Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-A Bài 51-100 Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh ----------------------------- Phúc Âm: Lc 24, 13-35: "Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp". Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông. Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. - Ðó là lời Chúa.
Đoạn độc nhất đầy đủ chi tiết mà chúng ta có được của một giai đoạn liên quan đến sự sống lại, là bài tường thuật kỳ diệu kể việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên đường Emmau. Nó tạo nên một trường hợp điển hình về tính cách bất ngờ đột ngột của những lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, điều này có vẻ củng cố giả thuyết về ảo giác thỉnh thoảng được đưa ra; tuy nhiên ảo giác là một hiện tượng thường xảy ra khi người ta chờ đợi, mong ước mãnh liệt một điều gì. Sự đồng hoá làng Emmau gây ra những khó khăn; nhưng các nhà chuyên môn nghĩ rằng đó là nơi hiện nay gọi là El-Kubebe, ở cách Giêrusalem chừng mười ba cây số. Dõi theo bài tường thuật, chúng ta nêu lên một vài nhận xét.
1) Mắt họ bị ngăn che không nhận ra được Ngài.
Người ta có thể tự hỏi tại sao và như thế nào? Nên nhớ rằng lối hiện hữu thể xác của Chúa Giêsu sống lại khác với lối hiện hữu trước khi chết. Chúa Giêsu có được một sự tự do tuyệt đối trong việc lựa chọn dáng vẻ bề ngoài, cũng như trong cách thế di chuyển… Một cách loại suy, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đôi khi gần bên chúng ta và vì một lý do nào đó chúng ta không nhận ra Ngài. Chẳng hạn có thể xảy ra trường hợp trong cơn bị thử thách cùng cực, chúng ta không thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa; và lắm lúc sau đó chúng ta mới nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa.
2) Chúng tôi đã hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ giải thoát Israel.
Câu nói ngắn ngủi này che dấu thảm kịch sâu xa bên trong của các môn đệ và tông đồ. Niềm hy vọng của họ nơi Chúa Giêsu diễn tiến trên bình diện trần thế. Trong những tháng dài, cố gắng sư phạm của Chúa Giêsu là đưa niềm hy vọng của họ lên một bình diện cao hơn, bình diện Nước vĩnh cửu. Phải đợi đến lễ Hiện Xuống, để có thể đạt được mức độ niềm tin thật nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Trong lúc chờ đợi, niềm tin này bị thử thách một cách ghê gớm.
3) Những trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói.
Khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu cho họ một bài học bằng sự vật. Ngài dẫn đưa tâm trí họ đến một sự khám phá: Ngài thật là ánh sáng làm cho người ta hiểu Kinh Thánh. Ngày nay cũng đừng quên rằng, Chúa Kitô là chìa khoá mở sách Kinh Thánh. Ngài là lời của Thiên Chúa, lời mang lại sức sống cho các đoạn sách, cho các lời nói trong Kinh Thánh.
4) Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng.
Từ câu này ta hãy giữ lại vài bài học thiêng liêng. Trước hết Chúa Giêsu không mang cho các môn đệ một lời giải thích Kinh Thánh trên bình diện thuần tuý tri thức; nhưng Ngài đánh động vào chiều sâu. Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta đừng bằng lòng với việc tìm kiếm tri thức, nhưng hãy đặt trong tinh thần cầu nguyện. Tiếp đến, trong cách thức đồng hành với con người thời đại, trong ước muốn mặc khải Chúa Kitô, hãy nhớ rằng chúng ta chỉ có thể đánh động tâm hồn họ theo mức độ Chúa Giêsu Phục Sinh sống và chiếu toả trong chúng ta.
5) Hãy lưu lại với chúng tôi… Và xảy ra là khi vào bàn với họ Ngài cầm lấy bánh…
Chúng ta hãy để mình chiều theo sức gợi cảm kỳ diệu chứa đựng ở đoạn cuối câu chuyện các môn đệ thành Emmau. Đặc biệt chúng ta tự hỏi: với người xa lạ nào chúng ta nói: “Hãy lưu lại với chúng tôi”, ‘hãy chia sẻ cơm bánh của chúng tôi’? Trong đời sống, chúng ta có biết thật sự tiếp đón và chia sẻ đáp lại lời nói của Đức Phaolô VI, chúng ta có thể nói rằng: “Giáo Hội hôm nay phải chia sẻ nhiều hơn để Chúa Kitô được biết đến nhiều hơn. Mà ‘Giáo Hội’ tức là mỗi một người trong chúng ta.
Có thể nói đường đi Emmau nào có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa.
Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi trở nên chứng nhân loan báo Tin mừng Phục sinh.
Hành trình Emmau:
Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản, nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao. Thầy sẽ lập quốc,đánh đuổi đế quốc La mã.Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.
Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh ”Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn thánh kinh”. Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của Đức Kitô. Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.
Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi ”Đức Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ. Từ nay, Chúa ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục sinh.
Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Hành trình Đamas:
Trước khi trở lại, đối với Phaolô, Tin mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền rằng: Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình,đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải, Thiên Chúa đã cho cho sống lại… chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ.
Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng? Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.
Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.
Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ong không còn thấy gì nữa. Ong nghe có tiếng gọi ông: ”Sa-un, Sa-un, sao ngươi lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi lại: ”Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng nói lại âm vang: ”Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại” (Cv 9,5) Saolô hoàn toàn bối rối. Ong nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thê rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục: ”Lạy Chúa,Chúa muốn con làm gì?”. Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania (Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas. Sau ba ngày,có một người Dothái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: ”Saolô,người anh em,hãy nhìn thấy lại”. Phép lạ đã xảy ra, Saolô lại thấy được. Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện. Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gal 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin mừng. Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô,đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố: ”Không phải tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Col 2,20).
Kể từ lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ong nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức ”Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài” tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô. Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn ”Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta“ (Rm 8,35-39).
Đọc lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt. Có những thất bại, có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.
Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.
Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.
Một trong những cuốn phim hay nhất của vua hề Charlot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Ánh sáng đô thị". Ðó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng, đối xử với nàng rất tử tế lịch thiệp. Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm nở và nối kết hai tâm hồn. Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ ước từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành con mắt mù của nàng.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát bắt giam. Sau một thời gian dài bị cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần trước cửa tiệm bán hoa của nàng, nhưng không thể nào nhận ra nàng vì mọi sự đã thay đổi. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng cúi xuống nhặt lên. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười quen thuộc của nàng, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc của chàng. Nàng từ từ nhặt cánh hoa lên và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?". Thế là cả hai đã nhận ra nhau vì những điểm “rất quen thuộc” của nhau và họ không còn rời xa nhau nữa.
*****
Bạn thân mến! Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại cho chung ta biết: Hai môn đệ trên đường Emau cũng nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh trong cử chỉ rất quen thuộc của Ngài xưa kia khi Ngài Bẻ bánh và dâng lời chúc tụng .
Trước khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, lòng các ông đầy hoang mang, buồn chán và thất vọng, những ước mộng đã tan tành và cuộc đời gần như vô phuơng mất huớng. Các ông đã từ bỏ nhóm, từ bỏ Giêrusalem với bao nhiêu dấu ấn buồn vui kỷ niệm với Thầy mình và với anh em. Các ông lê từng bước chân thất thểu mệt mỏi trên chặng đuờng dài để về quê quán của mình. Một ngày đi bên nhau, một ngày trò truyện với “Người Khách Lạ”, các ông đã không nhận ra “Người Khách Lạ” đó chính là Thầy mình, vì con mắt các ông bị che phủ bởi những tối tăm của hoang mang hốt hoảng, tâm hồn các ông vẫn còn bị đóng lại bởi những lo âu buồn chán và thất vọng.
Trong những lúc khó khăn nhất, khủng hoảng nhất, thất vọng nhất, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn hiện diện, đồng hành và đồng bàn với các ông. Ngài dùng Kinh Thánh để trò truyện với các ông, Ngài tế nhị gợi lên niềm vui và hy vọng nơi các ông, từ từ đưa các ông đến chỗ nhận ra Ngài trong cử chỉ quen thuộc của Ngài khi Ngài bẻ bánh và dâng lời chúc tụng
Sau khi gặp Chúa Giêsu Phục sinh, niềm vui òa vỡ đã dâng cao trong lòng các ông, Ngài đã mang đến cho các ông niềm tin và hy vọng. Các ông đứng dậy, không sợ sệt, không lo âu dù trời đã tối, các ông lập tức lên đường trở về Giêrusalem để gặp Nhóm Mười Một và các anh em bạn bè. Các ông thuật lại việc Chúa đã sống lại, Ngài đã phục sinh và đồng bàn với họ. Họ đã nhận ra Ngài trong khi Ngài bẻ bánh và dâng lời chúc tụng …
Chúng ta có thể hình dung được bước chân của hai môn đệ Emmaus vội vã lên đường, hân hoan tung tăng quay về Giêrusalem để báo tin Chúa Phục Sinh cho những môn đệ còn lại, thay cho bước chân mệt mỏi chán chường và cô đơn trước khi được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh. Đoạn đuờng từ Emmau về lại Giêrusalem đã không còn dài nữa vì mắt họ đã sáng lên, lòng họ đã kiên vững và miệng họ đã vui cười.
Bạn thân mến! Trong cuộc đời lữ hành trần thế, đã rất nhiều lần chúng ta gặp Chúa như hai môn đệ trên đường Emmaus nhưng chúng ta đâu có nhận ra Ngài. Chúa vẫn có đó trong mọi chỗ; mọi nơi. Chúa có đó trong anh em của ta, trong những người nghèo, trong những người neo đơn, đói khổ…
Câu chuyện Emmaus giúp mỗi người chúng ta xác tín rằng: Bất luận chúng ta là ai, địa vị thế nào, hoàn cảnh sống ra sao; dù chúng ta có suy nghĩ thế nào, nói năng ra sao hoặc thực hiện điều gì, tất cả đều có sự “hiện diện”, có sự “quan sát”, có sự “đồng hành” của Đấng Phục Sinh.
Như hai môn đệ trên đường Emmaus, người Kitô hôm nay cũng phải nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh trong chính cuộc sống hằng ngày của mình. Nhận ra Ngài để xin Ngài “nán lại” trong cuộc đời, để Ngài ban cho niềm vui và sự bình an; hy vọng và sức mạnh để quay bước chân “trở về”.
Và Như hai môn đệ trên đường Emmaus, người Kitô hôm nay cũng phải vui mừng hân hoan vì tin vào Đức Kitô Phục Sinh, làm chứng cho Ngài và ra đi loan báo cho những người quanh ta về “Tin Mừng Cứu Rỗi” mà Ngài đã trao ban.
*****
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa. Chúa thấy con dễ bỏ Chúa chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến. Con cần thêm sức mạnh để khỏi dừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. " Amen.
Nhờ vào đâu mà hai môn đệ trên đường Emmaus đã nhận ra Chúa? Đã tới ngày thứ ba, mà không thu lượm được một nguồn tin nào chắc chắn. Hai môn đệ này, có lẽ đã thất vọng, không còn tin tưởng, bèn quay trở về với những người thân yêu nơi quê hương bổn quán. Vừa đi họ vừa nói về Ngài. Mặc dù Chúa Giêsu đã hiện ra, nhưng nỗi cay đắng như một bức màn che phủ cặp mắt để họ không còn nhìn thấy. Ngài vừa đi vừa cắt nghĩa Kinh Thánh cho các ông, thế nhưng lúc bấy giờ đối với các ông, Ngài vẫn còn là một kẻ xa lạ. Rồi khi chiều xuống họ đã mời Ngài ở lại với họ, và họ đã nhận ra Ngài trong lúc bẻ bánh.
Từ đó chúng ta đi tới một ghi nhận cụ thể như sau: Các ông đã được soi sáng và nhận biết Chúa không phải do sự nghe cắt nghĩa Kinh Thánh, nhưng do việc làm, nhất là những việc làm mang tính cách yêu thương. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã viết: Không phải những kẻ nghe lề luật mà là những kẻ tuân giữ lề luật thì mới trở nên công chính. Bởi đó, khi nghe lời Chúa, chúng ta phải có cái quyết tâm đem ra thực hành, thì lúc bấy giờ lời Chúa mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta.
Các ông đã không nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh, nhưng các ông đã nhận ra Ngài khi mời Ngài lưu lại với mình nơi quán trọ. Chính vì thế, mỗi người chúng ta cần phải chăm sóc cho tình thương và cần phải cố gắng thực hiện những hành động bác ái. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy kiên trì trong đức ái. Thánh Phêrô thì nói với chúng ta: Hãy rộng lượng đón nhận người khác chứ đừng lẩm bẩm kêu trách. Còn Chúa Giêsu trong hoạt cảnh phán xét, cũng đã phán: Vì khi Ta đói các con đã cho Ta ăn, khi, Ta khát các con đã cho Ta uống, khi Ta mình trần các con đã cho Ta mặc, khi Ta đau yếu và bị tù đày, các con đã viếng thăm, khi Ta là khách, các con đã cho Ta ở trọ.
Có một câu chuyện kể lại rằng: Một người cha trong gia đình có lòng hiếu khách. Ông thường mời những người xa lạ, nhất là những người nghèo đói túng thiếu đến nhà dùng cơm. Ngày kia ông múc nước rửa tay cho một vị khách lạ và đang lúc dẫn vị khách lạ ấy vào bàn ăn thì vị khách lạ ấy biến mất, khiến ông vô cùng ngạc nhiên. Thế nhưng ban đêm, Chúa Giêsu hiện ra với ông trong giấc mơ và phán: Những ngày khác con đã đón nhận những chi thể của Ta, còn hôm nay, con đã đón nhận chính Ta.
Đúng thế, đến ngày phán xét, chúng ta sẽ được nghe lời phán quyết của Chúa: Những gì các con làm cho một kẻ hèn mọn nhất, chính là các con đã làm cho Ta. Chúa Giêsu luôn hiện diện nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau, thế nhưng chúng ta có nhận biết và giúp đỡ Ngài hay không?
Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về một lời cầu khẩn của hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đó là một thực tế về mặt thời gian, bởi vì lúc đó gần tối rồi. Đồng thời câu nói đó có lẽ nó cũng diễn tả một thái độ tâm hồn.
Trời đã về chiều, ngày sắp tàn, đêm tối sắp đến. Tâm hồn của hai ông bị chìm trong đêm tối, cái đêm tối của nghi ngờ, đêm tối của thất vọng. Bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin vào Thầy Giêsu mà cuối cùng Thầy Giêsu bị bắt đánh đập, đóng đinh, giết chết trên Thập Giá. Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại nghi ngờ và tuyệt vọng. Đêm tối ấy đáng sợ hơn là đêm tôi về mặt không gian và thời gian tự nhiên.
Chính trong tâm trạng ấy các ông thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Lời cầu khẩn ấy không phải là lời cầu khẩn của chính chúng ta hay sao? Những lúc cuộc đời của chúng ta có những thất bại, có những cay đắng, chán nản đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa, chúng ta cần bắt chước hai môn đệ thốt lên lời nguyện xin: "Lạy Chúa hãy ở lại với con”.
Hôm nay thánh Luca muốn nói với chúng ta: Ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng ta có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Luca tường thuật lại suốt trên con đường đi về Emmau có một người khách bộ hành đi cùng. Hai môn đệ không thể nhận ra Thầy yêu thương của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho thì hai ông mới nhận ra. Và khi nhận ra thì Chúa lại biến mất.
Về mặt tín lý chi tiết này rất hay, rất quan trọng để cho ta hiểu rõ về Bí Tích Thánh Thể. Khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể nghĩa là ta cùng với Hội Thánh cầm lấy tấm bánh bẻ ra và trao cho nhau. Lúc ấy anh chị em có thấy Chúa không? Thưa không. Trước mặt chúng ta hoàn toàn là một khoảng không. Ngày xưa hai môn đệ đi bên cạnh Chúa, suốt quãng đường dài mà họ không nhận ra Chúa, khi biết được Chúa biến mất trước mặt họ cũng là một khoảng không. Chúa Giêsu không hiện diện một cách gọi là thể lý theo nghĩa chúng ta thấy Ngài như chúng ta nhìn thấy nhau.
Thực sự, sự hiện diện của Ngài là một hiện diện bao trùm cuộc sống của chúng ta. Ta đón nhận sự hiện diện đó bằng lòng tin của chúng ta. Cho nên ta vẫn có thể gặp được Chúa Phục Sinh khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể: Cầm bánh, tạ ơn Chúa. bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức?
Vì vậy câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta. Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể. Ước gì chúng ta có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước màu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Ngài và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Ngài.
Nói đến những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đoàn Emmaus giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
Phong trào Cộng đoàn Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris vào hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích.
Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đoàn là: “Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác…”. Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Đó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đoàn của cha là để nhớ lại câu chuyện hai môn đệ của Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của ngài đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
“Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống”, đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đoàn Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ, giấy rác, ve chai, bao bì nylon, lon hộp… để chế biến và bán lại như một sản phẩm do chính tay mình làm nên.
Hiện nay phong trào Emmaus đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đoàn. Tất cả những người trong cộng đoàn đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng của Thánh Luca hôm nay thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó có hai môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus trở về làng cũ của họ. Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mong “công hầu khanh tướng”, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mong hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại đã trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan. Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
Ở bất cứ nơi đâu và ở bất kỳ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp khúc: “Hãy xây dựng lại từ đổ nát!”. Đó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy… Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư? Chúa Giêsu của làng Emmaus đang nói với bạn: Đừng thất vọng! Ngài đang đồng hành với bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thưa anh chị em,
Nếu ngày xưa, hai môn đệ Emmaus đã nhận ra Chúa khi Ngài ngồi vào bàn ăn bẻ bánh trao lại cho hai ông, thì hôm nay nơi Bàn Tiệc Thánh này, Ngài cũng làm lại cử chỉ đó để chúng ta nhận ra Ngài đang sống và hiện diện giữa chúng ta, với chúng ta, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Và sau khi vui mừng nhận ra Chúa đã sống lại, hai ông đã vội vã ra đi gặp anh em để thông đạt niềm vui và niềm tin yêu nơi họ. Cũng vậy, sau khi hiệp lễ, chúng ta được sai phái ra đi đem Tin Mừng Chúa sống lại, đem niềm vui Phục Sinh đến các anh em đang đau khổ, buồn sầu, chán nản, thất vọng, để mọi người cùng chia sẻ niềm tin. Thiên Chúa vẫn là người bạn đồng hành của con người, Ngài vẫn cảm thông với những ưu tư, đau khổ của con người, Ngài đang hoạt động với con người. Chỉ có con người không nhận ra Ngài, không biết lắng nghe Lời Ngài và không giữ Ngài ở lại với mình khi ngày đã xế bóng và màn đêm tăm tối đang bao phủ mặt đất, che khuất ánh mặt trời. Vì trong đêm tối, người ta khó tin có mặt trời, nhưng sự thực mặt trời vẫn luôn có đó. Trong đau khổ, người ta khó tin có Thiên Chúa, nhưng sự thực Thiên Chúa vẫn luôn có đó, vì Chúa Kitô đã sống lại và đang sống bên cạnh chúng ta giữa những đêm tối, giữa những khổ đau, mặc dầu chúng ta không trông thấy Ngài.
Anh chị em thân mến,
Hãy nhận ra sự gần gũi thân thương của Chúa Giêsu trong Lời Chúa và Thánh Thể chúng ta chia sẻ cho nhau mỗi lần họp mặt mừng Chúa sống lại. Và cùng với Ngài, chúng ta ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh, niềm vui và hy vọng làm nền tảng cho cả cuộc đời của mọi người Kitô hữu.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, biến đổi con người từ thái độ ngờ vực đến thái độ tin nhận một cách xác tín và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.
Chúa Giêsu tiến đến gặp hai môn đệ đang phân vân về ơn gọi và sứ mệnh theo Chúa. Sau biến cố Chúa bị đóng đinh và chết trên Thập giá, hy vọng về tương lai mà họ muốn xây dựng xem ra bị tiêu tan. Không còn gì giữ họ lại Giêrusalem, nơi Chúa đã dẫn họ đến và cũng là nơi sẽ khởi đầu sứ mệnh làm chứng cho Chúa, nên hai môn đệ quay trở lại Emmau với tâm hồn thất vọng và niềm tin bị thử thách nặng nề. Mô tả về cuộc gặp gỡ này, tác giả Luca đã chú ý đến ba yếu tố: Kinh Thánh, Bí Tích Thánh Thể, Cộng Đoàn Tuyên Xưng Đức Tin. Hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh sau khi nghe Chúa trong dung mạo người khách đồng hành giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh, rồi hai môn đệ trở về Giêrusalem và cũng được củng cố thêm bởi lời tuyên xưng của cộng đoàn: “Chúa sống lại thật rồi, và đã hiện ra với Simon”.
Để làm sống động lại đức tin đã bị lung lay, người môn đệ cần có ba yếu tố: Kinh Thánh, Bí Tích Thánh Thể, Cộng Đoàn Sống Đức Tin. Lời Chúa là của ăn nuôi sống đức tin. Toàn bộ Kinh thánh đều qui về Chúa Giêsu Kitô. Khi bị thử thách, người môn đệ không nên cắt đứt với Lời Chúa, nhưng hãy kiên trì đọc, suy niệm và khiêm tốn xin Chúa giải thích lời Chúa cho mình hiểu. Tâm hồn hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe Chúa giải thích Kinh Thánh mới chỉ là khởi đầu của một cuộc trở về; một cuộc phục hồi đức tin còn được thể hiện khi hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu lúc Ngài bẻ bánh. Từ ngữ “bẻ bánh” trong cộng đoàn Kitô tiên khởi có nghĩa là cử hành Bí tích Thánh Thể: Bí tích Thánh Thể hoàn tất điều mà Lời Chúa khơi dậy trong tâm hồn con người. Cuối cùng, đích điểm của cuộc trở lại là cộng đoàn đức tin: đức tin được nuôi dưỡng bởi lời Chúa và Mình Chúa không thể chỉ dừng lại hoặc giới hạn nơi cá nhân, mỗi môn đệ là thành phần của cộng đoàn đang tuyên xưng đức tin; đức tin không bao giờ chỉ là đức tin riêng rẽ, nhưng là đức tin trong một cộng đoàn: “Tôi tin”, đồng thời cũng là “Chúng tôi tin”.
Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta cần kiểm điểm xem chúng ta có thái độ nào đối với lời Chúa? Chúng ta sống Bí tích Thánh Thể thế nào? Chúng ta hiệp nhất với cộng đoàn tuyên xưng đức tin thế nào?
Xin Chúa giúp chúng ta lớn lên trong đức tin để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Luca chỉ kể có hai lần Chúa Kitô hiện ra và nhắc một cách rất ngắn tới lần thứ ba (xc.34). Lần thứ nhất mà hai môn đệ được hưởng, hai vị này không có một vai trò nào khác trong Luca và Công vụ, lại được
Luca chỉ kể có hai lần Chúa Kitô hiện ra và nhắc một cách rất ngắn tới lần thứ ba (xc.34). Lần thứ nhất mà hai môn đệ được hưởng, hai vị này không có một vai trò nào khác trong Luca và Công vụ, lại được kể dài hơn lần thứ hai, dành cho những nhân chứng chính thức của sự Phục Sinh là nhóm Mười Một và những kẻ ở với họ. Cuối cùng đối với Phêrô, Luca chỉ nhắc đến cuộc hiện ra mà không mô tả gì…
Trình thuật các môn đệ trên đường Emmaus có mục đích chứng minh rằng, sau khi trò chuyện với Ngài trên đường đi (cc. 23-27), họ nhận ra Chúa Giêsu khi ăn bữa tối (cc. 28-35). Nếu Luca đã làm cho nó quan trọng đến thế là vì nó có liên hệ lớn với độc giả, do tính cách thời sự và giá trị lâu dài của nó. Đời sống Giáo Hội với các cuộc hội họp phụng tự trong đó có giải nghĩa Kinh Thánh và bẻ bánh, là nơi mà người tín hữu có thể nhận ra vào ngày hôm nay sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. “Người đồng hành không được nêu tên của Clêôpa, mang tên của từng người tín hữu” (Ch. Perrot), là tên của bất cứ Kitô hữu nam hay nữ nào sẽ đọc hay nghe trang Tin Mừng thời danh này.
Những gì xảy ra dọc đường (xc.35a) mở ra qua việc gặp gỡ của hai đệ tử đang đi dọc đường (cc.13-14) với một người lữ hành thứ ba mà họ không nhận ra và không ai khác hơn là Chúa Giêsu (cc. 15-16). Chính trong một cuộc lên đường nữa, nhưng trong miền xung quanh Giêrusalem, mà Chúa Giêsu sẽ dạy dỗ những kẻ thuộc về Ngài. Lý do của cuộc hành trình được khám phá ra một cách kín đáo qua cuộc đối thoại sắp diễn ra: hai người đã rời bỏ những kẻ đã quy tụ với nhóm Mười Một (xc.9), bỏ lại nơi mà Thầy họ đã bị hành hình và chính việc này đã là hồi chuông báo tử cho niềm hy vọng của họ. Họ trở về nhà trong một thôn xóm hẻo lánh, cách Giêrusalem sáu mươi dặm (mười một kilômét).
Lý lịch Chúa Giêsu lập tức được cung cấp cho độc giả, trong khi dưới cái nhìn của các môn đệ, Ngài chỉ là một khách hành hương như họ, đã đến Giêrusalem mừng lễ Vượt qua: mắt họ còn bị ngăn cản không nhận ra Ngài, chứ không phải là không thấy. Khi gợi lên hoạt động thần linh, động từ ở thể thụ động cách cho chúng ta biết rằng sự tối dạ chậm tin của hai người (xc. 25), không phải là những điều duy nhất được nói tới. Con mắt xác thịt không thể nhận ra Đấng Phục Sinh, bởi vì qua việc sống lại, Ngài đã đi vào một tình trạng hoàn toàn mới mẻ. Như trong vụ Biến hình, dung mạo Ngài hoàn toàn đổi khác (x. 9,29; Mc 16,12), Ngài đã vào trong vinh quang (xc. 26; 9,32). Ngay cả nhân tính của Chúa Giêsu từ nay đã thuộc về “thế giới” của Thiên Chúa, chỉ có thể được nhận biết bằng con mắt đức tin. Chính Chúa mở mắt (c.31), trí khôn (x. 24,45), tâm hồn (Cv 16,14); ở đây Ngài sẽ mở bức màn che phủ mắt họ bằng việc giải thích Kinh Thánh, rồi bằng việc bẻ bánh.
Do sáng kiến của Chúa Giêsu, đã có một cuộc trao đổi trên đường đi (c.17-27) mà từ vựng sẽ được gặp lại khá nhiều trong các diễn từ truyền giáo của Cv 2-13; như thế, chúng ta đã nghe nói rằng lời rao giảng của các Tông đồ đước nối kết trực tiếp với Chúa Giêsu Phục Sinh. Sau một cuộc trao đổi ngắn (c. 17-19a) trong đó Clêôpa nhấn mạnh đến tính cách công khai của việc hành quyết người Nagiaret, lời lẽ của các môn đệ (cc. 19b-24) cống hiến một bản tóm lược sứ vụ và cuộc hành quyết của Thầy họ (cc. 19b-21). Người ta thấy có một nét hài hước: sau khi hai người “mù tịt” này trách người bạn đồng hành vì chẳng hay biết gì, họ thông tin cho Chúa Giêsu như một ngôn sứ mạnh mẽ, đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, chắc hẳn không làm một tuyên xưng đức tin Kitô cách rốt ráo, nhưng đây là một ngôn ngữ mà Chúa Giêsu (4,24; 13,3) và các Tông đồ sử dụng (Cv 2,22; 3,22-23; 10,38; cũng xem 7,22). Vấn đề là các nhà chức trách Do Thái, đặc biệt là tôn giáo, đã xử Ngài như xử một ngôn sứ giả hiệu: “Các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta (lưu ý tính từ sở hữu) đã nộp Ngài để bị kết án tử hình và đã đóng đinh Ngài vào thập giá” họ được giới thiệu như là chính họ đã thi hành án (23,25-26). Điều đó phải chăng không có nghĩa là Thiên Chúa đã chối từ Chúa Giêsu?
Một lời tóm lược như thế là một lời rao giảng… bị cắt cụt, có cuộc thụ nạn mà không có Phục Sinh. Sứ vụ và cái chết của Chúa Giêsu được trình bày theo quan điểm của các môn đệ thất vọng trong niềm mơ ước duy quốc gia của mình. Như các nhân vật được đưa vào hoạt cảnh trong các trình thuật thời thơ ấu (x. 1,68; 2,38) họ đã trông đợi sự giải thoát Israel và, đối với họ, đó phải là công trình của Chúa Giêsu – theo Luca, một niềm hy vọng như thế là hợp pháp, ít ra không được lầm lẫn về thời hạn hay cách thức thực hiện (x. Cv 1,6-7). Nhưng niềm hy vọng của hai môn đệ chưa đầy đủ; đó là những người thất vọng về một “vị Mêsia khiêm hạ và đau khổ” phù hợp với ý định của Thiên Chúa. Thái độ của họ gián tiếp cho hiểu được phần nào động cơ thúc đẩy Giuđa, mà trình thuật không nói tới (x. 22,3-4); phải chăng hai người môn đệ này không là biểu trưng cho những kẻ thất vọng về niềm tin Kitô giáo, những kẻ chối bỏ thập giá?
Rồi họ kể lại những biến cố đã xảy ra trong ngày (cc. 22-24) tóm tắt lại trình thuật thứ nhất của chương 24. Tất cả là ở đó: hai lần viếng mộ và hai lần nhận thấy thi hài biến mất (các phụ nữ, rồi một nhóm các ông: như vậy Phêrô không phải là người duy nhất), thiên thần hiện ra và sứ điệp từ trời. Cả lời công bố Phục Sinh nữa: các thiên thần nói rằng Chúa Giêsu đang sống. Nhưng nhóm các ông đã không thấy Ngài: trừ các phụ nữ ra, không ai tin vào lời công bố này. Rồi đã ngày thứ ba mà không thấy có lời công bố nào về sự sống lại, nhưng chỉ có tranh cãi về chứng từ của các phụ nữ!
Lúc đó, Chúa Giêsu lên tiếng (cc. 25-27), Ngài quở trách hai môn đệ, không phải vì họ không nhận ra Ngài, mà vì họ không nhận ra Ngài, mà vì họ chậm tin vào chương trình cứu độ của Chúa, (“phải”) đã được ghi chép trong sách các tiên tri. Vấn đề không phải là thấy Chúa Giêsu (xc.24) cho bằng hiểu và chấp nhận chương trình này. Hai môn đệ biết sứ vụ của Chúa Giêsu và cái chết của Ngài, nhưng họ không nhớ Kinh Thánh – viên thái giám Ethiop thì ở trong hoàn cảnh ngược lại, khi ông đọc Is 53, nhưng không biết đến biến cố ở Calvariô (Cv 8,30-34). Trong chính thức Đấng Phục Sinh tóm lược cuộc Vượt qua của Ngài (c.26), có hai điểm khác với những lời loan báo trước. Chính ở đây với tư cách là Đấng Kitô, chứ không là Con người (x.9,22) mà Chúa Giêsu đã thực hiện cuộc Vượt qua. Và thay từ ngữ “sống lại”, nó là Đấng Kitô đi vào vinh quang: ngoài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ, Ngài thừa kế quyền lực và vinh quang của Thiên Chúa.
Để chứng minh làm thế nào sự chết và Phục Sinh của Ngài đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu buổi chiều một bài chú giải. Bài học này được nhắc đến một cách ngắn ngủi, trong thể văn gián tiếp; Luca không cho chúng ta được hưởng dụng bài học này và chúng ta phải đợi tác phẩm thứ hai của ông để nhận được giáo huấn này qua trung gian các kẻ phục vụ Lời (x. Phêrô ở Cv 2,22-36; Phaolô ở Cv 13,32-41). Ông chỉ gợi cho ta thấy là Chúa Kitô dùng kỹ thuật “xâu chuỗi” trong khoa chú giải Do Thái, liên kết với nhau những câu trích dẫn từ Lề Luật, các Ngôn sứ và Thánh vịnh (x. 24,44) để chứng tỏ sự tương hợp giữa chúng, và do đó cho thấy sự thống nhất và liên đới chặt chẽ của Kinh Thánh. Ở đây, sợi chỉ của xâu chuỗi là điều liên quan đến Chúa Giêsu Kitô; một cách xuyên suốt, Thánh Kinh làm chứng từ cho Đấng là trung tâm và cùng đích. Chắc hẳn không có một quy chiếu Kinh Thánh nào được cung cấp cho chúng ta, nhưng cái chính yếu đã được nói ra: “Sự giải thích, nói cách khác, sự nghiên cứu và trình bày về mối liên kết chặt chẽ, không phải là sáng kiến của các môn đệ, thẩm quyền của họ trong việc chú giải là một hồng ân, là hoa trái của một giáo huấn mà chính nó lại là một trong các hoa trái của sự Phục Sinh” (J.N. Aletti).
Điểm mở nút của hoạt cảnh (cc. 28-35) là buổi ăn tối ở Emmaus (cc. 28-32). Việc nhận biết Đấng Phục Sinh đã được khởi đầu một cách sâu sắc (x. lòng bừng bừng cháy ở câu 32) bằng việc giải thích Kinh Thánh cho thấy ý nghĩa cái chết của Chúa Kitô và bày tỏ mối tương quan của cái chết ấy với vinh quang, nhưng việc nhận biết đó chỉ hoàn tất khi bẻ bánh. Trong Giáo Hội, phải làm lại cử chỉ của bữa ăn tối cuối cùng, gắn liền với cái chết của Chúa Giêsu, để nhận ra Đấng Phục Sinh.
Khi làm như muốn từ giã họ, Chúa Giêsu hướng dẫn để hai môn đệ có sáng kiến; trong khi ngày bắt đầu tàn (x. 9,12), họ mời ở lại Đấng mà trước mặt họ vẫn là một người khách lạ. Nhưng khách mời lại giữ vai trò của người chủ nhà và chủ toạ bàn ăn. Điều Ngài làm được diễn tả bằng bốn động từ (c. 30bc), cũng những động từ này đã được dùng khi làm cho hoá bánh ra nhiều (9,16), và, với một dị biệt, trong bữa ăn đến cuối cùng (22,19); người ta cũng sẽ nói về việc bẻ bánh (c.35), một thuật ngữ riêng của Luca để chỉ Bí tích Thánh Thể (x. Cv 2,42; 20,7-11). Nhưng đồng thời, chủ toạ bữa ăn, làm phép bánh và bẻ bánh là những cử chỉ quen thuộc của Chúa Giêsu, chúng làm cho người ta nhận ra Ngài. Chúng nhắc nhớ đến những bữa ăn trước đây Ngài dùng với các đệ tử, tới bữa ăn cuối cùng trong đó tấm bánh được bẻ ra đã mang một nghĩa mới; chúng cũng báo trước những bữa ăn của các cộng đoàn, trong đó Chúa Giêsu tuy vô hình, nhưng vẫn hiện diện. Thế là xuất hiện một thế đảo ngược: mắt của hai đệ tử liền mở ra… và Chúa Giêsu cho đến lúc đó tuy được trông thấy nhưng lại không trông thấy được nữa! Mong các tín hữu phải biết điều này: “Dù ta không thấy được Ngài bằng con mắt thịt, Đấng Phục Sinh vẫn hiện diện: sự không thấy được không có nghĩa là vắng mặt”. Lúc ấy, các môn đệ có thể ý thức được sự biến đổi trong thâm tâm họ trước đó (c.32), trong câu chuyện trên đường đi và nhờ việc nghe giải thích Kinh Thánh. “Như vẫy lời, khi đi đường, đã giải thích Kinh Thánh” và “trong đó việc nối kết giữa sự sống của họ với sự sống của Chúa Giêsu… đươc công bố chỉ dứt khoát được thấu hiểu một khi việc nhận ra được thực hiện, một khi niềm hy vọng được thoả mãn” (J.N. Aletti).
Cuộc hành trình lại đảo ngược, hai người trở về Giêrusalem và thấy nhóm Mười Một và các bạn hữu đang ở cùng với họ (cc. 33-35). Điều đáng chú ý là việc nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh và việc sai đi truyền giáo sau đó cũng liên quan tới các môn đệ đang ở với nhóm Mười Một. Như vậy, Luca kéo dài những gì ông đã nói về sứ vụ của nhóm Bảy mươi hai (10,1tt) và nói trước về vai trò, trong Công vụ, của các vị truyền giáo không thuộc vào nhóm Mười Hai, đặc biệt là Phaolô. Một mở rộng như thế về kinh nghiệm vượt qua được đặt nền tảng trên các dữ kiện rất cổ (x. năm trăm anh em trong 1Cr 15,6). Tuy nhiên phần cuối của trình thuật cho thấy rằng chứng từ chỉ có thể bắt đầu với nhóm Mười Một (rồi nhóm Mười Hai ở Cv 1,12-26) và kinh nghiệm của Phêrô. Việc nhắc đến lần hiện ra này của Chúa Kitô (c.34) cho thấy rằng “kinh nghiệm vượt qua” này đã thuyết phục các môn đệ khác về sự thật trong chứng từ của các phụ nữ (“thật rồi”) và rằng Simon bắt đầu thực hiện sứ mạng củng cố anh em mà ông đã nhận lãnh từ Chúa (x. 22,32). Câu 34 cũng xác nhận rằng “Cộng đoàn hiện hữu và công bố Chúa mình ngay cả trước báo cáo của hai môn đệ Emmaus” (Ch. Perrot). Sau khi nhắc đến việc hiện ra với Phêrô, các môn đệ ấy có thể cung cấp bản tóm lược về kinh nghiệm riêng của họ, nó nói lên tầm quan trọng không kém của Con Chúa trên đường đi và của việc nhận ra Chúa gắn liền với việc bẻ bánh.
Đoạn Tin Mừng về hai môn đệ trên đường Emmaus được kể là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất của thánh Luca. Một câu chuyện vừa sâu sắc về thần học, vừa diễm ảo về văn chương, chính cấu trúc câu chuyện chuyến đi khứ hồi Giêrusalem-Emmau-Giêrusalem là bức phóng biểu tượng cho "cuộc qui hồi" sắp thực hiện trong lòng hai môn đệ. Câu chuyện sẩy ra vào ngày "thứ ba sau khi Đức Giêsu lìa trần” ngày mà, thánh Luca, ngay những dòng mở đầu của Tin Mừng, đã coi như "ngày thứ nhất trong tuần" và các Kitô hữu đã sớm gọi là “ngày Chúa nhật", ngày của Chúa.
Hai môn đệ trở về Emmaus, làng xưa yêu dấu, các bậc thức giả còn tranh luận về địa điểm của làng này; nhưng có gì là quan trọng. Điều cốt thiết đối với chúng ta hôm nay chính là khám phá kinh nghiệm lữ hành mà hai môn đệ xưa đã trải "với những bước chân nặng nề” (Fiche A.124), một kinh nghiệm mà có lẽ vẫn còn tái hiện mọi nơi trong cuộc lữ thứ này. Tác giả Tin Mừng kể lại; “trò chuyện với nhau" nhưng chỉ quanh đi quẩn lại với một vắn nạn nan giải duy nhất: cái chết của Thầy họ đã dập tắt mọi hy vọng họ đã ấp ủ trong lòng và xóa sổ nhóm mười hai môn đệ. L.M. Chauvet chú thích: Họ trò chuyện với nhau, câu chuyện chỉ xoay quanh đời họ va lời giải đáp cho cái chết thất hại của thầy mình, mắt họ vẫn còn bị bưng bít" trí họ cũng bị phong tỏa như mắt họ, tất cả còn phong kín, họ tự phong tỏa chính mình, với các chết của Đức Giêsu trong âm phủ: cửa mộ đã bị một tảng đá lớn bít kín." ("Từ biểu tượng đến biểu tượng", Cerf, tr.89) Đang chuyện vãn với nhau trên đường chiều mòn mỏi, chợt một người bắt kịp họ và "cùng họ đồng hành”. Người cách lạ hỏi ngay đến vấn nạn của họ các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy? Câu hỏi được gợi lên như một điểm dừng cho cuộc hành trình nổi trôi không mục đích của họ: "họ dừng lại vẻ mặt buồn"; câu hỏi ân cần ấy đã kết thúc câu chuyện riêng tư giữa hai người để có dịp thổ lộ với một người thứ ba về niềm hy vọng đã mất của họ: "chúng tôi cứ ngỡ...” Điều khiến Cléopas ngỡ ngàng vì người khách lạ hầu như chẳng biết tí gì, trùng hợp lạ lùng với lời rao giảng tông đồ trong bài diễn từ của thánh Phêrô tại nhà viên bách quản Corneille (x. Bài đọc 1 Chúa Nhật Phục Sinh) và trong bài diễn từ của thánh Phêrô ngày lễ Ngũ tuần. (x. Bài đọc 1 Chúa Nhật 3 Phục Sinh) Nắm trong tay mọi mã số của ô chữ, nhưng không có chìa khóa để giải mã ra để tìm ra ý nghĩa. "Toàn bộ nội dung đã được trao ban, đã được công thức hóa hoàn chỉnh, kinh Tin Kính được đọc đi đọc lại, Tin Mừng đã được tóm tắt; ...chỉ còn thiếu một đốm lửa; người lữ khách đã ngân nga tất cả ngay dẫn lời báo trước diệu kì "Ngài hằng sống" với nét mặt buồn thẳm. Ông còn thiếu niềm tin, ơn đức tin, ánh sáng đức tin sẽ chiếu sáng, sẽ mang lại ý nghĩa cho câu chuyện. Tất cả đều đợi chờ lúc màn bí mật được vén lên” ("Những người hành hương về Emmaus”, tr. 61-62)
2. Từ ngõ cụt đến đường đi.
Người khách lạ chăm chú lắng nghe họ, giờ thì họ bắt đầu lắng nghe Ngài. Ngài duyệt lại cuộc sống và cái chết của Thầy họ, "mọi điều liên quan tới Ngài" dưới ánh sáng Thánh Kinh. "Và, khởi đi từ Môsê và các tiên tri" Ngài hé mở cho họ thấy thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa đã thể hiện giữa những biến cố mà họ cho là thê thảm ấy. Cái chết của Đức Giêsu, đối với họ dường như là một ngõ cụt, thực sự lại là đường "dẫn đến sự Sống”. Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao" L.M. Chauvet giải thích thêm: khi nghe nói về Đức Giêsu khi đón nhận chứng từ của Ngài về chương trình Thiên Chúa trong Kinh Thánh (Môsê và các tiên tri), lòng họ vẽ nên một hình ảnh khác về Đức Giêsu vị tiên tri; bắt đầu biến hình thành Đức Kitô! thành Đấng thiên sai phải chịu đau khổ và chịu chết để bước vào chốn vinh hiển. (SĐD, tr.90)
Họ được mời gọi đảo ngược tận căn niềm tin của mình: Làm sao mà Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa lại có thể phải trải qua cái chết như thế được? nhưng một điều gì đó đã nẩy mầm trong lòng họ; tảng đá nặng nề phong tỏa họ đã bắt đầu lung lay "Xin ở lại với chúng tôi" họ khẩn nài khi đến gần ông vì trời dã chiều và đêm đã xuống”.
3. Từ mê lầm đến tỉnh ngộ
Giờ thì cả ba đang ở trong quán trọ, người lữ khách đang "đồng bàn cùng họ”. Những cử chỉ Ngài thực hiện "Ngài cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ", chính là những cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly.
Thánh Luca, nếu chẳng phải là qua các việc làm thì chí ít trong hướng cũng muốn nhắm đến các tín hữu hội nhau mỗi ngày thứ nhất trong tuần. Và thật bất ngờ, họ đã hiểu rõ ngọn ngành: khi ấy, mắt họ liền mở ra và họ nhận biết Ngài". "Người đã chết chính là Đấng hằng sống! vẫn Đấng ấy nay đã biến thành một người khác, chính họ cũng biến thành người khác. Vì mắt họ nay đã mở ra để thấy được mình cũng như thấy được Người. Việc duyệt lại đời Ngài giúp họ duyệt lại đời mình, nhận biết ngài phục sinh đánh dấu sự phục sinh của riêng họ. Lòng ta đã chẳng bừng cháy lên khi ngài cắt nghĩa Kinh thành cho ta trên đường chiều đó sao? Trong khi hồi tưởng, niềm tin nơi Đức Kitô phục sinh đã phục hồi quá khứ rã rời và mở ra cho họ một tương lai mới”.
Tháng ngày quá vãng dường như đã chết của họ nay bắt đầu hồi sinh, mắt đã được hàn gắn và uốn nắn lại: mô thức có tính “biểu trưng" của bí tích đã phác họa, nối kết và hình thành nên nó, bây giờ họ tìm thấy nơi nó một ý nghĩa chắc chắn...tương lai đã biến đổi: nếu thực sự thập giá là sống giây phút hiện tại với Thiên Chúa và với mình, thì còn có gì không thực làm được nữa đây " (LM. Chauvet, SĐD, tr. 91-92) Đức Giêsu có thể “biến mất khỏi tầm nhìn" của các môn đệ đã lấy lại được niềm tin. Họ đã tìm lại được người, hằng sống, trên đường đời của họ. Phục sinh, từ nay “Ngài ở với họ" và tỏ mình ra cho họ qua những dấu chỉ của niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm phục sinh
4. Từ sự tan nát… đến chỗ tuyên xưng niềm tin của Hội Thánh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao mà xa xôi vạn lý. Ay vậy mà lúc trở về Giêrusalem lại chỉ trong phút giây vì Tin Mừng đang cháy bỏng trong tim là trên môi họ. Chính nhóm mười một và thân hữu lại tập họp nhau và thông báo với họ trước rằng "Chúa đã phục sinh: Ngài đã hiện ra với Simon Phêrô". Bấy giờ, họ cũng kể lại những diễn biến trên đường và nhờ đâu họ đã nhận ra được Ngài khi Ngài bẻ bánh”.
Cuộc trở về nguồn cội, nghĩa là trở về với cái nôi phát sinh Hội thánh, tức Giêrusalem, tượng trưng cho cuộc trở lại nỗi buồn sang niềm vui, từ sự lùi bước đến dấn thân, từ sự tan tác đến kết đoàn, nhóm những người theo Chúa đã tản mác ở đầu câu chuyện, nay đã tái hợp, nhưng khác hẳn ngày xưa, họ đã chết, nay họ "sống lại”. Ngày lễ Phục Sinh của Chúa Giêsu đã biến thành ngày Lễ Phục Sinh của riêng họ: là một nhóm nhỏ, họ cũng đã đi qua cái chết được phục sinh thành Hội Thánh". (LM Chauvet. SĐD.)
BÀI ĐỌC THÊM
1. Câu chuyện này là bản lược đồ hay khuôn mẫu chính xác của nền phụng vụ Công Giáo (H. Denis, "100 từ để tuyên xưng niềm tin", Desclie de Brouwer, tr. 145-146).
Câu chuyện sống động này chính là bản lược đồ hay khuôn mẫu xác thực của tất cả nền phụng vụ công giáo, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Hãy đọc lại sẽ thấy. Phụng vụ luôn bắt đầu bằng việc tập họp. Đây là điều không thể thiếu được Các bạn đang đồng hành trên con đường sự sống. Có lẽ đã quá quen nhau nên không nhận ra Đức Kitô, người bạn đồng hành vừa gia nhập vào nhóm của các bạn. Một cộng đoàn phụng vụ tự cơ bản là một cộng đoàn được hình thành, gắn bó với Đức Kitô, trở nên thân thể của Đức Kitô, Hội Thánh... Nhưng rồi, người ta xao lãng, người ta có những mối quan tâm khác, thế là bạn nói chuyện ngay ngoài cửa nhà thờ, bạn kể cho nhau vài tin tức trước khi bước vào hay khi đã ngồi vào ghế cho đến lúc bạn tự hỏi xem đời mình có thể nối kết với đời sống của Đức Kitô và đời sống của Đức Kitô có thể nối kết với đời mình không. "Sao, có lẽ ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay..." Cộng đoàn là một tập thể có khả năng lắng nghe Đức Giêsu. Đó chính là phụng vụ lời Chúa, trong đó, dù là ngày nào đi nữa thì cũng vẫn là Đức Giêsu cho biết mình đã kiện toàn lề luật và các tiên tri ra sao. Bây giờ, ta có thể bước vào trong thâm cung nhà Chúa. "Hãy ở trong Thầy là Thầy ở trong anh em" (Ga 15,4) nhà của những người đồng hành trên đường Emmaus đã biến thành nơi chia sẻ tấm bánh. Kỳ diệu thay chính trong việc bẻ ra, chia sẻ, việc Thiên Chúa tự hiến mà người ta nhận biết nhau. Những con mắt mở ra để khám phá, không phải sự trần trụi của thân xác hay chết như trong vườn Ê-đen xưa kia, mà là vẻ rực rỡ huy hoàng của Đấng Phục sinh đã tự nguyện mặc lấy thân xác mọn hèn phải chết của chúng ta. Sự nhận biết đầy kính tin cấm người ta chạm đến Đấng Phục sinh. Hiện diện trong xa vắng. Đức Giêsu đã xa khuất tầm nhìn của họ... Thế cũng đã đủ để họ ra đi, hợp nhất niềm tin với các tông đồ, hãy ra đi trong bình an của Đức Kitô. Hãy ra đi loan báo cho các anh em: Đức Kitô đã sống lại. Alleluia.
2. Câu chuyện diễm tuyệt và xác thực dành cho các tín hữu mọi thời. (M. Sevin, trong "Hồ sơ Kinh Thánh", số 41, tr. 22).
Mong sao độc giả Tin Mừng hiểu được rằng câu chuyện nào nhắm đến họ. Đến lượt họ, họ tự hỏi làm sao thấy được Đấng Phục sinh. Câu trả lời là: mắt trần hoàn toàn vô dụng, sự hiện diện của Đấng Phục sinh khác hẳn sự hiện diện của Đức Giêsu tại Nazarét. Đây là một sự hiện diện mới mẻ, chỉ tỏ hiện với con mắt đức tin được nuôi bằng Kinh thánh và việc chia sẻ bữa ăn với Đức Giêsu: Nếu muốn thấy và sống sự hiện diện của Đấng phục sinh các tín hữu phải trang bị cho mình hai điều kiện ấy vì họ luôn có sẵn trong tay Thánh Kinh và Thánh Thể.
Ở đây thánh Luca, đã viết nên một câu chuyện diễm tuyệt và xác thực cho các tín hữu mọi thời.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thật đẹp. Đẹp vì lời văn óng ả. Đẹp vì tình tiết ly kỳ. Đẹp vì tình nghĩa đậm đà. Đẹp vì những tư tưởng thần học thâm sâu. Nhưng đẹp nhất là vì bài Tin Mừng chất chứa một niềm hy vọng trong sáng, xua tan mọi bóng tối thất vọng não nề.
Hai môn đệ rời Giêrusalem trở về làng cũ. Giêrusalem là trung tâm tôn giáo. Rời Giêrusalem là dấu hiệu của sa sút niềm tin. Giêrusalem là trung tâm hoạt động. Rời Giêrusalem là dấu hiệu của chán nản buông xuôi. Trước kia hia ông đã bỏ nhà cửa, gia đình để đi theo Chúa Giêsu. Nay hai ông trở về như kẻ thua cuộc. Ngày ra đi ôm ấp giấc mộng thành đạt. Ngày trở về ôm nặng một mối sầu. Sầu vì đã mất người Thầy yêu quí. Sầu vì giấc mộng không thành. Hai linh hồn sầu não, thất vọng lê bước trong ánh nắng chiều.
Nhưng giữa lúc buồn tủi, thất vọng ấy, Chúa Giêsu đã xuất hiện. Lập tức ánh sáng rực lên giữa màn đêm đen. Niềm vui rộn rã xóa tan u sầu. Ngọn lửa bừng lên sưởi ấm những trái tim lạnh giá. Vì Chúa Giêsu đã đem đến cả một trời hy vọng.
Đọc trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu đã nhen nhúm niềm hy vọng trong tâm hồn các môn đệ Emmau bằng ba loại ánh sáng.
1) Ánh sáng đức tin thắp lên niềm hy vọng.
Hai môn đệ đã chứng kiến cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu từ đầu cho đến cuối. Các ông đã thấy biết bao nhiêu phép lạ Người làm. Các ông đã nghe biết bao lời hay ý đẹp từ miệng Người phán ra. Các ông đã công nhận Người là một “Ngôn sứ đầy uy thế xét về việc làm cũng như lời nói”. Các ông đã hy vọng Người là Đấng giải thoát Israel. Nhưng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu khiến các ông chán nản và thất vọng. Đến nỗi khi các phụ nữ ra mộ, gặp thiên thần báo tin Chúa đã phục sinh, các bà về kể lại, các ông vẫn không tin.
Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông “Lòng trí các anh sao mà chậm tin lời các ngôn sứ vậy”. Chúa Giêsu kêu gọi đức tin trở về. Chúa Giêsu khơi dậy đức tin đã lụi tàn bằng cặp mắt phàm trần và các ông không hiểu gì. Khi có đức tin, các ông sẽ hiểu tất cả. Đức tin là nguồn ánh sáng giúp ta nhìn ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời. Đức tin là đốm lửa thắp lên niềm hy vọng giữa đêm đen tuyệt vọng.
2) Ánh sáng lời Chúa gieo mầm hy vọng.
Hai môn đệ đã đọc Kinh Thánh. Các ông thuộc vanh vách sách lề luật Môsê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh. Thế nhưng các ông vẫn thất vọng. Vì các ông đọc Kinh Thánh mà không hiểu Kinh Thánh. Các ông học Kinh Thánh như học một bài thuộc lòng. Các ông đọc Kinh Thánh như đọc một bản văn cổ, chỉ có những dòng chữ vô hồn.
Chúa Giêsu phải giải thích Kinh Thánh cho các ông. Bắt đầu từ sách Lề Luật, rồi lời các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. Khi nghe Chúa nói, tim các ông rộn ràng niềm vui, trí các ông bừng sáng như thể một ngọn lửa nhen nhúm trong lòng. Chúa Giêsu đã dạy các ông một cách đọc Kinh Thánh mới mẻ. Phải đọc giữa những hàng chữ để thấy rõ những ý nghĩa nhiệm mầu. Phải tìm sau những hàng chữ để thấy được ý định kỳ diệu của Thiên Chúa. Phải đọc Kinh Thánh dưới sự hiện diện của Thiên Chúa. Phải thấy bóng dáng Thiên Chúa thấp thoáng trong những trang sách. Và phải đọc Kinh Thánh với một trái tim yêu mến tha thiết.
Khi trái tim mở rộng đón nhận, Lời Chúa sẽ gieo vào hồn ta những mầm mống hy vọng. Và cuộc đời sẽ thấy lại ý nghĩa, tìm được niềm vui. 3) Ánh sáng Thánh Thể nuôi dưỡng niềm hy vọng Niềm hy vọng trở thành hiện thực khi Chúa Giêsu bẻ bánh. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Niềm hy vọng không còn là hy vọng nữa, nhưng đã trở thành hiện thực. Không còn những bán tin bán nghi. Không còn những hoang lo lắng. Không còn những thấp thỏm lo âu. Vì các ông đã gặp được chính niềm hy vọng.
Cuộc gặp gỡ chỉ thoáng qua, nhưng các ông đã mãn nguyện. Chúa Giêsu bẻ bánh là nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới. Dường như một linh hồn mới vừa nhập vào những xác thân mệt mỏi rã rời. Dường như dòng máu đã trở nên đỏ thắm. Dường như những tế bào đã trở nên tươi trẻ. Dường như trái tim đã trở nên rộn rã nhịp yêu đời. Lập tức các ông trở lại Giêrusalem. Đường đi khi trời còn sáng mà thấy xa xôi ngại ngùng. Đường đi về lúc trời đã tối đen mà sao thấy tươi vui gần gũi. Lúc đi có Chúa ở bên mà vì con mắt đức tin mù tối nên vẫn thấy buồn sầu. Lúc về tuy vắng bóng Chúa nhưng vẫn an tâm vì con mắt đức tin đã mở ra, vì vẫn biết có Chúa ở bên. Thánh Thể Chúa chính là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng.
Nhờ có Thánh Thể, đường xa trở nên gần. Nhờ có Thánh Thể, đường buồn trở nên vui. Vì nhờ có Thánh Thể, ta luôn được ở bên Chúa.
Đời sống ta không thiếu những giờ phút khó khăn. Cuộc đời đầy thử thách nhiều lúc đẩy ta vào hố thẳm tuyệt vọng. Ta hãy học bài học Chúa dạy các môn đệ trên đường Emmau: “Hãy biết nhìn các biến cố trong cuộc đời bằng con mắt đức tin”. Dưới ánh sáng đức tin, đau khổ sẽ xuất hiện với một ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc đời. Ánh sáng đức tin sẽ thắp sáng niềm hy vọng. Hãy biết nghe, đọc và suy gẫm Lời Chúa. Đừng đọc Kinh Thánh như đọc tiểu thuyết. Đừng học hỏi Kinh Thánh như học một lý thuyết. Hãy đọc với tình yêu. Hãy tìm bóng dáng Chúa xuyên qua các hàng chữ. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa. Lời Chúa sẽ như một hạt giống gieo vào lòng ta mầm hy vọng xanh tươi. Và sau cùng hãy đến với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Hãy kết hiệp với Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Thánh Thể sẽ là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng của ta.
Đường đời của ta cũng như quãng đường từ Giêrusalem đi Emmau. Khi ta không có niềm hy vọng thì con đường ta đi thật dài, thật xa, thật buồn, thật tối dù ta đi giữa ban ngày. Nhưng khi ta có niềm hy vọng, con đường sẽ trở nên gần gũi, vui tươi, và sáng sủa dù ta đi trong bóng đêm.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm hy vọng của con. Xin cho đường đời con đi trở thành đường hy vọng, vì luôn có Chúa ở bên con. Amen
Cuộc hành trình về Êmau của hai môn đệ theo Luca, chính là cuộc hành trình đức tin của hai ông.
Trong nỗi buồn và thất vọng, hai môn đệ nầy bị gắn chặt vào tâm trạng hiện tại, nên không nhìn ra ý nghĩa và triển vọng tương lai của cái chết của Thầy mình. Đó cũng là tâm trạng của hầu hết chúng ta khi gặp thử thách trong cuộc sống. Chúa Giêsu đến, đi với họ và lắng nghe nỗi lòng của họ. Nhưng sau đó thì họ lại lắng nghe Chúa; Chúa đưa họ về với ánh sáng của Kinh Thánh. Dần dà họ thấy được ý nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được thể hiện giữa những biến cố mà họ cho là thê thảm. Cái chết của Thầy đối với họ là một ngõ cụt, nay lại từ từ trở nên đường dẫn tới sự sống: Nào Đức Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Khi ấy họ đã cảm thấy lòng mình nóng lên, nghĩa là đã bắt đầu thay đổi, một tia hy vọng đã lóe lên. Họ mời Chúa: xin ở lại với chúng tôi. Trước cử chỉ của người khách đồng hành: Ngài cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ. Cử chỉ mà Thầy đã làm trong bữa Tiệc Ly mà họ còn nhớ rõ mồn một. Mắt họ liền mở ra. Đấng đã chết nay biến thành người sống, Đấng Phục Sinh, và chính họ cũng biến thành những con người khác, được phục sinh với Người. Họ mau cất bước trở về với nhóm các môn đệ ở Giêrusalem. Cái chết của Chúa đã làm cho họ tan tác trong thất vọng thì sự phục sinh của Chúa lại đoàn tụ họ lại trong niềm vui. Cũng như lúc còn sống Chúa Giêsu là hạt nhân qui tụ các môn đệ, những con người rất khác biệt nhau, thành cộng đoàn các Tông Đồ, thì nay việc Chúa sống lại cũng qui tụ các môn đệ thành Hội Thánh.
Lắng nghe Chúa nói:
Qua câu chuyện sống động chúng ta vừa nghe trong Phúc Âm ngày hôm nay, thánh Luca muốn nói với mỗi người chúng ta rằng, chúng ta hôm nay không còn thấy Chúa bằng xương bằng thịt nữa; nhưng chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa như hai môn đệ trên đường Êmau, Lời Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta nhận ra Chúa qua cặp mắt đức tin của chúng ta. Và cũng như trong quán trọ Êmau, cuối cùng Thánh Thể sẽ làm cho ta nhận ra Chúa ngự trong lòng chúng ta và trong cả cuộc sống của chúng ta. Và nếu có một giác quan thứ sáu như người ta thường nói, thì đối với người kitô hữu, giác quan thứ sáu chính là đức tin nhạy bén của chúng ta, làm cho ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Đức tin sẽ đưa ta về với Thiên Chúa như dòng sông chảy vào biển cả.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu nhân từ, xin ban cho con một đức tin mạnh mẽ để con xác tín rằng Chúa luôn ở với con trong cuộc sống.
Con sông và biển cả. Thiên Chúa là biển cả và tôi là dòng sông . Sông chảy ra biển cả, không mất một giọt nào, Tuy không còn là sông. Muối biển lọc nước sông. Sạch trong và xinh đẹp bốc hơi thành mây trời, Lơ lửng bay muôn dặm, Mưa tưới mát đồng xanh. Đời người là dòng sông, Thiên Chúa là Biển cả, Chỉ ao tù nước đọng, Mới đánh mất chính mình. Chúa là chân thiện mỹ, Sẽ thanh lọc cuộc sống . Biến tôi thành mây trời, Thành mưa rới khắp nơi, Đem tình thương gieo vãi Tưới thấm mát cho đời. (Một tác giả. )
Muốn cầu nguyện thì trước hết phải tin. Chúa có thể làm được tất cả đối với những kẻ tin(Mc. 9, 23). Như đàn chiên trong bài Tin Mừng hôm nay, tin và đi theo chủ chăn,
Muốn cầu nguyện thì trước hết phải tin. Chúa có thể làm được tất cả đối với những kẻ tin(Mc. 9, 23). Như đàn chiên trong bài Tin Mừng hôm nay, tin và đi theo chủ chăn, sẽ được sống dồi dào. Muốn đọc Lời Chúa đúng nghĩa thì phải yêu mến Lời Chúa, khi đó ta mới thấy được Lời Chúa ban cho ta sức sống dồi dào.
Trong đoạn đầu của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ví mình như vị mục tử, là Môsê mới. Nhưng thấy những người Biệt phái không hiểu, Ngài lại phải chuyển sang một dụ ngôn khác: Ta là cửa ràn chiên. Muốn đến với Thiên Chúa phải qua Đức Giêsu Kitô, Ngài là cửa, là đường là sự thật và là sự sống. Chỉ mình Ngài mang ơn cứu độ đến cho nhân loại mà thôi.
Dụ ngôn người Mục tử hôm nay nói gì với đàn chiên và người mục tử hôm nay?
Dụ ngôn người mục tử muốn cho người kitô hữu hiểu rằng: Chúa là chủ chăn đi trước đàn chiên và gọi tên từng con chiên một, nói với từng người, thu hút chứ không đi sau thúc đẩy. Hay nghe Lời Chúa như lắng nghe một bấc thư tình của người yêu là Thiên Chúa gởi đến mỗi người chúng ta. Đó là tương quan tình yêu giữa Chúa Giêsu và người kitô hữu, tương quan cá nhân, chăm sóc từng con chiên, gọi tên từng con chiên một, chăm sóc từng người một, và vác con chiên lạc trên vai đem về nhà Cha.
Dụ ngôn nầy cũng nói với người linh mục hôm nay rằng: Người linh mục sống giữa đàn chiên mình, phải theo gương vị Mục Tử là Đức Giêsu Mục tử, một mục tử nhân lành, chăm sóc từng con chiên một và vác con chiên lạc trên vai đem về nhà Cha. Vị Mục Tử nhân lành không dẫn ta nhốt vào một ràn chiên, nhưng giải thoát chúng ta khỏi cuộc đời tội lỗi đang giam hãm chúng ta và đưa chúng ta ra ngoài, vào đồng cỏ xanh tươi để ta được sống và sống dồi dào. Người ta chỉ sống thật sự khi người ta đang yêu. Đạo không phải là một mớ những điều bắt buộc, nhưng đạo là tình yêu. Khi người kitô hữu cảm thấy đạo là một mớ bắt buộc nặng nề thì khi ấy có lẽ ta không còn là kitô hữu nữa.
Khi tôi nhìn những em bé thổi bong bóng xà phòng, các em reo vui khi bong bóng bay lên. Nhưng bong bóng luôn chỉ là bong bóng, vì khi chạm phải thực tế, nó sẽ vở tan và biến mất. Đó là hình ảnh của Trung tâm Thương mại thế giới ở Nữu Ước: một thứ bong bóng xà phòng, bằng thép mà con người đã thổi lên và reo vui trong trong một thời gian, nhưng rồi trong chốc lát đã tan vỡ ngày 11 tháng 9 năm 2001. Trước cảnh tượng đó, hầu hết những ai đang chứng kiến, đã quì xuống cầu nguyện, nghĩa là hướng về một cái gì vĩnh cửu, đó là Thiên Chúa. Phải, chỉ nơi Thiên Chúa mới đáng cho ta đặt tất cả niềm hy vọng. Những hứa hẹn của tiền của giàu sang, của khoa học kỹ thuật, nghĩ cho cùng, chỉ là những cái bong bóng xà phòng mà thôi, một thứ ảo ảnh. Chỉ Đức Kitô mới đem đến sự sống thật , sự sống vĩnh cửu cho chúng ta.
Chiếc khăn vấy mực.
Một bà quí phái đến với một người bạn là một nghệ sĩ có tài. Bà ta rút trong túi ra một chiếc khăn tay tuyệt đẹp và phàn nàn rằng chiếc khăn giá trị như thế mà lại bị vấy mực mất một góc, trở thành của bỏ đi! Bà hít hà chắt lưỡi tiếc rẻ nhiều lần. Thấy vậy người bạn nghệ sĩ của bà mỉm cười nói với bà: Bà cứ đưa cho tôi cái khăn tay vấy mực của bà và tôi tin chắc ngày mai bà sẽ đổi ý kiến về nó. Ngày hôm sau, khi bà ta đến thì thấy chỗ vấy mực của chiếc khăn là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời.
Lắng nghe Chúa nói:
Thiên Chúa là nghệ sĩ vô cùng tài ba, làm nên những điều kỳ diệu với cuộc đời đầy yếu đuối và vấy bẩn của ta, nếu ta chịu trao cuộc đời đó cho Ngài.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu nhân từ xin cho con can đảm trao cuộc đời con cho Chúa để Chúa thánh hhoashoonf xác con theo ý Chúa.
1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi."
5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? "6 Đức Giê-su đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người."
8 Ông Phi-líp-phê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."9 Đức Giê-su trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"?10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Bài Tin Mừng nầy tiếp theo đoạn nói về Tiệc ly. Chúa Giêsu biết, trước cái chết sắp đến của Ngài, các môn đệ Ngài sẽ sợ hại, mất tinh thần, cảm thấy bơ vơ, nên Ngài dặn trước: Lòng các con đừng xao xuyến. . . hãy tin vào Thầy và tin vào Cha. Niềm tin sẽ đem đến sự bình an cho tâm hồn.
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Lời khẳng định của Chúa Giêsu đối với chúng ta đang sống trong xã hội hôm nay thật là cần thiết. Bởi lẽ chúng ta đang sống trong một thời đại mà mọi sự thay đổi không ngừng và làm cho chúng ta trở nên hoang mang, mất phương hướng, không biết theo ai, theo đường nào? Xã hội hôm nay đang vạch ra cho chúng ta nhiều con đường: tiến bộ khoa học kỷ thuật, con đường công danh, con đường giàu sang. . . con đường nào cũng có vẻ hấp dẫn cả. Nhưng nhiều khi những con đường trần gian nầy dẫn đến ngõ cụt! Chỉ là những cái bong bóng xà phòng, hễ đụng với thực tế là tan ngay. Hai tòa tháp bằng thép của Trung Tâm thương mại ở Nữu Ước là một ví dụ. Sự kiện đó có giá trị như một lời cảnh cáo cho những ai đang lo chạy theo những mộng ước trần gian, như danh vọng, giàu sang mà quên đi tìm con đường thật của đời mình.
Nhiều người phương tây mất phương hướng, đi tìm về với các tôn giáo phương đông trong những chuyên du lịch gọi là du lịch tâm linh. Nhiều người chạy theo các giáo phái cũng vì cảm thấy mất phương hướng trong cuộc sống. Phải, hơn bao giờ hết, con người hôm nay cảm thấy mất phương hướng. Và là người kitô giáo, chúng ta biết chắc rằng chỉ có Chúa mới là con đường cho họ đi. Nhưng làm sao chỉ cho nhân loại hôm nay con đường Kitô ấy? Đó mới là vấn đề!
Đối với người kitô hữu, cuộc sống đời thường của chúng ta đã nói cho mọi người biết, đã cho họ thấy là chúng ta là những người đang hân hoan và xác tín, bước đi trên con đường của Phúc Âm chưa?
Qua cuộc đối thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, chúng ta thấy lòng tin của các môn đệ vẫn còn mù mờ: Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường! . . . Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Cha, và như thế là chúng đã mãn nguyện. Mẫu đối thoại nầy cho thấy, họ chưa hiểu vị Thầy của họ phát xuất từ Chúa Cha và nay phải trở về với Chúa Cha, họ chưa thấy được Chúa Cha trong Chúa Kitô; Ai thấy Ta là thấy Cha. Họ chưa xác tín lắm.
Lắng nghe Chúa nói:
Chúa Ngôi Hai trở thành xác phàm, trở nên con đường cho ta về với Chúa Cha. Lên đường là tìm đến một địa chỉ nào đó. Nếu con người có một định mệnh thì định mệnh ấy là Thiên Chúa. Nếu Đức Kitô là đường thì địa chỉ của ta là Thiên Chúa. Và Chúa Kitô xuống thế trở thành con đường để giúp ta đạt cho được định mệnh đó, đưa ta đến địa chỉ đó. Mọi địa chỉ khác chỉ là giả trá phù vân.
Em bé chơi diều.
Một em bé thả diều. Con diều bay vút lên không trung, cao, cao mãi cho đến khi chỉ còn là một chấm đen. Em vẫn nắm đầu mối giây và mắt vẫn nhìn lên trời. Một người đi qua thấy em mắt cứ nhìn lên trời, liền hỏi: em làm gì vậy? Dạ cháu đang chơi diều. Người kia ngạc nhiên, nhìn lên trời và nói: Diều đâu nào? Bác có thấy gì trên trời đâu! Em bé mỉm cười, mắt không rời nhìn lên trời và trả lời: Bác không thấy, nhưng chắc chắn là con diều của cháu đang bay lượn trên đó, vì cháu còn giữ một mối giây trong tay cháu mà!
Thiên Chúa cũng vậy! Ta không thấy Người, nhưng ta vẫn cảm nghiệm được Người trong cuộc sống như khi ta cầm mối giây diều vậy.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là đường, xin Chúa dẫn con đi về với Chúa Cha mọi ngày trong suốt cuộc đời.
Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã có một truyền thống rất đặc biệt, đó là luôn tự họp nhau cầu nguyện, chia sẻ tình thương, hiệp thông, san sẻ của cải vật chất cho nhau và cùng nhau cử hành lễ bẻ bánh. Đó là hình thức đầu tiên để cộng đoàn các thế hệ sau này, noi gương bắt chước và cử hành hy lễ tạ ơn. Những câu chuyện về Chúa, về Giáo Hội được các Thánh sử ghi lại theo sự linh ứng của Chúa Thánh Thần được đọc đi đọc lại trong các Thánh lễ hằng ngày và ngày Chúa nhật, lễ Trọng đã nói lên niềm tin của Hội Thánh, của những người theo chúa.
Hôm nay, Chúa nhật III Phục Sinh, Giáo Hội cho đọc lại câu chuyện rất ấn tượng, nhưng rất cảm động của hai môn đệ trên đường Emmau. Hai môn đệ này đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh vào đêm Chúa sống lại nhưng lại không nhận ra Người. Trên đường đi về làng Emmau, Chúa Phục sinh dưới dáng dấp của người khách bộ hành đã cắt nghĩa Kinh Thánh cho hai môn đệ khiến lòng họ bừng cháy ngọn lửa bên trong. Tuy nhiên, họ chỉ nhận ra Chúa khi Chúa đồng bàn với họ trong quán trọ vào xế chiều, lúc Chúa cầm lấy bánh đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho họ, mắt họ mở ra và nhận ra Người, nhưng Người đã biến mất. Khi kể lại câu chuyện này, thánh sử Luca không những cho chúng ta hiểu thế nào về hạnh phúc hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa, nhưng cũng nhấn mạnh những gì Chúa sống lại đã làm cho hai môn đệ xưa, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục làm cho chúng ta. Các môn đệ thực sự lúc đầu không hề hiểu gì về sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Nhưng từ từ với ơn Chúa Thánh Thần họ nhận ra cuộc đau khổ của Chúa Giêsu là một cuộc hành trình tăm tối Người phải vượt qua để tiến tới vinh quang ánh sáng. Cuộc đau khổ, chịu chết của Chúa Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ, không phải là một sự luống công vô ích nhưng là một chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu Phục sinh vẫn đang thực hiện cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta nhiều điều ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Khi chúng ta sốt sắng tham dự thánh lễ hằng ngày, thánh lễ trọng và thánh lễ ngày Chúa nhật, ngôi nhà thờ giáo xứ sẽ trở thành Emmau của chúng ta. Nơi nhà thờ, những bài Sách Thánh sẽ soi chiếu cho chúng ta, tuy nhiều lúc chúng ta chưa hiểu nhưng rồi chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang nói với chúng ta. Chúa Phục sinh đang hiện diện với chúng ta. Chúa Phục sinh đang dạy dỗ chúng ta. Chính lời Chúa sẽ như đuốc sáng soi đường cho mỗi người chúng ta và như ngọn đèn pha định hướng cho con tầu đức tin của chúng ta cập bến bình an và giúp chúng ta vượt qua những thử thách gian nan.
Vâng, đọc lại Tin Mừng chúng ta hiểu được rằng ” chính khi Chúa Giêsu bẻ bánh, tạ ơn thì hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Phục sinh “. Nên, Bí Tích Thánh Thể sẽ giúp người môn đệ Chúa lấy lại được sức mạnh của lòng tin. Bí Tích Thánh Thể sẽ giúp người Kitô hữu thắng vượt mọi sự trên cuộc đời của mình và Bí Tích Thánh Thể đem con người từ thân phận tối tăm tới bến bờ sự sáng. Người Kitô hữu được mời gọi qui tụ đến Nhà thờ để cầu nguyện, giúp đỡ lẫn nhau và hiệp dâng thánh lễ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hứa “ Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế “, chúng con tín thác nơi Chúa, chúng con rất cần Chúa, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những cơn bão tố của cuộc đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao hai môn đệ lại trở về Emmau ? 2.Chúa đã làm gì khi gặp hai môn đệ trên đường Emmau ? 3.Hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa khi nào ? 4.Chúa đã làm gì khi hai môn đệ nhận ra Người ? 5.Chúng ta phải có thái độ nào khi nhận ra Chúa Phục Sinh ?
Câu chuyện hai môn đệ Em-mau nói lên một hành trình đức tin thật sống động. Cuộc hành trình khởi đầu từ tình trạng “Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Đức Giê-su” và tiến tới thời điểm “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”. Vậy trong giai đoạn hình thành và củng cố đức tin ấy, họ đã làm gì và Chúa Giê-su đã can thiệp ra sao?
Trước hết chúng ta phải công nhận rằng hai môn đệ Em-mau là những người đã sống niềm hy vọng, hy vọng Chúa Giê-su sẽ cứu độ Ít-ra-en. Ít ra họ đã tiến một bước khá xa trong hành trình đức tin, thay vì coi Chúa Giê-su như một nhà giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ ngoại bang thì họ đã “hy vọng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en”. Họ hy vọng như thế, vì họ đã chứng kiến “câu chuyện ông Giê-su Na-da-rét”. Họ đã nghe Người giảng dạy và thấy những phép lạ Người làm. Quả thực Người là một ngôn sứ đầy uy thế trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Nhưng điều gì đã ngăn cản không cho họ nhận ra Chúa Giê-su là Đấng cứu độ, đến nỗi họ vẫn lẩn quẩn trong niềm hy vọng? Đó chính là cái chết của Người trên thập giá. Họ không thể hiểu được tại sao Người phải chết và họ cũng không thể tin được Người đã sống lại. Như vậy là bây giờ ngay cả niềm hy vọng của họ cũng tiêu tan!
Tuy nhiên trong giai đoạn cực kỳ khủng hoảng này của hành trình đức tin, Chúa Giê-su đã giúp họ hiểu ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Người. Người sử dụng toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước để “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người”. Cách giải thích của Chúa đã làm cho lòng họ bừng cháy lên, vì chính người trong cuộc nói cho họ thì phải rất ấn tượng rồi! Nhưng Chúa Giê-su không vội vàng. Người biết rằng nếu họ chỉ nghe Người giải thích Kinh Thánh thôi chưa đủ, mà còn phải nhìn thấy một dấu ấn nào đó độc đáo của Người nữa. Cử chỉ “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ” là hành vi bí tích duy có Chúa Giê-su làm mà thôi. Cử chỉ ấy giúp họ nhận ra tình yêu và chăm sóc Người dành cho họ, giống như “Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” đã làm khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúa Giê-su đã khéo léo và nhẫn nại dẫn dắt hai môn đệ Em-mau đi theo con đường Kinh Thánh và dừng lại ở Bí tích Thánh Thể, để họ được “mở mắt ra và nhận ra Người”. Phần hai môn đệ Em-mau, họ đã biết chăm chú lắng nghe “người khách lạ” và nhất là “nài ép mời Chúa ở lại với họ”. Đó cũng là giai đoạn mở lòng cần thiết để đón nhận niềm tin vào Chúa Giê-su.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hai môn đệ Em-mau vừa kịp nhận ra Chúa thì Người lại biến mất! Có phải đó chính là bối cảnh để chúng ta sống đức tin vào Chúa Phục sinh không? Chúa Giê-su biến đi để chúng ta trở lại với cuộc sống và bổn phận hằng ngày của chúng ta. Người phải biến đi để chúng ta cũng giống như hai môn đệ Em-mau, là phải đứng dậy lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho anh chị em. Mỗi người chúng ta đều có một cách riêng và một hoàn cảnh độc đáo để nói lại cho anh chị em biết những gì Chúa đã làm cho chúng ta và chúng ta “đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.
Có khi nào chúng ta dành một chút thời giờ để nhìn lại hành trình đức tin của chính mình không? Nhiều khi tự mãn với đức tin của người “đạo dòng” được thừa hưởng từ ông bà cha mẹ, chúng ta không hăng hái muốn “biết” thêm về Chúa qua Kinh Thánh, mà chỉ giữ một đức tin rất mù mờ và nông cạn. Có lẽ cũng ít khi chúng ta có được cảm nghiệm “lòng chúng ta đã bừng cháy lên”, vì chúng ta không thích đọc, suy niệm và cầu nguyện Kinh Thánh, hoặc chúng ta không mấy quan tâm đến những bài giảng trong Thánh lễ.
Chúa Giê-su “biến mất” trước mắt hai môn đệ, nhưng Người đã “ở lại” trong tâm hồn các ông để giục giã các ông lên đường thi hành sứ mệnh. Cũng thế, Chúa Giê-su không “hiện ra” trước mắt chúng ta, nhưng Người ngự giữa tâm hồn chúng ta, hòa tan vào thân xác và linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, để chúng ta cũng lên đường!
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Như Đức Kitô đã dùng Thánh Kinh để giải thích cho hai môn đệ tin vào mầu nhiệm Người sống lại mà hồi sinh, Phụng vụ hôm nay cũng muốn dùng các bài chúng ta vừa nghe đọc để khai sáng tâm trí ta hiểu hơn về việc Chúa phục sinh hầu được tinh thần mới và nếp sống mới.
A. Bài Sách Công Vụ
Trước hết chúng ta hãy để tai nghe lời thánh Phêrô. Nói đúng hơn chúng ta hãy khảo sát bài đọc I, vì diễn từ chúng ta vừa nghe là của tác giả sách Công vụ hơn là của chính thánh Phêrô.
Hôm ấy là ngày lễ Ngũ Tuần. Các môn đệ vừa được đầy Thánh Thần. Thiên hạ chen nhau tuốn đến nhà các ngài vì nghe tiếng động từ trời vang xuống nơi đó. Phêrô đứng lên cùng với 11 Tông đồ và cất tiếng nói với dân. Ông phải giải thích cho mọi người hiểu: Chính Đức Kitô phục sinh vừa gửi Thần trí của Người xuống trên các môn đệ. Điều quan trọng là phải làm chứng việc Người đã sống lại vì ơn để Thánh Thần xuống chỉ là điều tất yếu phải theo sau. Việc làm đó thật tế nhị và cũng khó; vì Phêrô phải nói với những người mà đa số cũng đã nghe đầu mục Dothái xúi giục đòi đóng đanh Đức Yêsu. Nhưng tác giả bản văn đã rất tài tình. Ông vắn tắt phác lại hình ảnh Đức Yêsu, một Đấng đã được Thiên Chúa chứng nhận bằng bao việc kỳ diệu, tức là như một tiên tri, nói đúng hơn như một Môsê; "Thế mà anh em đã giết Người", lẽ ra ông chỉ cần nói như thế. Nhưng không! Ông đã khéo léo chữa lỗi cho họ. Chính theo ý định đã vạch sẵn và sự dự tri của Thiên Chúa mà Người đã bị nộp, rồi họ mới dùng tay kẻ vô đạo mà giết Người. Nhưng đây mới là điều quan trọng: Thiên Chúa đã phục sinh Người từ kẻ chết để ứng nghiệm lời tiên tri Đavít. Quả thật, Thánh vịnh 16 có câu: Người không để Đấng Thánh của Người phải thấy mục nát. Rõ ràng Phêrô không nại đến sự kiện mồ trống. Ông cũng không nói đến những lần Chúa sống lại hiện ra. Có thể những chuyện đó đã được đồn đãi nhiều nhưng không gây được sự nhất trí. Đó chỉ là những dấu hiệu cần được giải thích. Cũng như việc Thánh Thần hiện xuống hôm nay cũng chỉ là một dấu hiệu. Đối với Phêrô chẳng lời giải thích nào đáng tin như lời Thánh Kinh. Ông dẫn giải Thánh Kinh để soi sáng hiện tượng, để kêu gọi lòng tin. Và hôm đó ông đã thu phục được "lối ba ngàn linh hồn". Chúng ta tưởng chính thánh Phêrô đã sáng nghĩ ra đường lối ấy sao? Đó chỉ là phương pháp Đức Yêsu đã làm khi còn tại thế và lúc đã sống lại. Cuộc đàm đạo của Người với hai môn đệ trên đường Emmau sẽ làm chứng điều đó.
B. Bài Tin Mừng Luca
Tác giả sách Công vụ và sách Tin Mừng Luca chỉ là một, nên bài Tin Mừng hôm nay có nhiều nét giống với bài Công vụ mà chúng ta vừa khảo sát.
Câu chuyện được kể bắt đầu xảy ra vào buổi sáng ngày Chúa Nhật Phục sinh và kết thúc vào buổi tối. Hai môn đệ chứ không phải hai Tông đồ đi đường đến Emmau. Họ trở về nhà sau khi đã chứng kiến những sự việc xảy ra tuần rồi ở Yêrusalem? Luca kể họ đang nói với nhau những chuyện đó và buồn rầu vì thất vọng. Họ đã tưởng Đức Yêsu sẽ cứu chuộc Israel; nhưng này Người đã bị giết được ba ngày rồi. Sáng nay cũng có mấy bà ra thăm mộ đấy. Họ thấy trống trơn. Các thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại, nhưng mấy môn đệ ra coi thì chẳng thấy gì cả.
Người khách lạ vừa đến nói ngay với họ: Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói. Ông ta là ai mà dám nói thẳng như thế? Lời kia không giống lời Đức Yêsu nói hôm nào khi môn đệ ở trên thuyền đánh thức Người dậy lúc sóng nước làm thuyền sắp chìm sao? Hai môn đệ kia chưa nhận ra Người. Nhưng Người dẫn giải Thánh Kinh đến đâu, lòng họ nóng lên đến đó và cuối cùng họ đã nhận ra Người khi bẻ bánh.
Câu kết của câu chuyện rất quan trọng. Hai môn đệ trở về Yêrusalem tức khắc. Họ chưa kịp kể chuyện của mình thì các Tông đồ đã cho họ biết: "Thực thế, Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho Simon". Người ta có thể đoán sau đó câu chuyện họ kể không còn hào hứng nhiều nữa vì không còn hi hữu và mới mẻ gì.
Chúng ta tiếc vì Luca đã kết thúc câu chuyện như vậy sao? Nhưng dường như đó là chủ ý cuối cùng với câu kết lại làm cho người nghe hết hào hứng. Là vì đối với ông, việc Chúa hiện ra với hai môn đệ, dù có thật và phấn khởi, vẫn chỉ là phụ thuộc. Đức tin của chúng ta về việc Chúa sống lại chỉ căn cứ vào nhân chứng của các Tông đồ mà đứng đầu là Phêrô. Câu "Chúa đã sống lại và hiện ra với Phêrô", tuy vắn tắt, khô khan, nhưng chính là đá tảng vững vàng xây lên Hội Thánh. Mọi câu chuyện khác về việc ấy chỉ là trang trí.
Và quả thật Luca đã có ý trang hoàng câu chuyện của ông hơn là ghi lại trung thực một sự kiện y như đã xảy ra. Rõ ràng ông đã có ý muốn cho có nhiều chuyện xảy ra trong ngày thứ nhất trong tuần để tô điểm ngày ấy nên ngày Phục sinh. Ông là "y sĩ" ưa nói đến lòng thương xót của Chúa, nên câu chuyện ông kể có vẻ tâm tình và khiến lòng bốc cháy. Ông chỉ là một môn đệ và mất ý thức về vai trò của các Tông đồ, nên muốn cho các chuyện của môn đồ đứng hàng thứ sánh với sự nghiệp của các Tông đồ. Nhất là ông muốn viết một tác phẩm sau khi đã sưu tra và xếp đặt cho có đầu có ngọn; do đấy câu chuyện của ông có nhiều nét chắc chắn , tức là diễn tả nhiều điểm đức tin vững vàng: nào là hình ảnh Đức Yêsu được phác họa như một tiên tri hứa hẹn nhiều hy vọng, nào là sự kiện mồ trống với lời thuật của các phụ nữ được trình bày một cách khách quan và chưa có lời giải thích. Nhất là Luca muốn nhấn mạnh: các môn đệ chậm tin lời tiên tri, chẳng hiểu gì về mầu nhiệm Thập giá và phải đọc lại Lời Thánh Kinh để thấy ánh sáng cứu độ. Khi nhắc lại lời Chúa nói ở trên biển bão táp. Luca ngầm ví việc Người chịu chết như khi Người ngủ trên thuyền; môn đồ hốt hoảng, nhưng tỉnh dậy Người đưa họ vào bến bình an. Cũng vậy, việc Người sống lại kéo họ ra khỏi vực sâu sự chết. Họ phải nhờ Thánh Kinh để nhận ra mầu nhiệm này và đức tin của họ sẽ đạt tới cao điểm trong việc bẻ bánh.
Ở đây ta cũng nên hỏi: có thật Đức Kitô đã làm lễ nghi bẻ bánh với hai môn đệ không? Suy nghĩ kỹ, ta nên kết luận: có lẽ không, vì Người đang hiện diện ở đó, không cần đến bí tích làm gì, bởi lẽ bí tích là để thay thế hiện diện. Đó có thể chỉ là bữa ăn thường, nhưng Luca đã hữu ý dùng những từ ngữ của việc bẻ bánh để mô tả (như khi kể việc Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: 9,16), để đề ra một ẩn ý thần học: niềm tin vào việc Chúa sống lại đạt tới cao điểm trong việc bẻ bánh, tức là nơi bí tích Thánh Thể và bữa ăn này thực hiện lời hứa sẽ cho môn đệ vào dự bàn tiệc Nước Trời khi Người lên nơi vinh hiển.
Như vậy, câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay không những hấp dẫn, nhưng nhất là sâu sắc. Nó diễn tả quan niệm của Luca về việc Chúa sống lại. Có những sự kiện dẫn tới niềm tin ấy như sự kiện mồ trống và việc Chúa hiện ra. Nhưng đức tin thật sự của ta phải căn cứ vào chứng tá của các Tông đồ mà đứng đầu là Phêrô và vào sự tìm hiểu Kinh Thánh. Đức tin ấy đạt tới mức độ đầy đủ trong việc cử hành bàn tiệc Thánh Thể loan báo Nước Trời và đổi mới con người, làm cho họ mến Chúa nồng nàn và nhiệt thành truyền giáo.
Đó cũng là những tư tưởng mà bài sách Công vụ đã thoáng thấy. Nói đúng hơn vì viết sau bài Tin Mừng, diễn từ của Phêrô là một bản văn súc tích, gồm đủ các yếu tố mà Luca đã trình bày trong bài Tin Mừng.
Phụng vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta nghe những lời Kinh Thánh ấy để làm gì?
C. Bài Thư Phêrô
Tất nhiên đã có nhiều điều chúng ta có thể đem ra ứng dụng và thi hành sau khi hiểu biết các bài đọc trên. Chúng ta đã hiểu rõ hơn về niềm tin của chúng ta đối với việc Chúa sống lại. Và muốn hun đúc niềm tin ấy để đổi mới con người và cuộc đời, chúng ta cũng phải bắt chước hai môn đệ, để Thần Trí Chúa phục sinh hướng dẫn mình đọc lại Kinh Thánh và tham dự các buổi phụng vụ Thánh Thể.
Nhưng để giúp chúng ta có một thái độ cụ thể, Phụng vụ đã trích một đoạn thư Phêrô. Tác giả không nói gì mới lạ, chỉ xinh chúng ta đánh giá đúng ân sủng đã nhận được. Nhờ Đức Kitô chúng ta đã tin vào Thiên Chúa (c.21), xưng tụng Người là Cha (c.17), nhìn nhận Người là Thẩm phán chí công, thì hãy sống trong lòng kính sợ Người. Lý do là vì niềm tin của chúng ta thật là đắt giá. Nó đã được trả bằng Máu châu báu của Đức Kitô và chỉ có Máu Người mới trả được. Thế nên chúng ta phải bảo toàn niềm tin ấy, tức là hy vọng của chúng ta luôn phải hướng về Thiên Chúa (c.21), là sống trong lòng kính sợ (kẻo mất) Người.
Giờ đây chúng ta sẽ cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhở việc Chúa chịu chết và sống lại, nhận thức đức tin của chúng ta đã được trả bằng Máu châu báu của Người, chúng ta hãy mở mắt tinh thần ra như hai môn đệ Emmau và như những người đã nghe bài diễn từ của Phêrô. Và lòng chúng ta hãy nồng nàn lên khi thấy Chúa hiện diện nơi Thánh Thể. Chúng ta hãy quyết tâm đổi đời như lối "ba ngàn người" nghe Phêrô nói ngày trước; và chúng ta hãy ra về trở lại với đồng bào như hai môn đệ Emmau. Chúng ta sẽ làm như họ, tin tưởng tuyệt đối vào mầu nhiệm Phục sinh, khai triển lời Kinh Thánh trong đời sống, làm chứng Đức Kitô đã sống lại đang kêu gọi mọi người hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà phấn chấn trong cuộc sống, nhiệt tình xây dựng hạnh phúc, vì này, sức mạnh của Chúa đi kèm công việc của những người đã tin Đức Yêsu Kitô sống lại từ kẻ chết.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
13"Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số.14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra.15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ.16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người.17 Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy? " Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.18 Một trong hai người tên là Clêôpát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay."19 Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy? " Họ thưa: Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá.21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ísrael. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm,23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống.24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy." 25 Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!26 Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?27 Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. 28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa.29 Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.32 Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" 33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó.34 Những người này bảo hai ông: "Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn."35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Chương 24 của tin mừng theo Luca gồm các trình thuật liên quan đến việc Chúa Giêsu sống lại. Đoạn 24:13-35 trình bày việc Chúa Giêsu sống lại đồng hành với hai môn đệ trên đường về làng Emmaus. Đoạn nầy có thể chia làm hai phần: 24:13-27 và 24:28-35. Phần dẫn nhập và kết luận cho biết hai lộ trình đối nghịch nhau: hai môn đệ rời khỏi Giêrusalem và nói với nhau những chuyện đã xảy ra ở Giêrusalem (cc. 13-14). Họ trở lại Giêrusalem và kể cho nhóm mười một và những người ở đó những chuyện đã xảy ra với họ trên đường (cc. 33-34). Phần thứ nhất 24:13-27 trình bày những chuyện xảy ra trên đường: Chúa Giêsu đồng hành với hai ông. Phần nầy gồm những lời của hai môn đệ trình bày nhận xét, suy nghĩ và quan điểm của họ liên quan đến Giêsu Nazaréth (cc. 15-24), và những lời của Chúa Giêsu giải thích về chính Người (cc. 25-27). Phần thứ hai 24:28-35 trình bày những chuyện xảy ra trong khi dùng bữa: Chúa Giêsu ở lại dùng bữa với hai môn đệ, và việc hai ông nhận ra Người.
Sứ điệp trung tâm của tin mừng là: “Người đang sống” (c. 23). Để có thể đạt đến xác tín nầy, hai môn đệ cần được soi sáng không chỉ bằng kinh thánh, mà cả việc bẻ bánh. Theo quan điểm của hai môn đệ, và cách chung của mọi người thời đó, Chúa Giêsu Nazarét là niềm hy vọng thiên sai của họ. Nơi Người họ nhận ra là một tiên tri lớn mà Thiên Chúa ban cho dân Israel của Người. Qua Người, Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho dân của Người (7:16; 24:21; x. 7:39; 9:8.19; 24:17). Bởi đó, vì không thấy gì xảy ra sau ngày thứ ba từ khi Người bi giết, họ đã nên thất vọng và đã quyết định rời bỏ cộng đoàn các môn đệ ở Giêrusalem mà về làng Emmaus. Những điều mà các phụ nữ thuật lại liên quan đến mồ trống và lời của các thiên thần quả quyết là Người đã sống lại không làm họ thêm lòng tin, mà chỉ gây thêm hoang mang (cc. 22-24; 24:1-12).
Lần đầu tiên và duy nhất trong các tin mừng Chúa Giêsu đã dùng sách thánh để giải thích những điều liên quan đến chính mình. Người xác định hai điều: - Giêsu Nazarét chính là đấng Kitô mà mọi người đang đặt niềm hy vọng vào (x. 24:19-21.26; Cvtđ 2:36; 5:42; 9:22); - Đấng nầy phải đi qua đau khổ để vào vinh quang (x. 9:51; 24:46-47.51). Vậy nếu Giêsu Nazarét đã chịu khổ hình, thì đây chính là lúc phải tin Người đã sống lại. Những điều các phụ nữ thuật lại là những bằng chứng.
Để củng cố thêm điều Người vừa dẫn giải, trong bữa ăn với hai môn đệ Chúa Giêsu làm những hành động “cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, và trao cho họ” mà Người đã làm trên bánh trong bữa ăn Vượt Qua của Người. Những hành động nầy nhắc nhớ cho hai ông là chính Người đã làm điều nầy và Người đang hiện diện giữa hai ông. Cách nói “nhớ đến tôi” trong câu “Anh em hãy làm việc nầy mà nhớ đến tôi” chỉ tìm thấy trong Luca (22:19; 1 Cô 11:24.25) có nghĩa không chỉ là nhớ lại một điều đã xảy ra trong quá khứ - nhớ Chúa đã làm, như Phêrô đã nhớ lời Chúa Giêsu nói về cây vả (Mc 11:21) và về việc ông sẽ chối Người (Mc 14:72), mà còn là công nhận một sự hiện hữu thật sự - Chúa hiện diện khi việc ấy được thực hiện, như việc dâng lễ hy sinh hằng năm nhắc nhớ tội lội đang hiện hữu giữa con người (Do thái 10:3). Vậy qua việc bẻ bánh hai ông đã nhận ra Người đang sống.
Không chỉ tâm trí của hai môn đệ đã hiểu kinh thánh nói về Chúa Giêsu, mà cả con tim của họ cũng xúc động khi nhận ra Người đang sống giữa họ. Chúa Sống Lại đã thay đổi trọn vẹn con người và lộ trình cuộc đời của họ.
Nếu vắng bóng Thiên Chúa, hành trình trần gian còn ý nghĩa gì không ? Bởi thế, Giáo Hội không ngừng đồng hành với Đức Giêsu phục sinh trong cuộc hành trình hôm nay để phục hồi tất cả những giá trị đã mất cho nhân loại.
GẶP MÀ KHÔNG GẶP.
Hành trình về Emmau, hai môn đệ đang xa lìa dần Giêrusalem như xa lìa niềm tin ban đầu. Niềm tin vào thầy chí thánh đã tan thành mây khói khi Đức Giêsu như giang tay thua cuộc trên thập giá. Niềm hi vọng cũng chìm vào nấm mồ hoang lạnh. Bằng chứng, hai ông đang lầm lũi bước đi với “vẻ mặt buồn rầu.” (Lc 24:17) Thất vọng tràn trề. Niềm tin băng hoại. Vì thế, “mắt họ bị ngăn cản, không nhận ra Người,” (Lc 24:16) dù “chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ.” (Lc 24:15) Thế mới hay, Đức Giêsu phục sinh là đối tượng của đức tin chứ không phải của giác quan.
Thực tế, đức tin các môn đệ Emmaus mới chỉ dừng lại ở một giới hạn nào thôi. Cao lắm họ cũng mới chỉ tin Đức Giêsu “là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.” (Lc 24:19) Niềm hi vọng của họ vẫn chưa vượt khỏi biên giới Do thái: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hi vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ítraen.” (Lc 24:21) Chính vì giới hạn quá lớn như thế, nên họ mới không tin nổi lời chứng phục sinh của các môn đệ khác, vì “chính Người thì họ không thấy,” (Lc 24:24) Lời chứng của các phụ nữ cũng chỉ dựa trên lời “thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống.” (Lc 24:23) Cũng như ông Tôma, các ông không thể tin nổi Đức Giêsu phục sinh cho tới khi giáp mặt.
Để phá tung giới hạn và nâng cao niềm tin các môn đệ, Đức Giêsu đã “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh,” (Lc 24:27) để chứng minh rằng “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người.” (Lc 24:26) Đức Giêsu đã kiên nhẫn đưa các môn đệ lần ra sợi chỉ xuyên suốt toàn bộ Kinh thánh. Sợi chỉ xuyên suốt đó chính là Đức Giêsu phục sinh. Người chính là trung tâm qui tụ mọi tầm nhìn của Môsê và các ngôn sứ. Không có Người, Kinh thánh mất hẳn ý nghĩa. Nói khác, Người là ngọn lửa soi sáng cho ta thấy tất cả những nét đậm nhạt trong Thánh kinh. Ngọn lửa ấy cũng khơi bùng lên cả một đám cháy lớn trong con tim nhân loại. Chính vì thế, các môn đệ mới thú nhận: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24:32)
Dầu sao các môn đệ mới cảm nhận trong con tim chứ chưa nhận ra Người đang hiện diện ngoài thực tế. Nhưng “khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người.” (Lc 24:31) Niềm tin lên tới cao điểm, sau khi đã trải qua đêm đen thất vọng. Từ cao điểm lòng tin, các ông mới thấy tất cả mạc khải sung mãn chỉ tìm được trong những cử chỉ thân thương trong bữa tiệc ly. Đức Giêsu đã lặp lại những giây phút lịch sử đó như một nghĩa cử đáp lại lòng hiếu khách của các môn đệ. Bữa ăn thân ái đó đã mạc khải cho các môn đệ dung nhan đích thực của Thầy Chí Thánh. Không có cuộc chia sẻ thân tình đó, chắc chắn mắt đức tin các ông đã không mở ra. Đó chính là bữa ăn cánh chung giúp các môn đệ nhận ra thời điểm Nước Chúa đã đến. Chính Đức Giêsu đã báo trước thời điểm đó trong đêm Vượt Qua (Lc 22:16, 18).
Không còn niềm vui nào lớn hơn. Con tim trào lên niềm hi vọng. “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó.” (Lc 24:33) Niềm tin đã quay trở lại với các môn đệ. Cuộc gặp gỡ hôm đó là cuộc gặp gỡ của niềm tin và niềm hi vọng bùng vỡ. Họ sung sướng nói cho nhau về biến cố Đức Giêsu phục sinh: “Chúa trỗi dậy rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” (Lc 24:35) Chứng từ này khác hẳn với chứng từ các phụ nữ và các môn đệ họ đã từng nghe trước đây. “Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.” (Lc 24:35) Chứng từ phục sinh vô cùng sống động và cụ thể. Phục sinh đã trở thành sự kiện cảm nghiệm thiết thân của từng cá nhân, chứ không phải kết quả của dư luận thêu dệt.
Thánh Phêrô cũng mạnh mẽ làm chứng sự kiện đó: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại ; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.” (Cv 2:32) Chính Thánh Linh đã nâng Đức Giêsu dậy. Chính “nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hi vọng vào Thiên Chúa.” (1 Pr 1:21) Nói khác, nếu Đức Giêsu không phục sinh, nhân loại không thể tìm được niềm hi vọng nào nơi Thiên Chúa nữa !
NIỀM HI VỌNG HÔM NAY.
Chỉ một mình Đức Giêsu phục sinh mới có thể đem lại niềm hi vọng cho nhân loại hôm nay. Người là động lực thúc đẩy Giáo Hội không ngừng tranh đấu cho sự sống và đồng hành với nhân loại trong nỗ lực bảo vệ sự sống. Nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Đức Phật nhập Niết Bàn vào ngày 9/4 tại các quốc gia theo phái Đại Thừa vào 19/5 tại các quốc gia theo phái Tiểu thừa, ĐHY Francis Arinze, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về đối thoại liên tôn, đã gởi một thông điệp đề nghị cùng hợp tác bảo vệ sự sống con người chống lại vô số phương cách văn hóa sự chết đe dọa nhân loại. ĐHY mời gọi các Phật tử nhập cuộc với các người Công giáo tranh đấu chống lại “một nền văn hóa sự chết đầy dẫy những cảnh phá thai, an tử, và những thí nghiệm về di truyền trên con người đã hay sắp được pháp lý công nhận.” (CWNews 9/4/02) “Quyền sống đang bị kỹ thuật tân tiến vượt bực ngày nay đe dọa.” Tất cả đều phát xuất từ “sự khinh thường sự sống con người.” (ĐHY Francis Arinze: Zenit 9/4/02)
ĐHY nhấn mạnh Kitô hữu và Phật tử cần phải hợp tác để cổ động một nền văn hóa tôn trọng sự sống. Lý do vì “chúng ta đều tin tưởng rằng tôn trọng sự sống con người phải bắt đầu từ trong tâm hồn con người, trước khi trở thành thực tế ngoài xã hội.” (ĐHY Francis Arinze: CWNews 9/4/02) Ngài kêu gọi dồn nỗ lực giáo dục giới trẻ về chân giá trị của sự sống con người (CWNews 9/4/02) “để họ xác tín mạnh mẽ về một nền luân lý và văn hóa sự sống. Giáo dục giới trẻ phải là vấn đề ưu tiên.” (ĐHY Francis Arinze: Zenit 9/4/02)
Giáo Hội sẵn sàng cộng tác với các tôn giáo bạn để hướng dẫn giới trẻ bước vào nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Như Thầy chí thánh, Giáo Hội phải đồng hành với nhân loại mới có thể hoàn thành sứ mạng cứu độ. Nhân loại hôm nay chỉ có thể tìm lại được niềm hi vọng trong Đức Giêsu phục sinh mà thôi. Thật vậy, Giáo Hội xác tín “nhờ mầu nhiêm Vượt Qua, Chúa đã phục hồi phẩm giá nguyên thủy của nhân loại.” (Các Giờ Kinh Phụng vụ 1999: 511)
Tất cả sứ mạng Giáo Hội đều nhằm phục hồi phẩm giá nhân loại. Nhưng Giáo Hội không thể hoàn thành sứ mạng đó, nếu không đồng hành với Đức Giêsu phục sinh. Giáo Hội có thể giải thích cho nhân loại “những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24:27) Nhưng chỉ khi nào Giáo Hội mời con người vào đồng bàn với Người, họ mới có thể “nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh.” (Lc 24:35)
Mầu nhiệm Phục Sinh là phần cốt yếu của đức tin Ki-tô giáo, khai mở cho ta một cuộc sống mới ở đời này để đưa ta đến cuộc sống vĩnh cửu. Mầu nhiệm này đã được chính Chúa Phục Sinh giảng giải cho hai môn đệ trên đường Em-mau, dựa trên những chứng lý Kinh Thánh Cựu Ước. Mầu nhiệm này cũng được thánh Phê-rô rao giảng cho dân chúng tại Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ Ngũ Tuần. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dẫn ta vào những chứng lý Kinh Thánh ấy, nhắm mục đích củng cố đức tin của ta vào sự Phục Sinh.
1. Chúa Giê-su giải thích Kinh Thánh về sự Phục Sinh cho hai môn đệ trên đường Em-mau (bài Tin Mừng – Lu-ca 24:13-35)
Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ. Nói về điều này, thánh Phao-lô quả quyết với tín hữu Cô-rin-tô: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năn trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15:3-8). Mầu nhiệm Phục Sinh, tức Chúa Ki-tô đã chết và đã sống lại từ cõi chết, là Thánh Truyền mà thánh Phao-lô đã nhận lãnh và giờ đây Người truyền lại cho người khác. Thánh Truyền là toàn bộ chân lý mặc khải, nhất là qua Kinh Thánh, được Giáo Hội tiếp nhận, gìn giữ và lưu truyền cho nhân loại. Do đó ta không lạ khi nhận thấy thánh Phao-lô đã hai lần lập lại cụm từ “đúng như lời Kinh Thánh” lúc ngài đề cập đến cái chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô.
Trong câu truyện Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa đã “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Dĩ nhiên là những gì liên quan đến cái chết và sự sống lại của Người. Trong bài giảng của thánh Phê-rô qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ta sẽ có dịp nghe những lời Kinh Thánh nói về Chúa Ki-tô. Thánh sử Lu-ca không ghi lại chính những lời Kinh Thánh ấy, nhưng lại cho ta thấy nơi hai môn đệ kết quả của việc Chúa giải thích Kinh Thánh. “Họ bảo nhau: ‘Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’” (Lc 24:32). Đúng vậy, tâm hồn các ông đã bừng lên ngọn lửa tin yêu thay đổi các ông hoàn toàn. Trên đường đi Em-mau, họ mang “vẻ mặt buồn rầu” và kể lại “chuyện ông Giê-su Nada-rét” với tất cả buồn chán thất vọng về cái chết bi thương của Người, đồng thời cũng hoang mang không kém vì mẩu tin Người đã sống lại và hiện ra với mấy bà trong nhóm môn đệ. Họ “chậm tin vào lời các ngôn sứ”. Nhưng sau khi Chúa bẻ bánh, “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người” và lòng họ đã bừng cháy lên. Trên đường vội vã trở lại Giê-ru-sa-lem, họ là những người đầy lòng tin, tràn hoan hỷ, chỉ muốn đi cho nhanh tới nơi để loan tin vui Chúa sống lại cho “Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ tập tại đó”. Họ đi trong đêm tối, nhưng trong lòng là cả một bình minh rực rỡ soi sáng con đường và tinh thần dâng cao niềm hăng say can đảm.
2. Vua Đa-vít “đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô” (bài trích sách Công vụ Tông Đồ – Cv 2:14,22b-33)
Chúa Giê-su Phục Sinh đã giải thích Kinh Thánh cho hai môn đệ trên quãng đường dài mấy tiếng đồng hồ. Có thể thời gian quá ngắn, nhưng Chúa Giê-su cũng có cách để chỉ trình bày những đoạn Kinh Thánh cần thiết giúp hai ông nhận biết được sứ điệp Người muốn nói. Hơn nữa, Người là “người trong cuộc” nên lối giải thích của Người sẽ vô cùng độc đáo xác tín và làm cho lòng người nghe phải bừng cháy lên. Có lẽ một trong những lời Kinh Thánh Cựu Ước liên quan đến cái chết và sự Phục Sinh mà Chúa Giê-su đã giải thích cho hai môn đệ đi Em-mau đã được thánh Phê-rô sử dụng trong bài giảng đầu tiên sau khi ngài và các bạn được nhận lãnh Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống. Đó là đoạn Thánh Vịnh của vua Đa-vít: “Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước thánh nhan” (Tv 16:8-11).
Thánh Phê-rô đã giải thích đoạn Kinh Thánh trên cho dân chúng Giê-ru-sa-lem. Ngài quả quyết những lời Kinh Thánh ấy của vua Đa-vít nói về Chúa Giê-su Phục Sinh. “Luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt” là kiểu nói diễn tả người công chính. Mà ai là người công chính gương mẫu nếu không phải là Chúa Giê-su? Suốt đời Người tín thác vào tình yêu của Chúa Cha, nên Người đã trung thành và kiên trì cho đến chết trên thập giá. Người tin tưởng và hoàn toàn hy vọng Thánh Thần sẽ cho Người sống lại từ cõi chết. Là “Vị Thánh của Thiên Chúa”, Người sẽ không bị bỏ rơi trong cõi chết và thân xác Người sẽ không phải hư nát như những người khác. Người đã đi con đường thập giá và chết nhục để được sống lại vinh quang. Quả thực, Chúa Giê-su đã thực hiện từng nét những lời ngôn sứ Đa-vít nói trước về Người vậy.
Chứng từ của vua Đa-vít là chứng từ Kinh Thánh, nền tảng của chân lý. Nhưng bên cạnh chứng từ ấy, còn thêm những người bằng xương bằng thịt làm chứng họ đã được gặp gỡ Chúa Giê-su hiện ra với họ nhiều lần sau khi Người sống lại. Thánh Phê-rô không giảng một mình, nhưng ngài “đứng chung với Nhóm Mười Một”. Chi tiết này rất ý nghĩa. Nó nói lên tính cách xác thực và mạnh mẽ của chứng từ do tập thể chứ không phải do một cá nhân đơn độc. Thánh Phê-rô nhấn mạnh: “Về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2:32).
3. Sống đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn là Đức Ki-tô” (bài Thánh thư – 1 Pr 1:17-21)
Thiên Chúa thực hiện kế hoạch cứu độ và muốn ta thực thi thánh ý Người theo kế hoạch ấy. Người sẽ xét xử ta tùy theo cách ta đón nhận và cộng tác với Người theo kế hoạch cứu độ. Vậy theo kế hoạch, Máu Đức Ki-tô đã đổ ra để cứu chuộc ta khỏi quyền lực tội lỗi và mở cho ta một cuộc sống mới. Lối sống mới là sống theo Thần Khí Đức Ki-tô. Còn “lối sống phù phiếm do cha ông để lại” là lối sống làm nô lệ cho Lề Luật, sống như cái máy vô hồn không một chút Thần Khí của Thiên Chúa. Thánh Phê-rô tế nhị nên không muốn nói thẳng ra đó là lối sống nô lệ cho Lề Luật Do-thái. Trái lại thánh Phao-lô thì nói rõ ràng trong các thư của ngài, nhất là thư gửi tín hữu Rô-ma.
Con đường cứu độ của ta bắt đầu nhờ việc Chúa Ki-tô đổ máu trên thập giá cho ta được làm con Thiên Chúa, sống đức tin vào Thiên Chúa. Nhưng làm sao ta có thể tin vào Thiên Chúa nếu ta không sống theo đức tin của Chúa Ki-tô, Đấng đã tin rằng Thiên Chúa sẽ “cho Người chỗi dậy từ cõi chết và ban cho Người được vinh hiển” (1 Pr 1:21)? Chính đức tin của Chúa Ki-tô phải là đức tin gương mẫu cho ta. Hoặc nói đúng hơn, đức tin của ta phải được kết hợp với đức tin của Chúa Ki-tô, thì ta mới được cứu độ.
Lối sống nô lệ cho Lề Luật không chỉ là lối sống của nhiều người Do-thái thời xưa, nhưng có thể là lối sống của rất nhiều Ki-tô hữu hôm nay. Một thí dụ cụ thể: nếu ta chỉ dự Thánh Lễ Chúa Nhật để giữ luật Giáo Hội và để khỏi mắc tội trọng, chứ không phải là một buổi gặp gỡ sống thân mật với Chúa và kết hiệp với Người qua Thánh Thể, thì việc “xem lễ ngày Chúa Nhật” của ta chỉ là một hành vi nô lệ cho luật lệ mà thôi. Liệu có khi nào ta chiêm ngưỡng Chúa Giê-su “đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” như thế nào để ta có thể rút những bài học thực tế cho cuộc sống của ta không? Mà phải là cách đặt niềm tin và hy vọng cụ thể, chứ không phải niềm tin và hy vọng mù mờ không tưởng. Niềm tin và hy vọng giữa cuộc đời đau khổ và đầy thử thách trên trần gian này. Niềm tin và hy vọng của người Ki-tô hữu muốn làm chứng cho sự Phục Sinh của Đức Ki-tô và cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Niềm tin và hy vọng của những người con Thiên Chúa muốn tự do và tự nguyện thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân, chứ không phải vì luật lệ áp buộc. Đó chính là niềm tin và hy vọng rằng: nếu Thiên chúa đã đối xử với Đức Ki-tô thế nào thì Người cũng đối xử với những ai đi theo con đường Ki-tô như vậy.
4. Sống Lời Chúa
Chúa Giê-su đã giải thích Kinh Thánh cho hai môn đệ trên đường Em-mau để đem lại cho họ đức tin vào Đấng Phục Sinh. Theo gương ấy, thánh Phê-rô Tông đồ cũng rao giảng và giải thích Kinh Thánh cho dân chúng Giê-ru-sa-lem để họ tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Ta là Ki-tô hữu đã được lãnh nhận đức tin ấy qua Bí tích Rửa tội. Nhưng trong cuộc đời lữ hành trần thế này, ta có sống đức tin ấy hay không, thì đó chính là điều ta cần phải luôn luôn nghiêm túc xét lại. Trong thời gian mừng lễ Phục Sinh, ta có nhiều cơ hội để lắng nghe Sách Thánh và những điểu giải thích giúp củng cố đức tin của ta. Hơn thế nữa, ta biểu lộ đức tin ấy bằng những việc làm cụ thể, nhờ đó đức tin được mỗi ngày một thêm trưởng thành.
Suy nghĩ: Hai môn đệ trên đường Em-mau đã cảm thấy tâm hồn họ bừng cháy khi Chúa giải thích Kinh Thánh và nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh. Cũng vậy, trong Thánh Lễ, khi nghe Lời Chúa, bài giảng, và khi lãnh nhận Mình Máu Chúa, tôi có thấy tâm hồn bừng cháy và nhận ra Chúa cũng như anh chị em không?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong mùa Vượt Qua này, Chúa đã biểu dương lòng nhân hậu vô biên là giải thoát chúng con khỏi bóng đêm lầm lạc; xin cho chúng con được tận hưởng ơn cứu độ Chúa ban và ngày càng gắn bó với lời chân lý của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Thứ Năm sau CN III Phục Sinh)
· Cv 2,14.22-33: (28) Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.
· 1Pr 1,17-21: (18) Không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. (19) Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.
(18) Một trong hai người tên là Clêôpát trả lời: «Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay». (19) Đức Giêsu hỏi: «Chuyện gì vậy?» Họ thưa: «Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ítraen. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy».
(25) Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: «Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! (26) Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (27) Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
(28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: «Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn». Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: «Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?»
(33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. (34) Những người này bảo hai ông: «Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn». (35) Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
1. Tâm trạng của hai môn đệ trên đường về Emmau thế nào? Tại sao họ lại như vậy? Họ trông chờ gì ở Đức Giêsu? Ngài có đáp lại sự chờ mong đó không?
2. Sứ mạng của Đức Giêsu có phải là trở nên một vị anh hùng giải phóng dân tộc Ngài không? Ngài giải phóng ai? Và giải phóng khỏi cái gì?
3. Giữa việc giải phóng thể chất, tinh thần, và việc giải phóng tâm linh, bạn coi cuộc giải phóng nào quan trọng hơn? Bạn đang chủ yếu tìm thứ giải phóng nào?
Suy tư gợi ý:
1. Nỗi thất vọng của các môn đệ và nhiều người khác trước cái chết của Đức Giêsu
Hai môn đệ Đức Giêsu trên đường về Emmau lòng đầy chán nản, thất vọng. Suốt ba năm theo Ngài, họ những mong Ngài sẽ trở thành nhà giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ hà khắc của đế quốc Rôma. Hai ông hy vọng Ngài sẽ thành công, sẽ làm vua, và các ông sẽ trở thành những vị cận thần của Ngài. Suốt ba năm đó, họ có một giấc mơ thật đẹp. Nhưng những điều họ mơ ước và hy vọng tràn trề suốt ba năm nay bỗng nhiên sụp đổ chỉ trong một buổi chiều khi nghe tin Ngài thật sự đã bị đóng đinh vào thập giá và đã chết vô cùng nhục nhã. Công lênh theo Ngài suốt ba năm tan thành mây khói, hóa ra chẳng được tích sự gì. Ngài chết rồi thì ắt hẳn đám 12 tông đồ của các ông sẽ rã đám. Ai nấy đều phải trở về với cuộc sống bình thường, với nghề nghiệp tầm thường của mình như ba bốn năm trước. Thế là «mèo lại hoàn mèo», dân lại hoàn dân, ngư phủ vẫn lại là ngư phủ…
Trong một đất nước bị đô hộ khắc nghiệt bởi ngoại bang, người dân nào cũng đều mơ một ngày nào đó đất nước được giải phóng, được độc lập, người dân được tự do, no ấm, được sống trong thanh bình… Và khi Đức Giêsu xuất hiện, biết bao người quen biết Ngài đã nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước. Vì Ngài đã thấy tận mắt cảnh lầm than của dân chúng, và nhu cầu cấp thiết cũng như mơ ước được giải phóng của họ. Nhưng với cái chết, Ngài đã làm cho bao người mơ ước hay hy vọng như thế phải thất vọng. Vì sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho Ngài không phải là chuyện ấy.
2. Đức Giêsu không phải chỉ là một anh hùng giải phóng dân tộc
Giả như Đức Giêsu chỉ là một nhà giải phóng dân tộc, thì các môn đệ và nhiều người Do Thái thời ấy sẽ sung sướng và mãn nguyện biết bao! Khi ấy, có thể Ngài sẽ lập nên một triều đại lâu dài, tốt đẹp và oai hùng hơn Đavít, Salômon, tổ phụ Ngài. Và dân Do Thái sẽ được sống trong thanh bình, ấm no, đất nước được hùng cường có thể một vài trăm năm. Nhưng rồi sao? Nếu chỉ như thế thì Ngài cũng đâu hơn gì bao nhiêu so với các vị minh quân ở nhiều nước trên thế giới. Các vị này cũng làm cho đất nước mình thái bình thịnh vượng một thời gian rất dài. Nhưng hết triều đại thanh bình ấy xong thì lại đến thời điên đảo loạn lạc như ta từng thấy trong lịch sử các nước trên thế giới. Kết cục Ngài cũng chỉ là một vị minh quân nổi tiếng, gương mẫu của một đất nước, rồi… chấm hết. Mọi sự rồi đâu lại vào đấy, vẫn y như cũ, nhân loại chẳng có gì thay đổi.
Sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ như vậy. Ngài muốn giải phóng con người từ nền tảng, gốc rễ, chứ không chỉ ở ngọn. Nguồn gốc của mọi đau khổ nơi con người là tội lỗi, tính ích kỷ, thiếu tình thương. Và nguồn gốc của tội lỗi, tính ích kỷ, thiếu tình thương là do không nhận biết Thiên Chúa là nguồn gốc của mình, cũng là nguồn hạnh phúc, nguồn sức mạnh, nguồn yêu thương vô tận của mình. Nếu không giải quyết đau khổ từ nguồn gốc đầu tiên của nó, mà chỉ giải quyết ở ngọn, nghĩa là chỉ triệt tiêu những nguyên nhân trước mắt gây ra những đau khổ cụ thể, thì đau khổ chỉ tạm thời vắng bóng rồi sẽ trở lại ngay. Như thế có khác gì để giải quyết nạn đói, ta cho dân chúng một vài tấn gạo, ăn hết số gạo đó là nạn đói lại tiếp tục. Trong các quốc gia, có biết bao vị anh hùng đã giải phóng dân tộc mình khỏi ách thống trị của bạo chúa, đem lại thanh bình no ấm. Nhưng tất cả đều chỉ được một thời gian rồi các dân tộc lại bị chiến tranh, bị lầm than rên xiết dưới ách thống trị của những ông vua, những tên quan tham tàn khác.
3. Sứ mạng của Đức Giêsu là giải phóng tâm linh
Do đó, Đức Giêsu đến để giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, là nguyên nhân của đau khổ. Đồng thời giới thiệu cho con người biết Thiên Chúa, để con người khi thật sự kết hợp với Ngài, sẽ cảm nghiệm được nguồn sức mạnh, bình an và hạnh phúc đích thực ngay trong bản thân mình. Đó chính là sự sống đời đời có thể khởi sự ngay ở trần gian và sẽ triển nở viên mãn trong đời sống mai hậu: «Sự sống đời đời chính là con người nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô» (Ga 17,3). Với nguồn sức mạnh, bình an và hạnh phúc này, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, con người vẫn có thể bình an, hạnh phúc và tràn đầy sức mạnh tinh thần. Thứ bình an và hạnh phúc này là thứ không bị lệ thuộc vào ngoại cảnh, mà Đức Giêsu đã từng nói đến: «Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian» (Ga 14,27). Sự bình an và hạnh phúc ấy «không ai lấy mất được» (Ga 16,22). Có được thứ bình an và hạnh phúc này thì dù có phải sống trong tù ngục, con người vẫn có thể hạnh phúc. Không có sự bình an và hạnh phúc này thì dù có được tự do hay được đủ mọi thuận lợi bên ngoài, con người vẫn không thật sự hạnh phúc. Vì họ đang bị ràng buộc và bị nô lệ hóa bởi chính bản thân họ, bởi tội lỗi, bởi bản năng và những tham vọng ích kỷ của họ.
4. Giải phóng tâm linh là giải phóng khỏi «cái tôi» ích kỷ
Mục đích của Đức Giêsu khi đến trần gian là giải phóng con người khỏi tội lỗi để con người được hạnh phúc thật sự. Bản chất của tội lỗi chính là sự ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, chỉ lo tránh đau khổ cho bản thân và chỉ biết tìm hạnh phúc cho bản thân mình. Nhất là sẵn sàng vì bản thân mình mà làm người khác đau khổ, thiệt thòi. Chính sự ích kỷ này là nguyên nhân gây nên đau khổ cho bản thân và tha nhân. Đó là phong cách sống của «con người cũ», con người sống theo xác thịt. Để có hạnh phúc đích thực, con người cần được giải phóng khỏi «cái tôi» ích kỷ ấy.
Sự giải phóng này đòi hỏi «cái tôi» ích kỷ ấy hay «con người cũ» phải chết đi, phải lột xác. «Con người cũ» có chết đi, thì nó mới có thể sống lại để thành «con người mới». Chết đi chính là sẵn sàng chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi, bị hạ bệ, nhưng đó là cái giá không có không được mà ta phải trả để có thể bước vào hạnh phúc và vinh quang đích thực. Chính Đức Giêsu cũng đã phải trải qua quá trình ấy, như Ngài đã giải thích cho hai môn đệ ở Emmau: «Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?» (Ga 24,26). Lẽ nào ta lại muốn đi một con đường khác với Ngài?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, được giải phóng để được sống trong một chế độ tự do, dân chủ là nhu cầu cấp thiết và là điều mong ước của mọi người dân đang bị mất tự do và bị đàn áp. Nhưng còn một nhu cầu cần thiết và đáng mong ước hơn, đó là được giải phóng về mặt tâm linh. Nghĩa là được giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi, của sự ác, của tính ích kỷ, và của chính bản thân mình. Chỉ khi tâm linh của mọi người được giải phóng, thì nền tự do và dân chủ của họ mới được bảo đảm và vững bền. Xin Cha hãy giải phóng con khỏi con người ích kỷ của con, để tâm con bao trùm được cả những người chung quanh con, để con có thể coi họ như chính bản thân con.
Phụng vụ Lời Chúa mời ta đi tìm cho biết Chúa Giê-su là Đấng nào khi Người lên đường thi hành sứ mệnh cứu thế, nhất là trước khi Người chịu cuộc Thương khó và chết trên thập giá. Giờ đây cuộc tìm kiếm ấy vẫn tiếp tục qua suy niệm những lần Chúa hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Những biến cố ở mỗi giai đoạn cuộc sống của Chúa Giê-su đều giúp ta nhận ra những đường nét khác nhau của con người và sứ mệnh của Chúa. Với câu truyện Tin Mừng hôm nay kể lại Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, cách thức tốt nhất giúp ta nhận ra Chúa Giê-su Phục Sinh là lắng nghe Lời Chúa và tham dự tiệc Thánh Thể. Người dạy ta chân lý đời sống của Người và mời gọi ta kết hiệp với sự sống ấy.
a) Chân lý Chúa Ki-tô: từ khổ hình đến vinh quang
Trước tin mừng Phục Sinh, hai môn đệ trên đường Em-mau không muốn chấp nhận điều họ đã nghe và đã hy vọng. Một đàng họ vẫn tôn kính Chúa Giê-su, nhận biết Người là “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” và họ “vẫn hy vọng Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en.” Nhưng đàng khác, họ lại đang sống trong tình trạng bối rối và nghi ngờ. Chắc chắn họ đã nghe và biết những lời ngôn sứ trong Kinh Thánh nói về Đấng sống lại từ kẻ chết, nhưng họ không thể tin được Đấng ấy lại là chính Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su vẫn kiên nhẫn với họ như Người đã chịu đựng sự cố chấp của họ khi Người còn sống bên cạnh họ. Người chỉ nhẹ nhàng trách họ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ.” Người muốn không chỉ soi sáng tâm trí họ thôi, mà còn muốn thắp ngọn lửa bừng lên trong trái tim họ nữa, nhờ vậy lòng tin và lòng mến của họ sẽ được củng cố thêm. Do đó, Người sử dụng phương thức giải thích Kinh Thánh để giúp họ nắm bắt được chân lý rất quan trọng của mầu nhiệm Ki-tô: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người.”
Chân lý này đã được Thiên Chúa Cha sắp đặt như một kế hoạch nhiệm mầu để tỏ cho nhân loại biết tình yêu vô điều kiện của Người. Người thực hiện kế hoạch ấy nhờ Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô và tiếp nối việc thể hiện nhờ Chúa Thánh Thần. Nhưng trước khi thực hiện, Người đã mặc khải kế hoạch qua Lề Luật và các ngôn sứ. Mặc dù Thiên Chúa đã chuẩn bị để đáp lại kế hoạch yêu thương, nhưng nhân loại vẫn muốn vuột ra khỏi vòng tay nhân từ của Người. Họ không hiểu được hoặc đúng hơn không muốn hiểu đường lối của Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại phải chết cho nhân loại? Tại sao Người không thực hiện việc cứu rỗi theo cách thức của loài người, nghĩa là cứ sử dụng quyền năng của Người để xóa bỏ và làm lại từ đầu, hoặc sửa chữa mà không cần đến sự cộng tác của con người? Tại sao lại phải chọn con đường “từ khổ hình đến vinh quang”? Ta không biết Chúa Giê-su đã giải thích Kinh Thánh như thế nào cho hai môn đệ. Thánh Lu-ca viết: “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” Chắc chắn không phải là cách giải thích chuyên môn như các học giả Kinh Thánh đã làm. Nhưng là làm sao cho lòng các ông được bừng cháy lên. Như thế, Chúa Giê-su không nhắm đến trí óc để “hiểu” cho bằng đến “trái tim” của các ông. Hiểu Kinh Thánh không chỉ là công việc của đầu óc, nhưng là của trái tim. Kinh Thánh là phương tiện để người ta đi vào trái tim của Thiên Chúa, của Chúa Giê-su, để biết Thiên Chúa yêu thương họ và để biết họ phải đáp lại tình yêu đó. Như thế, khi lấy Kinh Thánh để giải thích thế nào là “từ khổ hình đến vinh quang”, Chúa Giê-su đã cho họ thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa qua những gì xảy ra cho Chúa Giê-su trong cuộc Thương khó vừa qua và đã được hoàn tất trong vinh quang Phục Sinh.
Đốt lên ngọn lửa tình yêu của mối quan hệ giữa họ với Người, Chúa Giê-su muốn họ sống mối quan hệ kết hiệp một cách cụ thể qua Bí tích Thánh Thể. Đó là lý do tại sao Người ở lại với họ, không phải chỉ một bữa ăn tối mà thôi, nhưng là mọi ngày cho đến tận thế qua Thánh Thể. b) Từ Bí tích Thánh Thể đến phục sinh
Nếu qua Kinh Thánh ta có thể tìm gặp sự hiện diện của Chúa Giê-su Phục Sinh, thì trong Bí tích Thánh Thể ta lại dễ cảm nghiệm hơn sự có mặt của Người. Sự hiện diện của Chúa Phục Sinh tuy là sự hiện diện đích thực, nghĩa là có thực chứ không phải là “ma” (Lc 24:39), vẫn thân xác ngày xưa nhưng đã được biến đổi vinh hiển nhờ quyền năng Thánh Thần. Hoặc nói cách đơn sơ hơn, sự hiện diện của Chúa Giê-su Phục Sinh là sự hiện diện có tính cách bí tích, có thực đấy nhưng qua một dấu chỉ hữu hình. Như thế, sự hiện diện của Chúa Giê-su Phục Sinh chính là sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.
Có lẽ thánh Lu-ca đã ngầm diễn tả sự hiện diện của Chúa Phục Sinh qua phản ứng của hai môn đệ Em-mau. Ngài viết: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (24:31). Họ mở mắt và nhận ra là nhờ một dấu chỉ hữu hình. Nhờ dấu chỉ ấy, họ biết và tin là chính Người có mặt, chứ không phải ai khác hoặc ma quái. Tuy “Người lại biến mất”, nhưng họ biết là Người vẫn ở với họ qua sự hiện diện bí tích.
Điều quan trọng thánh Lu-ca muốn trình bày ở đây có thể cũng giống như Tin Mừng Gio-an trình bày trong bài giảng của Chúa Giê-su về Bí tích Thánh Thể. Lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa là ta đang xây dựng cơ sở cho sự phục sinh của ta sau này, vì Chúa Giê-su Phục Sinh trong Bí tích Thánh Thể chính là nguyên lý sự sống lại của ta. Chúa Giê-su đã khẳng định điều này trong Tin Mừng Gio-an: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6:53-54). Lời của Chúa Giê-su rõ ràng, không ẩn ý, và là một khẳng định chắc chắn. Như thế ta có thể hiểu: cũng như đối với Chúa Giê-su con đường đưa đến vinh quang là con đường khổ hình, thì đối với ta con đường đưa đến sống lại là con đường Thánh Thể.
Đến đây, chúng ta có thể hiểu được sự liên kết giữa Phụng vụ Lời Chúa (Kinh Thánh) và Phụng vụ Thánh Thể, là môi trường để ta sống sự hiện diện của Chúa Giê-su Phục Sinh và sự hiện diện của chính ta nữa. Qua Thánh lễ, cùng với Chúa Giê-su, ta tiến bước mỗi ngày một gần hơn vinh quang Chúa Phục Sinh đã chuẩn bị cho ta.
Trong đoạn thư trước (Chúa Nhật II PS), thánh Phê-rô đã nói một cách đơn sơ nhưng sâu sắc về ý nghĩa của biến cố Phục Sinh và thái độ hân hoan vui mừng của Ki-tô hữu khi sống niềm tin vào Chúa Ki-tô sống lại.
Qua bài đọc hôm nay, ngài quay về phía chúng ta để suy tư về thân phận người Ki-tô hữu và nhắc nhở chúng ta sống sao cho xứng đáng thân phận ấy. Đó là thân phận nào?
a) "Nếu anh em gọi Người là Cha."
Trước khi nói đến thân phận chúng ta, thánh Phê-rô muốn nêu lên hình ảnh của Thiên Chúa, vì thân phận của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới cho nó một giá trị tùy theo "kế hoạch lượng hải hà của Người." "Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai." Người là Đấng công bằng đối với mọi người, không phân biệt người Do-thái hay người ngoại giáo. Tuy kiểu nói bắt nguồn từ Cựu Ước, nhưng lại nhấn mạnh đến tình yêu thương và ý muốn nhân lành muốn cứu chuộc mọi người không trừ ai. Hình ảnh Thiên Chúa là Cha là một chủ đề giảng dạy Chúa Giê-su ưa thích nhất, được Người lập đi lập lại nhiều lần, đặc biệt trong phần quảng diễn bài giảng trên núi (Mt 5-7) và cao điểm là kinh Lạy Cha. Bài học gọi Thiên Chúa là Cha tuy đã thuộc nằm lòng, nhưng sống như con cái của Cha thì tín hữu cần phải được nhắc nhở luôn luôn.
b) "Thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này."
Được kêu gọi làm con cái Cha trên trời, Ki-tô hữu sẽ chia sẻ gia tài của Thiên Chúa cùng với Đức Ki-tô. Đức Ki-tô đã đi trước và nêu gương sống thân phận làm con cho chúng ta bắt chước. Người đã kêu gọi chúng ta sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng Thánh (Mt 5:48). Sự thánh thiện của chúng ta cần phải được đưa vào chính lối sống của mình (1 Pr 1:15). Để giúp chúng ta cố gắng và tiếp tục nên thánh mỗi ngày một hơn, thánh Phê-rô đưa ra hai động lực: một lòng kính sợ Thiên Chúa là vị quan án không vị nể ai, và luôn luôn tâm niệm mình được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Chúa Ki-tô. Lòng kính sợ tuy có phần nào tiêu cực, nhưng nó cũng giúp chúng ta cố gắng đạt được mục đích. Động lực thứ hai giúp chúng ta có cái nhìn tích cực và mới mẻ về cuộc hy sinh chết trên thập giá của Đức Ki-tô. Sự chết ấy không phải là một giá cả đo lường bằng vàng bạc thế gian, nhưng là bằng tình yêu của Đấng "sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người mình yêu thương." Máu cứu chuộc của Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta tự do, tức là giải phóng chúng ta khỏi những đường lối tội lỗi và nêu gương cho chúng ta biết sống vâng phục Cha trên trời cũng như biết đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
c) Mầu nhiệm Phục Sinh cần được tiếp tục thể hiện trong đời Ki-tô hữu.
Cái não trạng thở phào nhẹ nhõm sau lễ Phục Sinh vẫn còn nơi nhiều trong chúng ta. Sau lễ Phục Sinh, người ta cảm thấy như đã "giữ luật" xong và lại bắt đầu lơ là đời sống thiêng liêng. Sự canh tân phụng vụ sau Công đồng Vatican II muốn nhấn mạnh đến việc liên tục mừng lễ Phục Sinh trong 50 ngày, nên gọi những Chúa Nhật tiếp theo lễ Phục Sinh là Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh, Chúa Nhật thứ ba Phục Sinh... thay vì Chúa Nhật thứ hai sau Phục Sinh, Chúa Nhật thứ ba sau Phục Sinh... như trước kia. Sự kéo dài ấy muốn nói lên tầm quan trọng của Mầu nhiệm Phục Sinh đối với Giáo Hội và Ki-tô hữu. Để giúp chúng ta sống Mầu nhiệm Phục Sinh, mỗi bài đọc đều nhắm giải thích cho chúng ta hiểu ý nghĩa Mầu nhiệm ấy theo một khía cạnh riêng biệt và nêu lên những bài học thực hành cho đời sống mới, đời sống của những người đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Đức Ki-tô và cùng sống lại với Người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi có thể nhìn lại tâm hồn mình để xem dư âm của lễ Phục Sinh còn mạnh mẽ hay đã phai nhòa sau vài tuần lễ?
Tôi có thường nghĩ tới sự hy sinh đổ máu của Chúa Giê-su đã giải phóng tôi khỏi đường lối tội lỗi và dạy tôi sống thánh thiện và vâng phục như Người không? Tôi có chiêm ngưỡng Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu đã chu toàn thân phận làm con đối với Chúa Cha và mời gọi tôi theo Người không?
Cùng một tư tưởng giống như Ep 5:1, trong câu 22, thánh Phê-rô nói đến "vâng phục sự thật", tức là sống theo sứ điệp mặc khải của Chúa qua Tân Ước. Tân Ước đã thay đổi con người tôi và giúp tôi sống yêu thương như con cái Thiên Chúa đến mức độ nào? Sống yêu thương có phải là mức độ để thẩm định sự thánh thiện của tôi không?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm hát một bài thích hợp hoặc cùng đọc sinh sau đây:
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ. Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở. Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều cùa người ki-tô hữu là cái liều chín chắn và có sơ sở. Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong. Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác. Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo. Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo. Sự Phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, Nhưng lại được tất cả.
Câu chuyện 2 môn đệ trên đường về Emmaus xem ra đã tô điểm thêm một cách nhìn bi quan về những người đã được Chúa kêu gọi và tuyển chọn: "Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra ... Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người". Những ngày tháng gần đây, dường như cách nhìn bi quan và ngờ vực ấy đang bao trùm dư luận khắp nơi, điều ấy được phản ảnh trong Lá Thư Thứ Năm Tuần Thánh 2002 của Đức Thánh Cha gửi hàng Linh Mục thế giới:
"Trong lúc này đây, là linh mục, mỗi người chúng ta cũng cảm thấy bị tác động sâu xa bởi những tội lỗi của một số trong anh em chúng ta đã bội phản lại với ơn Thánh Chức, khi dìm mình vào trong cả những hình thức trầm trọng nhất của mầu nhiệm tội lỗi 'mysterium iniquitatis' đang tung hoành trên thế giới. Việc xẩy ra gương xấu nặng nề đã gây ra hậu quả là một bóng tối đen ngờ vực phủ chụp lên tất cả những vị linh mục tốt lành khác, những vị thi hành thừa tác vụ của mình một cách chân thành và liêm chính, một cách thường xả kỷ anh hùng."
Thánh Phêrô có một câu trong đoạn thư của Người được trích dẫn trong Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một cách nhìn khác đối với mọi thực tại: Cách nhìn của một lữ khách đang trên hành trình dương thế: "Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô."Nếu phải liệt kê đầy đủ "những của chóng hư nát", chúng ta phải kể ra chính ngay cái thân phận xác thịt mỏng dòn của con người, dù họ là ai và đảm nhận chức vụ nào. Về điều này có thể áp dụng điều mà thánh Phêrô cũng đã áp dụng cho tổ phụ Đavid "người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta". Còn về Đức Kitô, thánh Tông Đồ Cả đã minh chứng "Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; ...đã nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống." Câu chuyện 2 môn đệ trên đường Emmaus đã xác nhận cách nhìn mới mẻ này là cách nhìn duy nhất giúp chúng ta đạt tới SỰ THẬT: khi "Mắt họ mở ra và họ nhận ra Người" thì "Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó". Và chính là trong Đức Giêsu mà thế giới u buồn này đã trở nên một thế giới hoàn toàn thu hút bước chân họ tiến bước trong hân hoan.
Có lẽ sự kiện 11/9 đang lùi vào quên lãng, và mọi người đang tập chú vào tổng giáo phận Boston và những vụ việc được lôi ra từ những chồng hồ sơ nhiều chục năm về trước ở khắp nơi: xem ra quá nhiều, thật nhiều. Chúng ta không tránh được sự hốt hoảng và sợ hãi.
Nhưng nếu nhìn vào Đức Giêsu, hiển nhiên chúng ta có thể khẳng định điều này là "Không phải chỉ có những con người ấy, những vụ việc ấy đã làm nên cái chết của Đức Kitô". Và nếu thành khẩn với chính mình, thì cả anh, cả chị, cả tôi nữa, chúng ta đều là "những sát thủ " trong vụ án này đấy. Thế nhưng về phần mình, Đức Kitô dường như không quan tâm đến việc tố cáo, phơi bày "thủ phạm", giống như 2 ông bạn đồng hành với Ngài đã làm trước đó "Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá", điều Người quan tâm chính là điều đã được Lời Ngôn Sứ loan báo "Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?". Chúng ta tự hỏi như thế nghĩa là gì ? Thánh Gioan có một kiểu nói để giải thích cho chúng ta, kiểu nói mà Thánh Sử đặt trên môi miệng của chính Đức Giêsu "Vì chúng, Con xin Hiến Thánh mình Con". Ôi, lạ lùng thay, huyền nhiệm thay lời giải thích của Tin Mừng. Lời giải thích xác đáng nhất về mọi thứ tội lỗi, lời giải thích chuyển tải một bản án nghiêm khắc, nhưng đồng thời cũng chuyển tải một sự tha thứ tận căn. Và thế giới mới đã được sinh ra là trong hành vi "Hiến Thánh" ấy. Hiểu như thế, thì quả thật Đức Tin của chúng ta không thể và không được là sự tín thác của ta vào bất cứ phàm nhân nào, dù đó là Giáo Hoàng, là Hồng Y, là Giám Mục, là linh mục... bởi vì tất cả những con người ấy đều chỉ được Hiến Thánh nếu họ trung tín liên kết đời mình trong Sự Hiến Thánh của duy một mình Đức Kitô, cũng như bất kể một kitô hữu bình thường nào khác.
Nếu có điều gì cần phải ưu tư trong những biến cố đau buồn này, thì theo Cha Roger Landry, linh mục tại giáo xứ Espirito Santo, ở Fall River, bang Massachusetts trong bài giảng Chúa Nhật thứ V mùa chay vừa qua thì đó là "Mỗi khủng hoảng mà Giáo Hội phải đối diện, mỗi khủng hoảng mà thế giới này phải đương đầu đều là sự khủng hoảng các thánh." Giáo Hội hôm nay cần có nhiều vị thánh cho thời đại mình. Thực ra thời đại hôm nay không thiếu những khuôn mặt thánh: Đức Thánh Cha trong những chục năm qua đã tôn phong bao nhiêu thánh nhân trong đó có cả Vợ Chồng Thánh. Nhưng như Cha Roger Landry cũng đã cảnh giác rằng "Các phương tiện truyền thông hầu như chẳng bao giờ chú ý đến "Nhóm 11" thánh thiện, những vị đã được Đức Giêsu lựa chọn và giữ lòng trung tín với Ngài, những vị sống một sự thánh thiện lặng lẽ." Chính Đức Thánh Cha đã mời gọi Giáo Hội hãy quan tâm làm sáng tỏ và tôn vinh những chứng nhân đức tin. Những con người âm thầm nhưng hết sức can đảm đã muốn chỉ tín thác đời mình trong "Sự Hiến Thánh" của Đức Giêsu Kitô.
* Bài đọc 1: Cv 2,14.22-23: Phê-rô giảng cho dân chúng
(14) Bấy giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: "Thưa anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này và lắng nghe những lời nói đây: (22) Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. (23) Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi."
* Bài đọc 2: 1 Pr 1,17-21: Sự thánh thiện của người tân tòng.
(17) Thiên Chúa không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc của mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ hành này. (18) Anh em hãy biết rằng..(19) anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ vết là Đức Ki-tô. (21) Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dạy từ cõi chết và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.
* Bài Tin Mừng: Lc 24,13-35: Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau
(13) Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những việc mới xảy ra. (15) Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
(18) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-phát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." (19) Đức Giê-su hỏi: "Chuyện gì vậy?" Họ thưa: "Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập gía. (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy."
(25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! (26) Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (27) Rồi bắt đầu từ từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
(28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?"
(33) Ngay lúc ấy, họ đứng dạy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. (34) Những người này bảo hai ông: "Chúa trỗi dạy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn." (35) Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
1.Tại sao các môn đệ Đức Giê-su gặp nhiều khó khăn trong việc tin vào việc Người đã phục sinh?
2. Đem Lời Chúa vào cuộc sống, chúng ta có những ứng dụng nào?
* Suy tư gợi ý
1. Các môn đệ Đức Giê-su gặp nhiều khó khăn trong việc tin vào việc Người đã phục sinh:
Đọc các bài Phúc Âm liên quan tới việc Đức Giê-su phục sinh, chúng ta thấy rất rõ là các môn đệ của Người gặp rất nhiều khó khăn trong việc tin rằng Người đã sống lại sau khi chết trên thập giá và được mai táng trong mồ. Có nhiều lý do giải thích nỗi khó khăn lớn lao ấy của các ngài:
(1) Việc một con người sống lại sau khi đã chết là một sự kiện hiếm có trong đời. Có lẽ vì thế mà trong khi thi hành sứ mạng rao giảng và thiết lập Nước Thiên Chúa trong dân Ít-ra-en, Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ làm cho kẻ chết sống lại, để chuẩn bị tâm hồn các môn đệ. Hai câu chuyện nổi bật và cảm động nhất là của anh chàng thành niên con bà góa thành Na-im và của La-gia-rô làng Bê-ta-ni-a. Với phép lạ làm cho kẻ chết sống lại, Đức Giê-su xác định Người là Sự Sống và Sự Sống Lại tức là Nguồn Sống và Quyền Năng Phục Sinh.
(2) Các môn đệ cũng như người Do Thái hiểu sai một cách trầm trọng về tính chất và cách thức thi hành sứ vụ Mê-si-a của Đức Giê-su. Khám phá ra và tin rằng Đức Giê-su là một vị ngôn sứ, là Đấng Mê-si-a mà Thánh Kinh đã loan báo thì các môn đệ không gặp mấy khó khăn. Nhưng để hiểu chính xác tính chất Mê-si-a và đồng tình với cách Đức Giê-su thực hiện sứ vụ ấy thì họ không sao vượt qua được não trạng và tâm thức của người thời bấy giờ. Theo họ thì công việc quan trọng nhất mà Đấng Mê-si-a phải thực hiện -nhân danh Thiên Chúa- là lập lại trật tự xã hội, chính trị của Nước Ít-ra-en. Mà Nước Ít-ra-en đang mất chủ quyền, vì đang bị người Ro-ma là lũ quân ngoại giáo tàn bạo thống trị. Thế nên người Do Thái và cả 12 Tông đồ âm thầm chờ đợi Đức Giê-su thực hiện một cuộc đảo chánh chính trị lật đổ ngoại xâm, dành độc lập cho Dân riêng của Gia-vê Thiên Chúa. Đàng này Đức Giê-su cứ quanh quẩn với những hạng cùng đinh của xã hội, chữa trị bệnh hoạn tật nguyền cho họ..thì các lãnh đạo Do Thái và Nhóm 12 sốt ruột. Thậm chí họ còn tìm cách đẩy Đức Giê-su vào thế phải "ra tay". Và khi thấy Người bị giết thì họ thất vọng. Đó chính là tâm trạng của hai môn đệ Em-mau. Nói cách vắn gọn: Người Do Thái, kể cả các môn đệ, hiểu vai trò của Đấng Mê-si-a theo nghĩa chính trị trong khi Đức Giê-su hiểu theo nghĩa tôn giáo và tâm linh: một đàng là Đấng Mê-si-a vinh quang một đàng là Đấng Mê-si-a đau khổ.
2.. Đem Lời Chúa vào cuộc sống, chúng ta có những ứng dụng sau đây:
(1) Đức Giê-su không chỉ là Đấng thực hiện Lời Thánh Kinh mà còn là Đấng giải thích, cắt nghĩa Lời Thánh Kinh:
Sự mê muội và cứng lòng của hai môn đệ Em-mau cũng như của các môn đệ khác chỉ được khai sáng và thay đổi khi họ nghe được chính Đức Giê-su giảng giải ngọn nguồn Thánh Kinh. Đức Giê-su không chỉ là Đấng thực hiện mà Người còn là Đấng giải thích, làm cho hiểu những bí ẩn thâm sâu của Thánh Kinh. Vì thế muốn hiểu Lời Chúa trong Thánh Kinh và trong cuộc đời, chúng ta phải biết nhờ đến Người.
(2) Đức Giê-su chỉ tỏ mình ra cho chúng ta khi chúng ta mời Người ở lại và ngồi bàn với chúng ta:
Hai môn đệ Em-mau chỉ nhận ra Đức Giê-su khi họ mời Người ở lại dùng bữa tối với họ và khi Người bẻ bánh với những lời nguyện và cử chỉ của riêng Người thì mắt họ mở ra. Nếu chúng ta muốn nhận ra Chúa Giê-su Phục Sinh và muốn gặp được Người thì chúng ta phải xác tín rằng Người luôn hiện diện ở bên cạnh và trong cuộc đời chúng ta, Người luôn đồng hành với chúng ta. Chỉ cần chúng ta tạo điều kiện cho Người xuất hiện, bằng một lời mời, một lời cầu xin chân thành và tin tưởng.
(3) Chúng ta chỉ có thể giúp người khác nhận ra Chúa Giê-su Phục Sinh và gặp được Người khi chúng ta có những lời nói và hành động như Người và của Người:
Nếu chúng ta muốn giúp người khác nhận ra Chúa Phục Sinh và gặp gỡ được Người thì chúng ta phải có những thái độ, cử chỉ, lời nói có tính khai sáng và giải phóng như Người. Không hẳn là những lời khuyên bảo xáo rỗng mà chúng ta thường "ban phát" một cách dễ dàng, nhưng là một sự quan tâm thực sự và hiện diện tích cực, là một sự chia sẻ, hiến dâng (mà cử chỉ bẻ bánh là biểu tượng) và là đời sống cầu nguyện gắn bó chặt chẽ với Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Phục Sinh,
Xin Chúa giúp chúng con biết yêu mến Thánh Kinh và ham học hỏi tìm hiểu Thánh Kinh để rút ra những ứng dụng thực hành trong cuộc sống!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Phục Sinh,
Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra Chúa trong cuộc sống của chúng con và biết giúp người khác nhận ra Chúa trong cuộc đời của họ! Amen!
Cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế tại Pháp thời hậu Thế Chiến thứ hai đã mời gọi Linh Mục Pierre dấn thân hết mình cho những người nghèo nhất và bị bỏ rơi, những người nghèo phải đi lượm rác để sống sót. Lúc đó cha lên tiếng trên đài phát thanh Luxembourg kêu gọi: "Quá nhiều sự nghèo đói cho những người này, và quá dư thừa sự giàu sang cho những kẻ khác ! Ðiều khẩn thiết cần làm ngay là Chia Sẻ !"
"Linh Mục Pierre" có tên thật là Henri Grouès, sinh tại Lyon, bên Pháp, vào năm 1912, trong một gia đình khá giả. Năm lên 18 tuổi, Henri Grouès, tức "Linh Mục Pierre" sau này, đã quyết định từ bỏ tất cả phần gia tài, để tận hiến hoàn toàn cho Chúa, trong đời tu dòng, theo tinh thần tu đức của Thánh Phanxicô Khó Khăn, tức Dòng Capuccin. Nhưng vì lý do sức khoẻ, Henri Grouès phải rời bỏ Tu Viện sáu năm sau đó. Tuy nhiên Henri Grouès không từ bỏ lý tưởng tận hiến để phục vụ; anh gia nhập hàng Giáo Sĩ Giáo Phận Grenoble, và được thụ phong Linh Mục năm 1938, lúc 26 tuổi.
Thế Chiến thứ hai bùng nổ, cha Henri Grouès, bị động viên quân dịch, trong cấp bậc hạ sĩ quan quân đội Pháp, chống xâm lăng Ðức. Năm 1942, cha hoạt động trong hàng ngũ lực lượng kháng chiến Pháp chống quân đội Ðức Quốc Xã. Trong khoảng thời gian từ năm 1941 cho đến năm 1943, cha đã giúp cho nhiều người Do Thái vượt biên giới trốn sang Thuỵ Sĩ. Và cũng trong thời gian này mà cha lấy biệt hiệu là "Abbé Pierre." Năm 1944, cha bị quân đội Ðức bắt giữ, nhưng sau đó cha trốn thoát sang Algérie, qua ngã Tây Ban Nha.
Năm 1949, tại vùng ngoại ô phía đông thành phố Paris, cha Henri Grouès thành lập Cộng Ðoàn Emmau đầu tiên, để giúp cho những anh chị em nghèo cùng nhất, không nhà không cửa, phải đi lượm rác thành phố để sống qua ngày. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Pháp thời hậu chiến vào năm 1954, làm cho hàng ngàn gia đình sống ngoài đường phố, đã khổ nay lại khổ thêm nữa. Nhiều người lớn và trẻ nhỏ phải chết vì lạnh. Linh Mục Henri Grouès, với biệt hiệu là "Abbé Pierre", đã dùng các làn sóng phát thanh để thức tỉnh lương tâm con người và kêu gọi toàn dân Pháp lúc đó hăy thực hiện cuộc "Phục Sinh của Lòng Tốt." Tiếng kêu của cha vang xa, ra ngoài ranh giới Pháp. Những cộng đoàn Emmau khác được thành lập tại Genève, Thụy Sĩ, vào năm 1957. Và hiện nay, tại Thụy Sĩ đã có sáu "Cộng Ðoàn Emmau" ( Ðặng Thế Dũng, Radio Veritas ).
Cộng đoàn Emmau phần nào phản ảnh tình yêu của Đức Giêsu Phục Sinh. Hôm nay Tin Mừng thuật lại hai vị Tông Đồ trên đường Emmau tình cờ gặp một Lữ Khách không tên, đi cùng suốt 11 cây số từ Giêrusalem. Qua trò chuyện, trao đổi, nhị vị biến đổi tâm trạng từ đau buồn sang hân hoan, phấn khởi và hy vọng.
Đồng hành
Lữ Khách không tên chẳng hề hỏi quý danh hai vị Tông Đồ, cũng chẳng hề tự giới thiệu mình là ai, mà mặc nhiên thoải mái y như bạn bè cố tri, thân thiết lâu năm. Lữ Khách không tên còn tỏ ra gần gũi, xởi lởi, cởi mở, lôi cuốn, thuyết phục và gắn bó đồng hành.
“Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau chuyện gì vậy ?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu“ ( Lc 24, 15 – 17 ).
Trên nẻo đường đời, Đức Giêsu luôn nhập vai một Lữ Khách thân thiết nào đó, đồng hành với mỗi người trong từng giây phút cuộc đời. Nhưng con mắt Đức Tin vẫn thường bị ngăn cản, không nhận ra Người, vì cái tôi vị kỷ, kiêu căng, tự phụ, hẹp hòi đố kỵ, tham lam, vô cảm che khuất, dửng dưng với tha nhân, vì cái bả danh lợi che chắn tầm nhìn.
Làm sao nhận ra Người đang hiện diện qua người khác ? Qua những người thân thương lẫn xa lạ ? Qua những thân phận đau khổ, tật nguyền, bệnh tật, khó nghèo, bị khinh bỉ, chà đạp, bị đàn áp, bị tù đày, bị bỏ rơi ?
Lữ Khách không tên đồng hành còn sưởi ấm tâm hồn hai vị Tông Đồ đang giá lạnh buồn sầu, lo âu và thất vọng, đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng sáng ngời, rạng rỡ, nóng bỏng, qua Lời Chúa.“Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” ( Lc 24, 32 ).
Từ Lời Chúa, Lữ Khách không tên khéo léo dẫn dắt họ vào bàn Tiệc Thánh Thể cao quý, sang trọng, khiến “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”: Đức Giêsu Phục Sinh ! Chính nhờ lời tha thiết khẩn cầu đã níu chân lữ khách, Đức Giêsu thân mật ở lại. Người vô cùng nhân từ, yêu thương với ai hằng ao ước hạnh ngộ với Người.
Bây giờ, Người vẫn còn tiếp tục đồng hành, hướng dẫn, chỉ dạy từng Kitô hữu trên nẻo đường hy vọng qua Lời Chúa khôn ngoan, thánh thiện và qua nhiệm mầu Thánh Thể, suối nguồn Tình Yêu.
Chí nhân, chí ái
Vì quá sức nhân từ, độ lượng, khiêm ái, Đức Giêsu đã không hề khiển trách nhị vị Tông Đồ, bỏ về quê nhà, thiếu niềm tin cậy mến vào Người, chẳng nỡ xúc phạm hay hạch hỏi, nên mới nhập vai Lữ Khách không tên gợi chuyện làm quen. Người làm bộ ngạc nhiên chẳng biết chuyện chi vừa xảy ra ở Giêrusalem. Nhân câu trả lời của Tông Đồ Clêophas, Người mới nhẫn nại, ôn tồn giảng dạy: “Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người.” Người lý giải cặn kẽ lịch sử cứu độ của Đức Giêsu, tiệm tiến từng thời kỳ các Ngôn Sứ. Thế rồi, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa, xem nhị vị môn đệ có tha thiết, mong muốn Người ở lại chăng.
Hai môn đệ liền thiết tha khẩn khỏa xin Người ngụ lại: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn" ( Lc 24, 29 ).
Không phải Người làm bộ, giả vờ để tỏ ra kênh kiệu cao giá, hay vờ vịt như thói đời gian trá, ma mãnh, thủ đoạn, mà chính vì người chí nhân, chí ái, chỉ biết yêu thương và tha thứ, chậm bất bình và rất khoan dung, không muốn o ép, áp lực với bất cứ ai nhìn nhận hay đón tiếp Người. Luôn tôn trọng quyền tự do cá nhân, quyền quyết định, lẫn tính cảm, tâm tư, nguyện vọng từng người. Người cũng không bao giờ trách móc lỗi lầm đã qua, chắng nhắc đến sự bội phản, yếu đuối, vấp phạm của các môn đệ, đã bỏ rơi Thầy chịu nạn oan ức.
Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa ! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên Chúa. ( Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, Tại sao tôi chọn Chúa ? ).
Sự hiện diện âu yếm và phấn khởi của bạn thân, sự hiện hiện dịu hiền và thắm thiết của người mẹ, sự hiện diện đầy tín nhiệm và tri ân của khách quý. Tất cả tình yêu, tất cả dịu dàng, tất cả vinh dự ấy sánh với sự hiện diện Chúa bên con, còn xa vời hơn trời xa đất muôn ngàn lần ( Đường Hy Vọng, số 236 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với chúng con, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn. Xin đốt cháy lòng mến chúng con bằng Lời Chúa. Xin đổi mới và tái sinh chúng con bằng Thánh Thể Người.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia mẹ đồng hành cùng Đức Giêsu suốt 33 năm trần thế, nay xin Mẹ đồng hành cùng chúng con trong suốt cuộc đời, để chúng con mãi nhận được hồng ân cứu độ của Chúa. Amen.
Ít ai biết đến "một làng tên là Emmau, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm" ( Lc 24, 13 ), nếu không có một Người Bộ Hành cùng đi với hai Môn Đệ thì ngôi làng Emmau ấy đã bị lãng quên từ lầu rồi. Theo hai ông thì đây là khách hành hương duy nhất "không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay" ( Lc 24, 18 ).
Chúng ta không biết tên của một trong hai môn đệ, chỉ biết một người tên là Clêophas, còn người kia thì không, có thể là mỗi người trong chúng ta, vào những giờ đen tối nhất của nghi ngờ, buồn thảm, mệt mỏi và chán nản, cuộc sống dường như thất bại, không thay đổi được quá trình của các sự kiện. Chúng ta không tiến bước, mà lại quay về với thực tại của quá khứ, trở thành gánh quá nặng, hoặc một mớ rối bòng bong, trốn chạy bằng con đường Emmau. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trong đời sống chúng ta.
Hai môn đệ trên đường Emmau đã gắn bó với Đức Giêsu thành Nagiarét "với hy vọng Người sẽ cứu Israel" ( Lc 24, 21 ). Rõ ràng, hai ông đã không "nghe" những lời cảnh báo lặp đi lặp lại của Thầy dành cho tất cả những ai muốn theo Người: "Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta" ( Lc 14, 27 ).
Trong sự hào hứng của mình, họ đã "không ngồi mà trù liệu phí tổn, xem có đủ vốn đến lúc hoàn thành hay không ?" ( Lc 14 , 28 ). Họ đã đặt nền móng, nhưng khi có thử thách về cuộc Khổ Nạn, họ bỏ dở: làm thế nào họ có thể tiếp tục mà không có một kế hoạch và không có người đứng đầu, tức là thợ cả ? Bằng chứng lời Chúa chứng minh rằng họ thiếu cái gì đấy để tiếp tục và đi đến cùng việc xây dựng Nước Trời ở giữa họ.
Vì đã tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của họ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy ?" ( Lc 24, 17 ). Nghe hỏi thế, họ đã bộc bạch về sự đau khổ, thất vọng, đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, Đức Tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngúm. Chúa nói chuyện với hai ông và "giải thích" Kinh Thánh. Chúa chủ động trình bày cho họ, "bắt đầu từ Môsê và các tiên tri", mà tất cả Sách Thánh đều hướng về mầu nhiệm Con Người ( x. Lc 24, 27 ), làm cho tâm hồn họ “bừng cháy”. Chúa đã đem lại một tia sáng khơi lên niềm hy vọng, đưa họ ra khỏi bóng tối của phiền muộn và thất vọng, đánh thức nơi họ lòng khao khát muốn được ở gần Người, khiến họ nài ép: "Mời ông ở lại với chúng tôi", với lý do "vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn " ( Lc 24, 29 ).
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" ( Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi "bẻ bánh" đơn giản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ "trỗi dậy trở về Giêrusalem" ( Lc 24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho "mười một Tông Đồ và các bạn khác đang tụ họp" ( Lc 24, 33 ).
Hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmau có thể hình ảnh của mỗi gia đình chúng ta trong năm Phúc Âm Hóa Gia Đình này. Giữa biết bao vấn đề và khó khăn, ngay cả những thất vọng nặng nề, Người Bộ Hành Thần Linh vẫn tiếp tục đồng hành bên cạnh chúng ta, mở ra cho chúng ta những trang Kinh Thánh và hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta hãy van nài: "Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con..."
Chúa luôn ở với chúng ta, hãy năng đến gặp Người nơi Bí Tích Thánh Thể và lắng nghe Lời Chúa. Chính Ðấng Cứu Thế đã bảo đảm cho chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Người ở giữa chúng ta, ngang qua Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể. Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu ( x. Lc 24, 35 ).
Chúng ta cũng vậy, bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh Lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.
Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta: "Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến" ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Niềm vui ấy phải lây sang người khác làm cho Giáo Hội tăng trưởng. Giáo Hội lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Cùng với Mẹ Maria trong Tháng Hoa này, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
Có hai chàng thanh niên là anh em ruột với nhau, nhưng sống rất khô khan nguội lạnh. Vào một buổi sáng, hai cậu lái xe xuống một dốc núi giữa lúc trời mưa tầm tã. Bỗng hai cậu gặp một cụ già, người ướt sũng đang khập khiễng bước đi. Hai cậu bèn dừng xe mời cụ lên. Thì ra ông cụ đang trên đường đi dự lễ tại một nhà thờ cách đó chừng 5 cây số. Vì trời còn mưa, nên hai cậu quyết định chờ để chở cụ về nhà. Một phần vì tò mò, hai cậu đã bước vào trong nhà thờ, thay vì ngồi ở ngoài xe. Và rồi một sự biến đổi đã xảy ra. Hai cậu quyết định làm lại cuộc đời và trở nên những con người đạo đức sốt sắng. Cụ già đã nói với hai cậu không phải bằng lời nhưng bằng một hành vi gương mẫu. Nhìn thấy cụ đi lễ trong buổi sáng mưa bão, tâm hồn các cậu đã bừng cháy lên. Và rồi trong lúc bẻ bánh nơi nhà thờ, hai cậu đã khám phá ra Chúa Giêsu mà hai cậu đã đánh mất.
Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng vừa nghe. Hai môn đệ trên đường Emmaus, đã từng có một thời bước theo Chúa. Các ông tin rằng Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến để thiết lập vương quốc. Thế nhưng, những giờ phút bão táp đã xảy đến. Mọi hy vọng, mọi mơ ước đã tan theo mây khói. Sau cái chết trên thập giá vào chiều ngày thứ Sáu tuần thánh, các ông đã bỏ mặc Ngài nơi nấm mồ cô quạnh và trở về với nếp sống trước kia. Chính trong bối cảnh này, các ông đã gặp người khách lạ trên đường đi Emmau. Các ông lắng nghe vị khách ấy, chăm chú nhìn vị khách ấy bẻ bánh và rồi một điều gì đó đã xảy ra khiến các ông xúc động: Vị khách ấy chính là Chúa Giêsu đang sống động trước mặt các ông.
Câu chuyện hai môn đệ đi Emmaus và câu chuyện hai chàng thanh niên trong buổi sáng đầy mưa bão phải chăng cũng là câu chuyện của mỗi người chúng ta, bởi vì trong cuộc sống, chúng ta cũng đã từng gặp phải những giờ phút bão táp, khủng hoảng về đức tin. Thế rồi một ngày nào đó, chúng ta đã gặp được một người, có thể là một vĩ khách lạ, nhưng qua người này, chúng ta tìm lại được Chúa giữa lòng Giáo Hội trong nghi thức bẻ bánh. Để kết luận, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa hãy cùng đi với chúng con trên vạn nẻo đường đời, như xưa Chúa đã cùng đi với hai môn đệ trên đường Emmaus, nhờ đó đức tin của chúng con sẽ được nâng đỡ và bản thân chúng con sẽ trở thành chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa.
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thành văn, và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.
Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của tc. Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử, chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy, nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng của chứng từ.
1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái hiểu biết” Chúa Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa.
Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng, sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:
“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu tham khảo Công giáo” số ngày 19/12/1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta sống.
Phúc Âm hôm nay nói cho chúng ta một về một biến cố rất nổi tiếng, đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường Emmau. Luca viết trong năm 80 cho cộng đoàn người Hy Lạp mà phần lớn họ được hình thành từ những người cải đạo. Những năm 60 và 70 là giai đoạn khó khăn nhất. Đã có những cuộc bắt bớ lớn của Vua Nê-rô vào năm 64. Sáu năm sau, vào năm 70, Giêrusalem bị phá huỷ hoàn toàn bởi người La Mã. Trong năm 72, ở Masada, trong sa mạc Giuđa, đã có vụ thảm sát những người Do Thái nổi loạn cuối cùng. Vào những năm đó, các Tông Đồ, những chứng nhân của sự Phục Sinh, biến mất dần dần. Người dân bắt đầu cảm thấy rã rời trên hành trình. Từ đâu mà họ có thể rút ra lòng dũng cảm như thế để không bị nhát đảm? Làm sao để khám phá sự hiện diện của Chúa Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn như này? Câu chuyện về sự xuất hiện của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường Emmau cố gắng đưa ra một câu trả lời cho tất cả câu hỏi nhức nhối này. Luca muốn dạy cho cộng đoàn cách giải nghĩa Kinh Thánh để có thể tái khám phá sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống.
Lc 24, 13-24. Bước 1: thoát ra khỏi thực tại. Chúa Giêsu gặp hai người bạn trong tình trạng sợ hãi và kém đức tin. Sức mạnh của sự chết, thập giá, đã giết chết niềm hy vọng trong họ. Đây là tình trạng của nhiều người ở thời của Luca, và cũng là tình trạng của nhiều người ngày nay. Chúa Giêsu tiến đến gần họ và đi cùng đi với họ; Ngài lắng nghe trao đổi của họ và hỏi: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Hệ tư tưởng thống trị, đó là, sự tuyên truyền của chính quyền và tôn giáo chính thức thời đó, đã ngăn họ nhìn thấy. "Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu chuộc Israen". Đâu là những cuộc trò chuyện của những người đau khổ ngày nay?
Bước đầu tiên là bước này: tiến gần đến họ, lắng nghe thực tại của họ, cảm nhận vấn đề của họ: có khả năng đặt những câu hỏi giúp cho những người này nhìn thực tại với cái nhìn hiểu biết hơn.
Lc 24, 25-27. Bước 2: sử dụng Thánh Kinh để thắp sáng cuộc sống. Chúa Giêsu dùng Thánh Kinh và lịch sử loài người để thắp sáng lên vấn đề mà khiến cho hai người bạn này sầu khổ, và công bố tình trạng mà họ đang sống. Ngài cũng sử dụng nó để đặt họ vào toàn thể công trình của Thiên Chúa đến từ Mô-sê và các ngôn sứ. Vì thế, Ngài chỉ ra rằng lịch sử không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng Thánh Kinh không phải như một vị bác sĩ biết mọi sự, nhưng như một người bạn đồng hành đến để giúp những người bạn và gợi nhớ họ những điều họ đã lãng quên. Chúa Giêsu không đặt ra cho các môn đệ sự phức tạp của sự ngu tối, nhưng cố để thức tỉnh lòng trí của họ: "Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?"
Đấy là bước thứ hai: Bằng Thánh Kinh, giúp người ta khám phá ra sự khôn ngoan sẵn có trong họ, và biến đổi thập giá, từ một dấu hiệu của sự chết, thành một dấu hiện của sự sống và của hy vọng. Điều đã ngăn cản họ tiến bước, thì nay trở thành động lực và ánh sáng trên hành trình. Làm cách nào chúng ta có thể thực hiện điều này ngày nay?
Lc 24, 28-32. Bước 3: chia sẻ trong cộng đoàn. Thánh Kinh, tự thân, không làm mở đôi mắt. Nó chỉ làm cho trái tim họ bị thiêu đốt, điều khiến cho đôi mắt mở ra và làm cho nó thấy được, là sự bẻ bánh, hành động chia sẻ trong cộng đoàn, và việc cử hành Bữa Tiệc Ly. Trong khoảnh khắc đó cả hai nhận ra Chúa Giêsu, họ được tái sinh và Chúa Giêsu biến mất. Chúa Giêsu không chiếm hữu con đường của các bạn Ngài. Ngài không phải là người gia trưởng. Trỗi dậy, các môn đệ có thể tự thân bước đi một mình.
Bước ba là: để biết làm cách nào tạo ra một môi trường huynh đệ trong đức tin, của việc cử hành và chia sẻ, nơi mà Chúa Thánh Thần có thể hoạt động. Chính Ngài khiến chúng ta khám phá và trải nghiệm Lời Chúa trong cuộc sống và hướng dẫn chúng ta hiểu ý nghĩa của những lời của Chúa Giêsu (Ga 14, 26; 16, 13)
Lc 24, 33-35. Bước 4: Kết quả: phục sinh nghĩa là trở về Giêrusalem. Cả hai người họ, cách can đảm, trở lại con đường về Giêrusalem, nơi mà lực lượng của sự chết, đã giết Chúa Giêsu và, đã giết hy vọng của họ, sẽ tiếp tục hoạt động. Nhưng, giờ đây tất cả đã thay đổi. Nếu Chúa Giêsu còn sống, thì trong Ngài và cùng với Ngài có một năng quyền mạnh hơn cả điều đã giết Ngài. Kinh nghiệm này giúp họ phục sinh! Thật vậy, tất cả đều thay đổi. Đó là sự trở về chứ không phải sự trốn chạy! Tin tưởng chứ không phải kém tin! Hy vọng chứ không phải thất vọng! Ý thức hiểu biết chứ không phải thuyết định mệnh trong sự đối mặt với quyền lực! Tự do chứ không phải sự áp bức! Tóm lại một lời: sự sống chứ không phải cái chết! Thay vì tin buồn về sự chết của Chúa Giêsu, thì Tin Mừng của Sự Phục Sinh của Ngài! Cả hai kinh nghiệm sự sống và sống dồi dào! (Ga 10,10). Đây là dấu chỉ cho thấy Thần Khí của Chúa Giêsu hoạt động trong họ!
Câu hỏi
* Cả hai người họ nói rằng: "Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng, nhưng...!" Bạn có bao giờ thấy một tình huống của sự nhát đảm khiến chúng ta thốt ra rằng: "Tôi đã hy vọng, nhưng...!"?
* Bạn đọc, sử dụng và giải nghĩa Kinh Thánh như thế nào? Có bao giờ bạn cảm thấy con tim mình thiêu đốt khi đọc và suy niệm Lời Chúa chưa? Bạn có đọc Kinh Thánh một minh hay là thành phần của nhóm Kinh Thánh?
Lời Nguyện (Tv 105,1-2)
Hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân. Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa, và suy gẫm mọi kỳ công của Người.
Đường Emmaus thật lạ kỳ. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến. Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến. Khi đi thì ảo não u sầu. Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen. Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày. Khi đi tuyệt vọng chán chường. Lúc về tràn đầy hi vọng. Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.
Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh? Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian. Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa ở ngay bên ta. Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài. Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.
Trước hết là chia sẻ Lời Chúa. Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau. Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa. Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ”. Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ. Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.
Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ muốn đi xa hơn. Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn”. Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ. Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc. Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi. Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại. Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa. Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.
Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể. Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa. Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa. Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn. Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.
Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ. Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo. Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta. Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng. Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Có những cuộc gặp gỡ đốt nóng lên ngọn lửa yêu mến, hăng hái nhiệt tình trong tâm hồn. Bạn có kinh nghiệm này bao giờ chưa?
2) Gặp Chúa Giêsu đã biến các môn đệ thành những con người khác hẳn. Bạn có mong ước được gặp Chúa để thay đổi cuộc đời không?
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 24,13-35) kể cho chúng ta một câu chuyện rất cảm động về sự hiện diện và về vai trò của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống của các đồ đệ Chúa Kitô.
“Hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra [tức là về biến cố Đức Giêsu bị đóng đinh và về sự kiện ngôi mộ trống]. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. Một trong hai người tên là Clêôpas trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay" (cc.13-18).
“Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?" (c.19a). Câu hỏi này của Đức Giêsu dẫn trình thuật vào một câu trả lời rõ ràng mang tính chất một lời rao giảng của Hội Thánh tiên khởi, nhưng còn thiếu lời công bố mầu nhiệm phục sinh và thiếu quy chiếu Thánh Kinh: “Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng tôi đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy" (cc.19b-24).
Sự thất vọng do bởi cái chết của Đức Giêsu đã không hề khiến các đồ đệ đưa ra những phán đoán tiêu cực về Ngài. Các ông đã không hề coi Ngài là một ngôn sứ giả chẳng hạn. Cuộc khổ nạn đã không làm cho cuộc sống thế tạm của Đức Giêsu, vốn đầy uy thế trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, trở nên không còn giá trị. Ngài vẫn là một ngôn sứ vĩ đại “trong việc làm cũng như trong lời nói”. Cái chết của Đức Giêsu, mặc dù là cái chết thập giá, không hề bị coi là dấu hiệu của sự chúc dữ của Thiên Chúa như cách hiểu sai lầm của “các thượng tế và thủ lãnh của chúng tôi”. Nhưng cái chết ấy quả thực đã đặt dấu chấm hết cho sự kỳ vọng của các đồ đệ, sự kỳ vọng về một cuộc giải phóng theo nghĩa phục hưng dân tộc Israel. Những dấu hiệu của sự phục sinh cũng được nhắc đến, nhưng chính Đấng Phục Sinh thì họ chưa được gặp. Và vì thế, họ chán nản và thất vọng.
“Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!” (c.25). Chúa Phục Sinh, vốn từ đầu câu chuyện chỉ là người lắng nghe, bây giờ trở thành chủ thể hành động và dẫn dắt sự tình. Trước tiên, Người khiển trách các ông chậm tin vào lời các ngôn sứ. Đoạn Ngài nói tiếp: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (c.26).
“Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (c.27). Ở đây, chúng ta gặp một chủ đề quan trọng trong Lc: việc giải thích Sách Thánh trong Hội Thánh. Tác giả khẳng định rằng: chính Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng giải thích “những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Ngài mở ra cho các đồ đệ sự hiểu biết đích thật về Sách Thánh, và như thế, Ngài chính là nguồn mạch của những suy niệm Kitô giáo về Sách Thánh. Tác giả Tin Mừng không đề cập đến một đoạn Sách Thánh cụ thể nào, nhưng nghĩ tới Sách Thánh trong tính cách toàn thể của Sách Thánh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện ở ngọn nguồn của việc giải thích mang tính Kitô luận về Sách Thánh Cựu Ước. Việc đọc Sách Thánh của các Kitô hữu và lời rao giảng của Hội Thánh tìm thấy nơi chính Chúa Phục Sinh những đảm bảo chắc chắn cho tính chính thực của mình.
“Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (cc.28-31). Có lẽ Chúa Giêsu đã bẻ bánh như là một hành động mang tính nghi lễ trong bữa ăn bình thường của người Do Thái. Nhưng đối với những người đọc là Kitô hữu, các hạn từ được tác giả Lc lựa chọn để miêu tả hành động này lại rất có ý nghĩa: chúng rõ ràng là những cách nói về việc cử hành Thánh Thể; và thực chất, đối với Lc cách riêng, “bẻ bánh” là thuật ngữ chuyên dùng để chỉ bữa tiệc Thánh Thể (x. Cv 2,42.46; 20,7). Đàng khác, ngữ cảnh cũng hướng đến cách đọc theo nghĩa Tiệc Thánh Thể, và do đó, nhấn mạnh đến ý nghĩa giáo lý hơn là giá trị sử học của hành động bẻ bánh mà Chúa Giêsu thực hiện ở câu 30.
Chính trong Tiệc Thánh Thể, cuộc gặp gỡ trong lòng tin của các đồ đệ với Đức Chúa Phục Sinh đã được thực hiện. Họ chợt nhận ra rằng Ngài vẫn hiện diện gần gũi với họ từ trước, trong cuộc hành trình cuộc đời họ. “Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" (c.32).
“Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó” (c.33). Bất chấp đêm tối, trong ánh sáng của lòng tin và của kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục Sinh, các đồ đệ quay trở về nơi đã xảy ra biến cố Phục Sinh, điểm xuất phát của lời rao giảng của các Tông Đồ. Đó là cuộc trở về hiệp thông với Nhóm Mười Một và các anh em khác, tức là với hạt nhân của Hội Thánh vừa được khai sinh.
Nhưng trước khi hai đồ đệ Emmau có thể kể lại trải nghiệm của chính họ, thì họ được nghe Nhóm Mười Một công bố tin mừng phục sinh. “Những người này bảo hai ông: "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn" (c.34). Rõ ràng tác giả Tin Mừng muốn nói: lòng tin của các chứng nhân chính thức (Nhóm Mười Một) và của cộng đoàn tiên khởi không dựa trên lời chứng của các nhân vật nào khác nếu không phải trước hết là kinh nghiệm thiết thân của chính ông Phêrô, người đứng đầu tập thể các Tông Đồ. Chính kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh của Nhóm Mười Một mà ông Phêrô đứng đầu đó sẽ xác định giá trị của chứng từ mà hai đồ đệ Emmau công bố, chứ không phải là những câu chuyện của các phụ nữ về ngôi mộ trống.
Bấy giờ, “hai ông thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (c.35). Hai đồ đệ Emmau đã kể lại cho Nhóm Mười Một và các anh em đang quây quần bên Nhóm Mười Một những trải nghiệm của họ. Tuy nhiên, chứng từ của họ lúc này sẽ chỉ là chứng từ thêm vào và xác nhận chứng từ của các Tông Đồ mà thôi. Đáng chú ý là tác giả Tin Mừng đã cố ý nhấn mạnh hai điểm quan trọng trong kinh nghiệm Emmau: (1) “những gì đã xảy ra dọc đường” tức là việc Đức Giêsu đồng hành và giải thích Sách Thánh cho các đồ đệ; (2) việc các ông “nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh”. Rõ ràng là đối với cộng đoàn Kitô hữu, Thánh Kinh và Thánh Thể chính là nơi gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng hiệp nhất cộng đoàn các đồ đệ của Ngài.
Trong phần thứ nhất của bài Tin Mừng (cc. 13-24), một trong những yếu tố nổi bật là sự chia tách. Hai đồ đệ rời khỏi Giêrusalem, nơi xảy ra biến cố Phục Sinh, và rời xa nhóm các đồ đệ (c.13); giữa hai ông hình như cũng xảy ra những sự bất đồng (c.17: động từ antiballein có thể được hiểu là tranh luận) và nhất là khoảng cách lớn lao giữa hai ông với Chúa Phục Sinh mà các ông tưởng là một người xa lạ, và giữa hai ông với những biến cố cứu độ mà các ông chưa hiểu thấu. Vì thế, các ông buồn bã (c.17), nói cách khác, các ông đang ở trong một tình trạng bi đát và thất vọng ê chề. Chúa Giêsu đến trong tình cảnh bi đát ấy. Ngài đi vào tận điểm trung tâm của tình cảnh chia ly và xa cách đó. Và từ câu 25 của trình thuật, tất cả đã thay đổi. Chúa Giêsu Phục Sinh đảm nhận vai trò là chủ thể hành động và chính Ngài làm chủ tình hình. Ngài giải thích cho hai đồ đệ những biến cố xảy ra dưới ánh sáng Thánh Kinh, rồi chính Ngài “bẻ bánh”. Lập tức, những khoảng cách được xoá bỏ. Chúa Phục Sinh được các đồ đệ nhận biết, tâm hồn các đồ đệ “bừng cháy lên”, họ quay trở lại Giêrusalem, trở về trong cộng đoàn các chứng nhân.
Rất nhiều khi, trong cuộc sống thực tế của cộng đoàn Hội Thánh, xảy đến những tình trạng chia rẽ và xa cách… Chính Chúa Phục Sinh, trong Lời và Thánh Thể của Ngài, là nguyên lý thiết yếu và tối hậu kiến tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn Hội Thánh. Sự gặp gỡ thiết thân của mỗi người chúng ta với Chúa Phục Sinh chính là yếu tố quyết định đưa chúng ta đến sự hiệp thông và hiệp nhất đích thực trong lòng Hội Thánh.
2. Thánh Thể, dấu chỉ tuyệt hảo về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh giữa những kẻ thuộc về Ngài, chính là đỉnh điểm và là xuất phát điểm của đời sống Kitô hữu.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Kinh Thánh chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Đức Chúa Phục Sinh, và Đức Chúa Phục Sinh được các đồ đệ nhận biết trong Thánh Thể. Để vượt thắng những chướng ngại vật đang ngăn cản các đồ đệ nhận ra Chúa Giêsu, rõ ràng phải có sự lắng nghe lời Kinh Thánh được giải thích trong Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô; và một khi tâm hồn của các ông đã “bừng cháy lên” nhờ lời Kinh Thánh đó, thì chính trong hành động “bẻ bánh” nhiệm mầu của Chúa Giêsu, các ông nhận ra Người. Rồi từ cuộc gặp gỡ thiết thân trong Thánh Thể ấy, lòng tin bừng sáng. Chính trong Thánh Thể, các tín hữu được mời gọi tham dự bàn tiệc do Chúa Kitô Phục Sinh chủ toạ. Ở đó, họ sẽ được trải nghiệm sự hiện diện mầu nhiệm và rất thực của chính Ngài.
3. Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta.
Một trong những sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Tin Mừng hôm nay là chủ đề “hành trình”, vốn là một chủ đề quan trọng trong Lc. Trình thuật Emmau hôm nay khai triển chủ đề này cách đặc biệt. Trong cuộc hành trình của mình, người đồ đệ không cô độc. Theo một cách thức vô hình nhưng rất thực, Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành với người đồ đệ trên những nẻo đường cuộc sống, và đưa họ đến chỗ gặp gỡ chính Ngài. Chính Ngài giúp đỡ người đồ đệ nhận ra Ngài trong lòng tin đã được soi sáng bởi Kinh Thánh và trong ân huệ Thánh Thể. Nhưng một khi người đồ đệ đã được trải nghiệm sự hiện diện gần gũi và rất thực của Ngài, thì Chúa Phục Sinh liền thoát khỏi sự chiếm hữu của anh ta, để lại mời gọi anh ta lên đường làm chứng cho sự hiện diện thực sự của Ngài. Đó cũng là thực tại vẫn đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại của chúng ta hôm nay vậy.
Có những lúc trong cuộc đời trước những bất hạnh, rủi ro hay lầm lỡ, chúng ta thường thốt lên một lời thật xót xa: "giá mà!". Giá mà tôi đừng như vậy thì đời tôi đâu đến nông nỗi này! Giá mà tôi không đầu tư vào việc đó thì tôi đâu thất bại ê chề như thế này! Giá mà tôi chịu nghe lời cha mẹ, giá mà tôi đừng gặp người đó, đừng bằng lòng lấy người ấy thì đời tôi đâu khổ sầu như ngày hôm nay! Giá mà tôi đừng trèo cao danh vọng hay "vung tay quá trán" thì đời tôi đâu khốn khó như ngày hôm nay!
Có lẽ, vẫn còn nhiều câu nói xót xa tương tự như thế trong cuộc đời chúng ta. Nhất là trong những quyết định sai lầm để rồi "sẩy một ly đi một dặm", đã khiến cuộc đời mình trở nên khánh tận tột cùng. Lúc đó hai tiếng "giá mà" lại càng đau đớn xót xa hơn!
Ngược với sự xót xa tiếc nuối, người ta có thể đặt bản lề cho vận mạng mới của mình bằng hai tiếng "tuy nhiên". Tuy nhiên tôi có thể làm lại từ đầu. Tôi có thể đứng lên từ trong biến cố đau thương này. Trong hoạ vẫn có phúc. Trong đau khổ vẫn có mầm hy vọng. Trong thất bại vẫn có con đường để tiến lên, miễn là biết kiên nhẫn và chờ đợi sẽ có ngày gặt hái thành công.
Hai môn đệ đi làng Emmau hôm nay lòng cũng tơi bời, nát tan trong tuyệt vọng và tiếc nuối. Giá mà ngày nào họ đừng gặp Thầy Giêsu, đừng đi theo Người, đừng lặn lội sương gió phò tá Người thì hôm nay đâu phải trắng tay và trốn chạy như thế này! Giá mà Đức Giêsu, người từng làm cho sóng gió biển cả phải im lặng, cho ma quỷ phải khiếp sợ, đừng chấp nhận một định mệnh quá cay nghiệt là cái chết ô nhục trên thập giá, thì mộng ước bấy lâu nay của họ đã thành hiện thực. Tuy nhiên, giữa lúc họ đang đặt ra biết bao giả thuyết đầy nuối tiếc, bi quan, tưởng chừng như cuộc đời họ đã chấm dứt như "dã tràng xe cát biển đông", Chúa đã đến với họ như một người khách lạ cùng nhịp bước với họ, nhưng lại nhìn những biến cố đang diễn ra khác họ. Người khách lạ đã giúp các ông nhìn biến cố này từ Thánh Kinh. Gợi lại cho các ông những dòng Kinh Thánh từ thời Abraham, Mô-sê và các tiên tri để các ông hiểu được con đường của Thầy Chí Thánh Giêsu: là Đức Giêsu phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Đức Ky-tô là Đấng Messia. Ngài phải thực hiện toàn bộ các lời kinh thánh đã nói về Ngài.
Nghe người khách lạ nói, lòng trí các ông bừng sáng một niềm tin lạ thường. Niềm tin giúp các ông chấp nhận sự thật trong an bình, trong thánh ý của Thiên Chúa. Lòng họ tràn ngập niềm hân hoan. Họ muốn mời người khác lạ ở lại với họ. Họ muốn tri ân. Họ muốn bầy tỏ lòng biết ơn đối với người khách lạ. Vì nhờ người khách lạ giải thích Kinh Thánh mà họ hiểu được ý nghĩa của biến cố đang xảy ra. Bao lâu nay họ học Kinh Thánh, bao lâu nay họ nghe giảng Kinh Thánh nhưng họ lại không biết nhìn sự kiện dưới cái nhìn của Kinh Thánh. Họ muốn Thiên Chúa hành xử theo ý mình. Họ muốn Đức Giêsu đáp lại nguyện vọng của họ mà họ đâu biết rằng Người đến trần gian là để thực thi ý Chúa Cha. Họ thất vọng vì những điều xảy ra không theo ý họ. Chúa đã chết thay vì làm vua. Cái chết của Chúa đã làm tan biến mọi mơ ước trong lòng họ. Tuy nhiên, hôm nay họ đã hiểu, dù có muộn màng nhưng mặc cho trời còn tối. Bóng tối của trời đất chẳng là gì với ánh sáng của tâm hồn. Tâm hồn họ bừng sáng lên niềm hy vọng. Tâm hồn họ tràn ngập ánh sáng hân hoan. Họ đứng dạy trở về Giêrusalem, trở về với các tông đồ trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau.
Câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau, thánh sử Luca chỉ giới thiệu cho chúng ta một nhân vật có là Lê-o-pha, và một người khuyết danh. Người khuyết danh đó phải chăng là mỗi tín hữu chúng ta? Có thể là chính chúng ta cũng có lúc đang đi trên đường Emmau. Đoạn đường có quá nhiều chán chường. Đoạn đường dài đầy bất trắc dồn dập xảy đến trong cuộc đời. Ốm đau, bệnh tật, làm ăn thua lỗ luôn làm chúng ta chưa hết cái lo này đến cái lo khác. Khiến chúng ta thất vọng. Muốn buông xuôi. Mặc cho dòng đời đưa đẩy. Thánh Luca muốn ghi lại biến cố này để mời gọi những ai sầu khổ tư bề hãy biết nhìn biến cố trong đời bằng ánh sáng tin mừng. "Sau đêm dài là ánh bình minh". "Sau cơn mưa trời lại sáng". Hãy tin tưởng vào Chúa. Thiên Chúa luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Vì Chúa là người Cha hiền sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của mình.
Ước gì trong thánh lễ hôm nay, chúng ta được nghe Lời Chúa, được hiểu Lời Chúa, được hiệp thông với Chúa và với nhau qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng được sự bình an và niềm vui có Chúa ở cùng như hai môn đệ đi làng Emmau năm xưa. Amen.
Sau khi các phụ nữ đã mang sứ điệp Phục Sinh đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giả Luca mô tả hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh: Đức Giêsu cùng đi đường với hai môn đệ Emmau (24,13-35) và hiện ra giữa cộng đoàn (24,36-53).
Riêng cho truyện Emmau, chúng ta không có đoạn văn Nhất Lãm song song nào cả. Bản văn có ngữ cảnh sau: Sau khi các phụ nữ đã viếng (cả Phêrô: 24,12) ngôi mộ mở và trống của Đức Giêsu (24,2t), ta biết rằng Đức Giêsu đã sống lại và đang sống, nên không thể gặp Người giữa kẻ chết. Nhưng ta không biết là có thể gặp Người ở đâu và gặp Người cách nào. Chính Đức Giêsu đã lấy sáng kiến và hiện ra trong những hoàn cảnh khác nhau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Hai môn đệ đi về Emmau (24,13-14); 2) Đồng hành và đối thoại với Đức Giêsu (24,15-27); 3) Nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh (24,28-32); 4) Trở lại Giêrusalem (24,33-35).
3.- Vài điểm chú giải
- Emmau (13): Bản văn cho biết Emmau cách Giêrusalem 60 dặm (stadious), tức 11,5 cây số (mộtdặm = 192m). Đến nay người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn đây là làng nào: là làng Amwas = Nicôpôli (176 dặm = 32,5cs; 1 Mcb 3,40.57: Ammaous), hay là làng Kulonje (30 dặm = 5,5 cs; Phơlaviô Gioxép, Chiến tranh Do Thái VII 6,6 § 217: Ammaous), hoặc là làng Kubêbe (64 dặm = 12cs; vào thời các thập tự quân: Castellum Emmaus)?
- (Và) xảy ra là đang lúc (15): Trong chương 24, có bốn lần tác giả Luca dùng cụm từ “kai egeneto en tô…”, mà Bản dịch CGKPV không dịch, còn cha Thuấn thì dịch là “đang khi…”, “xảy ra là đang lúc…”, “và xảy ra là khi…”, “và xảy ra là đang khi…”. Tác giả dùng công thức này để dẫn vào những sự cố đặc biệt: hai chứng nhân xuất hiện (c. 4), Đức Giêsu đến cùng đi với hai môn đệ (c. 15), Đức Giêsu tỏ ra như là người chủ tọa bữa ăn (c. 30), và Đức Giêsu được đưa lên trời (c. 51).
- trò chuyện và bàn tán (15): Homilein, “trò chuyện”; syzêtein, “tìm với nhau, tranh luận, tranh cãi; bàn tán”; động từ syzêtein lại được dùng trong Cv 15,7.10, là nơi nhắc đến những tranh cãi kịch liệt trong Hội Thánh tiên khởi về vấn đề cắt bì. Như thế, câu chuyện tỏ ra sôi nổi và dường như các ông không hoàn toàn đồng ý với nhau.
- vẻ mặt buồn rầu (c. 17): Skythrôpos do skythros, “buồn rầu” và ôps, “gương mặt”.
- chẳng hiểu gì (25): Anoêtos có nghĩa là “thiếu khả năng suy nghĩ; không có đầu óc; kém thông minh; ngu xuẩn” (x. Gl 3,1: ô anoêtoi Galatai, “hỡi những người Galát ngu xuẩn”). Sau này, ở 24,45, tác giả cho biết Đức Giêsu “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.
- lòng trí thật là chậm tin (25): dịch sát là “chậm (bradeis) về trái tim để tin”. “Trái tim” (kardia), trung tâm của ý chí, trí tuệ và tình cảm của con người (x. 24,25.32.38). Động từ pisteuein, “tin” (Mt 11x, Mc 14x, Lc 9x, Ga 98x) chỉ được Lc dùng ở đây (danh từ pistis, “đức tin”: Mt 8x, Mc 5x, Lc 11x, Ga 0x). Trong Lc, động từ này luôn quy về lời nói, ở đây là lời các ngôn sứ. “Tin” có nghĩa là cương quyết chấp nhận giá trị của lời nói.
- Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình (26): “Phải” đây là động từ dei ở thì vị hoàn (edei): động từ nay diễn tả mộtđiều cần thiết thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa. Xem 9,22; 17,25; 22,37; 24,7.44.
- trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ (27): “Ông Môsê” là Bộ Ngũ Thư; “các ngôn sứ” là các sách sử và các sách ngôn sứ; “tất cả Sách Thánh” là những sách còn lại của Cựu Ước. Xem cách chia Kinh Thánh Do Thái thành ba phần ở 24,44.
- giải thích (27): Diermêneuein có nghĩa là “giải nghĩa, giải thích, chú giải”. Động từ này chỉ được Lc dùng ở đây; ở Cv 9,36, động từ này có nghĩa là “dịch”, và ở 1 Cr 14, 5.13.27, có nghĩa là “giải thích điều được nói bằng các tiếng lạ; giúp hiểu điều người ta không tự mình hiểu được; đưa đến chỗ hiểu biết”. Những công thức có nghĩa tương tự là: “giải thích (dianoigô tas graphas, “mở trọn vẹn, mở toang Kinh Thánh”) Kinh Thánh cho chúng ta” (24,32) và “Người mở trí (dianoigô ton noun, “mở rộng trí”) cho các ông hiểu Kinh Thánh” (24,45).
- Mắt họ liền mở ra (31): Dịch sát là “mắt họ đã được mở ra” (diênoichthêsan, aor. pass. của động từ dianoigô, “mở trọn vẹn”). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đi về Emmau (13-14)
Bản văn mở ra với “hai người trong nhóm môn đệ” đang bước đi và trò chuyện. Sau đó, ta được biết mộtngười tên là Cơlêôpát (c. 18). Họ không thuộc về Nhóm Mười Một, nhưng thuộc về nhóm những người khác đang cùng ở với Nhóm Mười Một (x. 24,11). Qua lời họ kể (24,22-24), họ chứng tỏ họ biết tất cả những gì đã được kể ở 24,1-12; họ biết những gì cộng đoàn biết và sẽ góp phần làm cho sự hiểu biết này gia tăng thêm.
Về thời gian, đây “cũng ngày hôm ấy”, tức ngày thứ nhất trong tuần (24,1). Họ cho biết là họ chỉ ra đi khi đã kiểm chứng tất cả các sự cố của 24,1-12. Bây giờ họ đang tiến về mộtlàng tên là Emmau, cách Giêrusalem khoảng mười một cây số.
Trong khi đi đường, họ trò chuyện sôi nổi với nhau. Đối tượng của cuộc bàn tán được mô tả tổng quát: “tất cả những sự việc mới xảy ra” (c. 14; x. c. 18) và ta hiểu nhờ những phần tường thuật trước đó của tác giả Tin Mừng.
* Đồng hành và đối thoại vớiĐức Giêsu (15-27)
Hai môn đệ cùng đi với nhau, họ chia sẻ các tâm tình với nhau, nhưng dường họ cũng không đồng quan điểm với nhau; có chuyện gì đó đã xảy ra khiến họ bị chao đảo và họ vẫn chưa có thể đồng ý với nhau về chuyện ấy hoặc tìm lại được bình an. Đức Giêsu tiến đến cùng đi với họ, rồi hỏi họ (cc. 15-19a). Họ kể lại các sự cố đã xảy ra cho Đức Giêsu theo quan điểm của họ (cc. 19b-24). Sau đó, Đức Giêsu đã trình bày cho thấy là tất cả những gì đã xảy ra đều phù hợp với Kinh Thánh (cc. 25-27).
Sau khi Đức Giêsu đã trở thành bạn đồng hành của họ, dù họ vẫn không biết Người là ai (cc. 15-16), hai bên đã trao đổi ba câu hỏi (cc. 17-19a), đưa đến chỗ họ kể chuyện rõ ràng hơn. Tác giả nhắc lại rằng con người đến gần hai môn đệ và bắt đầu bước đi với họ đúng là Đức Giêsu. Chính tác giả đã kể lại rằng hành vi cuối cùng Đức Giêsu đã làm sau khi kêu lên với Chúa Cha (23,46) là “tắt thở”. Bây giờ các hành động mới của Người là: đến gần, cùng đi, hỏi, cho thấy rằng Người thật sự đang sống (x. 24,5) và quan tâm trước tiên đến các môn đệ Người. Rõ ràng Đức Giêsu đến như mộtngười lữ khách bình thường, nhưng hai người môn đệ không nhận ra Người. Kế đó, Lc đưa vào ba câu hỏi (24,17.18.19). Câu thứ nhất là của Đức Giêsu, Người tham gia vào cuộc thảo luận của họ (c. 17).
Phản ứng đầu tiên của họ là dừng lại. Cho tới nay, chỉ toàn là chuyển động: đi đến (c. 13), cùng đi (c. 15), đi (c. 17). Việc dừng lại dường như là do sự ngạc nhiên được diễn tả trong câu hỏi tiếp sau (c. 18). Tác giả cho biết “vẻ mặt họ buồn rầu”. Phản ứng thứ hai là câu hỏi của mộtông tên là Cơlêôpát (Kleopas là dạng tắt của Kleopatros). Ông này cho biết là trong những ngày này, người ta chỉ có thể nói về một chuyện duy nhất, nên mộtngười lạ cũng phải biết; thế mà người bạn đồng hành này lại không biết! Tâm trí của Cơlêôpát còn đầy các biến cố vừa xảy ra. Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi thứ hai, rất ngắn: “Poia? (Những chuyện gì vậy?)”. Là nhân vật chính trong các biến cố ấy, Người lại tỏ ra như không biết. Người chứng tỏ sẵn sàng lắng nghe và đã tạo cơ hội cho họ diễn tả các tư tưởng và các mối bận tâm.
Họ bắt đầu kể. Có thể nói phần tường thuật của họ là một bản tổng hợp hành trình của Đức Giêsu và của TM Lc. Phần tường thuật có chủ đề “Chuyện ông Giêsu Nadarét”, với mở đầu cô đọng nhưng càng lúc càng rõ hơn. Hoạt động công khai của Người (x. Lc 4–21) được tổng hợp trong câu nhận định: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (c. 19; x. Lc 7,16). Dân chúng đã nhận biết Người là mộtngôn sứ vĩ đại. Về cuộc Thương Khó của Người, hai ông nhắc đến các vị có trách nhiệm: “các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta” và diễn tả biến cố này bằng hai từ, “nộp” và “đóng đinh” (x. 24,7). Đến đây, họ ngưng phần kể truyện mà đưa vào mộtlời bình diễn tả nỗi thất vọng của họ: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (c. 21). Họ đã nghĩ đến mộtcuộc giải phóng dân tộc Do Thái mang tính chính trị. Ở c. 47, Đức Giêsu sẽ cho hiểu đây là cuộc giải phóng muôn dân khỏi tội lỗi.
Và cứ thế, họ đi đến giờ phút hiện tại: các sự việc xảy ra đã sang ngày thứ ba rồi (c. 21). Phải chăng họ đang gợi tới các lời tiên báo về Phục Sinh vào ngày thứ ba (9,22; 18,33; 24,7.46) và muốn ám chỉ rằng các lời ấy đã không thành sự? Phải chăng họ đang quy chiếu về niềm tin dân gian Do Thái cho rằng linh hồn vẫn ở gần thân xác cho đến ngày thứ ba, rồi mới vĩnh viễn tách ra? Dù thế nào, nhận xét ấy vẫn cho thấy nỗi thất vọng của họ.
Họ lại kể lại câu truyện và lần này kể rộng rãi hơn: đoạn 24,22-23 tương ứng với 24,2-11, còn đoạn 24,12 tương ứng với 24,24. Họ kể chi tiết kinh nghiệm của các phụ nữ: các bà này đến mộ từ sáng sớm, không thấy thi hài Đức Giêsu đâu cả, nhưng lại nói là đã thấy các thiên sứ hiện ra bảo rằng Người vẫn sống (x. 24,5t). Quả thật, các phụ nữ trở về, kể truyện, đã làm cho cộng đoàn sửng sốt. Họ kể lại sứ điệp của các phụ nữ (c. 24); rồi cũng cho biết có “mấy người trong nhóm chúng tôi” đã đến và thấy mộ trống, nghĩa là “thấy sự việc y như các bà ấy nói”. Để kết luận, họ nêu mộtnhận định cho đến nay chưa nói ra: “còn chính Người thì họ không thấy”. Trong khi họ nói ra điều này, họ nhìn Đức Giêsu mà không nhận ra Người (x. c. 16). Rồi họ sẽ là những người đầu tiên thấy Người (c. 31). Trong cuộc hiện ra với các môn đệ, chính Đức Giêsu cũng nhấn mạnh trên việc thấy: ở 24,39, hai lần động từ idete, “hãy nhìn xem”, được dùng (Có thể dịch lại 24,39 như sau: “Hãy nhìn xem (idete) tay chân Thầy đi, vì chính Thầy đây mà! Hãy rờ Thầy và nhìn xem (idete) đi, vì ma đâu có thịt có xương như anh em thấy (theôreite) Thầy có đây?”).
Kế đó, tác giả ghi lại giọng văn trực tiếp của Đức Giêsu, trước hết là một tiếng than và một câu hỏi mang tính hùng biện (cc. 25-26), rồi cách thức Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh cho hai ông (c. 27). Trong khi các ông đã tóm các biến cố, Đức Giêsu lại cho thấy liên hệ của các biến cố ấy với Kinh Thánh, là nơi tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa.
Trong tiếng than, Đức Giêsu đã đánh giá hai ông là “chẳng hiểu gì và lòng trí thật là chậm tin”; đây là một lời trách: trí tuệ và trái tim của các ông không sao tin được tất cả những gì các ngôn sứ đã nói. Trong câu hỏi mang tính hùng biện, Đức Giêsu nhấn mạnh trên sự kiện là, thể theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất thiết Đức Kitô phải (dei) đi qua cuộc Thương Khó để vào vinh quang. Họ nói về Đức Giêsu như là vị ngôn sứ lớn (c. 19), Đức Giêsu lại nói về Đấng Kitô (cả 24,46): quả thật, trong cuộc xử cũng như khi chế giễu Đức Giêsu, người ta tập trung vào “Đấng Kitô” (22,67; 23,2; 23,35.39). Trong câu “chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người”, cụm từ thứ hai đã thay thế động từ “trỗi dậy” trong những đoạn tương tự (x. 9,22;24,7.46): như thế, “trỗi dậy”, hay “sống lại”, có nghĩa là “đi vào trong vinh quang”, tức là đi vào sự hiện diện trực tiếp của Thiên Chúa và thông phần vào vinh quang của Người.
Sau đó, Đức Giêsu rảo qua toàn bộ Cựu Ước để giải thích cho hai môn đệ những điều liên quan đến Người: trong tư cách là “nhà chú giải” (diermêneuein, “giải thích, chú giải”), Đức Giêsu cho hai ông thấy Kinh Thánh đã nói về Người ở đâu và nói như thế nào. Câu 24,27 và 24,44 có cùng nội dung là “những gì liên quan đến Đức Giêsu”, nhưng câu đầu thì Đức Giêsu nói mà chưa được nhận ra, còn câu sau thì Người nói sau khi đã được nhận biết.
* Nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh(28-32)
Trong phần đầu, hai môn đệ tha thiết thuyết phục Đức Giêsu ở lại với họ (24,28-29). Trong phần giữa, Đức Giêsu bẻ bánh, được nhận biết và biến mất (24,30-31). Cuối cùng là lời bình luận của hai môn đệ (24,32).
Ba người đã đến gần mục tiêu hai môn đệ nhắm tới (x. 24,13). Đức Giêsu làm bộ (“làm ra vẻ, giả bộ”) muốn đi tiếp, nghĩa là Người tiếp tục tỏ ra như là người bạn đồng hành ngẫu nhiên. Họ tha thiết xin (“ra sức, ép buộc”) Người ở lại với họ và Người đã thuận theo lời họ xin. Họ viện lý do là trời đã xế chiều, nhưng sự khẩn khoản của họ chứng tỏ họ hết sức quý trọng người bạn đồng hành này. Những chi tiết được lặp đi lặp lại trong cc. 29 và 30 cho thấy có nguyện vọng được ở lại với nhau (“Mời ông ở lại với chúng tôi”: 24,29; “Người vào và ở lại với họ”: 24,29; “Khi đồng bàn với họ”: 24,30). Sự hiệp thông giữa ba người trở thành mộtsự hiệp thông trong bàn ăn (c. 30).
Trong bữa ăn, Đức Giêsu đã xử sự như người chủ tọa; Người đã làm bốn hành động: Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ta không thể không thấy Người xử sự y như trong Bữa Tối cuối cùng (Lc 22,19-20. So sánh 22,19 // 24,30), tuy ở đấy Đức Giêsu có nói mộtsố lời và cho phân phát mộtchén rượu. Ta cũng thấy Người xử sự như thế khi nhân bánh và cá ra nhiều (9,12-17), chỉ có điều là ở đấy, sau khi cầm lấy, Người lại ngườc mắt lên trời (9,16). Các môn đệ đã nhận ra Người. Khó có thể cho rằng các ông đã nhận ra Người vì nhớ lại Bữa Tiệc cuối cùng, bởi vì các ông không có mặt ở đấy. Hợp lý hơn, có thể nói là vì các ông đã có mặt khi Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều hoặc đã thường thấy Đức Giêsu làm cử chỉ này. Còn mộtcâu hỏi khác: Phải chăng Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai môn đệ Emmau? Người ta thường trả lời là “không”, với các lý do: cử chỉ Đức Giêsu làm là mở đầu thông thường cho mộtbữa ăn Do Thái; Lc không ghi lại mộtlời giải thích nào của Đức Giêsu; thiếu việc trao mộtchén rượu; hai môn đệ này không có mặt trong Bữa Tiệc cuối cùng, vì chỉ dành cho các tông đồ (22,14). Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ nhận là có tương quan chặt chẽ giữa 24,30 và 22,19. Thế rồi, hai môn đệ ấy đã nói đến “việc bẻ bánh” của Đức Giêsu (24,35). Cụm từ ấy chỉ xuất hiện ở đây và ở Cv 2,42. Vậy không thể chứng minh được là Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai ông, nhưng 22,30.35 là những câu nhắc các độc giả Lc nhớ tới Bữa Tối cuối cùng và những buổi cử hành Thánh Thể của họ. Và hẳn là khi nghe hai ông kể lại kinh nghiệm vừa trải qua, Nhóm Mười Một cũng nhớ lại Bữa Tối cuối cùng, trong đó quả thật Đức Giêsu đã ban Mình Người cho các ông (22,14.19). Như thế, Bữa Tối cuối cùng, với tất cả ý nghĩa của nó, lại trở nên sống động trong tâm khảm của cộng đoàn.
Kết quả mà hành vi của Đức Giêsu tạo ra là tương quan của hai môn đệ với Người được đảo ngược: Trước kia, ở 24,16, mắt của các ông còn bị ngăn cản, nay ở 24,31, mắt các ông đã mở ra để nhận biết Người, nhưng thật ra là Thiên Chúa mở mắt cho các ông (thái bị động thay tên Thiên Chúa). Người ta không thể nhìn thấy và nhận ra được Đức Giêsu Phục Sinh bằng cặp mắt nhân loại; nhận ra Đức Giêsu hiện diện và chân tính của Người là mộtơn Thiên Chúa ban. Hai ông đã hưởng nhờ ân huệ lớn lao từ cách xử sự của Đức Giêsu. Các ông đã kết thúc truyện kể ngược lại quá khứ với mộtnhận định buồn rầu: “còn chính Người thì họ không thấy” (24,24). Bây giờ họ là những người đầu tiên của cộng đoàn (nhưng x. 24,34) được ban cho ơn thấy Đức Giêsu Phục Sinh và đang sống. Và khi đã nhận biết Đức Giêsu đang sống, họ mới có thể nhận ra là Đức Giêsu đã làm gì cho họ, khi đi bên họ, giải thích Kinh Thánh và trao bánh cho họ. Nhưng cũng ngay khi đó, Đức Giêsu biến mất. Họ phải học biết rằng nay đã chấm dứt hình thái hiện diện của Người theo kiểu loài người và trần thế, mà họ đã quen.
Trong lời bình luận (24,32), hai ông đã nêu bật kinh nghiệm vừa trải qua với Đức Giêsu, khi Người giải thích Sách Thánh cho họ (24,25-27). Họ ghi nhận mộtsự thay đổi trong tim, vì bây giờ con tim họ bắt đầu nóng cháy lên.
* Trở lại Giêrusalem (33-35)
Trong phần kết luận này, tác giả kể lại chuyến quay trở lại Giêrusalem của hai môn đệ (24,33), tại đó họ được loan tin là Chúa đã sống lại và đã hiện ra với Simôn (24,34). Rồi các ông cũng nói đến kinh nghiệm trải qua với Đức Giêsu Phục Sinh (24,35).
Vì giờ đã muộn, hai môn đệ đã xin người bạn đồng hành ở lại. Nay chính họ lại lên đường quay trở lại Giêrusalem. Chuyến đi được kể chi tiết (24,13-27), còn chuyến về chỉ được nêu lên bằng sự kiện. Hai môn đệ hết sức ao ước được thông tin cho cộng đoàn, cho Nhóm Mười Một và những người khác đang cùng ở với các ông (x. 24,9), nhưng trước khi có thể nói ra, các ông đã nhận được một lời loan báo với hai thông tin: (1) “Chúa trỗi dậy thật rồi” (x. 24,6) (2) “và đã hiện ra với ông Simôn” (x. 1 Cr 15,5). Hành vi cuối cùng của Chúa (kyrios) mà Lc ghi lại là ở 22,51: “Chúa quay lại nhìn ông Phêrô; ông Phêrô sực nhớ lời Chúa đã nói với mình”. Sự thông cảm đầy yêu thương của Chúa đối với người tông đồ đầu tiên đã chịu thua sự yếu đuối, đã bắt đầu lại ngay sau khi ông chối Người (22,54-62) và được hoàn tất với cuộc hiện ra của Đức Chúa Phục Sinh (x. cả 5,8-l1; 22,31-32). Phêrô là chứng nhân đầu tiên thông tin cho cộng đoàn biết Đức Chúa đã sống lại và đang sống. Hai môn đệ Emmau có thể xác nhận. Hai ông có thể làm chứng về kinh nghiệm hai điểm của mình: (a) về những gì đã xảy ra cho họ trên đường (24,15-27); (b) về những gì họ đã trải nghiệm tại bàn ăn (24,28-32).
Sau khi hai môn đệ đã tường thuật, cộng đoàn có ba chứng từ về cuộc sống lại và về cuộc sống của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu không sao đưa các môn đệ đến chỗ hiểu Kinh Thánh được (18,31-34). Chỉ trong tư cách là Đấng Phục Sinh, Người mới mở được ý nghĩa của Kinh Thánh ra cho họ (x. 24,32.45). Như thế, người ta chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khởi đi từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Chìa khóa giúp giải thích những gì Kinh Thánh nói về hành trình của Đức Giêsu chính là cuộc Phục Sinh của Người; Đấng giải thích là Đức Giêsu Phục Sinh.
Trong khi Đức Giêsu Phục Sinh giải thích Kinh Thánh, lòng các môn đệ đã nóng cháy (24,32), nhưng chỉ sau khi Người bẻ bánh, mắt họ mới mở ra (24,31). Hai hành vi này không đưa vào những yếu tố mới, nhưng nhắc lại những gì đã được ban cho các môn đệ, và bây giờ lại được ký thác cho họ theo cách mới. Từ nay, Đức Giêsu không ở trong những hoàn cảnh sống trần thế nữa. Do đó, họ phải đọc Kinh Thánh từ quan điểm của Đức Giêsu Phục Sinh. Khi đón nhận Mình và Máu Người, họ phải nhận ra tình yêu vô biên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua những chia sẻ cho Đức Giêsu, hai môn đệ nói về “chúng tôi” bằng nhiều cách (“mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi”, “mấy người trong nhóm chúng tôi”): họ chứng tỏ là họ rất gắn bó với cộng đoàn. Cộng đoàn xuất hiện ra trong bài Tin Mừng này như là mộtđiểm quy chiếu vững chắc và như là nơi quy tụ tất cả các chứng từ và kinh nghiệm. Các thành viên của cộng đoàn chưa được tiếp xúc trực tiếp với Đức Chúa Phục Sinh, nhưng cộng đoàn là nơi chuẩn bị cho họ nhận biết chính Đấng Phục Sinh khi Người hiện ra giữa họ (24,36-53).
2. Lộ trình của hai môn đệ là “đi từ Giêrusalem về Giêrusalem”, hay “Giêrusalem-Emmau: chuyến đi khứ hồi”. Khi họ đi về Giêrusalem, họ đã rời bỏ cộng đoàn, Đức Giêsu đi bên họ mà họ không nhận ra Người. Khi họ quay trở lại Giêrusalem, họ muốn được liên kết trở lại với cộng đoàn, Đức Giêsu không còn đi với họ nữa, nhưng trái tim của họ chan hòa kinh nghiệm đã trải qua. Đã có mộttiến trình đào sâu trong đó Đức Giêsu nổi bật hoặc như là đối tượng hoặc như là chủ thể. Kết quả là từng cá nhân và cộng đoàn đạt được mộtsự hiểu biết ngày càng sâu hơn về hành trình của Đức Giêsu và mộtsự nhận biết ngày càng chắc chắn hơn về sự Phục Sinh của Người.
3. Đọc truyện này, tôi cũng nhận ra được bố cục của mộtcuộc cử hành Thánh Thể: phần thứ nhất là Phụng vụ Lời Chúa: lắng nghe Lời Chúa và tìm hiểu ý nghĩa (Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh), phần thứ hai là Phụng vụ Thánh Thể (Đức Giêsu bẻ bánh). Chính Thánh lễ cũng sẽ đưa người tín hữu đến chỗ gắn bó với cộng đoàn hơn, làm chứng cho nhau để củng cố niềm tin, rồi lên đường tiếp tục chứng từ ấy giữa muôn dân.
4. Đức Giêsu đã làm mộtsố hành vi: đến gần, cùng đi, hỏi, giải thích Kinh Thánh, bẻ bánh, mở mắt cho hai môn đệ, biến mất. Ba hành vi đầu có thể tóm lại bằng công thức “đi tìm con chiên lạc”. Hai môn đệ giống như con chiên trong bài dụ ngôn, đã bỏ đàn, và Đức Giêsu như người mục tử đi tìm con chiên lạc để đưa nó về đàn (x. 15,4-7). Trước khi tỏ mình ra cho toàn thể cộng đoàn (24,36-53), Đức Giêsu đã tìm lại được hai kẻ đã bỏ đi. Như thế, Đức Giêsu Phục Sinh cũng vẫn quan tâm đến những gì đã mất (đối với Phêrô cũng vậy: 22,61; 24,34).
5. Kinh Thánh như là Lời Thiên Chúa nói với dân Ngài là thẩm quyền cao nhất cho họ và là điểm quy chiếu mà mọi người đều biết. Khi cho thấy Sách Thánh nói về Người và về những biến cố chính của hành trình đời Người, Đức Giêsu giúp ta thấy rằng các biến cố ấy không phải là những biến cố xa lạ và phi lý, nhưng thuộc về tương quan và lịch sử của Thiên Chúa với dân Ngài. Khi đó ta mới vượt qua được chướng kỳ là Đức Kitô bị nộp và bị đóng đinh (23,35-39; 24,20-21).
5. Lời của hai môn đệ đúng là kêrygma: cho dù ở dạng không mấy minh nhiên (như ontôs êgerthê ho kyrios, “Chúa sống lại thật rồi”, Lc 24,34), kêrygma này có các yếu tố căn bản: ba ngày, các phụ nữ tại mộ, các thiên sứ, tin nói rằng Đức Giêsu vẫn sống. Nhưng ở đây kêrygma được kể ra như là mộtđiều không hiểu được, mộtđiều hẳn là không thể nào đã xảy ra và lại là mộtbi kịch cho tất cả những ai đã đặt tin tưởng vào Người. Các lời thì có đó, nhưng con tim thì không; phải nói là con tim chỉ đầy phiền muộn, thất vọng, khiến cho người nói cảm thấy cay đắng, và do đó không thuyết phục được người nghe. Cần phải nghe câu trả lời của Đức Giêsu, mộtcâu trả lời diễn tả kêrygma đích thật. Đức Giêsu hành động như người loan báo Tin Mừng và như vị tôn sư; Người sử dụng khả năng nhà chú giải và huấn giáo viên để cung cấp lời giải thích các môn đệ đang chờ.
Chúa Giêsu đã qui tụ các môn đệ và dạy dỗ, uốn nắn các ngài. Các môn đệ sau ba năm theo Chúa, cứ tưởng rằng Thầy Giêsu sẽ thiết lập một Vương Quốc trần thế, sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen, Ngài sẽ lên làm vua, các môn đệ sẽ được chia chác nhau ghế ngồi trong tổ chức Nước trần của Chúa Giêsu. Tư tưởng, suy nghĩ, ý hướng ấy vẫn làm cho các môn đệ không sao hiểu nổi việc cứu thế của Chúa Giêsu. Do đó, khi Chúa Giêsu bị bắt, bị giam cầm, bị kết án tử và bị các Thượng tế, Kỳ mục và giới lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái đóng đanh Ngài vào Thập giá, rồi Ngài bị chôn cất trong mồ, các môn đệ hết sức hoang mang, hoảng hốt, tưởng rằng Thầy mình đã chết luôn…
Tâm trạng của các môn đệ lúc đó là như thế ! Tuy nhiên, các môn đệ cũng còn hy vọng, nhưng hết sức băn khoăn, biết đâu Thầy của mình đã sống lại thật như nhiều lần Ngài đã loan báo với các môn đệ ! Quả thực, sáng sớm tờ mờ ngày thứ nhất trong tuần có mấy người phụ nữ, đem hương liệu tới mộ Chúa, nhưng họ rất đỗi ngạc nhiên,lo âu vì xác Chúa Giêsu không còn ở trong mộ,họ đã thấy thiên thần hiện ra báo với họ là Chúa đã sống lại…Và chính Chúa phục sinh đã gặp họ, dặn họ về báo lại với các môn đệ Chúa đã sống lại, các ngài về Galilê để gặp Chúa. Những điều các người phụ nữ loan báo làm cho các môn đệ của Chúa băn khoăn suy nghĩ. Ở đây, chúng ta nhận ra trường hợp của hai môn đệ trên đường Emmau mà Tin Mừng của thánh Luca trong trích đoạn này tường thuật lại. Hai môn đệ này đang hoang mang không hiểu sự việc thực hư như thế nào ! Thôi thì hai ông tạm rời Giêrusalem để trở về quê làm nghề cũ của mình, rồi sau này sẽ hay, nhưng trên đường về làng Emau, Chúa phục sinh hiện ra, đồng hành với hai ông và trò chuyện với hai ông.Nhưng hai môn đệ này vẫn chưa nhận ra Chúa Giêsu sống lại, họ tưởng là người bộ hành nào đó cùng đi với họ về làng Emmau.Câu chuyện trên đường xoay quanh về con người Giêsu Nadaret và Chúa phục sinh giải thích Thánh Kinh cho họ, nhưng mắt họ chưa mở, lòng họ chưa sẵn sàng nhận ra Chúa phục sinh và rồi,chiều đến hai ông đã nài nỉ Chúa Giêsu vào quán trọ ăn cơm và tiếp tục trò chuyện. Với những cử chỉ quen thuộc như cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho hai ông, lúc ấy hai ông mới nhận ra Ngài. Mắt các ông mở ra, các ông nhận ra Chúa Giêsu sống lại, nhưng vừa nhận ra Chúa phục sinh đã biến mất. Các họ vui mừng, phấn khởi, hân hoan, quay lại Giêrusalem để nói với các bạn khác biết: Chúa Giêsu đã sống lại thật rồi.
Các môn đệ về làng Emmau với tâm trạng hỗn mang, lo lắng, hoang mang, mãi đến lúc nhận ra Chúa sống lại, hai ông mới vui mừng, mới hết bồn chồn âu lo. Tâm trạng của hai môn đệ trên đường Emmau có lẽ cũng là tâm trạng của mỗi người ở muôn thời bởi vì chúng ta đã theo Chúa, đã làm con Chúa qua bí tích rửa tội, lớn lên trong đời sống hằng ngày có thể chúng ta đã gặp biết bao thử thách, chán chường của cuộc sống, chúng ta đâm ra thất vọng bởi vì chúng ta mong ước điều chúng ta ước mong, chúng ta xin điều chúng ta muốn, chúng ta cầu nguyện hoài nhưng rồi đợi hoài, đợi mãi hầu như Chúa vẫn chưa nhận lời.Tâm trạng của chúng ta có những lúc cũng như hai môn đệ trên đường Emmau:” Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israen. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi “. Vâng, hai môn đệ không đủ kiên nhẫn vì đến ngày thứ ba họ đâm ra chán nản, thất vọng, họ định tâm bỏ cuộc, trở về quê cũ để làm nghề cũ kiếm tiền…Con người, hay nói đúng hơn, sát hơn, chúng ta nhiều khi cũng rơi vào tình trạng như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta đã chờ hai, ba ngày hoặc ba, bốn tuần, hai ba tháng,hay hai ba năm nhưng những ước nguyện của chúng ta vẫn không thành sự thật.Chúng ta hoang mang phàn nàn, kêu trách Chúa, có khi chúng ta cả gan bỏ cả Chúa nữa.
Tuy nhiên, chúng ta luôn phải kiên nhẫn vì Chúa là Đấng trung thành. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta hãy nài nỉ Chúa:” Xin Ngài ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và trời đã tối “. Xin Chúa ở lại với chúng ta trong cuộc hành trình đức tin đầy chông gai, khó khăn này. Xin Chúa ở lại với chúng ta trong đời sống, trong thế giới đầy phức tạp và nhiều thử thách chông gai.Xin Chúa ở lại với chúng ta để Chúa hướng dẫn, soi đường chúng ta đi trong bình an và hạnh phúc.
Christophe Husson đã viết:” Cuộc hiện ra của Đức Kitô trên đường chứng minh rằng, tử đây, Người là Đấng Hằng Sống và đã khải hoàn ra khỏi mộ. Người không tự áp đặt mình trước các bạn của Người, mà chỉ đến gặp họ ở điểm, ở mức họ đang sống niềm tin của họ, nhằm khích lệ và cho họ cơ hội vô giá để hồi sinh với niềm hy vọng.” Dọc đường khi Người nói chuyện với chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ? “.Để cho nỗi thất vọng và chán chường nhường chỗ cho sự đổi mới, các môn đệ phải trường kỳ làm những chứng nhân độc đáo của Đức Kitô trong mầu nhiệm chết và sống lại của Người.Cuối cùng, chẳng phải đây là điểm hình thành vận mệnh của chúng ta hay sao ?
Lạy Chúa phục sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết nhạy cảm nhận ra Chúa trong mọi biến cố và dấu chỉ của cuộc đời, của thế giới và của những sự việc xẩy ra chung quanh hằng ngày.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tâm trạng của hai môn đệ trên đường Emmau ? 2.Chúa phục sinh đã nói gì với hai môn đệ Emmau ? 3.Tại sao hai môn đệ chưa nhân ra Chúa phục sinh ? 4.Nhận ra Chúa phục sinh, hai môn đệ thế nào ? 5.Có lúc nào chúng ta cũng có tâm trạng giống như hai môn đệ Emmau ?
Ở đời, người ta thường có câu: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Trong đời sống đức tin cũng vậy, nếu chỉ tin khi thuận buồm xuôi gió, hoặc có lợi cho mình thì thật là dễ. Tuy nhiên, tin cả khi mây mù dày đặc, tức là tin cả những lúc không thuận với ý ta thì đây mới là đức tin mang tính trưởng thành.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại sự kiện Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau khi các ông đang trên đường trở về quê vì sự thất vọng qua cái cái chết của Ngài. Họ chán trường, hoang mang vì đã tin vào một Đức Giêsu bị thất bại và kết cục cuộc đời lại bị treo trên thập giá như một tử tội. Tuy nhiên, Đức Giêsu phục sinh đã làm cho các ông bừng sáng lên niềm hy vọng và can đảm tuyên xưng cũng như loan truyền về Ngài cho anh chị em...
Vậy, đâu là điều mà các môn đệ nhận ra Ngài, tin theo và loan truyền?
1. Các ông đã nhận ra Đức Giêsu
Hai môn đệ đang trên đường trở về quê, các ông bước đi trên đôi chân rã rời vì mệt mỏi, cộng thêm tinh thần thất vọng vì đã đặt nhầm niềm tin vào Đức Giêsu! Thật vậy, các ông vừa đi vừa bàn chuyện, nhưng không phải là chuyện làm ăn, buôn bán, lao động, giao thương..., hay chuyện gia đình, mà bàn về chuyện một con người, con người đó là chính Đức Giêsu. Câu chuyện được khởi đi từ một tinh thần buồn bã của các ông. Thấu hiểu tâm can các môn đệ, Đức Giêsu đã hiện đến và hỏi: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" (Lc 24, 17), họ trả lời: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20). Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với họ, nhưng họ vẫn không nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Ngài vẫn trong vai trò là người chủ động, nên cùng bộ hành với họ, và bắt đầu giải thích cho họ hiểu về Đấng Mêsia, Ngài nói: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24, 25-27).
Đức Giêsu đã trao đổi về vai trò của người Tôi Trung đau khổ, đến để hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa Cha trong vai trò Thiên Sai, đồng thời, Ngài cũng giúp cho họ hiểu rằng con đường cứu độ là con đường đau khổ, phải qua đó thì mới bước vào vinh quang.
Đức Giêsu còn đang nói, thì trời đã về chiều, nhưng lòng các môn đệ đã ấm lên và vẫn muốn nghe lời Ngài giải thích. Tuy nhiên, dù muốn nghe nữa, các ông cũng không thể, vì ngày đã ngả bóng hoàng hôn và đêm đã về, nên họ mời Đức Giêsu ở lại với họ. Ngài đã đồng ý, và người bộ hành này đã ngồi vào bàn ăn, vẫn các cử chỉ quen thuộc là cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông. Chính vì vậy mà họ đã nhận ra Ngài. Nhưng cũng chính ngay lúc này, họ không còn được thấy Ngài cách thể lý nữa, vì Ngài đã biến mất. Điều này cho thấy, từ nay, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong hành động Bí tích.
2. Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người cách toàn diện trên bình diện ân sủng
Khi đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy niềm hy vọng của các môn đệ, cũng như các Tông đồ và nhiều người Dothái thời bấy giờ là mong muốn một vị Cứu Tinh quyền uy lẫy lừng, đánh đông dẹp bắc, giải phóng dân tộc bằng quyền lực của sức mạnh, binh đao... Họ không thể tin được một vị Thiên Chúa mà lại bị thất bại ê chề trong tay người phàm qua cái chết tủi nhục đắng cay như vậy, nên các ông đã cảm thán khi được Đức Giêsu hỏi chuyện, trong tâm trạng vô vọng, họ đã thốt lên: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay" (Lc 24, 18). Ngài hỏi tiếp: “Chuyện gì vậy?” và họ đã cảm phiềm: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20). Thực ra lời nói này mang đầy tính thất vọng. Họ đã không hiểu nổi sứ vụ Thiên Sai của Ngài, nên trước đó, họ trách khéo người khách lạ này xem ra có vẻ vô tâm, vô tình nên không hay biết chuyện mới xảy ra..., nhưng giờ đây, Đức Giêsu đã khiển trách họ khờ dại và không hiểu biết gì...
Như vậy, Đức Giêsu đã giúp cho họ một lần nữa đi xa hơn về lộ trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài không giải thoát con người theo thiển ý của họ, mà Ngài giải phóng con người trên bình diện ân sủng, đó là: giải thoát con người khỏi tội lỗi, biết sống công bằng, chia sẻ bác ái và yêu thương hết mọi người, kể cả kẻ thù... để thế giới này chỉ có một Thiên Chúa là Cha và mọi người có nhau là anh em... Đây mới là sự giải phóng toàn diện của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Khi nhận ra cốt lõi của mầu nhiệm cứu chuộc nơi Đức Giêsu, ngay lập tức, các ông đã can đảm, hăng say trỗi dậy, trở lại Giêrusalem để loan tin vui mừng này cho các Tông đồ đang còn ở lại nơi đây.
Nguyên nhân để có một thái độ đặc biệt này là họ đã hiểu được Đức Giêsu qua việc Ngài giải thích Thánh Kinh và nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay được dàn trải cách tiệm tiến: bắt đầu là việc thông tri sự kiện; thứ đến là được Đức Giêsu giải thích; và, cuối cùng là họ nhận ra Ngài rồi lên đường loan truyền Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng tình thương của Đức Giêsu cho mọi người...
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta rằng:
Trước tiên, muốn hiểu, tin và sống mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thì cần phải loại bỏ sự thất vọng. Hãy tin tưởng trong sự đơn sơ, không bám víu vào những triết lý cao siêu, nhưng sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời của Ngài hướng dẫn, từ đó ta sẽ được biến đổi hầu trở nên chứng nhân của Ngài.
Thứ đến, hãy tin tưởng vào Chúa ngay trong những thất bại của cuộc đời, vì Ngài luôn có mặt và đồng hành với chúng ta như Ngài đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Hãy gắn bó với Giáo Hội của Đức Giêsu, mặc cho phong ba bão táp; mặc cho những phần tử trong Giáo Hội có những chuyện chẳng hay, thì Giáo Hội Chúa vẫn còn và không ngừng hướng tới sự thánh thiện cũng như là trung gian để thông chuyển ơn cứu độ của Chúa đến với muôn dân.
Tiếp theo, hãy yêu mến Thánh Kinh, vì đây chính là sự hiện diện của Chúa cách đặc biệt. Nếu các môn đệ không được Đức Giêsu hiện ra để giải thích Thánh Kinh cho họ, chắc họ đã không có cơ hội để nhận ra Chúa. Vì thế, chúng ta muốn trở nên nghĩa thiết với Chúa thì phải yêu mến, đọc, học và siêng năng suy gẫm Lời Ngài, vì đây là kho tàng mặc khải trọn vẹn và phong phú mà Thiên Chúa dành cho con người. Có thế, chúng ta mới hy vọng nhận ra Ngài và can đảm, hăng say lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đặt niềm hy vọng vào Ngài là Đấng đã Phục Sinh. Luôn yêu mến và gắn bó với Chúa. Sẵn sàng làm chứng cho Chúa khi đã nhận ra Chúa. Amen.
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hướng dẫn hai môn đệ về đức tin để đang từ tâm trạng chán nản và vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (c 18 và c 21), các ông đã tìm lại được niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Phục Sinh qua việc nghe lời Người giải thích Kinh Thánh (cc 25-27.32), và được tham dự lễ nghi Bẻ Bánh do chính Người thực hiện (cc 30-31).
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem 60 dặm tương đương 11 km về phía Tây. Nhưng đến nay làng này đã không còn tồn tại và các nhà chú giải Kinh Thánh cũng không xác định được vị trí cụ thể của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang bị buồn chán thất vọng, các ông vẫn không ngừng bàn tán với nhau trong lúc đi đường xa. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn quan tâm đến các môn đệ và sẵn sàng đến giúp đỡ khi họ bị buồn phiền đau khổ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia là thầy Giê-su. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã biến đổi ra khác với lúc còn sống. Trước đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng không nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người hiện ra gần mộ vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần.
- C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?”: Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo âu chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Họ nghĩ đây là một khách hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và có thái độ lãnh đạm với một biến cố lớn lao mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.
- C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, hai môn đệ này mới chỉ công nhận Đức Giê-su là ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng là: các nhà lãnh đạo Ít-ra-en đã nộp Ngưới để Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi !
- C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn còn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các tông đồ đã chứng kiến mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông thì coi là chuyện hoang đường khó tin. Lời này cho thấy hai môn đệ này không phải loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.
- C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ !: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?: Chúa Phục Sinh nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước đã làm chứng về con đường cứu thế Đức Giê-su đã chọn theo là: Qua đau khổ vào trong vinh quang (x. Lc 24,44 tt).
- C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Giả vờ ở đây không phải là thái độ giả dối, nhưng là phương cách khôn ngoan để thử xem hai môn đệ này có thực lòng muốn nghe và muốn được Người ở lại với họ hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại trong nhà riêng cúa các ông để tiếp tục cuộc trò chuyện còn dang dở. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Hai môn đệ đã lên tiếng mời vị khách lạ kia ở lại một cách khéo léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện tâm tình của các tín hữu khi ước ao kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su Thánh Thể.
- C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Người ta khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã cử hành bí tích Thánh Thể như Người đã làm trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ. Ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc của phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19). Đây là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), và ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể giống như hai môn đệ làng Em-mau xưa. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu thường bắt đầu bằng việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tuyên xưng đức tin và được ơn thánh hóa nhờ việc tham dự bàn tiệc Thánh Thể. + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su Phục Sinh sẽ hiện diện cách thiêng liêng khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng dạy của Hội Thánh, cùng nhau tham dự tiệc Thánh Thể và ân cần thăm viếng bác ái chia sẻ gạo tiền cho những người nghèo đói bệnh tật…
- C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường để hưởng vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và do lòng tin yêu Chúa thúc bách, hai môn đệ đang thất vọng trở thành những người phấn khởi vui tươi và hy vọng. Tâm trạng phấn khởi ấy khiến hai ông quên hết nhọc mệt để quay trở lại Giê-ru-sa-lem loan báo tin vui cho các anh em khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các Tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Hai môn đệ cũng chia sẻ niềm vui Chúa Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ khác ở Giê-ru-sa-lem.
4. CÂU HỎI:
1) Hai môn đệ quê làng Em-mau nói trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ ? Tên của hai môn đề này là gì ? 2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người nói chuyện với mình chính là Chúa Phục Sinh ? 3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu ? 4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì ? Tại sao giờ đây các ông lại tỏ ra chán nản tuyệt vọng ? 5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su hay không ? Tại sao ? 6) Người khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai ông ? 7) Đức Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì ? 8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu mực về lòng tin yêu Chúa của các tín hữu hôm nay ? 9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh vào lúc nào ? 10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa khi nào ? 11) Điều gì khiến hai môn đệ nhiệt tình loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho người khác ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
2. CÂU CHUYỆN: CHÚA ĐANG Ở ĐÂU ?
Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, thất thoát tiền bạc… Anh đã nhiều lần cầu xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh chán nản và không còn đến nhà thờ dự lễ cầu nguyện nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên một bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh mà thôi. Anh chán nản ngồi nghỉ trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu mất để con phải một mình đương đầu với các khó khăn chồng chất như vậy ?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy nhìn kỹ xem hai dấu chân in trên cát kia là của ai ?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to lớn của Chúa. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con biến đi đâu rồi ? Bấy giờ Chúa mới trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con trong mọi giây phút đời con. Những khi con gặp phải gian nan thử thách chính là lúc Ta đang bồng ẵm con trên cánh tay Ta đó !”
3. SUY NIỆM:
1. Về đức tin của hai môn đệ làng Em-mau:
a) Hai môn đệ làng Em-mau không sớm tin nhận Chúa Phục Sinh: Tại sao hai môn đệ Đức Giê-su đã từng gặp gỡ tiếp xúc, ăn uống với Thầy trong thời gian ba năm, đã từng nghe lời Thầy giảng dạy, từng chứng kiến nhiều phép lạ Thầy làm (x. Mt 11,5-6) thế mà sau khi Người sống lại, hiện ra đồng hành với họ suốt quãng đường dài 30 cây số, giảng dạy Kinh Thánh cho họ, nhưng họ lại không nhận ra Người ? Có lẽ Chúa Phục Sinh đã hiện ra mang một khuôn mặt mới. Các ông chỉ nhận ra Người khi ngồi đồng bàn ăn và qua các cử chỉ đặc trưng của Người: “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát”… (x. Ga 6,11; Mt 14,19), giống như Đức Giê-su đã làm trước đây.
b) Nguyên nhân khiến hai ông nhận biết khách kia là Chúa Giê-su ?: Hai môn đệ làng Em-mau không phải là những người dễ tin như các ông đã thuật lại cho vị khách bộ hành: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (c 19-20). Qua đó cho thấy các ông này đã tin Đức Giê-su là một Ngôn sứ và hy vọng Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en (c 21). Các ông cũng có nghe mấy người đàn bà trong nhóm ra thăm mộ Đức Giê-su từ hồi sáng sớm mà không thấy xác Người trong mộ. Các bà này trở về nói đã gặp thiên thần hiện ra bảo rằng Thầy vẫn còn sống. Rồi các ông cũng nghe vài người trong nhóm môn đệ đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà kia nói. Nhưng chính Người thì họ lại không thấy” (c 22-24). Vậy nguyên nhân nào làm cho hai ông tin Thầy Giê-su thực sự từ cõi chết sống lại ?
-Một là nhờ việc nghe lời Chúa trong Kinh Thánh liên quan đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô: Các ông đã chia sẻ với nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (c 32).
-Hai là nhờ thấy những cử chỉ và lời đọc của Chúa Giê-su: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (c 29-31). Như vậy nhờ dấu chỉ yêu thương của Chúa Giê-su cử hành khi lập bí tích Thánh Thể (x. Lc 22,19-20), mà hai ông đã nhận ra Người.
c) Đức tin thực sự phải thể hiện qua việc loan báo Tin mừng cho tha nhân: Tin Mừng cho thấy thái độ của hai ông sau khi đã tin Chúa Giê-su đã phục sinh như sau: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó. Những người này bảo hai ông: Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon. Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24,33-35). Chính nhờ sức mạnh của đức tin vào mầu nhiệm phục sinh mà hai ông đã hăng hái vượt quãng đường dài về Giê-ru-sa-lem ngay trong đêm để chia sẻ cho các anh em tin mừng mình mới cảm nghiệm.
2. Tin yêu và chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hôm nay:
a) Lời Chúa và Thánh Thể: phương thế gia tăng đức tin: Ngày nay để có thể tin vào mầu nhiệm Chúa Giê-su phục sinh thì ngoài việc cầu xin Chúa trợ giúp như người cha của đứa bé bị quỷ ám trong Tin Mừng đã nêu gương: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24), mỗi người chúng ta còn phải siêng năng đọc Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày, khi cùng học sống Lời Chúa trong sinh hoạt hội đoàn hằng tuần, và siêng năng tham dự thánh lễ để được nghe Lời Chúa và kết hiệp với Thánh Thể...
b) Chúa luôn đồng hành với chúng ta: Trong cuộc sống mỗi khi gặp phải cơn thử thách, chúng ta thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê việc đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn tin vào bói tóan, đồng cốt, bùa ngải… Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta rằng: Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với chúng ta. Người ở bên ta những lúc ta được bình an, mà ngay cả những khi ta gặp rủi ro trái ý, bị thất bại trong việc thi cử, làm ăn thua lỗ, hay khi bị những chứng bệnh nan y… Chúng ta cần ý thức rằng Chúa vẫn luôn sống trong chúng ta vì Người là “Em-ma-nu-en” nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người luôn ở bên và sẵn sàng ban ơn trợ giúp khi ta kêu cầu Người như lời một bài hát quen thuộc: “Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn thiếu gì…”
c) Tập nhìn thấy Chúa đang hiện thân nơi người bên cạnh: Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta sự thật này là: Chúa Giê-su đang hiện thân nơi người chung quanh, có thể là người khách không quen trong một chuyến đi xa. Người có thể mang những khuôn mặt, hình dáng, tính tình, điệu bộ khác nhau nơi những người cùng khu xóm, phố chợ hay ngoài đường phố... Tình yêu của chúng ta đối với Chúa cần phải thể hiện ra với những con người cụ thể nói trên, chứ không phải chúng ta chỉ yêu một Chúa Giê-su trong tâm trí mà đủ.
4. THẢO LUẬN: 1) Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy ? 2) Hãy dâng lên Chúa một lời cầu xin cho những ngừơi không cơm ăn áo mặc, không nhà cửa hay người thân ruột thịt… và quyết tâm đem Chúa là niềm vui và hạnh phúc đến cho họ.
5. NGUYỆN CẦU:-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa thương ban ơn trợ giúp để vượt qua giông tố cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, hay chạy đi tìm thỏa mãn những đam mê bất chính, dễ chán nản buông xuôi khi gặp nghịch cảnh. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
- LẠY CHÚA. Hai môn đệ làng Em-mau đã sằn sàng đón tiếp một người khách lạ đang cần một bữa ăn tối và một chỗ nghỉ đêm. Chính nhờ lòng quảng đại ấy, mà hai ông đã nhận ra người khách là Chúa Phục Sinh, và đã trở nên vui tươi phấn khởi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại đi bước trước để làm quen với một người lạ đang bơ vơ lạc đường, đang gặp cơn bệnh nan y, cho chúng con biết lắng nghe những lời tâm sự của họ để ủi an nâng đỡ với hết khả năng của mình. Xin cho chúng con biết siêng năng lắng nghe Lời Chúa và đón nhận Chúa khi tham dự thánh lễ. Nhờ gặp gỡ Chúa, chắc chắn chúng con sẽ được ơn Chúa biến đổi nên mới và chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho tha nhân, như hai môn đệ làng Em-mau xưa.
Trong bài tường thuật của thánh Gio-an về câu chuyện ông Tô-ma tuần trước, chúng ta đã nhận ra vai trò của cộng đoàn đối với việc phục hồi đức tin vào Chúa Phục Sinh. Hôm nay, thánh Lu-ca cho chúng ta một cái nhìn khác về đức tin ấy: qua câu chuyện Chúa Giê-su giải thích Kinh Thánh cho hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa đã khẳng định tầm quan trọng của Kinh Thánh như nền tảng, để căn cứ vào đó chúng ta tin rằng Người đã sống lại từ cõi chết.
Đức tin bao giờ cũng có những khó khăn phải thắng vượt. Khó khăn của ông Tô-ma là “cứng lòng tin”. Còn hai môn đệ câu chuyện hôm nay thì chán nản, vì Chúa Giê-su đã chết và tất cả hy vọng của họ đã sụp đổ. Chúa Giê-su đến giữa cộng đoàn đức tin để chữa lành căn bệnh “cứng lòng” của môn đệ Tô-ma. Còn ở đây trên hành trình Em-mau, Chúa đã đưa ra cái phao cứu hộ để vực hai tâm hồn đang mất hết niềm tin vào Người! Cái phao ấy chính là Kinh Thánh, tức là những điều Thiên Chúa mặc khải cho nhân loại, qua ông Mô-sê (Lề Luật) và tất cả các ngôn sứ, về “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ê-phê-xô 1:9).
Trên đường Em-mau, cũng may là Chúa Giê-su và hai môn đệ không dùng phương tiện di chuyển nào ngoài việc đi bộ, nên đủ thì giờ để Chúa có thể giải thích cho hai ông “những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Chắc chắn Chúa Giê-su không dài dòng, nhưng Người dùng cùng một cách giải thích như Người đã làm trong hội đường Na-da-rét, là “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lu-ca 4:21). Người muốn cho các ông thấy một điều duy nhất: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người. Do đó, Người chỉ chọn lựa trong toàn bộ Sách Thánh những gì liên quan đến cái chết và phục sinh của Người, để giúp cho “lòng họ bừng cháy lên” và làm thay đổi não trạng “chậm tin vào lời các ngôn sứ” của họ! Có thể các môn đệ chưa hoàn toàn hiểu những gì được nói trong Sách Thánh, nhưng cách trình bày đơn giản và sáng sủa của Thầy Giê-su đã giúp họ nắm vững được những điểm chính. Tuy nhiên, quan trọng hơn vẫn là Chúa Giê-su làm sao có thể thắp lại ngọn lửa đức tin của hai môn đệ đã tắt vì họ chứng kiến cái chết của Người: Người đã chia sẻ với họ chính lửa yêu mến Kinh Thánh luôn bừng cháy trong tâm hồn Người.
Ngay từ đầu, Giáo Hội vẫn đi theo phương thức giải thích Kinh Thánh của Chúa Giê-su, để trình bày cho chúng ta những chân lý trong kho tàng đức tin. Những trích dẫn Kinh Thánh bao giờ cũng là nền tảng để làm chứng lý cho điều chúng ta phải tin, vì đó là những mặc khải của Thiên Chúa là Đấng chân thật. Bởi vậy, một lần nữa chúng ta cần xác tín vai trò quan trọng của Kinh Thánh đối với việc bảo toàn và phát triển đức tin của chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thánh Giê-rô-ni-mô, Tiến sĩ Hội Thánh, đã tóm tắt tầm quan trọng của Kinh Thánh trong một câu nói để đời: Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, có rất nhiều điều cũng như hình ảnh báo trước về Chúa Giê-su. Chẳng vậy mà chính Chúa Giê-su, cùng với các thánh sử và các tác giả Tân Ước, thường xuyên lập lại cụm từ “để ứng nghiệm lời Kinh Thánh…” khi nói về những biến cố trong cuộc đời Chúa Ki-tô. Nếu đức tin của chúng ta dựa trên nền tảng Kinh Thánh mà chúng ta lại chẳng hề đọc và suy niệm Kinh Thánh, thì thử hỏi đức tin là gì? Kinh Thánh là phương tiện cần thiết để chúng ta “biết” Chúa Giê-su, biết bằng trí óc, nhưng quan trọng hơn, là biết bằng trái tim chúng ta. Đức tin và Kinh Thánh là hai thực tại không thể tách rời. Hiểu biết Kinh Thánh giúp chúng ta phát triển và sống đức tin.
“Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Câu hỏi của hai môn đệ làm chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ. Chúng ta có thực sự lắng nghe Chúa “nói chuyện và giải thích Kinh Thánh” không? Những thời giờ chúng ta đọc và suy niệm Kinh Thánh có là những lúc chúng ta “nói chuyện” với Chúa và lắng nghe Người không? Nhất là chúng ta có để cho lòng mình “bừng cháy lên” do tình yêu cứu độ của Chúa Phục Sinh đang tâm sự với chúng ta không?
Biến cố Chúa Giêsu bị bắt, bị treo trên thập giá đã làm cho các môn đệ hoàn toàn hoang mang, thất vọng. Hai môn đệ hôm nay trở về Emmau cũng đang rơi vào tâm trạng não nùng ấy. Chúa Giêsu đã chết làm cho hai ông không còn gì để hy vọng. Tương lai của cac môn đệ thật đen tối. Do đó, họ trở về với nghề nghiệp cũ của mình…
CÂU CHUYỆN THẬT CÒN ĐÓ NHƯNG HAI MÔN ĐỆ CHƯA NHẬN RA: Trên đường trở về quê sống lại nghề nghiệp họ đã làm từ trước, hai môn đệ vẫn canh cánh trong lòng câu chuyện về Thầy Giêsu mà họ hết lòng tôn kính, mến yêu và đặt tất cả kỳ vọng, đặt tất cả niềm tin vào đó, nay đối với họ quả thực tiêu tan. Họ đi về làng với tâm trạng ê chề, buồn chán. Haimôn đệ này: ông Cơ-lê-ô-pát và một môn đệ khác vừa đi vừa trò truyện với nhau về việc vừa xẩy ra cách đây vài ngày liên quan tới Chúa Giêsu.Tin Mừng Luca cũng cho biết rõ, đang khi họ trò chuyện với nhau, Chúa Giêsu hiện ra và cùng đồng hành với họ. Thân xác Chúa Giêsu phục sinh quả không còn giống lúc Ngài còn sống, vì thế hai môn đệ dù đã sống với Chúa, nghe Chúa nói hằng ngày vẫn không nhận ra Chúa đang đi với mình. Chúa đã hỏi hai môn đệ:” Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về việc gì vậy ?”. Hai môn đệ vẫn còn bị che phủ, chưa nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh.Chúa luôn dành cho họ, cho con người những gì là tốt nhất nhưng đầy bất ngờ. Trước những điều thắc mắc của các môn đệ, Chúa Giêsu mời gọi họ quay trở về với Kinh Thánh từ các ngôn sứ, rồi ông Môisê, Ngài giải thích cho họ tất cả những gì Kinh Thánh đã nói về Ngài. Ở đây, Chúa Giêsu giải thích Kinh Thánh và mời họ tin vào Bí Tích Thánh Thể để nhận ra Người vẫn còn hiện dịện và cùng đồng hành với họ trong cơn hốt hoảng họ đang phải trải qua. Chúa Phục Sinh đã khơi lên sự ấm áp trong họ, chứng minh rằng:” Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người “ ( Lc 24, 26 ). Nhờ lời giải thích của Chúa Giêsu sống lại mà lòng trí các môn đệ bừng cháy lên” ( Lc 24, 32 ). Mặc dầu các môn đã cảm thấy ấm áp trong lòng nhưng mắt họ vẫn chưa nhận ra vì lúc đó đức tin tinh khôi của họ còn lu mờ…
PHẢI NHÌN VÀO VIỆC LÀM CỦA CHÚA, CÁC MÔN ĐỆ MỚI NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH: Đã sống với Chúa Giêsu trước khi Ngài chịu chết nhưng lúc này lòng trí các môn đệ vẫn tối tăm. Tâm hồn các môn đệ vẫn còn bị đóng lại. Chính phải đợi lúc các môn đệ xin Chúa vào nhà trọ với họ vì trời đã xế chiều nghĩa là trời đã tối, khi đồng bàn với các môn đệ với các cử chỉ quen thuộc của Chúa sống lại như cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ .Lúc đó các môn đệ mới nhận ra Chúa Giêsu ( Lc 24, 31 ). Chúa Giêsu trong những lúc khó khăn nhất, khủng hoảng nhất, thất vọng nhất, Ngài vẫn hiện diện, đồng hành và đồng bàn với các môn đệ của Người.
Các môn đệ chỉ trong tích tắc họ đã có cái nhìn của đức tin tinh khôi. Họ đã nhận ra Chúa Phục Sinh, Đấng họ luôn tin tưởng, tôn kính và yêu thương. Đấng Phục Sinh đã biến khỏi họ khi họ nhận ra Người và lúc đó họ đứng dậy, không sợ sệt, không lo âu dù trời đã tối, họ trở về Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các anh em bạn bè đang tụ họp nhau bàn tán. Họ kể lại sự việc và thuật lại họ đã nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh khi họ đồng bàn với Người thế nào. Thật là niềm vui vỡ òa giữa họ. Họ đã vui mừng, niềm hy vọng đa õtrở về với họ khi nỗi thất vọng dâng tràn.
Trong cuộc đời lữ hành trần thế, đã rất nhiều lần chúng ta gặp Chúa như hai môn đệ trên đường về làng Emmaus nhưng chúng ta đâu có nhận ra Ngài. Chúa vẫn có đó mọi chỗ, mọi nơi, Chúa có đó trong anh em của ta, trong những người nghèo, trong những người neo đơn, đói khổ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con mau mắn nhận ra Chúa đang hiện diện trong anh em của chúng con. Amen.
Hôm ấy là ngày đầu tuần, vào buổi chiều, có hai người bạn đồng hành cùng đi về hướng Emmaus, trong tâm trạng buồn rầu chán nản. Họ vừa bừng tỉnh sau một giấc mộng không thành. Họ bước theo một người Nadarét với hy vọng sẽ được tham gia cuộc giải phóng dân tộc, nhưng người Nadarét ấy không còn nữa. Ông đã bị đóng đinh vào thập giá. Nhưng quên làm sao được khuôn mặt của một người thầy, một người bạn, một người mà các ông coi như là một tiên tri, một người mà Phêrô đã tuyên xưng là Đức Kitô. Vì thế các ông vừa đi vừa kể lại cho nhau những kỷ niệm khó quên.
Đang lúc các ông lê bước, buồn sầu, hoang mang như vậy thì bỗng có một người thứ ba cùng đi theo một hướng. Người lạ này có vẻ như muốn nhập bọn đồng hành với hai ông. Các ông đi chậm lại và người bạn đồng hành mới đuổi kịp các ông. Ông bạn mới này có vẻ tò mò, ông không ngần ngại lên tiếng hỏi: Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy? Các ông đáp: Ông không biết chuyện gì vừa mới xảy ra tại Giêrusalem ư? Chuyện ông Giêsu người Nadarét đó. Thế là các ông thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho ông bạn mới. Không ngờ vừa nghe xong, ông bạn mới bèn buông lời trách móc: Người đâu mà tôi tăm ngu muội thế. Chưa kịp chống đỡ, thì người bạn đồng hành với đã thao thao bất tuyệt đem lời Kinh Thánh ra để chứng minh rằng: Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang.
Câu chuyện còn đang tiếp tục thì hai ông đã đến nơi mình định đến. Với tinh thần hiếu khách, các ông mời người bạn mới vào quán trọ. Và thế là các ông nhận ra Ngài lúc bẻ bánh. Các ông vội quay trở lại Giêrusalem để đem tin mừng cho các anh em khác. Các ông chưa kịp kể hết, thì đã được các anh em khẳng định rằng Chúa đã sống lại và hiện ra với Phêrô.
Niềm tin đã trở nên vững chắc, mọi đau buồn đã tan biến, mọi ngờ vực đều đã được giải toả. Chiều thứ nhất u buồn đã được đổi thành chiều Chúa nhật vui tươi. Cũng như hai môn đệ trên đường Emmaus, một số tín hữu hôm nay cũng đang rời bỏ Giêrusalem, nghĩa là rời bỏ đức tin, rời bỏ Giáo Hội. Đối với một số người nào đó, chiều Chúa nhật đã trở thành chiều Chúa nhật buồn. và có những người tuy rời bỏ Giáo Hội, hoang mang mất niềm tin nhưng vẫn chưa dứt ra được cái quá khứ Kitô giáo của mình. Nhất là đối với những người lớn tuổi. Theo những bản thăm dò bên Âu Mỹ, thì nhiều người bỏ đạo trong thời niên thiếu, nhưng sau 60 tuổi thì lại lục đục trở về. Tổng thống Mitterrand, trong những ngày cuối đời, đã dí dỏm trả lời người phỏng vấn ông về cái chết: Nếu có Chúa, thì tôi tin rằng Ngài sẽ nói với tôi: Cuối cùng thì ông đã đã đến. Thôi, vào đi.
Thái độ hoài nghi của nhiều người thời nay cuối cùng vẫn không hoàn toàn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi lương tâm mình bởi vì dù sao thì Người vẫn hiện diện một cách nào đó trong cuộc đời chúng ta như Người đã xác quyết: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Và hình bóng của Người có lẽ dễ cảm nhận hơn khi mà đường đời chúng ta sắp chấm dứt.
Thầy đồ viết một chữ “nhất” dạy học trò. Hôm sau, thầy cầm cái khăn ướt tự tay lau bàn, thấy trò đứng bên, bèn dùng cái khăn ướt viết một chữ “nhất” thật lớn trên mặt bàn rồi hỏi trò đó là chữ gì. Trò không thuộc mặt chữ, đứng thộn ra, thầy nói:
- Hôm qua chẳng phải thầy đã dạy con chữ “nhất” hay sao?
Trò tròn xoe mắt, ú ớ:
- Sao mới cách có một đêm mà chữ đã lớn đến như thế!
* ***
Hai môn đệ Emau cũng chẳng khác chi cậu học trò trong câu chuyện trên đây.Tuy đã được thầy Giêsu dạy dỗ ba năm ròng rã. Người cũng đã tiên báo về sứ mạng thiên sai của mình, rằng Người phải vượt qua đau khổ mới tới vinh quang. Các ông tưởng mình đã hiểu, đã thuộc bài, nhưng thực ra các ông còn rất mù mờ. Chính khi đụng chuyện, khi mà người ta “đóng đinh Người vào thập giá” các ông mới chưng hửng. Hóa ra các ông chẳng hiểu gì! Thế là như rắn không đầu, các ông chạy tứ tán mỗi người một phương.
Đức Giêsu không chịu bỏ cuộc, Người đồng hành với các ông, trên đường Emmau Người đã giải thích Kinh Thánh cho các ông, rằng: “Đức Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Chính lúc nghe Lời Chúa, lòng họ đã bừng cháy lên (c.32), nhất là khi “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (c.30) thì họ mới thực sự nhận ra Người, không chỉ bằng con mắt xác thịt mà bằng cả con mắt đức tin.
Vâng, giờ đây họ đã hoàn toàn xác tín rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu là một đêm dài tăm tối mà Người phải vượt qua để bước vào buổi bình minh vinh quang bất diệt. Đau khổ mà Đức Giêsu phải chịu không phải là một tai nạn bất ngờ nhưng là một chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu chúng ta đã nghe nói về Chúa và cũng được Chúa nói với chúng ta rất nhiều. Nhưng khi cơn gian nan thử thách tới, phong ba bão táp nổi lên, chúng ta mới thấy mình hiểu Chúa quá ít, yêu Chúa chẳng được bao nhiêu. Và niềm tin bắt đầu chao đảo theo con sóng cuộc đời. Như hai môn đệ Emmau, lúc này chúng ta cần phải bám lấy Lời Chúa, như đuốc sáng soi đường, như hải đăng định hướng, giúp chúng ta vượt qua các cơn giông tố.
Cũng đừng quên rằng, chính khi “bẻ bánh” mà hai môn đệ Emmau mới bừng sáng con mắt mà nhận ra Người. Chỉ có bí tích Thánh Thể mới giúp người tín hữu hồi phục sau những cơn giông tố. Chỉ có Bí tích Thánh Thể mới bổ sức cho người tín hữu sau những lần vấp ngã đắng cay. Chỉ có bí tích Thánh Thể mới dẫn đưa chúng ta từ nơi tối tăm sự chết đến miền ánh sáng Phục sinh.
Lạy Chúa, “xin ở lại với chúng con”, vì chúng con rất cần Chúa trong các cơn giông tố cuộc đời. Chúng con không xin Chúa những ơn cao cả, nhưng chỉ xin Chúa luôn hiện diện. Có Chúa, đời chúng con không phải chẳng còn sóng gió, nhưng chắc chắn chúng con sẽ tới bến bình an. Amen.
Theo luật tự nhiên, con người có sinh và có tử. Khi nghe tin có người thân qua đời, chúng ta bàng hoàng thương tiếc và lòng buồn rười rượi vì sự thiếu vắng. Dù có sầu thương và nhớ nhung nhưng khi chôn táng người qúa cố xong, chúng ta cũng phải rời bỏ mộ phần để trở về. Ai trong chúng ta cũng có những trải nghiệm đau thương trong cuộc đời ô trọc này. Khi một người thân lìa đời, chúng ta thường tu họp cầu nguyện, khóc than, chia buồn và tiễn biệt. Sau khi đưa tiễn người qúa cố tới nơi an nghỉ cuối cùng, thì ai nấy lại trở về quê quán và tiếp tục cuộc sống bình thường như dòng sông tiếp tục chảy. Hai môn đệ trên đường Emmau về quê cũng không ngoại lệ. Khi Thầy Giêsu đã chịu tử hình thập giá, xác được hạ xuống xức dầu thơm rồi chôn trong mồ, thì kể như mọi việc đã hoàn tất. Chấm dứt một đời người. Hai môn đệ buồn bã trở về quê hương xứ sở để tiếp tục đời sống như xưa.
Phúc âm kể rằng hai môn đệ đang trên đường về quê, thì xuất hiện một vị khách lạ cùng muốn đồng hành: Đang khi họ nói truyện và trao đổi với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người (Lc 24, 15-16). Vị khách thông hiểu Kinh Thánh đã dẫn đường mở trí cho cả hai ông. Họ không nhận ra Thầy của mình. Họ đã chứng kiến mọi điều đau thương đã xảy ra cho Thầy mấy ngày qua. Còn gì mà hy vọng nữa chứ. Cho dù sau đó, họ có nghe mấy chị phụ nữ loan tin Chúa đã sống lại, nhưng tin này lại quá sức tưởng tượng. Họ không thể tin được những sự kiện lạ lùng là có kẻ chết tự mình sống lại. Thế là hai môn đệ bỏ ngoài tai tất cả. Chúng ta có thể tưởng tượng hoàn cảnh tại thành Giêrusalem của hai ngàn năm về trước, sự thông tin còn rất giới hạn và cuộc sống xô bồ đổi thay. Tuần trước đó, dân chúng đón Chúa vào thành, tung hô ca ngợi. Mấy ngày sau, cũng chính nhóm người đó, lại giơ tay xin tha cho Ba-ra-ba, tên trộm cướp và giết Giêsu. Làm sao có thể tin được những dư luận hay luận dư của người đời?
Câu truyện dài được thánh Luca kể, đi tới kết luận có hậu, là hai môn đệ đã được mở mắt nhìn xem và nhận ra Chúa. Với một cử chỉ rất thân quen và ý nghĩa: Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất (Lc 24, 30-31). Cùng là một vị khách lạ, lúc đầu, hai môn đệ không nhận ra Thầy, nhưng khi Thầy cầm bánh trao cho họ, môn đệ mới nhận ra Thầy mình. Như thế, sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu không còn bị giới hạn trong một dáng vẻ hay hình thể nào và không ai có thể nhận ra Chúa, nếu Chúa không ban ơn soi sáng. Dựa vào nghi thức bẻ bánh, các môn đệ đã nhận ra chính là Thầy của mình. Đây là khởi đầu của việc cử hành Bí Tích Thánh Thể.
Sự kiện bẻ bánh rất quan trọng đặt nền tảng cho niềm tin qua mọi thời đại. Giáo hội đã duy trì, sắp đặt và chính thức hóa nghi thức này qua việc cử hành Bí Tích Thánh Thể trong thánh lễ. Trung thành với lời truyền của Chúa Giêsu là các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy. Hai môn đệ đã nhận ra Thầy của mình qua một cử chỉ rất đơn sơ, nhưng chứa đựng một thông điệp vô cùng quan trọng. Chúng ta biết vào thời Giáo hội sơ khai, nghi thức bẻ bánh trở thành dấu chỉ và trung tâm của mọi cuộc tụ họp cầu nguyện của các tín hữu. Sau khi hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu đã đang hiện diện, họ đã mau mắn trở lại Giêrusalem để gặp gỡ các tông đồ. Quay đầu là bờ. Hai môn đệ đã trở về cùng qui tụ với các tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh.
Sách Tông Đồ Công Vụ đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu chịu chết theo dự định của Thiên Chúa và có cả trách nhiệm của con người: Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu đã bị nộp và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi (Tđcv 2, 23). Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã qui lỗi sự thông đồng của những người sát hại Chúa. Nhiều người đã đồng ý giơ tay xin tha kẻ cướp và giết đi Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thái độ cần có để lãnh nhận ơn cứu độ là sự ăn năn sám hối. Chúa đã chịu mọi hình khổ để đền tội thay cho chúng ta. Giá máu châu báu của Chúa có uy quyền tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi của cả nhân loại.
Sự sống lại của Chúa Kitô là một sự chiến thắng vinh quang. Thần dữ và sự chết không còn quyền hành gì đối với Người: Sau khi bẻ gẫy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết, mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó (Tđcv 2, 24). Người đã chiến thắng tử thần và mang lại sự tự do đích thực cho con người. Nhân loại không còn bị kìm hãm trong đau khổ, sự tội và sự chết. Chúa Kitô đã mở đường giải thoát và hy vọng vào một cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Kitô là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc. Chúng ta không còn sợ hãi trước cái chết. Vì ai cũng phải bước qua sự chết để vào cõi sống đời đời.
Sự sống lại của Chúa Kitô đã trả lời cho nhiều vấn nạn khó khăn mà chúng ta đang gặp phải. Khi chúng ta thường đối diện với những lo lắng khổ đau, như khi phải chăm lo cho những người con dị hình, bất toại, khuyết tật hoặc chạm trán với sự chết chóc của người thân yêu trong gia đình. Khi chúng ta rơi vào sự thất vọng vì buồn sầu, bệnh hoạn, thiên tai, động đất, sạt lở, sóng thần, bão tố, chiến tranh, loạn lạc và tai nạn giao thông xe cộ, tầu bè và máy bay... Những sự cố xảy ra trong những ngày qua, khi nghe tin những người thân thuộc trong gia đình bị mất tích trong chuyến máy bay (Malaysia Airlines MH 370) hay chiếc tầu Sewol bị chìm ở Nam Hàn kéo theo cả trăm học sinh chôn vùi dưới đáy biển. Ai có thể cầm được nước mắt. Ai có thể trả lời cho những sự mất mát qúa to lớn xảy ra cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thân hữu và mọi người. Nếu chúng ta không có niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, sự khổ đau của chúng ta sẽ không có đáp án. Chúng ta sẽ buồn đau và chết lặng trong sự tuyệt vọng.
Thánh Phêrô đã mời gọi mọi người hãy tin tưởng vào Chúa Kitô sống lại. Giá máu châu báu của Người sẽ cứu thoát linh hồn chúng ta: Anh em đã được cứu chuộc bằng máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố (1Petr 1, 19). Đây là niềm tin cao quí được các tông đồ truyền lại và Giáo Hội bảo toàn suốt 20 thế kỷ qua. Sự sống lại không phải là niềm tin phù phiếm, mơ hồ hay mê tín dị đoan. Một sự thật trong đời sống đức tin. Chúng ta bước đi trong niềm tin Kitô Giáo, chứ không phải là một sự kiện khoa học thực nghiệm cụ thể. Niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô sống lại được minh chứng bằng đời sống, bằng các chứng nhân và sự tốt lành thánh thiện của con người hôm nay: Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho Người sống lại từ cõi chết và ban vinh quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa (1Petr 1, 21).
Truyện kể: Có một ông đã can đảm nhảy xuống dòng nước xoáy để cứu một cậu bé bị rớt xuống sông. Đây là một sự thách đố ghê gớm. Dòng sông nước chảy xiết, như nhờ có phép lạ, người đàn ông một tay đã với được cành cây và trong khi một tay chộp lấy tay của cậu bé. Thập tử nhất sinh, sau cùng ông đã cứu được cậu bé an toàn thoát chết. Ông đưa cậu bé về nhà và trao cho mẹ chăm sóc. Trước khi rời nhà, cậu bé nói: Cám ơn ông rất nhiều đã cứu sống cháu. Người đàn ông nhìn vào mắt cậu và nói: Rất tốt, nhưng bảo đảm đời sống của cháu đáng giá trị để được cứu sống. Đời sống của mỗi người chúng ta rất quí báu. Vì thân xác linh hồn của chúng ta được chính Con Một Thiên Chúa đã lấy máu đào để cứu độ.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Chúa phán: Phúc cho ai không thấy, mà tin. Chúng con xác tín niềm tin nơi Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng con sẽ được bước đi trong ánh sáng và tiến tới sự sống đời đời.
Trong hành trình cuộc sống, nhiều khi chúng ta tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Người tín hưũ đôi khi cũng bị người khác hỏi: Thiên Chúa bạn ở đâu? Bài Tin Mừng về Chúa Giêsu phục sinh đồng hành với 2 môn đệ đi Emmau giúp chúng ta trả lời được những thắc mắc như vậy.
Hai môn đệ ở trong hoàn cảnh "mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót chân buồn đường dài" như cha Thành Tâm diễn tả. Lúc ấy hẳn là họ nghĩ Thiên Chúa ở nơi đâu hết sức cao xa. Nhưng thật ra Chúa Giêsu phục sinh đang đồng hành với họ mà họ chưa nhận ra ngay. Trên đường, Chúa cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ, khiến lòng họ nóng lên. Lúc đồng bàn, Chúa bẻ bánh trao cho họ, khiến họ nhận ra Chúa. Từ chỗ hoang mang bỏ Giêrusalem ra đi, họ vui mừng quay trở lại Giêrusalem với anh em. Hôm nay Chúa Giêsu phục sinh vẫn đồng hành với chúng ta như vậy.
Và Chúa cũng muốn đồng hành với con người thời nay như vậy. Có người không biết tại sao mình có mặt trên đời để. Có người đau khổ vì bệnh tật hay vì ác tâm của người đời. Có người buồn sầu vì những mất mát... Chúa muốn đồng hành với họ, soi sáng họ, dẫn đưa họ vào con đường Chúa đã đi để đến nơi Chúa đã đến. Chúa thực hiện điều ấy qua các môn đệ của Chúa. Tôi phải đóng vai của Chúa Giêsu phục sinh đối với người này, bạn phải đóng vai Chúa Giêsu phục snh đối với người kia. Chúng ta trở thành Chúa Giêsu phục sinh cho nhau.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin Chúa ở lại với chúng con, để chúng con vượt qua những hoang mang trong cuộc sống, đạt gới niềm vui, nhờ đó chúng con cũng có thể giúp anh em như vậy trong cuộc sống của họ.
Nối tiếp trình thuật việc Chúa Giêsu sống lại và hiện ra cho các Tông đồ - những người được truyền chức linh mục trong đêm trước ngày chịu nạn, hôm nay, Thánh Gioan gửi đến trình thuật Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với hai giáo dân đầu tiên của Giáo Hội.
Hai người nầy từ Giêrusalem đi ra để về làng Emmaus cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Không thấy Thánh Gioan nói đến chi tiết họ bỏ Giêrusalem, để đi tìm một chỗ an thân hơn giữa cơn bức bách điêu tàn, nhưng chỉ cho biết lòng họ buồn rầu vì cuộc thương khó kinh hoàng của Chúa Giêsu vừa xảy ra. Tai họ vẫn còn nghe tiếng búa đinh chát chúa. Mắt họ vẫn còn hình dung ra một thân xác con người Giêsu mê mếch máu từ mão gai trên đầu cho đến bàn chân. Tôi đồng cảm với hai giáo dân nầy khi nhớ lại biến cố Lm. JM Nguyễn Thế Thoại bị mời đi cải tạo ngày 15-6-1977. Giáo xứ Hòa Yên như rắn mất đầu. Các thầy ở trung tâm thần học Hòa Yên và cả ông Chủ Tịch Nghiêm không làm sao giải thích nỗi cho bà con giáo dân, vì chính các thầy, và hội đồng giáo xứ cũng không hiểu điều gì đang xảy ra. Chỉ biết Bố ra đi, rồi bặt vô âm tín, chỉ có ngày đi mà không biết ngày về. Hoang mang khiếp sợ từ Hòa Yên lan ra tới Hòa Nghĩa rồi khắp vùng Cam Ranh. Đâu đâu cũng bàn tán chuyện Bố Thoại bị bắt. Rồi sẽ đến Bố nào nữa? Nhớ lại tâm trạng của tôi và của giáo dân ngày ấy, giúp tôi hiểu ra phần nào nỗi buồn của hai giáo dân trên đường Emmaus. Họ còn đau thương hơn chúng tôi, vì họ không chỉ chứng kiến thầy mình bị bắt, bị tra tấn … mà còn mục kích tận mắt cái chết bi thương của Thầy trên Thánh Giá, và niềm tin vào việc Thầy mình sẽ sống lại quả là một thách đố lớn lao cho họ, vì họ là những người có thể nói là chưa thân thiết lắm với Chúa Giêsu, như các tông đồ.
Chúa Giêsu hiểu tâm trạng của họ và Ngài đã hiện ra với họ trong tư cách là một người đồng hành – không chỉ đồng hành trên quảng đường đi, mà đồng hành với họ trong từng suy tư, trong mỗi xúc cảm, và cả trong sự chao đảo của niềm tin ban đầu. Ngài đã hỏi han họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?". Rồi Ngài nhận lời trách cứ của họ: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." Và Ngài lắng nghe họ chia sẻ: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đấy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn còn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”.
Nghe hai giáo dân trình bày những thổn thức, những dao động trong hành trình đức tin, Linh Mục Giêsu Phục Sinh cũng cố niềm tin của họ ngay lập tức bằng một thánh lễ trên đường đi. Mở đầu là lời mời gọi họ nhìn nhận họ kém tin vào lời các ngôn sứ, nhìn nhận trí khôn giới hạn của mình trước chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô. Phần Phụng Vụ Lời Chúa cử hành ngay trong lúc đi, Linh mục Giêsu đã trích dẫn lời Thánh Kinh qui chiếu về nhân vật Giêsu, Ngài đã giảng giải cặn kẻ cho họ và đã làm cho lòng họ bừng cháy lên niềm tin yêu vững vàng. Vì trời đã chiều, nên họ mời Chúa Giêsu ở lại với họ, và chính lúc nầy, Linh Mục Giêsu cử hành phần Phụng Vụ Thánh Thể, bằng việc “cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng” và khi “tấm bánh được bẻ ra, trao cho họ” thì mắt họ mở ra, và họ nhận ra Người nhưng Người đã biến đi. Vâng, Ngài đã biến đi theo lời kể của Thánh Gioan, nhưng thật ra, Ngài đang ở lại với họ, đang sống động trong lòng họ vì họ đã ăn Tấm Bánh Thân Xác Tử Nạn và Phục Sinh của Người.
Chính tấm bánh ấy, chính Thánh Thể Người đã phục sinh cõi lòng họ, phục sinh niềm tin, phục sinh niềm vui, niềm hy vọng và phục sinh đời sống Giáo Hội trong họ, đời sống chứng nhân phục sinh cho mọi người.
Kết thúc thánh lễ trên đường Emmaus là cuộc trở về Giêrusalem với Giáo Hội, với các Tông Đồ, để nghe các Linh Mục của Chúa loan tin Chúa đã sống lại, và họ, là giáo dân, cũng mạnh dạn trình bày chứng từ phục sinh mà họ đã nhận được từ Chúa Giêsu Phục sinh. Thánh Gioan kết thúc đoạn trình thuật sống lại và hiện ra với giáo dân bằng một cuộc sum họp duy nhất thánh thiện trong cùng một Đức Tin của cả Linh Mục và Giáo dân, của cả cộng đoàn dân Chúa. “Các tông đồ bảo hai ông: "Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." 35 Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.
Là những Kitô hữu giáo dân trong giáo hội, qua trang tin mừng hôm nay, thiết tưởng chúng ta được phép vui mừng, có thể theo cách vui mừng của trần thế, vì giáo dân cũng được vinh dự mục kích tận mắt Chúa Giêsu Phục Sinh: ít là một bà Madalena, hai người trên đường về Emmaus.
Chúng ta được vui mừng, vì chính Chúa Giêsu Phục Sinh qua các linh mục, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc đời. Ngài thăm hỏi chúng ta, Ngài hiểu chúng ta, nhận lời trách cứ của chúng ta khi ta chưa hiểu Ngài. Ngài lắng nghe nỗi niềm của chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta nhìn nhận sự hèn kém của mình trước mầu nhiệm Thiên Chúa, để chấp nhận lắng nghe lời Ngài ân cần giải thích cho chúng ta. Và Ngài cử hành cho chúng ta hy tế chính Thánh Thể Ngài để niềm tin phục sinh của chúng ta thêm vững chắc. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ vụ Linh Mục bằng chính sự phục sinh của mình để các linh hồn được phục sinh. Ngài giảng giải sống động và có sức làm cho lòng con người bừng cháy lên vì Ngài đã giảng giải bằng chính sự phục sinh của mình….Vì vậy, chúng ta có quyền tin tưởng rằng: Chúa không lầm khi ban tác vụ linh mục để các Linh Mục của Chúa sống-trước-đời-sống-phục-sinh ngay trong đời sống trần thế, để chính các Ngài là hiện thân của Chúa Giêsu Phục sinh từ việc mục vụ đến việc tế lễ, để chính các ngài thực là tấm gương tấm bánh bẻ ra cho nhiều người được sống. Chúng ta có quyền tin tưởng - không phải là ước ao hay khát vọng. Và nếu chúng ta có thấy bóng dáng của sự chưa-phục-sinh trong đời sống một vài linh mục, thì thiết tưởng, cũng không phải là cái cớ vô duyên dẫn chúng ta đến chổ mất niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Mới đây, được đọc bài “Nghĩ gì về cao trào Giáo dân” của Linh Mục Anre Đỗ Xuân Quế, tôi bỗng dưng dị ứng với hai từ “cao trào”, vì thoạt đầu nghe như giáo dân đòi “nỗi dậy”; nhưng rồi tôi hiểu được ý ngài muốn trân trọng đóng góp của giáo dân cho Giáo Hội thời đại hôm nay trong mọi lĩnh vực, dưới mọi hình thức, để Tin Mừng Phục Sinh lan xa tới tận cùng bờ cõi trái đất. “Sự hợp tác giữa linh mục và giáo dân là cần thiết và bổ ích..Giáo dân đón nhận sự tín nhiệm và lời mời gọi của linh mục một cách chân thành và khiêm tốn. Linh mục coi trọng khả năng chuyên môn và lòng tận tâm của giáo dân. Cả hai cùng đồng lao cộng tác trong việc phụng thờ Chúa và muu ích cho các linh hồn” (Lm. Anre Đỗ Xuân Quế)
Vâng, đến muôn đời, đến muôn muôn đời, giáo dân cần có các linh mục là chừng nào, càng cần có những linh mục phục sinh là chừng nào… để họ được Chúa Giêsu phục sinh đồng hành, hỏi han, giảng giải, để họ có Thánh Thể như của ăn đàng trên đường về quê hương phục sinh vĩnh cữu, và để họ được hợp tác, như hai giáo dân Emmaus ngày ấy, trở về Giêrusalem hợp tác với các linh mục của mình, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh đến mọi hang cùng ngõ hẻm trần gian.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cử hành thánh lễ trên đường Emmaus để đức tin của các tín hữu được củng cố. Xin cho đức tin phục sinh của chúng con cũng được bồi dưỡng qua việc sốt sắng lắng nghe Lời Chúa và Dự Tiệc Thánh Thể trong thánh lễ hàng ngày, và để nhờ đó, chúng con trở nên nhân chứng phục sinh sống động giữa cuộc đời. Amen.
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”: Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.
Từ nay, mỗi lần đọc đến câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau”, chúng ta thật xúc động và cầu nguyện với Thánh Gioan Phaolô II. Trong năm cuối cùng của triều đại Giáo hoàng, Ngài đã mở ra Năm Thánh Thể, mời gọi cộng đoàn Dân Chúa qui hướng về Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu hiện diện thường trực và sống động.
Khi để lại cho Dân Chúa lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, Thánh Gioan Phaolô II muốn công bố và nhắc nhớ về Đức Giêsu Phục Sinh. Bởi vì có phục sinh thật, Đức Giêsu mới đang thật sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, như thánh Phêrô công bố sự kiện Phục Sinh cho người Do thái sau khi Chúa sống lại (theo bài đọc 1). Ngài xác tín là, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu Phục Sinh khi mộ mến Bí Tích Thánh Thể. Ngài mời gọi, hãy nhớ đến Đấng đã cứu độ nhân loại, nhớ đến thân phận con người và diễm phúc là đã được cứu nhờ Đức Giêsu hy sinh mạng sống và đổ máu vì chúng ta; hay nói như thánh Phêrô trong bài đọc 2, được cứu khỏi nếp sống phù phiếm và sự chết đời đời, không phải nhờ vàng bạc hay hư nát mà nhờ Máu châu báu của Đức Giêsu.
Câu chuyện “Hai môn đệ trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh.
Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo.
Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục Sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh.
Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T: Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.
1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh
Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44).Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách Công vụ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.
Thánh Giêrônimô đã nói: Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).
Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).
2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Trên đường Emmau, có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban, hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông được đổi mới.
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine", số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).
Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.
Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.
3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh
Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình.
Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".
Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh).
Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Bài Phúc âm hôm nay (Lc 24, 13-35) kể lại câu chuyện hai môn đệ trên đường về Emmaus được gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh. Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta không thể không nhắc đến hai con đường. Con đường đó là con đường của con người và con đường của Thiên Chúa.
Con đường của con người
Lúc đầu, khi rời Emmaus lên đường theo Chúa Giêsu, hai môn đệ mang nhiều hoài bão và mơ ước về tương lai. Theo Thầy Giêsu, giống như những môn đệ khác, hai môn đệ này đã trao vào tay Chúa Giêsu tương lai của mình, trong đó đặt hết hy vọng nơi Thầy Giêsu. Một mai khi Chúa thành công, thì họ sẽ được ngồi bên tả và bên hữu Chúa, họ sẽ được nắm giữ những vai trò, những chức vụ quan trọng trong triều đình, trong vương quốc của Chúa. Tưởng chừng thành công nắm trong tầm tay. Thế nhưng Đấng Messia mình đặt hết hy vọng giờ đây đã chết. Thầy chết, trò tản mất. Thua to, mất trắng. Mộng đẹp không thành. Một tương lai tưởng chừng như huy hoàng sáng lạng giờ là một màu xám đen... Bây giờ trở về quê, tâm hồn của họ chất đầy buồn phiền, chán nản và thất vọng. Cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu trên thập gía làm tiêu tan niềm hy vọng của họ. Trở về quê đồng nghĩa bắt đầu lại cuộc đời từ vạch xuất phát, bắt đầu từ điềm số 0. Thật ngán ngẫm lắm chứ!
Có thể nói đoạn đường thăng trầm này biểu tượng cho đời sống đức tin của người Kitô hữu, những người lữ khách đang tiến bước về quê trời. Chúng ta cũng từng gặp những giai đoạn bão táp trong đời khi đi theo Chúa, khi mà đức tin chúng ta bị dao động do những tác động ngoại tại và cả trong nội tâm thiêng liêng của mình. Trong những giai đoạn giông bão này, rất có thể do ảnh hưởng đời sống vật chất: cơm áo gạo tiền...rất có thể do ảnh hưởng do sự thiếu trưởng thành trong đời sống đức tin của chúng ta, chẳng hạn chúng ta nghĩ lại: đi Lễ hoài mà thấy có được gì đâu? Theo Chúa thì thiệt thòi, thua lỗ, bỏ dở công việc làm ăn, không thể gian lận, không thể lường gạt,....Từ những suy nghĩ đó, chúng ta bị lôi kéo theo những trào lưu thế tục hiện đại, tưởng chừng tích cực, tưởng chừng nó có thể giúp chúng ta bước lên vinh quang...Tệ hại hơn chúng ta bị cám dỗ và phạm tội thất vọng đối với Giáo Hội, chống lại Giáo Hội, thậm chí còn đã từ bỏ Giáo Hội, không còn nhiệt tình và hăng say theo Chúa và nghe lời Giáo Hội nữa. Kết quả chúng ta nhận được là con số 0. Con đường con người là như thế đó. Nếu chỉ dừng lại tại đó, coi chừng có thể chúng ta sẽ chết trong suy nghĩ ấu trĩ của chính mình.
Con đường của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có đường lối của Ngài. Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng trên nẻo đường cong. Trong phần sau câu chuyện trên đường Emmaus cho thấy điều đó. Các môn đệ muốn theo Chúa trên đường vinh quang nhưng Thiên Chúa thì đi con đường khác với suy nghĩ của các môn đệ. Chúa Giêsu phải chết rồi mới sống lại vinh quang. Thầy Giêsu đang hiện diện thật sự ngay bên cạnh họ. Thầy Giêsu đã giúp họ nhận ra Ngài. Thầy Giêsu đàm đạo, giải thích Thánh Kinh cho họ hiểu ý nghĩa của khổ nạn: "Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát trở thành điểm khởi đầu của những lợi lộc, thất bại trở thành khởi điểm của thành công, đau buồn giờ đã nhuốm mầm niềm vui hạnh phúc. Thầy Giêsu ăn uống với họ: "Người cần bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông" (Mt 24,30). Họ đã nhận ra Người. Sự hiện diện của Ngài đã làm cho cuộc đời trở nên có ý nghĩa, đêm tối trở thành ánh sáng. Nhờ Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể, hai môn đệ đã tìm thấy ý nghĩa của biến cố. Họ đã quay trở lại Giêrusalem nơi cuộc khổ nạn và cái chết bi đát đã xẩy ra và can đảm đối diện với nó bằng đức tin và niềm hy vọng. Phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể "làm thành một hành vi phụng tự duy nhất" của Giáo Hội (Sacrosanctum Concilium, 56). Người hướng dẫn ta qua Lời Chúa được ghi chép trong Kinh Thánh (Dei Verbum, đoạn 21, 25), và trở nên nguồn sức mạnh nuôi dưỡng linh hồn ta trong Bí tích Thánh Thể.
Hai môn đệ về lại Giêrusalem với một trách nhiệm cần phải chia sẻ những gì họ đã có được. Điều mà họ phải loan báo chính là con đường của Thiên Chúa, con đường của niềm vui, hy vọng, niềm tin và tình yêu. Trong đêm tối người ta khó tin có mặt trời nhưng sự thực mặt trời vẫn luôn có đó. Trong đau khổ, người ta khó tin có Thiên Chúa, nhưng thực sự Thiên Chúa vẫn có đó. Vì Đức Kitô đã sống lại và đang đồng hành với chúng ta. Thiếu tình yêu của Đấng phục sinh khiến chúng ta có thể khó thấy con đường của Thiên Chúa, làm cho chúng ta dễ dàng ham vinh quang và địa vị xã hội, mặc dù có phải chà đạp lên kẻ khác. Thiếu tình yêu của Đấng phục sinh khiến chúng ta khó có thể thấy con đường của Thiên Chúa, sẽ làm chúng ta có thể ham tiền tài. Khi đó, chúng ta vật lộn, nai lưng ra để tìm tiền kiếm bạc, cho dù có phải vùi dập bản thân, gia đình và hành động bất công với những người chung quanh. Thiếu tình yêu của Đấng phục sinh khiến chúng ta có thể ham thích những vui thú phần xác. Chúng ta không còn ham thích sống đời đạo đức, dễ dàng bỏ Chúa, sẵn sàng bỏ Hội Thánh. Vì chúng ta không nhận ra con đường của Thiên Chúa.
Từ kinh nghiệm của hai môn đệ ấy, xem lại bản thân chúng ta. Chúng ta nhìn nhận rằng: Chúa hiện diện trong cuộc đời chúng ta, Chúa có con đường riêng dành cho chúng ta nhưng chúng ta vẫn không ra Ngài. Ngài ngự trong lòng chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, ý muốn của Ngài trong lương tâm ngay chính; Ngài cùng bước đi với chúng ta nơi tha nhân, nơi những anh em nghèo đói, bệnh tật, Ngài thật sự hiện diện nơi những người thiếu ánh sáng Tin mừng niềm tin và hy vọng. Con đường của Thiên Chúa thật bình thường và cũng thật kỳ diệu biết bao. Hãy mở lòng ra thì chúng ta sẽ nhận ra Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa những nghịch cảnh phong ba cuộc đời này, xin cho chúng con luôn xác tín Chúa luôn hiện diện và quan phòng chăm sóc chúng con, để chúng con sống bình an, tin tưởng và vui tươi theo Chúa. Cho chúng con dễ dàng nhận ra Chúa đang hiện diện và mời gọi chúng con tiếp đón Chúa nơi tha nhân. Amen.
Con tim rực sáng hay con tim vui trở lại khi con tim đó tìm được nguồn vui. Đây chính là cảm nghiệm của hai người đi trên đường làng Emau. Khởi hành chuyến đi là cuộc hành trình buồn thảm, kéo dài những ngày đen tối. Dọc đường hai người đã trò chuyện cùng kẻ đồng hành và họ đã mở bầu tâm sự cùng người đó. Người đó là ai mãi đến cuối ngày họ mới nhận ra và nhờ thế mà con tim của họ bừng lên niềm vui rộn rã.
Hai người đồng hành trên đường Emau không thuộc nhóm 12 tông đồ vì câu 33 ghi lại các ông thuật lại mọi sự cho nhóm 11 tông đồ. Một trong hai ông cũng đã nghe thuật lại chuyện mồ trống trong câu 24 khi họ nói trong số bạn bè chúng tôi ra thăm mộ thì thấy mộ trống đúng như các bà thuật lại còn xác Ngài thì không ai thấy.
Đức Kitô sống lại và đã hiện ra với các môn đệ, các bà yêu mến Chúa và hiện ra ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng không ai nhận ra Ngài. Điều này cho biết Đức Kitô Phục Sinh mang hình ảnh giống chúng ta, giọng nói giống chúng ta nên dù có gặp gỡ cũng lầm tưởng là một người bình thường nào đó. Người ta chỉ nhận ra khi Ngài cho phép. Hai người trên đường làng Emau đi cùng đường, sánh vai, sánh bước, đàm thoại, lắng nghe nhưng không nhận ra. Cuộc đối thoại về tôn giáo kéo dài, khởi đầu từ tổ phụ Môsê cho đến hết các tiên tri rồi Kinh Thánh nói về Đức Kitô. Dù nói, dù lắng nghe, dù đồng hành nhưng không nhận ra Đức Kitô. Đến chiều tối Ngài định tiếp tục nhưng hai người đưa lòng mến, ngưỡng mộ mời lại dùng bữa tối. Chính việc bác ái này dẫn đến bàn ăn tối. Tại bàn ăn Đức Kitô đã lập lại việc Ngài làm trong bữa Tiệc Li. Hành động bẻ bánh, dâng lời tạ ơn đã sưởi ấm con tim sầu thảm, mang lại niềm vui nồng nàn. Chính trong lúc vui mừng này Ngài biến mất trước mắt các ông. Hai người vội vã bước đi trong màn đêm báo tin vui. Tại bàn ăn người đi đường lập lại chính xác những gì xảy ra trong bữa Tiệc Li và các ông đã tự thú: phải chăng con tim của chúng ta không bừng cháy khi Ngài giải thích về Kinh Thánh cho chúng ta trên đường đi.
Câu chuyện trên đường Emau cho biết biết yêu mến Đức Kitô và có kiến thức về Ngài là hai việc khác nhau. Yêu ai không có nghĩa là biết rõ về người đó. Để yêu thì cần biết ít nhiều về người đó và từ từ khám phá thêm về người đó. Để yêu mến Đức Kitô điều cần biết là tình yêu và giáo lí Ngài giảng dậy rồi từ đó học biết thêm về tình yêu Ngài. Để làm được điều này cần có tấm lòng chân thành, cởi mở đón nhận Thánh Thần Chúa hướng dẫn.
Có kiến thức về Đức Kitô không có nghĩa là yêu mến Ngài. Để yêu mến cần con tim. Kiến thức về Đức Kitô là điều cần có nhưng không phải là yếu tố quyết định tin theo. Biết bao người có kiến thức về Đức Kitô và coi chúng như là những chứng tích lịch sử hơn là chứng tích niềm tin của tiền nhân. Nhìn sự việc như chứng tích lịch sử dẫn đến việc nhận biết Đức Kitô trong lịch sử. Nhìn nhận những chứng tích lịch sử như là dấu tích niềm tin của tiền nhân dẫn đến việc tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Ngài đã chết, sống lại, cùng đồng hành với tiền nhân và hiện còn đang đồng hành với những ai tin vào Ngài. Để làm được điều này cần có ơn Chúa, cần có linh ứng của Thánh Thần Chúa và cần sẵn lòng bước theo với con tim nồng cháy.
Có một vị tu sĩ Phật giáo nọ đang hấp hối gần chết xin một linh mục Công giáo chỉ dạy những chân lý đức tin công giáo. Vị linh mục tận lực tận tình để đáp lại ước muốn của vị tu sĩ này. Sau đó, vị tu sĩ Phật giáo cám ơn cha và nói thêm: “Thưa cha, cha đã đổ vào trí óc tôi đầy những tư tưởng hay ho đẹp đẽ nhưng cha đã để con tim tôi cô lạnh trống vắng”. Tâm hồn vị tu sĩ sắp chết này thiếu vắng cái gì vậy? Ông ta thực sự mong muốn điều gì? Tình yêu. Vâng, vì chỉ tình yêu mới mang lại an ủi và bảo đảm cho ông mà thôi. Những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ mới chỉ nuôi dưỡng trí óc chứ chưa hâm nóng con tim được. Chỉ có kinh nghiệm tình yêu mới đốt nóng tâm hồn. Mà nói đến tình yêu thì nói đến một ai đó, một tương giao thân mật ấm áp, sẻ chia (không ai nói tình yêu với một đồ vật hay một con vật). Và Ai đó ở đây chính là Chúa Kitô phục sinh! Gặp gỡ chính Đấng Phục Sinh. Nỗi cô lạnh trống vắng của vị tu sĩ Phật giáo kia cũng chính là sự thiếu vắng nơi hai môn đệ trở về làng Emmau hôm nay. Câu chuyện về cuộc hành trình Emmau chính là câu chuyện của những con tim rã rời thất vọng vì giấc mộng “nam kha” huy hoàng đã sụp đổ! Câu chuyện của những tâm hồn thoi thóp mòn mỏi vì lý tưởng mình theo đuổi đã tiêu tan! Dù thương nhớ tiếc xót con người Giêsu nhưng hai môn đệ giờ đây chỉ còn biết lê gót trở về làng xưa chốn cũ.
Chúng ta thấy đó, hai môn đệ dù đã theo và sống với Chúa mấy năm nhưng vẫn chưa đủ. Hai ông thế nào mà chẳng được nghe những lời hay ý đẹp mà Chúa Giêsu đã nói, những tư tưởng cao siêu mà chỉ có Chúa Giêsu, Đấng tự trời xuống mới nói được những sự trên trời. Hai ông cũng hiểu biết kinh thánh chứ. Nhưng những tư tưởng hay, những kiến thức về kinh thánh mới còn nằm trên đầu chứ chưa thấm xuống con tim, cõi lòng của hai ông. Vì vậy mà hai ông càng đơn lạnh hơn sau khi Chúa Giêsu chết. Thế rồi, hai ông cũng được nghe nói Chúa Giêsu sống lại. Các bà ra mộ Chúa về kể lại là đã gặp Thiên Thần bảo Chúa đã sống lại. Những môn đệ khác ra mộ cũng thấy như vậy và kể lại nhưng các ông vẫn không tin, vẫn thất vọng.
Kính thưa Cộng đoàn thân mến, Cứ nghe nói về Chúa Giêsu thì không đi đến đâu cả. Đạo chúng ta không nằm ở chỗ những lời hay ý đẹp, những tư tưởng cao sâu. Sống đạo không chỉ nằm ở cái đầu với một số hiểu biết về giáo lý, về kinh thánh… và giữ đạo lại càng không phải là nghe người này người khác nói về đạo, về Chúa hay chúng ta nghe biết về Chúa và cũng không phải xưa bày nay làm, vì cha mẹ đã rửa tội đâu! Hai môn đệ Emmau hôm nay có đủ hết các yếu tố đó nhưng các ông vẫn thất vọng, vẫn bỏ cộng đoàn các môn đệ…Đạo chúng ta, trước hết và trên hết là sự gặp gỡ - gặp gỡ chính Đấng Phục Sinh. Mỗi người chúng ta phải cảm nghiệm chính Ngài. Tư tưởng hay về Thiên Chúa, những hiểu biết về Thiên Chúa, nghe nói về Thiên Chúa… vẫn chưa đủ! Người ta nói mỉa mai rằng Có ai phải lòng và yêu một phụ nữ nào nếu chỉ nghe nói thật hay về người đó mà chưa hề gặp gỡ đâu? Nhiều khi nghe nói hay mà đến khi gặp gỡ lại càng thất vọng! Vâng, trăm nghe không bằng một thấy.Và cái thấy trong Đạo chúng ta không chỉ là cái thấy của đôi mắt trần đâu. Chúa Phục Sinh đến với hai môn đệ đấy, hai ông thấy đấy chứ nhưng có tin đâu? Cái thấy ở đây là thấy trong đức tin, là gặp gỡ, là đối thoại, là trao đổi, là tương giao thân mật giữa cá nhân chúng ta và Chúa Phục Sinh. Chúa Phục Sinh đã giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong kinh thánh. Ngài nói rõ rằng: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào vinh quang. Nhưng vẫn chưa đủ. Đợi cho đến khi đồng bàn, cầm bánh bẻ ra trao cho các ông như buổi chiều Tiệc Ly thì mắt các ông mới mở ra và các ông nhận ra Đấng Phục Sinh. “Trăm cái lý không bằng tí cái tình” Vâng, bằng một cử chỉ thân thương, cử chỉ trao ban chính mình cho nhau mà những con người yêu thương nhau cảm nhận ra ngay. Cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh đã khơi bùng ngọn lửa trong lòng hai ông, biến đổi họ, khiến họ tức tốc quay lại Giêrusalem để báo tin Chúa đã phục sinh. Dù Chúa Giêsu đã biến mất, dù trời đã tối mịt nhưng tâm hồn hai ông vẫn sáng. Dù đã mệt mỏi sau một ngày đi đường nhưng đôi chân họ, tâm hồn họ lúc này nhẹ lãnh rồi. Bất chấp những hiểm nguy, lúc này, không gì cản lối của những con người đã gặp Đấng Phục Sinh. Không màn sương, không đêm tối nào có thể bao trùm ngọn lửa rực sáng từ cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh được. Mọi băng giá của khó khăn, thử thách, chán nản thất vọng đều tan chảy nơi tâm hồn rực nóng của những con tim đã gặp Đấng Phục Sinh. Nếu hai môn đệ Emmau đã được biến đổi, được đốt nóng vì gặp Đấng Phục Sinh nhờ Kinh thánh và Thánh Thể thì chúng ta phải tự hỏi lại chính mình. Trong mọi thánh lễ, nhất là lễ Chúa Nhật, Chúa Phục Sinh lại chẳng trao cho chúng ta Lời Chúa trong các bài đọc, Ngài chẳng bẻ bánh trao Mình Máu Ngài cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể nhưng chúng ta có được biến đổi không? Chúng ta có ý thức tầm quan trọng của thánh lễ và sốt sắng tham dự thánh lễ không? Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện ở đó mà chúng ta có đến gặp gỡ Ngài Không? Nhiều người đi lễ để giữ luật buộc. Nhiều người xem thường và bỏ lễ vì cho rằng giữ đạo tại tâm! Nếu chúng ta không gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, chắc chắn chúng ta sẽ thất vọng và bỏ cuộc rồi bỏ Chúa , bỏ đạo. Người ta kể rằng cả bầy chó sói đi săn và đuổi một con mồi. Rút cục, Có nhiều con bỏ cuộc vì chúng chỉ sủa và chạy hùa theo thôi, còn chính nó thì chưa thấy con mồi. Chỉ những con đã thấy con mồi rồi thì nó nhất định rượt đến cùng. Vâng, nếu chính mỗi cá nhân chúng ta gặp Chúa Giêsu Phục Sinh trong Lời Chúa, trong Thánh Thể, chắc chắn chúng ta sẽ được biến đổi. Giống như hai môn đệ Emmau xưa, chúng ta sẽ đi theo Chúa đến cùng và loan báo Tin Mừng, bất chấp chán nản thất vọng, mệt mỏi lo toan. Không đêm tối nào làm chùn bước chúng ta.
Mỗi con ngừơi đều có một câu truyện đời mình để mà kể. Nhưng kể được rành rẽ, chúng ta phải làm chủ về mọi mặt: sáng tối, vui buồn, tốt xấu, ngọt ngào, đắng cay. Tuy nhiên về mặt tích cực dễ kể hơn, còn mặt tiêu cực thật khó nói, trừ phi có những người biết lắng nghe và thông cảm. Nhiều trường hợp quá đau xót khiến đương sự phát triển bệnh tâm lý. Những ai giầu kinh nghiệm về cuộc sống biết rõ điều này. Câu truyện sau đây có thể minh họa chút ít.
Một người đàn ông trung niên phỏng 35 tuổi, ăn vận lịch sự, tay sách một chiếc vali còn tương đối mới, bước vào một khách sạn ở Luân Đôn. Ông hỏi thuê một căn phòng nhỏ, nói là trú ngụ vài ngày. Cô tiếp viên hỏi tên tuổi để ghi vào sổ. Lạ lùng người đàn ông đỏ mặt bối rối. Cô thơ ký ngạc nhiên hỏi lại: “Xin cho cháu biết quí danh?” Người khách ngơ ngác: “Cô thông cảm, tôi không nhớ rõ?” Cô gái trẻ càng sửng sốt hơn: “Vậy làm sao cháu ghi số phòng cho ông?” Người đàn ông ấp úng: “Cô làm ơn thông cảm, ghi là Jeanne Brown được không?”. - “Nhưng thưa ông, đó là tên phụ nữ”. Rồi cô gái giúp đỡ người khách lục lọi các túi áo, mở cả vali nữa, nhưng chẳng tìm thấy chi hết. Ông ta không nhớ tên mình là gì, từ thành phố nào tới, quá khứ của ông hoàn toàn bị xóa bỏ. Ông đang mặc bệnh mất trí nhớ (amnesia).
Người ta đưa người khách lạ vào nhà thương. Một bác sĩ tâm lý cố gắng chữa trị cho ông. Sau những tuần lễ kiên nhẫn và với kỹ thuật tinh tế, người bác sĩ đã thành công mở lại quá khứ cho người đàn ông. Ông là một đứa trẻ mồ côi, được một gia đình tốt bụng đưa về nuôi. Lớn lên ông kết hôn với một thiếu nữ xinh đẹp, con nhà thượng lưu giầu có. Cô ta chẳng cần đến đồng lương còm cõi của người chồng làm nghề ống nước. Dân hàng xóm láng giềng giầu có khinh thường vợ chồng ông. Dần dà người vợ cũng chán anh chồng thuộc tầng lớp hạ lưu. Ông ta phát triển căn bệnh tự ti mặc cảm, cố quên đi những bất hạnh của mình. Cuối cùng hai vợ chồng lâm vào khủng hỏang. Cô ta có nhân tình mới, và người đàn ông cũng kiếm được nhân ngãi trẻ đẹp hơn, tuy thuộc tầng lớp tiện dân. Vừa khi hai vợ chồng bàn tính ly dị thì người vợ ngã bệnh nặng. Người chồng âu lo, cố quên đi tất cả. Đó là con đường duy nhất ông ta có thể làm để đối phó với hoàn cảnh. Hậu quả bi thảm là ông mất trí nhớ.
Câu truyện điển hình này là của mỗi người chúng ta. Có những linh hồn chịu đựng quá nhiều buồn đau hoặc lo lắng và cảm thấy hòan tòan bị bỏ rơi, thất vọng nếu không có người khác biết tới. Nghe chuyện của chúng ta là nghe cuộc đời chúng ta đã trải qua. Từ chối nghe là từ chối chính chúng ta. Lắng nghe là người ta đã chia sớt nỗi khổ tâm của kẻ khác và chữa lành về phần tâm lý. Mỗi người đều có một câu truyện để nói, nếu không gặp tri âm thì kể như chúng ta đã chôn quá khứ vào nấm mồ.
Hai môn đệ đi làng Emmaus của Phúc âm hôm nay cũng rơi vào trường hợp này. Họ đang bị dầy vò vì cuộc vỡ mộng quá lớn. Biến cố thày chết làm cho họ hòan tòan thất vọng. Chính miệng họ đã thố lộ điều đó:“Chúng tôi đã những hy vọng, người sẽ cứu vớt Israel”. Hy vọng của họ là dân tộc được giải phóng, tôn giáo được tự do và bản thân được vinh hoa phú quí với địa vị cao. Nhưng lúc này thì tan nát tất cả. Thày đã chết và mọi hy vọng được chôn chặt trong mồ cùng với thày. Chẳng còn chi để mà tin tưởng. Vỡ mộng và hổ thẹn đầy ắp với tâm trí họ, họ thầm thì to nhỏ về biến cố trên đường trở về làng cũ Emmaus, bây giờ là El Qubeiba, chừng 10 cây số đông bắc Giêrusalem.
Đúng là Phúc âm có câu truyện để kể, hai môn đệ vỡ mộng có câu chuyện để nói và câu truyện làm cho họ rối lòng. Một khách lạ tế nhị áp sát họ lắng nghe. Tâm lý thường tình cho hay dốc bầu tâm sự cho người lạ dễ dàng biết bao! Bạn chẳng cần ý tứ, dè dặt. Kiểu như người ta đi xa về tha hồ mà khoác lác, chẳng ai có khả năng kiểm chứng thật hay bịa. Phần người lạ cũng rất tế nhị, ông lắng nghe, đi sâu vào chi tiết câu truyện và giải thích ý nghĩa Kinh thánh cho họ. Ông tạo cho họ bầu khí thuận lợi để họ bộc bạch tâm can, những đau buồn, những thất vọng.
Rồi người khách lạ làm chi? Ông cũng kể câu truyện đời ông cho họ nghe. Đời của ông chứ không phải của người khác. Đối với hai môn đệ thập tự là một thất bại hòan tòan, một cản trở không thể vượt qua. Nhưng đối khách lạ không nhất thiết phải như vậy, rồi ông giải thích cho họ, bắt đầu từ Môsê và các ngôn sứ, những nội dung mà họ đã từng học tập, nhưng không hiểu: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào vinh quang của Người sao?”. Vị khách lạ chỉ dẫn cho họ hay khổ giá không hẳn là kết thúc của một giấc mơ, nhưng là khởi điểm của một thực tại mới. Ông giúp đỡ hai môn đệ tìm ra ý nghĩa trong câu truyện của họ bằng cách cho họ biết ý nghĩa câu truyện của riêng ông. Nhờ đó họ có khả năng xem lại sự thật mà họ vừa trải qua ở Giêrusalem. Phúc âm kể: “Họ bảo nhau: Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”. Lòng họ sốt sắng vì đó là câu truyện của chính họ chứ không phải của người khác.
Sở dĩ người đàn ông mất trí nhớ có thể trở lại trạng thái bình thường là vì vị bác sĩ lắng nghe câu truyện của ông ta. Những rắc rối, những tối tăm, đau khổ của ông ta được tự do giãi bày. Nhờ đó cơn bệnh biến mất. Bệnh tật thiêng liêng của chúng ta cũng được chữa trị tương tự. Xin đừng kiêu căng cho mình chẳng hề mắc bệnh. Thực tế, chúng ta nhiều bệnh lắm, và còn nặng hơn ông khách thuê khách sạn: Bệnh điếc, bệnh mù, bệnh giả hình, thôi thì đủ cả, thậm chí cả những bệnh đưa đến cái chết. Vậy mà vẫn cứ nhởn nhơ coi mình là thánh thiện, lại còn sẵn sàng lên lớp cho thêin hạ. Mỗi người có một câu truyện cần phải được bộc bạch. Nếu như không gặp khách lạ thì chẳng bao giờ nói ra. Nếu khiêm tốn nhận ra vấn đề của mình, thì chẳng bao giờ còn tâm lý tự cao tự đại, ăn vận diêm dúa, trang hòang lãng phí để đánh bóng danh tiếng mình, tổ chức mình. Chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận phần tối tăm của linh hồn mình mà nhận ra thiếu thốn ơn Chúa soi sáng. Thực ra, xét cho cùng, thì chỉ câu truyện của Đức Kitô qua khổ nạn và cái chết rồi mới được vinh quang, chúng ta mới hiểu ra ý nghĩa trọn vẹn của cuộc sống mình. Mọi sự khác đều không thỏa đáng. Hai môn đệ chỉ nhận Chúa Phục sinh khi dùng bữa tối với Ngài. Lý do nằm ở chỗ, theo tục lệ Do thái, giai đọan cúôi cùng của tế lễ hy sinh là một bữa tiệc thánh thiện. Sách Lêvi ký thuật lại rất nhiều lần kết thúc của các hy lễ là chia sẻ bữa ăn với Đức Chúa tại bàn tiệc hy tếtsúc vật mà thày tư tế vừa thực hiện. Chắc chắn những tín hữu đầu tiên (đa số là Do thái) nghỉ rằng họ sẽ mất gốc nế không biết liên hệ với truyền thống này. Vì thế lễ bẻ bánh của họ là sau bữa ăn để tưởng niệm Đức Kitô. Truyền thống này còn mãi đến ngày hôm nay. Những ai không nhận ra ý nghĩa của nó, thì quả thật không phải là tín hữu chân chính.
Khi Chúa vào dùng bữa với họ và Ngài vừa cầm bánh bẻ thì họ nhận ra Ngài. Chúng ta cũng chỉ nhận được ân huệ ấy sau khi đã đồng lao cộng khổ với Chúa. Đức Giáo Hòang Phaolô VI đã mô tả thánh lẽ bằng ba chữ: “Một hy lễ, một tưởng niệm và một bữa tiệc” là ở trong ý nghĩa ấy. Đức tin chúng ta sẽ không nhận ra Chúa trong thánh lễ nếu trước hết không suy niệm về khổ nạn, cái chết và phục sinh của Ngài. Đây là tư tưởng của thánh Augustinô và nhiều vị khác trong Gíao Hội. Làm ngược là chúng ta thất bại không nhận ra Chúa.
Nhiều người nói rằng việc sống lại của Chúa, chỉ là suy nghĩ viển vông của các tín hữu. Họ không muốn chấp nhận thày mình đã chết, sự nghiệp đã tiêu tan. Họ ước ao mãnh liệt Ngài vẫn sống với họ, cho nên tạo ra những ảo ảnh rằng Ngài hiện ra đó đây nhiều lần. Họ “trông” thấy ngài đúng như lòng mong ước và đặt tên là Đức Kitô Phục sinh. Kỳ thật chẳng có chi là thực tế cả. Dân chúng chẳng bao giờ được chứng kiến “nội dung” họ từng kể lại. Đúng là đám môn đệ đã ở tận cùng hất vọng. Câu chuyện của các ông tỏ lộ một sự mất mát tòan diện và các ông đang làm chuyện mà ngày nay các người thất bại thường làm: Co cụm lại để băng bó vết thương, trở về công việc cũ, xây dựng lại tương lai. Một vài người trong bọn trở lại nấm mồ, như người ta thường làm, thăm viếng chỗ chôn cất và đau đớn khóc than. Có vậy thôi.
Hai môn đệ đi làng Emmaus nói là gặp khách lạ thì chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng quá mạnh mẽ và ký ức còn quá sống động. Họ kể lại cho ông khách “ảo” điều mà các phụ nữ đồn thổi về thày đã trỗi dậy, thì chính họ cũng không tin. Đúng là câu truyện hoang đường mà ngày nay vẫn thừơng nghe thấy. Về phần Giáo hội tiên khởi cũng cùng một ruộc âm mưu lừa dối thiên hạ. Nhưng làm sao lừa được cả thiên hạ, cấp lãnh đạo Do thái, cho tới nay, có tin đâu? Xét trong tư tưởng của hai ông, thì họ đã kết thúc một quãng đời mộng mơ và trở về cuộc sống đời thường.
“Chúng tôi những tưởng người sẽ cứu Israel”. Câu nói rất phổ thông giữa chúng ta ngày nay: Chúng tôi những tưởng công trình này rất thành công. Những tưởng cuộc hôn nhân này hạnh phúc, con cái rất ngoan ngõan, dịch vụ này mang lại nhiều lợi ích, viên thuốc này rất hiệu nghiệm, ông nọ ba kia rất tốt bụng….ai dè! Hy vọng và mơ ước của chúng ta thường gặp thất bại. Thất bại này kế tiếp thất bại khác, khiến chúng ta nhát đảm, rụt rè, chột dạ, nghi nan không tin tưởng vào mình nữa, nản chí trong bất cứ công việc nào, kể cả đàng thiêng liêng. Nhưng có một thực tại không thể chối cãi được, là hai môn đệ ngay đêm hôm ấy trở về Giêrussalem để gặp các tông đồ, thuật lại cho họ ngay kinh nghiệm xem thấy thày của mình. Các ông cũng ngỡ ngàng nghe kể lại cùng một câu truyện: Họ cũng nói với hai ông:“Chúa trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với Simon”. Simon là tên cũ của Phêrô, đứng làm biểu tưởng cho đạo cũ. Tức Kinh Thánh đã được ứng nghiệm mà Kinh thánh thì không thể sai lầm. Cho nên lương tri ngay chính buộc phải công nhận sự Phục sinh của Chúa là chân lý. Và khi nhận lãnh chân lý thì không thể giấu kín. Cleopha và bạn đồng hành trở về Giêrusalem báo tin cho các tông đồ và những môn đệ khác đang tụ họp.
Câu truyện Emmaus là câu truyện của mỗi tín hữu. Nó thường xẩy ra với chúng ta mỗi khi rước lễ. Nếu thực sự chúng ta gặp gỡ Chúa trong thánh thể, chúng ta chẳng thể giữ Tin Mừng ấy cho riêng mình. Nó phải được loan ra bằng hành động, lời nói, trừ phi chẳng gặp Ngài mà chỉ giả đò gặp mà thôi. Cùng với Giáo Hội, chúng ta làm những cuộc hành trình giữa trần gian, cuộc hành trình súôt cả cuộc đời. Chúa Giêsu luôn đi sát bên mỗi người, giải thích, hướng dẫn mỗi linh hồn về quê Trời ngay cả khi không nhận ra Ngài. Chúng ta là thành phần của Dân Thiên Chúa, cần sống xứng đáng với những chi mình tin tưởng. Vì mỗi người đều phải kể lại câu chuyện đời mình. Câu chuyện đó có ý nghĩa hay không tùy thuộc vào thái độ sống của chúng ta. Amen, Alleluia.
“Trên đường Emmau, hai người lữ khách bước đi bên nhau. Mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót chân buồn đuờng dài.” Giả sử như bạn là một trong hai môn đệ đang trên đường đến Emmau, bạn đã nghĩ gì? Chắc chắn bạn đã phải suy nghĩ những gì họ đã miên man suy nghĩ…
Tâm hồn họ cơ hồ như nát tan thành trăm ngàn mãnh nhỏ. Mới hôm qua đây, họ đã chôn chặt niềm tin vào Thầy Giêsu. Và đã hy vọng rằng chẳng những Thầy sẽ giải phóng họ khỏi xích xiềng tôi lỗi mà còn uơm cho họ một tương lai thoát ách gông cùm của đế quốc La Mã. Giờ Thầy đã chết. Chết thật nhục nhã, tức tưởi! Chết quá đau thương! Thôi hết rồi! Hết thật rồi! Chẳng còn gì nữa để ước mơ. Chẳng còn Thầy cạnh bên để xây mộng lớn…Và đang khi lòng trí rối bời, một người khách lạ nhập cuộc đồng hành- một cuộc đồng hành đã xoáy đổi họ tận gốc rể cuộc đời. Rồi cả ba cùng nhau bàn bạc xoay quanh đề tài thời sự hàng đầu: cái chết của Giêsu. Rồi lân la, họ trò chuyện trao đổi về Môisen, đến các tiên tri và cả đến …Giêsu.
Vừa đến đầu làng, người khách lạ “giả vờ” muốn đi xa hơn nữa nhưng hai môn đệ cố “nài ép” ông trọ qua đêm. Và “mắt họ sáng ra và nhận ra Người” khi “Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”. Bữa ăn vội vã xế chiều gợi lại buổi Tiệc Ly chỉ mấy hôm trước đó. Họ đã không thể nhận ra Nguời khi cùng trò chuyện bàn bạc Thánh Kinh, nhưng phải chờ đến khi Người “cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra”, họ mới có thể nhận ra người khách lạ kia là chính Thầy mình.
Đường Emmau hai môn đệ đã bước cũng chính là đường Emmau chúng ta đang bước. Như họ đã chẳng có thể nhận ra chính Thầy họ khi bàn bạc trao đổi về Thánh Kinh, chúng ta cũng không thể nào nhận ra Người khi xem nhẹ hoăc thậm chí coi thường phần Phụng Vụ Lời Chúa. Có thể nào nhận ra đuợc Chúa Phục Sinh khi chúng ta đi dâng lễ trễ? Hoặc khi các bài đọc và Phúc Am không đuợc truyền đạt cung kính, nghiêm trang và rõ ràng từng chữ từng câu?
Và chỉ mãi đến khi “bẻ bánh”, hai môn đệ mới có thể nhận ra Người. Họ nhận ra Nguời vì họ liên tưởng đến Buổi Tiệc Ly. Cử chỉ tượng hình kia là một nhắc nhở kín đáo nhưng rất hùng hồn là Lời Chúa chỉ có thể được thấm nhập sâu thẳm hơn khi liên kết với đời sống hằng ngày. Càng hoa sáo bao nhiêu, càng xa rời thực tế bấy nhiêu! Chúa đã dùng dụ ngôn để cải hoán tâm hồn nhân loại: khi Lời Chúa không thể diễn đạt đuợc một cách rõ ràng bình dị, thì thật không dễ dàng hình dung đuợc khuôn mặt Chúa trong những tâm hồn thơ ngây chất phác đang ngày đêm ngóng trông Tin Mừng Cứu Rỗi.
Một chi tiết khác không thể đọc vội và thoáng qua. Khi vừa đến đầu làng, người khách lạ “giả vờ” tiếp tục cuộc hành trình nhưng hai môn đệ cố “nài ép” tạm trú qua đêm. Hai cụm chữ “giả vờ” và “nài ép” biểu hiện thật cụ thể hồng ân của Thiên Chúa tác động trong thế giới và trong mỗi từng nguời chúng ta. Hồng ân: món quà cao qúy vô giá mà Thiên Chúa rộng rãi trao ban nhưng chúng ta phải truớc tiên “nài ép” vì Người sẽ “giả vờ”. Và vì thế, mỗi một Chúa Nhật, hoặc mỗi một ngày, hoặc nếu có thể, mỗi một phút giây, hãy nài ép Chúa ngụ trọ trong tâm hồn mình.
“Chúa ở lai thôi! Chúa con ơi! Bóng chiều đã tắt, đêm xuống rồi! Hai môn đệ đã cố nài ép và Người đã nhận lời. Manna đã không tự nhiên rơi xuống nếu Môisen và đoàn dân Do Thái lưu vong không qùy gối xuống và giang tay khấn xin. Cũng thế, sau khi chia sẻ Lời Chúa, hãy xin nán lại chia sẻ Máu Thịt Con Nguời. Và chính trong khi ăn cùng mâm và uống cùng chén này, chúng ta mới có thể nhận ra khuôn mặt Chúa Kitô ẩn hiện trong những nguời hàng xóm láng giềng chung quanh. Trong những kẻ khốn cùng: “họ không trông ra, nguời lữ khách đó chính là Ngài!”.
Và sau khi bẻ bánh, Người liền biến mất. Nhưng Nguời chẳng thực sự biến mất mà hiện hữu - thực sự hiện hữu hơn qua Máu Thịt Người. Vấn đề là chúng ta phải luôn luôn nhạy bén nhận thức đuợc sự hiện hữu đó: “Có những lúc chúng ta đi trong cuộc sống mọi ngày, đã găp Người, nhưng chẳng biết Người!”
Nhưng ngay sau khi Người biến mất, thái độ của hai môn đệ kia thay đổi một cách đến lạ kỳ. Chỉ truớc đó ít lâu, mộng họ đã tan và cuộc đời gần như đã vô phuơng mất huớng. Và mệt mõi lê từng bước chân, họ thất thểu bước trên chặng đuờng dài. Giờ họ “chỗi dậy” háo hức hân hoan tung tăng chân sáo quay về lại Giêrusalem báo tin Chúa Phục Sinh cho những môn đệ còn lại.
Sáng sớm nay, họ ngỡ đã muôn đời vĩnh biệt thành Thánh nơi họ cùng Thầy Giêsu chôn nhiều dấu ấn buồn vui kỷ niệm. Nhưng chỉ khi mặt trời vừa xế bóng, họ đã quyết định quay về.
Quay về: cuộc sống thuờng thực sự bắt đầu từ những buớc ngoặt lịch sử quay về. Họ quay về như nguời con hoang đàng đã quay về. Và dệt mộng tương lai, họ thầm tự trách lòng đã không thể nhận biết Người sớm hơn khi Người đang truyền rao Lời Chúa.
Nhưng thà muộn còn hơn không. Đoạn đuờng từ Emmau về lại Giêrusalem đã không còn dài nữa vì mắt họ đã sáng, lòng họ đã kiên, miệng họ đã vui cười.
Đây chính là dấu hiệu cuộc đời họ đã thay đổi đến tận cùng gốc rể. Và chúng ta cũng phải gắng tìm dấu hiệu này trong chính cuộc sống mình. Đã có những lúc thuyền đời chúng ta đã trôi vô phương hướng, sống cạnh đáy bờ tuyệt vọng. Và đã có những lúc chúng ta không thể nhìn khuôn mặt Chúa với chính những người thân đang sống chung quanh.Nhưng Chúa vẫn ở cùng đấy. Vẫn sống cạnh bên. Vẫn hiện hữu như muôn đời vẫn hằng hiện hữu. Vấn đề là chúng ta dám xin Người nán lại. Và dám quay bước chân về.
Con đuờng Emmau có thể chỉ là con đuờng từ ngôi nhà chúng ta đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật đầu tuần. Hãy chuẩn bị từ sớm. Và trên đường, hãy đừng ngại sẻ chia những thao thức dằn vặt, những ưu tư đau đớn cho nhau.Và rồi hãy tập chú lắng nghe Lời Chúa. Và hãy gắng truyền dạy Lời Chúa trao ban. Rồi hãy cùng nhau bẻ bánh. Và khi nhận lời chúc ra về bình an chúc tụng Chúa, hãy quay về -mạnh dạn quay về trở thành khí cụ bình an để muôn đời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa. Sẽ có nhiều nguời khách lạ muốn cùng chúng ta sánh buớc trên con đuờng dương thế, hãy đừng ngại ngùng để họ nhập cuộc hành trình. Vì có thể những người khách lạ kia sẽ thay đổi chúng ta, như người khách lạ Giêsu đã đổi thay hai môn đệ nhiều ngàn năm trước.
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra những u buồn, thất vọng và chán nản của hai môn đệ đi về làng Emaus. Chắc chắn các ông không bao giờ nghĩ mình phải rơi vào tình trạng như ngày hôm nay. Xét cho cùng, chúng ta cũng không thể trách hai môn đệ này được, vì thất vọng cũng là một tâm lý rất thường có ở con người. Khi mà ta hy vọng quá cao về một điều gì, mà điều đó không được thực hiện như lòng mong muốn thì ta lại càng thất vọng. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy họ đặt hy vọng rất nhiều vào Chúa Giêsu. Đối với họ, Ngài là một vị tiên tri có quyền lực trong lời nói và việc làm trước mặt Thiên Chúa và trước mặt toàn dân. Điều lớn nhất nơi họ là đợi đến thời cơ "chín mùi" sẽ được cùng Ngài đứng lên giải phóng Israel, cùng được chia sẻ phần vinh hoa với Người. Nhưng lại không được như họ suy nghĩ và ước mơ. Không những thế, mà Thầy Giêsu còn bị người ta hành hạ và kết án như một tên tử tội. Rồi đã ba ngày trôi qua đang thất vọng thì có những người phụ nữ lại báo tin "người ta đã lấy mất xác Thầy rồi". Còn các môn đệ cũng chỉ thấy mồ trống mà cũng không thấy Thầy đâu. Thế là hết! Bao nhiêu hy vọng đã tiêu tan, họ phải lủi thủi về quê mà trong lòng tràn ngập bao nỗi u phiền và thất vọng.
Dù thế nào đi nữa, thì biến cố thương khó và tử nạn vẫn là mối bận tâm sâu đậm cho hai ông. Mặc dù hai ông thất vọng đến tột độ nhưng vẫn không thể nào không nghĩ tới, khi có cơ hội nhất là "dọc đường các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra" nhân cơ hội này Đức Giêsu đã tháp tùng đi với họ. Trong thời gian đi, tuy họ chưa nhận ra Chúa , nhưng Ngài hiểu tất cả, Ngài thấu suốt tâm can họ, biết họ suy nghĩ những gì và đang dự định làm gì. Có thể nói phương pháp sư phạm của Đức Giêsu rất tâm lý. Ngài chờ đợi con người bộc bạch hết những nỗi băn khoăn, lo âu, sau đó Ngài mới từng bước dẫn họ vào ánh sáng Phục Sinh.
Trước tiên Ngài lấy Kinh Thánh chứng minh, cho họ biết rằng họ không hiểu gì cả về Đấng Kitô. Ngài đã giải thích các biến cố chịu nạn cho họ hiểu. Và nhờ Kinh Thánh mà lòng họ đã được "bừng cháy lên". Nhưng những lời Đức Giêsu dẫn chứng vẫn không thể xoá đi được sự vô tri trong lòng họ, nhưng dù sao thì Lời Chúa cũng làm loé lên trong tâm hồn họ khiến họ nhận ra một ý nghĩa mới cho cuộc đời. Buồn sầu tan biến, tâm hồn họ được tràn đầy niềm hy vọng nhưng mắt họ vẫn chưa mở ra để nhìn "thấy Chúa Phục Sinh" mặc dù lòng họ lúc đó "bừng cháy lên".
Cuối cùng Đức Giêsu phải đưa họ đến cử chỉ quen thuộc thân thương mà khi còn sống Ngài đã từng làm, đó là "cử chỉ bẻ bánh". Khi Người cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ, mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người'.
Tâm trạng thất vọng của hai môn đệ đi làng Emaus hôm nào cũng là tâm trạng của chúng ta; thường hay than trách phàn nàn về số phận mà Thiên Chúa đặt để cho ta, phàn nàn tại sao mình bất hạnh quá, sao mà cực khổ quá. Chúng ta cũng hay ganh tỵ, so sánh đưa đến chán nản thất vọng tại sao người khác không theo Chúa lại giàu sang sung sướng, trong khi tôi ăn ở đàng hoàng tử tế, giữ những điều Giáo Hội dạy, thì lại mất mát thua thiệt, Thiên Chúa đâu sao Ngài không ban thưởng cho tôi? Từ đó đâm ra chán chường quay đầu lại với "Giêrusalem", quay đầu với Giáo Hội và với Chúa. Tương tự như hai môn đệ làng Emaus, chúng ta chỉ có thể hết chán chường khi biết nhìn Thập Giá Đức Giêsu là nguồn cứu độ" không còn đi theo Chúa với tư tưởng thực dụng và lợi ích trần gian nữa. Hơn thế, phải biết chạy đến nguồn an ủi Lời Chúa vì "Lời chúa là ngọn đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 119,105), và cũng biết đón nhận Đức Giêsu Phục Sinh qua Bí Tích Thánh Thể, là dấu chỉ sự hiện diện của Người.
Lạy Chúa! Chúng con sẽ không còn ưu buồn, thất vọng, cũng không còn bơ vơ lạc lõng khi chúng con biết nhận ra Chúa qua những người anh em xung quanh. Nhất là cho chúng con biết tìm nguồn an ủi nơi Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Amen.