứng kiến dấu lạ Chúa thực hiện, “có nhiều kẻ đã tin vào Người”.
Tin vào Chúa Ki-tô là điều không thể thiếu trong cuộc sống chúng ta. Chúa Giê-su đã quả quyết về sự cần thiết phải tin vào Người: “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Chúng ta là những người đã chết do tội nguyên tổ và tội riêng. Nhưng lòng tin vào Chúa Ki-tô đem lại cho chúng ta sự sống mới được làm con cái Chúa. Tiếp theo, đang khi sống trên trần gian này, nếu chúng ta cứ tiếp tục tin vào Chúa Ki-tô, lòng tin ấy sẽ đưa chúng ta tới sự sống vĩnh cửu. Như thế, rõ ràng lòng tin vào Chúa Ki-tô đã mở ra cho chúng ta một hướng đi: từ thân phận tội lỗi và thù nghịch Thiên Chúa, chúng ta được làm con cái Người, rồi từ thân phận sống như con cái Chúa, chúng ta sẽ tiến về sự sống vĩnh cửu bên cạnh Thiên Chúa Cha ở trên trời.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su thực sự đóng vai trò gì trong cuộc đời chúng ta? Người là sự sống lại và là sự sống, nhưng không chỉ là một ý niệm hay tư tưởng trong thần học, mà là sự sống lại của chúng ta và là sự sống của chúng ta. Có lẽ chính vì thế mà chúng ta mang danh hiệu Ki-tô hữu, nghĩa là có Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô đã đem chúng ta ra khỏi quá khứ tội lỗi và sự chết để sống hiện tại làm anh chị em của Người và con cái Thiên Chúa. Rồi trong cuộc lữ hành trần gian này, Người tiếp tục dẫn dắt chúng ta nhờ Thánh Thần để đưa chúng ta về thiên quốc. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều, là “ai TIN vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gio-an 3:16). Đã sắp kết thúc mùa Chay rồi, Chúa vẫn đang chờ đợi chúng ta trả lời câu hỏi người đã hỏi cô Mác-ta: “Con có tin thế không?” Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Gio 11:1-45:… 17 Đến nơi Đức Yêsu chỉ còn gặp người chết đã hạ mồ bốn ngày. 18 Bêthania ở gần Yêrusalem, lối mười lăm dặm. 19 Có nhiều người Do Thái đến gặp Martha và Maria để phân ưu với họ về số phận người em.
20 Vậy Martha vừa nghe biết Đức Yêsu đến, thì bà ra đón Ngài, còn Maria ngồi lại nhà. 21 Martha nói với Đức Yêsu: "Thưa Ngài, nếu Ngài đã có đây, em tôi đã không chết. 22 Nhưng ngay lúc này, tôi vẫn biết là bất cứ điầu gì Ngài xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài". 23 Đức Yêsu bảo bà ấy: "Em ngươi sẽ sống lại". 24 Martha đáp: "Tôi biết: nó sẽ sống lại thời sống lại ngày sau hết". 25 Đức Yêsu nói với Martha: "Phục sinh và sự sống, chính là Ta! Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; 26 và mọi kẻ sống cùng tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ. Ngươi có tin thế không?" 27 Bà ấy nói: "Vâng, thưa Ngài, tôi tin Ngài là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".
Phép lạ làm cho Lazarô sống lại là “dấu hiệu” cuối cùng trong một loại các dấu hiệu được ghi: MC 5-A71
Phép lạ làm cho Lazarô sống lại là “dấu hiệu” cuối cùng trong một loại các dấu hiệu được ghi lại trong 12 chương đầu của tin mừng Gioan. Biến cố nầy tiên báo sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Có thể phân chia chương 11 như sau: - Lazarô bệnh và bàn luận giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người (11:1-16); - Chúa Giêsu đến Bêtania, đối thoại với Martha (11:17-27); - Chúa Giêsu đối thoại với Maria và làm cho Lazarô sống lại (11:28-46); - Quyết định giết Chúa Giêsu. Lễ Vượt Qua cuối cùng (11:47-57).
Trong phạm vi bài nầy, chúng ta chỉ bàn đến đoạn 11:17-27. Tin Lazarô bệnh đã đến với Chúa Giêsu (c. 3), nhưng Người không đi ngay. Người chỉ đến Bêtania bốn ngày sau khi ông đã được an táng. Đoạn 11:17-27 có thể chia thành hai phần: - Chúa Giêsu đến Bêtania (11:17-20); - Đối thoại giữa Chúa Giêsu và Martha (11:21-27).
Chúa Giêsu đến Bêtania (11:17-20). Những chỉ dẫn không gian và thời gian mang một ý nghĩa nào đó. Lazarô đã được an táng bốn ngày (c. 17). “Bốn ngày ở trong mồ” ngụ ý Lazarô đã chết thật. Theo phong tục chôn cất của người do thái, người chết được an táng ngay trong ngày người ấy qua đời. Theo niềm tin của họ, tinh thần của người chết có thể trở lại thân xác trong vòng ba ngày. Nếu qua ba ngày người chết không chỗi dậy, có thể tin chắc là người ấy đã chết thật. Bởi thế, Martha hết hy vọng và nói với Chúa Giêsu là “đã bốn ngày rồi” (11:39). “Bêtania gần Giêrusalem” hàm ý là sau sự việc tại Bêtania, Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem. Nơi đây, Chúa Giêsu sẽ thực hiện chính sự chết và sống lại của Người. Những gì xảy ra tại Bêtania là sự tiên báo.
Đối thoại với Martha về sự sống lại (11:21-27). Có thể chia cuộc đối thoại nầy thành thành hai phần: - Niềm tin ban đầu của Martha (cc. 21-24); - Chúa Giêsu mặc khải Người là sự sống lại và sự sống, và Martha tuyên xưng đức tin (cc. 25-27). Mỗi đoạn khởi đầu bằng eipen (c. 21.25); trong khi để đáp lại lời của người đối thoại, Gioan dùng cũng động từ legô ở thì hiện tại (cc. 23.24.27). Martha là người mở đầu và cũng là người kết thúc cuộc đối thoại (cc. 17 và 27). Hai từ đối nghịch nhau “chết” và sống lại” (“sự sống”) đặc trưng cho đoạn nầy.
Niềm tin ban đầu của Martha (cc. 21-24). Lazarô là trung tâm của cuộc đối thoại nầy. Qua cuộc đối thoại Martha để cho thấy bà nghĩ gì về sự sống lại. Trước tiên Martha đặt ra một câu điều kiện không có thực là Lazarô “lẽ ra không chết” nếu như Chúa Giêsu đã có mặt ở đó (c. 21). Lazarô đã chết vì Chúa Giêsu đã không có mặt ở Bêtania trước đó bốn ngày. Maria cũng lập lại câu nói nầy (c. 32). Martha và Maria đặt niềm tin vào sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu, người như là một sát thủ của bệnh tật và chết chóc. Trong lời tiếp theo (c. 22) Martha cho thấy Chúa Giêsu có thể cầu xin cùng Thiên Chúa cho Lazarô sống lại (x. 9:31). Bà tin mạnh mẽ vào tương quan đặc biệt của Chúa Giêsu với Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ nói nhiều đến hiệu quả của lời cầu xin, aiteô, qua trung gian của Người, “nhân danh Người” (14:13.14; 15:7; 15:16; 16:13.24). Sau cùng, khi Chúa Giêsu nói là Lazarô sẽ sống lại, anistçmi (cc. 23.24), Martha cho thấy bà tin vào sự sống lại như người do thái tin là kẻ chết sẽ sống lại “trong ngày sau hết” (c. 24). Đến lúc nầy Martha như đại diện cho niềm tin của dân chúng về sự sống lại. Chúa Giêsu sẽ dẫn bà đến đức tin vào Người.
Sang phần tiếp theo (cc. 25-27), Chúa Giêsu là trung tâm của cuộc đối thoại. Ngôi thứ nhất “tôi” của Chúa Giêsu chi phối phần nầy. Động từ pisteuô “tin” (cc. 25.26 (2x).27) được dùng trong mỗi câu, và có đối tượng là Chúa Giêsu. “Tin vào” Chúa Giêsu như là điều kiện dứt khoát để không phải chết. “Tôi là sự sống lại và sự sống” (c. 25). Trong tin mừng Gioan, Chúa Giêsu dùng nhiều lần “Tôi là…” để trình bày về chính mình (6:35.48.51; 8:12; 10:7…). Đây là cách tuyên bố long trọng và cho biết Người cũng có quyền làm cho người chết sống lại và ban sự sống như Thiên Chúa (x. 5:21.25.26). Hai mệnh đề tiếp theo song đối với nhau “Ai tin vào Tôi…”, “Mọi người sống và tin vào Tôi…” (c. 25b và 26) có tính cách phổ quát và áp dụng cho mọi người. Cấu trúc của ba mệnh trên làm nổi bật nội dung: “Tôi là sự sống lại và sự sống” (c. 25a) - “Ai tin vào Tôi thì dẫu chết cũng sẽ sống” (c. 25b)
- “Mọi người sống và tin vào Tôi sẽ không phải chết bao giờ” (c. 26). “Tôi” của Chúa Giêsu là Đấng phải đặt niềm tin vào. Từ Chúa Giêsu phát sinh “sự sống lại và sự sống”. Niềm tin nầy dẫn đến kết quả là có thể loại trừ hoàn toàn sự chết. Nếu đã chết sẽ sống lại, nếu đang sống khỏi phải chết. Vậy “tin vào Tôi” là điều kiện duy nhất để có sự sống lại và sự sống trong chính mình. “Sự sống”, zôç, nơi Chúa Giêsu (c. 25; 5:26) là sự sống của Thiên Chúa (1:4), sự sống vĩnh cửu (3:15.16.36), sự sống đối nghịch với sự chết đời đời (5:24). Người tin vào Chúa Giêsu sẽ được Người dẫn vào sự sống thần linh, ngang qua sự sống lại. Câu hỏi “Con có tin như thế không?” trong mạch văn được hiểu là nhắm đến cái chết của Lazarô; đồng thời thông tỏ cho Martha biết bà phải tin như thế nào. Như thế Martha không phải chờ sự sống lại của em mình vào ngày sau hết, nhưng Chúa Giêsu có thể thực hiện ngay bây giờ nếu tin vào Người.
Martha tuyên xưng đức tin (c. 27). Lời tuyên xưng của Martha bao gồm: thiên sai tính của Người “Đấng Kitô”, nguồn gốc thần linh của Người “Con Thiên Chúa” và việc Người hoàn tất sự trông đợi, “Đấng phải đến trong thế gian”. Mở đầu lời tuyên xưng, Martha dùng cụm từ Nai, kyrie, “Vâng, lạy Chúa/thưa Ngài”. Cụm từ nầy chỉ thấy trong lời đáp của Phêrô khi Chúa Giêsu hỏi ông có yêu mến Người hơn kẻ khác không (21:15-16). Như Phêrô, Martha muốn tiến sâu hơn trong đức tin, muốn gắn bó hơn với Đấng bà tuyên xưng là Con Thiên Chúa.
Thì hoàn thành (perfect) của động từ pisteuô, “tin”, diễn tả sự kéo dài và thường xuyên của hành vi tin. Martha đã tin, vẫn tin và còn tin sâu hơn nữa. Tước hiệu “Kitô” xuất hiện ở đây rất có ý nghĩa. Trước câu 11:27 nầy, Chúa Giêsu có phải là Đấng Kitô hay không là thắc mắc của nhiều hạng người (x. 1:20.25; 3:28; 4:29, 7:26.31.41.42; 10:24). Martha là người đầu tiên tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô; đó như câu trả lời dứt khoát cho những thắc mắc trên. Tước hiệu Kitô nầy gắn liền Chúa Giêsu với Thiên Chúa với tư cách là “Con Thiên Chúa”, và với nhân loại như là “Đấng (Thiên Chúa sai đến) đang đến trong thế gian”. Khi Chúa Giêsu đến, dân chúng nhận ra Người như một ngôn sứ (6:14), vị vua của Israel (1:49; 12:13); trong khi đó, Martha tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Mục đích của việc Người đến là để cứu độ thế gian (3:17), phán xét (8:26; 9:39) và làm chứng cho sự thật (18:37). Ở đây Chúa đến trong thế gian như là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Người sẽ được sống.
Sự chết không thể hủy diệt được người tin vào Chúa Giêsu và kết hiệp liên lỉ với Người, vì Người chính là sự Sống Lại và Sự Sống của họ. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Sống là một hồng ân. Chỉ khi nào mất mát hay bị đe dọa, sự sống mới nổi rõ như một giá trị lớn MC 5-A72
Sống là một hồng ân. Chỉ khi nào mất mát hay bị đe dọa, sự sống mới nổi rõ như một giá trị lớn lao. Hôm nay Đức Giêsu sẽ mạc khải tất cả giá trị đích thực của sự sống trong tương quan với Thiên Chúa.
NGUỒN SỐNG.
Khi còn tại thế, Đức Giêsu sống giữa những tương quan khác nhau. Trong các tương quan, có lẽ Người gắn bó với gia đình Maria và Matta sâu đậm nhất. Sâu đậm đến nỗi đứng trước các chết của Lazarô, “Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.” (Ga 11:33) và “Đức Giêsu liền khóc.” (Ga 11:35) Tuy nhiên, Người không bị tình cảm đè bẹp trong nỗi thất vọng. Người vẫn tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa. Trái lại, chị em Matta đã không kìm chế nổi cơn thất vọng, mặc dù vẫn tin tưởng nơi Đức Giêsu. Cả hai đều nhất trí: “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây, em con đã không chết.” (Ga 11:21, 32) Nhưng vì thực tế quá bi đát, hai cô không dám xin Thầy làm phép lạ và cũng không dám tin Thầy sẽ trổ tài trong trường hợp đặc biệt này. Đó là lý do tại sao cô Matta nói: “ Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết,” (Ga 11:24) ngay sau khi Đức Giêsu đã quả quyết: “Em chị sẽ sống lại !” ( Ga 11:23) Đức Giêsu và cô Matta đều dùng chữ “sẽ”. Nhưng cô hiểu Lazarô sẽ sống lại trong thời cánh chung. Còn Đức Giêsu muốn cho cô và mọi người thấy tương lai không quá xa như thế. Lời hứa sẽ được thực hiện ngay lúc này. Nói khác, Người muốn cho mọi người thấy Tin Mừng luôn mang chiều kích “hôm nay”.
Vượt ngoài sức tưởng tượng, hai cô kinh ngạc trước việc Đức Giêsu trả lại Lazarô cho gia đình và xóm làng. Từ tình trạng tuyệt vọng, hai cô đã nhận lại tất cả những gì đã mất. Còn niềm vui nào lớn hơn ? Niềm vui phát xuất từ niềm tin nơi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Trước khi truyền cho anh Lazarô ra khỏi mồ, Đức Giêsu đã sốt sắng hướng về Chúa Cha như nguồn động lực khiến Người có thể quyết liệt hành động. Tin Mừng thuật lại khi đó “Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: ‘Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.’” (Ga 11:41) Từ xác tín về tình yêu và sứ mạng Chúa Cha trao phó, Đức Giêsu đã mạnh dạn “kêu lớn tiếng: ‘Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!’” (Ga 11:43) Lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm từng nét từng chữ.
Làm sao lời Chúa có sức mạnh truyền tử thần phải buông tha con người ? Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết ! Lời Thiên Chúa đã giải thoát anh Lazarô khỏi ách tử thần. Những khăn vải trên người anh cũng đủ diễn tả cảnh gông cùm anh vừa trải qua. Đức Giêsu muốn giải thoát anh hoàn toàn. Thế nên, Người nói với những người chung quanh: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” (Ga 11:44)
Đức Giêsu đã đưa anh trở về cuộc sống bình thường. Anh sung sướng vô cùng khi nhìn lại các chị và những người hàng xóm. Hơn ai hết, anh thấy sự sống như một hồng ân Thiên Chúa. Hồng ân đó hoàn toàn là dấu chỉ của lòng Chúa thương xót. Nhưng đồng thời, đó cũng là kết quả của niềm tin “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27) “để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa.” (Ga 11:4) Cô Matta đã tuyên xưng như thế. Cô đạt tới tột đỉnh niềm tin. Tuy thế, theo phản ứng tự nhiên, cô vẫn ái ngại trước lời Thầy đề nghị di chuyển phiến đá lấp cửa mồ (x. Ga 11:39) Khi anh Lazarô sống lại, cô đã “thấy được vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 11:40) nơi sức mạnh Lời Chúa. Đúng như Chúa đã phán với Matta: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” (Ga 11:25) Lazarô đã trở thành chứng nhân sống động nhất cho “trung tâm của niềm tin Kitô giáo” (Dictionary of Fundamental Theology 1995:311) : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.” (Ga 11:25)
SỰ SỐNG: MỘT GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI.
Sự sống là một giá trị tuyệt vời và cao cả nhất trên mặt đất. Nhưng giá trị đó đang tiêu trầm và băng hoại. Những nhóm người ủng hộ phá thai, đồng tính luyến ái đang hoạt động khắp nơi để chống lại con người. Liên hiệp Kế Hoạch Hóa Gia Đình Hoa Kỳ đã giết 197,070 trẻ chưa sinh năm 2000, tăng 7.8 phần trăm so với năm 1999. Càng ngày Liên Hiệp càng có nhiều phương tiện tài chánh thực hiện việc phá hủy sự sống con người. Báo cáo tài chánh năm 2001 tổng cộng Liên Hiệp chi tiêu 672.6 triệu Mỹ kim. Trong đó 28 phần trăm do tư nhân đóng góp, chính phủ 30 phần trăm. Ông Douglas R. Scott, Chủ tịch Hội Quốc Tế Quyết Định Phò Sự sống, đã kêu gọi Liên hiệp Kế Hoạch Hóa Gia Đình Hoa Kỳ chấm dứt “việc gia tăng khủng bố các trẻ chưa sinh.” (CWNews 12/03/02) Mặc dù rất nhiều phương tiện ngừa thai đã tung ra, nạn phá thai vẫn không giảm bớt. Vấn đề kế hoạch hóa gia đình ngày càng thêm tồi tệ. Một giải pháp nông cạn không thể giải quyết vấn đề. Xã hội sẽ không bao giờ có được giải pháp tốt đẹp nếu không tìm cách bảo vệ sự sống như một giá trị tuyệt đối. Tuyệt đối vì nguồn gốc và cứu cánh sự sống là Thiên Chúa. Nhất là, vì đã được phục hồi trong Đức Giêsu Kitô, nên sự sống trở thành vô giá.
Để phục hồi sự sống, cần phải đặt tất cả niềm tin nơi Đức Kitô. Thật vậy, chỉ Đức Giêsu mới “là sự sống lại và là sự sống” ! Không thể tìm được năng lực phục hồi sự sống nơi nào khác. Kết hiệp với nguồn mạch sự sống này, con người sẽ có khả năng hoạt động hữu hiệu. Quả thế, “chỉ những người cầu nguyện mới có thể là tác giả những hoạt động xã hội và tông đồ hiệu lực. Ước chi Thánh Thể, nguồn mạch bất tận phát xuất sự hiệp thông và quyết tâm tông đồ, luôn nằm tại trung tâm mọi sự.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit, 08/03/2002) Không kết hiệp với Đức Giêsu trong Thánh Thể, chắc chắn ĐGH đã không thể có tiếng nói mạnh mẽ thế giới như hôm nay. Thánh Thể là nguyên nhân hiệp nhất toàn thể nhân loại. Chính khi kết hiệp với “sự sống lại và sự sống” đó, con người mới hiểu được giá trị sự sống và tìm được đường lối phục hồi những giá trị và liên kết những khác biệt trong sinh hoạt nhân loại.
Đó là một niềm tin đích thực của Kitô hữu. “Niềm tin tôn giáo đích thực là một nguồn suối bất tận đem lại sự kính trọng lẫn nhau và sự hòa hợp giữa các dân tộc; thực vậy, đó là chủ lực chống lại bạo động và xung đột.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) Nếu con người không tìm cách nào đối thoại với anh em đồng loại, nhân loại sẽ bị tiêu diệt. Quả thực, “cuộc đối thoại giua các tôn giáo và các nền văn hóa là một phần cốt yếu trong tiến trình tìm kiếm hòa bình.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) Mặc dù hòa bình nhân loại luôn bị đe dọa, nhưng vẫn có “những dấu chỉ niềm hi vọng đích thực” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) trong các cuộc đối thoại văn hóa và tôn giáo đó đây. Các cuộc đối thoại đó nhằm khám phá “những con đường thực hành cổ động sự hiểu biết giữa các dân tộc và tạo lập nền tảng đối đầu với những vấn đề đang đè nặng gia đình nhân loại vào lúc khởi đầu kỷ nguyên này.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002)
Hi vọng đã vươn lên với tinh thần con người. “Aùnh sáng muôn dân” sẽ giải thoát nhân loại khỏi những chế độ hà khắc, bất công, ích kỷ và đầy thành kiến nặng nề. Tương quan nhân loại sẽ tràn ngập niềm vui và hi vọng khi mọi người đều sống niềm tin đích thực của mình. Riêng Kitô hữu luôn xác tín “sống là Đức Kitô”. Chỉ Đức Kitô mới đem lại sự sống đích thực cho nhân loại mà thôi !
Khuynh hướng của con người ở đời là ham sống sợ chết. Ai cũng ước mong làm sao có thế kéo: MC 5-A73
Khuynh hướng của con người ở đời là ham sống sợ chết. Ai cũng ước mong làm sao có thế kéo dài sự sống càng dài càng tốt. Nhưng từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây nào có ai chế tạo ra được lọai thuốc nào gọi được là trường sinh. Đây chỉ là những giấc mơ trong huyền thọai mà thôi. Con người chỉ có thể nhận ra một thực tế là sự chết không trừ một ai cả…
CÓ MỘT SỰ SỐNG BẤT TỬ ĐỜI SAU:
Đọc lại Tin Mừng chúng ta như thấy có một cái gì thật gần gũi con người, thật gắn bó với ước mơ của con người như người phụ nữ Samaria đã xin Chúa Giêsu cho bà thứ nước không bao giờ khát nữa và bà cũng không phải tới giếng để múc nước hằng ngày. Vị thuốc bất tử con người mong tìm kiếm chúng ta có thể nhận ra ngay trong bài Tin mừng hôm nay:” Chính Thầy là sự sốn lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ khôn bao giờ phải chết”( Ga 11, 25-26 ). Đây là một thực tế, một chân lý, một niềm tin và thật ra ít người nhận ra sự thật này. Tại sao tin vào Chúa Giêsu Kitô sẽ có sự sống đời đời. Tại sao tin vào Đức Giêsu Kitô là đảm bảo cho sự sống đời đời. Ở đây, có lẽ có người cho rằng vì Lagiarô thân thiết với Chúa Giêsu, nên Chúa cho anh ta được sống lại ! Không, phép lạ xẩy ra vì lòng tin sâu xa của Maria và Matta vào Đức Giêsu là “ Sự sống và sự sống lại “ ( Ga 25 ). Phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lagiarô chết chôn bốn ngày trong mồ được sống lại, chính là niềm tin chuẩn bị cho một phép lạ cả thể, phép lạ lớn lao mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện nơi chính thân xác Ngài . Chúa Giêsu như lời đã tiên báo trước sẽ chết theo ý Thiên Chúa Cha, người ta sẽ chôn Ngài nơi huyệt đá và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại vinh quang khải hoàn. Đạo công giáo là đạo tình thường và tuần thánh giúp chúng ta hiểu rõ thế nào là tình thương của Chúa, thế nào là việc Chúa làm để cứu độ gian trần. Vâng, Chúa Giêsu chết và sống lại để đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, cõi sống trường sinh, vĩnh hằng, đưa con người từ nơi tạm bợ đến nơi trường sinh bất tử. Đó là đức tin của đạo công giáo, của những người theo Chúa.
PHẢI QUA SỰ CHẾT MỚI TỚI VINH QUANG:
Thánh Phaolô đã viết:” Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình”( 1 Co 15, 17 ). Niềm tin đòi buộc con người phải sống tự hiến như Chúa. Chúa đã nói:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Đó là tình yêu của một con người tự hiến, một con người dám bỏ tất cả mọi sự để cứu lấy người khác. Tình yêu tự hiến là tình yêu vô vị lợi, tình yêu xả kỷ, tình yêu hy sinh cho người mình yêu. Người Kitô hữu tin vào sự chết và sự sống lại, chính là tin vào một con người đã tự hiến, đã hy sinh cho người mình yêu. Tin vào sự chết và sự sống lại, chính là sống như con người đã tự hiến và hoàn toàn xả kỷ vì người mình yêu. Tin vào Đức Giêsu Kitô sống lại chính là cùng với ngài gánh tội lỗi cho người khác để đi vào cõi phục sinh với Ngài. Người phục nữ Samaria bên thành giếng Giacóp đã được Chúa cho biết tất cả dĩ vãng, hiện tại của đời bà. Nhưng cuộc đời bà đã thay đổi tất cả khi Chúa mở mắt và ban lòng tin cho bà. Tin Đức Giêsu là sự sống lại, chính là chết đi cho những gì là tạm bợ, những gì là mau qua để chỉ tin vào sự vĩnh củu và bất tử của Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự sống. Không thể có một lọai thuốc trường sinh nào ở trần gian này được vì nếu có những người giầu sang, lắm tiền sẽ sống nhởn nhơ và trường sinh ở trần gian này. Chúa đã yêu thương Lagiarô:” Đức Giêsu liền khóc”( Ga 11, 35 ). Điều này diễn tả con người hoàn toàn người của Chúa Giêsu. Ngài yêu thương con người với tất cả con người của Ngài và khi làm cho Lagiarô sống lại từ cõi chết. Chúa muốn bầy tỏ con người còn đời sau và sự sống vĩnh cửu mới quan trọng. Ham sống vẫn là khuynh hướng của con người, nhưng sống vĩnh cửu mới là điều quí nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban long tin cho chúng con để chúng con tin vào tình yêu của Chúa và đặt niềm tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau. Amen.
Các bài Tin Mừng của hai Chúa Nhật trước đưa ta vào hành trình tìm biết Chúa Giê-su là Đấng nào.: MC 5-A74
Các bài Tin Mừng của hai Chúa Nhật trước đưa ta vào hành trình tìm biết Chúa Giê-su là Đấng nào. Người là nước trường sinh (Ga 4:5-42) và là ánh sáng trần gian (Ga 9:1-41). Những ai được ban nước và ánh sáng của Người thì sẽ được sự sống. Do đó, ta có thể nói rằng câu truyện Chúa Giê-su gặp người phụ nữ Sa-ma-ri và câu truyện Người chữa lành anh mù bẩm sinh là hai câu truyện chuẩn bị cho cao điểm của hành trình nhận biết căn tính của Chúa. Vậy cao điểm ấy là việc Chúa cho ông La-da-rô sống lại từ cõi chết, tức dấu lạ nói lên Chúa chính là sự sống lại và là sự sống. Ngày hôm nay cũng là cao điểm cuộc sát hạch cuối dành cho các dự tòng để họ tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô.
1. Thánh Thần là sự sống của Thiên Chúa (bài đọc Cựu Ước – Ed 37:12-14)
Hơi thở là dấu hiệu của sự sống. Lúc Chúa tạo dựng trời đất, “thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1:2), kể từ đó có sự sống cho cây cỏ và muôn loài đủ loại. Đặc biệt khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã lấy bụi đất nặn ra con người và Thiên Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7).
Sự sống thể lý hay sự sống tâm linh đều hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa, Đấng ban sự sống. “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên” (Tv 104:29-30). Mối quan hệ giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en đã được các ngôn sứ, nhất là Ê-dê-ki-en, nhiều lần mô tả như một thực tại liên hệ chặt chẽ với sự sống của Thiên Chúa. Ít-ra-en gắn bó với Thiên Chúa tức là họ gắn bó với sự sống, còn bỏ Thiên Chúa mà đi theo các thần ngoại là họ tự mình cắt lìa khỏi sự sống, nằm trong “huyệt” của người chết hoặc trở thành “những bộ xương khô”. Dân Chúa nhiều lần bất trung với Người nên đã rơi vào tay ngoại bang, sống kiếp nô lệ lầm than không khác người chết mà vẫn còn lê bước. Nếu họ nghe lời các ngôn sứ kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa, Người sẽ cứu họ khỏi cảnh lầm than khốn khổ, đưa họ lên khỏi huyệt và đem về đất Ít-ra-en (Ed 37:12). Nếu họ thực tâm trở lại thờ phượng Thiên Chúa, Người sẽ làm cho họ được hồi sinh. “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh” (Ed 37:14).
Ít-ra-en là biểu tượng cho tâm hồn mỗi người chúng ta. Mỗi khi quan hệ giữa ta với Chúa bị tội lỗi làm cho đứt đoạn, thì sự sống của Thiên Chúa không còn được chuyển tải một cách sung mãn đến tâm hồn ta nữa. Ta trở thành kẻ chết và cần phải được hồi sinh. Trong quá trình Cựu Ước, lòng từ bi của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en thật vô bờ. Khi Ít-ra-en chết trong sự bất trung với Người thì Người đã hứa cho họ được hồi sinh. Sở dĩ Người làm như vậy là để Ít-ra-en “sẽ nhận biết Người là Đức Chúa”. Quả thực, cách Thiên Chúa đối xử với Ít-ra-en cho thấy Người rất lo lắng cho sự sống của họ, hoặc nói đúng hơn, lo lắng cho mối quan hệ của họ với Người. Cũng vậy, Chúa lo lắng cho sự sống linh hồn chúng ta. Người hứa với chúng ta như đã hứa với Ít-ra-en: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh”. Dĩ nhiên Thiên Chúa luôn trung thành giữ lời hứa như Người đã khẳng định: “Ta đã phán là Ta làm”. Người sẽ cho ta được sống lại thật về phần linh hồn. Người lấy sinh khí của Người mà “đổi mới mặt đất này” (Tv 104:30) thế nào thì Người cũng sai Thánh Thần đến với ta để đổi mới ta như vậy.
2. Chúa Ki-tô là sự sống lại và là sự sống của ta (bài Tin Mừng – Ga 11:1-45)
Câu truyện Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại đã được thánh Gio-an kể với nhiều chi tiết thích thú. Tuy nhiên cao điểm của câu truyện vẫn là lời tuyên bố của Chúa Giê-su và việc tuyên xưng đức tin của cô Mác-ta. Thánh Gio-an viết: “Đức Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:25-26).
Bài đọc Cựu Ước trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã trình bày Thánh Thần đem sự sống Thiên Chúa đến cho ta, sự sống đến theo hướng từ Thiên Chúa mà xuống chúng ta. Còn bài Tin Mừng thì trình bày Chúa Giê-su là sự sống lại và sự sống để đưa ta lên với Thiên Chúa. Có lẽ vì thế Chúa Giê-su tuyên bố “Thầy là sự sống lại và là sự sống” thay vì “Thầy là sự sống và là sự sống lại”. Sự sống lại đi trước sự sống, điều này mang ý nghĩa thần học và tu đức. Ta cần phải được sống lại trước đã thì ta mới có được sự sống đời đời. Sống lại có nghĩa là ta nhờ cái chết của Chúa Giê-su mà được trở thành con cái Thiên Chúa để bắt đầu tiến trình trở nên giống Chúa Ki-tô và sống trong Thánh Thần (Rm 8). Do đó, phép lạ Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại là dấu chỉ vô cùng quan trọng, vì nó cho thấy sự sống lại của chính Chúa Giê-su là nền tảng cho sự sống lại của ta từ cái chết bởi tội tổ tông.
Chúa Giê-su đã nói với ông Tô-ma: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đó là ba đặc điểm của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giê-su để ta có thể nhận biết mà đến với Thiên Chúa. Nhưng ở đây Chúa Giê-su lại tuyên bố Người là sự sống lại và sự sống. Ngoài ý nghĩa thần học về sự công chính hóa và đời sống trong Thánh Thần của Ki-tô hữu, thiết tưởng lời tuyên bố của Chúa Giê-su rất thích hợp với tinh thần sống mùa Chay của ta. Sống lại và sống là hai khía cạnh của cuộc đời Ki-tô hữu. Trước hết, Chúa là sự sống lại cho những Ki-tô hữu “đã chết”. Mỗi lần ta phạm tội, linh hồn ta bị thương tổn. Nếu là tội trọng thì mối quan hệ giữa ta với Chúa bị cắt đứt, nên sự sống của Thiên Chúa trong ta cũng bị thiệt hại nặng nề, có khi ta còn là kẻ “chết về phần linh hồn” nữa. Khi ấy ta cần phải được hồi sinh để nhận lại sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giê-su sẽ là Đấng làm cho ta được sống lại, như Người đã phán: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. Ta lấy một thí dụ cụ thể. Ta phạm tội trọng tức là ta “đã chết”. Nhưng nếu ta đến với Bí tích Giải tội và tin vào tình yêu tha thứ của Chúa Giê-su, thì ta sẽ được tha thứ, được hồi phục lại sự sống thiêng liêng đã bị mất đi. Thứ đến, Chúa Giê-su là sự sống của Ki-tô hữu, theo ý nghĩa như Người đã nói với ông Tô-ma (Ga 14:6). Đúng thế, Chúa Giê-su là nguồn sự sống của Thiên Chúa, cho nên ta tin vào Người nghĩa là ta kín múc nước sự sống của Thiên Chúa nơi Người. Chính Người đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp: “Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:14).
Tuy nhiên ta đừng quên một yếu tố vô cùng quan trọng trong lời tuyên bố của Chúa Giê-su, đó là lòng tin. “Ai tin vào Thầy…” “Chết” phần linh hồn mà tin vào Chúa thì sẽ được sống lại. Còn “sống” phần linh hồn mà tin vào Chúa thì “sẽ không bao giờ phải chết”, nghĩa là sẽ được sống muôn đời. Chúa đòi cô Mác-ta phải tuyên xưng đức tin trước khi Người cho em cô sống lại. “Chị có tin thế không?” Cô dõng dạc và tuyệt đối thưa với Chúa: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Chẳng những cô tin Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống, mà cô con đi xa hơn nữa, là tin Chúa Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Thật là một lòng tin vững mạnh vào Chúa Giê-su và sứ mệnh của Người. Động từ “vẫn tin” ở thì quá khứ trong ngôn ngữ Hy-lạp diễn tả một hành vi hiện tại với tất cả sự sống động. Cách nói đó diễn tả tâm trạng của cô Mác-ta, nhưng cũng phải là tâm trạng của mọi Ki-tô hữu nữa.
3. Sống theo Thánh Thần (bài đọc Tân Ước – Rm 8:8-11)
Ta được Chúa Giê-su cho sống lại để làm con cái Chúa. Nhưng phải sống thế nào mới là con cái Chúa? Thư gửi tín hữu Rô-ma đã dành gần hết chương 8 để nói cho ta biết phải sống làm sao như con cái Chúa. Đó là sống theo Thần Khí của Đức Ki-tô.
Điều quan trọng nhất trong đời sống Ki-tô hữu là phải có Thần Khí của Đức Ki-tô, bởi vì “ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô” (Rm 8:9). Đối với thánh Phao-lô, sống có nghĩa là thuộc về Đức Ki-tô. “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21). Hoặc: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2:20). Sự hiện diện của Đức Ki-tô trong ta liên hệ đến sự sống còn của ta, bởi vì trong hoàn cảnh nào thì ta cũng phải hoàn toàn trông nhờ vào Người. Thần Khí là sự sống của Thiên Chúa. Do đó, nếu Thần Khí của Đức Ki-tô ở trong ta thì sự sống của Thiên Chúa cũng ở trong ta. Nói khác đi, thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh đến điểm ta cần phải có Thần Khí của Đức Ki-tô. Sống theo Thần Khí của Đức Ki-tô, ta sẽ gặt hái được những kết quả tốt đẹp. “Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5:22).
Có Thần Khí của Đức Ki-tô, ta mới có thể sống đích thực như con cái Thiên Chúa. “Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:15-16). Có lẽ thực tế nhất trong mùa Chay đối với ta là Thần Khí của Đức Ki-tô “giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn” biết phải cầu nguyện, cầu nguyện để biết được thánh ý Thiên Chúa (Rm 8:26-27).
4. Sống Lời Chúa
Sống lại từ cõi chết vì tội lỗi và sống trong mối quan hệ sống động với Thiên Chúa là đề tài của Lời Chúa hôm nay. Qua Đức Ki-tô, Thiên Chúa luôn luôn muốn ta được sống làm con cái Người và được hưởng gia nghiệp với Người. Thánh Thần là sự sống của Thiên Chúa và Chúa Ki-tô là Đấng đem lại cho ta chính sự sống ấy. Vì thế, Ki-tô hữu cần phải thuộc về Đức Ki-tô và sống theo Thần Khí của Người.
Suy nghĩ: Trong câu truyện Tin Mừng, “cô Mác-ta nói với em là Ma-ri-a: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su”. Lời cô Mác-ta có khi nào tôi nghe thấy trong đời sống của tôi không? Nếu Chúa đến với tôi, tôi có làm như cô Ma-ri-a không?
Cầu nguyện: Lạy Cha chí thánh, Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con, là người thật, Người đã khóc La-da-rô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho La-da-rô sống lại ra khỏi mồ. Ngày nay, cũng vì thương xót nhân loại, Người đã đưa chúng con vào đời sống mới nhờ các bí tích nhiệm mầu. Xin cho chúng con được đồng thanh với các đạo binh thiên thần và triều thần thiên quốc thờ lạy, cảm tạ Cha và tung hô Cha là Đấng đã ban cho chúng con Đức Ki-tô, Người là sự sống lại và sự sống của chúng con. A-men. (phỏng theo Kinh Tiền tụng, Chúa Nhật V mùa Chay)
Nếu chúng ta trở lại với cái bối cảnh của câu chuyện trong Tin Mừng, chúng ta thực sự có: MC 5-A75
Nếu chúng ta trở lại với cái bối cảnh của câu chuyện trong Tin Mừng, chúng ta thực sự có thể chia sẻ với các môn đệ của Đức Giêsu, những tâm tư của các ông đứng trước quyết định của Ngài muốn trở lại Galilêa chỉ vì mấy chị em Lazarô, bất chấp những nguy hiểm cho chính mạng sống. Các môn đệ xem ra rất khó chịu đối với sự liều lĩnh ấy. Các ông tìm mọi lý lẽ để can ngăn. Chúng ta có thể hiểu và thông cảm là vì đấy là những thái độ thường gặp trong cuộc sống. Chúng ta luôn so đo và tính tóan trước mỗi quyết định. Và dù thế nào, chúng ta không thể để mất cả chì lẫn chài. Với một não trạng như vậy, hiển nhiên việc trở lại Galilêa vào thời điểm mà "người Do Thái tìm ném đá Thầy" là một điều chẳng đáng, bởi vì Lazarô, Maria, Martha bất qúa chỉ là những người từng thụ ân Ngài, và cũng chẳng nắm giữ một vai trò nào trong nhóm môn đệ.
Theo cảm nghiệm của Gioan thì câu chuyện này không đơn thuần chỉ là một tường thuật về một sự kiện mang tính tình cảm riêng tư trong những tương quan của Đức Giêsu, mà ở đây nó thực sự là câu chuyện điển hình của Giáo Hội, của Dân được cứu độ.
Trước hết Giáo Hội hay Dân được cứu độ qủa thực gồm những con người cụ thể như chị em Lazarô, như các môn đệ. những con người vốn chẳng là gì trong mọi tính tóan và so đo của người đương thời, ngòai cái lối sống ngòai vòng luật lệ và tập tục cha ông. Nếu muốn tô vẽ cho họ một chút, thì có thể coi họ như là tiêu biểu cho đại đa số quần chúng nghèo khổ. Tuy nhiên, dường như Gioan lại còn chú ý đến khía cạnh tồi tệ nhất của đám người này: trong hình ảnh một Lazarô đau liệt, và rồi lại đã chết. Trước mắt người đời tất cả chỉ còn là thây ma sình rữa "đã nặng mùi rồi". Dân Chúa chẳng vẫn thường bị coi là như thế trải qua các thời đại đó sao? Đặc biệt khi đọc lại trong những trang sử của những triều đại từng bách hại Dân Chúa, người ta sẽ gặp được những kinh tởm và biếm nhục.
Thế nhưng dưới con mắt của Đức Giêsu, mọi sự hòan tòan khác:
Họ là những con người "Thầy yêu". Đó là khởi điểm hòan tòan mới mẻ của Giáo Hội. Chính Đức Giêsu cũng đã từng nói "Không phải các con đã chọn thầy, nhưng Thầy đã chọn các con, và sai các con đi, để các con sinh hoa trái". Tiên tri Êzêkiel đã nói trước về ngày đó "Hỡi dân Ta, nầy Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi.". Tình yêu của Đức Giêsu dành cho Giáo Hội, không có gì có thể ngăn chặn lại kể cả sự chết. Bởi vì tình yêu đây chính là Thần Trí Thiên Chúa, mà Đức Giêsu thông ban cho môn đệ. Thánh Phaolô đã nói về nguyên lý khởi điểm hòan tòan mới mẻ ấy "Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em."
Họ cũng là những con người đã đáp lại Tình Yêu ấy bằng Niềm Tin. Niềm tin đã thúc đẩy họ làm một cái gì tốt đẹp cho Thầy "Xức dâu thơm cho Chúa" "đã sai người đến báo tin cho Chúa" "chúng ta cũng đi để cùng chết với Người" "hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người" và đã tuyên xưng "Vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian", đức tin thúc đẩy họ loan báo người cho người thân "Thầy ở ngòai kia, Thầy gọi em". Tất cả các môn đệ đều đã đi theo cùng một hành trình ấy.
Hai yếu tố căn bản ấy đã làm nên Hội Thánh, Dân Mới của Thiên Chúa.
Kết qủa là nơi Giáo Hội, Dân Mới, mọi biến cố, mọi sự việc, mọi con người là "để làm sáng danh Thiên Chúa" theo lời mời gọi và lệnh truyền của Đức Giêsu "Vậy chúng ta đi đến nhá ông". Người môn đệ sẽ cùng lên đường với Đức Kitô để làm khơi dậy lòng tin cho mọi người.
Xem như thế, người ta không thể tách rời sứ vụ tông đồ truyền giảng Tin Mừng ra khỏi hành trình đức tin.
Từ Chúa Nhật thứ ba tới thứ năm mùa Chay, Phụng vụ Lời Chúa năm A gắn liền với Nghi: MC 5-A76
Từ Chúa Nhật thứ ba tới thứ năm mùa Chay, Phụng vụ Lời Chúa năm A gắn liền với Nghi thức Sát hạch ứng viên lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hướng về chủ đề Đức Ki-tô là nước ban sự sống, là ánh sáng và là sự sống thật, để giúp cho những dự tòng chuẩn bị tâm hồn, đặt hết lòng tin vào Chúa Ki-tô, trước khi họ được lãnh nhận những bí tích khai tâm vào đêm Phục Sinh. Song song với bài Tin Mừng, bài đọc Tân Ước cũng khai triển cùng một đề tài về sự sống mới trong Thánh Thần do Bí tích Rửa tội đem lại. Sau khi đã trình bày đời sống mới của Ki-tô hữu tân tòng như là đời sống của con cái ánh sáng (xem bài đọc tuần trước), bài đọc Tân Ước hôm nay trở lại với thư Rô-ma để nói đến đời sống mới là sống theo Thần Khí Chúa Ki-to.
Cao điểm của nội dung thư Rô-ma là ở chương 8 này. Thánh Phao-lô cho chúng ta thấy làm sao nhờ đức tin vào Tin Mừng Chúa Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại, Ki-tô hữu đã được giải phóng khỏi tội lỗi, sự chết và Luật Mô-sê. Được giải phóng như thế có nghĩa là họ được đem ra khỏi "hướng đi của tính xác thịt là sự chết" để được đưa vào "hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an" (c. 6). Khi nói đến "hướng đi", thánh Phao-lô muốn hiểu ý nghĩa sâu xa của một lối sống bao gồm những suy nghĩ, tư tưởng, xác tín và cả những tâm tình nữa. Do đó, theo hướng đi của Thần Khí có nghĩa là "anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su" (Pl 2:5).
Tương tự như đoạn thư Ga-lát 5:16-25, đoạn thư Rô-ma 8:5-13 trình bày hai nguyên lý sống đời Ki-tô hữu và những hậu quả do hai nguyên lý sống ấy đem lại, tức là sống theo xác thịt và sống theo Thần Khí. Cũng theo đó, người ta phân biệt hai hạng người: hạng người sống theo tính xác thịt và hạng người sống theo Thần Khí. Hai lối sống và hai hạng người ấy đối nghịch nhau. Sống theo tính xác thịt sẽ "bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu" và đi dần tới cái chết, không phải chỉ cái chết thể xác mà cả phần hồn nữa (x. Ga 6:63). Tuy nhiên ở đây thánh Phao-lô muốn đề cao đời sống theo Thần Khí cùng những hiệu quả đời sống ấy mang lại. Vậy thế nào là sống theo Thần Khí?
Điều kiện để sống theo Thần Khí trước hết phải là "thuộc về Đức Ki-tô". Khi chúng ta thuộc về Đức Ki-tô là chúng ta hoàn toàn để cho mình chịu ảnh hưởng, được đưa dẫn, soi sáng do tinh thần Ki-tô. Hoặc nói cụ thể theo cách diễn tả của thánh Phao-lô trong thư Phi-líp-phê: chúng ta "có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su." Đức Ki-tô suy nghĩ, nói năng, hành động những gì và thế nào, thì chúng ta cũng "cóp-pi" lại y như vậy; Đức Ki-tô đã đối xử, phản ứng như thế nào với tha nhân, thì chúng ta cũng phải làm y như thế, đến độ không còn là chúng ta sống mà là Đức Ki-tô sống trong chúng ta. Lời mời gọi của Đức Ki-tô mang ý nghĩa rõ ràng hơn lúc nào hết: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15:12).
Một trong những phương thức cụ thể để sống theo Thần Khí là "diệt trừ (= làm cho chết) những hành vi của con người ích ky" nơi chúng ta. Phương thức duy nhất của ma quỷ là muốn hướng mọi hành vi của chúng ta tới mục đích phục vụ cho chính chúng ta. Những cám dỗ của ma quỷ và của xác thịt là xúi giục chúng ta thỏa mãn những ham muốn của chính mình mà quên đi Thiên Chúa và tha nhân. Trái lại, Đức Ki-tô, con người gương mẫu của nhân loại, không sống cho mình. Ngài đã sống cho Thiên Chúa, nên sẵn sàng vâng lời, "trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế". Ngài đã sống cho nhân loại, nên "hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Nơi Đức Ki-tô, mọi hành vi của con người ích kỷ đã hoàn toàn bị diệt trừ. Từ ngữ thần học gọi là kenosis, self-emptying, hy sinh tự ngã. Chính nhờ đời sống vị tha ấy, nhờ sống theo Thần Khí mà Đức Ki-tô đã được sống lại từ kẻ chết, được siêu tôn và được muôn loài tuyên xưng là Chúa.
Thánh Phao-lô cũng không quên nói đến hiệu quả của việc sống theo Thần Khí, đó là được sống. Ngài không chỉ nói đến sự sống linh hồn, mà còn nói đến sự sống mới của thân xác nữa. Từ việc Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào A-đam cho đến việc Đức Ki-tô sống lại từ kẻ chết, vai trò của Thần Khí là ban sự sống. Tiếp đến, "nếu Thần Khí ngự trong anh em... thì Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới."
Nhịp độ của Nghi thức Sát hạch dự tòng mỗi lần một tăng, đòi hỏi người dự tòng phải hoàn toàn tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Nhưng chính nhờ cách trình bày của Phụng vụ Lời Chúa như thế đã giúp chúng ta có cái nhìn rộng rãi hơn về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và vai trò tối quan trọng của Đức Ki-tô trong kế hoạch ấy. Đồng thời lối trình bày thần học này cũng mời gọi chúng ta hãy tích cực sống đời sống mới theo tinh thần và tâm tình của Đức Ki-tô để chúng ta được sống vĩnh cửu. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Qua những suy niệm của thánh Phao-lô về sống theo Thần Khí, chúng ta có thể hiểu như thế nào về định nghĩa "Chúa Thánh Thần là tinh thần của Thiên Chúa hoặc tinh thần của Đức Ki-tô"?
"Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô" là lời mời gọi chúng ta hãy học biết về Chúa Ki-tô. Vậy tôi đã học biết về Chúa Ki-tô bằng cách nào? Kết quả thế nào? Tôi đã sống những tâm tình ấy làm sao?
Trong đoạn tiếp theo, thánh Phao-lô viết: "Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Áp-ba! Cha ơi!" Tôi hiểu được hồng ân này và sống phận làm con như thế nào?
Nghi thức Sát hạch dự tòng (Scrutinies) và Phụng vụ Lời Chúa trong ba Chúa Nhật (3-5) mùa Chay giúp tôi có thêm kiến thức và sắp đặt cuộc sống thế nào để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thích hợp của mùa Chay.
(12) Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. (13) Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. (14) Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA
Bài đọc 2: Rm 8,8-11:
(11) Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.
Bài Tin Mừng: Ga 11,3-7.17.20-27.33b-45.
Anh La-da-rô sống lại
(3) Hai cô Mác-ta và Ma-ri-a cho người đến nói với Đức Giê-su: Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng. (4) Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.
(5) Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê!
(17) Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (20) Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. (23) Đức Giê-su nói: I(24) Cô Mác-ta thưa: Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. (25) Đức Giê-su liền phán: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? (27) Cô Mác-ta đáp: Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.
(33b) Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: Các người để xác anh ấy ở đâu? Họ trả lời: Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem. (35) Đức Giê-su liền khóc. (36) Người Do-thái mới nói: Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! (37) Có vài người trong nhóm họ nói: Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? (38) Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Đức Giê-su nói: Đem phiến đá này đi. Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày. (40) Đức Giê-su bảo: Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. (43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! (44) Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.
(45) Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
NGẪM
§ Câu hỏi gợi ý:
Qua các bài đọc hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc ta điều gì? 2. Đức Ki-tô đã giải phóng chúng: MC 5-A77
1. Qua các bài đọc hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc ta điều gì? 2. Đức Ki-tô đã giải phóng chúng ta khỏi ách tử thần như thế nào? 3. Chúng ta có thể rút ra được những bài học nào cho đời sống đức tin của mình?
§ Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa các bài đọc:
Các bài đọc hôm nay đều nói đến sự chết và sự sống như để dọn lòng chúng ta bước vào mầu nhiệm trung tâm của đạo Chúa: mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Bài đọc 1: Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cho chúng ta hình ảnh một nghĩa trang đầy xương khô và trơ trọi ám chỉ dân Chúa (nhà Ít-ra-en) trong tình trạng lưu đày ở Babylon. Trong thị kiến, ông thấy những xương đó ráp lại với nhau thành những bộ xương: thêm gân, thêm thịt, phủ da rồi Thần Khí Chúa thổi sinh khí vào. Lập tữc, các tử thi được hồi sinh, chỗi dậy thành một đạo quân lớn tiến về đất hứa.
Trong thơ gửi tín hữu Rôma, thánh Phao-lô đã dạy: "Chính Thần Khí Chúa ngự trong anh em, .. sẽ làm cho thân xác anh em được sự sống mới."
Còn trong bài Tin Mừng Thánh Gio-an hôm nay, Đức Giê-su cho ông La-da-rô sống lại. Điều đó khiến cho Mác-ta, Ma-ri-a và số đông dân chúng chứng kiến hết sức vui mừng và niềm tin của họ dược củng cố thêm.
2. Đức Giê-su đã giải phóng chúng ta khỏi ách tử thần như thế nào?
"Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã Làm Người". Lời kinh trên đã giới thiệu cho chúng ta bước khởi đầu kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài đến trần gian để giải phóng chúng ta khỏi khổ đau, khỏi sự chết, hậu quả của tội nguyên tổ và ban cho chúng ta phúc trường sinh, phúc làm con Thiên Chúa. Ngài đã giải phóng chúng ta bằng cách nào ?
Ngài đã giải phóng chúng ta bằng trọn cuộc đời của Ngài nơi dương thế:
- Bằng đời sống khó nghèo, khiêm nhường, Ngài chấp nhận cảnh đời thấp hèn nhất trong xã hội: sinh ra nơi hang đá máng cỏ, ba mươi năm ở Na-da-rét,trong xóm lao động, sống bằng nghề thợ mộc, một nghề rất tầm thường trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ.
- Bằng lời nói: Ba năm cuối đời, Ngài đã đi giảng dạy khắp miền đât Do-thái, loan báo Tin Mừng cho mọi người như lời ngôn sứ I-sai-a đã báo trước:"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa"(Lc4,18-19).
- Bằng hành động: Với trái tim nhân hậu, Ngài đã xoa dịu những tâm hồn khổ đau, cứu giúp kẻ đói nghèo, chữa lành những ai bệnh tật.. và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài đã đến nhà Mac-ta và Maria vào lúc La-da-rô, em trai hai bà mới mất, "Đức Giê-su đã thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các ngươi đã dể xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem." Đức Giê-su liền khóc. Tới mộ, Ngài đã kêu người ta đem phiến đá đi và sau khi cầu nguyện, Ngài đã truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ: Người chết liền ra, chân tay còn đang cuốn vải và mặt còn phủ khăn.
- Bằng chính bản thân, Đức Giê-su đã tự hiến mình chịu chết trên thâp giá đền thay tội lỗi nhân loại và đã sống lại. Đây là tột đỉnh của kế đồ cứu rỗi, là dấu ấn tình thương bao la của Thiên Chúa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình"(Ga15,13). Ngài đã chiến thắng sự chết và khải hoàn trong vinh quang. Từ đây, cây thập tự, dấu hiệu của sự chết, trở nên mối giao hoà đất trời và là chìa khoá mở cho chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
3. Những bài học:
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta những nét chính trong kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa: Kế đồ này do Đức Chúa Cha khởi xướng, Đức Chúa Con thực hiện và Đức Chúa Thánh Thần ứng dụng cho nhân loại. Cánh riêng bài Tin Mừng Thánh Gio-an cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu về Đức Tin:
_Như Mac-ta và Maria đã mời Đức Giê-su đến chữa cho em mình, chúng ta cũng cần chạy đến với Chúa mỗi khi gặp những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, quyết không tìm đến với những hình thức bói toán mê tín dị đoan.
_Theo suy nghĩ thường tình, người ta dễ gán cho những ai gặp tai họa hoặc những bệnh tật hiểm nghèo là do chính lỗi của những người đó:"ác giả ác báo"hay"bịChúa phạt"(theo lối nói của người Công giáo).Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cho chúng ta một cái nhìn mới đúng đắn hơn về cơn bệnh và cái chết của La-da-rô: "Bệnh này không đến nỗi phải chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa."
_ Gặp Mac-ta trong tình trạng La-da-rô đã chết và được chôn cất xong xuôi, Đức Giê-su đã phải cố giải thích để bà có thể nhận ra rằng: không cần phải đợi đến ngày sau hết La-da-rô mới sống lại, nhưng là ngay bây giờ nếu bà tin vào Ngài, vì chính NGÀI LÀ SỰ SỐNG LẠI và LÀ SỰ SỐNG.
NGUYỆN
Lạy Cha từ ái, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Ngôi Hai Con Một yêu dấu của Cha làm giá cứu chuộc đền bù tội lỗi chúng con. Chúng con cũng tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Chúa Thánh Thần, Đấng hằng hoạt động để thánh hoá giúp chúng con trở nên những người con tốt lành của Cha.
Xin Cha cho chúng con,khi tham dự vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Con Cha, có một lòng sám hối chân thành, sẵn sàng cùng chết với Đức Ki-Tô để cùng được sống lại với Ngài trong vinh quang của Cha. Amen.
Tại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè năm 1984, võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ đã giành huy: MC 5-A78
Tại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè năm 1984, võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ đã giành huy chương vàng về bộ môn đô vật. Khi trận đấu kết thúc, anh đã không vui mừng nhảy lên nhảy xuống, hay vung tay lên trời, cũng như không mỉm cười cúi chào đám đông. Trái lại, anh chỉ đơn giản quỳ gối xuống, cúi đầu cầu nguyện và làm dấu thánh giá. Hình ảnh này đã được chiếu trên màn ảnh truyền hình và người ta đã trông thấy những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má anh. Anh khóc không phải chỉ vì đã đạt huy chương vàng, mà còn khóc vì cách đó 2 năm, anh đã mắc phải bệnh ung thư, và trước trận đấu 18 tháng, anh đã phải giải phẫu. Vậy mà giờ đây, khi dấn thân vào trận đấu quan trọng này, anh đã đoạt được chiến thắng lớn nhất trong đời mình. Với những giọt nước mắt này, anh đã thực sự lôi cuốn và hấp dẫn mọi người, cũng như đã trở nên giống chúng ta một cách tuyệt vời và đầy cảm động.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được nét đẹp tuyệt vời và đầy cảm động ấy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy Ngài, là Con Thiên Chúa, nhưng đã khóc bên nấm mồ của Ladarô. Từ đó, chúng ta khám phá ra bản tính con người của Ngài. Chính bản tính con người ấy làm cho Ngài trở nên giống chúng ta. Bởi vì Ngài đã từng chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu đớn đau, cho nên Ngài sẽ hiểu chúng ta hơn, khi chúng ta lâm vào những cảnh huống như thế, như người xưa đã bảo: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Và như vậy, Ngài hiểu rõ thân phận chúng ta. Và chính sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta hiềm vui mừng và hy vọng.
Tuy nhiên đoạn Tin Mừng còn chuyển đến cho chúng ta một sứ điệp khác cũng không kém phần quan trọng, đó là Chúa Giêsu không phải chỉ khóc thương Ladarô, mà còn làm cho anh ta được sống lại. Điều đó chứng tỏ, Ngài không phải chỉ là một người như mọi người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa, đầy quyền năng. Với bản tính con người, Ngài cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ và trợ giúp chúng ta, trao ban cho chúng ta nguồn sức mạnh và thực hiện những điều chúng ta van xin, kêu cầu.
Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác bản thân cũng như cuộc đời cho Chúa vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng, đồng thời là một người Cha nhân từ và khoan dung, hằng yêu thương chăm sóc đến mỗi người chúng ta.
Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà: MC 5-A79
Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà văn Jack London)
Ai cũng khao khát sống, sống lâu sống khoẻ, trẻ mãi không già.
Người ta mưu cầu sự sống bằng đủ mọi cách, với bất cứ giá nào.
Nếu có phương thuốc trường sinh, thì dù phải mua với giá cao ngất, thậm chí phải bán cả gia tài mới đủ, người ta cũng quyết mua cho bằng được.
Thế nhưng, cuộc sống lại quá mỏng giòn
Thực tế cho thấy cuộc sống hiện tại thật mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Như quả bóng bóng xà phòng do một em bé thôi lên, trông long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, bụp một cái! Nó tan biến hết, chẳng còn gì!
Vì thế mà một nhà thơ Việt nam, ông Nguyễn công Trứ than rằng: "Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao..."
* * *
Cái chết của Ladarô nói lên thân phận mong manh kiếp người
Cuộc đời của Ladarô cũng mong manh như thế. Đang nửa chừng xuân, đang tuổi còn dồi dào sức sống, Ladarô vội vã từ giã cuộc đời, để lại vô vàn đau thương tiếc nuối cho thân nhân cũng như bè bạn. Đó là một mất mát vô cùng lớn lao mà không gì trên đời bù đắp nổi. Mất gì người ta cũng có thể kiếm lại được và có thể tậu lại cái mới tốt hơn; còn mất mạng sống là mất tất cả và dường như chẳng còn cách nào phục hồi lại được!
Chính vì thế mà khi Lagiarô chết đi, bà con họ hàng vô cùng thương tiếc. Cho dù Lagiarô đã an nghỉ trong mộ bốn ngày rồi mà hai người chị là Matta và Maria vẫn còn ngậm ngùi thổn thức... Ngay cả Chúa Giêsu khi đến thăm mộ cũng không cầm được nước mắt trước cái chết của người thanh niên còn xuân trẻ nầy.
Khát vọng lớn nhất của nhân loại là khát sống. Cho dù cuộc sống hôm nay chỉ là tạm bợ, nay có mai không, có nhiều đắng cay cơ cực, có nhiều vất vả muộn phiền, nhưng ai ai cũng khát khao được sống.
Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại
Vậy phải tìm đâu cho có sự sống lâu bền? Phải làm gì để biến đổi đời sống mau qua trở thành vĩnh cửu?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết. Ngài tỏ cho Matta và Maria biết bí quyết nầy: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống".
Nếu chỉ nói suông thì lời nói đó chẳng có giá trị gì. Điều quan trọng là lời khẳng định của Chúa Giêsu được củng cố bằng sự việc kèm theo. Dù Lagiarô đã chết và được mai táng trong mộ bốn ngày rồi, thân xác bắt đầu sình lên và đã nặng mùi, thế mà khi Chúa Giêsu kêu gọi: "Lagiarô, hãy ra đây!" thì người chết bắt đầu vươn vai chỗi đậy, bước ra khỏi mồ theo lời Chúa truyền dạy trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến, trước sự hoan hỉ khôn tả của thân nhân họ hàng.
Sự kiện Chúa Giêsu làm cho Lagiarô sống lại, kèm theo sự kiện chính Ngài đã tự mình sống lại sau khi đã chết trên thập giá và mai táng trong mồ... chứng tỏ rằng Ngài là Đấng hằng sống và có thể ban sự sống cho mọi người.
Hãy kết nối với Chúa Giêsu để nhận được sự sống đời đời
Chúa Giêsu là Nguồn ban sự sống. Muốn sống đời đời thì hãy nối kết với Chúa Giêsu.
Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện.
Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho.
Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể.
Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với Nguồn ban sự sống là Chúa Giêsu.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa Tội, Chúa đã nối kết chúng con nên một với Chúa, để được trở thành chi thể của Chúa.
Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cho chúng con được trở nên đồng huyết nhục với Chúa và từ đó, sự sống thần linh của Chúa được thông truyền cho chúng con.
Tiếc thay, khi phạm tội trọng, chúng con đã tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa như cành nho lìa thân nho, như bàn tay bị cắt lìa khỏi cơ thể và như thế chúng con đánh mất sự sống đời đời.
Xin cho chúng con sớm giao hoà với Chúa qua bí tích Giải Tội, để được nối kết lại với Chúa và để cho sự sống thần linh của Chúa tiếp tục thông truyền cho chúng con.
Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một: MC 5-A80
Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.
Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".
Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.
Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,
Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.
Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.
Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.
* * *
Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".
Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.
Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.
Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.
Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".
Với biến cố Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV, gọi là “Sách về Giờ: MC 5-A81
Với biến cố Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (11,1–20,29). Phân đoạn 11,1–12,50 là “phân đoạn làm cầu”, ghi lại “Dấu lạ cao điểm và sự kiện Giờ của Đức Giêsu đến”.
Bản văn đọc trong Phụng vụ Thánh lễ hôm nay trích từ Ga 11,1-54 là phân đoạn nói về Dấu lạ Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, nói về sự sống lại và sự sống, và quyết định của Thượng Hội Đồng là tìm cách giết Người.
Biến cố Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại được đặt vào cuối sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đây không chỉ là hành vi quyền lực (= dấu lạ) cuối cùng, nhưng là hành vi lớn lao nhất, bởi vì Người không chỉ giới hạn vào việc chữa lành mộtchứng bệnh, nhưng đưa mộtngười từ cõi chết trở lại với cuộc sống. Đây là dấu lạ quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối.
Những nét tiêu biểu của phép lạ này là: Người thực hiện hành vi ấy cho mộtngười bạn và giữa vòng các bạn hữu, nhưng có nhiều người khác chứng kiến và các chứng nhân này có tham gia vào hành vi của Người. Trong các trường hợp khác, trước tiên Đức Giêsu làm dấu lạ, rồi sau đó, trong những đối thoại, Người mới đưa người ta đến chỗ hiểu ý nghĩa của dấu lạ. Còn ở đây, với nhiều lời công bố, Người đã cho các môn đệ, các thân nhân và dân chúng thấy trước ý nghĩa của hành vi quyền lực sắp được thực hiện và là điểm cao nhất trong các hành vi quyền lực. Mọi sự đều đưa tới chỗ chứng minh cho thấy là Người có quyền trên sự chết.
Sự cố này xảy ra sau khi các đối thủ của Người đã tìm cách bắt Người (10,39). Đức Giêsu lui về vùng phía đông sông Giođan. Tại đây Người nhận được tin bạn Người là Ladarô đau ốm (11,1-6). Sự cố này mở ra với bài diễn từ cáo biệt và cuộc Thương Khó, bởi vì chính sự cố này đưa đến chỗ Thượng Hội Đồng kết án tử cho Đức Giêsu.
Đọc bản văn này, độc giả cũng nên lưu ý đến tài nghệ tuyệt luân của tác giả khi vận dụng các yếu tố “sai thời gian” (anachronie) cũng như “nhắc lại” (analepse), “báo trước” (prolepse), để giới thiệu các điểm giáo lý sâu sắc được chứa đựng trong bản văn. Chúng ta sẽ nói đến điểm này trong phần “Ý nghĩa của bản văn” [Có thể đọc Lê Minh Thông, “Ga 11,1-54: “Chết” và “sống””, Phân tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư (2008) 141-179, để ghi nhận cách áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào bản văn.].
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
1) Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (11,1-6); 2) Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (11,7-16); 3) Đức Giêsu gặp hai chị em (11,17-38a); 4) Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (11,38b-44); 5) Kết luận: Ghi chú về đức tin (11,45).
3.- Vài điểm chú giải
- Ladarô (1): Tên La‘zar là cách gọi tắt tên Eleazar (Êlêadarô), mộttên rất quen thuộc vào thời Tân Ước. Eleazar có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Tác giả TM IV không giải thích ý nghĩa của tên này.
- Bêtania (1): Có những người cho rằng đây là mộttên có ý nghĩa tượng trưng, phái sinh từ tên Bet-‘anya, “nhà của nỗi phiền sầu”. Làng Bêtania gần Giêrusalem được mọi người biết như là nơi Đức Giêsu trú ngụ khi lên Giêrusalem (x. Mc 11,11; 14,3). Ngày nay, làng được gọi là El ‘Azariyeh, mộttên phái sinh từ “Ladarô”.
- làng của hai chị em cô Mácta và Maria (1): Sự kiện tác giả Ga xác định Bêtania là làng của Mácta và Maria khiến có thể hiểu là các độc giả quen biết hai cô.
- là người sau này sẽ xức dầu thơm (2): Đây là một chi tiết rất đặc biệt dành cho việc nhận diện Maria: “là người sau này sẽ xức dầu thơm (dịch sát: “đã xức dầu thơm”) cho Chúa, và lấy tóc lau (dịch sát: “đã lấy tóc lau”) [Xem Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn] chân Người. Đây là một lời vừa nhắc lại vừa đón trước: việc xức dầu ở Bêtania chỉ xảy ra ở chương sau (12,1-11), tại sao lại nhắc trước (“đã”) một hành vi chưa được bản văn nói đến? Ở đây, tác giả không đứng trên bình diện truyện kể, nhưng trên bình diện dàn dựng câu truyện, và ngỏ lời trực tiếp với độc giả. Độc giả đã biết Maria đóng vai trò nào vào đầu truyện Thương Khó; vai trò này được ghi nhớ rất rõ trước cả khi TM IV được soạn thảo. Tác giả nại đến ký ức của độc giả nên mới nói về Maria như ở quá khứ (thì quá khứ hoàn thành). Như thế, lời nhắc vận hành trong trí độc giả, còn ở bình diện truyện kể, nó mang sắc thái một lời đón trước.
- Thưa Thầy (3): Từ ngữ Kyrios được dùng ở hô-cách (vocative); Kyrie, có thể dịch là “Thưa Ngài”. R.E. Brown cho rằng có thể dịch là “Lạy Chúa”, bởi vì ở đây những người tin đang lên tiếng. Xem 11,21.32.
- thêm hai ngày (6): Một vài tác giả gợi ý rằng có mộtsự kết nối với phép lạ thứ hai ở Cana, cũng là mộtphép lạ ban sự sống và xảy ra sau khi Đức Giêsu đã ở lại Samari hai ngày (4,40.43). Có những tác giả khác cho rằng có mộtsự tương đồng với sự phục sinh của Đức Giêsu, vì biến cố này xảy ra vào ngày thứ ba (x. 1 Cr 15,4). Người cũng đã chờ hai ngày trước khi lên Giêrusalem để dự lễ Lều (7,8-10). Với lại ở tiệc cưới Cana, Người đã không đáp ứng ước nguyện của Đức Maria ngay. Không mộtý kiến, mộtnguyện ước nào của loài người, cho dù đúng đắn, lại có thể chỉ cho Người cách xử sự; chỉ có ý muốn của Chúa Cha mới có quyền điều khiển Người mà thôi (4,34; 7,18; 8,29). Người nói và hành động vì vinh quang của Chúa Cha, để thực hiện chương trình cứu độ. Và ơn cứu độ Thiên Chúa ban sẽ được hoàn tất vào thời Ngài đã định; không một ai có thể thúc bách Ngài tiến hành trước giờ. Người ta không thể bắt Đức Giêsu hay ném đá Người bao lâu giờ của Người chưa đến (7,30; 8,20; x. 9,4; 10,17-18).
- Thưa Rabbi (8): Đây là lần cuối cùng các môn đệ thưa với Đức Giêsu bằng danh hiệu rabbi. “Rabbi” cũng được dùng ở 9,2. Có thể so sánh để thấy những điểm tương đồng giữa 9,2-5 và 11,8-10.
- ánh sáng mặt trời (9): dịch sát là “ánh sáng của thế gian này”. Như thế, công thức này có nghĩa là “mặt trời”. Nhưng trên bình diện thần học, đây là mộtquy chiếu về Đức Giêsu (8,12; 9,5).
- đang yên giấc (11): Trong tiếng Híp-ri và Hy Lạp (tiếng Hy Lạp dân gian cũng như hy-ngữ của Bản LXX), “ngủ” là một uyển ngữ (euphemism) để chỉ cái chết (x. Mc 5,39; Cv 20,10). Nhưng các môn đệ lại không hiểu. Trong Kinh Thánh, chết là hậu quả của tội lỗi, và như thế là hình phạt thê thảm nhất (x. St 2,7; Kn 1,15). Tuy nhiên, cái chết mất phần nào tích cách bi đát khi nó đóng ấn mộtcuộc đời hạnh phúc vẫn tiến đi trong tình nghĩa với Thiên Chúa (các tổ phụ: St 25,7; 35,29; vua Đavít: 1 V 2,10; người công chính: Kn 3,1-3). Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Chính vì thế, trong Tân Ước, những ai chết mà vẫn tin vào Đức Kitô, thì chỉ là yên nghỉ (= ngủ; 1 Tx 4,14; x. Cv 7,60; Mt 27,52), vì Đức Kitô là hoa trái đầu mùa của những ai đã yên giấc (1 Cr 15,20).
- được bốn ngày rồi (17): Chi tiết này được ghi nhận để chứng thực là Ladarô đã chết. Có một ý kiến trong giới kinh sư cho rằng linh hồn bay là là gần thân xác trong ba ngày; sau đó thì không còn hy vọng hồi sinh nữa.
- Maria thì ngồi ở nhà (20): Các phụ nữ có tang thường ngồi trên nền nhà (x. Ed 6,39-45). Do c. 29, ta đoán là Maria không được báo cho biết là Đức Giêsu đã đến.
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (27): Câu này tương tự lời tuyên xưng của Phêrô ở Mt 16,16.
- Thầy (28): Từ ngữ Hy Lạp didaskalos tương tự với rabbi ở 1,38 và 20,16. Đức Giêsu sử dụng ở 3,2.10; 13,13.14.
- thổn thức trong lòng và xao xuyến (33): “Thổn thức trong lòng” là dạng aorist middle của động từ embrimasthai (x. c. 38). Động từ này được dùng với công thức tô pneumati, “trong tinh thần”, còn ở c. 38, động từ ấy lại được dùng với en heautô, “trong chính mình”. Đây là những công thức Sê-mít để diễn tả các cảm xúc bên trong. Công thức thứ hai, “xao xuyến”, dịch từ cụm từ tarassein heauton. Tarassein hàm ý mộtsự xáo trộn sâu xa; ở đây dùng với đại từ phản hồi, có nghĩa chữ là “bối rối, luống cuống”. Các học giả đã tự hỏi ý nghĩa của các tình cảm này là gì. Có những người thấy đây là cơn giận của Đức Giêsu nhằm chống lại cái chết và tác giả của nó là Satan; có những người khác thì cho rằng đây là cơn giận của Người khi đứng trước sự cứng lòng của người Do Thái. Rất có thể là như thế, bởi vì cái chết và sự cứng lòng đều do Satan; và trong thực tế, đặc biệt trong Mc, Đức Giêsu tỏ ra giận dữ vào lúc Người trừ quỷ, nghĩa là khi Người đối diện với Satan. Tuy nhiên, trong TM IV, ý nghĩa còn sâu sắc hơn.
Ngoại trừ một lần động từ tarassein được dùng ở 5,7 để nói về nước hồ bị khuấy động và dùng ở đây, động từ này chỉ được dùng trong khung cảnh cuộc Thương Khó: 2 lần dùng cho Đức Giêsu (12,27; 13,21) và 2 lần cho các môn đệ (14,1.27). Nỗi xao xuyến và sợ hãi của Đức Giêsu, được các TMNL kể lại trong cuộc hấp hối tại vườn Ghếtsêmani, dường như được Ga chuyển vào truyện này và vào cuộc gặp gỡ với người Hy Lạp (12,27). Cái chết của Ladarô được Đức Giêsu thấy như là lời loan báo về cái chết của Người và cuộc chiến thắng nhất thời trên bóng tối. Đối với Ga, cuộc Thương Khó và cái chết của Đức Giêsu chủ yếu là công trình của Satan và cuộc sống lại của Người là chiến thắng trên Satan và cái chết.
- Đức Giêsu khóc (35): Đức Giêsu đã có mộtthái độ hết sức nhân bản khi đứng trước nỗi đau của người khác. Người ta hiểu là Đức Giêsu thật sự yêu thương Ladarô. Ở đây tác giả Ga dùng một động từ để chỉ việc Đức Giêsu “khóc” (dakryô, “[để cho] nước mắt tuôn trào”: c. 35) khác với động từ để chỉ người ta “khóc” (klaiô, “khóc một cách tuyệt vọng”: x. cc. 31.33), mà động từ này lại giống với động từ tác giả Lc dùng để nói về việc Đức Giêsu khóc khi nhìn thấy Giêrusalem (x. Lc 19,41: klaiô). Tuy nhiên trong TM Ga, người ta thường chỉ hiểu các lời nói và các cử chỉ của Đức Giêsu theo chiều kích bên ngoài và hời hợt. Nếu Đức Giêsu sắp cho bạn Người sống lại, tại sao Người còn khóc? Như thế, rất có thể ở đây Đức Giêsu khóc, còn vì sự không tin của người Do Thái và thái độ bán tín bán nghi của Mácta (c. 39) và của Maria.
- Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại (38): Mộ đứng như cái giếng thì thông dụng hơn mộ nằm ngang. Tảng đá giữ thi hài khỏi bị thú vật xâm phạm. Nơi an táng ở ngoài thành vì nếu không, những người sống có thể bị ô uế do tiếp xúc với thi hài người chết.
- Đức Giêsu ngước mắt lên (41): Cử điệu ngước mắt nhìn lên là mộtcách mở đầu tự nhiên cho việc cầu nguyện (x. Lc 18,13; Ga 17,1).
- Người kêu lớn tiếng (43): Động từ kraugazein chỉ được dùng 8 lần trong toàn Kinh Thánh Hy Lạp (Bản LXX), mà 6 lần ở trong Ga. Ở Ga 18–19, động từ này được dùng 4 lần để nói về tiếng la hét của đám đông xin đóng đinh Đức Giêsu. Như vậy, dường như có thể rút ra mộtsự tương phản giữa tiếng kêu lớn của đám đông nhằm đưa cái chết đến cho Đức Giêsu và tiếng kêu lớn của Đức Giêsu nhằm đưa sự sống đến cho Ladarô. Thật ra giải thích như thế cũng không bảo đảm, vì ở 12,13, động từ này diễn tả tiếng la của đám đông nhằm hoan hô Đức Giêsu.
- chân tay còn quấn vải (44): Có người hỏi là làm thế nào mà bị quấn như thế mà Ladarô vẫn có thể đi được. Câu hỏi này không đúng chỗ vì đặt ra trong mộtbài tường thuật minh nhiên giả thiết có chuyện siêu nhiên. Có thể do mộtlý do thần học mà tác giả đã nhắc đến những thứ khăn liệm. Ở 20,6-7, chúng ta biết rằng các khăn và vải liệm Đức Giêsu đã bị bỏ lại trong mồ, có thể là với ý là Người chẳng bao giờ cần đến chúng nữa, bởi vì Người không bao giờ chết nữa; còn Ladarô thì đi ra với khăn vải liệm, bởi vì anh còn chết lần nữa. Cách giải thích này nhiều gợi ý, nhưng không chắc là tác giả có nghĩ đến số phận tương lai của Ladarô.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện đưa ta đến gặp một gia đình đặc biệt: chỉ có các chị em mà thôi. Thế rồi có những chi tiết khiến phát sinh những câu hỏi: Tại sao Đức Giêsu cố tình đến chậm? Làm thế nào Mácta và Maria biết là Đức Giêsu đang đến? Làm thế nào Đức Giêsu có thể nói được rằng bất cứ kẻ nào tin vào Người thì sẽ không phải chết bao giờ? Tại sao Đức Giêsu lại khóc khi đã biết rằng Người sắp cho Ladarô trỗi dậy từ cõi chết?
* Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (1-6)
Đức Giêsu đã lui về mạn đông sông Giođan để tránh các đối thủ đang tìm cách bắt Người. Tại đây người ta báo tin cho Người là Ladarô đau ốm; ông này “quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria” (11,1). Ladarô, em của cô bị đau ốm” (c. 2). Maria được giới thiệu bằng một câu đón trước: “là người sau này đã xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Người” (c. 2). Còn Mácta được giới thiệu trước tiên như một người bạn (c. 5), rồi như một môn đệ của Đức Giêsu (“Thưa Ngài, Kyrie”: c. 21). Gia đình không cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái này khiến ta có thể hiểu đây là một ám chỉ đến cộng đoàn Kitô hữu, nơi chỉ có các anh em chị em thôi.
Cũng như Đức Maria tại tiệc cưới Cana (2,3), các chị của Ladarô đã không trực tiếp bày tỏ mộtlời thỉnh cầu. Các cô không muốn truyền lệnh cho Người bất cứ điều gì. Biết đâu các cô cũng đang nghĩ tới nguy hiểm có thể xảy ra cho Người nếu Người đến gần Giêrusalem (x. 11,8). Các cô chỉ đơn giản báo cho Người biết tình trạng của Ladarô và nhắc Người nhớ rằng anh là bạn Người. Tại Cana, Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới của mộtgia đình bằng hữu; rồi Người đã làm những hành vi quyền lực khác cho những người mà Người không quen biết. Lần này những điểm được nhấn mạnh là tình yêu thương và tình bằng hữu vẫn liên kết Người với các chị em Bêtania (x. 11,3.5.11.36): tình yêu thương và tình bằng hữu diễn tả sự ân cần riêng tư của Đức Giêsu đối với chúng ta là loài người. Người không theo đuổi mộtchương trình vật chất nào, trong đó kết quả thống kê quan trọng hơn những con người. Người coi chúng ta, những con người, là như những nhân vị mà Người quan tâm chiếu cố.
Dọc theo bài tường thuật, bằng nhiều cách diễn tả, tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là Đức Giêsu không có mặt (cc. 6.17.19.21.32.37). Mục đích là nêu bật tình trạng tăm tối, không hiểu, của dân chúng trước cách xử sự của Đức Giêsu: theo kiểu nhìn của loài người, Đức Giêsu đã phải can thiệp mà cứu chữa Ladarô khi ông này còn sống mới phải. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích được sự kiện là các bạn của Đức Giêsu cũng chết mà Người không can thiệp gì?
Tác giả dùng thêm ba lời đón trước để cho thấy ý nghĩa của cái chết của Ladarô, hoặc cho thấy sự cương quyết của Đức Giêsu và lúc bạn Người chết (cc. 4.11.16). Ba lời đẩy vào tương lai gần như thế nêu bật sự khác biệt trong nhận thức của Đức Giêsu, là người biết rõ chương trình của Thiên Chúa, và các môn đệ, đầy sợ hãi và không hiểu gì.
* Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (7-16)
Trước hết, Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận hành vi quyền lực Người sắp thực hiện. Sau dấu lạ Cana, tác giả TM IV đã nhận định: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Đức Giêsu hiểu đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô (x. 9,3): “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). “Vinh quang của Thiên Chúa” không phải là mộtvinh dự ích kỷ dâng lên Thiên Chúa, bất kể tình trạng của các thọ tạo. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài thì luôn luôn là để cứu độ loài người, những kẻ Ngài yêu thương. Vinh quang này của Chúa Cha sẽ được thể hiện qua việc tôn vinh Đức Giêsu qua các phép lạ (2,11; 12,41), nhưng nhất là khi Người chịu giương cao trên thập giá, rồi Người chết và sống lại (12,23-32).
Khi để cho Ladarô chết, Đức Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không đến để ngăn chặn cái chết thể lý: công việc của Người không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống con người. Cuộc sống có một điểm chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một đời sống khác không có cùng tận. Nhất là Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em tin” (11,15). Tất cả các hành vi quyền lực của Đức Giêsu đều được thực hiện để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang, được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng trong cách cư xử ân cần cụ thể đối với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa (x. 1,18). Tương ứng với hành vi tự mạc khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải củng cố các môn đệ trong đức tin và cho họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm nơi Người và trở thành những chứng nhân về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã chết được sống lại.
Các môn đệ đã linh cảm là giờ kết thúc bi thương cuộc đời Đức Giêsu đã gần kề: “Người Do Thái hiện đang tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đi tới nơi ấy sao?” (c. 8). Đối với Đức Giêsu, cứu Ladarô sẽ là đi gặp chính bản án tử hình của Người. Vinh quang do phép lạ sẽ là dấu chỉ cuộc tôn vinh Người trên thập giá. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thuộc về “giờ” của Thiên Chúa. Nhưng dường như Người không đánh tan được nỗi lo lắng, vì Tôma lại đại diện anh em mà nói: “Chúng ta hãy đi để cùng chết với Thầy!” (c. 16).
* Đức Giêsu gặp hai chị em (17-38a)
Hoàn cảnh của Đức Giêsu tại Bêtania được mô tả bằng hai đặc điểm: Ladarô đã ở trong mồ được bốn ngày và có nhiều người quen biết đến với hai chị em. Theo quan niệm thời đó, chết được ba ngày thì cũng chưa hoàn toàn chết; chỉ đến ngày thứ tư thì sự sống mới hoàn toàn tắt mất. Tác giả muốn chúng ta biết rằng Ladarô đã chết thật rồi.
Tất cả những người quen biết gia đình đã ở đó mà đành chịu bất lực khi đứng trước cái chết, và chỉ còn biết an ủi cách yếu ớt (11,19.31). Đức Giêsu chính là Đấng duy nhất có thể thật sự thay đổi điều gì đó trong tình cảnh này và có thể đưa lại sự nâng đỡ đích thực bằng quyền lực thần linh của Người. Mácta đã đến găp Người và nói: “Thưa Ngài, nếu có Ngài ở đây thì em con đã không chết!” (11,21). Dường như hai chị em đẵ lặp đi lặp lại câu này trong những lúc khóc em (x. 11,32.37). Qua lời này, hai chị biểu lộ niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng có thể chữa lành những người đau ốm, nhưng cũng biểu lộ nỗi thất vọng là Người đã không đến đúng lúc. Nhưng rồi Mácta đã cho thấy rằng chị tin vào việc sống lại của kẻ chết. Khi bày tỏ niềm tin vào việc kẻ chết sẽ sống lại trong tương lai cánh chung, Mácta đã chứng tỏ là một môn đệ và đại diện cho các Kitô hữu thế kỷ đầu tiên đang tập sống niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trong hiện tại. Chỉ có tin vào Đức Giêsu, người ta mới có thể vượt qua sự chết mà vào sự sống.
Nhưng Đức Giêsu cho các chị thấy rằng sự sống lại là do Người ban: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11,25-26). Cho đến nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là bánh, nước, ánh sáng và người mục tử nhân hậu; Người đã quy chiếu về chính mình Người những thực tại mà nhất thiết cuộc sống trần thế của chúng ta phải lệ thuộc vào. Nay cũng bằng cách đó, Người khẳng định rằng chúng ta lệ thuộc vào Người để được sống muôn đời. Nơi Người, Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta (“Ta là Đấng Ta là”) như là Đấng lôi kéo chúng ta khỏi cái chết và đưa chúng ta vào trong cuộc sống bất tử của Người. Cuộc phục sinh giả thiết có cái chết và có nghĩa là trỗi dậy thoát khỏi tình trạng nằm dài cứng ngắc của cái chết; sống là kết hợp với Thiên Chúa. Hai điều này được Đức Giêsu ban cho chúng ta và được liên kết với nhau trong đức tin. Đức Giêsu ban sự sống này cho ai tin vào Người. Sự sống được Đức Giêsu ban đây phải đi qua cái chết, nhưng không bị dập tắt. Sự kết hợp với Thiên Chúa do Đức Giêsu ban cho không biết đến kết thúc hoặc tình trạng hoàng hôn. Trong tình cảnh này Đức Giêsu đã khóc, vì thương Ladarô, nhưng cũng còn là vì thái độ không tin và thái độ nửa tin nửa ngờ của Mácta (c. 39) và của Maria.
Điều mà Đức Giêsu làm cho Ladarô là mộtdấu chỉ (dấu lạ). Ladarô đã chết, Đức Giêsu gọi anh ra khỏi mồ, nhưng đưa anh trở lại với cuộc sống trần thế, từ đó anh lại đi tới cái chết. Bằng hành vi này, Đức Giêsu chứng minh cho thấy là cái chết không phải là một giới hạn đối với Người, nhưng Người có quyền trên cái chết. Tuy nhiên, ân ban đích thực của Người không phải là mộtcuộc sống trần thế được kéo dài mãi mãi, mà là cuộc sống trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Đức Giêsu muốn đưa cả Mácta, cũng như các môn đệ Người, đến với đức tin. Cô hiểu, cô tin và nói lên mộtlời tuyên xưng đức tin mà chúng ta chỉ gặp ở cuối TM Ga (20,28.31) và là lời được hàm chứa trong lời tuyên bố của Phêrô (6,69) và của anh mù được chữa lành (9,38). Với cô, Đức Giêsu đạt mục tiêu mà công trình của Người đã nhắm tới trước: mắt của cô đã mở ra. Mácta hoàn toàn ở thế ngược lại với các đối thủ của Đức Giêsu, những người đã trách Người là nói phạm thượng chống lại Thiên Chúa. Cô nhận biết Người là Đấng Thiên Chúa dùng để thực hiện công trình cứu độ cho loài người (“Đức Kitô”) và là Đấng sống trong mộtsự hiệp thông không có khởi đầu cũng không có kết thúc với Thiên Chúa, trong sự bình đẳng tuyệt đối với Người (“Con Thiên Chúa”). Và cũng như Đức Giêsu, Mácta nêu bật tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha: Người đã đến trong trần gian bởi vì được Chúa Cha sai phái đi; đàng sau tất cả những gì Người làm, chính là Chúa Cha làm (x. 11,42; 16,28).
* Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (38b-44)
Đức Giêsu bảo người ta dẫn Người ra mộ Ladarô. Hai người chị và nhiều người khác đã đến để săn sóc hai cô cùng đi với Người. Chung quanh Người, vang lên tiếng than khóc của đoàn người bất lực trước sức mạnh tàn nhẫn của cái chết. Có hai cách khóc. Có cách khóc của những người chắc chắn rằng cái chết là sự chấm dứt mọi sự (klaiô). Cũng có cách Đức Giêsu khóc (dakryô) tại mộ Ladarô, bình lặng và chứng tỏ con người có phẩm cách. Mất một người thân là điều rất đau lòng; nhưng sẽ rất là ích kỷ nếu muốn giữ người ấy lại cho riêng mình, trong khi người đó đang đi vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trước.
Đức Giêsu cho cất tảng đá che mộ đi. Tảng đá có đó để ngăn cách thế giới người sống với thế giới kẻ chết, nhưng đối với những ai tin vào Đức Giêsu, sự chia cách này không còn nữa. Thế rồi Người quay hướng về Chúa Cha khi cầu nguyện, đây là điều Người chưa bao giờ làm trong những hành vi quyền lực trước đây. Đây là lời cầu nguyện đầu tiên của Người được tác giả Ga nhắc lại (x. 12,27-28; 17,1-26). Trước tiên, Người tạ ơn Chúa Cha vì Ngài đã lắng nghe lời Người. Về phần Người, Đức Giêsu tuyệt đối chắc chắn về sự kết hợp của Người với Chúa Cha, nên không cần phải chứng minh cho Người bằng mộthành vi quyền lực. Nhưng điều mà Người nhấn mạnh là để cho người ta tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, Đức Giêsu mới có thể thực hiện công trình của Người hầu cứu độ loài người. Ở đây, c. 42 là lời nhắc lại để nêu bật tư cách Đức Giêsu là sứ giả Chúa Cha sai phái: Đức Giêsu bình luận các lời nói của chính Người để giúp đám đông hiểu rằng Người là sứ giả của Thiên Chúa.
Đối với Ladarô, người ta phải lăn tảng đá và cởi khăn và vải cho anh, còn trong việc Đức Giêsu sống lại, các phụ nữ chỉ có thể chứng kiến sự kiện: tảng đá đã được lăn ra một bên, và khăn liệm đã được đặt riêng ra (20,1-7); các thiên thần có mặt chỉ là để giúp các môn đệ ý thức về sự kiện.
* Kết luận: Ghi chú về đức tin (45)
Tất cả mọi người trong chuyện đều chứng tỏ họ thiếu đức tin cách nào đó. Nay “có nhiều kẻ đã tin vào Người” (c. 45). Trọng tâm của đức tin, cũng như lâu nay, là tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha. Loài người phải tin rằng Chúa Cha đã sai phái Đức Giêsu và đàng sau tất cả những gì Đức Giêsu thực hiện và nhận là của mình, chính là Chúa Cha. Cả hành vi quyền lực to lớn này của Đức Giêsu cũng là mộttrợ giúp niềm tin.
+ Kết luận
Là con người, chúng ta sẽ phải chết. Mỗi người, từ thuở bắt đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm nhận mộtgiới hạn tuyệt đối và mộtsự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó được. Và chúng ta không thể nào đưa được mộtngười đã chết trở lại với cuộc sống được. Trái lại, Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất thời và tạm bợ giống như giấc ngủ. Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Câu truyện chúng ta đọc hôm nay cho thấy là mục tiêu của Con Thiên Chúa nhập thể không phải là giải quyết những vấn đề trước mắt, như cái ăn cái mặc, các chứng bệnh. Người có làm các phép lạ để giải quyết các vấn đề đó, nhưng để các phép lạ đó trở thành dấu chỉ đưa người ta đến đức tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, các vấn đề ấy mới được giải quyết tận căn, vì Người sẽ ban cho người ta sự sống đời đời.
2. Khi hình dung ra rằng tôi cũng đang đi trên con đường đưa đến cái chết, tức khắc tôi nhận ra được giá trị của mỗi sự việc tôi đang đảm nhận, mỗi sự vật tôi đang sở hữu. Tôi biết điều gì là quan trọng thật, cái gì là tương đối. Tôi hiểu rằng tôi phải tìm chỗ tựa bảo đảm đưa tôi đến cuộc sống vĩnh cửu. Hôm nay điểm tựa ấy được giới thiệu: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin vào Người, tôi nhận thấy cái chết không còn là mộtsức mạnh bách chiến bách thắng, mộtđịnh mệnh bi đát mà con người phải gánh chịu nữa. Cái chết lúc đó chỉ có tính cách tạm thời, như mộtcửa ngõ đưa tôi vào cuộc sống vĩnh cửu.
3. Ngày hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận biết bao dấu chỉ cho thấy sự chết đang tìm cách lan tràn, nhưng sự sống cũng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Dựa vào mình, sống theo tính ích kỷ và kiêu ngạo, con người sẽ rơi vào thất vọng khi trải nghiệm tất cả những giới hạn của thân phận thọ tạo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt quá những giới hạn này, nhờ có Thánh Thần chan hòa trong lòng, bằng cách lắng nghe giáo huấn của Người và đưa ra thực hành, bằng cách sống và chết như Người.
4. Sự can thiệp của Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là mộtĐấng Vô Biên xa vời, không hề quan tâm đến các thọ tạo của Người. Thiên Chúa đã nhập thể để làm người, mang mộttrái tim loài người. Người có thể cảm động, xao xuyến. Người yêu thương các bạn hữu của Người. Nhưng Người cũng bung quyền năng của Người ra để cho Ladarô sống lại, hầu chỉ cho chúng ta con đường sống thật.
5. Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại, vì Người là Lời tạo dựng của Thiên Chúa. Thế nhưng một ngày kia, Người sẽ chết, để rồi các đối thủ có thể chế nhạo đủ cách. Nhưng đó là vì Đức Giêsu không muốn cứu lấy mộtmình Người. Khi đảm nhận thân phận con người chúng ta cho đến chết, Lời ban sự sống của Người không còn ở bên ngoài chúng ta nữa. Người thắng cái chết bằng cách đi xuyên qua nó. Nhờ đó, Người cứu được tất cả mọi người.
Có lần tôi đến nhà một người quen, sau những câu chào hỏi xã giao, tôi được mời vào nhà. Chủ nhà: MC 5-A82
Có lần tôi đến nhà một người quen, sau những câu chào hỏi xã giao, tôi được mời vào nhà. Chủ nhà hết sức lịch sự, mời khách ngồi rồi lo tìm xem có gì để đãi khách. Chủ nhà mở cánh cửa tủ lạnh ra, tôi nhìn thấy có rất nhiều thứ trong đó: thức uống, thức ăn, những thứ dùng ngay được, cũng có những thứ chỉ để dự trữ dùng cho việc nấu nướng. Chủ nhà mang cho tôi trái cây và nước. Tôi vui mừng cám ơn và dùng với gia chủ. Tôi chợt có chút suy nghĩ: nếu cánh cửa tủ lạnh không mở ra, thì tất cả những thứ hết sức cần thiết trong đó, kể cả những thứ mà tôi dùng với chủ nhà, cũng trở nên vô ích. Nhưng vì cánh cửa được mở, và những gì trong đó được đem ra xử dụng đúng với chức năng của nó, nên tạo được sự khoan khoái cho nhiều người.
Ngôi mộ đã chôn vùi Lazarô trong đó, tảng đá lấp cửa đã được đóng kín. Con người của Lazarô trở nên vô ích, vì ông đã bị đóng kín. Nhưng Chúa Giêsu không để cho người bạn thân của Ngài phải chịu cảnh như thế, Ngài không để cho bạn thân của mình trở nên vô ích. Ngài làm một việc mà với khả năng con người không thể hiểu nỗi: một người đã bị chôn vùi bốn ngày mà giờ đây Ngài lại bảo mở cửa cho bước ra. Việc làm của Ngài đem lại sự ngạc nhiên cho những người thời bấy giờ. Họ muốn chôn vùi đi những gì là vô ích, những gì họ cho là hôi thối. Còn Chúa Giêsu thì bảo hãy lăn tảng đá ra, Ngài kêu con người từ cõi chết sống lại, Ngài còn bảo hãy cởi những dây băng trói buộc ra. Một sự ngạc nhiên thật sự cho mọi người, Lazarô không còn bị đóng kín trong mồ, anh ta đã sống lại. Anh ta không còn nằm yên bất động, vì anh ta nghe lời mời gọi và bước ra khỏi mồ. Anh ta giờ đây đã hoạt động bình thường vì anh ta đã được tháo cởi tất cả những gì đã trói buộc anh, giờ đây anh là một người hữu dụng như bao nhiêu người khác.
Lazarô sống lại vì cửa mồ được mở ra, anh ta đi lại và hoạt động được vì những gì trói buộc anh đã dược tháo cởi. Nếu mọi người không giúp đỡ cho anh, không thực hiện lời Chúa Giêsu chỉ bảo, nếu mọi người chỉ biết ngồi nhìn một Lazarô đã hết phương cứu chữa, thì làm sao có một phép lạ, làm sao có được một sự sống hồi sinh.
Chúa Giêsu cũng lập lại lời ngày xưa, với những người hôm nay: " Hãy lăn tảng đá ra, hãy cỏi trói cho anh ta " .
Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta như thế. Nhưng chúng ta chưa chứng kiến được phép lạ, chúng ta cũng không nhìn thấy được sự sống mới nào, vì chúng ta không lắng nghe lời Chúa, nên ngồi yên bất động. Chúng ta ngồi yên bất động trong định kiến của mình, bất động vì bị sự lười biếng trói buộc, bất động vì sự tự hào của sự hiểu biết và những phán đoán khắc khe. Hay chúng ta tự bào chữa cho mình rằng: mình đang giữ đạo tốt, đọc kinh dự lễ hằng ngày, thỉnh thoảng cũng bố thí giúp người nghèo. Với bấy nhiêu việc làm đó, chúng ta cho là mình đã nghe lời Chúa rồi sao? Còn cái nhìn của mình về người khác thì sao? Chúng ta cho họ một phán đoán thật nghiêm khắc: họ hết phương cứu chữa, họ đã hôi thối rồi. Những lúc đó nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa: " Hãy lăn tảng đá ra " , lăn tảng đá đậy kín tâm hồn của mình ra, để tâm hồn được mở rộng, thì phép lạ trong cuộc sống sẽ được thưc hiện ngay. Mở rộng cánh cửa tâm hồn cũng như mở cánh cửa tủ lạnh ra thì những gì cần thiết phục vụ cho con người mới đem ra được. Còn nếu cánh cửa cứ đóng kín thì mọi vật trở nên vô ích.
Nếu chúng ta biết đứng lên và bước đi đến với những người chung quanh để giúp đở họ khi họ cần đến, đó là chúng ta tự cởi những dây băng trói buộc mình. Tự cởi bỏ đi những hiềm khích nhỏ nhen, ích kỷ để biết cho đi những nụ cười thông cảm, những lời nói yêu thương, những sự giúp đỡ chân thành. Khi đó cũng là lúc chúng ta lăn được tảng đá đậy kín tâm hồn của mình ra, mà đem những gì tốt đẹp tiếp đãi mọi người. Nếu làm được như thế, phép lạ được thực hiện ngay, chúng ta nhìn thấy được một sự sống mới hình thành nơi bản thân mình và nơi người khác. Chúng ta vui mừng vì thấy người khác được hạnh phúc, được an ủi, được hy vọng nhờ sự cởi mở của mình. Khi đó chính chúng ta đã được sống lại nhờ biết nghe theo lời kêu mời của Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, biết mở rộng tâm hồn, để đón nhận sự sống mới, sự sống vĩnh cửu từ nơi Chúa.
Một trong những bản năng mà Thiên Chúa đã ban cho các sinh vật trên trái đất này là bản năng sinh: MC 5-A83
Một trong những bản năng mà Thiên Chúa đã ban cho các sinh vật trên trái đất này là bản năng sinh tồn. Con người cũng là sinh vật nên ai cũng muốn sống và sợ chết. Cho dù sự sống có như ngàn cân treo sợi tóc thì người ta cũng quyết bảo vệ cho đến cùng. Người ta sẵn sàng bán vườn đất hay làm tất cả những gì có thể để bảo vệ sự sống của mình hay của người thân. Dầu vậy, đến một lúc nào đó người ta cũng đành bó tay trước thần chết. Như thế, phải chăng cái chết là ngõ cụt của đời một con người sao? Hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho biết chúng ta sẽ được sống đời đời nếu như chúng ta thật sự tin vào Người.
Khi hay tin Lazarô người thân thuộc với mình đã chết 4 ngày, Chúa Giêsu đã trở lại Giuđêa và ghé gia đình của anh. Sau vài lời trao đổi với Matta, Chúa Giêsu đã mạc khải: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25 - 26). Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói đến cái chết của sự sống tạm bợ và sự sống đời đời. Cái chết hiện tại của Lazarô chỉ là cái chết của sự sống tạm bợ. Còn ai thật sự tin vào Người thì dù có chết về sự sống tạm bợ thì cũng sẽ được sống đời đời.
Do hậu quả của tội nguyên tổ nên mọi người chúng ta đều phải chết. Tuy nhiên, cái chết này chỉ là sự biến đổi từ sự sống tạm bợ sang sự sống đời đời. Hơn nữa, là người Công giáo chúng ta tin xác loài người phải chết này sẽ sống lại vào ngày tận thế. Ðến lúc đó chúng ta sẽ biết ai sẽ được sự sống đời đời hay phải chết đời đời.
Những ai khi còn sống ở đời này biết thật sự tin vào Chúa Giêsu thì chắc chắn đến lúc ấy sẽ không còn phải sợ gì nữa. Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta ánh sáng đức tin. Ðể rồi qua ánh sáng đức tin ấy, chúng ta có được cái nhìn đức tin. Từ cái nhìn đức tin chúng ta sẽ đi đến những hành động theo đức tin. Quả vậy, Thánh Giacôbê đã nói: "Ðức tin không hành động là đức tin chết" (Gc 2, 17)
Tin vào Chúa Giêsu là mỗi ngày chúng ta từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người (Mt 16, 24)
Tin vào Chúa Giêsu là mỗi ngày chúng ta thi hành thánh ý Chúa Cha để trở nên thân nhân của Người. (Mt 12, 50)
Tin vào Chúa Giêsu là chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và yêu anh chị em như chính mình (Mc 12, 33)
Như vậy, tin vào Chúa Giêsu là chúng ta hãy sống như Người đã sống. Càng sống giống Chúa Giêsu bao nhiêu là chúng ta sẽ đáng được sự sống đời đời bấy nhiêu.
Chúa Giêsu nói với bà Matta: "Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được: MC 5-A84
Chúa Giêsu nói với bà Matta: "Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống." Qua câu nói này, chính Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, Đấng ban sự sống và sự sống lại cho tất cả những ai tin nơi Người. Chúng ta thấy chưa từng có vị sáng lập đạo nào tự xưng mình là Sự Sống lại và là Sự Sống. Thực tế, người công giáo không hề đề cao Chúa Giêsu, hay vì kính trọng mà tâng bốc Thầy mình. Phép lạ cho Ladarô sống lại, chính là để chứng tỏ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên sai và cũng là Thiên Chúa nữa...Đây chính là điều mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa nhật 5 Mùa Chay này.
a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài câu:
* Phép lạ cho Ladarô sống lại xảy ra lối tháng 3 năm 30, gần cuối đời Chúa Giêsu. Chúa đã giảng dạy tại Giêrusalem từ tháng 10 đến tháng 12 năm 29, nhưng tình hình căng thẳng quá, nên Chúa phải sang làm việc ở miền Pêrê, bên kia sông Giodan. Lúc đó, Chúa được tin Ladarô từ trần.
* Gia đình của Ladarô, quê ở Bêtania, cách Giêrusalem hơn 3 km. Ladarô có hai người chị là Matta và Maria. Đây là một gia đình rất thân quen với Chúa. Mỗi khi lên Giêrusalem, Chúa hay đến trú ngụ tại gia đình này.
* Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người là nguyên nhân của việc sống lại và cả của sự sống của muôn loài trên trái đất, trong đó có thân xác của chính Chúa nữa.
b/. Con người trên đời này rất tò mò về chuyện tương lai, nhất là chuyện người chết rồi sống lại; vì thế có một số truyền thuyết nơi một số bộ lạc, nhất là bộ lạc thiểu số. Bộ lạc Vaudou, miền Trung châu Mỹ, có truyền thuyết Zombie: đó là người chết sống lại, đi ra khỏi mồ, bị một phù thủy quản chế, phải làm theo ý ông ta. Ở Trung Hoa cũng có truyền thuyết Cương Thi, cũng tương tợ như Zombie: một phù thủy hay đạo sĩ có tài sẽ điều khiển các thây ma ra khỏi mồ để làm việc cho mình.Vài bộ tộc da đen ở Châu Phi, cũng có truyền thuyết, con người trước khi chết, được cho uống vào một loại lá cây tương tợ như ngãi, họ sẽ không chết hẳn, nhưng sẽ tồn tại một thời gian, sau đó sẽ sống lại như người trần...
Những truyền thuyết nói trên cho đến hôm nay, cũng chỉ là truyền thuyết vì không có tính khoa học, cũng không phải là một thực tại và nhiều khi mang tính hoang đường nhiều hơn. Bài Tin mừng hôm nay trình bày câu chuyện Ladarô đã chết 4 ngày, lại được sống lại. Ladarô một con người có thực, lịch sử, vì đau bệnh đã chết 4 ngày. Cái chết của ông không phải là một cái chết giả tạo, mà là một sự thật được nhiều người làm chứng. Vậy mà sau 4 ngày, Ladarô đã chết, được Chúa Giêsu cho sống lại. Dĩ nhiên sau này Ladarô cũng sẽ chết lần nữa. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Người chính là nguyên lý của sự sống và sự sống lại. Muốn cho Ladarô sống lại, Chúa không nhờ bất cứ ai hay nhờ quyền năng nào. Chính Chúa Giêsu dùng quyền năng của chính mình mà làm cho Ladarô sống lại; Chúa không mượn tay hay cậy nhờ quyền năng của người khác như thày phù, thày pháp...Thiên Chúa chính là chủ của sự sống, thử hỏi Người muốn điều gì lại không được?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu là Sự Sống lại và là Sự Sống, vì chính Chúa đã chết sau 3 ngày, đã tự mình sống lại, ta có tin không?
Trên trần gian hay chết này, chúng ta tìm đâu ra sức sống để mà sống? Có phải ta đi tìm trong tiền bạc, lạc thú, rượu chè và những lý thuyết đưa tới sự chết, thực ra chúng ta tìm cái gì? Tìm Chúa hay tìm những thứ đó?
CÁI CHẾT LÀ NỖI ĐAU TỘT CÙNG CỦA CON NGƯỜI. Cái chết đưa con người xa rời với những: MC 5-A85
CÁI CHẾT LÀ NỖI ĐAU TỘT CÙNG CỦA CON NGƯỜI. Cái chết đưa con người xa rời với những gì trước đây mình gắn bó. Của cải, người thân, ước mơ, hy vọng tất cả đều qua đi trong nháy mắt. Những gì còn lại chỉ là nắm mộ sâu với những tiếc nuối của người thân. Đứng trước cái chết con người mới thấy rõ sự sống đáng quý là dường nào. Cuộc sống nơi trần gian có giới hạn, mang tính tạm thời nhưng ai ai cũng bám víu, cố giữ không muốn xa rời.
Sự sống tạm thời thật quý, sự sống vĩnh cửu còn đáng quý hơn biết chừng nào. Chúa Giêsu đã tự nói về mình " Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống " (Ga11,25). Lời Chúa Giêsu mang đến niềm vui cho những ai đang đau buồn trước cái chết, đem đến niềm vọng cho những ai vừa thất vọng trước sự ra đi của một người.
Sự chết là nỗi đau của con người.
Con người ai cũng phải chết. Người lành cũng chết, người dữ cũng chết. Người tội lỗi cũng chết. Người thánh thiện đạo đức cũng không loại trừ. Người được Chúa Giêsu yêu như Lazaro cũng phải chết hay ngay chính bản thân Chúa Giêsu, Ngài phải đi qua cái chết mới đến vinh quang phục sinh. Cái chết cho ta hiểu rằng mọi vật đều hư vô. Cuộc sống đời này không là hạnh phúc vĩnh cửu. Mọi vật mọi loài đều hữu hạn trong thời gian và không gian. Chỉ nơi Thiên Chúa mới có sự sống thật, mới có hạnh phúc thật. Thiên Chúa là địa chỉ cần thiết mà con người cần phải tìm về. Bởi lẽ nơi Ngài sự chết sẽ không còn hiện diện. Nỗi khổ đau buồn sẽ được Ngài xoa dịu. Tất cả những tang thương sẽ được Thiên Chúa mặc cho những giá trị mang lại ơn cứu rỗi ngàn đời.
a.Chết trong tinh thần.
Cái chết tự nhiên khiến ai nấy cũng đau buồn. Nhưng cái chết tinh thần làm cho con người cần phải suy nghĩ nhiều hơn.
Chết vì không được ai quan tâm.
Có những người vẫn còn hiện diện trước mắt mọi người nhưng thật ra họ đã chết. Đó là những người sống mà không có tình thương, không có hy vọng, bị người đời bạc đãi phản bội.
Có những người già phải sống cô đơn, sống nghèo khổ giữa những đứa con đầy đủ tiện nghi mà không quan tâm gì đến mình. Họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết.
Có những người đang vật lộn với cơn bệnh tật, thế mà chẳng ai kình viếng, chẳng ai thăm nom, con cái cũng chẳng màn, thỉnh thoảng về thì cho ít tiền để cơm cháo. Quả thật, họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết từ lâu rồi.
Có những em nhỏ bụi đời lang thang ngoài phố chợ không biết đâu là nhà, không biết cha mẹ mình là ai, không được học hành, không một tương lai, không một hy vọng cho ngày mai. Những em đó đang sống nhưng thật ra đã chết rồi.
b. Chết vì còn sống trong tội lỗi.
Cái chết tinh thần không dừng lại ở sự lạnh lẽo, bội bạc của con người. Khi con người phạm tội chính là lúc họ đang ở trong sự chết, vì đã căt đứt mối dây hiệp thông sự sống với Thiên Chúa. Họ chết đuối không bởi do người khác nhấn chìm nhưng vì họ không có cố gắng vươn lên. Họ dường như buông xuôi, đành chấp nhận hiện trạng xấu xa của mình. Họ cho rằng tội lỗi là không thể nào diệt được và đức hạnh thì không bao giờ đạt tới được. Họ không cố đi lên nên đành phải thụt lùi. Sống trong tội khác nào sống mà như đã chết.
Một thái độ khác không muốn sám hối ăn năn. Lần đầu phạm tội ta thấp lo sợ. Lần thứ hai vấp phạm cảm thấy lo lo. Lần thứ ba đã thấy ít lo sợ hơn trước. Và rồi nhiều lần sau kế lỗi phạm ta chẳng còn đắn đo suy nghĩ gì nữa. Dần dần sẽ hình thành nơi ta một sự chai lì trong tội. Ta chẳng cần để ý mình có phạm tội hay không, không còn chiến đấu nữa, phạm tội mà không muốn ăn năn nữa. Đó là ngày mà tâm hồn ta đã chết.
Chúa Giêsu là sự sống lại
Trong một thế giới mà sự chết luôn đe doạ thì vai trò sự sống Chúa Giêsu càng được tỏ hiện. Cô Matta thưa cùng Chúa Giêsu " Thưa Thầy nếu có thầy ở đây, em con đã không chết " (Ga11,21). Đây là một câu nói đầy nữ tính của Matta. Lời cô nửa trách móc vì không cầm lòng được trước cái chết của em, nửa tin tưởng vào Thiên Chúa. Cô như trách CG rằng: Lúc con báo tin sao Thầy không đến ngay, bây giờ mọi sự đã rồi, em con đã chết rồi thầy đến chi nữa! Nhưng khi thốt ra lời ấy, cô Matta nói tiếp những lời biểu lộ niềm tin vững mạnh. Cô nói bằng một hy vọng trong tuyệt vọng " Nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy " (Ga11,22). Chúa Giêsu không phụ lòng mong mỏi và niềm tin tưởng của Matta. Ngài đã cho Lazaro sống lại khi thân xác đã nặng mùi. Phép lạ của Ngài là lời minh chứng Ngài chính là sự sống thật.
" Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống " . Khi nói câu này chắc chắn Chúa không nghĩ về sự sống thể xác. Bởi vì một người tin Chúa không thể chết, điều này không đúng sự thật. Do đó, Chúa Giêsu ngầm nói đến sự chết do tội lỗi, do sự nhẫn tâm của con người gây ra. Cho dù người ta có thể trở thành vô tri vô giác như một kẻ đã chết trước sự đau khổ của người khác; Cho dù người ta có thể dấn thân vào việc làm bất lương chẳng còn biết vinh nhục là gì; Cho dù một người đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng trong đời sống tâm linh; Chúa Giêsu vân có thể khiến những người ấy sống lại.
Cái chết luôn là nỗi ám ảnh và nỗi sợ khủng khiếp nhất của nhân loại. Ai đã từng trải nghiệm khi: MC 5-A86
Cái chết luôn là nỗi ám ảnh và nỗi sợ khủng khiếp nhất của nhân loại. Ai đã từng trải nghiệm khi chia ly vĩnh viễn với người thân mới biết được nỗi đau và sự mất mát mà cái chết mang đến. Tin Mừng hôm nay cho thấy cảnh đau thương, tang tóc do cái chết mang đến cho Lazarô và gia đình anh, cũng như nỗi đau thương ấy hiện rõ trên khuôn mặt Chúa Giêsu trước sự ra đi của người bạn thân yêu làng Bêthania. Nhưng rồi cũng trong sự đau thương tang tóc ấy loé lên niềm hy vọng xoa dịu cảnh sầu thương trước sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Thánh Gioan thật tinh tế khi lột tả sự đau thương của gia đình Bêthania qua những trang Tin Mừng sống động, cũng như cho thấy sự đối kháng với nỗi tang thương ấy là niềm hy vọng mãnh liệt, một niềm vui khôn tả khi tử thần không còn quyền thống trị trước sự có mặt của Con Thiên Chúa.
Chuyện xảy ra tại thôn làng Bêthania, nơi Chúa Giêsu thường lui tới giảng dạy và nghỉ ngơi. Gia đình ấy có ba thành viên: Macta, Maria và Lazarô. Cuộc sống thường ngày cứ trôi qua êm đềm và hạnh phúc. Nhưng cái chết xuất hiện phá tan tất cả. Những dự tính, những hạnh phúc mong manh nhỏ bé ấy tưởng chừng như không ai có thể lấy được giờ đây bị tử thần cướp mất, cắt đứt và làm tiêu tan hết mọi hy vọng, mọi mơ ước tầm thường mà con người đã dày công vun đắp. Một bầu khí tang thương nặng trĩu đang bao trùm gia đình ba chị em Macta trước cái chết của Lazarô.
Chính Chúa Giêsu cũng không cầm được nước mắt trước cảnh đau thương này. Tuy nhiên Ngài muốn cho thấy vẫn con một sức mạnh vượt xa nọc độc của thần chết. Sức mạnh ấy chính là Thiên Chúa. Nếu như thần chết làm tiêu tan mọi hy vọng, gieo nỗi tang thương trên khắp cả hoàn cầu bằng cái chết chia biệt người với người, với những mơ ước xây đắp nơi trần gian... thì Thiên Chúa dùng chính cái chết ấy để đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu.
Những thứ mà tử thần gây ra cho nhân loại chỉ là sự mất mát tạm thời. Nhưng Thiên Chúa dùng cái mất mát tạm thời đó để ban cho nhân loại những điều bất diệt. Như vậy cái chết giờ đây không còn là thứ sợ hãi mà chính là mối lợi. Đây chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: từ sự phản bội của con người trước tình yêu Thiên Chúa mà nhân loại phải chịu hậu quả nặng nề là cái chết, thì giờ đây cũng chính từ cái cái Thiên Chúa dẫn con người đến sự sống đời đời cách dồi dào hơn trước...
Nhưng không phải cái chết nào cũng trở thành mối lợi để chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta chết trong tội lỗi và trong những tham vọng tầm thường của mình thì cái chết ấy sẽ dẫn ta đến cái chết thứ hai là cái chết mãi mãi. Chỉ có những cái chết cho tội, chết cho những ham muốn thấp hèn của bản năn . . . trong niềm tin tưởng phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa mới dẫn ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Sống trong thời đại văn minh, nhưng con người vẫn còn bị bao phủ bởi sự tối tăm của thần chết. Ánh sáng của Chúa Kitô đã đến để xoá tan bóng đêm của sự chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn còn sống theo bản năng, sống trong sự ích kỷ, muốn chiếm đoạt, muốn thống trị, không tiếp tay để đẩy lùi chiến tranh thù hận . . . thì chúng ta vẫn đang tiếp tay để cho thần chết thống lĩnh. Khi đó, chúng ta đang tự đóng khung mình không để ánh sáng sự sống của Chúa Kitô lan toả.
Nếu chúng ta muốn chiến thắng tử thần, muốn cuộc sống này không con bị tử thần phá hoại, chúng ta phải biết tin tưởng vào Chúa Kitô và đặt mọi hy vọng vào Thiên Chúa như hai chị em Macta và Maria trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu có Thầy ở đây em con sẽ không chết."
Tin tưởng vào Chúa Kitô là tin rằng cái chết là một phần của sự sống. Chúng ta sinh ra là để chết và chết để được sống dồi dào. Chính nhờ cái chết mà chúng ta hiểu được giá trị của sự sống. Chúng ta phải chết cho tính ích kỷ, tự kiêu và chết cho tội... Mỗi lần chết như thế là mỗi lần chúng ta cùng nhau vượt qua sân khấu cuộc đời. Mỗi ngày có một cái gì chết đi thì cũng có một cái gì được sinh ra. Chúng ta chỉ chết trong phút chốc với những thất bại, với sự ngược đãi chống đối, với buồn đau, thất vọng và ngay cả cái chết của thân xác như Lazarô... vì nỗi đau mà những cái chết này mang lại trong giây lát rồi sẽ qua để hứa hẹn một tương lai tươi đẹp. Nhưng chúng ta sẽ chết mãi mãi khi tự cô lập, khi chua cay gắt gỏng với anh em, khi con tim ta trở nên chai đá không còn nhạy cảm trước nỗi đau của người khác . . . Chính Chúa Kitô cũng đã trải qua những cái chết này khi treo mình trên thánh giá. Vậy nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô như thế thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Ngài.
Lạy Chúa, nếu ngày mai con chết chắc chắn con sẽ vô cùng lúng túng vì cả đời con chưa làm được một điều gì cho Chúa cũng như cho anh em. Thế giới này còn bao khiếm khuyết dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng ta của Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dám chết đi chính mình để biết cộng tác với Chúa để xây dựng một thế giới yêu thương, công bằng, vui tươi và hạnh phúc... Xin nuôi dưỡng nơi chúng con một niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa đến. Amen.
Biến cố sập nhịp cầu Cần Thơ 26. 09. 2007 là biến cố gây kinh hoàng và ám ảnh của các gia đình: MC 5-A87
Biến cố sập nhịp cầu Cần Thơ 26. 09. 2007 là biến cố gây kinh hoàng và ám ảnh của các gia đình và người thân của gần 100 sinh mạng phải mất đi vĩnh viễn mà không một lời từ biệt. Những người thân chỉ còn biết kêu gào đau khổ trong tuyệt vọng. Lúc đó hình ảnh nhịp cầu với những thanh sắt to nằm tua tủa trong những khối bê tông nặng hàng ngàn kilôgram. Nó như một nấm mồ khổng lồ chôn tập thể những người thân mình mà không biết cầu cứu cùng ai. dẫu rằng trong cuộc sống ai cũng biết sinh - lão - bệnh - tử là điều không thể tránh khỏi nhưng khi mất người thân thì ai cũng phải đau buồn. Maria và những người Do Thái cũng đau buồn khóc lóc trước cái chết của Lazarô.
Trước nỗi đau khổ đó, Đức Giêsu cũng có một thái độ đầy tình người: "các ngươi đặt ông ấy ở đâu?" . Và Người bật khóc, do đo người Do Thái mới nói: "kia xem ! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!" . Nhiều lối giải thích cho rằng Đức Giêsu thương Lazarô nên đã khóc. Lối cắt nghĩa này không hoàn toàn sai. Nhưng có một điều hơi khúc mắc là tại sao Ngài biết chắc mình sắp cho Lazarô sống lại mà con khóc thương? Điều đó hơi có phần vô lý. Ngoài ra, Thánh sử còn diễn tả tâm tình Đức Giêsu qua việc "Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người ta luôn thắc mắc về ý nghĩa các tâm tình đó. Có kẻ xem đây là cơn giận của Chúa Giêsu đối với cái chết mà tác giả của nó là Satan. Số khác lại coi đây là cơn giận của Ngài vì sự cứng lòng tin của những người Do Thái. Điều đó có thể hợp lý hơn, vì cái chết và cứng lòng tin đều quy về Satan như nguyên nhân tác thành. Quả thật, Đức Giêsu không phải cho thân xác Lazarô sống lại để kéo dài thêm tuổi thọ ở trần gian. Nhưng muốn cho con người thấy được Thiên Chúa sẽ ban cho những người tin vào Người sự sống ở trần gian. Như trong bài Tin Mừng Đức Giêsu đã khẳng định: "Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta, sẽ không phải chết bao giờ. Ngươi có tin thề không?"
Trong câu chuyện Gioan tường thuật ta cứ ngỡ Lazarolà nhân vật chính, nhưng đi sâu vào bài Tin Mừng, ông chỉ là chất xúc tác đặc biệt làm rõ lên tính cách của các nhân vật khác. Dĩ nhiên tất cả các nhân vật đó đều phải tuỳ thuộc vào Đức Kitô. Người đã từng bước dẫn các nhân vật trong câu chuyện từng bước đến ánh sáng Phục Sinh, Ánh Sáng của sự sống lại. Hầu như lúc đó tất cả còn đang trong nỗi sợ hãi và suy nghĩ của người đời, nào là Mátta, nào là Maria và vô số những người Do Thái đang đến chia buồn với họ. Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã đưa họ đến với niềm tin Phúc Sinh.
Mặc dầu Đức Giêsu rất thương Lazarô, nhưng Ngài lại quan tâm đến việc quan trọng hơn, đó là đức tin của những người đang có mặt. Và để khẳng định mục đích và ý nghĩa của việc sắp làm, người đã ngước mắt lên mà nói: "ngõ hầu họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói thế, Người lớn tiếng gọi Lazarô và ông ra khỏi mồ.
Chắc chúng ta cũng không lấy làm bỡ ngỡ, khi Giáo hội chọn Chúa Nhật V Mùa Chay để công bố Tin Mừng Đức Giêsu cho Lazarô Phục Sinh, là dịp để chúng ta đón nhận đại lễ Phục Sinh sắp đến. Quyền năng Thiên Chúa sẽ chiến thắng tử thần. Trong khi Lazarô chết đã 4 ngày được Đức Giêsu cho sống lại, chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng của Thiên Chúa trên sự chết. Sự chiến thắng mà chúng ta sẽ được thấy rõ hơn trong chính sự Phục Sinh của Người. Ngày đó, tử thần hoàn toàn bị đánh bại và niềm hy vọng vào một cuộc sống mới, cuộc sống trường cửu sẽ được ban tặng cho chúng ta.
Khi mà con người đã đủ niềm tin vào sự Phục Sinh, thì cái chết như là một sự biến đổi. chính Đức Giêsu đã mở cánh cửa niềm tin cho mọi người, Ngài đã đập tan đêm tối buồn phiền, u mê bằng cách đập tan cửa mồ ngăn cách để đưa con người đến một chân trời hy vọng tràn đầy niềm vui. Người có toàn quyền ban cho ta cuộc sống mới đó. Cuộc sống mà Người đã làm cho người bạn mình là Lazarô. Do đó, Người cũng ban cho chúng niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt trong đó chỉ có tình yêu ngự trị không còn bóng dáng của tội lỗi và sự chết. Như Đức cố Hồng y Px. Nguyễn Văn Thuận đã nói trong đường hy vọng: "Đối với Kitô hữu không có người chết. Tất cả các kẻ chết của chúng ta vẫn đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi thông hiệp với nhau trong đức tin".
Lạy Chúa! Xin cho con biết hướng về cuộc sống mai sau chính là cuộc sống mà thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng con. Amen
Đầu tháng 11.2007, báo chí Tp.HCM đã tốn nhiều giấy mực viết về cái chết của "đoá hoa hướng dương": MC 5-A88
Đầu tháng 11.2007, báo chí Tp.HCM đã tốn nhiều giấy mực viết về cái chết của "đoá hoa hướng dương" Lê Thanh Thuý, một cô gái trẻ luôn ấp ủ trong lòng ước mơ cao đẹp. Mọi người gọi cô là "đoá hoa hướng dương" không chỉ vì cô yêu thích hoa hướng dương, mà còn vì cô đã nỗ lực vươn lên dù biết quảng đời còn lại của mình chỉ trải qua từng ngày, từng giờ. Mặc cho căn bệnh ung thư quái ác đang hoành hành và huỷ dần sự sống, cô vẫn vui sống với những chương trình hành động đậm tính nhân văn: lo lắng, chăm sóc cho các bệnh nhi đồng cảnh ngộ. Những dự tính còn trải dài phía trước, nhưng cuộc đời Thuý đã phải dừng lại. Nhiều trái tim rung động, nhiều giọt nước mắt rơi xuống tiễn đưa một đoá hoa luôn hướng về ánh sáng mặt trời.
Hôm nay, chúng ta cũng nghe thấy những giọt lệ khóc thương người thân yêu từ bài Tin Mừng. Matta, Maria và bà con láng giềng khóc thương trước cái chết của Lazarô. Anh chết đi khi tuổi đời còn quá trẻ. Người ta yêu quý sự sống, "tham sinh huý tử", nên cảm thấy hụt hẫng, đớn đau trước cái chết của một người thân yêu.
Đức Giêsu cũng bồi hồi thổn thức trước nỗi đau của nhân loại. Ngài đến với hai chị em Matta - Maria trong lúc họ đang đau khổ nhất để chia sẻ nỗi đau với họ. Ngài, trong bản tính nhân loại, cũng không cầm được dòng lệ khi người bạn chết đi. Thế nhưng, vượt qua những đau thương hiện tại, Ngài đã loan báo cho gia đình cô Matta và cho cả nhân loại một niềm hy vọng. Đó là sự sống vĩnh cửu có từ nơi Ngài: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống" (Gn 11,25). Sự sống lại của Lazarô chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng ban sự sống và sự sống lại cho những ai tin vào Ngài.
Con người yêu quý sự sống, nhưng cũng cảm thấy sự sống sao mong manh quá. Từ cổ chí kim, người ta luôn tìm kiếm đủ mọi phương dược để được bất tử, hay ít là kéo dài tuổi thọ con người. Nhưng quy luật muôn đời không thay đổi: Ai ai rồi cũng phải chết.
Cái chết tạo nên một thử thách cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những người chỉ nhìn thấy sự chết tước đoạt của con người tất cả, nên ra sức sống buông thả, bởi chết là hết. Họ sống theo triết lý Lamã xưa: "Hãy ăn uống no say, vì ngày mai bạn có thể chết". Nhưng cũng có người sống theo quan niệm khác. Họ tin còn có sự sống vĩnh cửu. Họ sống một cuộc sống tích cực, đầy ý nghĩa để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau và cái chết không là nỗi sợ hãi đối với họ.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống lại. Và sự sống đời đời ấy không bắt đầu khi chúng ta chết đi mà bắt đầu ngay ở đời nầy. Nó được dệt bằng những nỗ lực trong từng công việc hằng ngày của chúng ta. Do đó, trong tất cả mọi việc, dù lớn hay bé, chúng ta hãy làm trong viễn cảnh vĩnh cửu; để nhờ những hy sinh bé nhỏ ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ được hạnh phúc khi bước qua cái chết.
Nhìn những công việc tốt đẹp của Lê Thanh Thuý, người ta nhận ra nơi cô một tâm hồn quảng đại luôn hướng về sự thiện như đoá hoa hướng dương hướng vế ánh sáng mặt trời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng sống thế nào để mọi người nhận thấy chúng ta luôn hướng về Ánh Dương là Đức Kitô, nguồn sống của tất cả mọi người chúng ta.
Người ta khóc vì nhiều nguyên do. Vui quá cũng khóc; buồn quá cũng khóc; đau khổ hay mất mát: MC 5-A89
Người ta khóc vì nhiều nguyên do. Vui quá cũng khóc; buồn quá cũng khóc; đau khổ hay mất mát quá lớn cũng làm người ta khóc. Khóc là một cảm xúc tự nhiên của con người.
Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay Ngài cũng khóc "Chúa Giêsu rơi lệ". Nhưng tại sao Ngài khóc? Có phải vì Chúa nhớ thương một người bạn thân đã ra đi vĩnh viễn không? Chắc không phải thế đâu, vì Ngài biết việc Ngài sắp làm cho Lazarô là cho anh được sống lại. Vậy có phải Ngài khóc vì thấy có nhiều người khóc thương anh ấy không? Chắc cũng không phải thế, vì Chúa Giêsu không bao giờ chạy theo những tình cảm chóng qua của con người. Vậy tại sao Ngài khóc?
Thật ra, trước sự mất mát và đau buồn của tang gia và những người thân, Chúa Giêsu cũng xúc động. Đó cũng là cảm xúc tự nhiên của Con Thiên Chúa làm người. Nhưng nguyên do sâu xa hơn khiến Ngài phải "rơi lệ " và thổn thức là do:
1. Sự cứng lòng tin của người Dothái và niềm tin nửa vời của Mátta và Maria. Trước bao nhiêu việc Ngài làm, bao nhiêu lời Ngài nói mà dân chúng vẫn thờ ơ, nghi ngờ. Thái độ ấy có ngay ở những người thân tín nhất của Ngài. Chúa khóc vì thương cho họ, ví tội nghiệp cho họ. Ngài đã mở mắt cho họ nhưng họ vẫn còn mù tối vì thái độ không cộng tác và những thành kiến cố hủ nơi họ.. Ta cũng hãy nhớ lại , có lần Đức Giêsu cũng dừng chân lại trước của thành Giêrusalem và khóc thương thành: "Giêrusalem, Giêrusalem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu . Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi" (Mt 23, 37-38). Đó là tấm lòng xót thương bao la của người cha, người mẹ cho con cái mình.
Có người nói rằng: Tại sao Thiên Chúa không hành động theo ý Ngài nếu Ngài thấy điều đó là tốt đẹp cho con người? Câu trả lời là vì Thiên Chúa không muốn biến chúng ta thành những cổ máy Robot. Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do và con người phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng tự do của mình. Nếu con người dùng tự do của mình để nghe theo Thiên Chúa, để làm điều thiện theo lời Ngài dạy, thì con người sẽ tìm được hạnh phúc và sẽ mãi mãi sống trong tự do thật sự. Còn ngược lại, con người sẽ phải đau khổ, phải chết và bị trầm luân mãi mãi trong đau khổ.
Lời Chúa vẫn còn đó, vẫn âm vang mỗi ngày bên tai và trong lòng chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thái độ nào trước lời mời gọi của Chúa mà thôi.
2. Đức Giêsu khóc cũng vì Ngài nghĩ đến cái chết của Ngài sắp xảy đến. Cái chết của Lazarô là dấu hiệu tiên báo về cái chết của chính Đức Giêsu cũng như tiên báo sự chiến thắng tạm thời của Satan. Sự xúc động của Đức Giêsu ở đây cũng giống như tâm tình của Ngài trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu (Ga 12, 27. 13, 21). Việc Đức Giêsu phục sinh cho Lazarô cho chúng ta thấy quyền năng của Ngài như Ngài đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống". Hãy vững tin vào Ngài.
Chúng ta cũng hãy nhìn xem về thái độ của Mát-ta và Maria. Họ tuyên xưng và tin rằng Đức Giêsu là sự sống và tin Ngài có quyền làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng trong thực tế, họ vẫn nghi ngờ. Chúng ta có thể nói được điều đó là vì khi Đức Giêsu bảo "Hãy đẩy tảng đá" ở cửa mộ của Lazarô ra, thì Mátta thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rối vì đã 4 ngày". Thế đấy, tuyên xưng niềm tin bằng tâm tình và bằng lời nói thì xem ra rất dễ. Nhưng đi vào thực tế, thì chúng ta lại rất hay nghi ngờ. Chúng ta cũng hãy xét lại mình xem, tâm tình của chúng ta khi tuyên xưng niềm tin vào Chúa có giống như Mát-ta không?
Chúng ta đang sống trong tinh thần Mùa Chay. Mùa Chay nhắc nhớ chúng ta ăn chay, hãm mình: MC 5-A90
Chúng ta đang sống trong tinh thần Mùa Chay. Mùa Chay nhắc nhớ chúng ta ăn chay, hãm mình và làm việc bác ái. Thiết nghĩ, làm những việc đó để làm gì nếu không phải hy vọng được tha thứ tội lỗi, và mong đạt được sự sống đời đời sau cái chết !
Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay hé mở cho chúng ta chân trời hy vọng ấy khi trình thuật phép lạ Đức Giêsu cho anh Ladarô chết sống lại !
Qua phép lạ cho Ladarô hồi sinh sau khi chết, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy Ngài chính là nội dung của niềm hy vọng phục sinh; đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy tin tưởng và phó thác nơi Ngài, thì cũng sẽ được sống. Vì thế, chính Ngài đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” ( Ga 11, 25 ). Các bài đọc sẽ lần lượt giúp cho chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay.
Ý nghĩa Lời Chúa
Trước tiên là bài đọc thứ nhất ( Ed 37, 12 – 14 ), trình thuật việc dân Israel sống trong cảnh cơ cực bần cùng tại Babylon trong thân phận lưu đầy. Khi sống trong cảnh tối tăm như thế, họ không biết gì đến tương lai. Đối với họ, tương lại hoàn toàn mù mịt: không đền thờ, không tư tế, không hy vọng, ở tản lạc giữa các dân ngoại... họ chẳng khác gì như một đống xương khô nơi nấm mồ trong thung lũng thẳm sâu ( x. Ed 37, 114 ). Tuy nhiên,Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ, nên đã sai tiên tri Êdêkien đến để nâng đỡ, an ủi và loan báo cho họ một tương lai sáng sủa hơn, tốt đẹp hơn và tràn đầy hạnh phúc khi dân Israel được hồi hương nếu họ trung thành và sẵn sàng nghe theo huấn lệnh của Thiên Chúa. Được hồi hương, thoát khỏi cảnh nô lệ bên Babylon thì chẳng khác gì được trỗi dạy từ những nấm mồ là hình bóng của sự chết tróc ( x. Ed 37, 12 – 14 ).
Tiếp theo, bài đọc thứ hai ( Rm 8, 8 – 11 ), Thánh Phaolô đã lay động tâm hồn tín hữu Rôma bằng việc đưa ra những hình ảnh gợi cảm nhằm biểu đạt một niềm hy vọng cho tương lai. Vì vậy, ngài đã ví những người sống trong cảnh buông thả, dung dưỡng xác thịt, không sống theo Thần Khí thì chẳng khác gì một người đang bị nấm mồ thần chết vô hình do tội lỗi vây hãm. Tuy nhiên, Thánh nhân cũng củng cố niềm tin và mời gọi hãy gắn bó với Đức Giêsu nhờ Thánh Thần của Ngài, để trong ta có Chúa và trong Chúa có ta, thì cho dù chúng ta có chết, Ngài cũng sẽ cho chúng ta sống lại.
Cuối cùng, bài Tin Mừng đem lại cho chúng ta tràn đầy hy vọng khi trình thuật việc Đức Giêsu cho anh Ladarô là bạn thân tín của Ngài đã chết 4 ngày được sống lại. Sự hồi sinh Ladarô, một mặt nhờ niềm tin của Martha, mặt khác để tôn vinh Thiên Chúa Cha, và cũng để củng cố niềm tin nơi các môn đệ cũng như những người hiện diện, đồng thời cũng tiên báo một cuộc sống mới sau cái chết của những người tin vào Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Thiên Chúa, nên ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Đức Giêsu là Sự Sống
Nếu Chúa Nhật 4 Mùa Chay, câu chuyện Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu chính là sự sáng thế gian qua trình thật việc Đức Giêsu làm phép lạ cho người mù được sáng mắt, thì Chúa Nhật này, như một sự tiệm tiến để dẫn đến một mặc khải quan trọng hơn, mặc khải về Đức Giêsu chính là sự sống.
Trình thuật được khởi đi từ việc Đức Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem. Đi lên Giêrusalem vào thời điểm này thì đồng nghĩa với việc đón nhận cái chết. Nhưng vì vâng lời Chúa Cha và yêu thương con người, nên Ngài đã sẵn sàng.
Vì vậy, khi nghe thấy có người đưa tin về Ladarô bạn của Ngài đau mệt, Đức Giêsu đã không đi ngay, mà phải đợi đến khi Ladarô chết và được an táng tới 4 ngày trong mồ, Ngài và các môn đệ mới tới.
Khi đến Bêthania, Ngài thổn thức vì thấy nỗi đau khổ của hai chị em Martha và Maria mất em, của những người hàng xóm thương khóc bạn thân. Thấy Đức Giêsu, Martha đã chạy lại và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết" ( Ga 11, 21 ). Lời nói này có thể là một lời trách nhẹ và cũng là một lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu. Thật thế, ngay sau câu nói đó, Martha tiếp: "Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy" ( Ga 11, 22 ).
Đức Giêsu đã không để cho Martha thất vọng và những người Do Thái phải chờ đợi, vì thế Ngài đã trấn an ngay: "Em chị sẽ sống lại !" Tuy nhiên, Martha hiểu về việc thân xác của Ladarô sẽ được phục sinh trong ngày sau hết: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” ( Ga 11, 24 ). Đức Giêsu đã khẳng định rằng Ngài có toàn quyền trên sự chết khi nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” ( Ga 11, 25 ).
Nhưng vì quá đỗi hồi hộp và luýnh quýnh, niềm tin lại một lần nữa bị thử thách đối với Martha, vì thế bà thưa: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". Đức Giêsu đã đòi Martha phải đặt trọn niền tin vào Thiên Chúa: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?” ( Ga 11, 39 ).
Và như một sự minh định, Ngài đã truyền lệnh cho lăn phiến đá lấp cửa mồ ra, và lớn tiếng truyền lệnh cho Ladarô ra khỏi mồ. Ngay lập tực, Ladarô tiến ra và thần chết đã bị đẩy lui cho sự sống hồi sinh.
Theo qua niệm của người Do Thái, thì câu nói của Martha “...đã 4 ngày rồi” hàm ý nói rằng khi một người đã chết được 4 ngày thì linh hồn chỉ lởn vởn chứ không nhập được vào thân xác nữa..., nên việc hồi sinh kẻ chết quả là một chuyện khó khăn. Tuy nhiên, sự chậm trễ của Đức Giêsu; việc xác chết đã 4 ngày... chuyện đó đâu có gì khó đối với Đấng là nguồn sự sống !
Qua lệnh truyền và hình ảnh các mảnh vải quấn thân xác của Ladarô được tháo cởi, có ý muốn nói lên sự chết không còn có quyền chi đới với Đức Giêsu nữa, và khi con người được giải thoát khỏi nấm mồ sự chết thì cũng là lúc con người được tự do đích thực và cái chết không thể chế ngự được gì trước Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Như vậy, việc Đức Giêsu cố tình chậm trễ như thế là để nhằm cho người ta thấy rằng, Ngài làm chủ trên sự sống và sự chết của con người. Khi Đức Giêsu đã chiến thắng thần chết trên Ladarô thì cũng là lúc giờ Thiên Chúa Cha được tôn vinh nơi Ngài.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Toàn bộ bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta thấy Đức Giêsu chính là sự sống. Tuy nhiên, muốn đạt được sự sống ấy, thì chúng ta phải tin nơi Đức Giêsu là sự sống. Ngài sẽ làm cho thân xác hư nát, phải chết của chúng ta trở thành thân xác sáng láng vinh hiển của Ngài. Mặt khác, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi cái tôi tự kiêu để đến với Đức Giêsu. Nếu chúng ta không đến với Ngài, chúng ta sẽ không có nguồn sự sống từ nơi Ngài. Thật vậy, cành không thể có sự sống nếu không gắn liền với thân cây. Cành chỉ có sự sống và từ sự sống ấy mới sinh ra nhiều hoa trái dồi dào được.
Sự gắn bó với Đức Giêsu được kể như là điều kiện cần để được sống đời đời.
Dưới ngòi bút của một nhà thần học siêu nghiệm, Thánh Gioan muốn nhấn mạnh đến sự “chuyển rời” hiện tại để hướng đến một bước tiến mới.
Trước tiên là sự “chuyển rời” của người đưa tin cho Đức Giêsu về việc Ladarô đang bệnh nặng; rồi Đức Giêsu và các môn để “chuyển rời” từ bên kia sông Giođan để đến Bêthania; Martha đã “chuyển rời” từ trong nhà để ra đón Ngài; Đức Giêsu, các môn đệ, hai người chị của người chết và những người Do Thái đã “chuyển rời” từ nhà của người chết để đến nơi đã an táng; và cuối cùng là Ladarô “chuyển rời” để ra khỏi mồ.
Hình ảnh này cho chúng ta thấy rằng, đời sống của con người chúng ta cần phải “chuyển rời” để thay đổi nếp sống cũ, con đường cũ, nói chung là con người và hành vi tội lỗi của chúng ta, để thay vào đó là một cuộc đời mới, cuộc đời thánh thiện, công chính; một cuộc đời và một sự sống có Chúa. Khi có Chúa, chúng ta đạt được sự sung mãn trong tình yêu của Chúa.
Thật vậy, Nếu chúng ta sống dung túng và hào phóng trong tội. Không gắn bó với Chúa. Chúng ta cũng sẽ chết. Tuy nhiên, nếu chúng ta thay đổi nếp sống cũ là ích kỷ, tham lam, hà tiện, kiêu ngạo... và tin tưởng vào Đức Giêsu, thì chúng ta cũng sẽ được sống đời đời: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” ( Ga 11, 25 ).
Khi tin như thế, cả con người và hành vi của chúng ta hướng về Chúa, về Nước Trời và như một sự “chuyển rời” để từ ích kỷ đến lòng bao dung. Từ thất vọng đến niềm hy vọng. Từ miền u tối đến miền ánh sáng. Từ sự chết đến nguồn sự sống. Như vậy, nhờ có sự “chuyển rời” mà sự chết nơi chúng ta là những người tin, không trở nên bi đát, ngõ cụt. Nhưng chỉ là một cuộc chuyển mình hầu vượt qua cái chết để tiến đến vinh quang mà thôi. Thật vậy, Thánh Phaolô đã nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3, 20 – 21 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã làm phép lạ cho Ladarô chết 4 ngày sống lại, nhằm củng cố niềm tin của những người đương thời với Chúa, và cũng mặc khải cho mỗi người chúng con biết rằng chính Chúa là sự sống lại và là sự sống. Xin cho mỗi người chúng con ý thức được điều đó để thêm tin, thêm mến, thêm cậy trông vào Chúa hầu được sự sống đời đời. Amen.
SI-TA ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá: MC 5-A91
SI-TA ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá phách cướp giựt. Trong phiên tòa lần thứ năm, quan tòa đã phải tuyên bố như sau: "Có phạt anh thêm nữa cũng vô ích ! Nhưng chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi đã làm hết cách. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng về anh". Vào tù lần này, ĐE-LI lại ngựa quen đường cũ: có những hành vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù yếu thế hơn mình, nên anh đã bị biệt giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: Khi đang phải nằm thu mình trong một căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên nền đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm đã phạm. Vốn là con một trong gia đình giàu có, được cha mẹ cho đi học, nhưng anh lại lười biếng và ăn cắp tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ nhà đi hoang. Từng được nhà trường đánh giá là một học sinh thông minh giàu sáng kiến và chỉ có thói xấu ham vui. Vậy tại sao anh lại không sử dụng những tài năng đó để làm việc tốt hữu ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà ra đi và phải mang thêm tội đàn áp bóc lột kẻ khác ?
Rồi sau đó anh bắt đầu có những giấc mơ đẹp về Đức Giê-su, mà anh đã từng biết khi theo học khóa giáo lý vỡ lòng. Dường như anh thấy Đức Giê-su đang âu yếm nhìn anh và mời anh đi theo Người. Rồi hình ảnh những người từng bị anh gây thương tích lần lượt hiện ra trong tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một tình cảm dào dạt với họ. Chính tình thương ấy đã tắm mát và chữa lành những vết thương trong tâm hồn sơ cứng của anh. Cảm nghiệm ấy đã dần dần biến đổi anh nên một người mới đầy tràn tình yêu của Đức Giê-su. Sau hai tuần lễ, ĐE-LI được ra khỏi ngục biệt giam và trở lại phòng giam thường phạm. Anh không còn thái độ bắt nạt bạn tù, trái lại còn sẵn sàng bênh vực những kẻ thân yếu thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở thành người học trò chăm chỉ và xuất sắc nhất trong đám bạn tù. Mấy năm sau, khi được mãn hạn tù, anh đã trở thành chủ tịch hội "Cải cách chế độ lao tù". Khi nói về anh, cha tuyên úy nhà lao đã nói: "Si-ta Đe-li là một phép lạ sống động mới xảy ra: Không những anh là một tội nhân được ơn sám hối, mà còn thực sự trở nên một tạo thành mới, một tín hữu tốt lành thánh thiện và là môn đệ đích thực của Chúa Giê-su".
3. SUY NIỆM:
1) "Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống":
La-da-rô và hai người chị Mác-ta, Ma-ri-a là bạn thân của Đức Giê-su tai làng Bê-ta-ni-a. Nhà của họ là nơi Đức Giê-su và các môn đệ của Người ở trọ mỗi lần các ngài đi lên Giê-ru-sa-lem. Với tình bạn thâm giao ấy, khi La-da-rô bị bệnh nặng, Mác-ta đã vội sai người nhà đi báo tin cho Đức Giê-su biết. Nhưng Đức Giê-su lại cố ý trì hoãn không đến ngay vì Người muốn dùng sự kiện này để chứng minh Người "là sự sống lại và là sự sống", nên đã nói với các môn đệ: "La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin" (Ga 11,14-15).
2) Về đức tin của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a:
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy về hai cách biểu lộ đức tin như sau:
- Về đức tin tuyên xưng ngoài môi miệng của Mác-ta: Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Cô nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: "Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy". Đức Giê-su nói: "Em chị sẽ sống lại !" Cô Mác-ta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Đức Giê-su liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?" Cô Mác-ta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian (Ga 11,20-27). Tuy nhiên đức tin thể hiện bằng lời nói của Mác-ta vần chưa phải đức tin vững mạnh: Khi đến trước mộ của La-da-rô, Đức Giê-su nói: "Đem phiến đá này đi". Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". Đức Giê-su bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?" (Ga 11,39-40).
- Về đức tin cậy trông tín thác vào Đức Giê-su của Ma-ri-a: Cô Ma-ri-a thì tin mạnh mẽ vào Đức Giê-su thể hiện qua như sau: Nghe tin Thầy đến, cô Ma-ri-a "vội đứng lên và đến với Đức Giê-su". Vừa thấy Người, cô liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết" (Ga 11,29.32). Đức tin của Ma-ri-a thể hiện qua thái độ cậy trông vào quyền năng và tình thương của Thầy nên không nói nhiều mà chủ yếu là thái độ yên lặng, hoàn toàn tin tưởng phó thác để Thầy toàn quyền định liệu. Chính nhờ biết ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người đã giúp Ma-ri-a đạt tới đức tin cậy trông tín thác vào Chúa Giê-su (x. Lc 10,38-40).
3) Sống đức tin cụ thể hôm nay:
- Hãy trở thành ngôn sứ của sự sống, tình thương và niềm vui: Trong sứ điệp ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Gio-an Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ như sau: "Hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình thương, những ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối của sự chết như: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, si-đa, ám sát, đặt mìn, tai nạn giao thông... Những cái chết về thể xác phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn. Đó là cái chết của Tình Yêu trong lòng con người ! Cái chết ấy sẽ thắng thế khi con người sống buông thả, chán chường và khép kín trong sự ích kỷ. Nhưng chúng ta có Đức Giê-su là "Sự Sống Lại và là Sự Sống". Một khi chúng ta liên kết mật thiết với Người, chúng ta cũng có thể thông truyền sự sống, tình thương và niềm vui cho thế giới, giống như Đức Giê-su xưa đã trả lại sự sống cho La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a... Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần được giúp đỡ, những nơi có những giọt nước mắt cần được lau khô, những nơi có những lời cầu cứu đang mong chờ được đáp ứng".
- Đức tin thực sự phải thể hiện qua hành động cậy trông yêu mến: Thánh Gia-cô-bê đã đề cao đức tin tín thác và hành động chia sẻ như sau: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được không? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,14-17).
4. THẢO LUẬN: Chúng ta cần phải làm gì để trở thành Ngôn Sứ của Sự Sống, sẵn sàng chia sẻ sự sống của Chúa cho đồng bào Việt Nam, cho những người bệnh tật đau khổ đang sống chung quanh chúng ta ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con chưa chết nên không xin Chúa cho sống lại về phần xác, nhưng chúng con xin Chúa ban cho chúng con sống lại thật về phần linh hồn: để không những chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết, mà còn tiêu diệt những nguyên nhân dẫn tới cái chết như tham lam tiền bạc, ham mê rượu chè, chích hút và những đam mê bất chính khác... Xin cho chúng con thắng vượt sự thất vọng, buồn chán, sống không lý tưởng...
- LẠY CHÚA. Xin giúp chúng con biết tôn trọng sự sống nơi bản thân và gia đình con. Xin cho chúng con biết bảo vệ môi trường sống, và luôn sống kết hiệp với Chúa Thánh Thể là Nguồn Sống Mới. Xin cho chúng con biết siêng năng đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày để chúng con luôn có sự sống của Chúa nơi chúng con, và ngày sau chúng con cũng được sống mãi trong cuộc sống vĩnh hằng.
Điều đã thành sự nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại" (Gn 1:3). Những lời dẫn: MC 5-A92
"Điều đã thành sự nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại" (Gn 1:3). Những lời dẫn nhập trên đây trong Tin Mừng theo thánh Gioan được minh họa đầy đủ hơn qua trình thuật "Chúa chữa người mù" và "Phục sinh Lazarô". Rõ ràng, vị thánh sử muốn khẳng định: Đức Giêsu chính là Sự Sống và Sự Sáng cho muôn dân.
Trong bài Phúc âm tuần trước, khi được các môn đệ hỏi "Tội ai đã gây ra tình cảnh bất hạnh cho người mù mắt thuở mới sinh," Đức Giêsu trả lời: "Không phải tội ai cả, nhưng để nơi con người ấy công việc Thiên Chúa được rạng vinh." Trong bài Phúc âm tuần này, khi có người báo cáo về tình hình nguy tử của Lazarô, Chúa Giêsu lại xác quyết: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa, và do đó Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh."
Dưới đôi mắt loài người, bệnh hoạn, tật nguyền, đau thương, chết chóc là những mầm móng gieo rắc thống khổ, bất an và bất hạnh. Nhưng đối với Đức Giêsu, tất cả có thể trở thành phương thế ca ngợi quyền năng của tình yêu Thiên Chúa.
Như thế, một cái nhìn mới đã được trao ban cho nhân loại: thay vì kêu ca, nguyền rủa và khước từ khổ đau, con người có thể chấp nhận và sử dụng nó như phương tiện tiến tới vinh quang ngày mai.
Chúa Giêsu không đề cao đau khổ như cứu cánh của con người, nhưng Ngài lại dùng đau khổ để bày tỏ tình yêu là cội nguồn của ơn cứu độ. Bao năm trời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không ngừng ra tay giải thoát người ta khỏi những áp chế của bệnh tật, u sầu và chết chóc phần xác, nhưng chính Ngài lại đón nhận nỗi tang thương khủng khiếp nhất của kiếp người là cái chết ô nhục để mang lại cho thế giới sự sống thần linh phong phú.
Chúa Giêsu vừa "yếu đuối" để chia sẻ và cảm thông tận cùng nỗi khổ đau của con người, nhưng lại vừa "mạnh mẽ" để nâng đỡ và cứu độ cả thể xác lẫn linh hồn nhân thế. Thánh Gioan đã làm rõ nét chân dung của Chúa Giêsu với hai bản tính Thiên Chúa và con người, "mạnh mẽ" và "yếu đuối", trong phép lạ "Phục sinh Lazarô."
Kinh thánh kể: Đức Giêsu thương mến ba chị em Matha, Maria và Lazarô cách đặc biệt nên thường ghé nhà họ mỗi lần có dịp qua làng Bêtania. Thế nên khi Lazarô ốm nặng, Matha vội cho người cấp báo với Đức Giêsu, hy vọng rằng Ngài sẽ đến chữa ngay cho em mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy ra, nên Ngài tiếp tục lưu lại nơi đang ở là quận Pêrê thuộc mạn đông của giòng sông Giođan thêm hai ngày nữa, sau đó mới lên đường đi Bêtania. Như thế, người đưa tin đi hết một ngày đường, thêm hai ngày Chúa ở Pêrê, và một ngày đường Ngài đi về Bêtania, tổng cộng là 4 ngày, bằng số ngày Lazarô qua đời.
Tại Palestine, vì thời tiết nóng nực làm cho xác chết mau mục rữa và hôi thối, nên người ta thường đem chôn ngay trong ngày người chết vừa qua đời, sau đó mới tiến hành một tuần than khóc. Thế nên, Kinh thánh ghi nhận: "Có nhiều người bạn bè thân thích vẫn còn lưu lại với chị em Matha khi Chúa Giêsu đến."
Rồi khi thấy tang gia cùng bao bạn bè thân thích than khóc về sự ra đi của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức xúc động (Gn 11,33). Thế rồi, đang lúc đi ra mộ thì Ngài khóc (Gn 11,35).
Tại sao biết trước những gì sẽ xảy đến cho Lazarô và những gì mình sẽ làm để tôn vinh Thiên Chúa mà Đức Giêsu lại thổn thức? Phải chăng thánh sử Gioan muốn xác quyết Chúa Giêsu là một con người đích thực: biết thương, biết cam, biết chia sẻ thân phận và niềm đớn đau mất mát của con người? Phải chăng Ngài đang đi sâu vào cõi âm u của sự chết, để rồi từ đó đưa con người tiến ra với sự sống.
Ngoài việc bày tỏ nhân tính, Chúa Giêsu còn mạc khải thiên tính: "Ta là sự sống lại và là sự sống." Xưa nay, không người nào dám tuyên bố như thế, bởi vì có ai lại không bị thần chết khuất phục. Chỉ có Thiên Chúa mới là chủ tể của sự sống và sự chết. Không ai có thể tự mình bước vào cõi chết và sau đó lấy lại sự sống. Chỉ có Đức Giêsu mới làm được việc ấy.
Ngài hô lớn tiếng: "Lazarô! Hãy ra đây!". Người chết đi ra, chân tay và mặt còn quấn các mảnh vải và khăn liệm. Đáng ngạc nhiên là việc người chết lại có thể nghe được tiếng hô của Đức Giêsu để sống lại! Như thế lời tiên báo của Ngài trước dân Do thái đã bắt đầu thành sự: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các người: giờ đã đến - và là ngay bây giờ - các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ sống" (Gn 5,25)
Từ trong thâm cung của cõi chết, Lazarô đã nghe tiếng Con Thiên Chúa để rồi bước ra cõi sống. Điều đó hàm ngậm một chân lý: khi con người lắng nghe tiếng Chúa và thi hành, sự sống sẽ phát sinh. Đây là sự sống thần linh, không mục nát, không thối rữa mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Như thế, dù thân xác có bị tan biến theo thời gian, sự sống Thiên Chúa tặng ban sẽ giúp con người tồn tại muôn đời.
Vậy thì hôm nay Chúa muốn nói gì với tôi, và tôi phải làm gì để có được sự sống thần linh đó?
Chúa nói "Hãy cởi khăn liệm cho anh ấy." Như thế, Chúa muốn tôi ra tay tháo gỡ những mãnh khăn đang bó buộc tha nhân, đem lại cho họ nhân phẩm và sự sống đích thực của con người. Ngài muốn tôi thắp lên một ngọn lửa yêu thương, dù rất bé nhỏ, để góp phần soi sáng cuộc đời.
Chúa bảo dân chúng cởi khăn cho Lazarô, và Ngài cũng mời gọi tôi hãy cởi bỏ những đắng cay, buồn phiền, thất vọng, u mê cho kẻ khác.
Làm như thế là tôi đang sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay thánh, đồng thời đón nhận dồi dào ánh sáng Phục sinh của Đức Giêsu, Đấng Cứu độ con người.
Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi: MC 5-A93
Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi như vậy chưa? Theo chủ quan của tôi thì khoa học hay triết học không trả lời được câu hỏi này nên tôi tìm đến Kinh
Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi như vậy chưa? Theo chủ quan của tôi thì khoa học hay triết học không trả lời được câu hỏi này nên tôi tìm đến Kinh Thánh. Chính Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi của tôi: "Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai bị quăng vào lửa, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin"(Mt 6,30).
Thế là đã rõ, chính Thiên Chúa đã tạo nên, ban tặng vẻ đẹp và sự kiều diễm cho hoa đến nỗi bậc đế vương sang trọng như Salômôn cũng không sánh bằng. Nhưng tôi lại thắc mắc: Hoa đẹp vậy mà tại sao lại chóng tàn thế ? Tại sao chỉ một cơn gió mạnh cũng làm nó biến đi, chỗ nó mọc không còn vết tích?
Tôi lại tìm được câu trả lời ngay trong đoạn Kinh Thánh vừa được trích: Chúa muốn qua loài hoa để dạy tôi về sự quan phòng của Ngài và muốn tôi hãy phó thác cho tình yêu thương của Cha trên trời. Ngài còn nhắc tôi nhớ lại câu ca dao đồng nội tương đương với Thánh Vịnh 90 nói về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp nhân thế:
"Đời người khác thể bông hoa
Sáng ngày hé nở chiều ra đã tàn"
Tương đương
"Như cỏ đồng trổ mọc ban mai
Nở hoa vươn mạnh sớm ngày
Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn... " (Tv. 90, 5-6)
Đúng vậy, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi:
Ấy con người khác chi hơi thở,
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.
Nhưng chẳng lẽ Chúa gửi cho đời những bông hoa đẹp như vậy mà lại chỉ thông báo những điều tiêu cực và chỉ để:
Ngồi lại bên đời thương dĩ vẵng
Nghe trong lòng câu "hoa sớm nở tối tàn"
Theo tôi Chúa muốn gửi đến cho mọi người thông điệp khác nữa:
Hoa đến báo hiệu mùa Xuân tới,
Mùa hy vọng, mùa sự sống vũ hoàn
Sứ điệp loài hoa không chỉ nhắc cho con người về sự mỏng giòn chóng qua mau hết nhưng còn khơi lên niềm hy vọng: Chết không phải là hết mà là:
Thu qua Đông tới Xuân về
Cúc tàn Sen nở trên quê vĩnh hằng.
Anh em Phật giáo quan niệm: Nếu sống tốt, sống lành, sống thiện thì khi Thu qua Cúc tàn sẽ được hưởng mùa Xuân Vĩnh Hằng trên tòa sen. Còn nếu sống ngược lại thì sẽ bị hóa thân làm kiếp khác thấp hơn, xấu hơn. Đó chính là niềm tin có sự sống đời sau được diễn tả qua thuyết luân hồi.
Còn người Kytô chúng ta không chỉ nhận ra những dấu chỉ, những mạc khải của Chúa về sự sống sau cái chết qua thiên nhiên, qua khát vọng sống vĩnh cửu của con người, mà còn được chính Thiên Chúa cho biết về điều đó.
Từ rất xa xưa, qua ngôn sứ Ezékiel Chúa đã thông báo cho Dân Ngài và cũng là cho toàn thể nhân loại một tin mừng: "Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống." (Ed 37, 13)
Lời hứa đó được thực hiện nơi Con của Ngài, và phép lạ "kéo Lazaro ra khỏi mồ" hôm nay là một dấu chỉ, một điều báo trước cho phép lạ vĩ đại nhất, kỳ công lớn lao nhất mà Thiên Chúa, qua Thánh Thần của Ngài, sắp thực hiện nơi Đức Giêsu Kytô, và chính đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của chúng ta: "Và nếu thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kytô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kytô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần của Người ngự trong anh em" (Rm 8, 11)
Như vậy muốn ra khỏi mồ thì phải vào trong mồ đã, tức là phải chết đi cho xác thịt, cho tội lỗi và sống trong Thánh Thần.
Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta chết cho tội. Hãy vào trong "ngôi mộ tình thương" của Bí ích Hòa Giải để cảm nghiệm sự khốn cùng của kiếp người và tình thương bao la của Thiên Chúa (Tv 129), để được nghe và đáp lại lời Chúa mời gọi: "Hỡi Lazaro hãy ra khỏi mộ"!
Hãy chết cho xác thịt để hoa trái của Thánh Thần nở rộ giũa cuộc đời:
"Hãy chấp nhận làm cõi lòng tan nát,
như hoa tàn dâng trái ngọt lựng hương"
Chính những trái ngọt lựng hương mang được "làm chín" bởi Thánh Thần và bởi "tấm lòng tan nát dày vò" này sẽ là của lễ mà Thiên Chúa yêu thích nhất và nhất là đươc sống đời đời với Đấng đã tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống đời đời" (Ga 11, 25). Amen
Thực tế, con người ai cũng muốn kéo dài sự sống. Không ai thích chết, nhưng luôn muốn có một: MC 5-A94
Thực tế, con người ai cũng muốn kéo dài sự sống. Không ai thích chết, nhưng luôn muốn có một cuộc sống lâu dài, nếu không nói được là bất tử. Tuy nhiên, đây chỉ là giấc mơ của con người. Bởi vì, từ xưa tới nay dù con người có dày công nghiên cứu. Khoa học có tiến bộ vượt bực, y khoa có cao vời, con người vẫn không thể nào kiếm được thuốc trường sinh! Một điều hiển nhiên, đã là con người tất nhiên đều phải chết ! Nhưng chính Chúa Giêsu đã tuyên bố và đã thực hiện:" Tôi là sự sống lại và là sự sống " ( Ga 11, 25 ).
Phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lagiarô chết chôn trong mồ đã bốn ngày sống lại đã minh chứng Ngài là Đấng Thiên Sai, Ngài là Đấng có uy quyền tuyệt đối trên sự sống và sự chết của con người, Ngài là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, Đấng ban sự sống và sự sống lại cho tất cả những ai tin vào Ngài. Nếu, chúng ta đọc Tin mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ Phúc Âm Nhất Lãm tới Tin mừng của thánh Gioan về Con Người Toàn Năng của Chúa. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người, Ngài là Con Thiên Chúa và cũng là chính Thiên Chúa. Đọc Tin mừng chúng ta nhận ra một Thiên Chúa nhân từ, gần gũi với mọi người, đặc biệt là những con người khó nghèo, bần cùng, tội lỗi, những con người thấp cổ bé họng, những con người bị xã hội đẩy ra bên lề. Đọc Tin mừng của thánh Gioan, người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacop, người phụ nữ mà Chúa Giêsu đã biết hết cuộc đời riêng tư của bà và qua cuộc trao đổi có thể nói được là rất lạ lùng này, bà đã xin Chúa cho bà thứ nước không hề khát, để bà hằng ngày khỏi phải tới để múc ở giếng Giacop. Nước Hằng Sống hay Bánh Trường Sinh sẽ được Chúa giải thích trong Tin Mừng.
Hôm nay, trong đoạn Tin Mừng của thánh Gioan trích đọc Chúa nhật V Mùa chay, năm A, chúng ta nhận ra vị thuốc trường sinh hay nói cách nôm na hơn Vị bác sĩ có thuốc trường sinh là Chúa Giêsu:" Chính Thầy là sự Sống lại và là sự Sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" ( Ga 11, 25 ). Đúng thật, thuốc trường sinh là ở đây! Vị bác sĩ làm ra thuốc bất tử là ở đây. Tuy nhiên, đã có bao người nhận ra Con Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử! Vâng, chính vì lòng tin sâu xa của Maria và Matta mà phép lạ Chúa Giêsu hồi sinh Lagiarô đã xảy ra. Matta đã thưa với Chúa Giêsu:" Thưa Thầy có.Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian " ( Ga 11, 27 ).Tuy nhiên, phép lạ làm cho Lagiarô chết chôn trong mồ bốn ngày được hồi sinh, ám chỉ việc lạ lùng lớn lao hơn nhiều. Đức Kitô sẽ chịu chết, được mai táng trong mồ và sau ba ngày, Ngài sẽ phục sinh . Mùa chay, đặc biệt tuần thánh sẽ giúp người Công giáo hiểu thế nào là tình thương của Chúa, thế nào là sự chết và phục sinh. Chúa đã chiến thắng tử thần và sống lại khải hoàn. Do đó, những ai tin vào Thiên Chúa cũng sẽ được Ngài cho sống lại. Đó là đức tin của tất cả những ai tin vào Thiên Chúa.
Đối với người Công giáo, tin vào sự sống và sự chết là mầu nhiệm cao cả, lớn lao. Ngay sau khi truyền phép, Vị chủ tế đọc:" Đây là Mầu nhiệm đức tin "...Mọi người thưa:" Con tuyên xưng Chúa đã chết đi.Con tuyên xưng Ngài đã sống lại...". Thánh Phaolô cũng đã viết:" Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình " ( 1 Co 15, 17 ). Chính lòng tin đã cứu chữa chị. Chị hãy về đi và tin nay đừng phạm tội nữa. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ ngoại tình như thế. Một lời đầy yêu thương, một lời đầy an ủi. Trong vụ này, biết bao người đã hăm hở để kết án, ném đá người phụ nữ ngoại tình. Nhưng Chúa Giêsu lại có thái độ tha thứ thật yêu thương và đầy an ủi. Đức Kitô đã hy sinh mạng sống cho nhân loại, cho mọi người, cho từng người. Tình yêu của Ngài là tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến. Chết mới nói lên tất cả mọi sự. Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta. Chúa đã chết đi và sống lại để cho nhân loại được sống. Đức tin đã làm nên nhiều phép lạ. Người phụ nữ Samaria bên bờ thành giếng Giacop đã được Chúa mở cõi lòng và ban đức tin. Nên, bà đã phấn khởi, hạnh phúc về nhà kể lại cho mọi người biết về một Con Người đã thấu suốt tất cả cuộc đời của bà. Cuộc sống ở trần gian này chỉ là tạm bợ. Người ta sẽ không thể tìm được bất cứ một bác sĩ, một lang y, hay một thứ thuốc trường sinh nào. Chúa Giêsu chính là thuốc trường sinh ban cho con người sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa chính là sự sống, là nguồn sống cho con người, cho nhân loại.Chúa đã chiến thắng sự chết, tiêu diệt sự chết và phá tan mọi nguyên nhân gây ra cái chết. Xin ban cho những ai tin vào Chúa luôn tìm được sự sống bởi vì thánh Phaolô đã viết:" Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi " ( Pl 1, 21 ).
Sự sống là một mầu nhiệm. Tạo hóa trao ban sự sống cho mọi loài: Thực vật, động vật và loài người: MC 5-A95
Sự sống là một mầu nhiệm. Tạo hóa trao ban sự sống cho mọi loài: Thực vật, động vật và loài người. Khí thở là nguồn của sự sống. Mọi loài sống đều cần có không khí để hít thở và nuôi dưỡng. Sự sống di động trong toàn thân. Trong thân thể con người, khi hơi thở và máu huyết ngưng đọng, con người sẽ chết. Mỗi người đều có một sự sống riêng biệt. Sự sống nơi mỗi người có thể kéo dài cả trăm năm và cũng có thể tan bay trong khoảnh khắc. Sư sống dài hay ngắn không quan trọng bằng sống cho có ý nghĩa và hữu ích. Thiên Chúa là chủ tể của sự sống. Sự sống tiếp nối sẽ không bị tiêu diệt, chỉ có xác thể sự sống bị chết. Tiên tri Edêkien đã viết: Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành (Ez 37, 12-14). Thiên Chúa là Chúa và là tác giả của mọi sự sống. Con người không thể sáng tạo sự sống mà chỉ bắt chước và tạo môi trường để sự sống phát triển.
Dựa vào các diễn tiến của sự sống tự nhiên, các nhà khoa học đã tìm hiểu nguyên nhân, cách kết cấu và sự vận hành phát triển của các tế bào để tạo cơ hội phát triển. Khoa học hiện nay có thể giúp kéo dài sự sống nơi con người như lắp ghép tim, gan, thận, xương hay tiếp máu và thay máu. Có nghĩa là khi con người còn có hơi thở sự sống, cho dù sức yếu, các nhà chuyên môn có thể tiếp giúp tăng cường và kéo dài sự sống. Nhưng một khi sự sống đã ngừng, trái tim ngưng đập, ngưng thở, óc chết và các tế bào ngừng hoạt động và sự chết đến, con người đành bó tay. Trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, sau khi chết, một số cơ phận trong con người có thể được xử dụng ngay để phẫu thuật ghép. Một số trường hợp, các bác sĩ có thể dùng một số cơ phận của những người mới qua đời để lắp ghép cho các bệnh nhân cần. Người đã chết không thể trở lại với cuộc sống. Họ vĩnh biệt ra đi.
Bài phúc âm hôm nay kể câu chuyện dài nói về sự kiện Chúa Giêsu cho ông Ladarô đã chết và chôn trong mồ bốn ngày được sống lại. Chúa Giêsu tỏ uy quyền trên sự sống. Diễn tiến của câu chuyện có nhiều chi tiết rất tỉ mỉ. Chúa dự phòng sự việc Chúa sẽ thực hiện tại Bethania, Chúa nói: Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta đi đến với anh ấy (Ga 11, 15). Khi nghe tin Ladarô đau bệnh thập tử nhất sinh, Chúa Giêsu còn lưu lại nơi Chúa đang giảng dậy ít ngày nữa. Chúa dùng cơ hội này để tỏ uy quyền Thiên Chúa và mạc khải về sự sống và sự sống lại. Đây là một đề tài đức tin chính yếu và rất quan trọng. Chúa đã mạc khải một cách tiệm tiến dựa vào lòng tin yêu của con người. Chúa Giêsu nói: Em con sẽ sống lại (Ga 11, 23).
Trước khi làm phép lạ vĩ đại này, Chúa Giêsu đã khơi niềm tin: Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Dầu có chết cũng sẽ được sống, lời nói như một mệnh lệnh và một sự xác tín trong niềm tin. Chị em Martha và Maria, các tông đồ và những người đi theo Chúa vẫn như còn trong mơ. Sự việc Chúa sắp thực hiện hoàn toàn vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Người chết chôn bốn ngày thì xác đã thối rữa rồi. Sự sống mà Chúa ban lại cho ông Ladarô là sự sống mới trong thân xác đã chết. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!"(Ga 11, 43). Và kìa, lời quyền năng đã thành hiện thực: Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt còn quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo:"Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (Ga 11, 44).
Ông Ladarô đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ông đã sống thêm được một khoảng thời gian trên dương trần, nhưng ông cũng đã chết theo luật tự nhiên. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ sự sống. Muốn bước vào sự sống vĩnh cửu thì mỗi người đều phải bước qua ngưỡng cửa sự chết. Đây là vấn đề hoàn toàn của niềm tin. Chúng ta không thể lý luận và đưa ra chứng cứ cụ thể. Tin rằng con người phải trải qua sự chết mới được vào cõi sống. Thân xác này sẽ trở về cát bụi trong lòng đất và hồn thiêng sẽ tiếp tục sống chờ đợi ngày được sống lại kết hợp cả hồn và xác để hưởng hạnh phúc bất diệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất: Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác ((Ga 12, 24).
Niềm tin vào Đức Kitô là niềm tin hy vọng tuyệt đối. Từ bao đời, đã có biết bao thế hệ con người đã qua đi. Thân xác bị hủy diệt và trở về tro bụi. Thánh Phaolô tông đồ đã xác tín với chúng ta về Tin mừng cứu độ nơi Chúa Kitô, ngài nói: Nhưng nếu Chúa Giêsu Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính (Rm 8, 10). Con người có linh hồn và thể xác. Sự sống là sự kết hợp giữa hồn và xác. Khi hồn lìa xác, con người sẽ đi về cõi sau. Vì thân xác là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Tinh thần hay linh hồn không bị tiêu diệt vì hồn thiêng liêng. Thánh Phaolô nói tinh thần vẫn sống vì đức công chính.
Chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô là nguồn ban sự sống. Chúa Kitô là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc. Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết và không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Thánh Phaolô đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh: Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần ngự trong anh em (Rm 8, 12). Đây là niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta đang trong cuộc lữ hành dương thế. Chúng ta đã đầu tư và đánh đổi cả cuộc đời để tin tưởng vào sự sống và sự sống lại ngày sau. Chúng ta bước đi trong niềm tin, chứ không bằng thị giác (walk by faith, not by sight). Vì nếu Chúa Kitô không sống lại, thì tất cả niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng và vô nghĩa.
Những đề tài của các Chúa Nhật Mùa Chay, chu kỳ năm A, đã từng bước dẫn chúng ta đi sâu vào niềm tin nội tâm. Lần lượt mỗi tuần một đề tài: Chúa vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện và chịu những cơn cám dỗ; Chúa Biến Hình sáng láng; Chúa ban nước hằng sống cho người phụ nữ Samaria và dẫn vào con đường sự thật; Chúa chữa người mù từ bẩm sinh và Chúa cho người đã chết sống lại. Đây là hành trình đức tin, Giáo Hội đã từng bước dẫn dắt chúng ta suy tư sâu lắng vào mầu nhiệm ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã sắp sẵn. Trong câu chuyện đối thoại với chị em Martha và Maria: Chúa Giêsu lại nói: "Ta chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang Thiên Chúa sao?" (Ga 11, 40). Tất cả niềm tin qui vào Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã đi trước mở cửa ngõ vào cõi trường sinh bất diệt. Chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài bước theo con đường Chúa đã đi. Bước theo Chúa, phải trải qua đau khổ để vào vinh quang.
Mùa chay là mùa tịnh tâm, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức: Đức tin, đức cậy và đức mến. Đức mến phủ trùm mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi một lời nói, cử chỉ và hành động bác ái, chúng ta cần phản ánh tình yêu thương chia sẻ. Con đường dẫn vào Nước Trời được xây trên nền tảng của tình bác ái yêu thương. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chúa Kitô vì yêu thương nhân loại đã hiến mình chịu đau khổ, chịu chết trên thánh giá và đã sống lại vinh quang.
Lạy Chúa, Chúa là sự sống và là sự sống lại. Xin cho chúng con biết sống xứng đáng và sinh ích trong cuộc sống đời tạm này, để sinh hoa kết qủa tốt đẹp đáng hưởng hạnh phúc mai sau.
Bị bác sĩ xác nhận đã chết nhưng 45 phút sau, bà Lorna Baillie, 49 tuổi, ở Anh, bất ngờ sống lại: MC 5-A96
Bị bác sĩ xác nhận đã chết nhưng 45 phút sau, bà Lorna Baillie, 49 tuổi, ở Anh, bất ngờ sống lại khi người chồng đến bên cạnh giường bệnh thì thầm vào tai bà: “Anh yêu em !”
Các thành viên gia đình đã vô cùng tuyệt vọng khi bác sĩ tại Bệnh Viện Hoàng Gia Edinburgh thông báo bà Lorna Baillie đã chết và tháo tất cả các thiết bị điều trị ra khỏi cơ thể bà, sau nhiều nỗ lực cấp cứu cơn nhồi máu cơ tim. Tuy nhiên, 45 phút sau đó, khi người chồng tật nguyền, ông Baillie, 58 tuổi, đến bên giường bệnh nói lời tiễn biệt với vợ, thì người chết đã sống lại.
Bốn người con của bà Lorna Baillie cho biết: "Khi bố nói: Anh yêu em, chúng tôi thấy da dẻ của mẹ dần dần hồng hào trở lại. Chúng tôi đã báo cho y tá trực phòng, nhưng người này khẳng định đó chỉ là dấu hiệu thông thường đối với người vừa trải qua ca cấp cứu kéo dài”. Ngay cả khi mắt bà Lorna Baillie nhấp nháy và nắm chặt tay cô con gái út Leanne, y tá vẫn quả quyết rằng đó chỉ là những cử động vô thức đã được dự đoán trước.
Gia đình đã yêu cầu y tá phải gọi bác sĩ. Quả nhiên, khi kiểm tra, bác sĩ nhận thấy tim bệnh nhân đã đập trở lại. Họ nhanh chóng chuyển bà Baillie vào phòng chăm sóc đặc biệt và cho đến nay, bệnh nhân đã phục hồi hoàn toàn. Theo giám đốc Bệnh Viện Hoàng Gia Edinburgh, việc người chết sống lại kiểu như bà Lorna Baillie là vô cùng hiếm gặp ( Đăng Minh, Theo Daily Mail ).
Qua sự kiện trên, tình yêu đã hồi sinh, xua tan cái chết. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu thân thương hồi sinh Ladarô chết đã 4 ngày, chôn trong mồ, chứ không phải như bà Lorna Baillie, mới sinh thì 45 phút trong bệnh viện. Tình yêu của Đức Giêsu còn bao la, vĩ đại, tuyệt diệu vô song, vì Người còn hồi sinh vĩnh viễn con người.
Cả hai chị em Martha và Maria khi gặp Đức Giêsu đến Bêthania, đều cùng cất lên một điệp khúc nghe quá xót xa, nuối tiếc: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết !” ( Ga 11, 21 và 32 ). Như vậy, nếu khi tín hữu Kitô có Đức Giêsu hiện hữu, lại bị đau yếu, bệnh hoạn, sinh thì, tẩm liệm, mai táng, hư nát, thì sẽ ra sao ?
Khi bệnh tật
“Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng.” Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: Qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” ( Ga 11, 3 – 4 ). Thế nhưng Ladarô lại chết thật. Nếu đơn giản hiểu theo thế gian, thì Đức Giêsu chẳng phải thầy lang giỏi, hay bác sĩ cao tay nghề. Nhưng Người là Đấng Cứu Thế, cứu rỗi linh hồn, chứ không phải đến cứu thân xác dễ hao mòn, hư nát. Đối với Người, bệnh hoạn, đau yếu, chẳng mấy quan trọng, chỉ là thách đố con người phải lãnh nhận, không thể từ chối hay tránh xa được. Quan trọng là cuộc sống đời đời, chứ không phải cuộc sống phù du thế gian.
Vậy khi bệnh nhân có Đức Giêsu ở gần hay hiện diện trong tâm hồn, thì không phải không cảm thấy đau đớn phần xác, nhưng sẽ thánh hóa cơn đau đó. Với tâm hồn ăn năn sám hối, có thể ví những cơn đau tựa chịu án phạt cho những lỗi lầm đã qua, những thiếu sót bổn phận. Tích cực hơn, có thể coi đau đớn đó là dịp vinh dự hiệp thông phần nào vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa. “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta" ( Đường Hy Vọng, số 714 ).
Khi sinh thì
“Khi Chúa thương gọi con về, hồn con hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng con nức vui tiếng cười, lưỡi con vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô: Con thật vinh phúc.” Cảm hứng Thánh Vịnh 126, Lm. nhạc sĩ Kim Long đã không thể giấu nổi niềm vui trong ca khúc Ngày Về. Không vui sao được, khi về với cội nguồn, về với Người Cha Nhân Lành, hằng đêm ngày chờ đợi đứa con hoang đàng trở về.
Với Đức Giêsu, dù Ladarô đã chết bốn ngày, đã chôn trong mồ, vẫn chỉ là giấc ngủ ngắn ngủi, vì Thiên Chúa hằng hữu, vượt thời gian, vượt không gian ba chiều, thì cái chết thân xác chỉ như một giấc ngủ bình thường: “Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc, tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” Khi hồi sinh con gái ông Giaia, thủ lãnh hội đường, Đức Giêsu cũng phán với tang quyến đang kêu gào thương tiếc: “Đừng khóc ! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy.” Họ chế ngạo Người, vì biết nó đã chết" ( Lc 8, 52 – 53 ). Giấc ngủ vốn được coi là hình bóng sự chết, như dân ta hay nói: “Ngủ như chết.”
Nhưng chết không phải là hết, theo quan niệm duy vật, hiện sinh. Cái chết chính là ngưỡng cửa dẫn đến cuộc sống viên mãn, hay cái chết muôn đời, tùy tự do mỗi người chọn lựa khi sống.
Khi sinh thì có Đức Giêsu hiện hữu ở bên an ủi, thì còn chi sợ hãi nữa ? Đáng sợ là khi ấy, vẫn còn ngoan cố vướng mắc, dính líu, bám víu vào tiền của, danh lợi, đam mê, khoái lạc xác thịt quyến rũ, chẳng muốn hoán cải trở về, để muôn đời chịu trầm luân trong lửa. Nào ai biết được ngày giờ nào vang lên hồi chuông báo tử chính mình ? Sao không noi gương năm cô phù dâu khôn ngoan đem dầu theo đèn, mà canh thức chờ Chàng Rể đến ?
“Người ta hối tiếc than van: “Đời tàn !” Ngược lại, con phấn khởi và reo lên: Niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô sắp đến” ( Đường Hy Vọng, số 667 ).
Khi an táng
“Anh Ladarô hãy ra khỏi mồ !” Người chết liền ra, tay chân còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” ( Ga 11, 43 – 44 ).
Dù một khi thân xác đã an táng trong nấm mồ tội lỗi, đam mê, tham sân si, mà có Đức Giêsu hiện diện, hay nhớ đến, trông cậy xin cứu giúp, Người cũng sẽ thân mật, âu yếm ra lệnh, như đã gọi Ladarô hồi sinh, cứu thoát tín hữu Kitô sống lại trong Thần Khí. Chỉ sợ những băng vải, khăn vật chất, xa hoa, ham muốn hưởng lạc, chức tước cao sang, quyền lợi, thế giá, tiếp tục níu kéo, kềm hãm con người ở lại mãi trong nấm mồ sự chết chóc, đen tối.
“Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiêc vì đã đổi “của thiệt” lấy toàn “đồ giả” ( Đường Hy Vọng, số 676 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia đã hồi sinh Ladarô chết bốn ngày, chôn trong mộ, xin hồi sinh chúng con, xin giúp chúng con mau thoát khỏi nấm mồ tội lỗi, giúp chúng con tỉnh thức, ăn năn, sám hối, sống theo Lời Chúa, hầu được phúc đời đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, giúp đỡ cho chúng con củng cố niềm tin sắt son vào Con Mẹ. Xin mở mắt, mở tai chúng con sáng suốt, noi gương Mẹ, để có Chúa mãi trong cuộc đời. Amen.
Trong dịp hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn Cây Dầu, nếu đi băng: MC 5-A97
Trong dịp hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn Cây Dầu, nếu đi băng đồi theo đường thẳng chỉ chừng 4km, nhưng hiện nay nằm trong phần đất thuộc Palestina với bức tường bêtông ngăn lối cũ, nên phải đi vòng bằng xe bus khoảng 20 km mất chừng 30 phút. Bêtania tên hiện nay là El-Eizarya. Thăm căn nhà Bêthania. Viếng Nhà Thờ dâng kính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Martha trước khi Chúa làm phép lạ cho Ladarô sống lại. Nhà Thờ bằng đá không lớn lắm. Phía ngoài Nhà Thờ, ngay bên đường lộ, một hầm sâu với bậc thang đi xuống, là mộ Ladarô. Mộ đục sâu vào đá, mấy chục bước tam cấp đi xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã an nghĩ bốn ngày.
Đứng trước mộ Ladarô, tôi nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11, 1 – 45: Ladarô đau nặng, Martha và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.
Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêthania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Martha phải xác tín: “Con có tin điều đó không ?” Martha tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”.
Martha biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Pharisêu và các Thượng Tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa.
“Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin vào Thánh Giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải thoát, tin vào sự sống và sự sống lại.
Chính vì thế mà tất cả những lời chứa đựng trong Kinh Thánh Tân Ước được gọi là Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô chính là nội dung Tin Mừng. Thánh Phaolô thường gọi những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin Mừng Chúa Kitô” ( x. 1 Tx 3, 2; 1 Cr 2, 12; 4, 4; 8, 13; 10, 14; Pl 1, 27; Rm 15, 19 ). Trong Tin Mừng bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu: Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại ( x. 1 Tx 4, 14; 2 Cr 13, 4; Rm 4, 24 – 25; 8, 34; 14, 9 ).
Sống và chết là qui luật tuần hoàn và phát triển của muôn loài muôn vật. Vạn vật tuy biến hóa, thay đổi hình dạng, nhưng nguyên khí vẫn là một. Trong sự biến hóa, thì chết là để phát sinh sự sống mới, vì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” ( Ga 12, 24 ).
Như vậy: chết là điều kiện nhất thiết để triển nở và thành toàn; chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ sung mãn hơn. Dựa theo quy luật tuần hoàn và phát triển đó, chúng ta cảm nhận cách sâu xa khi Chúa Giêsu nói về sự sống con người: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” ( Ga 12, 25 ).
Chết và sống lại đó là hai sự kiện căn bản không thể tách rời. Không thể có sống lại nếu không chết. Trái lại, nếu Chúa Kitô chết không sống lại thì nói như Thánh Phaolô “đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng” ( 1 Cr 15, 14 ), nghĩa là vô giá trị, giả dối. Chết và sống lại là hai sự kiện “bất khả phân”. Hai sự kiện của một mầu nhiệm Chúa Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Ngài là Thiên Chúa, vì có quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người nhân ái đến thăm gia đình quý mến có người yêu thương đã chết, trái tim Chúa rung động trước những muộn phiền niềm đau chia ly trước sự chết. Chúa “thổn thức trong lòng và xao xuyến”. Chúa đã khóc khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Chúa đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đó đã phải thốt lên: “Kìa xem ! ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”
Chúa đã cho Ladarô sống lại, hứa hẹn niềm hy vọng cho nhân loại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Người “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống” ( Mc 12, 27 ).
Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi Ladarô quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây ! Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…” Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ.
Trong Cựu Ước, Ngôn Sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại ( x. 1 V 17, 17 – 24 ), Ngôn Sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại ( x. 2 V 4, 32 – 37 ). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại ( x. Cv 9, 39 – 42 ). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim ( x. Lc 7, 11 – 15 ), cho con gái một ông trưởng hội đường ( x. Mt 9, 18 – 26; Mc 5, 35 – 43; Lc 8, 49 – 56 ), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa.
Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa của nó. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ ( Kh 1, 18 ). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài ( Dt 2, 9 ); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” ( Cl 1, 18 ). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” ( Rm 5, 10 ) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” ( Dt 9, 15 ).
Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa ( Rm 14, 7; Pl 1, 20 ). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa ( 1 Tm 4, 6 ) và đáng được triều thiên sự sống ( Kh 2, 10; 12, 11 ).
Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” ( Kh 14, 13 ), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” ( Kh 21, 4 ). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” ( Kh 20, 6 ). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống ( Pl 1, 21 ).
Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” ( Ga 11, 25; 1 Cr 15, 16 – 19 ). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của Sự Sống.
Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” ( Ga 13, 1b ). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ).
Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là "Abba, Cha ơi !" ( Rm 8, 15 ).
Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống”siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa.
Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” ( Ga 11, 26; 1 Ga, 14 ). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con.
Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
Đức Giêsu đến làng Bêthania thì Ladarô đã chết và chôn được bốn ngày. Gặp Martha và Maria là chị người chết đang khóc thương em, Đức Giêsu đã trấn an họ rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” ( 25 ). Khi ra thăm mộ của Ladarô, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha rồi truyền cho Ladarô ra khỏi mồ ( 43 ) và người chết liền trỗi dậy đi ra ngoài. Qua phép lạ phục sinh Ladarô này, Đức Giêsu đã mặc khải Người chính là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống. Người sẽ ban sự sống và sự sống lại muôn đời cho những ai đặt trọn niềm tin nơi Người.
2. CHÚ THÍCH:
Các câu 1 – 5:
Ladarô: là tên của người bạn thân với Đức Giêsu, ở làng Bêthania ( x. Ga 11, 3 ). Ngoài Ladarô này, cũng còn một người khác làm nghề ăn xin cũng tên là Ladarô trong Tin Mừng theo Thánh Luca ( x. Lc 16, 20 ).
Bêthania: Là một làng nằm ở phía Đông núi Cây Dầu, cách Giêrusalem khoảng ba cây số ( x. Ga 11, 18 ). Đức Giêsu thường đến trọ tại làng này mỗi khi có dịp lên Giêrusalem. Ngoài ra, còn một Bêthania khác là nơi Đức Giêsu chịu phép rửa ( x. Lc 16, 20 ).
Martha: là chị lớn trong ba chị em. Bà có tính tình năng nổ hướng ngoại, thể hiện khi đón tiếp Đức Giêsu ( x. Lc 10, 38 – 42 ).
Maria: là em của Martha, có tính trầm lặng hướng nội, sẵn sàng hy sinh bình dầu thơm quý giá để xức chân Người ( x. Ga 12, 1 – 8 ). Theo phần lớn các nhà chú giải Thánh Kinh: Cần phân biệt cô Maria này với nhiều người khác cũng tên Maria như: người đàn bà tội lỗi ( x. Lc 7, 36 – 50 ), người phụ nữ ngoại tình ( x. Ga 8, 3 – 11 ), Maria thành Magdala được trừ khỏi bảy quỷ ám ( x. Lc 8, 2 ).
Các câu 6 – 16:
Mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy: Các môn đệ mang tâm trạng sợ hãi vì ý thức nguy hiểm: Thầy có thể bị kẻ thù giết hại tại Giêrusalem.
Ban ngày chẳng có 12 giờ đó sao: Đức Giêsu quyết tuân theo chương trình Chúa Cha đã truyền.
Ladarô, bạn của chúng ta đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây: Đức Giêsu dùng chữ “ngủ” để ám chỉ cái chết, giống như trường hợp của con gái ông Giaia ( x. Mc 5, 39 ). Thánh Phaolô cũng coi cái chết chỉ là một giấc ngủ ( x. 1 Tx 4, 14 ), là một bước phải vượt qua đến sự sống lại ( x. Ep 5, 14 ).
Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin: Đức Giêsu mừng vì môn đệ sắp được dịp chứng kiến Người truyền cho Ladarô sống lại, để các ông vững tin nơi Người.
Các câu 17 – 27:
Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi: Theo phong tục người Do thái thì người chết thường được chôn ngay trong ngày vừa chết ( x. Cv 5, 6 ). Người Do Thái tin rằng trong ba ngày đầu, hồn vía người chết còn lảng vảng gần xác chết. Sang ngày thứ tư khi xác thối rữa, nó mới tan đi. Con số bốn ngày ở đây như muốn nói Ladarô đã chết thật sự.
Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết: Thời Cựu Ước, nhiều người tin có sự kẻ chết sống lại ( x. Đn 12, 2 – 3; 2 Mcb 7, 23 ). Đến thời Đức Giêsu, nhóm Pharisêu cũng tin như vậy, nhưng nhóm Xađốc thì không tin ( x. Cv 23, 8 ). Riêng Mácta tuy tin kẻ chết sẽ sống lại trong ngày tận thế như nhóm Pharisêu, nhưng vẫn muốn Đức Giêsu làm phép lạ cho em được sống lại ngay lúc này.
Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống: Đức Giêsu là sự sống phát xuất từ Chúa Cha ( x. Ga 5, 26 ). Người làm cho những kẻ tin Người được sống đời đời ( x. Ga 5, 24 – 25 ). Người cũng sẽ ban cho những kẻ tin được sống lại vào ngày cánh chung, dù xác của họ có bị tiêu hủy cũng sẽ được sống lại ( x. Ga 5, 28 – 29 ).
Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian: Martha tuyên xưng Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai ( x. Ga 1, 19 ).
Các câu 28 – 37:
Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến: Theo thói tục của người Do Thái, khi có khách đến viếng xác, thì người nhà bật khóc to, và khách cũng tự nhiên phát khóc lên theo.
Các câu 38 – 44:
Đức Giêsu thổn thức trong lòng: Trước sự đau khổ của tang gia, Đức Giêsu có thái độ cảm thông đầy tình người. Nhưng thực ra nguyên nhân sâu xa khiến Đức Giêsu khóc một phần còn vì sự cứng lòng tin của những người Do Thái hiện diện ( 37 ) và còn vì niềm tin nửa vời của hai chị em Martha và Maria nữa ( 39 ).
Đem phiến đá này đi: Phần mộ của người Do Thái giàu có thường khoét vào núi đá. Sau khi tắm rửa, xác chết được xức thuốc thơm, cột lại bằng giây băng vài và phủ khăn liệm, đưa vào mồ chôn cất rồi lấp ngòai cửa mồ bằng một tảng đá lớn, như hai môn đệ đã an táng Đức Giêsu sau này ( x Ga 19, 40 – 42 ).
Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày: Tuy Martha vừa tuyên xưng đức tin, nhưng vẫn nghi ngờ Người có thể làm cho Ladarô sống lại.
Chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao: Vinh quang ở đây là quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện qua việc Người sắp cho Ladarô từ cõi chết sống lại.
Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con": Người Do Thái khi cầu nguyện thì quay mặt về hướng Đền Thờ Giêrusalem. Còn ở đây Đức Giêsu lại ngước nhìn lên trời. Đây sẽ là lối cầu nguyện của các Kitô hữu sau này.
Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ !": Đức Giêsu ra lệnh cho người chết sống lại. Điều đó cho thấy Người có quyền trên sự chết.
Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi: Ladarô sau khi sống lại phải được người khác cởi khăn và vải liệm. Trái lại, Đức Giêsu sau khi phục sinh, những băng vải vẫn còn để lại trong mồ và khăn che đầu Người cũng được cuốn lại và xếp để riêng ra một nơi ( x. Ga 20, 5 – 7 ).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” ( Ga 11, 25 ).
2.CÂU CHUYỆN:
Sống lại thật về phần linh hồn
Sita Delli vốn là một kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá phách cướp giựt. Trong phiên tòa lần thứ năm, quan tòa đã phải tuyên bố như sau: “Có phạt anh thêm nữa cũng vô ích ! Nhưng chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi đã làm hết cách. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng về anh”.
Vào tù lần này, Delli lại ngựa quen đường cũ, có những hành vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù yếu thế hơn mình, nên anh đã bị biệt giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: Khi đang phải nằm thu mình trong một căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên nền đá ẩm mốc hôi hám, Delli đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm đã phạm. Vốn là con một trong gia đình giàu có, được cha mẹ cho đi học, nhưng anh lại lười biếng và ăn cắp tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ nhà đi hoang. Từng được nhà trường đánh giá là một học sinh thông minh giàu sáng kiến và chỉ có thói xấu ham vui, vậy tại sao anh lại không sử dụng những tài năng đó để làm việc tốt hữu ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà ra đi và phải mang thêm tội đàn áp bóc lột kẻ khác ?
Rồi sau đó anh bắt đầu có những giấc mơ đẹp về Đức Giêsu, mà anh đã từng biết khi theo học khóa Giáo Lý vỡ lòng. Dường như anh thấy Đức Giêsu đang âu yếm nhìn anh và mời anh đi theo Người. Rồi hình ảnh những người từng bị anh gây thương tích lần lượt hiện ra trong tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một tình cảm dào dạt với họ. Chính tình thương ấy đã tắm mát và chữa lành những vết thương trong tâm hồn xơ cứng của anh. Cảm nghiệm ấy đã dần dần biến đổi anh nên một người mới đầy tràn tình yêu của Đức Giêsu.
Sau hai tuần, Delli được ra khỏi ngục biệt giam và trở lại phòng giam thường phạm. Anh không còn thái độ bắt nạt bạn tù, trái lại còn sẵn sàng bênh vực những kẻ thân yếu thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở thành người học trò chăm chỉ và xuất sắc nhất trong đám bạn tù. Mấy năm sau, khi được mãn hạn tù, anh đã trở thành chủ tịch hội “Cải cách chế độ lao tù”.
Khi nói về anh, cha tuyên úy nhà lao đã nói: “Sita Delli là một phép lạ sống động mới xảy ra: Không những anh là một tội nhân được ơn sám hối, mà còn thực sự trở nên một tạo thành mới, một tín hữu tốt lành thánh thiện và là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu”.
3. SUY NIỆM:
1. “Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống”:
Ladarô và hai người chị Martha, Maria là bạn thân của Đức Giêsu tai làng Bêtania. Nhà của họ là nơi Đức Giêsu và các môn đệ của Người ở trọ mỗi lần các ngài đi lên Giêrusalem. Với tình bạn thâm giao ấy, khi Ladarô bị bệnh nặng, Martha đã vội sai người nhà đi báo tin cho Đức Giêsu biết. Nhưng Đức Giêsu lại cố ý trì hoãn không đến ngay vì Người muốn dùng sự kiện này để chứng minh Người “là sự sống lại và là sự sống”, nên đã nói với các môn đệ: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” ( Ga 11, 14 – 15 ).
2. Về Đức Tin của hai chị em Martha và Maria:
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy về hai cách biểu lộ Đức Tin như sau:
Về Đức Tin tuyên xưng ngoài môi miệng của Martha
Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Martha liền ra đón Người. Cô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: “Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại !” Cô Martha thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”.
Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?” Cô Martha đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian ( Ga 11, 20 – 27 ).
Tuy nhiên Đức Tin thể hiện bằng lời nói của Martha vần chưa phải Đức Tin vững mạnh: Khi đến trước mộ của Ladarô, Đức Giêsu nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Martha là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”. Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?” ( Ga 11, 39 – 40 ).
Về Đức Tin sâu xa vào Đức Giêsu của Maria
Cô Maria thì tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu thể hiện qua như sau: Nghe tin Thầy đến, cô Maria “vội đứng lên và đến với Đức Giêsu”. Vừa thấy Người, cô liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” ( Ga 11, 29.32 ). Đức Tin của Maria thể hiện qua thái độ cậy trông vào quyền năng và tình thương của Thầy nên không nói nhiều mà chủ yếu là thái độ yên lặng, hoàn toàn tin tưởng phó thác để Thầy toàn quyền định liệu. Chính nhờ biết ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người đã giúp Maria đạt tới mức hoàn toàn tín thác vào Chúa Giêsu ( x. Lc 10, 38 – 40 ).
3. Sống Đức Tin cụ thể hôm nay:
Hãy trở thành ngôn sứ của sự sống, tình thương và niềm vui
Trong sứ điệp ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Gioan Phaolô II đã khuyên các bạn trẻ như sau: “Hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình thương, những ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối của sự chết như: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, siđa, ám sát, đặt mìn, tai nạn giao thông… Những cái chết về thể xác phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn. Đó là cái chết của Tình Yêu trong lòng con người ! Cái chết ấy sẽ thắng thế khi con người sống buông thả, chán chường và khép kín trong sự ích kỷ.
Nhưng chúng ta có Đức Giêsu là “Sự Sống Lại và là Sự Sống”. Một khi chúng ta liên kết mật thiết với Người, chúng ta cũng có thể thông truyền sự sống, tình thương và niềm vui cho thế giới, giống như Đức Giêsu xưa đã trả lại sự sống cho Ladarô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Martha và Maria… Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần được giúp đỡ, những nơi có những giọt nước mắt cần được lau khô, những nơi có những lời cầu cứu đang mong chờ được đáp ứng”.
Đức Tin thực sự phải thể hiện qua hành động cậy trông yêu mến: Thánh Giacôbê đã đề cao đức tin tín thác và hành động chia sẻ như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có Đức Tin mà không hành động theo Đức Tin, thì nào có ích lợi gì ? Đức Tin có thể cứu người ấy được không ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là Đức Tin chết” ( Gc 2, 14 – 17 ).
4. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con chưa chết nên không xin Chúa cho sống lại về phần xác, nhưng chúng con xin Chúa ban cho chúng con sống lại thật về phần linh hồn: để không những chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết, mà còn tiêu diệt những nguyên nhân dẫn tới cái chết như tham lam tiền bạc, ham mê rượu chè, chích hút và những đam mê bất chính khác… Xin cho chúng con thắng vượt sự thất vọng, buồn chán, sống không lý tưởng…
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tôn trọng sự sống nơi bản thân và gia đình con. Xin cho chúng con biết bảo vệ môi trường sống, và luôn sống kết hiệp với Chúa Thánh Thể là Nguồn Sống Mới. Xin cho chúng con biết siêng năng đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày để chúng con luôn có sự sống của Chúa nơi chúng con, và ngày sau chúng con cũng được sống mãi trong cuộc sống vĩnh hằng.
Tai hoạ ngày 11 tháng 9 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với moị MC 5-A99
Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.
Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.
Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.
Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.
Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.
Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.
Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào? 2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em? 3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em? 4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?
Đau khổ không miễn trừ cho một ai. Nó ngự trị ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nọ nó đã đột MC 5-A100 Lượng
Đau khổ không miễn trừ cho một ai. Nó ngự trị ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nọ nó đã đột nhập và một căn nhà tại Bêtania. Hôm đó, Ladarô cảm thấy khó chịu và đi nằm. Mặc dù Martha đã chăm sóc kỹ lưỡng mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Còm Maria thì đã cầu nguyện để em mình được chóng bình phục. Thế nhưng tình trạng mỗi ngày xấu đi và cái chết kể như nằm gọn trong lòng bàn tay. Họ đã làm tất cả những gì để cứu sống người em của mình, nhưng bóng dáng tử thần lại cứ chập chờn lượn quanh.
Cả hai đều mang cùng một tâm trạng, cùng một ý nghĩa đó là: Nếu Chúa Giêsu có mặt ở đó, thì dứt khoát Ladarô sẽ không chết. Bởi vì Người đã chữa lành biết bao nhiêu kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Chẳng lẽ Người lại bỏ rơi người bạn thân của Người hay sao? Thế rồi hai chị em đã sai người đi báo tin cho Chúa Giêsu: Lạy Thầy, người Thầy yêu thương đang đau nặng. Lời báo tin này vừa tế nhị vừa tin tưởng. Họ không hề đòi hỏi hay bắt buộc Chúa. Trái lại với niềm tin tưởng tuyệt đối, họ để tuỳ Người hành động và Ngài sẽ giúp đỡ họ cách thức nào mà Ngài cho là tốt đẹp và hữu hiệu hơn cả. Cách thức báo tin của Martha và Maria cũng là một khuôn mẫu giúp chúng ta cầu nguyện mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách, những bất hạnh buồn phiền, chẳng hạn như đau yếu, thất bại, tang tóc.
Vị linh mục đến thăm một bà mẹ, có đứa con lâm bệnh nặng. Hoặc an ủi bà ta, khuyên nhủ bà ta vui lòng chịu đựng theo thánh ý Chúa, xác quyết với bà ta rằng: Nếu đứa nhỏ có chết đi, sẽ trở thành một vị thánh bầu cử cho bà trước mặt Chúa. Nhưng người mẹ trong cơn đau đớn đã trả lời: Không, tôi không muốn nó phải chết. Nếu Chúa cất nó về thì tôi sẽ bỏ đạo. Ít lâu sau, đứa bé được bình phục.
Nhưng ngẫm nghĩ cho cùng, thà nó chết đi không khéo lại hay hơn. Bởi vì với sự cưng chiều của người mẹ nó đã lớn lên và trở thành một thanh niên hư hỏng. Sau cùng, trong một dịp say xỉn, nó đã đâm chết một người bạn, rồi vượt biên trốn ra nước ngoài. Người ta không còn nghe nói gì về nó. Nhưng rồi một hôm, người mẹ bất hạnh ấy nhận được tin từ một người thân ở bên Mỹ cho biết: đứa con ngỗ nghịch ấy đã bị toà án bên Mỹ xử tử hình vì tội cướp của giết người. Trong những giờ phút khổ đau, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, người Chúa yêu thương đang đau nặng. Chắc hẳn Ngài sẽ lắng nghe lời van xin của chúng ta. Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác vào tình thương cũng như quyền năng của Chúa, chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Ngài sẽ hành động và trợ giúp chúng ta bằng cách thức nào đem lại nhiều lợi ích nhất.