Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 6-C Bài 151-200 Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy ------------------------------------ Phúc Âm: Ga 14, 23-29: "Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy PS 6-C151
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi." Đây là những lời đầy yêu thương nhất trong Tin Mừng. Tiếng Do Thái "bình an" là "shalom", một từ sử dụng rất nhiều trong Kinh Thánh. Từ này rất giàu về nội dung, mà trong tiếng Anh, từ "peace" chỉ chứa đựng có một phần ý nghĩa của nó. Tổng quát, nó chứa đựng ý nghĩa của một thế giới trọn vẹn, một hoàn cảnh trong đó không thiếu thốn gì cả Tình trạng hạnh phúc hoàn hảo, điều mà từ này biểu thị chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người nào sở hữu được bình an, người đó có sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.
Các ngôn sứ giả tiên đoán bình an khi chẳng có sự bình an. Ngược lại, Chúa Giêsu thỉnh thoảng nhắc đến "xáo trộn của sự bình an". Nhưng bình an mà Chúa Giêsu làm xáo trộn lại là thứ bình an giả tạo. Bình an không chỉ cốt ở thành công và hạnh phúc. Bản chất cấu thành của sự bình an đó là sự ngay thẳng đạo đức. Bởi thế, nơi nào không có công chính, thì chằng có bình an đích thực. Vì thế, không có bình an ở nơi sự dữ. '
Bình an không phải chỉ là không có chiến tranh hoặc chia rẽ. Cũng không phải chỉ đơn giản là sự hoà thuận. Bình an đích thực không giống như sự thanh bình. Thanh bình chỉ là dáng vẻ bề ngoài. Bình an là bản chất bên trong. Bình an là tình trạng thanh thản trong tâm hồn, và được biểu lộ ra qua những việc thiện hảo trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em. Bình an trong một ý thức trọn vẹn, một sự bình an mà trối vượt mọi suy nghĩ của con người, không thể được thiết lập chỉ bằng với những nỗ lực của con người. Đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Thiên Chúa mong muốn sự bình an trên những người phụng sự Người. Thiên Chúa nói bình an với dân của Người. Trong Kinh Thánh, từ "shalom" được nhân rộng như một lời chào thông thường. Nhưng còn hơn thế nữa. Đó là một kinh nghiệm về những lời chúc tốt đẹp. Bình an chỉ là một trong những món quà lớn nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho người khác. Nhưng chúng ta không thể trao tặng cái là chúng ta không có, cũng như không ta chẳng thể bố thí cho người ăn xin nếu túi ta trống rỗng. Và chúng ta cũng ldlông thể ban tặng bình an cho những người không muốn hoặc không có khả năng nhận nó. Chúng ta có thể tạo nên môi trường cho bình an được bén rễ, nhưng chúng ta không thể áp đặt bình an trên đó.
Chúa Giêsu có thể trao ban bình an cho các môn đệ của Người, bởi vì chính nơi Người đã có sự bình an: "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy Bình an đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa, Ngài có thể ban tặng chúng ta ân sủng bình an. Người Kitô hữu có ơn gọi trao ban bình an. Nhưng thường, than ôi, thay vì trao ban bình an cho người khác, chúng ta bắt họ phải chịu đựng nhùng xáo động và bất hạnh của chính chúng ta.
Khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại, Người đã không khiển trách họ hoặc ngay cả rầy la vì những thiếu sót đối với Người. Thay vào đó, Người đã phá vỡ những cánh cửa đóng chặt vì sợ hãi và nghi ngờ và nói nhũng lời mà trong lúc tuyệt vọng họ cần được nghe. Chúa Giêsu nói: "Bình an cho anh em." Và với ý nghĩa của những lời nói yêu thương này, Người đã biến đổi nỗi thất vọng thành hy vọng, nỗi buồn thành niềm vui nơi các môn đệ.
Phúc cho chúng ta nếu chúng ta đuốc hưởng nếm bình an của Chúa Giêsu - bình an mà vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế giới này không thể trao tặng, bình an mà không ai có thể lấy mất đi khỏi chúng ta, bình an mà có thể tồn tại giữa một thế giới phiền muộn, và ngay cả giữa những vấn đề bế tắc. Bình an là ân sủng Chúa ban tặng cho chúng ta, nhưng đó cũng là quà tặng của ta trao ban cho anh chị em.
Trong tác phẩm "Go Down to the Potter's House", Donagh O'Shea kể lại một câu chuyện về một PS 6-C152
Trong tác phẩm "Go Down to the Potter's House", Donagh O'Shea kể lại một câu chuyện về một nhà vua, trong cung điện có hai hoạ sĩ lại là địch thủ khắc nghiệt của nhau.
Một ngày kia nhà vua nói: "Ta muốn quyết định một lần cho tất cả, ai trong hai hoạ sĩ là người tài giỏi hơn. Các người phải vẽ cùng một đề tài, dể ta có thể đánh giá giữa hai người. Và đề tài là bình an."
Hai hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau họ trở lại với tác phẩm của mình.
Chàng hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu về bức tranh của mình. Đó là một phong cảnh đẹp như mơ, với những ngọn đồi nhấp nhô và hồ nước không gợn một chút sóng trên mặt.
Toàn thề khung cảnh như nói lên sự mãn nguyện, bình an, yên tĩnh. Tuy nhiên, khi nhà vua nhìn vào bức tranh, chỉ đủ để nhà vua phải cố nén một cái ngáp. Sau đó, quay về phía hoạ sĩ thứ nhất, nhà vua nói: "Tác phẩm của anh đẹp, nhưng nó làm cho ta buồn ngủ quá." .
Sau đó chàng hoạ sĩ thứ hai giới thiệu về tác phẩm của ông. Đó là một thác nước khổng lồ. Bức tranh được vẽ như thật đến độ người ta có thể hầu như nghe được tiếng ầm ầm của nước khi nó đổ sầm trên những tảng đá, ở phía dưới hàng trăm mét.
Nhà vua giận dữ nói: "Đây không phải là cảnh thanh bình như ta đã đề nghị." Chàng hoạ sĩ thứ hai không trả lời ngay nhưng ra hiệu xin nhà vua cứ tiếp tục chiêm ngắm. Sau đó nhà vua dừng lại ở một chi tiết mà cho đến bây giờ mới khai mở cho nhà vua: trong số những đảng đá nền của thác nước, một cây bụi đang phát triển với một tổ chim trên những nhánh cây. Nhìn gần, nhà vua còn nhận ra có cả một con chim trong tổ: con chim sẻ đang ấp trứng, đôi mắt khép hờ. Chị chim sẻ đang chờ đợi những chú chim con được nở ra, một bức tranh hoàn hảo của sự bình an.
Nhìn ra được điều này, nhà vua vui thích. Quay về phía chàng họa sĩ thứ hai, nhà vua nói: "Ta rất thích tác phầm của anh. Anh dã truyền đạt được một diều rất quan trọng về bình an, ấy là, người ta vẫn có thể sống bình an ngay khi ở giữa những ồn ào huyên náo của cuộc sống."
Chúa Giêsu đã nói về bình an trong Bữa Tiệc Ly. Người nói với các môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đúng sợ hãi
Đó là lúc chẳng thích hợp để nói về sự bình an, bởi vì mọi sự đang hỗn độn quanh Người. Làm sao vào lúc đó, Người lại có thể nói về sự bình an ? Bình an đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa. Do đó Người có thể nói về sự bình an ngay cả khi kẻ thù tiến đến sát bên Người và cái chết đang rình rập quanh Người.
Bình an thì không như sự thanh bình. Thanh bình chỉ là dáng vẻ bề ngoài. Bình an là bản chất bên trong. Bình an là tình trạng thanh thản trong tâm hồn, và được biểu lộ ra qua những việc thiện hảo trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em. Một yếu tố thiết yếu hợp thành nên sự bình an đó là sự công chính. Bởi thế, không có bình an nơi sự dữ.
Bình an là hiệu quả có được khi người ta tin cậy vào Thiên Chúa, và khi trong cuộc sống của họ khao khát làm vui lòng Người là ưu tiên hàng đầu. Đây là điều mà chúng ta có thể vẫn có được ngay cả giữa những hỗn độn, lâu thuẫn và những vấn đề bế tắc.
Chúa Giêsu ban tặng bình an của Người cho chúng ta: "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy." Bình an Người ban tặng không phải là bình an giải thoát chúng ta khỏi những thực tại. Đó là điều rất thâm sâu, không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài. Bình an đó vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế gian này không thể ban tặng, vàm cũng chẳng ai lấy đi được khỏi chúng ta.
Bài giảng 3
BUÔNG RA
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói về sự ra đi. Không ngạc nhiên, các môn đệ đang ngập sâu trong u buồn với viễn cảnh mất Ngài. Họ không muốn Người ra đi. Họ muốn giữ Người lại với họ. Thật chẳng dễ để buông ra người mà bạn yêu mến. Thật chẳng dễ để buông ra ngay cả một đồ vật hay con vật yêu quý.
Ngày nọ, một cậu bé tìm thấy một chú chim bé nhỏ run rẩy nằm trên mặt đất dưới một cái tổ. Cảm thấy nó thật đáng thương, cậu bé đưa nó vào trong nhà, đặt cạnh bên ngọn lửa ấm, chẳng mấy chốc chú chim hồi tỉnh. Tuy nhiên thay vì trả chú chim vào tổ, cậu bé làm một cái lồng cho nó. Trong lồng, cậu bé cho nó rất nhiều thức ăn, nước uống và cả sự ấm áp.
Chú chim nhỏ rùng mình và bắt đầu bay nhảy trong lồng. Tiếp theo nó còn hót nữa. Cậu bé thì hồi hộp vui sướng. Nhưng một ngày kia, chú chim bắt đầu vỗ đôi cánh của nó chống lại những tấm phên của lồng. Cậu bé hỏi ông nội điều này có nghĩa là gì.
Ông nội trả lời vì chú chim không hạnh phúc.
Cậu bé nói: "Con không thể nào hiểu được. Nó còn thiếu thứ gì ở trong lồng đâu ?"
"Mọi thứ trừ ra một thứ mà mọi con chim đều khao. khát."
"Đó là thứ gì vậy ông nội ?"
“Tự do."
"Ông nội muốn nói gì, sau tất cả những gì con đã làm cho nó, chẳng lẽ nó lại muốn bỏ con đi ?'
"Nó chỉ muốn tự do, để có thể là một con chim như những con chim khác."
"Nhưng làm sào con có thể để nó đi được ?", cậu bé khăng khăng. "Nó chẳng biết gì về những nguy hiểm đang ẩn nấp rình chộp những con chim nhỏ trên thế giới. Nó sẽ bị giết hoặc bị đói cho đến chết."
"Đó là sự rủi ro con phải đón nhận."
" Nhưng con thương nó lắm, không thả nó ra được."
“Nếu con thực sự thương nó, con phải thả nó ra."
Cậu bé thinh lặng. Cậu nhìn chú chim. Nó tiếp tục đập cánh vào cái lồng. Mỗi cú đập như thế, nó như muốn nói rằng: “hãy cho tôi tự do." Không thể chịu đựng được nữa, cậu bé quyết định thả chú chim ra.
Khi bay ra khỏi cửa sổ, nó đã mang theo một phần trái tim của cậu bé theo cùng. Cậu bé nhìn chằm chằm một hồi lâu vào khung cửa sổ mở rộng. Bất thình lình, cậu bé nghe thấy tiếng chim hót đến từ một nhành cây rất gần. Tiếng hót nghe như ngọt ngào và vui tươi hơn chưa từng có trước đây. Và đây là lần đầu tiên suốt mấy tháng qua, cậu bé cảm thấy tự do, hạnh phúc và bình an.
Các môn đệ không muốn để Chúa Giêsu ra đi. Như thế, họ chỉ nghĩ đến chính họ chứ không nghĩ đến Thầy. Người cũng nói với họ: "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hắn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy" (Ga 14,28). Vì Chúa Giêsu đi về cùng Cha là mục đích cuộc sống của Người. Cố giữ Người lại, điều này không bày tỏ tình yêu dành cho Người.
Tình yêu chiếm hữu thì rất tầm thường. Nhiều bậc cha mẹ muốn chiếm hữu tình yêu của con cái họ. Trao ban sự sống cho con cái, họ đã khước từ việc để cho con cái sống sự sống đó theo cách thức của chúng. Điều tương tự như thế cũng xảy ra trong một số đôi hôn nhân. Có sự miễn cưỡng để người phối ngẫu sống cuộc sống của chính họ. Tình yêu chiếm hữu là nguyên nhân gây ra nhiều nỗi đau thương và vô số những tổn hại. Tình yêu không chiếm hữu, ngược lại, tạo nên sự diệu kỳ cho cả hai bên.
Sinh trưởng, phát triển, thay đổi mời gọi một sự buông ra, đánh mất những thứ mà chúng ta có vào lúc này và những thứ mà chúng ta mến chuộng tha thiết. Nhưng chính sự mất đi lại bao gồm viễn cảnh đạt tới một điều khác mới và tốt hơn.
Trong khi rời khỏi các môn đệ, Chúa Giêsu muốn làm sáng tỏ với họ rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: "Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em" (Ga 16,7). Khi chúng ta vui lòng để một người ra đi, họ có thể rời khỏi ta mà ta vẫn không cảm thấy họ bỏ rơi ta. Và ta mở chính cõi lòng ta để đón nhận điều mới mẻ từ nơi họ, điều mà sẽ chẳng ban tặng cho ta nếu họ không ra di.
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói về sự ra đi. Không ngạc nhiên, các môn đệ đang ngập sâu PS 6-C153
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói về sự ra đi. Không ngạc nhiên, các môn đệ đang ngập sâu trong u buồn với viễn cảnh mất Ngài. Họ không muốn Người ra đi. Họ muốn giữ Người lại với họ. Thật chẳng dễ để buông ra người mà bạn yêu mến. Thật chẳng dễ để buông ra ngay cả một đồ vật hay con vật yêu quý.
Ngày nọ, một cậu bé tìm thấy một chú chim bé nhỏ run rẩy nằm trên mặt đất dưới một cái tổ. Cảm thấy nó thật đáng thương, cậu bé đưa nó vào trong nhà, đặt cạnh bên ngọn lửa ấm, chẳng mấy chốc chú chim hồi tỉnh. Tuy nhiên thay vì trả chú chim vào tổ, cậu bé làm một cái lồng cho nó. Trong lồng, cậu bé cho nó rất nhiều thức ăn, nước uống và cả sự ấm áp.
Chú chim nhỏ rùng mình và bắt đầu bay nhảy trong lồng. Tiếp theo nó còn hót nữa. Cậu bé thì hồi hộp vui sướng. Nhưng một ngày kia, chú chim bắt đầu vỗ đôi cánh của nó chống lại những tấm phên của lồng. Cậu bé hỏi ông nội điều này có nghĩa là gì.
Ông nội trả lời vì chú chim không hạnh phúc.
Cậu bé nói: "Con không thể nào hiểu được. Nó còn thiếu thứ gì ở trong lồng đâu ?"
"Mọi thứ trừ ra một thứ mà mọi con chim đều khao. khát."
"Đó là thứ gì vậy ông nội ?"
“Tự do."
"Ông nội muốn nói gì, sau tất cả những gì con đã làm cho nó, chẳng lẽ nó lại muốn bỏ con đi ?'
"Nó chỉ muốn tự do, để có thể là một con chim như những con chim khác."
"Nhưng làm sào con có thể để nó đi được ?", cậu bé khăng khăng. "Nó chẳng biết gì về những nguy hiểm đang ẩn nấp rình chộp những con chim nhỏ trên thế giới. Nó sẽ bị giết hoặc bị đói cho đến chết."
"Đó là sự rủi ro con phải đón nhận."
" Nhưng con thương nó lắm, không thả nó ra được."
“Nếu con thực sự thương nó, con phải thả nó ra."
Cậu bé thinh lặng. Cậu nhìn chú chim. Nó tiếp tục đập cánh vào cái lồng. Mỗi cú đập như thế, nó như muốn nói rằng: “hãy cho tôi tự do." Không thể chịu đựng được nữa, cậu bé quyết định thả chú chim ra.
Khi bay ra khỏi cửa sổ, nó đã mang theo một phần trái tim của cậu bé theo cùng. Cậu bé nhìn chằm chằm một hồi lâu vào khung cửa sổ mở rộng. Bất thình lình, cậu bé nghe thấy tiếng chim hót đến từ một nhành cây rất gần. Tiếng hót nghe như ngọt ngào và vui tươi hơn chưa từng có trước đây. Và đây là lần đầu tiên suốt mấy tháng qua, cậu bé cảm thấy tự do, hạnh phúc và bình an.
Các môn đệ không muốn để Chúa Giêsu ra đi. Như thế, họ chỉ nghĩ đến chính họ chứ không nghĩ đến Thầy. Người cũng nói với họ: "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hắn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy" (Ga 14,28). Vì Chúa Giêsu đi về cùng Cha là mục đích cuộc sống của Người. Cố giữ Người lại, điều này không bày tỏ tình yêu dành cho Người.
Tình yêu chiếm hữu thì rất tầm thường. Nhiều bậc cha mẹ muốn chiếm hữu tình yêu của con cái họ. Trao ban sự sống cho con cái, họ đã khước từ việc để cho con cái sống sự sống đó theo cách thức của chúng. Điều tương tự như thế cũng xảy ra trong một số đôi hôn nhân. Có sự miễn cưỡng để người phối ngẫu sống cuộc sống của chính họ. Tình yêu chiếm hữu là nguyên nhân gây ra nhiều nỗi đau thương và vô số những tổn hại. Tình yêu không chiếm hữu, ngược lại, tạo nên sự diệu kỳ cho cả hai bên.
Sinh trưởng, phát triển, thay đổi mời gọi một sự buông ra, đánh mất những thứ mà chúng ta có vào lúc này và những thứ mà chúng ta mến chuộng tha thiết. Nhưng chính sự mất đi lại bao gồm viễn cảnh đạt tới một điều khác mới và tốt hơn.
Trong khi rời khỏi các môn đệ, Chúa Giêsu muốn làm sáng tỏ với họ rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: "Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em" (Ga 16,7). Khi chúng ta vui lòng để một người ra đi, họ có thể rời khỏi ta mà ta vẫn không cảm thấy họ bỏ rơi ta. Và ta mở chính cõi lòng ta để đón nhận điều mới mẻ từ nơi họ, điều mà sẽ chẳng ban tặng cho ta nếu họ không ra di.
Trong bối cảnh bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu dặn dò họ rất nhiều lời tâm huyết PS 6-C154
Trong bối cảnh bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu dặn dò họ rất nhiều lời tâm huyết. Bài Tin mừng tuần trước Ngài dạy các ông điều răn mới, đó là “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (x. Ga 13,34). Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu nói tới hiệu quả của việc tuân giữ Lời Ngài và vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như nơi mỗi người kitô hữu chúng ta.
1. Hiệu quả của việc tuân giữ Lời Chúa
Yêu mến Thiên Chúa là bổn phận của con người, cách riêng là của những người Kitô hữu. Có nhiều cách để thể hiện lòng yêu mến đó. Nhưng có một cách được Chúa Giêsu nhắc đến trong đoạn Tin mừng ngày hôm nay, đó là “Giữ lời Chúa”. Ngài nói: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (x. Ga 14, 23).
Lời Chúa ở đâu? Lời Chúa ở trong cuốn Kinh Thánh, đặc biệt ở trong các sách Tin mừng. Lời Chúa còn được các Tông đồ, các Giáo phụ truyền lại cho chúng ta qua Thánh Truyền, được cụ thể hoá nơi Giáo Huấn của Hội Thánh và các cử hành Phụng vụ. Vì vậy, khi chúng ta đọc, suy gẫm và sống Lời Chúa là chúng ta đã tỏ lòng yêu mến Chúa. Khi chúng ta tuân giữ giáo huấn của Giáo hội, qua Thánh truyền, qua các Đức Giáo Hoàng, các giám mục là chúng ta yêu mến Chúa. Khi chúng ta sốt sắng cử hành các phụng vụ của Giáo hội, qua các Bí tích và các Á Bí tích là chúng ta yêu mến Chúa. Ngoài ra, khi chúng ta biết sống công bằng, bác ái, yêu thương…Là chúng ta cũng đang yêu mến Chúa. Bởi vì, những lúc đó chúng ta đang tuân giữ Lời của Ngài.
Giữ Lời Chúa không những chứng minh chúng ta là kẻ yêu mến Chúa mà còn đem đến cho chúng ta nhiều hiệu quả khác nữa.
Thứ nhất, được Chúa Cha yêu mến. Thật ra, từ đời đời Chúa cha đã yêu thương chúng ta rồi. Vì yêu thương ta, nên Ngài đã dựng nên ta. Vì yêu thương ta, nên Ngài đã sai Con Một xuống thế làm người để cứu chuộc ta. Đó là tình yêu phổ quát mà Chúa Cha dành riêng cho hết mọi người. Còn những người tuân giữ Lời của Chúa Con thì Chúa Cha sẽ yêu mến cách riêng. Chúa Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha Thầy yêu mến". Đây là một lời hứa đầy an ủi và vui sướng Bởi vì, không còn gì an ủi và vui sướng cho bằng được Chúa Cha yêu mến cách riêng như vậy.
Thứ hai, khi chúng ta tuân giữ Lời Chúa không những được Chúa Cha yêu mến mà còn được Chúa Cha và Chúa Con đến và ở trong chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Thật vậy, ngày lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thân xác và tâm hồn chúng ta đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta giữ trọn lời thề hứa trong ngày đó, thì Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Nhưng vì bản tính con người yếu đuối, dễ bị sa ngã phạm tội. Cho nên, mỗi khi chúng ta sa ngã phạm tội trọng, tức là chúng ta không giữ Lời Chúa, thì thân xác chúng ta không còn là đền thờ của Chúa Thánh Thần nữa. Nhưng nếu chúng ta biết thống hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao hoà thì Chúa Thánh Thần lại tiếp tục ngự vào tâm hồn chúng ta và ở lại với chúng ta. Không những chỉ có Chúa Thánh Thần mà còn có cả Chúa Cha và Chúa Con. Như vậy, thân xác và tâm hồn chúng ta lại trở nên đền thờ của Chúa Ba Ngôi ngự trị. Thánh Phaolô đã từng nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cor 3, 16). Đền thờ của Thiên Chúa thì quý giá hơn gấp trăm ngàn lần các đền thờ vật chất. Đền thờ vật chất có to lớn đến mấy, có nguy nga lộng lẫy đến mấy thì cũng do con người làm nên và sẽ tàn phai theo năm tháng. Còn đền thờ Thiên Chúa là tâm hồn chúng ta do chính Thiên Chúa tạo dựng, giống hình ảnh Ngài sẽ tồn tại mãi trên Thiên Đàng.
Như vậy, khi chúng ta giữ Lời Chúa không những chúng ta được chứng thực lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa Giêsu, mà còn được Chúa Cha yêu mến và Ba Ngôi Thiên Chúa đến ở lại với chúng ta. Ngài trở thành người nhà của chúng ta. Đó cũng là lý do mà chúng ta được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Chúa, là người mang Chúa trong mình. Vậy, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng hãy tuân giữ Lời Chúa.
2. Vai trò của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba. Nhiệm vụ của Ngài là thánh hoá. Nhưng Ngài cùng hiện diện với Chúa Cha trong việc sáng tạo. Ngài hiện diện với Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc. Phúc âm cho chúng ta thấy: Ngài hiện diện khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa tại sông Giođan (x. Mt 3,16; Mc 1,10; Lc 3,22); Ngài hiện diện trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3)… Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc đến vai trò của Chúa Thánh Thần: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Đúng vậy, Chúa Thánh Thần đã dạy và làm nơi các Tông đồ thật nhiều điều: Ngài biến đổi họ từ những con người nhát đảm sợ sệt, trở thành những con người can đảm khác thường; Ngài giúp họ nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm; Ngài giúp Thánh Phêrô và các Tông đồ giảng dạy Lời của Chúa Giêsu; Đặc biệt, Ngài linh hứng cho các thánh ký ghi chép Tin mừng.
Không những thế, trong bài đọc I, sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết, vai trò của Chúa Thánh Thần trong các quyết định quan trọng của Giáo hội sơ khai: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: Là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi” (x. Cv 15, 28-29). Cụm từ “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” nói lên tất cả vai trò của Chúa Thánh Thần.
Từ đó cho đến nay và mãi tới tận thế, vai trò của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và nơi mỗi người Kitô hữu vẫn không thay đổi. Ngài vẫn tiếp tục dạy cho Giáo hội và chúng ta biết mọi điều về Chúa Giêsu. Ngài tiếp tục làm cho Giáo Hội và chúng ta nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Vì vậy, chúng ta hãy năng kêu cầu Chúa Thánh Thần trong các giờ kinh nguyện và mọi sinh hoạt hằng ngày. Đọc và suy gẫm Lời Chúa dưới sự linh hứng của Ngài. Đồng thời, xin Ngài ban ơn soi sáng để chúng ta biết làm lành lánh dữ. Để chúng ta được thấy và được ở trong “Kinh Thành muôn thuở” mà thánh Gioan đã miêu tả trong đoạn sách Khải Huyền chúng ta nghe trong bài đọc II hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đưa ra một tiêu chuẩn làm thước đo để biết ai yêu mến Chúa, đó là “Giữ Lời Chúa”. Tuy vậy, con người qua mọi thời đại cố tình lẫn tránh lời mời gọi này của Chúa. Đó cũng là thái độ của rất nhiều người trong chúng con. Xin giúp mỗi người chúng con từ nay biết quyết tâm yêu mến Chúa bằng cách tuân giữ Lời của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con luôn sống dưới sự che chở và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.
Một ngày nọ, một Linh mục kia đang nằm trị tại Bệnh Viện, có một chị giáo dân đến nói với PS 6-C155
Một ngày nọ, một Linh mục kia đang nằm trị tại Bệnh Viện, có một chị giáo dân đến nói với Ngài rằng: “Thưa Cha, Cha bệnh tình của Cha có đỡ không, chứ con nằm trị bệnh đây lâu rồi mà bệnh tình chẳng bớt gì cả. Con buồn lắm Cha ơi, con cầu nguyện xin Chúa mãi mà Chúa chẳng cho con hết bệnh. Con lo sợ quá vì nếu bệnh con mà không hết thì mai mốt có hết không, không hết thì khốn khổ lắm! Con cũng đi hết bác sĩ từ nam chí bắc, rồi cũng uống hết thuốc từ thuốc bắc, thuốc nam, rồi tây y, con thấy nó chẳng bớt gì hết, nhiều khi con muốn tự tử chết cho rồi”. Vị linh mục ấy nói: “Chị ơi, thứ nhất chị là người Công giáo, theo Chúa mà chẳng tin vào lòng thương xót của Chúa tý nào, mà không có đức tin thì làm sao Chúa ban ơn được. Chị nhớ không trang Tin Mừng Mác-cô kể rằng: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,25-30.31). Thứ hai, chị có bình an của Chúa phục sinh nhưng không tín thác vào Chúa trong gian nan thử thách bệnh hoạn ốm đau, không bình an đón nhận Thánh ý của Chúa trong tin tưởng và hy vọng cho nên chị còn sợ hãi, còn mặc cảm, tự ti, tự kỷ và tự tử là vậy.
Chúa Giêsu hôm nay nói “Thầy để lại bình an cho anh em. Anh em đừng xoa xuyến cũng đừng sợ hãi vì Thầy đã thắng thế gian”. Bình an của Chúa ban” không phải thứ bình an của thế gian mà là bình an của Lòng Thương Xót. Qủa thế, ngay trong đêm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, Chúa đã đem đến cho nhân loại món quà đầu tiên là bình an, mà các Thiên Thần đã ca ngợi: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Hôm nay, sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra và trao ban bình an cho các môn đệ khi xưa và cho chúng ta hôm nay nữa mỗi khi lãnh nhận trong Phép Rửa, các Bí tích và lúc ta Rước Lễ. Bình an đó chính là Chúa Giêsu, Người đã vâng phục thánh ý Chúa Cha để chịu khổ nạn, chịu chết đền tội thay cho nhân loại và sống lại để cho con người sống dồi dào trong bình an của Ngài.
Bình an của Chúa Giêsu ban không như kiểu bình an của thế gian vì bình an của thế gian rất mong manh, dễ tan biến. Chẳng hạn, hệ thống an ninh của Mỹ phải nói là tiến bộ nhất thế giới, hệ thống camera ở đường phố hay ở nơi công cộng ghi hình rất rõ con kiến bò dưới đất cũng biết được con đực hay con cái. Như vậy quá an toàn, tuyệt đối bình an cho người dân chứ gì! Còn chỗ nào an bình như Nước Mỹ! Ấy thế mà ngày 15-4-2013 vụ đánh bom khủng bố ở Boston là thủ đô của tiểu bang Massachusetts của Mỹ làm 3 người thiệt mạng, 824 bị thương tật vĩnh viễn do một vụ nỗ bom tự chế này mọi công dân Mỹ hết lòng lo sợ, bất an và hoan mang.
Còn bình an của Chúa Giêsu hôm nay ban cho chúng ta hoàn toàn trái ngược với cách thức của con người, bình an trong những tình huống bất an. Cụ thể, Bài Tin Mừng kể Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ trong bữa tiệc ly, chuẩn bị chia tay với các môn đệ đi chịu nạn chịu chết. Như thế, nguyên nhân khiến các ông sợ hãi bất an vì không còn thấy sự hiện diện bằng thể lý của Đức Giêsu. Chính trong lúc không còn thấy Chúa thể xác này nhưng mà tin vào Lời Chúa, thì lúc đó các ông mới cảm nhận sự bình an Đức Giêsu ban cho. Nói như Thánh Phaolô “Bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu”. Bình an Đức Giêsu ban đó là bất chấp sự đe dọa bên ngoài. Bình an Đức Giêsu ban sâu lắng nhưng rất mãnh liệt và bền đỗ, nó làm cho chúng ta bình an thật sự dù có cuộc đời ta gặp đau khổ đắng cay nghiệt ngã, nhưng ta vẫn bình an vui sống trong tình hiệp thông với Chúa và mọi người. Cho nên, Phaolô khi bị gian truân thử thách đã xác quyết rằng: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt”.
Đứng trước những thách đố của cuộc sống: cơm áo gạo tiền, bệnh hoạn tật nguyền, hay khủng bố chiến tranh, động đất thiên tai hay tệ nạn xã hội lan tràn khắp nơi… Chúng ta ngồi đó than thân trách phận, hay chạy đôn đáo tìm đủ thứ bình an của thế mà quên bẵng tìm đến bình an của lòng thương xót Chúa và Lời Chúa là chính nguồn bình an giúp chúng vượt lên chính mình, can đảm sống theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết yêu thương chính mình và hết mọi người. Cho nên, bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa và với tha nhân thì chúng ta không có bình an cho nên còn băn khoăn, lo lắng, còn mặc cảm, than trời trách đất, tự ti và tự tử và không thương xót chính mình và tha nhân. Chúa Giêsu Thánh Thể hoàng tử bình an và là chính sự bình an nội tâm mà Thiên Chúa tặng cho chúng ta từng giây từng phút trong đời sống chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết trân trọng đón lấy Chúa Giêsu Thánh Thể và Lời của Ngài đồng thời nỗ lực cộng tác với Chúa để kiến tạo bình an cho bản thân mình và mọi người sống chung quanh ta bằng việc thương xót bản thân mình và tha nhân như Chúa thương xót ta.
Trong bài Giảng của Thánh Lễ Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót ngày 03.04.2016, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói rằng: “Sự bình an của Chúa Giêsu là sự bình an đến từ con tim của Đấng Phục Sinh; đó là sự bình an đã vượt thắng tội lỗi, sự chết và sự sợ hãi. Đó là sự bình an không chia tách nhưng hiệp nhất; đó là sự bình an không để cho người ta phải cô đơn, nhưng làm cho chúng ta cảm nhận được rằng, chúng ta đang được đón nhận và đang được yêu thương“.
Vậy, ước gì sau mỗi lần chúng ta lãnh nhận các Bí Tích nhất là bí tích Thánh Thể, chúng ta thật sự được dồi dào bình an của Chúa trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Nhờ sự bình an ấy mà chúng ta sẽ thanh thản, yên tâm, vui vẻ tín thác vào Chúa mà sống ở đời này dù có gặp phải những túng cực và khổ đau nhất trong đời để mai sau cùng Phục sinh vinh hiển với Ngài. Và sau nhất là sau mỗi thánh lễ, chúng ta hãy quyết tâm là người bình an của Chúa qua việc sống Lời Chúa, từ bỏ tội lỗi, sống yêu thương, tha thứ, cảm thông, chia sẻ và quan tâm đền chính mình và với nhau nhau trong cuộc sống. Amen.
Tin Mừng Ga 14, 23-29: Niềm tin và tình yêu của Kitô hữu dành cho Chúa Giêsu được biểu lộ qua việc nghe và thực thi Lời Chúa.
Giáo hội qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm lời tâm tình của Chúa Giêsu PS 6-C156
Giáo hội qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm lời tâm tình của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Người trở về cùng Chúa Cha: "Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy". Vào thế kỷ XXI này liệu Lời Chúa có còn cần thiết, có giá trị đối với Kitô hữu, đối với con người và xã hội không, khi mà người ta đã và đang chạy theo những lợi lộc vật chất; khi mà người ta tin tưởng và đề cao những giá trị của khoa học, của tri thức nhân loại; khi mà người ta dễ dàng nghe theo những trào lưu tư tưởng thực dụng.
Niềm tin và tình yêu của Kitô hữu dành cho Chúa Giêsu được biểu lộ qua việc nghe và thực thi Lời Chúa.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Ga 14, 23-29
Bản văn được chọn đọc hôm nay nằm trong diễn từ biệt ly của Chúa Giêsu. Vào lúc Chúa Giêsu chuẩn bị rời bỏ các môn đệ, Người dạy các ông về sự quan trọng của việc sống và thực thi những lời dạy của Người. Lời của Người là Lời của Chúa Cha. Sống Lời Chúa là thước đo lòng yêu mến. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông hiểu và sống Lời Người.
a. Chúa Giêsu sau khi rời bỏ các môn đệ để về bên Chúa Cha, Người sẽ có những cách thế hiện diện khác để ở cùng các môn đệ của mình. Người hiện diện nơi Lời của Người. Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến Người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.
b. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng hướng dẫn để tất cả hiểu đúng Lời Chúa và ban ơn để có đủ nghị lực sống Lời Chúa. Sống Lời Chúa không phải là điều đơn giản. Với biết bao khó khăn thử thách nếu vẫn trung thành sống Lời Chúa thì chúng ta sẽ tìm kiếm được bình an của chính Chúa Giêsu ban tặng. Một sự bình an nội tâm sâu xa do chính sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại.
c. Thế giới và Giáo hội ngày nay đã và đang trải qua biết bao cuộc khủng hoảng trầm trọng, dông bão đang thổi đến. Đây là lúc mọi Kitô hữu phải xiết chặt tay, trung thành sống Lời Chúa bất chấp tất cả để mang lại sự bình an cho thế giới và Giáo hội.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Sống Lời Chúa là thước đo của lòng yêu mến: Theo tâm lý tự nhiên của con người, khi người ta yêu quí nhau thì người ta dễ nghe nhau, dễ tin lời nhau, dễ thực hiện theo những gì người mình yêu quí nói. Càng yêu quí nhau nhiều thì càng nghe nhau, thậm chí nghe theo cả những điều sai trái. Đối với Chúa Giêsu cũng vậy, Người cũng khẳng định: ai yêu mến Thầy, sẽ giữ Lời Thầy; ai không yêu mến thì không giữ lời Thầy. Lời Chúa đã minh nhiên cho thấy sự tương quan giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và việc sống Lời Chúa. Cả hai không thể tách rời nhau. Yêu mến Chúa là phải thực thi Lời Chúa. Càng thực thi lời Chúa càng chứng tỏ tình yêu càng lớn lao. Tình yêu đối với Thiên Chúa không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên mà hệ tại ở chính việc sống lời Chúa. Sống Lời Chúa là thước đo lòng yêu mến Chúa. Nếu nói yêu mến Chúa mà không thực hành Lời Chúa thì đó là kẻ nói dối.
Có nhiều cách thế biểu lộ tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa: sốt sắng cầu nguyện, yêu mến bác ái với tha nhân, trung thành sống đức tin … nhưng tất cả đều là những việc cụ thể của việc sống Lời Chúa. Vì thế, chịu học hỏi Lời Chúa và nhất là thực thi Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày là cách thức thể hiện đức ái cụ thể nhất, rõ ràng nhất.
2. Hoa trái của việc sống Lời Chúa: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy". Hoa trái quan trọng nhất, nguồn phát sinh nhiều hoa trái thiêng liêng và ân sủng của việc sống Lời Chúa chính là có được sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong cuộc đời. Đối với những ai yêu mến và sống Lời Chúa, Chúa Giêsu hứa hẹn rất tuyệt diệu: Người không nói đến tình yêu mà Người đương nhiên dành cho họ, nhưng Người nói đến tình yêu và hồng ân kỳ diệu của Chúa Cha, cùng với Chúa Giêsu, chính Chúa Cha sẽ đến ở với các tín hữu. Các Ngài đến cư ngụ trong họ như trong đền thờ của mình. Có được Thiên Chúa là có tất cả. Nếu ai chối từ không yêu mến, không sống Lời Chúa thì không thể đón nhận được Thiên Chúa đến với họ. Họ không biết Chúa Giêsu vì đã từ khước sứ điệp của Người. Như thế, họ cũng không thể biết Chúa Cha là nguồn của sứ điệp và cũng không thể có được Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng và giải thích sứ điệp.
Với mỗi Kitô hữu hôm nay, việc học sống Lời Chúa xem ra có vẻ thờ ơ nguội lạnh. Nguyên nhân thì nhiều nhưng ẩn sâu bên trong chính là do không yêu mến Thiên Chúa, không dám chấp nhận sứ điệp Tin mừng cho nên không có Thiên Chúa trong cuộc sống và từ đó vẫn cứ mãi quay cuồng trong dục vọng, đam mê, trong bể khổ cuộc đời mà không được bình an. Bình an Chúa Giêsu ban tặng không như thế gian ban tặng. Bình an đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa, sự bình an có được qua việc sống Lời Chúa, qua chính hành động đức tin của mỗi người.
3. Sống lời Chúa là đi vào sự hiệp nhất với Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải minh nhiên về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ điệp của Người công bố là chính Lời của Chúa Cha. Chúa Thánh Thần sẽ đến dạy bảo và nhắc nhở tất cả những gì Người đã giảng dạy cho các môn đệ. Sự hiệp nhất nên một của Ba Ngôi Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng trong chính lời giảng dạy của Chúa Giêsu: Người chỉ nói những gì Chúa Cha sai nói. Chúa Thánh Thần không dạy thêm điều gì khác lạ với những gì Chúa Giêsu dạy mà chỉ soi sáng giúp tín hữu hiểu thấu Lời Chúa Giêsu mà thôi. Do đó, khi thực thi Lời Chúa là đi vào trong sự hiệp nhất với Ba Ngôi Thiên Chúa. Như Ba Ngôi hiệp nhất nên một thế nào thì người sống trung thành với Lời Chúa cũng kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi chặt chẽ như vậy. Tin vào Lời Chúa Giêsu là đón nhận sứ điệp được gửi tới từ Chúa Cha. Để hiểu đúng và làm đúng Lời Chúa đòi phải lắng nghe Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm Ba Ngôi là nền tảng cho toàn bộ mầu nhiệm Kitô giáo. Sống Lời Chúa là đi vào chính nguồn mạch tình yêu khởi từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Lời Chúa là đèn soi dẫn lối chúng ta đi đến cùng đích đời Kitô hữu là về sống hạnh phúc trong cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa. Sống Lời Chúa ngay từ cuộc sống hiện tại là một bảo đảm cho Kitô hữu đi đúng đường.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, trung thành sống Lời Chúa là biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Trong tâm tình yêu mến và tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
1. Kho tàng Lời Chúa đã được Chúa Giêsu ủy thác cho Hội thánh để Hội thánh trung thành loan truyền cho muôn dân. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Đức Giám mục là những thầy dạy đức tin và các linh mục, những cộng tác viên của hàng Giám mục luôn biết yêu mến và không ngừng trau dồi Kinh thánh, để dân Chúa và mọi người được nuôi dưỡng đầy đủ và bổ ích lương thực Lời Chúa.
2. Trong xã hội hôm nay rất nhiều anh chị em chưa nhận được sứ điệp Tin mừng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội thánh Việt Nam trong Năm thánh này thu được nhiều kết quả khả quan làm cho nhiều anh chị em chung quanh được nghe Lời Chúa, tiếp cận với Lời Chúa bằng chính đời sống chứng tá Tin mừng của mọi thành phần Hội thánh.
3. Ai yêu mến Chúa thì giữ Lời Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu mến, học hỏi và sống Lời Chúa. Nhờ đó, mỗi ngày một gắn bó hơn với Ba Ngôi Thiên Chúa; tìm kiếm được niềm vui an bình trong cuộc sống và trở nên chứng tá loan báo Tin mừng cho mọi người chung quanh.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa không ngừng yêu thương, chăm sóc và hiện diện với chúng con qua Lời Chúa được công bố trong Hội thánh. Chúng con xin Chúa tuôn đổ ơn Thánh Thần trên mỗi người chúng con, để tất cả hiếu biết và sống đúng những gì Chúa dạy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc PS 6-C157
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.
Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36).
Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.
Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga14,27). Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.
1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn.
Chúa Giêsu Phục sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.
"Bình an cho các con". Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.
"Bình an cho các con". Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại, bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm.v.v... tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.” Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.
Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
"Bình an cho các con". Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.
2. Hoa quả của Bình An.
Có nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù, có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.
Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục...
Khi trong tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng biết thông cảm với người làm ta bực mình, dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến, sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình... Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc cam go sợ hãi thử thách luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
Cuộc chuyển biến vừa qua tại Thái Lan đã làm cho thế giới chú ý đến vai trò của nhà vua nước PS 6-C158
Cuộc chuyển biến vừa qua tại Thái Lan đã làm cho thế giới chú ý đến vai trò của nhà vua nước này. Một trong những hình ảnh đáng chú ý và cảm động nhất hẳn phải cảnh tượng của thủ tướng và đối thủ của ông là tướng Chamlon cùng ra trước mặt quốc phủ phục và lắng nghe những khuyên nhủ của ông. Những lời lẽ của một ông vua được toàn dân yêu mến và tuân phục đã có sức thuyết phục tướng Chamlon từ bỏ con đường tham vọng của ông. Cơn khủng khoảng của Thái Lan xem ra đã kết thúc, mọi người ca ngợi sự dàn xếp của quốc vương Thái Lan. Trong lịch sử Thái Lan, quốc vương vẫn được dân chúng xem như là một nguyên thủ hợp lý của đất nươc. Theo truyền thống, các vua Thái Lan trước khi lên ngôi phải tu luyện cho đủ mười điều đức hạnh của đạo Phật về khoan nhượng và vị tha, họ phải trở thành điều mà dân Thái Lan gọi là “ vua của mọi giai cấp, mọi nhóm xã hội và mọi chủng tộc”.
Hình ảnh của quốc vương Thái Lan trên đây hẳn phải mời gọi chúng ta suy nghĩ về sứ mệnh hòa bình, sứ mệnh hòa giải của người Kitô hữu. Lời Chúa trong bài tin mừng hôm có thể tóm gọn trong cả chủ đề của lời Chúa trong Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”. Chúa Giêsu không chỉ trao ban bình an cho chúng ta như là một quà tặng mà Ngài còn ủy thác cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sứ mệnh xây dựng “ Hòa Bình”. Ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có lẽ đủ thâm thúy để diễn tả điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta. Thật thế, hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có một danh từ để chỉ hòa bình. Nhưng ngôn ngữ Việt Nam chúng ta ít nhất có hai từ để nói về ý niệm này, chúng ta nói: “ Bình an” để chỉ một trạng thái của tâm hồn. Chúng ta dùng hai chữ “ Hòa Bình” để chỉ mối tương quan giữa người với người hoặc quốc gia với quốc gia.
Chúa Giêsu đã phân biệt hai bình diện ấy của hòa bình khi Ngài nói với ra rằng, bình an mà Ngài ban tặng cho chúng ta không phải là thứ hòa bình của thế giới vẫn thường nói đến. Khi nói đến hòa bình của thế giới thì ám chỉ đến một trật tự không có chiến tranh, không có tiếng súng, không có xung khắc, một thứ hòa bình lén lút, giải tạo và chóng qua. Đàng sau một thứ trật tự như thế còn có biết bao nhiêu suy tính của tham vọng, của thù hận, của đe dọa chỉ chờ đợi để bùng nổ. Chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây đã chấm dứt, thế nhưng thế giới đã thực sự hưởng được hòa bình chưa?
“ Bình an”hay “ Hòa bình” đích thực mà Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta thiết yếu là sự bình an trong tâm hồn. Chỉ khi nào con người có được sự bình an đích cho thì mới có thể xây dựng được hòa bình với người khác. Bình an nội tâm là điều tiên quyết để xây dựng hòa bình. Bao lâu tâm hồn chúng ta vẫn còn cưu mang hận thù, tham lam, ích kỷ, đố kỵ, ghen ghét… thì bấy lâu bình an không thể có trong chúng ta và hòa bình ấy cũng không thể đến với người xung quanh được, dù ở bất quy mô nào cũng không bao giờ có được sự hòa bình đích thực ấy.
“Bình an” hay “ hòa bình” đích thực là một công trình xây dựng không ngừng đòi hỏi hy sinh và phấn đấu trong chính nội tâm của mỗi người, nó đòi hỏi con người chiến đấu để thắng vượt những nhỏ nhen ích kỷ của mình để trung thành với những cam kết của mình, để ra khỏi chính mình và đến với tha nhân nhiều hơn.
“Bình an” hay “ hòa bình” đích thực thiết yếu là quà tặng của Chúa, quà tặng ấy cũng chính là Chúa. Thiên Chúa tự trao ban cho chúng ta khi tâm hồn con người được Chúa chiếm trọn, khi tâm hồn người chọn được chính Chúa. Khi con người chọn chính Chúa làm gia nghiệp của mình thì lúc đó con người sẽ có được bình đích thực. Hiểu như thế thì sứ mệnh xây dựng hòa bình của người Kitô hữu chúng ta chính là chia sẻ quà tặng ấy với mọi người xung quanh.
Trong một xã hội mất định hướng thì người Kitô hữu thực thi sứ mệnh thiên định của mình, và thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Trong một xã hội băng hoại vì giành giật, ích kỷ, người tín hữu Kitô thực thi sứ mệnh hòa bình bằng một niềm tín thác kiên vững vào tình yêu của Thiên Chúa.
Với những lời tâm sự này, Chúa Giêsu hướng các Tông đồ về tương lai: Thầy sẽ… sẽ… Tương lai PS 6-C159
Với những lời tâm sự này, Chúa Giêsu hướng các Tông đồ về tương lai: Thầy sẽ… sẽ…
Tương lai là “yêu mến Thầy, giữ lời Thầy”.
Tương lai đó là đón nhận “Đấng Bảo Trợ mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”.
Tương lai đó là “Thầy sẽ về với Chúa Cha”…
Để bảo đảm cho tương lai, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy để anh em không xao xuyến, không sợ hãi.
Bảo đảm cho tương lai là “yêu mến Thầy”, là “giữ lời Thầy”.
Bảo đảm là Thánh Thần. Đấng Bảo Trợ thần linh.
Tất cả quy tụ chung quanh tình yêu: yêu mến Thầy.
Chúa Giêsu đã từng giải thích rõ ràng, yêu không chỉ là nói: “Những ai nói lạy Chúa, lạy Chúa thì không vào được Nước Trời”.
Ngày chung thẩm, chúng ta sẽ được phán xét về tình yêu (thánh Gioan Thánh Giá): “Hãy lui ra cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời… Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn…”
Yêu mến Thầy là yêu thương những người Thầy đã yêu, yêu bằng hành động cụ thể. Điều này đã được các tiên tri dạy từ xa xưa, nhưng Chúa Giêsu khẳng định hơn: “Điều gì các ngươi làm cho một người anh em bé mọn của Ta đây, là làm cho chính Ta”.
Yêu người là yêu Thầy. Thầy là người anh em không may mắn, nghèo đói, bệnh tật, buồn nản, khốn cùng…
“Lời Thầy không là của Thầy mà là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Nơi khác Ngài xác nhận: “Cha với Thầy là một”.
Nhưng lời Thầy là lời của Thiên Chúa, vậy sao chúng ta không thực hiện? Tại sao chúng ta dám bỏ lời Ngài qua một bên? Chúng ta có yêu mến Chúa chưa? Đã giữ lời Chúa chưa? Hay chúng ta khinh thường Thiên Chúa?
Nếu chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa thì chúng ta sẽ cố gắng hết mình lắng nghe lời Ngài và đem ra thực hành. Nhưng chúng ta chưa làm hay chỉ làm một cách nào đó, không hết tình. Điều đó chứng tỏ đức tin chúng ta chưa rõ rệt, chúng ta chưa biết Chúa.
“Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”. Nếu chúng ta tin Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Cao Cả tuyệt đối, Đấng tạo nên chúng ta, Đấng là Cội Nguồn và là hạnh phúc duy nhất của chúng ta, chúng ta sẽ quí chuộng từng lời nói của Ngài như người ta quí những hạt kim cương, chúng ta sẽ tuân hành triệt để. Những điều đó đã không xảy ra. Chúng ta xem lời Chúa như lời của một ai đó không liên hệ… Chúng ta cảm thấy nhàm chán khi nhắc đến Lời Chúa.
Trên thế giới, những nhà độc tài thường cố nhét vào đầu dân của họ những lý thuyết nghèo nàn của họ… Tại sao chúng ta không nghiền ngẫm Lời Chúa và đem ra thực hành? Lời Chúa là sự thật và là sự sống. Đức tin của chúng ta nghèo nàn biết bao!
Giữ Lời Chúa mang lại cho chúng ta một hồng ân quí báu hơn mọi của cải trần gian đó là: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy”.
Chúng ta trở nên “Đền Thờ của Thiên Chúa”, nơi cư ngụ của Thiên Chúa, Thiên Chúa Tình Yêu. Không mấy ai ý thức tầm vóc lớn lao của hồng ân này.
Chúng ta, những con người hèn mạt, nhơ nhớp, được Chúa chọn làm nơi cư ngụ của Ngài! “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập tình yêu của Ngài. Phải chăng là một hồng ân vô giá?
Sao chúng ta không thấy? Chúng ta mong ước điều gì? Những bữa tiệc trần gian có thỏa mãn con tim chúng ta không? Mọi sự trên trần gian đều qua, tro bụi trên đường dài thôi. Chỉ có Chúa mới thực sự là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Giáo hội khảng cổ lặp lại cho chúng ta chân lý này, nhưng không mấy người nghe. Thế gian, với những trò vui của nó vẫn hấp dẫn chúng ta. Theo thế gian, chúng ta gặt hái được gì? Những trò vui ngắn ngủi mà trống rỗng tâm hồn, và chúng ta vẫn tay không trước những thống khổ, âu lo, phiền muộn.
Tìm về hạnh phúc của tình yêu Chúa mới là con đường bảo đảm cho tương lai: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Còn hạnh phúc nào bằng? Hơn thế nữa: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Chúng ta có hiểu những lời đó không?
Thiên Chúa không còn nơi nào trú ngụ đến nỗi phải nương nhờ những tâm hồn như chúng ta sao? Cả triều thần thánh không đủ cho Ngài sao? Đúng thế, tình yêu không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, tình yêu luôn là thiếu thốn, là vô biên. Vì Ngài là Tình Yêu, Ngài cũng là Bất Tận.
Chúng ta là những người được yêu, và người yêu chúng ta là Thiên Chúa! Hạnh phúc nào bằng?
Hãy ca lên bài ca cảm tạ, “vì tình thương của Chúa bền vững muôn năm” “vì muôn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Hơn nữa, Chúa Cha lại ban cho chúng ta Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần để trở thành ký ức cho chúng ta. “Ngài sẽ dạy anh em mọi điều, nhắc cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em”.
Ba Ngôi Thiên Chúa đến với chúng ta, cư ngụ trong chúng ta. Chúng ta trở thành tổ ấm cho Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta dễ quên. Tâm trí chúng ta nặng nề vật chất. Cần có một vị Tôn Sư thần linh để hạt giống được gieo trong nhọc nhằn nẩy mầm và lớn mạnh.
Không có Ngài, những tay chài lưới dốt nát kia làm sao lay động thế giới?
Thánh Thần Chúa sẽ dạy chúng ta mọi điều. Sự khôn ngoan của Ngài ban sẽ chiến thắng tất cả: “Sự điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”. Chúng ta sẽ không ngại ngùng trả lời cho mọi người về niềm hy vọng của chúng ta. Những lý thuyết của loài người ngập tràn những thư viện, nhưng đó chỉ là những chiếc lá khô mà thời gian sẽ cuốn trôi và sẽ trở về với bụi tro. Chỉ có “sự điên rồ của Thập Giá” mới tồn tại. “Những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa chọn để hủy diệt những gì hiện có”.
“Thánh Thần Chúa sẽ cho anh em nhớ lại tất cả …” Tất cả những gì Thầy nói đều gom lại trong chữ Yêu Thương. Ba Ngôi Thiên Chúa cư ngụ trong chúng ta sẽ biến chúng ta thành những “đô thị yêu thương”.
Trong biển lửa hận thù đang ngùn ngụt cháy khắp nơi, trong đại dương đau khổ ngút ngàn của thế giới hôm nay, Chúa Giêsu muốn xây dựng những “đô thị yêu thương” cho đời bớt khổ: “Nơi nào có oán ghét hận thù, xin cho con đem lại an vui…”
Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xương bằng thịt nữa, nhưng Ngài vẫn có mặt, êm đềm hơn, sâu đậm hơn. Chúng ta không mất mát gì nhưng lại tràn đầy hồng ân. Hồng ân trên hết mọi hồng ân là Tấm Bánh Tình Yêu được trao ban hằng ngày. Nơi tấm bánh đó, chúng ta tìm được sinh lực để thắp lên ngọn đèn tình yêu đang bị đe dọa bởi những cơn bão hận thù, giết chóc, để xây đắp những “đô thị tình yêu”, bất chấp những mưa nắng của bạo tàn.
Ước chi mỗi người tín hữu trở thành một “đô thị tình yêu” mời gọi mọi người đến ẩn náu trong cơn lốc bạo tàn man rợ hôm nay. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Trong cuộc sống của chúng ta hàng ngày ít nhiều cũng có những chia ly. Cuộc chia ly nào cũng PS 6-C160
Trong cuộc sống của chúng ta hàng ngày ít nhiều cũng có những chia ly. Cuộc chia ly nào cũng để lại những dấu ấn, những tâm tư vui buồn lẫn lộn, ưu sầu hay lo lắng và tác động không nhỏ vào đời sống tự nhiên lẫn siêu nhiên của chúng ta. Những cuộc chia ly còn cho chúng ta kinh nghiệm sống mà ta gọi là "những bài học không có trong sách giáo khoa."
Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu cũng có một cuộc chia ly với các môn đệ. Trước giờ chia ly ấy, Chúa đã nhắn nhủ với môn đệ của Người những lời tha thiết, mà Thánh Gioan gọi là "Những lời cáo biệt." Chúa an ủi, động viên, trao ban bình an...và nhất là Chúa khẳng định với môn đệ và cũng là với mỗi Kitô hữu rằng dù ra đi, nhưng Chúa sẽ mãi ở với mỗi trái tim nào có tình yêu Chúa và tuân giữ Lời của Người: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23). Đây là một bảo đảm thật tuyệt vời cho môn đệ và tất cả chúng ta.
- "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy." Tình yêu là khởi điểm giữa Thiên Chúa và tạo vật, giữa Chúa Giêsu và con người. Tình yêu cũng là khởi điểm của đời sống người môn đệ và của mỗi Kitô hữu. Tình yêu là trường học, nơi đó chúng ta học biết về Thiên Chúa mà cụ thể là Chúa Giêsu và họa lại vẻ đẹp, lời nói, hành động của Người; vì "Thiên Chúa là Tình Yêu."
Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu được khởi đầu bằng tình yêu. Chúa đã diễn tả Tình yêu của Người với nhân loại và đặc biệt Người tỏ cho môn đệ biết Người yêu thương họ dường nào, để rồi môn đệ chỉ còn cách đáp trả tình yêu. Chúa đã yêu thương tôi vô bờ bến, tôi cần phải đáp lại bằng cách yêu mến Người. Vì yêu mến Chúa, tôi tuân giữ những Lời Chúa dạy bảo và giới răn Chúa truyền ban. Đó là cách cụ thể mà tôi chứng minh lòng yêu mến Chúa. Vì yêu là hiểu biết nên tôi học hỏi về Chúa qua Lời của Người. Vì yêu là hoạt động nên tôi tuân giữ, thực hành, sống Lời Chúa dạy trong đời sống cụ thể của tôi. Và đây là điều kiện để tôi được Thiên Chúa đến, cư ngụ.
- "Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy." Thiên Chúa tỏ mình cho những ai tin vào Người. Nhưng Chúa còn đến và ở lại trong những con tim yêu mến và tuân giữ Lời Người. Chúa chỉ đến và ở lại nhà những ai có tình yêu và sẵn sàng mở cánh cửa cho Người; những ai đón nhận, tuân giữ Lời của Chúa; những ai yêu mến Người cách tự do. Chúa đến và ở lại không phải trong Đền Thờ bằng gỗ đá, nhưng là trong mỗi Kitô hữu trung thành nghe và thực thi Lời Chúa. Chính vì thế, ta không cần tìm Chúa ở đâu xa. Chúa hiện diện ở đây trong bạn, trong anh, trong tôi nếu chúng ta biết yêu mến Chúa, cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa dạy.
Chúa không dùng quyền ép buộc chúng ta nghe, tuân giữ Lời Chúa và cũng không muốn thực hiện những dấu lạ hiển hách gây ấn tượng để ép ta gắn bó với Người. Chắc chắn Chúa rất muốn tỏ mình cho tất cả mọi người, nhưng Người tôn trọng tự do của mỗi chúng ta, vì: Tình yêu không thể bị ép buộc! Thế nên Chúa ủy thác cho các môn đệ và chúng ta, những Kitô hữu của Người làm môi giới cho tình yêu. Chính đời sống mang đậm nét tình yêu của ta đối với Chúa và lòng yêu thương, phục vụ, bác ái, tha thứ, ...của ta đối với tha nhân sẽ làm cho Chúa được tỏ hiện và biểu lộ với tất cả những ai chưa biết, chưa tin và còn sống xa Chúa. Có Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ luôn hướng dẫn trợ giúp Giáo hội và mỗi Kitô hữu thực thi sứ mệnh.
- "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy." Bình an của Chúa ở trong trái tim Người. Chúa là người Bình an và là người mang Bình an như lời Ngôn sứ Isaia nói "Danh hiệu của Người là Hoàng Tử Bình An.” (x. Is 9,5) Bình an lan tỏa trên khuôn mặt, trong thái độ và lời nói của Chúa. Bình an là chính Chúa nên khi ban cho môn đệ, Chúa đã nói "Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng." Bởi vì bình an của thế gian đến từ con người và chắc chắn không bền vững.
Chúa thấy rõ trong thế gian, môn đệ của Người sẽ gặp bao hỗn tạp làm họ chao đảo, lo lắng! Và sự thật lúc này đây, âm mưu của Giuđa bán nộp Thầy; chối Thầy của Phêrô và cái chết của Thầy được loan báo đang làm cho môn đệ xao xuyến, hãi hùng! Chính vì thế, Chúa động viên, an ủi, đem lại nghị lực cho môn đệ. "Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!" Chúa yêu thương môn sinh nồng nàn và tình yêu của Chúa bao phủ các ông nên đừng sợ hãi, vì "Tình yêu không biết đến sợ hãi" và "Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 18.16) Vì thế, Chúa ra đi nhưng vẫn luôn hiện diện trong trái tim môn đệ. Chúa thật thân tình, yêu thương, cảm thông với môn đệ của Người. Cùng nhịp thở, cùng nhịp yêu và thấu hiểu cuộc sống cũng như những khó khăn thử thách mà mỗi môn đệ và mỗi Kitô hữu hôm nay sẽ phải đối diện trong cuộc đời.
Vậy hãy để Chúa đong đầy trái tim chúng ta tình yêu và bình an của Chúa khi chính chúng ta biết đáp lại tình Người bằng lòng yêu mến Chúa chân thành và hăng say tuân giữ Lời Chúa dạy; yêu thương tha nhân, hy sinh quên mình phục vụ trong khiêm tốn và nhẫn nại tha thứ vì căn cước của Kitô hữu là Tình yêu. Như thế, chúng ta sẽ thật hạnh phúc có Chúa ở cùng để rồi ta được ở lại trong tình yêu và trở thành môn đệ của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con trở thành Kitô hữu- là môn đệ của Chúa. Xin đổ tràn trong trái tim chúng con tình yêu và bình an của Chúa, tình yêu và bình an mà chúng con và cả thế giới luôn mong đợi. Amen.
Tin Mừng Ga 14: 23-29: Bình của Chúa ban không là kho báu để cất giữ, để hưởng dùng một mình, nhưng là phương thế để phục vụ và mang lại bình an cho người khác.
SUY NIỆM
Hàng tuần chúng ta vẫn xin lễ cầu bình an, bởi điều chúng ta hằng mong ước luôn hiện diện trong PS 6-C161
Hàng tuần chúng ta vẫn xin lễ cầu bình an, bởi điều chúng ta hằng mong ước luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình, trong môi trường mình sống chính là sự bình an. Bình an chúng ta ước mong chắc chắn không mua sắm được bằng tiền bạc, bởi vì “tiền bạc có thể tạo lập món ăn ngon, nhưng không mua được sự ngon miệng; tiền bạc có thể tạo dựng được phòng ngủ sang trọng, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể xây được căn nhà lộng lẫy, nhưng chưa chắc đã tạo được mái ấm hạnh phúc”.
Quả thật, trong cuộc sống, người ta đối diện với bao bất an do đồng tiền gây ra, bởi đồng tiền là nguyên nhân tạo ra sự sự ghen ghét, sa đọa, tham lam cội nguồn của bất an. Bao nhiêu là câu chuyện nói về sự bất an trong các gia đình khi có nhiều tiền lắm bạc. Chẳng hạn cặp vợ chồng Lara và Roger Griffiths: Vợ chồng nhà Griffiths chung sống rất hòa thuận cho đến khi họ trúng giải thưởng sổ xố trị giá 2,76 triệu USD vào năm 2005. Năm năm sau khi trúng giải, căn nhà triệu đô mua được từ tiền sổ xố bỗng dưng bốc cháy, thiêu trụi toàn bộ tài sản. Cuộc hôn nhân 14 năm giữa hai người cũng chấm dứt, sau khi Lara buộc tội Roger ngoại tình với người phụ nữ khác. Cứ ngỡ tiền sẽ mua được sự bằng yên cho cuộc sống, cô Ibi Roncaioli: Chủ nhân giải thưởng loto trị giá 5 triệu USD vào năm 1991 bị đầu độc bởi chính người chồng của mình bằng thuốc giảm đau khi anh phát hiện Ibi bí mật trợ cấp 2 triệu USD cho đứa con với người đàn ông khác. Vâng, tiền bạc luôn là một thách đố lớn lao cho sự an toàn của cuộc sống, cô Vivian Nicholson từng được coi là người phụ nữ may mắn nhất nhì nước Anh khi thắng 152 nghìn Bảng Anh nhờ cá độ bóng đá vào năm 1961, nhưng vài năm sau đó, cô đã rơi vào cảnh không xu dính túi vì đổ quá nhiều tiền vào sắm quần áo. Ngoài ra, hôn nhân của Vivian cũng không mấy suôn sẻ. Cô kết hôn đến 5 lần nhưng vẫn không thực sự hạnh phúc. Năm 2011, Vivan qua đời bởi nghiện chất cồn và áp lực tâm lý. Đức Phanxicô đã nói: Khi một người sống bám víu vào tiền của, niềm kiêu hãnh hay quyền lực, người ấy không thể có hạnh phúc và bình an thật”.
Vậy ở đâu có sự bình an? Xin thưa, bình an đích thận chỉ đến từ tình yêu dành cho Chúa. Quả thật người ta chỉ có thể kín múc sự bình an từ nơi Chúa Giêsu, bởi ở nơi Người không có tham sân si, nơi Người chỉ có một tình yêu thanh khiết, Người ở giữa mọi người như ngừoi mục tử nhân lành ở giữa đàn chiên, Người không sống cho mình, nhưng cho đàn chiên. Vì thế, ở nơi Người chúng ta tìm thấy một tâm hồn thanh thản bình an, nơi Người không có sự hỗn loạn bôn chen, không bị phiền nhiễu bởi danh lợi thú. Ma quỉ đã phải bỏ cuộc trước sự thuần khiết tâm hồn của Chúa Giêsu khi nó cố gắng lôi kéo Người đi vào cuộc chơi mà nó đề nghị, một cuộc chơi mà trong đó giá trị vật chất luôn được đề cao, và luôn thúc đẩy người chơi khao khát quyền lực và sự giàu sang. Ma quỉ hiểu rằng, những ai bước vào cuộc chơi mà nó đề xướng thì sẽ chẳng bao giờ có được sự bình an, bởi tâm của họ chẳng bao giờ có được sự điềm tĩnh và thanh thản, và như thế những người tham dự cuộc chơi do Satan đề xướng, đều trở thành đầy tớ cho nó, bởi nó là chủ nhân của sự hận thù, ghanh ghét, chia rẽ và bất an.
Caryn, một sinh viên ở Virgina, chia sẻ con đường cô tìm được bình an như sau: "Tôi nghĩ mình là một Kitô hữu bởi vì tôi đi đến nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật, nhưng tôi không biết Chúa là ai. Năm cuối trung học của tôi cũng trôi qua giống như ba năm trước đây. Tôi giành hầu hết thời gian của mình vào chuyện nhậu nhẹt, thăng tiến hay cố tìm cách để làm cho ai đó yêu mình. Tâm tôi chết dần chết mòn và tôi không thể kiểm soát được cuộc sống của mình nữa. Khi tôi nhận ra tôi muốn kết liễu cuộc đời của mình nhiều thể nào thì cũng là lúc tôi biết rằng tôi phải tìm cho mình một niềm hy vọng nào đó sau khi ra trường. Thế rồi, tôi đến xin Chúa bước vào đời sống của tôi. Ngài đã cho tôi thấy tình yêu thương, sự yên ninh, sự tha thứ, sự nâng đỡ, niềm an ủi, sự chấp nhận và mục đích sống. Chúa là sức mạnh của tôi, và tôi đã tìm thấy được sự bình an. Hôm nay, nếu không có Người, thì có lẽ tôi sẽ không thể có mặt ở đây.”
Do đó. để tìm thấy sự bình an trong cuộc sống không có cách thế nào khác ngoài việc đến cùng Giêsu và học nơi Người, như Người đã mời gọi: hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29). Sự hiền lành và khiêm nhường của Giêsu là phương thế tuyệt hảo để kiến tạo một cuộc sống bao dung, loại trừ tính ích kỷ, cao ngạo, kiêu căng và tự phụ, là những nguyên cớ gây ra bao nhiêu là bất hòa, tranh chấp, hận thù. Được bình an trong cuộc sống là mong ước của muôn người, chính Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: ”Khi vào bất kỳ nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu tại đó có một người con của hòa bình, thì bình an của các con sẽ xuống trên người ấy, nếu không an bình ấy sẽ trở lại trên các con” (Lc 10,5-6). Và trang Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu hiện đến với các Tông đồ sau khi Người sống lại, Người đến không mang theo vàng bạc châu báu, nhưng mang bình an, và Người để lại bình an đó lại cho các Tông đồ như là hành trang lên đường đi loan báo Tin Mừng, vì Chúa biết chỉ có sự bình an của Chúa các Tông đồ mới có thể chu toàn sứ vụ được giao. Vâng, Chúa để lại bình an của Người cho các Tông đồ như là sản nghiệp để các ông trang trải cho hành trình loan báo Tin Mừng.
Bình của Chúa ban không là kho báu để cất giữ, để hưởng dùng một mình, nhưng là phương thế để phục vụ và mang lại bình an cho người khác. Vâng, bình an của Chúa để lại cho các Tông đồ được đúc nén bởi một tình yêu khôn tả, một tình yêu đã thúc đẩy Người bước lên đỉnh đồi Calvê và hiến dâng cuộc sống qua cái chết trên Thập giá để trở thành hiến lễ tình yêu, nhờ đó mà nhân loại được cứu sống. Tình yêu hiến dâng là phương thế các Tông đồ xử dụng để thi hành sứ vụ loan báo, để qua tình yêu này các Tông đồ làm chứng về một yêu trọng đại hơn: Đức Giêsu Kitô, và nhờ đó các Tông đồ đã hình thành được các cộng đoàn cứu độ được gọi là cộng đoàn đức tin và đức mến. Các Tông đồ đã thực hiện sứ mệnh cách chỉnh chu không ai có thể chê trách vào đâu được với hai bàn tay trắng không tiền bạc, không của cải, chỉ có gia sản duy nhất: sự bình an của Chúa Kitô.
Là người Kitô hữu, từng người chúng ta phải làm sao chiếm hữu được sự bình an mà Chúa Kitô ban tặng, làm sao chiếm hữu được điều đó nếu chúng ta không để Chúa Kitô ngự trị trong ta, bởi ngoài Chúa Kitô làm sao chúng ta có được bình an thật. Cách thế để chiếm hữu được Chúa chính là giữ lời Chúa, hay nói cách khác là thực thi điều Chúa dạy: yêu như Chúa yêu. Vâng, chỉ có yêu thương mới là con đường để Chúa bước tới với chúng ta, và chỉ có yêu như Chúa yêu mới có thể mang về cho chúng ta kho tàng của sự bình an đích thật, một sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Chính sự bình an này mang lại cho chúng ta nguồn hạnh phúc vô biên, nguồn hạnh púc có được xuất phát từ sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Đức thánh cha Benêđictô XVI trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã chỉ cho chúng ta cách thế để đạt tới bình an đích thật: “Trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Vượt qua dáng vẻ bên ngoài, tôi thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương, một cử chỉ quan tâm mà tôi cho họ, (số 18)
Lạy Chúa, thật là vô phúc cho chúng con nếu chúng con không có sự bình an mà Chúa đã tặng ban cho các môn đệ Chúa, bởi chúng con, qua bí tích rửa tội, được trở thành con cái của Chúa, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, cho nên chúng con xứng đáng được hưởng sự bình an đó. Điều đó cũng có nghĩa, chúng con phải làm sao xứng đáng với hồng ân đã lãnh nhận, tức là chúng con phải là những người tràn đầy ơn nghĩa của Chúa qua việc chúng con tuân giữ lời Chúa cách chỉnh chu, hay nói cách khác chúng con phải thể hiện tình yêu Chúa đúng với danh phận của chúng con, Amen.
Sống lời Đức Yêsu dạy, là điều rất quan trọng, vì điều đó giúp con người hạnh phúc. Thiên Chúa PS 6-C162
Sống lời Đức Yêsu dạy, là điều rất quan trọng, vì điều đó giúp con người hạnh phúc. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng làm tất cả vì yêu. Đức Yêsu đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài còn trong thế gian, thì Ngài yêu thương họ đến cùng. Ngài đã rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học phục vụ và yêu thương. Ngài yêu thương các môn đệ đến độ ban Mình Máu Thánh Ngài làm của ăn của uống nuôi những kẻ Ngài thương yêu. Ngài cũng dạy các môn đệ phải yêu thương nhau như chính Ngài yêu thương họ: các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con.
Tình yêu được thể hiện không chỉ bằng những lời nói dịu êm, nhưng chủ yếu bằng việc làm. Nếu chỉ nói yêu mà không có hành vi cụ thể đi với, e rằng đó không phải là tình yêu chân thực. Chính Đức Yêsu cũng nói: “Ai yêu mến thầy thì phải giữ lời thầy… Ai không yêu mến thầy thì không giữ lời thầy” (Ga.14, 23-24). Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị và là điều rất quan trọng để con người sống tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và con người được mời gọi để sống yêu thương như Thiên Chúa. Yêu thương là sống ơn gọi làm người, là nên thánh như Thiên Chúa muốn.
Yêu thương, là sống những gì Đức Yêsu đã dạy. Đức Yêsu đã dạy Thiên Chúa là Đấng quan phòng, Ngài yêu thương con người vô cùng, Ngài tha thứ cho con người như người cha trong dụ ngôn người cha nhân hậu, Ngài kiên nhẫn với người tội lỗi để chờ họ ăn năn sám hối, Ngài ban lương thực và cho mặt trời mọc lên cho cả người công chính cũng như người tội lỗi. Thiên Chúa muốn con người sống bình an hạnh phúc với Ngài. Tất cả những điều này, khi Đức Yêsu còn tại thế Ngài đã giảng dạy nhưng các tông đồ đã không nhớ trọn vẹn, phải nhờ Thánh Thần trợ giúp. Sau khi Đức Yêsu phục sinh, Ngài đã ban Thánh Thần cho các tông đồ.
Chính Thánh Thần đã giúp các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói với các tông đồ vì vào lúc đó các ông đã không hiểu và không nhớ nổi: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26). Chính vì nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói, mà các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Yêsu: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23).
Thánh Thần là Đấng dạy các tông đồ mọi sự, là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Yêsu. Thánh Thần cũng là Đấng được chính Đức Yêsu sai gởi tới khi Ngài ở bên Thiên Chúa Cha (Ga.15, 26). Nhờ Đức Yêsu Phục Sinh, chân tướng của Thánh Thần cũng được thấy rõ vì Ngài có cùng nguồn gốc với Chúa Yêsu Phục Sinh. Thánh Thần tùy thuộc vào Đức Yêsu Phục Sinh, cũng như Đức Yêsu luôn tùy thuộc Chúa Cha: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu đựng nổi. Khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến… Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga.16, 12-13.15).
Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha (Ga.15, 26) nhưng được Chúa Yêsu sai đến, sẽ làm chứng về Đức Yêsu. Không ai có thể tuyên xưng Đức Yêsu là Chúa mà không nhờ Thánh Thần (1Cor.12, 3). Con người cảm thấy mình bất lực không làm điều mình thấy là tốt: “điều tốt tôi biết mà tôi lại không làm, tôi lại làm điều tôi biết đó là xấu” (Rm.7, 15). Nhờ Thánh Thần con người có thể làm điều mình cảm thấy bất lực. Thánh Thần là Đấng luôn ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16). Thánh Thần không bao giờ rời xa chúng ta nữa.
Nhờ ơn Thánh Thần mà các tông đồ nhớ lại những gì Chúa Yêsu đã nói, mà các tông đồ nhận ra Chúa Cha, Chúa Yêsu và Thánh Thần liên hệ mật thiết với nhau. Ba Đấng luôn luôn quan tâm đến con người cách rất đặc biệt để giúp con người được sống hạnh phúc. Tác giả tin mừng theo thánh Yoan cho rằng, Ba Đấng này là một, vì “Cha và Ta là một” (Ga.10, 30), “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga.16, 15), “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại…” (Ga.16, 13).
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga.14, 27). Bình an của Đức Yêsu, không phải là không có chuyện gì xảy ra, nhưng là, cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, người môn đệ của Đức Yêsu vẫn cảm thấy an tâm vì biết rằng Thiên Chúa yêu thương mình, vì biết rằng mọi sự sẽ sinh lợi ích cho mình vì Thiên Chúa yêu thương mình. Biết Thiên Chúa yêu thương mình và sẽ làm tất cả thành tốt cho mình, sẽ làm những người tin vào Đức Yêsu Kitô được sống an bình trong mọi hoàn cảnh, ngay cả trong những tình huống mà người khác thấy là bi đát.
Đức Yêsu không phải là không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống. Chính Ngài đã bị tra tấn hành hạ, bị đóng đinh thập giá, cảm nhận nỗi tủi nhục của một người bị coi là người tội lỗi. Đức Yêsu cũng còn cảm thấy mình bị cô đơn. Các tông đồ bỏ Ngài, và thậm chí như thể Thiên Chúa cũng bỏ Ngài: “Lạy Cha, sao cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Tuy nhiên, Đức Yêsu sau cùng vẫn cảm thấy bình an vì Ngài phó thác tất cả cho Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”
Bình an và niềm vui của người Kitô hữu, là hồng ân mà Đức Yêsu ban qua Thánh Thần của Ngài. Chính Thánh Thần tha thứ tội lỗi cho con người, làm con người cảm nghiệm bình an và niềm vui, cùng giúp con người sống yêu thương nhau. Thánh Thần là hồng ân tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho con người. Một khi sống theo Thánh Thần, người ta sẽ bình an, vui, và yêu thương nhau như Đức Yêsu đã truyền dạy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao con người cảm thấy bất an? 2. Bình an mà Đức Yêsu ban tặng, là loại bình an gì, phải được hiểu như thế nào? 3. Đức Yêsu có được bình an không khi Ngài chết trên thập giá?
Ông nông dân bực mình vì gà nhà hàng xóm ngày nào cũng sang bươi vườn rau của ông. Ngày đêm PS 6-C163
Ông nông dân bực mình vì gà nhà hàng xóm ngày nào cũng sang bươi vườn rau của ông. Ngày đêm ông suy nghĩ tìm cách làm sao để gà hàng xóm không sang vườn nhà mình mà vẫn không mích lòng hàng xóm.
Ông mua 10 trứng gà rồi đem sang nhà hàng xóm có gà sang phá vườn nhà ông. Ông nói: tôi trả lại trứng do gà của ông bà đã sang vườn nhà tôi đẻ đấy!
Ngay chiều hôm ấy, không 1 con gà nào sang nhà ông nữa. Thì ra ông hàng xóm đã nhốt gà lại, sợ chúng qua vườn ông hàng xóm đẻ nữa.
Câu chuyện thứ hai
Một chàng trai trẻ đến xin bí quyết làm giàu của nhà triệu phú. Chẳng nói gì, ông triệu phú vô thẳng bếp xách ra 1 trái dưa hấu bổ làm 3 phần không bằng nhau hỏi chàng trai: nói về lợi ích nhất thì anh chọn miếng nào? Chàng trai lấy ngay phần dưa to nhất. ông triệu phú bình tĩnh lấy miếng nhỏ nhất ăn, xong lấy phần thứ hai ăn xong ngon lành trong khi chàng trai chưa ăn xong miếng to mình đã dành. Ông triệu phú cười nói: đây là bí quyết của tôi: đừng bị mê hoặc bởi cái lợi to nhất hay cái lợi trước mắt, nhưng hãy chọn nhiều cái lợi hơn là chọn cái lợi to nhất. Anh chọn cái lợi lớn nhất cũng không bằng tôi chọn nhiều cái lợi nhỏ. Bài học là đừng tham những cái lợi trước mắt mà không được những lợi rất đáng giá trong tương lai.
Hai câu chuyện trên cho ta bài học gì?
Đức Giêsu chuẩn bị xa các môn đệ để về cùng Cha. Ngài đã chuẩn bị cho các tông đồ điều quan trọng nhất là đón nhận Chúa Thánh Thần. Chỉ có nhờ Chúa Thánh Thần các ông mới có thể khôn ngoan và can đảm làm chứng về Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho đến tận cùng trái đất.
Phương pháp của Chúa Thánh Thần là dùng bác ái để ngăn cản sự xấu, sự ác, sự tham lam của con người.
Xin cho mỗi người chúng ta được đón nhận ơn khôn ngoan và sức mạnh Chúa Thánh Thần để trong cuộc sống thường ngày chúng ta biết lấy bác ái đối đãi với nhau trong gia đình ngoài xã hội. ‘Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau’
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần xin để biến đổi gia đình chúng con nên một gia đình bác ái khôn ngoan để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Amen.
Tin Mừng Ga 14: 23-29: Thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy.
Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ PS 6-C164
Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16, 7). Và Người làm đúng như lời Người đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi mở lòng mình để đón nhận một điều mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ không đem lại cho chúng ta.
Và ra thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.
Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”. Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”..
Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?
Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Giêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt 7, 21).
Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.
Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha. Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26).
Chúa Giêsu dạy ta biết có Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chúng ta: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23); lại có cả Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ cũng luôn hiện diện trong ta cùng với Chúa Cha và Chúa Con: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em"
Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa (c. 24) thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Họ không “biết” Chúa Giêsu vì đã khước từ sứ điệp của Ngài. Họ không thể “biết” Chúa Cha, nguồn sứ điệp này (3, 31-34; 5, 37-38; 7,16-17; 8,47; 12, 48-50). Ở đây, Giuda tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi của ông: chỉ biết được Chúa Giêsu nhờ đức tin (1, 9-12), Ngài chỉ tỏ mình ra cho những kẻ tin (14, 19).
Chúng ta có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng, ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó mà kiển chứng. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể ca tụng họ và nói tốt về họ. Thế nhưng, lời nói nhiều khi trở thành bôi bác và giả hình.
Tuy nhiên, có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Đức tin không việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết. Tình yêu không việc làm thì cũng chỉ là một tình yêu đã chết mà thôi. Chúng ta không thể chỉ cho người khác thấy một tình yêu không việc làm. Trái lại, căn cứ vào những việc làm, người ta sẽ đánh giá được tình yêu thương của chúng ta. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Ngài hơn cả, chính là tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm…
Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành lời Chúa. Thực hành lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.
Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên để soi sáng và sưởi ấm, đã cho mưa xuống để ruộng đồng được xanh tươi. Thế nhưng, muốn có được cơm gạo, bác nông phu đã phải làm lụng vất vả suốt ngày dưới ánh nắng gay gắt. Cũng vậy, để được Chúa yêu thương, chúc phúc và cứu độ, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, ít nữa bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, bởi vì chính Ngài đã xác quyết với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.
Đã lâu lắm rồi, cách riêng người Việt Nam không còn nghe súng đạn, không còn ngửi mùi thuốc PS 6-C165
Đã lâu lắm rồi, cách riêng người Việt Nam không còn nghe súng đạn, không còn ngửi mùi thuốc súng nữa thế nhưng thử hỏi con người có được sự bình an gọi là bình an bình thường hay không? Con người ngày mỗi ngày vẫn mong đi tìm sự bình an, đi tìm hạnh phúc của đời mình.
Cuộc sống của mỗi người là hạnh phúc hay khốn khổ tùy thuộc vào từng suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình. Có những ngày ta thấy thật phấn khởi hân hoan khi vừa mở mắt thức giấc, muốn cùng muôn tạo vật cất lời ngợi ca; và khi chiều tà, lòng ta đầy hạnh phúc khi cất lên lời tạ ơn. Nhưng … làm sao tránh được những đêm trường giăng mắc cả khi bình minh sáng chói. Nhìn đâu cũng thấy ảm đạm, chán chường bởi trong lòng ta mất niềm tin tưởng, cảm thấy bế tắc trước những khó khăn, những áp lực liên tục xảy đến. Ta cầu xin cho thời gian qua mau để đem đi nỗi buồn bực nhưng kết quả gần như ngược lại. Khi ấy, ta đã đánh mất bình an.
Bình an thật sự trong tâm hồn thật quý giá, vậy bạn có biết thế nào là bình an đích thực không? Bình an không có nghĩa là được thanh thản trong môi trường tuyệt vời, như ý muốn. Bình an đích thực là khi bạn cảm thấy lòng mình không lay động trong những rộn ràng, sóng gió cuộc đời! Bình an cũng không phải có ở một gia đình giàu có, sung túc, quyền lực cao sang ! Bình an không phải có nơi sở hữu một chiếc xe hạng sang hay có được những món đồ cao cấp.
Có một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.
Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình... Bình yên thật sự.
"Ta chấm bức tranh này! - Nhà vua công bố - Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên".
Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.
Bình an ấy ở đâu? Bình an ở có ở nơi tĩnh lặng thật sự mới có sự bình an! Nơi đó chỉ có ta tồn tại hữu hình. Và khi ta ý thức mình là cá thể độc nhất đang đối diện với Đấng Toàn Năng. Tâm ta sẽ mở rộng, phơi bày mọi thành công, thất bại, ưu cũng như khuyết điểm, vui buồn, lo lắng, … tóm chung, không có ai phải giấu giếm.
Từ đó, ta sẽ ý thức hơn về thân phận mỏng manh, bất toàn của mình, cảm thấy mình không là gì, không làm được gì và không chịu nổi bất cứ điều gì nếu không được Ơn trợ giúp. Nếu ta ý thức được điều này có nghĩa là ta đã biết được bình an rồi đó, ta biết nhận lấy bình an từ đâu rồi đó, vấn đề còn lại là ta có chịu mở lòng đón nhận hay không mà thôi!
Trang Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ.
Vì thế, Chúa Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.
Chúa Giêsu chính nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.
Bình an của Chúa chắc chắn không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Chúa Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình.
Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?
Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới.
Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn tín thác cuộc đời của chúng ta trong tay Chúa, trong sự hướng dẫn của Thần Khí để ta luôn luôn bước đi trong sự bình an nhờ có Chúa ở cùng.
Năm ngoái bay tới New York, tôi được một người bạn đưa đi thăm mấy bảo tàng viện. Đến khu PS 6-C166
Năm ngoái bay tới New York, tôi được một người bạn đưa đi thăm mấy bảo tàng viện. Đến khu trình bày các cổ vật miền Á châu, tôi cảm thấy như đi vào miền đất quen thuộc. Tới khu Việt nam, tôi càng cảm thấy lòng mình như ấm lại. Nhưng càng đi sâu vào nghệ thuật, tôi càng xa lạ với những điều anh bạn thao thao bất tuyệt giải thích. Tôi không có kiến thức về nhân chủng và khảo cổ học. Cái nhìn của tôi chỉ phớt qua trên mặt những cổ vật. Bao nhiêu nền văn minh nấp sau những báu vật đó không tỏa chút ánh sáng nào vào tâm trí tôi. Cổ vật trở thành vô nghĩa, vô hồn và không chút giá trị gì đối với một người “dốt đặc cán mai” như tôi.
ĐIỀU RĂN MỚI
Giới răn tình thương cũng chịu một số phận tương tự. Chúng ta đã nói về đức ái rất hay, nhưng có lẽ vẫn chưa hiểu hết ngọn nguồn sâu xa của đức ái. Có lẽ khi nghe Chúa công bố “điều răn mới,” một vài môn đệ hời hợt có thể có những nhận định tương tự như tôi trước cổ vật. Họ có lý khi thấy chẳng có gì mới nơi điều răn của Thày. Nói khác, họ chẳng thấy có giá trị nào đặc biệt nơi những điều Thày vừa trình bày. Họ đã nghe nhàm tai giới răn thương yêu. Từ Ngũ Kinh đến các ngôn sứ, họ đã thấy nhai đi nhai lại điều răn đó. Vậy thì mới ở chỗ nào?
Trước hết, giữa giới răn thương yêu và vinh quang Đức Kitô bên Chúa Cha có một mối liên kết. Tình yêu là phản ảnh Đức Kitô vinh quang, Đấng mang đến cho toàn thể vũ trụ một cái nhìn đặc biệt về tình yêu. Người trở thành con đường để con người đi lên với Thiên Chúa và Thiên Chúa xuống với con người. Tất cả sứ mệnh của Người có thể tóm gọn trong lời ngôn sứ Isaia 61:1-2: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4:18-19) Khi xuống trần gian, Đức Giêsu nhắm làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Vinh quang Thiên Chúa là con người được hạnh phúc. Vinh quang chỉ đến khi con người thực sự trở thành con người. Chính vì thế, Người quyết tâm hồi phục địa vị cao cả của con người trên vũ trụ.
Hơn nữa, tình yêu đưa con người vào cảnh “trời mới đất mới.” Nơi đó Thiên Chúa và dân Người hiệp nhất trong một tình yêu tuyệt vời. Đây là một thời gian vui tươi và hạnh phúc vô tận. Cảnh tượng này thực sự phản ánh một lối nhìn về sự hoàn thành thời đại cánh chung mới, đã khai trương nơi cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Khi vùng dậy từ cõi chết, Người hoàn toàn thay đổi các mãnh lực của trời đất. Tình yêu thay đổi hoàn toàn vạn vật. Bởi đấy, Người căn dặn môn đệ: “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34) Ở đây, Người cố ý nói tớiagape, một thứ tình yêu đòi hỏi phải hoàn toàn tín thác và trông cậy. Đó chính là tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, một tình yêu gương mẫu cho chúng ta yêu tha nhân. Khi xét đến những đòi hỏi của tình yêu này, chúng ta mới thấy mức độ cách mạng của giới răn thương yêu như thế nào và nó đòi phải thay đổi thái độ tới mức nào.
Sau cùng, đức ái phải luôn đi kèm với công lý. Dù hết sức tìm cách giải cứu người phụ nữ ngoại tình, Đức Giêsu không bao giờ bao che tội lỗi cho cô. Nếu hôm đó, Chúa chỉ nghĩ đến việc thực thi đức ái hay tỏ lòng từ bi mà thôi, chắc chắn công lý đã bị coi thường. Cô sẽ trở về tiếp tục cuộc sống ô nhục. Phẩm giá không được phục hồi. May mắn thay Chúa đã nghiêm chỉnh đòi hỏi công lý nơi chính cô khi nói: “Cô hãy về và đừng phạm tội nữa.” Nhờ đó, Chúa đã tạo được sự quân bình và nền tảng cho đức ái. Nói khác, Chúa đòi hỏi cô phải giữ nhân đức “công bình xã hội.” Đây là một nhân đức cá nhân, chứ không phải là đặc tính của những hệ thống xã hội, như người Do thái hay hầu hết mọi người vẫn tưởng. Người Do thái gào thét đòi ném đá cô để thực thi công bình xã hội như luật Môsê đòi hỏi. Họ xử dụng “công bình xã hội” như một nguyên tắc quy định trật tự xã hội. Họ chú trọng tới quyền lực, chứ không phải nhân đức.[1]
Không có công lý, đức ái dễ khiến con người mù quáng. Rõ ràng tình yêu phải đi kèm với công lý. Nếu không, bác ái có thể tiếp tay với chế độ trù dập con người. Chính công lý đã vực cô dậy. Đức ái phải đi kèm công lý mới trả lại phẩm giá cho con người. Khác hẳn Chúa, đa số ngày nay Kitô hữu chỉ lo làm việc bác ái, bất kể công lý. Không có điều kiện công lý đi kèm, hoạt động bác ái chỉ lấp đầy bao tử, bất chấp tiếng gào thét của lương tâm. Đó là lý do tại sao con người vẫn không ngóc đầu lên làm người được! Con người có gì khác con vật?!
Nhưng địa vị con người cao cả hơn vũ trụ. Theo thánh Phaolô, con người là Đền Thờ Thiên Chúa. Khi vào Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã đánh đuổi con buôn như biểu lộ sự quyết liệt tranh đấu chống lại bất công đối với Đền thờ Thiên Chúa hay con người. Đó là một việc làm vô cùng ý nghĩa không phải chỉ cho thân xác Người, nhưng cho cả phẩm giá con người nữa. Sự giận dữ của Người cũng bắt nguồn từ một loại tình yêu – tình yêu đối với Chúa Cha và với Nhà Cha. Khi sự thánh thiện và uy nghi của Chúa Cha hay Nhà Cha bị đe dọa hay coi thường, chắc chắn Đức Giêsu phản ứng mãnh liệt. Thái độ nhiệt tình đối với Đền Thờ Thiên Chúa đã làm hao mòn thân xác Người. Sở dĩ phải tỏ thái độ quyết liệt, vì Người muốn tranh đấu để tái lập sự công bình và phục hồi giá trị đích thực cho Đền Thờ. Chúng ta có thể thấy tất cả nỗ lực giành lại công lý cho Thiên Chúa và con người nơi Đức Giêsu ở đây.
NƯỚC THIÊN CHÚA
Kitô hữu được kêu gọi xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian. Sứ mệnh cao cả không thể hoàn thành, nếu họ không biết Nước Thiên Chúa là gì. Thánh Phaolô xác định rất rõ: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Trong thực tế, chúng ta làm ngược lại. Những việc bác ái, đóng góp từ xưa tới nay xoay quanh vấn đề gì? Từ trong nước đến hải ngoại, chúng ta thi đua nhau đóng góp cho chuyện ăn chuyện uống chuyện xây nhà thờ, xây tòa giám mục v.v., chứ không hề băn khoăn về “sự công chính” một chút nào cả. Có những tòa giám mục sang trọng như ốc đảo trù phú xa hoa giữa một đại dương nghèo đói, tràn ngập các nạn nhân của chế độ bất công.
Thay vì trở thành những trung tâm rao giảng Tin Mừng, nhiều nhà thờ và cơ sở giáo hội hôm nay đang phát ra những phản chứng. Làm sao những giá trị Tin Mừng có thể xâm nhập vào văn hóa và xã hội từ những phản chứng đó?! Lỗi đó tại ai? Kitô hữu có thể phủi tay trước tình trạng tha hóa đó của dân tộc không? Không phải chỉ có những việc xấu xa đã gây nên nông nỗi. Nhưng nếu không kèm theo công lý, ngay cả việc tốt, như công cuộc bác ái, cũng có thể gây những hậu quả xấu khôn lường.
Từ nay, bác ái phải có điều kiện. Điều kiện đây là “công bình xã hội.” Chắc chắn có người phản hồi: bác ái có điều kiện không còn phải là bác ái nữa. Thực ra, điều kiện kèm theo đó không đánh mất bản chất công cuộc bác ái, vì nhằm đem lại lợi ích cho chính những người nghèo. Không có điều kiện đó, việc bác ái trở thành vô ích và không thể nâng người nghèo trỗi dậy.
Trước hết, cần phải hiểu đúng nhân đức “công bình xã hội.” “Công bình xã hội cần phải chiếm địa vị ưu tiên trong sự quan tâm của mọi người. “Nếu hiểu đúng nghĩa, “công bình xã hội” là một nhân đức đặc biệt có tính “xã hội” theo hai chiều hướng. Thứ nhất, “công bình xã hội” đòi phải có tài đưa ra sáng kiến, hợp tác và quy tụ người khác thành tổ chức để hoàn thành tác vụ công bình. Hoạt động này đòi phải được thực hiện với người khác. Đó là lý do tại sao nó được gọi là một loại đặc biệt của đức công bình. Thứ hai, “công bình xã hội” luôn nhắm tới công ích, chứ không nhắm lợi ích của một tác nhân mà thôi. Nhân đức công bình có tính “xã hội”, vì mục tiêu đầu tiên nhằm giúp đỡ tha nhân.”[2]
Bất cứ một sự trợ giúp nào cũng phải nhằm xây dựng một xã hội công bình. Một xã hội đầy dẫy bất công làm sao tạo nên sự công chính cần thiết cho việc xây dựng Nước Trời? Chúng ta vẫn kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ chỉ giao thương với Việt nam nếu chấm dứt cảnh đàn áp bất công và vi phạm nhân quyền. Nhưng chính chúng ta lại tiếp tục gởi tiền về giúp đỡ Việt nam một cách vô tội vạ, không cần biết đồng tiền đi tới đâu và làm những gì. Có thể nhiều người nhân danh sự nghèo đói và người nghèo để khai thác bất chính. Nhiều khi chúng ta “giao trứng cho ác” mà không hay biết.
Đã có những trường hợp bị lừa đảo. Sau khi đi một vòng khắp các cộng đoàn Việt nam ở Hoa kỳ xin tiền trợ giúp đồng bào nghèo hay xây nhà thờ, có những giáo sĩ sắm những xe hơi đời mới hay những biệt thự lộng lẫy. Tuy vậy, không nên vì những cá nhân lạm dụng đó mà chúng ta dẹp bỏ việc bác ái đối với đồng bào.
Từ trước tới nay, chúng ta làm việc bác ái một cách vô tổ chức. Tất cả đều tùy thuộc vào tình cảm hay niềm tin vào một người hay một tổ chức bác ái v.v. Đã đến lúc chúng ta cần sát cánh để tạo một sức mạnh thực sự giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than, nghèo đói. Không những cần tổ chức quy mô để tránh lạm dụng, lãng phí, mà còn giúp ích cho nhiều người một cách hữu hiệu hơn. Hơn nữa, còn phải có một tầm nhìn để khám phá những nhu cầu thực sự của những người nghèo.
Từ nay, thay vì giao tiền cho một người trợ giúp người nghèo, chúng ta hãy cố gắng mở ra những quỹ tín dụng giúp vốn và kỹ thuật cho người nghèo tự nuôi thân. Nói khác, giúp cho họ có cần câu và kỹ thuật câu còn quan trọng và cần thiết hơn cung cấp những con cá qua bữa. Mỗi giáo xứ hay mỗi nhà dòng ở Việt nam có thể trở thành những nơi cung cấp vốn cho những người nghèo, bất phân lương giáo. Quỹ tín dụng được xây dựng trên niềm tin. Còn chỗ nào đáng tin bằng Nhà Chúa? Nhà Chúa không đồng nghĩa với nhà xứ hay nhà dòng. Nhà Chúa phải theo đúng tiêu chuẩn Tin Mừng và chiều hướng Giáo Hội. Bởi thế, cần có những cơ quan giám sát để kiểm tra con người và cơ sở trước khi giao phó công cuộc tín dụng đó. Ngay cả trong khi hoạt động vẫn cần đến sự kiểm soát này. Về vấn đề này, các chuyên viên ngân hàng nên tình nguyện tham gia giúp đỡ cộng đồng trong công cuộc bác ái theo chiều hướng mới.
Nhưng trên hết vẫn là việc nâng cao ý thức giáo dân về công lý. Cho tới nay, hầu như người Công giáo không hay biết gì về học thuyết xã hội của Giáo hội. Đó là một thiếu sót rất lớn. Kitô giáo là một Đạo nhập thể. Theo Đức Kitô, không thể không dấn thân. Nếu chỉ thỏa mãn với những giáo lý về bí tích, phụng vụ và những tổ chức đình đám trong khuôn viên nhà thờ, chắc chắn Kitô hữu vẫn còn “nhốt” Chúa ở trên trời. Sống đạo như thế là sống nửa vời. Không thể yên lương tâm với lối sống đạo như thế.
Khi thấy được bản chất Nước Thiên Chúa, người Công giáo không thể ngồi yên nhìn cảnh bất công đang xảy ra dầy dẫy chung quanh. Không có công bình cũng chẳng có bác ái thực sự. Ý thức về công bình sẽ mở rộng tầm nhìn của Kitô hữu về trách nhiệm và quyền lợi của một người công dân trong nước trần gian và Nước Chúa. Đó là điều kiện căn bản để bảo đảm công ích. Trước tiên, muốn “nhìn nhận và tôn trọng nhân phẩm phải bênh vực và cổ động nhân quyền cơ bản và bất khả nhượng.”[3] Nhân quyền không chỉ có ngoài xã hội. Ngay cả trong Giáo hội, nhân quyền cũng phải được quyền bính tôn trọng. Nếu không, xã hội cũng như Giáo hội không thể đạt tới công ích. Đừng tưởng kế hoạch ngũ niên hay những phương tiện sản xuất sẽ quyết định sự thành công. Yếu tố chính vẫn là con người.
Đúng như Chúa nói: “Con người sinh ra không phải vì lề luật,” cơ chế, hay tổ chức. Nhưng tất cả đều phải phục vụ con người. Bởi thế, công bình xã hội cũng phải lấy con người làm gốc. Không gì có thể thay thế con người. Thực tế, “ngoài đời chủ trương công bình xã hội không đòi những con người nhân đức, chỉ cần có những chương trình hoàn hảo. Theo Giáo hội, công bình xã hội là nhân đức cá nhân; ngoài đời cho rằng công bình xã hội là một thành quả chính trị. Giáo hội tin con người lương thiện sẽ làm cho chương trình xã hội tốt đẹp; ngoài đời tin rằng những chương trình xã hội tốt đẹp sẽ làm cho con người lương thiện. Giáo hội và ngoài đời có rất ít điểm giống nhau về công bình xã hội.”[4] Nếu cứ tiếp tục chà đạp nhân phẩm hay không tôn trọng nhân quyền, tất cả mọi guồng máy, tổ chức, cơ chế sẽ nếm mùi thất bại thê thảm.
Bởi vậy, không những phải nhìn nhận quyền làm người, nhưng còn phải lo đào luyện cho con người có nhân đức. Nhân đức đó trước tiên là công bình xã hội. Thật vậy, “công bình xã hội là một nhân đức, một thuộc tính của các cá nhân. Nếu không, đó chỉ là một sự dối trá. Nếu Tocqueville có lý khi nói nguyên tắc liên đới là luật lệ đầu tiên của nền dân chủ, thì công bình xã hội là đức tính đầu tiên của dân chủ, vì người ta thường thực hành nguyên tắc liên kết như thế trong cuộc sống hằng ngày.”[5] Chính vì thiếu đức tính căn bản đó, nên xã hội Việt nam đầy dẫy những con người thiếu khả năng xây dựng dân chủ. Cuối cùng, con người mất hạnh phúc. Tự do chỉ còn là cái bánh vẽ. Nhân quyền trở thành ảo mộng.
VÀO ĐỜI
Vậy những ai đang mất quyền làm người hôm nay? Trước hết, đó là những người nghèo khổ, người tù vì lương tâm, vì tranh đấu cho nhân quyền, tự do tôn giáo, các người thiểu số, những trẻ em không được cắp sách đến trường, những người bệnh tật, già nua, những người bị cướp đất, những công nhân và nông dân bị ức hiếp, những cô gái phải bán mình v.v. Tất cả đều là con đẻ của chế độ bất công, không biết tôn trọng nhân quyền. Quyền lợi của phe nhóm vượt trên tất cả mọi quyền lợi người dân. Chính vì sự chênh lệch ấy, nhiều người đã mất cơ hội để phục vụ đất nước và Giáo hội. Trật tự xã hội bị xáo trộn vì thứ tự các giá trị bị đảo lộn.
Trước tình thế đó, đáng lẽ các Kitô hữu phải tích cực tố cáo những tệ trạng và can đảm đứng lên đòi hỏi quyền làm người. Nhưng giáo dân quá thụ động, hoàn toàn lệ thuộc vào hàng giáo phẩm, trong khi họ có quyền tham gia và sinh hoạt chính trị. Nếu cứ thụ động như thế, họ sẽ thất vọng. Các GMVN hiện nay hơi khó hiểu cho nhiều người... Chỉ cần nhìn sang hàng giám mục ở Phillippines và Nam Hàn, họ sẽ thấy nhiều điều cần suy nghĩ. Nhìn sang Phillippines, ai cũng thấy tấm gương anh dũng của ĐHY Jaime Sin, người đã từng kêu gọi dân chúng xuống đường lật đổ TT Marcos. Bên Phi châu, các giám mục tại các nước Mali và Nigeria đang kêu gọi và hướng dẫn dân chúng xử dụng quyền bầu cử để chọn những vị lãnh đạo xứng đáng trong một thể chế dân chủ và tự do. Họ còn dám lên tiếng phê bình những ứng viên có những lời hứa thiếu nền tảng thực tế.
Trong cuộctiếp kiến các Đức Giám Mục Venezuela viếng thăm Tòa Thánh vào hôm thứ Sáu 27/4, Đức Thánh Cha đã bày tỏ quan ngại sâu xa của ngài về tình trạng nhân quyền tại Venezuela và những dấu hiệu cụ thể về hiện tượng lạm dụng quyền lực tại quốc gia này. Đức Thánh Cha nói Giáo Hội không thể không bảo vệ phẩm giá con người, và do đó cần có tự do để trình bày công khai ý kiến của mình trước công chúng. Đức Tổng Giám Mục Roberto Luckert, phó chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Venezuela cho biết: “Trong suốt buổi tiếp kiến chúng tôi đã trình bày cho ngài về những vấn đề chúng tôi đang gặp phải trong việc giáo dục giới trẻ, tình trạng thiếu an ninh, và sự chà đạp nhân quyền trong nước.[6]
Tại Việt nam, tình trạng đàn áp nhân quyền gấp nhiều lần Venezuela. Nhưng các GMVN có dám trình bày tất cả cho ĐGH như các GM Venezuela không? Nhiều người cho rằng phải đặt mình trong hoàn cảnh Việt nam mới có thể thông cảm với các GMVN. Hoàn cảnh Việt nam khó lắm! Vâng, đúng thế. Hoàn cảnh Venezuela hay các nước Phi châu cũng không dễ tí nào đâu!
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả Anh hùng hào kiệt có hơn ai?! (Phan Bội Châu)
Lạy Chúa, xin nhìn đến quê hương yêu dấu của chúng con! Xin cho GHVN luôn đồng hành với dân tộc đau khổ. Xin cho giới lãnh đạo GHVN thoát ra khỏi những tiện nghi và chấp nhận đau khổ với dân chúng. Xin đừng để tinh thần hèn nhát mãi thống trị tâm hồn chúng con. Nhưng xin Chúa sai Thánh Linh ban ơn can đảm và mạnh bạo cho chúng con. Amen.
--------------------------------- [1]x. Novak, Michael “Defining Social Justice.”First Things108 (December 2000): 11-13. [2]Sđd. [3]Yếu Lược Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 388. [4]DeMarco, Donald. "The Virtue of Social Justice." Lay Witness. [5]Sđd. [6]VietCatholicNews 01/05/2007.
Chuẩn bị mừng lễ Thăng Thiên, Phụng vụ cho chúng ta nghe những lời tâm sự của Chúa Giêsu với PS 6-C167
Chuẩn bị mừng lễ Thăng Thiên, Phụng vụ cho chúng ta nghe những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ vào cuối bữa tiệc ly. Đây là những di ngôn của một người Thày đối với các môn sinh, là những người từng bao năm gắn bó và chia sẻ ngọt bùi. Những lời này đã làm nên tôn chỉ cốt lõi của cộng đoàn tín hữu sau này. Di ngôn của Chúa không phức tạp dài dòng, chỉ vỏn vẹn mấy câu cốt lõi: Hãy giữ lời Thày. Hãy yêu mến nhau. Hãy an tâm, đừng xao xuyến. Những lời này đã đem lại sức mạnh và nghị lực thiêng liêng cho các môn đệ vào thời Giáo Hội sơ khai, cho các tín hữu suốt bề dày hai mươi thế kỷ và cho chúng ta hôm nay.
“Hãy giữ lời Thày!”. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa nói câu này. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lời mời gọi thường xuyên trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Chúa đã so sánh ai nghe và tuân giữ Lời Chúa giống như xây nhà trên đá, luôn vững bền trước mọi phong ba bão táp của cuộc đời. Nhờ xây dựng đời mình trên Lời Chúa, mà các thánh đạt tới mức hoàn thiện ngay khi còn sống ở đời này. Lời Chúa vừa ngọt ngào ban niềm vui, nhưng Lời Chúa cũng như “thuốc đắng dã tật”, sửa phạt khi chúng ta lầm lỗi. Lời Chúa không để cho chúng ta ngủ yên trong vỏ bọc ích kỷ của cái tôi tầm thường nhỏ mọn, nhưng mở rộng tâm hồn để đến với tha nhân. Đức Maria là một mẫu gương cho chúng ta về việc tuân giữ Lời Chúa. Thánh Luca ghi lại, khi Mẹ chứng kiến vui buồn xảy đến với Đức Giêsu, Mẹ ghi nhớ và suy niệm trong lòng (x. Lc 2051). Giữ lời Thày là bằng chứng hùng hồn của tình yêu dành cho Thày.
“Hãy yêu mến nhau!”. Yêu mến là cốt lõi giáo huấn Kitô giáo. Đây cũng là lời mời gọi thường xuyên của Chúa Giêsu. Có thể nói lời mời gọi yêu thương trải dài trên từng trang của Tin Mừng. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, mà chính Người làm gương cho các môn đệ. Người đã rửa chân cho các ông vào cuối bữa tiệc ly. Đây vừa là cử chỉ yêu thương đối với các ông, vừa là một gương mẫu sống động để qua đó, Người khẳng định với các ông: yêu thương và phục vụ đi đôi với nhau. Ngay từ khi Tin Mừng được loan báo trên quê hương Việt Nam chúng ta, những người lương dân chưa biết danh xưng của tôn giáo mới có nhiều người theo. Họ căn cứ vào những gì người Công giáo làm hằng ngày mà gọi Đạo Công giáo là “Đạo Yêu Thương”. Tiếc rằng trong cuộc sống hôm nay, hai từ yêu thương có nguy cơ trở thành câu khẩu hiệu và lý thuyết vô hồn. Đây đó tại một số nơi, trong các bài phát biểu, các bài viết, người ta nói đến yêu thương như một công thức, còn trong thực tế thì ngược lại. Tình trạng xung đột, chia rẽ và khép kín của một số cộng đoàn đã làm biến dạng hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô.
“Hãy an tâm, đừng xao xuyến!”. Giữa bối cảnh xã hội đầy bất an hôm nay, lời khuyên hãy an tâm dễ bị hiểu như một sự trấn an giả tạo nhằm ru ngủ người nghe. Tuy vậy, nếu chúng ta có niềm xác tín nơi tình yêu của Chúa, tin Ngài là Đấng dẫn dắt cuộc đời chúng ta, thì làm sao chúng ta còn lo lắng buồn phiền. Bởi lẽ, lo lắng cũng không làm cho cuộc sống của chúng ta kéo dài thêm, dù chỉ một gang tay (x. Mt 6, 27). Nếu chúng ta có thể an tâm, là vì chúng ta có ơn Chúa Thánh Thần. Ngài luôn hoạt động trong Giáo Hội để hướng dẫn Giáo Hội trong cuộc lữ hành trần gian. Bài đọc I kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử, đó là Công đồng đầu tiên của Kitô giáo, được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 46 sau Công nguyên. Các tông đồ đã ý thức trách nhiệm của mình trước những ý kiến dư luận trái ngược nhau về những thực hành trong Đạo Do Thái như cắt bì, ăn thịt cúng, tuân giữ Luật ông Môisen… “Văn kiện” đúc kết của Công đồng rất đơn sơ, nhưng nêu rõ “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”. Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn suốt bề dày của lịch sử, giữa những thăng trầm thử thách. Cũng trong những di ngôn, Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Chúa Thánh Thần vừa bảo trợ Giáo Hội, vừa soi sáng cho Giáo Hội nhớ lại giáo huấn của Chúa Giêsu, để luôn thực hành những gì Chúa đã chỉ dạy.
“Hãy giữ lời Thày. Hãy yêu mến nhau. Hãy an tâm, đừng xao xuyến”. Khi thực hiện những lời khuyên này, chúng ta cảm nhận sâu xa sự hiện diện của Chúa Giêsu, mặc dù Người đã về trời. Xác tín vào sự hiện diện và tình yêu thương của Chúa, tuy còn sống ở trần gian, chúng ta đã được hưởng hạnh phúc tương lai. Trong một thị kiến, Thánh Gioan tông đồ đã thấy những hình ảnh về Giêrusalem (Bài đọc II). Đây là một cách diễn tả hạnh phúc thiên đàng, ở đó, tình yêu, an bình và chân lý sẽ ngự trị. Không còn gian dối và mưu mô. Không còn những toan tính vụ lợi trần tục, nhưng tất cả đều được vinh quang Thiên Chúa bao trùm trong một nghi lễ phụng vụ thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và niềm vui.
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Hãy nghe những lời tâm huyết của Chúa. Đó là di ngôn của người sắp đi xa. Yêu mến Thày là cội nguồn của bình an và là bảo đảm của hạnh phúc hôm nay cũng như suốt đời.
Hoa trái của Chúa Thánh Thần là bình an, hoan lạc. Bình an Thánh Phao lô nói tới không như thế PS 6-C168
Hoa trái của Chúa Thánh Thần là bình an, hoan lạc. Bình an Thánh Phao lô nói tới không như thế gian ban tặng, bình an đó chính là Chúa Kitô ngự trong tâm hồn. Có hai điều chia sẻ: Thoát khỏi sợ hãi từ thư Thánh Phê rô và kinh nghiệm về Thiên Chúa tình yêu của Thánh nữ Teresa d’ Avila.
Thoát khỏi sợ hãi.
Một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần là ơn can đảm. Thường chỉ biết cách chung là can đảm để chống lại sợ hãi. Không hẳn như vậy! Nhiều người cho thấy, chống lại những sai lầm của mình thường không thành công. Do nhiều dấu chứng thừa kế “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 Pet 18).
Tự mình thoát khỏi những ràng buộc của tội lỗi thì rất khó. Thi hào R. Tagore cũng đã viết về tấm khăn liệm cuộc đời mà cứ muốn ôm lấy. “Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ… Vải liệm bao thân tôi là khăn liệm bụi bậm và chết chóc; tôi ghét vô cùng, ấy thế mà vẫn cứ yêu thương ôm vào lòng.” (bài số 28, Lời Dâng, R. Tagore).
Có biết bao điều thừa kế từ những thế hệ trước, dù tốt nhưng không còn phù hợp với những gì đang xảy ra nữa, cũng là những trở ngại. Chẳng hạn như các khuyến dụ xưa về tội lỗi là mất linh hồn, là chết đời đời, cần xa lánh tội lỗi. Sống đối phó, tránh né, cố gắng ép mình khỏi sa vào tội, cuối cùng vẫn làm rối tung cuộc sống. Có quá nhiều cám dỗ hơn xưa, không thể bịt mắt, bịt tai, không nghĩ và không làm. Một chuỗi rắc rối khi cứ tự mình loay hoay ra khỏi sự dữ bao quanh. Cần Có Chúa!
Thánh Phê rô viết thêm để ý thức: “anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô.” (1Pet 19). Thánh Phêrô đã kinh nghiệm về ơn giải thoát do chính Chúa Giê su thực hiện cho ngài ở bờ hồ Tiberia. Chúa biết rõ con người của ta, Chúa yêu thương ta như chính ta là và mỗi người đều rất quan trọng với Chúa. Chúa hiện ra với Phê rô sau mẻ cá đầy, và Chúa muốn Phê rô xác định một điều: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 15). Chỉ cần một câu trả lời xác tín: “Chúa biết, con yêu mến Chúa”. Bấy nhiêu thôi, cứ lập đi lập lại nhiều lần trong ngày, trong lời cầu nguyện, những điều khác Chúa cứu chữa và giải thoát khỏi ràng buộc.
Tự do trong Chúa. Chúa Giê su dạy ta cầu nguyện luôn, Chúa Thánh Thần kêu cầu cho ta, tháp nhập ta vào trong Chúa Giê su, ta được kêu lên: “Abba, Cha ơi” (Gl 4, 6). Trong Chúa Thánh Thần, ta được biến đổi, được giáo hoá, được chữa lành, cho ta được giải thoát khỏi ràng buộc. Như trong ngày lễ ngũ tuần, Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Không còn sợ hãi, các môn đệ ra khỏi phòng đóng kín, ra đi loan báo Tin Mừng giải thoát.
Kinh nghiệm về tình yêu
Chúa Thánh Thần là Đấng tình yêu, nối kết Chúa Cha và Chúa Con, nối kết con người với Chúa Giê su. Là Đấng đưa con người vào trong huyền nhiệm Tình Yêu. Trong Tình Yêu không còn sợ hãi, ta được tự do.
Tình yêu Chúa thể hiện là chết cho người mình yêu, và tình yêu biểu lộ trong trái tim bị đâm thâu, rộng mở. “Họ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Chiêm ngắm Trái Tim bị đâm thâu, ta cũng được Tình yêu giải thoát khỏi vũng lầy của ta, như kinh nghiệm của viên đội trưởng hành hình, quỳ gối, ngả mũ trước Đấng họ đã đóng đinh và treo trên thập giá (Lc 23, 47).
Thánh nữ Teresa d’ Avila kinh nghiệm về tình yêu đã giải thoát ngài khỏi âu lo, sợ hãi. Trong một lần đang cầu nguyện, thánh nữ nghe thấy như Chúa Giê su đang nói với ngài và ngài nghiệm thấy: “Ngay lúc Chúa Giê su bằng một lời trấn an tôi, tôi thấy tức khắc một bình an lạ lùng, đầy tin tưởng không chút lo sợ. Y như Chúa luôn đang ở đó… Tôi không nhìn thấy gương mặt Ngài, nhưng luôn ý thức Ngài đang đi bên cạnh tôi và chứng kiến hết mọi hành động và thiếu sót của tôi”.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa hằng ngày trong đời sống cầu nguyện, giúp ta vượt qua được những quá khứ chẳng êm đẹp gì, Thánh Phê rô khuyên dạy: “ Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1Pet, 5, 7 – 8). Thánh Phao lô thì khuyên dạy: “Quên đi quá khứ mà lao mình về phía trước” (Pl 3, 13). Phía trước ấy chính là lòng thương xót của Chúa, lao vào vòng tay của Chúa, như người con hoang đàng trở về trong tình yêu.
Bình an, không còn điều gì có thể làm lo sợ. Hoan lạc, không còn niềm vui nào khác ngoài niềm vui trong Chúa. Tất cả điều đó, Chúa Thánh Thần ban chính Chúa Giê su cư ngụ trong tâm hồn là nguồn mạch để được sống và sống dồi dào.
Tình yêu hoa trái an bình, Cha Thầy thương mến, hết tình trao ban. Hiến thân Con Một thiên nhan, PS 6-C169
Tình yêu hoa trái an bình, Cha Thầy thương mến, hết tình trao ban. Hiến thân Con Một thiên nhan, Hy sinh thập giá, chứa chan ân tình. Dấn thân chịu chết khổ hình, Ba ngày sống lại, thiên linh rạng ngời. Yêu thương tha thứ tội đời, Giới răn trọng đại, giữ lời Thầy luôn. Hết lòng yêu mến suy tôn, Yêu Thầy mến Chúa, dủ hồn ái nhân. Xin ban Phù Trợ Thánh Thần, Nguồn ơn chân lý, canh tân lòng người. Bình an để lại cho đời, Kiên tâm bền chí, trong thời khó khăn, Lòng đừng xao xuyến băn khoăn, Cũng đừng sợ hãi, người săn kẻ dòm. Thánh Thần gìn giữ trông nom, Qui về một mối, tụ gom một nhà. Vui mừng phấn khởi trong Cha, Ngày Thầy trở lại, bao là dấu yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Nói về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu thì luôn mới và bao la như biển cả, cao siêu như mây trời, sưởi ấm như mặt trời và vằng vặc như mặt trăng. Bài Phúc âm hôm nay tiếp tục đến tình yêu. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Chúa Giêsu chuẩn bị từ giã các Tông đồ để về cùng Chúa Cha. Chúa đã truyền lại giới răn yêu thương. Đây là lời trăn trối thân thương nhất, yêu Chúa và yêu tha nhân.
Tình yêu của Chúa được thể hiện qua tình bác ái đối với tha nhân. Yêu thương mọi người, yêu gia đình, yêu tha nhân và yêu cả kẻ thù. Mỗi câu truyện tình yêu trong đời sống đều phản ánh tình yêu của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đi hết nội dung của yêu thương. Vì yêu, Chúa hạ xuống thấp tận cùng để nâng loài người lên và cho chúng ta làm con Chúa. Vì yêu, Chúa đã hiến thân làm của lễ đền tội và lập Bí Tích Thánh Thể để dưỡng nuôi và ở lại với chúng ta. Vì yêu, Ngài đã chết nhục hình và đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ chúng ta. Không còn tình yêu nào cao qúi hơn nữa.
Truyện kể: Có một bà mẹ 57 tuổi bị hư thận và xơ gan. Bà ở trong tình trạng nguy hiểm tính mạng. Mặc dù chịu đau đớn, bà từ chối đề nghị của bác sĩ ghép gan và thận do hai người con hiến tặng. Các con thương mẹ, không muốn mẹ chết khi còn trẻ. Sau nhiều ngày điều trị và qua sự thuyết phục của hai con. Hai người con sẵn sàng hiến tặng mẹ, một người hiến nửa lá gan, một người hiến một trái thận. Người mẹ chấp nhận và cuộc giải phẫu diễn ra tốt đẹp. Năm tháng sau, cả ba người hồi phục nhanh chóng. Đây là trường hợp cho và nhận đầu tiên từ hai người con Rosario và Jose tại Tiểu Bang California. Mẹ đã cho các con ra đời. Các con biếu lại mẹ cơ quan để sống còn. Tình mẹ, tình con hiến tặng và hy sinh cho nhau.
Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài đã cho tất cả và còn hứa ban Thần Chân Lý đến để phù trợ và dẫn dắt các ngài đi trong sự thật. Sau cùng Chúa đã ban sự bình an đích thực trong tâm hồn các môn đệ. Xin sự bình an của Chúa ở lại trong tâm hồn chúng con để chúng con cùng chia xẻ niềm vui và sự bình an của Chúa tới mọi người.
Đến và ở lại với ai bằng cả trái tim là điều làm cho tương quan của ta với người ấy thêm gắn kết PS 6-C170
Đến và ở lại với ai bằng cả trái tim là điều làm cho tương quan của ta với người ấy thêm gắn kết. Chỉ khi đến và ở lại như thế, ta mới có cơ hội sống sự hiện diện trọn vẹn. Khi yêu Chúa, người tín hữu sẽ giữ Lời Chúa dạy và nhận được bình an đích thực. Chính Thiên Chúa hiện diện và làm cho những ai yêu mến Người được lớn lên trong hạnh phúc.
Thầy Giêsu đã khẳng định: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14,23). Thầy Giêsu đã yêu những “người con bé nhỏ” và ban Lời của Ngài để họ tiến gần hơn đến tình yêu Thiên Chúa. Giữ Lời của Thầy là giữ giao ước tình yêu với Thầy. Ở trong tình yêu của Chúa, ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Ở trong sự hiện diện của Chúa, ta được sống trong ta vì Thiên Chúa ở trong ta. Ta không thể sống trong ta nếu ta không sống trong sự hiện diện của Chúa. Bởi vì Thiên Chúa làm cho ta nhận biết ta là ai, ta thuộc về ai, ta đang có sứ mạng gì. Dù ta đang vui vẻ, hạnh phúc hay đau khổ, bối rối hay khó khăn, dù ta đang tốt hơn hay xấu đi, ta vẫn sẵn sàng đón nhận con người thật của ta. Ở trong tình yêu của Chúa, ta đón nhận tất cả với tâm hồn tự do và bình an. Khi ta từ chối Lời Chúa, ta cũng từ chối con người mình và ta đang sống ngoài ta, ta xa lạ với chính tâm hồn mình, ta từ chối sự hiện hữu của chính mình. Nói các khác, từ chối tình yêu của Chúa là ta đang đánh mất hạnh phúc.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27a). Một tâm hồn bình an là một tâm hồn hạnh phúc. Bình an đích thật chỉ đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho môn đệ món quà tuyệt vời là “Bình an”. Chúa Giêsu đã đi đến cùng của tình yêu và Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ngài đã dùng chính cái chết nhục nhã trên thánh giá để dạy bài học của sự vâng phục, của việc giữ Lời Thiên Chúa cho người môn đệ. Và rồi khi phục sinh, Ngài đã ban bình an cho các môn đệ: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19b). Ta đã thấy, hoa quả của vâng phục là bình an.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa vì đã đến và ở lại với con trước để con cũng được đến và ở lại trong tình yêu của Chúa. Chúa đã trải qua nhiều đau khổ để dạy con biết vâng phục và ban bình an cho con. Xin cho con biết yêu Chúa và ở lại trong sự hiện diện của Chúa luôn, để con biết giữ Lời Chúa và đón nhận bình an trong từng giây phút sống. Amen.
Ai trong chúng ta cũng có người để nhớ, để yêu thương. Khi yêu, trái tim chúng ta luôn hướng về PS 6-C171
Ai trong chúng ta cũng có người để nhớ, để yêu thương. Khi yêu, trái tim chúng ta luôn hướng về người mình yêu và dành cho họ một sự quan tâm đặc biệt. Chúng ta dễ nhạy cảm trước nhu cầu của họ. Chúng ta dễ quên những sở thích của mình, quên đi cái tôi của mình để sống hợp tính, hợp nết với người mình yêu. Đó là những cử chỉ diễn tả tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương tất cả chúng ta và mời gọi tất cả mọi người đáp lại bằng tình yêu. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14, 23). Lời Chúa là lời yêu thương, lời dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Thánh Gioan cũng đã viết: “Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1Ga 2,5).
Vậy làm sao chúng ta có thể giữ lời Ngài mỗi ngày? Muốn nhớ một từ gì, chúng ta phải đọc và viết lại nhiều lần. Muốn giữ một vật gì, chúng ta cần phải cất giữ bảo vệ cẩn thận. Muốn giữ Lời Chúa trong lòng, chúng ta cần đọc và khắc sâu vào trí, tin tưởng và mau mắn tìm dịp để thực hành luôn. Thật không dễ dàng để thực hiện điều đó khi tâm trí chúng ta còn lo lắng quá nhiều, trái tim chúng ta còn bị chiếm chỗ bởi những niềm vui khác. Nhưng với niềm khao khát yêu mến Chúa và nhờ biết chạy đến với Chúa, chúng ta sẽ làm được vì chúng ta đã có Đấng Bảo Trợ. Chính Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta như lời Ngài đã hứa (x.Ga 14,26). Nhờ đó, chúng ta sẽ sống trọn hảo với tình yêu Thiên Chúa. Tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập bình an của Chúa và chúng ta sẽ vững bước đến với Chúa mà không bao giờ còn sợ hãi nữa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Cảm tạ Chúa đã chỉ dạy cho chúng con con đường dẫn đến tình yêu trọn hảo với Ngài. Xin gia tăng cho chúng con lòng yêu mến Chúa qua việc đọc Lời Chúa và giúp chúng con luôn giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại trong lòng và đem ra thực hành trong cuộc sống để chúng con trung thành với tình yêu Chúa và đem tình yêu đến cho mọi người. Amen.
Nếu chúng ta để ý thì trên những chiếc xe khách hay nơi các bến xe… chúng ta thường thấy để PS 6-C172
Nếu chúng ta để ý thì trên những chiếc xe khách hay nơi các bến xe… chúng ta thường thấy để hàng chữ “Kính chúc quý khách thượng lộ bình an”. Nếu là xe của người Công giáo thì có để ảnh tượng Đức Mẹ trên chỗ Cabin, và kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Như vậy, ai cũng mong đi đến nơi về đến chốn được bình an.
Chúng ta đang sống giữa một thế giới đầy văn minh khoa học hiện đại. Có thể nói là vượt mức về mọi phương diện, nhưng lại là một thế giới đầy những biến động làm cho con người bất an bất ổn, và dường như ai trong chúng ta cũng có một chút lo sợ lo lắng nào đó.
Chúng ta lo sợ về đồ ăn thức uống không được an toàn thực phẩm; lo lắng về bệnh tật tiền mất tật mang; lo sợ công ăn việc làm bấp bênh; lo sợ giá cả thị trường không ổn định; lo sợ vợ chồng không chung thủy, lo lắng con cái hư hỏng. Thậm chí có người đã nói: “Tôi thương người nhưng tôi sợ lòng người”… Vì thế, ai cũng khao khát có một cuộc sống bình an.
Người ta thường quan niệm bình an là một trạng thái hồn an xác mạnh, đời sống an khang thịnh vượng. Bình an còn có nghĩa là được đầy đủ như ý muốn, không gặp điều gì rắc rối, buồn phiền.
Thế nhưng, tất cả những hình thức bình an trên đây chỉ là bình an tự nhiên bề ngoài theo lối nghĩ trần gian. Còn bình an mà Đức Giêsu công bố đó là: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con sự bình an không như thế gian ban tặng” (Ga. 14, 27).
Đức Giêsu không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an khi Ngài đã chiến thắng tử thần. Ngài không còn chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương nhân loại đến cùng (Ga. 13,1), nên hy sinh mạng sống để đem lại nguồn bình an đích thực cho nhân loại.
Thánh Phaolô gọi đây là sự “Bình an của thập giá”. “Nhờ giá máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,24). Như vậy, sự bình an của Đức Giêsu là sự bình an của lòng thương xót, bao dung, tha thứ, xóa bỏ mọi hận thù chia rẽ do con người gây ra.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm sao để có được sự bình an của Chúa. Muốn có được sự bình an của Chúa, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa là Cha phép tắc và lòng lành vô cùng. Ngài làm được mọi sự và luôn làm điều tốt cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy luôn tín thác và bằng lòng với những gì mà Chúa an bài gửi đến.
Muốn có được bình an của Chúa, chúng ta cố gắng sống hiền lành và khiêm nhường, sống chan hòa tình thương với những người chung quanh. Nhịn nhục và tha thứ cho nhau. Đừng làm phiền lòng nhau, nhưng hãy nhường phần hơn, nhịn nết xấu, đoán ý lành cho nhau.
Anh chị em thân mến,
Mỗi khi cử hành Thánh lễ, rất nhiều lần chúng ta tha thiết xin Chúa ban ơn bình an và chúc bình an cho nhau. Đây không phải là một nghi thức phụng vụ, nhưng là hành vi biểu lộ sự tha thứ cho nhau. Chính khi chúng ta thật lòng tha thứ cho nhau qua nghĩa cử trao ban bình an, thì tâm hồn chúng ta mới có bình an trong Chúa, để rồi chúng ta mới có khả năng chia sẻ bình an cho người khác.
Chúng ta sống trong tháng hoa dâng kính Đức Mẹ, được thể ra bên ngoài bằng việc rước kiệu và dâng lên Đức Mẹ nhiều bông hoa muôn màu muôn sắc, điều đó chắc Đức Mẹ hài lòng lắm. Nhưng những đoá hoa đó cho dù đẹp đến đâu đi nữa rồi cũng héo tàn. Đoá hoa mà Đức Mẹ yêu thích nhất đoá là hoa lòng của chúng ta. Vậy hãy dâng lên Đức Mẹ:
– Những đoá hoa hồng, tượng trưng cho lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn tha thiết.
– Những đoá huệ trắng, nói lên sự trinh trong như tấm gương sáng ngời của Đức Mẹ.
– Những màu hoa cúc, biểu lộ ánh hào quang rực rỡ mọi đặc ân Chúa ban cho Mẹ.
– Những cánh hoa lan, đậm nét thơ thảo của những con tim sắt son yêu mến Mẹ trọn đời.
Và xin dâng lên Mẹ những màu xanh sắc lá thắm tươi hy vọng, dệt lên những bài ca réo rắc, hoà với năm chục kinh Mân Côi sốt sắng, dâng lên cho Đức Mẹ trong mỗi ngày sống. Xin Đức Mẹ là Nữ Vương ban sự bình an, ban cho chúng ta ơn bình an trong Chúa và trong nhau. Amen.
Xưa kia, vua Đa-vít ước ao xây một Đền thờ nguy nga tráng lệ cho Thiên Chúa. Vua nói với PS 6-C173
Xưa kia, vua Đa-vít ước ao xây một Đền thờ nguy nga tráng lệ cho Thiên Chúa. Vua nói với Ngôn sứ Na-than: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải!”
Nhưng khi được biết Chúa không muốn Đa-vít xây đền thờ cho Ngài vì tay ông đã vấy máu quân thù, vua Đa-vít ủy thác cho người kế vị là Sa-lô-mon thực hiện ước vọng của mình.
Vua Đa-vít thiết lập bản thiết kế Đền thờ cũng như chuẩn bị sẵn cho Sa-lô-môn rất nhiều vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ quý, ngọc báu, đủ loại đá quý và rất nhiều cẩm thạch.
Ngoài ra, vua còn huy động toàn dân tham gia đóng góp cho công cuộc xây dựng nhà Chúa và dân chúng đã rộng tay đóng góp rất nhiều vàng, bạc, đá quý để xây dựng công trình vĩ đại nầy. (Sử biên niên I, 28-29)
Hôm nay, vì thiếu thốn tiền bạc và vì khả năng rất hạn chế nên không mấy ai ước mơ xây dựng đền đài hay thánh điện cho Thiên Chúa như vua Đa-vít ngày xưa. Xây một căn nhà đơn giản đã là chuyện khó, huống gì những công trình lớn lao.
Tuy nhiên, bài Tin mừng hôm nay đem đến cho chúng ta một niềm vui lớn, vì Chúa Giê-su cho biết rằng, dù chúng ta bất tài, dù chúng ta nghèo túng… nhưng ai trong chúng ta cũng có thể xây dựng được một ngôi đền thờ cao đẹp cho ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị; đền thờ nầy không những rất cao đẹp mà còn được Thiên Chúa vui thích ngự trị đêm ngày nữa.
Làm sao chúng ta có thể làm được việc thần kỳ như thế? Lấy vàng bạc, đá quý, châu ngọc… đâu mà làm?
Việc này rất đơn giản và ít tốn kém. Chỉ cần mỗi chúng ta biết yêu mến và tuân giữ Lời Chúa là công trình sẽ được hoàn thành, như lời Chúa Giê-su quả quyết: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Thế thì chính khi chúng ta yêu mến và tuân giữ Lời Chúa Giê-su thì Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (vì bất cứ ở đâu có Chúa Cha và Chúa Con thì cũng có Chúa Thánh Thần) hết lòng yêu mến chúng ta và ở lại trong chúng ta. Thế là ngay lúc đó, thân xác chúng ta trở nên đền thờ của ba Ngôi Thiên Chúa, một đền thờ được Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi cư ngụ của mình.
Như vậy, Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay soi sáng cho chúng ta hai điều:
Thứ nhất, nếu chúng ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa phán dạy, thì chúng ta không còn là thụ tạo thấp hèn nữa mà đã được nâng lên thành đền thờ của Vua Trời, được trở nên cung điện của Thiên Chúa tối cao như lời thánh Phao-lô xác nhận trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao!” (IC 6,19).
Thứ hai, cũng theo lời thánh Phao-lô trong thư nói trên, chúng ta đừng quên thờ phượng Thiên Chúa ngay nơi bản thân mình: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (IC 6,20)
Xưa kia, thánh Ô-gút-ti-nô đã có một trải nghiệm quý báu về điều nầy. Trong thời thanh xuân, ngài đã khắc khoải tìm kiếm Chúa suốt cả chục năm trời ở nhiều nơi mà chẳng gặp cho đến tuổi ba mươi, ngài mới khám phá ra Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mình. Bấy giờ với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Ô-gút-ti-nô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài.”
Ước gì chúng ta không phải hối tiếc vì đã vòng vo tìm Chúa cách vô vọng như thánh Ô-gút-ti-nô trong buổi đầu, trái lại sớm được hạnh phúc hoan lạc vì tìm gặp Chúa ngay trong bản thân mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con biết quý trọng thân xác chúng con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.
Xin cho chúng con quyết tâm thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.
Xin cho chúng con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.
Và nhất là xin cho chúng con luôn gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ cao cả là chính bản thân con.
Một lần nữa chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài. 1. Tuần trước Chúa PS 6-C174
Một lần nữa chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.
1. Tuần trước Chúa Giê-su nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”,Khi nói như hế Chúa đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Và người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng là bằng tình yêu.
Hôm nay, Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Khi nói như thế Chúa Giê-su đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giê-su không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoàinhà thờ, mà là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.
Như vậy chúng ta thấy trong xã hội của Chúa sẽ không còn phân biệt hữu thần với vô thần mà chỉ còn hữu tâm hay vô tâmnghĩa là có trái tim hay không có trái tim
Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ.
Ngược lại người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân.
Một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Một ông lão với bộ râu lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông đang đợi có ai đó giúp đưa ông qua sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Cơ thể ông tê cóng và cứng đờ bởi những cơn gió bấc giá lạnh.
Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần men theo con đường đầy sương gió. Ông lo lắng nhìn khi một nhóm chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh. Ông đã để cho người đầu tiên chạy qua mà chẳng hề gọi. Sau đấy, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết, ông đã thấy người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu với người kỵ sĩ rồi nói:
– Chào cậu, cậu có phiền đưa già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.
Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp:
– Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.
Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già sang sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.
Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:
– Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưõi ngựa khác chạy qua mà không nhờ lấy một ai để giúp qua sông. Khi cháu đến thì bác nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?
Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:
– Bác đã ngồi ở đấy một lúc rồi. Bác nghĩ mình biết cách nhìn người. Khi bác nhìn vào mắt những chàng trai kia bác nhận ra ngay là họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng không ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.
Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.
– Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói. – Anh nói với ông lão – Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.
Vâng chúng ta hãy cố đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Tôi nhớ có lần Albert Einstein đã nói: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng.”
2. Còn mẹ Têrêsa: “Hãy trao tặng tình yêu thương ở mỗi nơi bạn đặt chân đến: trước hết là ở ngay chính căn nhà của bạn.
Hãy yêu thương con cái, người bạn đời của bạn, và cả những người hàng xóm…
Hãy đừng để người nào đến với bạn rồi ra đi mà không cảm thấy vui tươi và hạnh phúc hơn.
Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình.”
Một câu chuyện nhỏ từ Internet:
Vào một buổi sáng mùa đông, tuyết rơi nặng hạt. Tôi đứng ở một góc phố tối và lạnh lẽo chờ chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày. Cách chỗ tôi đứng không xa, có hai vợ chồng già cũng đứng chờ xe buýt. Chiếc áo khoác ngoài của họ bị tuyết phủ trắng xóa. Xem ra, họ đứng đợi xe đã khá lâu. Cuối cùng chiếc xe buýt cũng đến. Người lái xe bấm còi, đi lướt qua chỗ hai vợ chồng cụ già rồi dừng lại chỗ tôi đang đứng. Khi tôi vừa bước lên xe, người tài xế cho xe chạy ngay, bỏ lại hai vợ chồng già đứng trong tuyết. Tôi tức giận hỏi:
– Chẳng lẽ cậu không nhìn thấy hai vợ chồng già đó sao?
Người lái xe trẻ tuổi ấy nói:
– Hôm nay là ngày đầu tiên tôi đi làm. Hai cụ già đó là bố và mẹ tôi. Họ đến đây để xem tôi làm việc như thế nào.
Tôi bỗng rưng rưng xúc động.
Xét như thế, thì Nước Chúa thực là rộng lớn. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Jêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Jêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có đền thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quí toả ánh sáng tới khắp muôn dân.
Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim chúng ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Jêrusalem mới cho tình yêu Thiên chúa ngự trị. Amen.
Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu (Ga 13,31; 14,31). Việc PS 6-C175
Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu (Ga 13,31; 14,31). Việc Đức Giêsu ra đi đã làm cho các môn đệ buồn sầu lo lắng, không biết tương lai sẽ ra sao. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người khuyên các ông “đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27), vì Người ra đi rồi sẽ trở lại với các ông bằng một cách thế khác.
Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối tinh thắm thiết với Người, đừng “cách mặt xa lòng”, và cách thế để tỏ lòng yêu mến đối với Người là hãy thực hiện những điều Người truyền dạy :”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy”(Ga 14,5). Và tuân giữ lời Người là thước đo cụ thể và chính xác nhất lòng yêu mến của các ông đối với Người.
Đức Giêsu còn cho các ông biết việc Người ra đi thì có lợi cho các ông hơn vì Người có ra đi thì Thánh Thần mới được sai đến để dạy dỗ và nhắc nhở các ông, giúp các ông hiểu thấu đáo hơn những lời nói và việc làm của Người khi còn tại thế :”Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).
Sau cùng, Đức Giêsu còn hứa ban cho các môn đệ sự bình an riêng của Người. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho chúng ta :”Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 15,1-2.22-29
Ngay từ ban đầu, Hội thánh cũng gặp một ít trục trặc, nhưng đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Số là đang khi Phaolô và Barnabê truyền giáo cho dân ngoại thì có những người Do thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tân tòng phải cắt bì và phải tuân giữ luật của Maisen. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề này lên Hội thánh.
Các Tông đồ đã họp hội nghị tại Giêrusalem và ra quyết nghị : những người ngoại tân tòng chỉ phải giữ những cái tối thiểu. Hội nghị đã cử Phaolô, Barnabê và mấy vị khác đến Antiochia với sứ mạng báo tin cho họ : chỉ cần giữ những điều cần thiết, đó là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm.
+ Bài đọc 2 : Kh 21,10-23.
Trong một thị kiến khác, thánh Gioan được trông thấy “kinh thành muôn thưởûû” lý tưởng trong tương lai. Đó là hình ảnh uy nghi của Giêrusalem mới được trình bầy cho chúng ta :
– Thành từ trên trời ngự xuống.
– Rất xinh đẹp và tươi sáng.
– Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.
– Đó là Hội thánh tương lai trên trời khi vương quốc của Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang trọn vẹn.
+ Bài Tin mừng : Ga 14, 23-29
Bài Tin mừng lấy từ bài diễn từ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và ý chính là sự ra đi sắp xẩy ra của Người. Người bảo đảm cho các môn đệ rằng Người sẽ không để cho họ mô côi. Dù Người ra đi, Người và họ sẽ không rời nhau. Nếu họ giữ lời Người, họ sẽ được đưa vào trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Thánh Thần sẽ nhắc họ lời Người.
Trong dịp này, Người trấn an các môn đệ trong cuộc ra đi của Người. Vì thế, Người hứa ban cho các ông sự bình an, một thứ bình an đặc biệt mà thế gian không thể ban cho.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
I. SỰ HIỆN DIỆN MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU
Sự ra đi của Đức Giêsu. Trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, các môn đệ đã được Người rao giảng về Nước Trời, được nghe những lời Người giảng, chứng kiến những việc Người làm, nhưng các ông chưa hiểu được ý Chúa. Các ông cứ tưởng Chúa mời gọi mình để được hưởng đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trốc, được quyền lãnh đạo và được mọi người tôn trọng trong Nước Người sắp thành lập.
Nhưng không, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người : Người sẽ bị bắt, bị đánh dòn, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Thật là một tin sét đánh làm cho các ông chao đảo. Các ông chìm vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại vì “Ra đi là chết trong lòng một ít”.
Các ông cảm thấy lo sợ vì như sống trong cảnh rắn mất đầu, các ông sẽ phải cô đơn, phải gặp nhiều trắc trở và gian nan thửû thách. Tương lai còn mù mịt, không biết số phận mình sẽ rao sao. Đức Giêsu hiểu rõ tâm trạng của các ông.
Những lời khích lệ của Đức Giêsu Đức Giêsu nói với họ rằng Người không để cho họ mồ côi đâu. Người ra đi rồi sẽ trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, mầu nhiệm, chỉ dành cho những ai trung tín với lời Người. Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng trong ngày thế mạt, nhưng , ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi :”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).
Đức Giêsu còn cho biết việc ra đi của Người sẽ có lợi cho các ông hơn, vì như Người nói :”Các con sẽ buồn vì nghe nói Thầy phải rời xa các con. Lòng các con sẽ buồn sầu và sợ hãi, nhưng này Thầy bảo cho chúng con biết Thầy ra đi sẽ tốt cho các con hơn, vì khi ấy, Cha Thầy sẽ sai Thánh Thần đến giúp các con tăng trưởng theo một cách thức mới”.
Hay nói cách khác, Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết đã đến giờ Người phải rời xa các ông ít lâu, đã đến giờ họ phải bắt đầu một giai đoạn mới trong việc phát triển tâm linh, đã đến giờ họ cần được phát triển theo một phương cách mới.
Đức Giêsu nhấn mạnh cho các ông tư tưởng này là hãy bình tĩnh :”Các con đừng xao xuyến và sợ hãi”(Ga 14, 27). Người không bỏ rơi các ông nhưng luôn hiện diện với các ông bằng một cách thức khác mà các ông không ngờ.
Truyện : Thầy đã vác con trên vai
Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng kêu lên :”
– Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình ?
Chúa Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta :
– Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai ?
Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra, đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên :
– Vậy thưa thầy, lúc đó con ở đâu ?
Chúa âu yếm trả lời :
– Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi hoạn nạn đấy.
Dĩ nhiên đây là câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểu cặn kẽ : đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.
Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói :”Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa.
Những lời căn dặn của Đức Giêsu. Người ta thường nói :”Cách mặt xa lòng” (Tục ngữ) nghĩa là xa nhau thì dễ quên nhau. Đây là một kinh nghiệm rất phổ biến vì nó thường xẩy ra hằng ngày một cách rất tự nhiên. Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng “cách mặt xa lòng”, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để “cách mặt, nhưng gần lòng”.
a) Về phía Thiên Chúa.
Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có cách mặt xa lòng đâu. Chúng ta có thể trưng ra những câu Đức Giêsu nói với các ông trong bữa Tiệc Ly :
– “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với các con (Ga 14,23)
– “Cha Thầy phái đến nhân danh Thầy, Đấng Bào chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
-Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, chứ không để các con mồ côi đâu.
Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong các con, các con được yêu mến, dạy dỗ, được bào chữa nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, Người càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phía thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với các con ở khắp mọi nơi mọi lúc.
b) Về phía loài người.
Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa, thì Đức Giêsu đã bảo :”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Giữ lời Thầây là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa.
Đức Giêsu đã nói : “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mếân Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Câu nói này đủ xác định thế nào là yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu, bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Vì đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta giữ lời Chúa nhiều hay ít.
Chúa bảo chúng ta hãy tuân giữ lời Chúa, nhưng lời Chúa ở đâu ? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói : lời Chúa chứa đựng trong Sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói : lời Chúa còn chứa đựng trong Thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong Phụng vụ, tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo hội, tức là giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục.
Tóm lại, Kinh thánh, Thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến lời Chúa , chúng ta thường hiểu là Thánh Kinh, nhất là sách Tin mừng.
Ngoài ra, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ và chúng ta khi xa mặt Chúa, phải có đức tin vững vàng trong cơn gian nan thử thách. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ, để ta trưởng thành về tâm linh. Nhưng trong suốt thời gian chịu đựng thử thách đó, Thiên Chúa không bỏ rơi ta. Người luôn ở trong ta để động viên và giúp đỡ ta vượt qua gian khổ, để đức tin của ta ngày càng mạnh mẽ và trưởng thành.
Truyện : Con kén và con bướm.
Ngày nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ treo lơ lửng trên cành cây, ông ta liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau, cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng có gì khác xẩy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều sau một ngày mà con bướm vẫn không bay ra được, và cuối cùng chết.
Về sau, ông được một người bạn thân là nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm không bay ra được, là do thiên nhiên đã xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển đến độ tự mình đạp bể cái kén chui ra ngoài thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn được trong thiên nhiên. Muốn làm con bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn mình trong cái kén một thời gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch cái kén giúp nó ra ngoài trước thời hạn, là ông vô tình tiêu hủy khả năng phát triển và sinh tồn của nó.
Chúng ta chẳng khác gì con bướm nọ : Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã an bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ. Vào những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần chúng ta . Chúa biết rõ chúng ta cần phải chịu gian khổ một thời gian vì lợi ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những Kitô hữu vững mạnh (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm C, tr 133).
II. ĐỨC GIÊSU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ
Nay Đức Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo hội tất cả những gì Đức Giêsu đã ban bố khi còn ở trần gian.
Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật”, nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.
Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố Phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thể khác cho liên hệ giữa Người và các môn đệ. Thời kỳ Chúa Thánh Thần mà “Cha sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.
Léon Dufour giải thích rằng:”Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nazareth, là thời kỳ của Đấng Bầu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn. Sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Thần còn rọi sáng những lời Đức Giêsu dạy rõ hơn khi các ông nghe lúc trước”(Lecture de l’Eùvangile selon Jean, Seuil, tr 120).
Nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã dạy lúc tại thế. Khi nói nhắc lại thì không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Thánh Kinh, là khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.
Về vấn đề này, X. Léon-Dufour chú giải :”Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Người còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho đến lúc này, còn rất tối tăm đối với các ông… Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Thần liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn nơi mạc khải luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế, lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian”(Sđd, tr 132).
III. ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC ÔNG.
Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).
Theo phong tục Do thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an chứ không thể tự mình ban bình an được, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.
Trong tiếng Hip-ri, bình an là Shalom, một chữ được dùng rộng rãi trong Thánh Kinh. Nội dung từ ấy rất phong phú đến nỗi từ “bình an hay hòa bình” chỉ chuyểân tải một phần ý nghĩa. Một cách tổng quát, nó có ý nghĩa một sự viên mãn phổ quát, một điều kiện trong đó không một vật gì được thiếu sót. Từ ấy diễn tả hạnh phúc hoàn hảo chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người ta có bình an, người ta sống trong sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.
Vì vậy, Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng tâm hồn, không có chiến tranh, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.
Theo cha Cantalamessa, Đức Giêsu không nói tới một sự bình an bên ngoài, chủ yếu là không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia khác nhau. Người nói đến bình an đó trong những dịp khác, chẳng hạn khi nói :”Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Người nói đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan :”Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Từ Đức Giêsu sử dụng là “shalom”. Người Do thái chào chúc lẫn nhau với lời này và vẫn còn làm thế; chính Đức Giêsu đã chào các môn đệ với lời này vào buổi chiều Phục sinh và truyền cho các môn đệ chào hỏi dân chúng cùng cách thức như thế :”Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói : “Bình an cho nhà này”(Lc 10,5-6).
Đức Giêsu có thể ban bình an cho các Môn đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an :” Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn bình an. Chúng ta có thể ban sự bìn an nào nếu không phải là sự bình an của chúng ta ? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của chúng ta.
Sự bình an thực sự chỉ có khi chúng ta tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu là : ”Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Về vấn đề này, Đức Giáo hoang Gioan Phaolô II nói :” Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương. Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hòa bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67)
Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5,44), thay vì luật báo thù – luật rừng. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo thù không dẫn đến hòa bình. . Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự mà thôi. Vì Thiên Chúa là Tình yêu cũng là nguồn bình an (Ga 4,8,16; Rm 16,20).
Là con người, không ai lại không mắc nợ, dù ít hay nhiều. Có thể không mắc nợ về vật chất nhưng PS 6-C176
Là con người, không ai lại không mắc nợ, dù ít hay nhiều. Có thể không mắc nợ về vật chất nhưng ai cũng mắc nợ về tinh thần – nợ cha mẹ, nợ anh em, nợ bạn bè, nợ thầy cô, nợ xã hội,… Nói chung, mắc nợ gì cũng… khổ. Món nợ càng to thì nỗi khổ càng lớn, không an tâm, thậm chí là mất ăn mất ngủ.
Món nợ đơn giản nhất là nợ cá nhân – riêng giữa hai người với nhau, món nợ cũng có thể mang tính xã hội, mang tầm vóc quốc gia hoặc quốc tế. Chính khách John Adams (1735-1826, tổng thống thứ nhì của Hoa Kỳ) nói: “Có hai cách để chinh phục và nô dịch hóa một đất nước. Cách thứ nhất là bằng thanh kiếm. Cách thứ hai là bằng nợ nần”. Thật là nguy hiểm với “khổ nhục kế” như thế – không chỉ khổ mà còn nhục. Thế nên, cứ “thà lên giường ngủ không ăn tối còn hơn thức dậy với nợ nần” (chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, một trong các vị khai sinh Hoa Kỳ). Tại sao vậy? Bởi vì “người mắc nợ chẳng khác nào nô lệ” (văn thi sĩ Ralph Waldo Emerson, 1803-1882). Nợ nần khổ thật!
Nhưng mắc nợ vì hoàn cảnh khó khăn đã đành, đáng quan ngại là mắc nợ vì “bóc ngắn, cắn dài” hoặc “vung tay quá trán”. Đôi khi tự làm mình mắc nợ vì thói đua đòi hoặc khoe mẽ, ưa bề ngoài. Đó chính là dạng mắc nợ mà Benjamin Franklin đã cảnh báo: “Mua thứ mình không cần rồi sẽ phải bán thứ mình cần”.
Tránh được nợ thì lòng thanh thản. Nhưng có món nợ không tránh được, thậm chí là nên mắc nợ nhau, đó là NỢ TÌNH, như Thánh Phaolô nói: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).
Cuộc sống có đủ loại tình với nhiều cấp độ. Cuộc đời không có tình yêu thì không có sức sống, y như trái đất không có ánh nắng vậy. Tình yêu thương như một điệp khúc của bài trường ca vô tận, luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đến nỗi có thể có người cảm thấy nhàm chán vì nghe hoài, nghe mãi, nghe suốt năm phụng vụ, thậm chí nghe hằng ngày. Cứ nghe mãi như vậy mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu, mặc dù Thánh Gioan nói “nhẹ” thế này: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3). Quả thật, Đạo Chúa chỉ là một chữ Yêu, rất ngắn gọn và đơn giản – theo Việt ngữ chỉ có 3 mẫu tự, ấy thế mà lại nhiêu khê. Tuy nhiên, dù sao đi nữa thì tình yêu vẫn mãi mãi vĩ đại và cao cả vô cùng!
Thật vậy, tình yêu kỳ diệu đến nỗi đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, người Pháp) đã minh định: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Rất kỳ lạ. Chỉ có người đã từng yêu hết lòng thì mới khả dĩ hiểu được mà thôi. Yêu là một dạng điên, càng yêu sâu đậm càng điên dữ dội. “Điên” ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực chứ không “bệnh hoạn” theo kiểu điên rồ!
Chúa Giêsu bảo chúng ta phải nên hoàn thiện (Mt 5:48), yêu thương cả kẻ thù (Mt 5:44), học nơi Ngài nhân đức hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29). Nói chung, chúng ta phải nên giống Ngài. Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Làm sao nhận diện? Thánh Angela Merici (1474-1540, người Ý) cho biết: “Muốn biết một người có nên giống Chúa Giêsu hay không, phải coi họ chấp nhận sự khinh mạn sỉ nhục như thế nào”. Chúa Giêsu vẫn yêu cuồng si dù biết chúng ta phụ tình Ngài. Yêu là như thế đó. Yêu không chỉ “chết trong lòng một ít” mà phải te tua, tơi tả, và “chết thật” chứ không thể cứ tà tà. Chán lắm, ngán lắm, ớn lắm, và sợ lắm! Thế nhưng vẫn có những người thích kiểu “không giống ai” như vậy. Hầu như người đời không thể hiểu hết ý nghĩa chữ “yêu” theo kiểu “ngược đời” như thế, chỉ những ai có niềm tin vào Chúa-Giêsu-chịu-đóng-đinh thì mới khả dĩ hiểu!
Mọi thứ luôn liên quan lẫn nhau, cái này liên quan cái kia – trực tiếp hoặc gián tiếp. Sách Công vụ cho biết có những người từ miền Giuđê đến dạy thế này: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15:1). Khi đó, hai ông Phaolô và Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề đang tranh luận này. Tranh luận để hiệp nhất thì đó là điều cần, nếu không thì thật đáng quan ngại.
Tác giả sách Công Vụ cho biết rằng bấy giờ các tông đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa (biệt danh là Basaba) và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh. Họ trao cho phái đoàn bức thư có nội dung thế này: “Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh” (Cv 13:24-29). Con người thời nào cũng có “máu” dễ sa đà lắm, thế nên luôn phải nhớ lời tiền nhân căn dặn: “Cẩn tắc vô ưu”.
Cẩn trọng là khôn ngoan – một nhân đức quý giá, bởi vì “khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15). Thật vậy, “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban” (Kn 7:14). Đó là kho báu vô giá: “Trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:9).
Có nhiều thứ phải cẩn trọng, đặc biệt là miệng lưỡi – ngôn ngữ, bởi vì lời nói có thể làm hại người khác: “Nhất ngôn xuất, tứ mã nan truy”. Tác hại khôn lường vì cái lưỡi! Chắc hẳn chúng ta cũng đã biết điều này: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật”. Luật phục vụ con người chứ con người không phục vụ luật. Có con người rồi mới phát sinh luật. Luật cũng cần thiết để giúp con người hoàn thiện, nhưng theo luật phải vì yêu mến thật lòng, chứ chỉ khư khư giữ luật vì luật mà không vì yêu mến thì hóa vô ích. Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì cũng được”. Người nào dám yêu thì không hề sợ bất cứ điều gì, kể cả cái chết, vì tình yêu còn mạnh hơn cả Tử Thần.
Yêu thương là đường lối của Thiên Chúa, là chân lý của Ngài, là niềm khao khát vĩnh hằng của Ngài, và không chỉ là quy luật mà còn là mệnh lệnh của Ngài. Ai cũng phải cố gắng sống yêu thương, và không ngừng cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Đồng thời cũng phải biết chân thành mong muốn: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6).
Chắc chắn ai cũng mắc món nợ ân tình – cả ân nghĩa và tình cảm. Nhưng vì yêu mến Thiên Chúa mà người ta càng muốn mắc món nợ đó, món nợ không bao giờ trả hết ở đời này. Ước vọng đó là niềm khao khát khôn nguôi của những người tin vào Thiên Chúa, và cầu chúc cho nhau điều tốt lành nhất: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Mệnh danh Tông Đồ của Tình Yêu và tự xưng là “môn đệ được Chúa yêu”, Thánh trẻ Gioan là con người can đảm, vì yêu mà ngài dám đứng dưới chân Thập Giá, và rồi được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ. Thánh nhân kể về thị kiến: “Đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ítraen. Phía Đông có ba cửa, phía Bắc có ba cửa, phía Nam có ba cửa và phía Tây có ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21:10-21).
Thị kiến là sự khác thường, thần bí, vượt ngoài tầm nhìn phàm nhân. Thánh Gioan là thị nhân thần bí như vậy vì được Thiên Chúa mặc khải nhiều điều rất lạ lùng. Thánh nhân cho biết thêm: “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Ôi, cuộc thị kiến quá đỗi lạ lùng! Nhưng đó cũng là những điều Chúa hứa ban cho những ai dám yêu Ngài hết lòng, hết sức, và hết trí khôn – nghĩa là tất cả đều nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài.
Một hôm, tông đồ Giuđa (cũng gọi là Giuđa Nhiệt Thành hoặc Tađêô, không phải Giuđa Ítcariốt) hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14:22). Nghe hỏi vậy, Đức Giêsu đáp ngay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Một loạt các mối liên kết của tình yêu, như một đa giác có các cạnh và các góc không thể tách rời nhau – kể cả các đường trung tuyến hoặc đường cao. Một hệ lụy tất yếu đối với tình yêu thương thật kỳ diệu!
Chúa Giêsu là Con Đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha, và cũng là Cửa Chuồng Chiên duy nhất, Ngài căn dặn các đệ tử: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:25-26). Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống. Đó là tặng phẩm vô giá mà Chúa Giêsu muốn dành cho mỗi chúng ta. Tại sao? Vì Ngày rất yêu thương mỗi chúng ta, đến nỗi tên mỗi người đều được Ngài khắc vào lòng bàn tay (Is 49:16), đã cứu chuộc chúng ta bằng giá máu và mỗi chúng ta đều là của riêng Ngài (Is 43:1).
Ngài luôn muốn chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10:10), và Ngài vừa hứa hẹn vừa động viên: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Ngài xác định: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin” (Ga 14:28-29). Bất cứ điều gì cũng được Ngài nói trước để không ai bất ngờ mà ngỡ ngàng. Thế mà… Ôi chao!
Hôm nay, Thầy chí thánh Giêsu dạy chúng ta hai điều quan trọng. Thứ nhất là về tình yêu thương: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12); thứ nhì là về lòng can đảm: “Đừng sợ!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Xh 20:20; Đnl 31:6; Is 7:4; Is 8:12; Is 10:24; Is 35:4; Is 37:6; Is 40:9; Is 41:10; Is 41:13-14; Is 43:1; Is 43:5; Is 44:2; Is 44:8; Is 51:7; Is 54:4; Gr 1:17; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Gs 10:25; Xp 3:16; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Cv 18:9; Kh 1:17-18; và còn nhiều nữa…).
Thật kỳ lạ: Mệnh lệnh cách “Đừng Sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên – mỗi ngày một kiểu cho suốt năm. Có hai điều này liên quan lẫn nhau: Yêu thì phải can đảm, nghĩa là không sợ, còn nếu sợ thì không thể yêu. Hệ lụy tất yếu là thế!
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu Vĩnh Hằng và Thương Xót Vô Tận, xin cho chúng con biết can đảm để có thể sống trọn tình yêu thương như Con Một Ngài – Người Tôi Trung Đau Khổ. Xin Tình Yêu của Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh biến đổi cuộc sống của mỗi chúng con ngày càng trở nên hoàn thiện qua tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ đó mà chúng con xứng đáng là những Kitô hữu đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô và toàn thể các Giám Mục hiệp thông PS 6-C177
TMĐP- Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô và toàn thể các Giám Mục hiệp thông với Ngài.
Giáo Hội là một thực thể vừa thánh thiện vì Đầu của Thân Thể Giáo Hội là Đức Giêsu, Đấng tuyệt đối thánh thiện; vừa thiếu sót, đầy khuyết điểm, vì Thân Thể ấy mang những chi thể yếu đuối là “tập thể những con người tội lỗi”. Vì thế, Giáo Hội thánh thiện ấy luôn ý thức mình phải liên tục thống hối, trở về, và liên lỷ thanh luyện, đổi mới. Đó cũng là lý do tại sao trong Giáo Hội có những đối kháng, khủng hoảng, những bất đồng, tranh chấp, cả những tội ác tầy trời và gương mù gương xấu khó có thể tưởng tượng… mà chúng ta là tác nhân hoặc đồng phạm.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta trở về sống bầu khí đối kháng rất căng thẳng trong Giáo Hội buổi ban đầu trước vấn đề cắt bì được kể lại trong sách Công Vụ Tông Đồ: vì đạo Do Thái đòi buộc các con trai phải chịu cắt bì. Nay phát sinh từ đạo Do Thái một Đạo Mới là Đạo của Đức Giêsu Kitô, nên việc cắt bì như điều kiện nhập đạo được nhiều người đặt ra, điển hình là “có những người thuộc phái Pharisêu đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói rằng: “Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Môsê” (Cv 15,5); lại có những người mạnh miệng qủa quyết: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15,1). Hai vị tiên phong hướng về dân ngoại và ủng hộ việc không bắt dân ngoại phải chịu cắt bì khi gia nhập Giáo Hội của Đức Giêsu là ông Phaolô và Banaba (x. Cv 13,44-51; 15, 2-4).
Nếu Giáo Hội ở những ngày đầu mới thành lập, khi đứng trước những đối kháng căng thẳng, những tranh luận nẩy lửa, những bất đồng sâu sắc, các Tông đồ và các kỳ mục đều họp nhau để xem xét, bàn bạc, quyết định (x. Cv 15,6), thì Giáo Hội hôm nay, khi đứng trước những vấn đề sôi bỏng, những khủng hoảng, và khó khăn đủ loại trong Giáo Hội và những tấn công, chống phá từ bên ngoài cũng không đi ra ngoài con đường các thánh Tông Đồ đã đi, con đường mà chính Đức Giêsu đã đi và mời gọi Giáo Hội cùng đi với Ngài.
Đó là con đường yêu mến Chúa và yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương (x. Ga 13,34 ; 14.23), vì có đi trên đường yêu thương này, mọi thành phần trong Giáo Hội mới có thể hiệp nhất với nhau, nhờ tất cả đều tuân giữ lời Chúa, và được Thánh Thần hướng dẫn, chỉ bảo (x. Ga 14,23.26); có đi trên hành trình yêu thương này, mọi chi thể của Thân Thể mầu nhiệm là Hội Thánh mới không xao xuyến, cũng không sợ hãi, nhưng bình an trong gian truân, thử thách, và vui mừng khi bị vu khống, xỉ vả, hãm hại, vì biết có Chúa là thành lũy che chở, là gia nghiệp, phần thuởng đời đời (x. Mt 5, 11-12); có đi trên những dấu chân của lòng thương xót mà Đức Giêsu đã đi, đoàn thể môn đệ Ngài mới có thể “đồng tâm nhất trí”, “luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng”; dân Ngài mới có thể chia sẻ “với lòng đơn sơ vui vẻ”, sốt sắng “ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (x. Cv 2,42.46.47); nhất là có đi với nhau trên đường Thánh Giá của vâng phục Thánh Ý, đoàn chiên của Ngài mới có thể “nên một” khi tất cả đều ý thức một điều rất quan trọng, đó là Giáo Hội được thành lập trên Tảng Đá Tông Đồ (x. Mt 16), Giáo Hội mà sách Khải Huyền đã mô tả như Thành Thánh Giêrusalem mới “từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa… Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ … Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21,10-12.14).
Thực vậy, để có thể hoà giải khi có chia rẽ, bất bình; để có thể hiệp nhất khi có đương đầu, đối kháng; cũng như để có hiệp thông, bình an giữa cuồng phong bão tố, ngoài những việc khác phải làm, chúng ta không thể bỏ qua việc quan trọng cần phải làm trước hết, đó là bám chặt vào Tảng Đá Phêrô, trên đó Đức Giêsu đã xây Giáo Hội mà chúng ta là thành viên; cần gắn bó với Núi Đá “các Tông Đồ” là thành lũy vững chắc chở che, là hải đăng soi đường chỉ lối mà Đức Giêsu đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta; cần tin tưởng vào “Chìa Khóa” Chúa trao cho Simôn Phêrô (x. Mt 16,19), vì đây là chìa khóa cởi trói, giải thoát, cứu chữa nhân loại mà Đức Giêsu đã trao tận tay các Tông Đồ và những đấng kế vị cho sự sống và hạnh phúc đời đời của chúng ta.
Vâng, giữa thời buổi người ta đang cố tách Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội của Ngài, và nghi ngờ sứ vụ cũng như vai trò thiết yếu của Giám Mục trong Giáo Hội, thiết tưởng, người Kitô hữu hơn lúc nào hết cần lui về bên trong tâm hồn để chiêm ngắm với niềm xác tín sâu sa mầu nhiệm Giáo Hội, để nhận ra ý định và công trình thánh thiện của Thiên Chúa khi xây dựng Giáo Hội của Đức Giêsu trên Tảng Đá Phêrô, và đặt nền móng Thành Thánh Giêrusalem mới là Giáo Hội trên các Tông Đồ, bởi ý muốn và kế hoạch không bao giờ thay đổi của ma quỷ chính là đánh phá Tảng Đá Phêrô, và quyền lực của tử thần đã liên tục ngày đêm, từ đời này đến đời kia, hết thế hệ này đến thế hệ nọ tấn công không ngơi nghỉ, đánh phá không mệt mỏi hàng ngũ cai quản Giáo Hội là các Tông Đồ và các đấng kế vị, như lịch sử Giáo Hội đã minh chứng.
Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô và toàn thể các Giám Mục hiệp thông với Ngài. Xin Chúa Kitô sống lại, Đấng đã hứa với các Tông Đồ: “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18) khi xây dựng Giáo Hội ban cho các vị ơn bình an phục sinh của Chúa, để các vị chăn dắt đoàn chiên Chúa trao phó bằng trái tim thương xót của Mục Tử nhân lành “biết” chiên, “thương” chiên và sẵn sàng “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15).
Lời nói xã giao, việc làm hời hợt, rượu nhạt, trà thiu, có phải là nguyên nhân làm tan vỡ nhiều PS 6-C178
Lời nói xã giao, việc làm hời hợt, rượu nhạt, trà thiu, có phải là nguyên nhân làm tan vỡ nhiều “cặp đôi” vì sắc mầu của mặn ngọt, thơm ngon, vì mất phương hướng nơi cuộc sống ? Bậc sinh thành nhất định phải hiểu: cha mẹ hiền lành để đức cho con ; phận làm con có ai không hiểu: anh em hiếu thuận, gia đình an vui ? Tạ ơn, cám ơn, là cách nói đơn giản hơn, khi chúng ta sống đức thảo hiếu đối với tổ tiên dòng tộc, khi chúng ta tiếp nối truyền thống của tiền nhân: cha anh hùng, con hảo hán. Xã hội thời nào chẳng có giai cấp địa vị, có vui buồn sướng khổ, gia đình nào mà không có lúc khủng hoảng như cơm khô, canh nhạt ; qui luật chung, ai cũng thích rượu mừng, và ngao ngán với rượu phạt ! Tạ ơn, cám ơn, là mô phỏng cách sống của tiền nhân: yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch vẫn kê cho bằng.
90 năm, 100 năm đời người, chắc chắn không phải để hưởng thụ, thực tế một chút, chúng ta vẫn ý thức: sống là vừa học, vừa hành, giá trị cuộc đời không hệ tại giỏi, giầu, bằng cấp, biết ăn chơi, biết xài tiền, mà là biết sống trên thuận dưới hoà, sống tình làng nghĩa xóm. Đức Giêsu lại một lần nữa minh định nguồn cội của con người là yêu thương: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Ý thức yêu mến phải có nguồn gốc từ Thiên Chúa, tuân giữ lời Chúa phải bắt đầu từ tình yêu nên một với Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương, các tông đồ được thu hút bởi tình Thầy-trò, được xác tín hơn bởi ơn ban của Đấng phục sinh, yêu và được yêu, chỉ thế là đủ. Xuất phát từ mầu nhiệm yêu thương, các học trò của Đức Giêsu, bằng đức ái chân thành, các ông không sợ phải minh chứng: buổi sáng nghe được đạo lý, buổi chiều dẫu chết cũng hạnh phúc rồi.
Hành trình đời người dài ngắn, không ai chắc chắn được, bằng cấp cao, kiến thức nhiều, rồi cũng phải đối diện với qui luật: sinh lão bệnh tử. Nếu một ngày, một giờ, hoặc một phút giây trong đời, chúng ta chợt nhận ra sự giới hạn mong manh của kiếp người, hẳn chúng ta đang đi đúng qui trình của Vị Thầy đã dám chết vì yêu, minh chứng: “lời các con nghe không phải của Thầy, nhưng của Cha, Đấng sã sai Thầy”. Một đời tri ân, hay một lần trong đời biết ơn bậc sinh thành, biết ơn cội nguồn, đều đáng được đứng vào hàng ngũ Đại gia đình yêu thương. Sách có câu: người khéo dùng oai không giận bậy, người khéo dùng ơn không cho bậy. Thầy Giêsu không dùng uy quyền, không lấy đức ái thống trị hay dụ dỗ các học trò, Ngài chân thành, không “ba phải” khi công bố: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”. Một lần yêu thật, là tri ân thật, một lần sống mến yêu và thật sự tuân giữ lời Thầy, là đời người có cả tình yêu Ba Ngôi hiện diện.
Bình an mà Thầy Giêsu nói là bình an nào ? Thưa, đó là bình an có sắc mầu của khổ đau thập giá, có niềm vui của Đấng phục sinh, có trọn vẹn tình yêu Ba Ngôi tẩy rửa tội lỗi, bổ dưỡng đức tin, và làm sống động tâm hồn thành viên Kitô giáo. Chẳng có gì không chân chính mà trở nên vĩ đại, chẳng có tình yêu giả tạo nào mà bền vững, cũng như không có sự thật nào mà không được đáp đền bằng hạnh phúc. Các học trò không hiểu thế nào là hạnh phúc thật, do đó Thầy Giêsu giải thích thêm: “nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vui mừng vì Thầy về cùng Cha, bởi Cha trọng hơn Thầy”. Ở bên tình yêu của Chúa Cha là hạnh phúc thật, là bình an thật, là cùng đích của tình yêu nên một. Nếu người ta biết dùng cái cần câu để câu cá, câu cơm, hẳn không ai sử dụng tình yêu thật, ơn bình an thật của Đấng phục sinh, nhằm mưu cầu vật chất địa vị để hy vọng sống mãi ở đời này.
Kinh nghiệm thực tế ở đời: tình bạn, tình yêu, không phải là cả đời không cãi nhau, nhưng to tiếng với nhau rồi, xin lỗi, làm hoà, vì họ được mời gọi ở bên nhau suốt đời. Đi theo Chúa làm môn đệ, tin Chúa ban tình yêu và bình an thật, nhưng đâu phải vì thế mà hành trình đời người không gặp gian nan đau khổ ; đau khổ thập giá chính là lời tạ ơn, biết ơn, đẹp và chuẩn nhất với Đấng ta yêu mến tin thờ. Xã hội thời nào cũng biểu dương người thật việc thật, tình yêu thật bao giờ cũng cần được minh chứng bằng việc làm thật. Chúng ta đang tri ân tình Chúa, tình người, chúng ta có yêu mến và tuân giữ lời Thầy Giêsu không ? Chúng ta có tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa thật, là Đấng đã chịu chết và sống lại thật vì yêu thương nhân loại không ? Câu trả lời phải là: thưa có, khi chúng ta ý thức mình đang là học trò, là môn đệ của Đấng Kitô, chúng ta vẫn kết hiệp cầu nguyện và sống bằng tình yêu Ba Ngôi mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời là sự thật. Amen.
Nếu Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa nói về giới răn yêu thương, thì Chúa Nhật tuần này, Lời Chúa PS 6-C179
Nếu Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa nói về giới răn yêu thương, thì Chúa Nhật tuần này, Lời Chúa nói về bình an là món quà quý giá mà Đấng Phục Sinh ban tặng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27).
1- Một thứ bình an rất khác
Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói về thứ bình an nào? Quả thật, Người không nói về sự bình an bên ngoài, sự bình an vắng bóng chiến tranh và tranh chấp giữa người với người, giữa các dân tộc hay giữa các quốc gia với nhau. Người nói về thứ bình an này trong những dịp khác nhau, chẳng hạn như khi Người nói: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”
Nhưng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói đến một thứ bình an hoàn toàn khác, thứ bình an nội tâm của tâm hồn mà một người có nơi mình nhờ sống kết hợp với Thiên Chúa. Điều này quá rõ ràng từ những gì Chúa Giêsu liền bổ sung ngay sau đó: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Đây là sự bình an nền tảng nhất. Nếu không có sự bình an này, những sự bình an khác không thể hiện hữu. Cũng như một tỷ giọt nước bẩn sẽ không thể làm cho một đại dương sạch, thì một tỷ trái tim xao xuyến sẽ thể không làm cho nhân loại này được bình an.
Từ mà Chúa Giêsu dùng là từ “shalom.” Người Do Thái chào nhau bằng từ này, ngày nay họ vẫn còn chào nhau như thế khi gặp nhau. Chính Chúa Giêsu chào các môn đệ bằng từ này vào buổi chiều Phục Sinh và Người truyền cho các môn đệ hãy chào dân chúng theo cách thức như thế: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này” (Lc 10,5-6).
2- Chúa chính là bình an
Để hiểu ý nghĩa của sự bình an mà Chúa Giêsu ban tặng, chúng ta cần tìm hiểu trong Kinh Thánh. Theo đó, “shalom” có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là chỉ theo nghĩa bình an là vắng bóng chiến tranh và hỗn loạn. Một cách tích cực, nó diễn tả sự khỏe mạnh, sự yên bình, dĩ nhiên, cả sự thành công và vinh quang. Thật vậy, Kinh Thánh nói về sự “bình an của Thiên Chúa” (Pl 4,5) và cũng nói về “Thiên Chúa của bình an” (Rm 15,32). Bình an không có nghĩa chỉ là những điều Thiên Chúa ban nhưng cả những gì Thiên Chúa là. Trong một Vịnh Ca, Giáo Hội gọi Chúa Ba Ngôi là “đại dương bình an.” Như thế, bình an là ân huệ đến từ Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa. Bởi thế, khi nhập thể làm Người, Chúa Giêsu được gọi là Hoàng Tử Bình An và cũng là nguồn mạch bình an. Sau khi phục sinh, Người là Đấng ban tặng bình an. Thế nên, trong những cuộc hiện ra với các môn đệ, lời đầu tiên mà Đấng Phục Sinh nói là: “Bình an cho anh em.” Trong thánh lễ, linh mục đại diện Chúa Kitô lặp lại lời chúc này tới cộng đoàn cử hành, là vọng lại lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh. Bởi lẽ, bao giờ cũng thế, con người luôn cần đến sự bình an của Người.
Điều này cũng nói với chúng ta rằng bình an tâm hồn mà tất cả chúng ta đều khát khao không bao giờ hoàn toàn hiện hữu và chúng ta có được mà không có Thiên Chúa, hay ở ngoài Người. Trong tác phẩm “Divina Commedia” đại thi hào Dante Alighieri đã tổng hợp tất cả những điều này trong câu thơ mà nhiều người xem là câu thơ đẹp nhất trong tác phẩm ông: “Bình an chúng con là ở nơi ý của Ngài.”
3- Đức tin mang lại bình an
Tin vào Chúa Kitô không có nghĩa là chúng ta được miễn chuẩn khỏi đau khổ, khó khăn và thử thách. Tin Mừng không hứa ban một phương thuốc để giải quyết hết mọi vấn đề; một cách nào đó, lo lắng, khó khăn, thử thách là một phần của thân phận con người. Nhiều lúc chúng ta còn phải đối diện với những khó khăn đó nhiều hơn cả những người không tin, chúng trên cả những khả năng của chúng ta. Nhưng Tin Mừng chỉ ra một phương dược giúp chúng ta vượt qua khó khăn và được bình an trong khi gặp thử thách. Đó là lời đầu tiên trong chương Tin Mừng Gioan: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ở lại trong Người là phương được để có bình an. Điều này khiến mỗi người phải chất vấn mình: Nhưng lúc gặp khó khăn, tôi có chạy đến Chúa không? Tôi có tin vào Chúa không?
Sau chiến tranh thế giới II, một cuốn sách được xuất bản với tựa đề: “Những lá thư cuối cùng từ Stalingrad”. Đó là những lá thư của những lính chiến Đức là những người đang chờ cuộc tấn công cuối cùng vào Liên Xô ở Stalingrad. Trong đó tất cả bị giết chết. Những lá thư đó được một máy bay chở ra khỏi thành phố. Người ta tìm thấy sau chiến tranh trong một lá thư, một người lính trẻ viết cho mẹ anh với những lời này: “Con không sợ chết. Đức tin con làm cho con vững mạnh tuyệt vời như thế.”
Tôi còn nhớ câu chuyện về mẹ tôi, lần kia, một người trong gia đình tôi gặp một tai nạn nghiêm trọng, nghe tin điều đó, mẹ tôi rất lo lắng, mẹ liền chạy đến đền thánh Antôn nhờ thánh nhân cầu bầu cùng Chúa cho gia đình được bình an. Sau khi đã cầu nguyện, mẹ tôi trở về trong sự bình tĩnh và phó thác để đối diện với những khó khăn vừa xảy ra.
Có lẽ mỗi người đều có kinh nghiệm tương tự như thế, những lúc gặp khó khăn thử thách và cả những lúc êm ả, chỉ có Chúa là nơi chúng ta nương thân, chỉ có Chúa mới mang lại bình an cho tâm hồn chúng ta.
Giờ đây chúng ta hiểu được ý nghĩa mà chúng ta cầu chúc trong thánh lễ khi hôn bình an. Chúng ta chúc nhau được mạnh khỏe, bình an, có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Nói cách khác, chúng ta chúc nhau có một con tim đầy bình an của Chúa Kitô là sự bình an nền tảng cho toàn bộ cuộc sống con người. Ai cũng cần đến thứ bình an đó của Chúa. Chúng ta hãy chúc nhau bằng lời chúc của Đấng Phục Sinh: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em!” Amen!
Trong chương trình khám phá thế giới gần đây đã giới thiệu Israel là một quốc gia được coi như PS 6-C180
Trong chương trình khám phá thế giới gần đây đã giới thiệu Israel là một quốc gia được coi như môi trường khởi nghiệp lý tưởng cho các bạn trẻ. Bởi vì tại quốc gia này, chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi về tài chính, cơ sở, phòng thí nghiệm hiện đại để giúp các bạn trẻ thực hiện được ý tưởng của mình. Không chỉ dành cho các bạn trẻ, mà cả các thiếu nhi và thiếu niên, học sinh khi dám đưa ra những ý tưởng phát minh, thì cũng được các thầy cô giáo và các chuyên gia đồng hành để giúp các em thực hiện những ý tưởng đó. Vì thế cho đến nay Israel là một trong những quốc gia có nền công nghệ tiên tiến nhất, và chiếm nhiều giải Nobel khoa học nhất trên thế giới. Vì quốc gia này có cả một sách lược để hỗ trợ những tài năng, những người đam mê nghiên cứu.
Cách đây hơn hai ngàn năm, cũng tại Israel có một nhóm 12 bạn trẻ, họ đang căng tràn nhiệt huyết, say mê với sứ mạng của Thầy Giêsu trao phó. Họ được sự bảo trợ của một vị Thầy là Chúa Thánh Thần, từ đó mười hai con người này đã thực hiện một cuộc thay đổi hoàn toàn thế giới.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói trước cho các tông đồ về việc các ông sẽ đón nhận được một động lực, một sức mạnh sẽ giúp các ông ra đi thực hiện mục tiêu cuộc đời mình đó là Tin Mừng hóa toàn thế giới. Động lực và sức mạnh đó chính là Chúa Thánh Thầnmà hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là Đấng Bảo Trợ: “Đấng Bảo Trợ
là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.
Sau ba năm miệt mài với sứ mạng xây dựng Nước Trời, rao truyền giới răn yêu thương của Tin Mừng, giờ đây trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã tin tưởng trao cho các ông tất cả sự nghiệp và dự phóng của Ngài. Chúa Giêsu còn gửi đến cho các môn đệ một Người Thầy là Chúa Thánh Thần để giúp các ông thực hiện sứ mạng lớn lao đó. Vì Chúa biết rằng, sứ mạng Chúa trao cho các tông đồ là một sứ mạng vượt quá sức của các ông, đó là: đem Tin Mừng đến tận cùng cõi đất; rao giảng cho mọi dân tộc; dạy cho họ giới răn của Tin Mừng và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu biết rằng để thực hiện được sứ mạng này, cần phải có một lòng mến lớn lao dành cho Ngài. Lòng mến sẽ là sức mạnh giúp các tông đồ ra đi và giúp các ông trung thành với sứ mạng Chúa trao. Chúa Giêsu cũng cho biết là Thiên Chúa Cha sẽ yêu mến những ai yêu mến Con của Ngài là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha yêu những người yêu Đức Giêsu đến độ, Ngài sẽ cùng với Đức Giêsu đến thăm và ở lại trong tâm hồn những người đó: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”.Những ai được ở trong Thiên Chúa và được Thiên Chúa ở trong tâm hồn là hạnh phúc tột cùng, là hạnh phúc vĩnh cửu, là được ở trong Nước Trời.
Vì vậy, sứ mạng của các tông đồ là phải giúp cho mọi người được biết và yêu mến Đức Giêsu, để họ cũng được hạnh phúc đón Thiên Chúa vào tâm hồn mình. Dấu chỉ và thước đo để biết một người có yêu mến Đức Giêsu hay không đó là sống và thực hành lời dạy của Chúa Giêsu: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”.Như thế sẽ không thể có ai nói mình yêu mến Đức Giêsu mà lại chối từ sống theo lề luật của Ngài. Kẻ từ chối giữ giới răn lề luật của Đức Giêsu chắc chắn là người không yêu mến Ngài.
Khi đón nhận và thực hành giới răn, lề luật của Đức Giêsu, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ ơn thánh tẩy và tha thứ của Thiên Chúa. Vì Lời của Chúa Giêsu có sức thanh tẩy và chữa lành tâm hồn, giải thoát chúng ta khỏi sự trói buộc của tội lỗi, gỡ bỏ những cắn rứt của lương tâm, đem lại sự bình an và niềm vui thật sự. Chắc chắn nhiều lần chúng ta đã cảm nhận được ơn bình an và niềm vui này khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Giải tội: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian”.Vì thế gian có thể tạo ra cuộc vui nhất thời nhưng không thể đem lại niềm vui và không thể đem đến bình an trong tâm hồn.
Từ niềm vui và sự bình an trong tâm hồn do Chúa Giêsu ban tặng, các tông đồ đã mạnh dạn lên đường loan báo Tin Mừng, giới thiệu Đức Giêsu và giáo lý của Ngài cho thế giới. Các ông gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, bị chống đối, bắt bớ, hành hạ thể xác và tinh thần, nhưng trong lòng các ông vẫn vui và bình an. Các tông đồ vui vì biết mình có Chúa Giêsu ở cùng và có Chúa Thánh Thần là sức mạnh, là Đấng Bảo Trợ dẫn đường cho các ông. Câu chuyện trong sách Công Vụ cho thấy các tông đồ đã giải quyết tất cả những khó khăn nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Lúc đó, ngay trong nội bộ giáo hội sơ khai đã có nhiều quan điểm khác nhau. Có một số người vẫn muốn níu kéo các tập tục Do thái, họ muốn những anh em dân ngoại khi tin Chúa Giêsu phải chịu phép cắt bì như những người Do Thái. Vấn đề đã đến lúc phải có một quyết định chung cuộc, Ông Phaolô và Barnaba đã lên Giêrusalem để hỏi ý kiến các tông đồ về vấn đề đó. Quả thật, với sự soi sáng và tác động của Chúa Thánh Thần và nhân danh Thánh Thần, các tông đồ đã long trọng tuyên bố: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác…”Với quyết định này, Kitô giáo tách hẳn khỏi Do Thái Giáo để bắt đầu một con đường mới dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Qua biến cố này lại một lần nữa minh chứng cho thấy, Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ mà Chúa Giêsu Phục sinh ban tặng cho Giáo Hội đang hoạt động hết sức mạnh mẽ trên các tông đồ và trong tâm hồn các tín hữu. Chính Thánh Thần dẫn đưa Giáo Hội qua những khúc quanh an toàn và còn thúc đẩy Giáo Hội không ngừng vươn tới mọi miền trên thế giới. Qua dòng thời gian, đã không ít lần con thuyền Giáo Hội bị cuốn theo những cơn sóng của thế trần, con cái Giáo Hội đã nhiều lần sống và hành xử theo thế tục. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi Giáo Hội của Ngài, nhưng đã ra tay che chở và dẫn lối cho Giáo Hội. Cho đến hôm nay, Đấng Bảo Trợ vẫn không ngừng hoạt động trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội vượt qua những khó khăn và những thăng trầm; giúp Giáo Hội đi đúng với con đường mà Chúa Giêsu muốn, đó là con đường đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho toàn thế giới.
Cuộc sống ngày nay tuy hiện đại, nhưng con người dường như cảm thấy không an toàn, họ dễ dàng bị cuốn theo những đợt sóng, trào lưu của xã hội. Con người vẫn cứ muốn tìm kiếm một cuộc sống an toàn hơn, tốt đẹp hơn cho mình và gia đình. Các thứ quảng cáo của xã hội làm thông tin và sự thật bị xáo trộn khiến cho con người không biết dựa vào ai, tin vào ai. Cảm giác bất an này cũng đang ảnh hưởng trên đời sống đức tin của nhiều người, khi chứng kiến các hình thức mê tín, tâm linh, được nhiều người ủng hộ. Nhiều Kitô hữu bị dao động trong đời sống đức tin hoặc để cho đức tin của mình bị sa sút biến thành những hình thức mê tín, cuồng tín, theo các hình thức ngoại giáo. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần cậy dựa vào Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Ngài vẫn đang hoạt động liên lỉ trong Giáo Hội để giúp mỗi chúng ta trở về với đúng con đường của Chúa Kitô. Chúng ta cần phải cầu nguyện với Ngài, và mạnh dạn bước theo sự soi sáng hướng dẫn của Ngài. Ngoan ngoãn vâng theo sự chỉ dạy của Thánh Thần, chúng ta sẽ sống đúng theo ý Chúa.
Chúa Thánh Thần chính là Đấng đã hoạt động mạnh mẽ trên các tông đồ, biến đổi các ông thành những con người đem Tin Mừng đi chinh phục thế giới. Chúa Thánh Thần cũng đang hoạt động trên chúng ta, Ngài thúc đẩy, mời gọi chúng ta và chờ đợi chúng ta đáp trả lại bằng việc thực hiện theo những gì Ngài hướng dẫn. Trách nhiệm của chúng ta là làm sao để nghe được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Ngài sẽ nói với chúng ta trong sự tĩnh lặng của tâm hồn, Ngài sẽ tác động trên trí khôn và thúc đẩy ta ước ao làm những điều thiện ích cho anh em.
Xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã đổi mới các tông đồ, biến các ông thành những con người hăng say đem Tin Mừng của Chúa đến cho muôn dân, cũng biến đổi bản thân và gia đình mỗi người, gỡ bỏ khỏi ta những thói quen và nếp sống cũ không phù hợp với Tin Mừng. Xin Thánh Thần Chúa giúp chúng ta sống con người mới, trưởng thành hơn trong đức tin và nhiệt thành hơn trong nhiệm vụ chúng ta đang đảm nhận nơi gia đình và cộng đoàn. Amen.
Để ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta phải xác quyết Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, như lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong buổi đọc kinh truyền tin hôm Chúa Nhật 19/05/2019 vừa qua: “Chúa Giê-su đã yêu chúng ta trước. Ngài yêu chúng ta mà không màng chi đến sự mỏng dòn, giới hạn và yếu đuối của loài người chúng ta. Chính Chúa đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng với tình yêu không giới hạn và vĩnh cửu của Ngài”. Như một người con biết rằng cha mẹ là người yêu nó, đã sinh thành dưỡng dục nên nó, để “rồi lớn lên con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương, dù có ai hy sinh cho con, dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”. Khi nhận ra được tình yêu của người khác dành cho mình, ta sẽ tìm mọi cách để đáp trả.
Biết được Chúa yêu thương ta, dù ta bất xứng, dù ta phản bội, nên hãy tận dụng tối đa thời gian, sức lực, và khả năng để ở với Chúa trong cầu nguyện, trong việc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Giải tội và Mình Máu Thánh Chúa, tham dự những việc đạo đức, hướng tâm hồn ta về những thực tại cao cả… Lạ lùng thay khi càng làm những việc đạo đức, ta càng yêu mến Chúa và càng cảm thấy chưa đủ; ngược lại khi ta lơ là với Chúa thì cứ nghĩ rằng mình làm được vài việc là đã dành cho Chúa nhiều lắm rồi, một sự tiếc nuối nỗi lên trong ta để ta dành lại một chút gì đó cho bản thân mình.
Ở lại với Chúa trong việc gặp gỡ Chúa nơi những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh. Khi càng gặp những người nghèo khổ, bất hạnh, ta càng cảm thấy tình yêu trong ta được thôi thúc để san sẻ phần nào với họ.
Nói tóm lại khi có tình yêu ta sẽ làm được mọi sự. Cụ thể, khi cảm nhận được Chúa yêu thương ta, thì việc thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự là lẽ đương nhiên, nên ta sẽ không tìm đến với những thần minh, thế lực khác, không mê tín dị đoan, không cầu cơ bói toán… Khi đã yêu Chúa thực sự thì chẳng những ngày Chúa Nhật, mà cả những ngày thường và những nơi nào có Thánh lễ mà ta hay biết, ta cũng tìm đến một cách hăng say nhiệt tình để được thờ phượng Chúa. Khi đã yêu mến Chúa, ta nhận thấy nơi người khác sự hiện diện của Chúa nên ta kính trọng yêu mến họ, cụ thể là cha mẹ và mọi người xung quanh ; ta không làm hại họ ; ta không lạm dụng họ ; ta không muốn chiếm đoạt họ ; ta không vì đam mê dục vọng riêng tư mà làm những chuyện tà dâm hoặc ngoại tình vì như thế là xúc phạm đến tình yêu của ta…
Hội thánh Việt Nam biết đến gương của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp vì đã liều mình chết thay cho hơn 40 giáo dân tại Tắc Sậy. Nhiều người Việt Nam biết đến câu chuyện người mẹ mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối nhưng đã từ chối điều trị để giữ lấy đứa con, và ngày 21/05 vừa qua, biết sức khỏe của chị đã suy yếu, nên các bác sĩ đã mổ để bắt con cho chị, ca mổ ngập tràn nước mắt vì chị không đủ sức và không thể nằm, mà phải ngồi để được phẫu thuật. Tình yêu của người mẹ đã dành trọn vẹn cho đứa con của mình…
Đức Giêsu trong những lời trăn trối cuối cùng trong bữa Tiệc Ly, Người đã căn dặn các môn đệ PS 6-C182
Đức Giêsu trong những lời trăn trối cuối cùng trong bữa Tiệc Ly, Người đã căn dặn các môn đệ :” Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy “ ( Ga 14,23 ). Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu hôm nay vẫn là những lời trăn trối đầy yêu thương của Chúa đối với nhân loại, đối với mỗi người. Bởi vì, Chúa là Chúa chung của mọi người. Mỗi người đều được Chúa yêu thương, săn sóc vì Người đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).
Người ta có thuật lại câu chuyện về Gandhi, một Vị thánh sống của Ấn Độ, Ông rât ham Thánh Kinh, nghiền gẫm Kinh Thánh, một hôm Ông tới một Nhà thờ nhưng người ta đã ngăn cản Ông và nói Ông đến một Nhà thờ dành cho người da mầu. Từ đó Ông không bao giờ tới Nhà thờ nữa! Ngăn cản Gandhi tới Nhà thờ, một cách nào đó người ta đã cản Ông không được gặp gỡ Chúa để nghe Chúa nói, và dạy dỗ Ông hầu Ông có thể tuân giữ lời Chúa và dạy dỗ người khác tuân giữ lời của Chúa. Trong lời trăn trối cuối cùng ở Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã bộc rằng các Ông phải tuân giữ lời của Người, và Người nói với các Tông đồ rằng các Ông phải tuân giữ điều Chúa dạy và giảng lại cho mọi người những điều Chúa đã dạy các Ông. Người xác quyết ai giữ lời Người thì thuộc về Chúa. Rồi Chúa con dạy cho các Tông đồ biết, Thiên Chúa Cha sẽ ban Thánh Linh để soi sáng cho các Ông hiểu rõ hơn những điều, những phép lạ Người đã làm, những lời mà Người đã nói, đã dạy dỗ vv…Khi căn dặn các điều trên, Chúa ban bình an cho các Tông đồ :” …Thầy ban cho anh em bình an của Thầy “ ( Ga 14, 27 ). Chúa khẳng định bình an mà Người trao cho các Tông đồ là thứ bình an vĩnh viễn, chứ không phải là sự bình an giả tạo, mau qua thế gian thường trao cho nhau.
Vâng, bình an Chúa trao cho các Môn đệ, Tông đồ và ban cho ngay cả chúng ta là bình an bền vững, chân thực, sự bình an tin tưởng và phó thác nơi Người, vì tin rằng Chúa luôn hiện diện giữa chúng ta. Sụ bình an Chúa tặng ban là sự bình an giúp nhân loại, chúng ta luôn tin tưởng dù rằng có lúc chúng ta gặp thử thách, bão bùng, giông tố, khi gặp những khó khăn nghịch cảnh, hảy cả những bách hại vì đức tin.Đây là sự bình an mà mỗi người chúng ta luôn cảm nghiệm được khi chúng ta biết sống an bình trong tâm hồn, biết sống trong sạch :” Tay sạch lòng thanh “. Bình an của những tâm hồn nhỏ bé, tâm hồn của những người nghèo của Thiên Chúa, luôn biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, luôn biết nói lời xin vâng như Đức Mẹ…Linh hồn tôi ngợi khen Chúa…Người đã nâng cao kẻ khiêm nhượng…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ
luôn biết nói lời “ Xin Vâng “ làm theo ý Chúa và biết thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa nói :” Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy…”, có ý nghĩa gì ? 2.Lời của Chúa Giêsu hôm nay được Người nói ở đâu ? 3.Tại sao Chúa lại ban bình an cho các Tông đồ ? 4.Sự bình an Chúa ban có khác với bình an thế gian trao không ?
Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng: khi con người thoát ra khỏi lối sống PS 6-C183
Với sự tiến bộ của văn minh nhân loại, người ta tưởng rằng: khi con người thoát ra khỏi lối sống hoang dã lạc hậu, sẽ làm cho thế giới an bình và lành mạnh hơn. Thế nhưng, nói theo kiểu Nguyễn Du “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Chiến tranh dải Gaza vẫn kéo dài. Chiến tranh vì quyền lực vẫn sôi bỏng hằng ngày, hằng giờ. Nhóm lợi ích vẫn tranh giành nhau và để mặc người dân sống trong cảnh đói khổ bần cùng. Xem ra sự văn minh đã làm cho con người vong thân đôi khi đánh mất tính người. Mới đây, cả nước đều xôn xao vì tài xế xe container đã lạnh lùng tông vào hàng chục người đang đứng chờ đèn đỏ. Một vụ giết người rồi đổ bê tông trên xác nạn nhân để phi tang. Mỗi ngày khi khám xét các nơi nhạy cảm như vũ trường, quán Karaoke, các tiệm hớt tóc . . .; người ta đã bắt được biết bao cậu ấm, cô chiêu đã bỏ trường bỏ lớp để tìm niềm vui điên loạn trong ma tuý và mại dâm. Cuộc sống vẫn nhan nhản những lừa đảo, tham ô. . . Vì tiền mà người ta vẫn chà đạp lên nhau và làm hại lẫn nhau.
Làm sao cuộc đời lại khổ đau và bất an như vậy? Phải chăng vì thế giới vắng bóng Chúa nên chỉ còn tranh chấp quyền lực và chà đạp lên nhau? Thực vậy, năm xưa khi Adam – Eva loại trừ Thiên Chúa thì đời sống họ đi vào bất an và khổ đau. Mô-se đã từng run sợ trước quyền lực của Pharao nhưng khi Chúa hứa ở cùng ông, Mô-se đã không còn sợ mà còn mạnh dạn dẫn dắt dân ra khỏi Ai Cập. Và khi Mô-sê qua đời, ông chọn Giosua tiếp tục sứ mạng dẫn dắt dân về đất hứa, Giosua đã từ chối vì sợ mình không đủ khả năng.. Mô-sê đã nói: “Thiên Chúa sẽ ở cùng con”. Và quả thực Giosua đã đánh bại quân thù để dẫn dân vào đất hứa. Như vậy, bình an thực sự khi con người biết đặt mình dưới sự che chở hướng dẫn của Thiên Chúa.
Các tông đồ năm xưa chỉ có được sự bình an và lòng can đảm để làm chứng cho Chúa chính là dựa vào niềm tin vào Đấng đã phục sinh. Các ngài tin rằng Đấng phục sinh vẫn hằng ở bên họ, nên họ chẳng sợ nghi nan. Họ lướt thắng mọi khó khăn, và nhất là có thể làm mọi việc vượt khả năng mình.
Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng thế giới an lành thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ việc“Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” để biết sống theo gương Thầy luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ở lại trong Thầy để biết nghe theo tiếng nói sự thật. Sống theo sự thật sẽ giúp cho con người có một tâm hồn an bình. Và sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa, con người sẽ sống hoà hợp với nhau, yêu thương, tha thứ và đùm bọc lẫn nhau.
Người môn đệ biết ở lại trong Chúa thì không chọn vinh quang cho mình nhưng luôn hy sinh để cho Chúa được rạng ngời. Ở lại trong Chúa là để Chúa tác động mình nên giống Chúa hơn khi biết hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.
Thực vậy, nhiều người dám sống gian dối lừa đảo, lợi dụng Lòng Thương xót để dẫn dắt người nhẹ dạ tin vào họ có thể chữa lành ban ơn. Chỉ cần họ đặt tay là đuợc chữa lành dần dà họ được tôn vinh còn Chúa thì bị lu mờ. Mặc cho nhiều lời đồn ra tiếng vào nhưng họ vẫn bịt tai để được sống trong hoà quang giả tạo do mình tạo ra.
Nhưng thực lòng,cuộc đời họ cũng không có an bình và hạnh phúc. Họ đi tìm an bình và hạnh phúc trong những của cải thế gian, nhưng thế gian và ma qủy không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ sẽ không có một đời sống an bình nếu không đi theo chân lý và sự thật.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đường, là sự thật và là sự sống dẫn dắt chúng ta đi trong đường ngay nẻo chính. Xin dẵn dắt chúng ta sống theo sự thật và đi đến sự sống trường sinh. Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ luôn gìn giữ hồn xác chúng ta khỏi mọi sự dữ và luôn nhắc nhở chúng ta sống theo chân lý và sự thật. Amen
“Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”(Ga 14,27).
Sự bình an của Đức Giê-su là gì? Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã nghe thánh Phao-lô và Ba- PS 6-C184
Sự bình an của Đức Giê-su là gì?
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã nghe thánh Phao-lô và Ba-na-ba nói: “Chúng ta phải chịu đau khổ mới được vào Nước Trời” (x. Cv 14,22) và trước đó, khi Đức Giê-su còn đang rao giảng Tin Mừng, đã ba lần Ngài loan báo cuộc khổ nạn của Ngài: “Con người sẽ phải chịu đau khổ, bị các Kỳ Mục, Thượng Tế cùng Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (x. Mc 8,31).
Nghe những lời đó, ai trong chúng ta mà không lo lắng, không sợ hãi? Chính Đức Giê-su cũng đã lo buồn và sợ hãi khi cầu nguyện cùng Cha trong vườn Giệt-si-ma-ni: “Áp-pa, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén đắng này khỏi con. Nhưng đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha” (x. Mc 14,36).
Dù có lo lắng hay sợ hãi thì chúng ta cũng phải chịu nhiều đau khổ thôi, không chạy đâu cho thoát được. Nếu ta từ chối không chấp nhận, thì ta theo đường lối của con người, hơn nữa đó là đường lối của Sa-tan. Ta đã biết khi, Đức Giê-su loan báo như thế thì Phê-rô can gián Người. Nhưng Đức Giê-su nói: Sa-tan, hãy lui ra đàng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người(x. Mc 8,32-33).
Đức Giê-su nói: “Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi xảy ra, để khi xảy ta anh em tin”( Ga 14,29). Quả thật, khi ta biết trước khi những khó khăn, những khổ đau trước khi nó xảy ra thì ta sẽ không sợ, nhưng ta sẽ bình thản đón nhận, với lòng tin vào Chúa và tin vào Lời Chúa. Khi đó ta sẽ có bình an. Sự bình an này chính là dự bình an của Đức Giê-su để lại và ban cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta.
Sự bình an này quí và rất cần thiết cho đời sống đức tin của chúng ta. Trong những nỗi gian truân, đau khổ, khó nhọc mà có được sự bình an trong hồn thì quí hóa biết chừng nào. Chính sự bình an này sẽ nâng đỡ và giúp chúng ta có sức để chịu đựng tất cả, tin tưởng tất cả, chấp nhận tất cả, hy sinh tất cả mà bền đỗ cho đến cùng; làm cho đến cùng.
Sự bình an này không phải là không có chiến tranh, không có tranh chấp, không có ghen tị, không có hãm hại.Không. Sẽ có tất cả những thứ đó, nhưng dù có ta vẫn có sự bình an trong tâm hồn và bình tĩnh giải quyết mọi sự cho êm đẹp. Thường thì ta dễ mất bình tĩnh khi những sự ấy xảy ra; ta dễ nóng nảy, ta dễ than trách, ta dễ phàn nàn và ta dễ mất lòng tin lắm. Ta than trời, trách đất; ta than như bọng; ta kêu như ong vỡ tổ; ta than người, trách Chúa. Và đương nhiên ta sẽ không có bình an rồi. Ta làm cho ma quỉ nó vui; ta làm cho người xấu mừng, vì ta đã bị “sập bẫy”.
Ta đã chẳng nghe Lời Chúa nói qua sách Khôn ngoan sao! “Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền lành làm sao và thử nó xem nó nhẫn nhục đến mức nào” (Kng 2,19). Đấy là “cạm bẫy” của Sa-tan và những người xấu đấy!!!! Ta mà không tỉnh thức và không tin vào Chúa cũng như không sống Lời Chúa, ta dễ bị “sập bẫy” lắm.
Khi ta tin vào Chúa và sống Lời Chúa thì ta sẽ giữ Lời Chúa. “Giữ” đây là tuân giữ, chứ không phải giữ khư khư Lời Chúa trong tay. Nghĩa là biết và đem Lời Chúa ra thực hành; đem Lời Chúa ra mà sống, khi đó ta là người yêu mến Chúa. Chúa là Thần, không có hình dáng như con người chúng ta, liệu chúng ta có yêu mến Chúa được không? Ngay Đức Giê-su cũng vậy, xưa kia Ngài sống ở đất Do-thái, thì các môn đệ hay người sống đồng thời mới thấy được Ngài, còn chúng ta bây giờ đâu có thấy được Chúa, làm sao mà ta yêu mến Chúa cho được.
Thực ra, lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa không phải là tình cảm của con tim, như hai người yêu nhau hay như cha mẹ yêu thương con cái hoặc bạn bè thương nhau mà hệ tại ở lý trí, đó chính là việc chúng ta hiểu biết và tuân giữ Lời Chúa. Chính Đức Giê-su đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người đó. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người đó” (Ga 14,23). Có Chúa thì ta sẽ có bình an thôi, chạy đâu cho thoát.
Ta không thể tuân giữ Lời Chúa nếu ta không biết và không hiểu Lời Chúa. Người ta nói: “Vô tri thì bất mộ” mà. Không thấy thì không yêu; không hiểu thì không giữ và không biết thì không đem ra thực hành. Thiên Chúa, Đức Giê-su, ta không thấy nhưng ta có thể biết về Ngài.
Về Thiên Chúa, qua thiên nhiên và vạn vật; cứ nhìn xem trời đất muôn vật là ta phải biết có Đấng dựng nên tất cả, chứ không phải ngẫu nhiên hay tự nhiên hoặc do vụ nổ “Bigban” mà có. Nổ thì chết queo hết chứ làm gì có sự sống và tốt đẹp như thế. Đấng dựng nên tất cả đó ta gọi là Thiên Chúa. Ngài là Đấng Tạo Hóa hay Đấng Hóa Công. Dó đó ta phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
Về Đức Giê-su, qua Tin Mừng và qua Giáo Hội, chúng ta biết được Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho chúng ta và đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh để cứu độ chúng ta. Vì thế ta phải nhận biết và yêu mến Người.
Yêu mến Thiên Chúa thì giữ Lời Thiên Chúa; yêu mến Đức Giê-su thì giữ Lời Đức Giê-su. Nói tóm là chúng ta tuân giữ lời Thiên Chúa, vì Thiên Chúa và Đức Giê-su là một (x. Ga 10,30) và “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là Lời của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 14,24).
Vậy chúng ta hãy nghe và tuân giữ Lời Chúa, đó là việc nói lên lòng chúng ta yêu mến Chúa và khi tuân giữ Lời Chúa chúng ta sẽ nhận được sự bình an của Chúa. Sự bình an mà Đức Giê-su đã để lại và ban tặng cho chúng ta. Đó cũng là sự bình an mà khi phục sinh, Đức Giê-su đã ban cho các tông đồ. Để trong thánh lễ, khi chúc bình an cho nhau, ta hãy chúc và chia sẻ sự bình an đó cho nhau; nếu không thì ta chỉ chúc bằng môi bằng miệng không mà thôi.
Khi dạy bảo môn đệ, Đức Giê-su thường hay dùng cách nói tương phản với ngụ ý làm nổi bật. PS 6-C185
Khi dạy bảo môn đệ, Đức Giê-su thường hay dùng cách nói tương phản với ngụ ý làm nổi bật ý chính. Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/TN-C – Ga 14, 23-29) là một ví dụ: Đó là câu nói: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Bình thường, khi người ta đang sum họp với nhau, mà có việc phải ra đi, thì nói lời “từ biệt anh em để ra đi”. Ra đi là rời khỏi nơi đang cư ngụ, đang sống với những người thân cận; để đến một nơi khác với những người khác. Vậy mà khi từ giã các môn đệ để bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su lại nói: “Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14, 28). Đức Ki-tô đang ở cùng các môn đệ, bây giờ Người “ra đi”, vậy thì làm sao mà “đến cùng” anh em? Đó là chưa kể Đức Giê-su “đi về” cùng Chúa Cha thì làm sao “đến cùng” anh em cho được?
Tuy nhiên, nếu bao quát toàn bộ cuộc đời trần thế của Chúa Giê-su thì sẽ thấy cuộc sống đó luôn luôn và mãi mãi là một cuộc xuất hành (ra đi). Khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người thì đó chính là cuộc “ra đi và đến cùng anh em”, và bây giờ ra đi chịu khổ nạn để chiến thắng sự dữ thì cũng là lúc “đi về cùng Chúa Cha”. Nói đến xuất hành là nói đến lộ trình và vì thế nên những cuộc “ra đi” để “đến với” thường được gọi là hành trình. Lộ trình mà Đức Giê-su thực hiện những cuộc xuất hành chính là Đại Lộ Tình Yêu từ khởi điểm Thiên Chúa Tình Yêu đến với nhân loại. Đức Giê-su đã khởi đi từ Trái Tim Nhân Hậu của Thiên Chúa Cha – Người đã “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” cho nhân loại (Ga 3, 16). Vâng lệnh Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2, 7). Người từ bỏ cõi trời để đến “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Hành trang và phương tiện cho cuộc ra đi của Con Thiên Chúa không phải là những tiện nghi vật chất của nhân loại (y phục, đồ ăn thức uống, ngựa xe…), mà Người chỉ mang theo Trái Tim Yêu Thương vô hạn của Thiên Chúa.
Một cách cụ thể, cuộc Xuất Hành của Đức Giê-su không chỉ là con đường một chiều từ Thiên Chúa đến với nhân loại, mà là hai chiều, đem Thiên Chúa đến cho nhân loại và đem nhân loại về với Thiên Chúa. Vai trò trung gian của Đức Giê-su là sự nối liền đường dây chuyển tải sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Người chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời Hằng Sống, vì thế Người đến để những kẻ tin được sống dồi dào bằng Lời của Thiên Chúa (Ga 10, 10). Thật vậy, “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Lời là nội dung những gì Thiên Chúa muốn nói với nhân loại, là Tình Yêu mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhưng không cho con người qua Đức Ki-tô. Để con người có thể đón nhận và sống, Thiên Chúa Cha còn chu đáo hơn khi ban tặng một Thầy Dạy là Thần Khí Sự Thật, là Đấng Bảo Trợ, “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Hoá cho nên, “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ Lời Thầy. Và Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.” (Ga 14, 23-24).
Như vậy là đã rõ, trước giờ Thương Khó – cuộc Xuất Hành từ thế gian về với Chúa Cha – Đức Giê-su thay vì lo âu phiền muộn vì sắp phải chịu một cực hình đến nỗi mất cả mạng sống, Người lại muốn chia sẻ niềm vui với các môn đệ. Niềm vui ấy xuất phát từ Tình Yêu, vì chỉ trong tình yêu, các môn đệ mới có thể hiểu được ý nghĩa đích thực cuộc ra đi của Thầy. Mặc dù đã được tiên báo từ Cựu Ước (Is 53, 1-12) và chính Đức Giê-su cũng báo trước cho các môn đệ (“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.” – Mc 8, 31); nhưng cuộc ra đi lần này của Đức Giê-su vẫn làm các môn đệ thực sự xao xuyến và sợ hãi. Vì thế, Đức Giê-su mới chúc lành và khuyên bảo các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 27).
Ngay từ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và nhất là từ ngày Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, mỗi lần nói chuyện với các môn đệ, Đức Giê-su đều chúc: “Bình an cho anh em!” Trong bài Tin Mừng hôm nay, Người xác định sự bình an Người ban không phải là sự bình an tạm bợ của thế gian, nhưng là sự bình an đích thực, sự bình an bền vững trong tâm hồn có Thiên Chúa Tình Yêu ngự trị. Sự bình an đó chính là hoa trái của Tình Yêu trong tương quan hai chiều giữa “cho” và “nhận”; và chỉ có tình yêu thật sự mới có thể giúp con người sống trong an bình đích thực và hạnh phúc viên mãn, đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã của ba thù khiến tâm hồn xao xuyến và sợ hãi. Sự bình an trong Chúa giúp người tín hữu luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin.
Tóm lại, từ cuộc xuất hành “ra đi và đến cùng anh em” (Ngôi Lời nhập thể đem Thiên Chúa đến cho loài người) đến cuộc xuất hành “trở về cùng Chúa Cha” (đem nhân loại về với Thiên Chúa), Đức Giê-su đã minh chứng Người chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, và sứ vụ Người vâng lệnh Chúa Cha thực hiện để cứu độ nhân loại cũng chỉ có thể là sứ vụ Tình Yêu. Tình Yêu đích thực sẽ trổ sinh hoa trái là sự bình an và đó chính là hệ quả tất yếu của sự tôn vinh Tình Yêu. Nói cách khác, đó chính là lời chúc thần thiêng đêm Giáng Sinh được các thiên sứ loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy vui mừng, hãnh diện học hỏi và thực hành Lời dạy của Thầy Chí Thánh, mà “ra đi và đến với anh em”, nhất là những anh em chưa được tiếp cận với Lời Chúa. Ước được như vậy. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Ðức Ki-tô sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con cho đáng hưởng sự sống đời đời. Xin làm cho mầu nhiệm ấy sinh hoa kết quả tốt đẹp trong tâm hồn chúng con, và làm cho thần lương chúng con vừa lãnh nhận trở nên nguồn sinh lực dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật VI Phục Sinh).
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm chia tay. Chào tạm biệt không khó mấy bởi vẫn còn hy PS 6-C186
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm chia tay. Chào tạm biệt không khó mấy bởi vẫn còn hy vọng trong tương lai gần có ngày gặp lại. Nói lời vĩnh biệt khó hơn nhiều bởi ngày gặp lại xa vời vợi, không còn hứa hẹn. Đây chính là kinh nghiệm Đức Kitô và các môn đệ trải qua trong tuần cuối đời của Đức Kitô trên trần thế. Đức Kitô biết rõ thời gian Ngài giã từ trần thế để về cùng Chúa Cha rất gần, Ngài tâm sự với các môn đệ. Nhiều lần trước đó Ngài đã tâm sự cùng các ông nhưng hầu như các ông không mấy chú í. Lần này, Đức Kitô nói rõ hơn và hướng dẫn các ông cần phải làm gì để liên kết với Ngài. Lần tâm sự này cũng không khá hơn những lần khác là bao bởi các môn đệ không muốn việc chia tay xảy ra.
Đức Kitô vạch ra cho các môn đệ hai sự thật: Ngài sẽ chia tay tạm biệt các ông và cùng trong lúc đó Ngài hứa hiện diện cùng các ông. Điều này xem ra có vẻ nghịch lí và các ông không thể nào hiểu được. Làm thế nào Đức Kitô cùng một lúc vừa có thể vừa hiện diện, lại vừa vắng mặt. Vì thế Đức Kitô chỉ cho các ông cách làm thế nào nhận biết Ngài đang đồng hành cùng các ông.
Trước tiên Ngài nói đến tình yêu mến. Ai yêu mến Đức Kitô thì tuân giữ lời Ngài truyền dậy. Đức Kitô không đi nơi xa lạ nhưng là về cùng Chúa Cha. Vì thế ai yêu mến Đức Kitô sẽ được Chúa Cha yêu mến và ở trong nhà Chúa. Ở trong nhà Chúa sẽ gặp lại Đức Kitô (câu 23). Đó là cách thứ nhất liên kết với Đức Kitô.
Cách thứ hai để liên kết với Đức Kitô là qua Thánh Thần Chúa. Ai yêu mến Đức Kitô sẽ không cô đơn nơi trần thế nhưng có Thánh Thần Chúa ở cùng. Thánh Thần Chúa là món quà tuyệt vời Đức Kitô trao ban cho những ai tuân giữ lời Ngài. Thánh Thần sẽ hướng dẫn, chỉ bảo, giúp thông hiểu điều Đức Kitô truyền dậy. Nghe hướng dẫn của Thánh Thần chính là nghe lời của Đức Kitô (câu 26). Đối với Đức Kitô yêu mến Thiên Chúa và tuân giữ lời Chúa là hai sự việc không thể tách rời. Yêu mến mà thiếu hành động là yêu suông, hành động thiếu tình yêu là chiều theo í riêng.
Thứ ba, ai yêu mến Thiên Chúa sẽ nhận được bình an trong tâm hồn. Bình an của Đức Kitô trao tặng, không phải cho tất cả mọi người, mà ban riêng cho những ai yêu mến, thực hiện Lời Ngài (14,27). Ơn an bình Chúa ban không giúp giúp người đó tránh xa biến cố, đau khổ, bất an trong đời mà chính là biến người đó trở thành người mang bình an lại cho tha nhân. Biến họ trở thành người con người bình an, sống hiền lành, chân thật, tôn trọng sự sống mình và sự sống người khác. Cuộc tử nạn của Đức Kitô chính là sự dữ do con người tạo ra, qua sự dữ đó Đức Kitô mang ơn cứu độ cho nhân trần. Thiên Chúa yêu thương có thể biến đổi sự dữ thành sự lành, thành nguồn ơn cứu độ vì thế qua đau khổ, tang thương của ta kết hợp với Đức Kitô, Thiên Chúa sẽ biến chúng thành hào quang vinh hiển ca tụng Thiên Chúa và là nguồn ơn cứu độ chúng sinh. Chúng ta cầu xin biết sống yêu mến, thực hiện lời Chúa trong cuộc sống để qua hành động yêu thương người ta nhận biết và tin Thiên Chúa.
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su dạy chúng ta về giới luật yêu thương của PS 6-C187
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su dạy chúng ta về giới luật yêu thương của Người: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau.” Có nghĩa là Chúa cấp cho chúng ta một thẻ thông hành để trở thành công dân và vào Nước Thiên Chúa. Thể thông hành của Chúa cấp không tùy thuộc vào chủng tộc, màu da, ngôn ngữ hay tập quán, mà tùy vào giới luật yêu thương của Người.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lại được nghe Chúa dạy về luật yêu thương. Chúa cho chúng ta biết: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.” Khi nói như thế, Chúa cho chúng ta biết ranh giới của sự hiện diện của Người không giới hạn hay không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng trải rộng đến những tấm lòng biết yêu thương, có lòng bác ái, hy sinh và quảng đại. Vì thế, điều quan trọng mà chúng ta phải quan tâm là: có Chúa hay không, tùy thuộc vào có sống giới luật yêu thương của Chúa hay không. Sự hiện diện của Chúa không giới hạn tại nhà thờ, danh hiệu Ki-tô hữu, giấy chứng nhận hay sổ gia đình Công giáo, hay kinh nào, nhóm hay hội nào, hay dòng nào, nhưng ở những tấm lòng biết sống yêu thương.
Có bao giờ chúng ta tự hỏi: “Làm sao biết chắc được chúng ta thực sự yêu mến Chúa và có Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta?” “Có phương cách nào giúp chúng ta biết chúng ta yêu mến Chúa?” Và “Làm sao chúng ta biết chúng ta yêu mến Chúa nhiều hay ít?”
Xin thưa: có một bằng chứng cho chúng ta biết có yêu mến Chúa hay không, đó là chúng ta có tuân giữ, thực hành lời Chúa dạy hay không. Và chúng ta có thể nhìn vào việc sống lời Chúa của chúng ta để đo độ yêu mến Chúa của chúng ta nhiều hay ít. Giữ nhiều là yêu mến nhiều, giữ ít là yêu mến ít. Thí dự như nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Chúa mà chúng ta không sống Lời Chúa dạy, hay chỉ làm những điều chúng ta ưa thích thì có khác gì đứa con gọi dạ, bảo vâng, nhưng chỉ vâng vâng, dạ dạ, rồi làm ngơ hay không làm điều cha mẹ dạy bảo, thì tình yêu của chúng ta chỉ là thứ tình yêu điều kiện, tính toán, không chân thật, hay giả hình, thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi, hay hình thức bên ngoài. Chúa dạy chúng ta phải yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết sức và hết trí khôn, như thế người yêu mến Chúa thật là người yêu Chúa không những bằng lời nói mà còn bằng chính hành động, bằng cuộc sống.
Tất cả chúng ta đều biết đạo của chúng ta là đạo yêu thương, và chúng ta xác tín rằng Lời Chúa là chân lý, là sự thật và là nền tảng đời sống Kitô hữu của chúng ta. Nhưng Lời Chúa chỉ có ơn ích và sinh hoa trái tốt khi chúng ta tuân giữ và sống Lời Chúa. Vì thế chúng ta thường nghe Chúa nhấn mạnh đến ích lợi và giá trị về việc thực hành Lời Chúa là xây nhà trên đá. Và Chúa còn nói: “Ai nghe và thực hành lời Chúa là anh chị em và mẹ ta.” Bởi vậy nghe mà không thực hành thì là tự lừa dối mình. Còn nếu chúng ta tin, yêu Lời Chúa và can đảm thực hành thì là bằng chứng tình yêu mến Chúa của chúng ta, và Chúa sẽ đến và ở trong cuộc sống của chúng ta. Và nếu có Chúa hiện diện trong cuộc sống thì chúng ta sẽ có sự bình an của Chúa ngự trị trong tâm hồn.
Trước khi về trời, Chúa biết các môn đệ sẽ phải đối diện với những khó khăn và thử thách khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Người. Vì thế Chúa hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần và bình an cho các ông. Chúa bảo các ông đừng xao xuyến và sợ hãi nhưng hãy sống bình an, vì chính Người ban bình an đó.
Chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với nền khoa học, kỹ thuật và y tế tiến bộ có thể nói là nhất thế giới. Chúng ta cũng đang hưởng những phương tiện và có đời sống đầy đủ về vật chất. Thế nhưng chúng ta không thể tránh được những lo âu, sợ hãi trong đời sống hàng ngày. Chúng ta không lo sợ về phương diện vật chất hay cơm ăn, áo mặc, nhưng về những sự trộm cắp, thiên tai, gió cuốn, bão lụt hay tai nạn có thể xảy đến bất cứ lúc nào, nơi nào. Chúng ta có những âu lo về đời sống gia đình, vợ chồng, con cái hay lo sợ lòng người tráo trở và gian dối. Ngoài ra chúng ta cũng lo sợ về cuộc sống tương lai, những sự đau yếu, bệnh tật và những hoàn cảnh ngang trái, khó khăn.
Vì thế, ai trong chúng ta cũng khao khát, mong ước và tìm kiếm sự bình an. Bình an là cần thiết hơn cả vật chất và tiền bạc. Có tiền bạc, vật chất mà không có bình an thì sẽ bất an và sinh ra nhiều thứ bệnh tật. Bình an có nghĩa là một tình trạng mạnh khỏe cả xác lẫn hồn. Trong cuộc sống, có lẽ chúng ta đã từng đi tìm bình an. Chúng ta mua bảo hiểm nhà, xe cộ, công việc, sức khoẻ và sinh mạng. Nhưng tất cả những thứ bình an trên đây chỉ là những thứ bình an vật chất, bên ngoài của thế gian này thôi. Vì thế, Chúa nói với chúng ta bình an của Người không như của thế gian ban tặng. Bình an của Người không phải là thứ bình an tạm bợ, giả tạo, bên ngoài, nhưng là bình an bên trong tâm hồn. Có bình an bên ngoài mà không có bình an trong tâm hồn là chưa có bình an thật của Chúa.
Bình an của Chúa là gì? Là sự thư thái, an hòa trong tâm hồn, nhận biết Chúa là Đấng tạo dựng, Đấng ban cho chúng ta ơn lành, sự sống, sức khỏe, và những gì chúng ta đang có, để chúng ta biết sống cảm tạ, tri ân, và thờ kính Chúa trên hết và trước hết mọi người và mọi sự trong cuộc sống, luôn luôn tin tưởng phó thác, vâng theo thánh ý và sống Lời Chúa dạy, và hoàn toàn bằng lòng với sự quan phòng của Chúa. Bình an của Chúa là có một tâm hồn tốt lành, khiêm nhường, đã được giao hòa với Thiên Chúa, sống công bằng với Chúa và sống công bằng, hiền hòa, có lòng hy sinh, bác ái và quảng đại với mọi người.
Chúng ta còn phải đối diện với nhiều thử thách, khó khăn trong cuộc sống, nhưng chúng ta vững lòng tin vào Chúa quan phòng. Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, ban cho chúng ta sự bằng an của Chúa, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cố gắng và thành tâm sống giới luật yêu thương Chúa dạy, để Chúa luôn hiện diện trong đời sống chúng ta.
Trong những ngày này, việc khám khá ra nguyên nhân làm cá biển chết hàng loạt ở miền Trung khiến PS 6-C188
Trong những ngày này, việc khám khá ra nguyên nhân làm cá biển chết hàng loạt ở miền Trung khiến người dân phẫn nộ và thu hút sự quan tâm của báo giới. Thì ra công ty Formosa (Đài Loan) bấy lâu nay vẫn ngấm ngầm hàng ngày xả một khối lượng nước thải khổng lồ ra biển mà người dân không hề hay biết, đến khi “cháy nhà ra mặt chuột” thì đại diện của công ty lại có những phát ngôn vô trách nhiệm, đến mức coi thường và xúc phạm người Việt Nam, khiến dư luận dậy sóng. Cũng trong những ngày này, truyền thông nói nhiều đến thực phẩm bẩn. Đây là một quốc nạn vì nó đang tồn tại trong cả nước, một “nhân tai” vì do con người dã tâm gây nên, một “đại hoạ” vì chúng gây hậu quả là giết chết tương lai của dân tộc. Những vụ việc được phanh phui chỉ là số nhỏ trong số những vụ việc gian lận đang tiếp diễn trong cuộc sống của chúng ta. Đây vẫn còn là những câu chuyện dài chưa có hồi kết. Những tác hại nghiêm trọng trên đây được núp dưới nhãn mác “an toàn”, “bình an”, nhưng đó là thứ bình an giả tạo. Trong một số lãnh vực, người ta dùng chiêu bài bình an để che đậy những hành động thực chất là xấu xa, thậm chí là ác độc. Cũng cần nêu bổ sung những động ăn chơi đồi truỵ trá hình, những hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, những con sâu mọt tham nhũng làm nghèo đất nước… Trong bối cảnh này, Lời Chúa nói với chúng ta về sự bình an đích thực. Phụng vụ hôm nay tiếp tục đưa chúng ta về với bầu khí linh thiêng của bữa Tiệc ly. Khi chỉ còn một “số ít” những môn sinh của Chúa, Người uỷ lạo họ và hứa ban bình an đích thực cho họ. Người nói rõ, bình an mà Người ban cho họ khác với thứ bình an giả tạo, hoặc bình an vật chất mà con người vẫn ban tặng cho nhau. Sự bình an này, các môn đệ đạt được khi thực thi tuân giữ Lời Chúa. Sự bình an đích thực là được Chúa ngự trong tâm hồn, nhờ đó, chúng ta được Chúa hướng dẫn và soi sáng, để nhận thức được những việc mình làm là tốt hay xấu. Qua lương tâm ngay thắng, Chúa vẫn hướng dẫn những suy nghĩ và hành động của chúng ta. Nếu biết chấp nhận để Lời Chúa soi sáng, sự gian dối sẽ không còn. Người tín hữu tin có Chúa Thánh Thần hiện diện và soi sáng cuộc đời họ. Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ, được Chúa Cha sai đến trần gian để giúp con người sống theo Chân lý. Sống ở đời là cuộc chiến đấu trường kỳ để đoạn tuyệt với gian dối, chọn lựa đứng về Sự thật và Ánh sáng. Chúa Thánh Thần cũng là linh hồn của Giáo Hội, là Đấng liên kết mọi thành viên của Giáo Hội trong sự hợp nhất. Bài đọc I kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử, đó là Công đồng đầu tiên của Kitô giáo, được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 46 sau Công nguyên. Các tông đồ đã ý thức trách nhiệm của mình trước những ý kiến dư luận trái ngược nhau về những thực hành trong Đạo Do Thái như cắt bì, ăn thịt cúng, tuân giữ Luật ông Môisen… “Văn kiện” đúc kết của Công đồng rất đơn sơ, nhưng nêu rõ “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”. Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn suốt bề dày của lịch sử, giữa những thăng trầm thử thách. Vì vậy, nhưng phong ba bão tố, kể cả quyền lực hoả ngục cũng không phá huỷ được. Trong một thị kiến, Thánh Gioan tông đồ đã thấy những hình ảnh về Giêrusalem (Bài đọc II). Đây là một cách diễn tả hạnh phúc thiên đàng, ở đó, tình yêu, an bình và chân lý sẽ ngự trị. Không còn gian dối và mưu mô. Không còn những toan tính vụ lợi trần tục, nhưng tất cả đều được vinh quang Thiên Chúa bao trùm, trong một nghi lễ phụng vụ thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và niềm vui. Những ai suốt đời tận tuỵ trung thành tuân giữ Lời Chúa và gắn bó với Người, sẽ là những công dân của Thành này. Bình an là quà tặng mà Chúa Phục sinh ban cho các tông đồ, ngay khi Người từ cõi chết sống lại. Bình an cũng là quà tặng mà hôm nay, Chúa đang rộng tay ban phát cho những ai tuân giữ Lời Người. Người tín hữu, sau khi nhận quà tặng của Chúa, được mời gọi để trở nên những sứ giả đem bình an đến cho thời đại mình đang sống. Nếu ý thức được như vậy, chúng ta sẽ góp phần đẩy lùi những hành động gian dối đanh huỷ hoại tương lai của dân tộc chúng ta.
Hứa thì dễ nhưng giữ được lời hứa lại rất khó. Khó vì con người dễ quên lời hứa. Càng khó giữ PS 6-C189
Hứa thì dễ nhưng giữ được lời hứa lại rất khó. Khó vì con người dễ quên lời hứa. Càng khó giữ hơn khi vì lời hứa mà bị thiệt thòi cho bản thân. Lời hứa còn dễ lãng quên khi xa mặt cách lòng. Con người dễ bội tín, thất trung với lời hứa của mình.
Sự thất hứa không chỉ làm cho ta mất uy tín mà còn để lại nỗi đau cho người bị thất hứa. Nỗi đau của con tim quặng đau khi chờ đợi nhiều, hy vọng nhiều nên cũng thất vọng ê chê nếu lời hứa bị lãng quên.
Có một câu chuyện vỏn vẹn 136 chữ nhưng chứa đựng nội dung thật sâu sắc. Nội dung trong đó khiến mỗi người lớn phải suy ngẫm trước khi đưa ra lời hứa của mình dành cho con trẻ.
“Tết, anh chở con đi chơi. Về nhà, thằng bé khoe ầm với lũ bạn cùng xóm. Trong đám trẻ có thằng Linh, nhà nghèo, lặng lẽ nghe với ánh mắt thèm thuồng. Thấy tội, anh nói với nó: “Nếu con ngoan, Tết năm sau chú sẽ chở con đi chơi”. Mắt thằng Linh sáng rỡ.
Ngày lại ngày. Cuộc đời lại lặng lẽ trôi theo dòng thời gian.
Thoắt mà đã hết năm. Lại tết. Đang ngồi cụng vài ly với đám bạn thì thằng Linh cứ thập thò. Vẫy tay đuổi, nó đi được một chốc rồi lại lượn lờ. Cáu tiết, anh quát nó. Thằng Linh oà khóc nức nở. Tiếng nó nói lẫn trong tiếng nấc: “Chú hứa chở con đi chơi… cả năm qua con ngoan… không hư một lần nào…”
Câu chuyện ngắn ngủi mà cảm động. Thật tội nghiệp cho đứa trẻ, nhưng cũng phải trách người lớn đôi khi vô tình làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ.
Chúa Giê-su trước khi về trời cũng chỉ mong các môn đệ hãy hứa tuân giữ lời Thầy. Tuân giữ lời Thầy sẽ được Thầy ban cho bình an. Bình an khỏi mọi lo âu sợ hãi. Bình an vì có Chúa luôn bảo vệ phù trì. Bình an vì được Chúa dẫn dắt qua những thung lũng sâu của dòng đời.
Nhưng thử hỏi trên thế gian nay có bao nhiêu người đã thực hiện lời hứa? Có mấy ai không thẹn lòng với Chúa vì đã nhiều lần bất trung với Chúa?
Giữa dòng đời hôm nay ta vẫn gặp rất nhiều người bất trung với Chúa và với nhau. Vì quyền lợi bản thân, vì hạnh phúc riêng mình mà họ đã quên lời Thầy và quên cả lời hứa với nhau. Giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vì danh vọng mà bỏ Chúa, vẫn còn đó những người vì nuông chiều tính xác thịt mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó tình nghĩa phu thê sao khó giữ lòng vẹn nghĩa thủy chung . . .
Nếu biết rằng thất hứa sẽ làm đau lòng người yêu, thì xin đừng làm đau lòng Chúa, đau lòng nhau vì bội tín vong ân. Nếu biết rằng: “Một lần bất tín vạn lần bất tin” thì đừng đánh mất uy tín, danh dự của mình khi nói mà không giữ lời, khi hứa mà không làm. Hơn nữa, người giữ lời hứa luôn được yêu thương, kính trọng, và nếu giữ lời hứa với Chúa còn được Chúa yêu thương chăm sóc chở che, thì tại sao chúng ta không giữ lời hứa để được yêu thương?
Xin Chúa giúp chúng ta luôn can đảm trung thành với Chúa, luôn tuân giữ lời Chúa để được Chúa quan phòng chở che. Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết giữ lời hứa với nhau để xã hội luôn thăng tiến nhờ những con người biết giữ lời hứa và trung thành với lời cam kết của mình. Amen.
Theo thần thoại Hy Lạp, Eros là vị thần tình yêu. Thần Eros luôn mang một cây cung và những PS 6-C190
Theo thần thoại Hy Lạp, Eros là vị thần tình yêu. Thần Eros luôn mang một cây cung và những mũi tên ái tình bên mình. Khi Eros bắn những mũi tên này vào ai đó thì ngay lập tức, người đó sẽ yêu người khác giới đầu tiên gặp được nếu không phải là người có quan hệ huyết thống hay họ hàng. Do thần Eros là một đứa trẻ hay nghịch ngợm và thiếu trách nhiệm nên đã gây ra nhiều chuyện dở khóc dở cười, làm cho nhiều người phải đau khổ.
Trong Kitô Giáo cũng nói đến một Vị Thần Tình Yêu, nhưng hoàn toàn khác với Eros. Vị Thần Tình Yêu của chúng ta chính là Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Giêsu mạc khải là Ngôi Ba Thiên Chúa và là Thiên Chúa quyền năng. Ngài không dùng mũi tên tình yêu để bắn vào trái tim, nhưng Ngài là chính Tình yêu, là ngọn lửa mến đốt cháy tâm hồn tín hữu và là Đấng Bảo Trợ hướng dẫn đời sống tín hữu. Ngài hiện hữu từ muôn thuở và hoạt mạnh mẽ trong cuộc đời Chúa Giêsu và còn tiệp tục hoạt động trong Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta.
Hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Thần của Tình yêu, là Đấng Bảo trợ an ủi và là Đấng soi sáng chỉ dạy mỗi người. Là Thần Tình yêu, vì Ngài chính là Tình Yêu nhiệm màu của Thiên Chúa, từ nơi Thiên Chúa được ban cho thế gian. Ngài trở thành tác nhân, là động lực thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nói đúng hơn, với khả năng và giới hạn của trái tim, con người không thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài mong đợi nếu không có Chúa Thánh Thần thúc đẩy và tác động. Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy : Chúa Thánh thần sẽ giúp chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta trở nên những người học trò ngoan khi chúng ta dám để cho Ngài soi sáng, chỉ bảo. Ngài sẽ giúp ta nhận ra sự chỉ dạy của Chúa Giêsu và thực hành trong cuộc đời. Một khi chuyên chăm lắng nghe và thực hành Lời Chúa Giêsu, chúng ta trở nên bạn, nên anh em với Chúa Giêsu và được Chúa Cha thương mến. Lời Chúa Giêsu sẽ uốn nắn cuộc sống chúng ta và Chúa Thánh Thần sẽ trang điểm cho chúng ta bằng tình yêu để chúng ta trở nên người con ngoan, dễ thương trước mặt Chúa.
Khi có lòng yêu mến và thực hành Lời Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần sẽ đốt nóng tâm hồn chúng ta, đốt cháy cả những thói hư tật xấu. Ngài trang hoàng tâm hồn tín hữu nên xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa cư ngụ. Khi đó, Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha sẽ đến và ở trong tâm hồn những kẻ yêu mến Ngài. Ngược lại, khi từ chối Thánh Thần của Thiên Chúa, từ chối đón nhận và thực hành lời Chúa Giêsu, tâm hồn đó sẽ trở thành sa mạc khô cằn, không sức sống, và còn là hang ổ cho ma quỷ và sự dữ trú chân.
Là Đấng Bảo Trợ, có nghĩa là Thánh Thần được Chúa Cha sai đến để bảo vệ và trợ giúp các tín hữu. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của ma quỷ và sự dữ, vì Ngài là sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Thần bảo vệ chúng ta khỏi sự khô khan chai đá trong tâm hồn vì Ngài là Tình Yêu và là Đấng đổi mới đời sống tín hữu. Thánh Thần sẽ trợ giúp để chúng ta có thể chiến đấu và chiến thắng ma quỷ, dục vọng và xác thịt. Thánh Thần giúp chúng ta hiểu Lời Chúa, giúp nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta và là Đấng đem lại sự bình an trong tâm hồn.
Trong đoạn cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hứa để lại cho các môn đệ một món quà hết sức đặc biệt, đó là sự bình an. Chúa Giêsu khẳng định rằng, bình an của Chúa khác hẳn sự bình an theo kiểu thế gian. Bình an của thế gian chỉ là sự an bình ở bên ngoài, trên bề mặt, giống như mặt nước phẳng lặng nhưng dưới sâu, bên trong, lại là dòng chảy cuồn cuộn. Bình an của Chúa Giêsu là sự bình an từ trong tâm hồn lan tỏa ra bên ngoài. Đó là sự bình an của những tâm hồn sạch tội, có lương tâm ngay thẳng, có một cuộc sống không gian dối.
Hơn nữa, bình an Chúa Giêsu ban cho các tông đồ là sự bình an vì tin rằng Chúa không bao giờ lìa xa chúng ta, Ngài luôn hiện diện bên cạnh và bên trong mỗi người. Ngài không còn hiện diện bằng thể xác với các môn đệ, nhưng Ngài vẫn hiện diện bằng quyền năng và sự bảo vệ của Ngài. Một khi sống với Chúa bằng tình yêu mến, chúng ta sẽ luôn nhìn thấy Ngài đang hiện diện bên chúng ta.
Các tông đồ là những người đã đón nhận Chúa Thánh Thần từ nơi Chúa Giêsu, từ đó, các ông mạnh dạn và miệt mài làm việc trong sự hiện diện của Chúa Phục Sinh và hoạt động trong sự hướng dẫn của Thánh Thần. Mỗi khi có khó khăn hoặc có vấn đề nảy sinh trong Giáo Hội, các tông đồ lại nại đến Chúa Thánh Thần như là cố vấn kỳ diệu, là điểm tựa vững chắc cho mọi quyết định của mình.
Sách Công vụ cho thấy một vấn đề lớn nảy sinh trong Giáo Hội sơ khai, khi những người dân ngoại tin vào Chúa Giêsu ngày càng đông. Vấn đề được những người bảo thủ đặt ra là : Những người dân ngoại tin theo chúa Giêsu cũng phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môsê. Ông Phaolô và Barnaba đã cử người đến gặp Simon Phêrô và các tông đồ để trình bày vấn đề và xin ý kiến của vị thủ lãnh Giáo Hội. Phêrô và các anh em tông tồ tại Giêrusalem đã họp lại và đưa ra một quyết định hết sức quan trọng : Thánh Thần và chúng tôi quyết định : Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết.
Quyết định này là quyết định hết sức quan trọng. Kể từ đây, Giáo Hội sơ khai hoàn toàn tách khỏi Do Thái Giáo và các sinh hoạt theo tục lệ đạo Do Thái để bước vào giai đoạn mới. Quyết định này không phải là của riêng các tông đồ, nhưng là do Thánh Thần và chúng tôi quyết định. Điều đó chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động cách cụ thể và sinh động trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội đi theo đúng con đường của Chúa Giêsu.
Cho đến ngày nay, Thánh Thần Tình yêu và Bình an vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu. Thánh Thần đang thôi thúc Giáo Hội không mệt mỏi để đem tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho thế giới. Nếu như Thánh Thần Thiên Chúa là nguồn tình yêu không bao giờ vơi cạn đã được trao ban cho Giáo Hội, thì Giáo hội cũng không ngừng nghỉ thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Cùng với Đức Thánh Cha, vị cha chung của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội đang cùng nhau đi ra khắp mọi ngõ ngách của xã hội, đi tới những vùng ven, đến với những người sống bên lề xã hội, những người di dân, để chia sẻ và nâng đỡ, an ủi họ.
Là những Kitô hữu, tất cả chúng ta đều đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Chúng ta được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta và sẵn sàng vâng nghe sự soi sáng của Ngài. Cuộc sống bộn bề, sức ép của cơm áo gạo tiền và những cám dỗ của xã hội khiến nhiều người đã không còn nghe được tiếng nhắc nhở và sự soi sáng của Thánh Thần. Thánh Thần nhắc cho chúng ta nhớ những Lời Chúa dạy và các giới răn lệnh truyền của Chúa. Hãy tin tưởng, mạnh dạn làm theo sự hướng dẫn của Ngài. Thánh Thần thêm sức mạnh để chúng ta dám chọn lựa sống và hành động theo đúng luật Chúa, đừng cưỡng lại sự trợ giúp của Ngài.
Miền Tây và nhiều nơi trong cả nước ta đang bị nắng hạn, ruộng đồng nứt nẻ, cỏ cây khô cháy, các dòng sông bị nước mặn xâm nhập hủy hoại mùa màng và các hệ động thực vật ven sông. Tâm hồn con người nếu không có Thánh Thần Tình Yêu cũng sẽ bị khô hạn, nứt nẻ như vậy. Từ chối sự hiện hiện diện soi sáng của Thánh Thần, tâm hồn chúng ta không chỉ như một vùng cằn cỗi chết chóc, mà những dòng nước mặn là dục vọng, ích kỷ, gian ác sẽ xâm lấn cuộc đời và hủy hoại tâm hồn chúng ta.
Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta, Ngài là Thần Bảo Trợ sẽ bảo bọc, trợ giúp chúng ta trong mọi hoàn cảnh, chỉ cần chúng ta biết tin tưởng cầu xin sự hướng dẫn của Ngài. Thánh Thần sẽ nhắc cho chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu truyền dạy, chỉ cần chúng ta để tâm lắng nghe và thi hành. Ngài là vị Thần Tình yêu và Bình an xin cho chúng ta cũng biết mở lòng để cho Ngài ngự vào tâm hồn. Xin Ngài uốn nắn trái tim và cuộc sống chúng ta, để chúng ta có được một trái tim yêu mạnh mẽ, một tâm hồn rộng mở và trở thành sứ giả đem bình an của Chúa đến cho thế giới. Amen.
Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Con người có trước luật, nhưng con người sa ngã nên PS 6-C191
Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Con người có trước luật, nhưng con người sa ngã nên sinh ra luật. Điều đó chứng tỏ con người rất ngang ngược, vì “cái tôi” lúc nào cũng rình nổi dậy. Hai con người đầu tiên đã bất tuân Thiên Luật, con cháu muôn đời cũng chưa chừa, vẫn máu kiêu ngạo. Do đó, lúc này thì “nhân sinh vị luật”, nếu không có luật thì xã hội loạn hết.
Lĩnh vực nào cũng cần có luật, chí ít cũng là nội quy. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Ngay cả cái mà chúng ta gọi là Tự Do cũng vẫn có luật, có giời hạn của tự do. Không thể lợi dụng tự do để tự tung tự tác. Tương tự, yêu thương cũng có luật, thương xót cũng có luật. Yêu cho tha thiết, xót phải thật lòng, thương vô điều kiện. Ông Abe Shinzō, thủ tướng Nhật Bản, ngồi quỳ khi nói chuyện với người cao tuổi, hình ảnh thật đẹp và đáng để chúng ta học tập!
Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8 và 10). Nếu không thì sao ? Có “vấn đề” ngay thôi: “Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật” (Rm 2:27).
Đúng vậy, như Chúa Giêsu đã nói với nhóm Pharisêu: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41). Người Việt cũng có câu tục ngữ: “Khôn cho người ta rái (sợ), dại cho người ta thương, dở dở ương ương tổ cho người ta ghét”.
Trình thuật Cv 15:1-2. 22-29 cho biết tầm quan trọng của lề luật. Hồi đó, có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, anh em không thể được cứu độ”. Rõ ràng giữ luật là việc làm cần thiết. Giữ luật là chứng tỏ vâng lời.
Lúc đó, ông Phaolô và ông Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này. Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa, biệt danh là Basaba, và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh.
Tranh luận là điều cần, không phải là để biết ai mạnh hay yếu, ai giỏi hay không, nhưng là để làm sáng tỏ vấn đề, sáng tỏ sự thật.
Các ông trao cho phái đoàn bức thư này: “Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh”.
Ngoại tại chứng tỏ nội tại. Cách ăn mặc có thể biểu lộ tâm tính. Ánh mắt có thể biểu lộ tâm hồn. Có đầy mới tràn! Vì thế, đừng coi thường bề ngoài, nhưng cũng chớ chú trọng bề ngoài. Thái quá thì bất cập. Đàng nào cũng khả dĩ nguy hại. Trung dung mới là khôn ngoan. Nên tự xét xử hơn là để Chúa phải xét xử (1 Cr 11:31-32).
Luật là nguyên tắc đúng được công nhận, và luật khả dĩ thể hiện Thánh Ý Chúa. Cầu nguyện là một cách giữ luật của con người, đặc biệt là các Kitô hữu: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Cầu xin cho mọi người “biết đường lối Chúa” là biết luật Chúa, và nhờ đó mà “biết ơn cứu độ của Ngài”. Kỳ lạ quá!
Luật là biện pháp cai trị, nhưng luật Chúa cai trị bằng luật yêu thương, luật thương xót. Cảm nhận sâu sắc nên tác giả Thánh Vịnh phải lên tiếng: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6).
Ước mơ không chỉ cho riêng mình, mà còn phải ước mơ cho mọi người. Đó mới là đi đúng định luật thương xót của Thiên Chúa: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8). Mình vui mà người khác đau khổ thì niềm vui của chúng ta chưa trọn vẹn, và đó là ước mơ vị kỷ. Thiên Chúa cấm sống ích kỷ. Sống thương xót là sống bao dung. Bao dung là “buông dao”, chứ không là “bung dao”. Rất đơn giản!
Tha thứ để được thứ tha, yêu thương để được thương yêu, xót thương để được thưng xót. Hệ lụy tất yếu theo luật Chúa. Có vậy mới khả dĩ gặp Chúa. Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người?” (Tv 24:3). Chắc chắn chỉ có những người “tay sạch, lòng thanh, chẳng mê ngẫu tượng, không thề gian, nói dối” (Tv 24:4). Ai biết thương xót là nhân từ như Chúa (Lc 6:36) và là người diễm phúc (Mt 5:7).
Thị nhân Gioan tường thuật thị kiến: “Đang khi tôi xuất thần thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giêrusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21:10-14). Quang cảnh vô cùng kỳ lạ, chúng ta không thể hiểu hết bằng trí óc phàm nhân. Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm thấy sung sướng và hy vọng tràn trề về Quốc Gia Siêu Nhiên là Nước Trời, là Thiên Đàng.
Thị nhân Gioan cho tiết lộ thêm: “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời, mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Chúa Giêsu là Ánh Sáng Siêu Nhiên, là Thái Dương Công Chính, là Vinh Quang Đời Đời, mọi thứ ánh sáng khác đều bắt nguồn từ đó. Tuyệt vời!
Trình thuật Ga 14:23-29 là một phần trong trong “những lời cáo biệt” của Đức Giêsu, như những lời trăn trối của Ngài, trước khi Ngài đón nhận chén cay đắng nhất.
Ngài nói với các môn đệ: “Ai YÊU MẾN Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai KHÔNG YÊU MẾN Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Với nhân tính, Ngài cũng cảm thấy lưu luyến và buồn khi phải chia tay người thân, và chắc hẳn lúc đó các môn đệ cũng buồn lắm. Nhưng Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần đến để an ủi và nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh.
Ai theo Chúa Giêsu và giữ lệnh truyền của Ngài thì sẽ an tâm vui sống, vì chính Ngài là nguồn bình an, là nền hòa bình đích thực. Thật vậy, chính Ngài đã xác định: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em KHÔNG theo kiểu thế gian. Anh em ĐỪNG XAO XUYẾN cũng ĐỪNG SỢ HÃI. Anh em đã nghe Thầy bảo: ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. NẾU anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em ĐÃ VUI MỪNG vì Thầy ĐI VỀ cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha CAO TRỌNG hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin”.
Phàm nhân yếu đuối và hèn mọn, nhưng lại thật hạnh phúc khi được Thiên Chúa củng cố niềm tin. Chúa Giêsu minh định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14:6). Ngài còn là Ánh Sáng soi cho thế gian biết đường đi nước bước: “Tôi là ánh sáng đến thế gian” (Ga 8:12; Ga 12:46). Ánh sáng đối nghịch với bóng tối. Ánh sáng luôn cần thiết để chúng ta khả dĩ nhận biết mọi thứ.
Nhưng làm sao phân biệt? Chuyện kể rằng… Người thầy hỏi các học trò: “Làm sao biết lúc nào là thời điểm tách biệt ngày và đêm?”. Một trò trả lời: “Thưa thầy, nếu nhìn từ xa mà chúng ta có thể phân biệt được con trâu và con bò”. Thầy lắc đầu. Một trò khác cho biết: “Thưa thầy, nếu nhìn từ xa mà chúng ta có thể phân biệt được cây xoài và cây táo”. Thầy vẫn lắc đầu. Lại một trò khác trả lời: “Thưa thầy, nếu nhìn từ xa mà chúng ta có thể phân biệt được con gà và con vị”. Cứ thế, mỗi trò có một nhận xét khác nhau, nhưng thầy vẫn bảo là không đúng.
Cuối cùng, thầy nói: “Đó là lúc người ta có thể nhận ra nhau bằng tình đồng loại, lòng yêu thương, lòng thương xót. Có ánh sáng tình yêu thì người ta có thể nhận biết mọi thứ”. Cách phân biệt thật tuyệt vời!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết sống trong Ánh Sáng Tình Yêu của Ngài bằng cách thực thi lòng thương xót đối với tha nhân, nhất là đối với những người hèn mọn. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Mặc dù Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương Khó tới ba lần (Lần thứ nhất: Mt 16, 21-23; Mc 8, 31 PS 6-C192
Mặc dù Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương Khó tới ba lần (Lần thứ nhất: Mt 16, 21-23; Mc 8, 31 -33; Lc 9, 22; Lần thứ hai: Mt 17, 22-23; Mc 9, 30 -32; Lc 9, 43-45; Lần thứ ba: Mt 20, 17-19; Mc 10, 32 -34; Lc 18, 31 -34), nhưng các môn đệ vẫn hoang mang lo lắng, vì thế trước khi bước vào cuộc khổ nạn là cái chết trên Thập tự, Người phải trấn an: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4).
Tuy vậy, nhưng các môn đệ vẫn băn khoăn thắc mắc. Ông Tô-ma thì hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”; ông Phi-líp-phê thì nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”; còn ông Giu-đa (không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt) thì lại hỏi: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14, 6.8.22). Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-C – Ga 14, 23-29) là trich đoạn trình thuật Lời Đức Giê-su trả lời ông Giu-đa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 22-26).
Đến cuối phần những lời dặn bảo, khi thấy quân dữ đã tới gần (“Thủ lãnh thế gian đang đến” – Ga 14, 30), Đức Ki-tô nhấn mạnh: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.” (Ga 14, 27-29). Toàn bộ những lời dặn bảo này phải được coi là một di chúc của Lòng Thương Xót để lai di sản thừa kế cho các môn đệ và nói chung là các tín hữu. Xin cùng tìm hiểu:
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại. Di sản thừa kế không chỉ là nhà cửa, tiền bạc hay những đồ quý giá, nhưng còn là những giá trị tinh thần và đạo đức nữa. Tất cả những thứ đó thường được ghi lại trong di chúc (lời dặn bảo, ủy thác) của người đã chết. Trường hợp người để lại di chúc không biết chữ thì nhờ người thân viết giúp, cũng có thể tập họp con cái quây quần bên giường bệnh nghe lời dặn dò sau cùng. Với trường hợp Đức Giê-su thì cũng vậy, trước khi bước vào cuộc Thương khó và cái chết thập giá, Người đã tập họp các môn đệ trong “bữa ăn cuối cùng: bữa Tiệc Ly” (Mt 26, 17-19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Trong bữa ăn đó, Người đã trao lại cho các môn đệ một di sản thừa kế “không như thế gian ban tặng”, đó là ân huệ tình yêu và bình an. Đây chính là ân sủng phát sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được Ngôi Lời Nhập Thể – hiện thân của Lòng Thương Xót – lập đi lập lại trong “những lời dăn bảo sau cùng” của Người vào bữa Tiệc Ly.
Xét theo kiểu trần gian “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) thì không những đây là những di ngôn (lời nói để lại) của người sắp chết, mà còn được coi là di ngôn của người sắp trở về cõi trường sinh. Đức Giê-su sắp tử nạn trên thập giá, để về cùng Chúa Cha trên Nước Trời vinh hiển, thì những di ngôn của Người chính là di chúc để lại những di sản thừa kế cho các thế hệ tín hữu kế nghiệp là Giáo Hội. Nói cụ thể thì đây chính là di chúc của Lòng Thương Xót. Trong di chúc này, Đức Ki-tô đã để lại 2 tài sản vô cùng cao quý: Đó là Tình Yêu và sự Bình An. Hai tài sản đó xuất phát từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng thể hiện cụ thể nhất nơi Ngôi Ba Thánh Thần và vì thế, Đức Giê-su mới truyền dạy: ”Thầy sẽ xin Chúa Cha ban cho anh em Đấng Bảo Trợ đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14, 16-17).
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 735-736) đã lý giải ân huệ cao quý này: “Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “ân huệ mở đầu” của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21) là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh. Sự sống này là yêu thương “như Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta” (x. 1Ga 4, 11-12). Tình yêu này (Đức Ái của 1Cr 13) là nguyên lý đời sống mới trong Đức Ki-tô. Chúng ta có thể sống được như thế, vì chúng ta đã “nhận được sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1, 8). Nhờ quyền năng của Thánh Thần, con cái Thiên Chúa có thể làm được những viêc tốt lành. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ giúp chúng ta trổ sinh “hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5, 22-23). “Thánh Thần là sự sống của chúng ta”; chúng ta càng từ bỏ ý riêng (x. Mt 16, 24-26), “Thánh Thần càng hướng dẫn đời ta” (Gl 5, 25).” Người tín hữu cần ý thức 2 chiều kích bất khả phân ly của Di sản Thừa kế, đó là Tình Yêu và sự Bình An:
1- Di sản Tình Yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16) và Tình Yêu là hồng ân tuyệt diệu chứa đựng tất cả các ơn khác. Tình yêu này “Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 5).” Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu ngay từ khởi nguyên: Dựng nên con người có nam có nữ và ban cho họ toàn bộ công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật. Cũng vì tình yêu, khi con người bất trung, sa vòng tội lỗi, Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của họ, bằng việc sai Đức Giê-su đến dạy cho loài người nhận biết tinh yêu của Thiên Chúa và sẵn sàng hiến thân chịu chết trên thập giá để cứu độ những ai tin và đi theo con đường yêu thương của Người, như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). (GLHTCG, số 733).
Không những vậy, mà trong quá trình thực hiện Lòng Thương Xót, Đức Ki-tô còn dạy các môn đệ phải yêu thương nhau, vì đó là dấu hiệu để người ngoài nhận ra họ thực sự là môn đệ của Người (Ga 13, 35); đồng thời hãy thi hành lời Người truyền là: luôn luôn tha thứ cho những người đã xúc phạm đến mình (“Thầy không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” – Mt 18, 22); thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù (“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” – Mt 5, 44; Lời cầu xin tha cho kẻ đã đóng đinh giết Người trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” – Lc 23, 34). Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những hành động yêu thương: chữa lành các bệnh tật như bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, đui mù, câm điếc (Mt 4, 23-25); nhân bánh ra nhiều nuôi những kẻ đói được ăn no (Lc 9, 12-17); thiết lập bí tích Thánh Thể để ban sự sống đời đời (Ga 6, 48-51) và dù có trở về cùng Chúa Cha nhưng vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Tất cả đều nêu bật ý nghĩa: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Thiên Chúa là Tình Yêu: Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 10.16). Rõ ràng Tình yêu là “nhận về” và “cho đi”, chúng ta đã nhận về từ Thiên Chúa biết bao ân sủng, nhưng Người không đòi chúng ta phải đáp trả, mà Người muốn: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8), cũng bởi vì “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Thánh Phao-lô đã nhận chân được vấn đề khi ngài viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết… Ngài đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình.” (2Cr 5, 14-15).
2- Di sản Bình An: Giáo hội quy định mỗi Thánh lễ là một cuộc tái hiện Hy Tế Thập Giá (“Hy tế của Đức Ki-tô chỉ diễn ra một lần là đủ. Thế nhưng trong Thánh Lễ, hy tế ấy được hiện tại hóa và thông ban hiệu quả cho chúng ta: “Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta, được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (LG 3). Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế thập giá, vì tưởng niệm và ban phát các hiệu qủa của hy tế này.” – Giáo lý HTCG, số 1364-1366).
Trong mọi Thánh lễ, sau khi đọc lời kinh cầu nguyện bình an cho mọi người và cho Giáo Hội, vị chủ tế chúc: “Bình An của Chúa hằng ở cùng anh chị em!” Tiếp liền lời chúc đó là lời mời gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau” để bày tỏ lòng yêu mến và hòa hợp với nhau, trước khi rước Mình và Máu Thánh Chúa. Suy niệm Lời Chúa sẽ thấy mỗi khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, Người đều chúc: “Bình An cho anh em!”, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Người xác định sự Bình An do Người ban tặng không phải là sự Bình An tạm thời của thế gian, nhưng là sự Bình An thật, sự Bình An bền vững trong tâm hồn có Chúa ngự. Sự Bình An thật trong Chúa giúp người tín hữu luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin. Đó cũng là sự Bình An thật trong tâm hồn có thể cảm nghiệm được khi sống trong sạch, sống theo các giới răn của Chúa và hòa hợp yêu thương mọi người trong tình yêu Chúa.
Tóm lại, tuy tách ra 2 di sản cho dễ phân tích học tập, nhưng hồng ân Tình Yêu và Bình An vẫn chi là một di sản tột cùng cao quý mà các môn đệ được thừa kế từ Lòng Thương Xót. Cứ nhìn vào thế giới hiện tại sẽ thấy Tình Yêu và Bình An luôn gắn kết với nhau, tuy hai mà một. Vâng, vì sao mà thế giới luôn luôn có chiến tranh (từ chiến tranh cục bộ trong một quốc gia đến chiến tranh giữa các nước với nhau), rồi thì khủng bố, áp bức, bóc lột… xảy ra nhan nhản khắp nơi? Đó chẳng phải vì thiếu tình yêu, thiếu vắng lòng thương xót đó sao? Không có Tình Yêu thì không thể có Bình An, mà không có Bình An thì đào đâu ra hạnh phúc đích thực?
Hóa cho nên có thể kết luận: Di sản Lòng Thương Xót đươc trao ban trong di chúc của Đức Giê-su không gì khác hơn là chính “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy” (Ga 14, 26). Và đó cũng là lý do “Những lời cáo biệt – Những lời dặn bảo sau cùng” của Đức Ki-tô – hiện thân của Lòng Thương Xót – trong bữa Tiệc Ly, được Phụng vụ Giáo hội xếp vào Chúa nhật VI/PS trước lễ Thăng Thiên (CN VII/PS). Người Ki-tô hữu chì có thể đón nhận di sản Tình Yêu và Bình An – di sản thừa kế Lòng Thương Xót – khi thực sự được Thánh Linh bảo trợ. Vâng, “Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “ân huệ mở đầu” của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21) là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh.” (Giáo lý HTCG, số 735).
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Ðức Ki-tô sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con cho đáng hưởng sự sống đời đời. Xin làm cho mầu nhiệm ấy sinh hoa kết quả tốt đẹp trong tâm hồn chúng con, và làm cho thần lương chúng con vừa lãnh nhận trở nên nguồn sinh lực dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật VI Phục Sinh).
Câu thành ngữ quen thuộc ai cũng biết : trời sinh voi, trời sinh cỏ. Đối lại, cha ông chúng ta cũng PS 6-C193
Câu thành ngữ quen thuộc ai cũng biết : trời sinh voi, trời sinh cỏ. Đối lại, cha ông chúng ta cũng có câu : siêng làm thì có, biếng nhác thì không. Thực ra, sống trên đời ai mà không mơ ước được hạnh phúc, thành công, vì thế, chân lý mà mọi người cần lưu ý hơn cả vẫn là : biết học, biết hành. Chẳng ai chăm chỉ làm việc mà phải chết đói, cũng không thể lười biếng, sáng say chiều xỉn mà được gọi là người giầu sang phú quý. Sống thế nào là hợp tình hợp lý, hẳn nhiều người đã tìm ra qui luật là biết “mến yêu”.
Sống trên đời, bậc làm cha mẹ, thầy cô ở trường lớp, luôn có ý dạy dỗ con, giáo dục trò, hiểu, và sống có tình, có nghĩa, trong các tương quan gia đình xã hội. Cũng nhằm hướng con cháu đừng đặt nặng về giá trị vật chất, tiền nhân chúng ta có chia sẻ một kinh nghiệm : người ta bà con vì tổ vì tiên, không ai bà con vì tiền vì gạo. Hôm nay đây, bắt đầu với cụm từ “ai yêu mến Thầy”, Đức Giêsu tổng hợp tương quan tình yêu giữa Cha – Con – và Thánh Thần, yêu mến là trung tâm nối kết những ai thuộc về Đức Kitô.
Sống sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê. Sống như thế nào gọi là có tình có nghĩa, sống như thế nào để minh chứng : tôi đang yêu mến Thầy Giêsu ? Con không chê cha mẹ khó, chó không chê gia chủ nghèo, liệu câu thành ngữ đó có thôi thúc chúng ta biết đến truyền thống yêu thương, trung thành với gia đình không ? Với khả năng tự nhiên, người ta sẽ cho cuộc sống ở đời thật mông lung và phức tạp, đâu phải dễ gì mà chúng ta biết sống chữ tình chữ hiếu trước phận làm con. Cùng một số kiến thức, dễ gì chúng ta biết cư xử tốt đối với mọi người. Trong tâm tình thầy – trò, Đức Giêsu khai mở cho các môn đệ về vị trí hoạt động của Thánh Thần sẽ đến và ở với những ai yêu mến Thầy.
Người đời vẫn quan niệm rằng : ngọc không mài không sáng, người không học không thông. Ở trong Đức Giêsu mà không biết sống mến yêu, không thể gọi là học trò, không đáng để gọi là môn đệ, và cũng không thể nhận biết Đấng phù trợ là Thánh Thần sẽ đến. Đức Giêsu thấy và biết các môn đệ không thể sống mà thiếu tình yêu, Ngài ban tình yêu cho các môn đệ, khác với tình yêu của thế gian. Nếu không ở trong Đức Giêsu, người ta sẽ cho rằng yêu là khổ, không yêu là lỗ; thực ra tình yêu thật không có lỗ hay khổ, tình yêu của thế gian mới có lời có lỗ.
“Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy, và Cha thầy sẽ yêu mến người ấy”. Tình yêu Đức Giêsu nói đến quả là chặt chẽ, đến độ Thánh Thần mà Chúa Cha sai đến sẽ nhắc nhớ và dạy dỗ anh em mọi điều. Tính vững chắc ấy còn có sự hiện diện của tình yêu Ba Ngôi, Các Ngài sẽ ở mãi trong những ai yêu mến và tuân giữ Lời của Đức Kitô. Hôm nay đây, những người yêu mến Thầy Giêsu, tuân giữ Lời Thầy Giêsu không những ở trong nhà thờ, vì mọi hoạt động yêu thương đều có Thánh Thần hướng dẫn phục vụ.
Trong khung cảnh yêu mến hiệp thông, Chúa Giêsu còn hứa để lại bình ban, ban tặng bình an cho các môn đệ, cho những ai sống giới luật yêu thương. Bình an của Chúa khác với bình an thế gian, nghĩa là bình an được xây dựng bằng tình bác ái, bằng việc tuân giữ Lời Thầy và có tình yêu của Ba Ngôi. Nếu dựa trên quy luật tiền trao cháo múc, người ta chỉ mua được bình an của thế gian, thứ bình an được trao đổi bằng tiền, bỏ tiền ra thuê vệ sĩ hầu tìm lấy bình an tạm thời. Chúa Giêsu nhắc nhớ “tuân giữ Lời Thầy” mới đúng là đích điểm của người môn đệ, bình an thật là nghe được Thần Chân Lý chỉ dạy, hiểu và sống tinh thần của Thầy Giêsu.
Ngày hôm nay, nhiều người đã biết đặt ra những câu châm ngôn sống rất hay : giầu có không phải là những gì bạn có trong tài khỏan, ngân hàng, mà là những gì bạn có trong tim. Rất có thể mỗi chúng ta đã từng khẳng định tôi yêu mến Thầy Giêsu, tôi hằng tuân giữ Lời Thầy, nhưng tâm hồn tôi chưa bình an, hoặc là tôi mới yêu bằng môi miệng, hoặc tôi mới có thứ bình an tạm thời của thế gian. Học đi đôi với hành, là áp dụng đức ái Kitô vào từng hoàn cảnh sống của mỗi người, học và hành theo mẫu gương Đấng Kitô không phải là mưu cầu danh lợi.
Chúa Giêsu mãi là Thầy, là chuẩn mực yêu thương, mỗi người theo Chúa làm môn đệ không thể thụ động, dù tài năng đức độ thời giờ còn giới hạn. Nói một đàng, làm một nẻo, biết yêu mến Thầy mà không tuân giữ lời Thầy, thì mới chỉ yêu mình, chỉ là tình yêu một chiều của thế gian. Hiểu, biết, và sống, luôn là dấu chỉ của người trưởng thành, tình yêu và ơn bình an là sự hòa hợp người môn đệ Đức Kitô trong Chúa Cha và Thánh Thần. Thao thức của Chúa Giêsu là mọi người trở nên môn đệ của Ngài, biết vâng nghe Thánh Thần tình yêu hướng dẫn và sống trọn vẹn tinh thần người môn đệ yêu mến như Thầy Giêsu. Amen.
Có một câu chuyện về một cố vấn chính trị nổi tiếng cho một vị tổng thống. Sau một vụ xì PS 6-C194
Có một câu chuyện về một cố vấn chính trị nổi tiếng cho một vị tổng thống. Sau một vụ xì căng đan, bị truy tố và tống giam vào tù. Trong tù ông đã trải qua một sự biến đổi tinh thần sâu đậm. Ông đã chân thành cam kết cuộc đời còn lại của ông cho Chúa Giê-su.
Một thời gian ngắn sau khi bị tù, ông thắc mắc tự hỏi “Tại sao Chúa bắt ông chôn vùi cuộc đời vào tình cảnh này, sau mấy lần “tái sinh” và “thay đổi” trong những lần tham dự giảng của các mục sư đạo Tin lành.” Ông cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa, giá trị, và bị Chúa bỏ rơi.
Một hôm tình cờ, ông dở cuốn Kinh thánh và đọc một đoạn trong thư của Phao-lô gởi người Do thái về Con Thiên Chúa, là Chúa Giê-su Ki-tô được sai xuống trần và sống giữa con người để mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Thình lình ông cảm thấy tình trạng của ông giống như sứ mệnh của Chúa nơi trần gian. Ông tự nghĩ phải chăng đây là thánh ý Chúa sai ông vào tù để sống giữa và mang hy vọng đến cho những người tù đày. Ông cảm thấy Chúa đã cho ông biết thánh ý của Người kêu gọi ông trở thành người mục vụ cho tù nhân trong những nhà giam. Sau khi ra tù, ông đã khởi xướng một phong trào giúp đỡ tù nhân, cung cấp những cơ hội tìm việc làm, giúp đỡ tinh thần, tư vấn cho tù nhân và gia đình trong thời gian bị tù và sau khi ra tù.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ điểm quan trọng trong lời tâm sự của Chúa Giê-su với các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Các ông xao xuyến và sợ hãi khi nghe Chúa nói sẽ từ biệt các ông một thời gian. Các ông không biết cuộc đời của mình sẽ ra sao khi vắng bóng, không có sự hiện diện của Chúa. Các ông tự hỏi cuộc đời của các ông còn có ý nghĩa và giá trị gì hay không? Tại sao Chúa phải rời bỏ các ông, khi các ông vừa mới bỏ gia đình đi theo Chúa? Tại sao Chúa để cho sự kiện này xảy ra khi các ông vừa mới trao cả cuộc đời cho Chúa?
Thế nhưng như chúng ta đã biết Chúa hứa sẽ sai Thánh Thần đến và giúp các ông thực hiện được những điều mới, tốt lành, to lớn và trọng đại hơn sức và lòng các ông mong muốn, cho dù không có Chúa hiện diện bên các ông. Đây là điều thật quan trọng cho chúng ta, và điều quan trọng đó là: nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta cảm thấy hình như Chúa bỏ rơi chúng ta, hình như Chúa để chúng ta xao xuyến và sợ hải một mình, khi phải đối diện với những khó khăn, thử thách và nguy hiểm.
Tôi xin đơn cử những thí dụ sau đây. Có những lúc khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta cảm thấy có nguồn an bình, vui mừng và hy vọng. Nhưng cũng có những lúc, đặc biệt là những lúc khó khăn hay bây giờ, chúng ta không tìm được nguồn an bình và vui mừng trong sự cầu nguyện. Có những lúc niềm tin của chúng ta vững chắc và mạnh mẽ có thể “chuyển dời” núi non, nhưng bây giờ không thể hay khó di chuyển dù chỉ là một cái ly giấy hay một cái rác, hay một tánh xấu. Đã có những lúc chúng ta rất bác ái và quảng đại, có những lúc chúng ta rất hăng say, sốt sắng và nhiệt tình tham gia, giúp đỡ người khác hay giáo xứ, và chúng ta cảm thấy vui thích và thoải mái, nhưng bây giờ nâng cánh tay lên cũng khó và nặng nhọc, không có sự thúc đẩy và hứng thú. Hình như Chúa đã bỏ rơi để mặc chúng ta một mình. Chúng ta tự hỏi tại sao Chúa lại để cho những sự kiện này xảy ra trong đời sống đức tin, đời sống Ki-tô hữu chúng ta? Chúng ta cảm thấy những sự kiện này không mang lại những ơn ích gì, hay tốt đẹp gì cho đời sống hiện tại chúng ta.
Ông bà anh chị em thân mến. Thật sự, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Có lẽ Chúa chỉ vắng mặt một thời gian ngắn, hay chúng ta không nhận ra Chúa thôi. Và lúc này là thời điểm để chúng ta thăng tiến và trưởng thành về mặt tinh thần, về phương diện đức tin. Chúa hiện diện với chúng ta qua một phương cách mới, và muốn chúng ta sống một đời sống mới như các tông đồ. Thí dụ, Chúa muốn dạy chúng ta hy sinh thời giờ tham dự Thánh lễ thờ phượng kính mến Chúa, khi chúng ta thấy lòng chúng ta khô khan và nguội lạnh. Chúa muốn dạy chúng ta cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy không có gì xảy ra qua sự cầu nguyện theo ý chúng ta. Thật sự, lời cầu nguyện tốt lành và chân thành nhất xảy ra khi trái tim của chúng ta nguội lạnh và cảm thấy không có gì xảy ra hay không tiếp nhận được gì. Vì đây chính là sự cầu nguyện với niềm tin, với đức tin chân thật. Ngoài ra, Chúa còn muốn dạy chúng ta biết đức tin không phải chỉ là một cảm nghiệm, mà còn là một sự cam kết, là một sự phó thác cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và là một sự “xin vâng” theo thánh ý Chúa như Đức Mẹ Maria, mà chúng ta mừng kính trong Tháng 5 này, vì Chúa là Chúa của chúng ta. Cuối cùng, Chúa muốn dạy chúng ta bác ái và quảng đại, hy sinh tham gia và nhiệt thành giúp đỡ người khác hay giáo xứ không phải vì vui mừng và thích thú từ những công việc đó, như từ chính lời Chúa Giê-su kêu gọi, dạy và thúc đẩy chúng ta.
Nếu vì lý do hay hoàn cảnh nào đó làm cho chúng ta thắc mắc tự hỏi tại sao Chúa bỏ rơi chúng ta? Hay như tình cảnh các tông đồ, tại sao Chúa từ biệt chúng ta? Lý do đơn giản: Chúa muốn đức tin của chúng ta lớn mạnh, hay dẫn đức tin chúng ta đến một sự trưởng thành trong ân sủng và bình an của Chúa. Hay nói cách khác, Chúa muốn đức tin của chúng ta bắt đầu lớn lên trong đường lối mà chúng ta không nghĩ có thể hiện thực được. Chúa muốn ban cho chúng ta một đường lối sống mới, một cách thức sâu sắc hơn trong sự cầu nguyện, trong cuộc sống đức tin, trong việc bác ái và trong sự hy sinh tham gia giúp đỡ người khác, để đời sống Ki-tô hữu của chúng ta luôn sống trong tình yêu và bình an của Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có và tân tiến nhất thế giới, gần như có mọi sự. Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng và rất cần thiết cho cuộc sống, đó là bình an trong tâm hồn. Có đầy đủ dư thừa về vật chất như tiền bạc, nhà cửa và gia đình, nhưng lại rất lo lắng, sợ hãi và bất an. Cho nên trong thâm tâm, chúng ta luôn khao khát tìm bình an. Nhưng sự bình an chân thật của Chúa chỉ đến từ sự liên hệ mật thiết với Chúa, từ Bí tích Thánh Thể và từ sự sống lời Chúa dạy mà thôi. Chúa cho chúng ta biết ai yêu mến Chúa thì giữ giới luật Chúa dạy, và Chúa ở trong chúng ta, và chúng ta ở trong bình an của Chúa. Thật vậy, bình an chân thật chỉ tìm thấy nơi và từ Chúa Giê-su, và cũng là quà tặng cao quý của Chúa Giêsu ban cho chúng ta, giữa những sóng gió và khó khăn trong cuộc sống, như Chúa đã nhắc nhở: “Thầy nói với các con những điều ấy, để trong Thầy các con được bình an. Trong thế gian, các con sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33). Xin Chúa ban bình an chân thật của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta luôn trung thành, sống thánh ý và lời Chúa dạy bảo.
Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến PS 6-C195
Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ.
Ngược lại, hôm nay, chính lúc Chúa đang từ giã các môn đệ để đi vào cuộc vượt qua, Chúa lại nói: “Thầy ban cho các con bình an của Thầy”. Bình an của Chúa là bình an trong tâm hồn, đó là ơn bình an nội tâm.
Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng.
Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. “Bình an của Thầy” là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng. Đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi.
Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta.
Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được.
Bình an ấy chính Chúa Giêsu đã trải qua trên thánh giá. Đó là bình an của tình yêu dâng hiến và đón nhận, cả đến chấp nhận. Thứ bình an mà nhìn bên ngoài chỉ thấy toàn thương đau ô nhục, nhưng bên trong nội tâm là trọn một lòng phó thác trong tay Thiên Chúa.
Bình an của Chúa Giêsu trên thánh giá trở thành nguồn bình an nội tâm của chúng ta. Bên ngoài, trước mắt mọi người, có khi chúng ta phải cam chịu, phải đối diện nhiều bất trắc, nhưng bên trong tâm hồn, chúng ta biết mình luôn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người.
Chúng ta biết mình thuộc về Chúa. Hãy hiến dâng cả cuộc đời, và hiến dâng tất cả mọi diễn biến xảy ra trong trọn cuộc đời ấy, để nội tâm chúng ta ngày càng trưởng thành, ngày càng nên một với thánh ý Thiên Chúa hơn.
Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bình trong nội tâm mình, để bình an nội tâm trở thành sức mạnh giúp chúng con chiến thắng mọi hoàn cảnh của đời sống, nhất là những lúc chúng con gặp phải bi thương, chán nản. Xin ban cho chúng con bình an của Chúa. Amen.
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Hạnh phúc thiên đàng là đây. Có Thiên Chúa ở cùng là điều mà Kitô hữu hằng khát khao. Trong Thánh PS 6-C196
Hạnh phúc thiên đàng là đây. Có Thiên Chúa ở cùng là điều mà Kitô hữu hằng khát khao. Trong Thánh lễ, điệp khúc: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha” được cất lên những bốn lần: trước nghi thức khởi đầu Thánh lễ, trước khi đọc Tin Mừng, trước Kinh Tiền Tụng và trước khi chúc lành kết lễ. Có thể khẳng định rằng việc tuân giữ lời Chúa Kitô chính là chìa khóa để có hạnh phúc đích thực. Nội hàm của lời mà Chúa Kitô muốn nói ở đây chính là “tin vào Thiên Chúa và tin vào Người”, đồng thời thực hành “giới răn mới” mà Người long trọng truyền dạy (x.Ga 13,34-35; 14,1). Cần thú nhận rằng nhiều lúc chúng ta thật khó phân biệt ý lời của Chúa Kitô với ý lời của người phàm. Ngay thánh Phaolô tông đồ cũng đã từng thú nhận rằng “hiện nay chúng ta thấy lờ mờ như thấy qua tấm gương” (x.1Cr 13,12). Chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Đấng mà Chúa Kitô ban tặng, sẽ giúp chúng ta hiểu đúng ý lời của Chúa Kitô để thực thi. “Thánh Thần và chúng tôi quyết định: Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm” (Cv 15,28-29). Đây là lời công bố chính thức của Công đồng Giêrusalem, Công đồng đầu tiên của Hội Thánh thời các Tông đồ. Câu tuyên bố của các Tông đồ “Thánh Thần và chúng tôi quyết định…” một cách nào đó cho ta thấy trong quyết định ấy có phần của Thánh Thần và có phần của các ngài. Phần của Thánh Thần dĩ nhiên là chân lý tuyệt đối, còn phần của các tông đồ ít nhiều bị điều kiện hóa và khó tránh khỏi sự bất cập hoặc hạn chế mặt này, mặt kia. Vấn đề là chúng ta cần phân biệt đâu là phần của Thánh Thần và đâu là phần của các Tông đồ. Tính bất cập, tương đối và bị điều kiện hóa của quyết định do phía các tông đồ có thể nói là đã lộ rõ khi các ngài dạy: “Kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết”. Chưa nói gì đến niềm tin còn bất cập về máu huyết của Do Thái giáo xưa, ở đây, chúng ta thấy các Tông đồ đã đưa ra một giải pháp mang tính thỏa hiệp, giải quyết tình thế. Để xây dựng sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu gốc lương dân và gốc Do Thái giáo, đặc biệt qua các bữa ăn, các Tông đồ đã truyền giữ tập tục kiêng cử về huyết cũng như thịt thú chết ngạt. Nhiều người dân Việt vốn thích món “tiết canh” chắc là phải bỏ mình lắm lắm! Còn về việc ăn thịt cúng thì chắc hẳn các Tông đồ không quên lời dạy của Thầy năm xưa: “Những gì bên ngoài vào trong con người thì không làm cho họ ra ô uế?” (x.Mc 7,14-23). Sau này chính Thánh Phaolô cũng đã từng minh định với tín hữu Côrintô rằng ăn thịt cúng hay không thì chẳng sao cả, miễn là đừng gây cớ vấp phạm cho những người đang còn non kém về lòng tin (x.1Cr 8,1-13).
Chúng ta cùng xem xét phần Thánh Thần chỉ dạy. – Không đặt gánh nặng lên vai người anh em: Một trong những sứ mạng của Chúa Kitô khi đến thế gian là giải thoát con người khỏi vòng nô lệ thần dữ. Tiếp tục và hoàn thành sứ mạng của Chúa Kitô, Thánh Thần đã giải thoát chúng ta khỏi ách nặng nề của “chế độ lề luật”, khỏi “tinh thần nô lệ” mà việc bãi bỏ luật cắt bì của Cựu Ước là một điển hình. Từ đây, người Kitô hữu được mời gọi đến với Thiên Chúa trong tư cách những người con. Nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần chúng ta có thể thân thưa với Thiên Chúa “Abba” – “Cha ơi” (x.Rm 8,14-17). Nhiều người đã xem Công đồng Vaticanô II như là một Lễ Hiện Xuống mới. Sở dĩ có cái nhìn này vì người ta không chỉ thấy Giáo Hội đã để cho Thánh Thần thúc đẩy mình ra khỏi tháp ngà cố thủ, để đến với thế giới mà còn thấy Giáo Hội đã gỡ bỏ nhiều ách nặng nề bấy lâu nay đang đè trên vai, trên cổ mình, khiến đoàn dân Chúa khó có thể sống tinh thần nghĩa tử với Thiên Chúa và khó sống tinh thần huynh đệ với nhau cách thực sự. Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động cho đến ngày Chúa Kitô lại đến (x.Kh 22,17). Như thế, chắc hẳn vẫn còn đó nhiều gánh nặng đang kìm giữ chúng ta trong tinh thần nô lệ mà chúng ta cần phải gỡ bỏ cho nhau. Để được vậy, chúng ta, đoàn tín hữu, từ con chiên đến các mục tử, hãy tích cực mở rộng tâm hồn để đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần, và dĩ nhiên, trên hết, trước hết cần phải biết nhạy bén với lời chỉ dạy của Thánh Thần qua các dấu chỉ thời đại. – Tinh tuyền hóa niềm tin vào Thiên Chúa và lành mạnh hóa tương quan với nhau: Ẩn sâu dưới quyết định rằng phải kiêng ăn thịt đã cúng cho ngẫu tượng thì chúng ta nhận ra chân lý là “phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (x.Mt 4,10; Lc 4,8). Và qua lời truyền dạy rằng “tránh gian dâm” hay như một vài bản dịch khác là “không được kết hôn bất hợp luật”, thì chúng ta không chỉ thấy đó là một chỉ dẫn luân lý thuần túy trong đời hôn nhân, mà còn nhận ra một chân lý trong tương quan đồng loại, đó là tôn trọng quyền lợi của nhau trong sự hài hòa và trật tự khách quan. Cần phải tôn trọng, tuân giữ trật tự khách quan này ngay từ trong cái tế bào của xã hội, cái nền tảng của đời sống nhân loại đó là “hôn nhân – gia đình”. Mạc khải đã nên trọn vẹn và hoàn hảo nơi cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Kitô. Một trong những sứ mạng của Chúa Thánh Thần là giúp chúng ta hiểu đúng lời mạc khải. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu lời Chúa Kitô đã long trọng tuyên bố năm xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy” (Mt 22,37-40). Đã là người ai cũng mong đạt được hạnh phúc. Nhiều người có niềm tin và Kitô hữu chúng ta lại còn khát khao hạnh phúc vĩnh cửu. Và điều kiện như tất yếu để có hạnh phúc vĩnh tồn đó là thực thi lời của Chúa Kitô. Để thực thi lời của Chúa Kitô thì cần phải hiểu đúng lời của Người. Thực tế vẫn có đó sự lẫn lộn giữa lời của người phàm và lời của Đức Kitô. Không gì hơn hãy khẩn xin Chúa Thánh Thần ngự đến. Thánh Thần đã được ban tặng. Vấn đề còn lại là xin cho chúng ta có thái độ thức tỉnh và khiêm nhu để đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần mà thôi.
Do Thái giáo được so sánh như một cây cổ thụ, và Kitô giáo là nhánh chồi non mọc lên từ cây PS 6-C197
Do Thái giáo được so sánh như một cây cổ thụ, và Kitô giáo là nhánh chồi non mọc lên từ cây cổ thụ đó. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Ngài đã có ý định thiết lập Giáo Hội từ ngàn xưa, khi Ngài tạo dựng đất trời. Trong lịch sử, Ngài đã chuẩn bị một dân. Từ dân riêng đó, Đấng Cứu độ là Đức Giêsu đã xuất hiện. Vị Ngôn sứ thành Nagiarét đã quy tụ những người tin vào Người và lập nên Giáo Hội. Trước khi về trời, Đức Giêsu hứa sẽ xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ đến hướng dẫn Giáo Hội. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Thánh Thần đã đến với Giáo Hội vào ngày lễ Ngũ Tuần. Đây là khởi điểm thời đại của Giáo Hội, cũng là thời đại của Chúa Thánh Thần.
Trước cuộc khổ nạn và Phục sinh, Chúa Giêsu chỉ hiện diện nơi vùng đất xứ Galilêa. Khi đã về trời, Người lại hiện diện cách huyền nhiệm và thiêng liêng ở bất cứ nơi nào có cộng đoàn tín hữu, như Người đã hứa: “Này đây Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Như vậy, nếu Chúa Giêsu không hiện diện hữu hình nơi trần thế, thì Giáo Hội là chính sự hiện diện của Người. Nói cách khác, Giáo Hội chính là hiện thân của Chúa, làm cho sự hiện diện của Người lan rộng. Qua Giáo Hội, Chúa Giêsu không còn hiện diện ở một nơi nào cố định, mà Người hiện diện trên toàn thế giới.
Các tông đồ ngay từ thuở Giáo Hội sơ khai đã ý thức được vai trò của Chúa Thánh Thần. Ngài hoạt động giữa các ông. Bài Sách thánh thứ nhất trích sách Công vụ Tông đồ kể lại cuộc gặp mặt quan trọng quy tụ các tông đồ. Cuộc gặp mặt này được gọi là Công đồng Giêrusalem, tức là cuộc họp chính thức đầu tiên của Kitô giáo. Được tổ chức vào khoảng năm 46, với mục đích giải quyết những vấn nạn liên quan đến việc các tín hữu gia nhập Giáo Hội. Thời đó, có những tranh cãi giữa các tín hữu và ngay cả giữa các tông đồ. Có người chủ trương phải cắt bì và tuân giữ Luật Môisen. Kết quả của cuộc tranh luận này được ghi ngắn gọn: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác, ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn máu, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. “Văn kiện” của Công đồng đầu tiên của Giáo Hội ngắn gọn đơn sơ là thế, mà đánh dấu một bước tiến mới quan trọng: Giáo Hội Kitô như một mầm non tách khỏi cây cổ thụ Do Thái giáo để từ nay từng bước độc lập về hệ thống giáo lý cũng như về cơ cấu tổ chức. Đức tin Kitô giáo vẫn dựa nền tảng trên giáo huấn của Cựu ước, nhưng được canh tân đổi mới theo giáo huấn của Chúa Giêsu và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngôi Ba Thiên Chúa hiện diện như linh hồn của Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần mà cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi lớn mạnh nhanh chóng.
Ngày lễ Ngũ Tuần khai mở thời đại của Chúa Thánh Thần, cũng là thời đại của Giáo Hội. Bởi lẽ Chúa Thánh Thần hoạt động thúc đẩy mỗi thành viên của Giáo Hội. Nhờ sức mạnh của Ngài mà người tín hữu can đảm tuyên xưng Đức tin, làm chứng cho Đức tin dù có phải đổ máu. Cùng với Thánh Thần, Đấng Phục sinh đã ban cho các môn đệ bình an của Người. Bài Tin Mừng Thánh Gioan ghi lại tâm tình thương mến của Chúa Giêsu đối với các môn đệ. Những tâm tình thật thắm thiết và thiêng liêng. Người căn dặn các ông đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi, “vì Thầy đi và Thầy sẽ đến cùng anh em”. Đó cũng là những tâm tình Chúa Giêsu dành cho chúng ta, là những môn đệ của Người sau hai mươi thế kỷ. Bởi lẽ chúng ta cũng được mời gọi mạnh dạn làm chứng cho Chúa qua việc thực thi giáo huấn của Người. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho chúng ta, để nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy. Mỗi tín hữu đều được trao sứ mạng loan truyền Đức Giêsu Phục sinh. Vì vậy, thời của Giáo Hội và cũng là thời của chúng ta, vì chúng ta làm thành Giáo Hội. Mỗi người đều là chi thể của thân thể, là Giáo Hội có Chúa Giêsu là Đầu.
“Ai yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Được Chúa Cha và Chúa Con hiện diện trong tâm hồn, đó là vinh dự lớn lao đối với người tín hữu. Vinh dự này là kết quả đến từ lòng mến Chúa. Lòng mến ấy được chứng minh qua cố gắng nỗ lực thực thi lời Chúa dạy. Hạnh phúc của những ai mến Chúa không chỉ ở đời này, mà còn tồn tại vĩnh viễn trong thế giới mai sau. Thánh Gioan tông đồ trong thị kiến đã thấy thiên đàng. Nơi đây không còn cần đến ánh sáng vật chất của mặt trời và mặt trăng, vì vinh quang Thiên Chúa toả rạng và Chiên Con là ngọn đèn chiếu soi”. Người công chính sẽ được chia sẻ vinh quang Thiên Chúa. Họ sẽ trở nên bất tử, như Thiên Chúa, và được cùng sống mãi mãi với Ngài.
Bình an luôn là mong cầu của mọi người. Người đi xa mong cầu cho người ở nhà luôn bình an PS 6-C198
Bình an luôn là mong cầu của mọi người. Người đi xa mong cầu cho người ở nhà luôn bình an. Người ở nhà luôn cầu chúc cho kẻ đi xa thượng lộ bình an. Nhưng có mấy ai hiểu được làm sao có bình an?
Ở đời người ta thường mải mê kiếm tìm hạnh phúc và bình an trong vật chất, mà quên mất rằng đôi khi hạnh phúc và bình an lại phụ thuộc vào chính tâm hồn và trái tim của mình. Thế nên, có ai đó nói rằng: Bình an không phải là đứng giữa một khoảng trời không giông tố, mà là khi ở giữa giông bão ta vẫn thấy lòng bình an. Bình an không tùy thuộc vào giông bão bên ngoài mà nó là hệ quả từ những lời nói, việc làm của mình gây nên những giông bão cho anh em. Vì vậy, muốn tìm kiếm bình an thì chẳng cần đâu xa đến ngàn vạn dặm đường, mà quan yếu làphải giữ cho tâm hồn và trái tim mình luôn luôn hướng về sự thiện, luôn sống hài hòa với mọi người và một khi tâm thiện thì tâm hồn sẽ có bình an.
Chúa Giêsu đã để lại bình an cho các tông đồ ngay trong bữa tiệc ly khi ngoài kia đang bao trùm bóng tối sự dữ. Trong bữa tiệc ấy Ngài đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợhãi.” Có người cho rằng: đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn. Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Chúa Cha nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài. Bình an là sống theo thánh ý Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã có bình an khi đón nhận thánh ý Chúa Cha trong vâng phục. Ngài đón nhận thập giá trong vâng phục chứ không nổi loạn, trong tha thứ để xóa bỏ hận thù.
Như vậy, bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ. Kẻ dữ tức là người luôn gây nên những sự dữ cho anh em bởi đời sống đam mê tội lỗi, sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Và điều quan yếu nhất của bình an chính là nhờ vào lòng trông cậy nơi Chúa. Đây là điều giúp ta có bình an ngay giữa những xáo trộn, xung đột và đầy sóng gió chung quanh. Đây cũng chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được. Chỉ trong Thiên Chúa con người mới được nghỉ ngơi yên lành mà thôi.
Các tông đồ năm xưa chỉ có được sự bình an khi nhận ra Đấng phục sinh vẫn hằng ở bên họ, nên họ chẳng còn sợ hãi trước những đe dọa và bách hại. Họ lướt thắng mọi khó khăn, và nhất là có thể làm được những việc phi thường khi nhân danh Đấng Phục Sinh đang đồng hành cùng các ngài.
Hôm nay Chúa Giêsu đề nghị một phương án xây dựng thế giới an lành thịnh vượng. Phương án này khởi đi từ việc “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” để được nên một trong Chúa. Đây là điều Chúa Giê-su cũng mạc khải cho thánh nữ Faustina rằng: “Nhân loại sẽ không được bình an cho đến khi chúng quay về Suối Nguồn Tình Thương của Cha” (NK 699). Và mọi thụ tạo đều phát sinh từ những vực sâu thẳm của lòng thương xót rất mực dịu dàng của Cha. Những linh hồn mật thiết với Cha sẽ suy niệm tình yêu và lòng thương xót Cha đến muôn đời. Xin cho chúng ta biết đắm mình trong đại dương LTX Chúa để được phục hồi, chữa lành , gìn giữ và ban bình an qua lòng thương Xót Chúa. Amen
Người xưa có câu:“Xa mặt cách lòng”, nói lên một sự thật chua chát về tình nghĩa con người. Bao PS 6-C199
Người xưa có câu:“Xa mặt cách lòng”, nói lên một sự thật chua chát về tình nghĩa con người. Bao nhiêu đôi vợ chồng đỗ vỡ vì sống xa nhau. Bao nhiêu con cái xa cha mẹ đã thành hư thân, bất hiếu, bụi đời. Bao nhiêu người giúp việc khi chủ vắng nhà đã lộng hành như gà mọc đuôi tôm, điển hình là dụ ngôn đầy tớ bất trung (Mt 24, 48-51).
Trước khi về trời, Chúa Giêsu không để các môn đệ cảm thấy sống trong tình trạng xa cách, đơn côi. Ngài cho họ biết tuy Ngài vắng mặt nhưng vẫn hiện diện, vẫn ở với các ông, nhưng các ông phải có lòng yêu mến qua việc vâng giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Lời đó còn chính là lời của Chúa Cha, nên“Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Không những thế mà Chúa còn sai Chúa Thánh Thần đến ở trong họ và dạy dỗ họ nhiều điều…. Cả Ba ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong họ, quả là một điều nhiệm lạ và ân ban cao cả. Chúa Giêsu còn hứa để lại bình an của Ngài cho họ, để lòng họ không phải xao xuyến hay sợ hãi. Ngài nói về sự bình an này ngay trong bữa tiệc ly, lúc mà cuộc thương khó đã gần kề, nhưng tâm hồn Ngài vẫn an nhiên và thanh thoát.
Những lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ xưa kia cũng là nói với chính chúng ta là những môn đệ hôm nay. Đã là môn đệ thì chỉ có một điều quan trọng duy nhất là nghe lời Thầy, giữ lời Thầy và tìm cách loan báo lời Thầy trong mọi môi trường sống của mình, để Lời đó được lan rộng khắp nơi. Phúc âm hóa là như thế, để lời Chúa cải đổi bản thân và và canh tân đời sống nhân loại. Đó cũng chính là sứ mạng đời Kitô hữu.
Ai tuân giữ lời Chúa chính là xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên nền đá vững chắc, chẳng còn phải lo sợ bão táp hay nước lũ dâng tràn (x. Mt 7, 24). Đó mới là sự bình an đích thực: bình an giữa những xáo trộn và rắc rối hằng ngày; bình an trước cả tai ương và sự chết. Bao vị tử đạo đã minh chứng điều đó. Đó là sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Thế gian có thể ban cho ta sự yên ổn và an toàn một lúc nào đó, nhưng ta vẫn bị chao đảo không ngừng trước mọi biến động. Đó là thứ bình an do sự dựa dẫm vào người khác hay sự vật bên ngoài, là những thứ nay còn mai mất, chứ không phải là sự bình an bên trong của một tâm thế vững vàng nhờ sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa.
Chúng ta thường nghĩ Chúa chỉ hiện diện trong nhà thờ, nhà Tạm, ít khi nghĩ đến Chúa đang hiện diện ngay trong lòng ta, ngay trong con người yếu đuối của ta. Thánh Augustinô cũng đã cho ta biết: Chúa ở trong sâu thẳm của cõi lòng ta, Ngài gần ta hơn chính bản thân ta. Trước khi rước Chúa, Chúa Giêsu đã ở trong ta rồi. Sau khi rước Chúa, Ngài lại càng thấm nhập vào toàn thể tâm hồn và thân xác ta, để làm cho ta nên một với Ngài trong tình yêu. Cũng từ đó mà thiên đàng đã chớm nở ngay trong lòng ta. Vì Chúa ở đâu thì thiên đàng ở đó. Thiên đàng ấm áp ở nơi nghèo hèn, bé nhỏ, nơi tâm hồn biết yêu mến Ðức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Ta có thật sự cảm nhận được sự hiện diện và bình an của Chúa trong tâm hồn mình không, hay đang sống bâng quơ, mơ hồ, và đang giữ đạo một cách sơ xài theo thói quen và hình thức bên ngoài?
Chúa đang sống trong mỗi người chúng ta, nhưng nếu chúng ta không sống trong Chúa, thì cuộc đời ta vẫn trống vắng, trơ trọi, bất an và sẽ chới với giữa cuộc đời đầy sóng gió. Và như vậy thuyền đời ta có nguy cơ bị đắm chìm giữa biển khơi, không thể về tới bến bờ vinh quang. Chúa làm hết mọi cách để giữ gìn ta trong tình yêu Ngài, qua Lời Chúa, qua các các bí, nhất là bí tích Thánh Thể, để qua đó chính Chúa cư ngụ trong ta và biến đổi cuộc đời ta theo dự định tình yêu của Ngài.
Hãy xác tín một cách thâm sâu về Lời Chúa và biết nương theo tác động của Thánh Thần, để Ngài làm mới lại cuộc sống của chúng ta từng ngày. Hãy đưa Lời Chúa vào giờ kinh tối của gia đình để Lời Chúa hướng dẫn, thánh hóa và hợp nhất mọi người trong tình yêu Ngài, làm nên an vui và hạnh phúc cho nhau. Dù có yếu đuối, vấp phạm, hay sa cơ lỡ bước, chúng ta cứ bắt đầu lại với tất cả niềm tin yêu và hy vọng. Chúa vẫn ở trong ta và chờ đợi ta cho tới ngày cuối cùng, để ta đạt tới niềm tin tất thắng, tiến đến sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con! Chúa vẫn bên con mà con nào có biết, vì con chưa tha thiết ở bên Ngài, Chúa ở trong con mà con đâu có hay, vì con thường loay hoay đầy toan tính. Chúa vẫn ngỏ lời mà con đâu có nghe, vì con thích nghe theo lời thiên hạ. Chúa vẫn gìn giữ con đêm như ngày, nhưng con nghĩ việc này là tự nhiên. Chúa hiện diện trong hết mọi hiện hữu, và luôn làm chủ trong mọi hiện diện, xin cho con đừng hiện diện một mình, đừng vô tình dại dột sống đơn côi, nhưng luôn sống với Chúa ở trong lòng, trong suy nghĩ ước muốn và hành động. Xin cho con tập trung mọi năng lực, để hiện diện với toàn tâm toàn ý, bằng con tim và thần trí anh minh, để tâm con luôn thanh thoát an bình, trong tương quan với mọi người mọi việc, luôn bên Chúa trong mọi lúc mọi nơi. Xin cho sự hiện diện của đời con, luôn phản ánh sự hiện diện của Chúa, sống dấn thân và phục vụ mọi người, để làm cho cuộc sống mãi đẹp tươi. Xin cho con luôn hiện diện với Chúa, để làm mới sự hiện diện của con, sự hiện diện linh thiêng rất diệu huyền, là chính Chúa Đấng vô cùng thánh thiện. Amen.
Bệnh dịch đến, để lại cho con người nhiều đau thương. Chiến tranh qua đi sẽ để lại sự hận thù PS 6-C200
Bệnh dịch đến, để lại cho con người nhiều đau thương. Chiến tranh qua đi sẽ để lại sự hận thù và sự đổ vỡ. Những hậu quả để lại bệnh dịch và chiến tranh vẫn ảnh hưởng lâu dài trên đời sống của những người trong cuộc. Cho nên, ai trong chúng ta cũng mong muốn để lại những điều tốt đẹp, hơn là để lại sự đau thương và mất mát cho người ở lại. Có thể nói, thông thường những người sắp „ra đi,” luôn thao thức để lại một điều gì đó có ích cho đời.
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh,[1] Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em.” Ở chương tiếp theo, Đức Giê-su tiếp tục tỏ lộ cho các môn đệ biết Ngài còn để lại yêu thương và niềm vui nữa.[2]
Họ được nhắc nhớ rằng: “Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (câu 27b). Vào lúc đó, người Do-thái đang tận hưởng một loại „hòa bình La-mã”. Loại hòa bình ấy được thành lập dựa trên sức mạnh quân sự của người La-mã, được tài trợ bởi thuế và được duy trì bởi những người lính La-mã. Thực ra, đây là sự thống trị hơn là hòa bình thực sự. Cho nên dễ hiểu, có nhiều người muốn nổi dậy để đánh đuổi những kẻ chiếm đóng La-mã ra khỏi đất nước của họ. Tuy nhiên, người La-mã có đủ sức mạnh quân đội để dẹp tan các cuộc nổi loạn. Đôi khi, họ sử dụng sức mạnh quân sự một cách tàn nhẫn.
Ngược lại, Đức Giê-su hứa ban sự bình an thực sự, nhưng chỉ những ai sống gắn bó và phó thác cuộc đời cho Đức Giê-su, mới hưởng nếm được niềm bình an này. Ở thời kỳ đầu của Giáo hội, những kẻ bắt bớ các ki-tô hữu đã ghen tị với sức mạnh nội tâm của họ. Các ki-tô hữu đầu tiên trong thời bách hại, họ xác tín rằng: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?”[3] và họ được bình an nội tâm, cho dù cuộc sống của họ bị khó khăn trăm bề.
Cho nên, bình an mà Đức Giê-su hứa ban, không có nghĩa là cuộc sống của họ được trải thảm nhung và hoa hồng. Chính khi đưa ra lời hứa này, Đức Giê-su đang trên đường hướng đến cuộc khổ nạn. Và trên đường thương khó, sự bình an nội tâm của Đức Giê-su đã biến ngày thứ sáu tội lỗi, thành ngày thứ sáu thánh thiện. Ngài lấy tình yêu và tha thứ để đáp lại hận thù và gian ác. Sau này, khi phải đối diện với những cuộc vu khống và bách hại, các môn đệ và những người ki-tô hữu đầu tiên luôn có được sự bình tĩnh và an nhiên. Đó là sự bình an của Đức Giê-su đã để lại. Bình an ấy được thực hiện một cách cụ thể nhờ Đấng Bảo Trợ. Ngài có nhiệm vụ đưa anh em đến sự thật toàn vẹn và niềm vui trọn vẹn.
“Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (câu 26). Đức Giê-su bảo đảm với các môn đệ rằng Ngài sẽ không bỏ rơi họ. Theo nguyên ngữ Hy-lạp, Đấng Bảo Trợ[4] có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau là Người bênh vực, Người an ủi, Người cố vấn hoặc Người trợ giúp… Ngài là Thần Khí của Thiên Chúa và luôn ở bên cạnh chúng ta mãi mãi (câu 16). Đấng Bảo Trợ là người đại diện, bảo vệ, tranh luận cho chúng ta, và dẫn đưa chúng ta đến bình an đích thực. Có thể hiểu, Ngài sẽ đưa ra những lời khuyên như cần thiết cho chúng ta trong những hoàn cảnh sống cụ thể. Tuy nhiên, không giống như các luật sư bào chữa ngày nay, những người không có trách nhiệm tiết lộ sự thật mà thay vào đó, họ phải cố gắng đảm bảo một phán quyết có lợi cho thân chủ của họ. Còn Đấng Bảo Trợ mà Đức Giê-su giới thiệu ở đây là “Thần Khí sự thật” (câu 17). Như vậy, Đấng Bảo Trợ đóng vai trò là người cố vấn, người bênh vực, người trợ giúp… để nâng đỡ những ai đang gặp khó khăn.
Nhiệm vụ quan trọng, Chúa Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (câu 26). Trong Tin Mừng Gio-an, các môn đệ là những người thường thường hoặc hiểu sai, hoặc không hiểu điều Đức Giê-su nói.[5] Cho nên, nhiệm vụ của Đấng Bảo Trợ là giúp họ ghi nhớ và giải thích những lời dạy của Đức Giê-su trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Lời hứa này vẫn là một lời khích lệ cho chúng ta ngày nay. Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần luôn đứng bên cạnh để hướng dẫn chúng ta. Nếu chúng ta làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự thật. Và nếu chúng ta vâng lời, Thần Khí sẽ dẫn chúng ta đến niềm vui trọn vẹn. Nhưng các ơn lành này cần sự cộng tác của con người. Chúng ta phải làm theo, phải tuân theo những lời dạy dỗ của Đức Giê-su.
“Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây, không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.”(câu 24). Chắc chắn, ai yêu mến Đức Giê-su thật lòng, sẽ giữ lời Ngài. Những ai không yêu mến Đức Giê-su sẽ không giữ lời Ngài – sẽ không tuân theo điều răn mới của Ngài – sẽ không yêu thương nhau.
Như vậy, bình an của Đức Giê-su để lại có hiện diện trong đời sống của chúng ta hay không, tùy thuộc vào sự đáp trả của chúng ta về lời mời gọi „anh em hãy tuân giữ những điều Thầy dạy.”
————
[1] Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C (Ga 14,23-29). [2] „Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” (Ga 15,9-11) [3] Xem Rm 8,31. [4] Chỉ có Tin Mừng Gioan dùng danh từ παράκλητος (Paráklētos) = Chúa Thánh Thần. Danh từ này cho thấy Chúa Thánh Thần là một ngôi vị, chứ không phải là một đặc tính hoặc một tính cách của Thiên Chúa. Nói một cách khác, Chúa Thánh Thần là một ngôi vị Thiên Chúa. Các tác giả Tin Mừng khác có nhắc đến Thánh Thần (Holy Spirit), và dùng cụm từ πνεῦμα ἅγιον (πνεῦμα = spirit = tinh thần; ἅγιον = holy = thánh). Trong Tin Mừng Gioan và các thư của thánh Gioan, cũng dùng danh từ pneuma, nhưng chỉ để đề cập đến những đặc tính, những tính cách thôi. Ví dụ như gió (Ga 3,8); sinh lực sống của con người (Ga 3, 6); tinh thần/ tâm thần của Đức Giê-su (Ga 11,33; 13,21; 19,30); thứ mà Đức Giê-su ban cho các môn đồ (Ga 20,22), hoặc thứ gì đó đến từ Thiên Chúa (Ga 1,32-33; 3,5-8; 15,26)…. Thánh Gio-an dùng danh từ παράκλητος (Paráklētos) để chỉ đích danh Chúa Thánh Thần. Danh từ παράκλητος (Paráklētos) = Chúa Thánh Thần chỉ xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Gioan (Ga 14,16; 14,26; 15,26; 16,7) và 1 lần trong thư thứ nhất của thánh Gioan (1 Ga 2,1).