Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-A Bài 101-150 Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh
-----------------------------
Phúc Âm: Lc 24, 13-35: "Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
PS3-A101: Sao lại thất vọng?. 2
PS3-A102: Đường đức tin. 4
PS3-A103: Sao các bạn buồn. 6
PS3-A104: CHÚA PHỤC SINH LUÔN ĐỒNG HÀNH BÊN TA.. 7
PS3-A105: Hai môn đệ đi làng Emmaus. 10
PS3-A106: TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS. 13
PS3-A107: ĐỒNG HÀNH.. 15
PS3-A108: Chúng ta đã đi với Đức Giêsu trên nhiều con đường. 18
PS3-A109: Vừa buồn vừa sợ vạ lây. 23
PS3-A110: Nhận biết 24
PS3-A111: Đời không như là mơ! 28
PS3-A112: Cái giới hạn tất yếu! 30
PS3-A113: Niềm tin của người theo Đấng Phục Sinh. 32
PS3-A114: Bám Sát Dấu Chân Hai Môn Đệ E-mau. 35
PS3-A115: HIỆP SỐNG TIN MỪNG.. 40
PS3-A116: Đường Emmaus. 49
PS3-A117: Sao các bạn buồn. 52
PS3-A118: HAI MÔN ĐỆ LÀNG EMMAU.. 53
PS3-A119: Chúng tôi xin làm chứng. 56
PS3-A120: Tỉnh ngộ. 58
PS3-A121: Hai môn đệ trên đường Emmau. 60
PS3-A122: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI CN 3 PHỤC SINH A.. 63
PS3-A123: CÓ CHÚA TRONG ĐỜI 66
PS3-A124: PHỤC SINH CHO ĐỜI 68
PS3-A125: CÁNH CỬA BỪNG SÁNG.. 70
PS3-A126: “MẮT HỌ BỊ CHE PHỦ”. 72
PS3-A127: CHO LÒNG BỪNG CHÁY.. 76
PS3-A128: TƯỞNG CHỪNG KHÔNG CÒN GÌ 78
PS3-A129: ĐỨC KITÔ PHỤC SINH LÀ ĐƯỜNG DẪN TA VỀ CÕI SỐNG.. 79
PS3-A130: CHÚA PHỤC SINH AN ỦI NHỮNG NGƯỜI THẤT VỌNG.. 81
PS3-A131: NHẬN RA SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA.. 85
PS3-A132: ĐỂ GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH.. 87
PS3-A133: CHÚA VẪN TRUNG THÀNH HIỆN DIỆN.. 90
PS3-A134: HÀNH TRÌNH EM-MAU.. 92
PS3-A135: NHẬN DIỆN.. 95
PS3-A136: GẶP GỠ VÀ NHẬN RA ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CỨU ĐỘ HẰNG SỐNG.. 100
PS3-A137: ĐƯỜNG VỀ EMMAU, HÌNH ẢNH CỦA GIÁO HỘI LỮ HÀNH.. 103
PS3-A138: CHÚA GIÊSU PHỤC SINH VỚI HAI MÔN ĐỆ LÀNG EMMAUS. 106
PS3-A139: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 PS_A.. 110
PS3-A140: CHỨNG TÁ CHO CHÚA KITÔ.. 116
PS3-A141: SUY NIỆM CHÚA NHẬT III PHỤC SINH. NĂM A.. 117
PS3-A142: EMMAUS – THÀNH PHỐ CHIẾN THẮNG.. 120
PS3-A143: LOAN TRUYỀN NIỀM TIN.. 122
PS3-A144: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN.. 126
PS3-A145: NHẬN BIẾT ĐẤNG PHỤC SINH.. 129
PS3-A146: NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH KHI NGƯỜI BẺ BÁNH.. 134
PS3-A147: SẺ CHIA TÂM SỰ.. 136
PS3-A148: PHỤC SINH VÀ SỨ ĐIỆP BẺ BÁNH.. 138
PS3-A149: HAI NIỀM VUI CHAN HÒA TRONG MỘT LẦN GẶP GỠ.. 141
PS3-A150: CẦN CHÚA GIẢI PHÓNG.. 143
--------------------------------------
Thánh Luca thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh với hai môn đệ trên đường đi về Emaus. PS3-A101
Thánh Luca thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh với hai môn đệ trên đường đi về Emaus. Hai người lữ hành mang nặng tâm trạng chán chường thất vọng. Mọi chuyện bắt đầu từ biến cố Đức Giêsu Nazareth chịu án tử trên thập giá, rồi những lời đồn thổi xung quanh ngôi mộ trống của Ngài. Thất vọng và chán chường đã đưa hai ông đến chỗ hoài nghi: Có phải Thầy là Đức Kitô - Con Thiên Chúa không? Nếu thật thì tại sao Thầy lại chết treo trên thập giá cách ô trọc, nhục nhã như vậy? Chỉ trong đôi ba ngày ngắn ngủi, nhiều biến cố đã xảy ra vượt khỏi trí tưởng của hai ông: Thầy bị bắt, bị đánh đập dã man, bị đóng đinh, rồi xác biến mất... Các biến cố đã xảy ra nhanh quá, dồn dập và choáng ngợp quá, khiến các ông bị khủng hoảng nhiều về niềm tin và hy vọng.
Tâm trạng sầu não của hai môn đệ biểu lộ qua những lời trao đổi với "người khách đồng hành duy nhất": Bao năm vất vả theo Thầy, "nếm mật nằm gai" những mong ngày Thầy tái lập nước Israel, mình sẽ có một chỗ đứng trong xã hội: không là tể tướng thì chí ít cũng là quận công, tổng trấn... Nhưng giờ đây tất cả đã trở thành mây khói. Hai ông đâm ra hoang mang, hoảng sợ rồi vội vã ra khỏi thành, chạy trốn một sự thật quá phũ phàng.
Gặp người khách lạ, hai ông được dịp giãi bày nỗi lòng ngổn ngang của mình. Người khách lạ ân cần lắng nghe, đồng thời giải thích cho hai ông biết cái chết của Đức Giêsu không phải là sự nhục nhã nhưng là con đường để Ngài đi tới vinh quang. Người khách lạ ấy không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu, Ngài hiện diện giữa các môn đệ để củng cố lòng tin của các ông. Chính buồn phiền chán nản đã che mờ đôi mắt và tâm hồn khiến họ không nhận ra được người đồng hành chính là Thầy chí thánh đã phục sinh.
Đời sống đạo của nhiều người trong chúng ta cũng như hai môn đệ nầy: chỉ gắn "mác" (mark) Kitô hữu để hưởng quyền lợi cá nhân hơn sống thật sự là một Kitô hữu. Nhiều người sốt sắng tham gia các sinh hoạt của họ đạo cốt chỉ để được tiếng tốt, hay để được hưởng lợi từ các chương trình phúc lợi của họ đạo. Nhưng khi gặp chuyện trái ý cũng dễ dàng quay lưng lại với cộng đoàn họ đạo. Sống đạo như thế chưa thật sự vững vàng. Người Kitô hữu đích thực, dù gặp phiền muộn hay khổ nhục nào đi nữa, vẫn luôn có thể và phải tỏ ra an vui và tin tưởng.
Hai môn đệ trên đường Emaus là người gần gũi với Chúa Giêsu khi Ngài còn sống. Hai ông thuộc rành rẽ những điều Chúa Giêsu đã báo trước. Nhưng hiểu biết chưa hẳn đã tin. Mắt hai ông chỉ mở ra khi được dự lễ bẻ bánh với Chúa. Chúng ta cũng sẽ chỉ hiểu biết về Chúa chứ không nhận ra được sự hiện diện của Ngài, nếu ta chỉ tìm kiếm những điều hợp với ý mình chứ chưa thật sự sống cùng cộng đoàn Phụng vụ.
Chúng ta còn gặp nhiều phiền muộn, chán nản trong đời sống đức tin là vì chúng ta chưa thật sự sống với những thăng trầm của cộng đoàn họ đạo. Chỉ khi ta gắn bó cuộc đời mình với sức sống của họ đạo, của Giáo Hội; ta mới nhận được đức tin và niềm hy vọng vững vàng. Chính khi đó, gương mặt Đức Kitô Phục Sinh mới chiếu toả cho chính chúng ta và cho mọi người như đã chiếu toả trong nhà trọ làng Emaus.
------------------------------------
Truyện kể rằng: Thánh giáo phụ Sarapio một lần hành hương đến Rôma, ngài đến thăm một nữ ẩn tu và hỏi chị: "Tại sao chị ngồi yên ở đây?" Chị trả lời: "Không, tôi đâu có ngồi yên, tôi đang đi trên đường cơ mà." Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus. Đường Emmaus là đường đức tin, đường thấy Chúa của hai môn đệ. Hai môn đệ có được đức tin và gặp được Chúa nhờ Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.
Lời Chúa soi sáng lòng tin họ: Hai môn đệ đã không tin Chúa sống lại qua lời chứng của các Tông Đồ và các phụ nữ nên đã rời bỏ cộng đoàn các Tông Đồ, rời bỏ các Tông Đồ là rời bỏ đức tin. Hai người buồn rầu đi bên nhau nói về Thầy mình: "Một Người đầy uy thế trong lời nói, việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân" nhưng lại chết thê thảm, nhục nhã. Ước mơ công hầu khanh tướng - bên tả bên hữu của hai ông tan bi?n, giờ chỉ còn là thất vọng. Vì hai ông vẫn xem Chúa Giêsu là Vua chính trị sẽ giải phóng Israel. Chúa Giêsu tiến lên và xin được đồng hành với họ, chứng tỏ Chúa Giêsu đi phía sau hai ông, đang đi tìm hai ông, nhưng mắt hai ông "bị ngăn cản", lòng hai ông thì u tối nên không nhận ra Ngài. Ngay cả đến khi Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh: từ Môsê đến các ngôn sứ và nói: "Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang sao?", dù lúc đó lòng họ "đã bừng cháy lên" nhưng vẫn không thấy Chúa. Chính Lời Chúa Giêsu đã làm cho lòng họ bừng cháy lên, tại sao họ vẫn chưa nhận ra Ngài? Thưa: vì Chúa chưa cho họ thấy. Chúa Giêsu chưa mở trí, chưa mở mắt đức tin thì họ không thể thấy Chúa dù Ngài đang đi bên cạnh họ. Đường đức tin của hai môn đệ còn phải nhờ đến Thánh Thể.
Thánh Thể mở trí, mở mắt đức tin họ: Họ nài ép Chúa Giêsu ở lại, dùng bữa tối, ngủ lại để dưỡng sức đi tiếp cuộc hành trình. Tinh thần hiếu khách và lòng bác ái của hai môn đệ với Người Khách dường như xa lạ này là cơ hội cho Chúa ở lại với họ và Ngài đã mở trí, mở mắt đức tin và khơi niềm tin cho họ bằng cử chỉ quen thuộc mà khi còn sống Chúa Giêsu vẫn thường làm cho các môn đệ: "Cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, và trao cho họ". Tức thì hai ông nhận ngay ra Chúa Giêsu, nhưng Ngài lại biến mất. Vì khi Phục Sinh, Chúa Giêsu không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Như thế, chỉ khi Chúa Giêsu cho họ thấy họ mới có thể thấy. Gặp được Chúa Giêsu, niềm tin đã thôi thúc họ trở về đoàn tụ với các Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện nơi Lời Chúa và Thánh Thể đã làm thay đổi cuộc đời họ: từ con người u tối thành con người đầy niềm tin, làm cho đường xa hoá gần, tối thành sáng, nghi an thành bình an, từ những con người tuyệt vọng thành tràn đầy hy vọng và có lẽ sống.
Tin mừng hôm nay mang ý nghĩa thâm sâu: Đường đức tin của hai môn đệ cũng là đường đức tin của mỗi người chúng ta. Tác giả chỉ tên một môn đệ là Clêôpát. Theo Cha Perrot, người không nêu tên đó chính là mỗi người trong chúng ta. Chúa cũng đang mời gọi ta hãy tin vào Thánh Kinh và Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể có chiếm chỗ quan trọng nhất của đời tôi không? Mỗi khi nghe Lời Chúa, lòng tôi có "bừng sáng lên", tôi có nghe được chính Chúa đang nói với tôi để rồi tôi biết yêu mến Lời Chúa bằng việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa như Đức Maria xưa không? Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu nhưng tôi có năng chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến tham dự Thánh Lễ để rước Ngài, và viếng Thánh Thể? Chúa còn mời gọi ta nh?n ra sự hiện diện của Ngài trong thế giới vật chất và con người. Người Kitô hữu là người có Chúa và phải thấy Chúa trong mọi biến cố, mọi sự của cuộc sống hằng ngày. Xin mượn lời bài hát của linh mục Thái Nguyên để nói lên khát khao gặp Chúa: "Chúa ơi cho con nhìn thấy, bước Ngài đang đến trong đời con, dưới ngàn hình dong dáng vẻ, Chúa vẫn hiện diện, lặng lẽ trong đời, như tấm bánh nơi nhà tạm đơn sơ, như nơi những kẻ đói nghèo bơ vơ. Chúa hẹn gặp con, Chúa chờ đợi con qua bao biến cố buồn vui, qua những lo toan đời thường, qua ngàn sầu thương vấn vương. Ước gì con trông thấy Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi, ước chi con không bỏ rơi cơ hội đến trong từng ngày để được gặp Chúa trên muôn nẻo đời". Đúng vậy, phải xin Chúa để ta mới có thể thấy được Chúa vì chỉ khi Chúa cho thấy ta mới có thể thấy. Khi ta thấy Chúa hiện diện trong những thử thách, nghịch cảnh để ta dễ dàng đón nhận trong vui tươi và bình an. Nhưng phải thực sự nhìn nhận rằng mỗi khi ta gặp sóng gió, khó khăn, khó khăn ta thường chán nản thất vọng, chán nản vì ta không thấy Chúa, nhưng Chúa vẫn đang đi sau ta, đi bên ta, đồng hành với ta vì mắt ta bị ngăn cản bởi sự yếu tin, lòng u tối. Khi ta gây bất hoà trong gia đình; mất lòng với khu xóm; chia rẽ trong cộng đoàn, giáo xứ, rời bỏ Giáo Hội, là ta đã bỏ đức tin, bỏ Chúa. Nếu khi đau yếu thể xác chúng ta biết tìm đến bác sĩ để được tư vấn, khám và chữa trị. Vậy tại sao khi tâm hồn và đức tin ta bị chao đảo sao ta không tìm đến Lời Chúa và Thánh Thể Chúa là linh dược để được chữa lành, nâng đỡ bổ dưỡng đức tin, chính nơi đây là điểm hẹn mà Chúa Giêsu đang chờ ta. Thánh lễ là cuộc gặp gỡ sinh động của Thiên Chúa với con người.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Chúa đang quy tụ chúng con đến bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, để cảm nếm hồng ân là sự hiện diện của Ngài, để được huấn luyện trong trường học của Ngài và để không ngừng sống cách ý thức hơn mối hiệp nhất với Ngài trong đường đức tin. Amen.
------------------------------------
Cùng ngày hôm ấy hai môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc vừa mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc. 24, 13-16)
Hai môn đệ trở về Em-mau, con đường quê cũ, con đường đời thường đều đều. Nhưng hôm nay như đầy hố sâu, vắng lạnh, như kẻ đưa ma trở về, như gặp tai nạn, như cơn bệnh tái phát, lớp trẻ như thấy tương lai đen tối, như cảnh cô đơn hiu quạnh mất bạn chăn gối. “Các bạn có vẻ bi thảm, cái gì đã xảy ra vậy?”.
Đó chính là những cái chết tuyệt vọng. Người ta phải biết xây dựng lại cái đời sống chán đời và cái tương lai chôn chết đời mình để đừng sống trong những cái chết đó nữa.
Đó là điều không thể tha thứ được khi đánh mất hy vọng giải thoát như các môn đệ trên đường Em-mau: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu thoát Ít-ra-en”. Chúng ta cũng nói đúng như thế khi chúng ta gặp thất bại: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng kế hoạch đó sẽ thành công, thì chúng tôi sung sướng biết mấy, nhưng nay đầy những trắc trở”. Ai đánh mất hy vọng, không còn ước muốn gì nữa, thì đã biến mình thành con vật rồi. Thật khốn khổ!
Bao nhiêu Kitô hữu trong chúng ta đang đi trên đường Em-mau như vậy? Con đường dẫn tới hố tuyệt vọng. Họ đã không bao giờ sống hy vọng được giải thoát, được cứu độ, được vinh quang. Họ đã quay lưng đi, đi trong buồn thảm như hai môn đệ.
Chính lúc này, người khách bộ hành trở nên quan trọng, ông đến đồng hành với họ, nói với họ, đàm đạo với họ và giải thích lời Chúa cho họ.
Chính lúc này cần đón nhận họ, làm cho họ thấy những dấu chỉ của lòng thương yêu, của sự chia sẻ bánh thánh cùng với cộng đoàn trong ngày Chúa nhật để ánh sáng phục sinh soi sáng cho họ qua các dấu chỉ được nghe lời Chúa và được bẻ bánh.
Được đón tiếp vào nơi bình an như vậy, đức tin và đức cậy sẽ nẩy sinh trong họ, nếu họ biết mở lòng, mở con tim, xả hết nỗi buồn sầu u ám ra, cho niềm vui phục sinh tràn vào.
------------------------------------
Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Đêm nọ, có một người thấy một giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Nhìn lên bầu trời, anh thấy những cảnh sống trong đời mình được chiếu lên. Trong mỗi cảnh sống trong đó, anh ta thấy có hai đôi dấu chân in trên cát, một đôi của anh, còn đôi kia của Chúa.
Khi cảnh cuối cùng trên đời anh chấm dứt, anh nhìn lại những dấu chân đã in trên cát và anh nhận thấy rằng, rất nhiều lần trong cuộc đời anh, anh thấy chỉ có một đôi dấu chân mà thôi. Anh cũng để ý và thấy rằng đó chính là những lúc cuộc đời anh xuống thấp nhất, với thời gian buồn chán đau khổ nhất. Anh hoang mang hỏi Chúa: - Thưa Chúa, Chúa đã nói rằng một khi con quyết định theo Chúa thì Chúa sẽ cùng bước đi với con suốt mọi chặng đường của đời con. Nhưng con nhận thấy rằng, trong những giai đoạn rối ren nhất của đời con, chỉ vẻn vẹn có đôi chân của con mà thôi. Con không hiểu tại sao những lúc con cần đến Chúa hơn cả, lại chính là lúc Chúa từ bỏ con.
Chúa ôn tồn trả lời: - Hỡi con yêu dấu, Ta yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con đâu. Trong những thời gian thử thách nhất, khi con thấy chỉ có một đôi dấu chân, đó chính là lúc Ta bồng ẵm con trên tay Ta. Dấu chân trên cát lúc ấy là của chính Ta chứ không phải của con đâu.
Thưa quý OBACE, Chúa vẫn luôn hiện diện và đồng hành bên chúng ta, có điều là chúng ta có nhận ra sự an ủi nâng đỡ và hướng dẫn của Người hay không mà thôi, đó cũng là điều qua câu chuyện hai môn đệ trên đường Emaus hôm nay Chúa muốn nói với chúng ta.
Hai ông này sau một thời gian theo Chúa, có lẽ các ông cũng nuôi biết bao hy vọng nơi Thầy Giêsu, các ông nghĩ rằng theo Chúa các ông sẽ được chia sẻ một ít vinh quang quyền lực, địa vị hay bổng lộc nào đó, thế nhưng cái chết của Chúa Giêsu đã làm tiêu tan tất cả hy vọng. Hai ông rơi vào chán nản thất vọng, họ buồn bã trở về quê. Không chỉ như thế, đức tin của các ông nơi Thầy Giêsu, lúc này, lại khiến các ông nghi ngờ và đặt lại vấn đề, các ông bàn tán với nhau về những chuyện vừa xảy ra. Trong lúc đi đường như thế, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra đồng hành với họ, nhưng vì chản nản thất vọng, vì đức tin bị thử thách nặng nề, khiến mắt các ông che mờ, không nhận ra vị khách đồng hành là Chúa Giêsu.
Các ông đã kể cho vị khách về Ông Giêsu là một vị ngôn sứ đầy uy thế,…Trước đây chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu chuộc Israel, nhưng nay, việc xảy ra đã đến ngày thứ ba rồi. Qua lời tâm sự đã cho thấy niềm tin của các ông vào Đức Giêsu chỉ còn là chuyện của quá khứ, một đức tin không còn chiều sâu, không còn sức sống, chính vì thế họ đã dễ dàng ngã gục buông xuôi khi gió bão của thử thách xảy đến. Vị Khách đã lắng nghe, an ủi, và dùng Kinh Thánh để minh chứng cho các ông thấy Đấng Kitô sẽ phải trỗi dậy từ cõi chết, đã làm nóng lại đức tin cho các ông và đem lại cho các ông sự phấn chấn. Các ông đã chia sẻ điều đó khi nói với nhau: dọc đường khi nghe Người nói lòng chúng ta đã bừng cháy lên đó sao?
Nhờ tâm hồn đã được hồi sinh, các ông đã nài ép Người khách lạ ghé vào nhà và dùng bữa với mình. Trong bữa tối đó, một cử chỉ hết sức quen thuộc đựơc Vị khách thực hiện, đó là Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông, mắt họ sáng ra và đã nhận ra Người, nhưng Người đã biến mất. Đây chính là cử chỉ Đức Giêsu đã thực hiện khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, và đặc biệt trong bữa Tiệc ly, chính Người đã cầm lấm bánh, tạ ơn, và trao cho các các môn đệ như thế. Dấu hiệu này chỉ có ở nơi một mình Chúa Giêsu mà thôi, không thể nhầm lẫn với ai được, nên hai môn đệ này đã nhận ra Vị khách đồng hành với họ trên suốt hành trình là chính Đức Giêsu, Người đã phục sinh.
Từ việc nhận ra Chúa khi ăn bánh của Người, tâm hồn và con người của các môn đệ này đã được biến đổi, các ông không còn chán nản buồn sầu nữa, không còn than thân trách phận hay tiếc nuối gì nữa, nhưng ngay tức khắc với một biềm vui hân hoan, các ông đã trỗi dậy để trở về Giêrusalem, để gặp lại các tông đồ và các bạn hữu đang tụ họp. Khi về đến nơi, thì chính anh em đã làm chứng cho hai ông về việc Chúa đã sống lại thật rồi và đã hiện ra với ông Simon. Còn hai ông thì kể cho mọi người về việc mình đã nhận ra Chúa.
Câu chuyện của hai môn đệ Emaus không phải là câu chuyện của quá khứ, mà là câu chuyện đức tin của mỗi người, mỗi gia đình hôm nay. Tin Chúa, theo Chúa không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thành công, vì thực tế trong cuộc sống cho thấy không thiếu những lần chúng ta gặp thử thách trầm trọng trong cuộc sống. Đã có nhiều lần toan tính dự định của chúng ta không thành, hy vọng của chúng ta sụp đổ, nhiều người cũng đã chán nản buông xuôi, và nhiều người còn quay lại trách Chúa, và nghi ngờ cả sự hiện diện của Chúa: Tôi cầu nguyện mà chẳng thấy Chúa nhận lời, tôi vẫn đi nhà thờ đi lễ mà sao Chúa lại để gia đình tôi như thế này? Chẳng biết Chúa có hiện diện hay không, Chúa có giúp mình hay không? Đó chính là những thử thách và những cám dỗ trong đức tin của nhiều người.
Thế nhưng Lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Người cũng không nỡ đứng nhìn khi chúng ta gặp thử thách hoặc gặp đau khổ, trái lại, Người vẫn đang hiện diện lắng nghe, và đang đồng hành với chúng ta, đang nâng đỡ an ủi chúng ta để giúp chúng ta vượt qua những khó khăn thử thách, Người dùng lời Kinh Thánh để an ủi và củng cố đức tin cho chúng ta, có điều là chúng ta có nhận ra sư hiện diện và đồng hành của Người hay không mà thôi.
Để nhận ra Người, chúng ta cần có thái độ như hai môn đệ Emaus, đó là mời và nài ép Người vào trong nhà mình. Khi có Chúa ở trong gia đình, Người sẽ giúp chúng ta giải gỡ những khó khăn, sẽ ban sức mạnh để chúng ta vượt thắng, và có Người trong gia đình, Người sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình. Đồng thời hãy tham dự bữa ăn tối với Chúa và đón nhận tấm bánh mà Người trao ban, mắt chúng ta cũng sẽ mở ra và chúng ta sẽ trở nên những con người can đảm mạnh dạn không còn sợ hãi nữa, giống như hai môn đệ Emaus đứng lên để trở về Giêrusalem gặp lại các tông đồ và các bạn trong tình hiệp thông.
Khi trở về gặp lại các tông đồ và các bạn, chúng ta sẽ gặp được lời chứng của các tông đồ: Chúa đã hiện ra với Simon. Một khẳng định ngắn như thế thôi, nhưng cho thấy, đức tin cá nhân của mỗi người cần phải được liên kết với Giáo Hội và cậy dựa vào sự bảo đảm của Giáo Hội, mà Simon Phêrô là thủ lãnh. Vai trò thủ lãnh của Phêrô không chỉ là điều khiển Giáo Hội mà còn là người dẫn dắt đức tin của Giáo hội. Sách Công Vụ cho thấy vai trò nổi bật của Simon Phêrô trong việc rao truyền tin Mừng Phục sinh, ông còn là người củng cố đức tin cho anh em mình.
Thưa quý OBACE, cấu trúc của câu chuyện hai môn đệ trên đường Emaus hôm nay chính là cấu trúc của Thánh Lễ mỗi ngày mà Giáo Hội đang cử hành để tuyên xưng Chúa đã chết và đã sống lại với hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể, trong đó vai trò không thể thiếu đó là thừa tác viên của Giáo Hội. Như thế Tin Mừng muốn cho chúng ta thấy rằng: Ngày hôm nay Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện và đồng hành với chúng ta mỗi ngày nơi Thánh Lễ được Giáo Hội cử hành. Chính nhờ việc tham dự Thánh Lễ thường xuyên, chúng ta sẽ được Lời Chúa an ủi và hướng dẫn, giúp chúng ta biết phải sống như thế nào, và nhờ lãnh nhận Thánh Thể Chúa chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, được bồi bổ và tăng cường thêm sức mạnh giúp chúng ta không còn sợ hãi, không chán nản hay thất vọng trước những cám dỗ và những khó khăn của cuộc sống.
Các bậc làm cha mẹ, hãy noi gương hai môn đệ Emaus, mời Chúa vào gia đình mình mỗi ngày qua các giờ kinh sớm tối, hãy mời Chúa hiện diện trong mỗi bữa ăn và trong cả ngày sống của gia đình, Chúa sẽ đem đến cho gia đình niềm vui và bình an, nhất là hãy siêng năng tham dự “bữa tối của Chúa” tức là Thánh Lễ mỗi ngày để đón rước Chúa vào tâm hồn và đem chúa về cho gia đình. Có Chúa trong tâm hồn và trong gia đình, thì không có thử thách nào có thể làm chúng ta chùn bước, và có Chúa trong tâm hồn, trong gia đình, thì ma quỷ và sự xấu sẽ không thể làm gì được chúng ta.
Nhiều bạn trẻ ngày hôm nay đang sống một cuộc sống buồn tẻ nhàm chán, nhiều người đang bị thử thách trầm trọng về đức tin, nhiều người đang bị nhồi nhét bởi quá nhiều tư tương sai lạc, cùng với sự tự mãn của óc khoa học khiến họ không nhận ra sự hiện diện của Chúa và có nguy cơ đi lạc đường và đánh mất đức tin. Lời Chúa hôm nay mời gọi các bạn hãy nhận ra sự đồng hành của Chúa trong cuộc đời, hãy khiêm nhường để lắng nghe lời chứng của Giáo Hội, và nhất là hãy siêng năng đến với bàn tiệc Thánh Thể, các bạn sẽ nhận ra gương mặt của Chúa, Chúa sẽ ban lại cho các bạn ơn đức tin và lòng hăng say nhiệt thành của tuổi trẻ, giúp các bạn sống một cuộc sống có ý nghĩa và có ích hơn cho chính mình và cho mọi người, đồng thời trở thành những người nói về Chúa cho anh em cho bạn bè của các bạn mà không còn gì phải ngại ngần sợ hãi nữa. Amen.
------------------------------------
Mộ trống và những lần hiện ra chớp nhoáng mà mục đích chính là để "sai đi" không đủ thuyết phục để cả các tông đồ tin chắc là Đức Giêsu sống lại thật. Tác động mạnh mẽ của Chúa Phục Sinh bằng Thần Khí qua công thức được công nhận là "Người đang (vẫn) sống, đang hiện diện và hoạt động bằng Thần Khí của Người" mới thật sự làm cho họ tin.. Câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus là một công thức khác để nhận ra Chúa Phục Sinh đối với những người ở các thế hệ sau là" Kinh Thánh (Phúc Âm) và Thánh Thể ". Trước khi có Phúc Âm thì Kinh Thánh là Môsê và các tiên tri, khi có Phúc Âm thì Phúc Âm là chính Chúa Giêsu.
Các đoạn chính của bài Phúc Âm:
Đang khi họ trò chuyện và bàn tán thì Đức Giêsu tiến đến và cùng đi với họ, nhưng họ không nhận ra vì còn bị che khuất: về sau từ từ hình thành công thức Phục Sinh: Người vẫn sống, hiện diện và hoạt động bằng Thần Khí của Người.
Đấng Kitô chẳng phải chịu khổ hình rồi mới được vinh quang sao? Rồi Nguời bắt đầu giải thích Kính Thánh cho các ông nghe từ Môsê cho đến các tiên tri tất cả những gì liên quan đến Người: Trước Đức Giêsu thì Kinh Thánh là Môsê và các tiên tri. Đó là những lời tiên báo mà nay đã được thực hiện.
Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Công thức của Bí tích Thánh Thể. Bản văn nầy được viết khi việc cử hành Thánh Thể đã vào nề nếp.
Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người.....Đức Giêsu hiện diện với nhân tính trong bí tích Thánh Thể. Nhưng không phải là Đức Giêsu như khi còn sinh tiền giữa các môn đệ lúc ở Galilê mà thân xác Người đã được biến đổi trở thành siêu nghiệm nên không thể nhận ra bằng "thấy" mà chỉ có thể bằng "biết" qua nghe giải thích Kinh Thánh.
Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao? Kinh Thánh và tác động của Thần Khí mới biến đổi làm cho lòng các bừng cháy.
Nhận ra Đức Giêsu mới hiểu việc Nguời làm và khi ấy họ mới tin. Tin thì hết mọi ngờ vực, lo âu, ưu phiền, thất vọng,chán nản. Họ phấn khởi đang đêm quây trở lại, không bỏ về quê nữa.
Các ông - chúng ta - đi dường, bàn tán, buồn sầu, thất vọng, chán nản... Người tiến lại đồng hành, tiếp xúc, trò chuyện... Người ở trong tha nhân, những người chúng ta gặp gở trong đời sống hằng ngày. "Người đang sống, hiện diện, hoạt động bằng Thần Khí của Người" mà chúng ta không nhận ra.
Không hiểu Kinh Thánh thì có rước lễ, ngay cả làm lễ hằng nghìn hằng triệu lần cũng vẫn không nhận ra Người vì cỏn bị che khuất.
Đức Giêsu hiện diện trong Phúc Âm. Đức Giêsu Galilê được Thần Khí mà Đức Giêsu Phục Sinh thở hơi ban cho khi Người hiện đến với các tông đồ. Thần Khí mà Đức Giêsu hứa sẽ "dẫn đưa các tông đồ dến sự thật trọn vẹn" đã từ từ trong bốn mươi ngày và mười ngày "nhắc các ông nhớ lại và hiểu thấu" những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm. Đem Đức Giêsu Phục Sinh ráp lại với Đức Giêsu Galile thì các ông biết và gặp lại Đức Giêsu trọn vẹn. Nhớ lại việc Người đã làm "tối thứ năm trước khi Người chịu chết". Biết và nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh thì họ gặp Người và tin Người đã sống lại "đang sống, đang hiện diện và đang hoạt động" với họ và nhờ họ mà mọi người tin và trở thành tín hữu. Cộng đoàn tiên khởi được hình thành và lớn lên.
Những ngưới tin chịu phép rửa, hằng ngày nghe các tông đồ dạy dổ"học kinh thánh" và tham dự nghi lễ "bẻ bánh". Và họ trở thành Ki Tô hữu và chính họ làm cho người khác thấy Chúa Kitô.
Nhờ tác động của Thần Khí, các tông đồ đã lấy các dữ liệu từ ký ức của mình mà phục chế Đức Giêsu và họ đã hiểu và đã rao giảng và cuối cùng đã ghi lại thành các sách Phúc Âm. Phúc Âm là Đức Giêsu. Chỉ có thể biết Đức Giêsu trong Phúc Âm ( không có tài liệu nào khác) còn gặp Đức Giêsu thì phải trong Bí tích Thánh Thể. Sau công thức " Đức Giêsu đang sống, đang hiện diện, đang hoạt động nhờ Thần Khí" là công thức "biết Đức Giêsu nhờ Phúc Âm và gặp Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thề ".
Nhưng lại rất bí ẩn Phúc Âm khó hiểu quá. Cho tới ngày nay các vấn đề của các sách Phúc Âm cũng chưa ngả ngủ mặc dù đã có nhiều công khó để nghiên cứu và kết quả cũng khả quan nhưng vẩn còn phải tiếp tuc..
Ngày nay những nhóm học hỏi và chia xẻ Phúc Âm mọc lên rất nhiều ở khắp nơi và kết quả rất khích lệ , Nhưng nếu không có những nhà chuyên môn hướng dẩn thì có thể bị lệch lạc..
Đời sống Kitô hữu phải được nuôi dưởng bằng Phúc Âm và Thánh Thể (không phải chỉ Thánh Thể). Những người có trách nhiệm "mục tử" trước hết phải cố gắng cho con chiên ăn Lời Chúa như của ăn chính. Phụng vụ Lời Chúa dẩn người tín hữu tới Thánh Thể thì họ mới nhận ra Chúa Giêsu và mới có gặp gở với Người. Không biết thì không có gặp gở. Đại Hội dân Chúa tại Sài Gòn vừa qua cũng có lời cầu xin: "Xin cho chúng con Lời Chúa".
------------------------------------
HAI MÔN ĐỆ VÀ CHÚA PHỤC SINH
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH, năm A
Lc 24, 13-35
Câu chuyện trên đường Emmaus là câu chuyện người Công giáo có thể nói đã thuộc nằm lòng…Các môn đệ đi theo Chúa, được Chúa huấn luyện, uốn nắn, dạy dỗ và cho các Ngài thấy các phép lạ Chúa làm. Trước cuộc khổ nạn chịu đóng đinh trên thập giá để cứu độ nhân loại, cứu rỗi con người.Chúa Giêsu đã loan báo trước cho các Ngài ba lần về cuộc thống khổ này, Người nhấn mạnh cho các môn đệ” Ngài chịu đóng đinh trên thập giá, bị chôn cất trong mồ, nhưng ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại “. Sự việc xẩy ra, các môn đệ hoang mang, lo âu, sợ hãi, các Ngài quyết định trở về nghề cũ. Phêrô lại về quê để đi đánh cá, các môn đệ khác cũng tưởng mọi sự đã hết và rồi các Ngài lại trở về với công việc thường làm. Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng mang một tâm trạng như các tông đồ khác…
Đang nao núng, xao xuyến và giao động hết mực, hai môn đệ trở về quê, họ đi trên đường Emmaus . Chúa Phục Sinh đã đồng hóa với con người, với những người nghèo. Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với con người và thực tế, con người là điểm gặp gỡ ưu việt nhất với Đức Kitô Phục Sinh. Và chính lúc này, Chúa sống lại đã hiện đến, đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus. Chúa hiện diện, đi với hai môn đệ, nhưng cách thế có mặt của Ngài lại hoàn toàn xa lạ với hai môn đệ. Bởi vì, Chúa Phục Sinh khác với trước khi Ngài còn sống với các môn đệ. Ngài sống lại nhưng Ngài muốn con người nhận ra Ngài nơi những người khác. Ngài đồng hành với hai môn đệ, nhưng họ vẫn cảm thấy xa lạ, dù rằng Chúa Phục Sinh đã giải thích Kinh Thánh, có lúc lòng họ đã hừng hực nóng lên, nhưng mắt họ chưa mở ra. Trong cuộc sống hằng ngày, có biết bao người đi với chúng ta trên đường nhưng chúng ta vẫn dửng dưng, vẫn thờ ơ, vẫn xa lạ…biết bao người gặp khó khăn, đau khổ, thử thách đang đồng hành với chúng ta nhưng trái tim của chúng ta vẫn lạnh giá, vẫn khô cứng, vẫn đóng băng vv…
Hai môn đệ trên đường Emmaus hôm nay, không phải các ông không biết Thánh Kinh, nhưng các ông đã đọc Cựu Ước, Thánh Vịnh, các Tiên tri, các ông đã học nhiều, đã thuộc lòng nhiều chương, nhiều đoạn, nhiều câu, nhưng các ông vẫn chưa hiểu được điều Thiên Chúa muốn mặc khải. Chúa Phục Sinh đến cắt nghĩa, giải thích Thánh Kinh cho hai môn đệ, Ngài kể lại cho hai môn đệ bắt đầu từ ông Môsê, các ngôn sứ đã nói về Ngài như thế nào…Kinh Thánh nói có lúc lòng các ông đã bừng cháy, nóng ran lên, nhưng mắt đức tin của các ông vẫn chưa được mở ra…mãi khi tới quán trọ, Chúa sống lại đã làm một cử chỉ hết sức quen thuộc bẻ bánh, tạ ơn và dâng chén rượu. Cử chỉ ấy làm cho mắt các ông mở ra và hai môn đệ nhận ra Ngài…Đức tin của các ông bừng dậy, niềm vui vỡ òa…Gặp gỡ Chúa Phục Sinh, nhận ra Ngài…Hai môn đệ không thể dấu được niềm vui. Các ông liền vội vã trở lại chia sẻ niềm vui ấy cho các môn đệ, các tông đồ…Hai ông thuật lại những gì trên đường đi, những điều Chúa Phục Sinh giải nghĩa Thánh Kinh, lòng các ông hừng hực nóng ran lên, và rồi mắt đức tin của họ mở ra, họ nhận ra Chúa Phục Sinh. Họ thuật lại những điều này để các tông đồ khác cũng tin và sống lại niềm hy vọng.
Hội Thánh luôn lập lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Bẻ bánh có nghĩa là dâng lễ tạ ơn đã trở thành trung tâm của đời sống Giáo Hội. Hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây trên thế giới lúc nào hy lễ tạ ơn cũng được cử hành. Giáo Hội luôn được mời gọi trở thành tấm bánh bẻ ra trao ban cho mọi người.
Vâng, Giáo Hội và ngay chính mỗi người chúng ta phải trở nên tấm bánh được bẻ ra, được nghiền nát, được ăn đi thì Giáo Hội, và chúng ta mới ra khỏi vỏ ốc ích kỷ, hận thù, ghen ghét, tự mãn, dửng dưng, xa lạ đang bủa vây mỗi người chúng ta…Chúng ta có được bẻ ra, có được ăn đi, có được nghiền nát như tấm bánh lúa mì, chúng ta mới có thể mở con mắt đức tin để nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tất cả anh chị em mà chúng ta có dịp gặp gỡ mỗi ngày…
Chúa Giêsu Phục Sinh đã mở trí mở lòng, mở mắt đức tin cho hai môn đệ trên đường Emmaus để các ông nhận ra Chúa sống lại và tìm lại được sự hy vọng, lấy lại lẽ sống cho chính mình. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đang mời gọi chúng ta làm chứng cho niềm tin, sự hy vọng và cuộc sống tràn đầy niềm vui của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã cho hai môn đệ nhận ra Chúa khi Chúa bẻ bánh, xin Chúa cũng ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con mau mắn nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tất cả mọi người chúng con gặp gỡ.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1.Tại sao hai môn đệ lại trở về Emmaus ?
2.Chúa Phục Sinh đã làm gì cho các môn đệ khi đồng hành với các ông trên đường Emmaus ?
3.Khi nào thì hai môn đệ nhận ra Chúa Phục Sinh ?
4.Hai môn đệ đã làm gì khi nhận ra Chúa Phục Sinh ?
5.Chúng ta được Chúa Phục Sinh mời gọi làm gì ?
------------------------------------
Năm 1991, khi mẹ gọi tôi tới khu nhà nghỉ mát ở Hood Canal để gặp gỡ một nhóm bạn, bao gồm cả Warren Buffett, tôi đã không muốn đi. Tôi lấy lý do là quá bận rộn với công việc, nhưng mẹ cố thuyết phục tôi rằng Warren là một người rất thú vị. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất kiên quyết: "Mẹ nhìn xem, ông ta chỉ mua và bán những mẩu giấy, chúng không đem lại giá trị thực sự. Con không nghĩ con và anh ta có nhiều điểm chung." Cuối cùng, tôi vẫn bị mẹ thuyết phục, dù trong lòng không thực sự sẵn sàng. ( Ảnh chụp Warren Buffett và vợ chồng Bill Gates ).
Khi gặp Warren ở bữa tiệc, ông hỏi tôi một số câu hỏi về kinh doanh phần mềm và tại sao một công ty nhỏ như Microsoft lại mong đợi có thể cạnh tranh với IBM ( Tập đoàn máy tính đa quốc gia lớn nhất thế giới thời điểm đó, thành lập từ năm 1911 ) và các phần mềm được thiết lập thế nào, giá cả ra sao ? Đó quả thật là những câu hỏi tuyệt vời mà chưa ai từng hỏi tôi. Chúng tôi hoàn toàn say mê với cuộc trò chuyện cùng nhau mà quên cả thời gian. Trong cuộc trò chuyện, Warren không phải một nhà đầu tư lớn, ông ấy đã rất khiêm tốn khi nói về những điều ông đã làm. Warren thật thú vị và tôi ấn tượng nhất với cách ông suy nghĩ về thế giới. Cuộc trò chuyện đó là khởi đầu cho một tình bạn sâu sắc.
Tại văn phòng làm việc, tôi chỉ lưu 2 số điện thoải khẩn cấp: số của gia đình và số của Warren Buffett. Thật tuyệt nếu ông ấy có thời gian để nghe điện thoại của tôi. Khi đó tôi sẽ liên tục học được những điều mới mẻ từ ông ấy. Warren và tôi đều thích nói chuyện về các công ty, chính trị, các sự kiện nổi bật và những đổi mới đang diễn ra trên thế giới. Thực sự thú vị khi nói chuyện với một người có cùng mối quan tâm với bạn, nhưng lại có cách phân tích dựa trên nền tảng khác biệt. Khi nhìn nhận các vấn đề, Warren dùng đôi mắt của một nhà đầu tư kinh tế và tôi thì dùng kỹ năng của một chuyên gia công nghệ.
Warren là một người hướng dẫn tuyệt với đối với tôi và Melinda. Trước mỗi thách thức, chúng tôi thường tự hỏi: "Trong tình huống này, Warren sẽ làm gì ?" Bằng cách đó, chúng tôi tìm ra giải pháp tốt nhất. Tôi và Warren gần như đồng trang lứa, nhưng thực sự đôi khi ông ấy khôn ngoan hơn nhiều. Đối với tôi, ông ấy có lẽ giống như một người cha.
Và ông ấy cũng rất tài năng khi đầu tư vào con người. Tôi luôn ngạc nhiên về cách ông ấy thu hút mọi người và khiến mọi người vui vẻ khi tiếp thu, học hỏi từ ông. Mặc dù rất bận rộn, Warren luôn sắp xếp thời gian để nuôi dưỡng tình bạn của chúng tôi. Ông thường xuyên gọi điện và gửi những bài viết ông ấy nghĩ tôi và Melinda sẽ thích.
Hơn 25 năm qua, tôi đã học rất nhiều điều từ Warren, nhưng có lẽ điều quan trọng nhất là cách ông ấy nuôi dưỡng tình bạn của chúng tôi. Thật may mắn khi có một người bạn thân ái và tử tế như Warren. Ông sẵn sàng giúp mọi người cảm thấy tốt hơn về bản thân và chia sẻ niềm vui trong cuộc sống. Cho đến bây giờ, mỗi khi có dịp tới Omaha, Warren vẫn lái xe tới sân bay để đón tôi. ( Thu Hoài, Thâm tình hơn 1/4 thế kỷ của hai tỷ phú giàu nhất thế giới: Bill Gates và Warren Buffett, Tri thức trẻ ).
Hai tỷ phú Warren Buffett và Bill Gates đang đồng hành với nhau, dù khác ngành nghề kinh doanh, nhưng đều hiệp nhất, chia sẻ quan niệm sống, giúp nhau hướng thượng, làm từ thiện. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu phục sinh cũng âm thầm, lặng lẽ đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Người chia sẻ tâm tư, từ Lời Chúa đến Thánh Thể, khiến nhị vị nhận ra chính Người.
Chia sẻ tâm tình
“Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmau, cách Giêrusalem độ 11 cây số. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra.” Đức Giêsu mong muốn các môn đệ luôn kết hiệp với nhau vì danh Chúa. Nên thấy hai người buồn nản, đau khổ, mất phương hướng, sau khi Người chịu chết và mai táng trong mồ, Người đã phục sinh, hiện ra an ủi, chia sẻ tâm tình thất vọng, lo âu, sợ hãi quyền lực đen tối. “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ” ( Mt 18, 19-20 ).
Cầu nguyện chung là phương thức cổ võ và duy trì bác ái và hiệp nhất trong cộng đoàn, qua tâm đầu hiệp ý và nhân danh Đức Giêsu. “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” ( Ep 4, 3 ).
Khi đồng hành cùng hai môn đệ, Đức Giêsu liền thân ái thăm hỏi:"Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Người luôn ân cần quan tâm đến người đi cùng, tích cực an ủi, chia sẻ và nâng đỡ.
Chia sẻ Lời Chúa
Sau khi ân cần hỏi han sự tình mới xảy ra ở Giêrusalem, hiểu rõ tâm tình thất vọng của hai môn đệ, vì còn chìm đắm u mê, Người liền chia sẻ, giải thích sứ vụ của Đấng Cứu Thế, phải trải qua bao khổ nạn và chịu đóng đinh, rồi sống lại, y như Kinh Thánh đã tiên báo. “Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người.” Khiến lòng trí họ mở ra đón nhận ánh sáng Tin Mừng: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư ?" Bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. ( Tv 119, 105 ).
Chia sẻ Thánh Thể
Nhờ Lời Chúa khai hoá, xua tan mây mù thế gian, đốt lên ngọn lửa mến, niềm tin, lòng cậy trông, hai môn đệ hiệp nhất, đồng tâm, đồng thanh mời Đức Giêsu ở lại. Họ muốn chia sẻ với Người nơi ăn nghỉ, cùng tha thiết được chia sẻ hơn nữa. “Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người.”
Ánh sáng Lời Chúa lại thêm tỏ tường, rạng rỡ, chói loà khi Người lập lại cử chỉ bẻ bánh. Hai môn đệ hân hoan nhận ra ngay chính Người là Đức Giêsu Phục Sinh, vị Thầy muôn thuở, đã tận tình dìu dắt, chỉ dạy cho họ suốt ba năm qua. Người đã lập nên Bí Tích Thánh Thể, vốn là tuyệt đỉnh tình yêu, hoàn toàn dâng hiến, hy sinh, trở nên lương thực cho nhân loại. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” ( Ga 15, 13 ).
Hằng ngày cùng với Chúa Giêsu, con dâng hiến mình, sẵn sàng từng giây phút, để "bị nộp" vì anh em con, để "đổ máu ra cho nhiều người được tha tội” ( Đường Hy Vọng, số 377 ).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót đồng hành cùng chúng con, để chúng con luôn được chia sẻ Lời Chúa và Mình Máu Chúa .
Khấn xin Mẹ thương yêu cầu bầu cho chúng con luôn được Chúa Giêsu đồng hành trong từng giây phút cuộc đời. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
------------------------------------
Suốt Mùa Chay, Tuần Thánh và Phục Sinh, chúng ta đã đi với Đức Giêsu trên nhiều con đường con đường vào thành thánh Giêrusalem, con đường Thánh Giá từ Giêrusalem lên Núi Sọ, con đường từ Núi Sọ đến mộ phần, con đường từ mộ phần mà tảng đá lấp kín cửa “đã lăn ra khỏi mộ” đến Galilê, ở đó Đức Giêsu phục sinh hẹn gặp chúng ta, cũng như đã hẹn gặp các môn đệ của Ngài.
Như đã sai các môn đệ từ Galilê, Đức Giêsu cũng sai chúng ta đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo “Tin Mừng Chúa đã chết và đã sống lại. Chính Ngài là Đấng Cứu Độ muôn dân”, và truyền cho chúng ta làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Ngài (x. Mt 28,19). Nhưng hành trang nào chúng ta cần trang bị để đi trên con đường Truyền Giáo không biên giới này ?
Nói về hành trang của người môn đệ được sai đi thì qủa là câu chuyện “lạc đề truyền giáo”, vì Đức Giêsu “đã chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng ; được đi dép nhưng không đuợc mặc hai áo” (Mc 6,8-9).
Không những rõ ràng, chính xác, mà còn dứt khoát, triệt để, quyết liệt. Với chỉ thị này, các môn đệ lên đường mà không hành trang ; đi đường mà không rương hòm ; đi xa mà không sắc tay, bóp ví ; truyền giáo mà túi rỗng, tay không ; loan báo Tin Mừng mà không một phương tiện “truyền thông” cần thiết.
Vì thế, khi đọc chỉ thị về hành trang truyền giáo của Đức Giêsu truyền cho các môn đệ của Ngài, cảm tưởng “có cái gì qúa đáng, bất khả thi, lỗi thời” nẩy sinh và làm chúng ta chút ít nghi ngờ tính khả thi và hữu hiệu của chỉ thị.
Chúng ta nghi ngờ tính bất khả thi của chỉ thị “không được mang gì”, vì nhà truyền giáo lên đường không hành trang như Đức Giêsu căn dặn thì chỉ có nước chết đói trước khi đến được nơi truyền giáo ; thi hành chỉ thị “không bao bị” của Đức Giêsu thì hầu như mọi việc sẽ bị đình trệ, hoặc bế tắc, vì không tiền, không bạc, không phương tiện vật chất thì chẳng làm được việc gì trong xã hội mà “mọi việc đều phải giải quyết bằng tiền hoặc bằng rất nhiều tiền” ; thực hiện không sai sót huấn lệnh “không thu gom, góp nhặt tiền bạc” của Đức Giêsu thì người môn đệ sẽ nắm chắc “ăn đường ngủ chợ”, vì tìm đâu ra người tốt bụng cho “ăn nhờ ở đậu” mà không tính toán, không trao đổi sòng phẳng khi đón tiếp vào nhà, và rộng rãi nuôi ăn, vì người tử tế, tốt bụng thật qúy hiếm, tựa mò kim đáy biển ở xứ sở “không ai dám tin ai” và thời đại thực dụng, ích kỷ “tận răng” hôm nay.
Chúng ta cũng nghi ngờ tính hữu hiệu của chỉ thị “truyền giáo không hành trang”, vì hôm nay không phải hôm qua, thời này và thời xưa khác xa hoàn toàn, nên truyền giáo mà không điện thoại, không xe pháo, không thẻ ngân hàng, thì khó mà xong việc ; truyền giáo mà nay đau mai ốm, lại không tiền, thì nhiều người không thích làm bầu bạn, cả anh em và bề trên đến một lúc cũng mệt mỏi, ngao ngán, nhạt nhẽo ; nhất là khi về già, người môn đệ không còn “năng xuất”, tức khả năng sản xuất, khả năng làm việc, tình hình sẽ khó và xấu hơn nhiều, kéo theo mức độ lệ thuộc trầm trọng làm người môn đệ hết thời nghẹn ngào tủi thân, xót xa số phận.
Vậy đâu là ý của Đức Giêsu khi ra chỉ thị xem ra gắt gao, chặt chẽ này?
Khi căn dặn các môn đệ đừng mang theo gì khi lên đường truyền giáo, Đức Giêsu muốn các ông nắm vững hai điều
· Chính Ngài sai các ông đi, và chính Ngài sẽ lo liệu tất cả cho các ông.
Khi biết các ông lo lắng phải ăn gì, mặc gì, ở đâu, làm cách nào có tiền để giải quyết công việc, nhu cầu trên đường truyền giáo, Đức Giêsu đã trấn an bằng ban cho các ông quyền “chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma qủy” (Mt 10,8). Với quyền này, các ông sẽ an tâm, vì biết Thiên Chúa ở với các ông, và người ta sẽ nhận ra các ông là người được Thiên Chúa sai đến để phục vụ họ. Và như người được sai đến để phục vụ, các ông sẽ được mọi người kính nể, ngưỡng mộ, yêu mến, giúp đỡ.
Đồng thời, trước khi ra chỉ thị đừng kiếm chác vàng bạc, cũng đừng mang theo bao bị lỉnh kỉnh, Đức Giêsu còn xác tín với các ông một điều quan trọng là các ông đừng lo gì, vì các ông sẽ nhận được rất nhiều, và sẽ không thiếu thốn gì, khi bảo các ông “Anh em đã được cho nhưng không, thì cũng phải cho nhưng không” (Mt 10,8).
Tóm lại, Đức Giêsu là người bảo đảm an sinh bản thân và xã hội cho những người Ngài sai đi, vì Ngài biết chúng ta cần gì, và ngày mai, cũng như sự sống, sự chết của chúng ta luôn thuộc về Ngài (x. Mt 6,25-34).
· Sứ mệnh duy nhất, công việc duy nhất của Ơn Gọi làm môn đệ là loan báo Nước Trời:
Sở dĩ chỉ thị “truyền giáo không hành trang vật chất” được Đức Giêsu ban bố một cách nghiêm nghị, cứng rắn, vì Ngài muốn nhấn mạnh ý muốn của Ngài, đó là ngoài sứ mạng loan báo Tin Mừng, ngoài công việc rao giảng Nước Thiên Chúa, ngoài sứ vụ tuyên xưng và giới thiệu “Đức Giêsu đã chết và sống lại” cho muôn dân, các môn đệ không còn một công việc, sứ mạng, sứ vụ nào khác phải làm và được phép làm, nghiã là không được chèo kéo thêm một nghề nghiệp nào khác ; không được móc ngoặc thêm dịch vụ to nhỏ, gầy béo, xa gần nào khác ; không được thủ thân, thủ phận bằng một toan tính, kế hoạch, cơ đồ nào khác, vì tất cả những gì lệch ra ngoài việc Loán Báo Nước Trời sẽ làm sao lãng sứ vụ phục vụ Tin Mừng, làm xa dần sứ mạng loan báo Đức Giêsu, làm lạc lối bước chân người môn đệ được sai đi truyền giáo.
Cũng bởi cám dỗ lo cho an ninh bản thân, lo cho an sinh trăm phần trăm được bảo đảm, lo cho ngày mai tự do, độc lập, không lệ thuộc ai, không tùy thuộc cơ chế nào là cám dỗ rất khủng khiếp không chỉ với người môn đệ, mà với tất cả mọi người, nên Đức Giêsu đã tỏ ra dứt khoát với chỉ thị này.
Không muốn các môn đệ quên mình được chọn và sai đi cho duy nhất một Ơn Gọi, một sứ mạng, một sứ vụ Loan Báo Đức Giêsu chịu đóng đinh, rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần, và “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), Đức Giêsu còn biết rõ chỉ có thể thực hiện được đòi hỏi thiêng liêng “loan báo Nước Trời”, nếu các môn đệ được sai đi hoàn toàn tách mình khỏi vấn vương vật chất, gỡ mình khỏi dan díu của cải, tự nguyện buông bỏ ràng buộc của thế gian dưới mọi hình thức, kiểu cách, mức độ, để toàn tâm, toàn ý, toàn thân thuộc về Đức Giêsu phục vụ Tin Mừng.
Hiểu như thế, chúng ta sẽ không còn thấy cái áo, cái quần, cái bao, cái bị, cây gậy, đôi giầy… là chính yếu, nhưng chính yếu là tinh thần từ bỏ và phó thác ; không còn nhìn ngó người anh em môn đệ bên cạnh có gì, người anh em cùng đi truyền giáo mang gì, vì tất cả chỉ là thứ yếu, khi cái chính yếu là tình trạng thư thái, nhẹ nhàng, không bị của cải ràng buộc, không bị tiền bạc trói chặt, không bị những giá trị trần tục linh tinh khác cầm chân, để người môn đệ có thể nâng tâm hồn lên với Chúa và tự do đến với mọi người mà không phải qua bất cứ cửa ải, trạm kiểm soát, hàng rào an ninh, quan thuế nào.
Xác định được điều chính yếu của chỉ thị “truyền giáo không hành trang vật chất” rồi, chúng ta mới thấy được giá trị của hành trang thiêng liêng mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải có trên đường truyền giáo.
Nếu Tin Mừng Mátthêu (10,1-16) tường thuật chi tiết cảnh Đức Giêsu sai mười hai tông đồ đi truyền giáo và chỉ thị “không được mang theo hành trang vật chất”, thì Tin Mừng Luca (24,13-35) vẽ lại cảnh Đức Giêsu đồng hành với hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau, sau khi Ngài sống lại, cũng với chỉ thị về hành trang, nhưng là chỉ thị về “hành trang thiêng liêng phải mang theo” trên đường truyền giáo, khác với chỉ thị ở Tin Mừng Mátthêu không được mang theo hành trang vật chất:
Trên con đường buồn thê lương, ảm đạm về Emmau, một làng “cách Giêrusalem chừng mười một cây số” (Lc 24,13), hai môn đệ kể cho nhau những chuyện buồn đã xẩy ra cho Thầy mình và cho nhóm các ông, những môn đệ của Đức Giêsu, hai ông phần vì chán nản, thất vọng, phần vì “chậm tin vào lời các ngôn sứ” (Lc 24,25), và quên bẵng Lời Hứa “ngày thứ ba sẽ sống lại từ cõi chết” của Đức Giêsu, nên đã không nhận ra Ngài, khi Ngài đồng hành và nói chuyện với các ông.
Trong suốt hành trình, Đức Giêsu sau khi lắng nghe tâm sự buồn của hai ông, đã cắt nghiã Kinh Thánh cho hai ông “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27), và nhắc hai ông một điều rất quan trọng “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).
Nhận lời mời của hai môn đệ “khi gần tới làng họ muốn đến” (Lc 24,28), Đức Giêsu đã ở lại với họ. Và “khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người…” (Lc 24,30-31).
“Nhận ra Người, tức nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã chết và sống lại” là mục đích của truyền giáo, là mơ ước, khát khao, thao thức, khắc khoải của nhà truyền giáo. Và hôm ấy, trên đường Emmau, chính Đức Giêsu đã đóng vai nhà truyền giáo khi làm cho hai môn đệ “nhận ra Người”.
Đức Giêsu đã làm cho hai ông nhận ra Người là Thiên Chúa khi cắt nghiã Kinh Thánh, và đồng bàn chia sẻ lương thực với hai ông. Ngài đã thi hành sứ vụ truyền giáo cho hai môn đệ của mình, vì các ông “chẳng hiểu gì cả” và lòng trí lại chậm tin (x. Lc 24,25).
Như thế, hành trang truyền giáo mà Đức Giêsu không những chỉ thị cho chúng ta phải trang bị, mà còn tự mình thực hành sứ vụ truyền giáo với hành trang đó trên đường Emmau chính là Lời Ngài và Mình Máu Ngài. Hai hành trang thiêng liêng không thể thiếu cho người môn đệ, hai bao bị không thể bỏ quên trên đường truyền giáo, cũng là đôi dép và cây gậy không thể rời xa người được sai đi.
Lời Chúa và Thánh Thể là hành trang Đức Giêsu muốn và chỉ thị người được sai đi phải có, phải mang theo, phải gắn bó thiết thân, phải yêu mến tận tình, phải phục vụ tận tụy, vì Lời Chúa và Thánh Thể là nguồn mạch cứu độ, là ánh sáng và sự sống đời đời, bởi Lời và Mình Máu Chúa là chính Chúa, Đức Giêsu - Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Nếu hai môn đệ trên đường Emmau, khi ngthe Đức Giêsu nói chuyện và giải thích Kinh Thánh đã thấy “lòng bừng cháy lên” (Lc 24,32) thì trái tim người được rao giảng cũng chỉ bùng sáng khi Lời Thiên Chúa được gieo vào tâm hồn họ. Nếu mắt hai môn đệ trên đường Emmau đã chỉ “mở ra và họ nhận ra Người ”, khi Đức Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30-31), thì mắt người được loan báo Tin Mừng, mắt người chưa nhận ra Đức Giêsu, mắt người ngoại đạo sẽ chỉ mở ra khi Thánh Thể được cử hành, để nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất quyền năng và nhân hậu.
Vì thế, ngoài hành trang Lời Chúa và Thánh Thể, người môn đệ không thể trông cậy vào bất cứ hành trang nào khác, dù là những hành trang đầy giá trị của quyền lực, của cải, thế giá, ảnh hưởng, tài giỏi, khôn ngoan… để làm cho người khác nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa và “làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Ngài”, bởi việc thánh hoá tâm hồn, đổi mới con tim, cải thiện đời sống thuộc quyền của Thiên Chúa, tuy có cần sự cộng tác của con người, nên phương tiện, cách thế được xử dụng cũng phải là phương tiện, cách thế của Thiên Chúa.
Vâng, là người Kitô hữu với ơn gọi và sứ mạng loan báo “Đức Giêsu chịu chết và sống lại”, chúng ta không thể bỏ quên Lời Chúa và Thánh Thể là hành trang vô cùng quan trọng, không thể thiếu, không thể xa chúng ta dù một bước trên đường truyền giáo. Nếu không, tất cả thiện chí, ước mơ, cố gắng, công trình truyền giáo của chúng ta sẽ trở nên vô ích, và không mang lại ơn ích thiêng liêng cho ai, kể cả cho chính chúng ta, vì ngoài Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta không giúp lòng trí ai “bừng cháy lên được”, cũng như không thể cộng tác với Thiên Chúa làm cho mắt muôn người “mở ra và nhận ra Người”.
Jorathe Nắng Tím
------------------------------------
Thấy các môn đệ vừa đau buồn vừa chán nản, Đức Chúa Giêsu đã hiện ra với các ông nhiều lần PS3-A109
Thấy các môn đệ vừa đau buồn vừa chán nản, Đức Chúa Giêsu đã hiện ra với các ông nhiều lần để giải độc cho tư tưởng của các ông và giúp cho niềm tin của các ông khỏi suy sụp.
Có hai môn đệ đã đợi đến trưa ngày thứ ba, tức ngày Chúa Nhật, sau khi Chúa Giêsu tắt thở trên khổ giá mà chẳng thấy gì như Chúa đã tiên báo. Các ông vừa buồn vừa sợ vạ lây vì các tư tế và luật sĩ như muốn nhổ tận gốc những ảnh hưởng của Chúa Giêsu. Các ông sợ giáo quyền Do Thái sẽ có cuộc truy bắt chăng? nên bỏ Giêrusalem về miền quê tránh nguy hiểm và tiếp tục công việc làm ăn.
Nhưng như Kinh Thánh nói, Chúa yêu các môn đệ và yêu đến cùng nên đã ẩn mình làm khách bộ hành cô đơn, đến nhập bọn với hai ông khi hai ông đang đi trên đường về quê. Đức Giêsu gợi truyện để giải thích cho các ông về biến cố mới xảy ra tại Giêrusalem là cuộc tử nạn phục sinh của Chúa. Ngài đã trưng Kinh Thánh và lời các tiên tri để cho các ông thấy đó là chương trình cứu độ của Thiên Chúa và cũng là kế hoạch tình yêu Thiên Chúa thương loài người.
Đấng Cứu Thế phải chịu khổ cực rồi mới sống lại vinh quang. Cuộc tử nạn của Đấng Cứu Thế bị coi như thất bại, nhưng lại là đòn chí tử đập tan vương quốc Satan mà Satan không ngờ. Sự phục sinh của Chúa là chiến thắng vẻ vang và vĩnh viễn loại Satan ra khỏi vòng chiến. Nó sẽ còn bám sát Hội Thánh để phá phách công trình của Chúa và lôi kéo nhiều linh hồn xa Thiên Chúa.
Nhưng chính sự phá phách của Satan lại là cách Chúa cảnh giác Hội Thánh và để con cái Chúa phải luôn luôn đề phòng. Vì nếu không có cám dỗ, không có thử thách, không có khổ đau, Hội Thánh không có kinh nghiệm để tiến, các linh hồn không có cơ hội để nói lên niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô. Đường lối của Chúa phải khổ đau vì luôn chiến đấu với chính mình và với ma quỷ để trung thành với Chúa. Chúng ta chọn theo Chúa vì chúng ta tin Chúa yêu chúng ta, chúng ta kính mến Chúa và muốn được đời đời thuộc về Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giữa cuộc đời nhiều khó khăn thử thách, gánh nặng của bổn phận, cám dỗ của trần gian. Có lúc thập giá ra như quá nặng trên đôi vai chúng con, khiến chúng con những muốn gục ngã và bỏ cuộc.
Lạy Chúa, có những lúc trong cuộc sống đức tin, chúng con bước đi với lòng buồn sầu thất vọng vì tưởng mình cô đơn, thiếu vắng sự nâng đỡ của Thiên Chúa, nhất là trong những khi gặp đau khổ và thử thách. Xin dạy chúng con biết “đồng hành” với Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin mở mắt, để chúng con nhận ra Chúa luôn hiện diện bên chúng con. Xin mở tai để chúng con nhận ra tiếng của Chúa qua những người chúng con gặp gỡ.
Dù cuộc sống của chúng con có lỗi lầm, cũng xin Chúa soi dẫn, để chúng con biết giúp người khác nhận ra Chúa trong cuộc đời của họ, để đời chúng con luôn tràn ngập tiếng ngợi ca “Alleluia! Alleluia! Chúa sống lại thật rồi”. Amen.
------------------------------------
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con vẫn nhớ hoài câu nói của người xưa “ biết người biết ta PS3-A110
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con vẫn nhớ hoài câu nói của người xưa “ biết người biết ta trăm trận trăm thắng…” và hơn thế nữa với Lời Chúa nói với ông Nicôđêmô khi ông đến gặp Chúa vào một đêm tăm tối “ Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra từ trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.” ( Ga 3, 7-8)
Nghe vậy: Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Người: “Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được? “10 Đức Giê-su đáp: “Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện ấy! ( Ga 3, 9-10)
Và “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3, 16-17)
Vì vậy, chúng con có thể quả quyết một điều chắc chắn là, khi không có sự “nhận biết” ngay cả một chuyện nhỏ nhặt, tầm thường…thì cũng chẳng thể hiểu được điều gì cho nên! Điều này cũng tương tự như khi Chúa đến trần gian và tới thời điểm Chúa thi hành sứ vụ, Chúa đã kêu mời và đón nhận những người có lòng thành tâm muốn đi theo Ngài.
Các môn đệ theo Chúa chỉ có ba năm sống gắn bó với Chúa, để học với Chúa qua những Lời Chúa giảng dạy cũng như việc Chúa làm lúc có đông người hay là lúc riêng tư; lúc có những người đối kháng hay trước những người đang khao khát chân lý, lẽ sống…mà chẳng biết lần mò ra sao cho đúng, cho phải…
Tuy Chúa đã tận tình và nhiệt thành biểu lộ ý muốn của Thiên Chúa cho con người được rõ, để con người nương vào đó mà tiến tới cuộc sống hạnh phúc viên mãn muôn đời. Nhưng, với trí óc có ngần có hạn; với tầm nhìn còn hạn hẹp; với suy nghĩ không cao sâu, không vượt khỏi cái đầu….đã dẫn con người đến chỗ không có bền lòng, vững chí cho đến cùng, nhất là sau khi chứng kiến tận mắt Chúa chịu chết nhục nhã trên thập giá, được an táng trong một ngôi mộ đá và được niêm phong kỹ càng, cũng như được canh gác cẩn thận, đề phòng những trường hợp bất trắc xảy ra…!
Mặc dù là sau này các ông đã được nghe một số người thân tình nói là Chúa đã sống lại, nhưng vẫn không tin để mà nhớ lại rằng chính Ngài đã quả quyết trước đó “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ba ngày sau Ngài sẽ sống lại” (Mc 9, 31.)
“ Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại… nhưng ba ngày sau Ngài sẽ sống lại…” (Mc 10, 33- 34).
Bởi vậy, không có lạ gì khi trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc hai môn đệ buồn sầu khi phải bỏ Giêrusalem để trở về chốn cũ sau 03 năm trời đã bỏ mọi sự mà Theo Chúa.
Ba năm trời tuy ngắn ngủi, nhưng các ông đã đặt mọi hy vọng vào Chúa, giờ thì thất bại ê chề chẳng còn gì để mà nói! Bởi vậy, trên quãng đường trở về đó lòng các ông trĩu nặng. Trĩu nặng đến nỗi chẳng còn nhận biết người khách vừa nhập bọn với các ông là ai, mà chỉ còn biết than thở để trút đi phần nào nỗi ưu sầu đang chất chứa trong cõi lòng.
Khi Chúa Giêsu hỏi: "Các ông có chuyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Ngay cả khi Chúa soi lòng mở trí cho các ông được am hiểu Kinh Thánh như xưa Chúa vẫn làm, thế mà các ông vẫn chẳng hiểu gì hết!
Tuy con người các ông vẫn còn vướng vào cái giới hạn của phận người! Nhưng, các ông vẫn chưa đánh mất những hình ảnh quen thuộc mà trong ba năm sống gắn bó với Chúa các ông không thể nào quên, đó là điều Chúa mời gọi, nhắn nhủ vào những giây phút cuối đời “ Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau…” ( Ga 13,35)
Chính vì vậy, khi tới làng của các ông, cũng như lúc này trời đã về chiều, các ông đã nhiệt tình mời Chúa ở lại cũng như là sẵn sàng tiếp đón Chúa bữa cơm chiều: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Để rồi sau đó sự việc đã bất ngờ xảy ra làm cho các ông nhớ đến việc Chúa đã làm và dặn dò các ông trước đó “ Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"
Giờ thì việc Chúa Sống Lại không còn hồ nghi gì nữa nơi các ông, để rồi các ông mau mắn từ giã sự ưu phiền, buồn sầu…và giã từ ngay cả màn đêm đang buông xuống để tức tốc trở về Giêrusalem cội nguồn ánh sáng, vinh quang đang bừng lên nơi con người của các ông. “Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.”
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, kinh nghiệm quý báu và thật là đắt giá của hai môn đệ buồn sầu đang trên đường trở về chốn cũ cũng như cho người tín hữu chúng con, nhất là khi chúng con gặp thử thách, hay gặp những cản trở từ chính bản thân hay từ người khác trong xã hội hôm nay.
Điển hình như qua cơn dịch bệnh Covit – 19 đang tung hoành trên đất nước chúng con cũng như trên toàn thế giới một cách khốc liệt! Mặc dù là cơn dịch bệnh này đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp chẳng thể nào ngờ! Nhưng, bên những người có bổn phận và trách nhiệm trong xã hội đã lao vào cuộc chiến để ngăn chận, thì bên cạnh đó trong Giáo Hội, qua Đức giáo hoàng Phanxicô, ngài đã thể hiện trách nhiệm lãnh đạo về mặt tinh thần một cách rõ nét, chẳng hạn như yểm trợ khẩu trang, tiền bạc…cho những nơi khó khăn, thiếu thốn nhất; chẳng hạn như thân hành đến những nơi cần thiết để cầu nguyện cho mọi người trong mọi phương diện trong cơn dịch bệnh này; chẳng hạn như dùng quyền mà ngài có để trấn an, nâng đỡ mọi người khi phải đối diện với cơn dịch bệnh trong bất cứ trường hợp nào…
Gần hơn nữa là qua các Đức giám mục, các linh mục và người tín hữu trong nơi chúng con đang sống… mà chia sẻ, nâng đỡ cũng như ủi an mọi người…bằng những gì mà Chúa ban cho từng người. Làm sao chúng con có thể quên được hình ảnh sống động đã diễn ra tại giáo họ Bảo Ngọc và Bá Cầu của giáo xứ Hữu Cầu của giáo phận Bắc Ninh ngoài Miền Bắc, thuộc xã Sơn Lôi, Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) Khi nơi này phải sống trong tình trạng cách ly bắt đầu từ ngày 13/2 và kéo dài khoảng 21 ngày. Một vị linh mục rất trẻ Giuse Hoàng Trọng Hữu của giáo phận đã tình nguyện đi vào để sống chia sẻ và làm những việc cần thiết về mặt tinh thần cho mọi người kể cả lương dân trong thời gian cách ly đó.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, tuy chúng con đã được thôi thúc bởi rất nhiều gương sáng đang diễn ra ngay trước mắt, và những gương sáng này trở thành nguồn sống can đảm, mạnh mẽ… cho chúng con, nhờ đó chúng con không ngừng cố gắng viết tiếp nét đẹp rạng ngời đó ngay trong cuộc sống của chúng con hôm nay, để cho “ Danh Chúa được cả sáng…”
Và chúng con cảm nhận thật là hãnh diện trước những việc làm tuy nhỏ bé và tầm thường ấy. Nhưng khi đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay, để rồi cẩn thận xét mình và đối chiếu lại với trường hợp của hai môn đệ trên đường về lại chốn cũ năm xưa mà chợt giật mình! Vì con người yếu đuối, xấu xa, tội lỗi của chúng con vẫn còn đó! Để không ít lần sự xấu, sự ác, sự dữ… đầy ắp trong cõi lòng! Cũng như lâm vào tình trạng ẩn dấu, lánh xa…vì sợ bị mất mát, sợ thiệt thòi… khi người khác đang cần đến sự trợ giúp, sự cứu chữa, sự an ủi, sự chia sẻ… của chúng con!
Vì vậy, lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Ngài thêm sức, soi sáng…trên chúng con trong mọi hoàn cảnh, trong mọi biến cố…để chúng con luôn có lòng nhiệt thành làm việc “ nhà Chúa ”, để qua đó mọi người được “ nhận biết Chúa ” mà làm cho “ Danh Chúa ” được cả sáng ngay trong cuộc sống đầy gian nan, thử thách này.
Thiên Quang sss
------------------------------------
Tôi cứ tưởng, Anh cứ tưởng, Em cứ tưởng…Và mọi người cứ tưởng cuộc đời sẽ tươi đẹp mãi PS3-A111
Tôi cứ tưởng, Anh cứ tưởng, Em cứ tưởng…Và mọi người cứ tưởng cuộc đời sẽ tươi đẹp mãi …như là chúng ta tưởng. Nào ngờ đây khi đụng chạm đến thực tế thì lại không thể nào được như vậy, mà trái lại chúng còn quá phũ phàng đến chẳng thể nào ngờ được!
Chẳng hạn như đối với cô Jacqueline Đặng đăng quang Hoa hậu Việt Nam Toàn cầu vào năm 2017 (một cuộc thi sắc đẹp được tổ chức tại Mỹ), Hoa hậu Sắc đẹp Quốc tế 2018 và Hoa hậu Quốc tế Hành tinh 2019 tại Campuchia, cô giành được ngôi vị Hoa hậu nhân ái - Miss Humanitarian 2019, đồng thời lọt top 16 chung cuộc. . . cuộc đời của cô thật là đang lên như diều gặp gió. Cô còn là sinh viên đại học bang Arizona, và đang hoàn thành năm cuối của trường đại học. Đối với bố mẹ của cô, cô là người con duy nhất đã làm cho bố mẹ đầy hãnh diện.
Jacqueline Đặng còn được biết đến là cô gái nhân hậu. Cô được biết đến qua sự tham gia tích cực các hoạt động xã hội. Chẳng hạn như việc Cô đã tham gia và tự tay sắp xếp các chuyến đi thiện nguyện vì trẻ em nghèo cơ nhỡ tại Việt Nam trong mỗi lần có dịp về thăm quê hương. Năm 2019 vừa qua , Jacqueline Đặng đã thăm hỏi và tặng nhiều phần quà giá trị cho trẻ em nhiễm AIDS tại làng Aids Mai Hoà – Củ Chi - nhân dịp Giáng Sinh.
Vậy mà, Cô đã ra đi sau một cơn bạo bệnh khi mới bước vào tuổi 22, để lại bao nhiêu thương tiếc cho mọi người, nhất là cho gia đình, như lời chia sẻ của bố Jacqueline: "Mỗi lần nhìn vào di ảnh con gái, tôi không thể cầm lòng được. Gia đình quá đau đớn trước sự ra đi đột ngột của con. Tôi sẽ thay con hoàn thành những việc mà con chưa kịp thực hiện"
Và Ông cho biết vào tháng 8 tới đây, ông sẽ quay về Việt Nam để thực hiện các hoạt động thiện nguyện mà con gái đang dở dang.
Mới đây, câu chuyện khác đề cập đến một đại gia ở thành phố Thái Bình có tên là “Đường Nhuệ” nổi tiếng là chịu chơi, chịu giao thiệp đã bị bắt chỉ vì một chuyện xô sát nho nhỏ, để rồi sau đó bị khui ra bao chuyện động trời ngang ngược ai nghe thấy cũng phải rùng mình khiếp sợ! Nhất là mọi người được nghe lại câu khẳng định đầy vẻ hành xử ngang ngược, ngang tàng đầy thách thức khi dám lên mạnh miệng tuyên bố “tao số 2 thì không ai số một”
Trước sự thật đầy phũ phàng, bỉ ổi mà con người ấy ẩn núp dưới những vỏ bọc tốt lành được kéo dài khá lâu đến giờ mới bị phơi trần…, làm cho nhiều người phải giật mình kinh hãi mà có đề nghị phải truy cho bằng được ai đã cho dựa hơi để vợ chồng đại gia này tác oai tác quái làm khổ biết bao người với một mức độ qua nhiều năm như thế!
Cứ tưởng với một phong cách hoàn hảo không một ai ngờ, cuộc đời của vợ chồng đại gia này cứ như diều gặp gió, phất lên tới tận trời cao, nào ngờ chỉ một giây phút sự cố vụn vặt đến không thể kìm hãm được tính tự cao tự đại của mình đã làm sụp đổ tất cả mọi sự! Để rồi ai nhìn vào cũng phải lắc đầu, ngày xưa ở trên đỉnh vinh quang như thế nào thì giờ đây coi như bị vùi dập xuống bùn đen cỡ đó! Và lỡ mai mốt có qua cơn hoạn nạn này và bước đi lên trở lại thì chắc chắn chẳng bao giờ có còn được ánh hào quang ngày xưa, dù là chỉ một chút xíu!
Thế giới con người hôm nay cũng đâu có ngờ một con Virus Corona xuất hiện, đã tung hoành khắp mọi nơi, để lại bao thảm họa cho con người.
Con Virus ấy, mới đầu phát xuất từ Vũ Hán bên Trung Quốc, ai cũng tưởng là chuyện con Virus ấy mà, có gì mà phải ầm ĩ. Nào ngờ, nó gây tại họa cho nơi đây. Trong khi ấy thế giới nhìn vào cứ nghĩ là mình chẳng có dính dáng gì, nên chẳng có sợ!
Thế rồi, nó như ánh sáng mặt trời, len lỏi, xâm nhập từng bước, từng bước…chỗ này nơi kia…với một tốc độ chóng mặt, làm cho mọi người xoay sở, ứng phó chẳng kịp, dẫn đến nhiều tai họa thảm khốc!
Chết người đã vậy, còn kéo theo nhiều sự nguy hại khác! Giờ thì mọi người, mọi quốc gia đang tìm đủ mọi cách để hạn chế lây lan và sau đó là tìm cách loại trừ chúng khỏi cuộc sống của con người cũng như của trái đất này. Nói thì đơn giản và dễ dàng trơn tru…như thế đó. Nhưng đến bao giờ chúng biến mất thì có lẽ chưa có ai xác định được một cách dứt khoát, rõ ràng!
Đó mới là loại trừ chúng thôi, để rồi sau đó cuộc sống được tạm ổn định, trở lại bình thường như lúc chưa có dịch thì cũng là một chuyện không có được ngày một ngày hai... Vì trong thời gian chống đỡ cơn đại dịch này đã dẫn ra rât nhiều sự thay đổi.
Cứ nhìn vào đất nước trong thời gian vừa qua với sự cách ly qua 15 ngày có biết bao chuyện không ngờ xảy ra. Sau đó, lại thêm một tuần nữa, nhưng trong một tuần này lại chia ra làm ba thành phần: Nguy hiểm nhất là nhóm thứ nhất; nhóm thứ hai thì nới rộng hơn; nhóm thứ ba thì được nới rộng, nhưng cũng chưa phải là hoàn toàn. Nhưng, nhiều tỉnh thành ở trong nhóm thứ ba cũng có những biện pháp chặt chẽ không ngờ. Vì rất sợ nhỡ ra có chuyện gì thì lại rất là khổ! Chi bằng cứ chắc ăn là tốt nhất. Có khó chịu một chút, nhưng rồi cũng qua… thì mới là điều đáng mừng!
Đến giờ, thì một tuần nữa cũng qua đi, sự cách ly lại được mở rộng hơn chút nữa, cuộc sống ngày xưa đang dần dần được mở ra. Nhưng sự cảnh báo phải đề phòng vẫn còn bám lấy con người, bởi con Virus này vẫn treo lơ lửng trên đầu. Vì vậy, vẫn cần có những biện pháp tối cần thiết không thể nào thiếu được.
Nghĩ thì nghĩ phải là như vậy, nhưng đối với người dân thì ngán lắm rồi, nhất là đối với những người lao động, những người nghèo…mặc dù họ được chính phủ quan tâm, cũng như được các đoàn thể và tổ chức tôn giáo được kêu gọi và cũng bằng nhiều hình thức đã yểm trợ tối đa, nhưng đó chỉ là cái ăn cứu đói qua ngày, còn về lâu về dài với đời sống gia đình phải tiến lên thì sao đây? Còn chuyện tương lai của mọi người trong gia đình nữa, nhất là những em nhỏ đang trong độ tuổi học hành, làm sao lo được và ai sẽ gánh đỡ một phần đây?
Nói chung là đối với từng người nói riêng và đối với mọi người nói chung có biết bao việc cần phải làm, cần phải giải quyết, xử lý…trong khi ấy thời gian thì có hạn…Nếu cứ bị đe dọa, chi phối, ám ảnh thì làm sao đây?
Thiên Quang sss
------------------------------------
Người ta vẫn thường nói “ Liệu cơm mà gắp mắm ” hay một cảnh báo khác rõ ràng hơn “ coi chừng PS3-A112
Người ta vẫn thường nói “ Liệu cơm mà gắp mắm ” hay một cảnh báo khác rõ ràng hơn “ coi chừng chỉ là châu chấu đá xe!” và một lời khuyên khác đầy tế nhị, nhưng cũng thâm thúy không kém “ Biết người biết ta trăm trận trăm thắng…”
Nói những lời nói đó hay những câu nói khác tương tự không phải là người xưa chẳng biết gì để rồi có lời khuyên “ đành chịu vậy ” cho xong, cho an phận…! Hay chỉ là những suy nghĩ tiêu cực, chấp nhận sự thua kém, yếu nhược trong cuộc đời bất hạnh của con người! Ngay cả khi biết trước dù cho có khấy động đến mức độ nào thì cuối cùng cũng chỉ là đến như thế thôi…
Người ta cũng thường nhấn mạnh “ trống không kêu thì cũng cố gắng đánh cho kêu ” rồi đến đâu thì đến! Như vậy, là không phải tại trống mà là tại con người không dám thử làm cho trống phải kêu.
Chuyện của các cha trong trận đại dịch vừa qua ở một vài giáo xứ có cách hành xử đi ngược lại những quy định của xã hội cũng như của Đức giám mục giáo phận, tôi tin là các ngài không đến nỗi ngây thơ để mà chẳng biết gì hay là cố tình để xem ai có trọng lượng hơn?
Làm sao các ngài không thuộc Lời dạy của Chúa Giêsu khi nói “ Con Người đến để phục vụ và yêu thương mọi người ?”. Như vậy, khi làm như thế thì có khác gì các ngài đã cố tình vi phạm lời dạy Chúa của các ngài chứ đừng có nói là vi phạm pháp luật mà thôi!
Nhưng qua việc này, có lẽ tôi lờ mờ nhận ra một điều cốt lõi mà các ngài cũng như mọi người tín hữu có mặt trong thánh lễ hôm đó là muốn biểu lộ niềm tin của mình, trong cơn đại dịch khủng khiếp đó, cũng như muốn phó thác mọi sự trong bàn tay dẫn dắt biểu lộ đầy tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì vậy, cho dù có gặp phải thất bại ê chề đến đâu thì ý nguyện ban đầu cũng đã đạt được sự thành công, ít là trong cõi lòng thẳm sâu của mình! Điều này có khác gì hôm Chúa tiến vào thành Giêrusalem đầy vinh quang để rồi sau đó ít ngày phải ê chề nhục nhã vác thập giá lên Núi Sọ mà chịu chết! Giữa những lời chế diễu, cùng bao ánh mắt coi thường hay những lời thách thức, miệt thị qua những nụ cười, khinh bỉ…
Dĩ nhiên đó là suy nghĩ của riêng tôi, còn lại phần đông thì cho việc làm của các ngài là dại dột, để lại hậu quả không lường hết được! Đúng thế, nhưng mà đâu phải bây giờ thế giới con người mới có cái nhìn đó, mà từ ngày xưa, chẳng hạn như khi dân Chúa làm tôi bên Ai Cập, sau này tới khi rời khỏi nơi đó để phải gánh chịu đủ thứ chuyện trong cuộc hành trình lang thang trong sa mạc tới 40 năm trời! Tiếp theo đó là việc Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa - giáng sinh làm người trong hang lừa máng cỏ giữa một nơi đô thị sầm uất… cũng thế mà thôi!
Sau đó là đến thời Giáo Hội hoàn vũ nói chung, cũng như Giáo Hội tại Việt Nam nói riêng…khi có mặt và khởi sự hoạt động theo Lời Đức Giêsu truyền dạy… cũng đâu có khác gì?!!!
Điều này làm cho chúng ta nhớ lại khi Philatô đối diện với Chúa Giêsu, ông đã hỏi Chúa “ Chân lý là gì?”. Ông khao khát được biết, nhưng Chúa biết rõ câu hỏi của ông là như thế nào, cho nên Chúa đã không thể trả lời để ông được rõ! Và sau đó ông cũng không thèm suy nghĩ gì thêm để rồi phó mặc Chúa cho các thượng tế, trưởng lão muốn làm gì thì làm!
Cuối cùng Philatô, các thượng tế, trưởng lão…và nhiều người khác không vượt ra khỏi cái giới hạn tất yếu của con người được gói gọn trong cái ô nhục của thập giá hay là chỉ chạm tới được đỉnh cao là Núi sọ…là cùng! Mà họ cứ tưởng như thế là đã áp đặt một sự ghê gớm lắm lên Chúa Giêsu, để không thể nào nhìn ra Ngài là Đấng vô tội, là Đấng đến để cứu độ con người, trong đó có cả chính họ!
Chính bởi sự ảo tưởng quá lớn này đã làm cho Họ đã không thể nào nhận ra một điều xa hơn, cao hơn, đẹp hơn…như tên trộm lành, như viên sỹ quan ngoại giáo, như đám đông dân Do Thái và sau này là những kitô hữu đã nhận ra và cảm nhận được!
Ta biết được điều may mắn ấy mà ta cũng như biết bao người khác đang có, chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho họ trong bất cứ sự việc nào xảy ra, hãy biết suy nghĩ và có cái nhìn thông suốt hơn, chứ đừng dừng lại nơi bản thân ta hay bất cứ một ai…cho dù người đó hay sự vật nào có uy lực dũng mãnh đến đâu…như Tin Mừng theo thánh Gioan đã kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giesu với Philatô:
“ Khi ấy, Ông Phi-la-tô nói với Người: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? "
Đức Giê-su đáp lại: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
Thiên Quang sss
------------------------------------
Trong bóng tối đang bao trùm cả nhà thờ, vị linh mục chuẩn bị dâng thánh lễ trong ngày cuối cùng PS3-A113
Trong bóng tối đang bao trùm cả nhà thờ, vị linh mục chuẩn bị dâng thánh lễ trong ngày cuối cùng của tuần bát nhật Phục Sinh, kính “ Lòng Chúa Thương Xót”. Ngài đi từ trên xuống dưới quan sát xem coi có ai có mặt trong nhà thờ không, trước khi đóng các cửa lại? Ngài chậm rãi từng bước chỉ toàn thấy cột với cột, ngài chuẩn bị đi lên thì chợt giật mình, trong đêm đen ở cây cột cuối nhà thờ có một cái bóng mờ mờ…ngài lại gần thì thấy một bà cụ đang ngồi bó gối nép sát vào cái cột! Ngài lên tiếng:
Bà ơi, tôi xin mời bà ra về, cho tôi đóng cửa nhà thờ!
Bà lên tiếng khần khoản nài xin:
Cha cho con được ngồi ở đây không có ai thấy đâu!
Ngài lên tiếng:
Thôi tôi xin bà, bà thương tôi…
Và bà lại tiếp tục:
Con thương cha, thì cha cũng phải thương con chứ? Cha cho con được cùng dâng lễ cầu nguyện với cha.
Cha xứ mạnh mẽ, cương quyết:
Không có xin gì hết, tôi mời bà ra về! Tôi xin bà, bà về mà mời gọi mọi người trong nhà tụ họp nhau lại đọc kinh, dâng lễ online là được rồi, không cần gì thêm nữa! Tôi khổ lắm bà biết không?
Bà trả lời:
Xin Chúa Giêsu Thánh Thể, nâng đỡ cha, như Chúa Giêsu đã thêm sức cho các tông đồ ngày xưa vậy!
Cha xứ lại lên tiếng:
Bà nói thì hay lắm, lỡ ra tôi bị phạt, tôi bị bắt đi tù thì bà tính làm sao?
Và bà trả lời một cách thật là nhẹ nhàng:
Con sẽ chung phần với cha, họ đưa cha đi tới đâu con sẽ theo tới đó….
Rồi sau một lúc lâu bà cũng phải ể oải đứng lên mà ra về.
Rồi một hôm khác, cha lại gặp một trường hợp oái oăm tương tự. Rút kinh nghiệm với người trước, lần này cha dứt khoát:
Tôi mời bà, không có thương xót, không có năn nỉ, van nài….
Bà cụ này thật là đanh đá, ghê gớm đến chẳng ngờ!
Cha nhớ nha, con về. Lần sau cha đừng có mời gọi con và mọi người đến nhà thờ nữa nha….
Tôi lặng người xót xa, đau đớn…nhìn theo bóng bà đang nhẹ nhàng rời khỏi nhà thờ…và như là lê bước từng bước đến đóng cánh cửa lại…mà nhìn lên cung thánh than thở với Chúa Giêsu đang giang tay trên thập giá và thầm thưa cùng Ngài:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã Phục Sinh, xin cho con được phục sinh cùng Chúa, đừng để con ở mãi trên thập giá ô nhục này mãi!!! Xin nâng đỡ con trên con đường đang bước đi hôm nay…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết con là người tiếp tay, cộng tác với Chúa. Bởi vậy, con là người mục tử mà không có đàn chiên thì con làm mục tử với ai? Hay có chiên mà không có mục tử thì chiên ấy sẽ đi về đâu đây?
Đúng là hoàn cảnh ngày hôm nay đầy khó khăn, lắm phức tạp…chẳng khác gì thời của Chúa Giêsu ngày xưa!
Trước sự tha thiết của những người đạo đức, thánh thiện như ít là những lời của các bà cụ đã kể ở trên cùng rất nhiều người khác có cùng một tâm tình, tôi không biết lỡ khi xảy ra chuyện lỡ thì kết quả là như thế nào? Nhưng trước mắt, nơi các bà có tâm tình ấy thì tôi mong và tin chắc là Chúa sẽ đọc ra được điều các bà muốn mà làm những điều tốt đẹp nhất.
Nhưng ngay bây giờ, thì các linh mục chắc chắn đều xin các bà và mọi người hiểu cho là không phải vì a dua, xu nịnh, để trở nên ích kỷ, kiêu ngạo, hay ác độc … mà ngăn cản các bà đến với Chúa, ngay cả các Đức giám mục cũng như Giáo Hội trong thời điểm này… đâu có vị nào lại muốn như thế! Thật là đúng như tâm tình mà Đức giám mục Mỹ Tho đã bộc lộ trong thông cáo chung:
“Chắc chắn anh chị em sẽ cảm thấy rất buồn vì không được đến nhà thờ để dâng Thánh Lễ và tham dự các nghi thức phụng vụ Tuần Thánh, vốn là cao điểm của đời sống Kitô hữu. Bản thân tôi cũng thấy đau lòng khi phải đưa ra quyết định này, nhưng chúng ta hãy đón nhận những giới hạn đó như những hi sinh dâng lên Chúa trong Mùa Chay.”
Còn Tòa Giám Mục ( Kon Tum) trước đây đã có hướng dẫn về cách hạn chế số đông để ngăn ngừa dịch bệnh, nay bước vào giai đoạn 3 của việc phòng ngừa, nên một lần nữa gửi đến anh chị em những quyết định đầy khó khăn sau đây….
Đối với Đức giám mục Ban Mê Thuột thì tha thiết: “Trong thời gian Mùa Chay, nhất là gần tới Tuần Thánh, không được tham dự Thánh lễ và những cử hành phụng vụ của cộng đoàn, một truyền thống tốt đẹp của người công giáo Việt Nam, là một sự thiệt thòi cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta tin chắc rằng Chúa đang hướng dẫn chúng ta sống đức tin để làm chứng về tình yêu Chúa cho mọi người và trong mọi hoàn cảnh.”
Như vậy, đây là quy luật chung của xã hội trong thời điểm muốn ngăn chặn đại dịch vCorona – 19 này, và Giáo Hội không thể nào đứng ngoài cuộc được! Cho nên, các ngài làm sao hơn được? Các ngài vẫn hằng biết thao thức của một người đàn bà tầm thường, ít học, và ngay cả quê mùa nữa…chỉ mong muốn được tham dự thánh lễ hằng ngày…giúp cho mình được luôn gắn bó với Chúa, như thế là quá đủ rồi…
Chúng ta hãy nghe: MaiPhuong Nguyen chia sẻ: “Virut nCoV thật nguy hiểm không ai có thể lường hết được. Nó khiến cả thế giới Đảo lộn . Corrona từ đâu ra vẫn là một dấu hỏi ??? Khi dịch bùng phát ở vũ Hán, Trung tâm dịch Khi chưa có lệnh phong tỏa đã rất nhiều người túa đi các nước trên Thế giới và sang Ý rất nhiều. Nước Ý gánh chịu hậu quả quá lớn khi vùng tâm dịch tại Ý bùng phát mạnh Bệnh viện quá tải Họ cuống cuồng sử lý làm gia tăng số người nhiễm và chết nhiều hơn tại viện dưỡng lão ....Thực ra Ý phong tỏa cũng đã lâu mà đến giờ số ca nhiễm vẫn trên ngàn người do đâu?? Chỉ khổ các y bác sĩ thôi…!”
Vì vậy, với tấm lòng của bà cũng như của các tín hữu, tôi tha thiết xin mọi người cầu nguyện cho các vị mục tử luôn mãi sống trong ơn lành của Chúa mà hăng say phục vụ dân Chúa bằng mọi cách cho đến cùng…
Thiên Quang sss
------------------------------------
vô hạ
Người Công giáo tin tưởng vào Thiên Chúa và vui mừng kỷ niệm hằng năm Lễ Chúa Giêsu Phục PS3-A114
Người Công giáo tin tưởng vào Thiên Chúa và vui mừng kỷ niệm hằng năm Lễ Chúa Giêsu Phục Sinh đêm thứ bảy tuần thánh tại Nhà Thờ. Vì hoàn cảnh đặc biệt nên phải ở tại gia năm nay, nên mừng Lễ online Ngày Chúa Sống Lại. Tới nay đã 15 hôm rồi. Cũng đã nghe những bài tường thật Chúa sống lại và hiện ra. Niềm vui Lễ Thánh Thuỷ lớn lao vẫn còn đó, nên Chúa Nhật thứ III Phục Sinh năm A nầy, cũng ráng sưu khảo ngắn gọn thêm vài dấu chân của hai Môn Đệ E-mau, xem cớ sự ra làm sao.
Trước hết mở Phúc Âm Luca 24:13-35 đọc tỉ mỉ vài ba lần, rồi thử coi Chúa muốn nói gì với mình. Sau hai ngàn năm, Ngài còn có muốn thu nhận thêm đệ tử mới, yếu lòng ở tận miền xa nữa không?. Chính mỗi mình có thể đọc chi tiết từng chữ từng câu của đoạn Phúc âm nầy trong Tân Ước hoặc trên Mạng Lưới Điện Não Toàn Cầu, để kiểm chứng và thêm trực nghiệm tâm linh mà tìm cách tri hành hợp nhất tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi mình.
Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh Sử thứ ba viết rất sống động, làm như Ông có mặt tại chỗ. Đoạn Tin Mừng nầy dã làm cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ và họa sĩ. Việt Nam ta có bài hát Trên Đường E-mau, hai người lữ khách bước đi bên nhau … của LM Thành Tâm từ hơn 50 năm trước mà tới nay hầu như chưa có bài hát nào thay thế được.
Bên trời Tây có rất nhiều tranh ảnh liên hệ, trong đó có vài chục bức tranh lừng danh về Emmaus của Thiên Tài Hội Hoạ Rembrandt Harmenszoon Van Rijn Hòa Lan (1606-1669) có một không hai, được bảo quản trong khung kiếng của viện Bảo tàng và được trân trọng bậc nhất trên thế gian. Có hẳn riêng một chuyên viên đứng bên cạnh, giải thích cho khách thăm viếng mọi ý nghĩa cũng như trả lời các câu hỏi.
Cứ vô Google.com đánh từ khóa “bức tranh Emmaus hay Emau” cũng được”. Quí vị cũng nên để nhiều thời giờ thưởng ngoạn gốc cạnhđa chiều của nghệ thuật hội họa hàng trăm tranh Emau, cùng thêm suy nghĩ những ý nghĩa và tầm nhìn mà họa sĩ tài danh gói ghép trong đó. không phí giờ đâui.
Quay lại với chủ đề trên, Thánh Luca là người Hy-lạp ngoại giáo trở lại, là môn đệ của Thánh Phaolô, cũng là tác giả sách Phúc Âm thứ ba khoảng giữa năm 70 và 75 AD. thêm sách Tông Ðồ Công Vụ nữa. Trước kia Luca làm nghề Thầy Thuốc, là người học thức, có tài viết văn, thêm khiếu kể chuyện, riêng những câu chuyện có ích lợi đặc biệt cho dân ngoại và kẻ bên lề kém lòng tin như mình.
Cố Linh Mục Giáo Sư Nguyễn Tấn Thinh (1929-1993) của Cần Thơ, chuyên dạy Tiếng Pháp nhiều năm, đã có học hay đọc được tài liệu ở đâu, mà đã nhiều lần kể lại cho cả đám học trò thời trước rằng Thánh Sử Luca, nhờ có dịp gần gủi với Đức Mẹ, nên đã mần được nhiều cuộc phỏng vấn về cuộc đời Chúa Giêsu, do đó những thêm thắt tình tiết trong Tin Mừng của Ngài rất đặc biệt hấp dẩn .
Y Bác Sĩ Luca lúc Chúa Giêsu sống lại, đang còn là lương dân, có thể đang lo chửa trị những dịch Coronas nào đó như hiện nay, đâu có biết mô tê gì đến biến cố phục sinh của Chúa. Thánh Nhân chỉ ghi lại câu chuyện hai Môn Đệ Emau ba bốn chục năm sau, dựa vào những lời kể đi thuật lại, truyền miệng trong cộng đồng. Và câu chuyện trong Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay được sắp xếp thứ tự có chủ ý với cái kết có hậu dường ấy cho đời sau .
Dài dòng dẫn nhập trở lên, chỉ là đôi nét về Thánh Luca, có lợi khi đọc Ngài sau nầy, cũng giúp hiểu thêm chính chuyện bên dưới. Nhân thể, cũng xin phép thêm, ghi ra một số từ ngữ theo kiểu cập nhật hóa trước thời cuộc mà Cha Piô Ngô Phúc Hậu có những lần đã làm, kèm theo với lối văn Ben-Hur của Nhà Tiểu Thuyết Kitô Giáo Hoa Kỳ Lewis Wallace (1827–1905).
Nói cách bạch tuộc, từ ngữ được dùng có vẻ như trong phim truyện kiếm hiệp Võ Sĩ Đạo, cùng với ý, hướng tới người chưa nghe, giúp phần dễ đọc. Mà quả thật, Chúa Giêsu cũng chính là “Đạo Sĩ, Sư Phụ, Trưởng Môn, Minh Chủ” đặc biệt chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nếu có dịp được Cố Thần Phụ Giáo Sư Minh Triết Đông Phương Lương Kim Định (1915-1997) viết tám từ trong ngoặc kép trên, ra chữ Vìệt Nho theo phương pháp Lục Thư, phát minh của Bách Việt, thì Ngài luôn gói ghép theo ý nghĩa thần học phong phú về Chúa, nội tại trong mỗi từ mỗi chữ.
Xin vào chính truyện. Số là có hai thường dân, một ông tên Clêôpas, người làng Emau, chừng 12 km Tây Bắc Giêrusalem, Do Thái, cả hai đã liều mình mà cả lòng chọn phò Ngài Giêsu làm Minh Chủ, vì thấy Sư Phụ dạy nhiều điều ngay lẽ thật, cùng làm nhiều phép lạ hay quá. Nên nhị vị nam nhân nầy theo Ngài với dụng ý chính là danh lợi trần tục, y trang như các đệ tử khác thôi.
Ai ai trong nhóm đệ tử theo Thầy cũng chỉ ước mong, chờ thời, cầu kiến ngày đẹp trời Sư Phụ của mình giải phóng xứ sở Do Thái, rồi bình định thống nhất thiên hạ. Lúc đó mình cũng được Ngài bổ nhiệm cho, còn nếu Ngài quên thì phải tự ráng đấu tranh nội bộ mưu mô mà giành giựt, để được hi sinh vào những chức vụ nhỏ nhoi như Bộ Trưởng Kinh Tế, Tài Chính hoặc thấp nhất, làm bộ Trưởng Quốc Phòng hay Nội Vụ, thì cũng ráng cam lòng mà chịu.
Rồi đùng một cái, Thầy mình bị Giuđa nội công, còn ngoại kích thì đã có từ lâu, bán ra 30 ngân lượng, với ám hiệu cái hôn, cho những Thầy Cả Thượng Tế Giu-diêu bảo căn và nhóm thường dân ngoan đạo đang phò giáo sĩ trị. Mà Sư Phụ của Tân Môn Phái mình không chịu làm điềm thiêng, phép lạ chống cự để tự giải thoát, lại còn chấp nhận chết trên thập giá như một tội nhân nô lệ. Chết vô lý quá chừng chừng, không thể hiểu nổi, vì những lẽ gì?. Có mấy vị mệnh phụ, nữ lưu ở Giêrusalem kể chuyện, đã có gặp Ngài sống lại. Nhưng hai ông thì chưa, nên thất vọng ê chề, bèn quá bộ về quê Emau trong thất bại mà chưa biết cách nào để làm lại.
Rồi bóng chiều dần xuống, kìa một khách bộ hành oai vệ nhanh chân trờ tới, làm quen, nhập nhóm, nói chuyện lu bu thiên thời địa lợi nhân hoà trên mây. Chả biết gì về biến cố quan trọng tại Giêrusalem mấy ngày qua về Ông Giêsu tốt lành bị chết oan ức, bất công, do nhóm Thầy Pharisiêu quá khích với lề luật cũ, lạm dụng, núp bóng danh đạo, mượn thực dân xâm lược là Roma giết Ngài, để tạo danh đời.
Tới đây người khách lạ bèn duyệt qua các sách có liên hệ trong Thánh Kinh, nói về Đấng Kitô phải đau khổ, chết, mới sống lại để vào vinh quang. Giảng giải mọi tình khúc rõ ràng cho hai ông.
Khi gần tới cây đa (ôliu) đầu làng, hai ông ân cần mời vị đồng hành ở lại, vì ngày sắp tàn. Tại bàn ăn, Người khách cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, Bẻ ra, trao cho hai ông. Tức thì mắt hai ông bừng tỉnh, nhận ngay ra Thày, nhưng Ngài biến đi trước mặt hai ông.
Câu chuyện trên đây hấp dẫn nhất đối với thế giới mới, đại diện là Hai Môn Đệ trên đường Emaus, để minh chứng thật chỉ có Đấng đầy đủ Quyền Năng, mới có thể sống lại từ cõi chết. Đây cũng là niềm hi vọng cho mọi thế nhân, đang mang thân xác chết tiệt, sẽ được sống lại như Thầy. Và khi đã phục sinh, Thần tính của Ngôi Hai chủ động trên nhân tính thể xác. Nên Ngài không còn bị đóng khung lệ thuộc không gian và thời gian như nữa. Mà đi đâu và biến hiện lúc nào cũng được.
Trước khi đạo Chúa tới Việt Nam, ông bà tổ tiên ta đã có khái niệm về Đấng Quyền Uy trong nền văn hóa cao đẹp của giống nòi, được gọi là Trời, Ông Thiên làm gì cũng được. Từ đó để thấy ánh sáng Thánh Thần hiện diện soi dẩn qua văn hóa, giúp cho hiểu thêm đôi nét chân phương về Chúa của đạo mình. Và Ông rất thân thương gần gủi loài người như cha với con qua câu ca dao:
“Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng, thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi”.
Người cha đời thường, khi cần cứu con, luôn dám hi sinh chết thế cho con. Ông Trời thương con còn hơn thế nữa. Rồi vì là Vị Trời, nên khi Ông hi sinh chết cho con, liền sau đó sống lại tự nhiên dễ dàng. Đó là chuyện nhỏ với Ông. Và bây giờ cả lương lẫn giáo vẫn luôn kính nể và tôn thờ Ông Trời đó, của lòng người.
Trở lại chính truyện, hai ông Êmau nầy, sau khi thấy Chúa chết, đã quá chán chường thất vọng, nên mờ con mắt đức tin, chết phần tinh thần. Phải chờ Chúa nhỏ thuốc cho con mắt linh hồn, mới chịu sáng lên, mà nhận ra Chúa. Thuốc đó là Bẻ Bánh, Bí Tích Thánh Thể hay Mình Thánh Chúa.
Bài phúc âm cho thấy Chúa mở mắt hai môn đệ và cho của ăn linh hồn, rồi lại biến đi. Nghĩa là khi hai ông được đả thông rồi, được bổ sức nhờ Lương thực Thiên Thần nữa, thì những việc kế tiếp là bổn phận của hai ông. Hai Vị đã nhanh chóng trở về Giêrusalem gặp các Tông đồ, làm chứng và loan truyền về Thầy đã Phục sinh, thuật lại những điều mắt thấy tai nghe về Thầy. Mẩu gương nầy dạy mình, dù ở đâu đâu, cũng phải sẳn sàng làm chứng về Chúa trong mọi ngày còn sống.
Nhưng rồi thử nhìn phản ngược một chút chung quanh, việc Chúa biến đi, bỏ lại mình cô đơn giữa thế gian lúc nào ác xấu cũng lan tràn. Như bệnh dịch cúm vô hình Corona 19 -20 đang hoành hành khắp nơi hôm nay, làm phát sinh ra và cũng thêm con số những người vô thần. Lúc bị khổ đau quá lẽ, thì mình cũng thấy hình như không có thần thánh.
Nhưng nếu không có niềm tin, thì tuyệt vọng sẽ tới và việc tự huỷ mình, tự tử cũng không khó. Nên tôn giáo là chổ dựa tin thần. Với những bài học về Chúa, những kinh nghiệm được Chúa bao che giữ gìn bấy lâu, giúp mình vượt thắng gian, trong niềm hi vọng ngày mai tươi sáng.
Những thắc mắc suy tư về tai họa ác xấu đang phủ chụp chung quanh, đã được người xưa bàn luận không ít trong sách Ông Gióp. Nên đọc Sách Gióp khi khổ đau, giúp mình được sức mạnh tinh thần không ít.
Tóm lại. Câu chuyện hai Môn Đệ làng Emau, dạy mình là kẻ hay kém lòng tin, rằng: khi thời sung mãn tới, Chúa là ánh sáng, chủ động tới để mở mắt linh hồn khi mình mù mờ thất vọng. Rồi Chúa còn để lại Thịt Máu làm lương thực cho sự sống lại và là sức sống của mình. Nói cách khác, Thánh Thể Chúa chính là lễ tế chết trên thánh giá cùng với phục sinh, cả hai hòa chung nên một, để nuôi sống linh hồn của mình. Nên Chúa luôn mời gọi: hãy tới cầm lấy mà ăn. Đừng sợ.
Sau hết, có vẻ như Chúa biến đi trong những ngày thế giới đang khổ đau dịch cúm Corona nầy, thì niềm tin dạy rằng bám lấy Chúa là núi đá, chổ dựa tinh thần quý giá. Và mẫu gương Ông Gióp giúp mình thêm tin tưởng và nghị lực cần thiết vào lúc nầy. Đó là chấp nhận ý Trời cao xa hơn ý mình . Khi đạt tới quả vị nầy rồi, thì Ông Gióp đi trước, mình bước theo sau, với dòng tâm kinh dâng Chúa, bắt chước Sách Gióp (2:9-19; 13:15a):
Xin cho con đủ lòng tin, can đảm và sức mạnh siêu phàm để chấp nhận Thiên ý của Ngài. Giúp con vẫn ca tụng Chúa, dù trong hạnh phúc cũng như trong gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe…để tin yêu Ngài, thương người, mến mình, trong suốt cuộc sống nầy vậy.
------------------------------------
Cv 2,14.22-33 ; 1 Pr 1,17-21 ; Lc 24,13-35
Đồng Hành Với Chúa Trong Cuộc Sống
I. HỌC LỜI CHÚA
TIN MỪNG: Lc 24,13-35
(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. (19) Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói: còn chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ ! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó (34) Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH ĐỒNG HÀNH VỚI HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Phục Sinh đã hiện ra đồng hành với hai môn đệ đang chán PS3-A115:
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Phục Sinh đã hiện ra đồng hành với hai môn đệ đang chán nản bỏ về quê là làng Em-mau. Nhờ nghe Lời Chúa mà hai người này từ tâm trạng bị vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (18 và 21), đã lấy lại đức tin (25-27.32). Hơn nữa họ còn nhận ra Chúa Phục Sinh khi tham dự lễ nghi bẻ bánh (30-31). Rồi nhờ đức tin mà họ đã lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để loan báo Tin Mừng cho anh em.
CHÚ THÍCH:
– C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không được nêu tên và được suy đoán là chính Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này. + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà chú giải vẫn chưa xác định được vị trí của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn nan giải, thì Người liền hiện đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác với khi còn sống. Trước đó vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa khi Người hiện ra bên mộ đã an táng Người.
– C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo buồn chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Các ông nghĩ đây là một khách hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến cố lớn lao mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.
– C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, các môn đệ mới công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người với hy vọng có được một địa vị trong Vương quốc của Người. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng: các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi !
– C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.
– C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ !: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?: Chúa Giê-su nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người trước đó: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng về con đường cứu thế mà Đức Giê-su đã chọn theo là: « Qua đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24,44 tt).
– C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Thái độ giả vờ ở đây không phải là giả dối, nhưng là cách thức thử xem phản ứng của các môn đệ, để biết các ông có thực lòng muốn nghe và muốn Người ở lại với mình hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không chấp nhận do bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói chuyện với các ông. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Đây là lời hai môn đệ mời vị khách lạ kia ở lại cách khép léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện chân thành của các tín hữu trước khi được hiệp lễ.
– C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã truyền phép Thánh Thể như Người đã làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19), là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể như hai môn đệ hôm nay. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu cũng bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tin theo Chúa và được thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể, như bà Ly-đi-a thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 24,13-15). + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng của các mục tử, tham dự thánh lễ và phục vụ bác ái…
– C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường Người phải trải qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất vọng muốn buông xuôi, trở thành con người mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại quãng đường dài 11 cây số trở về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Cuối cùng hai ông đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem.
CÂU HỎI:
1) Hai môn đệ quê làng Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ ? Tên của các ông là gì ?
2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người đang nói chuyện với mình là Chúa Phục Sinh?
3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu chúng ta ?
4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì ? Tại sao giờ đây các ông lại chán nản tuyệt vọng ?
5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su không ? Tại sao ?
6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai môn đệ ?
7) Chúa Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì ?
8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa cho các tín hữu chúng ta hôm nay ?
9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào ?
10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa vào lúc nào ?
11) Điều gì khiến hai môn đệ vội vã đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho anh em?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA NGƯỜI ?
Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà thờ dự lễ nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu để con phải một mình đương đầu với những khó khăn như vậy ?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy thử nhìn kỹ lại xem hai dấu chân trên cát kia là của ai ?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con đâu ?” Chúa liền trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con mọi giây phút trong cuộc đời con. Chính khi con gặp gian nan thử thách là lúc Ta đang bồng con trên cánh tay Ta đó !”
2) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN ĐƯỢC TRỢ GIÚP
Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì bác thợ giầy đã nghe thấy có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến, bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công việc.
Ít phứt sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm đường về nhà nhưng không tìm thấy đường vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng đồng hồ bác mới tìm được nhà của đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.
Về đến nhà, bác lại thấy có người đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương. Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc. Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống. Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng Chúa Giê-su: « Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc thang chữa trị ». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một mà là ba lần. Người hiện thân qua những người cần được trợ giúp như Người đã nói: « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25,40).
3) TIN CẬY VÀO QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA:
Được thăng giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô XI đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức tiên Giáo hoàng Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm thấy một mối lo âu ập xuống trên mình, vì tình hình Giáo hội khi ấy đang bị kẻ thù tấn công tư bề, Hội Thánh đang trải qua một giai đoạn thử thách mới Tuy Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng Đức Pi-ô XI ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng. Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm vào một tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức tiên giáo hoàng, ngài liền cầm tấm ảnh lên xem và nỗi lo sợ trong lòng trước đó tự nhiên biến mất. Ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đó là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi thuyền và ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Từ ngày đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức ảnh ấy trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI lại ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp đều tự nhiên tan biến (W.J. Diamond- Đồng cỏ non).
4) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA:
Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến nhiệm sở mới. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm. Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm. Chính thái độ bình thản của chồng khiến bà càng thêm tức giận.
Trước tình thế đó, sau khi nói mấy lời an ủi vợ, viên sĩ quan đã rời căn phòng và một lát sau quay lại với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười không chút nao núng sợ hãi. Viên sĩ quan hỏi
– Làm sao mình có thể cười khi sắp bị mũi kiếm đâm vào ngực?
– Tại sao em lại phải sợ khi lưỡi kiếm ấy trong tay của người chồng rất mực yêu em.
Bấy giờ viên sĩ quan liền nghiêm giọng giải thích:
– Vậy tại sao em lại muốn anh phải sợ cơn bão tố này, khi biết nó nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hằng yêu thương anh ?
SUY NIỆM:
1) TÂM TRẠNG CỦA HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:
Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức Giê-su đã được Người sai từng hai người đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ mặt buồn bã thất vọng. Sở dĩ họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như sau:
– Một là vì Đức Giê-su « là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đóng đinh Người vào thập giá » (Lc 24,19b-20).
– Hai là biến cố đau thương của Đức Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của các ông khi đi theo Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng và muốn buông xuôi: « Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi » (Lc 24,21).
2) VAI TRÒ CỦA KINH THÁNH VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ CỦNG CỐ ĐỨC TIN:
– Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau khi đi đường. Đức Giê-su Phục Sinh đã yêu thương và luôn quan tâm đến các môn đệ, nên Người đã chủ động hiện đến đồng hành bắt chuyện và giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh. Nhờ cảm nghiệm được Lời Chúa nên các ông đã lấy lại niềm tin qua câu nói: “Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi dọc đường, Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” (Lc 24,32).
– Tuy nhiên hai môn đệ chỉ nhận ra Người khi tham dự bí tích Thánh Thể Hai ông đã mời Người ở lại “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn (Lc 24,29). Rồi chính bầu khí yêu thương chia sẻ Bánh Thánh giữa cộng đoàn mà mắt họ đã mở ra, như Tin Mừng thuật lại: « Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất » (Lc 24,30-31).
3) ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA TRONG CUỘC SỐNG:
Trong cuộc sống, mỗi lần gặp phải thử thách, nhiều người trong chúng ta thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Chúa không còn quan tâm giúp mình nữa… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn mê tín dị đoan: đi coi bói tóan, cậy nhờ sự giúp đỡ của thầy bùa thầy ngải… Chúng ta cần xác tín rằng: Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với chúng ta. Không những Người ở bên ta khi ta được bình an, mà ngay cả những lúc ta gặp gian nan khốn khó như bị bệnh tật, tai nạn, thất bại… Người vẫn ở bên và đồng hành với chúng ta. Người sẵn sàng trợ giúp và bồng ẵm ta trên tay nếu ta biết tín thác cậy trông vào Người. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ để được nghe Lời Chúa giáo huấn và được kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thể khi lên rước lễ.
4) SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG CHO THẾ GIỚI HÔM NAY:
– Hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa đã lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để chia sẻ Tin Mừng Phục Sinh cho cộng đoàn.
– Loan báo Tin Mừng hôm nay không những là chia sẻ niềm tin yêu cho tha nhân bằng đời sống quên mình vị tha và khiêm nhường phục vụ, mà còn là sự thực thi bác ái cụ thể như kinh « Thương Người có mười bốn mối » đã dạy. Nhờ đó đến ngày phán xét chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Trời như lời Chúa phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25,34-36).
THẢO LUẬN:
Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy ?
NGUYỆN CẦU:
1) Bài Hát « Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn thiếu gì. Dù trời tăm tối, bước đi không lo lạc lối. Đường dù nguy nan, không chút vấn vương tâm hồn ».
2) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa trợ giúp vượt qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, chỉ biết tìm kiếm thỏa mãn những đam mê bất chính và dễ chán nản buông xuôi khi gặp thử thách gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được ơn biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
------------------------------------
Chúa Nhật 3 Phục Sinh A
Trên đường Emmaus, Chúa Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ, đây là một cuộc đồng hành thiêng PS3-A116
Trên đường Emmaus, Chúa Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ, đây là một cuộc đồng hành thiêng liêng đích thực. Trên mọi nẻo đường đời, người tín hữu luôn có Chúa đồng hành, dưỡng nuôi bằng Lời và Thánh Thể của Ngài. Sứ điệp Tin Mừng hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh (xem thêm: Kiềng Ba Chân, Lm Thiện Duy). Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin sống động của mình trong giữa lòng đời.
Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh
Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44).Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.
Thánh Giêrônimô nói Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: “Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).
Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).
Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh tạ ơn bẻ ra trao ban, hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004). Bài Tin Mừng hôm nay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dùng làm bản văn nền của Tông Huấn “Mane Nobiscum Domine”: Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.
Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.
Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.
Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh
Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Chính Đức Kitô đã cũng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng“.
Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Đường Emmau thật lạ lùng. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vời vợi, giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần có mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi, đường xa ôi là xa, đi mãi không đến. Lúc về sao thật ngắn ngũi, đi thật mau đến. Khi đi chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Chiều thứ nhất u buồn đã được đổi thành chiều Chúa nhật vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.Ước gì chúng ta có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Ngài và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Ngài.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
------------------------------------
Cùng ngày hôm ấy hai môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười PS3-A117
Cùng ngày hôm ấy hai môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc vừa mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc. 24, 13-16)
Hai môn đệ trở về Em-mau, con đường quê cũ, con đường đời thường đều đều. Nhưng hôm nay như đầy hố sâu, vắng lạnh, như kẻ đưa ma trở về, như gặp tai nạn, như cơn bệnh tái phát, lớp trẻ như thấy tương lai đen tối, như cảnh cô đơn hiu quạnh mất bạn chăn gối. “Các bạn có vẻ bi thảm, cái gì đã xảy ra vậy?”.
Đó chính là những cái chết tuyệt vọng. Người ta phải biết xây dựng lại cái đời sống chán đời và cái tương lai chôn chết đời mình để đừng sống trong những cái chết đó nữa.
Đó là điều không thể tha thứ được khi đánh mất hy vọng giải thoát như các môn đệ trên đường Em-mau: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu thoát Ít-ra-en”. Chúng ta cũng nói đúng như thế khi chúng ta gặp thất bại: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng kế hoạch đó sẽ thành công, thì chúng tôi sung sướng biết mấy, nhưng nay đầy những trắc trở”. Ai đánh mất hy vọng, không còn ước muốn gì nữa, thì đã biến mình thành con vật rồi. Thật khốn khổ!
Bao nhiêu Kitô hữu trong chúng ta đang đi trên đường Em-mau như vậy? Con đường dẫn tới hố tuyệt vọng. Họ đã không bao giờ sống hy vọng được giải thoát, được cứu độ, được vinh quang. Họ đã quay lưng đi, đi trong buồn thảm như hai môn đệ.
Chính lúc này, người khách bộ hành trở nên quan trọng, ông đến đồng hành với họ, nói với họ, đàm đạo với họ và giải thích lời Chúa cho họ.
Chính lúc này cần đón nhận họ, làm cho họ thấy những dấu chỉ của lòng thương yêu, của sự chia sẻ bánh thánh cùng với cộng đoàn trong ngày Chúa nhật để ánh sáng phục sinh soi sáng cho họ qua các dấu chỉ được nghe lời Chúa và được bẻ bánh.
Được đón tiếp vào nơi bình an như vậy, đức tin và đức cậy sẽ nẩy sinh trong họ, nếu họ biết mở lòng, mở con tim, xả hết nỗi buồn sầu u ám ra, cho niềm vui phục sinh tràn vào.
------------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
Một làng kia cách Giêrusalem sáu mươi dặm, tên là Emnmau”: địa điểm này hãy còn được tranh luận PS3-A118
“Một làng kia cách Giêrusalem sáu mươi dặm, tên là Emnmau”: địa điểm này hãy còn được tranh luận. Người ta nghĩ đó là Amwas, cách Giêrusalem độ 30km về hướng Tây. “60 dặm” là cách đọc thông thường được chấp nhận (tương ứng với 12 km); nhưng nhiều chứng từ đáng tin cậy (như bản Sinaiticus, 5 trong các thủ sao khá nhất của bản Phổ thông và 3 thủ sao của bản syri-palestin) lại đọc 160, là điều phù hợp với địa danh Amwas.
“Ông là cư dân duy nhất ở Giêrusalem”: Cách dịch này không đúng mấy vì làm ta tưởng các môn đồ xem Chúa Giêsu như là người thường trú tại Giêrusalem. Nhưng động từ Hy lạp được dùng ở đây, paroikéô, chắc hẳn có nghĩa thông thường như trong bản 70: “cư ngụ với tư cách ngoại kiều, lưu trú như người ngoại quốc”. Các môn đồ coi Chúa Giêsu như khách hành hương đến Giêrusalem dịp Lễ Vượt Qua.
“Một ngôn sứ quyền năng trong việc làm”: Các môn đồ cho tới bày giờ vẫn còn xem Chúa Giêsu như một ngôn sứ thôi.
“Nhưng với ngần ấy cơ sự, nay đã là ngày thứ ba rồi kể từ khi các việc ấy diễn ra”: Các môn đồ đã thất vọng vì Chúa Giêsu bị nhà cầm quyền Israel tuyên án tử hình thập giá. Họ cũng thất vọng vì đã ba ngày sau vụ đóng đinh rồi mà Thiên Chúa chẳng hề can thiệp gì để cứu giúp vị ngôn sứ cả.
“Khởi từ Môisen và rảo qua hết thảm các ngôn sứ“: Môisen, nghĩa là Lề luật, với các Ngôn sứ tạo thành chất liệu chủ yếu của Thánh Kinh (16, 16. 29- 31; 24, 44; Cv 24, 14; 28, 2) người ta đọc sánh các vị trong phụng tự ở Hội đường (Cv 13, 15).
“Người cầm lấy bánh, chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho họ”: Không chắc là bấy giờ Chúa Giêsu tái diễn bữa Tiệc ly. Nhưng Luca dùng ở đây một ngữ vựng có tính cách Thánh Thể (x 22, 19 và 9, 16) để cho độc giả cảm thấy rằng việc “bẻ bánh” (Cv 2, 42.46; 20,7.11) làm họ gặp gỡ Đấng Phục Sinh, như trường hợp các môn đồ Emmau.
“Người đã hiện ra cho Simon”: Biến cố này được đề cập tới trong bản liệt kê cổ xưa của 1 Cr 15, 5, cũng như đã được loan báo ở 22, 31- 32, nơi người ta cũng gặp tên Simon.
“Lúc bẻ bánh”: tiếng Hy lạp cho phép ta hiểu: lúc bẻ bánh hoặc nhờ việc bẻ bánh.
KẾT LUẬN
Sự hiện diện của Đấng Phục sinh thâm nhập vào tâm thức tôn giáo, vào trong đời sống đức tin, nhờ Thánh Kinh được giải thích theo ý nghĩa sứ điệp Vượt Qua, nhờ bữa ăn Thánh Thể nung đốt tâm hồn và giúp tâm hồn nhận ra Chúa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Tâm trạng của các môn đồ Emmau mấy ngày sau cái chết của Chúa Giêsu không phải là đặc biệt lắm. Lúc ấy cũng như bấy giờ, có nhiều người đã đặt niềm hy vọng vào Chúa hay vào Giáo Hội và họ đã thất vọng vì diễn tiến các biến cố. Họ nghĩ Chúa Kitô phải ban cho họ niềm trông cậy và bình an, Giáo Hội phải đem đến cho họ những điều vững chắc và nhiều gương mẫu thật đáng phục; thế nhưng chẳng có gì được thực hiện. Chúa không được mọi người thành tâm thiện chí nhận ra, và Giáo Hội chẳng tai tiếng thì cũng làm nhiều kẻ nản lòng… Dĩ nhiên, sự việc không bao giờ xảy ra như đã hứa và niềm hy vọng của chúng ta đôi khi như bị dối lừa.
2) Các môn đồ Emmau và những ai đã trông cậy vào Chúa Giêsu mà thất vọng, là vì niềm hy vọng của họ quá trần tục, dựa trên cái nhìn nhân loại về các biến cố. Để thắng nỗi ô nhục, cớ vấp phạm gây ra do sự thất bại của Chúa Giêsu, niềm hy vọng đó phải biến thành niềm hy vọng đốt thần, đặt cơ sở trên cái nhìn của Thiên Chúa về lịch sử. Vì thế, trong cuộc đàm thoại với hai môn đồ Emmau, Chúa Giêsu đã sửa đổi nhãn giới của các vị bằng cách giúp họ hiểu rằng cái chết của Người có ý nghĩa xét về quan điểm của Thiên Chúa. Quan điềm này được diễn tả trong Thánh Kinh. “Bắt đầu từ Môisen và hết thảy các ngôn sứ, Người dẫn giải cho họ các điều đã viết về Người trong toàn bộ Thánh Kinh”.
Chúng ta không rõ hai môn đồ nghe gì lúc ấy, chỉ biết vài ngày sau đó họ nói vắn tắt thế này: lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi Ngươi trò chuyện cùng ta trên đường đi đó sao? Có lẽ Chúa Giêsu đã nhắc lại cách vắn tắt và sống động toàn bộ lịch sử của tuyển dân, với bao biến cố thăng trầm, bao phen trung thành và bội phản của họ; nhắc lại những chuỗi can thiệp của Chúa mà, mỗi thế hệ, qua mọi mọi biến cố đau thương hay hạnh phúc, đã làm dấy lên nhiều ngôn sứ với nhiệm vụ khêu lại lòng trung thành nhạt phai, đã hứa ban Đấng cứu thế mà một ngày nào đó sẽ đến tai lập tất cả trong bình an và trật tự. Ta có thể nghĩ rằng người lữ khách vô danh này đã nhắc lại cho họ các thi ca về người Tôi tớ của Isaia và các Thánh vịnh, như Phêrô đã làm trong ngày lễ Ngũ tuần trước mặt người Do thái. Tắt một lời, khi gợi lại 12 thế kỷ lịch sử này, Người cho họ thấy “Đấng Messia phải chịu đau khổ đã rồi mới vào trong Vinh quang”.
Cuối cuộc chiêm niệm này, sau khi đã dấn bước đi theo, các bậc tiền tổ trong đức tin, tức là các ngôn sứ, hiền nhân, thi sĩ của Thiên Chúa toàn năng, hai môn đồ mới bắt đầu khám phá ra rằng có lẽ tất cả không đến nỗi phải thất vọng, rằng mọi sự có lẽ nằm trong trật tự, cho dù trật tự ấy khác với trật tự mà tự nhiên họ đã mong chờ. Đức tin vào Giêsu Nadarét của họ. Niềm tin của họ có lẽ đã thoát ra khỏi một thứ lý luận trần tục nào đó, thì lý luận đã giam hãm họ và đẩy họ đến chỗ thất vọng ê chề; nhưng dầu sao niềm tin ấy xem ra không phi lý nữa, mà còn có thể phù hợp với cái nhìn của Thiên Chúa về thế gian, cái nhìn đã được loan báo dần dần bởi các hiền nhân và các ngôn sứ trong suốt 1200 năm lịch sử.
3) Nhờ lại Thiên Chúa được khám phá trong Thánh Kinh, các môn đồ Emmau đã có một não trạng khác; họ đã mở rộng quan điểm, hay đúng hơn đã loại bỏ quan điểm của mình dể đi vào quan điểm của Thiên Chúa. Chỉ sau đấy họ mới nhận ra Chúa Giêsu. Muốn tin vào Chúa Kitô tử nạn, chiến bại và Phục sinh, thì phải chấp nhận ra khỏi cái kiểu lý luận thế nhân, để đặt mình trong kế hoạch của Thiên Chúa, kế hoạch mà mọi phương hướng luôn luôn làm lý trí nhỏ bé của con người choáng ngợp, và để Ngài hướng dẫn. Bấy giờ mọi sự sẽ trở nên đơn giản, sẽ biện thành niềm vui. Như thánh Phêrô đã nói khi kết thúc một đoạn trong thư của ngài mà chúng ta vừa nghe lúc nãy: nhờ Chúa Kitô, anh em tin vào Thiên Chúa. Đấng đã cho Người sống lại từ cõi chết và đã ban vinh quang cho Người, ngõ hầu anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng của anh em nơi Thiên Chúa” (1Pr 1, 21).
------------------------------------
Anh chị em thân mến,
Sau khi Chúa tử nạn, bị chôn vùi trong mồ ba ngày, các môn đệ rất thất vọng; họ muốn trở về PS3-A119
Sau khi Chúa tử nạn, bị chôn vùi trong mồ ba ngày, các môn đệ rất thất vọng; họ muốn trở về với công việc của riêng mình. Đúng lúc đó, Chúa xuất hiện củng cố niềm tin cho họ, giúp họ hiểu Lời Chúạ Chính Chúa cặn kẻ giải thích Kinh Thánh cho họ và còn nhấn mạnh: Người phải thực hiện cho trọn Lời Kinh Thánh đã nói trong Cựu Ước… Đây chính là điều mà Hội Thánh mong muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa nhật hôm nay
a/. Câu chuyện trên đường đi Emmau:
Câu chuyện này ít ai biết, chỉ một mình Luca thuật lạị Câu chuyện xảy ra vào chiều ngày chúa nhật phục sinh, trên quảng đường từ Giêrusalem tiến về Emmau, cách nhau lối 20 cs. Hai môn đệ cùng đi; một người tên Clêôphas, còn người kia không rõ tên… Họ đi một đổi đường rồi, Chúa Giêsu mới hiện ra và đi với họ, dù vậy họ chưa nhận ra là Chúạ Họ đang nói chuyện với nhau về biến cố Chúa tử nạn, họ đau buồn vì Chúa đã chết; họ chưa hiểu Người phải sống lạị Sau đó chính Chúa phải giải thích cặn kẻ cho họ Lời Kinh Thánh nói về Ngườị Lúc đó họ mới hiểu được; nhưng mãi cho tới khi Chúa cầm lấy bánh, chúc tụng, bẻ ra trao cho họ, mắt họ mới sáng lên và nhận ra là chính Chúa….
b/. Biến cố Chúa phục sinh đem lại hai điều cho các môn đệ của Chúa: Niềm vui vì Chúa phục sinh: câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau là một bằng chứng. Lúc họ bỏ Giêrusalem mà đi, họ buồn nản thất vọng bao nhiêu, thì khi hiểu được Chúa sẽ sống lại, nhất là khi nhận ra người lúc bẻ bánh, các ông vui mừng còn hơn thế nữạ Trong mấy lần hiện ra khác tại nhà Tiệc Ly, có đông đủ các tông đồ và môn đệ, khi Chúa hiện ra cho các ông thấy, họ vui mừng xiết bao vì, họ chưa hiểu rõ Lời Kinh thánh và những gì Chúa nói trước, nên họ nghỉ cái chết của Chúa là chấm hết những ước mong giải thoát Israel của họ “mộng vàng tan bay”. Chính vì thế, Chúa phục sinh chính là niềm vui sướng hạnh phúc cho họ…. các môn đệ nhận ra: Chúa luôn sống và đồng hành với họ: Chúa đã sống lại, không giống như Ladarô được Chúa cho sống lại, vì Ladarô vẫn còn phải chết một lần nữạ Chúa sống lại với chính thân xác của Chúa ngày xưa, nhưng đã được thần hóa, không cần phải ăn phải uống, không lệ thuộc vào không gian và thời gian; và Chúa không phải chết nữạ Với thân xác đó, các môn đệ vẫn có thể sờ mó, đụng chạm được. Chính Chúa khi hiện ra trên bờ biển hồ Tibêriađê, Người vẫn ngồi ăn với các ông… Điều chúng tôi muốn nói ở đây chính là Chúa sống lại với thân xác đó, trong một cuộc sống khác, không dễ nhận ra, nhưng Người vẫn luôn đồng hành, hiện diện bên các ông, như chính lời Chúa nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Trong mấy lần hiện ra khác, Chúa luôn ban bình an cho các môn đệ, an ủi khích lệ họ, để họ nhận ra người luôn đồng hành với họ…
Ai đã đọc cuốn sách: “Lửa thiêng Tây Nguyên”, thuật lại cuộc hành trình truyền giáo cho dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên của các cha thừa sai Paris, dưới quyền lãnh đạo của Đức Cha Cuénot, Giám mục địa phận Đông Đàng Trong (miền Trung Việt Nam); ngày hôm nay, ta gọi là địa phận Kontum. Thiên hồi ký này ghi lại cuộc hành trình truyền giáo từ năm 1850 – 1885 do cha Dourisboure thuật lạị Chúng ta sẽ thấy vô cùng cảm phục: Các vị truyền giáo sống giữa rừng thiêng nước độc, chịu đựng đủ mọi thứ hiểm nguy: ăn uống thiếu thốn, dả thú, bệnh tật, rình rập bắt bớ của quan quân triêu đình, thái độ e dè của kẻ ngoại cuồng tín. Vậy mà các ngài vẫn vững vàng. Lý do các ngài bền chí như thế, chắc chắn vì các ngài đã tin vững vàng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, để cho mọi người được sống. Trong khi đó, các bạn của cha Dourisboure, khi đến đây đã không sống quá 10 vì hung thần kiết lỵ và sốt rét rừng; chỉ có một mình cha sống được 35 năm mà thôi….
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Biến cố Chúa Kitô đã sống lại, đem lại niềm vui to lớn cho các tông đồ, các môn đệ. Biến cố này có phải cũng là niềm vui thực sự cho mỗi người kitô hữu chúng ta không?
------------------------------------
Trong đời sống đức tin của người Kitô hữu, có rất nhiều việc chúng ta làm cách vô ý thức hay PS3-A120
Trong đời sống đức tin của người Kitô hữu, có rất nhiều việc chúng ta làm cách vô ý thức hay không chú tâm đủ. Rất nhiều lần, chúng ta làm những việc như đọc kinh, dự lễ, cầu nguyện… một cách máy móc, vô hồn và dĩ nhiên chẳng ích lợi gì cho chúng ta. Kết quả là chúng ta cảm thấy nhàm chán và mất đức tin với những công việc xem ra rất đạo đức ấy. Hoặc cũng có thể, chúng ta làm những việc xem ra rất đúng luật hay rất đúng với những Lời Chúa dạy, nhưng với mục đích khác: làm để được khen, để lấy uy tín, để nổi danh hay tìm một chỗ ẩn náu an toàn. Quả là đôi khi thân xác chúng ta ở bên Chúa mà lòng thì thật là xa Chúa: “Đồng sàng nhưng dị mộng”. Và dĩ nhiên, kết cuộc của những gì là tính toán, là vụ lợi, là ích kỷ… sẽ dẫn đưa con người vào ngõ cụt và bóng tối. Giuđa tông đồ là một mẫu gương cho chúng ta nhìn ngắm.
Hãy tỉnh ngộ!
Câu chuyện 2 người môn đệ trên đường Emaus trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta nhiều điều để suy gẫm trong chiều hướng “tỉnh ngộ” trong đời sống đức tin và bước đi theo Chúa.
Chúng ta thử hỏi mục đích của 2 môn đệ này bước đi theo Chúa và làm môn đệ của Chúa Giêsu là gì; có đúng với ý muốn của Chúa Giêsu khi kêu gọi họ bước theo Ngài không? Tôi nghĩ là không. Vì chính miệng lưỡi của họ đã nói lên nỗi niềm của họ khi được dịp tâm sự và thổ lộ: “Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel “. Chữ “cứu” ở đây theo ý của họ là giải thoát Israel khỏi sự đô hộ của Đế quốc Rôma đang cai trị đất nước của họ bằng con đường làm chính trị. Họ quan niệm Đấng cứu thế theo kiểu thế gian: Một Đấng Messia làm chính trị và được dành riêng cho Israel. Vì mang hy vọng hão huyền như thế, nên họ đâu thấy được Chúa thực hiện điều gì theo như điều họ muốn và nghĩ tưởng. Đây cũng là hy vọng và suy nghĩ của một số đông các tông đồ được Chúa kêu gọi và tuyển chọn trong Nhóm 12. Rõ ràng là “đồng sàng nhưng dị mộng”.
Không phải vì Chúa Giêsu không dạy hay không nói cho họ biết về sứ mạng của Ngài; cũng không phải Ngài không giáo dục họ về vai trò môn đệ của họ khi bước đi theo Ngài. Nhưng vì họ mải mê trong những dự tính riêng của mình nên không hiểu hay hiểu sai những lời Chúa dạy và những việc Chúa làm. Chẳng hạn, 2 anh em Giacôbê và Gioan luôn nuôi trong mình ước muốn là làm sao khi Đức Giêsu lập Quốc hay lên cai trị Israel , thì 2 anh em họ được một chỗ danh dự và cao trọng bên Chúa Giêsu. Chúng ta hãy nghe họ bày tỏ tâm sự của mình với Chúa Giêsu khi có dịp tâm sự. Họ nói: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10,37). Những dự tính rất riêng, rất trần trục nhưng cũng là hy vọng và động lực của họ khi bước theo Chúa Giêsu. Và chính vì bước theo Chúa với những động lực và tính toán như thế, nên những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, những hành động minh chứng cho sứ mạng Messia đích thực của Ngài không được các môn đệ chú ý và hiểu cho đúng đắn. Nên khi Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn, thì các ông hoang mang, lo sợ và thất vọng.
Hãy tỉnh ngộ!
Vì tình yêu, Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết như lời Ngài đã tiên báo nhiều lần với các môn đệ không muốn để họ sống trong bóng đêm của sự chán chường và thất vọng, nên Ngài đã đến với họ và “mở mắt” tâm hồn cho họ. Ngài dùng chính Thánh kinh để dẫn đưa cho niềm tin của họ quay về. Ngài dùng tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo về Ngài để soi lòng mở tr1i cho họ, nhưng họ vẫn chưa nhận ra Ngài. Vẫn còn là tối tăm. Chưa tỉnh ngộ! Rồi cũng chính vì tình yêu, Ngài dùng đến những cử chỉ thân ái nhất mà Ngài đã từng làm họ trong bữa Tiệc Ly “bẻ bánh trao cho các ông”.
Với sức mạnh của Lời Chúa và Thánh Thể, họ đã tỉnh ngộ và nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và đang đồng hành với họ trên nẻo đường họ đang tiến bước. Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện hiện luôn với con người và làm cho lòng con người được bừng sáng ngọn lửa tin yêu và hy vọng. Nhất là Ngài làm cho họ nhận ra được Ngài đang sống và đang hoạt động với họ. Ngài đang đồng hành với họ và không bao giờ để cho họ chìm trong cô đơn hay tuyệt vọng. Niềm tin Phục sinh đã bừng lên xoá tan bóng đêm của thất vọng, nghi nan và sợ hãi.
Đây là bài học rất tuyệt vời cho người Kitô hữu chúng ta. Nhiều lúc trên hành trình tiến bước theo Chúa Giêsu, làm môn đệ của Ngài, chúng ta đã đắm chìm trong bóng đêm của thất vọng, của chán chướng và sợ hãi. Những khi đó, ta hãy tìm đến với Lời Chúa và với Thánh Thể của Chúa. Hơn nữa, đức tin của người Kitô hữu chúng ta không thể lớn lên và vững mạnh nếu chúng ta không thường xuyên tiếp nhận Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể Ngài. Hãy làm cho lòng ta được bừng sáng nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Phục sinh cũng như hãy tỉnh ngộ với những động lực theo Ngài của chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta can trường và vững bước theo Ngài vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, đã Phục sinh vinh hiển cho chúng ta và vì chúng ta.
------------------------------------
(Lc 24,13-35)
Hai môn đệ trên đường Emmau không phải là lương dân, tức là những người không hề nghe nói PS3-A121
Hai môn đệ trên đường Emmau không phải là lương dân, tức là những người không hề nghe nói về Chúa Giêsu hoặc chẳng hề nhận được sứ điệp của Ngài.
Họ là những tín hữu, những người có niềm tin.
Họ đã nhận Ngài “như một vị tiên tri, quyền năng trong việc làm và lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân”.
Hơn nữa, họ còn hiểu rằng: “chính Ngài là Đấng sẽ giải thoát Israel”.
Nhưng cuộc khổ nạn của Ngài làm cho lòng tin của họ bị lung lạc.
Họ không thể hiểu nổi một vị cứu thế lại phải chịu khổ nạn như vậy.
Nói cho cùng, họ không tin vào biến cố phục sinh.
Họ đã nghe các bà loan tin về biến cố ấy, nhưng họ vẫn lưỡng lự, hồ nghi.
Thực tại thập giá đã khiến họ phải tháo chạy, họ đã rời bỏ Giêrusalem, và vì thất vọng họ đã để mất lòng trông cậy.
Khổ đau vẫn luôn là chướng ngại vật, là cớ vấp phạm lớn lao, khiến những ai đã tin tưởng cũng dễ lung lay. Người ta khó có thể dung hoà đau khổ với lòng tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Lòng tin từ thời ấu thơ của họ dường như trở thành ảo tưởng, hão huyền bởi sự khổ đau ấy, gắn liền với những chán chường nên họ đã đi đến chỗ mất niềm tin.
Con đường hai môn đệ đi về Emmau xa cách Giêrusalem, cũng chính là con đường mà bao người đang gặp phải, nhưng chính trên con đường này mà hai môn đệ đã gặp Chúa.
Trước khi các môn đệ thành Emmau nhận ra Ngài, thì Ngài đã ở giữa họ và đã có ảnh hưởng nơi họ rồi: “Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng lúc dọc đàng Ngài ngỏ lời với ta, và giải nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” Tâm hồn họ ngầm cháy.
Sự kết hợp với Chúa Kitô nung nấu các linh hồn mà nếu không có Ngài, các tâm hồn đó sẽ lạnh ngắt và chết mất.
Khi nhận ra Chúa Giêsu họ liền “chỗi dậy trở về Giêrusalem”.
Đó là một kết quả thấy được tận mắt, một biến đổi tận gốc rễ đã xảy ra: sầu tan vui đến họ đổi buồn thành vui, tuyệt vọng biến thành hy vọng, nhát sợ kinh hoàng thành tin tưởng sướng vui. Trình thuật hai môn đệ trên đường Emmau cho thấy khi có Chúa, mọi sự đều thay đổi.
Các trình thuật phục sinh khác nhau đều quả quyết sự kiện không thể chối cãi được: Chúa đã sống lại thật. Sau kinh ngạc trước ngôi mộ trống, sau sững sờ trước sứ điệp các thiên thần, giờ đây thực sự đã hoàn tất: Chúa đã sống lại thật.[1]
Coi chừng kẻo chính chúng ta cũng không nhận ra Đức Giêsu nơi những người chung quanh chúng ta
Chúng ta sống với những người chung quanh, mà không bao giờ hoặc rất ít khi ta nhận ra Thiên Chúa hay Đức Giêsu ở nơi họ.
Dường như đối với ta, Thiên Chúa hay Đức Giêsu là người ở đâu đâu, ở trên trời, ở trong nhà tạm của nhà thờ, hoặc ở khắp nơi một cách thiêng liêng.
Ngài có vẻ là một thực tại rất trừu tượng, nếu có cụ thể thì chỉ là những ảnh vẽ, những bức tượng bất động, vô hồn.
Và tình yêu của chúng ta đối với Ngài cũng rất trừu tượng, rất bí tích, chỉ được thể hiện bằng sự hướng thiện, bằng việc năng cầu nguyện, năng tham dự và lãnh nhận các bí tích.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một chân lý hết sức quan trọng. Thiên Chúa hay Đức Giêsu có thể chính là người bộ hành mà mình ngỡ là rất xa lạ.
Nghĩa là Ngài có thể mặc lấy những bộ mặt khác nhau, hình dáng khác nhau, với những tính tình khác nhau, tư cách điệu bộ khác nhau nơi những người ta gặp trên đời, nơi những người sống chung quanh ta.
Và tình yêu của chúng ta – nếu có – đối với Ngài thì phải được thể hiện cụ thể nơi những con người cụ thể ấy, chứ không phải một cách trừu tượng.
Có thể nói: muốn yêu Đức Giêsu, thì cách tốt nhất, cụ thể nhất và chắc chắn nhất là yêu những người chung quanh ta, và bất kỳ người nào ta gặp trong cuộc đời.
Và cũng có thể nói một cách chắc chắn: nếu ta không yêu những người ấy, thì ta không thật sự yêu Đức Giêsu hay yêu Thiên Chúa.
Nếu ta tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa, yêu Đức Giêsu bằng cách này hay cách khác, nhưng ta không hề yêu Ngài nơi những con người cụ thể chung quanh ta, thì tình yêu ấy chắc chắn chỉ là một ảo tưởng.
Rất có thể ta đang yêu chính bản thân mình một cách ích kỷ, nhưng sự ích kỷ ấy lại mặc lấy một hình thức khôn khéo là yêu Thiên Chúa hay Đức Giêsu một cách trừu tượng. Thánh Gioan viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Vì thế, thánh Phaolô viết: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10),
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta chân lý quan trọng này:
tha nhân chính là hình ảnh, hay một cách nào đó, là hiện thân của Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy tập nhìn họ là “Em-ma-nu-el” (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta). Thiên Chúa hay Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, ở với chúng ta qua những người chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay thật là tuyệt vời, nó cho con thấy và nhắc lại cho con một chân lý kỳ diệu: Những người gần gũi với con, sống chung quanh con một cách nào đó là hiện thân của Chúa, nếu con yêu mến Chúa tất nhiên phải yêu những người ấy. Và chỉ khi con yêu họ, con mới chứng tỏ được rằng con thật sự yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con tâm niệm và thực hiện điều Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen
LM Giuse Đỗ Văn Thụy
------------------------------------
Chúng con thiếu nhi yêu quí,
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng thật hay, thật đẹp. Cha đố chúng con bài Tin Mừng PS3-A122
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng thật hay, thật đẹp.
Cha đố chúng con bài Tin Mừng hôm nay nói về câu chuyện gì ?
- Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus.
- Hai môn đệ này là ai vậy chúng con ?
- Có lẽ là hai người trong nhóm 72 môn đệ của Chúa.
- Họ có thuộc nhóm các tông đồ không ?
- Dạ thưa không. Họ không phải là tông đồ, nhưng chỉ là những môn đệ yêu mến và đi theo Chúa Giêsu.
Bây giờ cha có hai câu hỏi cha muốn hỏi các con.
I. Câu Hỏi Thứ Nhất: Tại sao Chúa Giêsu hiện ra đi ngay bên cạnh mà họ không nhận ra Chúa.
Chúng con thấy sau khi Chúa sống lại thì việc nhận ra Chúa không dễ dàng.
Lúc đầu, khi Chúa hiện ra với Maria Mađalêna, chúng con thấy Maria thấy Chúa ngay không ? Thưa không. Vậy Maria tưởng mình thấy ai ? - Maria tưởng Chúa là người giữ vườn. Mãi cho tới khi Chúa lên tiếng gọi, lúc đó Maria mới nhận ra Chúa.
Còn các tông đồ thì sao ? Mặc dù đã được Maria báo trước, thế nhưng khi Chúa hiện ra, cảm tưởng đầu tiên của các tông là tưởng mình thấy “Ma". Mãi cho đến khi Chúa cho các ông ấy được nhìn xem, được sờ vào Chúa rồi Chúa ăn uống ngay trước mặt, lúc đó các ông ấy mới tin.
Hôm nay chúng con thấy….Hai môn đệ đang buồn bã cùng nhau đi trên đường…vừa đi vừa chuyện trò về câu chuyện đau thương họ mới chứng kiến…Đang lúc đó thì Chúa hiện ra cùng đi với họ…Lúc đầu họ đâu có nhận ra Chúa…Phải đợi mãi cho tới khi Chúa dùng toàn bộ Kinh Thánh và các tiên tri để giải thích, họ mới cảm thấy lòng của họ “Nóng lên”…mãi cho tới khi Chúa vào quán trọ rồi bằng một cử chỉ thật quen thuộc, Chúa cầm bánh trao cho họ y như việc Chúa làm trước đó…lúc đó họ mới nhận ra Chúa.
Cha hỏi chúng con ? Tại sao lại như thế ? Tại sao họ đã không nhận ra Chúa ngay mà phải đợi đến lúc Chúa làm lại những việc quen thuộc Chúa đã làm thì lúc đó họ mới nhận ra Chúa ?
Đây chúng con hãy nghe Sách Giáo Lý mới trả lời: “Đức Kitô đã phục sinh với thân xác riêng của Người: Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24,39); nhưng Người không trở lại với đời sống trần thế. Cũng vậy, trong Người, “tất cả mọi người sẽ sống lại với thân xác riêng của mình, thân xác hiện giờ họ đang mang”, nhưng thân xác này “sẽ được biến đổi thành thân xác của sự vinh quang”, thành “thân thể có thần khí” (1Cr 15,44)(999): Sự “phục sinh” đó, vượt quá trí tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta; điều đó chỉ có thể đạt tới bằng đức tin.(1000)
Chúng ta chỉ có thể đạt tới niềm Phục sinh bằng đức tin.
Cha kể cho chúng con câu chuyện này:
Một người Nga nọ sau khi đã mãn hạn tù đã kể lại tâm trạng của mình:
Dáng vẻ bên ngoài của tôi xấu xí đến độ không ai muốn đến gần tôi. Trong thời gian lao động cải tạo, thay vì làm việc chung với các trại viên khác, tôi bị giam mình xuống đáy hầm. Tình cờ một tai nạn xảy ra khiến lưng tôi bị gù.
Một ngày kia, có một cậu bé nhìn tôi thật lâu rồi hỏi tôi một cách ngây thơ:
- Chú ơi, chú mang cái gì trên lưng thế ?
Tôi đã nghĩ rằng cậu bé có ý chế nhạo tôi, biết thế nhưng tôi vẫn bình tĩnh trả lời:
- Cục bướu đấy cháu ạ.
Tôi chờ đợi cậu bé sẽ tiếp tục trò chơi gian ác của cậu. Nhưng không, cậu bé nhìn tôi một cách trìu mến rồi nói:
- Không phải thế đâu chú ạ. Chúa là tình yêu. Ngài không cho ai hình thù kỳ dị cả. Không phải chú có cục bướu đâu, chính chú đang mang trên lưng cái hộp đó. Trong cái hộp đó có đôi cánh của thiên thần, và một lúc nào đó đôi cánh sẽ mở ra và chú sẽ bay lên trời với đôi cánh đó.
Ý nghĩ ngộ nghĩnh của chú bé đã làm tôi sung sướng đến độ khóc thành tiếng.
Ôi sung sướng quá! Đúng là một vị thánh. Thánh nhân đã giúp tôi nhìn thấy Thiên Chúa cả trong những nơi bất hạnh, nhìn thấy sự may mắn ngay cả trong những mất mát thua thiệt, và nhất là biết nhìn thấy Chúa trong những người không ai muốn nhìn đến.
2. Câu Hỏi Thứ Hai: Chúa Đã Làm Gì Để Giúp Con Người Nhận Ra Chúa Sau Khi Chúa Phục Sinh ?
Chúng con thấy việc nhận ra Chúa sau khi Chúa Phục sinh không phải là việc dễ dàng chính vì thế mà Chúa đã có cách giúp con người nhận ra Ngài. Cha đố chúng con trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã dùng cách nào ?
Trước hết cha thấy Chúa đã sử dụng Kinh Thánh. Lý do vì Kinh Thánh là kho tàng Mạc Khải cho chúng ta về Chúa. Chúng con thấy, đứng trước hai người môn đệ đang buồn bã thất vọng, Chúa Giêsu đã không hề nhắc đến một việc nào có liên quan đến cái chết của Chúa mà Chúa đã dùng Kinh Thánh để giúp hai môn đệ tìm lại được niềm tin của mình. Đây là lời họ thú nhận với nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32).
Rồi Chúa còn làm gì nữa chúng con ?
Chúa còn lập lại một việc trước đó không lâu Chúa đã làm khi lập Bí tích Thánh thể. Tin Mừng ghi “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30). Và kết quả như thế nào thì chúng con đã biết: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,31).
Như vậy chúng ta có thể hiểu: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai phương thế Chúa muốn cho chúng ta dùng để có thể gặp được Chúa.
Loew là một phu khuân vác ở bến tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm Loew nảy ra ý định thử đi tìm hiểu điều mà người Công Giáo hằng tin tưởng, có một Thiên Chúa thật không ?
Anh đến một dòng khổ tu và nói thật ý định của mình với cha bề trên. Cha không nói với anh điều gì ngoài những lời:
- Anh đã đi đúng đường rồi đó. Anh hãy tiếp tục đi đi, hãy coi tu viện này là nhà của anh.
Rồi cha bề trên giơ tay chỉ nhà nguyện, nói:
- Đây là nhà nguyện đang dâng lễ.
Loew vào, anh quì xuống như bao kẻ khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người khác đã thay đổi thế quì, thế đứng, thế ngồi. Đến lúc đã mỏi gối. Loew ngồi lên thì mọi người lại quì xuống vì lúc đó là lúc dâng Mình Máu Thánh Chúa.
Rồi đến khi rước lễ, mọi người lên rước lễ, chỉ mình Loew ngồi đó, thật chẳng giống ai, Loew nghĩ thầm.
Nhìn những người rước lễ đi xuống, Loew nhận ra những khuôn mặt: học thức, địa vị, bình dân... Loew tự hỏi: sao những kẻ này mê tín, dị đoan quá thế ? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu thế kia để làm gì, họ có điên không nhỉ ?
Nhưng ý tưởng trên của Loew đã bị một tư tưởng khác tấn công: không lẽ những người có học thức, có địa vị xã hội hơn tôi mà họ lại điên, còn tôi thì ngược lại, khôn hơn sao ? Hay là tôi điên ?
Thế rồi, Loew tìm hiểu phép Thánh Thể với cha bề trên. Thời gian sau, Loew tâm sự:
“Bây giờ, tôi có thể nói như hai môn đệ Emmaus: “Tôi nhận ra Ngài, lúc Ngài bẻ bánh”. Chính lúc bẻ bánh chúng ta mới nhận ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Thánh Chúa Kitô”.
Giuse Đinh Tất Quý
------------------------------------
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta vừa long trong cử hành lễ Phục Sinh. Những ồn ào náo nhiệt của ngày lễ đang dần lắng PS3-A123
Chúng ta vừa long trong cử hành lễ Phục Sinh. Những ồn ào náo nhiệt của ngày lễ đang dần lắng xuống. Nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: điều còn lại sau những ngày lễ là gì? Mỗi người tín hữu được mời gọi trả lời qua đời sống của mình: “Điều còn lưu lại nơi chúng ta, đó là niềm xác tín có Chúa trong đời”.
Con đường về Emmau của hai môn đệ xa thăm thẳm và dài đằng đẵng. Con đường ấy dài không phải vì khoảng cách không gian, mà là do tâm trạng của các ông. Hai ông đang chán chường, vì lý tưởng và hy vọng của mình bấy lâu nay bỗng chốc tan thành mây khói. Những tâm sự mà các ông thổ lộ với “vị khách đồng hành” đã cho thấy điều ấy: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en”. Khi nói “trước đây vẫn hy vọng”, các ông lộ rõ sự chán nản đang làm các ông mất định hướng cho đời mình.
Vào lúc các ông không ngờ, Chúa Giêsu đến gặp gỡ các ông trên con đường xa thẳm ấy. Người đến đúng lúc các ông đang buồn chán và đang cần sự nâng đỡ. Với dáng vẻ của một lữ khách, Người đàm đạo với các ông để chứng minh sứ mạng Thiên Sai của Người. Người nâng đỡ sự yếu hèn của các ông và đem lại cho các ông niềm lạc quan và nghị lực. Tâm trạng chán nản nơi các ông quá nặng nề đến mức không nhận ra Thày mình. Chỉ vào lúc Chúa bẻ bánh, mắt hai ông mới mở ra và nhận ra Chúa.
Hành trình Emmau cũng là hành trình cuộc đời của mỗi chúng ta. Trên con đường dương thế, chúng ta phải đối diện với biết bao khó khăn thử thách. Không ít lần, chúng ta đã ngã gục trước những thử thách cam go ấy. Xung quanh chúng ta cũng có những người mang trên vai gánh nặng cuộc đời quá nghiệt ngã, tưởng chừng như không thể vượt qua. Tuy vậy, người tin vào Chúa xác tín rằng, họ không bước đi một mình trong hành trình dương thế, nhưng có Chúa đồng hành để đỡ nâng phù giúp. Chính vì thế, những ai tin Chúa luôn cầu nguyện phó thác nơi Ngài. Niềm cậy trông của chúng ta sẽ không uổng phí, vì Chúa là Cha nhân hậu, luôn lắng nghe và thấu hiểu những nguyện vọng của con người. Lịch sử cứu độ và cuộc sống cá nhân mỗi người đã chứng minh điều ấy.
Giữa những lo toan bận rộn bủa vây tư bề, có những lúc chúng ta quên sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay, nhắc nhở chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Như người cha người mẹ thương yêu vỗ về con cái, và luôn ở gần đặc biệt trong những giờ phút thử thách gian nan, Chúa cũng luôn ở gần chúng ta để che chở giữ gìn trước những nghịch cảnh của cuộc đời.
Cử hành lễ Phục Sinh không chỉ để tưởng niệm một người đã chết, nhưng điều quan trọng hơn là tôn vinh quyền năng của Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Thánh Phêrô đã khuyên các tín hữu hãy xác tín vào Đấng Phục Sinh và sống sao cho đẹp lòng Người. Bởi lẽ, một khi tin vào Đức Kitô sống lại, đời sống của người tín hữu phải phù hợp với niềm tin đó. Mỗi cộng đoàn Kitô hữu đều có Chúa phục sinh hiện diện. Sự hiện diện của Người được thể hiện qua đời sống yêu thương và hiệp nhất (Bài đọc II).
Nhờ gặp gỡ Đấng Phục sinh, hai môn đệ Emmau được hiểu nội dung Kinh Thánh và Sứ điệp của Tin Mừng. Hai ông đã theo Chúa Giêsu, đã được thụ giáo với Người trong suốt thời gian dài. Tuy vậy, lòng trí của các ông còn bị che phủ bởi những quan niệm trần thế về Đấng Thiên sai. “Người khách lạ” trên đường Emmau đã trách hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!”. Chính Chúa Phục sinh mở lòng mở trí cho các ông để các ông nhận ra những gì các ngôn sứ của Cựu Ước đã được thực hiện. Nhờ Đấng Phục sinh, chúng ta có một nhãn quan mới để đọc và hiểu Kinh Thánh, vì tất cả Cựu Ước đều quy về một trung tâm điểm là Chúa Giêsu Kitô, như Thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Cũng nhờ được gặp gỡ với Đấng Phục Sinh mà thánh Phêrô đã giảng hùng hồn trong ngày lễ Ngũ Tuần, đã làm cho ba ngàn người trở lại. Trong bài giảng này, ông đã biết lồng ghép Cựu Ước với biến cố Đức Giêsu chịu khổ nạn và phục sinh. Thánh Phêrô đã trích dẫn lời Tổ phụ Đavít và chứng minh rằng điều Tổ phụ đã thấy trong quá khứ chính là lời tiên báo về Chúa Giêsu. Người là Đấng các ngôn sứ loan báo và muôn dân mong đợi. Ơn cứu độ trần gian đến từ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người (Bài đọc I).
Một khi xác tín có Chúa trong đời, chúng ta sẽ yêu mến cuộc đời này hơn và sẽ cố gắng để sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại. Niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Phục sinh đã làm nên sức sống kỳ diệu của Giáo Hội suốt bề dày lịch sử. Niềm tin ấy cũng làm cho mỗi người tín hữu chúng ta trở thành nhân chứng của Đấng Phục sinh trong cuộc sống hôm nay.
------------------------------------
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời vốn dĩ bấp bênh, vô định. Con người luôn đứng trước phong ba bão tố. Cái khổ, cái PS3-A124
Cuộc đời vốn dĩ bấp bênh, vô định. Con người luôn đứng trước phong ba bão tố. Cái khổ, cái đói, và bệnh tật cứ lận vào kiếp người khiến chúng ta cảm thấy khổ nhiều hơn vui, lo nhiều hơn bình an.
Trước những đau khổ bủa vây, người Việt nam xưa vẫn tin vào Ông Trời. Họ cầu mong Trời phù hộ. Họ kêu cầu Trời giúp họ vượt qua tai ương hoạn nạn. Ông Trời không phải là sản phảm do con người tự vẽ ra để tìm cách trấn an lòng mình. Nhưng ông Trời luôn có mắt để trông xem vạn vật và đòi lại công bằng cho con người.
Thế nên, trong mọi niềm đau và oan trái người Việt Nam đều chạy đến với Trời. Họ cầu khẩn Trời phù hộ và giúp họ vượt qua, như câu ca dao xưa dân gian vẫn đọc.
Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay tới tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm?
Hóa ra Ông Trời thật dễ thương, thật gần gũi. Khi con người buồn quá, đau quá họ trút mọi nỗi đắng cay ấy vào đống rơm và cho bốc cháy thành khói đen nặc mùi khổ đau. Ông Trời cũng xót xa phận người khổ đau liền hỏi: “thằng nào đốt rơm?”.
Trong câu hỏi đã có câu trả lời. Ông Trời đã biết ai đang khổ, ai đang cay đắng những bể dâu. Ông Trời sẽ giải cứu mọi nỗi oan gia cho con người, miễn là con người còn có niềm tin vào Trời thì mọi sự sẽ vượt qua, bởi vì: “Trời nào có phụ ai đâu! Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ!”
Có thời kỳ người ta tưởng sự tiến bộ của văn minh sẽ xóa sổ Ông Trời. Sẽ không còn ai tin vào Trời, vào thần thánh. Thế nhưng, điều đó đang diễn ra ngược lại. Con người văn minh họ càng thấy mình nhỏ bé so với vũ trụ bao la. Sự văn minh lại đẩy con người vào biết bao những oan gia, những thị phi, khổ đau. Con người vẫn cảm thấy bế tắc trước bao vấn nạn cho nhân sinh quan của con người. Niềm tin vào Trời hôm nay lại rộn ràng hơn, lại sầm uất hơn. Đặc biệt Việt Nam với hơn 8.000 lễ hội là một con số khổng lồ. Nó phản ánh một nhu cầu tâm linh khi con người càng bế tắc trong cuộc sống họ càng chạy đến cầu khẩn thần linh nhiều hơn.
Câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmaus thật gần gũi với con người hôm nay. Hai môn đệ đang mang trong tâm trạng chán chường thất vọng. Họ bị cuộc đời vùi dập đến nỗi đánh mất tất cả niềm hy vọng. Họ đã từng hy vọng đi bên Thầy Giê-su trong vương quốc của Ngài. Thế mà, Ngài lại bị đóng đinh vào thập giá. Ước mơ tan thành mây khói. Niềm tin về cuộc sống, về công lý đã không còn. Các ông chỉ thấy “khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào” mà còn cay cay nghẹn lòng xót xa!
Nhưng Đức Giê-su phục sinh đã cảm thông với nỗi niềm tang thương nơi các ông. Ngài dẫn chứng Kinh Thánh cho các ông thấy mọi sự đang trong đường lối Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang được thực hiện qua cái chết của Thầy Giê-su. Và rồi, mắt họ bừng lên niềm hy vọng khi họ nhận ra Thầy mình vẫn sống, vẫn đang hiện diện bên mình. Sự chết đã bị đánh bại. Niềm đau đã không còn mà biến thành niềm vui vì từ nay Chúa không chỉ đồng hành mà còn đồng bàn với họ.
“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời húc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền bừng mở, và họ nhận ra Người” (Luca 24:30-31).
Quả thực, hai môn để đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa Giê-su. Một Giê-su là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang. Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng đến tin tưởng, lạc quan. Từ nay họ hiểu rằng Thiên Chúa vẫn hằng sống và hằng quan tâm đến họ.
Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ ba đào. Nhất là hãy tin tưởng: “Chúa đã thắng thế gian”. Hãy vui mừng luôn trong mọi hoàn cảnh. Amen.
------------------------------------
Anna Cỏ may
Ngày thứ nhất trong tuần, mặt trời đã lên cao. Chúa không còn trong mồ. Những lời các bà kể PS3-A125
Ngày thứ nhất trong tuần, mặt trời đã lên cao. Chúa không còn trong mồ. Những lời các bà kể chẳng ai tin và họ cho đó là chuyển vớ vẩn. Mọi người trở lại cuộc sống bình thường. Trong số đó có hai môn đệ quay trở về làng mình, làng Em-mau. Họ cho rằng nán lại ở Giêrusalem cũng vô ích, vì Thầy không còn nữa. Họ trở về với tâm trạng buồn rầu xao xuyến.
Người bạn đi đường
Giữa ánh nắng chói chang, hai ông vừa đi vừa trò chuyện về tất cả những việc xảy ra với Thầy mình. Cũng đoạn đường ấy, Chúa Giêsu đã đi theo sau họ. Người “tiến gần” và “cùng đi” với họ. Họ đã không nhận ra Thầy, vì nơi họ còn mang nỗi ưu tư, buồn rầu và thất vọng. Thất vọng vì Thầy không phải là Đấng Mêsia mà họ mong chờ. Vì thế khi Chúa Giêsu hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” (x. Lc 24, 17). Họ liền cởi mở trả lời như một người bạn đi đường bình thường. Chúa Giêsu muốn tiếp tục nghe chính miệng các ông nói về Người. Người hỏi: “chuyện gì vậy” – câu hỏi của Chúa Giêsu thể hiện sự nhiệt tình, quan tâm, thật thà khiến các ông không ngần ngại nói với Người. Họ nói cho Người về việc uy quyền, vậy mà các thưởng tế và thủ lãnh đã đóng đinh Người (x. Lc 24, 19-24). Lời họ nói không có ý chỉ trích Chúa Giêsu mà họ trách các vị thượng tế và thủ lãnh đã nộp Thầy mình, nộp người vô tội.
Khi nghe những lời ấy, Chúa Giêsu đã nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (x. Lc 24,25 -26). Bây giờ Chúa Giêsu nói với họ về Kinh Thánh, từ ông Môsê đến các ngôn sứ. Người khiến họ cảm thấy tràn trề hy vọng. Say sưa với lời dạy, đường xa hóa ra gần, làng Emmau đã xuất hiện, chỉ còn đi thêm một đoạn.
Đôi mắt đức tin
Ánh nắng gay gắt đã qua, ngày sắp hết. Hai ông vì cảm mến, biết ơn và hiếu khách nên đã nài nỉ Người: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (x. Lc 24,29). Ngài nhận lời và đồng bàn cùng họ. Người cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Người làm như một chủ nhà thường làm trước bữa ăn và hành động như chính Người đã làm với các môn đệ. Ngay lúc này, mắt họ mở ra và nhận biết Thầy. Đôi mắt đức tin, đôi mắt tâm hồn và cõi lòng bị mù, bị vùi dập nay được mở ra. Sự việc này cho chúng ta thấy, các chị em phụ nữ nghe tiếng Chúa đã nhận ra Người. Còn các môn đệ nhìn thấy việc Người làm thì mới tin. Khi họ nhận ra Thầy mình thì Người lại biến mất. Chính sự biến mất của Người làm cho họ nhận thấy sức sống mới của Thầy. Ngài không còn giới hạn nơi chốn, thời gian, không gian nữa. Ngài ở khắp mọi nơi, giữa họ. Ngay sau đó, họ trở lại Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu, thuật lại những gì xảy ra. Sự quay trở về của họ cho chúng ta nhận thấy Ngài không chỉ hiện ra để giúp họ tin, Ngài còn muốn quy tụ các môn đệ lại với nhau, cùng nhau tiếp nối sứ mạng của Ngài.
Chúng ta thì sao? Có lúc nào chúng ta thất bại, chán nản, trách móc Chúa? Trong cuộc sống nhộn nhịp náo nhiệt này, chúng ta nhận biết Chúa bằng cách nào? Có bao giờ chúng ta để Chúa nói với chúng ta không? Chúng ta hãy trả lời Chúa và chính mình trong từng ngày sống.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con thêm vững tin. Tin Chúa ở khắp mọi nơi, mọi thời đại, qua những người chúng con gặp gỡ. Chúng con xin Chúa ở lại dạy dỗ chúng con lắng nghe và học hỏi Lời Ngài, nhờ đó, đức tin của chúng con được lớn lên mà đem niềm vui đến cho mọi người. Amen.
------------------------------------
Bài giảng của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm,
về Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh, năm A (Luca 24,13-35)
***
Thưa anh chị em,
Tôi xin phép ACE được kể một câu chuyện, không phải là chuyện tiếu lâm đâu, nhưng là một PS3-A126
Tôi xin phép ACE được kể một câu chuyện, không phải là chuyện tiếu lâm đâu, nhưng là một chuyện hoàn toàn có thật. Nhưng nếu có gì không phải, thì anh chị em bỏ qua cho.
Có một linh mục kia, một lần nhận được một lá thư của một phụ nữ nữ. Trong thư đó, thì người phụ nữ cứ khẳng định rằng, ông linh mục này đã yêu cô ta lắm. Bằng chứng là, mỗi khi làm lễ, ông ta cứ nìn cô ta tha thiết lắm. Mà độc địa cái nữa, là nhắm đúng cái lúc dâng MTC, thì lén nhìn cô ta.
Vị linh mục đó lấy làm lạ. Mình không có như thế, mà tại sao người ta lại nghĩ như vậy.
Mời người phụ nữ đó đến nói chuyện, giải thích cho cô ta hiểu, là không có phải như vậy đâu. Nhưng cô cứ khăng khăng: Là cha đã không dám nhìn sự thật. Cha cứ dối lòng. Rõ ràng là như thế.
Cha nói thế nào, cô ta cũng không chịu hiểu.
Mà độc địa mộ điều khác nữa, là không phải chỉ có một mình người đó, mà lại có tới 4,5 người đều nghĩ là ông ấy vừa làm lễ, vừa nhìn họ.
Cứ xét mình trước mặt Chúa thì linh mục ấy thấy: Làm gì thì làm, chứ còn khi dâng thánh lễ, là mình cố gắng tập trung tư tưởng, tình cảm vào đó, đặc biệt là giây phút dâng MTC. Làm gì có chuyện đó. Thế thì tại sao người ta lại nghĩ như vậy.
Thế rồi ông ta lại đâm ra hồ nghi, hay là tại mắt mình bị lé. Cho nên mình không có nhìn, mà gnười ta cứ bảo là mình nhìn.
Vào soi gương thì thấy: Lòng đen của mắt vẫn nẵm ở giữa.
Nhưng lại cũng không dám tin vào mắt mình. Coi chừng là lé tim, cho nên mới đi hỏi bác sĩ.
Bác sĩ bào là không. Thị lực của linh mục có hơi yếu. Thê nhưng mà hoạt động bình thường.
Thế thì ông ấy về, ông mới suy nghĩ như thế này: Nếu mắt mình không bị lé, mà mình không có ý nhìn người ta, mà người ta thấy là mình nhìn người ta, thì có nghĩa là mắt của người ta bị lé. Thế là ông đã rút ra một kết luận quan trọng: “Mắt ngưởi ta bị lé”.
Nói như vậy thì chắc là xúc phạm với người ta ghê lắm. Bởi họ toàn là những người có mắt đẹp cả.
Nhưng cặp mắt thân xác thì rất tốt, mà cặp mắt tâm hồn thì bị lé, thưa quí ÔBACE.
Vì tình trạng cặp mắt tâm hồn như vậy, cho nên đã gây ra những ngộ nhận, và gây nên những ảo tưởng về chính mình và về người linh mục đó. Và từ những ngộ nhận và những ảo tưởng đó, nó gây nên những đau khổ cho chính bản thân và cho tha nhân.
***
Một câu chuyện hoàn toàn có thật.
Và từ một câu chuyện hoàn toàn có thật đó, tôi đã nghiệm ra phần nào điều mà thánh Luca đã mô tả rất là đơn sơ về 2 môn đệ trên đường về làng Emmaus: “Mắt họ bị che phủ, nên đã không nhận ra Người”.
« Mắt họ bị che phủ ». Cái gì che phủ ? Tôi nghỉ là cặp mắt thân xác của 2 môn đệ vẫn rất là tốt, nhưng cặp mắt tâm hồn thì bị che phủ. Bị che phủ bởi cái lối nhìn và cái nếp nghĩ quen thuột, nghĩ rằng: “Chết là hết”. Nghĩ rằng: Thành công hay thất bại của con người, là thành công hay thất bại trong cuộc đời tạm bợ tại thế này. Chính vì vậy, khi mà Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá thì tất cả đã chấm dứt. Thất bại tuyệt đối. Mà sự thất bại tuyệt đối của Đức Giêsu cũng co nghĩa là sự thất bại cho chính họ, những người đã chọn niềm tin vào Đức Giêsu như họ.
Tình trạng tâm hốn như vậy khiến cho đức tin của họ trở thành nặng trĩu, và ánh mắt của họ trở thành u ám, buồn bã, đến nỗi người khách lạ chỉ thoáng nhìn qua đã hỏi ngay: Hai ông đang nói chuyệb gì mà sao u sâu buồn bã vậy?
***
Thưa ACE,
Hình như con đường từ Giêsrusalem về Emmauu của 2 môn đệ ngày xưa cũng chính là cuộc đời của chúng ta.
Bởi lẽ, trong cuộc đời này, nhiều lúc những bước đi của chúng ta cũng nặng trĩu như vậy. Khuôn mặt của chúng ta cũng u ám buồn phiên như thế.
Sở đĩ những bước đi nặng trĩu và những khuốn mặt buồn phiền, ấy là vì tâm hồn của chúng ta bị nhận chìm trong thất vọng. Mình không dám tin là Chúa Giêsu Phục Sinh đang đi với mình. Mình không dám tin là Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn còn đang sống trong cuộc đời này. Mình không dám tin là những giá trị Tin Mừng Chúa Giêsu đã ấp ủ và rao giảng, những giá trị đó vẫn chưa chết.
***
Tuần vừa rồi tôi co nhận một lá thư của một bạn sinh viên. Bạn viết cho tôi thế này: Thưa cha, trước đây, khi tham dự thánh lễ, con rất là sốt sắng, để tâm nghe các bài đọc, bài giảng, đi lễ với niềm vui. Bây giờ thì khác.
Con đi lễ như nhiệm vụ bắt buộc của một người công giáo. Một giờ ngồi trong nhà thờ, sao nó dài và chán thế. Sau đó bạn kể cho tôi những khó khăn, thử thách gặp phải trong cưộc đời, kéo dài cả đến năm nay mà vẫn chưa giải quyết được. Rồi cuối cùng bạn hỏi tôi như thế này: Trong thời đại hôm nay, trần gian đã vắng bóng Thiên Chúa rồi sao, hay là Chúa không cần đến niềm tin của con người.
Trần gian đã vắng bóng Thiên Chúa rồi sao, hay là Chúa không cần đến niềm tin của con người. Cái tâm trạng của chúng ta nhiều lúc trong cuộc sống đã xảy ra như vậy.
Thế thì làm cách nào để có thể lấy lại niềm vui và hy vọng trong cuộc đời của người Kitô hữu ?
***
ACE biết, Tin Mừng được viết ra không chỉ đơn thuần là kể lại sự kiện này, sự kiện khác trong cuộc sống của Chúa Giêsu. Nhưng Tin Mừng còn chất chứa những kinh nghiệm sống đức tin của bản thân các thánh sử, cũng như của các tông đồ đang sống. Chính vì vậy, ta có thể đọc lại câu chuyện của thánh Luca, để dò tìm lại cái kinh nhgiệm sống đức tin, mà các kitô hữu sơ khởi đã trải qua, và đón nhận như những bài học cho mình.
Hai môn đệ đi về làng Emmaus ở trong một tâm trạng buồn phiền. Thế thì nhờ đâu mà họ qua vượt được ?
Khi suy niệm bài Tin Mừng này tôi thấy có 3 khía cạnh, nó giống như là 3 chặng móc trong hành trình tìm lại niềm vui và hy vọng của họ.
- Chặng móc thứ I là Lời Chúa: Cũng vẫn là sự kiện đó thôi, sự kiện về ôn Giêsu, người Nagiarét, đã bị các thượng tế và các thủ lãnh tôn giáo thời đó đóng đinh và giết chết trên thập giá. Sự kiện không hề thay đổi.
Thế mà bây giờ người khách cùng đi bộ với các ông lại cắt nghĩa cho các ông sự kiện đó với một ánh sq1ng hoàn toàn mới. Mà Ngài cắt nghĩa dựa vào mkinh thánh. Và trong ánh sáng hoàn toàn mới đó, các ông bắt đầu khám phá ra, nhìn lại sự kiện đó, mà nhờ đó mà tâm hôn các ông bừng cháy, thay cho nỗi buồn phiền, và niềm vui đã nhen nhúm trở lại.
- Chặng móc thứ II là khi các ông hợp ý với người khách lạ: Xin ông ở lại với chúng tôi vì trời đã gần chiều và ngày sắp mtàn. Xin ông ở lại với chúng tôi, bởi vì chính sự hiện diện của ông đã là sự khích lệ và an ủi đối với chúng tôi. Xin ông ở lại với chúng tôi, bởi vì những lời ông vừa nói với chúng tôi, làm cho lòng chúng tôi bừng cháy.
- Và chặng móc thứ II là khi khách lạ ngồi vào bàn với 2 môn đệ, thì người khách lạ đó cầm lấy tấm bánh, bẻ ra thì mắt các ông sáng ra. Một cử chỉ bẻ bánh mà các nhà chú giải lý gải là liên hệ đến bí tích Thánh Thể.
Ở đây, tôi muốn nói đến một khía cạnh nữa, d0ó là tôi nghĩ cử chỉ bẻ bánh đó, khiến cho 2 môn đệ nhớ về một cử chỉ thân quen nào đó, một bóng dáng gần gũi nào đó mình đã từng thấy, đã từng gặp, đã từng chung sống trong một quá khứ nào đó. Mà cử chỉ đó đã gợi lại một kỷ niệm mà mình đã sống. Và kỷ niệm đó đã làm cho cho mình xúc động trong giây phút hiện tại.
Đó là những chặng mốc mà 2 môn đệ Emmaus đã dựa vào để có thể tim ra đức tin. Và tôi nghĩ rằng , đấy là những chặng mốc mà ACE và tôi, những người môn đệ Chúa Giêsu, phải dựa vào suốt cuộc đời của mình, để mình cóthể trung kiên trong niềm tin,để có thể gặp được Chúa.
Trước hết là phải dựa vào lời Chúa. Người môn đệ của Chúa Giêsu không sống trong một thế giới khác. Người môn đệ của Chúa Giêsu không sống trong một cuộc đời khác. Không. Chúng ta phải sống trong cuộc đời này, với những biến cố vui buồn của nó, với những âu lo và hy vọng của con người, với những hạnh phúc và khổ đau của mọi người quanh ta. Nếu có một cái gì khác là cái này, là tuy cũng những sự kiện ấy, với những nỗi niềm và biến đó, nhưng nó được đặt trong ánh sáng mới, ánh sáng đó là lời Chúa. Chính ánh sáng đó sẽ giúp chúng ta nhìn cuộc đời một cách khác, nó không u ám, không buồn phiền, nhưng nó chan chứa hy vọng, bởilẽ, nó là ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh.
Cho nên đối với người kitô hữu, ……
------------------------------------
Bông hồng nhỏ
Cái chết của Thầy Giêsu không những để lại một nỗi đau thương, một sự sợ hãi trong tâm hồn PS3-A127
Cái chết của Thầy Giêsu không những để lại một nỗi đau thương, một sự sợ hãi trong tâm hồn các môn đệ nhưng nó còn lấy đi cả niềm tin và hy vọng của họ. Chính sự Phục Sinh của Người đã mang lại niềm hy vọng, thắp sáng niềm tin trong tâm hồn người môn đệ khi Người tỏ mình ra cho họ.
Chiều dẫn buông, hai môn đệ lê bước trên đường về Emmaus. Họ vừa đi vừa trò chuyện và bàn tán về những gì đã xảy ra. Thầy Giêsu đã chết, niềm tin và hy vọng các ông đặt nơi Thầy cũng chẳng còn. Hai ông quyết định trở về quê cũ. Trở về quê hương mà lòng các ông nặng trĩu. Dưới dáng dấp của một người khách lạ, Thầy Giêsu đã tiến đến và cùng đi với hai ông. Hai ông không nhận ra Người. Người chia sẻ nỗi buồn của họ bằng sự lắng nghe, dần dần, Người kéo họ ra khỏi nỗi thất vọng bằng việc giải thích Kinh Thánh, Người thắp lại niềm tin trong họ bằng việc đồng bàn và tỏ mình ra cho họ. Ngay khi họ nhận ra Người thì Người biến mất. Người biến mất nhưng họ nhận ra lòng mình đã được bừng cháy, họ hớn hở trở về Giêrusalem để báo tin cho các anh em khác.
Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đến với ta trong từng giây phút của cuộc sống. Ta có nhận ra Người không? Người sẵn sàng lắng nghe từng niềm vui nỗi buồn của ta. Mỗi khi đến với Chúa Giêsu, ta hãy bày tỏ cho Người biết nỗi lòng của mình. Người rất muốn nghe ta tâm sự. Ở cùng Chúa Giêsu Thánh Thể, ta hãy để cho lòng mình thật lặng lẽ và lắng nghe Lời của Người đang vang lên trong tâm hồn ta. Lời ấy có sức nâng đỡ, ủi an ta trong mọi cơn gian nan khốn khó. Mỗi khi mở lòng ra với Chúa, ta sẽ cảm nhận được một niềm bình an sâu thẳm trong tâm hồn ngay giữa những lúc đời ta gặp sóng gió. Niềm hy vọng ta đặt nơi Chúa như chiếc neo chắc chắn và bền vững thả sâu vào trong trái tim của Chúa Giêsu. Người đã thắp sáng niềm tin trong tâm hồn ta và làm cho nó bừng cháy. Người làm cho trái tim được lớn lên, biết mở ra với những anh chị em của mình. Người làm cho ta nhận biết chính mình, đón nhận con người thật của mình với những điều tốt đẹp và cả những giới hạn. Hơn thế nữa, Người ban cho ta hồng ân được nhận biết và yêu mến Người hơn. Ở với Chúa rồi, ta hãy để Người ở trong tâm hồn ta, để Người đến gần và đi bên cạnh người anh em của ta. Hãy bắt đầu một cuộc trò chuyện thân tình với những người bên cạnh ta. Hãy để họ lắng nghe những tâm tư của ta. Đi bên cạnh một người bạn đang có tâm sự, ta rất muốn sẻ chia với họ, có thể ta chỉ ở bên cạnh họ, lắng nghe họ nói để cho họ vơi đi nỗi buồn phiền. Không phải ta đang ở bên cạnh người bạn của ta nhưng là chính Chúa Giêsu ở trong ta đang đi với người bạn ấy. Người làm cho hai tâm hồn được gần gũi nhau, hiểu nhau hơn. Thánh Thần tình yêu làm cho niềm tin và hy vọng nơi Chúa trong mỗi người được bừng cháy. Cũng như hai môn đệ trên đường Emmaus, ta hãy để cho Lời Chúa làm cho lòng bừng cháy, hãy nài nỉ Chúa ở lại trong tâm hồn mình và để Người dùng ta mà đến với tất cả những anh chị em đang đau khổ buồn phiền, đang đánh mất niềm tin và hy vọng trước những thử thách của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Chúa đã dùng Lời mà làm cho lòng hai môn đệ được bừng cháy. Chúa đã đồng hành với họ như một người bạn và đã tỏ mình ra khi Người đồng bàn với họ. Trong cơn thử thách nặng nề của đại dịch đang lan tràn, xin Chúa cho chúng con biết nâng đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ những thử thách của cuộc sống. Chúa vẫn đến và ở với chúng con và làm cho lòng chúng con được bừng cháy nhờ Lời Chúa. Xin cho chúng con biết chuyên cần cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, để niềm tin và tình yêu được thắp sáng nơi tâm hồn mỗi chúng con. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Chúa là nguồn hy vọng chúng con tựa nương. Chúng con tín thác nơi Chúa. Amen.
------------------------------------
Anna Cỏ May
Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ buồn rầu, chán nản và thất vọng vì mọi PS3-A128
Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ buồn rầu, chán nản và thất vọng vì mọi sự đã tan thành mây khói. Thầy chẳng còn, mọi ước mong và sự chờ đợi một cuộc sống sung túc nơi thầy đã đổ vỡ. Các ông bắt đầu suy nghĩ và lên đường đi tìm cuộc sống khác. Có hai môn đệ đang tiến về một làng kia tên là Emmaus, họ vừa đi vừa trò chuyện và bàn tán về mọi sự đã diễn ra với Thầy của họ, họ cũng chia sẻ những băn khoăn trăn trở của nhau. Chúa Giêsu từ đằng sau tiến “đến gần” và “cùng đi” với họ. Ngài bắt chuyện với họ bằng câu hỏi đầy quan tâm, Ngài hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24,17a). Lời thăm hỏi của Ngài đã khiến họ bộc lộ tâm trạng thật: “Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu” (Lc 14,17b). Họ bắt đầu kể cho Ngài về mọi sự. Nhưng trước khi kể, một trong hai người tên là Cơlêôpát đã đáp lời như trách Ngài về sự vô tâm. Ngài không để ý lời trách đó mà tiếp tục hỏi họ: “Chuyện gì vậy?” (Lc 14,19). Điều Ngài muốn biết là lòng trí các ông đang suy nghĩ gì và lòng họ đang như thế nào? Qua việc hỏi han và cùng đi với họ, họ cảm thấy người bạn đường này thật gần gũi và thân thiện, nên họ đã nói ra mọi điều đang diễn ra trong lòng họ. Họ nói về người Thầy mà họ đã theo, chia sẻ về những ước vọng mà họ đặt nơi Thầy của mình (x.Lc 14, 19-21). Họ theo Thầy là đúng nhưng lại nghĩ sai về Thầy. Sau khi nghe những lời ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giải thích Kinh Thánh liên quan đến Ngài từ thời ông Môsê đến các ngôn sứ. Những lời giải thích của Ngài đã khiến họ cảm nhận sự thánh thiện và sự quen thuộc giữa Ngài với họ. Họ níu kéo, nài ép Ngài rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn” (Lc 14,29). Trước lời nài ép và sự khao khát bên trong của họ, Chúa Giêsu một lần nữa tỏ mình ra cho các ông bằng bữa tiệc đồng bàn. Khi Ngài cầm bánh dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho các ông, mắt họ liền mở ra và nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất. Đôi mắt được mở là đôi mắt tình yêu, đôi mắt đức tin. Bây giờ, họ không chỉ dừng lại ở chỗ hiểu biết mà còn nhận biết sự chết và sự Phục Sinh của Thầy là vì ai, vì điều gì. Họ liền quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp ở đó với tâm hồn đầy ánh sáng và sức sống mới của Thầy.
Sức sống Phục Sinh của Chúa Giêsu vẫn đang được trao ban cho mọi người nếu người đó cho bản thân mình cơ hội gặp Chúa. Đứng trước đại dịch đang hoành hành, mọi tương quan bên ngoài của cuộc sống của mọi người đã bị hạn chế, ai về nhà đó. Sao chúng ta không tận dụng thời gian này để xây dựng lại mối tương quan trong gia đình, để làm cho tình yêu gia đình thêm gắn chặt hơn. Sao chúng ta không làm mới lại tình yêu với Thiên Chúa trong chính gia đình của mình, cùng nhau cầu nguyện, đọc Sách Thánh và tham dự Thánh lễ trực tuyến. Chẳng phải hai môn đệ trên đường Emmaus đã được Lời Chúa làm cho lòng bừng cháy lên sao và các ông được lãnh nhận sự bình an và sức sống của Chúa qua bàn tiệc đó sao. Chúng ta hãy cho mình và người khác một cơ hội được sống bình an trong tâm hồn trước cuộc sống hiện tại. Chúa Giêsu vẫn đang gõ cửa gia đình bạn và gõ cửa tâm hồn bạn, hãy mở ra cho ánh sáng Phục Sinh chiếu vào cuộc đời chúng ta. Ánh sáng Chúa Kitô!
Lạy Chúa, xưa Chúa đã hiện ra cho các môn đệ tùy theo thể thức cá nhân hay từng nhóm người, để củng cố đức tin và trao ban cho họ sức sống mới của Chúa. Nay chúng con cũng xin Chúa đến và ở lại với chúng con, giúp chúng con biết họp nhau lại trong gia đình mà cùng cầu nguyện và làm mới lại tình yêu cho nhau, cùng biết chia sẻ nỗi đau của mọi người bằng sự hy sinh các đam mê đã từng theo đuổi. Amen.
------------------------------------
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Cv 2:14, 22b-33; 1 Pr 1:17-21; Lc 24:13-25)
Theo dõi sinh hoạt của Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem, chúng ta thấy tông đồ Phê-rô đã giữ PS3-A129
Theo dõi sinh hoạt của Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem, chúng ta thấy tông đồ Phê-rô đã giữ một vai trò quan trọng. Qua lời giảng mộc mạc mạnh dạn nhưng đầy xác tín của ngài và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh đã mau chóng phát triển. Chủ đề của các bài giảng đều xoay quanh sứ mạng của Chúa Giê-su mà đỉnh điểm là đề cao sự chết và sống lại của Chúa là “đường về cõi sống đời đời” (bài đọc 1). Sau đó, trong thư thứ nhất, thánh Phê-rô đã nhắc nhở tín hữu rằng ta được cứu chuộc khỏi tội lỗi là nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn là Đức Ki-tô (bài đọc 2). Tuy nhiên, sứ mệnh của Chúa Ki-tô còn được Người đích thân dùng Kinh Thánh Cựu Ước mà giải thích và minh chứng khi Người đồng hành với hai môn đệ trên đường họ trở về làng Em-mau (bài Tin Mừng). Sứ mạng của Chúa Ki-tô được kiện toàn qua biến cố Phục Sinh, để từ nay Người trở thành con đường dẫn ta về hưởng vinh phúc quê trời.
Bài giảng của Phê-rô về sứ mạng Đức Ki-tô. Ngay sau khi lãnh nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phê-rô cùng các anh em tông đồ đã thi hành sứ vụ rao giảng. Phê-rô không rao giảng một mình, nhưng ông “đứng chung với Nhóm Mười Một” và thay mặt anh em mà giảng. Vì nói với cư dân Giê-ru-sa-lem, ngài đã dựa trên Kinh Thánh để minh chứng việc Chúa Giê-su sống lại là điều đã được Kinh Thánh và nhất là Thánh Vịnh chứng thực. Những lời chứng của Thánh Vịnh là chắc chắn, bởi vì vua Đa-vít, tác giả Thánh Vịnh, là vị ngôn sứ đã được Thiên Chúa “cho thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô”. Ngoài ra, Phê-rô còn dựa vào biến cố vừa xảy ra là Chúa Thánh Thần hiện xuống, để khẳng định việc phục sinh của Chúa Giê-su là đích thực. Thánh Thần chân lý không hề lừa dối ai. Các nhân chứng là các tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần và dân chúng Giê-ru-sa-lem cũng quy tụ lại sau khi họ nghe “từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi các ông tụ họp”. Do đó, khi chứng kiến hoạt động của Thánh Thần và nghe Phê-rô giảng, họ phải nhìn nhận chứng từ của các tông đồ về sứ mạng của Đức Ki-tô là xác thực. Bài giảng của Phê-rô đem lại những kết quả vô cùng tích cực. Sách Công vụ kể: “Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: ‘Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?’ ” Ông Phê-rô đáp: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2:37-38).
Chúa Giê-su giải thích sứ mệnh của Người dựa trên Kinh Thánh. Trên đường về Em-mau, hai môn đệ Chúa tâm sự với nhau về biến cố vừa xảy ra: Chúa Giê-su đã chịu chết và tin nói Người đã sống lại. Họ đã tin Chúa Giê-su là “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân”. Nhưng hiện thời niềm tin ấy lung lay vì họ chứng kiến Chúa đã chết trên thập giá, rồi họ hoang mang khi nghe tin Chúa đã sống lại. Nghe họ kể lể, Chúa Giê-su nhận định một cách khá khôi hài: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!” Rồi Chúa dạy họ một bài học Kinh Thánh, dựa vào Lề Luật và các ngôn sứ, “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Người giải thích để dẫn họ tới niềm tin cốt lõi, là “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người”. Quả thực là một bài học Kinh Thánh quý giá và đầy đủ ý nghĩa. Tuy nhiên với đầu óc u mê và lòng chậm tin, họ phải chờ tới lúc Chúa “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”, thì họ mới “mở mắt và nhận ra” Chúa Phục Sinh! Khi ấy, Chúa biến đi, để họ tiếp tục suy nghĩ và lên đường quay lại Giê-ru-sa-lem mà loan báo Tin Mừng Chúa sống lại. Tin vui Chúa sống lại dồn dập, từ các tông đồ và các bạn hữu đang tụ họp tại Giê-ru-sa-lem kể lại cho đến câu chuyện hai môn đệ được Chúa dạy Kinh Thánh!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Cùng với bài giảng trong ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau này thánh Phê-rô không ngừng nhắc nhở tín hữu về sứ mạng của Chúa Giê-su là đã đổ máu để cứu chuộc ta. Ngài khẳng định với chúng ta rằng “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô”. Tuy nhiên việc cứu chuộc không đơn phương về phần Thiên Chúa, mà đòi sự đáp trả và cộng tác của chúng ta, vì “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử”. Chúa Giê-su cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, đó là bước đầu để giúp ta “đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa”. Còn chúng ta, bổn phận của ta là “hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này”. Đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách nghĩa là gì nếu không phải là hãy sống đích thực như con cái của Đấng mà chúng ta gọi là Cha? Đức Ki-tô đã dạy ta cách “gọi Thiên Chúa là Cha” khi Người đã hoàn tất vai trò làm Con Chiên vẹn toàn để cứu chuộc nhân loại. Vậy thì chúng ta cũng phải học cách ấy, không chỉ “gọi” bằng miệng lưỡi, nhưng bằng chính cuộc sống của một Ki-tô hữu tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh là Đường đưa ta về nhà Cha, để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng Ba Ngôi Thiên Chúa.
------------------------------------
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Khi con người rơi vào chán nản thất vọng, người ta thường đặt câu hỏi: Chúa ở đâu? Chúa ở PS3-A130
Khi con người rơi vào chán nản thất vọng, người ta thường đặt câu hỏi: Chúa ở đâu? Chúa ở đâu trong lúc tôi đau khổ? Chúa ở đâu khi thế giới chìm ngập trong cơn đại dịch này? Chúa có thấy nhân loại đang chết chóc, sợ hãi như thế này không? Chúa có thấy hàng ngàn người chết vì dịch mỗi ngày không? Tại sao Chúa không can thiệp? Đây là những câu hỏi muôn thuở mỗi khi con người gặp tai ương thử thách. Thiên Chúa vẫn luôn trả lời mọi chất vấn của con người, nhưng vì con người quen sống trong âm thanh ồn ào, luôn để lòng bị xáo động nên họ chỉ biết đặt câu hỏi mà không muốn lắng nghe câu trả lời.
Hôm nay, câu chuyện hai môn đệ trên đường Emaus đã cho thấy: Thiên Chúa luôn thấu cảm với nỗi đau của con người và của từng người. Thiên Chúa luôn hiện diện ở bên và đồng hành với con người, nhưng chỉ có ít người nhận ra Ngài, ít người muốn mời Ngài vào nhà và ép Ngài ở lại dùng bữa với gia đình mình.
Hai môn đệ trên đường Emaus là hình ảnh của những con người chán nản vì thất vọng, sợ hãi vì thảm họa và đau khổ vì mất người thân. Tuy không phải là một trong số mười hai tông đồ, nhưng chắc chắn hai ông này cũng ở trong nhóm thân hữu của Chúa. Các ông đã bỏ lại tất cả gia đình, vợ con, sự nghiệp để đi theo Chúa Giêsu. Có thể các ông cũng nuôi trong lòng một kỳ vọng trần tục nào đó, khi Thầy Giêsu khởi nghĩa thành công, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang, quyền lực với Chúa. Nhưng giờ đây, với cái chết kinh hoàng của Thầy, bầu trời tương lai của các ông như tan vỡ. Các ông hoàn toàn mất hết hy vọng vì Thầy các ông đã chết. Cái chết của Thầy khiến các ông hoàn toàn suy sụp. Hai môn đệ này đã tháo lui bằng cách trở về quê cũ, với con người cũ, công việc cũ.
Thấu hiểu được tâm trạng của hai người học trò đáng thương này, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Ngài không hiện ra theo cách Ngài đã hiện ra với các phụ nữ hoặc với các tông đồ, nhưng Ngài hiện ra trong hình ảnh của một người bạn đồng hành cùng đi với họ. Ngài chủ động bước đến, gợi chuyện với hai ông: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Câu hỏi của Chúa là dịp để các ông trải lòng với Ngài, nhưng trên gương mặt họ chưa hết vẻ buồn rầu. Một trong hai người tên là Cleophat đã giãi bày tâm trạng của họ về chuyện ông Giêsu Nazareth bị bắt, bị giết, bị đóng đinh trên cây thập giá. Ông cũng nói lên nhận định và tâm trạng của mình đối với Thầy Giêsu: “Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm, trước mặt Thiên Chúa cũng như toàn dân… Chúng tôi vẫn hy vọng Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel.” Điều làm các ông hoang mang hơn nữa là: “Có mấy bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ và không thấy xác Người. Các bà còn bảo rằng, các thiên thần bảo: Người đang sống. Vài người chúng tôi chạy ra xem mộ thì thấy đúng như vậy, còn Ngài thì họ không thấy.”
Chúa Giêsu Phục Sinh đã lắng nghe những lời tâm sự, chia sẻ của các ông, Chúa thấu hiểu nỗi lòng còn ngổn ngang nhiều thứ của họ. Chúa nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh chậm tin vào lời các ngôn sứ. Đức Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Qua câu trả lời, Chúa Phục Sinh mời gọi hai môn đệ này trước hết cần đọc, lắng nghe và suy gẫm những lời ngôn sứ, tức là những lời được chép trong Kinh Thánh. Vì tất cả những việc liên quan đến Chúa Giêsu đều đã được các ngôn sứ báo từ trước. Những ai siêng năng đọc và suy gẫm sách Kinh Thánh, thì sẽ đón nhận được niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Để khơi lại đức tin cho hai môn đệ này, Chúa Giêsu dùng chính những lời đã chép trong sách ngôn sứ, bắt đầu từ Môsê để giải thích cho các ông hiểu về sứ mạng của Người. Có thể vì trước đây các ông đi theo Chúa, nhưng vẫn để lòng mình quá ồn ào về những sự kiện bên ngoài mà bỏ quên việc đọc và suy gẫm Kinh Thánh, nên lòng các ông bị mù tối.
Để thử lòng các ông, khi gần đến làng, Chúa Giêsu làm như còn phải đi tiếp nữa. Hai ông lúc này mời, ép, Người: “Mời ông ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn.” Sau một hành trình đi bên Chúa Phục Sinh, dù chưa nhận ra Ngài, nhưng hai môn đệ này đã cảm nhận được sự ấm áp, an toàn, sức sống như được phục hồi. Giờ đây, khi “trời về chiều và ngày sắp tàn” các ông cảm thấy phải đối diện với một sự bất an trong tâm hồn. Hai ông đã cố nài ép vị khách: “Mời ông ở lại với chúng tôi.” Trước sự khao khát của hai ông, Chúa Giêsu Phục Sinh đã ở lại với họ, vào trong nhà của họ, và cùng dùng bữa tối với các ông.
Khi cùng các ông dùng bữa tối, “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” Hình ảnh “bữa tối” này nhắc lại hình ảnh bữa tối Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu cũng làm cùng một cử chỉ như vậy và truyền cho các môn đệ: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, hãy nhận lấy mà uống vì này là mình, máu Thầy.” Thấy cử chỉ và nghi thức quen thuộc này, đón nhận tấm bánh từ người khách đồng hành, hai môn đệ nhận ra đó chính là Chúa Giêsu, Thầy của mình. Các ông đã nhớ lại suốt một hành trình dài Chúa đã đồng hành với các ông, đã làm cho tâm hồn các ông ấm lại và hồi sinh. Giờ đây, với một tinh thần mới, một sức mạnh mới, một con người hoàn toàn mới, các ông phấn khởi, chỗi dậy trở lại Giêrusalem ngay trong đêm để gặp nhóm Mười Một. Các vị này đã làm chứng cho hai ông về việc Chúa sống lại, còn hai ông thì kể lại những gì đã xảy ra cho mình lúc đi đường và khi bẻ bánh. Họ cùng nhau phấn khởi vui mừng.
Chúa Giêsu đã chết thật và Người đã sống lại thật và đang sống, đang hiện diện, đang đồng hành với chúng ta. Đó cũng là những lời minh chứng của các tông đồ, đặc biệt là của Phêrô trong sách Công Vụ hôm nay. Phêrô quả quyết với mọi người: “Chúa Giêsu Nazareth đã bị anh em đóng đinh Ngài trên thập giá, nhưng Thiên Chúa quyền năng đã làm cho Ngài chỗi dây từ cõi chết.” Chính Ngài sẽ giải thoát chúng ta khỏi đau khổ và cái chết, khỏi sợ hãi và thất vọng.
Thưa quý OBACE, như đã gợi ý ở trên, mỗi khi gặp tại ương thử thách, con người thường quay lại trách móc Thiên Chúa và kể cả thách thức Ngài, chất vấn Ngài. Thiên Chúa vẫn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu và luôn trả lời cho từng người. Tuy nhiên, vì con người quen sống trong âm thanh ồn ào, luôn để lòng bị xáo động, tránh né sự thinh lặng, khiến họ chỉ biết đặt câu hỏi mà không muốn lắng nghe câu trả lời từ nơi Chúa.
Chúa đã nghe thấy tiếng khóc than của cả thế giới trong cơn đại dịch; Chúa thấu hiểu nỗi đau từ vị giáo hoàng cao tuổi, cho đến một thiếu nhi nhỏ bé; nỗi lo lắng của những người có trách nhiệm và sự hy sinh vất vả của những y bác sĩ; nỗi sợ hãi của nhân loại, của các bệnh nhân và gia đình. Chúa nghe và Chúa biết. Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta để an ủi nâng đỡ, chia sẻ, cảm thông. Tuy nhiên, có thể mắt chúng ta bị che phủ hoặc chúng ta chỉ mải đặt câu hỏi mà không nhận ra Ngài. Chúa vẫn đang nói, nhưng có thể chúng ta chưa quan tâm để nghe. Chúa đang nói với chúng ta qua Kinh Thánh mà đã lâu nay, chúng ta tránh né, chúng ta không đọc, không suy. Chúa rất muốn vào nhà chúng ta dùng bữa, nhưng chúng ta không thiết tha mời Ngài, vì thế Ngài lại phải đứng ở ngoài cửa chờ đợi.
Tiệc Thánh Thể, thánh lễ là bữa ăn mỗi ngày, nơi đây chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, lòng chúng ta được ấm lên nhờ lời Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta đã quá coi thường. Chúng ta lấy nhiều lý do để biện minh cho sự từ chối đến gặp Chúa mỗi ngày nơi thánh lễ. Những ngày này, khi không được đến với thánh lễ, ta mới cảm thấy mình đã từng coi thường những điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, Chúa vẫn có cách của Ngài. Hơn khi nào hết, trong hoàn cảnh này, nhiều người đã biết quan tâm hơn đến việc tham dự thánh lễ và đọc Kinh Thánh. Các thánh lễ online tuy không phải là cách tốt nhất, nhưng lúc này, cũng là cách Chúa dùng để quy tụ cả gia đình, để mọi người đem thánh lễ về với cuộc sống, đem nhà thờ về với gia đình.
Xin Chúa cho chúng ta không ngừng nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện trong cuộc đời mình, qua các biến cố đang xảy ra cho thế giới để chúng ta không rơi vào chán nản thất vọng. Xin cho chúng ta để cho tâm hồn mình tĩnh lặng để nghe được những câu trả lời từ Thiên Chúa, thay vì kêu ca oán trách Chúa. Xin cho chúng ta biết tận dụng những ngày này để xây dựng bầu khí đạo đức của gia đình, mà bấy lâu ta đã xem nhẹ, và xin cho các cuộc xum họp trong gia đình: cầu nguyện, hiệp thông thánh lễ và các bữa cơm luôn có Chúa Phục Sinh hiện diện nâng đỡ. Amen
------------------------------------
Lm Trần Bình Trọng
Cuộc khổ nạn của Ðức Kitô trên thập giá đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng của các tông đồ và PS3-A131
Cuộc khổ nạn của Ðức Kitô trên thập giá đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng của các tông đồ và của cả các môn đệ. Vào sáng Chúa nhật có hai môn đệ bỏ cuộc, trở về quê quán mình ở làng Emmau cách Giêrusalem khoảng mười một cây số.
Mặc dầu Ðức Kitô đã tiên báo nhiều lần về cuộc tử nạn và phục sinh của Người, các môn đệ vẫn không hiểu. Hai môn đệ bỏ cuộc hôm nay cố gắng tìm kiếm trong Thánh Kinh những lời lẽ để cắt nghĩa về cuộc khổ hình của Thày mình. Và dọc đường, có người khách lạ hiện ra, đàm đạo với các ông và nói: Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh (Lc 24:26-27).
Hai môn đệ trên đường Emmau cùng đồng hành với Chúa, đàm đạo với Chúa mà không nhận ra Người. Sở dĩ có trạng huống như vậy là vì họ đã tự đóng khung trong tư tưởng và quan niệm riêng của họ về Ðấng Cứu thế. Có lẽ họ chỉ nghĩ thôi từ nay sẽ không còn hi vọng địa vị nọ kia trong vương quốc của Người. Họ để cho mình bị chi phối và chìm đắm trong nỗi chán nản thất vọng của cảnh tử nạn ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nỗi buồn chán thất vọng đè nặng trên con người họ, khiến họ không thể vươn lên và vượt ra ngoài tâm thức của họ.
Trường hợp các môn đệ lúc đầu không nhận ra Chúa trong Phúc âm hôm nay cũng giống trường hợp bà Maria Mácđala và các tông đồ lúc đầu cũng không nhận ra Chúa (Ga 20:14; Ga 21:4; Lc 24:37). Tại sao lại có chuyện như vậy? Lí do thứ nhất là vì các tông đồ không mong đợi một cách tin tưởng việc Chúa sống lại như là Chúa đã tiên báo. Lí do thứ hai theo thánh Marcô là khi hiện ra với các môn đệ/tông đồ: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi. Hình dạng khác không phải là vì bị tra tấn và nằm trong mộ ba ngày, không ăn uống nên Chúa bị xuống kí và kiệt sức. Thánh Phaolô giải thích thân xác phục sinh của Chúa khác thân xác trước kia như sau: Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: ..gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1Cr 15:44).
Lời Chúa đàm đạo với họ trên đường khiến tâm hồn họ bừng cháy (Lc 24:32) nhưng họ chưa nhận ra Chúa cho tới khi họ mời Người vào nhà nghỉ lại. Trong bữa ăn khi Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, rồi trao cho họ (c.30) thì họ mới nhận ra Người. Khi hai môn đệ nhận ra người khách lạ chính là Ðức Kitô, họ liền vội vả trở về Giêrusalem để báo tin cho các tông đồ. Và họ được biết các tông đồ cũng đã xác tín về việc Chúa phục sinh.
Trong số mười một tông đồ, có ông Tôma tỏ ra cứng lòng tin khi các tông đồ khác bảo cho ông biết Ðức Kitô phục sinh đã hiện ra với họ. Ðức Kitô phải đích thân hiện ra cho ông Tôma thấy dấu đinh ở tay Người và vết thương ở cạnh sườn Người. Còn trong số bảy mươi hai môn đệ thì có ông Cơlêôpát và một ông nữa cũng không chịu tin việc Thầy họ sống lại, khi bà Maria Mácđala và mấy bà khác loan báo là họ không thấy xác Người trong mồ và có thiên thần hiện ra nói là Người đã sống lại. Chúa phục sinh cũng chiều hai ông mà hiện ra đồng hành với hai ông, giải thích cho hai ông những lời kinh thánh liên quan đến Người và còn bẻ bánh như là dấu chỉ cho hai ông thấy mà tin.
Việc rao giảng Ðức Kitô phục sinh là sứ điệp giảng dạy thiết yếu thời giáo hội sơ khai nên Chúa không muốn có những tông đồ hay môn đệ nào hồ nghi về việc Người sống lại. Vì thế Chúa đã để cho ông Tôma sờ vào vết đinh ở tay và vết thương ở cạnh sườn Chúa, để ông có thể thốt lên lời biểu lộ đức tin bất hủ: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28). Chúa phục sinh còn hiện ra bẻ bánh với hai môn đệ thành Emmau để các ông có thể lập tức đứng dạy ngay lúc ấy, quay trở lại Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó (Lc 24:33) hầu chia sẻ tin mừng Chúa phục sinh.
Phải chăng ta cũng gặp những trường hợp giống như hai môn đệ làng Emmau? Có bao giờ ta nghi ngờ về sự hiện hữu của Chúa. Có bao giờ ta sợ hãi cho tương lai đen tối. Có bao giờ ta thất vọng về những tệ đoan trong xã hôị và gương xấu trong giáo hội? Khi gặp sóng gió bão táp trong tâm hồn, tâm trí ta bị mây đen bao phủ khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Chúa và những dấu vết của Người.
Ðể được ý thức về sự hiện diện của Chúa, ta cần tìm đến lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Hằng ngày xung quanh ta, còn ghi khắc những dấu vết của Chúa, và công trình của việc Người tạo dựng. Tuy nhiên ít khi ta cố gắng tìm kiếm để có thể khám phá ra những dấu vết và kỳ công của Chúa hầu có thể ý thức về sự hiện diện của Người. Những chướng ngại vật trong tâm hồn như là cô đơn, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi đè nặng trên con người, khiến ta bị giới hạn trong thân xác, không vượt ra khỏi mình được. Ðể có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa, ta cần xin Người giúp loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn và mở rộng hồn thiêng để có thể hướng về thiên giới.
Lời nguyện xin cho được ý thức về sự hiện diện của Chúa:
Lạy Ðức Kitô phục sinh, con xin tạ ơn Ngài
đã đến trong thế gian, chịu khổ hình, chịu chết trên thập giá
để cứu chuộc loài người khỏi án phạt của tội nguyên tổ,
và còn hứa ở lại với loài người cho đến tận thế.
Xin giải thoát con khỏi những nghi ngờ, lo âu, sợ hãi và thất vọng
để con ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời sống,
trong thánh kinh, trong các bí tích mà con lãnh nhận,
nơi người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ,
nơi vạn vật, cỏ cây, hoa lá và những kỳ công của vũ trụ
hầu con được vững tâm bước đi dưới sự hiện diện của Chúa. Amen.
------------------------------------
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Với Chúa Nhật III Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa tiếp tục trình bày với chúng ta về niềm tin vào PS3-A132
Với Chúa Nhật III Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa tiếp tục trình bày với chúng ta về niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Trong thánh lễ này, chúng ta khai triển về chủ đề này với ba điểm: 1) Biến cố phục sinh là nền tảng của niềm tin Kitô giáo; 2) Làm sao để nhận ra Đấng Phục Sinh; 3) Loan báo Đấng Phục Sinh.
1- Chúa Phục Sinh, nền tảng đức tin
Sự kiện Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết là một điều hết sức bất ngờ, không ai có thể nghĩ trước được. Bởi lẽ, đây là biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Đức Kitô là người đầu tiên chỗi dậy từ cõi chết. Đối với các môn đệ, khi chứng kiến Chúa chết trên thập giá, họ cho rằng mọi sự đã kết thúc, niềm hy vọng vào Người tan thành mây khói, họ trở về quê để kiếm kế sinh nhai như hai môn đệ Emmaus. Nhưng sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và hiện ra nhiều lần với các môn đệ, họ được gặp gỡ Đấng Phục Sinh, được củng cố niềm tin và trở thành những người can đảm làm chứng cho Người.
Điều này được nói ở trong bài đọc I, thánh Phêrô cùng với Nhóm Mười Một lớn tiếng với dân chúng rằng: “Đức Giêsu Nadarét, là người được Thiên Chúa phái đến với anh em… Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ… Đức Giêsu ấy đã bị nộp và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi… Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,22-32).
Những lời trên đây minh chứng rằng biến cố Phục sinh là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Nếu trước Phục sinh, trọng tâm sứ vụ rao giảng là Nước Thiên Chúa, thì sau biến cố này, trọng tâm lời rao giảng là “Đức Giêsu chịu chết, được mai táng và sau ba ngày, Người sống lại.” Bởi lẽ, biến cố này là trung tâm điểm của Kitô giáo. Nói như thánh Phaolô, nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta trở nên hảo huyền và lời rao giảng của chúng tôi sẽ trở nên trống rỗng (x. 1 Cr 15,14.17). Hay nói cách khác, nếu Chúa Kitô không sống lại, sẽ không có Kitô giáo, không có ơn cứu độ, không có Giáo Hội và không có cộng đoàn chúng ta quy tụ để cử hành thánh lễ như hôm nay. Quả là đúng như lời thánh Phêrô trong bài đọc II: “Anh em được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô… Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa” (1 Pr 1,19.21).
2- Làm sao để nhận ra Đấng Phục Sinh?
Tuy nhiên, không phải dễ dàng để nhận ra Đấng Phục Sinh, cần phải có một cặp mắt đức tin nhạy bén mới nhận ra Người. Bởi vì với biến cố này, Chúa Kitô là người đầu tiên đi vào một đời sống hoàn toàn mới; sự hiện hữu của Người hoàn toàn khác biệt; Người là Đấng hằng sống. Người vẫn là chính Người nhưng thân xác Người đã được biến đổi. Người không còn bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian, cũng như những định luật tự nhiên chi phối. Người có thể hiện ra và xuất hiện ở bất kỳ nơi nào mà Người muốn.
Bài Tin Mừng hôm nay minh chứng điều đó. Sau khi chứng kiến Chúa chết trên thập giá, hai môn đệ Emmaus thất vọng trở về quê, trên đường về, Đấng Phục Sinh đồng hành, nói chuyện với họ như một người bộ hành, nhưng họ không nhận ra Người. Đấng Phục Sinh đã dùng Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước để giải thích cho họ hiểu về Đấng Kitô và những gì đang xảy ra. Sau đó, họ mời Người dùng bữa. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất (x. Lc 24,25-31).
Có thể nói diễn tiến của trình thuật này là diễn tiến của một thánh lễ đầu tiên được cử hành dọc đường do Đấng Phục Sinh. Theo đó, nó có hai phần: phần thứ nhất là phần Lời Chúa. Chúa Giêsu đã dùng lời Chúa để giải thích cho họ hiểu về mầu nhiệm liên quan đến Chúa Kitô. Nơi Người, các lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Đây cũng là phần đầu của thánh lễ mà chúng ta cử hành, được gọi là bàn tiệc Lời Chúa. Đối với chúng ta, Lời Chúa là lương thực hằng ngày cho chúng ta. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng dẫn đường chúng ta đi. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Như thánh Giêrônimô đã từng nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô.” Nên chúng ta cần phải siêng năng học hỏi Kinh Thánh, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.
Phần thứ hai đó là phần bẻ bánh: Đấng Phục Sinh cầm bánh, chúc tụng và bẻ ra cho các ông. Mắt họ liền sáng ra vì thấy Người bẻ bánh. Họ đã nhận ra Đấng Phục Sinh khi cùng tham dự bẻ bánh với Người. Đây cũng chính là phần thứ hai của thánh lễ, đó là bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi nghe Lời Chúa, chúng ta cùng cử hành Thánh Thể. Chính lúc truyền phép, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Đấng Phục Sinh hiện diện với chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Bởi vì Chúa Phục Sinh và Chúa Giêsu Thánh Thể là một. Người trở thành lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Người trở thành người bạn đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường cuộc sống. Người trở thành sức mạnh cho chúng ta khi gặp những gian nan thử thách. Người làm cho chúng ta sáng mắt và cháy bỏng lòng yêu mến khi chúng ta tham dự bàn tiệc với Người.
Như thế, nhờ Lời Chúa và việc bẻ bánh, hai môn đệ Emmaus đã nhận ra Đấng Phục Sinh. Cũng thế, ngày hôm nay, Đấng Phục Sinh tiếp tục hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Chúng ta nhận ra Người nhờ việc đọc, suy gẫm Lời Chúa và tham dự thánh lễ. Kinh Thánh và Thánh Thể là hai con đường tuyệt hảo để gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
3- Làm chứng cho Đấng Phục Sinh
Những ai đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh đều cảm thấy có nhu cầu cần phải loan báo cho người khác biết. Hai môn đệ Emmaus sau khi đã gặp gỡ và nhận ra Đấng Phục Sinh, họ đã quay trở lại Giêrusalem và loan báo cho các bạn hữu biết Chúa đã trỗi dậy rồi. Những người phụ nữ ra mồ để viếng xác Chúa, nhưng bất ngờ được gặp Đấng Phục Sinh, họ đã vội vã trở về báo tin cho các Tông Đồ biết là Chúa đã sống lại. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã hùng hồn rao giảng về Đấng Phục Sinh. Kết quả là có khoảng 3000 người theo đạo. Những Tông Đồ khác, sau khi Chúa Phục Sinh, đã theo lệnh truyền của Chúa và đã đi khắp tứ phương thiên hạ để truyền giáo và làm chứng cho Đấng Phục Sinh.
Đến lượt chúng ta, với tư cách là những người Kitô hữu, sau khi đã được lắng nghe Lời Chúa và Bẻ Bánh, chúng ta được mời gọi ra đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho những người xung quanh. Đó là sứ vụ của Giáo Hội. Đó là sứ vụ của mỗi người Kitô hữu. Bởi vì, chúng ta không chỉ là những người tin vào Chúa mà còn là những người loan báo Chúa cho người khác.
Nguyện xin Đấng Phục Sinh luôn đồng hành, soi sáng và làm cho chúng ta được bừng cháy lòng mến và lòng nhiệt thành để chúng ta làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen!
------------------------------------
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Ở cuối hành trình về làng Emmaus, hai môn đệ mời người khách bộ hành, chính là Chúa Phục Sinh PS3-A133
Ở cuối hành trình về làng Emmaus, hai môn đệ mời người khách bộ hành, chính là Chúa Phục Sinh mà cả hai đều không nhận ra: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.
Thực tế trời sắp tối, một ngày đang vội kết. Nhưng “ngày sắp tàn” còn diễn tả trạng thái tâm hồn: Một cõi hồn đang không lối thoát, đang tối thật sự.
Bởi sau khi Chúa thụ nạn, như nhiều môn đệ, tâm trạng hai ông rệu rã, mất định hướng. Nội tâm chìm trong đêm tối, cái đêm của nghi ngờ, của thất vọng.
Các ông từng đặt niềm tin vào Thầy. Nhưng Thầy bị bắt, bị đánh nát tấm thân, bị đóng đinh, chết trên thập giá như kẻ bất lực không thể thoát đau đớn.
Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại vực thẳm sâu thăm thẳm của sự ngã lòng. Đêm tối ấy đáng sợ.
Tự bản chất, màn đêm làm tăng sợ hãi. Vậy mà bây giờ, trong lòng vốn đã tăm tối, đã vô cùng sợ hãi, lại còn bị nhấn dần vào đêm của tự nhiên. Hình như nỗi khiếp sợ trong cõi hồn hai ông càng tăng dữ dội.
Chính trong tâm trạng rối bời ấy, các ông thưa cùng người bộ hành, người cho mình sự ấm áp suốt quảng đường dài: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.
Cũng vậy, biết bao nhiêu lần sóng gió, khổ đau, sợ hãi, bế tắc trong đời mình, ta cũng cần Chúa ở cùng.
Những lúc đời ta thất bại dồn thất bại, cay đắng dồn cay đắng, thương đau đè lên thương đau, gục ngã như kéo nhau ập đến, oan khuất như cùng lúc tấn công tứ phía, chúng ta, người môn đệ của Chúa hôm nay, không thốt lên để kêu nài: “Lạy Chúa, xin hãy ở lại với con” đó sao!
Lời cầu khẩn ấy đâu phải lời xa xưa, đâu phải lời quá khứ. Nó là lời hiện tại và hiện thực của chính chúng ta, của biết bao cuộc đời xung quanh chúng ta.
Có mấy cách để người môn đệ vững vàng trong thử thách, nhằm vượt qua nỗi cheo leo đời mình, để thấy Chúa luôn hiện diện, luôn đỡ nâng, đó là:
1. Lời Chúa.
Chúa dạy hai môn đệ suốt hành trình về Emmaus bằng lời Kinh Thánh, là Chúa hun đúc đức tin để hai ông lấy lại nền tảng Kinh Thánh mà tin vào Chúa.
Chúa vẫn hiện diện đấy thôi. Chỉ có điều hai ông và cả chúng ta đều không nhận ra Chúa giữa đời thường.
Vậy, khi bị vây bởi bóng tối trong đời, hãy mở Kinh Thánh nghiền ngẫm, cầu nguyện. Suy ngẫm Lời Chúa là cách ta để Chúa uốn nắn đức tin của ta.
Vì thế, nếu không bao giờ tiếp xúc với Lời Chúa, đó là người vô phúc, vì loại bỏ một phần sự giáo dục quan trọng của Chúa ra khỏi đời mình.
Lúc tiếp cận, cầu nguyện với Lời Chúa là lúc sức mạnh của Chúa đỡ nâng hành trình đời ta. Chúa hiện diện trong sự đỡ nâng thầm lặng mà Người thủy chung dành cho ta.
2. Thánh Thể.
Cuối hành trình của hai môn đệ trên làng Emmaus, cũng là lúc cuối ngày, lúc bóng tối đang dồn về, Chúa cử hành lại nghi thức của chiều thứ Năm Tuần Thánh, một cử hành mới diễn ra vài ngày trước: cử hành Thánh Thể.
Nếu bóng đêm của không gian đang phản ánh chính bóng đêm của cõi lòng, thì giữa bóng đêm tăm tối, Chúa trao ban Thánh Thể của Người. Đó chẳng phải là cử hànhThánh Thể giữa những tăm tối đó sao?
Ngày nào mà Hội Thánh không cử hành Thánh Thể! Giữa những tăm tối của cuộc đời, hằng ngày Thánh Thể vẫn sáng lên soi rọi, dẫn lối, trao sức mạnh cho bất cứ ai dám tin tưởng, dám đặt đời mình trong ơn Chúa.
Bài học này lớn vô cùng để ta biết, cuộc đời càng tối tăm, càng thách thức, càng giăng nhiều cạm bẫy, ta càng phải quay về với Thánh Thể Chúa.
Thánh Thể là sức mạnh vững chãi cho kẻ tin tưởng tìm về. Điều này rõ hết sức khi hai ông lập tức quay trở lại Giêrusalem. Cũng là bóng đêm, thậm chí đêm càng lúc càng khua, càng đáng sợ, thì hai ông mất hết sợ hãi. Lập tức lên đường, ngay trong đêm, hai ông loan báo bằng được niềm vui Chúa Phục sinh.
Thánh Thể Chúa đã gây nên sức mạnh vô cùng lớn lao, khó có thể có ai cản nổi. Thánh Thể Chúa chính là sự đỡ nâng đầy thánh thiện mà mỗi người không bao giờ được phép bỏ qua.
Ai dại dột bỏ qua Thánh Thể, kẻ đó đang đánh mất chính nguồn sống, chính sự sống siêu nhiên, sự sống đời đời của mình.
------------------------------------
Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng Vụ!
Khi con ngồi viết những dòng suy niệm này là lúc cả thế giới đang chống chọi với cơn đại dịch PS3-A134
Khi con ngồi viết những dòng suy niệm này là lúc cả thế giới đang chống chọi với cơn đại dịch cô-vi. Và trong thời gian bệnh dịch bùng phát cho đến thời gian bây giờ, Thánh lễ nhiều nơi trên thế giới, những sinh hoạt chung giáo xứ có lẽ vẫn còn bị đình chỉ! Dù trong một bức tranh u ám như vậy chăng nữa, Chúa Phục Sinh đã chiếu sáng vào chốn tối tăm, chiếu soi vào cõi lòng nhân loại, và tỏ rạng ánh vinh quang của Ngài nơi tâm hồn chúng ta. Vì thế, cùng cảm nghiệm ngày xưa của hai môn đệ làng Em-mau, chúng ta cùng suy gẫm đôi điều về các bài đọc Phụng Vụ hôm nay.
Giả như, nếu ví cuộc đời của chúng ta là một bộ phim nhiều tập, thì hơn ai hết là người Ki-tô hữu, chúng ta biết rõ cuốn phim này kết thúc ra sao rồi. Mà nếu ví cuộc đời của chúng ta là cuốn tiểu thuyết thì chắc chắn chúng ta cũng đã biết kết cuộc thế nào. Vì chưng, Chúa Ki-tô đã chịu chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại, chiến thắng sự chết, và đây chính là điều tối hậu của cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta, đức tin của chúng ta; cụ thể được minh chứng rõ nét trong đoạn sách Công Vụ Tông Đồ “vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Đấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa” (Cv 2, 28). Chúng ta có thể thất vọng với chính bản thân mình, với những người xung quanh, với kỳ vọng của chúng ta; nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm chúng ta thất vọng, nếu chúng ta biết trông cậy và tín thác nơi Người.
Chính nhờ niềm tin này, mà chúng ta nên ra công tìm kiếm và thực thi ý Chúa hơn là ước muốn của thế gian hay của chúng ta. Về điểm này, lời Chúa trong thư của Thánh Phê-rô Tông Đồ vang vọng trong chúng ta, “…không phải nhờ những thứ chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm…Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô” (x. 1Pr 1, 18 – 19). Tuy nhiên, thực tế cho chúng ta nhận ra, chúng ta đã – đang sống ngược lại với những gì Thánh nhân dạy. Trong lịch sử, mỗi khi các cơn đại dịch xảy ra, thì con người thường ăn năn, sám hối ít nhiều, trở về với Thiên Chúa, chạy tới kêu xin Người thương xót. Nhưng nay thì khác, đại dịch cô-vi bùng phát, người ta lại hối hả mua đồ tích trữ, vơ vét hết những thứ nhu yếu phẩm, chỉ biết lo cho bản thân mà không mảy may nghĩ đến người khác cũng đang cần như mình! Giữa đại dịch, thay vì dành nhiều thời gian để nhìn lại bản thân, nhìn lại cuộc sống làm người, nhìn lại đời sống Ki-tô hữu…thì không ít chúng ta chỉ nơm nớp lo sợ, hoảng loạn! Giữa đại dịch, thay vì dành nhiều cơ hội để cầu nguyện, để gần gũi Chúa, gần gũi với anh chị em trong gia đình hơn, thì chúng ta lại vẫn ‘ngựa quen đường cũ’ tụ tập trong nhà ăn nhậu, bày ra nhiều trò tiêu khiển khác. Giữa cơn đại dịch, thay vì loan truyền tin mừng, tin hy vọng, khuyến khích động viên, cảm thông hơn với nhau, thì chúng ta chỉ biết lợi nhuận cá nhân mà đẩy giá mặt hàng trên mạng! Chúng ta được cứu thoát nhờ Máu châu báu của Con Chúa, chứ không phải được cứu rỗi bằng nén vàng, thỏi bạc, châu sa, hạt lựu! Vì thế, chúng ta nên sống và làm chứng với ơn sủng được Chúa cứu độ.
Mặc khác, khi nhìn toàn cảnh thế giới đang oằn mình chống chọi với cơn đại dịch cô-vi, và mỗi ngày phải nhìn thấy những dòng tít lớn trên báo mạng về thảm hoạ dịch bệnh, khiến chúng ta rùng mình, bi quan, buồn bã, thất vọng và có khi nghi ngờ ‘Thiên Chúa còn là Đấng luôn yêu thương, giàu lòng thương xót’? Thậm chí, còn nghĩ ‘Chúa đang trừng phạt nhân loại’ qua cơn đại dịch này chăng? Thật ra, Thiên Chúa mà Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta, và là hiện thân qua Con Một Người không phải Đấng ưa thích trừng trị, sát phạt, mà là ‘Đấng giàu lòng xót thương, chậm bất bình, và rất mực khoan dung’ (Tv 103, 8), là ‘Đấng không muốn kẻ gian ác, tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống’ (Ez 18, 23). Sự dữ, sự ác đều do tội lỗi con người, do tính kiêu căng, cao ngạo của con người mà ra; và vì con người tự mình gây ra nên phải gánh hậu quả là điều tất yếu. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc, và luôn gửi thông điệp đến với chúng ta trong tâm hồn, qua những biến cố thời đại giúp chúng ta quay về với Người, v.v…Hơn nữa, chỉ có một mình Thiên Chúa mới cứu thoát con người ra khỏi vòng luẩn quẩn này, và chỉ mình Người mới có thể biến sự dữ thành sự lành, biến sự ác thành sự thiện mà thôi, ‘duy chỉ Thiên Chúa viết đường thẳng trên những đường cong’ (theo Thánh Âu-gus-ti-nô). Trong nỗi thất vọng dường như tuyệt vọng ‘Thiên Chúa bỏ quên chúng ta’ này cũng là cảm nghiệm của hai môn đệ đã bỏ Giê-ru-sa-lem mà về làng Em-mau. Vì buồn sầu thê thảm, mọi thứ dường như sụp đổ trước mắt họ, nên họ đành bỏ nơi mà họ từng hăng hái, đầy nhiệt huyết bước theo chân Thầy Giê-su, cùng Người bôn ba khắp chốn, được nghe Người giảng dạy và chứng kiến biết bao điều kỳ lạ, để trở về nơi chốn xưa, nơi mà hai ông sống trước khi được gặp Thầy Giê-su! Trong nỗi thất vọng ê chề này, có thể nói: hai ông đã trốn chạy, bỏ lại đằng sau những gì bi thương xảy ra tại Giê-ru-sa-lem ‘Thầy Giê-su chịu kết án, chết nhục nhã trên thập giá’. Nhưng nỗi sầu này đâu phải chỉ dừng tại đây, mà ‘sau ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy từ cõi chết’ như hai ông đã từng được nghe khi còn theo chân Thầy Giê-su. Và trong nỗi u buồn lê bước trở về làng Em-mau, với suy nghĩ ‘Thiên Chúa đã bỏ mặc Thầy Giê-su’ hoặc ‘Thiên Chúa đã bỏ mặc chúng ta’, thì chính lúc này, Thiên Chúa lại gần gũi hai ông hơn bao giờ hết “đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến gần và cùng đi với họ” (Lc 24, 15). Không những thế, Người còn giải thích Kinh Thánh cặn kẽ, mở trí lòng cho hai ông, mà còn tỏ cho hai ông thấy hành động bẻ bánh trong bữa tiệc ly trong đêm trước khi Người chịu khổ nạn. Và khi nghiệm lại tất cả biến cố trên đường đi, hai ông đã nhận ra “dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24, 32). Nói cách khác, Chúa Ki-tô Phục Sinh đã đồng hành với họ trong nỗi thất vọng, Chúa Ki-tô Phục Sinh thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt huyết của họ đã tắt khi trên đường về quê, Chúa Ki-tô Phục Sinh đã ban cho họ niềm vui của Ngài hầu xua tan bao nỗi bất an, nặng trĩu đang ẩn sâu trong tâm hồn họ.
Với cảm nghiệm của hai môn đệ làng Em-mau, chúng ta cùng nhau xác tín rằng: Chúa Ki-tô Phục Sinh đang cùng sánh bước với chúng ta trên cuộc hành trình lữ thứ đầy chông gai này. Người đang nói với chúng ta qua mỗi giờ kinh nguyện sốt sắng. Người hiện diện, đỡ nâng, nuôi dưỡng chúng ta qua Thánh Lễ hằng ngày. Người hướng dẫn, chỉ lối chúng ta qua Giáo Hội của Người. Trong niềm cậy trông tín thác Chúa Ki-tô Phục Sinh, chúng ta dâng lời cảm tạ:
Chúa đã chịu chết cho nhân loại
Chúa đã sống lại trong vinh quang
Chúa hằng chuyển cầu cho chúng con
Chúa luôn đồng hành với chúng con
Al-lê-lui-a, Al-lê-lui-a. Amen!
------------------------------------
Trầm Thiên Thu
Nhận diện là điều cần thiết. Càng ngày càng cần hơn vì sự dữ gia tăng, giả hình tinh vi hơn ngày PS3-A135
Nhận diện là điều cần thiết. Càng ngày càng cần hơn vì sự dữ gia tăng, giả hình tinh vi hơn ngày xưa rất nhiều. Con người còn giả thì còn thứ gì không giả? Mức nhận diện cần chính xác để tránh lầm lẫn kẻo mang họa vào thân.
Chiếc máy vi tính hoặc chiếc điện thoại, không chỉ cần mật mã để khóa mà còn cần nhận diện. Việc nhận diện trước tiên để tự bảo vệ chính mình khỏi những thứ nguy hiểm. Virus đa dạng, không chỉ về sinh học mà cả về kỹ thuật số. Có những loại virus còn độc hại hơn là virus trừu tượng: dối trá, lọc lừa, tham lam, ghen tỵ, tà tâm, xảo quyệt,… Vô số chủng loại mới nguy hiểm giữa xã hội gian tà và vô thần ngày nay.
Nhận diện được chúng thì mới có cách để xa tránh hoặc triệt tiêu chúng. Đó là phương diện tiêu cực. Phương diện tích cực là nhận diện cái tốt để hấp thụ. Càng cần thiết hơn về phương diện tâm linh: nhận diện Thiên Chúa và nhận diện môn đệ đích thực của Ngài. Khó nhất là nhận diện chính mình – để tránh lố bịch, ảo tưởng.
Người ta thường nói: “Tưởng vậy mà không phải vậy.” Vì thế càng phải nhận diện chính xác, sai một ly đi một dặm. Ai cũng biết chữ Cross (Anh ngữ) nghĩa là gì, nhưng nó không chỉ có nghĩa là thập giá hoặc đau khổ, mà còn có nghĩa là huân chương: Cross of Merit – Huân Chương Công Trạng. Thảo nào Chúa Giêsu động viên chúng ta cố gắng vác thập giá để xứng đáng được Ngài thưởng sự sống đời đời. Thật tuyệt vời!
Cuộc sống là hoạt động, di chuyển. Tuy nhiên, đi được khoảng cách xa hay gần không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường. Gặp gỡ rất quan trọng, và có liên quan nhận diện. Sống ở đời không thể không gặp nhau, nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng. Vô ngôn có khi còn “nói” nhiều hơn là ngôn ngữ.
Có nhiều kiểu gặp nhau. Có người vui mừng gặp người khác, có người giáp mặt mà làm ngơ hoặc tránh né. Đó là sự gặp gỡ vô ích, đôi khi thêm phiền toái. Gặp nhau là điều cần thiết: để chia sẻ, để giúp đỡ, để biến đổi, để thảo luận, để yêu thương,… Gặp người đời mà cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ chính Đức Kitô Phục Sinh. Gặp Ngài để được biến đổi, được tái sinh, gặp tha nhân và gặp chính mình.
Việc gặp Đức Kitô là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của Ladarô – em trai của Mácta và Maria, (Ga 11:1-44) và con trai bà góa thành Nain (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là dạng sống lại đặc biệt và không còn chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Maria Mácđala và hai môn đệ trên đường Emmau cũng không nhận ra Thầy Giêsu, dù trước đó họ rất thân thiết với Ngài. Chị Maria Mácđala chỉ nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh bằng giọng thân thương quen thuộc, hai môn đệ kia chỉ nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: Bẻ bánh.
Và còn hơn như vậy nữa. Khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và hồ nghi. Chúa cho họ rờ vào Ngài, rõ ràng Ngài vẫn có xương thịt, đặc biệt là Ngài còn ăn khúc cá nướng. Lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật. (Lc 24:36-43) Thân xác phục sinh thật khác và cũng rất lạ, giống như xưa mà vẫn khác xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh vì họ nhìn bằng con mắt trần gian.
Trong cuộc sống đời thường cũng có điều khác thường. Bất kỳ ai “gặp” được Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ.” Thấy ai biến đổi thì biết chắc là người đó đã được “gặp” Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “ra vẻ biến đổi” để được người khác khen ngợi hoặc tỏ ra mình đạo đức. Cuộc đời các thánh đã cho thấy điều đó, họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được.
Ngư phủ Phêrô là người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm giáo hoàng tiên khởi, dù “không có chữ nghĩa” (Cv 4:13) và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, (Mt 26:35; Mc 14:31; Lc 22:33) nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm. Tuy nhiên, sau khi ông đã gặp được Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn biến đổi, không còn nhát đảm hoặc sợ sệt. Và rồi một hôm, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giuđa Ítcariốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giuđê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây.” (Cv 2:14) Ông dốt chữ nghĩa nhưng thông thạo Lời Chúa.
Thật vậy, ông Phêrô đã dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đavít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.” (Cv 2:22-28) Sự biến đổi kỳ diệu!
Rõ ràng một Phêrô hôm nay khác hẳn một Phêrô hôm qua. Ông trở thành một nhân chứng sống động, một nhân chứng đích thực. Khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết. Ông Phêrô tiếp tục nói với giọng quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đavít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe.” (Cv 2:29-33) Đúng là ông đã nhận diện được chính Đấng Phục Sinh, Thiên Chúa của kẻ sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết.
Khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Thiên Chúa thì Ngài rất vui. Ngài muốn chúng ta như vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và được lợi ích là tận hưởng Lòng Thương Xót bao la của Ngài. Được như vậy thì chúng ta sẽ vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2) Đó là lúc nhận diện chính mình, biết mình là ai, như thế nào, và cần gì.
Đó là “chuỗi nhận diện.” Thánh Augustinô nói: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho người ta nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa.” Còn Thánh Thomas Aquinô phân tích: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì.” Rất lô-gích!
Chắc chắn rằng chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ.” (Tv 16:5) Do đó, chúng ta có thể can đảm thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11) Niềm tín thác tuyệt vời biết bao! Và hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay – đặc biệt trong cơn đại dịch corona này, người ta đã biết hướng về Thiên Chúa.
Có tin tưởng nhau thì mới có thể gặp nhau. Đối với phàm nhân, mức độ ưu tiên có khác nhau, ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, chớ ảo tưởng mà lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) rồi mạo nhận là mình “ngon” hơn người khác. Thật đáng sợ!
Với bản tính bộc trực, thẳng như ruột ngựa, Thánh Phêrô nói rõ: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này.” (1 Pr 1:17) Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất thẳng thắn, rất công bình, rất nghiêm túc. Đó là sự thật, mà sự thật thường khiến người ta không vừa lòng.
Và rồi Thánh Phêrô còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” (1 Pr 1:18-21) Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Chữ phải có nghĩa, nghĩa phải đủ kẻo dễ hiểu lầm.
Tin nóng về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin nóng đó chưa đủ nguội thì lại có tin nóng khác: Đức Giêsu phục sinh. Tin nóng này lại tiếp tục “khuấy động” lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Trên đường họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cảm thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu vậy, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tương lai như đi vào ngõ cụt. Buồn ơi là buồn!
Trình thuật Tin Mừng (Lc 24:13-35 ≈ Mc 16:12-13) cho biết rằng khi họ đang đi đường, cùng trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà “ông ta” chẳng hề biết. Lạ ghê!
Khi đó, Cơlêôpát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” và hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ chân thành kể lại vụ Ông Giêsu Nadarét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel, thế nhưng những việc ấy xảy ra đã ba ngày. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy.” Thế thì buồn thật và thất vọng thật!
Và rồi Đức Giêsu nói với họ: “Các anh CHẲNG HIỂU gì cả! Lòng trí các anh thật là CHẬM TIN vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Ngài bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa “phá ngu đột xuất.” Khổ ghê!
Không thể khác hơn, Chúa Giêsu đành phải trách các ông “chậm tin.” Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, thậm chí việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn. Và chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng rồi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm. Thấy giật mình thật, nhưng cũng chẳng oan ức gì!
Gần tới nơi họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Ôi, tiếc thật!
Và rồi ngay lập tức, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa. Tương lai xán lạn ở phía trước. Niềm vui lại rộn ràng điệp khúc Alleluia!
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra Ngài trong những người chúng con gặp, nhất là nơi những người hèn mọn, và xin cho họ cũng nhận ra Ngài khi gặp chúng con. Xin giúp chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời-mình, tạ ơn Ngài, bẻ ra, trao cho mọi người, và luôn làm chứng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
------------------------------------
Xin cho chúng con “biết đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa” trên mọi nẻo đường, vì bất cứ ở đâu PS3-A136
TMĐP- Xin cho chúng con “biết đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa” trên mọi nẻo đường, vì bất cứ ở đâu, và lúc nào, Chúa cũng tất tưởi, vội vã lên đường đồng hành với chúng con để chúng con luôn được sống trong niềm vui và ơn bình an phục sinh của Chúa trên hành trình làm người, làm con Chúa.
Hai môn đệ từ Giêrusalem về Emmau. Con đường mọi ngày không dài, nhưng hôm nay lê thê buồn thảm, vì Thầy của các ông vừa bị kết án tử hình và đóng đinh vào thập giá.
Không ai nói với ai, vì cả hai nặng trĩu một nỗi buồn: buồn cho số phận tang thương của Thầy, buồn vì cơ đồ Cứu Thế của Thầy sụp đổ kéo theo hiện tại ê chề và tương lai đen tối của các ông, những người đã bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
Thất bại chua cay, thất vọng não nề, hai ông lặng lẽ như hai chiếc bóng không hồn trở về nhà, sau ba năm dong duổi đi theo Đức Giêsu với nhiều kỳ vọng, mơ ước, cho đến khi có người khách lạ rảo nhanh bước chân “tiến đến gần và cùng đi với họ” (Lc 24,15).
Người khách lạ vồn vã bắt chuyện làm hai ông như tỉnh cơn mê, khi lên tiếng hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24,17). Với vẻ mặt buồn rầu, họ kể cho người bạn đường mới quen đầy đủ diễn biến của câu chuyện buồn mới xảy ra mấy hôm nay ở Giêrusalem: Đức Giêsu, Thầy các ông, “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” đã bị “các thượng tế và thủ lãnh nộp Người để Người bị án tử hình và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24,19.20). Các ông cũng không quên kể về chuyện có mấy bà ra viếng mộ, nhưng không thấy xác Thầy các ông đâu nữa…
Nghe các ông chia sẻ câu chuyện buồn, người khách bộ hành mới quen lấy Kinh Thánh ra để giải thích những gì liên quan đến Thầy của hai ông “trong tất cả sách Thánh” (x. Lc 24,27). Bỡ ngỡ, kinh ngạc, khâm phục nhưng hai ông không nhận ra người bạn đường mới quen ấy chính là Đức Giêsu, Thầy của mình, mặc dù khi nghe Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh, lòng hai ông đã bùng cháy lên cách lạ lùng (x. Lc 24,22). Phải chờ đến khi Ngài nhận lời ở lại với họ vì trời đã tối, và trong lúc đồng bàn, Ngài “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho các ông”, các ông mới nhận ra Ngài (x. Lc 24,30-31).
Như hai môn đệ trên đường Emmau buồn thảm năm xưa, chúng ta cũng không tránh khỏi trong cuộc đời những biến cố thương đau, những thất bại bẽ bàng, những chiều buồn tê tái, những khúc quanh xé nát tim gan, những đường dài quạnh hiu, thất vọng. Nhưng cũng như hai môn đệ, Đức Giêsu phục sinh rảo nhanh bước chân “tiến đến gần và cùng đi” với chúng ta, vì Ngài muốn gặp chúng ta và để chúng ta nhận ra Ngài là Hy Vọng của chúng ta trên hành trình cuộc đời nhiều chông gai, thử thách. Nhưng vấn đề là chúng ta có nhận ra Ngài không?
Đức Giêsu trên đường Emmau với hai môn đệ đã mở ra cho chúng ta những con đường, trên đó chắc chắn chúng ta sẽ được gặp và nhận ra Ngài:
Con đường Chứng Nhân:
Dẫn chứng và giải thích lời Thiên Chúa từ Kinh Thánh nói về Ngài, trên đường Emmau, Đức Giêsu đã thể hiện sứ mạng của người làm chứng, để khi nghe Ngài nói, tâm hồn ủ dột, sầu buồn của hai môn đệ được bừng sáng lên niềm hy vọng.
Cũng như hai môn đệ, chúng ta được gặp và nhận ra Đức Giêsu nhờ các chứng nhân của Ngài, như Phêrô, nhân chứng sống động của Đức Giêsu đã làm chứng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại trước đám đông dân chúng ngày lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem. “Những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2,41).
Con đường Thánh Lễ:
Con đường này chính là con đường Emmau, trên đó, chúng ta được nghe Lời Thiên Chúa, như hai môn đệ đã được nghe Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh. Và cũng trên con đường Thánh Lễ này, chúng ta được đồng bàn với Đức Giêsu, được thấy Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho chúng ta.
Được nghe lời Ngài, được đồng bàn và đón nhận Mình Máu Ngài, chúng ta sẽ không chỉ gặp Ngài, nhận ra Ngài, mà còn được trở nên một với Ngài, kết hiệp mật thiết với Ngài, ở lại trong Ngài (x. Ga 15,4-5), sống sự sống của Ngài như thánh Phaolô đã quả quyết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Lạy Đức Giêsu, Đấng đã đồng hành như Thiên Chúa của Sự Sống với hai môn đệ tưởng như đã chết vì sầu buồn trên đường Emmau; Đấng đã đốt lên lửa Hy Vọng trong trái tim lạnh ngắt vì thất vọng, và mở mắt đức tin của hai ông, khi trở nên “Tấm Bánh được bẻ ra”, để hai ông nhận ra người bạn đường mới quen là Đấng chịu đóng đinh đã sống lại trong vinh quang của Thiên Chúa!
Xin cho chúng con “biết đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa” (1 P 21) trên mọi nẻo đường, vì bất cứ ở đâu, và lúc nào, Chúa cũng tất tưởi, vội vã lên đường đồng hành với chúng con để chúng con luôn được sống trong niềm vui và ơn bình an phục sinh của Chúa trên hành trình làm người, làm con Chúa.
Jorathe Nắng Tím
---------------------------
Hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau là hình ảnh của đoàn thể những người thuộc PS3-A137
TMĐP- Hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau là hình ảnh của đoàn thể những người thuộc Giáo Hội lữ hành nối bước nhau qua bao thời đại, giữa bao gian nan, thử thách trên đường đi theo Đức Giêsu và làm chứng Ngài đã sống lại thật từ cõi chết.
1/ Đoàn thể ấy như hai môn đệ trên đường Emmau có lúc đã thấm thía nỗi đau khi hy vọng cá nhân bị tan vỡ:
Vì bám víu vào niềm hy vọng một Ítraen sẽ được Đức Giêsu, Thầy mình giải phóng khỏi ách thống trị của người Rôma, và đặt hết niềm tin vào Thầy là nhà giải phóng dân tộc, mà hầu hết các môn đệ của Đức Giêsu đã ấp ủ giấc mộng làm quan, đeo đuổi viễn ảnh một vương quốc hùng mạnh, chẳng thế mà các ông đã không ít lần tranh cãi nhau trước mặt Đức Giêsu về ngôi thứ, chức tước, danh phận (x. Mt 20,20-24), đến nỗi Ngài phải gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm ngtười phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 25-28).
Chính vì tiếc nuối niềm hy vọng vừa mới tan thành mây khói, các ông đã xót xa than thở và kể cho người khách lạ là Đức Giêsu “chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ítraen”(Lc 24,19-21). Cũng vì xót xa tiếc nuối và ê chề thất vọng trước tan vỡ của giấc mơ chính trị, mà các ông không nhận ra Đức Giêsu, người khách lạ đã tiến đến gần và cùng đi với các ông, lại đang lắng nghe các ông than van, kể lể chuyện của Ngài chịu đóng đinh ở Giêrusalem cách đây ba ngày .
Không khác hai môn đệ trên đường Emmau tuy biết Đức Giêsu, nhưng các ông không nhận ra Ngài, vì mải mê tìm kiếm những mục tiêu cá nhân khác, đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu là chúng ta cũng không nhận ra Ngài, mặc dù nói rất nhiều về Ngài và kiến thức về Ngài thì phong phú, rộng lớn, bởi con mắt chúng ta “bị ngăn cản không nhận ra Ngài” (Lc 24,16), khi hy vọng của chúng ta không là chính Ngài, không đặt vào một mình Ngài.
Quả thực, có khi đi gần hết hành trình theo Chúa, chúng ta vẫn chưa nhận ra Chúa đang đồng hành với mình, vì chúng ta chỉ tập trung mọi nỗ lực để tìm mình, mà không tìm Chúa; xây dựng vinh quang cái tôi, mà bỏ quên vinh danh Chúa.
2/ Đoàn thể ấy như hai môn đệ đã chẳng hiểu gì khi Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, vì không muốn từ bỏ đường lối, kế hoạch của riêng mình:
Người khách lạ là Đức Giêsu phục sinh hôm ấy trên đường Emmau với hai môn đệ đã tỏ ra rất kiên nhẫn khi lắng nghe hai ông kể lể, nhưng xem ra hai ông không muốn thay đổi quan điểm của mình, dù Ngài đã nhắc: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 26), và “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,26-27) đến nỗi Ngài phải miễn cưỡng trách các ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các Ngôn Sứ” (Lc 24, 25).
Như hai môn đệ, đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu là chúng ta cũng chẳng hiểu gì đường lối, kế hoạch của Thiên Chúa đã được chính Đức Giêsu mặc khải, nên mới ra nhiều nông nỗi như đấu đá, tranh giành, tố cáo, mạ lỵ, lên án, triệt hạ, tẩy chay, loại trừ nhau cách này cách khác, bởi đường của Thiên Chúa chỉ có một, đó là đường “từ bỏ mình và vác Thánh Giá” (x. Mc 8,34); lối đi duy nhất của Thiên Chúa là Tình Yêu (x. Ga 13,34); và kế hoạch thương xót cứu độ vô bờ bến, không giới hạn của Ngài thì đời đời không thay đổi (x. Lc 15 ), nên khi khôn ngoan của thế gian chiếm chỗ khôn ngoan của “Đức Kitô chịu đóng đinh” (x. 1 Cr 1,21-25) trong sinh hoạt của đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu, khi lòng ganh ghét, ích kỷ, gian dối, và bạo lực len lỏi vào tâm hồn người tín hữu thì trái tim họ sẽ đóng chặt cửa, không để ánh sáng và sự sống của Thần Khí đi vào và đổi mới, không cho mắt họ mở ra để nhận biết người khách lạ là Đức Giêsu phục sinh đang cùng họ đồng hành. Và như thế, họ mãi ảo tưởng đường lối, kế hoạch, khôn ngoan của riêng họ là đường lối, kế hoạch, khôn ngoan của Thiên Chúa. Chính những ảo tưởng này là nguyên nhân làm chết niềm hy vọng vào Đức Giêsu phục sinh, và làm phát sinh vô số bất an, bất ổn giữa lòng Dân Chúa, khi xô đẩy những người con cùng một cha xuống hố sâu tư lợi, bất chính, gian ác, hận thù, bạo lực, trái ngược với đòi hỏi của Tin Mừng.
3/ Đoàn thể ấy như hai môn đệ sẽ chỉ nhận ra người khách lạ là Đức Giêsu phục sinh khi cùng nhau quây quần bên Ngài trong tiệc Thánh Thể:
Quả thực, mắt của hai môn đệ đã hoàn toàn mù loà, và chỉ mở ra nhận biết người khách lạ là Đức Giêsu khi người khách lạ “đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24, 30); bởi chỉ quây quần bên Đức Giêsu Thánh Thể, là Tấm Bánh được bẻ ra cho muôn người được sống, là Chén Máu được đổ ra cho mọi người được tha tội, đoàn thể những người môn đệ, tức Giáo Hội mới thực sự trở nên thân thể của Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh đã chết và sống lại; mới cùng nhau tháp nhập vào chính sự sống của Con Người Thiên Chúa, Đấng đến vì yêu thương và để yêu thương vô cùng và đến cùng con người yếu đuối, tội lỗi…
Chính trong Thánh Thể, đoàn thể những người tin vào Đức Giêsu, như hai môn đệ trên đường Emmau, mới có thể nhận ra tình yêu xoá mình, hiến mình của Thiên Chúa làm người vì hạnh phúc của loài người, để “nhờ Người, với Người và trong Người”, đoàn thể ấy được trở thành dân được chúc phúc khi quy hướng tất cả đời mình, tất cả sinh hoạt của đoàn thể những người được gọi đi theo Đức Giêsu vào một việc duy nhất là “ca tụng, tôn vinh danh Chúa và mưu ích cho toàn thể Hội Thánh Người”.
Vì thế, khi không còn hiệp thông với nhau, không còn siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, không còn liên lỷ cầu nguyên như cộng đoàn tín hữu đầu tiên ( x. Cv 2, 42), đoàn thể tín hữu sẽ không nhận ra Đức Giêsu phục sinh là Cứu Chúa duy nhất của họ, và vì thế họ cũng không nhận ra nhau là môn đệ của Ngài, vì không có Chúa là Tình Yêu liên kết, hiệp nhất họ nên một “thân thể Đức Kitô” (x. 1 Cr 12,12-13.27).
4/ Đoàn thể ấy như hai môn đệ sẽ chỉ lớn lên trong đức tin khi cùng nhau loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người:
Việc làm sau cùng của hai môn đệ là “đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông Simôn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24, 33-35).
Đây là sứ vụ của đoàn thể những người tin vào Đức Giêsu và nhận ra Ngài đã sống lại từ cõi chết. Kể lại những gì đã thấy, đã nghe từ Đức Giêsu, cũng như việc mình đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Phục Sinh, chính là lời chứng của Tin Mừng.
Lời chứng ấy phải được loan báo trên mái nhà, rao truyền trên đường phố, công bố giữa chợ đời, vì đoàn thể tín hữu là đoàn thể những người được sai đến với muôn dân để làm cho muôn dân trở thành môn đệ Đức Giêsu (x. Mt 28, 18-20). Vì thế, Tin Mừng Phục Sinh không là tin vui cho riêng một cá nhân, một nhóm người, nhưng cho tất cả mọi người, cho toàn thể nhân loại ở mọi nơi, mọi thời, nên độc quyền Tin Mừng, sở hữu Tin Mừng, ém nhẹm Tin Mừng, cấm vận Tin Mừng, giam giữ Tin Mừng, ngăn sống cấm chợ Tin Mừng là xúc phạm chính Đức Giêsu và huỷ hoại đời sống Kitô hữu với ơn gọi loan báo Tin Vui Phục Sinh của chính mình.
Tóm lại, Thánh Thể và Loan Báo Tin Mừng Phục Sinh là hai cột trụ của đời sống thánh thiện nơi đoàn thể những người đi theo Đức Giêsu, vì ở Thánh Thể, họ nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót đã xoá mình, “hiến mình làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), và khi cùng nhau thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại thật như lời Ngài phán hứa cho muôn dân, đoàn thể Dân Chúa sống lòng thương xót đối với mọi người, như Đức Giêsu căn dặn những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, và “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy” (Ga 13,34-35), như anh em đã nhận biết Thầy là Đấng Cứu Độ và là Thiên Chúa của anh em.
Jorathe Nắng Tím
-----------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Khi đọc các chương Phúc âm về những hoạt động của Chúa Giêsu Phục Sinh thì chúng ta không PS3-A138
Khi đọc các chương Phúc âm về những hoạt động của Chúa Giêsu Phục Sinh thì chúng ta không chỉ quan tâm đến những việc làm của chính của Chúa Giêsu Phục Sinh và những phản ứng của các Tông đồ mà chúng ta nên quan tâm đến cả các môn đệ vì những người này giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ về cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai.
Câu chuyện của Chúa Giêsu Phục Sinh với hai môn đệ làng Emmaus trong bài Phúc âm hôm nay là một câu chuyện nhiều ý nghĩa.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 24,13-35: Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 24,13-35:
3.1 Tâm trạng của hai môn đệ làng Emmaus: Đó là tâm trạng buồn bã, hoang mang, thắc mắc và bế tắc. Đọc tường thuật của Luca chúng ta thấy rõ điêu đó: “Người (Chúa Giêsu) hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
3.2 Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành, nhập cuộc, giải tỏa tâm trạng của hai môn đệ làng Emmaus và nâng cấp cuộc gặp mặt:
a) Đồng hành: “Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người”
b) Nhập cuộc: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay".
c) Giải tỏa tâm trạng hai môn đệ làng Emmaus: “Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người”
d) Nâng cấp cuộc gặp mặt: “Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.”
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Lc 24,13-35
4.1 Chúng ta hãy để Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành và nhập cuộc: Chúa Giêsu Phục Sinh luôn chủ động và đi bước trước. Chỉ cần chùng ta để cho Người đồng hành và nhập cuộc vào cuộc sống của chúng ta như Người đã làm với hai môn đệ làng Emmaus,
4.2 Chúng ta hãy để Chúa Giêsu Phục Sinh giải tỏa tâm trì và nâng cấp cuộc gặp mặt: Chúa Giêsu Phục Sinh luôn chủ động và làm nhiều hơn sự mong đợi của chúng ta. Chỉ cần chùng ta để cho Người giảai tỏa tâm trí và nâng cấp cụoc gặp mặt là chúng ta nhận ra Người và tin rằng Người đã phục sinh!
V. Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã chết và đã phục sinh. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.-«Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người sống cởi mở với nhau và quan tâm đến chuyện thời sự.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy nhạy bén nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Phuc Sinh trong đời sống của các vị.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho giáo dân trong giáo xứ chúng ta và trong các giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết nói/kể về Chúa Giêsu cho những người xung quanh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu được khai sáng và nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh trong cử hành Lễ Bẻ Bánh của cộng đoàn.
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người là Ngôi Lời đã nhập thể làm người và đã chết trên thập giá để cứu độ hết mọi người. Người đã phục sinh từ cõi chết để ban ơn phục sinh cho chúng con.
Chúng con xin dâng lên Cha lời tri ân cảm tạ và lời quyết tâm để cho Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành, nhập cuộc và giải tỏa tâm trì cùng nâng cấp cuộc gặp mắt của chúng con với Người. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 22 tháng 04 năm 2023
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
-------------------------------
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh này đặt trọng tâm vào sự kiện Phục Sinh. Cv 2: 14 PS3-A139
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh này đặt trọng tâm vào sự kiện Phục Sinh.
Cv 2: 14, 22-28, 33
Bài Đọc I trích từ diễn từ đầu tiên của thánh Phê-rô. Thánh nhân ngỏ lời với dân chúng ở thành đô, bảy tuần sau biến cố Phục Sinh. Vị lãnh tụ của các Tông Đồ lớn tiếng công bố Đấng chịu đóng đinh đã Phục sinh.
1Pr 1: 17-21
Thánh Phê-rô viết từ Rô-ma gửi các Ki-tô hữu miền Tiểu Á, trong đó thánh Phê-rô nhắc nhở rằng nền tảng Đức Tin và nguồn mạch Đức Cậy đặt trên hy tế và phục sinh của Đức Ki-tô.
Lc 24: 13-35
Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc gặp gỡ của hai môn đệ phiền muộn với Đấng Phục Sinh trên đường Em-mau. Ngài khai lòng mở trí cho họ hiểu cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài bằng Kinh Thánh; cuối cùng họ nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh, ngay lúc đó Ngài biến mất trước mắt các ông.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 14, 22-28, 33)
Đoạn văn hôm nay được trích từ diễn từ đầu tiên của thánh Phê-rô, được công bố vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần. Sau khi được tràn đầy Thánh Thần, thánh Phê-rô ngỏ lời với đám đông Do thái đến Giê-ru-sa-lem để tham dự lễ “Ngũ Tuần”.
Chúng ta chỉ còn biết thán phục trước sự dạn dĩ của vị lãnh tụ các Tông đồ, thánh nhân phục hồi danh dự cho Đấng chịu đóng đinh và lớn tiếng công bố việc Ngài sống lại trong chính thành mà Ngài chịu khổ nạn, chỉ vài tuần sau những biến cố bi thương như vậy.
Ngón đòn tâm lý
Thánh Phê-rô “đứng… và lớn tiếng nói”, nghĩa là thánh nhân lên tiếng trong tư thế của một người xác tín và vững tin. Việc các Tông đồ khác đồng hiện diện với thánh nhân chứng thực sự đồng thuận của Tông Đồ đoàn.
Bố cục của bài diễn từ thật rõ ràng: Đức Giê-su là người của Thiên Chúa, anh em đã kết án tử Ngài, Ngài đã sống lại. Trong phần khai triển, thánh Phê-rô sử dụng ngón đòn tâm lý. Để chứng minh rằng Đức Giê-su là người của Thiên Chúa, thánh nhân khởi đi từ một thực tại mà hầu hết các thính giả đều đã sống qua khi viện dẫn họ ra làm chứng: “Chính anh em đều biết những chuyện đó, vì mọi sự đã xảy ra giữa anh em”.
Thánh Phê-rô tránh nêu lên thần tính của Đức Ki-tô ngay từ đầu, nhưng nhấn mạnh nhân tính của Ngài trước tiên: “Đức Giê-su người Na-da-rét, người đã được Thiên Chúa chứng nhận… Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su đã bị nộp”. Tiếp đó, vị lãnh tụ các Tông Đồ nhắc lại cái chết của Đức Giê-su khi cẩn trọng phân phối trách nhiệm: trước hết, cái chết này phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa đã định; tiếp đó, dân Do thái cũng chịu phần trách nhiệm: “Anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh vào Thập giá mà giết đi”; như vậy, người Rô-ma cũng bị quy trách nhiệm về cái chết của Ngài.
Biến cố Phục Sinh của Đức Kitô đã được Kinh Thánh loan báo
Lúc đó, thánh Phê-rô mới nêu lên biến cố Phục Sinh. Đối với cử toạ quen thuộc với Kinh Thánh, thánh nhân sẽ minh chứng rằng cuộc Phục Sinh này đã được Kinh Thánh loan báo rồi. Thánh nhân trích dẫn hai Thánh Vịnh.
Trước hết, Thánh Vịnh 18: “Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ do thần chết gây nên, mà cho Người sống lại. Vì lẽ thần chết không tài nào khống chế được Người mãi”, đây là bài thánh thi tạ ơn Đức Chúa cứu độ, chính Thiên Chúa đã ra tay cứu bạn Ngài khỏi lưới tử thần, tuy nhiên bản dịch Hy-lạp lại thay thế “lưới tử thần” của bản Híp-ri bằng “những đau khổ do thần chết gây nên”.
Tiếp đó, thánh Phê-rô trích dẫn Thánh Vịnh 16, được gán cho vua Đa-vít, theo đó người được Thiên Chúa tuyển chọn hân hoan vui mừng cho dù phải đối diện cái chết, “vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát”. Tv 16 này được người Do thái đương thời với Đức Giê-su chấp nhận là bài thánh vịnh mang chiều kích Mê-si-a. Thánh Phê-rô phát hiện ở nơi Thánh Vịnh này một luận chứng gây kinh ngạc.
Lời chứng của vua Đa-vít
Tác giả của lời sấm này là vua Đa-vít, vua “đã chết và đã được mai táng” (như Đức Giê-su), và ngôi mộ của vua hiện ở Giê-ru-sa-lem (như Đức Giê-su) ở đó người ta vẫn còn thấy ngôi mộ của vua. Thánh Phê-rô muốn lưu ý thính giả về sự tương phản giữa số phận của vua Đa-vít với số phận của Đức Ki-tô mà Thiên Chúa đã cho sống lại.
Nhờ ân ban ngôn sứ, vua Đa-vít biết rằng Đấng Mê-si-a sẽ thuộc dòng dõi của vua và Đấng ấy sẽ sống lại mà ra khỏi mồ. Vì thế, thánh Phê-rô công bố một lần nữa việc Đức Giê-su sống lại: “Về điều này tất cả chúng tôi đều làm chứng” (Cv 2: 32) và khẳng định việc Ngài được tôn vinh ở bên hữu Chúa Cha. Chúa Cha đã cho Ngài quyền ban Thánh Thần. Qua hành động cản đảm của mình, các Tông đồ cũng chứng thực họ được thụ hưởng ân ban Thánh Thần dư tràn này.
Như vậy, vị lãnh tụ các Tông Đồ dọi chiếu ánh sáng Kinh Thánh trên Đức Giê-su lịch sử mà mọi người đều đã biết, con người Giê-su này đích thật là Đấng Mê-si-a được Kinh Thánh loan báo. Đức Giê-su chết như một con người lịch sử và Ngài sống lại như một Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng sự chết.
BÀI ĐỌC II (1Pr 1: 17-21)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư thứ nhất của thánh Phê-rô, viết từ Rô-ma gửi cho các cộng đoàn khác nhau tại miền Tiểu Á. Vào Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc lời khuyên bảo sống trong niềm hy vọng; đoạn trích thư của Chúa Nhật này là một lời mời gọi sống cuộc đời thánh thiện.
Dưới cái nhìn của Chúa Cha
Vị Tông Đồ ám chỉ rõ ràng đến “Kinh Lạy Cha”: “Nếu anh em gọi Ngài là Cha…”. Đó là danh xưng cao quý mà người Ki-tô hữu gọi Thiên Chúa của mình. Họ là con cái Thiên Chúa, vì thế, họ phải hành xử sao cho xứng hợp, vì cuộc sống của họ diễn ra dưới cái nhìn của Chúa Cha, “Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử”. Từ đó, họ phải xử sự như người lữ khách trên trần thế này mà sống trong tâm tình “kính sợ Thiên Chúa”. Phải hiểu kiểu nói này theo nghĩa Kinh Thánh, nó diễn tả một thái độ tôn kính, vâng phục và yêu mến chứ không sợ hãi. Chúng ta nên đọc lại sách Đệ Nhị Luật ở đó lòng mến dành cho Đức Chúa được trưng dẫn nhiều lần: “Ngươi hãy kính sợ, phụng sự… yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết dạ hết sức ngươi”.
Bửu huyết của Đức Kitô
Anh em có thể sống cuộc đời thánh thiện như vậy, vì xưa kia anh em vốn là dân ngoại, gắn bó với cách sống được thừa hưởng từ cha ông của anh em, còn hiện nay anh em đã được Đức Ki-tô giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Thời kỳ thờ ngẫu tượng và lối sống “phù phiếm”, vô định và vô vọng đã chấm dứt. Sự giải phóng này đã được trả bằng “giá máu quý giá của Đức Kitô,” như máu Con Chiên vẹn toàn, vô tì vết (đây là những phẩm chất tất yếu của con chiên vượt qua: Xh 12: 13). Thánh Tông Đồ chắc chắn nghĩ đến dung mạo của người Tôi Trung chịu đau khổ (dung mạo này hiện diện khắp bức thư này), người Công Chính này “bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông” (Is 53: 7).
Tình yêu Thiên Chúa
Trong các cộng đoàn tiên khởi, các Ki-tô hữu gốc lương dân cùng sống chung với các Ki-tô hữu gốc Do thái, liệu họ cảm thấy tự ti mặc cảm đối với những người vốn đã thuộc vào dân Chúa chọn? Có thể… Thánh Phê-rô trấn an họ. Từ cõi đời đời, Thiên Chúa đã nghĩ đến họ, và chính để họ từ nay dự phần vào dân Ngài, mà Thiên Chúa đã sai Con của Ngài: “Người là Đấng Thiên Chúa chọn và xuất hiện vì anh em”, như vậy mở ra một giai đoạn mới và chung cuộc trong lịch sử cứu độ.
Qua Chúa Con đến Chúa Cha
Thánh Phê-rô kết thúc khi mô tả chuyển động kép đời sống nội tâm của người Ki-tô hữu. Khởi đi từ ý tưởng về Thiên Chúa, Đấng vừa là Cha vừa Thẩm Phán, người Ki-tô hữu hướng mắt về Đức Ki-tô mà trở về với Chúa Cha, với niềm xác tín rằng Chúa Con lôi kéo họ cùng bước theo Ngài từ Khổ Nạn đến vinh quang bên cạnh Chúa Cha. Như vậy Đức Tin và Đức Cậy bất khả biệt phân.
TIN MỪNG (Lc 24 : 13-35)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong những hạt ngọc của sách Tin Mừng Lu-ca: nó toát ra một vẻ đẹp quyến rũ khôn sánh, cả về chiều kích tâm linh lẫn chiều kích phụng vụ.
Hai môn đệ (chỉ một người duy nhất được nêu tên: Cơ-lê-ô-pát) rời bỏ Giê-ru-sa-lem sau hai ngày tấn thảm kịch thập giá (quả thật, thánh Lu-ca định vị câu chuyện này vào cùng ngày Đức Giê-su Phục Sinh). Việc họ rời bỏ Thánh Đô làm chứng rằng cộng đoàn nhỏ bé của các môn đệ thân cận với Đức Giê-su, rã đám, phiền muộn và không còn hy vọng gì nữa. Mỗi người về quê nhà của mình, trở lại nghề nghiệp trước đây của mình.
Chiều kích Kinh Thánh:
Đức Giê-su động lòng thương những bạn hữu của Ngài. Họ khóc thương cái chết của Ngài và tiếc nuối giấc mơ bất thành của mình. Ngài đồng hành với họ. Đây không đơn giản là một “cuộc hành trình theo nghĩa vật lý”, nhưng còn là lộ trình tâm linh nữa. Sự hiện diện của Ngài, Đấng Phục Sinh, không còn như trước đây nữa: họ không nhận ra Ngài, cũng như bà Ma-ri-a Mác-đa-la, khi gặp gỡ Ngài bên ngôi mộ trống, bà cũng đã không nhận ra Ngài.
Theo từng bước một, Ngài dần dần soi lòng mở trí cho hai ông để hai ông “ngộ được” các biến cố. Ngài đích thân giải thích cuộc sống và cái chết của Ngài. Đối với những ai xưng tụng Ngài là “ngôn sứ”, Ngài minh chứng Ngài là Đấng Mê-si-a; đối với những ai chờ đợi cuộc giải phóng dân Ít-ra-en, Ngài giúp họ khám phá mầu nhiệm Vượt Qua. Ánh sáng dần dần ửng hồng trong tâm trí của họ, và một ngọn lửa nội tâm sưởi ấm lại tấm lòng họ, như sau này họ sẽ thốt lên : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng thấy rạo rực đó sao ?”.
Chiều kích Thánh Thể
Đức Giê-su đã thắp sáng lại niềm tin của họ. Nhưng vẫn còn thiếu một chiều kích, chiều kích này rồi sẽ xuất hiện khi họ đích thân ngỏ lời với Ngài: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì ngày đã xế chiều, và trời gần tối”.
Đây là cử chỉ của tấm lòng, cử chỉ của việc dâng hiến và chia sẻ. Đức Giê-su giả vờ như tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ngài không muốn áp đặt nhưng chờ đợi hai ông ngỏ lời mời và Ngài chấp nhận lời mời của họ. Với cử chỉ thân thiện và tình bạn của họ, Ngài sẽ đáp trả một cách tuyệt vời. Với những người bày tỏ tấm lòng hiếu khách với Ngài và mời Ngài một bữa ăn, đến lượt mình, Ngài đáp lại bằng việc bẻ bánh và mặc khải chân tính của Ngài.
Thánh Lu-ca dùng những từ ngữ mà Đức Giê-su đã dùng vào lúc Ngài thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Lc 22 : 19). Người ta nhận ra ngay đây là cử chỉ tái diễn bữa Tiệc Ly trong mối thâm tình cảm động. Vả lại, phụng vụ đã dựa trên sự kiện bẻ bánh này để biện minh việc rước lễ chỉ dưới hình bánh.
Tuy nhiên, từ xưa cho đến nay, các nhà chú giải không đồng nhất với nhau. Vài nhà chú giải bác bỏ chiều kích Thánh Thể ở nơi cử chỉ bẻ bánh của Đức Giê-su. Trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau không là các Tông Đồ, nên họ đã không tham dự bữa Tiệc ly với Đức Giê-su, làm thế nào hai người môn đệ này có thể nhận ra Thánh Thể ở nơi cử chỉ bẻ bánh của Đức Giê-su? Tuy nhiên, hướng đi của câu chuyện không thể nào chối cãi là Thánh Thể. Có một xác định đáng chú ý: vào buổi chiều Tiệc ly, Đức Giê-su đã tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, vì thế, Ngài đã hiện diện hữu hình với các Tông Đồ, trong khi với hai môn đệ Em-mau “Ngài biến mất trước mặt các ông”. Kể từ đó, sự cần thiết của Thánh Thể là như vậy: chỉ duy bánh là sự hiện diện hữu hình của Đấng Phục Sinh. Từ đó, nơi mà các tín hữu gặp gỡ Đấng Phục Sinh vinh quang chính là bàn tiệc Thánh Thể: “Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thánh Thể Người đó sao ? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10: 16-17).
Chiều kích Phụng Vụ
Vả lại, thật ấn tượng biết bao khi chúng ta đọc thấy ở nơi câu chuyện này có đủ yếu tố phụng vụ Thánh Thể: đọc và suy niệm Lời Chúa, cử chỉ dâng hiến và chia sẻ qua việc bẻ bánh.
Chiều kích Giáo Hội
Thêm nữa, chúng ta cũng gặp thấy ở nơi câu chuyện này chiều kích Giáo Hội. Quả thật, hai môn đệ Em-mau ngay tức khắc trở về Giê-su-sa-lem. Họ gặp lại “các Tông Đồ và các bạn hữu đang tụ họp ở đó”. Cuộc gặp gỡ của hai người môn đệ này với Đấng Phục Sinh được cũng cố bởi kinh nghiệm của thánh Phê-rô: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon”.
Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất nêu lên việc Chúa Ki-tô hiện ra với một mình thánh Phê-rô, lãnh tụ các Tông Đồ. Thánh Phao-lô cũng nói điều này trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô. Như vậy, thánh Lu-ca kết thúc câu chuyện này với lời chú thích của Giáo Hội, dưới uy quyền tối thượng của thánh Phê-rô.
------------------------------------
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Sách giáo sử Trung Hoa ghi lại rằng: Ngày mùng 5 tháng 7 năm 1900, anh Gioan Ngô Văn Ân PS3-A140
Sách giáo sử Trung Hoa ghi lại rằng: Ngày mùng 5 tháng 7 năm 1900, anh Gioan Ngô Văn Ân, một tín hữu công giáo Trung Hoa, bị bắt dưới danh hiệu là tín hữu công giáo. Trước khi bị áp giải về tỉnh, anh được ghé nhà, chào giã biệt mẹ già. Bà mẹ chỉ nhắn nhủ con một điều duy nhất: “Con nhớ là không được bao giờ chối đạo. Nếu con không còn là người kitô hữu nữa, thì con cũng không còn là con của mẹ nữa”. Anh Ân cảm động thưa với mẹ: “Mẹ an tâm, con sẽ không bao giờ chối đạo”. Nghe con trả lời, bà mẹ vững dạ. Bà choàng vào cổ con bộ áo Đức Bà, như lời cầu xin Đức Mẹ phù hộ cho con mình được lòng trung tín với Chúa đến giây phút cuối đời. Và anh Ân đã trung tín đến cùng. Trong khi chờ đợi lý hình chém đầu, anh giữ im lặng cầu nguyện. Thấy vậy, quan tòa sai lính dụ dỗ anh lần cuối. Nhưng anh trả lời: “Đừng tìm cách dụ dỗ tôi vô ích, bao lâu đôi môi tôi còn mấp máy, thì bấy lâu chúng vẫn còn được dùng để cầu nguyện, để ca tụng Thiên Chúa.
Câu nói này của anh Ân diễn tả điều Thánh Phêrô muốn nhắn nhủ chúng ta trong bài đọc hôm nay: “Chúa Kitô đã chịu chết để ban cho chúng ta ơn cứu độ nên chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, và được hưởng cuộc sống thiêng liêng bất diệt mai sau. Không có ơn nào trọng đại và cao quý bằng ơn được làm con Thiên Chúa”.
Anh Ân đã tin nhận Chúa là Đấng cứu độ anh, và anh đã hy sinh chịu chết để làm chứng tá cho Chúa, đây cũng là lý do khiến cho các anh hùng Tử Đạo Việt Nam đã hiên ngang không sợ hãi trước cực hình và cả cái chết nữa. Thái độ đó cũng là thái độ của người con hiếu thảo, đem chính cái chết của mình ra để minh chứng lòng yêu mến đối với Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải đáp trả lại bằng tình yêu. Và không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống cho người mình yêu. Nếu các Thánh Tử Đạo có chết vì Chúa, thì cũng là để đáp trả lại cái chết vì yêu thương của con người của Ngôi Lời Con Thiên Chúa mà thôi.
Hai môn đệ trên đường về làng Emaus, nhờ Chúa tỏ lộ cho biết tại quán trọ lúc Ngài bẻ bánh, mắt các ông mới bừng sáng lên và nhận ra Chúa. Các ông không thể hiểu được một người đã chết tất tưởi trên cây thập giá, có thể sống lại được. Nhưng đằng này các ông đã thấy Chúa tỏ tường, lúc Người đi đường đàm đạo với các ông, lúc Người bẻ bánh cùng ngồi ăn với các ông. Nên các ông đã tin, các ông quay trở lại Giêrusalem gặp các tông đồ khác. Họ kể cho nhau nghe về Chúa Kitô phục sinh. Và họ lần lượt theo nhau chịu chết để làm chứng cho niềm tin ấy. Nếu việc Chúa sống lại không có thật thì ai dại gì lại hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa.
Người Kitô hữu chân chính phải là những tá can đảm, hữu hiệu của Chúa Kitô, dù ở bất cứ môi trường nào, dù gặp bất luận hoàn cảnh nào, họ cũng phải can đảm: “Loan truyện việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến”.
------------------------------
Lm. Anthony Trung Thành
Có nhiều câu chuyện kể lại việc Đức Giêsu hiện ra sau khi Ngài từ cõi chết sống lại, nhưng có PS3-A141
Có nhiều câu chuyện kể lại việc Đức Giêsu hiện ra sau khi Ngài từ cõi chết sống lại, nhưng có lẽ câu chuyện Tin mừng hôm nay do Thánh Luca tường thuật lại là câu chuyện đẹp nhất. Đẹp không chỉ vì hành văn và cách kể chuyện của tác giả mà còn đẹp về nội dung diễn tả tình nghĩa thầy trò và đặc biệt là đẹp vì cái kết có hậu.
Câu chuyện bắt đầu bằng sự thất vọng của hai môn đệ của Đức Giêsu. Đây là hai trong số bảy mươi hai môn đệ. Họ theo Đức Giêsu vì hy vọng một tương lai tươi sáng: Một Giêsu đánh đông dẹp bắc; một Giêsu giải phóng dân tộc Israel đang bị giặc ngoại bang đô hộ; một Giêsu tràn đầy quyền lực chính trị mà chính họ cũng hy vọng được tham dự vào. Thế rồi, một thời gian ngắn sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình: Ngài đã bị bắt, bị đánh đập, vác thập giá, chịu đóng đinh và chết trên thánh giá. Cuối cùng, Ngài chịu mai táng trong mồ như bao con người khác. Đối với họ, giờ chỉ còn một Đức Giêsu đã chết, một Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn. Chính vì thế, họ thất vọng chán nản. Họ từ bỏ Giêrusalem với biết bao mộng ước giờ chỉ còn là quá khứ để trở về quê hương tiếp tục sinh sống với nghề cũ.
Rời Giêrusalem như những kẻ thua cuộc. Quảng đường từ Giêrusalem tới Emmau độ 11km. Hai ông buồn bã lê bước, vừa đi vừa trò chuyện với nhau cho vơi đi nỗi buồn. Thế rồi, trong khi đang buồn bã lê bước, Đức Giêsu đã hiện đến như một khách bộ hành vừa đi vừa đàm đạo với hai ông. Ngài gợi ý bằng một câu hỏi tế nhị để nhằm bắt chuyện với hai ông: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” (Lc 24,17). Cơ hội để các ông dốc bầu tâm sự. Một trong hai ông đã kể lại đầu đuôi câu chuyện, về một Đức Giêsu đã có nhiều thành công nhưng cũng không thiếu những thất bại: Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Rồi việc Người chịu mai táng trong mồ và việc các phụ nữ loan tin ngài đã sống lại như thế nào? (x. Lc 24, 19-24).
Chờ chỉ có thế, Đức Giêsu mới bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” (Lc 24,25-26). Rồi Ngài lần lượt dẫn những đoạn Kinh thánh có liên quan đến Ngài để giải thích cho họ “bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri…”(x. Lc 24,27). Lòng các ông được hâm nóng lên, mặc dầu chưa nhận ra người đang đi cùng, đang giải thích Kinh thánh cho mình là ai. Thế rồi, trời đã về chiều, đường đi cũng gần tới đích. Trước khi rẽ vào làng, với lòng hiếu khách, hai ông mời Đức Giêsu ở lại với họ. Ngài đồng ý. Và khi ngồi đồng bàn, họ đã nhận ra Đức Giêsu khi Ngài bẻ bánh. Ôi, niềm vui mừng không gì có thể diễn tả nổi. Hai ông mới nhớ lại những diễn biến xảy ra với mình khi Ngài giải thích Kinh thánh cho họ trên đường đi. Các ông không muốn giữ riêng niềm vui cho mình. Bởi vì, “niềm vui chia sẻ niềm vui lớn.” Bấy giờ, hai ông vội vả trở lại Giêrusalem để chia sẻ niềm vui đó với các Tông đồ. Khi họ trở lại Giêrusalem, không những họ chia sẻ niềm vui được gặp Chúa Phục sinh mà họ còn nhận được niềm vui từ các Tông đồ, vì Đức Giêsu cũng vừa mới hiện ra với các Tông đồ.
Cũng như tâm trạng của hai môn đệ đi làng Emmau, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta không tránh được lo âu, phiền muộn, có khi cả thất vọng. Lo âu phiền muộn vì chuyện gia đình, vợ chồng, con cái. Lo âu phiền muộn vì chuyện cơm áo, gạo tiền. Lo âu phiền muộn vì biết bao vấn đề trong cuộc sống. Thất vọng về người thân, thất vọng về Giáo hội, về xã hội…Trong thực tế, khi gặp những lo âu phiền muộn và thất vọng trong cuộc sống, có người đi tìm sự an ủi nơi những niềm vui bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái. Có người tìm sự an ủi nơi ma thuật, bói toán. Thậm chí, có người đã làm liều bằng cách giải thoát mình bằng cái chết.
Chúng ta cần phải tránh xa những hình thức an ủi phù phiếm trên. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi tin vào Đức Giêsu Phục sinh. Vì chính Ngài đã cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Ngài (x.1Pr 1,19). Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết đường lối trường sinh (x. Tv 15,11a). Ngài sẽ cho chúng ta biết con đường sự sống và cho chúng ta đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa (x. Cv 2,28).
Câu chuyện Tin mừng hôm nay giống như diễn biến của một thánh lễ: Có phần phụng vụ Lời Chúa, có phần phụng vụ Thánh Thể, có phần mời gọi ra đi để chia sẻ niềm vui cho những người xung quanh.
Ngày hôm nay, chúng ta không được vinh dự gặp Đức Giêsu Phục sinh như hai môn đệ Emmau và các Tông đồ ngày xưa, nhưng chắc chắn Đức Giêsu Phục sinh vẫn luôn đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Đặc biệt, Ngài đang hiện diện với chúng ta nơi Lời của Ngài, nơi Bí tích Thánh Thể và nơi cộng đoàn phụng vụ, vì “ở đâu hai ba người họp lại vì danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”(Mt 18,20).
Thật vậy, Lời Chúa là chính Chúa. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi. Lời Chúa đã biến đổi biết bao nhiêu tâm hồn. Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn đường đi nước bước của con cái Chúa qua mọi thời đại. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng đọc, suy niệm và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống của mình và giúp cho đời sống của tha nhân.
Cũng vậy, Thánh Thể chính là Đức Giêsu. Thánh thể là của ăn chính nuôi sống linh hồn các kitô hữu. Trong bảy Bí tích, Bí tích Thánh Thể là Bí tích cao trọng nhất. Vì thế, chúng ta hãy siêng năng đến với Thánh Thể. Chúng ta hãy siêng năng tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể, viếng Thánh Thể, nhất là dọn mình sốt sắng để rước lễ hằng ngày.
Ngoài ra, mỗi kitô hữu chúng ta phải luôn sống liên kết với cộng đoàn. Vì, sống là sống với sống cùng. Cũng như hai môn đệ sau khi gặp Chúa Phục sinh đã biết nhanh chóng quay trở lại chia sẻ với các Tông đồ, mỗi thành viên trong cộng đoàn chúng ta phải biết chia vui sẻ buồn với nhau. Nếu chúng ta biết gắn bó với cộng đoàn, chắc chắn khi vui khi buồn đều được cộng đoàn giúp đỡ, chở che. Bằng không, chúng ta sẽ bị cô đơn lạc lọng trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con siêng năng tham dự thánh lễ để có cơ hội suy niệm Lời Chúa, rước Mình Máu Thánh Người, sống tinh thần liên kết với cộng đoàn hầu niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng con luôn được vững mạnh. Amen.
-----------------------------
Lm. GB. Trần Văn Hào
Câu truyện về hai môn đệ trên con đường về làng quê Emmaus rất sinh động và giầu ý nghĩa PS3-A142
Câu truyện về hai môn đệ trên con đường về làng quê Emmaus rất sinh động và giầu ý nghĩa. Chỉ duy một mình thánh sử Luca kể lại câu truyện này, đan nối với nội dung được chính Thánh sử thuật lại trong sách Tông đồ Công vụ. Thánh Luca kể lại giai thoại nhằm nêu bật chứng tá của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, cộng đoàn mà Cleopas cũng như người bạn đường là những thành viên. Thánh ký viết rằng, sau khi nhận ra Chúa, họ đứng dậy quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp nhóm 11 và các bạn hữu đang tụ họp tại đó (Luca 14,33). Sau đó, mọi người chia sẻ với nhau về những trải nghiệm khi họ đã tiếp cận với Đấng Phục sinh.
Emmaus, thành phố chiến thắng.
Thánh Luca nhắc đến địa danh Emmaus với nhiều dụng ý. Đây là một thành phố nhỏ với tên gọi ‘Nicopolis’ thời đế quốc Rôma. Nicopolis có nghĩa là ‘Thành phố Chiến thắng’. Nội dung câu chuyện mà hai người bộ hành trao đổi với nhau liên quan đến một mơ ước cháy bỏng của dân chúng thời bấy giờ. Dân Do Thái mong chờ một vị cứu tinh, người sẽ chiến thắng quân đội Rôma để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang. Riêng các môn đệ lại kỳ vọng rằng người chiến thắng ấy chính là Đức Giêsu, Đấng mà họ đã bỏ mọi sự, đi theo để làm mônsinh. Họ mơ tưởng đến một vị anh hùng sẽ chiến thắng vang dội, khai mở một trang sử mới, đưa nước nhà đến cuộc sốngđộc lập trong phồn vinh và thịnh vượng. Ngay cả hai con ông Zêbêđê còn mơ ước cao hơn nữa. Họ mong muốn một người sẽ được làm chủ tịch nước, một người làm thủ tướng trong vương quốc do vị anh hùng chiến thắng ấy thiết lập. Nhưng cái chết nhục nhã của Đức Giêsu trên Thập giá là dấu chấm hết đối với họ. Bao mộng ước và mơ tưởng về một tương lai tươi sáng đã hoàn toàn sụp đổ.
Thánh sử Luca nhắc đến địa danh Emmaus cũng làm chúng ta liên tưởng đến trận chiến thắng của Guiđa Macabê vào năm 166 trước Công Nguyên. Tại phía Nam Emmaus (1 Mcb 3,57), Guiđa Macabê đã quyết tử chống lại Seleucid, tướng quân của Lysias và đội quân của vua Antiôkhô Epiphanes. Thật kỳ diệu, Guiđa Macabê với số quân ít ỏi và vũ khí thô sơ so với đối phương, nhưng đã đánh tan tành lực lượng hùng hậu của Seleucid. Mục đích của Guiđa Macabê là chiếm lại đền thờ Giê-ru-sa-lem để thanh tẩy và bảo tồn. Anh em nhà Macabê đã liều lĩnh quyết chiến và tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trước khi lâm trận, ông nói với dân: “Bây giờ, chúng ta hãy ngước nhìn lên Chúa và xin Người thương đến chúng ta. Xin Người nhớ lại giao ước đã thiết lập với tổ tiên mà nghiền nhát đoàn quân đang ở trước mặt chúng ta đây. Bấy giờ, mọi dân tộc sẽ biết rằng có một ‘Đấng Giải cứu Israel’ (1 Mcb 4,10-11). Hạn từ ‘Giải cứu’ mà Guiđa Macabê đã nói năm xưa, cũng được Thánh Luca lập lại trong câu chuyện của hai người bộ hành hôm nay. Cleopas và người bạn đường biểu tỏ nỗi buồn mênh mông, bởi vì họ cũng từng khao khát một cuộc chiến thắng của vị anh hùng, như họ đã bộc bạch : “Chúng tôi hy vọng rằng Ngài sẽ là ‘Đấng Giải cứu Israel’ (c.21)”.
Đức Giêsu Phục sinh, Đấng Chiến thắng đang ở bên họ.
Chúa Giêsu đang sánh bước cùng hai môn đệ trên đường về làng quê, nhưng họ không nhận ra. Đây cũng là một thực tại hiện sinh trong cuộc lữ hành đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Chúa vẫn luôn song hành trong từng dấu chân chúng ta đi qua trên mọi nẻo đường, đặc biệt giữa những bầm dập và sóng gió của cuộc sống. Hai môn đệ đang chôn mình trong hố sâu của tuyệt vọng và chán chường, nhưng họ vẫn không nhận ra ‘Đấng Giải cứu’ đang ở sát bên họ, đang trò chuyện, đang sẻ chia và đang cảm thấu nỗi bi thương nơi tâm hồn họ. Chúng ta cũng thường rơi vào tâm trạng giống như vậy, mỗi khi cặp mắt đức tin của chúng ta bị che chắn bởi những ngáng trở giăng mắc. Câu chuyện về hai môn đệ giúp vạch dẫn lộ trình đức tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa đang cùng sánh bước với ta trong mọi biến cố cuộc sống thường ngày.
Trước hết, hai môn đề nghe Chúa cắt nghĩa về Thánh kinh. Đức Giêsu là trung tâm của lịch sử cứu độ mà các sách Cựu ước đều quy chiếu vào. Chắc chắn, Cleopas và người bạn đồng hành đã rất nhiều lần tham dự các buổi hội họp tại các hội đường và đã được nghe các đầu mục Do Thái giáo đọccũng như cắt nghĩa các bản văn Kinh thánh, nhưng họ vẫn chưa hiểu. Chỉ sau khi được Chúa dẫn giải, lòng các ông mới bùng cháy lên (c 32), bởi vì ‘Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng, cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (Tv 119, 130). Nếu chúng ta ý thức rằng ‘Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường’, thì việc đầu tiên để con mắt đức tin chúng ta được mở ra, đó là chúng ta phải chuyên cần lắng nghe Lời của Chúa. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta cần chú tâm nghe Lời Chúa, nhưng không phải nghe bằng lỗ tai của thân xác mà nghe với đôi tai của cõi lòng (Thánh Biển Đức).
Thứ đến, con mắt đức tin của hai môn đệ được khai mở hoàn toàn khi họ ngồi vào bàn ăn với Chúa. ‘Mắt họ mở ra và nhận ra Người’ (c. 31). Thánh Luca thuật lại bữa tiệc này với cách diễn tả giống như câu chuyện phép lạ nhân bánh ra nhiều cho 5.000 người ăn no nê: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ và các môn đệphân phát cho dân”(Lc 9,16-17).Phép lạ đó chính là biểu thị việc cử hành Bí tích Thánh thể. Trong sách Tông đồ Công vụ, Thánh Luca cũng nói về đời sống đức tin của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi với nhiều đặc nét. Một trong những đặc nét ấy, chính là việc họ trung thành trong ‘Việc bẻ bánh’, tức là cử hành Bí tích Thánh Thể cách đều đặn (Cv 2,40).
Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể là hai quà tặng vô giá Chúa ban mỗi lần chúng ta đi tham dự Thánh lễ. Đây là những phương thế tuyệt hảo giúp khai mở và kiện cường đức tin nơi chúng ta.
Kết luận
Hai môn đệ sau khi gặp gỡ Chúa và nhận ra Ngài, họ liền quay về Giê-ru-sa-lem, nơi mà họ đã chứng kiến cái chết bi thảm của Thầy chí thánh. Khi trở về, con người họ đã được biến đổi hoàn toàn, từ thất vọng đến hy vọng, từ nỗi khiếp sợ đến lối sống anh hùng, dám chấp nhận ngay cả cái chết để làm chứng cho Đấng đã sống lại.
Trong cuộc sống đời thường, mỗi khi gặp những thử thách và nghiệt ngã, chúng ta hãy bắt chước hai môn đệ để thưa với Chúa: “Xin mời Ngài ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Trong bóng đêm của cuộc sống, lúc ánh mặt trời rực rỡ đã khuất bóng, khi chúng ta chìm ngập trong những nỗi sầu buồn mênh mang, chúng ta hãy xin Chúa lưu lại nơi căn nhà củachúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ còn phải sợ hãi và tuyệt vọng.
-------------------------------
Bs. Ng Tiến Cảnh
Bài đọc 1 hôm nay (Cv 2:14, 22-23) là một trong 6 cuộc bàn luận liên quan đến Chúa Giesu Phục PS3-A143
Bài đọc 1 hôm nay (Cv 2:14, 22-23) là một trong 6 cuộc bàn luận liên quan đến Chúa Giesu Phục Sinh và những lời ngôn sứ nói về Người (Cv 3:12-26; 4:8-12; 5:29-32; 10:34-43; 13:16-41). Năm lời bàn đầu liên hệ tới Phero và lời sau cùng liên hệ tới Phaolo. Những lời bàn này được coi là những Tuyên Cáo / Kerygma (1Cr 15:11). Bài của Phero có thể được chia làm 3 phần, một phần mở đấu và 2 phần kia thì phần 1 (cc16-21) Phero cho biết lời tiên tri Joel nói từ thời ngôn sứ nay đã xẩy ra và phần 2 (cc22-36) ông tuyên bố Đức Giesu thành Nazareth đã bị người Do Thái đóng đanh vào thập giá chính là ngôn sứ đã được Thiên Chúa hứa ban mà người công chính đã chờ mong như nói trong Cựu Ước. Chính Người đã hoàn thành chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.
Để chứng minh Đức Giesu thành Nazareth là một ngôn sứ mà các tiên tri đã nói trước đây, Phero đã gợi cho khán thính giả nhớ lại những phép lạ Người đã làm (c 22), cái chết (c 23), phục sinh (cc 24-32) và lên trời hiển vinh của Người (c 33-35). Bài giảng của Phero kết thúc vắn gọn (c 36). Phero đã tuyên bố một sứ điệp có thể thay đổi cuộc sống của những ai nghe ông. Sứ điệp đó đã không thay đổi mà cũng chẳng làm mất quyền uy của nó ở đời này của chúng ta. Đó là sứ điệp hy vọng cho những người mất hy vọng, sự sống cho những kẻ chết trong tội lỗi, và tha thứ cho những ai phấn đấu chống lại tội lỗi.
CÂU CHUYỆN GIÁO HUẤN VÀ PHỤNG VỤ
Câu chuyện 2 môn đệ trên đướng Emmaus là trọng điểm của Tin Mừng Luca nói về Chúa Phục Sinh (Lc 14:13-35). Trên đường hai ông gặp một lữ khách rồi cả ba đã tâm sự về việc chúa Giesu chịu chết. Qua cách cắt nghĩa kinh thánh của người lữ khách mà hai ông không nhận ra Chúa Giesu cho đến khi Chúa bẻ bánh. Cách giảng nghĩa kinh thánh của ngưởi lữ khách (Lc 24:25-27), cung cách bẻ bánh của Chúa (c30) và lời tuyên cáo Chúa sống lại của Phero (c34) có tính giáo huấn và phụng vụ hơn là biện giáo. Tại sao?
Khi hai môn đệ đi Emmaus vào một buổi chiều lúc hoàng hôn sắp tàn. Lúc đó việc Chúa Sống Lại chỉ là tin đồn từ miệng người này qua người kia đôi khi pha lẫn một ước mong linh thiêng nào đó, hy vọng Chúa còn sống và đang hiện diện đâu đó. Tuy nhiên hồ nghi vẫn nặng trĩu trong đầu họ và họ không nhận ra là Chúa đang đi bên cạnh họ. Không để ý đến những điều họ đang nói là họ đang tuyên xưng những nét chính của Niềm Tin Kito giáo nhưng họ lại mù quáng không biết đến những đau khổ của đấng thiên sai là cần thiết đã được nói tới trong Kinh Thánh.
Người lạ mặt trên đường Emmaus đã nắm lấy cái hoài nghi và tò mò của 2 môn đệ để dẫn các ông vào câu chuyện Kinh Thánh. Chúa Giesu thách thức các ông cắt nghĩa những biến cố trong những ngày qua theo Kinh Thánh. Nhưng Cleopas và bạn ông vẫn “tối dạ, chậm tin những lời các tiên tri đã nói!”(c25) Đấng Thiên sai đã chịu đau khổ và chết để đi vào vinh quang của người. Luca là thánh sử duy nhất nói rõ ràng về sự đau khổ của đấng Thiên Sai (Lc 24:26, 46; Cv3:18; 17:3; 26:23). Tư tưởng đấng Thiên Sai bị đau khổ không thấy nói trong Cựu Ước hay trong các văn bản khác của Do Thái trước thời Tân Ước, nhưng có nói bóng gió trong Marco 8:31-33.
Cuối cùng nhờ cách bẻ bánh, mắt họ mới mở lớn và nhận ra Chúa phục sinh đang hiện diện giữa họ. Trên đường Emmaus Chúa đã làm cùng những cử chỉ giống như lúc Chúa biến bánh thành nhiều (9:16) và trong bữa tiệc ly. Những bữa ăn của Chúa, đặc biệt bữa tiệc ly, có thể nói chính là cái phông làm nền tảng cho tâm trí các thánh sử diễn tả lúc các ngài nhận ra Chúa Giesu ( Lc 5:29; 7:36; 14:1,12,15,16; 22:14). Với cảm nghiệm đó về Chúa sống lại, các môn đệ trên đường Emmaus đã tin là Chúa Kito phục sinh.
Do đó, hiểu biết chúa Phục Sinh phải qua một tiến trình có 2 bước: biết được sứ điệp nói trong Kinh Thánh và cảm nghiệm được sứ điệp đó là nói về Chúa Kito là Chúa và qua cử chỉ bẽ bánh và chia sẻ bánh với các tín hữu trong cộng đồng.
HÀNH TRÌNH EMMAUS
Cuộc hành trình đi Emmaus không chỉ là chuyện khoảng cách giữa Jerusalem và Emmaus, nhưng còn là cuộc hành trình đau đớn tiệm tiến về “Lời” đi từ óc xuống con “Tim”, về sự xuất phát của niềm tin, về việc trở lại tình liên đới với người khách lạ là Chúa Giesu. Chúa luôn luôn hiện diện và lắng nghe chúng ta. Đó là một phần khoa sư phạm của Chúa đối với các môn đệ, là Người luôn luôn lắng nghe các ngài, nhất là những lúc khó khăn gian nan khi con người sa ngã, hồ nghi, mê muội và thất bại. Lời Chúa làm cho trái tim các môn đệ “bừng cháy”, mang họ thoát khỏi bóng tối buồn phiền và thất vọng, giữ họ trong ước mong có Chúa: Lạy Thầy, xin Thầy ở lại với chúng tôi!
Thái độ tiêu cực của các môn đệ bắt đầu trở thành tích cực khi họ được Chúa Kito Phục Sinh soi sáng, cắt nghĩa Kinh Thánh cho biết Thiên Chúa đã hành động thế nào trong một thế giới trai đá với những kẻ tội lỗi cứng lòng như chúng ta. Quả là một cuộc thắng có vẻ bất thường, bởi lẽ từ chối, cưỡng bách và cảm nghiệm đau khổ và tội lỗi -tự nó- đã trở thành phương thế giúp cho mục đích của Thiên Chúa hoàn thành ở trần gian.
LỜI CHÚA BIẾN ĐỔI CUỘC SỐNG
Đến đây người viết muốn chia sẻ với quí vị một đoạn rất độc đáo về “Bổn phận Phúc Âm Hóa” trong phần mở đầu (Lineamenta) cho Thương Hội Đồng Các Giám Mục nằm 2012 về “Tân Phúc Âm Hóa / rao truyền Niềm Tin Kito Giáo.” Đoạn này đưa ra một viễn tượng khá độc đáo về câu chuyện trên đường Emmaus hôm nay.
(#2) – “ Lời của các môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24:13-35) cho thấy việc tuyên bố về đức Kito đã đưa đến thất bại; lời của các ông đã không có sức biến đỏi đời sống. Khi kể lại sự thất bại và mất hy vọng, hai môn đệ đã tuyên bố là một người nào đó đã chết (cc21-24). Đối với Giáo Hội ở mọi thời đại, lời của các ông phải mang tính khả hữu có thể tuyên bố -thay vì mang lại sự sống- phải giữ chặt cả hai, người tuyên bố và người nghe liên kết với cái chết của chúa Kito (là người được tuyên bố đã sống lại).
Loan truyền niềm tin thì không bao giờ là một biến cố có tính cá nhân, riêng lẻ, nhưng phải có tính cộng đồng và giáo hội. Nó không được coi như là đáp ứng cho một chương trình nghiên cứu có hiệu quả về thông tin ngay cả khi nó tập trung mà ít có tính cách phân tích vào những khán thính giả, chẳng hạn như giới trẻ. Thay vào đó, những đáp ứng này phải được thực hiện như có liên hệ đến người kêu gọi để tuyên bố công việc tinh thần này. Nó phải trở thành đúng như bản tính của Giáo Hội. Theo cách thức này, vấn đề được đặt trong bản văn và hành sử đúng cách, không ngoài đề, nghĩa là phải đặt vào trọng tâm cuộc bàn luận tất cả những gì mà toàn thể Giáo Hội là và làm. Có lẽ theo cách thức này, vấn đề phúc âm hóa và dạy giáo ly ngày nay không có hiệu quả có thể coi như vấn đề nghiên cứu của Giáo Hội liên hệ đến khả năng của Giáo Hội -mà ít nhiều- trở nên một cộng đồng thực sự, một tình huynh đệ thực và một thân xác sống động, không phải một xí nghiệp hay một vật có tính máy móc.”
ÍT ĐIỀU SUY NGHĨ TRONG TUẦN
1- Với tư cách Giáo Hội, mục tử giáo dân lãnh đạo, chúng ta có bao giờ cảm thấy lời của chúng ta không có khả năng loan truyền sự sống cho tha nhân không ? Chúng ta có tuyên bố người nào chết không phải là Thiên Chúa hằng sống không? Lời của chúng ta và sứ điệp của Giáo Hội đã gắn chặt con người vảo cái chết của chúa Kito thế nào?
2- Cái gì ngăn cản chúng ta trở thành một cộng đồng thực sự, một tình huynh đệ thực và một thân xác sống động hơn là một vật có tính máy móc hay một xí nghiệp?
3- Những biến cố lịch sử nào ảnh hưởng, cản trợ và và ngăn cấm chúng ta tuyên xưng hay trở nên thành viên của Giáo Hội? Một vài biến cố nào đó đã giúp chúng ta tinh luyện và nghĩ lại cách tuyên xưng của chúng ta?
4- Thần Linh Thiên Chúa đã nói gì cho Giáo Hội chúng ta qua những biến cố này? Những hình thức Tân Phúc Âm Hóa nào là Thần Linh giảng dạy cho chúng ta và đòi hỏi nơi chúng ta?
-----------------------------------
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/PS-A – Lc 24, 13-35) trình thuật câu chuyện 2 môn đệ (trong đó PS3-A144
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/PS-A – Lc 24, 13-35) trình thuật câu chuyện 2 môn đệ (trong đó có Cơ-lê-ô-pat) trở về quê là làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Với tâm trạng buồn rầu, họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc đã xảy ra. Ngay khi đó, Đức Giê-su hiện ra với họ nhưng họ không nhận ra, và khi Người hỏi họ đang nói với nhau chuyện gì thì họ lập tức bày tỏ tâm trạng buồn chán thất vọng vì đã tới ngày thứ ba rồi mà niềm hy vọng của ho vẫn chưa được đáp ứng (“Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.” – Lc 24, 21).
Sau khi Đức Ki-tô tử nạn trên thập giá, thì có thể nói hai môn đệ trên đường Em-mau bộc lộ rõ nét nhất tâm trạng chung của các Tông đồ tiên khởi: chán chường, mỏi mệt, thất vọng não nề. Thế là hết, hết mọi hy vọng về một vương triều mới dưới sự lãnh đạo của Vua Giê-su. Tuy rằng các môn đệ khác còn theo người Mẹ mà Thầy mình đã trối trăng, tập trung tại một nơi để cầu nguyện; nhưng hai ông thì thật sự tuyệt vọng, chẳng còn lý do gì để lưu lại chốn kinh thành. Cứ xét theo tâm lý con người, thì hành vi rời Giê-ru-sa-lem cũng bình thường thôi, bởi ngay khi Thầy còn sống, được ở liền bên với Thầy, chứng kiến bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ Thầy chữa bệnh cho bao nhiêu người, thậm chí còn cho cả kẻ đã chết rồi được sống lại nhãn tiền, mà vẫn còn bán tin bán nghi; huống hồ nay Thầy đã chết và chính mình mai táng trong mồ, thì làm sao còn nuôi được hy vọng như khi mới theo Thầy được?
Hành trình Em-mau nghe sao mà thê thảm! Còn đâu nữa ước vọng làm Tả Hữu Thừa tướng dưới quyền Vua Giê-su (Gia-cô-bê và Gio-an “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” – Mc 10, 37). Thôi thì đành “trở về quê cũ học cày cho xong” để rồi cứ “ngày ngày vác cuốc thăm đồng…”, ngày này sang ngày khác “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” (ca dao, tục ngữ VN). Lủi thủi trên đường, bỗng gặp một người khách lạ đồng hành và hỏi về những điều họ đang buồn rầu trao đổi với nhau. Thật là một dịp được cởi mở cõi lòng, họ kể hết về chuyện ông Giê-su Na-da-rét bị án tử hình rồi bộc lộ tâm trạng: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.” (Lc 24, 21-24)
Nghe vậy, ngay lập tức người khách lạ liền lên tiếng quở trách: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26). Không những thế, mà người khách lạ lùng ấy còn: “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả sách Thánh.” (Lc 24, 27). Phải chăng những lời dạy của vị khách là tiếng gọi của Tình yêu, bởi đã mở mắt cho 2 môn đệ thấy được lòng trí u mê, tăm tối của con người, nhất là cái niềm tin rất dễ bị chao đảo, khủng hoảng. Chậm tin, kém tin là đương nhiên, và vì thế, khi nghe được những lời khai thông ấy, họ như được mở lòng ra. Tới làng họ muốn đến (Em-mau), nhưng thấy vị khách còn muốn đi tiếp, họ liền khẩn khoản: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” (Lc 24, 29).
Thật sự chẳng ai ngờ được người khách đồng hành lại chính là người Thầy đã tử nạn trên thập giá. Thì ra Thầy vì Tình Yêu đã vâng lệnh Chúa Cha xuống trần để cứu độ loài người. Thầy luôn luôn và mãi mãi đồng hành, “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” mà họ không tự biết, vẫn còn bán tín bán nghi. Phải đợi đến lúc đồng bàn, Thầy lập lại động tác như trong bữa Tiệc Ly, thì “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 31). Thế đấy! Các môn đệ và nói chung là con người đã đón nhận biết bao nhiêu hồng ân xuất phát từ Tình Yêu của Thầy mà vẫn hững hờ, vô cảm. Hành động “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn” cũng chỉ là một nghĩa cử bình thường của tình nhân loại.
Tuy nhiên, nghĩa cử đó đã được đáp ứng: Hai môn đệ mời Thầy dùng cơm bánh đời thường thì Thầy lại mời họ dùng bánh bởi trời. Sự nhận về và cho đi giữa Thầy và các môn đệ thật quá đỗi lạ lùng, và đó chính là sự kỳ diệu của Tình Yêu. Con người ở thế kỷ XXI này cũng vậy thôi, đã nhận về rất nhiều, quá nhiều Máu và Nước Tình Yêu từ Trái Tim Thầy, từ lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vậy mà vẫn còn và còn rất nhiều cảnh “Ngày xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách trọ các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các người đã chẳng thăm viếng…” (Mt 25, 42-43).
Cái hành trình Em-mau ấy hoá ra lại là một hành trình khởi đi từ nỗi thất vọng, chán nản ê chề, trở thành một hành trình tìm kiếm đức tin và kết thúc hết sức tốt đẹp, nên “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó”. Trở lại với nhóm Mười Một không phải chỉ là để kể cho nhau nghe những điều mình đã tai nghe mắt thấy, mà là để “tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 1, 1-4).
Kết quả là: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Cv 1, 42-43). Vâng, và vì thế đối với các Ki-tô hữu thời đại ngày nay cũng đừng vội tự ti mặc cảm khi nhìn lại mình thấy mình đã buồn nản vì những thử thách nghiệt ngã để rồi tản mác khắp nơi, chẳng còn tin tưởng vào một điều gì nữa. Hãy “quay trở lại Giê-ru-sa-lem”, tề tựu nhau mà cầu nguyện – cầu nguyện với Mẹ Maria. Chắc chắn Chúa vẫn luôn đồng hành với chúng ta trên hành trình Em-mau, và Người sẽ cùng “quay trở lại Giê-ru-sa-lem” với chúng ta. Chắc chắn Thầy Chí Thánh sẽ ban cho “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 1, 4) như lòng mong ước.
Tóm lại, người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy bắt chước hai Tông Đồ trên đường Em-mau, coi đó là hành trình đức tin của chính bản thân mình. Nói cách cụ thể là hãy cầu xin Chúa “ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” (Lc 24, 29) và ban cho chúng con “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 1, 4), để chúng con có đủ dũng khí, sẵn sàng thi hành sứ vụ của mình như hai môn đệ trên đường Em-Mau thủa xưa, sẵn sàng mau mắn “quay trở lại quê hương đích thực là Giê-ru-sa-lem trên Thiên Quốc”. Muốn được toại nguyện, đừng quên chạy đến với Đức Maria, tha thiết khẩn cầu cùng Mẹ:
“ĐK: Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai. Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ. Con biết cậy vào ai biết nương nhờ ai? TK: Trời đêm vắng sao sương mờ. Đường xa thăm thẳm khuất bóng quê. Con băn khoăn đưa mắt trông tìm đây đó. Có ai bạn đường cùng đi khỏi lo. Mẹ ơi! Bóng đêm rợn rùng. Vực sâu đang gầm dưới lá rung. Con lao đao sắp ngã trên đường nguy khốn. Đoái thương con cùng Mẹ Đấng Chí Tôn.” (TCCĐ “Trên Con Đường Về Quê” – Nguyễn Sang).
------------------------------
Trầm Thiên Thu
Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười”, nhận biết PS3-A145
Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười”, nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên, không thể chối cãi – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau.
Trong cuộc sống đời thường, có nhiều dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường, qua đó chúng ta sẽ nhận biết được gì? Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng. Sống ở đời không thể không gặp gỡ nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.
Gặp nhau chắc chắn nhìn thấy nhau, và thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im lặng, gọi là “ngôn ngữ không lời”.
Người ta gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.
Chắc chắn cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ, cuộc gặp gỡ đó có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó đã được Lm Ns Yuse Tiến Lộc (DCCT) mô tả trong một ca khúc thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh” (Gặp Gỡ Đức Kitô).
Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt: nhận biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô còn là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của La-da-rô (Ga 11:1-44), em trai của Mác-ta và Ma-ri-a, và con trai bà góa thành Na-in (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Ma-ri-a Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường Em-mau đều không nhận ra Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh.
Và thậm chí còn hơn như thế nữa. Thật vậy, khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường”. Thế thì ma thật!
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu mỉm cười vì thấy các đệ tử co rúm vào nhau, mắt chữ O mà miệng chữ A. Ngài thấy tội nghiệp các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật (Lc 24:36-43). Thân xác phục sinh khác thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!
Trong cuộc sống, bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ”. Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “tỏ vẻ biến đổi” để “lấy tiếng” hoặc để được người khác khen ngợi.
Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Vâng, cuộc đời họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những vị thánh bị nghi ngờ là tâm thần. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được!
Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám liều chết với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp gỡ và nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giu-đa Ít-ca-ri-ốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây” (Cv 2:14).
Sự biến đổi rất rõ nét. Ông Phêrô dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” (Cv 2:22-28).
Một Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn biến đổi tích cực chứ không còn là một Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, một nhân chứng nhiệt thành. Quả thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết.
Tiếp theo, ông Phêrô nói với giọng điệu quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2:29-33). Thật tuyệt vời khi người ta được Thiên Chúa biến đổi!
Chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là “triệt buộc”. Nghe chừng miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt buộc” của tình yêu, của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót khôn lường của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài. Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2).
Tại sao như vậy? Bởi vì lúc đó chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của cuộc đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại mà thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11). Niềm tin tưởng như vậy thật là tuyệt vời, niềm tín thác như thế đẹp biết bao!
Một khi đã thực sự tin tưởng nhau, người ta có thể gặp gỡ nhau bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn, giàu có hơn hoặc “vai vế” hơn người khác. Thế nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, đừng lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn người khác. Ảo tưởng thì chết chắc!
Thật vậy, Thánh Phêrô đã thẳng thắn: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này” (1 Pr 1:17). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất nghiêm túc, rất công bình.
Và rồi ông còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1:18-21). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Thế mới lạ!
Tin tức về Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân chúng, tin tức đó chưa đủ lắng xuống thì tin tức về sự phục sinh của Ngài lại tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng chính ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn thật!
Trình thuật Lc 24:13-35 cho chúng ta biết rằng đang lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài thử “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”. Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà ông ta lại chẳng biết gì ráo trọi. Sao lại có người vô tâm vô tính thế nhỉ?
Nghe “người lạ” hỏi vậy, một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?”. Họ kể lại vụ ông Giêsu Na-da-rét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy”.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!
Chúng ta cảm thấy “nhột” và phải giật mình khi thấy Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin”. Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” vậy thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần. Ôi chao, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm, chẳng oan ức chi cả!
Thánh sử Luca cho biết rằng khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Tiếc hùi hụi! Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.
Thế là ngay lúc ấy, họ liền đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!
Người ta nói rằng Chữ phải có Nghĩa – gọi là chữ nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng luôn: GẶP để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ được. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề”. Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên giống Ngài hoàn toàn!
Lạy Thiên Chúa, xin cho con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà con gặp hằng ngày, nhất là đối với những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp con cũng nhận thấy Ngài sống động nơi con. Xin giúp con biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời-mình, rồi TẠ ƠN Chúa, sau đó BẺ RA và TRAO CHO mọi người, đồng thời can đảm làm nhân chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
-----------------------------
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn ,
Tin Mừng Chúa Nhật III P/S hôm nay ( Lc 24, 13 -35) , là Đoạn Tin Mừng nói về : “ Chúa Giêsu hiện PS3-A146
Tin Mừng Chúa Nhật III P/S hôm nay ( Lc 24, 13 -35) , là Đoạn Tin Mừng nói về : “ Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau”. Cũng như theo Tin Mừng thánh Gioan ghi lại sự việc sau khi Phục Sinh, thì Chúa Giêsu, hiện ra với bà Maria Mac-đa-la đầu tiên, thì thánh Luca ghi lại biến cố sau Phục Sinh của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Em-mau. Vậy, khi được đề cập đến chi tiết nầy, thì chúng ta biết rằng, chỉ có ở Luca.
Theo đó, có hai chi tiết để nhận ra Chúa Giêsu phục sinh là :
Dấu chỉ bẻ bánh.
Dấu chỉ giải thích Thánh Kinh ( lời Chúa ).
Rõ ràng dấu chỉ ”Bẻ Bánh” là dấu chỉ “ đặc trưng “ của Kitô giáo, bởi vì sự bẻ bánh lá một “Lời truyền” của Chúa Giêsu với các môn đệ, có thể nói là “di chúc” của Người.
Dấu chỉ “bẻ bánh” lá dấu chỉ bác ái, chia sẻ. Cũng như làm dấu Thánh giá là dấu chỉ biểu lộ đức tin công giáo. Dấu chỉ chúc bình an là để ban Thánh Thần và tha tội. Vậy, dấu chỉ bẻ bánh là tín hiệu “chia sẻ” “lương thực” tự nhiên cũng như siêu nhiên cho tha nhân.
Vậy, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra đầu tiên với hai môn đệ trên đường Em-mau là Người biểu lộ dấu chỉ “bẻ bánh”. Điều nầy cho thấy, Người trao ban và nhắc lại mầu nhiệm Đức tin trong ngày Tiệc Ly. Dấu chỉ “bẻ bánh” cho thấy sự chia sẻ mầu nhiệm “tử nạn và vinh quang phục sinh” nơi Đức Kitô cho nhân thế. Dấu chỉ “bẻ bánh” tuy đơn sơ, nhưng là “chia sẻ” chính Thân Mình Mầu Nhiệm cứu chuộc của Người. Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mầu nhiệm được trao ban, chứ không giữ kín cho riêng ai. Vâng, điều nầy thể hiện nơi dấu chỉ “bẻ bánh”, bẻ bánh là phân phát lương thực tự nhiên, đồng thời là lương thực siêu nhiên. Theo đó, chính là mầu nhiệm của sự sống, mầu nhiệm nuôi sống từ Thần Linh là Thiên Chúa vô biên.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại qua mầu nhiệm Nhập Thể làm Người của Đức Giêsu- Kitô, là Thiên Chúa chia sẻ mầu nhiệm Thần Linh cho thế nhân. Thiên Chúa chia sẻ và phân phát tình yêu và sự sống viên mãn nơi Thiên Chúa cho nhân loại qua hình thức là bánh để ăn. Hình thức ăn uống là mầu nhiệm của sự sống từ Thiên Chúa mà con người được lãnh nhận.
Như vậy, dấu chỉ bẻ bánh sau phục sinh là dấu chỉ trao ban sự sống cho nhân thế, trao ban cách cụ thể cho nhân loại. Bởi vì, khi nhận ra dấu chỉ bẻ bánh, thì hai môn đệ mới nhận ra Chúa. Rõ ràng, “dấu chỉ bẻ bánh” có hiệu nghiệm ngay tức khắc, khi hai môn đệ gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Nhưng, đồng thời dấu chỉ nầy xuất hiện, khi họ nhận ra Chúa, thì Người biết mất. Chi tiết nầy cho thấy, Chúa phục Sinh không còn ở trong giới hạn của trần gian, Người đã hoàn tất mầu nhiệm khổ nạn, thì không thế lực nào làm chủ được Người nữa.
Niền vui làm theo ý mình, là niềm vui giả tạo, vì khi nhân thế không tự tìm niềm vui cho họ, theo ý muốn họ, thì họ cho là bất hạnh, chán nản, bực dọc . Nhưng, khi người nào biết tìm niềm vui từ Thiên Chúa, thì niềm vui ấy đích thực, vì niềm vui làm theo ý Thiên Chúa, thì niềm vui ấy mới mang lại hạnh phúc vững bền cho mình và tha nhân. Dấu chỉ bẻ bánh là trao ban “niềm vui phục sinh” từ Thiên Chúa, Đấng là niềm vui đã tự hiến, trao ban và đồng hành cùng nhân thế.
Theo đó, chi tiết “bẻ bánh” là chi tiết đồng giá trị với việc giải thích Thánh Kinh, vì , khi được chính Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh, thì lòng họ bừng sáng lên, nhưng, chưa nhận ra Người.
Như vậy, Chúa Giêsu phục sinh là chi tiết, hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, giải thích Thánh Kinh, bẻ bánh và đồng bàn với họ. Theo đó, hai môn đệ trên đường Em-mau là hai người hạnh phúc nhất, vì họ đã gặp Đấng Phục Sinh.
Như vậy, ý nghĩa chính của Đoạn Lời Chúa hôm nay là củng cố đức tin cho hai môn đệ trên một đoạn đường ngắn, biểu lộ niềm tin phục sinh bằng dấu chỉ bẻ bánh là Chúa muốn nhắc nhở cho họ niềm tin vững chắc vào sự chia sẻ cho tha nhân điều họ nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiện ra củng cố đức tin cho hai môn đệ trên đường Em-mau. Xin cho chúng con khi được khát khao gặp Chúa, cũng được diễm phúc gặp Người, và dấu chỉ giải thích Thánh Kinh và bẻ bánh cũng được Người truyền cho chúng con, để chúng con rao truyền ơn phục sinh trong chia sẻ vì bác ái cho tha nhân./. Amen.
---------------------------------
Lm. Jos. DĐH.
Tâm sự buồn hay vui của bất kể ai chia sẻ ta cũng nên trân trọng ; khách quý hay khách quấy rầy PS3-A147
Tâm sự buồn hay vui của bất kể ai chia sẻ ta cũng nên trân trọng ; khách quý hay khách quấy rầy làm phiền, người lịch sự sẽ không bao giờ được phép nổi cáu. Khi nói đến chia tay, từ bỏ bất cứ mơ ước lớn nhỏ gì mà tâm hồn ta không xao xuyến, thì đó đúng là chuyện lạ. Chúng ta đã từng đọc, từng được chỉ dạy: cục đường chia sẻ, cục muối cắn đôi, áp dụng vào cuộc sống là vui hãy bày tỏ để niềm vui được nhân đôi, buồn mà có cơ hội giãi bày thì nỗi buồn tan biến. Kinh nghiệm cho thấy, tâm trạng buồn hay vui, đều có lý do, miễn cưỡng từ bỏ mơ ước, hay bắt buộc phải chia tay vĩnh viễn một lý tưởng, tâm hồn ta còn ray rứt, hẳn đó là do tình yêu đang làm ta vương vấn.
Sự kiện hai môn đệ làng Em-maus là bất đắc dĩ phải giã từ tất cả trở về quê sinh sống, sự xuất hiện của vị khách không mời mà đến lại có chủ ý, không hề do tình cờ. Vị khách lạ không có ý làm phiền, Ngài chỉ muốn được đồng hành, được lắng nghe hai môn đệ trút bầu tâm sự, dù nhiệt huyết của hai ông vị khách đã hiểu. Cũng vì muốn được cảm thông với hai môn đệ, vị khách lạ đã thôi thúc, giúp hai môn đệ nói hoài, nói mãi, nói cho vơi bớt những bức xúc đang dày vò. “Có lẽ ông là vị khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”.
Đúng như câu tục ngữ: ăn lúc đói, nói lúc say. Hoàn cảnh của hai môn đệ không phải là say rượu hay đói ăn, các ông trở nên hào hứng và nói lên những tâm tư tận đáy lòng, các ông phấn khởi vì có vị khách bộ hành đang chú ý lắng nghe. Người xưa nói rằng: buồn ngủ gặp chiếu manh là thế, nỗi buồn của các ông lắng xuống và nhường chỗ cho hy vọng khởi đi từ sự cảm thông của vị khách lạ. Sau khi đã dốc cạn bầu tâm sự, cũng là lúc hai môn đệ muốn được xoa dịu, được một vài lời động viên xã giao, vị khách lạ đã từ tốn giải gỡ những nút thắt: “chớ gì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao”?
Ngày hôm nay ở trong tâm trạng “vỡ mộng” như hai môn đệ làng Em-maus, hẳn vẫn đang ẩn khuất nơi cuộc sống nơi chúng ta. Công việc làm ăn thua lỗ, lý tưởng theo thầy học nghề, mở rộng kinh doanh bị thương trường tẩy chay ; biết bao nỗi oan uổng không có lời giải, không ít người thở than, đau khổ vẫn còn đó, công lý như dần chìm vào quên lãng. Cũng không ít người mắt tối lại chỉ vì chẳng biết đâu là bạn tốt để tâm sự, chia sẻ, tìm lối thoát. Cũng có người đã từng ngửa mặt kêu xin: con khóc sao mẹ không cho bú ? Con khó khăn cả tinh thần lẫn thể xác, sao trời phật cứ lặng thinh ?
Lời chia sẻ rất “trừu tượng” của hai môn đệ làng Em-maus, thật đáng để mọi người suy nghĩ: “phải chăng lòng chúng ta chẳng sốt sắng lên, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư”? Lúc hai môn đệ tưởng Chúa chết là hết, nhưng không, Đấng phục sinh lại hiện diện bên họ ; lúc Chúa bẻ bánh, hai ông vừa nhận ra Chúa đang sống thì mắt họ lại bị che khuất không nhìn thấy Chúa nữa. Đau khổ hạnh phúc, thành công thất bại ở đời này là một khái niệm có thật ; hai môn đệ làng Em-maus được vị khách lạ cùng đồng hành là có thật. Nhưng việc nhận ra Đấng phục sinh, nhất định phải là những tâm hồn thực lòng trở nên môn đệ Đức Kitô.
Đáng phục sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-maus là một bất ngờ, Chúa mở trí, mở lòng, mở mắt đức tin, rồi Chúa hẹn gặp ở Giêrusalem, trong khi các ông còn muốn giữ Chúa ở lại. Cha ông chúng ta có câu: không gấp đi đâu tối, không vội đi đâu đêm, trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu có chí thì nên. Nếu khi xưa hai môn đệ làng Em-maus đã có ý định rút lui, phó mặc cho duyên phận, vậy mà Chúa phục sinh không bỏ rơi hai ông. Thì hôm nay, biến cố vui buồn xảy ra trong đời, ta hãy bình tĩnh, hãy chia sẻ, cầu nguyện, và hãy tin tưởng Đấng phục sinh luôn đồng hành và lắng nghe, Ngài sẽ chỉ chúng ta cách giải quyết vấn đề.
Ở chọn nơi, chơi chọn bạn ; hay gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, có thể không giống với tình huống của trang Tin mừng hôm nay, nhưng dù sao cũng là dịp để ta suy xét mình đang sống trong hoàn cảnh nào, và đã có bạn để sẻ chia tâm sự không ? Đấng phục sinh vì yêu nên đã đồng hành, đã mở trí lòng các môn đệ, dù thân xác và giọng nói của Đấng phục sinh có khác, nhưng cử chỉ xoa dịu nỗi đau và việc bẻ bánh vẫn là Thiên Chúa yêu thương. Đấng phục sinh không dài dòng khiển trách hai môn đệ, Ngài cũng thực sự đang đồng hành với tất cả chúng ta, cử chỉ yêu thương của Đấng phục sinh trước sau như một, hãy đến với bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, kinh nghiệm của người xưa không bao giờ thừa, hay sẻ chia tâm sự, cầu nguyện với Đấng phục sinh mà chúng ta tin thờ. Amen.
-----------------------------
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Câu truyện Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Em-mau vẫn thường mang lại PS3-A148
Câu truyện Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Em-mau vẫn thường mang lại cho tôi một cảm giác mênh mông! Vẫn hiểu mục đích của tường thuật lần hiện ra này, cũng như hầu hết các lần hiện ra khác sau khi Chúa sống lại, các tác giả Tin Mừng không chỉ nhằm minh chứng Đức Giê-su đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết hay tường thuật các diễn biến của Chúa sau khi sống lại… Cách riêng lần hiện ra này, trong tường thuật của Lu-ca, các tín hữu qua mọi thời đại vẫn luôn phải đầu tư nhiều suy nghĩ tìm tòi hơn các lần hiện ra khác.
Trước các biến cố dồn dập và đau thương như những gì đã xảy ra tại Giê-ru-sa-lem trong những ngày trước đó thì, không riêng gì hai môn đệ, ai ai cũng đều dễ bị cuốn hút vào cái chuỗi các biến cố bi tráng, thê lương để rồi buông mình vào tâm trạng lo lắng buồn phiền dẫn tới nản chí; “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. Thế nhưng điều mà ông bạn đồng hành muốn chia sẻ trên quãng đường dài lại không phải chỉ là tìm hiểu các sự việc đã xảy ra như thế nào, mà là: làm sao hiểu được cái ý nghĩa tiền tàng đích thực của chúng; “Các anh chẳng hiểu gì cả!…” Nếu suốt cả một ngày đường ông khách lạ đã cất công “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ” thì đó là để hai môn đệ thất đảm nắm bắt được cái ý nghĩa gói ghém bên trong các biến cố đau thương đã xảy ra để rồi tìm thấy một nguồn sinh lực mới.
Ngày nay Ki-tô hữu chúng ta đều đã quá rõ: trọn bộ Cựu ước, bắt đầu từ Mô-sê cho tới các ngôn sứ, đều chỉ có một mục tiêu duy nhất là giúp khai mở và đào sâu nhận thức về Đức Giê-su Ki-tô – Lời tối hậu và dứt khoát của Thiên Chúa, Lời tình yêu và cứu độ, Lời mạc khải về một Thiên Chúa đầy yêu thương. Nếu không đạt được, hoặc không chân thành chấp nhận sự hiểu biết này thì mọi biến cố Cựu Ước, và ngay cả những gì xảy ra cho Đức Giê-su trong toàn bộ cuộc sống, nhất là trong cái chết và sống lại của Người, cũng đều là trống rỗng, trống rỗng tới độ gần như vô nghĩa. Ông bạn đồng hành đã cất công làm công việc cực kỳ quan trọng này, là giải thích cho hai tâm hồn thất đảm buồn phiền về cái nội dung đầy an ủi và nhân ái chứa đựng bên trong biến cố tử nạn và thập giá tang thương. Trong đêm Phục Sinh, phụng vụ canh thức cũng nhằm cùng một mục đích duy nhất đó là: mời gọi cộng đoàn tín hữu cùng nhau làm cái việc đào sâu tối hệ trọng này.
Trình thuật Tin Mừng không xác định đầu óc hai môn đệ đã hiểu các lời giải thích của ông khách lạ tới mức nào; tác giả chỉ khảng định rằng: trong cảm thức của mình, hai ông đã bắt đầu nắm bắt được một điều gì đó rất thiết thân đối với niềm tin; “Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Chính sự hiểu biết này đã mở mắt để họ có thể nhận ra ông khách đồng hành và đồng bàn chính là Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, nhất là khi “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Thực ra thì hành vi ‘bẻ bánh’ không phải là cử chỉ độc đáo của riêng Thầy Giê-su. Đây là một nghi thức phổ biến mà gia chủ hay chủ tiệc Do Thái nào cũng vẫn thường làm, nhất là khi cử hành lễ Vượt Qua truyền thống. Thế nhưng, đối với các môn đệ đã từng theo Đức Giê-su, cách riêng sau bữa tiệc ly biệt với những lời tâm huyết thắm thiết, đặc biệt sau cái chết đau thương của Người, thì cử chỉ đơn sơ này đã mặc lấy một ý nghĩa hoàn toàn mới: bẻ bánh nói lên cái chết giải phóng cứu độ, và trao ban chính là tình yêu tự hiến trọn vẹn. Trong nội dung đó, thì Phục Sinh không chỉ là việc làm cho một người đã chết được sống trở lại, mà đã trở thành một bảo chứng đầy uy tín rằng: Thiên Chúa đảm bảo tình yêu tự hiến và trao ban này sẽ trường tồn và kéo dài mãi qua muôn thế hệ. Hai môn đệ đã nhận ra Người sống lại trong tất cả chiều kích sâu xa nhất, cùng với đảm bảo vững chắc nhất: lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là bất diệt, là toàn thắng. Như thế, một niềm hy vọng mới đã bừng lên, một chân trời mới đã mở ra, “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”!
Các Thánh Lễ trong mùa Phục Sinh mà chúng ta được diễm phúc cử hành thật là đặc biệt, vì chúng trở thành cao điểm của niềm tin Ki-tô hữu khi họ tuyên xưng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa qua cái chết Thập Giá và sự sống lại của Đức Ki-tô Giê-su. Lời Chúa, bất luận là Cựu Ước hay Tân Ước mà chúng ta đọc/nghe trong mỗi Thánh Lễ những ngày này, đều phải giúp ta khám phá ra nội dung đích thực của tình yêu thương xót và cứu độ vĩnh cửu. Và cho dầu khả năng hiểu biết tri thức của ai đó trong chúng ta có bị giới hạn hay mù mịt, thì các phụng vụ vẫn nhằm giúp họ luôn biết cử hành tình yêu bất diệt đó cách sinh động trong toàn bộ đời sống. Cũng như hai môn đệ trên đường đi Em-mau và cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi đã cảm nhận được cách sâu xa tình yêu thương xót cứu độ của Thiên Chúa trong cử hành ‘bẻ bánh’, các tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải hội nhập được vào thứ tình yêu bao la và bừng sáng đó mỗi lần được diễm phúc hiệp dâng Thánh Lễ, để… lòng chúng ta cũng được bừng cháy lên.
Riêng tôi, tôi vẫn thường tự hỏi sau mỗi Thánh lễ, nhất là trong mùa Phục Sinh: tôi đã cảm nhận được điều gì khi hôn kính bàn thờ trước khi trở vào phòng thánh?
Lạy Chúa Phục Sinh! Con đã dâng quá nhiều Thánh Lễ trong quá khứ, nhưng lại khám phá quá ít nội dung của nó. Không biết bao nhiêu lần con đã từng bẻ bánh và phân phát cho giáo dân rước lễ, nhưng lại rất ít lần cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh đang thực sự hiện diện và trao ban chính Người cho từng tín hữu, trong đó có con. Xin cho con biết rửa sạch con mắt đức tin để lòng cũng được ấm lên mỗi khi con nhân danh Chúa bẻ bánh và trao ban. Xin biến đổi con nên linh mục của Lòng Thương Xót Chúa ngày càng hơn, đặc biệt mỗi lần con tiến ra dâng lễ. A-men.
------------------------------
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi Chúa Giê-su chịu khổ nạn và chịu chết tủi nhục đau thương, các môn đệ của Ngài bị PS3-A149
Sau khi Chúa Giê-su chịu khổ nạn và chịu chết tủi nhục đau thương, các môn đệ của Ngài bị lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng. Đức Giê-su là Đấng mà họ tôn làm thần tượng, là “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24,19), Đấng mà họ “hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (Lc 24,21)… giờ đây đã trở thành người thiên cổ.
Chán nản và thất vọng, hai môn đệ Chúa Giê-su lầm lũi lê gót về Em-mau, lòng nặng trĩu ưu phiền.
Niềm vui thứ nhất
Đang khi hai môn đệ đi đường trong tâm trạng rầu rĩ âu sầu như vậy thì lại có một người bộ hành khác tiến đến bắt chuyện với họ. Người nầy rất am tường Kinh thánh, đã cặn kẽ giải thích cho họ biết rằng vị Tôn sư của họ phải chịu khổ hình như vậy rồi mới tiến vào vinh quang. Trong suốt cả quảng đường dài mười một cây số, được người bạn đường giảng giải Kinh thánh cho, đôi bạn quên cả mệt nhọc đường xa, tâm hồn trở nên hỉ hoan phấn chấn, nỗi buồn vơi hẳn, niềm vui dâng trào. Những lời Kinh thánh phát ra từ môi miệng người bạn đồng hành đã làm cho “tâm hồn họ bừng cháy lên.” (Lc 24, 32)
Niềm vui thứ hai
Thế là hai môn đệ Em-mau không muốn rời xa người bạn đồng hành tinh thông Kinh thánh, đã nhen lên trong lòng họ niềm tin và hy vọng nên đã khẩn khoản mời người ấy vào quán trọ ăn tối và nghỉ đêm với mình: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.”
Khi ngồi vào bàn ăn, đôi bạn trố mắt kinh ngạc nhìn người kia “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.” (Lc 24,30)
Bấy giờ như người mơ bừng tỉnh, đôi bạn nhận ra đây chính thật là Thầy Giê-su! Nhưng chưa kịp reo mừng thì Chúa vụt biến mất!
Tuy biến đi nhưng Chúa Giê-su để lại niềm vui và hạnh phúc chan hòa trong tâm hồn hai người môn đệ. Niềm vui lớn đến nỗi “ngay lúc ấy” (Lc 24,33) hai vị nầy tức tốc quay trở lại Giê-ru-sa-lem, không ngại đêm đen đang dần dần buông xuống, không ngại mệt nhọc vì đường xa… Phải quay về Giê-ru-sa-lem gấp để chia sẻ cho các môn đệ khác niềm vui đang tràn ngập tâm hồn mình, vui vì được đồng bàn với Đấng phục sinh, dù chỉ trong giây lát.
Đối với hai môn đệ hôm ấy, đây quả là hai niềm vui tuyệt vời trong một lần gặp gỡ Đấng phục sinh.
Hai niềm vui lớn hơn nơi Bàn Tiệc thánh
Có lẽ nhiều lúc trong đời, nhất là khi gặp thất bại, sầu đau, chúng ta mong sao cho mình có được diễm phúc như hai môn đệ trên đường về Em-mau năm xưa. Niềm hoan lạc mừng vui của hai môn đệ đang khi thất vọng ê chề, lại được gặp Chúa Giê-su trong buổi chiều vàng hôm ấy, được Ngài hâm nóng tâm hồn bằng lời Kinh thánh, được Đấng phục sinh tỏ mình cho gặp ngay trong bữa ăn, là điều biết bao người đang mong chờ ao ước.
Vậy mà niềm vui đó, hạnh phúc đó đang nằm trong tầm tay chúng ta từ bấy lâu nay mà không mấy ai cảm nhận. Hôm nay, mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta được diễm phúc còn hơn cả hai môn đệ Em-mau mà lắm khi chúng ta không lưu ý.
Thực vậy,
-Qua Bàn Tiệc Lời Chúa trong Thánh lễ hằng ngày, Chúa Giê-su tiếp tục đồng hành với chúng ta như với hai môn đệ xưa, tiếp tục lấy Lời Chúa để sưởi ấm tâm hồn băng giá của chúng ta, để soi sáng tâm trí u tối của chúng ta, để lấp đầy những khát vọng trong tim ta.
-Và qua Bàn tiệc Mình Máu thánh, Chúa Giê-su cho ta được “hiệp thông nên một với Ngài, cùng một thân mình, cùng một giòng máu” [1] với Ngài và nhờ đó, sự sống thần linh của Chúa Giê-su, một sự sống vô cùng cao quý và không bao giờ tàn lụi, được thông truyền cho chúng ta.
Vậy mà tiếc thay, vì không nhận thức cho đúng ơn huệ cao vời đó nên nhiều người trong chúng ta đã tỏ ra vô cảm, thờ ơ với hồng ân vô giá.
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục cống hiến cho chúng con hai niềm vui vượt xa niềm vui của hai môn đệ Em-mau, ngay tại Bàn tiệc thánh hằng ngày và Ngài vẫn tha thiết mời gọi chúng con đến chung phần.
Xin cho “tâm hồn chúng con được bừng cháy lên” khi nghe Lời Chúa dạy trong bàn tiệc Lời Chúa như hai môn đệ xưa; và xin cho chúng con được hiệp thông nên một với Chúa, cùng một thân mình, cùng một giòng máu” với Ngài khi lãnh nhận Mình thánh Chúa nơi Bàn Tiệc yêu thương.
------------------------------
[1] Trích từ bài giáo huấn cho tân tòng tại Giê-ru-sa-lem, bài đọc Kinh Sách ngày thứ Bảy tuần Bát Nhật phục sinh.
-----------------------------------
Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng
Hai môn đệ trên làng Emmaus, có lẽ vừa mới dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, bây giờ, sau khi PS3-A150
Hai môn đệ trên làng Emmaus, có lẽ vừa mới dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, bây giờ, sau khi tan lễ, họ trở về làng mình.
Khác mọi cuộc hành hương hàng năm, hành hương Giêrasalem năm nay, các môn đệ trở về, mang theo cả một tâm trạng ngổn ngang, run rẩy. Bởi Thầy của họ vừa mới bị giết chết thê thảm.
Họ trở về, nhưng tâm tưởng vẫn vươn đầy hình ảnh tàn khốc về tất cả những gì mà những nhà lãnh đạo đã dành cho Thầy. Họ trở về, nhưng chắc chắn, bên trong cõi lòng, vẫn còn đó những nỗi bàng hoàng, xao xuyến, sợ hãi, đau buồn, chán nản…
Khác mọi cuộc hành hương trong đời họ, lần hành hương này mang tính vĩnh biệt, vì Chúa đã chết. Có thể họ sẽ còn những lần hành hương khác, nhưng đấy chỉ là hành hương theo nghi thức tôn giáo và vì lòng đạo đức. Nó sẽ thiếu niềm hy vọng, niềm vui, sự háo hức vì có Chúa, nguồn tin tưởng của họ…
Chính những biến cố xảy ra bên ngoài cùng những tâm tư đầy thất bại bên trong tâm hồn như thế, làm bước chân hai môn đệ trên làng Emmaus trĩu nặng. Họ bước bên nhau lầm lũi, tương lai xa vắng. Trước mắt, sự tối tăm của cuộc đời như đang giăng mắc, chẳng khác một ngày của họ đang khuất và bóng chiều đang đổ.
Họ bước bên nhau nhưng không chút niềm vui, trái lại, nỗi buồn của cả hai như cộng vào nhau, làm tăng thêm, làm mạnh hơn. Đã buồn, càng buồn!
Những bước đi của họ là những bước của kẻ dại khờ: Trước đây từng tự trói buộc mình vào ước mơ đổi đời hảo huyền, không tưởng. Nay lại tự trói buộc mình vào nỗi ám ảnh thất bại, nỗi ám ảnh của kẻ đi tìm ánh sáng, nhưng chỉ đối diện sự tối tăm của đoạn cuối con đường hầm.
Nghĩ như thế mà thấy hai môn đệ đáng thương. Thấy họ càng điêu đứng, càng thất thỉu, càng quay quắt…
Nghĩ như thế mà thương cho thân phận của những ai mải miết rong ruỗi trong đời chỉ để thực hiện giấc mơ trần thế, một giấc mơ rẻ rúng đến độ chỉ có cơm-áo-gạo-tiền, chỉ có quyền-lực-danh cho một kiếp “quán trọ-trần gian”. Đó là một sự trói buộc đầy nô lệ.
Nhưng Đấng Phục Sinh không đứng bên lề cuộc đời con người. Người là Đấng giải phóng. Người yêu chuộng sự giải phóng. Người tìm đến để có thể giải phóng tất cả những gì trói buộc, những gì gây nên nỗi áp bức và nô lệ.
Cũng như xưa, Thiên Chúa đã từng đi tìm Adong, Evà trao lời hứa cứu độ. Người tìm Cain, kẻ sát hại em ruột để ngỏ với Cain rằng, người tôn trọng sự sống và không muốn bất cứ ai xúc phạm sự sống. Người tìm dân riêng và trao sự lãnh đạo toàn dân cho Môsê, để Môsê có thể trực tiếp liên đới với dân và với chính Người. Sau này, Người lại tiếp tục dẫn dân trở về quê cha đất tổ của họ để lập quốc, để ổn định đời sống sau thời gian lưu đàu khổ ải…
Đó là những hành trình giải phóng, Thiên Chúa thực hiện để cởi bỏ mọi trói buộc, mọi ách nô lệ mà con người, hoặc vì hoàn cảnh, hoặc tự mình mang vào. Vô số những bằng chứng từ Lời Chúa, Thiên Chúa cho thấy Người trung thành với ơn giải phóng mà từ ngàn xưa Người đã thực hiện…
Cũng vậy, Đấng Phục Sinh đồng hành để lắng nghe tâm tư nặng trĩu của môn đệ, để giải phóng họ khỏi những trói buộc, mà vì mê muội, khiến họ tự chuốc lấy. Giữa lúc ề chề, thất vọng, yếu đuối, và bất ngờ nhất, họ được Chúa tìm thấy. Chúa không muốn họ chìm sâu trong tuyệt vọng.
Phương thế Chúa dùng để giải phóng họ, cởi trói họ là Thánh Kinh, là bí tích Thánh Thể:
– Bằng Thánh Kinh, “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông tất cả những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Chúa Giêsu mở trí để môn đệ hiểu kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúa giúp họ nhận ra, đau khổ là nhịp cầu để Chúa vượt qua, tiến về vinh quang. Đau khổ không là chuyện may rủi, nhưng có vị trí trong chương trình cứu độ.
Chính nhờ Lời Chúa mà các môn đệ được cởi trói. Tin Mừng mà Đấng Phục Sinh trao tặng là Tin Mừng ngọt ngào, khiến nỗi đau dịu đi và cõi lòng được hâm nóng, trở nên ấm áp diệu kỳ. Sự giải phóng thiêng liêng khiến họ hạnh phúc thốt lên: “Khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.
– Bằng hành động của buổi chiều thứ năm tuần Thánh khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cử hành lại nghi thức bẻ bánh, sau khi đã giảng dạy Lời của Chúa, đã thêm sức cho các môn đệ. Họ đã thực sự được giải phóng khỏi tất cả những gì mà chỉ trước đây ít phút, họ từng bị cột trói.
Giờ đây, họ phục hồi niềm tin. Họ tìm lại được Chúa, tìm lại Đấng luôn giải phóng trên suốt dọc đường đời của họ. Chúa vẫn tiếp tục ở cùng họ. Người tỏ mình cho họ qua những dấu chỉ của lòng tin. Người tiếp tục lôi kéo họ vào mầu nhiệm phục sinh của Người.
Từ đây, họ vững vàng hơn, tin tưởng hơn, can đảm hơn để có thể ra đi, không phải chỉ quay về Giêrusalem, nhưng là vươn ra mọi nẻo đời để công bố tin mừng phục sinh, công bố tình yêu cứu độ, tình yêu giải phóng của Thiên Chúa.
Chắc chắn, không ai là không có ước mơ. Chúng ta hãy để ước mơ trường sinh chi phối đời mình, chứ đừng để “mộng vàng” trần thế trói buộc.
Bởi biết bao nhiêu lần, ta chỉ loay hoay với mưu sinh, với việc kiếm tiền, mà tấm thân thành ra phờ phạc, xót xa.
Biết bao nhiêu lần ta phạm tội vì thói tham lam, vì muốn vượt quyền, đoạt chức, nên tâm trí mù tối, cuộc sống diễn ra nhiều bi thương.
Biết bao nhiêu lần vì tranh giành, tranh chấp, ta mất hết lẽ sống, mất nghĩa ân.
Bị trói buộc nhiều thứ, mà lẽ ra phải cảnh giác để không bị trói buộc, vì thế, ta chẳng còn khám phá Chúa đang hiện diện, chẳng còn nhận thấy tình thương quan phòng của Chúa.
Kinh nghiệm của hai môn đệ trên làng Emmaus cũng là kinh nghiệm của chúng ta: Do bị cột trói bởi nhiều thứ, mà đời ta cứ mãi bất hạnh. Chúa có đến, ta không ngờ. Chúa có đi, ta chẳng biết mà giữ lại. Chúa ở lại với ta mà ta không cảm được, không nhìn thấy. Lúc tưởng Chúa vắng mặt, thì Chúa ở gần bên. Lúc nhận ra Chúa gần bên, thì Chúa đã biến mất.
Hãy trở về với nguồn mạc khải là Lời Chúa và với nguồn sống thần linh là Thánh Thể, ta sẽ tìm lại năng lực sống, để từ nay, Chúa giải phóng cõi lòng ta, giải phóng những u tối vây bủa ta.
Hãy cầu nguyện nhiều, hãy suy niệm Thánh Kinh bền bỉ, siêng năng kết hợp với Thánh Thể, để chính khi ta tưởng Chúa biến mất, sẽ là giây phút ta cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Chúa.
Bởi những lúc ta tưởng mình phải đi một mình, càng là lúc ta được Chúa đồng hành. Chỉ có cảm nghiệm thiêng liêng như thế, ta mới thực sự mở ngỏ để Chúa chạm đến cõi tâm hồn. Chỉ có mở lòng lãnh nhận ơn được giải phóng, ta mới thuộc trọn về Chúa, mới không vướng bận cõi đời.
----------------------------