Thêm một suy tư về Vấn đề “Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo”

Chủ nhật - 20/08/2023 10:01
Thêm một suy tư về Vấn đề “Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo”
Thêm một suy tư về Vấn đề “Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo”
Tôi vừa nhận được Email của
Bùi Ngọc Hiển hbuingoc@gmail.com

Liên quan đến cụm từ “Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo”,
tôi xin được phép đăng lên đây nguyên văn, để rộng đường cho mọi người suy tư.


--------------------------------------

Kính thưa Cha,

Gần đây, con tình cờ đọc được bài viết Tạo Vật là Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo ? - những điều cần biết, trên trang mạng truyền thông Thư viện Lời Chúa & thư viện sách quý của Cha, của tác giả Le Hai Nam (?).

Con không biết email của tác giả LHN, nên kính gửi một số ý kiến (về bài viết của tác giả LHN và mấy người khác) đến trang mạng của Cha, kèm theo bản pdf vì có thể một số hình ảnh hiển thị không đúng.

Rất trân kính.

Bùi Ngọc Hiển

--------------------------------------

TẠO VẬT

Bùi Ngọc Hiển

Trên trang mạng truyền thông mang tên (?) Thư viện lời chúa & thư viện sách quý (sic) của linh mục Nguyễn Văn Mễn, tại https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/tao-vat-la-dang-tao-hoa-hay-loai-thu-tao-nhung-dieu-can-biet-1048.html, có một bài đăng ngày 14-4-2021, tựa là : Tạo Vật là Đấng Tạo Hóa hay Loài Thụ Tạo ? - những điều cần biết. Cuối bài, ở góc trái, ghi tác giả (?) là “Le Hai Nam - 578. (14/4/2021)” –  sau đây viết tắt là LHN – nhưng ở góc phải có dòng chữ nhỏ hơn ghi cẩn thận là “Tác giả : Nguyễn Văn Mễn”, tuy nhiên dòng chữ này được tự động thêm vào bất cứ bài viết nào được linh mục Mễn chọn đăng trên trang truyền thông của ngài.

Trước đó đã có bài viết của cha Stêphanô Huỳnh Trụ có tựa đề là Từ vựng Công Giáo : Tạo vật - Thụ tạo, ngày 29-4-2017, đăng trên trang mạng truyền thông của Tổng Giáo phận Saigon, tại https://tgpsaigon.net/bai-viet/tu-vung-cong-giao-tao-vat-thu-tao-48725, được đăng lại trên nhiều trang truyền thông khác, như trang truyền thông của Giáo xứ Hà Nội (TGP Saigon) tại http://www.giaoxuhanoi.com/tu-lieu-van-hoa/tu-vung-cong-giao-tao-vat-thu-tao-2080.html [1]

Trước đó nữa, đầu năm 2004, nhạc sĩ có liên quan là Phanxicô, bút hiệu của tác giả Nguyễn Đình Diễn (viết tắt là Ph – NĐD), đã từng có bài viết trần tình mang tựa là Về hai chữ “tạo vật”, đăng trên trang mạng truyền thông Diễn đàn Thánh Nhạc tại http://www.calendi.com/thanhnhac/uploaded/Phanxico/TaoVat.pdf

Xin có một số ý.
 

I. Về việc xuất hiện “tạo vật” và việc du nhập “tạo vật” trong tiếng Việt


LHN viết (sic) :

... từ “tạo vật” theo nghĩa “Đấng Tạo Hóa” cách đây cả trăm năm (thời Nguyễn Trường Tộ, 1830-1871), khi cụm từ “tạo vật” trong chữ Hán mới du nhập vào tiếng Việt.

Việc xác định thời điểm một từ ngữ xuất hiện trong một ngôn ngữ, cũng như thời điểm du nhập một từ ngữ nào đó trong ngôn ngữ này vào ngôn ngữ khác... nói chung không hề là công việc dễ dàng. Không rõ LHN căn cứ vào đâu để có những phán đoán trên. Nhưng có thể xem vài trường hợp sau đây :

A. Sự xuất hiện từ ngữ “tạo vật” với nghĩa “Đấng tạo hóa” :

Tạm kể theo thứ tự xuất hiện từ sau đến trước :

1). Trong truyện Diệp sinh ở quyển 1, Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715), có câu :

Nhân sinh thế thượng, kì tu hợp nhãn phóng bộ, dĩ thính tạo vật chi đê ngang nhi dĩ ; mặt chữ Nho : 人生世上 , 祇須合眼放步 , 以聽造物之低昂而已 ; tạm dịch : người sống trên đời, chỉ nên khép mắt mà cất bước, kệ cho Trời [khiến] úp sấp [hay] lật ngửa mà thôi ; có lẽ Nguyễn Du đã dịch ý câu này thành “cũng liều nhắm mắt đưa chân / mặc cho con Tạo xoay vần đến đâu [thì đến]”.

Câu “dĩ thính tạo vật chi đê ngang” trên đây được tác giả người Việt Lương Thúc Ký đưa vào tác phẩm Quốc Ngạn, quyển thượng, nhà in Tiếng Dân, Huế, 1931, với dạng (sic) :

... nhắm mắt đưa chưn,  thính đê ngang ư tạo vật 聽低昂於造物 (mà dịch sát là : mặc cho việc úp sấp hay lật ngửa đều ở Trời).

2). Sớm hơn nữa, trong bài từ Giá cô thiên của Lục Du (1125-1210), người đời Tống, có câu :

Nguyên tri tạo vật tâm trường biệt / Lão khước anh hùng tự đẳng nhàn 元知造物心腸別 / 老卻英雄似等閑 ; tạm dịch : Vốn biết lòng Trời thì khác / khiến kẻ anh hùng cũng rỗi không.

3). Hàn Dũ (768-824) trong bài Nam sơn thi, có câu :

Hoàn nghi tạo vật ý / Cố hộ súc tinh hựu還疑造物意 , 固護蓄精祐 , tạm dịch : vẫn nghĩ ý Trời / che chở giúp nuôi tinh lực.

4). Sớm hơn nữa, bộ sử Ngụy thư được biên soạn từ năm 554 đến 559, do Ngụy Thâu (506-572) chủ biên, trong truyện Lí Bưu (444-501) có :

sinh sinh đắc sở, sự sự duy tân, nguy nguy hồ do tạo vật chi khúc thành dã生生得所 , 事事惟新 , 巍巍乎猶造物之曲成也 , tạm dịch : có được những xử trí phù hợp thêm mãi, mọi việc có thay đổi, còn ở Trời cao vòi vọi kia làm cho xong những chỗ khó.

Như vậy từ ngữ “tạo vật” dùng để chỉ “Trời” đã có từ rất sớm, cách nay cả hơn ngàn năm, không phải mới mẻ gì. Khi các giáo sĩ Tây phương sang truyền giáo bên Trung Hoa, có linh mục người Italia là Niccolò Longobardo (1565-1655), thuộc dòng Tên, đã đến đây năm 1597. Ngài học thông thạo tiếng nói, chữ viết, cũng như phong tục tập quán của người Hoa để làm tốt sứ vụ của mình. Năm 1602, ngài cho khắc in và xuất bản quyển kinh Công giáo chữ Nho : Thiên Chúa thánh giáo nhật khóa. Từ đó tới nay, quyển kinh này được tái bản đến vài chục lần. Trong các kinh có Thánh Mẫu đức tự đảo văn, là bản dịch chữ Nho kinh cầu Đức Bà Litaniae Lauretanae. Kinh chữ Nho này được nhiều giáo dân Việt Nam biết, nay còn nhiều người thuộc (dù chẳng hề biết mặt chữ Nho). Trong sách kinh tiếng Việt, kinh này có tên là Kinh Cầu chữ : chữ tức là chữ Nho, đối lại với Nôm là Quốc âm. Có mấy câu tương ứng với kinh Latin sau :

Tạo vật chi Mẫu 造物之母 : Mater Creatoris

Cứu thế chi Mẫu 救世之母 : Mater Salvatoris

Tương ứng với bản kinh tiếng Việt (được các cố ngày trước dịch rất cẩn thận) là :

Đức Mẹ sinh Chúa tạo thiên lập địa.

Đức Mẹ sinh Chúa cứu thế.

B. Sự du nhập từ ngữ “tạo vật” vào nước Ta :

1). Cha Stêphanô Huỳnh Trụ dẫn việc Nguyễn Trường Tộ (khoảng 1830 – 1871) trong các bản tâu dâng lên vua Tự Đức đều dùng “tạo vật” theo nghĩa “Đấng tạo hoá”. Thí dụ bản tâu về Giáo môn luận, ngày 11-2 năm Tự Đức 16 (29-3-1863) có những câu : “Thế mới thấy được cái giàu lớn khéo giỏi của Tạo vật. Sở dĩ Thượng Đế chế trị đại địa cũng như con người ta lập các tôn giáo riêng, không bắt ép cái này phải nhập vào cái kia là vì có thâm ý trong đó”, v.v...

2). Không riêng Nguyễn Trường Tộ mới dùng “tạo vật” chỉ “Đấng tạo hóa”. Trong Tuc ngữ, Cổ ngữ, Gia ngôn của Paulus Của Huình-Tịnh [2], trang 70, vần T, số 22, cũng có :

22 Tạo vật vô tình.

Trời sinh muôn vật, chỉ thính ư tự nhiên, dường như không chủ ý.

image.png
Hình chụp lại từ nguyên bản

3). Đồng thời với Nguyễn Trường Tộ còn có, thí dụ, Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), trong bài hát nói Tự tình có những câu :

Thợ trời sao khéo đa đoan

Cái danh cũng ghét cái nhàn cũng ghen

Danh giả Tạo vật chi sở kị

名者造物之所忌

(= cái danh là cái Trời ghét)

4). Trước đó Cao Bá Quát (1808 – 1855) trong bài hát nói Trời chẳng chiều người của ông có câu đầu tiên là :

Tạo vật sinh nhân tình dữ phú

造物生人情與賦

(= Trời sinh ra người cũng phú cho cái tình)

5). Sớm hơn nữa còn Nguyễn Công Trứ (1778–1858) trong bài hát nói Nghĩ tuổi già mà lo có :

Gẫm cho đến bất nhân là Tạo vật

(bất nhân là Tạo vật : đây là câu chơi chữ mang 2 nghĩa : 1). nếu dùng bất nhân 不仁 thì câu có nghĩa than trách ông Trời : Trời nhẫn tâm, chẳng có lòng nhân từ ; 2). nếu dùng bất nhân 不人 thì câu có nghĩa khác : Trời chẳng phải người ta !).

6). Trước nữa, Ngô Thì Nhậm (1746-1803), trong bài Đường luật 觀異說反唐傳 Quan “Dị thuyết phản Đường” truyện (= Xem truyện “Dị thuyết phản Đường”), ngay câu phá đề viết là :

造物持鈞似不平

Tạo vật trì quân tự bất bình [3]

tạm dịch : Trời cầm cân dường như chẳng đều

7). Lại có thể kể thêm Nguyễn Phi Khanh (1355-1428 ?), cha của Nguyễn Trãi, trong bài phú 葉馬兒 Diệp mã nhi (= Con ngựa lá) cũng có các câu như :

苟非造物之妙 , 化工之至 , 安能致是乎 ?

cẩu phi tạo vật chi diệu, hóa công chi chí, an năng trí thị hồ ? [4]

tạm dịch : nếu chẳng phải sự rất mầu của đấng tạo vật, sự rất khéo của đấng hóa công, thì sao được như vậy ?

...

Như thế ngay từ cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV, các tác gia người Việt đã dùng hết sức tự nhiên, trôi chảy từ ngữ “tạo vật” với nghĩa là “Đấng tạo hóa”. Từ đó phải kết luận rằng từ ngữ này đã có mặt (với nghĩa là [đấng / vị...] dựng nên các vật) trong giới Nho học Việt Nam từ rất sớm, không phải như LHN cả quyết rằng mãi đến thời Nguyễn Trường Tộ “từ “tạo vật” trong chữ Hán mới du nhập vào tiếng Việt”.
 

II. Nghĩa của “tạo vật” trong các văn bản tiếng Việt hơn 100 năm trước


A. Các khẳng định hồ đồ của LHN :

LHN viết lặp ba lần rằng (sic) :

... trong các văn bản tiếng Việt xuất hiện trong hơn 100 năm nay, cụm từ “tạo vật” chỉ được sử dụng theo một nghĩa duy nhất là “loài thụ tạo,” chứ không có bản văn nào dùng nó theo nghĩa “Đấng sáng tạo.” (mà lần thứ hai trong ba lần lặp này nói chắc chắn rằng “khoảng 150 năm nay”).

Cũng tức là lặp lại ý của Ph – NĐD (không biết căn cứ vào đâu) rằng (sic) :

Ít ra từ đầu thế kỷ hai mươi, tín hữu Công giáo Việt Nam vẫn luôn hiểu tạo vật là tất cả những gì do Thiên Chúa tạo dựng (creature)

Trong sách Thánh giáo Kinh nguyện bằng chữ Nôm, 1925, sau kinh Cầu các Thánh (xem hình chụp lại nguyên bản chữ Nôm, trang 29ab và t. 30ab) là kinh Cầu chữ (từ dòng thứ 3 trang 29b, đếm từ bên phải sang, hình trên). Các câu kinh Tạo vật chi Mẫu, Cứu thế chi Mẫu ở trang sau (câu thứ 2 và 3, dòng 6, trang 30a, hình dưới).

image.pngimage.png

Hình kinh cầu Đức Bà chữ Nho trong bản kinh Nôm聖教經願 Thánh giáo kinh nguyện, 1925 ; hình trước : trang 29ab, gồm phần cuối kinh Cầu các Thánh ; ba dòng cuối (bên trái trang 29b) là kinh Cầu chữ, tiếp sang trang 30ab ở hình sau.

image.png
Hình chụp trang kinh cầu Đức Bà chữ Nho trong bản天主聖教日課 Thiên Chúa thánh giáo nhật khóa in lại năm 1715 bên Trung Hoa. Các câu Tạo vật chi Mẫu, Cứu thế chi Mẫu ở các dòng 5 và 6 (từ bên phải).

Nếu khi cha Longobardo dịch Litaniae Lauretanae, mà người Hoa không dùng “tạo vật” với nghĩa là “đấng / vị... dựng nên các vật”, thì bản dịch của ngài sẽ lập tức bị đào thải ngay, không thể phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Công giáo Hoa cho đến tận bây giờ. Và khi kinh Cầu chữ “du nhập” vào nước ta, thì lúc đó không thiếu gì người Công giáo Việt giỏi Nho học, có cả những vị từng thi đậu, làm đến các chức quan đại thần trong triều đình Đại Nam, cũng sẽ không thể chấp nhận nếu “tạo vật” trong kinh Cầu chữ được các nhà Nho đương thời hiểu là “vật được dựng nên”.

Như vậy, ngược hoàn toàn với Ph – NĐD (và với LHN), các người Việt Công giáo đầu thế kỉ XX (và không chỉ khoảng thời gian đầu thế kỉ XX mà thôi) chắc chắn đã hiểu “tạo vật” chính là chỉ “Đấng tạo dựng các vật”, y như những người đương thời (Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Trọng Kim... như sau đây) đã hiểu. Thí dụ :

1). Trong tác phầm Truyện Thúy-Kiều (Đoạn-trường tân-thanh) do Bùi-Kỷ và Trần-Trọng-Kim hiệu khảo, Vĩnh-Hưng-Long thư-quán, Hà-Nội, 1925, câu 6 : Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, được chú thích (đánh số 5) như sau (sic) :

(5) Tình-sử : 造物妬紅顏 tạo vật đố hồng nhan : Tạo-hóa hay ghen với người đàn-bà đẹp. Có bản viết là : ... quen với...

image.png
Hình chụp lại nguyên bản

Chú thích này được các tác giả về sau dẫn lại, thí dụ Dẫn giải truyện Kim Vân Kiều, Huyền Mặc đạo nhân, 1954, hay Kim Vân Kiều đính giải, Đàm Duy Tạo (trước tác 1986, hiệu đính và phổ biến 2016)... Trong Truyện Kiều chú giải, Lê Văn Hòe, Hà Nội, 1953, t. 14, vẫn câu Kiều Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen trên, có chú thích 6, nguyên văn :

(6) Tình sử có câu Tạo vật đố hồng nhan 造物妒紅顔 nghĩa là Tạo Hóa ghen với người đàn bà đẹp. Đàn bà đẹp thường gặp gian truân, nên người ta cho hình như là Trời ghen ghét với người đàn bà đẹp. Thực ra Trời không ghen ai.

Như thế trong cùng một câu chú thích, Lê Văn Hòe đã khẳng định minh bạch rằng Tạo vật cũng là Tạo Hóa, cũng là Trời.

Cũng nói thêm : trong Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh không có câu “Tạo vật đố hồng nhan”, nhưng lại dẫn mấy câu khác : Tạo vật đố kỳ toàn, Tạo vật đố kỵ, Tạo vật đố tài (xem hình dưới).

image.png
Hình chụp lại nguyên bản Hán – Việt từ điển giản yếu, Đào Duy Anh, nxb Minh Tân, 1949, có các mục từ về tạo vật

2). Trước nữa, trong Nam Phong tạp chí, quyển 6, số 36, Juin 1920, mục Văn Uyển, bài Câu Đối Phúng, Vũ Tích Cống sao lục, trang 545, có đôi câu đối Con rể khóc bố vợ :

Tạo vật khéo trêu ngươi, kéo đám mây mù che núi Nhạc ;

Rể con không nhẽ nín, nổi cơn gió lạnh thảm nhà băng.

3). Vẫn trong Nam Phong tạp chí, có thể thấy Phạm Quỳnh là một trong những người rất hay dùng tạo vật để nói về tạo hóa. Thí dụ :

─ Trong quyển 1, số 4, Octobre 1917, bài Sự giáo dục đàn bà con gái, trang 207, ông viết :

“... Đàn-ông với đàn-bà thực là mây với khói, địa-vị có khác nhau mà thiên-chất thực là một ; tạo-vật cùng cho cái sức bay bổng như nhau...”

─ Quyển 5, số 29, Novembre 1919, bài Gia tộc luận,

trang 379 : “... tạo-vật vẫn đào-thải như thế là thường.” ;

trang 380 : “... chính tạo-vật đã có cách đào-thải...”

─ Quyển 7, số 40, Octobre 1920, bài Phật giáo lược khảo, trang 302 K :

“... Tưởng thế cũng là đủ : cái bí-tàng của tạo-vật, biết chút thế cũng đủ sống...”

─ Quyển 8, số 43, Janvier 1921, bài Bàn về tiểu-thuyết, trang 9 :

“... để chứng rằng tạo-vật vốn vô-tình...” (xem hình).

image.png
Hình chụp lại đoạn văn trong bài Bàn về tiểu thuyết dẫn trên, được in trong Thượng Chi văn tập, do nhà xuất bản Văn Học tái bản năm 2006, trang 674.

và còn ở rất nhiều chỗ khác nữa.

─ Ngoài ra, quyển 21, số 122, Octobre 1927, trang 357, có bài của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, bài Học thuật :

“... Sau rút cục lại suốt đời dở-dang chẳng làm nên công-cán gì, bấy giờ mới lại oán-trách tạo-vật bất-công, đổ tội cho quan chủ-ti không biết kén dùng đến mình...” (nguyên văn : ... 及其終身黄馘 , 貿然惡造物之不平 , 罪有司之不明 ... , ... cập kì chung thân hoàng quắc, mậu nhiên ố tạo vật chi bất bình, tội hữu ti chi bất minh...)

─ Vẫn quyển 21, số 122, Octobre 1927, trang 361, Vũ trung tùy bút, bài Cách uống chè :

“... Cái vui về nước non bè bạn, tạo-vật chưa dễ đã cho mọi người được hưởng, có phần lại khó hơn lợi-lộc với vinh-danh...” (nguyên văn : ... 山水朋友之樂 , 造物不輕與人 , 殆有甚於榮名利祿者 ... , ... san thủy bằng hữu chi lạc, tạo vật bất khinh dữ nhân, đãi hữu thậm ư vinh danh lợi lộc giả ...) [5]

─ Đến năm 1974, một tác giả khác là Nguyễn Quốc Hùng đã cho xuất bản Hán Việt tân từ điển, trong đó có mục từ :

造物 tạo vật : làm ra mọi vật, chỉ ông trời.

Qua các trích dẫn trên, có thể kết luận rằng trong các tác phẩm của người Việt, dù được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ, ít nhất cũng ngay từ đầu thế kỉ XV với bài Diệp mã nhi của Nguyễn Phi Khanh (sớm hơn nữa thì không thể biết, vì sách vở, chữ nghĩa... của Đại Việt từ đầu thế kỉ XV về trước bị giặc Minh hoặc đem về Tầu, hoặc thiêu đốt, phá hủy...) cho đến tận năm 1974 với Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng (nếu không kể các tác phẩm của các tác giả khác được tái bản ở các thời điểm còn muộn hơn nữa, như Thượng Chi văn tập được tái bản năm 2006), tức là ít cũng 5 thế kỉ, thì nghĩa của từ ngữ “tạo vật” không hề bị thay đổi : từ ngữ này luôn được dùng để chỉ về [ai đó / vị nào đó / đấng nào đó] tạo dựng các sự vật. Không hề có tác giả nào dùng “tạo vật” để nói về “vật được tạo dựng”. Điều này trái ngược hẳn với nhận định của LHN rằng (sic) :

... các văn bản tiếng Việt xuất hiện trong hơn 100 năm nay, cụm từ “tạo vật” chỉ được sử dụng theo một nghĩa duy nhất là “loài thụ tạo” chứ không có bản văn nào dùng nó theo nghĩa “Đấng sáng tạo”

Sau này các tín hữu Công giáo Việt Nam muộn thời hơn được làm quen (trở lại, nếu trước đó đã từng biết) với “tạo vật” nhưng với nghĩa sai của nó (“tạo vật” là “vật được tạo dựng”) trong khoảng sớm lắm thì cũng là năm 1965 trở đi, như sẽ được trình bày ở mục B dưới đây.

B. Lí sự của LHN :

LHN dùng “kiến thức về ngôn ngữ học” với “các nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ học” để biện hộ cho việc dùng nghĩa sai của “tạo vật” như sau :

Lí sự 1 – của LHN : ... ý nghĩa của một từ hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian (thêm hay bớt)...

Lí sự này là đúng. Nhưng trong một thứ tiếng nói nào đó mà có nhiều từ ngữ cứ thay đổi ý nghĩa theo thời gian, thì con cháu đời sau làm thế nào hiểu được tiếng nói của tổ tiên ? Vì thế các từ như vậy chỉ là một số rất ít ỏi. Trong tiếng Việt cũng vậy, rất nhiều từ Việt có từ thời linh mục Alexander de Rhodes (giữa thế kỉ XVII), chẳng hạn, vẫn giữ nguyên ý nghĩa của chúng đến tận ngày nay. Thí dụ : nhà, domus, cửa, ianua / portus, gối, ceruical [cách viết hiện nay : cervical], chiếu, storea, heo, sus, bò, bos, gà, gallina, vịt, anas, gần, vicinus, xa, distans, đi, eo, đứng, sto... (dẫn lại phần từ ngữ Latin tương ứng mà cha AdR dùng trong tác phẩm của ngài)

Lí sự 2 – của LHN : ... du nhập một từ hay cụm từ từ tiếng nước ngoài, người ta không bắt buộc phải giữ nguyên ý nghĩa của từ hay cụm từ ấy trong tiếng nước ngoài mà có thể thay đổi thành một ý nghĩa khác...

Lí sự này cũng đúng, và cũng như ở lí sự (1), những trường hợp như lí sự (2) này không nhiều. Thí dụ : từ ngữ “ 合眼 hợp nhãn” (dẫn ra trong truyện Diệp sinh, Liêu Trai chí dị ở trên) nguyên được dùng với nghĩa là “khép mắt, nhắm mắt”, nhưng người Việt lại dùng nó với nghĩa là “vừa mắt”. Nhưng xét cho cùng, đó chỉ là do hợp là một từ có nhiều nghĩa (khép, đóng ; cùng, vừa ; gom góp...).

Thí dụ khác : từ ngữ “đồng hồ”. Từ ngữ này có mặt chữ Nho là 銅壺 , tên của một dụng cụ đo giờ, và nghĩa chính xác của “đồng hồ” là “chậu [bằng] đồng”, vì nó gồm nhiều chậu đồng để nước chảy vào / chảy ra, từ đó mà xác định giờ giấc. Từ ngữ này được “du nhập” vào nước ta không biết từ lúc nào. Khi người Tây phương sang ta, “du nhập” theo những dụng cụ đo giờ nhỏ gọn của họ, ta cũng cứ gọi những đồ đo giờ ấy là những cái “đồng hồ”, lại còn “đồng hồ quả quýt” (= chậu đồng [nhỏ bằng] quả quýt ?), “đồng hồ đeo tay” (= chậu đồng đeo lủng lẳng trên tay ?), thậm chí “đồng hồ mặt trời” (= cái chậu đồng [dùng để đựng] mặt trời ?), v.v. và v.v...

Dù sao “nghĩa mới” của “đồng hồ” cũng không xa “nghĩa cũ”, tức là vẫn chỉ về dụng cụ đo giờ, và những từ ngữ dùng sai mà bị gán cho là đúng theo kiểu như vậy cũng không nhiều. Nhưng lí sự này là sai lầm nếu muốn áp dụng cho từ ngữ “tạo vật”.

Lí sự 3 – của LHN : ... cấu trúc cụm từ Hán “tạo vật” này gồm “tạo” là động từ và “vật” là danh từ và trong đó động từ có thể được hiểu theo nghĩa tác động hay bị động. Do đó cụm từ “tạo vật” được hiểu theo nghĩa “vật được tạo thành” (nghĩa bị động) vẫn là hợp lý.

Lí sự này lại cũng có phần đúng đối với những từ ngữ không phải là ... “tạo vật” : thành phần động từ X trong một từ ngữ A hoặc được dùng (và hiểu) với nghĩa chủ động, hoặc cũng có thể được dùng (và hiểu) với nghĩa bị động. Nhưng một khi động từ X đó đã được dùng (và hiểu) với nghĩa chủ động thì lúc nào cũng phải hiểu theo nghĩa chủ động. Ngược lại, nếu động từ X đó đã được dùng (và hiểu) với nghĩa bị động thì lúc nào cũng phải hiểu theo nghĩa bị động. Không thể có chuyện khi thì động từ đó được dùng (và hiểu) với nghĩa chủ động, sau đó ít lâu lại bỗng dưng quay sang được dùng (và hiểu) theo nghĩa bị động. Vì nếu như thế thì ngôn ngữ sẽ loạn hết.

Thí dụ :

+ Những từ ghép trong đó động từ được hiểu theo nghĩa chủ động :

giáo viên : người [làm công việc] dạy [cái gì đó, cho ai đó...]

khán giả : gã [làm công việc] xem [cái gì đó, ai đó...]

tác giả : kẻ làm [cái gì đó]

tẩy giả : người [làm công việc] rửa [ai đó] ...

Bỗng một ngày nọ, có ai đó thích “đổi sang nghĩa mới” bằng cách đem hiểu động từ trong những từ ngữ đó là bị động, thì những “nghĩa mới” sẽ thành :

giáo viên : người được [ai đó] dạy cho [cái gì đó...] (tức là “giáo viên” bỗng hóa ra “học trò” !)

khán giả : kẻ bị [ai đó] xem, dòm (tức là bị ... rình)

tẩy giả : người bị [ai đó] rửa ráy cho (tức là tên thánh Gioan Tẩy giả từ trước đến nay vẫn có nghĩa là “Gioan người làm phép rửa” đột nhiên biến thành “Gioan(,) kẻ bị [ai đó không biết] rửa cho” (!)

tác giả : kẻ bị [ai đó] làm ra (? ; cũng na ná như tạo vật được hiểu sai là vật bị [ai đó] dựng nên)

tác nhân : cái nguyên nhân được [ai đó] làm ra

...

Còn các câu kinh trong kinh cầu Đức Bà chữ Nho dẫn trên sẽ trở thành :

Tạo vật chi mẫu : mẹ của các vật được dựng nên (có lẽ tiếng Anh là : mother of created things, hay văn vẻ hơn : mother of creatures chăng ?)

Cứu thế chi mẫu : mẹ của cõi đời được cứu (mother of saved world ?)

+ Những từ ghép trong đó động từ được hiểu theo nghĩa bị động : ở đây xin dẫn lại các thí dụ trong bài viết Tạo vật - Thụ tạo của cha Stêphanô Huỳnh Trụ :

phế vật : vật bị bỏ đi

di vật : vật được để lại khi chết

cống vật : vật được đem đi dâng biếu

tặng vật : vật được tặng, vật để tặng

Rõ ràng các động từ trong các từ ngữ này không thể hiểu với nghĩa chủ động được, vì không thể hiểu, thí dụ :

phế vật : vật [làm hành động] vất bỏ [cái gì đó vào đâu đó, hay cho ai đó...]

di vật : vật [làm hành động] để lại, dời lại [cái gì đó cho ai đó...]

cống vật : vật [làm hành động] dâng biếu [cái gì đó cho ai đó...]

tặng vật : vật [làm hành động] tặng [cái gì đó cho ai đó...]

Lí sự 4 – của LHN : ... trong tiếng Việt, từ “vật” là chỉ “sự vật” vô tri giác, chứ không bao giờ chỉ “người” có tri giác, nói chi đến việc dùng từ “vật” để chỉ “Thiên Chúa.” Có thể nói việc dùng cụm từ “tạo vật” để chỉ Thiên Chúa là một việc báng bổ không thể chấp nhận được (Chúa mà dám gọi là “vật”).

Chưa nói đến việc hiểu « “vật” trong “tạo vật” là từ chỉ Thiên Chúa (LHN) » là hiểu sai cấu trúc ngữ pháp của “tạo vật”, hãy xem “vật” trong từ ngữ “nhân vật”, như trong câu : “truyện này có 3 nhân vật chính là ông L, cô H, bà N, và 3 nhân vật phụ là cô P, anh N, cô D”, thì không biết đâu là “sự vật vô tri giác”  ?

Trong “tạo vật”, “tạo” là động từ mang nghĩa chủ động, “vật” là danh từ làm đối từ trực tiếp cho “tạo”, “tạo vật” là một ngữ - động từ có nghĩa là “dựng nên các vật”. Khi ngữ - động từ này được dùng làm danh từ (ghép, hay ngữ - danh từ), thì “tạo vật” có nghĩa là “đấng / vị [làm công việc] dựng nên [các] sự vật”. Điều này cũng tương tự từ ngữ “tạo hóa”, nguyên là một động từ kép, có nghĩa là “dựng nên và biến đổi”, được dùng làm danh từ để chỉ về “đấng / vị [làm công việc] dựng nên và biến đổi”, mà không hề cần đến những từ ngữ như “đấng” hay “vị”... ở trước. Có thể xem :

Khóc ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương (được coi là 1772 - 1822) :

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,

Miệng túi càn khôn thắt lại rồi.

Thăng Long thành hoài cổ của bà Huyện Thanh Quan (1805 - 1848) :

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường

Hoặc trong ca dao :

Xưa nay tạo hoá xoay vần,

Hết bần lại phú, chẳng cần gì đâu

Ngoài ra, Nguyễn Văn Ngọc trong Nam thi hợp tuyển, 1934, giải thích hai chữ tạo hóa :

tạo : sáng tạo, gầy dựng, làm ra ; hóa : hóa dục biến đổi tự nhiên, tức là giời đất, ý nói giời đất sinh ra vạn vật.

Theo giải thích đó, rõ ràng ai cũng hiểu “tạo hóa” vốn không phải là danh từ, mà là một động từ kép ; động từ kép này đã được dùng làm ngữ - danh từ, như phần sau của giải thích “ý nói giời đất sinh ra...”.

Kể ra cũng có thể thêm vào “tạo vật” một chữ nữa, như cách làm trong 天主教英漢袖珍辭典 Thiên Chúa giáo Anh – Hán tụ trân từ điển (tiểu từ điển Công giáo Anh – Hán) do 主徒會恒毅月刊社 Chúa đồ hội Hằng-nghị nguyệt san xã xuất bản [6] :

Creator : 造物主 ; 創造者 ; 造物者 [tạo vật Chúa ; sáng tạo giả ; tạo vật giả]

Hoặc trong 拉丁漢文辭典 La-tin Hán văn từ điển của linh mục 吳金瑞 Ngô Kim Thụy (1965) [7] :

Deus creator : 造物者天主 [tạo vật giả Thiên Chúa = Thiên Chúa, Đấng dựng nên các vật]

“Tạo vật Chúa” / “Tạo vật giả” cũng như “Cứu thế Chúa”, là đặt theo cú pháp Nho ; cú pháp Nôm tương ứng là “Chúa tạo vật” / “Đấng tạo vật” và “Chúa cứu thế”.

Nhưng việc làm này có lẽ chỉ cốt cho người thời nay, tạm gọi là hậu Nho học, cả Việt lẫn Hoa, được dễ hiểu. Còn đối với người Nho học xưa, Nho văn được viết theo lối văn ngôn, lời ít ý nhiều, không viết theo lối bạch thoại – nghĩa đen là “nói trắng ra”, tức là “nghĩ sao nói vậy” – thì điều này hoàn toàn không cần thiết. Có thể xem lại trường hợp từ ngữ “tạo hóa”, hoặc “cứu thế” trong “Cứu thế chi mẫu” dẫn trên. Ngay kinh nguyện tiếng Việt cũng có cách dùng “Cứu thế” (không có Chúa / Đấng / Vị) để nói về “Chúa cứu thế” :

Trong Sách Kinh nguyện ngày thường và ngày Chúa nhựt (cũng gọi là Sách Mục lục), Imprimerie de la Mission, Quinhon, 1925, Phần thứ bốn – Các Kinh đọc hoặc hát theo mùa trong năm, I. Các ngày lễ về Chúa, 7 – Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, kinh Lễ Chúa Thánh Thần, có các câu (xem hình chụp lại ở dưới) :

... Sách đã hứa : ngày sau Cứu thế,

Thì đến nay in hiệp nào sai.

...

Anh em đã không tin Cứu thế,

...

Dù không có “Chúa / Đấng / Vì... ” ở trước “Cứu thế”, nhưng chắc chắn không hề có ai lại hiểu “cứu thế” là “cõi đời được cứu” (thậm chí còn không thể hiểu là “sự / việc cứu đời”).

image.png
Hình chụp nguyên bản Sách Mục lục, 1925, có từ ngữ Cứu thế

Trong tiếng Việt, không ít từ ngữ có cấu trúc và cách dùng tương tự với cấu trúc và cách dùng “tạo vật”, “tạo hóa”... Chỉ kể riêng những từ ngữ vẫn gọi là “tiếng nhà đạo”, có : [phép] rửa tội (có khi viết : Rửa tội), thêm (/ Thêm) sức, truyền (/ Truyền) chức, xức (/ Xức) dầu.

Tóm lại, động từ “tạo” trong “tạo vật” không hề mang nghĩa chủ động theo cách hiểu rằng cả từ ngữ có nghĩa là “vật / kẻ... làm công việc dựng nên [ai đó, cái gì đó...]”, mà cũng chẳng mang nghĩa bị động để hiểu “tạo vật” là “vật được [ai đó] dựng nên”.

Để “tăng trọng lượng” cho cái khẳng định rằng :

các văn bản tiếng Việt xuất hiện trong hơn 100 năm nay, cụm từ “tạo vật” chỉ được sử dụng theo một nghĩa duy nhất là “loài thụ tạo, ” chứ không có bản văn nào dùng nó theo nghĩa “Đấng sáng tạo. ” (LHN)

LHN dẫn ra thí dụ :

bản dịch tiếng Việt Công Đồng Vatican II của Giáo Hoàng Học Viện Pi-ô X có hàng chục lần dùng từ “tạo vật” chỉ với ý nghĩa là “loài thụ tạo.”

và ở ngay phần mở đầu, LHN viết :

cha Martino Thông giải đáp bằng cách trưng dẫn các văn bản chính thức của phụng vụ thánh, vốn đều dùng cụm từ “tạo vật” để chỉ “loài thụ tạo.”

Quả là có như vậy. Từ ngữ “tạo vật” là một từ ngữ có hơi hướng “duy tâm”, thuộc lãnh vực siêu hình, triết học, nên từ khoảng những năm 30 của thế kỉ XX đến nay, từ ngữ này hầu như không còn xuất hiện trong các tác phẩm của người Việt. Chỉ gặp thấy là khi người ta tái bản những tác phẩm đã dùng đến nó, hoặc được người khác dẫn từ các sách vở có trước vào tác phẩm của mình như đã trình bày trên.

Ngày 15-6-1964, với Sắc lệnh Prot. 787/64, Tòa Thánh cho phép Hội đồng Giám mục (HĐGM) miền Nam Việt Nam được dùng tiếng Việt – và một số ngôn ngữ khác của các dân tộc ít người – trong các buổi cử hành PV. Năm 1965, nhà xuất bản Hiện Tại đã cho ra đời Sách Lễ tiếng Việt, dịch theo Missale Romanum 1962 (nghi thức Thánh Lễ “cũ”, quen gọi là “lễ quay lên”) : các bài Thánh thư, Phúc âm, các kinh Cầu nguyện – Oratio, kinh Dâng lễ – Secreta..., các bài ca (ca Nhập lễ – Antiphona ad Introitum, ca Dâng lễ – Antiphona ad Offertorium...) và phần Nghi thức Thánh Lễ, được in chung tất cả vào một quyển, có đối chiếu tiếng Latin bên cạnh tiếng Việt. Không thể phủ nhận giá trị của bản dịch này, các bản dịch sau chỉ thay đổi ít nhiều so với bản này, ít nữa cũng là phần NTTL, từ các lời chủ tế nói với giáo dân cùng những lời giáo dân đáp lại, cho đến các kinh như : Xin Chúa thương xót (Kyrie), Vinh danh (Gloria), lời thưa của giáo dân cuối BĐ, PÂ, kinh Tin kính (Credo), Thánh, Thánh, Thánh (Sanctus), Lạy Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei). Sách Lễ này đã được Hội đồng Giám mục cho phép dùng trong Phụng vụ.

Tất nhiên trong bản dịch cũng có chỗ dịch sai, tuy rất ít, nhưng vẫn cứ là sai. Thí dụ các dịch giả đã dịch creatura (và các biến cách) trong Latin bằng những từ ngữ Việt sau :

─ Chữ dùng đúng :

+ (các / vật / loài) thụ sinh : Col 1:15, lễ Chúa Giêsu Kitô Vua, CN cuối tháng X ; Rom 8:19-23 (có 3 chỗ, riêng creatura trong câu 19 được dịch là họ), CN IV sau lễ Hiện xuống)

+ (các / vật / loài) thụ tạo : Jac 1:18, CN IV sau lễ Phục sinh, lễ một thánh Giáo hoàng tử đạo (ngoài MPS)

+ hoặc chỉ dịch gọn là : mọi loài (kinh Tiền tụng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua), mọi vật (kinh Dâng lễ Secreta, Thứ V tuần Chịu nạn = sau CN lễ Lá), mọi người (Mc 16:15, lễ Thăng thiên)...

─ Chữ dùng sai : chính là “tạo vật” (Rom 8:39, ngày 1-2, lễ thánh Ignatius ; Gal 6:15, ngày 4-19, lễ thánh Phanxicô khó khăn).

May thay, chỗ dịch sai creatura thành tạo vật trong bản dịch này rất ít so với các chỗ dịch đúng, nên không gây “ấn tượng” mấy.

Khi Hội thánh cho sử dụng Phụng vụ mới, Ủy ban phụ trách việc dịch các sách Phụng vụ trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lần lượt xuất bản Sách Lễ mới (năm 1971) và sách các Bài đọc cho các Thánh Lễ (gồm : mùa Chay + Giáng sinh, 1969, mùa Chay + Phục sinh, mùa Quanh năm I và II, 1970 ; ngoại lịch, 1973 ; sau đây viết tắt là bản UBGMPV). Đây là một nỗ lực rất lớn, vì chỉ trong khoảng chưa đầy hai năm, Ủy ban này đã dịch một khối lượng đồ sộ các bản văn Thánh Kinh từ Latin sang tiếng Việt để kịp sử dụng trong Phụng vụ, nên các sai sót là điều không thể tránh khỏi. Đối với trường hợp các từ ngữ tiếng Việt được dùng để dịch creatura của Latin có thể kể như sau :

─ Chữ dùng đúng :

1). Mc 16:15 :

+ Thứ VII tuần BN PS, bài Phúc âm : muôn loài

+ Ngày 25-1, lễ thánh Phaolô Tông đồ trở lại : (mọi) loài thọ tạo

2). 2Cor 5:17 :

+ CN IV mùa Chay, năm C, BĐ II : một thụ tạo (mới)

+ Thứ VII tuần X QN, năm lẻ, BĐ I : một thọ sinh (mới)

3). Apoc 5:13 :

+ CN tuần III PS, năm C, BĐ II : mọi thọ tạo’’

4). Rom 1:20 :

+ Thứ III tuần XXVIII, năm lẻ, BĐ I : loài thụ tạo

5). Rom 1:25 :

+ Thứ III tuần XXVIII, năm lẻ, BĐ I : loài thọ tạo

─ Chữ dùng sai : creatura đều được dịch sai là (mọi / các / loài) tạo vật :

1). Mc 16:15 : bài PÂ của CN tuần XIV, năm C ; CN XV, năm C ; CN tuần XXII, năm B ; lễ Chúa thăng thiên, năm B ; lễ thánh Marcô thánh sử ; lễ chung các thánh Chủ chăn ;

2). Rom 8:19-22 : Thứ III tuần XXX QN, năm lẻ ;

3). Gal 6:15 : CN XIV QN, A, BĐII

4). Col 1:15 : CN cuối năm PV, lễ Chúa Kitô Vua, BĐ II

5) Jac 1:18 : các ngày mùa QN :

+ Alleluia của : Thứ VII tuần VIII, Thứ VI tuần XVI, Thứ II tuần XXIV, Thứ VII tuần XXVIII

+ Thứ III tuần VI, năm chẵn, BĐ I ; CN tuần XXII, năm B, BĐ II

Ngoài ra câu Mc 16:15 được dùng làm Đáp ca CN tuần XXI QN, năm C, lại bỏ, không dịch “creatura” của bản Latin.

Không riêng các bản dịch này, nhiều bản dịch Công giáo khác cũng sai như vậy (tất nhiên bên cạnh các chỗ dịch sai thì cũng có chỗ dịch đúng là loài thụ tạo, vật thụ tạo, vật thụ sinh...) như trong :

─ các bản dịch Thánh Kinh của các dịch giả Trần Đức Huân (Cựu – Tân Ước, 1971), Nguyễn Thế Thuấn (Cựu – Tân Ước, 1977), An-sơn Vị (chỉ có phần Tân Ước, 1983)...

─ các bản dịch các văn kiện của Công đồng Vaticanô II do Giáo hoàng học viện Piô X thực hiện (1972).

Hai kết luận từ các bản dịch trên :

Kết luận 1 : các dịch giả không phải là không biết từ ngữ Việt đúng dùng để dịch từ ngữ creatura trong Latin, nhưng có lẽ do chủ quan, nên vẫn để xảy ra các sai lầm đáng tiếc (dẫn tới nghịch nghĩa hẳn so với nghĩa cần dịch ; hơn nữa còn làm cho cộng đoàn hiểu sai). Từ ngữ vật – thụ tạo đặt theo cú pháp Nôm, gồm hai thành phần vật và thụ tạo, nếu đặt theo cú pháp Nho sẽ là thụ tạo – vật 受造 . Có thể từ ngữ thụ tạo vật làm liên tưởng tới từ ngữ tạo vật

...

[Thư đã được cắt bớt]  Xem toàn bộ thư
 1 tệp đính kèm
  • Gmail đã quét
Hiển thị image.png.
------------------------------------------
***** Rất tiếc là tôi có bàn Pdf, đầy đủ, hoàn chỉnh hơn, nhưng không thể post lên trang web được.


 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây