Suy niệm Chúa Nhật PS 4-A Bài 1-50 Ta là cửa chuồng chiên
--------------------------------------
Phúc Âm: Ga 10, 1-10"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào". - Ðó là lời Chúa.
---------------------------------------------
PS 4-A1: SỐNG LỜI CHÚA - CHỦ CHĂN.. 2
PS 4-A2: NTĐY/204- TIẾNG GỌI YÊU THƯƠNG.. 5
PS 4-A3: CS/64- CHÚA CHIÊN LÀNH.. 6
PS 4-A4: PV/216- SỐNG DỒI DÀO.. 7
PS 4-A5: PV/218- ĐƯỢC CHỮA LÀNH.. 9
PS 4-A6: PV/220- BỊ TỔN THƯƠNG.. 10
PS 4-A7: CSTM/111- MỤC TỬ TỐT LÀNH.. 13
PS 4-A8: STM/108- CHÚA CHIÊN LÀNH.. 14
PS 4-A9: Câu hỏi gợi ý: JKN.. 16
PS 4-A10: Người Mục Tử Nhân Lành/ Lm Gioan, CMC.. 19
PS 4-A11: ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT LÀNH.. 21
PS 4-A12: CHÚA CHIÊN CỦA TÔI- Lm John Vũ Nghi, CMC.. 24
PS 4-A13: Suy Niệm của Lm Nguyễn Bình An. 26
PS 4-A14: NGƯỜI MỤC ĐỒNG-Lm Nguyễn Ngọc Long. 27
PS 4-A15: TÔI ĐẾN CHO CHIÊN ĐƯỢC SỰ SỐNG- Maria Cao Tấn Tĩnh. 29
PS 4-A16: ĐỨC GIÊ-SU, MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 36
PS 4-A17: ĐỂ ĐÀN CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO.. 38
PS 4-A18: LỜI CẦU NGUYỆN DÀNH CHO CHA SỞ.. 41
PS 4-A19: CỬA CHUỒNG Ở ĐÂU ?. 43
PS 4-A20: ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH.. 45
PS 4-A21: Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục Sinh (Catholic Homilies) 52
PS 4-A22: LÀNH NHƯNG KHÔNG HIỀN.. 54
PS 4-A23: SLC- Chủ chăn. 55
PS 4-A24: SLCTTY/161- Tốt lành. 57
PS 4-A25: SLCTTY/161- Tốt lành. 59
PS 4-A26: SLCTTY/161- Tốt lành. 60
PS 4-A27: CSTM/104- Tốt lành. 61
PS 4-A28: Bạn đang lắng nghe đó chứ?. 63
PS 4-A29: Tôi đến để chiên được sống. 64
PS 4-A30: Ai là người mục tử? - Nhóm Đồng Hành. 67
PS 4-A31: NINH THUẬN 300 NGÀY CHƯA MƯA ! GIA SÚC ĐIÊU ĐỨNG.. 68
PS 4-A32: TIẾNG GỌI YÊU THƯƠNG.. 70
PS 4-A33: SỐNG CHẾT VỚI CHÚA CHIÊN LÀNH - Lm. Jude Siciliano, OP. 72
PS 4-A34: CHÚA GIÊSU LÀ CỬA SỰ SỐNG - Sr.Mai an Linh OP. 76
PS 4-A35: CHÚA CHIÊN LÀNH - Lm Trần Thanh Sơn. 78
PS 4-A36: NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÔ HÌNH - LM. Giuse Trương Đình Hiền. 81
PS 4-A37: Ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu - Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 86
PS 4-A38: CHIÊN CỦA TÔI THÌ BIẾT TÔI - Phó tế Nguyễn Định. 88
PS 4-A39: CHÚA GIÊSU LÀ CỬA RÀN CHIÊN.. 90
PS 4-A40: TA LÀ MỤC TỬ TỐT LÀNH.. 91
PS 4-A41: Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. 93
PS 4-A42: CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH.. 95
PS 4-A43: NGƯỜI CHĂN CHIÊN LÀNH.. 98
PS 4-A44: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 99
PS 4-A45: SỐNG THEO SỰ DẪN DẮT CỦA ĐỨC GIÊSU.. 103
PS 4-A46: CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH.. 106
PS 4-A47: CHÚA KITÔ LÀ ĐẤNG CHĂN DẮT TÔI 109
PS 4-A48: TA ĐẾN ĐỂ CHÚNG ĐƯỢC SỐNG.. 110
PS 4-A49: TA LÀ CỬA ĐOÀN CHIÊN.. 112
PS 4-A50: CỬA CHUỒNG CHIÊN.. 114
---------------------------------------
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có một điểm rất đặc: PS 4-A1
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có một điểm rất đặc sắc, đó là Ngài luôn dùng những hiện tượng tự nhiên, những sự kiện cụ thể, những hoàn cảnh trong cuộc sống để so sánh và nói lên những chân lý siêu nhiên.
Và một hình ảnh khá đậm nét mà đoạn Tin mừng hôm nay đã trình bày, đó là hình ảnh người mục tử nhân lành.
Thực vậy, như chúng ta đã biết qua dòng lịch sử, dân Do thái vốn là một dân du mục, sinh sống bằng nghề chăn nuôi.
Abraham ngày xưa đã có nhiều đàn súc vật. Sách Sáng thế kể lại: Ông Abraham rất giàu, có nhiều súc vật và vàng bạc. Lúc bấy giờ xảy ra một cuộc tranh chấp giữa những người chăn súc vật của ông Abraham và những người chăn súc vật của ông Lót. Vì thế, ông Abraham đã bảo ông Lót:
- Sao cho đừng có chuyện trạnh chấp giữa bác và cháu, giữa những người chăn súc vật của bác và những người chăn súc vật của cháu, vì giữa chúng ta là anh em họ hàng với nhau.
Đavit cũng xuất thân từ một cậu bé chăn chiên. Sách Samuen quyển thứ nhất đã kể lại: trước khi giao tranh cùng Goliat, Đavit đã nói với vua Saun:
- Tôi tớ ngài là một người chăn chiên. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi nó, đánh nó và giật lấy con chiên khỏi mõm nó…
Còn những người đầu tiên được đón nhận tin vui nhập thể: Ngôi lời đã xuống thế làm người, Đấng cứu thế đã sinh ra tại Bêlem, là ai nếu không phải là những người chăn chiên đang canh giữ đàn súc vật của mình ?
Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn, dùng nhiều hình ảnh, xuất phát từ đời sống của những người mục tử, chẳng hạn: chủ chăn, con chiên, đàn chiên, chiên lạc, cửa chuồng chiên…
Chúa Giêsu đã phân biệt người mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Thực vậy, kẻ chăn thuê chỉ lo đến tiền lương và thường chạy trốn mỗi khi gặp phải hiểm nguy và để mặc cho đàn chiên bị tiêu diệt dưới nanh vuốt của sói rừng. Sở dĩ như vậy vì họ chỉ là những kẻ làm công và đàn chiên không thuộc về họ.
Trái lại, người mục tử chân chính luôn chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình: ban sáng người ấy gọi tên từng con chiên và những con chiên nghe tiếng họ rồi quây quân chung quanh họ để được dẫn tới đồng cỏ xanh và dòng suối mát, chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán:
- Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết ta.
Ban chiều, họ đưa đàn chiên vào chuồng. Và ban đêm họ chia phiên để canh giữ đàn chiên.
Từ hình ảnh người mục tử nhân lành và chân chính ấy, chúng ta rút ra một bài học thật quan trọng và cũng thật an ủi cho mỗi người chúng ta. Bài học ấy như thế này: Chúa Giêsu là mục tử nhân lành và chân chính chứ không phải là một kẻ chăn thuê. Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên.
Chính vì thế, các tín hữu đầu tiên đã diễn tả Chúa Giêsu bằng hình ảnh người mục tử nhân lành. Đồng thời, qua Chúa Giêsu hình ảnh này còn được áp dụng cho những người có nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn.
Tại Đại Hàn vào thời Kytô giáo bị bách hại và cấm cách, có một vị giám mục bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn. Nằm thoi thóp giữa đám tù nhận, vị giám mục này đã tự hỏi:
- Các giáo xứ trong giáo phận sẽ như thế nào ? Các linh mục và những người cộng tác với các ngài sẽ như thế nào ? Các tín hữu sẽ như thế nào khi đàn chiên bị tan tác ? Liệu những kẻ bách hại có thỏa mãn khi thấy những linh mục và giáo dân bị bắt và bị tra tấn dã man hay không ?
Trong hoàn cảnh bi đát ấy, vị giám mục đã viết cho từng linh mục những lời lẽ như thế này:
- Dù thế nào chăng nữa, người mục tử nhân lành và chân chính cũng luôn sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên.
Khi nhận được bức thư ngắn ngủi này, các linh mục đã không ngần ngại tuyên xưng đức tin khi bị bắt. Và kinh nghiệm ngàn đời đã cho chúng ta thấy: máu của các bậc anh hùng tử đạo chính là hạt giống làm nảy sinh các tín hữu. Một khi các ngài bị ngã xuống, thì đạo giáo được phát triển một cách mau chóng.
Vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện cho các giám mục cũng như cho các linh mục. Xin Chúa luôn nâng đỡ vàban xuống cho các ngài muôn ơn lành hồn xác, để các ngài đừng bao giờ rời bỏ đàn chiên như những kẻ đào ngũ. Xin Chúa luôn an ủi và khích lệ để các ngài đừng bao giờ thất vọng khi nhìn thấy những con chiên lầm đường lạc lối cũng như những khó khăn gặp phải, nhờ đó các ngài sẽ không bao giờ chạy trốn như kẻ chăn thuê, phó mặc đàn chiên cho nanh vuốt sói rừng.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho đàn chiên, nhất là những con chiên lầm đường lạc lối, để rồi một ngày kia, họ sẽ nghe tiếng chủ chăn mà quay về đàn, nhờ đó ước vọng của Chúa Giêsu sẽ trở nên sự thật, đó là chỉ còn một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất mà thôi.
------------------------------------
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu: PS 4-A2
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này:”Chúa biết không: mục sư yêu mến Ngài biết bao!”.
Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”’ nhưng nói:”Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.
Đức Giêsu chính là mục tử tốt lành, Người luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Người lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ băt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Nếu Người đã nói:”Tôi biết các chiên tôi”, thì phải hiểu là Người biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác, nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.
Nếu Người đã nói:”Chiên tôi thì nghe tiếng tôi”, là Người muốn chúng ta chỉ lắng nghe duy nhất tiếng gọi yêu thương của Người. Đừng nghe theo một tiếng gọi nào khác. Nó có tên là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
Nếu Người đã nói:”Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, là Người muốn chúng ta được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.Chúng ta cần cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên.
Chúng ta cần cổ vũ cho ơn gọi linh mục và tu sĩ bằng cách khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chánh cho các mầm non ơn thiên triệu trong Giáo phận và Giáo xứ của mình.Chúng ta cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe lời Chúa, chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ, và quan tâm phục vụ người mhèo. Nhờ vùng đất màu mỡ này mà ơn gọi linh mục và tu sĩ sẽ nảy sinh.
Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài.
Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.
------------------------------------
Tại các Giáo Hội Âu Mỹ hiện nay, người ta thấy xuất hiện các phó tế vĩnh viễn. Đây là những: PS 4-A3
Tại các Giáo Hội Âu Mỹ hiện nay, người ta thấy xuất hiện các phó tế vĩnh viễn. Đây là những người đã sống trong bậc hôn nhân nhiều năm, nay được tuyển chọn để lãnh nhận thánh chức phó tế và sống chức phó tế suốt đời. Việc phong chức phó tế vĩnh viễn cho một số người đã có gia đình nhằm giải quyết nạn thiếu linh mục, nhưng đồng thời cũng làm sống lại một bậc sống có từ lâu trong Hội thánh đã bị lãng quên.
Có một hình ảnh thật đẹp và gây xúc động trong nghi thức phong chức phó tế vĩnh viễn này:
Các phó tế nằm sấp, úp mặt xuống đất dưới chân bàn thờ khi hát kinh cầu các thánh. Một thái độ biểu lộ sự khiêm tốn, sự từ bỏ và cầu khẩn. Các bà vợ quì ngay dưới chân chồng trong một thái độ hiến dâng. Các bà đã được Đức Giám Mục hỏi ý kiến trước khi phong chức cho người chồng. Người chồng lãnh nhận chức thánh để chính thức thi hành chức năng mục tử trong Hội thánh qua việc rao giảng lời Chúa, phục vụ dân Chúa và cử hành một số bí tích. Người vợ tuy không lãnh chức thánh, nhưng cũng hiệp thông vào chức năng mục tử qua việc hiến dâng và tạo điều kiện để chồng chu toàn sứ vụ. Các bà sẽ phải làm việc nhiều hơn để lo cho gia đình và con cái.
Từ hình ảnh của một gia đình như thế gợi cho ta suy nghĩ về Hội thánh, một gia đình rộng lớn, trong đó mỗi người có một ơn gọi và một bậc sống riêng: Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Nhưng từ căn bản, qua bí tích Rửa tội, mỗi người đã được chia sẻ chức năng mục tử của Chúa Kitô, và mỗi người đều phải chu toàn chức năng ấy trong bậc sống của mình.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu không dùng hình ảnh người chăn chiên để diễn tả chức năng mục tử của mình, nhưng Người lại dùng hình ảnh Cánh Cửa Chuồng Chiên. Vai trò của cánh cửa là mở ra và khép lại. Mở ra để chiên có thể đi ăn cỏ, đi uống nước. Đóng lại để bảo vệ chiên khỏi thú dữ, khỏi kẻ trộm rình bắt chiên trong đêm tối. Mỗi người chúng ta đều là chiên trong đoàn chiên của Chúa Kitô. Cửa chuồng chiên là Đức Kitô đã đóng lại trước những cám dỗ, trước tội lỗi, trước sự chết đang rình mò chụp bắt chúng ta. Cửa ấy lại mở ra để sự sống là những ân sủng của Người tuôn đổ trên chúng ta.
Và chúng ta không chỉ là chiên của Người, nhưng còn được tham dự vào chức năng mục tử của Người nữa. Đoàn chiên mà Chúa trao cho ta là những người trong tầm trách nhiệm của ta, là những đứa con, những đứa cháu của mình. Trong xã hội hôm nay có biết bao nhiêu gương mù gương xấu, biết bao nhiêu tệ đoan càng ngày càng lan tràn một cách kinh khủng. Chúng như là những mầm mống của sự chết đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng cũng như những tên trộm rình mò để chụp bắt những người mà chúng ta có trách nhiệm. Là mục tử, chúng ta phải biết cảnh giác đề phòng, phải biết đóng cánh cửa chuồng chiên lại để bảo vệ đoàn chiên, và cũng phải biết mở rộng cánh cửa bằng cách giáo dục và giúp đỡ những người thuộc về mình. Chính khi giáo dục và giúp đỡ những người ấy là lúc chúng ta cộng tác với VỊ MỤC TỬ TỐI CAO là Đức Giêsu để tuôn đổ trên những người thuộc về mình sự sống dồi dào của Người. Với sự sống này, những người mà chúng ta có trách nhiệm sẽ được miễn nhiễm khỏi những bệnh tật thiêng liêng là tội lỗi, đồng thời sự sống ấy cũng sẽ nuôi dưỡng họ được lớn lên.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà việc cầu nguyện cho Hội thánh có nhiều mục tử cũng chính là cầu nguyện cho mình biết sống trọn vẹn chức năng mục tử của mình.
------------------------------------
“Ta đến để anh em được sống và sống dồi dào”.
Phải chăng Đức Giêsu đang nói về sự sống đời đời, hoặc Người cũng nói về cuộc sống này nữa?: PS 4-A4
Phải chăng Đức Giêsu đang nói về sự sống đời đời, hoặc Người cũng nói về cuộc sống này nữa? Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, những lời nói này được áp dụng cho cả cuộc sống của chúng ta trên trái đất, cũng như cho cả niềm hy vọng của chúng ta đối với cuộc sống đời đời.
Có một giai thoại dễ thương của Tây Ban Nha như sau: Khi người ta đi đến cổng thiên đàng, và đang tìm cách đi vào, thì thánh Phêrô hỏi họ bằng một câu hỏi xa lạ. Ngài nói với mỗi người:”Hãy nói cho ta nghe. Trong khi còn sống trên mặt đất, người có biết tận dụng tất cả những thú vui trần thế, mà do lòng nhân lành, Thiên Chúa đã dành sẵn cho ngươi không?”.
Nếu người nào đáp lại là “Thưa ngài, không ạ”, thì thánh Phêrô liền lắc đầu buồn bã và nói “Than ôi, hỡi bạn, ta không thể để cho ngươi vào được, không thể vào bất cứ cổng nào. Làm sao ngươi có thể trông mong mình sẵn sàng vui hưởng được những vui thú trên thiên đàng, nếu ngươi không tự chuẩn bị cho mình biết đón nhận được những thú vui đó, thông qua trung gian là những thú vui trần thế? Ta bắt buộc phải gửi trả ngươi xuống mặt đất, cho đến khi ngươi học hỏi được một cách tốt hơn”.
Trong quá khứ, người ta có khuynh hướng đồng nhất đạo Công giáo với những giới hạn và cấm đoán. Nhiều người trong chúng ta đã được giới thiệu một nền thần học về tách rời khỏi thế giới. Người ta coi cuộc sống hiện nay như thời gian thử thách. Tính cách thiêng liêng này đã ngăn chặn niềm vui sống. Tính cách này đưa đến tâm trạng nửa vời, làm cho chúng ta như thể luôn luôn lưu giữ điều gì đó tụt hậu, luôn luôn sống một cách quá cẩn thận, đầy sợ hãi, tủn mủn.
Trong khi nỗ lực sống tận tụy, đạo đức chúng ta cũng phải có khả năng vui sống đến mức độ trọn vẹn nhất. Tuy nhiên, vui sống trọn vẹn không phải là sống phóng túng.
Cuộc sống là một quà tặng mỏng giòn. Mỗi giây phút đều dứt khoát mang tính cách duy nhất. Khi ý thức như vậy, chúng ta sẽ tập trung chú ý vào sự việc đang diễn ra bây giờ. Nhưng mỗi giây phút cũng rất mau qua. Dòng đời trôi nhanh chóng biết bao! Tính cách mau chóng này tạo cho cuộc sống nét sâu sắc của nó, và làm cho tất cả mọi nét trong cuộc sống trở nên càng quí giá hơn.”Bởi vì chúng ta không được vĩnh viễn vui hưởng thế gian này, mà chỉ được vui hưởng một cách chóng vánh; cuộc sống của chúng ta giống như việc đem lại sự ấm áp cho chính mình dưới ánh mặt trời”.
Chúa Chiên Lành mong muốn cho chúng ta có sự sống. Do đó, chúng ta đừng nên quá nhút nhát và sợ hãi. Hãy sống bất cứ điều gì tự xảy đến với chúng ta, bởi vì mọi sự đều là một món quà từ Thiên Chúa. Cuộc sống luôn quảng đại với những ai biết đưa cả hai bàn tay ra nắm bắt nó.
“Nếu chỉ hiện hữu mà thôi thì chưa đủ. Trong cuộc sống, ý nghĩa không hệ tại ở điều mà con người tìm kiếm, mà là ở cảm nghiệm do được sống – đó là trạng thái phấn khích vì được sống”. Chúng ta được dành cho cuộc sống này. Đây là một sự kiện mà ai cũng biết rằng những người nào đã vui sống một cách trọn vẹn và sôi nổi, thì khi chết đi, sẽ không cảm thấy bị lãng phí cuộc đời.”Bạn đừng sợ hãi rằng cuộc sống của bạn sẽ chấm dứt, cho bằng hãy sợ hãi rằng không bao giờ được bắt đầu cuộc sống.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng những lời sau đây “Hãy tin vào Tin mừng”. Mà Tin mừng là gì? Tin mừng chính là “Ta đến để cho anh em được sống và sống dồi dào”.
------------------------------------
Mặc dù những lời của thánh Phêrô chủ yếu là nói với những người nô lệ (Bài đọc 2), nhưng những: PS 4-A5
Mặc dù những lời của thánh Phêrô chủ yếu là nói với những người nô lệ (Bài đọc 2), nhưng những lời này có một cách áp dụng rộng rãi hơn. Ngài đã chỉ chú ý đến giới nô lệ, bởi vì nỗi gian khổ của họ nặng nề hơn, so với gánh nặng của những người khác.
Khi ám chỉ đến những vết thương của Đức Kitô, thánh Phêrô đã nói “Thông qua những vết thương của Người, mà anh em được chữa lành”. Nhưng chúng ta có thể hỏi: Làm sao những vết thương của người khác lại có thể chữa lành được những vết thương của chúng ta? Câu chuyện có thật sau đây chứng tỏ rằng điều này có thể xảy ra:
Chồng Anne qua đời vì căn bệnh đau tim. Ông ấy chỉ mới ngoài 40 tuổi. Trong những tuần và những tháng sau tang lễ, Anne tiều tụy vì nỗi đau khổ. Bạn bè khuyên bà nên nghỉ ngơi trong kỳ cuối tuần dành cho tang quyến. Bà đã đồng ý đi một cách khá miễn cưỡng.
Tuy nhiên, Anne không nói rằng bà sẽ lắng nghe họ. Trong khi nghe họ chia sẻ, Anne bắt đầu nhận ra những người khác đã bị đau khổ rất nhiều. Một số người trong số họ còn bị lạm dụng khủng khiếp. Điều đặc biệt làm cho bà xúc động là nỗi đau khổ của những đứa trẻ. Dần dần, bà đã mở mắt ra. Anne đã không hay biết gì về tình trạng nơi một số gia đình. Bà cứ nghĩ rằng tất cả mọi cuộc hôn nhân đều giống như của mình. Lúc đó, bà mới nhận ra rằng mình đã có một cuộc hôn nhân rất tốt đẹp.
Trong khi trước đây, Anne cảm thấy không có thiện cảm với những người khác, thì bây giờ, bà bắt đầu cảm thấy rất gần gũi với họ, bà có quá nhiều thiện cảm, đến nỗi khi người ta cho bà cơ hội tham gia vào một nhóm khác, thì Anne đã nói rằng muốn ở lại với nhóm cũ của mình. Cuối cùng, bà bắt đầu tự nói về mình. Một người phụ nữ nói với Anne “Tôi sẽ không thể đem cho ai, dù chỉ là một trong những ngày sống giống được như cuộc sống của chị”. Kỳ nghỉ cuối tuần đã chứng tỏ được sự chuyển hướng đối với Anne. Những vết thương của bà bắt đầu được chữa lành.
Nỗi khổ đau làm mềm mại trái tim chai cứng của chúng ta, và giúp chúng ta có thể đi vào thế giới của sự đau khổ, mà tất cả mọi người đều đã từng có lúc trải qua. Trong khi tiếp cận với những người khác, chúng ta đi ra khỏi nỗi cô đơn của mình, để đi vào một thế giới của sự chia sẻ. Trong động tác đơn giản bày tỏ sự đồng cảm với người khác, là đã có sự lành lặn.
Bạn không thể học hỏi được lòng thương xót, nếu không hề biết đau khổ là gì. Bạn sẽ không thể nào an ủi người đang chịu đau khổ, trừ phi bạn đã từng đau khổ và khóc lóc. Bạn không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác, trừ phi bạn đã từng than khóc. Bạn không thể giúp đỡ những người lang thang cơ nhỡ tìm được đường đi, trừ phi bạn đã từng bước đi trong cảnh tăm tối. Nhưng nếu đã từng chịu đau khổ, thì bạn có thể trở nên một người dẫn lối cho những người khác.
Những vết thương của người khác có thể giúp chúng ta đương đầu và phục hồi khỏi những vết thương của bản thân mình. Chính nhờ tiếp cận với người khác, từ những vết thương của riêng mình, mà chúng ta được chữa lành. Chia sẻ nỗi đau khổ hơi giống như chia sẻ cơm bánh; điều này đưa người ta đến gần với nhau. Tình thân thiện là hoa trái phát triển từ việc tiếp xúc với những vết thương của người khác.
Nếu chúng ta có thể rút ra được sự khích lệ từ những vết thương của người khác, thì chúng ta còn có thể được khích lệ nhiều hơn đến thế nào, từ những vết thương của Chúa Chiên Lành. Những vết thương của Người giúp chúng ta nhận ra được những vết thương của bản thân mình. Đối với chúng ta, những vết thương thần thánh, quí giá của Đức Giêsu là một nguồn mạch an ủi, can đảm và hy vọng. Thật vậy, chính nhờ những vết thương của Người, mà chúng ta được chữa lành.
------------------------------------
Trong suốt cuộc đời, chúng ta không thể tránh khỏi một số thương tích. Nhưng người nào chăm: PS 4-A6
Trong suốt cuộc đời, chúng ta không thể tránh khỏi một số thương tích. Nhưng người nào chăm sóc kẻ khác thì có khuynh hướng hay gặp thương tích hơn, so với những người khác. Nếu bạn nuôi con trẻ, thì bạn thường hay bị nhiều vết sẹo. Đây cũng là trường hợp của bất cứ người nào thực sự yêu thương người khác, hoặc tự cho mình là nguyên nhân gây ra thương tích. Điều quan trọng là chúng ta nên phản ứng ra sao đối với những vết thương đó. Trong khi đi giao những bông hoa cho cô bạn Mary của mình. Ellen đang cao hứng, và vừa đi vừa hát. Nhưng một con ong đã chích vào cánh tay của cô, và thế là một ngày đang vui tươi như thế, lại đột nhiên trở thành một ngày thật khó chịu.
Ellen liền vứt bỏ những bông hoa sang một bên, rồi ngồi xuống bên vệ đường để xem xét chỗ bị đau. Vết ong chích làm cho cô cảm thấy rất đau, và bị sưng đỏ lên một cách đáng lo ngại. Trong khi đang nhăn nhó với nỗi đau, và cảm thấy rất tiếc cho chính mình, thì có một người đi qua đường đến giúp đỡ cô.
Người đó nói “Tôi biết rõ cảm giác của cô, vì bản thân tôi đã từng bị ong chích”.
Người xa lạ đó lấy ra một lọ dầu, và xoa một ít lên vết thương. Tinh dầu đã có hiệu quả thực sự trên vết thương, và chẳng bao lâu, Ellen có thể lên đường trở lại. Tuy nhiên, trong khi đó, cô không thể tiếp tục để mắt vào vết thương này được. May thay, chỗ sưng đã giảm bớt, và cơn đau được dịu đi.
Dọc theo đường đi, Ellen gặp gỡ những người qua đường khác. Cô cứ mải miết kể lại chuyện con ong chích. Qua từng lời kể của cô, dường như con ong đó có vẻ hung dữ hơn, và vết thương càng trầm trọng hơn. Người nghe có thể nhận thấy là cô rất khó chịu về chuyện đó. Tất cả mọi người đều cố gắng giúp đỡ cô.
Một người nói “Cô hãy cứ phớt lờ mọi chuyện đi thôi”
Người thứ hai nói “Chôn vùi chuyện đó đi”.
Người thứ ba nói “Cứ coi như chưa bao giờ có chuyện gì xảy ra cả”.
Và cứ thế tiếp tục. Mặc dù những người khuyên nhủ cô đã sử dụng những cách diễn tả khác nhau, những lời khuyên của họ đều có cùng một ý: Hãy quên chuyện bị ong chích đi. Những lời khuyên này nghe có vẻ thật hay, và cô đã thấu hiểu được điều đó.
Ellen đã cố gắng quên chuyện bị ong chích. Tuy nhiên, trí nhớ con người rất kỳ lạ: Chúng ta thường quên đi điều mà chúng ta muốn nhớ, và cứ nhớ mãi điều mà chúng ta muốn quên. Bất kể đã hết sức cố gắng, cô vẫn không thể quên được chuyện đó. Và mỗi khi nhớ đến chuyện đó, cô lại cảm thấy đau đớn trở lại.
Cuối cùng, Ellen may mắn gặp được một người bạn lớn tuổi và khôn ngoan, tên là Sheila. Tự nhiên cô cũng cởi mở tâm hồn với người bạn đó.
Sheila hỏi “Phải quên toàn bộ chuyện bị ong chích đi ư? Mà tại sao bạn nên quên chuyện đó?”.
Câu hỏi này làm cho Ellen ngạc nhiên. Cô ngập ngừng, rồi trả lời:”Tất cả mọi người mà tôi gặp gỡ, đều bảo rằng tôi phải quên chuyện đó”.
Sheila nhấn mạnh một cách nhẹ nhàng “Nhưng chuyện đó đã xảy ra. Đây là một phần câu chuyện cuộc hành trình của bạn. Ngoài ra, đây không phải là điều gì đó đáng xấu hổ cả”.
Ellen nói “Nhưng mỗi khi nhớ đến chuyện đó, tôi lại cảm thấy tất cả nỗi đau đớn trở lại”.
Sheila nói “Vấn đề chính là ở cách thế bạn ghi nhớ điều đó. Bạn đang thực hiện sứ mạng tình yêu, phải không?”
“Đúng đấy”.
“Vậy thì bạn đừng để cho con ong làm cho bạn bị sao lãng khỏi sứ mạng đó. Nhất là bạn đừng để cho chất độc của nó làm giảm bớt tình yêu nơi bạn. Sau đó, khi bạn đến nhà người bạn, thì món quà của bạn sẽ càng quí giá hơn tất cả, bởi vì bạn đã phải chịu đựng một vết thương, trong khi đem phân phát món quà đó”.
Sau khi họ chia tay nhau, Ellen đã ngẫm nghĩ về lời góp ý của người bạn. Dần dần, cô nhìn vào sự kiện bị ong chích bằng một cái nhìn mới mẻ. Nhờ đó, cô không còn cảm thấy cay cú nữa, và cô lại tiếp tục lên đường một cách vui vẻ.
Ở đây, chúng ta nhận thấy rằng vấn đề đã được giải quyết, không phải bằng cách loại bỏ, nhưng bằng cách tạo cho vấn đề đó một ý nghĩa mới. Ý nghĩa khác hẳn với hạnh phúc. Ước muốn lớn lao nhất của chúng ta, thậm chí còn lớn lao hơn cả ước muốn hạnh phúc, đó là nỗi đau đớn của chúng ta mang một nét gì đó có ý nghĩa.
Đức Giêsu đã mang trong thân xác của Người những dấu vết nơi thế giới đầy bạo lực của chúng ta. Người không hề che dấu những vết thương của mình, và cũng không cảm thấy cay đắng về chúng. Những vết thương đó là một sự diễn tả tình yêu, và như vậy chúng có một ý nghĩa. Chúng là những vết thương đưa đến cái chết, mà Chúa Chiên lành đã nhận lấy, trong khi chăm sóc đoàn chiên của mình. Những vết thương của Người giúp chúng ta nhận ra được những vết thương của bản thân chúng ta. Tình yêu đã chiến thắng vượt lên trên những biến dạng, những vết thương, và những vết sẹo của cuộc đời.
------------------------------------
Theo một thống kê chính thức gần đây nhất cho thấy cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục của: PS 4-A7
Theo một thống kê chính thức gần đây nhất cho thấy cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục của Giáo Hội Công giáo thế giới diễn ra một cách đáng lo ngại. Đầu năm 1970, trên toàn thế giới có 450 ngàn linh mục. Cho đến năm nay, con số này chỉ còn 400 ngàn, tức là giảm 50 ngàn. Nếu đà đi xuống này vẫn tiếp tục thì tương lai sẽ như thế nào? Thậm chí có người còn nói rằng: Sau khoảng gần hai thế kỷ nữa sẽ không còn linh mục. Đàng khác, về mặt tuổi tác, trên bình diện thế giới, tuổi trung bình của linh mục ngày càng cao. Văn phòng thống kê trung ương của Tòa Thánh nghiên cứu vấn đề này trong thời kỳ từ 1985 đến 1995 cho biết: năm 1985, tuổi trung bình của linh mục là 50, và năm 1995 là 55. Điều làm cho các nhà nghiên cứu lo lắng nhất là “chỉ số già” của linh mục. Dĩ nhiên không ai có thể “trẻ mãi không già”, nhưng điều đáng lo ngại là ngày càng có ít người trẻ đeo đuổi ơn kêu gọi đi tu.
Vì thế, thiết tưởng hôm nay là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy niệm về vai trò mục tử giữa lòng dân Chúa, qui chiếu về mục tử tối cao là Chúa Giêsu Kitô. Đồng thời nhắc nhở chúng ta ý thức trách nhiệm của mình trong việc cổ võ ơn thiên triệu, góp phần xây dựng với các mục tử, và chính mình cũng được mời gọi thi hành chức năng người mục tử ấy trong cuộc sống đức tin hàng ngày.
Chúng ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử hay chủ chăn, còn chúng ta là con chiên và Giáo Hội là đoàn chiên. Kiểu nói hay cách gọi ấy có nguồn gốc sâu xa trong Kinh thánh. Từ khi Chúa gọi ông Apraham cho tới Chúa Giêsu, tức là suốt thời Cựu ước, hình ảnh đoàn chiên và người chăn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do thái. Từ đó họ đã hình dung ra một Thiên Chúa như mục tử, một người tốt lành chăn dắt họ, còn họ là đoàn chiên của Chúa.
Qua thời Tân ước, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh này để áp dụng cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Ngài tự xác nhận và diễn tả qua dụ ngôn “Mục tử nhân lành” hay “Người chăn chiên tốt lành”. Thế nào là một mục tử tốt lành? Dựa vào những ngôn từ của Chúa Giêsu, chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: Một là biết các con chiên của mình, hai là ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một mục tử tốt lành, vì Ngài có đầy đủ và hoàn toàn cả hai yếu tố đó.
Tuy nhiên, ngày nay, Chúa Giêsu thi hành chức năng mục tử ấy qua Giáo Hội, và Giáo Hội thi hành sứ vụ mục tử của mình qua các thừa tác viên, và thừa tác viên gần gũi với chúng ta nhất là các linh mục. Theo gương Chúa Giêsu mục tử, linh mục phải đến với mọi người, nhất là những ai đau khổ và yếu đuối, phải đối xử với mọi người trong tâm tình yêu mến, phục vụ, nhằm đưa anh chị em của mình đạt đến sự trưởng thành Kitô giáo và kiến tạo một cộng đoàn Kitô hữu đích thực. Hơn nữa, linh mục còn được mời gọi chấp nhận hy sinh cho đoàn chiên, và nếu cần, không quản ngại hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Thế nhưng “Tinh thần thì nhanh nhẹn, mà xác thịt lại nặng nề, yếu đuối”. Hơn ai hết, người linh mục của Chúa Giêsu cảm nghiệm chân lý ấy nơi chính con người mình. Sứ vụ bao giờ cũng cao đẹp, có sứ vụ nào cao đẹp hơn sứ vụ linh mục không? Nhưng nẻo đường vươn đến tầm cao sứ vụ lại không phải là con đường đơn giản. Vì thế, trong tình hiệp thông liên kết, người tín hữu ý thức trách nhiệm của mình đối với các linh mục: chia sẻ những âu lo, giúp đỡ trong lời cầu nguyện cũng như bằng việc làm cụ thể, để linh mục có thể chu toàn sứ vụ của mình một cách tốt đẹp.
Sau hết, chúng ta hãy nhớ rằng, chính mỗi người giáo dân cũng được mời gọi thi hành chức năng mục tử, bởi vì mục vụ là sứ mệnh của Giáo Hội, và mỗi tín hưũ đều có phần của mình trong sứ mệnh ấy, vừa được chăn dắt vừa có trách nhiệm chăn dắt. Và chúng ta đã biết, đặc tính nổi bật của mục tử là tốt lành và thương xót. Vì thế, nếu chúng ta sống tốt lành và biết thương xót là chúng ta đang thi hành một cách tốt đẹp chức năng mục tử của mình.
------------------------------------
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm: PS 4-A8
Hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Từ hơn ba mươi năm nay, cứ đến mỗi Chúa nhật thứ tư Mùa Phục sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày để kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Nói đến việc cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ, thì có lẽ chúng ta nghĩ đến tình trạng hiện nay tại hầu hết các nước Tây Phương càng lúc càng có nhiều chủng viện phải đóng cửa, nhiều Dòng tu trống vắng, số linh mục và tu sĩ già nua thì càng gia tăng. Thế nhưng nói đến cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ tại Việt Nam của chúng ta, thì chắc chắn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến không biết bao nhiêu chủng sinh phải chờ đợi có khi từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn chưa được chịu chức. Không biết bao nhiêu người vì lý lịch mà không được nhận vào danh sách chủng sinh, không biết bao nhiêu người phải tu chui tu nhủi.
Giáo Hội tại Việt Nam của chúng ta quả thật không thiếu ơn gọi, Giáo Hội chỉ thiếu tự do để cho các sinh hoạt tôn giáo được bình thường, để cho cánh cửa các chủng viện và dòng tu được mở rộng, để cho sự phục vụ không bị giới hạn. Như vậy đối với chúng ta ngày hôm nay, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ thiết yếu là cầu nguyện cho tự do tôn giáo được nhìn nhận và tôn trọng một cách đầy đủ, để Giáo Hội qua các linh mục và tu sĩ được quyền phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu.
Chiếm độc quyền phục vụ là một điều bất công, phục vụ mà không theo Chúa Giêsu thì cũng chỉ là trò lừa bịp mà thôi. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi cách phục vụ đó là trộm cướp. Chúng ta hiểu được giọng điệu gay gắt của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay, nếu đặt vào trong bối cảnh toàn bộ bài diễn văn, thánh Gioan tác giả của bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu đã lên tiếng trước đám đông nhân ngày Lễ Cung Hiến Đền thờ của người Do thái, đây là lễ tưởng niệm cuộc kháng chiến và chiến thắng vẻ vang của anh em nhà Macabê chống lại đế quốc Hy Lạp vào thế kỷ II trước Công nguyên. Nhiều người lợi dụng dịp này để hô hào dân chúng đứng lên chống lại sự cai trị của đế quốc La mã, nhưng những người biệt phái lại bắt lấy cơ hội để xúi giục dân chúng chống lại Chúa Giêsu.
Chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã đọc bài diễn văn về người mục tử nhân lành và đồng thời tố cáo các hành động mà Ngài gọi là trộm cướp của những người biệt phái. Quả thực, những người biệt phái cũng hô hào phục vụ và canh tân, nhưng như Chúa Giêsu đã điểm mặt là họ chỉ chất lên vai người dân không biết bao nhiêu là gánh nặng còn chính họ thì không lay đến ngón tay.
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Muốn đi vào đoàn chiên và phục vụ đoàn chiên thì người ta sẽ đi qua cửa chính mà vào, tất cả mọi lối đi vào khác đều là lối đi của quân trộm cướp. Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một cung cách phục vụ duy nhất đó là phục vụ như Ngài đã phục vụ, nghĩa là sẵn sàng hiến thân cho và vì tha nhân mà thôi. Ai sống và phục vụ như Chúa Giêsu thì kẻ ấy thuộc về Ngài, còn ai sống ngược lại cung cách phục vụ của Ngài thì kẻ ấy chỉ là quân trộm cướp mà thôi.
Cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội tại Việt Nam luôn được sống theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin cho các giáo xứ và các gia đình Việt Nam biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, ngõ hầu trở thành mảnh đất phì nhiêu trổ sinh nhiều ơn gọi phục vụ đích thực trong Giáo Hội.
------------------------------------
Đức Giê-su nói: "Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, .........: Từ câu này, ta có thể suy ra phong PS 4-A9
1. Đức Giê-su nói: "Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử". Từ câu này, ta có thể suy ra phong cách của người mục tử chân chính phải như thế nào?
2. Người mục tử chân chính phải có đức tính cốt yếu nào khiến mục tử khác hẳn kẻ chăn chiên thuê hay bọn trộm cắp chiên?
3. Qua bài Tin Mừng này, Đức Giê-su muốn nói với chính bạn điều gì? Ngài muốn bạn làm gì và có thái độ nào đối với Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. Người mục tử trong nếp sống của người Do Thái xưa
Để hiểu được ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần trở về với nếp sống của người Do Thái thời Đức Giê-su. Thời ấy, chiên được nuôi theo bầy hàng trăm con tại những đồng cỏ xanh. Mục tử hay người chăn chiên đi theo bầy chiên và cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay thú hoang, và để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn được gọi là "ràn chiên", thường là một hang đá hay một khu đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh. Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên, và thường ở ngay cửa ràn. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất mật thiết. Mục tử chỉ biết có chiên của mình, và chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không chịu theo bất kỳ ai khác.
2. Ý tứ của Đức Giê-su khi nói dụ ngôn này
Đức Giê-su nói dụ ngôn này với người Pha-ri-siêu, sau khi đối chất với họ về việc Ngài chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9). Nên nhớ: những người Pha-ri-siêu là những người lãnh đạo tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai trò mục tử đối với đàn chiên. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn cho họ thấy hai thái độ trái nghịch nhau giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân chúng hay các tín đồ tôn giáo. Sự trái nghịch nhau đó được thể hiện qua cách ứng xử với người mù bẩm sinh.
· Cách ứng xử của người Pha-ri-siêu:
Khi thấy người mù được chữa lành, thay vì mừng cho anh ta đã thoát khỏi điều bất hạnh vô cùng lớn lao, những người Pha-ri-siêu lại có một thái độ thù nghịch và bực tức. Họ tỏ ra không có một chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông nào đối với người mù được Đức Giê-su chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề luật để bắt bẻ vị ân nhân đã chữa lành bệnh cho anh ta, đồng thời gây khó dễ cho anh và gia đình anh vì việc được chữa lành ấy. Đối với dân chúng, họ không giống như người mục tử đích thực đối với đàn chiên, mà giống như người chăn chiên thuê. Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là của hắn (x. Ga 10,12-13).
Vì thế, trong tôn giáo, những người Pha-ri-siêu lợi dụng chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ dân chúng (x. Mt 23,5-6). Họ giảng dạy toàn những điều tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm chứ không phải họ làm (x. Mt 23,2-3). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc phải làm như vậy, chứ không phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy. Đức Giê-su đã tố cáo việc họ lợi dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội (23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi người gọi mình là "Rabbi" hay "Thầy" (23,6).
· Cách ứng xử của Đức Giê-su
Đức Giê-su có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ đầy yêu thương đối với mọi người, được thể hiện một cách cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và lòng thương xót của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sa-bát, bất chấp sự phản đối và bực tức của người Pha-ri-siêu về việc lỗi luật của Ngài, bất chấp những hậu quả rất bất lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân để xoa dịu đau khổ, để làm mọi người hạnh phúc.
Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su muốn cho người Pha-ri-siêu thấy thái độ của họ đối với dân chúng, với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm cướp, của kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ không hề yêu thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là thái độ người mục tử đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên đến nỗi sẵn sàng "hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên" (Ga 10,11). Nhưng rất tiếc là "họ không hiểu những điều Người nói với họ".
3. Mục tử nhân lành (mục tử thật) và kẻ trộm cướp (mục tử giả)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt mục tử và kẻ trộm cướp. Mục tử thì đi vào ràn chiên bằng cửa ràn, nghĩa là với phong thái "đường đường chính chính". Còn kẻ trộm hay kẻ cướp thì không qua cửa nhưng trèo qua lối khác mà vào, với phong thái lén lút, giả dối, không đàng hoàng. Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin Mừng hôm nay, lại cũng chính là Đức Giê-su: "Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào". Vậy để là mục tử đích thật, người mục tử phải qua Đức Giê-su mà đến với đàn chiên, nghĩa là phải là người yêu mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn chiên vì Ngài, không vì một động lực nào khác.
Thật vậy, đã là mục tử chân chính thì tư tưởng, lời nói, hành động lúc nào cũng phải bộc lộ được tính "quang minh chính đại", hay "đường đường chính chính", luôn luôn thẳng thắn, trung thực, đáng tin. Người mục tử chân chính ít ra phải là một người quân tử. Nếu tư tưởng, lời nói và hành động như một kẻ tiểu nhân, thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự thật… thì không xứng đáng làm mục tử. Hơn thế nữa, người mục tử chân chính phải có một tình yêu to tát, để có thể hy sinh đến tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo, hướng dẫn.
Đương nhiên để thực hiện ý định của mình, kẻ trộm cướp - những kẻ không có tình yêu đối với chiên nhưng lại muốn hưởng những quyền lợi của người mục tử - phải giả làm mục tử. Hắn tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình. Nhưng chiên "không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ", không cảm nhận được tình thương của hắn. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, đến cái lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên "khi thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn" (Ga 10,12). Người mục tử đích thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn sàng "hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên" (Ga 10,11) "để cho chiên được sống và sống dồi dào" (10,10).
4. Đức Giê-su là mục tử tốt lành
Ngoài mục đích đối chất với bọn Pha-ri-siêu, Đức Giê-su còn dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy đối với người Do Thái để diễn tả sự yêu thương gắn bó giữa Ngài và chúng ta, những kẻ theo Ngài. Như mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc chiên mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta như vậy. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử với đàn chiên để diễn tả tương quan giữa Đấng Mê-si-a và dân của Ngài: "Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng" (Ed 34,23). Ngài chính là người mục tử được Thánh Vịnh mô tả: "Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên" (Tv 23).
Vì thế, khi ý thức được Đức Giê-su luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, người Ki-tô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc, và Tin Mừng chúng ta rao giảng mới đúng là tin mừng đích thực (=tin thật sự đem lại vui mừng!)
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tình thương vô bờ và quyền năng vô biên của Cha, của Đức Giê-su, để con có thể hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, cho Đức Giê-su. Nhờ đó, con luôn luôn bình an, hạnh phúc bất chấp cuộc đời có sóng gió đến đâu. Vì con luôn luôn tin tưởng rằng, con được một bàn tay quyền uy và yêu thương bảo vệ. Mọi biến cố xảy ra, dù thế nào, cuối cùng đều ích lợi cho con. Amen.
------------------------------------
Ga 10,1-10
Ngày kia trong chiêm bao, một người chăn chiên đang buồn sầu ảo não thì Chúa Giêsu hiện đến: PS 4-A10
Ngày kia trong chiêm bao, một người chăn chiên đang buồn sầu ảo não thì Chúa Giêsu hiện đến với anh ta. Chúa hỏi: "Tại sao con buồn phiền quá đỗi như vậy?" Anh ta thưa: "Vì con mất một con chiên và con đã tìm khắp nơi mà không thấy nó đâu hết. Rất có thể nó đã bị chó sói cắn xé ăn thịt rồi." Chúa bảo: "Con hãy đợi ở đây. Ta sẽ đích thân đi tìm." Rồi Chúa băng vào khu rừng gần đó, một lúc sau Ngài trở lại vai mang con chiên lạc về; Chúa đặt nó dưới chân người chăn chiên và nói: "Từ nay con phải cẩn thân săn sóc con chiên này hơn những con chiên khác trong đàn chiên của con, vì nó đã mất nay lại tìm thấy."
Dù chỉ là chiêm bao, nhưng câu truyện trên đã nói lên phần nào ý nghĩa của Tin mừng hôm nay, đó là mối tương quan mật thiết và tình yêu thương giữa Chúa và những ai tin theo Ngài.
Chúa nhật này thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành vì trong đoạn Phúc âm thánh Gioan hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cửa chuồng chiên và người chăn chiên đích thực để nói với những người Do Thái về tình thương yêu và sự ân cần săn sóc của Ngài đối với các tín hữu. Nhưng họ không hiểu nên Ngài đã tuyên bố rõ ràng với họ Ngài là cửa chuồng chiên và chính là người chăn chiên nhân hậu đã hy hiến chính mình vì đàn chiên. Còn những kẻ chăn thuê là những người Pharisêu, họ đã không tha thiết gì đến đàn chiên mà chỉ lo tìm tư lợi. Khi phải đương đầu với những nguy hiểm, họ đã tìm đường tẩu thoát, bỏ mặc đàn chiên cho thú dữ cắn xé ăn thịt.
Chúa Giêsu sánh ví mình như là cửa chuồng chiên vì Ngì là nơi trú ẩn chắc chắn an toàn, những con chiên nào ở trong chuồng của Ngài sẽ được bảo vệ, được ăn uống no nê, được chăm sóc cẩn thận nên chúng sẽ được sống sung mãn. Hơn nữa, Ngài còn chính là vị mục tử tốt lành, Ngài đã hy sinh chính mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Ngài để ý đến từng con, con nào đau yếu Ngài lo chạy chữa, con nào lạc đường Ngài lo đi tìm về, Ngài để 99 con lại cánh đồng để tìm kiếm một con chiên lạc. Những con lành mạnh Ngài dẩn đến đồng cỏ xanh tươi, đến giòng suối mát để chúng được ăn uống thoả thuê và được sống dồi dào. Ngài sánh ví các kẻ tin theo Ngài như những con chiên mà Ngài có trách nhiệm chăn dắt dẩn đưa đến sự sống muôn đời. Hạnh phúc biết bao cho những ai được ở trong đoàn chiên của Ngài! Ngài chính là mẫu gương để cho tất cả những ai giữ vai trò lãnh đạo hướng dẫn dân Chúa noi theo.
Đức Thánh Cha đã chỉ định Chúa nhật nầy để cả Giáo hội hợp ý cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục tu sĩ. Ngày nay ơn kêu gọi đang thiếu hụt trầm trọng, vậy chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa là người mục tử tốt lành ban cho Giáo hội có nhiều người biết noi gương Chúa Kitô hiến thân phục vụ đoàn chiên Chúa, nhất là biết noi gương Chúa Kitô hoàn toàn quên mình vì đoàn chiên và biết chăm lo săn sóc đến từng con chiên, cách riêng những con chiên lạc đàn và đau yếu. Chúng ta cũng hãy tha thiết xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được trở nên những tín hữu tốt lành trong đoàn chiên Chúa, luôn nghe theo tiếng Chúa mời gọi và hướng dẫn để tất cả hợp thành một đoàn chiên dưới quyền lãnh đạo chăn dắt của một Chúa chiên duy nhất.
------------------------------------
- Lm Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ga 10, 1-10
Hình ảnh người chăn chiên đang dẫn đàn chiên đi ăn cỏ trên các cánh đồng cỏ xanh tươi, hay: PS 4-A11
Hình ảnh người chăn chiên đang dẫn đàn chiên đi ăn cỏ trên các cánh đồng cỏ xanh tươi, hay đưa đàn chiên tới các dòng suối nước trong lành làm cho ta gợi nhớ tới xã hội Do Thái khi xưa, nhớ tới khung cảnh Chúa Giêsu sống trong đất nước Do Thái cách đây 2002 năm .Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên ở đất nước Do Thái, nên Ngài đã được thừa hưởng nền văn hoá và quan niệm tôn giáo Do Thái vì thế Ngài đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ rút ra từ những hoàn cảnh cụ thể của người Do Thái để dậy dỗ, giáo huấn các môn đệ và nhân loại .Chúa Giêsu đã dùng chính ngôn ngữ của người Do Thái, đã dùng những hình ảnh quen thuộc nhưng rất ấn tượng để nói lên một sứ điệp, một lệnh truyền hay để giới thiệu về chính Ngài. Hình ảnh người chăn chiên tốt lành là hiện thân của Ngài . Qua hình ảnh sống động, gợi cảm và hết sức ấn tượng của người chăn chiên can đảm, nhiệt thành, nhân từ, chạnh lòng thương xót, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài .
I. CHÚA GIÊSU LÀ MỤC TỬ VÀ LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN:
Xuyên suốt lịch sử dân Do Thái , Thiên Chúa luôn tự giới thiệu mình như là vị mục tử của dân Người Hình ảnh Đavít mà sách 1 samuen đoạn 17 , câu 34 tới 36 diễn tả là hình ảnh tiên trưng của Chúa Giêsu trong Tân ước.Đavít chăn dắt đàn chiên, yêu thương từng con chiên một, Người sẵn sàng chống lại thú dữ khi chúng tấn công bầy chiên .Sau này, Đavít đã chiến thắng Golíat bằng một chiếc ná cao su, nhắm bắn ngay vào trán Golíat hung hăng, kiêu ngạo. Hình ảnh của một Đavít nhỏ bé, với tóc hoe vàng đã trở nên dũng mãnh, cao trọng khi Thiên Chúa cất nhắc Đavít lên làm vua,xức dầu phong vương để Đavít làm vua lãnh đạo dân Thiên Chúa. Hình ảnh mục tử còn được diễn tả cách tỉ mỉ, gẫy gọn khi tiên tri Ezékiel nhân danh Chúa nói lên: "…Ta,vị Chủ tể tối cao,Ta tuyên bố rằng…Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi…Ta sẽ giao chúng cho một vì vua giống như Đavít tôi tớ ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng " ( Ez 34, 23 ). Vâng, chính Thiên chúa sẽ chọn cho mình những tôi tớ, những môn đệ cũng gọi là “mục tử “ để Ngài trao cho họ trách nhiệm chăn dắt dân theo ý của Người .Tuy nhiên, vì các mục tử đã bị băng hoại, họ chỉ lo cho lợi ích riêng, tìm lợi nhuận cho mình và cho thân nhân, gia đình của mình, họ trở nên bất xứng với sứ vụ đã lãnh nhận, nên Thiên chúa đã sai các ngôn sứ loan truyền sẽ tới thời chính Đấng Thiên sai là Chúa Giêsu sẽ đến để lãnh đạo dân Người .
Chúa Giêsu đã tuyên bố với dân Do Thái: "Ta là mục tử tốt lành” ( Ga 10, 11 ).Ngài là hiện thân của Thiên Chúa,Người được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, qui tụ mọi con chiên .Người biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài ( Ga 10, 14-15 ). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi ( Ga 10, 3 ) . Điều hết sức quan trọng là Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên:"Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ) hoặc “ Khi nào Ta bị treo lên , Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ". Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là vị mục tử tốt lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt , tập họp, chăn dắt ( Ga 10, 9 và 16 ).
Khi minh định Ngài là cửa chuồng chiên, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng bất cứ con chiên nào không qua Ngài không thể tới Chúa cha được. Dân Thiên Chúa phải đi qua cửa duy nhất là Đức Giêsu . Đi qua Ngài, dân Chúa mới có tự do và đạt được cuộc sống viên mãn . Bước qua ngưỡng cửa là Đức Giêsu, dân Chúa hay con người mới
nhận được ơn cứu độ , sự sống mới, sự sống sung mãn Chúa ban cho . Ngoài Chúa Giêsu, nghĩa là không bước qua cửa chuồng chiên, con người không có sự sống dồi dào .Như vậy, người chăn chiên đích thực nào cũng phải ngang qua Chúa Giêsu, vì Ngài là hàng rào bảo đảm sự an bình, an toàn cho chiên của Ngài . Kẻ nào không ngang qua Ngài, chiên sẽ không biết, không nghe và không theo kẻ đó vì họ là kẻ lường gạt, trộm cắp .
II. CÁC MỤC TỬ PHẢI NOI THEO GƯƠNG VỊ MỤC TỬ DUY NHẤT LÀ ĐỨC KITÔ.
Chúa Giêsu phục sinh vẫn hiện diện với nhân loại , Người không còn có mặt bằng xương bằng thịt như trước nữa, nghĩa là không còn như lúc Người sống với các tông đồ, cùng ăn, cùng làm cùng chia sẻ những ưu tư , suy nghĩ .Nay, Chúa đã chịu chết, đã phục sinh, Người là Đấng vô hình dù rằng Chúa Giêsu vẫn còn mang dấu tích của cuộc thương khó . Đời sống cụ thể của nhân loại cần phải có sự dìu dắt, chăm sóc cách hữu hình .Sứ mạng ấy, chúa phục sinh đã trao cho Hội Thánh . Phêrô là vị tông đồ, Chúa trao làm nền tảng của Giáo Hội sau lời tuyên tín đầy sáng suốt của Phêrô mà Chúa nói là do Chúa Cha mạc khải ( Mt 16, 18 ). Thánh Gioan nhấn mạnh thêm khi Phêrô thưa ba lần với Chúa rằng Ong yêu mến Chúa, Chúa trao trách nhiệm chăm sóc đàn chiên, chăm sóc Giáo Hội của Chúa ở trần gian ( Ga 21, 15-17 ).Tuy nhiên khi trao sứ mạng nặng nề, cao quí cho Phêrô và các tông đồ, Chúa muốn các Ngài trở nên những kẻ hầu hạ,những người phục vụ ( Mc 10, 41-45 ). Chúa nhấn mạnh: "Hãy học cùng ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng " . Hiền lành và khiêm nhượng là đức tính căn bản, tối cần của các mục tử Chúa Kitô ." Người chăn chiên tốt chính là Ta "( Ga 10, 14 ).Các vị mục tử phải là những người gắn bó mật thiết với Chúa Kitô, nghe tiếng Người , giảng dậy, cắt nghĩa giáo lý , chân lý của Người . Hình ảnh người chăn chiên cầm tù và, thổi tụ họp đàn chiên , mệt lả vác chiên lạc trên vai khi tìm thấy, luôn phải là hình ảnh sống động của các mục tử Chúa , đang nối tiếp sứ vụ của Chúa phục sinh giữa trần gian này .Đức tính căn bản của người mục tử tốt lành là tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu,một tình yêu luôn ước ao và chờ đợi con người đáp trả .
III. MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐỀU CÓ MỘT ƠN GỌI PHẢI ĐÁP TRẢ VÀ ĐƯỢC KÊU MỜI TRỞ NÊN NGƯỜI CHĂN CHIÊN TỐT LÀNH:
Là người Kitô hữu,chúng ta có Đức Kitô là Vị Mục Tử duy nhất luôn muốn qui tụ tất cả về đoàn chiên duy nhất của Người, nghĩa là không phân biệt dân được tuyển chọn hay dân ở ngoài lề . Ngài muốn tụ họp tất cả vào Giáo Hội của Ngài, Ngài muốn ban ơn cứu rỗi cho mọi người dù họ là dân ngoại hay dân của chúa. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên chúa Cha luôn kéo mọi người về với Ngài , dẫn mọi người thành tâm thiện chí về đồng cỏ xanh để mọi người có thể nhận ra tiếng của Ngài.
Trong thánh lễ sáng nay, thánh lễ dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi linh mục , tu sĩ chúng ta ý thức rằng mỗi người chúng ta phải nhiệt thành cầu nguyện cho các mục tử Chúa luôn noi gương bắt chước Chúa là mục tử mẫu mực, lý tưởng .Vị mục tử can đảm,nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn hay rộng tình thương xót, vị mục tử thánh thiện, hoàn hảo, chân thành , luôn kết hợp mật thiết với Thiên chúa cha và mọi người, vị mục tử đầy tình yêu , tình yêu bền bỉ , vững chắc, yêu cho đến cùng ( Ga 15, 13 ).Và như thế,chính chúng ta cũng được mời gọi đáp trả lại tình yêu vô biên của vị mục tử tốt lành , đồng thời ta cũng được kêu mời học hỏi và tập những đức tính cao đẹp, quí báu nhất của Đức Kitô nhân hậu và trở nên muôn người như một thành những vị mục tử tốt Như Chúa Giêsu .
Chúng ta có thể cùng với tác giả thánh vịnh 23 ca ngợi và hướng về trời cùng cất tiếng ca: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì,Ngài cho tôi nằm nghỉ …Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi". Đồng thời , chúng ta cảm nghiệm rằng sứ điệp cao cả , sứ điệp cứu độ Chúa Giêsu muốn loan báo cho nhân loại, cho mọi người: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy,Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian,không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". ( Ga 3, 16-17 ).
Vâng, sứ mạng chúa trao phó cho Giáo Hội là qui tụ , cứu vớt mọi người như chúa Giêsu Kitô đã làm . Sứ mạng ấy sẽ mang lại kết quả tốt đẹp nếu mỗi người chúng ta biết qui tụ, phục vụ như Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên nhân hậu .
------------------------------------
Jn 10:1-10
Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi. Mấy ngày trước đó, bố mẹ: PS 4-A12
Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi. Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự vẫn. Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em. Đến ngày Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý. Vì sợ cô giáo không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin cô giáo nhẫn nại với em. Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: "Có em nào biết đây là ai không?" Cô bé giơ tay trả lời: "Em biết, đó là người đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết."
Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày nay. Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày. Trong những ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương đau cho biết bao gia đình. Những lá thư hăm dọa đã khiến cho con người sống trong lo sợ. Quân khủng bố đã bất chấp thủ đoạn khi hành động. Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái, lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người. Sau đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu thương của thành phố. Hôm trước cứu người; hôm sau giết người. Thật là khó hiểu. Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh chiến. Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn. Ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ chém giết nhau. Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.
Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ, kỳ thị và bất công. Những người Samaritanô, tuy cũng mang giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt đối bị những người "ngoan đạo" xa tránh; những người phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội. Đứng trước thảm trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con dưới cánh để bảo vệ và vỗ về. Chúa đã tỏ tình thương và mối quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội. Chúa cũng ví mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho đoàn chiên: "Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào."
Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay. Thật vậy, Chúa Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một cuộc sống vô nghĩa. Chúa đến là để chiên của Ngài được sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui, an bình , và yêu thương. Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.
Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài. Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp. Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống. Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời. Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta. Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con phung phá.
Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài. Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài. Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an. Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được. "Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi" (Tv 23)
NS Trái Tim Đức Me
------------------------------------
Các Giám mục Brazil trong khóa họp thường niên tháng 11 năm 1995 lên tiếng báo động vì sự: PS 4-A13
Các Giám mục Brazil trong khóa họp thường niên tháng 11 năm 1995 lên tiếng báo động vì sự ra đi đáng kể của tín hữu. Số tín hữu quy thuận các giáo phái tin lành gia tăng đáng ngại. Hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ thì hờ hững với bổn phận. Tín hữu ham vật chất hưởng thụ đã ngã vào vòng tay tân tư bản, tân cường hào bá và tân địa chủ. Các giáo phái tin lành vung tiền lập xưởng, trả lương hậu hĩ và chỉ thu nhận những ai thuộc giáo phái của họ. Họ kỳ thị và lạnh lùng trả lời "không có việc" khi thấy cái mác "công giáo" trong đơn xin việc. Họ công khai hóa hứa hẹn cho việc làm nếu tự nguyện "gia nhập giáo phái chúng tôi".
Chiên bị bỏ rơi nên đi hoang, bị thú dữ ăn thịt và kẻ cướp dẫn đi là chuyện đương nhiên phải xảy ra. Có trách là trách các chủ chăn đã không màng đến sự an nguy của chiên. Chuồng thì rách nát và tan hoang; cửa thì hư hỏng và bỏ ngỏ; thức ăn thì thiếu thốn và không hợp vệ sinh; sói chưa đến chủ chiên đã bỏ chạy. Với những điều kiện tồi tệ như thế, số phận của chiên thật thê thảm!.. Ý thức được vấn đề mất chiên mới là bước đầu. Bước quan trotng kế tiếp là duyệt xét và sửa sai vấn đề mục vụ, đời sống thiêng liêng, chương trình huấn luyện và vào đời theo mô hình Đức Kitô là Chúa chiên.
Chuyện kể rằng "trong giấc mơ diễm phúc, Loan được song hành với Chú bên bờ biển. Chân dẫm trên cát mịn và êm ái; mặt được làn gió nhè nhẹ ban mai vuốt ve, phổi uống từng ngụm khí trong lành. Đi được một quãng, Loan nhìn lại sau lưng, thấy những dấu chân của Chúa và Loan xếp thành từng đôi rất đều đặn, nên hớn hở thưa "Chúa coi kìa, dấu chân của Chúa và của con sao mà khắn khít và đều quá." Chúa nhìn Loan mỉm cười. Cơn giông bỗng xuất hiện và thổi mạnh, sóng biển gào thét và đưa những đợt nước toé tung lên bờ. Loan rùng mình khiếp sợ, nhưng Chúa vẫn bình tĩnh như không có chuyện gì. Nhìn lại phía sau, lạ quá! Loan không thấy hai dấu chân song hành nữa mà chỉ còn một nên thưa "Sao chỉ còn có một dấu chân thôi Chúa?" Chúa thân thương trả lời "Trước con vui vẻ và hạnh phúc. Ta để con bước theo Ta. Bây giờ con hoảng hốt và mất bình tĩnh nên Ta đã vác con trên vai. Dấu chân con thấy bây giờ là của Ta đó con ạ!"
Giấc mơ thần tiên này diễn tả tình phụ tử của Chúa qua hình ảnh Chúa Chiên Nhân Lành. Chúa chăm sóc, yêu thương và bảo vệ. Chúa thấy rõ tình trạng non yếu và bệnh hoạn, vững mạnh và trưởng thành của từng chiên. Chúa dẫn chiên đến bờ suối trong lành và vào đồng cỏ xanh tươi. Chúa xua đuổi sói dữ và hy sinh cứu chiên. Nếu không có cuộc khổ nạn, sự chết và phục sinh thì hình ảnh Chúa chiên nhân lành vẫn là một giả tưởng. Nhưng với thánh giá, máu đổ, mộ trống và thân xác hiển vinh, Chúa chứng minh tình lý tưởng và tuyệt vời của kẻ dám "thí mạng vì người yêu." Đây là dạng thức tuyệt đỉnh của tình yêu cao thượng mà hàng giáo phẩm, tu sĩ, và giáo dân phải ước mơ và thực hiện.
Chúng ta thường trách khi Chúa thinh lặng quá lâu trước cơn khổ và làm ngơ trước những bất công. Chúng ta quên rằng ơn Chúa vẫn đủ để chúng ta vác thánh giá, chịu đau khổ và theo Chúa. Chúng ta lại trách oan Chúa khi đang được yên lành ngồi trên vai Chúa dù chưa hoàn hồn, vẫn còn đau và đang khóc. Chúng ta cướp công Chúa khi được thành công và gặp an ủi. Chúng ta quá dại khờ vì lời thánh không nghe, đường thánh không theo, lại tự chọn ngõ cụt, nẻo chết và nơi khổ đi vào. Rồi nhăn nhó chạy tội và đổ lỗi giống như đám trẻ thơ. Chúng bực bội vì không được leo cây, xài dao và lái xe, nên tố cha mẹ lỗi thời. Khi lỡ trẹo giò, gẫy chân, đứt tay và đụng xe thì "tại cha mẹ không cản, không dậy và không khuyên." Chúng quên đi mặt phụng phịu, cái tâm bất mãn, và đôi mắt trách móc khi cha mẹ dậy dỗ và cấm cản.
Người trần nhận phép trời và người trần sống kiếp thần thánh là lý tưởng cao vời của tín hữu. Tất cả đang song hành với Chúa Kitô. Người khoẻ đang vực người yếu. Người lãnh đạo đang xả thân vì tập thể. Cha mẹ đang hy sinh cho đàn con. Đàn con đang ngoan hiền vâng lời cha mẹ. Tất cả cùng tiến vào trời là suối mát, là đồng cỏ xanh tươi, là nơi an nghỉ. Dù hiện giờ chúng ta phải đồng khổ với Chúa (bài đọc 2). Chúng ta hãy nghe lời chủ chiên để "được sống viên mãn" (Jn 10,10) sống kiên vững, can trường khôn ngoan và không lạc lối.
------------------------------------
(Chúa Nhật Chúa chiên lành)
Cv 2,14a.36-41; 1 Pr 2,20b-25; Ga 10,1-10
Hình ảnh cậu bé chăn cừu, chăn trâu, chăn bò, canh bầy vịt ngoài đồng là hình ảnh quen thuộc: PS 4-A14
Hình ảnh cậu bé chăn cừu, chăn trâu, chăn bò, canh bầy vịt ngoài đồng là hình ảnh quen thuộc trong xã hội, trong dân gian, đôi khi còn là hình ảnh thơ mộng trong thi ca, văn chương. Nhất là hình ảnh mục đồng chăn chiên, bò, lừa đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh ngày lễ Thiên Chúa Giáng Sinh làm người (Lc 2,1-20).
Hình ảnh người chăm sóc đàn súc vật ngoài đồng là hình ảnh thật đẹp, phác họa tình liên đới giữa người và đàn vật, và cũng nói lên sự cần thiết hỗ tương giữa hai bên.
Mối tương quan giữa mục đồng và đàn súc vật có thể phân biệt làm hai: Một người chăm sóc chúng với chủ đích lấy lông, lấy da bán làm đồ quý giá đắt tiền; và một người với chủ tâm nuôi súc cho béo tốt, để bán thịt. Súc vật cần cho cuộc sống kinh tế. Và con người cũng đóng vai trò quan hệ trong việc làm cho súc vật có giá trị kinh tế.
Còn mối tương quan giữa con người với nhau thì sao? Không còn gì thất vọng buồn thảm, nhẫn tâm hơn nữa, nếu một người cảm thấy mình bị bỏ rơi, khi không còn mang lại lợi ích gì cho người khác nữa, hay đã bị lợi dụng vào mục đích tư lợi ích kỷ!
Ai là người cũng có khát vọng được kính trọng yêu mến, được nhìn nhận có giá trị, được trọng dụng. Nếu những khát vọng căn bản này không được đáp ứng, hay bị khinh miệt, con người sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng tinh thần, đến độ thành người bệnh hoạn cả tâm thần lẫn thể xác.
Chúa Giêsu ví mình là "mục đồng" chăm sóc đời sống con người. Ngài không làm việc này với chủ đích kinh tế, bán lông, bán thịt. Ngài là người "mục đồng" để ý đến đời sống của con người. Ngài chăm sóc đến những nhu cầu căn bản của đời sống: an vui, hạnh phúc trong tâm hồn, đời sống được no đủ, được bảo vệ: "Ta là mục đồng tốt lành, ta biết chiên của ta, và các chiên của ta biết ta... Ta hy sinh đời sống ta cho đoàn chiên." (Ga 10,14-15)
1. Đi dự tiệc cưới thành Kana, đang bữa ăn chủ nhà hết rượu đãi khách. Rượu là một yếu tố quan trọng cho ngày Vui, ngày cưới của đôi tân hôn. Biết như thế, Ngài thông cảm với họ lúc khó khăn, liền làm phép lạ biến nước thành rượu ngon, và tặng họ dư thừa. Ngài đã cứu danh dự cho đôi tân hôn và gia đình hai bên. Ngài đem đến cho họ sự sống và niềm Vui. (Gioan 2,1-12)
2. Trên đường truyền giáo rao giảng về nước Thiên Chúa, Ngài ra tay cứu độ chữa lành những người bị bệnh phong cùi (Mc 1,40-45), bị tàn tật không đi đứng được (Mc 2,1-12;10,46-52;Gioan 9,1-12), bị câm điếc (Mc 7,31-37;9,14-29). Ngài mang lại cho họ sức khỏe, niềm an vui. Phục hồi danh dự, nhân vị bị tàn héo vì do bệnh tật gây ra, và bị bỏ rơi khinh miệt.
3. Người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt, và theo luật xã hội bị kết án ném đá, nhưng người "mục đồng" Giêsu không lên án chị ta. Trái lại Ngài đối xử với chị với tấm lòng bao dung, nhân bản. Ngài ban ơn tha thứ những tội lỗi chị đã vấp phạm. Lời ban ơn tha thứ của Ngài mang lại cho chị niềm hy vọng, trả lại nhân vị sống làm người. Ngài đã cứu đời chị. (Gioan 7,53-8,11).
Chúa Giêsu tự nhận: "Ta là người mục đồng tốt lành" (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: "Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng nầy." Và tên Giêsu có nghĩa: Thiên Chúa, Đấng chữa lành, Đấng cứu độ, Đấng làm mọi sự nên hoàn chỉnh.
Chúa Giêsu là Mục đồng chăm sóc đời sống con người. Ngài không nhắm đến lợi nhuận, nhưng quan tâm đến nhân vị của họ.
Những người Tin theo Ngài, là môn đệ của Ngài, cũng phải sống là nhân chúng cho lòng bao dung tha thứ. Mang bình an, niềm Vui, niềm Hy vọng đến cho đồng loại.
------------------------------------
"TÔI ĐẾN CHO CHIÊN ĐƯỢC SỰ SỐNG VÀ ĐƯỢC MỘT SỰ SỐNG VIÊN TRỌN / viên mãn"
Vấn Đề của Bài Phúc Âm hôm nay
Như đã chia sẻ trong các tuần vừa rồi, chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa cho chung Mùa Phục Sinh là: PS 4-A15
Như đã chia sẻ trong các tuần vừa rồi, chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa cho chung Mùa Phục Sinh là những gì thể hiện câu Chúa Giêsu khẳng định trong biến cố hồi sinh Lazarô: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Jn 11:25). "Thày là sự sống lại" là chủ đề cho chính Đại Lễ Phục Sinh cũng như cho Chúa Nhật II và III Mùa Phục Sinh, và "Thày là sự sống" là chủ đề cho 4 Chúa Nhật Mùa Phục Sinh còn lại, tức tới Chúa Nhật VII, trước Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Chúa Nhật mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, tiếp theo Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh đã bị gián đoạn bởi Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Chính vì "Thày là sự sống" là chủ đề của 4 Chúa Nhật Mùa Phục Sinh còn lại mà trong Chúa Nhật IV Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu mới nói đến ở câu kết thúc bài Phúc Âm Thánh Gioan về mục đích Nhập Thể và Vượt Qua của Người: "Tôi đến cho chiên được sự sống và được sự sống viên trọn (hay) sự sống viên mãn".
Thế nhưng, về chủ đề "Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh nói chung và ở bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, chúng ta có thể đặt ra những vấn đề hết sức quan trọng sau đây:
Thứ nhất, "sự sống viên trọn (hay) sự sống viên mãn" đây là gì? Như thế "sự sống" chưa viên trọn hay chưa viên mãn đây là sự sống như thế nào?
Thứ hai, làm sao một cái chết về phần xác, một cái chết theo thể lý nơi Chúa Giêsu lại có thể mang lại sự sống thiêng liêng hay sự sống thần linh cho con người?
Thứ ba, nếu quả thực việc tử nạn về phần xác của Chúa Giêsu ban cho con người "sự sống" thần linh thì Người ban bằng cách nào và con người làm sao để có thể lãnh nhận?
1. "Sự sống viên trọn (hay) sự sống viên mãn" đây là gì? Như thế "sự sống" chưa viên trọn hay chưa viên mãn đây là sự sống như thế nào?
Căn cứ vào ý nghĩa của toàn bài Phúc Âm hôm nay, "sự sống viên trọn" Chúa Giêsu cố ý nói đến ở đây là sự sống do chính Người ban cho con người. Đúng thế, không một con người trần gian, con người thuần túy nào có thể ban cho con người "sự sống viên trọn" này được. Phải chăng, đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm: "Tất cả những ai đến trước Tôi đều là những kẻ trộm cắp và cướp giật… Kẻ trộm đến chỉ để ăn trộm, sát hại và hủy diệt"?
Nếu nói chung loài người thì "những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt" đầu tiên đây phải là chính Adong và Evà, những con người chẳng những đã không truyền lại cho con cái mình sự sống thần linh của tình trạng công chính nguyên thủy mà còn truyền lại cho giòng dõi mình sự chết cả hồn lẫn xác nữa!
Nếu nói riêng dân Do Thái là đối tượng nghe Chúa Giêsu nói những lời này, thì "những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt" đây phải kể đến những vị vua của họ, ở cả hai miền Nam và Bắc, điển hình nhất là Solomon, đã dẫn dắt dân Chúa đi đến chỗ bỏ "Chúa là Thiên Chúa duy nhất" (Deut 6:9; xem 1Kgs 8:23) của mình mà đi ngoại tình với tà thần, với các thứ thần ngoại bang, với ngẫu tượng, đến nỗi, cuối cùng, đã làm cho Đất Hứa bị xâm chiếm, Thành Thánh bị tục hóa và Dân Chúa bị lưu đầy bên Babylon (xem 2Kgs 24:15, 25:11; 1 Chr 36:20). Thậm chí cả Moisen và Đavít là hai nhân vật có thể nói nổi tiếng đệ nhất trong dân Do Thái, cũng không nhiều thì ít thuộc về thành phần của "những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt". Moisen, dù là vị cứu tinh dân tộc thoát khỏi làm tôi dân Ai Cập, chính ông cũng không được vào Đất Hứa, chỉ vì một lần đã không làm cho sự thiện hảo của Thiên Chúa tỏ hiện trước mặt dân chúng (xem Num 20:12). Đavít, dù là vị vua tốt lành nhất trong các vua Do Thái, thậm chí là vương tổ của một Đấng Cứu Thế (xem Lk 1:32), chính vua cũng đã gian dâm ngoại tình và sát nhân cướp vợ thuộc hạ của mình.
Còn Abraham và Gioan Tẩy Giả thì sao, hai nhân vật cũng rất quan trọng này của dân Do Thái có thuộc về thành phần "những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt" hay chăng? Đến đây chúng ta phải để ý đến một yếu tố nữa. Đó là, Chúa Giêsu không nói đến "tất cả những ai đến trước Tôi" khi trực tiếp so sánh họ với chính mình Người mà thôi, Người còn nói đến mối liên hệ giữa họ và chiên nữa. Ở chỗ, nếu chiên còn nghe tiếng họ thì quả thực họ chính là thành phần "qua cửa mà vào", như Chúa Giêsu cũng đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, tức thành phần thực sự chính hiệu là "mục tử của chiên", chứ không phải "những kẻ trộm cắp và cướp giật". Vậy, nếu các dân tộc được thừa hưởng phúc lành nơi giòng dõi của Tổ Phụ Abraham (xem Gen 22:18), và nếu dân Do Thái tuốn đến cùng Gioan Tẩy Giả ở Sông Dược Đăng (xem Mt 3:5), thì Tổ Phụ Abraham và Gioan Tẩy Giả là những nhân vật Chúa Giêsu đã nói ở đầu bài Phúc Âm hôm nay: "ai qua cửa mà vào là mục tử của đoàn chiên".
Thế nhưng, thế nào là "qua cửa mà vào" để thực sự "là mục tử của đoàn chiên", nếu không phải "qua" đây tức là theo Chúa Kitô, "cửa của đoàn chiên", như Người đã tự xưng trong bài Phúc Âm hôm nay: "Ta là cửa đoàn chiên". Đó là lý do, trên bờ biển hồ Tibêria, sau khi trao cho Tông Đồ Phêrô quyền vụ thay Người chăm sóc đàn chiên của Người, cũng như sau khi tiên báo cho Phêrô biết trước thân phận hy sinh vì chiên của ngài, Chúa Kitô Phục Sinh đã kêu gọi Vị Mục Tử Đệ Nhất này rằng: "Hãy theo Thày" (Jn 21:19). Tổ Phụ Abraham và Gioan Tẩy Giả, dù sinh ra trước Chúa Giêsu, thực sự cũng đã theo sát Người. Ở chỗ, Chúa Kitô là "vị mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì chiên" (Jn 10:11) thế nào, như Người tuyên bố ngay đầu bài Phúc Âm Thánh Gioan Năm B hôm nay, Tổ Phụ Abraham cũng đã sẵn sàng bỏ mạng sống mình là chính Isaac cho Thiên Chúa (xem Gen 22:12) như vậy, và Gioan Tẩy Giả cũng đã bỏ mạng sống mình để bảo vệ công lý (xem Mt 14:3,4,10) như thế.
Đến đây chúng ta có thể giải đáp được vấn đề thứ nhất của bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề về "sự sống viên trọn (life in full), hay sự sống viên mãn (abundant life) ". "Sự sống viên trọn (hay) sự sống viên mãn" đây chính là sự sống "ở trong Thày… thì trổ sinh muôn vàn hoa trái" (Jn 15:5), nghĩa là sự sống được thực sự hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, hoàn toàn phản ảnh Người, đến nỗi, làm cho chiên của Người có thể thấy họ và qua họ mà nhận biết Người.
2. Làm sao một cái chết về phần xác, một cái chết theo thể lý nơi Chúa Giêsu lại có thể mang lại sự sống thiêng liêng hay sự sống thần linh cho con người?
Nếu "chết là hết", và "hết" đây không phải là "hết" tồn tại mà là "hết" biết hay không còn biết gì nữa, như thực vật không còn biết sinh hoạt theo định luật thiên nhiên, động vật không còn biết phản ứng theo bản năng sinh tồn, nhân vật không còn biết tác hành theo cảm thức tâm linh, thì sống thực sự là biết, biết sinh động theo bản tính của mình. Còn biết là còn sống. Trên bình diện siêu linh cũng vậy, sống chính là biết, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong đoạn mở đầu của Lời Nguyện Tiệc Ly: "Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha Sai là Giêsu Kitô" (Jn 17:3).
Vậy, để làm cho con người đã hư đi theo nguyên tội, đã hư đi nơi hai nguyên tổ vì không nhận biết Thiên Chúa Hóa Công của mình, qua việc bất tuân phục lệnh truyền của Ngài, có thể được "sự sống đời đời", tức có thể "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha Sai là Giêsu Kitô", theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Lời cần phải Nhập Thể và Vượt Qua. Như thế, đường lối cứu độ của Thiên Chúa, hay đường lối Thiên Chúa muốn dùng để có thể ban "sự sống đời đời" cho con người, đó là tỏ mình ra cho họ để họ có thể "nhận biết" Ngài, như chính Ngài là Đấng hằng sống, Đấng hằng biết mình, "Đấng Là" (Ex 3:14). Và Ngài đã tỏ mình ra cho con người hết cỡ ở chỗ, "vào thời cuối cùng" (Heb 1:2), "lúc thời gian viên trọn" (Gal 4:4), Ngài đã ban chính Con Một mình cho họ: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con duy nhất của mình, để ai tin Con thì không phải chết song được sự sống đời đời" (Jn 3:16).
"Là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha" (Heb 1:3), "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn 1:14) mục đích chính yếu là "để tỏ Cha ra" (Jn 1:18), bằng việc "làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37), một "chân lý" duy nhất lưỡng diện: "Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô". Vì "từ trời xuống không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai" (Jn 6:38), tất cả mọi việc Lời Nhập Thể nói và làm trên trần gian này đều là những việc Người "tỏ Cha ra", Đấng đã sai Người, nhờ đó, thế gian cũng nhận biết Người được Cha sai, tức nhận biết vai trò là Đấng Thiên Sai của Người. Thế nhưng, tột đỉnh của việc Lời Nhập Thể "đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý" này, tức "làm chứng" cho thực tại Cha ở nơi Người và Người ở nơi Cha ấy: "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Jn 17:21), chỉ có thể được tỏ hiện sáng ngời nhất qua Cuộc Vượt Qua nói chung, và nơi Cuộc Tử Giá của Người nói riêng, đúng như Người đã khẳng định với dân Do Thái: "Khi nào các người treo Con Người lên, các người mới nhận ra Là Tôi" (Jn 8:28). Phải, chính khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá là lúc Người làm cho chân lý sáng tỏ ngay nơi nhân tính của Người, một nhân tính bao gồm "tất cả mọi người": "Khi nào Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi" (Jn 12:32). Nói cách khác, biến cố Lời Nhập Thể tử giá là việc Người tỏ mình ra nơi nhân tính của Người thực tại "Người là hiện thân đích thực của bản thể Cha". Tử Giá chính là "đường lối" vô cùng khôn ngoan Lời Nhập Thể đã dùng để tỏ mình ra Người quả "là sự thật và là sự sống" (Jn 14:6).
Lời Nhập Thể "là sự thật" ở chỗ "Người là hiện thân đích thực của bản thể Cha". Bởi thế, Người đồng thời cũng "là sự sống" nơi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa tự hữu, hằng hữu, hiện hữu là Thiên Chúa tự biết mình, hằng biết mình và hiện biết mình, và "mình" nơi Thiên Chúa đây không phải là chính "Lời ở nơi Thiên Chúa" (Jn 1:1), là "sự sống ở nơi Cha đã trở nên hữu hình cho chúng ta" (1Jn 1:2) hay sao? Đó là lý do Tông Đồ Gioan đã khẳng định cảm nghiệm thần linh của mình như sau: "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống đời đời này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con là có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống" (1Jn 5:11-12).
3. Nếu quả thực việc tử nạn về phần xác của Chúa Giêsu ban cho con người "sự sống" thần linh thì Người ban bằng cách nào và con người làm sao để có thể lãnh nhận?
Đúng thế, nếu "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống đời đời này ở nơi Con của Ngài", thì quả thực "Ai có Con là có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống" (1Jn 5:11-12). "Có" ở đây theo Thánh Ký Gioan, là "nhận biết" (Jn 1:10), là "chấp nhận" (Jn 1:11) Lời Nhập Thể: "Ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Jn 1:12). Và để loài người có thể "nhận biết", có thể "chấp nhận" Lời Nhập Thể để được "quyền làm con Thiên Chúa", Chúa Kitô Phục Sinh đã phải sai thành phần chứng minh tiên khởi của mình "đi khắp thế gian loan báo tin mừng cho tất cả mọi tạo vật. Ai tin vào tin mừng và lãnh nhận phép rửa thì được cứu rỗi, còn ai không tin thì bị luận phạt" (Mk 16:15-16). Đến đây chúng ta thấy lý do hiện hữu và vai trò thực sự của thành phần chứng nhân tiên khởi là Nhóm Tông Đồ Đoàn là ở chỗ, như Tông Đồ Gioan xác nhận: "Những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em cũng được chia sẻ sự sống với chúng tôi…" (1Jn 1:3).
Như thế, để có thể "có sự sống", loài người nói chung, kể cả Tông Đồ Đoàn, đều phải "nhận biết", phải "chấp nhận" Lời Nhập Thể. Thậm chí thành phần chứng nhân tiên khởi có được sai đi rao giảng và làm phép rửa khắp thế gian đi nữa, ngay bản thân các vị cũng đã phải lãnh nhận phép rửa bởi chính Chúa Kitô Phục Sinh bằng "phép rửa trong Thánh Thần" (Jn 1:33), khi "Người thổi hơi trên các vị mà nói: 'Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần'" (Jn 20:22). Bởi vì, như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđimô: "Tôi bảo thật cho ông biết, không ai có thể thấy vương quốc của Thiên Chúa, nếu không được tái sinh từ trên cao… tái sinh bởi nước và Thần Linh" (Jn 3:3,5). Tuy nhiên, hai vấn đề được đặt ra ở đây là: Thứ nhất, nếu con người cần phải "chấp nhận" để được "ban quyền làm con Thiên Chúa", mà muốn "chấp nhận" con người cần phải có ý thức, thì một khi con người lãnh nhận bí tích rửa tội lúc mới sinh hay còn nhỏ, chưa có hay chẳng có ý thức gì, thì phép rửa có thành hay chăng - tại sao lại phải lãnh nhận phép rửa ngay từ khi mới sinh? Thứ hai, nếu "chấp nhận" là tác động của lòng muốn tự nó đã đủ để được "sự sống", như trường hợp những kẻ được rửa tội bằng lòng mến không kịp lãnh nhận phép rửa, thì tại sao còn cần phải lãnh nhận phép rửa nữa - phép rửa được Chúa Giêsu lập ra để làm gì?
Về vấn đề thứ nhất, vấn đề lãnh nhận phép rửa khi mới sinh chưa biết ý thức "chấp nhận", đây là vấn đề điều kiện thực tế thuộc về phía loài người. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, loài người không sinh ra con cái khi chúng có ý thức rồi, khi chúng biết những vị sinh ra chúng là ai, mà là chính lúc chúng chưa có ý thức gì cả. Cũng thế, về phương diện siêu nhiên, dù ở tuổi tác nào, thậm chí dù còn trong lòng mẹ, miễn là giống nhau ở chỗ chưa nhận biết Thiên Chúa, chưa ý thức Ngài là ai, con người cũng có thể hay hội đủ điều kiện để trở thành con cái Thiên Chúa. Đó là lý do việc sinh sản là việc của cha mẹ hơn là của con cái. Không phải con cái hội đủ điều kiện làm người, ở chỗ có ý thức, rồi cha mẹ mới sinh nó ra, mà vì nó chưa có gì. Có thể nói, chính vì chưa có ý thức, chưa biết gì mới cần được sinh ra, mới cần có khả năng bẩm sinh để ý thức. Về phương diện siêu nhiên cũng vậy, tự mình, con người không thể nào có Ý Thức Thần Linh, tức có thể nhận biết Thiên Chúa như Ngài Là, nếu không có chính Thần Linh của Ngài, "Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả thâm tâm của Thiên Chúa" (1Cor 2:10). Bởi thế, con người mới cần được Thiên Chúa sinh ra, và cũng bởi thế Thiên Chúa mới sinh ra con người, mới ban Thần Linh của Ngài cho họ, để nhờ đó họ có thể "được sự sống" là nhận biết Ngài. Có thể nói, khi "Thiên Chúa ban Thần Linh của Con Ngài cho lòng chúng ta" (Gal 4:6) là Ngài đã tái sinh chúng ta, là chúng ta "được tái sinh từ trên cao" (Jn 3:3), được rửa trong Thánh Thần rồi vậy, như trường hợp điển hình của gia đình Cornêliô đã lãnh nhận Thánh Thần trong đang khi nghe Tông Đồ Phêrô giảng dạy, trước khi chính thức được Vị Tông Đồ này làm phép rửa cho (xem Acts 10:44,46). Thật ra, theo đường lối bình thường, như Thánh Phêrô đề cập đến trong Bài Giảng Tiên Khởi được Sách Tông Vụ ghi lại ở bài đọc một hôm nay, phải "lãnh nhận phép rửa" đã rồi mới "được tặng ân Thánh Thần". Ở đây, trong trường hợp gia đình Cornêliô đang lắng nghe Lời Chúa, "tặng ân Thánh Thần" lại được ban cho con người trước khi họ "lãnh nhận phép rửa", cho thấy hai điều hết sức quan trọng: thứ nhất, Thánh Thần được xuất phát từ chính cửa miệng của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Jn 20:22), tức từ mô thể Lời Chúa vốn có quyền năng thanh tẩy (xem Jn 15:3), chứ không phải từ nguyên bởi chất thể nước rửa tội; và thứ hai, Thánh Thần là chính mạch nước vọt lên sự sống đời đời nơi lòng của những ai tin vào Chúa Kitô, Lời Nhập Thể (xem Jn 7:38-39; 4:14), hơn là do nguyên điều kiện cần phải có là tác động "chấp nhận" của con người.
Ngoài ra, theo bình thường, vì Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Lời Nhập Thể, nghĩa là qua Nhân Tính của Lời, mà Nhân Tính của Lời đã trở thành phương tiện, nhất là sau biến cố Phục Sinh, "đã trở thành một thần linh ban sự sống" (1Cor 15:45), thành Bí Tích để thông ban Thánh Thần (xem Jn 20:22), và con người chúng ta muốn đến với Chúa Kitô phải đến với Bí Tích, đến qua Bí Tích, một tác động chứng tỏ chúng ta "chấp nhận" Lời Nhập Thể. Mà đến với Bí Tích là con người đồng thời cũng đến với Giáo Hội là chính Bí Tích Hiệp Thông lại vừa là Thừa Tác Viên ban "sự sống", và qua việc này con người còn tỏ ra "chấp nhận" Lời Nhập Thể nơi Chứng Từ Thần Linh của Người là Giáo Hội nữa. Có thể nói, nếu Thiên Chúa sinh ra con người từ trên cao bằng việc tự động ban Thần Linh của Ngài cho họ, thường bằng Chứng Từ Giáo Hội, thì việc con người lãnh nhận phép rửa là việc họ được Thần Linh Thiên Chúa, với tư cách là "quyền năng Đấng Tối Cao" (Lk 1:35) này tác động, để họ có thể tỏ ý muốn "chấp nhận" Lời Nhập Thể, qua Giáo Hội Thừa Tác, nhờ đó, họ được Lời Nhập Thể "ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Jn 1:12). Ở chỗ, họ được hiệp thông với Lời Nhập Thể, tức được có cùng một Thần Linh của Lời Nhập Thể, để họ có thể "được sự sống và được một sự sống viên mãn" của một người con Thiên Chúa như chính Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô: "đẹp lòng Cha mọi đàng" (Mt 3:17, 17:5).
Tóm lại, một khi lãnh nhận Thần Linh của Con, con người sẽ đi đến chỗ hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người, chẳng khác gì "như cành nho dính liền với thân nho" (Jn 15:5). Và cũng chỉ khi nào con người "ở trong Thày như Thày ở trong các con" (Jn 15:4), theo khuôn mẫu "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Jn 17:21), con người "mới sinh nhiều hoa trái". Nghĩa là con người mới chẳng những "được sự sống mà được sự sống viên mãn hơn" (Jn 10:10), một Sự Sống Thần Linh Thiên Chúa đã ban cho con người nơi Lời Nhập Thể và Vượt Qua.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là Kitô hữu đã "được sự sống và được sự sống viên mãn", vì Bí Tích này làm cho họ được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong Giáo Hội và được trở nên con cái Thiên Chúa. Nếu "sự sống viên mãn hơn" là sự sống hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, là sự sống ở trong Thày, thì chỉ bao lâu sống trong Lời Nhập Thể là Chúa Kitô, Kitô hữu mới thật sống "sự sống viên mãn", mới có thể "trổ sinh muôn vàn hoa trái". Mà muốn sống "sự sống viên mãn", tức muốn hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, Kitô hữu cần phải tuân giữ lời của Chúa Kitô, giới răn yêu thương của Chúa Kitô: "Như Cha đã yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy. Các con hãy sống trong tình yêu của Thày, nếu các con tuân giữ các giới răn của Thày, như Thày đã giữ các mệnh lệnh của Cha và đã sống trong tình yêu của Ngài. Thày nói với các con tất cả những điều này là để niềm vui của Thày trở thành của các con, cũng như để cho niềm vui của các con được nên trọn" (Jn 15:9-11). Như thế, "sự sống viên mãn hơn" nơi Kitô hữu còn là "sự sống" đầy niềm vui của Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Mà "niềm vui" đây là hoa trái của hay biểu hiệu cho Thánh Thần (x Gal 5:22; Lk 10:21), là dấu chứng tỏ "đầy Thánh Thần" (Lk 1:41-42), bởi đó, "sự sống viên mãn hơn" nơi Kitô hữu sống trong Chúa Kitô còn là sự sống tràn đầy Thánh Thần, sinh hoa trái Thánh Thần, Vị Thánh Thần của Tối Phục Sinh (x Jn 20:22) tỏ hiện quyền lực nơi Ngày Ngũ Tuần (x Acts 2:1-4)!
------------------------------------
Bối cảnh bài Tin Mừng về Chúa Chiên Lành
Ngụ ngôn "Chúa chiên lành" này có liên quan với đoạn Tin Mừng trước. Khi Chúa Giê-su chữa: PS 4-A16
Ngụ ngôn "Chúa chiên lành" này có liên quan với đoạn Tin Mừng trước. Khi Chúa Giê-su chữa người mù từ thuở mới sinh, những người Pha-ri-sêu nệ luật, sợ mất ảnh hưởng của dân chúng đã kết án Chúa Giê-su chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Họ chưa đối mặt với Chúa Giê-su mà chỉ gây khó dễ và cuối cùng đã trục xuất người mù được sáng mắt ra khỏi cộng đoàn. Thái độ của người mù thật đáng khâm phục !Anh đã can đảm biện hộ cho Chúa Giê-su và đã tin nhận Ngài là Đấng Ki-tô.
Bối cảnh đó rất thích hợp để Chúa Giê-su nói đến ngụ ngôn "Mục Tử Nhân Lành" này. Anh mù chính là "con chiên" đã "nghe tiếng" và đã "nhận biết tiếng" của Mục Tử của mình. Lấy "thái độ của chiên đối với Mục Tử" làm tiêu chuẩn, Chúa Giê-su đã phân biệt đâu là "Mục Tử" và đâu là "kẻ trộm, kẻ cướp". Chúa Giê-su cũng dùng "hành vi của Mục Tử đối với chiên" để nhận chân Mục Tử và kẻ trộm: "Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào". Như thế, chủ điểm thần học của đoạn Tin Mừng này là "mối tương giao” giữa Mục Tử và đàn chiên, cũng là giữa Thiên Chúa và con người, mà chúng ta cần chiêm ngắm và sống trong mùa Phục Sinh này.
Trong tương giao đó, chúng ta thấy rõ nét hơn cả là hình ảnh Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, mẫu gương cho tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo cộng lớn nhỏ, đặc biệt là các chủ chăn. Vì thế, Chúa nhật này cả Giáo Hội hướng về việc cầu nguyện và cổ võ cho ơn Thiên triệu. Và cầu nguyện, cổ võ cho ơn Thiên triệu là gì, nếu không phải là cầu nguyện cho mọi phần tử trong Giáo Hội, cách riêng cho một số chọn ơn goi cao hơn, cho các chủ chăn sống thật tốt tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân ? Bởi vì, một khi sống tốt tương quan "mến Chúa" chúng ta sẽ có một tương quan "yêu người' như "lòng Chúa mong ước".
Để trở thành một Mục Tử tốt
Đây là một ngụ ngôn hơn là một dụ ngôn, vì trong đó có nhiều ẩn dụ thật sát nghĩa. Dân Chúa bị nhốt trong chuồng lề luật nặng hình thức của Do-thái giáo đang chờ Vị Mục Tử Nhân Lành đến dẫn đến "đồng cỏ" Giáo Hội để "được sống và sống dồi dào" nhờ các Bí Tích do việc "hy sinh mạng sống cho đoàn chiên" đem lại.
Chúa Giê-su, Mục Tử Nhân Lành đã diễn tả được Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Chúa biết rõ tên từng người một trong chúng ta với một tình yêu cá nhân, riêng tư. Ngài không đẩy chiên đi trước mình, nhưng Ngài đi trước và dẫn đường cho chiên. Ngài nói với từng người, thu hút hơn là hướng dẫn. Đàn chiên luôn bị sói dữ rình rập, Ngài sẵn sàng đương đàu với chúng vì mỗi con chiên đối với Ngài đều quí già vô ngằn. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên. Ngài dẫn đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi để chẳng những chiên được sống mà được sống dồi dào. Để thỏa mãn ước nguyện đó, Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Với một Mục Tử Nhân Lành như thế, đàn chiên hết lòng đáp lại bẳng thái độ nghe tiếng, nhận biết tiếng và đi theo sau Mục Tử của mình.
Như những người lãnh đạo Do-thái giáo lúc bấy giờ, lãnh đạo cộng đoàn dễ bị cám dỗ dùng quyền lực áp chế người dưới quyền chứ không dùng gương sáng, đạo dức để lôi kéo, thuyết phục họ. Nhưng như ông bà chúng ta thường hay nói "hữu xạ tự nhiên hương" đáng cho chúng ta suy nghĩ. Phải chăng người lãnh đạo mất ảnh hưởng đối với người dưới là vì lối sống của họ chứ không phải do bất kỳ một lý do nào khác ? Vì thế, điều cần hơn cả là lo điều chỉnh lại lối sống của mình, chứ đừng cách chống chế bằng quyền lực. Đây quả là một dịp tốt để các người có trách nhiệm lãnh đạo xét mình lại lối sống của mình. Trong Giáo Hội, lãnh đạo là phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Theo gương Chúa Giê-su, Mục Tử tốt lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên, để cho chiên được sống và sống dồi dào, người lãnh đạo cũng biết hy sinh quên mình mới có thể yêu thương phục vụ được.
Cầu nguyện cho ơn Thiên triệu
Ngày nay, ơn gọi dâng hiến ngày càng giảm trong lúc nhu cầu phục vụ ngày càng tăng. Lời kêu gọi của Đức Ki-tô – Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt" – trở nên khẩn thiết hơn bất cứ lúc nào khác. Cho nên mọi Ki-tô hữu đều có trách nhiệm cầu nguyện và cổ võ cho có nhiều ơn gọi trong Giáo Hội, đặc biệt là các vị chủ chăn, các hội đoàn và các bậc phụ huynh.
Để sống ơn gọi cao hơn, ơn gọi quên mình để yêu thương phục vụ, thì phải có ơn Chúa dồi dào. Ơn Chúa có được nhờ sự hy sinh cầu nguyện của rất nhiều người. Bản thân ngưới sống đời dâng hiến phục vụ phải cố gắng và nỗ lực nhiều, nhưng sự hỗ trợ của cộng đồng cũng rất cần thiết cho họ. Thế nhưng, nhiều khi giáo dân chỉ mong muốn cho chủ chăn của mình đạo đức, thánh thiện mà quên hay ít khi cầu nguyện cho các ngài. Cũng như làm sao có nhiều tâm hồn biết dâng hiến cuộc đời mình để phục vu nếu như cộng đoàn không gia tăng việc hy sinh cầu nguyện cho ơn Thiên triệu. Có thể nói, cộng đoàn hy sinh cầu nguyện để có nhiều người phục vụ cộng đoàn. Như thế, cầu nguyện cho ơn Thiên triệu cũng không là gì khác hơn là ý thức và sống mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội vậy.
Mặt khác, vì "cây tốt mới sinh quả tốt", "lời nói lung lay, gương bày lôi kéo", cho nên, thiết nghĩ việc dấn thân và hướng dẫn cho giới trẻ tham gia các công tác từ thiện bác ái của các vị chủ chăn và phụ huynh là cách thế hiệu quả nhất để cổ võ Ơn Thiêu Triệu. Con người muốn hưởng thụ chừng nào thì càng số người bị bỏ rơi, cần được yêu thương phục vụ ngày càng đông chừng ấy, bởi hố cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Vì thế, yêu thương, quên mình, phục vụ phải là chọn lựa đúng nhất của người Ki-tô hữu trong xã hội ngày nay. Và đó cũng không phải là điều gì mới lạ đồi với mẫu gương Chúa Giê-su Mục Tử Nhân Lành. Như thế, cổ võ cho ơn Thiên triệu cũng là lời mời gọi mọi Ki-tô hữu biết sống tinh thần phục vụ của Chúa.
Tóm lại, hình ảnh Chúa Giê-su Mục Tử Nhân Lành là tấm gương yêu thương phục vụ mà tất cả mọi Ki-tô hữu cần cố gắng noi theo mỗi ngày, nhất là các chủ chăn.
Lm. TRẦN NGỌC NHƠN ( Giáo Phận Đà Nẵng )
------------------------------------
1. “Chiên và người chăn chiên” có thể là hình ảnh lạc hậu, nhưng về ý nghĩa tôn giáo thì không:
Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh “chiên và người chăn chiên” không phải là một hình: PS 4-A17
Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh “chiên và người chăn chiên” không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện “đàn chiên với Mục Tử”, thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu !Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh “chiên và Mục Tử” thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.
2. Những nét đặc trưng của Vị Mục Tử Nhân Lành:
Đức Giê-su đã công bố Người là Vị Mục Tử Nhân Lành, với những nét đặc trưng sau đây:
Vị Mục Tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì ? họ cần gì ? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào ?
Vị Mục Tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục Tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.
3. Lý do Hội Thánh lấy ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi:
Bản tin Hiệp Thông ( tiếng nói của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ) số 11, ra ngày 15.2.2002 ( trang 8 – 9 ) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay:
Tổng dân số của VN: 80.489.857 người ( 76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số ).
Tồng số Giáo Dân: 5.324.492 người ( 5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số ).
Tổng số Linh Mục của 25 Giáo Phận: 2.526 Linh Mục ( 2.133 triều + 393 dòng ). Tổng số Tu Sĩ trong 25 Giáo Phận: 11.282 ( 1.524 nam + 9.758 nữ ).
Tổng số Chủng Sinh: 1.765 ( 1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị ).
Tổng số Giáo Lý Viên: 45.858 ( 671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương ).
Nếu chia bình quân số giáo dân cho số Linh Mục thì một Linh Mục phải phục vụ 2.107 giáo dân.
Nếu chia bình quân tổng số dân cho số Linh Mục thì một Linh Mục phải phục vụ 31.865 người.
Nếu chia bình quân số giáo dân cho số Tu Sĩ nam nữ thì một Tu Sĩ phải phục vụ 472 giáo dân.
Nếu chia bình quân tổng số dân cho số Tu Sĩ nam nữ thì một Tu Sĩ phải phục vụ 7.134 người.
Nếu chia bình quân tổng số người không Công Giáo cho tổng số người Công Giáo thì một người Công Giáo phải giúp cho 14 người không Công Giáo biết Chúa và gia nhập Giáo Hội.
Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo Hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo Hội đã nhận được từ chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các Linh Mục, Tu Sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các Linh Mục, Tu Sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi Linh Mục, Tu Sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo Hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo Hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây:
Việc thanh niên nam nữ muốn vào Chủng Viện, Dòng Tu còn gặp nhiều cản trở.
Việc các Giám Mục, Dòng tu gửi các Linh Mục, Tu Sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì.
Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.
Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo Hội – nhất là Giáo Hội Việt Nam- nhiều Linh Mục, Tu Sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh Linh Mục Tu Sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các Linh Mục Tu Sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình.
Lạy Thiên Chúa Cha là Chủ Cánh Đồng Truyền Giáo, là Chủ Vườn Nho: xin Cha gửi nhiều thợ gặt, thợ hái nho lành nghề đến những nơi, những người cần các thợ ấy !
Lạy Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành, Chúa đã hiến tặng cuộc đời của Chúa cho nhân trần: xin Chúa hãy lôi kéo các Linh Mục, Tu Sĩ sống theo gương Chúa, sống giống như Chúa: hy sinh, quảng đại và yêu thương để mọi người được sống và sống dồi dào !
Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí, là Lửa: xin Chúa đổ tràn lửa nhiệt thành truyền giáo vào mọi tâm hồn Ki-tô hữu, nhất là tâm hồn các Linh Mục, Tu Sĩ và người trẻ, để biến họ thành những thợ gặt hăng say nhiệt thành trong cánh đồng của Thiên Chúa.
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
------------------------------------
Lạy Chúa, trước hết, chúng con xin cảm tạ Chúa vì đã cho có những người người bằng lòng nhận: PS 4-A18
Lạy Chúa, trước hết, chúng con xin cảm tạ Chúa vì đã cho có những người bằng lòng nhận trở thành cha sở của chúng con. Nếu ngẫu nhiên, các vị ấy đã thích có một đời sống êm ả hơn bên cạnh vợ con, dưới một mái ấm gia đình, thì phải nói là chúng con rất nản.
Chúa ơi, xin cám ơn Chúa đã cho các vị ấy dám có can đảm hy sinh, nhờ vậy mà chúng con được nuôi bằng Bánh ban Sự Sống, tạo lập được những gia đình vững chắc, được tẩy rửa linh hồn và được chết bình an.
Cám ơn Chúa vì những tật xấu của các cha sở chúng con. Nếu các vị ấy mà là người hoàn toàn thì các ngài sẽ khó mà chịu đựng nổi sự yếu đuối. Còn nếu các vị ấy lúc nào cũng khỏe mạnh thì chắc chắn các ngài sẽ thường hay khinh rẻ những người đau yếu. Lạy Chúa, Chúa nhìn thấy rõ hơn chúng con.
Các cha sở thật là những con người kỳ lạ. Các ngài vừa phải là các nhà Sư Phạm đối với trẻ em, vừa phải là nhà chuyên môn về các vấn đề liên quan đến gia đình đối với các đôi vợ chồng trẻ, vừa là những chuyên viên tâm lý đối với thanh niên, vừa là người kiệt xuất về sự hiểu biết và tính tế nhị trong tòa hòa giải.
Trong các buổi họp với nam giới, các ngài phải bàn về Hội Thánh như một giáo sư Thần Học; còn trong các buổi họp với nữ giới, các ngài phải mở sách Tin Mừng ra như những nhà chú giải Kinh Thánh. Khi đi thăm các gia đình có học thức, các ngài phải biết đôi chút về cuốn tiểu thuyết mới được xuất bản để có thể trao đổi với họ, nếu không muốn bị họ coi là người kém văn hóa.
Đối với người thích khuynh hướng xã hội, các ngài phải nói được khá tỉ mỉ về sự đối chọi giữa tư bản và lao động. Đối với những người không phải là Công Giáo, các ngài phải là những nhà Thần Học vừa cương quyết vừa cởi mở, và là những nhà sử học chín chắn. Và đối với biết bao hạng người khác nữa, nếu kể ra e sẽ không bao giờ hết.
Con còn quên rằng, các ngài phải chào lại người ta khi được người ta chào hỏi ở đầu đường cuối phó. Bên ngoài, các ngài vẫn niềm nở cho dù trong lòng đang phải ngậm đắng nuốt cay. Con cũng quên mất rằng, mỗi Chúa Nhật, các ngài phải là những nhà hùng biện, là một người lĩnh xướng thay ca đoàn, và đôi khi là cả một nhạc công nữa. Rồi trong tuần, có khi các ngài còn kiêm luôn thợ điện, thợ mộc, thợ sơn và người nấu bếp...
Lạy Chúa, xin cho các nhà chuyên môn bách khoa này được chúng con xét đoán một cách khoan hồng, một sự khoan hồng đích đáng chỉ dành cho những người phải thi hành một chương trình không ăn khớp với nhau và vô nhân đạo như thế !
Xin làm cho chúng con hiểu rằng: nếu đối với 14 món chuyên môn vừa kể trên, vị Linh Mục của chúng con chỉ thành công có một nửa, hay chỉ một phần tư mà thôi, thì chúng con cũng đã lấy làm mãn nguyện rồi !
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tha thứ cho những sự nóng nảy và nhầm lẫn của cha sở chúng con, cho chúng con hiểu rằng, chúng con chỉ phải chịu đựng có mỗi một mình cha sở, trong khi cha sở chúng con thì phải gánh trên vai mọi con chiên trong Giáo Xứ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỏ cho cha sở chúng con thấy rằng, chung quanh ngài, không phải chỉ có sự thờ ơ lãnh đạm. Xin nhắc nhở chúng con biết luôn cầu nguyện cho các Linh Mục, cầu nguyện cho có thêm nhiều ơn kêu gọi mới nữa. Có lẽ đó là điều tốt hơn cả. Amen.
Theo Nội San của Giáo Xứ Thánh AN-TÔN, Paris 5.1992
------------------------------------
Bài đọc:Cv 2: 14,36-41; 1 Pr 2: 20-25; Ga 10, 1-10
Mark Link S.J.
Chủ đề: "Hình ảnh mục tử nhân lành làm nổi bật mối tương giao và sự hiến thân của Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta."
Vào thời Chúa Giêsu, khi màn đêm buông xuống, các mục tử lùa đàn chiên của họ vào chuồng: PS 4-A19
Vào thời Chúa Giêsu, khi màn đêm buông xuống, các mục tử lùa đàn chiên của họ vào chuồng. Nếu ở gần làng, họ sẽ lùa chúng vào cái chuồng công cộng, còn nếu ở xa làng, thì họ sẽ lùa chúng vào một cái chuồng ở ngoài đồng hoặc đôi khi trong một cái hang. Các mục tử làm thế là để che chở bầy chiên khỏi sương đêm lạnh lẽo và khỏi lũ thú rừng. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu ám chỉ đến cả hai loại chuồng trên.
Phần đầu bài Phúc âm, Ngài ám chỉ đến loại chuồng làng công cộng, đặc biệt nhắc đến lúc sáng sớm, khi người mục tử đến chuồng làng công cộng nhận bầy của mình để dẫn chúng đi ăn cỏ suốt ngày, Chúa Giêsu nói: “Người giữ cửa sẽ mở cửa cho anh ta; chiên anh sẽ nghe tiếng anh khi anh gọi tên từng con một và dẫn chúng ra. Khi mang chúng ra rồi, anh đi phía trước, lũ chiên đi theo anh vì chúng nhận biết giọng nói của anh”
Phần sau của bài Phúc âm, Chúa Giêsu ám chỉ đến loại chuồng ở ngoài đồng đặc biệt Ngài nói đến lối vào chật hẹp trong chồng mà bầy chiên phải đi qua. Chúa Giêsu nói: “Ta là cửa chuồng chiên…… Ai bước qua Ta mà vào thì sẽ được cứu: người ấy sẽ vào, và ra, rồi tìm được đồng cỏ” Trong cuốn sách nhan đề The Holy Land (vùng đất thánh). John Kellman mô tả một cái chuồng chiên ngoài đồng như sau: nó có một bức từơng bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngòai đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử 2đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. không có chú chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
Có hai điều nổi bật trong câu chuyện dễ thương này. Thứ nhất là tính cách duy nhất ngày càng tăng lên giữa người mục tử và bầy súc vật của anh. Phần lớn đàn chiên được nuôi để lấy len. Một mục tử phải hiện diện với bầy chiên của mình 365 ngày một năm, và thường là đủ 24 giờ một ngày. Người mục tử phải biết rõ chiên mình đến mức phải biết con nào có móng mềm, con nào đau vì ăn bậy, con nào hay bỏ bầy chạy rông… Thứ hai là sự hiến thân sâu sắc của người mục tử cho bầy chiên, thậm chí liều mạng sống cho chúng.
Chính trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều Chúa Giêsu mường tượng trong tâm trí khi Ngài nói: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10: 11). Chúa Giêsu muốn nói rằng, mối tương giao và sự hiến thân của Ngài cho chúng ta tương tự như mối tương giao và sự hiến thân của người mục tử cho bầy chiên mình. giống như người mục tử. Chúa Giêsu luôn hiện diện với chúng ta 365 ngày mỗi năm, 24 giờ mỗi ngày. Ngài đã từng nói với các môn đệ: “Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20).
Giống như người mục tử, Chúa Giêsu cũng biết rõ mỗi người chúng ta một cách thân mật sâu xa. Ngài biết ai trong chúng ta yếu kém về đức tin, ai trong chúng ta thường dễ ngã lòng, ai trong chúng ta thường hay bỏ bầy đi rông. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó để giúp đỡ chúng ta. Và nếu lỡ chúng ta bỏ bầy đi rông thì Ngài sẽ bỏ lại 99 con chiên để đi kiếm chúng ta. Điều Thiên Chúa nói với dân riêng Ngài qua miệng tiên tri Isaia, cũng chính là điều Chúa Giêsu đích thân nói với mỗi người chúng ta: “Đừng sợ, Ta gọi ngươi bằng tên… Người rất quí báu đối với Ta… Đừng sợ ! này đây Ta ở với ngươi” (Isaac newton 43: 1, 4-5).
Bài Phúc âm hôm nay đặc biệt thích hợp cho ngày các bà mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với bầy con hoặc gia đình mình. không có gì mà bà mẹ không làm để bảo vệ cho bầy con khỏi cơn nguy hiểm. Và bà sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối. Tình yêu của một bà mẹ dành cho gia đình vẫn hoạt động ngay cả khi tự thân bà không thể bảo vệ cho bầy con của bà nữa.
Có câu chuyện thật dễ thương trong cuốn tự thuật của Jimmy Cagney, nam diễn viên nổi tiếng ở HollyWood. Câu chuyện xảy ra vào thời tuổi trẻ của Cagney khi mẹ ông đang nằm trên giường chờ chết. Chung quanh giường có 4 cậu con trai đều mang tên Cagney và cô em gái duy nhất của họ là Jeannie. Vì bị nhồi máu cơ tim, bà Cagney không nói được nữa. Sau khi lần lượt bá cổ cả năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải, cánh tay duy nhất còn hoạt động đựơc lên. Jimmy mô tả những gì xảy ra sau đó:
“Mẹ tôi dùng ngón tay chỉ Harry rồi chỉ vào ngón trỏ của bàn tay vô dụng của bà, sau đó chỉ tôi rồi chỉ vào ngón giữa, rồi chỉ Eddie rồi chỉ vào ngón áp út, chỉ Bill rồi chỉ vào ngón út, chỉ Jeannien rồi chỉ vào ngón cái. Đoạn bà cầm ngón cái để vào giữa lòng bàn tay, rồi áp chặt ngón cái dưới bốn ngón kia tụm lại. Sau đó bà dùng bàn tay còn khỏe vỗ nhẹ lên nắm đấm bàn tay trái” (James Cagney).
Jimmy nói rằng cử chỉ của mẹ ông thật tuyệt vời. Mọi người đều biết ý nghĩa của cử chỉ ấy tức bốn anh em có bổn phận che chở cho bé Jeannie sau khi mẹ họ qua đời. đó là một cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa mà không lời nào có thể diễn tả hay hơn.
Tôi vui mừng vì chúng ta có ngày dành riêng cho các bà mẹ để nhắc nhở chúng ta về bản chất của người mẹ và để nhắc nhở các bà mẹ về sứ vụ mà Chúa kêu gọi họ.
Tôi vui mừng vì ngày các bà mẹ trùng hợp với Chúa nhật hôm nay với những lời Chúa Giêsu nói về người mục tử. Bởi vì sự thân mật và sự hiến thân trọn vẹn của một bà mẹ cho gia đình mình là một phản ảnh hoàn hảo sự thân mật và hiến thân trọn vẹn của người mục tử cho bầy súc vật của anh. Và hơn tất cả, tình thân và sự hiến thân cho gia đình của một bà mẹ phản ảnh hoàn hảo tình thân mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy hân hoan vui mừng và cầu xin cho ngày hôm nay sẽ kéo các thành viên trong gia đình gần lại với nhau hơn, đồng thời quí chuộng lẫn nhau hơn, đặc biệt đối với bà mẹ của họ.
------------------------------------
CHỦ ĐỀ: Sống theo sự dẫn dắt của ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH.
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I: Hãy lãnh nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu để được ơn tha tội và nhận được ân sủng là Thánh Thần.
- Đáp ca: Chúa là mục tử.
- Bài đọc II: Từ nay chúng ta như đã chết với tội lỗi và sống cuộc đời công chính. "Hãy quay về cùng vị mục tử chăm sóc linh hồn anh em.
- Bài Tin Mừng: Đức Giêsu là cửa chuồng chiên.
Minh họa
- "Tôi là mục tử nhân lành" (Ga 10,11)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lời Chúa hôm nay trình bày Đức Giêsu là người mục tử tốt lành: Ngài biết rõ từng người chúng: PS 4-A20
Lời Chúa hôm nay trình bày Đức Giêsu là người mục tử tốt lành: Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta, và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ.
II. Gợi ý sám hối
- Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
- Đức Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
- Đức Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 2,36-41
Đây là phần kết luận bài giảng của Phêrô hôm lễ Ngũ tuần: Phêrô kết luận bằng cách kêu gọi người ta sám hối và lãnh nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Dân chúng đã đáp lại cách nồng nhiệt. Kết quả là hôm ấy có thêm khoảng 3000 người theo đạo, gia nhập đoàn chiên của Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 22
Hình ảnh người mục tử trong Thánh vịnh này áp dụng rất đúng vào Đức Giêsu: Ngài chăm sóc từng người chúng ta, Ngài rửa sạch chúng ta trong nước bí tích Thanh Tẩy, Ngài cho ta uống no nê những ân huệ của Ngài, Ngài cho chúng ta dự tiệc Thánh Thể, và Ngài dẫn chúng ta tới với Chúa Cha. Ở bên Ngài chúng ta không thiếu thốn gì cả và chúng ta có thể luôn an lòng.
3. Bài đọc II: 1 Pr 2,20-25
So sánh cuộc đời hiện tại của các kitô hữu với thời gian trước kia, Thánh Phêrô nói: "Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em".
4. Bài Tin Mừng: Ga 10,1-10
Đoạn Ga 10,1-18 là một ẩn dụ trong đó Đức Giêsu tự ví mình là "cửa chuồng chiên" và là "mục tử". Phần được chọn đọc hôm nay là hình ảnh "cửa chuồng chiên" (cc 1-10).
Chúng ta nên biết rằng ở xứ Palestina, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn các đàn chiên của mình vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ và chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng mục tử qua cửa để vào chuồng và gọi tên các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Những tên trộm cướp không dám qua cửa vì sợ đụng người canh gác nên phải trèo rào mà vào. Nhưng dù vậy, chiên cũng không đến gần bọn họ vì chúng lạ họ. Nếu họ có đưa được con chiên nào ra khỏi chuồng thì cũng không phải để nuôi dưỡng nhưng để giết ăn thịt.
Qua những câu này, Đức Giêsu muốn so sánh Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo do thái thời đó: họ không phải là mục tử thật nhưng là những tên trộm cướp leo rào vào chuồng, họ không chăm sóc cho chiên nhưng chỉ làm hại chiên ; chính Đức Giêsu mới là mục tử thật và là cửa chuồng chiên.
IV. Gợi ý giảng
1. Đừng lầm tưởng
Mặc dù con người ai cũng muốn được độc lập, thế nhưng trong thâm tâm sâu xa ai cũng có nhu cầu cần được dẫn dắt đến hạnh phúc, đến một cuộc sống tròn đầy. Như thế ai cũng là con chiên và cần mục tử. Vấn đề là chọn ai làm mục tử cho mình thôi.
- Những kẻ dẫn mình tới những cánh đồng hoang, những khu rừng rậm đầy thú dữ (cuộc sống buông thả, những ý hệ lệch lạc, những cách sống thời trang, hưởng thụ v.v.) thực ra chỉ là những tên trộm cướp làm hại con chiên.
- Mục tử thật phải dẫn con chiên tới nơi nào có suối nước, bóng mát, cỏ non nuôi dưỡng cuộc sống của chiên ; phải cực nhọc tìm dẫn về những con chiên đi lạc ; phải gian lao chiến đấu với sói dữ và kẻ cướp. Mục tử như thế chỉ có thể là Đức Giêsu mà thôi.
Nghĩa là có hai lầm tưởng tai hại: 1/ Tưởng mình là con chiên độc lập không cần ai dẫn dắt ; 2/ Tưởng đi theo những "mục tử" dễ dãi là đời mình sẽ sung sướng.
2. Liên hệ giữa Đức Giêsu và chiên của Ngài
Chúa biết rõ từng người của mình, từng người một. Ngài không đẩy họ đi trước mình, nhưng Ngài đi trước họ, dẫn đường cho họ, nói với từng người, thu hút họ hơn là hướng dẫn họ.
Tuy nhiên, sói không ngừng lảng vảng quanh đoàn chiên, rình bắt những con chiên bất cẩn xa đàn. Vị mục tử đích thực sẵn sàng đương đầu với sói vì mỗi con chiên đều quý giá vô ngần. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên.
Mối tương giao giữa họ hệt như giữa Chúa Cha và Chúa Con. Mối tương giao ấy dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau, nghĩa là trên tình yêu. Cha biết Con sẵn sàng tự hiến trọn vẹn cho những người bước theo và sẽ bước theo mình. (J. Potin, "Đức Giêsu lịch sử đích thực", trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 138).
3. Không còn là con số vô danh nữa
Con người thời nay rất ghét phải sống như một con người vô danh giữa một đám đông, như một con số âm thầm giữa lòng tập thể. Mỗi người như một bộ phận nhỏ trong guồng máy khổng lồ, âm thầm và cô đơn làm cho xong phần việc của mình. Tại sao có những người cố tình có những hành vi ngênh ngang, ăn mặc lố lăng, nếp sống lập dị… ? Vì đó là cách để cho người khác chú ý tới họ.
Đức Giêsu đối với chúng ta thì khác hẳn. Ngài không vơ đũa cả nắm coi hết mọi người y như nhau. Trái lại Ngài biết rõ từng người một với cá tính riêng, hoàn cảnh riêng, chỗ mạnh chỗ yếu riêng. Nhất là Ngài yêu thương mỗi người một cách riêng. "Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta, như Chúa Cha biết Ta và Ta biết Chúa Cha".
4. Tâm sự của người đồng hành bị quên lãng
1. Sáng nay khi bạn vừa thức dậy, tôi nhìn bạn và chờ đợi bạn nói với tôi đôi lời: để cám ơn về những điều tốt lành bạn đã gặp được ngày hôm qua, hoặc để hỏi xem tôi có ý kiến gì với bạn cho ngày hôm nay… Đôi lời ngắn ngủi thôi. – Nhưng bạn mãi lo tìm chọn quần áo giày dép… Nên tôi phải chờ.
2. Bạn đã mặc quần áo xong, bạn còn 15 phút rãnh rỗi. Tôi hy vọng bạn sẽ lên tiếng chào tôi. – Nhưng không, bạn ngồi xuống ghế sofa, im lặng, thanh thản. Tôi vẫn chờ.
3. Chợt bạn đứng lên – Tôi tưởng bạn sẽ đến với tôi nói đôi lời gì đó. Thế nhưng bạn đến máy điện thoại, quay số đến một người bạn thân, hai người đấu láo với nhau một hồi. Và tôi tiếp tục chờ.
4. Rồi đến giờ bạn ra xe. Bạn đến chỗ làm. Tôi chờ bạn suốt buổi sáng.
5. Đã đến giờ ăn trưa. Bạn ngồi vào bàn, rảo mắt nhìn quanh. Bạn thấy vài người ở những bàn bên cạnh cúi đầu thầm thì nói với tôi đôi lời trước khi ăn. Tôi tưởng bạn cũng sẽ làm thế. Nhưng không ! Và tôi tiếp tục chờ.
6. Ăn xong, bạn còn một khoảng thời giờ thảnh thơi. Tôi thầm mong bạn sắp nói với tôi. Nhưng chẳng có một lời nào cả. Tôi vẫn chờ.
7. Buổi chiều, tan sở. Bạn lên xe về nhà. Chắc hẳn có biết bao điều bạn sẽ kể cho tôi nghe. Tôi chờ. Nhưng bạn chạy thẳng một mạch tới nhà. Về tới nhà, bạn lao ngay vào phòng tắm… Và tôi vẫn chờ.
8. Bạn đã cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Nhưng bạn không thấy tôi đang chờ. Bạn chỉ nhìn thấy cái TV. Bạn mở máy, để mặc tôi tiếp tục chờ.
9. Rồi bạn lên giường, suy nghĩ mông lung trong khi chờ giấc ngủ đến. Bạn nhớ lại đủ thứ chuyện, đủ thứ người, chỉ trừ tôi. Có lẽ vì bạn không biết tôi vẫn luôn ở bên cạnh bạn. Bạn không thấy tôi, nhưng tôi vẫn luôn ở kề bên bạn, yêu thương bạn, rất muốn nói chuyện với bạn, để an ủi, để chia xẻ, để góp ý, để động viên… Bạn không biết, không để ý gì cả. Và bạn thiếp dần vào giấc ngủ. Tôi vẫn chờ.
10. Một ngày mới lại bắt đầu. Bạn thức dậy. Tôi hy vọng hôm nay bạn sẽ dành ra đôi phút để nói với tôi. Tôi vẫn chờ bạn đấy. Chúc bạn một ngày tốt đẹp.
5. Chuyện minh họa
a/ "Ta là cửa chuồng chiên"
Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: "Đó là trại cừu, kia là bầy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?" Người mục tử hỏi lại: "Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi." Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào.
b/ "Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào"
Người Tây Ban Nha có câu chuyện sau đây:
Khi có người đến cửa thiên đàng, Thánh Phêrô đặt cho mỗi người một câu hỏi rất lạ: "Lúc còn ở trần thế, bạn đã biết nếm mùi những vui thú mà Chúa nhân lành ban cho bạn không ?"
Nếu người đó đáp "Thưa không" thì Thánh nhân nói: "Bạn chưa biết nếm những vui thú nhỏ dưới thế thì làm sao có thể nếm những vui thú lớn lao trên thiên đàng được ! Xin lỗi, Ta chưa cho bạn vào được."
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân hậu. Người đã hy sinh mạng sống để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Dung mạo của Hội Thánh là dung mạo của một người chăn chiên / có trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên mà Vị Mục Tử đích thực đã giao phó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / luôn hành động theo tinh thần phúc âm / hiền hòa trong cung cách đối xử / và biết quên mình vì đoàn chiên.
2- Trên thế giới ngày nay / để có thể phục vụ hữu hiệu dân Chúa và loan báo Tin Mừng / thì số Linh mục và tu sĩ quả là thiếu thốn trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho có thêm nhiều thợ gặt lành nghề trên cánh đồng truyền giáo / dám vì Chúa mà xả thân phục vụ anh em.
3- Hằng ngày / vì nghe và nói biết bao điều không tốt / nên tâm trí con người bị ô nhiễm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các kitô hữu biết giữ miệng lưỡi / chỉ nói những lời xây dựng / đem lại niềm an ủi / niềm vui cho mọi người / và biết chăm chú lắng nghe Lời Chúa.
4- Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sẵn sàng rộng rãi đóng góp vào việc đào tạo các Linh mục / bằng lời cầu nguyện và việc nâng đỡ các Chủng viện.
CT: Lạy Chúa Giêsu, không gì bất hạnh cho một cộng đoàn bằng thiếu vắng bóng dáng Linh mục. Vì thế xin Chúa ban cho chúng con các Linh mục mà mọi người đều cần đến: đó là những mục tử vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ, vừa hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ. Chúa hằng sống và…
VI. Trong Thánh Lễ
- Kinh tiền tụng: nên dùng Kinh tiền tụng phục sinh số 2, vì có nói tới cuộc sống mới.
- Trước kinh Lạy Cha: Hiện giờ chúng ta rất giống với một đoàn chiên đang quy tụ quanh chủ chiên là Đức Giêsu bên bàn tiệc Thánh thể. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
VII. Giải tán
Anh chị em đã biết Đức Giêsu là mục tử dẫn dắt đời mình, cho dù có khi xem ra Ngài đang dẫn chúng ta qua thung lũng tối tăm, nhưng điếm tới cuối cùng sẽ là đồng cỏ xanh tươi, suối ngọt và bóng mát. Vậy anh chị em hãy ra về trong niềm vui mừng phó thác trọn vẹn cho Đức Giêsu dẫn dắt.
LÀNH NHƯNG KHÔNG HIỀN
Gerard Bessíere & Hyacinthe Vulliez
Tôi đến để họ được sống và sống dồi dào
Thánh vịnh 23 đã ca ngợi Giavê Thiên Chúa là mục tử nhân hậu. Hình ảnh thật thơ mộng và cảm động: “Đức Giavê là mục tử tôi... Ngài cho tôi nghỉ ngơi, trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài đưa tôi đến mé nước thảnh thơi, Ngài bổ dưỡng linh hồn tôi...”.
Trong tâm trí chúng ta, người mục tự thật tốt bụng, hiền lành, dễ thương, nên được gọi là kẻ chăn chiên lành. Nhưng theo bài Tin Mừng hôm nay, người mục tử lành thì có lành, nhưng không hiền đâu. Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có giọng gay gắt, luận chiến. Thật vậy, để bảo vệ đoàn chiên an toàn, người mục tử không thể hiền được, mà phải dũng cảm đánh đuổi thú dữ luôn rình rập bắt chiên ăn thịt. Khi đã lùa chiên về ràn an tâm rồi, mục tử vẫn phải cảnh giác canh giữ cửa nẻo, bởi vì những kẻ gian phi luôn thừa cơ hội vào ăn cướp chiên đi.
Lời Chúa có ý nghĩa rõ ràng dễ hiểu như vậy nhưng một số người nghe vẫn không hiểu. Trả lời họ, Chúa khẳng định: Tôi là cửa vào ràn chiên, là chủ chiên, là mục tử. Chúa mới là người lãnh đạo thực. Có những kẻ xưng mình là lãnh đạo, nhưng thực ra chỉ có lợi dụng quyền bính để hà hiếp dân lành, như chúng ta từng thấy trong lịch sử. Chúa muốn rằng, những người thủ lãnh, đời hay đạo cũng vậy, phải là những mục tử nhân lành, quen biết từng con chiên, ưu ái chăm sóc từng con chiên và bảo vệ đàn chiên được an lành, no đủ, “được sống và sống dồi dào”.
Nhóm GNCD
------------------------------------
Bài Đọc 1: Cv 2:14, 36-41; bài Đọc 2: 1 Pet 2:20-25; Tin Mừng: Ga 10:1-10
CHỦ ĐỀ CÁC BÀI ĐỌC
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên, hình ảnh tóm lược sứ điệp của phụng vu hôm nay. Chúa Giêsụ: PS 4-A21
Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên, hình ảnh tóm lược sứ điệp của phụng vụ hôm nay. Chúa Giêsu nói về mình: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa chuồng chiên” (Tin Mừng). Trong sách Công Vụ, Phêrô khuyên bảo các thính giả: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội” (Bài đọc 1). Cũng chính Phêrô trong thư thứ nhất, Ngài viết: “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (bài đọc 2), Ngài chỉ ra một trong những công dụng của cánh cửa là bảo vệ đàn chiên khỏi mọi xâm hại.
Sứ Điệp Niềm Tin
Ở chương 10, Thánh Gioan dùng nhiều hình ảnh khác nhau để diễn tả thực tại của cộng đoàn kitô và của Hội Thánh: chuồng chiên, cửa, đàn chiên, người chăn thuê v…v.. Hình ảnh đáng yêu nhất là chuồng chiên, là cộng đoàn những người tin Đức Kitô. Đức Giêsu vừa là cửa chuồng chiên vừa là mục tử. Còn những người chăn thuê là ai? Các Biệt Phái (x 9,13)? Các tiến sĩ giả và các ngôn sứ “kitô”giả được nhắc đến trong vài đoạn Tân Ứơc? Đó là những vấn nạn khó đòi ta phải giải đáp. Phụng vụ hôm nay tập chú vào hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, cửa chuồng chiên. Cửa là nơi qua đó người ta vào chuồng chiên, cộng đoàn đức tin. Cửa ấy chính là Đức Kitô, đã chết và đã sống lại, Đấng đã tác tạo một ràn chiên mới bằng giao ước mới trong máu của Ngài. Người kitô hữu đi qua cửa cứu độ này để đến với cộng đoàn đức tin nhờ bí tích thánh tẩy. Trong bí tích thánh tẩy chúng ta được dìm vào trong mầu nhiệm chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô, và đồng thời được sát nhập vào Hội Thánh (x. GLCG 1213-1214). Bất cứ ai muốn vào trong đàn, thuộc về Hội Thánh, bằng một lối khác mà không qua cửa, là kẻ trộm (Ga 10,1). Thuộc về Hội Thánh chỉ ở mức độ xã hội thôi, không thể được, cũng không thể tách biệt niềm tin vào Đức Giêsu Kitô với niềm tin chung và việc thuộc về Hội Thánh: “Đức Kitô, chấp nhận, nhưng hội thánh thì không”. Qua cửa, các chiên đi ra khỏi chuồng để tìm đến đồng cỏ xanh tươi. Đối với cộng đoàn kitô, đồng cỏ đó là gì? Trước tiên, đó là lời hằng sống phát sinh hiệu quả trong Kinh Thánh, sau đó là các bí tích được Đức Giêsu Kitô thiết lập để cứu độ những kẻ tin và cuối cùng, là gương mẫu thánh thiện của các anh chị em trong đức tin. Cửa đưa đến những đồng cỏ xanh tươi chính là Đức Giêsu Kitô ngay trong chính cuộc sống lịch sử của Ngài cũng như trong cuộc sống vinh hiển của Ngài, là Lời của Thiên Chúa Cha, là suối nguồn của mọi bí tích, là biểu mẫu cho mọi đời sống kitô hữu. Cửa chuồng chiên cũng mang ý nghĩa bảo vệ những ai ở bên trong. Đức Kitô phục sinh là người bảo vệ đàn chiên và chống lại kẻ trộm hoặc sói dữ đang rình rập quanh chuồng. Khi cộng đoàn những kẻ tin được bảo vệ nhờ cửa duy nhất của chuồng chiên là Đức Kitô, ta chắc rằng chẳng có gì nguy hại cho đàn chiên. Không phải thiệt hại, dù giữa bao thử thách và bách hại do những thế lực thù địch tìm cách tấn công.
Gợi ý Mục Vụ
Theo lời yêu cầu của ĐGH Phaolô VI, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu được tổ chức hằng năm vào Chúa nhật hôm nay. Ta cần nhớ rằng linh mục không phải là cửa chuồng chiên đâu, nhưng chỉ là người bảo vệ, mở và đóng cửa chuồng chiên. Đây là cơ hội thuận tiện để gợi lên một chủ đề khẩn thiết cho tương lai của đức tin. Một vài gợi ý suy tư:
1. Giải thích và giúp mọi người hiểu rằng một Hội Thánh không có linh mục, không phải là Hội thánh mà Đức Giêsu Kitô mong muốn, cũng như Ngài chẳng muốn một Hội Thánh không có giáo dân. Hội Thánh của Đức Kitô được thiết lập với hàng giáo phẩm và với giáo dân, với những người chăn và những con chiên. Người chăn được mời gọi để thi hành phục vụ bằng quyền bính và hiến thân cho các con chiên, là những người được mời gọi để phục vụ bằng vâng phục và nổ lực sống đời kitô hữu trong thế giới.
2. Ơn gọi linh mục là hồng ân của Thiên Chúa, nhưng đòi sự cộng tác của mọi người (gia đình, xứ đạo, hội đoàn, các phong trào), để món quà này nảy mầm trong lòng của những ai được mời gọi. Hạt giống của Thiên Chúa không thể nảy mầm và phát triển nếu không tìm gặp được đất tốt, màu mỡ. Có khi nào chúng ta tự hỏi về số ơn gọi linh mục “đã đào nhiệm” do không tìm thấy môi trường thuận lợi không?
3. Luôn cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi linh mục. Cầu nguyện cho những ứng sinh đang bắt đầu, cho những ai đang được đào tạo, để họ tiếp tục tự chuẩn bị chính mình một cách tốt nhất để thực thi sứ mạng của mình. Cầu nguyện cho các linh mục luôn luôn có trước mặt “hình ảnh người chăn chiên và người bảo vệ các linh hồn”. Chẳng phải là một sáng kiến hay để giúp yêu quý ơn gọi trong giáo xứ của bạn một ngày trong mỗi tháng sao?
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
------------------------------------
Gerard Bessíere & Hyacinthe Vulliez
Tôi đến để họ được sống và sống dồi dào
Thánh vịnh 23 đã ca ngợi Giavê Thiên Chúa là mục tử nhân hậu. Hình ảnh thật thơ mộng và: PS 4-A22
Thánh vịnh 23 đã ca ngợi Giavê Thiên Chúa là mục tử nhân hậu. Hình ảnh thật thơ mộng và cảm động: "Đức Giavê là mục tử tôi... Ngài cho tôi nghỉ ngơi, trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài đưa tôi đến mé nước thảnh thơi, Ngài bổ dưỡng linh hồn tôi...".
Trong tâm trí chúng ta, người mục tự thật tốt bụng, hiền lành, dễ thương, nên được gọi là kẻ chăn chiên lành. Nhưng theo bài Tin Mừng hôm nay, người mục tử lành thì có lành, nhưng không hiền đâu. Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có giọng gay gắt, luận chiến. Thật vậy, để bảo vệ đoàn chiên an toàn, người mục tử không thể hiền được, mà phải dũng cảm đánh đuổi thú dữ luôn rình rập bắt chiên ăn thịt. Khi đã lùa chiên về ràn an tâm rồi, mục tử vẫn phải cảnh giác canh giữ cửa nẻo, bởi vì những kẻ gian phi luôn thừa cơ hội vào ăn cướp chiên đi.
Lời Chúa có ý nghĩa rõ ràng dễ hiểu như vậy nhưng một số người nghe vẫn không hiểu. Trả lời họ, Chúa khẳng định: Tôi là cửa vào ràn chiên, là chủ chiên, là mục tử. Chúa mới là người lãnh đạo thực. Có những kẻ xưng mình là lãnh đạo, nhưng thực ra chỉ có lợi dụng quyền bính để hà hiếp dân lành, như chúng ta từng thấy trong lịch sử. Chúa muốn rằng, những người thủ lãnh, đời hay đạo cũng vậy, phải là những mục tử nhân lành, quen biết từng con chiên, ưu ái chăm sóc từng con chiên và bảo vệ đàn chiên được an lành, no đủ, "được sống và sống dồi dào".
Mark Link S.J.
------------------------------------
Ta là chủ chiên lành.
Trong một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng Monmouth bị thua chạy một cách thê thảm: PS 4-A23
Trong một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng Monmouth bị thua chạy một cách thê thảm. Riêng ông cũng phải lẩn trốn. Ban ngày ông đến náu trong những hang núi, đến đêm mới dám ra đi. Sau cùng, địch quân cũng đuổi kịp. Ông bí quá, chạy vào căn lều của người chăn chiên.
Thay vì đóng cửa không cho ông vào, người chăn chiên đã làm một nghĩa cử cao đẹp. Anh đã đổi áo của mình cho ông mặc trá hình, rồi thân chinh ra gặp địch quân của đại tướng.
Người chăn chiên đã chiến đấu rất anh dũng và cố ý kéo dài cuộc giao tranh để Monmouth có giờ tẩu thoát. Với thanh kiếm, anh đã cầm chân địch quân trong vòng ba tiếng đồng hồ, cho đến khi mệt lả, không còn đủ sức chiến đấu nữa thì bị địch quân giết chết. Lúc đó đại tướng Monmouth đã đi xa rồi.
Trong trận chiến chống trả tội lỗi, chúng ta luôn bị ma quỉ đuổi bắt, nhưng Chúa Giêsu đã xuống thế làm người. Ngài đã chiến đấu thay cho chúng ta suốt ba tiếng đồng hồ trên thập giá, cho đến lúc chính Ngài đã phải chết. Trong khi Ngài chiến đấu với ma quỉ, con người tội lỗi chúng ta được thoát khỏi quyền lực của ma quỉ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có lý khi tự xưng mình là chủ chiên nhân lành, đã hiến mạng sống vì con chiên.
Ngài nói đi nói lại với chúng ta, Ngài là chủ chăn nhân lành có nhiệm vụ dẫn dắt linh hồn chúng ta:
- Nếu một người có một trăm con chiên chẳng may lạc mất một con, người ấy lại không bỏ 99 con lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất hay sao. Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc về đàn này, cả chúng nữa ta cũng phải đem chúng về.
Linh hồn của chúng ta đáng giá chừng nào, vì Chúa Giêsu đã sẵn sàng hiến mạng sống để cứu lấy nó.
Chúng ta phải luôn ghi lòng tạc dạ điều này: Trong chúng ta có một cái gì rất giá trị, một cái gì chúng ta phải chăm sóc và bảo tồn. Để chăn dắt chúng ta, Chúa Giêsu đã phải giáng trần.
Nếu chúng ta cần gì thì hãy đến với Ngài.
Cần đồ ăn ư ? Ngài đã ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Cần nước uống ư ? Ngài đã ban cho chúng ta dòng nước trong lành của Bí tích Rửa tội.
Cần băng bó ư ? Ngài sẽ chữa lành những vết thương do tội lỗi gây nên bằng Bí tích Giải tội.
Cần hướng dẫn ư ? Ngài sẽ đưa chúng ta trở về với Ngài như người chủ chăn đưa con chiên lạc trở về đàn của mình.
Cần che chở ư ? Ngài hiến mạng sống để bảo vệ chúng ta và cho đến ngày hôm nay Ngài còn thực hiện biết bao việc lạ lùng để nâng đỡ chúng ta.
Linh hồn chúng ta thực là quí giá biết bao, chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ nó, đừng làm những gì khiến nó mất đi vẻ đẹp tuyệt vời, khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.
Người chăn chiên đã chết để cứu mạng sống cho vị đại tướng. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để cứu rỗi linh hồn chúng ta, bởi vì Ngài chính là chủ chăn nhân lành đã hiến mạng vì đoàn chiên.
------------------------------------
Trong buổi học giáo lý vào ngày Chúa nhật, một em đang cắm cúi vẽ hình. Thầy giáo hỏi em: PS 4-A24
Trong buổi học giáo lý vào ngày Chúa nhật, một em đang cắm cúi vẽ hình. Thầy giáo hỏi em đang vẽ gì thế. Em trả lời đang vẽ hình của Thiên Chúa. Thầy giáo nói, “Không ai nhìn thấy Thiên Chúa như thế nào, làm sao vẽ được ?” Em bé đã trả lời, “Sau khi em vẽ xong bức hình này thì ta sẽ biết”.
Chúng ta không biết bức hình của em vẽ Thiên Chúa ra sao. Tuy nhiên, bài Phúc âm hôm nay và đáp ca, đã vẽ ra một hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh của người Mục Tử. Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên” và “Ta là mục tử tốt lành”.
Sách Giáo lý Công giáo giải thích hình ảnh này như sau: “Giáo Hội là chuồng chiên với Chúa Kitô là cửa vào độc nhất và cần thiết. Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã công bố rằng Ngài sẽ là mục tử, và những con chiên, dầu có những mục tử loài người dẫn dắt, nhưng chúng luôn luôn có chính Chúa Kitô hướng dẫn và nuôi dưỡng, vì Ngài là chủ chăn tốt lành và là ông hoàng của các chủ chăn. Ngài đã thí mạng sống mình vì các chiên của Ngài”.
Theo William Barlay, vào thời Chúa Giêsu, có hai loại chuồng chiên. Trong các làng xã thường có một chuồng chiên công cộng, nơi tập trung tất cả các bầy chiên lại khi những người chăn chiên trở về nhà vào ban đêm. Những con chiên này được bảo vệ bằng một cái cửa rất vững chắc mà chỉ có người canh giữ chiên mới có chìa khóa để mở cửa. Loại chuồng này được Chúa Giêsu đề cập đến trong câu Gioan 10, 2-3 “Ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào…”
Khi đàn chiên đi ăn cỏ ở nơi xa vào mùa ấm, chúng không trở về làng vào ban đêm, mà qui tụ lại trong một chuồng chiên ở giữa lưng chừng đồi hay ngoài cánh đồng. Những chuồng chiên ở ngoài trời này là một bức tường bằng đá vây chung quanh, có một lối ra vào không có cánh cửa. Ban đêm người mục tử nằm chận ngang lối ra vào, không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, hoặc con thú hoang nào có thể đi vào mà không bước qua người mục tử. Nói một cách khác, người mục tử là cửa chuồng chiên. Chúa Giêsu đã đề cập đến loại chuồng này trong Gioan 10, 7-10 “Tôi là cửa cho chiên ra vào…”
Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên tương quan của Ngài với chúng ta. Một sự gắn bó chặt chẽ giữa người mục tử và đàn chiên với các đặc tính:
Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ rằng: “Ta sẽ luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Trong khi thi hành mục vụ, tôi đã có nhiều dịp viếng thăm các bệnh nhân ở bệnh viện và xức dầu cho họ. Lời cầu nguyện được các bệnh nhân ưa chuộng nhất trên giường bệnh là Thánh vịnh 23 chúng ta đọc trong phần đáp ca hôm nay: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.
Tôi nhớ đã vài lần viếng thăm một người phụ nữ nằm bệnh viện gần 2 tháng. Một ngày nọ khi vào thăm bà, tôi thấy cả gia đình đã qui tụ đầy đủ vì họ đã được thông báo cho biết Bà gần ra đi rồi. Căn phòng bệnh nhân đầy ắp người, nhưng không ai đề cập đến số phận của bà. Họ nói về những chuyện xảy ra trong cộng đoàn, về thời tiết, về tin tức… Tôi đi ra ngoài một chút rồi trở lại thăm bà vào đúng lúc cả gia đình đã đi ăn trưa. Chỉ còn một mình tôi với bà, bà nói: “Thưa cha, cha biết rằng con sắp chết rồi !” Theo tâm lý tôi tự nghĩ trong đầu: “Không đâu ! Bà sẽ vượt qua được cơn bệnh. Bà sẽ còn sống lâu thêm nữa”. Nhưng rồi tôi lại nghĩ rằng tốt hơn hết cứ nói, “Phải, tôi biết !” Rồi tôi hỏi bà thêm: “Bà nghĩ sao về điều này ?” Bà nói: “Phải, con cũng sẵn sàng để chết. Con đã chuẩn bị”. Tôi đề nghị, “Tôi có thể làm gì để giúp bà được không ?” Bà nói: “Xin cha làm ơn đọc cho con nghe Thánh vịnh 23”. Tôi đã đọc thật chậm để cùng cầu nguyện với bà. Lúc đó chúng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an lớn lao khó diễn tả bằng lời, cả hai chúng tôi đều cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện cùng với chúng tôi trong phòng bệnh nhân. Chỉ một thời gian ngắn sau đó bà đã ra đi bình an.
Hình ảnh của người mục tử tốt lành gợi cho chúng ta một Thiên Chúa luôn luôn hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, lúc bệnh tật hay khỏe mạnh, lúc vui tươi hay đau buồn hoặc ngay trong sự chết.
------------------------------------
Cách đây đã lâu, bà Ann Landers viết trên trang báo do bà phụ trách và được đăng lại nhiều lần: PS 4-A25
Cách đây đã lâu, bà Ann Landers viết trên trang báo do bà phụ trách và được đăng lại nhiều lần như sau:
“Từ khi tôi bắt đầu phụ trách cột báo này, tôi đã học hỏi được rất nhiều – gồm cả điều có ý nghĩa nhất mà Leo Rosten đã mang trong tâm trí khi ông nói: “Mỗi người chúng ta là một kẻ cô đơn nhỏ bé, tận sâu thẳm bên trong tâm hồn, và đã khóc lên để được thông cảm”. Tôi đã biết được điều đau khổ xảy ra như thế nào đối với những người không có ai để nói chuyện. Đối với tôi, sự thành công của cột báo là đã nhấn mạnh đến sự bi ai chính yếu của xã hội chúng ta, sự cô độc, cảm giác bất ổn, nỗi sợ hãi đang ám ảnh, gây tê liệt và làm tổn thương quá nhiều người trong chúng ta. Tôi đã biết được rằng sự thành công về tiền bạc, đạt được bằng cấp học vấn, và địa vị chính trị cũng như xã hội không mở ra những cánh cửa dẫn tới sự bình an trong tâm trí hay sự an toàn nội tâm. Tất cả chúng ta là những kẻ đi lang thang trên hành tinh này giống như những con chiên”.
Phải, xét về mặt tâm lý, con người cũng giống như những con chiên mang nhiều nỗi lo âu sợ hãi, rất dễ bị tổn thương, và cần được mục tử săn sóc, chăn dắt, hướng dẫn. “Ta chính là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên của Ta và chiên của Ta biết Ta”.
Họa sĩ vẽ hình phim hoạt họa nổi danh, Jules Pfeiffer đang thảo luận về một loạt hình hí họa ông đã thực hiện cho các tờ báo. Trong số đó, có hình một em bé trai không muốn đi học đến trường vì sợ ba mẹ sẽ dọn ra khỏi nhà đang khi em đi học. Nó không muốn đi ngủ vì sợ ba mẹ sẽ chết trong khi nó ngủ. Đối diện với những nỗi sợ hãi này “giống như một người canh gác đang trực hai mươi bốn giờ liền”, Pfeiffer đã phát biểu như vậy.
Hình ảnh sợ hãi của em bé trai chính là hình ảnh của chúng ta đang bước đi trong cuộc đời. Dù chúng ta có đi lạc, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vẫn sẵn sàng bỏ tất cả 99 con chiên khác, ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Người sẽ vác chúng ta lên vai, yêu thương và săn sóc, vì Người là mục tử tốt lành.
Có một câu chuyện huyền thoại Do Thái nói về Môsê. Ngày xưa khi Môsê đang chăn dắt đàn chiên của nhạc phụ ở Jethro, ông thấy một con chiên nhỏ chui qua bụi rậm và trốn mất. Môsê đã bỏ hết mọi sự đuổi theo con chiên nhỏ đó vì sợ nó đi lạc sẽ bị thú dữ ăn thịt. Sau cùng ông đã đuổi kịp con chiên nhỏ khi nó dừng lại bên giòng suối nước. Thì ra con chiên khát nước, nên nó chạy ra giòng suối để uống. Sau khi uống nước xong, Môsê ẵm chiên lên và nói: “Cưng ơi, ta đâu có biết ngươi chạy đi là vì ngươi khát nước. Bây giờ chân của ngươi mỏi mệt lắm rồi”. Nói như vậy rồi Môsê vác chiên lên vai và mang nó về đàn.
Khi Thiên Chúa nhìn thấy sự tận tình yêu thương của Môsê như thế, Ngài liền nói, “Rốt cuộc Ta cũng đã tìm ra được con người mà Ta đang tìm kiếm. Ta sẽ đặt Môsê là người chăn dắt Israel dân Ta”.
------------------------------------
Ngày 20.4.2002, nhật báo Chicago Sun Times đăng tin về linh mục Gary Graf, 43 tuổi, thuộc: PS 4-A26
Ngày 20.4.2002, nhật báo Chicago Sun Times đăng tin về linh mục Gary Graf, 43 tuổi, thuộc tổng giáo phận Chicago, vị mục tử giầu tình thương đối với những người di dân nói tiếng Tây Ban Nha thuộc giáo xứ Holy Family, Waukegan, Illinois. Ngài đã bình phục sau một cuộc giải phẫu dâng hiến 60/o lá gan của mình cho một người giáo dân đang cần thay gan để sống thêm một thời gian nữa. Người giáo dân này tên là Miguel Zavala, một người đàn ông khoảng 40 tuổi.
Trước cử chỉ hy sinh và lòng bác ái cao cả này của cha chính xứ, một giáo dân trong giáo xứ đã phát biểu: “Cha Gary thật là vị mục tử nhân lành. Ngài hy sinh mạng sống của mình cho con chiên bằng bất cứ giá nào có thể”. Trong lá thư gửi cho giáo dân, cha Gary đã viết: “Ơn gọi độc thân, cùng với sự hy sinh vì nước trời, đã cho phép tôi trở nên một thành phần của gia đình to lớn hơn, bởi vì tất cả các anh chị em trong giáo xứ là gia đình của tôi”.
Các bác sĩ cho biết rằng loại gan cha Graf dâng tặng được coi là rất hiếm. Và công việc ban tặng như thế tuy giúp ích được cho nhiều người, nhưng cũng rất nguy hiểm cho tính mạng của cả hai người, người cho lẫn người nhận.
Qua cách ban tặng một phần lá gan của mình cho giáo dân, cha Graf đã phản ảnh ý nghĩa của dụ ngôn về người mục tử tốt lành như chính Chúa Giêsu đã làm: “Ta chính là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Noi gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nhiều giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và các bậc cha mẹ cũng đang hy sinh cuộc đời của mình cho đàn chiên. Sự hy sinh của họ không phải một lần là xong, nhưng kéo dài mỗi ngày suốt cuộc đời !
Trong niềm hy vọng sống lại của Mùa Phục Sinh, hôm nay chúng ta nhìn vào gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô, Người mục tử tốt lành đã luôn luôn hiện diện, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Sách Giáo lý Công giáo số 754 đã gọi Ngài là “Ông Hoàng của các chủ chăn”. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài. Xin Ngài giúp cho Giáo Hội và các gia đình có những mục tử tốt lành theo khuôn mẫu của Ngài.
------------------------------------
Hình ảnh chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân sinh sống tại vùng: PS 4-A27
Hình ảnh chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân sinh sống tại vùng Palestine thời Chúa Giêsu. Đó là những dải hàng rào chắc chắn được quây lại theo hình vuông hay hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Cứ chiều đến, các chủ đoàn chiên lùa chiên vào chuồng qua cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ chuồng chiên cho những người được thuê mướn làm công việc này. Sáng sớm hôm sau, các chủ đoàn chiên lại đến để đưa chiên ra khỏi chuồng đi ăn nơi những đồng cỏ. Chuồng chiên là nơi bảo vệ an toàn cho đàn chiên.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh Ngài với cửa chuồng chiên và người chăn chiên tốt lành để mạc khải lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung, và nhất là sự chăm sóc bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng, vì Ngài là mục tử tốt lành. Thế nào là một mục tử tốt lành ? Chính Chúa Giêsu đã phác họa bằng ba vẻ đẹp:
An cần chăm sóc các chiên của mình: Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người thanh niên đang chăn chiên trên một cánh đồng lớn, có những cỏ non xanh, có những dòng suối mát, và người thanh niên ấy vác trên vai một con chiên đau bệnh. Sự chăm sóc của Chúa Giêsu mục tử đó là một vẻ đẹp có sức hấp dẫn.
Sẵn sàng hy sinh, liều mạng cho đoàn chiên: vẻ đẹp này thường được diễn tả bằng hình ảnh con bồ nông mẹ, nhỏ từng hạt máu của mình vào miệng những đứa con non nớt để nuôi dưỡng chúng cho đến hạt máu cuối cùng rồi lăn ra chết. Mẹ chết để cứu đoàn con. Sự hy sinh của Chúa Giêsu mục tử là một vẻ đẹp có sức đánh động những trái tim khô cứng.
Hiểu biết từng con chiên mình: Vẻ đẹp này đã được diễn tả bằng hình ảnh một người cha ôm hôn đứa con ngỗ nghịch trở về. Bởi vì mắt cha nhân từ, hiểu biết sự yếu đuối, dại khờ, nông nổi của đứa con, và hiểu thiện chí tối thiểu của đứa con mình. Đây là một vẻ đẹp phản ảnh tình yêu cứu độ của Chúa.
Ba vẻ đẹp trên đây đều nói lên vẻ đẹp duy nhất của Thiên Chúa, đó là tình thương xót. Tình thương xót là chân dung của Chúa, là dung mạo của Chúa, là khuôn mặt của Chúa.
Vì thế, khi so sánh mình với người mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng: Ngài chính là tiêu chuẩn, là mẫu mực để xác định sứ mạng đích thực của những người được gọi và tuyển chọn cộng tác với Ngài trong sứ mạng coi sóc đoàn chiên là cộng đoàn những kẻ tin Chúa. Những người được chọn cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên nếu không vào qua cửa là Chúa Giêsu thì không phải là những chủ chăn đích thực. Nói rõ hơn, những chủ chăn đích thực phải được chính Chúa tuyển chọn.
Điều này đã được thực hiện từ khi Chúa thiết lập Giáo Hội cho đến ngày nay, như Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội đã tuyên bố: “Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ và Ngài muốn các người kế vị, tức là các giám mục, làm chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế”. Nhưng để chức giám mục được duy nhất và không bị phân chia, Chúa đã đặt thánh Phêrô làm thủ lãnh các tông đồ khác. Vì thế, các Đức Giáo Hoàng là những người kế vị thánh Phêrô là thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội. Như vậy, quyền bính trong Giáo Hội được Chúa trao phó cho Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô, và các Giám mục kế vị các tông đồ. Tuy nhiên, gần gũi chúng ta hơn cả còn có các linh mục, là những cộng tác viên đã được các giám mục ủy quyền chăm sóc đoàn chiên.
Do đó, chúng ta thấy sự tương quan giữa chúng ta và hàng giáo phẩm, tức là giữa đoàn chiên và các vị chủ chăn: qua linh mục chính xứ, chúng ta liên hệ với giám mục giáo phận. Qua Đức giám mục, chúng ta liên hệ với Tòa Thánh, với Đức Giáo Hoàng. Như vậy, linh mục là người thi hành nhiệm vụ chủ chăn trực tiếp với chúng ta, là người sống gần gũi chúng ta, đáng cho chúng ta thông cảm, chia sẻ, cộng tác và cầu nguyện cho các ngài.
Hy vọng rằng sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Nhờ sự liên lạc đó giáo dân ý thức trách nhiệm của mình hơn, lòng hăng say được phát triển và góp sức dễ dàng hơn vào công việc của chủ chăn. Phần chủ chăn, nhờ giáo dân, có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế. Như vậy, toàn Giáo Hội được vững mạnh và càng ngày càng tốt đẹp hơn.
------------------------------------
Các vỉa hè và những con đường trong thành phố Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp ồn: PS 4-A28
Các vỉa hè và những con đường trong thành phố Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp ồn ào vào giấc trưa bởi người ta tấp nập vội vã tìm quán ăn trưa, xe cộ bấm còi inh ỏi cùng những tiếng thắng xe nghe đến rợn người, thêm vào đó là tiếng còi hụ rền rĩ. Có hai người đàn ông đang cùng đi với nhau chen lẫn giữa đám đông. Một người là thổ địa ở New York còn người kia là dân vùng quê ở Kansas đến thăm. Bất thình lình, người dân quê dừng lại và nói với người kia rằng: "Khoan đã, tôi nghe có tiếng dế gáy đâu đây". Ông kia trả lời: "Bộ anh giỡn chơi hả? Ở đây thường không có dế đâu, mà dù có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa sự quá ồn ào này?" Anh bạn nhà quê giữ im lặng lắng nghe trong một vài giây rồi bước tới một góc có bồn xi-măng trồng mấy cây trong đó. Anh ta lật vài chiếc lá ra và nhìn thấy một con dế đang núp mình trong đó. Anh bạn ở tỉnh thấy vậy thì rất ngạc nhiên và khâm phục nên nói: "Tai anh thật là thính!" Anh bạn quê trả lời: "Không phải vậy đâu, tai anh cũng thính như tai tôi vậy thôi. Chẳng qua tai mỗi người làm quen với tiếng động mà họ thường lắng nghe mà thôi. Đây, để tôi chứng minh cho anh xem". Nói xong anh liền móc ra một nắm tiền cắc rồi quăng nó lên lối đi. Khi tiếng vang do nắm đồng cắc chạm mặt đường thì hầu hết mọi người đang đi đều quay nhìn về hướng đó. Anh bạn ở quê liền nói: "Anh thấy không, chẳng qua là nguời ta muốn nghe những gì họ muốn nghe mà thôi. "
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cùng một bài học đó bằng cách dùng hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên. Vào thời của Ngài (ngay cả bây giờ nơi Đất Thánh cũng vậy), khi chiều tàn thì những mục tử lùa bầy chiên của họ từ ngoài đồng cỏ về và nhốt chung lại với nhau trong một chuồng. Rồi đến sáng hôm sau những mục tử trở lại chuồng và tuần tự gọi những con chiên thuộc về mình mà dẫn chúng đi ăn. Điều đặc biệt là những con chiên nhốt chung đó tự tách ra khỏi bầy mà theo tiếng gọi riêng của chủ nó. Chúng không bị lẫn lộn bởi tiếng gọi của những mục tử nhưng tự chờ đến khi đúng tiếng của chủ nó mới đi ra.
"Ta là Mục Tử Tốt Lành," Chúa Giêsu đã nói như thế. Các bạn muốn cuộc sống được nuôi dưỡng, chăm sóc, và hướng dẫn đến mức sung mãn thì như Chúa Giêsu đã nói "Hãy theo Ta!" Có một điều không thể xảy ra đó là các bạn vừa nghe theo tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành vào ngày Chúa Nhật và lại vừa đi nghe theo tiếng gọi của chủ chăn khác cả nguyên tuần được. Vì chính Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Các ngươi không thể làm tôi hai chủ được... các ngươi không thể vừa thờ phượng Thiên Chúa mà lại thờ tiền của được". Tiếng của Chủ Chăn Nhân Lành luôn luôn đối nghịch với tiếng của thế gian, và chúng ta phải chọn một trong hai vì như: "Ngươi sẽ ghét chủ này và yêu chủ nọ hoặc sẽ bỏ chủ này mà theo chủ kia" (Lk 16:13).
Gia đình chúng ta bị những tiếng khuyến dụ của thế gian quấy rầy cả bảy ngày trong một tuần bởi hằng triệu Đôla được bỏ ra làm chuyện đó; chúng ta được rỉ tai liên lỉ là: "Này bạn ơi nghe đây, bạn sẽ có một cuộc sống thoải mái nếu như bạn mua thứ này, mặc thứ nọ, ăn của kia, uống thức khác". Ví dụ như để xúi dục các bạn thanh niên uống bia nhiều hơn thì họ đã bỏ ra một số tiền khổng lồ để làm ra một quảng cáo thật hấp dẫn trình chiếu trên truyền hình. Hầu hết những diễn viên trong mục quảng cáo đó rất xinh đẹp trẻ trung, và ý tưởng của quảng cáo là hãy uống bia nếu như muốn cuộc đời mình hạnh phúc. Đây là câu chính quan trọng trong pha quảng cáo: "Không còn gì tốt và hay ho hơn điều này!" Thế nhưng đồng thời, thống kê cho biết là cứ mười trong một ngàn người bị chết hoặc tàn tật suốt đời bởi tai nạn là do say rượu lái xe.
Cứ tuần tự mỗi tuần lễ chúng ta tụ họp nơi đây và được nghe các vị Mátthêu, Mátcô, Luca, Gioan và Phaolô loan báo cho chúng ta biết rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc xác phàm đi vào thời gian nhưng hiện tại Ngài đã đi vào biên giới của nhịp điệu vĩnh cửu.
Bạn đang lắng nghe đó chứ? Lời Chúa nói cho chúng ta biết về Đấng Tình Yêu vượt quá mọi đo lường. Lời Chúa loan báo cho chúng ta một Hy Vọng vượt quá mọi suy tưởng. Lời Chúa cho chúng ta biết về một cuộc sống toàn hảo sẽ ban tặng cho những ai bước vào gianh giới của vĩnh hằng. Đừng để tiếng động nhỏ của đồng tiền lôi chúng ta ra khỏi ranh giới đời đời!
------------------------------------
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường ví mình với điều cụ thể: "Tôi là bánh, là Ánh Sáng: PS 4-A29
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường ví mình với điều cụ thể: "Tôi là bánh, là Ánh Sáng, là Đường...”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài ví mình như Mục tử.
Người mục tử chân chính đi qua cửa mà vào chuồng chiên. Anh gọi chiên của anh bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra tiếng của anh và đi theo.
Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng. Chiên không theo anh ta, nhưng sợ hãi chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
đến để giết hại và phá hủy đàn chiên.
Còn Ngài đến để chiên được sống, và sống dồi dào. Giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết: "Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi." Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
Giáo Hội muốn đặc biệt dành Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội.
Nhiều nơi trên thế giới đang thiếu linh mục trầm trọng, nhiều nhà thờ phải giao cho giáo dân coi sóc. Cũng có những dòng tu phải đóng cửa cơ sở của mình vì không có lớp người trẻ kế tục.
Giáo Hội hôm nay cũng như mai ngày vẫn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi.
Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được những thực tại vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý.
Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng, nhưng một số người được mời gọi đặc biệt để dấn thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức Giêsu tận căn hơn.
Chúng ta băn khoăn trước câu hỏi tại sao Giáo Hội hôm nay thiếu ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Vì đời tu không hấp dẫn người trẻ? Vì bầu khí của thời đại: thực dụng, hưởng thụ, Mất cảm thức về đức tin, xa lạ với Thiên Chúa? Hay vì chúng ta chưa có can đảm để cổ võ ơn gọi?
Trong sứ điệp năm 1996 về ơn gọi, Đức Thánh Cha đã nhắc đến việc phải chăm lo cho mảnh đất nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm và lớn lên. Mảnh đất đó là cộng đoàn giáo phận và giáo xứ. Ngài đã phác họa những nét chính của cộng đoàn này như sau:
Một cộng đoàn biết lắng nghe Lời Chúa. Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên từ sâu thẳm của con tim mình.
Một cộng đoàn biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa. Chỉ trong bầu khí trầm lặng của cầu nguyện, người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân.
Một cộng đoàn biết hăng say làm việc tông đồ, khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết.
Một cộng đoàn quan tâm phục vụ người nghèo, chọn đứng về phía những người khổ đau, túng thiếu. Cộng đoàn này sẽ sản sinh những bạn trẻ biết phục vụ vô vị lợi và hiến thân vô điều kiện.
Như thế ơn gọi chỉ nảy nở từ vùng đất màu mỡ. Nó là hoa trái của một Giáo Hội đầy sức sống.
Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Nhiều ơn gọi sẽ làm cho Giáo Hội mạnh hơn.
Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại, không thiếu lý tưởng và những ước mơ cao cả.
Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu, say mê con người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới.
Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của bao người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu thương.
Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững trước cơn lốc của cám dỗ.
Giáo Hội thiếu ơn gọi là do lỗi của mỗi người chúng ta.
Cần phải cầu nguyện và cũng cần phải canh tân cuộc sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn mơ ước một linh mục trong thời đại hôm nay cần có những phẩm chất nào, để có thể phục vụ hữu hiệu cho Dân Chúa?
2. Theo bạn, đâu là nét nổi bật trong công việc phục vụ của các nữ tu ở Việt Nam: ở nhà thương, trường học, trại phong, giáo xứ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu dâng hiến, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
------------------------------------
Chi Tiết Hay
Trong đoạn Phúc Âm này, Đức Giêsu là cửa ràn, còn đoạn Phúc Âm sau (Gioan 10:11-16) mới: PS 4-A30
Trong đoạn Phúc Âm này, Đức Giêsu là cửa ràn, còn đoạn Phúc Âm sau (Gioan 10:11-16) mới nói tới Đức Giêsu là mục tử nhân lành.
Vậy ở đây ai là người mục tử? Đó là những người chăn dắt Hội Thánh.
Người chăn chiên thường đi sau đàn chiên để hối thúc chiên đi tới, nhưng cũng có người lại đi trước đàn chiên và dùng tiếng hú đặc biệt để gọi chiên đi theo vì các con chiên nhận ra tiếng hú này.
Trong sách Dân Số 27:17 Môsê đã xin Chúa cho dân một người lãnh đạo để dân khỏi bị như chiên không người chăn dắt.
Một Điểm Chính
Thời đó mỗi gia tộc thường giữ chiên của các gia đình chung vào một ràn. Người giữ cửa ràn phải biết hết mọi người trong gia tộc. Người nhà dẫn chiên ra vào cửa ràn này, còn kẻ trộm thì leo tường.
Suy Niệm
Một ràn chiên, một cộng đoàn nếu sống theo tình Chúa thì sẽ ra sao?
Tôi ra vào cử tình thương của Chúa, hay leo tường một cách ích kỵ, tự kiêu, tự mãn như kẻ trộm?
------------------------------------
BÁO TUỔI TRẺ
Trời” mà tất cả người dân thuộc mọi sắc tộc ở Tây Nguyên và người Chăm, người Raglei ở các: PS 4-A31
“Trời” mà tất cả người dân thuộc mọi sắc tộc ở Tây Nguyên và người Chăm, người Raglei ở các tỉnh Ninh Thuận hay Bình Thuận đều ngước mắt nhìn lên kêu cứu, Trời ấy, có thể được coi là Chúa, có thể đó là Yàng, có thể đó là Đấng Allah hay một vị Thần Tối Cao nào đó. Song rõ ràng là con người bất lực trước những hiện tượng thiên nhiên và đang cầu xin: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm v.v...”
Đập, hồ, sông, suối trơ đáy; ruộng đồng nứt nẻ; đồng khô cỏ cháy; một vài cơn mưa nhỏ chỉ làm tăng thêm oi bức và khô hạn. Con người còn khốn đốn nói gì đến gia súc. Lúc này, Thánh Vịnh 22, đoạn đẹp nhất và được phổ lời thơ ý nhạc nhiều nhất mới thấm thía làm sao: “Trên đồng cỏ xanh, tiếng gió ru len qua dòng suối mát. Bóng ngả chiều êm vang câu hát, bên Chúa con nghỉ ngơi ! Vì chúa là Mục Tử của con !
Những ngày này, Giáo Hội cũng đang trong “cơn khát”: Vị Mục Tử đã được Chúa gọi về sau một triều đại Giáo Hoàng thịnh trị và dài lâu, làm cho bộ mặt của Giáo Hội đổi thay cả bên trong lẫn bên ngoài, khiến cho Giáo Hội trở thành tiếng lương tâm mà bất cứ quốc gia nào hay cá nhân nào – dù có thể không thích hoặc ghen ghét, thù địch – cũng phải kính nể.
Đức Gio-an Phao-lô 2 đã lo lắng cho mọi thành phần Dân Chúa: đấu tranh không mệt mỏi cho sự sống của các thai nhi và cả các phôi thai; đấu tranh cho những em bé bị bỏ rơi, côi cút, nghèo khổ; đấu tranh cho tuổi trẻ tràn đầy nhựa sống nhưng lại dễ bị lợi dụng và mê hoặc đi vào sai lầm, nhất là khi những điều xấu được các phương tiện truyền thông hiện đại tiếp tay; đấu tranh cho giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân; đấu tranh cho các đôi vợ chồng Công Giáo và các bậc phụ huynh; đấu tranh cho các bệnh nhân và những người khuyết tật bất hạnh; đấu tranh cho những người thất nghiệp hoặc bị bắt bớ tù đày; đấu tranh cho những người cao niên bệnh hoạn, mang nặng mặc cảm hoặc bị con cháu bỏ rơi; đấu tranh cho người còn sống và đã qua đời... Ngài còn canh cánh trong lòng sự hiệp nhất các Giáo Hội của Chúa Ki-tô và luôn nhận phần lỗi về mình, miễn làm sao cho vết thương chia rẽ Ki-tô Giáo hết nhức nhối, mà điều làm nhức nhối nhất là gương xấu làm ảnh hưởng đến việc rao giảng Chân Lý – Bác Ai – Hoà Bình – Công Lý.
Với đất nước Việt Nam, ngài luôn đặt ở vị trí trân trọng nhất trong trái tim mình. Khi chuẩn bị lên đường sang gặp chính quyền Việt Nam, Đức Ông Celli hỏi Đức Thánh Cha còn điều gì nhắn nhủ tín hữu Việt Nam chăng, thì ngài đã trả lời ngay: ”Không ! ta chẳng có gì và cũng chẳng còn gì để nhắn nhủ nữa. Cha hãy nói với con cái ta rằng: Việt Nam luôn ở trong trái tim ta và trong Thánh Lễ ta dâng mỗi ngày”.
“Chiên của ta thì nghe tiếng ta. Ta biết chúng và chúng theo ta”. Có thật như thế chăng ? Câu hỏi này hãy để mỗi người trả lời và trả lẽ trước mặt Chúa !
Nếu mỗi Giám Mục đều hiệp nhất và sống tinh thần của vị Cha Chung ( đã quá cố ) ?
Nếu mỗi Linh Mục biết bắt chước gương sống của vị Cha Chung ( đã quá cố ) mà hy sinh hết thời giờ, sức lực, tâm trí, cho Đàn Chiên mà Chúa và Hội Thánh trao cho ?
Nếu mỗi Tu Sĩ nghe theo vị Cha Chung ( đã quá cố ) để nêu gương sáng về Đức Nghèo Khó – Vâng Lời – Khiết Tịnh, là những Lời Khấn không chỉ thiếu trên trần gian mà còn vô cùng hụt hẫng, cần kíp trong Giáo Hội ?
Nếu mỗi Giáo Dân, nhất là bậc làm cha làm mẹ biết chăm chú chăn dắt những chiên mẹ, chiên con mà Chúa ban cho với hết tâm tình yêu thương, lo lắng không chỉ về đời sống vật chất hay tinh thần mà còn để hết tâm sức dạy dỗ con cái sống Đức Tin cũng như biết nêu cao tinh thần bác ái, cảm thông, chia sẻ với người đói nghèo, và ý thức làm nhân chứng Tin Mừng ?
Và nếu chúng ta không than thân trách phận, bất mãn kinh niên, chỉ biết nghĩ về mình, bo bo những đồng tiền kiếm được, bới lông tìm vết để chỉ trích từ đồng đạo cho tới hàng Giáo Sĩ hoặc từ các Giám Mục cho đến cả vị Đại Diện Chúa ở trần gian bằng giọng lưỡi cay độc, kiêu căng là điều không thể có nơi những kẻ có Đức Tin, nhưng là những thứ dư thừa trong hoả ngục ?
Mục Tử Nhân Lành lý tưởng nhất vẫn luôn là Chúa Ki-tô. Đó là điều hiển nhiên đối với kẻ khiêm nhường tin phục, nhưng khổ quá, lại là cái cớ cho người kiêu căng dùng để chê bai chỉ trích !
Đơn giản là vì Chúa đã tin tưởng và quảng đại trao quyền và trách nhiệm mục tử cho chúng ta ! Cho ai ? Điều ấy thì chỉ không biết, nếu cố tình không thấy !
CVK 62 NGUYỄN THẾ BÀI ( Đi tìm đáp số Tình Yêu 96
------------------------------------
Một Linh Mục rất trung thành đạo đức đang đau nặng. Bổn đạo quì cạnh giương bệnh, cầu xin: PS 4-A32
Một Linh Mục rất trung thành đạo đức đang đau nặng. Bổn đạo quì cạnh giương bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông đã coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này: "Chúa biết không, cha của chúng con yêu mến Ngài biết bao !"
Nghe vậy vị Linh Mục bèn xoay qua phía họ mà nói: “Xin anh chị em đừng cầu nguyện như thế. Khi Ma-ri-a và Mác-ta sai ngươi đi mơi Đức Giê-su, thì họ không nói: "Lạy Chúa, này là kẻ yêu Chúa", nhưng nói: "Lạy Chúa, này là kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng”. Tôi được an ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng chính vì Chúa đã yêu tôi cách trọn vẹn”.
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là ngươi yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ. Đức Giê-su chính là Mục Tử Tốt Lành, Người luôn yêu thương đàn chiên, và yêu từng con chiên một. Chính Người yêu thương chăm sóc đàn chiên nên các con chiên mới được ăn trên đồng cỏ xanh, uống bên dòng suối mát. Chính Ngươi lưu tâm bảo vệ đàn chiên, nên các con chiên mới an toàn khỏi kẻ bắt trộm, khỏi nanh sói dữ.
Nếu Người đã nói: "Tôi biết các con chiên của tôi", thì phải hiểu là Ngươi biết rõ chúng ta cần những gì cho linh hồn và thể xác, nên đừng băn khoăn xao xuyến. Hãy tin tưởng ở nơi Người.
Nếu Người đã nói: "Chiên tôi thì nghe tiếng tôi", là Người muốn chúng ta chỉ lắng nghe duy nhất tiếng gọi yêu thương của Người. Đừng nghe theo một tiếng gọi nào khác. Nó có tên là ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Nếu Người đã nói: "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào", là Người muốn chúng ta được sống tràn trề bên dòng suối Lời Chúa và sung mãn với lương thực Thánh Thể của Người.
Chúa nhật này là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ. Chúng ta cần cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chiên. Chúng ta cần cổ vũ cho Ơn Gọi Linh Mục và Tu Sĩ bằng cách khích lệ tinh thần và hỗ trợ tài chánh cho các mầm non Ơn Thiên Triệu trong Giáo Phận và Giáo Xứ của mình. Chúng ta cần tích cực dạy cho con cháu biết lắng nghe Lời Chúa, chuyên tâm cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và quan tâm phục vụ ngươi nghèo. Nhờ vùng đất màu mỡ này mà ơn gọi Linh Mục và Tu Sĩ sẽ nảy sinh.
Lạy Chúa, Chúa là Mục Tử Tốt Lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đương của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài. Xin ban cho chúng con những chủ chiên nhân lành, chỉ biết say mê Chúa, yêu thương, phục vụ, và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên "được sống và sống dồi dào”.
THIÊN PHÚC
------------------------------------
(Ga 10, 1-10)
Thưa quý vị,
Tôi sinh ra và lớn lên ở thành thị. Tôi có thể mô tả hầu quý vị các trò chơi trên đường phố như đá: PS 4-A33
Tôi sinh ra và lớn lên ở thành thị. Tôi có thể mô tả hầu quý vị các trò chơi trên đường phố như đá ống bơ, banh nhựa, cầu lông, v.v. Còn về trâu bò, chiên cừu thì dốt đặc. Nhưng Tuần thánh vừa qua, tôi có cơ hội giảng thuyết ở một giáo xứ miền quê, bắc California, nên đôi lần được ngắm các con vật ngặm cỏ khắp các cánh đồng. Tôi nhận xét chúng thường tụ họp với nhau, mặc dù đôi lúc cũng có những con đi ăn riêng lẻ ở những đám cỏ xanh non mùa xuân. Như vậy những con đó tự mình đi lạc. Phỏng cuối tuần người chăn chiên xuất hiện và lùa chúng vào một đàn rồi dẫn sang cánh đồng bên cạnh. Ông đi sau đàn vật, dùng còi hoặc tiếng la hét để thâu gom chúng, bắt đầu từ những con xa nhất. Cuối cùng, chúng gom thành đàn và qua cổng chuồng. Đàn vật phải quen chủ nhiều lắm, bởi chúng không hề xôn xao sợ hãi khi chủ vào cánh đồng. Chúng bình tĩnh gặm cỏ như không có chi đe doạ mình. Trái lại, lúc đầu tuần tôi toan tính vượt ngang qua mặt đường để quan sát chúng gần hơn, nhưng chúng nhốn nháo chạy xa, vừa nhìn tôi vừa gặm cỏ, kiểu như canh chừng nguy hiểm.
Vào thời Chúa Giê-su, đàn chiên cừu quả là một gia tài. Cuộc sống của người mục tử hoàn toàn lệ thuộc vào đàn vật. Thu nhập chính của gia đình là từ chúng. Cho nên từ thơ ấu, trẻ con đã được giáo dục về tầm quan trọng này. Các em được nuôi nấng bên đàn súc vật, thường xuyên tiếp xúc với chúng, chơi đùa nhảy nhót bên chúng. Lớn lên các em theo chúng ra cánh đồng coi chừng và chăm sóc đàn vật của gia đình. Như vậy, các em học nghề chăn chiên cừu từ rất sớm. Chẳng ai dám giao chiên cừu của mình cho những người vô trách nhiệm. Nếu có điều chi xảy đến cho những con vật nhút nhát, người chăn cừu phải lo lắng cho chúng được an toàn, nếu không sẽ bị trừng phạt, trừ phi chứng minh được rằng mình không có lỗi. Đàn chiên cừu quan trọng đến như vậy đối với gia đình và cộng đồng. Cho nên, bất cứ người chăn nào cũng phải cẩn trọng, xua đuổi những con vật dữ tợn toan làm hại chúng, nhất là bọn trộm cắp, cướp tay trên nguồn lợi của gia đình. Việc chăn giữ chiên cừu có khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Do đó, chúng ta hiểu được tấm lòng của Chúa Giê-su tự xưng mình là Chúa chiên nhân lành trong bài Tin mừng hôm nay. Đàn chiên quả là đáng giá, Chúa chiên chẳng thể để chúng tan tác hoặc bị tiêu vong.
Lúc ngắm các đàn vật gặm cỏ trong cánh đồng ngang qua con đường, tôi liên tưởng ngay tới Chúa Giê-su và việc Ngài chăn dắt chúng ta như thế nào ! Nhưng có điều dị biệt là Chúa Giê-su không đi sau đàn chiên mà đi phía trước, dẫn dắt và dạy dỗ chúng ta khi cùng di chuyển. Ngay từ lúc khỏi đầu sứ vụ, Ngài đã dẫn đầu trong mọi tình huống, giảng dạy và cứu chữa nhân loại. Ngài vào thẳng cuộc sống mỗi người và nói với họ về một Thiên Chúa tình yêu. Khác với các thầy dạy thế gian, Ngài không đứng ngoài lề chìa tay năm ngón chỉ đàng cho chúng ta phải sống ra sao cho đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài đi trước làm gương để chúng ta sống như Ngài đã sống, đau khổ như Ngài chịu thương khó vì phần rỗi các linh hồn và tình yêu nhân loại. Ngài không hề phạm tội (Ga 8, 46), tội lỗi không bén mảng đến Ngài (Dt 4, 15). Nhưng đã chịu khổ nạn đến tận cùng vì tội lỗi chúng ta. Chỉ những linh hồn thanh sạch mới gớm ghét sự nhơ bẩn, chỉ những bậc thánh thiện mới ghê tởm tội lỗi. Đấng Thánh vô cùng mới hiểu tội lỗi là tai hoạ ghê gớm, làm thiệt hại linh hồn loài người. Cho nên, trong tiến trình sống mỗi người, Chúa Giê-su liên tục mặc khải sự thánh thiện của Ngài, ngõ hầu chúng ta nhận ra sự nhơ bẩn của linh hồn mình mà cải hoá tự tân. Kẻo chúng ta tưởng mình là cái chi chi, rồi ăn ở trác táng nhung lụa, bất cần lề luật của Thiên Chúa. Trong buổi phụng vụ hôm nay, chúng ta lắng nghe lời Ngài trong nguyện cầu. Chúng ta suy nghĩ về những giáo huấn của Hội thánh và những gì thiên hạ bàn tán lọt vào tai mình. Chúng ta phân định đâu là ý Chúa, đâu là tiếng gọi của thế gian, xác thịt và satan. Lời Thiên Chúa luôn có nội dung củng cố tinh thần đạo đức, khuyến khích tiến xa hơn trên con đường thánh thiện, hướng dẫn bước theo gương sáng của các bậc hoàn hảo, đặc biệt là của Đức Giê-su Ki-tô, chủ chiên hợp pháp duy nhất của các linh hồn (le seul légitime Pasteur des âmes), do Thiên Chúa chỉ định. Sau khi phục sinh, Ngài đổ Thần khí vào nhân loại để ban cho họ khả năng sống thánh thiện như Ngài, luôn đi theo con đường Ngài vạch ra, rao giảng những chân lý Ngài truyền dạy.
Xin lưu ý, thánh Gioan không xác định thính giả của Chúa Giê-su, có thể là đám đông, có thể chỉ là các môn đệ. Tuy ở đoạn trên, Ngài có nhắc tới các Pharisêu, nhưng câu chuyện liên quan đến việc đui mù thiêng liêng chứ không nói gì về vấn đề mục tử chăn dắt đàn chiên. Vậy chúng ta được rộng đường suy đoán. Có lẽ thánh nhân nhường chỗ trống để chúng ta điền tên mình vào, trở thành thính giả thực thụ của Chúa Giê-su hôm nay.
Ở buổi phụng vụ này, chúng ta lắng nghe Chúa Giê-su như cộng đoàn Hội thánh hay từng cá nhân. Nhiều tác giả chú giải cho đây không phải là dụ ngôn mà là những hoàn cảnh khác nhau của bổn phận mục tử. Nó thay đổi tùy theo nhu cầu. Chúng ta không nên bị trói buộc vào logic văn chương. Ngược lại được tự do suy nghĩ dựa theo sự dẫn dắt của Chúa Giê-su. Thí dụ, Ngài dạy về tính hợp pháp và phẩm chất của các mục tử. Rõ ràng, thời nào ở đâu, Hội thánh cũng cần đến các mục tử tốt lành, biết hy sinh vì đàn chiên, không sa đoạ, trác táng, đạo đức kém, lối sống tồi tệ. Ngựơc lại, đáng tin cậy và nhiều gương sáng. Họ lấy Ngài làm gương mẫu, dám tố cáo tội lỗi, giả hình, bất công. Họ sẵn sàng chỉ lối tốt lành cho đàn chiên đang háo hức nghe theo.
Chúng ta hy vọng tuần tới các Đức hồng y sẽ thành công trong việc lựa chọn một giáo hoàng mới đúng như vị mục tử Tối Cao đòi hỏi, để Chúa tiếp tục chăn dắt Hội thánh trên mọi nẻo đường trần gian. Bởi vì đã có thời, có lúc người ta bầu các vị giáo hoàng không xứng đáng, chia phe kéo đảng, khiến Hội thánh đã một thời khốn đốn.
Nhiều lần trong Phúc âm hôm nay, Chúa tự xưng mình là chủ chăn, là cửa chuồng chiên. Nơi khác Ngài nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống, Tôi là bánh trường sinh, Tôi là nước ban sự sống.” Hai lần Ngài ví mình là “cửa”. Vậy đó là hình ảnh quan trọng thứ hai, chúng ta cần quan tâm. Tại sao Ngài lại cố ý gây lộn xộn: Vừa là chủ chiên, vừa là cửa chuồng chiên hay kẻ giữ cổng chuồng. Làm sao một lúc có thể là tất cả ba thứ đó ? Theo suy nghĩ tân thời thì chỉ một mà thôi. Cả ba một trật không hợp lý. Cho nên, thánh sử Gioan cũng phải nói thêm: “Nhưng họ không hiểu những gì Ngài nói với họ.” Xin nhớ thánh Gioan rất phóng khoáng trong văn phong của mình. Có thể nói, ngài gần giống như một thi sĩ viết thi ca, không bị gò bó trong quan niệm và hình ảnh của mình. Ngược lại, với ơn linh hứng, ngài rất giàu tưởng tượng, và chuyển tải sự phong phú đó trong Tin mừng của mình để chúng ta rộng đường suy tư. Theo các nhà chú giải: Cửa ở đây mang tính biểu trưng (allegory) chứ không phải so sánh tỷ giảo (analogy). Hình bóng chứ không phải song song. Chúa là nguyên lý của ơn cứu độ. Ngài mang đến cho chúng ta sự an toàn trong đồng cỏ xanh tươi. Qua Ngài chúng ta tìm thấy sự sống và của ăn nuôi thân. Ngài che chở khỏi mọi nguy hiểm thiêng liêng, là con đường duy nhất để chúng ta tiến về Thiên Chúa. Ngài rao giảng một lối sống phải theo để đẹp lòng Thiên Chúa. Chẳng triết gia nào, chẳng nhà mô phạm nào, chẳng đấng sáng lập tôn giáo nào có thể dẫn dắt chúng ta một cách hợp pháp về thiên đàng. Đúng như thánh Phêrô nói trước hội đồng kỳ mục Do thái: “ Ngoài Ngài ra không ai đem lại ơn cứu độ.”(Cv 4, 12)
Thánh Gioan viết diễn từ Chúa Chiên lành vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất, khi mà Hội thánh đang trong cơn bách hại dữ dội. Ngài khích lệ các tín hữu trung thành triệt để với Chúa Giê-su, vị mục tử Tối cao. Lời lẽ của đoạn văn thật tha thiết, khuyên nhủ họ đừng nao núng trong những cơn gian nan, thử thách. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi họ. Nhưng luôn đồng hành với các tín hữu, dẫn dắt và chỉ bảo họ con đường phải vượt qua. Ngày nay cũng vậy, bản văn của thánh nhân vẫn còn nguyên giá trị, chúng ta phải chú tâm lắng nghe để nhận ra tiếng của Chúa. Hình ảnh chuồng chiên thật là một không gian an toàn. Ơ đó, chiên được bảo vệ khỏi những nguy hiểm bên ngoài. Có các ngăn ô, cửa ra vào. Người giữ cổng chỉ chấp nhận các chủ chăn chuyên nghiệp, loại trừ mọi kẻ xảo trá giả hình. Đúng là một hình ảnh ủi an khi chúng ta gặp sóng gió trong Hội thánh. Những khó khăn và căng thẳng lúc nào cũng có. Nhưng Người Mục tử Tối cao chẳng bao giờ lìa bỏ chúng ta, ngay cả những lúc gương mù ngập tràn Giáo hội và các lãnh đạo sợ sệt không dám lên tiếng tố cáo những lạm dụng và bê tha. Người mục tử nhân lành luôn thí mạng sống mình vì đàn chiên, mặc cho những phản bội và hèn nhát. Ngài luôn ở với Giáo hội, nâng đỡ Giáo hội, bất chấp gương mù, gương xấu của các phần tử thoái hoá, hay những chủ chăn bất xứng sa đoạ, miệng rao giảng đạo đức nhưng nếp sống bê tha, nhung lụa. Hình ảnh người mục tử chân chính hôm nay khích lệ chúng ta, làm mọi người an lòng: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào.” Nghĩa là Chúa không thất vọng về chúng ta. Nhưng luôn đồng hành với Hội Thánh và từng linh hồn trên đường ngay nẻo chính, lãnh đạo và chỉ dạy những nội dung cần thiết khi sóng gió luân thường đạo lý nổi lên. Khác với đàn súc vật, luôn được an toàn trong những đồng cỏ xanh tươi, chúng ta phải sống giữa những biến động của biển đời trần gian, với bao nhiêu bão táp thét gào: Bên này cấp tiến, bên kia bảo thủ, phe A hô hào cải tổ, phe B phàn nàn sa sút. Không hiểu bao nhiêu thanh niên thiếu nữ bị cướp đi khỏi đàn chiên Giáo hội ? Biết bao gia đình không còn lưu giữ lời Thiên Chúa Thay vào đó là những thôi thúc của nếp sống văn minh vật chất, con cái dần dần lìa xa đức tin. Chúng ta không luôn ở trong những hoàn cảnh thuận lợi. Trái lại phải trà trộn với môi trường ô nhiễm luân lý. Những dụ dỗ của thế gian, xác thịt, satan bủa vây tứ phía: Chay tịnh làm chi ? Lỗi thời rồi, hãy chú ý đến sức khoẻ của bạn. Tội gì phải sống bất tiện, hãy tận hưởng cuộc đời, nay mai bạn sẽ chết. Tích luỹ của cải, bạn sẽ có một cuộc sống sung sướng. Coi đó ông Y bà X hãm mình ép xác, chết rồi người ta cũng đưa ra cánh đồng, phí uổng cả đời không ? Ở thế gian này, không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài,. . . Những thông điệp tương tự có nguy cơ lấn át lương tâm người công giáo tân thời. Hy sinh hãm mình không còn giá trị. Các thanh niên nam nữ chạy theo tiếng gọi của dục vọng nhiều hơn tiếng Chúa. Vô tình chúng ta buông theo họ quên bẵng giáo huấn của vị Mục tử tối cao.
Lời Chúa tuyên bố: “Tôi là mục tử nhân lành, là cửa cho chiên ra vào.” Có sức nặng luân lý quan trọng. Nó cảnh giác linh hồn lắng nghe lời Ngài. Thánh Gioan thụât lại: Người Pharisêu “không hiểu lời Ngài nói với họ.” Còn chúng ta thì sao ? Liệu có hiểu không ? Tôi dám chắc phần lớn không hiểu, bởi nếu hiểu thì chúng ta đã hành động khác đi rồi, không còn giữ nếp sống cũ nữa. Ngược lại, chúng ta sẽ nhiệt thành cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Giê-su, tẩy trừ tội lỗi khỏi thế gian. Chết đối với tội và sống trong sự thánh thiện của Thiên Chúa. Bởi vì mỗi khi phạm tội là khinh dể ơn cứu độ của Ngài, là đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập tự một lần nữa, chà đạp dưới chân Thân mình Ngài và tục hoá Máu thánh Ngài. Tự tuyên bố là kẻ thù của thập giá Đức Ki-tô (Pl 3, 18). Đúng là một tai hoạ khủng khiếp, nhưng ít ai ý thức được. Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu sỹ, chúng ta hãy tỉnh dậy, dâng hy sinh để đền tội mình và đền tội cho toàn thể nhân loại. Trừ những linh hồn sa đoạ ra, còn thì hằng ngày, Hội thánh vẫn vác thánh giá theo chân Chúa, vẫn cương quyết trong đường lối thánh thiện của mình, vẫn làm tròn trong thân xác những đau khổ còn thiếu xót nơi thân thể Chúa Ki-tô (Cl 11, 24). Bởi lẽ, không đổ máu thì nhất định không được ơn cứu độ. Hội thánh vẫn trung thành theo tiếng Chúa gọi cho đến ngày tận cùng thế giới.
Cho nên, thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta hãy chú tâm lắng nghe tiếng Chúa, kẻo hiểu sai sứ điệp của Ngài, sứ điệp nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành, chứ không nghe theo tiếng gào thét của ma quỷ chung quanh. Chúng ta thường có khuynh hướng bẻ cong Lời Chúa để an tâm làm những điều xằng bậy hợp với dục vọng của mình. Thực tế nhiều lần chúng ta đã nói với Chúa: Xin theo ý con chứ đừng theo ý Cha. Bởi ý Cha đòi hỏi hy sinh, mà con thì không thể hy sinh hãm mình được. Con phải thoả mãn dục vọng của con. Đại khái có những loạn âm như vậy trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nơi làm việc, chợ búa, học đường, gia đình, tu viện, đường phố, sân chơi, v.v. Nhưng Chúa Giê-su hôm nay kêu gọi lắng nghe lời Ngài. Bởi chỉ nơi lời Ngài, chúng ta mới tìm thấy sự sống, an toàn và hạnh phúc.
Chúng ta cầu xin Thần khí Chúa mở linh hồn mình ra, đón nhận lời Chúa, ngõ hầu hiểu và sống theo Ngài chỉ dạy, không giả đò, không phân tán, không lầm lẫn. Chúng ta cũng nhớ tới bổn phận tín hữu của mình mà sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần đổ ơn soi sáng cho các đức hồng y ở Rôma, chọn được đại diện của vị Chủ chăn Tối cao xứng đáng. Amen.
------------------------------------
Hôm nay Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Hội Thánh cho chúng ta đọc Tin Mừng của Thánh: PS 4-A34
Hôm nay Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Hội Thánh cho chúng ta đọc Tin Mừng của Thánh Gioan, nói về người Mục Tử. Hình ảnh người mục tử ở Israel, cũng như nơi nhiều các dân tộc thuộc địa bàn văn hóa du mục là hình ảnh cổ điển, quen thuộc. Vì thế, ngay trong Cựu Ước chúng ta sẽ thấy nhiều tác gỉa dùng hình ảnh mục tử để chỉ các thủ lãnh của họ như Moisen (x.Hs.12,14; Is.63,11), như Davit (x.2Sm.5,2; 24,17), nhất là chỉ Giavê trong lịch sử (x.Kn48,15; Tv.74,1) hoặc Messia trong tương lai (x.Ez.34,11-16), hay chỉ vị vua Messia (x.Jer.23,4-5).
Sang Tân Ước, Chúa Giêsu nhiều lần sử dụng hình ảnh Mục Tử này:
Để mô tả Israel vào thời của Người như là một đòan chiên bị bỏ rơi (x.Mt.9,36; Mc.6.34) hay chiên lạc (x.Mt.10,6; Lc.15,4-7).
Để chỉ thị nhóm môn đệ của Người như là một Israel mới (x.Mc.14,27; Lc.12,32).
Để diễn tả chính vai trò của Người trong tuần khổ nạn (x.Mc.14,27) hoặc Phục Sinh (x.Mc.14,28) và thẩm phán (x.Mt.25,31-46).
Đối với đòan chiên, mục tử biết tên, gọi tên từng con chiên, chiên biết tiếng mục tử. Mục Tử dẫn đường, chiên bước theo. Đây chính là đặc điểm của người chủ chăn tốt, và người Mục Tử này qua cửa mà vào, người canh cửa mở cho Mục Tử vào, còn kẻ trộm thì trèo qua lối khác mà vào. Ràn chiên nghĩa bóng là dân Do Thái, là các tín hữu, Người qua cửa là chủ thực sự, chăn dắt chiên hay người được Giavê trao phó sứ mạng. Người không qua cửa là người cướp lấy chiên. Chúa Giêsu có ý tố cáo những người lãnh đạo Do Thái, tỏ ra bất trung với sứ mạng của mình, bỏ bê đàn chiên, để đàn chiên lạc lõng và phân tán, chỉ lo uống sữa, xén lông chiên để cầu lợi cho mình.
Đó chính là những thủ lãnh chính trị của Israel, các ác vương thời xưa, các người gây chiến, họ coi quyền hành của họ như một phương tiện để thỏa mãn sở thích hiếu chiến, thỏa mãn tính kiêu căng và các tham vọng của họ. Đồng thời Chúa Giêsu cũng muốn ám chỉ đến các thủ lãnh tôn giáo Isarel đã gạt dân của họ xa con đường sống, các người Do Thái đã tàn sát các Ngôn Sứ, các tiến sĩ thời Người đã ngăn chặn không cho thế hệ của họ đáp lại lời mời gọi của Nước Trời, các người thuộc phe Quốc Gia mơ ước một cuộc nổi lọan chống lại Rôma. Còn Chúa Giêsu thi Người trao ban sự sống.
Vâng, Chúa Giêsu chính là Người Mục Tử hướng dẫn dân Người đến với ơn cứu độ, Người là Mục Tử tốt lành gọi tên từng con chiên, biết rõ từng con, săn sóc, thuốc thang. Gọi tên không phải để “dò xét” theo kiểu con người, mà là dò xét theo kiểu của người yêu “ Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ..” (x.Tv.138).
Ñồng thời Chúa Giêsu cũng là cửa để chiên ra vào, để giữ cho chiên an tòan, bảo vệ chiên, ban sự sống dồi dào cho chiên, thí mạng vì chiên. Ngài không lọai trừ ai ra khỏi ơn cứu độ “ Ngài đến để tất cả mọi người được có sự sống một cách dồi dào…”(x.Jn.10,10b). Ngài là cánh cửa duy nhất đưa con người vào ơn cứu độ. Mọi người thiết yếu phải đi qua Ngài, không ai được ưu tiên chuẩn miễn khỏi đi qua Ngài.
Và chính Ngài trao sứ mạng cho những Mục Tử khác, và họ phải là mục tử như Ngài. Phải để cho Ngài là Mục Tử đối với đàn chiên qua mình. Phải làm cho chiên nhận biết Đức Kitô là Mục Tử của họ. Việc dẫn lộ cũng phải làm sao cho họ hiểu rằng không phải tôi dẫn lộ mà Đức Kitô dẫn lộ, như Gioan Tẩy Gỉa “ Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” ( x.Jn.3,30).
Là chiên chúng ta phải lắng nghe để nhận ra tiếng của Chúa Giêsu và đáp lại tiếng ấy là đi theo Ngài, sống như Ngài sống. Đây là một giáo huấn khẩn thiết và quan trọng, chúng ta phải thực sự xác tín rằng không có một vị hướng dẫn nào khác, một vị thầy nào khác hay một con đường nào khác ngòai Đức Kitô. Mà muốn đi theo đường của Ngài thì phải yêu kẻ thù, tha thứ cho kẻ thù và chết cho người yêu…Muốn làm được điều này phải nhờ sự hướng dẫn và nhờ sức mạnh của Thần Khí.
Lạy Chúa, Chúa đã ưu ái kêu gọi đích danh và dẫn đưa từng người chúng con vào đời sống Ktiô hữu, xin cho chúng con luôn là những con chiên ngoan hiền biết lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn tuân theo ý Chúa qua các vĩ Mục Tử trong Hội Thánh, để không bao giờ chúng con bị tách khỏi tình thương hải hà của Chúa.
------------------------------------
Bài đọc 1: Cv 2, 14a.36-41
Bài đọc 2: 1 Pr 2, 20b-25
Tin mừng: Ga 10, 1-10
Dựa vào các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa, Chúa nhật IV Phục Sinh hôm nay được gọi là “Chúa nhật PS 4-A35
Dựa vào các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa, Chúa nhật IV Phục Sinh hôm nay được gọi là “Chúa nhật Chúa Chiên lành”. Đấng Chăn Chiên Lành đó chính là Đức Kitô, một vị Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Toàn bộ Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ khuôn mặt của Đức Kitô. Ngài là vị Mục tử nhân lành của tất cả chúng ta, của ông bà anh chị em và của tôi. Đồng thời, khi chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Giêsu Mục tử, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta dành ngày Chúa Nhật hôm nay để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ, với ước mong, trong Giáo Hội ngày càng có nhiều “vị mục tử như lòng Chúa mong ước” (x. Pastores dabo vobis).
1. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH:
Trước hết, chúng ta cùng trở lại với các bài đọc để chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục tử nhân lành. Khi nhận mình là người mục tử được Thiên Chúa sai đến để dẫn dắt dân Người, Đức Giêsu đã dẫn đưa thính giả của Ngài đến một hình ảnh rất gần gũi và quen thuộc đối với dân Do-thái, vốn sống bằng nghề du mục. Đất nước Do-thái nằm trong một vùng đất bán sa mạc, nên các đồng cỏ không nhiều. Do đó, người mục tử thường phải cho chiên đi ăn ở những nơi rất xa, có khi hàng tuần lễ, hoặc cả mấy tháng trời mới về nhà. Trong thời gian cho chiên đi ăn, người chăn chiên coi như “cùng ăn, cùng ở” với chiên. Mối tương quan giữa họ và chiên thật thân thiết. Người mục tử chân chính biết rõ từng con chiên của mình và chiên cũng biết tiếng của họ. Họ gọi chiên của mình và chiên đi theo tiếng gọi của chủ. Có con nào bị lạc, họ liền đi tìm, con nào bị thương tích, họ hết lòng cứu chữa, và để giúp những con chiên nhỏ, yếu đuối đi kịp với cả đàn chiên, người mục tử cũng không ngần ngại vác chiên lên vai của mình.
Chính trong những tâm tình đó, Đức Giêsu đã tự ví mình là “cửa ràn chiên”, là “mục tử tốt lành” được Chúa Cha sai đến để bảo vệ, gìn giữ và chăm sóc cho đàn chiên là toàn thể nhân loại. Ngài nói: “Ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên… và chiên nghe theo tiếng người ấy… Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra”. Và quả thực, là người mục tử đích thực, Đức Giêsu biết rõ từng con chiên một. Ngài không chỉ biết con người bên ngoài, nhưng biết rõ tận cõi thâm sâu của từng người chúng ta. Ngài biết rõ từng nỗi ưu tư, từng nỗi băn khoăn lo lắng của chúng ta. Ngài cũng biết rõ lòng nhiệt thành cũng như những yếu đuối của chúng ta. Cảm nghiệm điều này, tác giả Thánh vịnh đã kêu lên: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết” (Tv 139, 1-4).
Không chỉ biết rõ, Người Mục tử nhân lành còn hết lòng chăm sóc để đàn chiên của mình không bị thiếu thốn, nhưng luôn được no thỏa, như lời Thánh vương Đavít trong bài đáp ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
Mặt khác, là người Mục tử tốt lành, Đức Giêsu còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, để bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của kẻ thù. Ngài đã chấp nhận đi trọn con đường khổ giá trước, để chúng ta bước theo sau Ngài, đúng như lời Ngài đã nói trong bài Tin mừng: “Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau”. Đức Giêsu đã đi trước và đi trọn vẹn con đường thập giá, để đem lại cho mỗi người chúng ta một sự sống mới, như lời thánh Phêrô trong bài đọc hai: “Đức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, … Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Đấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người, trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành”.
Như thế, với sự hiến thân mình làm hy lễ đền tội dâng lên Chúa Cha, Đức Giêsu đã thực sự chứng tỏ mình là Người Mục Tử nhân hậu, được Chúa Cha đã sai đến, để nhờ Ngài, mỗi người chúng ta “được sống và sống dồi dào”.
2. LỜI MỜI GỌI GIA NHẬP VÀO ĐOÀN CHIÊN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH:
Đức Giêsu chính là vị Mục Tử nhân hậu đến trong thế gian, chấp nhận hiến thân mình, để “thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11, 52). Xác tín điều đó, sau ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã lớn tiếng kêu gọi: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội”. Còn trong bài đọc hai, thánh nhân đã so sánh chúng ta, là những kẻ tin vào Đức Kitô, như những con chiên lạc, giờ đây đã trở về lại với đàn chiên: “Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em”.
Trở về lại với vị Chủ chiên duy nhất và nhân hậu là Đức Kitô, mỗi người chúng ta không còn phải buồn sầu, thất vọng, cho dù cuộc sống vẫn còn đó những khó khăn, thử thách, như lời tâm sự của vua Đavít trong bài Đáp ca: “Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điều an ủi lòng tôi”. Vâng, có Chúa ở cùng, chúng ta không còn lo mắc nạn, không còn lo phải bước đi trong đêm tối của gian nan một cách cô đơn nữa.
3. CẦU NGUYỆN CHO ƠN THIÊN TRIỆU LINH MỤC, TU SĨ:
Nhận lãnh bí tích Rửa tội, được gia nhập vào Giáo Hội, mỗi người chúng ta được vinh dự trở nên một thành viên trong đoàn chiên của một mục tử duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hết lòng yêu thương chúng ta. Do đó, chúng ta cần lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu Mục tử qua các đại diện của Ngài nơi trần gian, cụ thể là các giáo huấn của Giáo Hội, trong các vấn đề về luân lý như phá thai, chống bất công, tham nhũng… Và để xứng đáng là một con chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu, Mục Tử, chúng ta cũng cần loại bỏ khỏi bản thân mình những thói hư tật xấu như: tham lam, say sưa, bài bạc, nói hành, nói xấu, chửi thề, nói tục…
Đồng thời, trong ngày cầu nguyện cho ơn Thiên triệu, chúng ta cũng nhớ cầu nguyện cho những người dấn thân trong đời sống tu trì, bởi lẽ, họ cũng là những con người yếu đuối, đầy sai phạm lỗi lầm, thậm chí còn hơn cả chúng ta. Và cùng với lời cầu nguyện, chúng ta cần hỗ trợ bằng chính sự cộng tác, và thái độ góp ý chân thành, để xây dựng và củng cố cho cộng đoàn chúng ta ngày càng phát triển, trở nên một cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương.
Đặc biệt, ngày mai 18/4/2005, là ngày Hồng Y đoàn bước vào Mật viện để bầu Tân Đức Giáo Hoàng, chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện, xin Thiên Chúa tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên các vị Hồng Y, để các ngài sáng suốt lựa chọn một Tân Giáo Hoàng theo đúng Thánh Ý của Thiên Chúa. Và dù chưa biết vị Tân Giáo Hoàng là ai, chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Ngài luôn sống đúng là một vị “Mục Tử như lòng Chúa mong ước”. Amen.
------------------------------------
NGÀY QUỐC TẾ CẦU NGUYỆN CHO ƠN GỌI LINH MỤC-TU SĨ
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta đang họp nhau cử hành Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”, mà sứ điệp phụng vụ có nội dung cốt: PS 4-A36
Chúng ta đang họp nhau cử hành Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”, mà sứ điệp phụng vụ có nội dung cốt lõi đó là: Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành, nhờ cái chết và sự phục sinh, Ngài đã mang lại cho chúng ta nguồn sống dồi dào. Cũng chính trong ý nghĩa nầy, Hội Thánh đã chọn Ngày Chúa Nhật hôm nay làm ngày “Quốc Tế cầu nguyện cho ơn gọi linh mục-tu sĩ”. (Hôm nay cũng là ngày cuối cùng trong tuần “9 Ngày cầu nguyện cho ĐTC G.P II”, Vị Mục Tử và là Người Cha vĩ đại của chúng ta mới qua đời hôm 02.04. Chúng ta hiệp cùng toàn thể Dân Chúa cầu nguyện cho linh hồn Đức Thánh Cha, đồng thời cầu nguyện cho cuộc mật nghị Hồng Y vào ngày mai, 18.04, bầu Vị Mục Tử mới trên Ngai Tòa Thánh Phêrô.)
Hôm nay cũng là dịp để chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có thêm nhiều ơn gọi dấn thân trong chức linh mục và đời sống thánh hiến; đặc biệt cầu nguyện cho Giáo phận, giáo hạt và giáo xứ chúng ta có được nhiều tâm hồn thanh niên thiếu nữ quảng đại và nhiệt thành đáp trả lời mời gọi của Chúa Kitô trên con đường tu trì. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho tất cả những ai đang dấn thân trên con đường thánh thiện nhưng cũng đầy thử thách gian nan nầy được trung thành mỗi ngày trong chọn lựa của mình để phục vụ Chúa và anh chị em.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành Thánh lễ, xứng đáng sống trọn vẹn ơn gọi của Bí Tích Thánh Tẩy, là nhiệm tích đưa chúng ta vào đời sống siêu nhiên do chính Đức Kitô Vị Mục Tử Nhân Lành dẫn đưa và chăm sóc, chúng ta hãy (đón nhận Nước Thánh với tâm hồn sám hối).
Giảng Lời Chúa:
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong bối cảnh mục vụ của Giáo Hội Việt Nam vào thời điểm thập niên 80: không có chủng viện đào tạo linh mục, không có phong chức, không có nơi để huấn luyện ơn gọi tu trì, nhiều nơi vắng bóng chủ chăn…, trước bức tranh ảm đạm đó, có nhiều kẻ đâm ra bi quan và nhìn đời sống đức tin của Dân Chúa Việt Nam với không ít lắng lo và sợ hải…
Tuy nhiên, nếu quan sát thật gần, thật kỷ nhịp sống đức tin hằng ngày của các cộng đoàn Dân Chúa khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, thì những nổi bi quan lo lắng gần như tan biến mất. Linh mục thi sĩ Trăng Thập Tự đã thực sự cảm nhận được điều nầy trong bài thơ “NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÔ HÌNH” được viết vào ngày 17.08.1980:
Thế ra Ngài là người chăn chiên
Và là người chăn chiên độc quyền
Ngài ở đây từ bao thế hệ
Cho đoàn chiên tung tăng hồn nhiên.
Tôi cứ nghĩ bầy chiên bơ vơ
Bé tong teo, ốm yếu, dại khờ
Tôi phải về mau làm mục tử
Nhưng không thưa Ngài, tôi lầm to
Tôi về đây một chiều mùa hè
Trố mắt nhìn tôi nhìn say mê
Những con chiên no tròn bụ bẫm
Hơn cả khi có kẻ vỗ về
Ôi người chăn chiên vô hình kia
Tôi hiểu ra tôi sẽ chỉ là
Một cái bóng Ngài trên nội cỏ
Một con berger rất dư thừa….
1. Đức Kitô vẫn chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mà không chỉ hôm nay, thế kỷ nầy, Giáo Hội mới như thế. Đức Kitô Mục Tử, Người Chăn chiên vô hình đã chăn dắt đoàn chiên bé bỏng của Ngài ngay từ thuở ban sơ, ngay từ khi còn trong trứng nước và Ngài vẫn chăn dắt đàn chiên của Ngài như thế trãi dài qua muôn thế hệ. Chúng ta thử đưa mắt theo dấu sách Công Vụ Tông đồ để nhìn về điểm khởi đầu của Hội Thánh.
Khi các Thượng tế Do Thái thành công trong việc đòi tổng trấn Philatô cho bằng được “bản án tử hình Đức Giêsu Nadarét”, thì họ chắc mẩm rằng: cái tổ chức gọi là “Nước thiên Chúa” của tên Giêsu thợ mộc người Nadarét kia vĩnh viễn bị “xóa sổ bụi đời”, và nhóm tông đồ cọng sự viên thân tín quê mùa dốt nát xuất thân từ làng chài Galilê kia rồi cũng sẽ rã đám, chả làm được trò trống gì để đáng quan ngại. Tuy nhiên, hơn 50 ngày sau cái chết của Giêsu, cũng ngay tại thủ đô Giêrusalem, giữa thanh thiên bạch nhật, Phêrô, người tông đồ đã từng sợ hải chối thầy 3 lần trong đêm thầy bị bắt, đã hùng hồn công bố “sứ điệp phục sinh”, làm chứng Đức Giêsu và Vương quốc của Ngài đang thực sự bắt đầu. Và sau bài giảng đầu tiên mang tính “tuyên ngôn thiết lập vương quốc” đó, đã có khoảng 3000 người xin chịu phép rửa để qui tụ thành “một đàn chiên”, để từ đó lớn mãi lớn mãi, cho đến hôm nay đã chiếm lĩnh cả thế giới. (BĐ 1)
Nếu cho rằng, Hội Thánh sở dĩ có mặt, kiện toàn và phát triển là hoàn toàn do những phương thế và yếu tố trần tục thì không nghiêm chỉnh chút nào. Bởi chưng, ngay từ những tháng năm đầu giáp mặt cùng thế giới, thế giới cuồng tín và duy luật của do Thái, thế giới triết lý văn hóa sâu sắc của Hi Lạp, thế giới đa thần, hưởng thụ và và hùng cường của đế quốc Rôma…quả thật “đàn chiên nhỏ” của Đức Kitô chỉ là “hạt bụi, là cỏ dại bên vệ đường lịch sử”, những hạt bụi, những cọng cỏ lại liên tục bị những “bàn chân sắt máu” của con người chà đạp, bách hại thảm thương. Thế nhưng những hạt bụi bé bỏng, những cọng cỏ âm thầm đó cứ tồn tại và lớn lên, cho đến một ngày đã trở nên một “Nhiệm Thể” đĩnh đạt, một “Cây Tùng” tỏa bóng khắp địa cầu. Chỉ có thể cắt nghĩa được “hiện tượng” nầy: đó là nhờ có một sức thiêng, một điểm tựa nhiệm mầu, một bàn tay quyến thế dẫn dắt đỡ nâng, một chiếc gậy uy linh bảo vệ chăm sóc. Bàn tay đó, chiếc gậy đó chính là của “Người Chăn Chiên vô Hình”, của Đức Kitô phục sinh, của Thiên Chúa tình yêu, của Thánh Thần Đấng ban sự sống. Chân lý nầy, sự kiện nhiệm mầu nầy đã làm ngỡ ngàng chàng trai pharisiêu Saulô khi anh ta nhiệt tình với cả bạo lực triệt hạ cái tôn giáo mới nầy, cái đàn chiên “khố rách áo ôm” nầy trong biến cố “ngã ngựa trên đường Damas”. Saulô không ngờ Giêsu Nadarét lại hiện thân ngay nơi các tín đồ của Ngài: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt. Giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho ngươi”. Sức lực nào đã bẻ ngoặc cuộc đời Saulô ngoài Đấng Chăn chiên vô hình mà “anh đang tìm bắt bớ” ! Vì thế, cho đến mãi ngàn đời, Hội Thánh vẫn không ngừng hát bài ca Thánh vịnh 22 mà không bao giờ sợ lỗi thời hay không còn giá trị thời gian:
Chúa chăn nuôi tôi, Chúa chăn nuôi tôi. Chúa đưa tôi đi qua mọi nẽo đường. người đưa tôi đi lên núi cao, say sưa gió biển, vui uống suối miền nam, vững tâm qua rừng mịt mù.
Người đưa tôi đi lên vườn trái ngát xanh trên đồi. Người dẫn tôi về tựa trùng dương buông gió dìu mây trời. Người sắp cho tôi yến tiệc thơm hương hoa, Người rót cho tôi ly rượu thắm chan hòa. Đầu tôi Người xức dầu thơm nồng nàn. (Bài ca diễn ý TV 22 của Phanxicô)
Và trên cuộc hành trình theo sau Vị Mục Tử Nhân lành, Người chăn chiên vô hình đầy quyền năng đó, lại cứ đông vui, mỗi tháng, mỗi năm, mỗi ngày, qua bí tích rửa tội, không chỉ có “3000 người” như hôm Lễ Ngũ Tuần cách đây 2000 năm, mà là có tới hàng vạn, hàng triệu anh chị em tin nhận Đức Kitô và dấn bước theo Ngài. Qua cái chết và cuộc tang lễ của Đức Gioan-Phaolô II, Vị Mục Tử thay mặt Đức Kitô trên trần gian vừa qua, chúng ta lại được dịp nhận rõ chính Đức Kitô, Mục Tử nhân lành đang chăn dắt đàn chiên của Ngài như thế đó.
2. Trong đàn chiên của Mục tử Giêsu, ta phải sống thế nào ?
Có một chân lý nền tảng mà đã là kitô hữu, đã là thành viên trong Giáo Hội, ai ai cũng phải chấp nhận: Theo Đức Kitô thì phải dấn bước vào con đường thập giá, phải chấp nhận con đường hẹp và nhất là phải luôn đối diện, gặp gỡ một Đấng Phục sinh. Tuy nhiên, rất ít người trong chúng ta thực hành đến nơi đến chốn chân lý nầy và cứ muốn tìm kiếm một “con đường rộng rãi thênh thang với đầy hoa thơm cỏ lạ”. Chính vì thế, suốt dọc dài lịch sử Hội Thánh, đã có không ít người đã bỏ cuộc, đã thối lui, sau khi đối diện thực sự với thập giá, với Canvê…Với những người đó, Thiên Chúa chỉ có mặt, chỉ can thiệp khi đời họ lên hương, khi may mắn chợt về…và đạo, tôn giáo chỉ là một lúc dừng chân để thư giản; ngoài ra chả cần quan hệ, gặp gỡ một Đấng vô hình nào cả. Nếu có quan hệ, có gặp gỡ chăng chỉ là để khấn vái, chạy chọt xin xỏ một điều gì đó mà hiện tại khả năng của mình chưa thể thực hiện được. Quả thật, những người nầy đã “bôi bác” nhiệm tích rửa tội mà họ nhận lãnh, đã hạ thấp phẩm giá Kitô hữu mà họ được vinh dự mang tên, và đã tự làm nghèo nàn đi cái mối quan hệ sống động và đầy thân thương giữa mình và Thiên Chúa, giữa cuộc sống mình và sự chăm sóc đầy tế nhị thân thương của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Trong khi đó, cũng có không ít người đã lý luận: Ở trong đàn chiên làm gì cho mệt. Cứ tự do bay nhảy bên ngoài không sướng sao. Cũng vì lý luận như thế mà “con cừu của ông Séguin” đã bỏ mạng bên bờ suối vắng vì đã tự ý bỏ đàn tung tăng một mình giữa rừng khuya. Không, chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta hoàn toàn được giải thoát để sống trong môi trường tự do của con cái Thiên Chúa. Bởi vì Đấng chúng ta tin thờ chính là Đường, Sự thật và là sự sống, Ngài là Mục Tử nhân lành sẵn sàng hy sinh tất cả vì đàn chiên, cả đến mạng sống. Chúng ta đừng quên rằng mục đích của chương trình cứu độ được thực hiện trong Đức Kitô đó là đem lại sự sống thần linh cho con người, vốn đã bị đánh mất do tội lỗi. Tin nhận Đức Kitô, đi trên con đường của Ngài, qua lối cổng là chính Ngài, con người sẽ gặp được hạnh phúc đích thực. Vì Ngài “đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào”.
Và nếu có ai đó đã hơn một lần ngã quỵ vì thương tích của lỗi lầm yếu đuối, thì hãy tin rằng Ngài sẽ đến nâng dậy và băng bó những vết thương để cùng Ngài tiếp tục tiên bước.
Nếu có ai đó đã, đang hay sẽ từng bị dập vùi vì những đoạn trường khổ đau của cuộc đời…thì hãy tin rằng Đức Kitô đang đến để vác lên vai và ân cần chăm sóc…
3. Và thế giới hôm nay đang cần những mục tử như lòng Chúa mong ước.
Nhưng cũng đã 2000 năm, Người chăn chiên vô hình Giêsu lại không ngừng sai đến những mục tử môn sinh, những “cánh tay và chiếc gậy nối dài” của Ngài để chăm sóc đàn chiên mỗi ngày mỗi đông và cũng sinh ra lăm điều phức tạp. Chính vì thế, vẫn mãi mãi cần những Phêrô, những Gioan, những Giacôbê, những Maria Mađalêna, những Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Anrê Phú Yên, Têrêxa Calcutta, Gioan-Phaolô II…Chính vì thế, Ngài đã từng căn dặn chúng ta: “Lúa chión đầy đồng, thợ gặt lại ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai nhiều thợ gặt đến trên đồng lúa…”. Cho nên hôm nay, Giáo Hội lại một lần nữa tha thiết nguyện cầu cho ơn kêu gọi linh mục-thánh hiến, cầu nguyện cho Giáo Hội có những tâm hồn quảng đại và anh hùng “sẵn sàng đập bể bình dầu thơm cuộc đời để xức chân cho Chúa, để làm rực lên mùi thơm cho ngôi nhà Giáo Hội” (Tông huấn Đời Thánh Hiến của ĐTC G.P II)
Và tất cả chúng ta cũng có thể mượn lời thơ của Cha Trăng Thập Tự để thân thưa với Chúa rằng:
Và tôi cũng là một con chiên
Còn Ngài mới là người chăn chiên
Và tôi thích rồi như vậy mãi
Để Ngài đưa tôi đi bằng yên.
Lối quanh co và thung lũng sâu
Suối trong veo đồng xanh một màu
Tôi sẽ chạy theo cây gậy Ngài
Ở bên Ngài tôi lo gì đâu.
Nếu khi nào tôi lỡ lạc xa
Thì Người chăn chiên vô hình ạ,
Xin hãy đánh tôi bằng gậy hiền
Và lôi tôi về với đoàn chiên.
------------------------------------
Tin mừng: Ga 10, 1-10
Anh chị em thân mến,
Chủ nhật thứ 4 Phục Sinh, theo truyền thống của Giáo Hội là ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu, ơn gọi: PS 4-A37
Chủ nhật thứ 4 Phục Sinh, theo truyền thống của Giáo Hội là ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu, ơn gọi làm những thợ gặt của Thiên Chúa trên cánh đồng truyền giáo trong đời sống tu trì, có nhiều vị mục tử tốt lành để dẫn dắt đoàn chiên của Ngài, tôi xin chia sẻ vắn tắt với anh chị em về điểm này.
Mục tử tốt lành là ai ? Đó chính là Chúa Giêsu, Ngài là vị mục tử tối cao không phải vì Ngài làm nhiều phép lạ, nhưng Ngài chính là Thiên Chúa; Ngài là mục tử vĩ đại không phải vì Ngài làm được nhiều phép lạ, nhưng là vì Ngài dám hi sinh mạng sống mình vì đàn chiên; Ngài cũng là một vị mục tử duy nhất đã tuyên bố mình chính là cửa ràn chiên, ai không qua cửa mà vào thì là kẻ trộm...
Với tất cả những điểm sáng chói ấy, Chúa Giêsu đã trở thành vị mục tử tốt lành cho những mục tử nối tiếp Ngài trong Giáo Hội Công Giáo:
Ngài đi tìm chiên lạc chứ không để chiên lạc tìm Ngài.
Ngài chữa lành chiên con bị đau yếu chứ không đến để chiên chữa mình.
Ngài biết lắng nghe tiếng chiên đau khổ kêu cầu, chứ không nghe lời những con chiên ỷ mạnh phân bua.
Ngài biết hòa giải giữa những con chiên bất hòa, chứ không bênh chiên này bỏ chiên khác.
Và cuối cùng Ngài đã vì đàn chiên mà hy sinh tính mạng để đàn chiên được sống, và sống trong tình yêu của Ngài.
Ai cũng mong muốn các mục tử của Chúa Giêsu đều biết sống noi gương Ngài.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu, cầu nguyện cho có nhiều người đi tu, dâng mình làm tôi Chúa trong chức vụ linh mục và tu sĩ, cầu nguyện cho có nhiều người biết từ bỏ con đường của thế tục để hoàn toàn làm việc cho Thiên Chúa trong một hội dòng hay trong chủng viện.
Cầu nguyện cho người này có ơn gọi, cầu nguyện cho người kia được bền đỗ đến cùng, và có khi dâng cúng tài sản để bảo trợ cho ơn gọi, và chúng ta coi đó là một sự hãnh diện vì có người được mình bảo trợ đã làm linh mục, làm ma sơ. Một thiếu sót của chúng ta là chỉ cầu nguyện cho có nhiều người làm linh mục tu sĩ, nhưng có mấy ai cầu nguyện cho các linh mục sống đời đạo đức, thánh thiện như Chúa Giêsu ? Có mấy ai tiếp tục cầu nguyện cho người đã làm linh mục và tu sĩ được sống xứng đáng với ơn gọi của mình ?!
Chúa Giêsu là mục tử, chính Ngài sẽ chọn người tiếp tục sứ mạng mục tử của mình chứ không phải chúng ta, nhưng Ngài muốn chúng ta cầu nguyện cho các mục tử biết sống như Ngài đã sống, tức là hết mình vì đàn chiên chứ không phải là kẻ làm thuê làm mướn...
Thời nay có nhiều mục tử quên mất mình là ai, thời nay có những mục tử quên mất mình là người mục tử của đàn chiên nên sống như những con chiên phóng túng tự do trong ngôn hành....
Gợi ý chia sẻ:
- Bạn nghĩ gì khi bạn biết một mục tử sống không là mục tử ? Cầu nguyện cho họ hay khinh thường họ ?
- Bạn có cầu nguyện cho các linh mục và các tu sĩ không ?
- Bạn có muốn làm linh mục tu sĩ không ?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------------------------------
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH 4th Sunday of Easter
Lời Chúa cho hôm nay: CHIÊN CỦA TÔI THÌ BIẾT TÔI - Phó tế Nguyễn Định
* MY SHEEP KNOW ME *
Bài đọc 1: Công vụ 2, 14; 36-41= Anh em hãy sám hối / You must reform.
Bài đọc 2: 1 Phêrô 2, 20-25= Đức Kitô để mẫu gương / He left you an example.
Tin Mừng: Gioan 10, 1-10= Đấng Mục tử tốt lành / The Good Sherpherd.
A- Tôi Cảm nghiệm Sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Trong dụ ngôn hôm nay Đức Giêsu nói: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối: PS 4-A38
1/ Trong dụ ngôn hôm nay Đức Giêsu nói: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Đức Giêsu muốn nói Người là cửa chuồng chiên để tôi đi vào. Tôi đã thực hiện giáo huấn của Người thế nào? Đã bao nhiêu lần tôi như là kẻ trộm,kẻ cướp ?
Whoever does not enter the sheepfold through gate, but climbs in some other way is a thief… ( Gioan 10, 1 )
2/ Đức Giêsu đã nói về kẻ trôm: Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, phần Tôi, Tôi đến để chiên được Sống và Sống dồi dào. Cái tai hại của kẻ trộm hôm nay đầy rẫy trong xã hội như lường gạt, bóc lột, gian tham, mưu chước… Bạn đã có can đảm bằng hành động nào? Gia đình hạnh phúc là ở ai?
The thief comes only to steal and slaughter and destroy, I came that they might have life and … ( Gioan 10, 10 )
3/ Thánh Phêrô khuyên bảo: Đức Kitô đã để lại cho anh em một mẫu gương…Bị nguyền rủa chẳng rủa lại, bị đau khổ mà chẳng ngăm đe. Xã hội hôm nay đầy thù hằn ghen ghét,bất công, hờn giận, chia rẽ, kỳ thị. Tôi đã bắt chước Chúa được những gì? Khi sống đại lựơng, công chính,…đem lại cho tôi điều gì?
He left you an example, When He was insulted no insult, was made to suffer, He did"nt threats. ( 1 Ph.2, 21-23 )
4- Trong khi rao giảng, dân chúng hỏi: Chúng tôi phải làm gì? Ong Phêrô đáp: Anh em haỹ sám hối và mỗi người hãy chịu phép Rửa. Con người bây giờ bị lôi cuốn đủ thứ tật xấu, không nhìn thấy những đam mê của mình. Muốn sửa mình bạn cần phải làm gì? Tại sao bạn chưa muốn nghe tiếng Chúa?
"What are we to do? Peter answered:You must reform and be baptized,…in the name of Christ. ( Cv.2, 37-38 )
B- Câu Kinh Thánh tôi chọn để làm Châm ngôn Sống: ( The Best God"s Word )
TÔI LÀ CỬA, AI QUA TÔI MÀ VÀO THÌ SẼ ĐƯỢC CỨU… ( Gioan 10, 9 )
" I am the gate, whoever enters through Me will be safe."
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống Lời Chúa: ( So what am I doing / For action )
Tôi có thể chọn 1 trong những gợi ý Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành.
( Vì nếu tôi nói, suy niệm, cảm nghiệm, chia sẻ mà thiếu áp dụng thực hành thì kể như không có gì !)
D- Tôi cầu nguyện và Sống điều tôi cầu nguyện: ( I pray and practise / Prayer in action )
1- Lạy Chúa, Đức Giêsu đã nói: Ta là cửa, ai đi qua Ta mà vào thì sẽ được cứu, người ấy sẽ vào và gặp đồng cỏ. Xin gíup con thực hành mẫu gương của Chúa Kitô với anh em chúng con gặp gỡ hàng ngày.
2- Thánh Phêrô đã kêu gọi:Nếu anh em làm việc lành mà phải chịu khổ; nhưng anh em vẫn kiên tâm chịu đựng thì đó là ơn Chúa ban. Xin dạy con biết sám hối và kiên tâm theo Chúa khi được thử thách.
Lời hay ý đẹp: NGƯỜI NHÂN YÊU CẢNH NHÂN HÒA,
NGƯỜI KHÔN VUI SỐNG ĐỂ MÀ LÀM NHÂN
------------------------------------
- Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
CHÚA GIÊSU LÀ CỬA RÀN CHIÊN - Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Ga 10, 1-10
Ngay sau khi chữa cho anh mù từ thưở mới sinh được sáng, Chúa Giêsu liền giới thiệu Người chính: PS 4-A39
Ngay sau khi chữa cho anh mù từ thưở mới sinh được sáng, Chúa Giêsu liền giới thiệu Người chính là Cửa ràn chiên, là Mục tử nhân lành. Điều này không có gì lạ. Lý do là bởi vì, anh mù kia đã không được những người Pharisêu - vốn được xem là chủ, là lãnh đạo- chăm sóc; trái lại, còn hắt hủi, trục xuất anh ra khỏi cộng đoàn; thì nay, Chúa Giêsu đã đưa anh về, băng bó, chăm sóc và chữa chạy bệnh tật cho anh. Chính vì thế, cách gián tiếp, thánh sử Gioan không chỉ cho thấy Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên, là Vị mục tử nhân lành mà còn cho biết ai là kẻ chăn thuê chăn mướn đoàn chiên.
Chúng ta biết miền Paletine là nơi dân chúng nuôi chiên rất nhiều. Mỗi một đàn chiên được chăm sóc bởi một hay vài chủ chiên tuỳ theo số lượng nhiều hay ít. Vì chiên là loài vật hiền lành, rất dễ bị thú dữ ăn thịt hoặc bị trộm cướp và do không thể làm chuồng trại kiên cố cho từng đàn chiên nên các chủ chiên ban ngày dẫn chiên đi ăn, đêm về thường gửi chúng vào trong một trại lớn được gọi là ràn, có tường bao bọc kiên cố và có người canh gác cho an toàn.
Chính vì cách bố trí này nên chúng ta thấy ràn chiên và cửa ràn chiên chiếm một vị trí rất quan trọng. Thật vậy, chỉ có một ràn chiên và chỉ có một cửa chiên, còn mục tử và đàn chiên thì nhiều. Lẽ dĩ nhiên sẽ không có gì phải bàn nếu như các mục tử cứ đường đường chính chính bước qua cửa mà vào để dẫn dắt đàn chiên mình. Nhưng vì có những mục tử giả, tức là những kẻ trộm kẻ cướp, muốn bắt chiên để thịt nên thực tế đã có nhiều kẻ trèo qua lối khác mà vào hòng lôi kéo chiên về với mình. Cũng may, chiên là loài vật rất nhậy cảm với tiếng chủ, nên ngoài đồng cỏ hoặc ở trong ràn, chúng có thể đi tứ tán để kiếm ăn hoặc nghỉ ngơi, nhưng khi nghe tiếng gọi của chủ, ngay lập tức chúng chạy về, ngoan ngoãn bước theo chủ.
Như thế, vị mục tử có một sứ mệnh rõ ràng, là chăn dắt đàn chiên, lo lắng và chăm sóc cho chiên, tự do ra vào cửa ràn chiên mà không sợ người canh giữ. Người mục tử đưa chiên qua cửa để chiên được nghỉ ngơi bồi dưỡng và đồng thời bước qua cửa đó để cùng đàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát trong lành. Cánh cửa đó như có phép mầu khiến cho tất cả mục tử và đàn chiên đều cảm thấy an bình thư thái, nhưng ngược lại, cũng khiến cho những kẻ không qua cửa đó đều trở nên đầu trộm đuôi cướp, không đáng để chiên bước theo. Chúa Giêsu tự ví mình là Cửa cho chiên ra vào- nơi mà ở đó, cả chủ chiên và chiên đều cảm nếm được nguồn bình an đích thực. Vâng, Chúa Giêsu chính là Cửa ràn chiên. Và Người hứa rằng, tất cả những ai bước qua cửa ấy đều được no đầy ân sủng, lương thực và sự sống đời đời.
Chúng ta thấy gì qua hình ảnh Chúa Giêsu là “Cửa ràn chiên cho chiên được ra vào”? Đây là hình ảnh thật tuyệt vời, là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Theo đó, bước qua Cửa ràn chiên, tức là kinh qua Lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã dạy; bước qua Cửa ràn chiên là bước theo con đường Người đã đi trong tình yêu và vâng phục; bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước qua Khổ nạn thập giá mà Người đã chấp nhận; cuối cùng, bước qua Cửa ràn chiên cũng chính là bước đến vinh quang- nơi Chúa Cha ban tặng triều thiên sự sống. Như thế đã rõ, những ai không đi qua Cửa ấy, tức là những người xa rời Thiên Chúa, đi ngược lại giáo huấn của Chúa Giêsu và sống bất chính sẽ được xem là những mục tử bất lương, trèo tường trộm cướp.
Chúa Giêsu là Cửa ràn chiên. Điều đó thật hiển nhiên. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo hội, cầu nguyện cho các vị mục tử và cũng cầu nguyện cho chính chúng ta nữa được bước đi, bước qua và bước đến với Chúa Giêsu trong tình yêu dâng hiến, chấp nhận hy sinh và tận hưởng nguồn sung mãn vinh quang.
------------------------------------
Cv 2,14a.36-41; 1Pr 2,20b-25;Ga 10,1-10
"Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào" (Gn 10,10)
Chúa nhật 4 Phục sinh thường được gọi là Chúa nhật kính Chúa Chiên lành. Các bài đọc nhấn mạnh: PS 4-A40
Chúa nhật 4 Phục sinh thường được gọi là Chúa nhật kính Chúa Chiên lành. Các bài đọc nhấn mạnh đến Chúa Giêsu như người Mục Tử nhân ái hằng chăm sóc lo lắng cho đoàn chiên, đến độ dám thí mạng để chiên "được sống và sống dồi dào".
Chúa nhật hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật Ơn Thiên Triệu. Giáo hội kêu mời mọi người Kitô hữu hãy để tâm nâng đỡ, khuyến khích, và cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi, hầu có nhiều người can đảm dâng hiến đời mình cho sự sống phong phú của Dân Chúa.
Khi Giáo hội kêu mời giáo dân cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu là hàm ẩn trong đó một nhu cầu khẩn thiết. Không phải các nơi đã có đủ linh mục cho đoàn chiên; nhiều chỗ còn đang thiếu hụt, thậm chí thiếu hụt trầm trọng. Không phải các linh mục đều đã là mục tử tốt lành dám thí mạng như Đức Giêsu mong muốn; có người khô khan, đào ngũ, thậm chí còn giống như "kẻ chăn thuê hay trộm cướp."
Thế nên cần lắm thay những lời cầu nguyện trợ lực liên lỉ để các linh mục tu sĩ được trung thành, chân thành, và nhiệt thành hơn trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của mình.
Mặc dầu linh mục là những con người được tác thánh để thuộc về Thiên Chúa và làm công việc của Ngài, họ vẫn mang trên mình thân phận con người với bao cảm xúc và suy nghĩ rất người, họ vẫn phải chiến đấu gian nan với bao thách đố khó khăn để đáp trả đến cùng ơn gọi, họ vẫn phải nỗ lực mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn trong đời sống mục tử nhân lành. Thế nên một tâm tình mến yêu và xây dựng của người tín hữu sẽ như bàn tay khai mở cho dòng ơn thánh chảy tuôn tràn hơn lên trong cuộc đời linh mục.
Ơn gọi dấn thân là ơn gọi tuyệt đẹp. Hạt giống thiên triện là hạt giống vô cùng cao quí. Nhưng hạt giống ấy lại rất cần thời gian để nảy mầm và phát triển. Hạt giống càng được gieo vào tâm hồn sớm bao nhiêu càng có hy vọng trổ sinh hoa trái đúng mùa bấy nhiêu. Biết bao Kitô hữu bước vào đời sống linh mục hay tu sĩ vì đã nhận được hạt giống ơn gọi từ thuở ấu thơ. Những hình ảnh tốt lành thánh thiện của các vị chủ chăn, những khuyến khích hướng dẫn chân thành của ông bà cha mẹ, những việc làm dấn thân phục vụ của bao Kitô hữu đã hun đúc tâm hồn và chuẩn bị con em mình thành các tông đồ tương lai cho Nước Trời.
Tất nhiên những gương xấu của người có trách nhiệm, thái độ ngại khổ sợ khó của kẻ chăn thuê, lời nói hành vi quá khích với hàng mục tử, đều làm thui chột biết bao hạt giống ơn gọi cao quí trong tâm hồn tha nhân.
Người mục tử tốt lành phải cương quyết ngăn ngừa sói dữ giết hại đàn chiên. Người mục tử ấy sẽ "đi trước" và "chiên theo sau." Ơn gọi của người mục tử bao giờ cũng là ơn gọi trở nên gương mẫu như người "đi trước" cho chiên bước theo. Đây là một thách đố gay go đòi hỏi nhiều từ bỏ hy sinh. Nhưng nếu không dám "thí mình" chấp nhận thách đố sẽ không bao giờ trở thành mục tử tốt lành.
Có thí mạng cho chiên chứng tỏ mục tử có lòng thương chiên. Tình thường mầu nhiệm và cao cả này chỉ phát xuất từ cung lòng Thiên Chúa. Thế nên gắn bó với Thiên Chúa để đón nhận "Tình Yêu Mục Tử" phải là hành trình thường xuyên của người chăn chiên. Khi ham mê công việc mà bỏ bê đời sống nguyện cầu, người mục tử khó lòng thương yêu cho đúng nghĩa, nếu không phải là dễ rũ áo ra đi.
Thường khi nói tới "mục tư", người ta hay liên tưởng đến các giám mục, linh mục. Điều đó rất đúng. Nhưng trong chiều kích "bí tích Rửa tội", tất cả mọi Kitô hữu đều mang chức vị mục tử, và trong chiều kích thực tế cuộc sống thì mọi người đều là mục tử: cha mẹ là mục tử của con cái; thầy cô là mục tử của học sinh; ông chủ là mục tử của công nhân...
Đặc tính của người mục tử tốt không thuần túy ở nơi cung cấp cơm ăn, áo mặc, kiến thức, công việc, nhưng còn phải thông chuyển tình thương như sức sống dồi dào cho đoàn chiên; không chỉ giúp tăng trưởng thân xác nhưng còn phải làm phong phú tâm hồn. Song nếu đời mục tử không ngay chính, tâm hồn đầy u mê thì chiên sẽ nhận được điều chi?
Không thể nào cho đi điều tôi không có. Không có yêu thương, bình an, niềm vui, tôi chỉ có thể mang lại hận thù, bất an và u sầu. Nhưng để có được yêu thương và sự sống, tôi phải biết lắng nghe sự hướng dẫn của chính Chúa, chứ không phải của thế gian; bước theo lời dạy bảo của Giáo hội chứ không phải của đam mê trần tục.
Lạy Chúa, xin ban cho Giáo hội hôm nay có nhiều mục tử tốt lành, nhưng trước hết, xin ban cho các gia đình là những Giáo hội thu nhỏ có được các mục tử nhân ái và kiên trung.
NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
------------------------------------
Ga 10,1-10
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên: - “Ai không qua cửa: PS 4-A41
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên:
- “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp”: Chúa Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ dành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải để mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.
- “Ta là cửa chuồng chiên”: Chúa Giêsu là mục tử đích thực của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn...
B.... nẩy mầm.
1. Ngày hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành. Những lời Chúa Giêsu tự mô tả mình là mục tử tốt lành gợi cho chúng ta hai tâm tình:
a/ Vui vì được sống dưới sự dẫn dắt, chăm sóc và che chở của Chúa.
b/ Cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, tu sĩ.
2. Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa cao vời xa cách, mà là một Thiên Chúa rất gần gũi yêu thương, như một mục tử sống sát với đàn chiên, hiểu biết, yêu thương, chăm sóc từng con chiên một... Giả như tôi có là một con chiên yếu đau, què quặt, Chúa đã biết và vẫn thương tôi, hơn nữa còn chăm sóc tôi đặc biệt hơn những chiên khác. Vì thế tôi nên phó thác sống theo sự dẫn dắt của Ngài.
3. Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi.” Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào. (Góp nhặt)
4. Người mục tử biết từng con chiên của mình và “gọi tên từng con”: mỗi người chúng ta có những nét riêng về quá khứ, cá tính, khả năng, tội lỗi, nhược điểm... Do những nhược điểm của tôi mà người khác coi thường tôi... Vì không hiểu những nét riêng của tôi mà người khác không thông cảm cho tôi... Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ về tôi, nên Ngài yêu thương tôi, thông cảm cho tôi, và có cách riêng để chăm sóc và hướng dẫn tôi.
“... và chiên nghe tiếng của người đó”: đáp lại, tôi cũng phải “nghe tiếng” Chúa Giêsu và đi theo Ngài với trọn niềm tin yêu phó thác.
5. “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.”
“Tôi xin chọn Người làm gia nghiệp tôi mãi mãi. Trọn đời tôi trót cả đời tôi, trọn tuổi xuân, dâng cả tình yêu luôn với ước mơ... “ Đối với tôi, đó không chỉ là một bài hát, là những nốt nhạc, những là tâm nguyện, là cuộc đời của một chàng trai đã dám từ bỏ tất cả: tương lai rực rỡ, một người yêu tuyệt vời và cả những cuộc vui cùng bè bạn, để bước theo tiếng Chúa gọi.
Đã bao lần tôi muốn quyết định... những rồi lại thôi. Muốn đặt bước chân mình lên bước chân Người, định đưa tay tôi ra để Người nắm lấy và dẵn tôi đi, nhưng lại hèn nhát rụt tay lại.
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, và xin cho con biết đón nhận thánh ý Người. (Epphata)
6. Mầm khác:
------------------------------------
Gioan 10, 1-10
Thật, tôi bảo thật các ông:" Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng anh ; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ." Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
Vậy, Đức Giê-su lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp ; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm ,giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Để cho người Do thái hiểu được câu truyện về một Người Chăn Chiên Tốt, Chúa Giêsu phải: PS 4-A42
Để cho người Do thái hiểu được câu truyện về một Người Chăn Chiên Tốt, Chúa Giêsu phải nói thật rõ ràng, không dấu diếm, rằng người chăn chiên đó chính là Ngài.
Khi Ngài nói: "Ta là cửa chuồng chiên". Trong ẩn dụ này, Chúa Giêsu đề cập đến hai loại chuồng chiên. Tại các làng mạc và thị trấn, có những đàn chiên cộng đồng, tất cả các bầy chiên tại địa phương đó đều được nhốt chung khi chúng trở về buổi tối. Các chuồng chiên ấy được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong câu [2,3]. Nhưng đến mùa nắng ấm, khi chiên được thả trên núi, đêm đến không lùa về làng, thì chúng được nhốt trong các chuồng chiên ngoài sườn đồi. Các chuồng chiên trên sườn núi này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa nẻo gì cả. Đêm đến người chăn chiên nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào, không có chiên nào ra vào được, trừ phi nó bước qua người anh ta. George Smith kể lại một loại chuồng chiên như trên khi ông đi du lịch Đông phương: lúc đó người chăn cũng ở đó nên ông hỏi: "Có phải đó là chuồng chiên không ?" Người ấy đáp: "Dạ, vâng." Rồi George nói: "Tôi thấy chỉ có một lối đi vào". Giơ tay chỉ khoảng trống hàng rào, người ấy đáp: "Vâng, ở đàng kia là cái cửa". Ông George rất ngạc nhiên, bảo:"nhưng ở đó đâu có cửa? Người chăn chiên vội đáp: "Dạ, tôi là cái cửa". George chợt nhớ câu truyện trong Gioan kể rồi nói với người chăn chiên: "Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?" Người chăn chiên giải thích: "Chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và không có con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể vào chuồng trừ phi nhảy qua người tôi". Nói theo nghĩa đen thì người chăn chiên chính là cái cửa, không có lối nào để ra vào được chuồng chiên, ngoại trừ bước qua chính người chăn.
Đó là điều Chúa Giêsu đề cập đến khi Ngài nói: "Ta là cửa chuồng chiên". Chỉ nhờ Ngài và chỉ qua Ngài, loài người mới có thể đến với Thiên Chúa . Thánh Phaolô nói: "Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.". Tác giả thư Do thái viết: "Người đã mở cho chúng ta con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người." (10,20). Chúa Giêsu đã mở ra con đường đến với Thiên Chúa . Trước khi Chúa Giêsu đến, loài người chỉ có thể suy nghĩ về Thiên Chúa như một người xa lạ, hoặc tệ hơn thì như một kẻ thù. Nhưng Chúa Giêsu đã đến bảo cho loài người biết, chứng minh cho loài người thấy rõ Thiên Chúa là thế nào, và mở ra con đường đến với Thiên Chúa . Chúa Giêsu đã mở ra cánh cửa để loài người đến được với Thiên Chúa. Ngài là cánh cửa duy nhất cho loài người đến với Thiên Chúa .
Để mô tả một phần ý nghĩa của việc vào ra mắt Thiên Chúa ,Chúa Giêsu dùng một câu nói rất quen thuộc của người Do thái , Ngài bảo rằng qua Ngài "chúng ta có thể đi vào và đi ra." Được đi vào, đi ra tự do không có gì trở ngại, là cách người Do thái dùng để mô tả một đời sống được bảo đảm an toàn. Khi một người có thể đi ra đi vào mà không chút sợ hãi, điều đó có nghĩa là đất nước của người đó đang có hòa bình, luật pháp và trật tự đang ở thế mạnh, đời sống người đó hoàn toàn an ninh. Lãnh tụ quốc gia phả là người có thể đưa họ ra và dẫn họ vào . (Ds 27,17) Người vâng phục Thiên Chúa thì Kinh Thánh chép rằng: "Người được phúc trong khi đi ra và được phúc trong khi đi vào". (TL 28, 6). Một trẻ nhỏ là ngươi chẳng biết phải ra vào làm sao (1V 3,7). Tác giả thánh vịnh tin quyết rằng Thiên Chúa giữ gìn mình lúc đi ra cũng như khi đi vào (120,8). Khi một người nhờ Chúa Giêsu khám phá được Thiên Chúa là thế nào, thì người đó sẽ nhận được một cảm thức mới về sự an toàn và bảo đảm. Nếu đời sống đã ở trong tay Thiên Chúa như vậy, mọi lo âu sợ hãi đều tan biến.
Chúa Giêsu bảo những kẻ đến trước Ngài đều là những quân trộm cướp. Khi nói thế, Ngài không có ý nói đến dòng tiếp nối vĩ đại của các vị tiên tri và các vị anh hùng, nhưng Ngài muốn nói đến những kẻ phiêu lưu chính trị bạo động vẫn thường nổi lên tại Palestine hứa hẹn nếu dân chúng theo họ, họ sẽ đưa đất nước đến thời đại hoàng kim. Tất cả những người này đều là những người nổi loạn, dùng bạo lực để mong đoạt chính quyền. Họ tin người ta phải lội qua máu để tiến tới thời đại hoàng kim. Chính vào thời Giosephus có đề cập đến hàng vạn vụ nổi loạn tại Giuđê, những cuộc xáo trộn do những người hiếu chiến tạo ra. Ông đề cập đến những người như đảng viên Dêlốt không sợ chết, chẳng sợ việc tàn sát ngay cả đến người thân yêu của họ, miễn sao mưu đồ và ước vọng chiến thắng của họ được thành tựu. Chúa Giêsu dường như bảo: "Đã có nhiều người tự xưng là lãnh tụ do Thiên Chúa gửi đến với các ngươi. Họ tin tưởng vào chiến tranh, ám sát khủng bố và gây chết chóc. Nhưng con đường họ vạch ra chỉ đưa đến chỗ xa cách Thiên Chúa hơn. Đường lối Ta là đường lối hòa bình, yêu thương, là con đường dẫn đến sự sống. Nếu các ngươi chịu theo đường hướng của Ta, các ngươi sẽ ngày càng được gần gũi Thiên Chúa hơn." Thời ấy và cả ngày nay, vẫn có nhiều người tin đi đến thời đại hoàng kim bằng bạo hành, bằng đấu tranh giai cấp, hận thù, hủy diệt, thế nhưng thông điệp của Chúa Giêsu , chính là con đường của tình thương yêu là phương pháp duy nhất dẫn đến Thiên Chúa trên thiên đàng, và thời đại hoàng kim trên đất.
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài đến để cho loài người được sống, và được sống dồi dào. Câu "được sống dồi dào" có nghĩa là có một cuộc sống vô cùng phong phú. Theo Chúa Giêsu , biết Ngài là ai, Ngài là gì, tức là được một đời sống phong phú. Người ta kể, có một tên lính La mã khốn khổ, mất hết tinh thần và sức sống, đến xin Julius Ceasar cho phép anh ta tự sát để kết liễu cuộc đời. Ceasar nhìn anh và hỏi: "Này, đã có lúc nào nhà ngươi thật sự sống chưa, mà xin chết ?" Khi cố gắng tự sống cuộc đời mình, đời sống quả là khó khăn, buồn thảm và đáng chán. Nhưng khi đồng đi với Chúa Giêsu , biết Ngài hiện diện trong cuộc sống của mình, cuộc đời chúng ta sẽ có một sức lực mới, một đời sống dư dật, sung mãn. Chỉ khi nào chúng ta sống với Chúa Giêsu , đời sống mới trở thành thật sự đáng sống, mới bắt đầu sống với ý nghĩa đích thực của nó.
------------------------------------
“Ta đến để mọi người được sống”
Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành. Gioan Thánh sử mời gọi: PS 4-A43
Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên lành. Gioan Thánh sử mời gọi chúng ta một vòng qua các ngọn đồi Glilêa để chứng kiến một cảnh thanh bình: các mục tử dẫn bầy chiên ra đồng cỏ xanh cưới bên giòng suối mát.
Trong lịch sử trước kỷ nguyên, các vì vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục lsrael thường dành cho Thiên Chúa. Ngài dẫn đưa họ đi qua Biển Đỏ, qua sa mạc đến Đất Hứa, như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, vui buồn gian khổ dưới sương sớm với nắng chiều. Đó là viễn ảnh một vị mục tử mà Thiên Chúa sẽ gửi đến là Chúa Giêsu. Hôm nay, khi nhìn thấy cảnh bầy chiên điên đồi Galilê, Chúa đã tự mô tả mình như một người chăn chiên lành phúc hậu.
Nhiều lần, Chúa Giêsu đã tự ví mình là người mục tử, nhưng lần này Ngài đã nói tất cả ý nghĩ.
Khác với những người chăn thuê giữ mướn, những người lợi dụng và trộm cướp, người chăn chiên lành chỉ biết phục vụ đoàn chiên và cứu thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đối lại, con chiên nghe tiếng người chăn, hăm hở đi theo và tỏ tình yêu mến. Người mục tử đi trước để bảo vệ đoàn chiên, đoàn chiên theo sau ngoan ngoãn và tín nhiệm. Chúa phán: "Ta đến để mọi người được sống và được sống dồi dào”,cho dầu phải trả bằng một giá rất cao, bằng chính mạng sống mình.
Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử, Chúa Giêsu lại tự ví mình với cửa chuồng chiên.
Mỗi một khi Giáo hội tổ chức Năm Thánh, ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo hoàng đã chủ sự nghi lễ mở và đóng một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ Thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có một quá trình trong Thánh Kinh tương trưng cho ơn Thánh Chúa đổ xuống trên nhân loại (Tv (Tv 78, 23; Mt 3, l0); cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua (Tv 24,7-l0); cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất (Tv l22).
Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố. "Ta là cửa chuồng chiên... Ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy ra vào và tìm thấy của nuôi thân”. Nơi Chúa Giêsu, loài người gặp gỡ Thiên Chúa và loài người cũng gặt anh em mình. Nhưng con người ta có kẻ tốt và người xấu, kẻ thánh thiện và người gian hiểm. Đối với đoàn chiên hiền lành, có kẻ không qua cửa mà đột nhập vào, họ là kẻ trộm cướp, đến để ăn cướp, để sát hại và phá hủy. Xưa nay, trong Giáo hội cũng có những tên ăn trộm, những sói dữ đột nhập vào giữa đoàn chiên, nhất là khi họ là sói dữ đội lốt chiên lành.
Thánh Phao lô kết luận: “Xưa kia. anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vịmục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em".
Và Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Là con chiên đi theo vết chân Chúa, tôi chẳng lo sợ gì. Vua Thánh Venceslaô xứ Tiệp Khắc (907-929) một đêm nọ trời đông giá rét đi đến nhà thờ viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa kêu giá lạnh. Thánh nhân bảo: Cứ chịu khó theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ tuân theo và bỗng nhiên cảm thấy ấm áp lạ thường.
Theo vết chân của vị Mục tử ta sẽ thấy đời ấm áp.
------------------------------------
Ga 10,1-10
Trong Chúa nhật IV Phục Sinh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho các ơn gọi và: PS 4-A44
Trong Chúa nhật IV Phục Sinh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho các ơn gọi và mỗi năm đề nghị chúng ta đọc một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan về “Vị Mục Tử nhân lành”.
"Thật tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp".
Trên những đồi núi vùng Galilê và Giuđê, người ta thấy khắp nơi có những người chăn chiên, những mục tử. Ban ngày họ cho đàn chiên ăn cỏ trên những đồng cỏ hiếm hoi mọc ở giữa những đống đá của các ngọn đồi. Ban đêm, nhiều mục tử đồng ý với nhau tập họp đàn chiên của họ vào chung một khu đất có vây tường, làm bằng những tảng đá nhỏ. Ở đây, Đức Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật rất tương phản: mục tử và... kẻ trộm.. chính cách họ vào ràn chiên mà người ta phân biệt được họ! Kẻ trộm trèo qua rào còn người mục thì đi qua cửa mà vào ngay từ đầu chúng ta không thấy những hình ảnh thơ mộng nào cả như vẫn thường thấy ở các đề tài về đồng quê! Chuồng cừu đối với Đức Giêsu không phải là một nơi ngọt ngào và thơ mộng mà là một nơi phải tự bảo vệ chống lại trộm cướp. Chúng ta chớ quên rằng bài giảng này của Đức Giêsu rất bút chiến. Đây là phần "tiếp nối cuộc đối đầu bi đát khi Người chữa lành một người mù từ thuở mới sinh. Anh này bị đối xử tệ hại như một con chiên đáng thương bị người ta đánh đập chỉ vì nó tật nguyền.
"Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là Mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào và chiên nghe tiếng của anh".
Vậy Đức Giêsu đặt đối lập những "mục tử giả hiệu, kẻ trộm cướp, khoe rằng mình hướng dẫn những người khác nhưng không được ủy nhiệm chân chính... với "mục tử chân thật" đi qua cửa để vào một cách quang minh chính dại, được người gác cửa cho vào. Chúng ta chớ vội bỏ qua người gác cửa này tất cả Tin Mừng nói với chúng ta về người Đó! Đó là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đến (Gioan 8,16-42), Đấng đã giao mọi sự trong tay Người (Gioan 3,35 - 5,22-26) Đấng đã ban cho Người những con chiên của Người (Gioan 17,6-9).
Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi để cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ".
Được tập trung vào chung một chỗ có vây tường ban đêm để được các mục tử bảo vệ, buổi sáng các mục tử thu hồi các con chiên của họ, vì các con chiên nhận biết tiếng của mục tử của chúng những con chiên này theo bản năng biết được mục tử yêu thương chúng từng con một: Chúng đi theo và lắng nghe mục tử người tín hữu chân chính, là người "lắng nghe" tiếng Đức Giêsu và đi theo" Đức Giêsu. Động từ "lắng nghe" được lặp lại năm mươi tám lần trong Tin Mừng của Thánh Gioan: Đức Giêsu là "lời" là "Ngôi Lời" , sự "mạc khải" được nói vào lỗ tai chăm chú của các bạn hữu Người "điều mà Người đã nghe từ Chúa Cha" (Gioan 3,31 - 8,40 - 15,15) bạn đang suy niệm bài Tin Mừng này, bạn có biết lắng nghe Lời Chúa, tiếng nói của Tình yêu và Chân Lý?
Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn Đó nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
Họ không hiểu bởi vì họ không muốn hiểu bởi vì họ cảm thấy mình bị chỉ trích là những người Pharisêu, họ tự hào hướng dẫn những người khác, nhưng mà người ta chạy trốn bởi vì họ là những mục tử xấu, những kẻ trộm cướp.
Vậy Đức Giêsu lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ".
Những sự tự phụ của Đức Giêsu nếu Người chỉ là một con người quả là thái quá? Người tự giới thiệu như người hướng dẫn duy nhất của nhân loại ! "Tất cả những ai đến trước tôi" đều là trộm cướp con người nói điều Đó là một người điên,.. hoặc giả người ấy mang trong người một sứ điệp triệt để nhất, tuyệt đối nhất, siêu việt nhất, cách mạng nhất mà nhân loại chưa bao giờ nghe thấy. Than ôi, chúng ta có thể đi theo những người hướng đạo khác nếu chúng ta chịu nổi họ và nhiều người tự giới thiệu với chúng ta như những “cứu tinh do Thiên Chúa an bài".. nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ báo trước cho chúng ta biết: Các kẻ ấy đều là trộm cướp và phá hoại... mọi người đưa ra những lời hứa hẹn hay đẹp đều là những kẻ trộm cướp một thứ tuyệt đối thuyết như thế chỉ có thể đụng chạm đến tâm thức của thời đại chúng ta, mong muốn sự khoan dung, lo lắng đến "tính đa nguyên". Vậy ai là người dám nói với một sự bảo đảm và một sự loại trừ như thế? Còn Đức Giêsu vốn khác với "mọi" người khác, Người hứa hẹn chúng ta điều gì ?
“Tôi là cửa".
Đức Giêsu thích trình bày tư tưởng của Người dưới những hình ảnh: Người đã tự giới thiệu Người như vị Mục tử độc nhất. Ở đây, sử dụng những ý nghĩa tượng trưng như các nhạc sĩ thường làm khi các chủ đề của họ đan kết với nhau, ...Đức Giêsu đưa vào một hình ảnh thứ hai, tinh tế hơn, mầu nhệm hơn: Người nói: "Tôi là cửa".. cái cửa duy nhất, cái cửa độc nhất! Những tác giả Phúc âm nhất lãm cũng đã đặt vào miệng Đức Giêsu sự so sánh ấy khi nói về cái "cửa hẹp" dẫn đến Nước Chúa (Mátthêu 7, 13-14 ; Luca 13,24) nhưng ở đây từ ngữ chứa đựng một ý nghĩa thần học sâu xa hơn.. theo nghĩa mà Đức Giêsu không bao lâu nữa sẽ nói: "Chính Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy..." (Gioan 14,6) trong Kinh Thánh đã có một thứ thần bí về cái cửa. Giacóp ở giữa sa mạc đã nhìn thấy một cầu thang là cửa của thiên đàng (Sáng Thế 28,17) Những cái cửa của Giêrusalem được mô tả như những con đường đưa vào nơi bình an, công bằng, đến nhà của Thiên Chúa (Isaia 60,11; Thánh Vịnh 122,2 - 118,19-20).
"Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ".
Như thế, Đức Giêsu có ý thức người là một con đường đi qua, một cái cửa, dẫn đến một nơi mới, một không gian mới!
Để cảm nhận ân huệ của đề nghị này nơi Đức Giêsu, chúng ta phải cảm nghiệm mình đang bị giam hãm trong một thứ "căn hầm Đóng kín" như Jean Paul Sartre đã mô tả: Vâng, nhân loại như bị cầm tù bởi chưng điều tất định khắc nghiệt nào Đó: Sinh ra rồi chết đi, sản xuất rồi tiêu thụ... "ăn, làm, ngủ rồi lại bắt đầu lại!” Viễn cảnh của con người lẽ nào lại dừng lại ở vòng tròn chật hẹp này? Có phải nhân loại bị kết án quay vòng tròn như thế trong khi chờ đợi cơn đắm tàu sau cùng? Có chăng một lối thoát cho con người ?
Chính tại đây Đức Giêsu can thiệp và nói với chúng ta rằng Người là một cái cửa, một lối thoát những hình ảnh nói lên nhiều điều: "Các bạn có thể ra vào, lui tới".. đây là hình ảnh của sự tự do? Các bạn sẽ tìm thấy một đồng cỏ"...hình ảnh của sự sống và sự tươi trẻ!
Tại sao chúng ta không thử mượn cái cửa mầu nhiệm ấy để đi một vòng hít thở khí trong lành, trong những đồng cỏ tắm nắng mặt trời? Đức Giêsu nói với chúng ta rằng nhân loại không thể khép kín lại với chính mình một cách tuyệt vọng: Trước mắt nhân loại, một không gian được mở ra, một không quan vô tận, một sự sống còn ở phía trước Thiên Chúa đề nghị dành không gian của Người cho con người.
Tại sao chúng ta không mượn cái cửa ấy để đến Đó mà hít thở? Cánh cửa này mở ra vô tận và không chỉ mở vào ngày sau cùng, vào giờ làm tử của chúng ta, điều Đó tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Cánh cửa ấy hướng về Thiên Chúa, tại sao chúng ta không bước qua nó ngay từ bây giờ?
"Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy”.
Đức Giêsu trở lại không viễn cảnh tiêu cực này để giúp chúng ta hiểu rõ hơn đề nghị tích cực của Người trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật, con người đã thực hiện nhiều cuộc giải phóng mà chúng ta không thể coi thường và mọi Kitô hữu phải tham gia nhưng Đức Giêsu nhắc chúng ta chỉ có duy nhất một cuộc giải phóng triệt để mà Thiên Chúa đề nghị với chúng ta mọi lời hứa khác về giải phóng, về hạnh phúc đều là lừa bịp, một thứ trộm cắp. Nhân loại được dựng nên không phải để bằng lòng với không khí ngột ngạt của mọi thứ chủ nghĩa duy vật các chủ nghĩa vô thần chỉ đem lại cho con người một hình ảnh bị cắt xén đối với Đức Giêsu, nếu chỉ đưa ra cho con người các viễn cảnh hạn chế thì Đó chính là "giết hại và phá hủy" con người: Con người chỉ sống viên mãn khi con người mở ra với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu là cái cửa! Nếu người nào đi qua cửa Đó, người ấy sẽ được cứu!
Không đi qua lối Đó, con người sẽ hư mất... Môi trường sống tuyệt đối duy nhất của con người, chính là môi trường của Thiên Chúa chỉ có nơi Đó mới là không gian của con người chỉ có nơi Đó, con người thật sự được tự do chỉ có nơi Đó, con người thật sự hít thở và phát triển đến vô tận.
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dôi đào".
Ở đây chúng ta gặp lại một chủ đề mà Thánh Gioan ưa thích. Rượu nho..ở tiệc cưới Cana được ban cho một cách dồi dào: 600 lít! (Gioan 2,6-7) Nước sự sống ban cho người phụ nữ Samari vọt lên để sau cùng làm mọi cơn khát phải chấm dứt (Gioan 4,14) Bánh được hóa ra nhiều và rất dồi dào còn dư lại mười hai giỏ đầy (Gioan 6,10-12) Sự đánh cá mầu nhiệm làm chiếc thuyền đầy cá (Gioan 21,6) Nhưng Đó chỉ là những hình ảnh thực tế còn đẹp hơn nhiều: Có một sự sống “dồi dào" Sự sống của Thiên Chúa!.
Quả thật, rõ ràng chỉ có Đức Giêsu mở ra một không gian vô cùng vô tận cho con người bên ngoài Người, nhân loại hoàn toàn "bị giam hãm” trong chính mình; Không một ý thức hệ, một lãnh tụ chính trị hay xã hội, một khám phá khoa học nào giải thoát chúng ta khỏi số phận "chỉ là những con người và vì thế phải chết”. Không chính Đức Giêsu, vừa là người vừa là Thiên Chúa, lôi kéo chúng ta ra khỏi sự bất lực của chúng ta để đưa chúng ta vào lãnh địa của Thiên Chúa. Cái cửa ấy mở ra cõi vô cùng vĩnh cửu.
------------------------------------
LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
GỢI Ý GIẢNG
1. Đừng tưởng lầm
Mặc dù con người ai cũng muốn được độc lập, thế nhưng trong thâm tâm sâu xa ai cũng có: PS 4-A45
Mặc dù con người ai cũng muốn được độc lập, thế nhưng trong thâm tâm sâu xa ai cũng có nhu cầu cần được dẫn dắt đến hạnh phúc đến một cuộc sống tràn đầy. Như thế ai cũng là con chiên và cần mục tử. Vấn đề là chọn ai làm mục tử cho mình thôi.
-Những kẻ dẫn mình tới những cánh đồng hoang, những khu rừng rậm đầy thú dữ (cuộc sống buông thả, những ý hệ .lệch lạc, những cách sống thời trang, hưởng thụ v.v.) thực ra chỉ là những tên tròm cướp làm hại con chiên.
-Mục tử thật phải dẫn con chiên tới nơi nào có suối nước, bóng mát, cỏ non nuôi dưỡng cuộc sống của chiên; phải cực nhọc tìm dẫn về những con chiên đi lạc , phải gian lao chiến đấu với sói dữ và kẻ cướp. Mục tử như thế chỉ có thể là Đức Giêsu mà thôi.
Nghĩa là có hai lầm tưởng tai hại: 1/ Tưởng mình là con chiên độc lập không cần ai dẫn dắt; 2/ Tưởng đi theo những "mục tử dễ dãi là đời mình sẽ sung sướng.
2. Liên hê giữa Đức Giêsu và chiên của Ngài
Chúa biết rõ từng người của mình, từng người một. Ngài không đẩy họ đi trước mình, nhưng Ngài đi trước họ, dẫn đường cho họ, nói với từng người, thu hút họ hơn là hướng dẫn họ.
Tuy nhiên, sói không ngừng lảng vảng quanh đoàn chiên, rình bắt những con chiên bất cẩn xa đàn. Vị mục tử đích thực sẵn sàng đương đầu với sói vì mỗi con chiên đều quý giá vô ngần. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên.
Mối tương giao giữa họ hệt như giữa Chúa Cha và Chúa Con. Mối tương giao ấy dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau, nghĩa là trên tình yêu. Cha biết Con sẵn sàng tự hiến trọn vẹn cho những người bước theo và sẽ bước theo mình.
3. Không còn là con số vô danh nữa.
Con người thời nay rất ghét phải sống như một con người vô danh giữa một đám đông, như một con số âm thầm giữa lòng tập thể. Mỗi người như một bộ phận nhỏ trong guồng máy khổng lồ, âm thầm va cô đơn làm cho xong phần việc của mình. Tại sao có những người cố tình có những hành vi nghênh ngang, ăn mặc lố lăng, nếp sống lập dị...? Vì đó là cách để cho người khác chú ý tới họ.
Đức Giêsu đối với chúng ta thì khác hẳn. Ngài không vơ đũa cả nắm coi hết mọi người y như nhau. Trái lại Ngài biết rõ từng người một với cá tính riêng, hoàn cảnh riêng, chỗ mạnh chỗ yếu riêng. Nhất là Ngài yêu thương mỗi người một cách riêng. "Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta, như Chúa Cha biết Ta và Ta biết Chúa Cha".
4. Tâm sư của người đồng hành bị quên lãnh
Sáng nay khi bạn vừa thức dậy, tôi nhìn bạn và chờ đợi bạn nói với tôi đôi lời: để cám ơn về những điều tốt lành bạn đã gặp được ngày hôm qua, hoặc để hỏi xem tôi có ý kiến gì với bạn cho ngày hôm nay... Đôi lời ngắn ngủi thôi. Nhưng bạn mãi lo tìm chọn quần áo giày dép... Nên tôi phải chờ.
2. Bạn đã mặc quần áo xong, bạn còn 15 phút rãnh rỗi. Tôi hy vọng bạn sẽ lên tiếng chào tôi. - Nhưng không, bạn ngồi xuống ghế sofa, im lặng, thanh thản. Tôi vẫn chờ.
3. Chợt bạn đứng lên - Tôi tưởng bạn sẽ đến với tôi nói đôi lời gì đó. Thế nhưng bạn đến máy điện thoại, quay số đến một người bạn thân, hai người đấu láo với nhau một hồi. Và tôi tiếp tục chờ.
4. Rồi đến giờ bạn ra xe. Bạn đến chỗ làm. Tôi chờ bạn suốt buổi sáng.
5. Đã đến giờ ăn trưa. Bạn ngồi vào bàn, rảo mắt nhìn quanh. Bạn thấy vài người ở những bàn bên cạnh cúi đầu u thầm thì nói với tôi đôi lời trước khi ăn. Tôi tưởng bạn cũng sẽ làm thế. Nhưng không! Và tội tiếp tục chờ.
6. Ăn xong, bạn còn một khoảng thời giờ thảnh thơi. Tôi thầm mong bạn sắp nói với tôi. Nhưng chẳng có một lời nào cả. Tôi vẫn chờ.
7. Buổi chiều, tan sở. Bạn lên xe về nhà. Chắc hẳn có biết bao điều bạn sẽ kể cho tôi nghe. Tôi chờ. Nhưng bạn chạy thẳng một mạch tới nhà. Về tới nhà, bạn lao ngay vào phòng tắm... Và tôi vẫn chờ.
8. Bạn đã cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Nhưng bạn không thấy tôi đang chờ. Bạn chỉ nhìn thấy cái TV. Bạn mở máy, để mặc tôi tiếp tục chờ.
9. Rồi bạn lên giường, suy nghĩ mông lung trong khi chờ giấc ngủ đến. Bạn nhớ lại đủ thứ chuyện, đủ thứ người, chỉ trừ tôi. Có lẽ vì bạn không biết tôi vẫn luôn ở bên cạnh bạn. Bạn không thấy tôi, nhưng tôi vẫn luôn ở kề bên bạn, yêu thương bạn, rất muốn nói chuyện với bạn, để an ủi, để chia sẻ, để góp ý, để động viên. . . Bạn không biết, không để ý gì cả. Và bạn thiếp dần vào giấc ngủ. Tôi vẫn chờ.
10. Một ngày mới lại bắt đầu. Bạn thức dậy. Tôi hy vọng hôm nay bạn sẽ dành ra đôi phút để nói với tôi. Tôi vẫn chờ bạn đấy. Chúc bạn một ngày tốt đẹp.
5. Chuyện minh họa.
a/ "Ta là cửa chuồng chiên”.
Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa- chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải toà cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu Người đó chỉ cho đu khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: "Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?" Người mục tử hỏi lại: "Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi. Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào.
b/ " Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào"
Người Tây Ban Nha có câu chuyện sau đây:
Khi có người đến cửa thiên đàng, Thánh Phêrô đặt cho mỗi người một câu hỏi rất lạ: "Lúc còn ở trần thế, bạn đã biết nếm mùi những vui thú mà Chúa nhân lành ban cho bạn không?"
Nếu người đó đáp: "Thưa không" thì Thánh nhân nói: "Bạn chưa biết nếm những vui thú nhỏ dưới thế thì làm sao có thể nếm những vui thú lớn lao trên thiên đàng được! Xin lỗi, Ta chưa cho bạn vào được?
------------------------------------
Chúa Kitô chính là Chúa chiên lành, chẳng những Ngài đã lo lắng cho đoàn chiên củ Ngài la: PS 4-A46
Chúa Kitô chính là Chúa chiên lành, chẳng những Ngài đã lo lắng cho đoàn chiên củ Ngài là Giáo Hội, Ngài còn lo lắng cho từng con chiên của Ngài là mỗi người chúng ta, Ngài còn hy sinh cả mạng sống Ngài cho đoàn chiên. Chúa Kitô đã hy sinh cả cuộc sống mình cho người khác, thì sốn đông mục tử của Chúa, trải qua các thế hệ cũng đã noi gương Chúa, hy sinh mạng sống mình cho tha nhân, hy sinh cuộc đời cho Chúa. Ta kể ra gương sáng sau đây.
Đầu tháng 10-1798, nghĩa là hai tháng sau chiếu chỉ cấm đạo được ban hành, Linh mục Gioan Đạt (tử đạo ngày 28-10-1973, 33tuổi) bị bắt tại Trần Phù trong tỉnh Thanh Hóa. Một hôm, cha vừa dâng Thánh lễ an táng tại một tư gia xong, thì quân lính ập đến. Gíao hữu đưa cha ra sau nhà, chỉ lối cho cha chạy thoát. Nhưng cha không đành lòng bỏ rơi họ để chạy trốn, vì khi đó lính đã tìm thấy chén Thánh và áo lễ, và đang tra tấn chủ chà, ông trùm Mới và một số tín hữu khác. Cha tự nguyện ra trình diện, nói với anh em giáo dân: “Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng làm thế anh chị em sẽ phải khổ nhiều”.
Gioan Đạt sinh năm 1765 tại làng Khê Câu, huyện Bình Lục, Thanh Hóa. Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đạt xin phép mẹ để hiến thân cho Chúa dưới sự chăm sóc đầy tình thương của Chúa Loan dưới Đồng Chuối. Năm 18 tuổi, cậu vào chủng viện, sau đó đi giúp xứ một thời gian. Tháng 4-1798 thầy Gioan thụ phong Linh mục. Cha Gioan Đt được phái đến hai giáo xứ Hảo Nho, Trần Phù. Vì tân Linh mục hết sức lo lắng cho các tín hữu nên được mọi người quý mến. Cha chính Lan nhận xét về cha như sau: “Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức vâng phục và thanh bần. Cha luôn chu toàn bổn phận, nên Đức Cha và các Linh mục đều yêu quý. Lời cha giảng có sức thuyết phục cảm hóa lòng người”.
Mới thi hành chứa vụ Linh mục được 6 tháng thì 6 cuộc bách hại đạo diễn tiến tại tỉnh Thanh Hóa một cách rất gắt gao. Quan Trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. Cha Đạt phải trốn lên rừng một thời gian. Tuy nhiên, mỗi khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha thường lẻn về các giáo xứ thi hành mục vụ.
Vừa bắt được cha, lính trói cha lại, đánh đập tàn nhẫn cùng với thầy Tâm và mấy quý chưc giáo xứ. Các giáo hữu ở đấy, định cậy trông đông người muốn dừng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha cản họ: “Cứ để tôi vâng theo Thánh Ý Chúa, anh chị em ở lại bình an, kiên trung giữ đạo, và nhớ cầu nguyện cho tôi được vững đức tin đến cùng”. Trên đường áp giải Chúa về thị trấn Thanh Hóa, khi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người cầm nón đưa cho đội, nhưng lình không cho.
Hai tháng tù tại Đình Đang, Chúa Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy Chúa trong hoàn cảnh lao tù mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương, cha nói chuyện vui cho họ bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói: “Tử đạo là phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm”. Lương dân sống gần trại giam cũng mến Chúa. Một thiếu phụ tình ngay, đưa Chúa một chai độc dược để kết liễu cuộc đời khổ cực trong tù. Cha từ chối và nói cho bà biết: “Người Công giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh nào cũng không được tự tử”. Cha còn cảm hóa được cả đám lính canh ngục. Mới đầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi phiên gác, họ lại bắt các tín hữu đút lót tiền bạc, nếu không họ sẽ hành hạ tù nhân. Sau thấy lòng bác ái yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã có cảm thiện và dễ dàng hơn với các tín hữu. Một lần cha bênh vực cho người lính ăn cắp nải chuối giáo dân gởi vào biếu cha . Cha nói với họ rằng: “Khi nào tôi được vinh phúc trên trời, tôi sẽ không quên anh em dưới thế”.
Ông Thiềng cai ngục, tỏ lòng qúy mến cha cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói với cha rằng: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa lắm, ngặt vì cụ kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để tỏ lòng tôi yêu quý cụ”. Nhiều lần cha Đạt và các tín hữu bị đưa lôi ra trước tòa, tay chân mang xiềng xích, cổ đeo gông. Hoàng Đệ Nguyễn Quang Thùy, em vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên tòa. Ông bắt các anh hùng đức tin chối đạo hoặc đạp lên Thánh giá, và dù đã áp dụng nhìu cực hình tra tấn dã man, nhưng ông vẫn thất bại. Có hôm Hoàng đệ yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa bức ảnh “Phán xét chung”, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó, thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi đầu xuống, cầm lấy ảnh và hôn kính.
Trung tuần tháng 10, hoàng đệ gọi cha Đạt ra công đường tuyên án xử tử. Ông tưởng khi nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ, Chúa lại tỏ ra hân hoan khác thường. Về trại giam, cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như tin mừng đối với cha. Quan thấy cha cứ vui vẻ hồ hởi trước cái chết sắp đến, thì nói khen cha: “Thầy ở tuổi đang thì mà can đảm hơn đại tướng quân. Thầy thật xứng đáng làm thầy dậy dân”. Cha Huấn xứ Bạch Bác, giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm, giải tội và đem Mình Thánh đến cho cha. Đêm trước ngày xử án, cha Đạt đến gạp quan án sát, cha nói: “Ngày lâm chung tôi đã đến, tôi cảm ơn quan đã có lòng thương tôi, thì tôi vui lòng, chẳng tích lòng thù ai, chỉ xin quan thương các bổn đạo trong tỉnh này, để quan được phúc đời này và đời sau”. Cha trở về ngục cầu nguyện, chỉ ngủ chừng nử tiếng đồng hồ.
Đúng là hành xử, trời bỗng đổ cơn mưa như trút, cha Đạt, cổ đeo gông nặng, lẽo đẽo chạy theo lính dưới cơn mưa tầm tã, tiến pháp trường chợ Rạ (Trịnh Hà). Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện. Được các quan cho phép, tín hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành cuối cùng.
Cha khuyên họ: “Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp pháp, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa”.
Chiêng trống đổ hồi, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu cuộc đời vị Linh mục trẻ tuổi đầy nhiệt huyết và can trường. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu cha. Thi hài đấng tử đạo được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát diệm).
------------------------------------
Ngày 9 tháng 1 năm 1975, Công ty truyền thanh truyền hình quốc gia Hoa kỳ, loan đi những tin: PS 4-A47
Ngày 9 tháng 1 năm 1975, Công ty truyền thanh truyền hình quốc gia Hoa kỳ, loan đi những tin đặc biệt, trong buổi phát hình ba giờ liền với nhan đề “về đàn ông và đàn bà”. Trong số những người được phỏng vấn, có một thiếu nữ tuổi ngoài đôi mươi nói lý do cô sống với những thanh niên khác nhau vào những lúc khác nhau mà không kết hôn. Cô ta phác họa đó là một lối sống lý tưởng, một kiểu mẫu của một trong những đề tài chính của buổi truyền hình là giải phóng phụ nữ. Một bà mẹ hỏi cô gái tuổi đôi mươi, chưa kết hôn, đang theo dõi chương trình truyền hình: “Betty, con nghĩ thế nào về điều đó ?” – Betty đáp: “Cô gái đó hay lắm, hấp dẫn lắm, nhưng đối với con thì điều đó không đúng !”. Người mẹ thêm: “Hoàn toàn là không đúng, lại còn đối nghịch với điều mà Chúa Kitô đã dạy”.
Đó, bạn có một thí dụ về điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay. Một đàng là tiếng nói của chủ chăn thật, một đàng là tiếng nói của người lạ, cô gái nói ở truyền hình đang sống trong tội lỗi.
Chúng ta sẽ đi theo tiếng gọi nào ? Chúng ta thuộc về Chúa Kitô, Ngài tạo dựng nên ta. Ngài cứu độ ta. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và được sống dồi dào. Chúng ta hãy nghe tiếng Ngài kêu gọi.
Nhưng có nhiều tiếng gọi khác nhau, như cô gái nói trên truyền hình đó, nói với chúng ta rằng: Đời sống dồi dào được tìm thấy ở ngòai đoàn chiên của Chúa Kitô. Truyền hình có tất cả những điểm tốt của nó. Nhưng cũng có một trong những lầm lỗi lớn lao trong lãnh vực này, nó là kẻ cướp chiên một cách khôn khéo, nó vẽ ra cho những người ly dị kết hôn lại mà sống trong xa hoa và hạnh phúc sai lầm. Nó tỏ bày tàn sát và bạo lực như là phương pháp được thừa nhận để đạt mục đích. Trên đường xe lửa ngầm, chúng ta nghe những lời hai ý, những câu chuyện tục tĩu, những người phát thanh đưa ra những câu chuyện giật gân. Truyền hình cùng với báo chí có nhiều điều hữu ích, mở rộng kiến thức và giải trí, nhưng xa hơn, thường có tiếng vang lại không lập với tiếng gọi của Chúa Kitô. Thực tế là chúng không bao giờ kể cho chúng ta những điều Chúa Giêsu đã nói.
“Chúa là Đấng chăn dắt tôi” – chúng ta đã công bố trong Thánh vịnh, đáp ca. Thật là sức mạnh cho anh em Tin lành, là những người rất thường cầu nguyện bằng Thánh vịnh đó. Vậy ở đâu chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa Kitô, Đấng đang chăn dắt chúng ta ?
Chúng ta nghe tiếng Ngài trong Kinh Thánh, đặc biệt khi đọc công khai ở đây trong nhà thờ. Chúa Kitô đã làm gì ? Bạn hãy đặt những câu hỏi này. Bạn hãy tìm câu trả lời. Rồi hãy bước theo tiếng gọi của Đấng chăn dắt linh hồn bạn.
Cái gì là thật ? Cái gì là giả ? Cái gì là đúng ? Cái gì là sai ? Hãy lắng nghe những vị lãnh đạo của Giáo hội mà Chúa Kitô đã thiết lập. Ngài đã hứa ở cùng Giáo hội cho đến ngày tận thế. Ngài đã hứa gìn giữ Giáo hội cho khỏi lầm lạc.
Bạn sẽ nghe tiếng Ngài từ bàn thờ này, bạn sẽ nghe tiếng Ngài trong các báo chí công giáo. Những Giáo hội Kitô giáo cũng có nhiều chân lý mà Chúa Kitô đã dạy, nhưng chỉ có Giáo hội công giáo có trọn vẹn những điều Chúa Kitô đã dạy, có dồi dào tiếng nói chính thức của Ngài.
Bạn hãy chăm chú lắng nghe tiếng Ngài. Bạn hãy đổi mới lòng trung thành với Đấng chăn chiên chân thật theo lời thánh Phêrô trong bài đọc II: “Hãy trở về cùng vị mục tử, Đấng canh giữ linh hồn anh em”. Rồi chúng ta sẽ có đời sống dồi dào như Chúa Giêsu đã hứa trong Tin Mừng hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
------------------------------------
Ga 10,1-10
Chúa Giêsu đã xác định rãt rõ lý do tại sao Ngài đến
giữa loài người: 'Ta đến để chúng được sống và sống thật dồi dào'? .
CHÚA GIÊSU ĐẾN ĐỂ CHÚNG TA ĐU'ỢC SỐNG
Thiên Chúa muốn sự sống chứ không muốn sự chết như nhiều người có thể lầm tưởng. Sự sống:PS 4-A48
Thiên Chúa muốn sự sống chứ không muốn sự chết như nhiều người có thể lầm tưởng. Sự sống là giá trị tuyệt đối và cũng là lý do khiến Chúa Giêsu đến với chúng ta. Sự sống là ý muốn cuối cùng của Thiên Chúa.
Bởi thế sự sống cũng là thực chất của Kitô giáo.
Nhìn bên ngoài, đo của chúng ta có vẻ phức tạp và hình thức vì có nhiều luật lệ, qui định. Những luật lệ, qui định đó cần thiết, nhưng dầu sao thì cũng chỉ là tương đối. Chúng không phải là cốt yếu và quan trọng nhất. Chúng chỉ là những phương thế phục vụ sự sống.
Nhìn một cách phiến diện, Kitô giáo còn có vẻ tiêu cực vì dạy sống khổ hạnh, siêu thoát, thực thành sám hối. Nhưng siêu thoát chưa phải là đích cuối cùng của ta phải hướng tới. Siêu thoát chỉ là phương thế khơi lên sự sống, cũng giống như có cắt tỉa những ngành khô, ngành già, cằn cỗi thì những mầm non đầy sức sống mới có cơ may nẩy lên.
Vậy chúng ta đừng lẫn lộn phương thế với mục tiêu, đường phải qua với đích phải tới. Nếu chúng ta ngừng lại ở lề luật và khổ hạnh thì quả thật chúng ta chưa hiểu Chúa Giêsu muốn đưa tới đâu, chưa nắm được thực chất của Kitô giáo. Đạo sẽ trở thành một cái gì gò bó, hình thức, tiêu cực, buộc phải sống tù túng, kiềm chế sự sống, phản li con người. . . nghĩa là trở nên một gánh nặng phải mang miễn cưỡng, chịu hết nổi.
Thiên Chúa muốn đưa ta đến sự sống. Điều này không thế nghi ngờ. Nhưng sự sống luôn có cái giá của nó. Bao giờ nó cũng đòi hỏi cố gắng, hy sinh. Đó là qui luật chung trong mọi lãnh vực. Muốn sinh mạng được an toàn phải giữ nghiêm chỉnh luật lệ giao thông. Muốn hoàn thành một công trình khoa học phải bỏ công nghiên cứu nhiều năm. Muốn trở thành một nghệ sĩ tài ba phải tập luyện khắt khe.
Cái gì cao đẹp cũng có cái giá phải trả. Càng cao đẹp giá càng đắt. Người ta thường nói tiền nào của nấy. Nếu đã tìm được cái thật quý thì giá nào cũng vẫn được coi là rẻ. Trong lãnh vực tôn giáo cũng không thế khác. Chúng ta muốn đạt tới sự sống thì phải sẵn lòng chấp nhận những gì có thể đưa tới sự sống. Khi đã chấp nhận như vậy thì chúng ta sẽ không còn bỡ ngỡ trước lời Chúa Giêsu khẳng định: Ách của ta thì êm, gánh của ta thì nhẹ.
CHÚA GIÊSU ĐẾN ĐỂ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG DỒI DÀO
Giá trị của sự sống tùy thuộc vào phẩm chất của sự sống. Thiên Chúa không muốn ban cho chúng ta một sự sống tầm thường, kém phẩm chất. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống thượng đăng, hảo hạng. Ngài muốn đưa chúng ta tới tột đỉnh của sự sống. Ngài ban cho chúng ta sự sống của chính Ngài, gọi là sự sống thần linh. Kitô hữu là người được hiệp thông sự sống với Thiên Chúa...được hội nhập, chia sẻ sự sống của chính Ba Ngôi. Chúa ở trong tôi và tôi ở trong Chúa: đó là thực chất của đời Kitô hữu. Để ban sự sống dồi dào cho ta Chúa Giêsu đã phải trải qua sự chết và phục sinh. Chúa Chiên đã hy sinh mạng sống vì chiên. Chúa Chiên đã đi vào cõi sống vĩnh cửu để mở đường cho tất cả đàn chiên vào theo. Chúa Chiên lấy sự sống của chính mình mà ban cho chiên. Điều này được diễn tả rất rõ trong phụng vụ Mùa Phục sinh.
Trải qua sự chết và phục sinh, Chúa Giêsu trở thành nguồn sống mới. Chúa Phục sinh là mạch sống vô tận được khơi lên trong ta. Chúng ta sống trong Ngài, bởi Ngài. Chính nhờ đó mà ta được sống dồi dào. Đó là điều kỳ diệu nhất Thiên Chúa có thể làm cho con người và cũng là đỉnh cao nhất con người có thể mơ ước và đạt tới.
Tâm tình của Kitô hữu luôn phải là ca tụng và cảm tạ Chúa Phục sinh, Đấng đã đưa chúng ta thoát khỏi sự chết, mở đường cho chúng ta đi vào cõi sống. Mỗi ngày qua đức tin, qua Giáo hội và qua bí tích, Ngài còn thông ban cho chúng ta nguồn sống thần linh vô tận của Ngài. Nhờ Ngài chẳng những chúng ta được sống mà còn được sống dồi dào.
------------------------------------
Ga 10. l-10
Anh chị em thân mến!
Theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật IV Phục Sinh thường được mệnh danh là "Chúa” PS 4-A49
Theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật IV Phục Sinh thường được mệnh danh là "Chúa Nhật Chúa Chiên Lành", và cũng là ngày chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta hãy cảm lạ Chúa vì đã qui tụ chúng ta vào bàn riêng của Ngài. Chúng ta cũng cảm lạ Chúa để trong Giáo Hội Chúa luôn luôn có những ơn gọi hiến thân phục vụ tha nhân và Giáo Hội. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện để xin Chúa khơi dậy và nâng đỡ những ơn gọi trong Giáo Hội của Chúa.
Anh chị em thân mến!
Vào những năm gần đây của cuối thế kỷ XX đã có nhiều sự kiện tôn giáo đáng suy nghĩ như sự kiện hàng chục ngàn người Nam Hàn thuộc một giáo phái có tên là ĐaMt đã tụ tập nơi gần 150 nhà thờ để chuẩn bị đón Chúa Kitô tái tâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này, tận thế sẽ xảy ra lúc nửa đêm. Các tín đồ của giáo phái này trưng nhiều biểu ngữ với câu: "Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời".
Trong khi đó thì hàng ngàn cảnh sát Nam Hàn được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xảy đến. Một cuộc tự sát như thế sẽ xảy đến, bởi vì nhiều người đã bỏ lài sản gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xảy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán.
Mới đây, một biến cố tương tự cũng đã xảy ra lại tiểu bang Texas bên Hoa Kỳ, một thanh NIÊN tên là David đã tự xưng mình là "Chiên Thiên Chúa". Thật không riêng gì Hoa Kỳ mà nhiều người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau trên thế giới đã tìm đến với David với hy vọng tái tập lại dòng dõi David.
Niềm tin vào một ngày tận thế gần kề cũng là một điểm nổi bật trong giáo lý của David. Có lẽ niềm tin vào ngày tận thế ấy đã đưa đoàn chiên do David, qui tụ đến cái chết thảm thương khiến cả nước Mỹ phải rung động. Và vào những ngày gần đó, sau 51 ngày bị cảnh sát vây hãm vì tình nghi là có cất giữ vũ khí bất hợp pháp, David đã đốt lửa thiêu huỷ nguyên cơ sở của giáo phái này làm cho trên 80 người bị thiệt mạng.
Anh chị em thân mến!
Hai sự kiện tôn giáo trên đây cũng như sự phát sinh và gia tăng của các giáo phái đang làm cho những người Kitô hữu chúng ta suy nghĩ: Thế giới càng tiến bộ về văn Mtnh kỹ thuật, thì con người càng trở nên bơ vơ lạc lõng, cô đơn, và chính vì tâm trạng ấy mà nỗi khát vọng về Thiên Chúa càng mãnh liệt nơi lòng người.
Con người ngày nay vẫn khao khát và tìm kiếm Thiên Chúa, thế nhưng ở thời đại nào cũng có những tiên tri giả, thời đại nào cũng có kẻ mà Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu gọi là quân trộm cướp. Họ không qua cửa là Chúa Giêsu để dẫn đến sự sống đích thực, mà chỉ có quanh quẩn ở những nơi lừa đảo dẫn đến chết chóc mà thôi. Có biết bao nhiêu người đang bị các tiên tri giả và quân trộm cướp ấy đưa dẫn đến một thứ thiên đàng ảo tưởng mơ hồ.
Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng, chỉ có một Đức Giêsu Kitô mà thôi, Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta chỉ có thể có sự sống đích thực khi chúng ta đi trong con đường là chính Ngài. Chúng ta chỉ có thể biết được chân lý về con người, nghĩa là chúng ta chỉ có thể biết mình bởi đâu mà ra, mình sẽ đi về đâu và mình sẽ phải sống như thế nào, đó là chúng ta chỉ có sự sống trong và nhờ Đức Kitô mà thôi.
Vậy khước từ Ngài, loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống, con người sẽ đi dần đến chỗ tự sát. Sự kết liễu đau thương của một số giáo phái hoặc sự tự hủy mà người ta đã chứng kiến trong các chế độ vô thần là một bằng chứng cho thấy rằng, loại trừ Đức Kitô ra khỏi cuộc sống là một sự tự sát. Vì Đức Kitô chính là vị Mục Tử nhân lành hướng dẫn chúng ta đến cuộc sống đích thực là Nước Trời.
Thánh Phêrô đã nhắc nhở chúng ta điều đó trong bài đọc II hôm nay: "Xưa kia anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây anh em đã trở về cùng với vị Mục Tử đứng canh giữ linh hồn anh em ". Đức Kitô là Mục Tử đích thực của chúng ta, bởi vì chỉ có Ngài mới thí mạng sống cho chúng ta.
Trong một đoạn khác trong thơ của thánh Phêrô cũng khuyên nhủ chúng ta rằng: "Anh em thân mến! Khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ thì đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em làm việc đó vì Đức Kitô chịu đau khổ cho chúng ta, nêu lại cho anh em một mẫu gương để anh em theo vết chân của Ngài". Ước gì lời nhắn nhủ của thánh Phêrô luôn thúc đẩy chúng lạ đi theo Chúa Giêsu và sống như Ngài, để không những chúng ta tìm được sự sống đích thực, mà còn trở thành ánh sáng soi dẫn cho không biết bao nhiêu người đang mò mẫm tìm kiếm trong cuộc sống vĩnh hằng.
------------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
"Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên".
Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. "Người chăn chiên”: PS 4-A50
Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. "Người chăn chiên”, nhưng đúng hơn nên dịch: "là một người chăn chiên": vì như thế mới thích hợp với hoàn cảnh thực tế của xứ Palestine, bởi có nhiều người chăn cùng nhốt chiên của mình trong cùng một chuồng.
"Kẻ ấy gọi tên từng con". Bản văn Hy lạp viết: katonoma, mà có lẽ đôi khi người ta dịch quá sát chữ là "từng con bằng tên của nó". Thực ra, ngay cả thời bây giờ, mục tử xứ Palestine chỉ đặt tên cho những con chiên chính của đàn. Cha Jaussen có kể ra nhiều thí dụ điển hình trong cuốn Naplouse, tr. 305. Thành thử ở đây nói rằng mỗi con chiên có một tên riêng thì hơi quá đáng. Một vài tác giả ưa dịch "Kat onomat” là từng con một" (BJ) hoặc là "riêng từng con" (Jouon). Dù chọn cách giải thích nào đi nữa, thì ý tưởng chính vẫn là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến chiều kích cá vị trong mối tương quan giữa Người với các môn đồ, ngược lại với kẻ mị dân chỉ đối xứ với người ta như những đám đông không tên tuổi.
"Bao nhiêu kẻ đã đến, thảy đều là trộm là cướp": Đây không có ý nói về các ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng là về những người, trong xã hội Do thái cũng như trong thế giới lương dân, thường tự hào là kẻ mang lại cho con người sự hiểu biết về các thực tại thần linh và ơn cứu độ bằng các phương thế riêng của họ.
KẾT LUẬN
Giữa lòng Israel cũng như giữa lòng Giáo Hội, có hai hạng người: những kẻ thực sự thuộc về đấng chăn chiên, biết đáp lại tiếng gọi của một mình Người, và những kẻ không hề lại vì họ chẳng bao giờ thuộc về Đấng ấy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Thánh Gioan kể lại cho ta một ám dụ, một kiểu so sánh, điều họa hiếm trong Tin Mừng của ngài. Do đó có thể nghĩ rằng ngài muốn gán cho ẩn dụ này một tầm quan trọng đặc biệt. Dụ ngôn được nói cho người Biệt phái và muốn gởi đến họ một sứ điệp thiết yếu.
Biệt phái tự phụ mình là người hướng dẫn kẻ khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen với Chúa Giêsu vì Người được lòng dân và làm họ mất uy tín. Thành thử giữa Chúa Giêsu và họ, có một sự tranh chấp ảnh hưởng. Chúa Giêsu sắp nói rõ cho họ biết họ đã ảnh hưởng ra sao và chính Người đã ảnh hưởng thế nào trên đàn chiên Israel.
2) Chúa Giêsu là cửa vào, Người không loại bỏ một ai khỏi ơn cứu rỗi. "Người đến để tất cả nhân loại có sự sống dồi dào", ngay cả những kẻ Biệt phái vốn từ khước Người. Khi xưng mình là cửa vào, Chúa Giêsu không còn cách nào rõ hơn để xác quyết độc quyền của Người trong việc thông ban ơn cứu rỗi. Người khẳng định rằng người ta không thể tranh chấp với Người được, vì Người là cửa cứu rỗi duy nhất mà tất cả phải chấp nhận đi qua, và không ai có đặc ân được miễn, ngay cả những kẻ xem ra được trao phó một chức quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.
3) Giáo huấn này rất quan trọng và khẩn yếu. Chúng ta có thật sự tin rằng không có một người hướng dẫn nào khác, một vị Thầy nào khác, một lối đi nào khác cho con người ngoài Chúa Kitô không? Có nhiều Kitô hữu, khi phải nói lên điều này hôm nay, đều cảm thấy hầu như lúng túng; họ có cảm tưởng rằng mình tự gán cho mình nhiều đặc ân và đặc quyền trên những người khác. Vì ước mong hiệp nhất thiếu sáng suốt, vì khoan dung thiếu quân bình hoặc vì lẫn lộn các giá trị nên họ cảm thấy hầu như hổ thẹn về lòng tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, người ta chẳng bảo rằng mọi tôn giáo đều có giá trị như nhau, mọi học thuyết và mọi Giáo Hội đều chính đáng miễn là ta thành thật đó sao? Nhưng khi xưng mình là cửa duy nhất, Chúa Giêsu đã dẹp tan mọi lối biện luận hồ đồ này. Chẳng phải là tất cả mọi người không mang danh hiệu Kitô hữu cách chính thức đều bị ở ngoài chuồng chiên cả đâu nhưng, Chúa Giêsu muốn nói rằng ngay cả người ngoại giáo nào có thiện chí, người vô thần nào cố gắng sống ngay thẳng theo lương tâm, đều đã chỉ nhờ một mình Chúa Kitô mà được như vậy. Thành ra những ai, thuộc về chuồng chiên của Chúa Kitô mà không ý thức rõ ràng, đều phải qua cửa vào là chính Người vậy.
4) "Chiên Người, Người gọi từng con một". Có nghĩa là Chúa biết mỗi một người cách đặc biệt. Người có thể biết như vậy vì Người là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện đánh động chúng ta cách mãnh liệt đó sao?
------------------------------------