Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 401-450: Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người (Năm B & C chỉ lưu trong thư mục ABC này thôi) ------------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". - Ðó là lời Chúa.
Đức Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Hình ảnh đó làm cho chúng ta suy nghĩ đến một TN 34-ABC401
Đức Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Hình ảnh đó làm cho chúng ta suy nghĩ đến một loại thế thái nhân tình. Đó là người ta không còn tin vào lòng tốt và sự thiện nữa. Có những lúc trong cuộc đời hay những giai đoạn lịch sử, người ta thấy hình như không còn thấy đâu là công lý, đâu là sự thật nữa; không còn ai là tốt cả. Cuộc đời chỉ toàn là bon chen giành giật, dối trá, mưu hại lẫn nhau.
Điều này dẫn tới một tình trạng thất vọng về cuộc đời, không còn tin vào việc thiện nữa. Đến như Đức Giêsu, một người thành thiện mà còn bị kết án giữa hai tên trộm cướp. Phải chăng sự thiện sẽ bị chiến bại, sự ác sẽ thắng? Phải chăng lòng tốt chẳng mang lại hiệu quả gì, chỉ bị thua thiệt mà thôi? Phải chăng người ta không còn tin vào sự thiện nữa?
Vào một đêm rất khuya, cô y tá ra khỏi bệnh viện. Hôm nay cố gắng giúp thêm cho bệnh nhân nên về trễ, cô vội vã đón xe buýt để về nhà. Chợt nhìn thấy ở vỉa hè trước mặt, một người đang nằm, có vẻ đang bị bệnh hoặc bị thương, cô đi đến xem có thể giúp được gì người ấy không. Nhưng khi cô vừa cuối xuống để xem, thì người ấy chồm lên, giựt túi xách của cô. Người đàn ông chỉ giả vờ nằm đó. Ông ta là một tên cướp giật. Cô vội giữ lấy túi xách. Hai người giằng co nhau túi xách. Rồi bất chợt, hai ánh mắt bắt gặp nhau. Người đàn ông trẻ thả túi xách ra và nói: “Ồ, xin lỗi, cô là cô y tá O’Reily đây mà!”.
Họ bắt đầu nói chuyện với nhau. Thì ra trước đây, người đàn ông này đã bị gãy chân, chữa trị ở nhà thương. Cô y tá O’Reily đã rất tận tình săn sóc và ông ta rất mến phục. Ông ta hỏi cô đi về đâu. Cô nói cô đón xe buýt về nhà. Ông tiễn cô đến trạm xe, nói chuyện với cô, và chờ cho đến lúc cô đi khỏi. Ông chào tạm biệt cô và rất ân hận về việc mình đã làm.
Đây là một câu chuyện có thật đã xảy ra. Câu chuyện làm tôi nhận ra điều này là: một người sẽ không bao giờ đánh mất đi lòng tốt của mình. Nó sẽ được phục hồi khi có một lòng tốt nào đó khơi dậy lại.
Đôi khi lòng tốt chiếu sáng nơi người khác lại là điều rất cần thiết giúp cho chính mình khơi dậy lại lòng tốt của mình. Một kỷ niệm tốt đẹp có thể cứu thoát một người khỏi một giây phút yếu lòng, nguy hiểm nào đó. Sự tử tế có thể cứu một người khác ra khỏi bóng tốt của thất vọng, hay tội lỗi.
Nếu như người phụ nữ trong câu chuyện không phải là cô y tá ấy, người đàn ông đó đã không hành động như vậy. Chắc hẳn ông ta đã trấn lột cô, và không cảm thấy ân hận điều gì. Nhưng ở đây chính con người mà ông đã biết là một con người rất tốt. Ông không thể đối xử xấu với cô. Cái đạo đức của cô đã làm cho ông thấy cái xấu xa của mình đang làm. Nói cách khác là nó làm cho ông ta ý thức được khả năng làm điều thiện của mình. Nó khơi dậy trong ông sự thiện, tưởng như đã chết trong ông.
Câu chuyện nhắc chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và hai tên trộm cướp trên đồi Calvê. Một trong hai kẻ trộm đã để mình bị chìm mất trong bóng tối đến nỗi không muốn thấy ánh sáng. Còn người kia thì đã nhận ra ánh sáng từ sự thánh thiện của Đức Giêsu, và anh ta đã đáp trả.
Người trộm lành nhìn thấy Đức Giêsu là người vô tội. Còn hơn nữa, anh còn nói biện hộ cho Ngài trước mặt người trộm kia. Anh là người duy nhất làm chứng cho Đức Giêsu về sự vô tội của Ngài. Sự tốt lành của Đức Giêsu đã khiến anh nhận ra những cái xấu xa anh đã làm, nó cũng giúp anh nhận ra mình đã đánh mất sự thiện hảo. Anh quay lại với Đức Giêsu, nhận ra Ngài là người duy nhất có thể cứu anh ta trong những giây phút cuối cùng. Đức Giêsu đã không làm cho anh thất vọng.
Đức Giêsu quả thật là một vị vua, nhưng là một vị vua kỳ lạ hơn tất cả các vị vua. Ngài đến khộng phải để xâm chiếm nhưng để hoán cải, không phải để thống trị nhưng để giải thoát, không phải để cai trị nhưng để phục vụ. Ngài chết như một tên tử tội, nhưng Ngài được đăng quang trên chính Thánh giá. Ngài đã đáp trả cho sự xấu nhất bằng chính lòng tốt nhất. Tại sao Ngài lại không đánh trả kẻ bách hại Ngài? Một thi sĩ, ông Seamus Heaney, nói rằng quyền năng trên mọi quyền năng sẽ không thống trị.
Chúng ta có thể dùng lời thánh Phaolô để nói với Chúa rằng: Con cám ơn Chúa, Đấng đã cứu chúng ta ra khỏi quyền lực của sự dữ bóng tối, và đưa chúng ta đến vương quốc của Con chí ái của Ngài; trong Ngài chúng ta được tự do và được tha thứ hết mọi lỗi lầm.
Tin Mừng Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ C tường thuật lại cái chết ô nhục của Chúa Giêsu Kitô TN 34-ABC402
Tin Mừng Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ C tường thuật lại cái chết ô nhục của Chúa Giêsu Kitô trên thập giá để nói về chức vị Vua cao cả của Ngài. Giữa những lời nhạo báng và thách thức, nổi bật lên một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa.
Tên trộm lành, một trong hai kẻ cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu, đã hiểu và tin vào Vua Giêsu Kitô, nên đã thưa với Chúa: "Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! " (Lc 23,42). Chúa Giêsu đã an ủi và bảo đảm với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." (Lc 23,43).
Chúa Giêsu là Vua, một vị Vua chỉ nói lời yêu thương và tha thứ, chứ không nói lời kết án. Ngài đã thoát ra khỏi quy luật bình thường của một vị vua trần gian, như Ngài đã nói: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).
Vương quốc của Vua Giêsu Kitô là vương quốc của Tình Yêu vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Nhưng Ngài không đòi hỏi phải được phục vụ như một vị vương đế: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45).
Ngài yêu thương con dân và đã hi sinh mạng sống mình trên thập giá một cách khổ nhục để cứu họ thoát khỏi ách thống trị của sự chết. Ngài dùng tình thương để cai trị đồng thời đòi hỏi các thần dân của Ngài cũng phải biết yêu thương như chính Ngài đã yêu thương họ.
Ngài đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ, những kẻ đau ốm, những kẻ tù đầy, những kẻ đói khát, trần truồng. Mỗi khi chúng ta làm một nghĩa cử yêu thương cho tha nhân là chúng ta làm cho chính Chúa như lời Ngài đã phán: ”Mỗi lần các ngươi làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta“ (Mt 25, 40).
Khi nhận lãnh bí tích Thanh tẩy, chúng ta cũng đã được tham dự vào vương quyền của Đức Giêsu Kitô. Là người thừa kế, là chi thể của Ngài, chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ và làm cho vương quyền của Ngài được mở rộng để tất cả mọi nguời nhận biết Đức Giêsu Kitô là vua vũ trụ và hết lòng tin theo Ngài.
Nói cách khác, chúng ta phải củng cố và hoàn thiện vương quốc mà Đức Giêsu Kitô đã thiết lập khi Ngài còn ở duơng thế bằng chính cuộc sống trần gian của mình. Mọi việc chúng ta làm đều phải quy hướng về Người và làm cho danh Người được cả sáng trên trần gian.
Trong xã hội ích kỷ và hưởng thụ của nhiều người hôm nay, Giáo Hội rất cần những con người sống yêu thương và phục vụ, để làm cho khuôn mặt yêu thương của Chúa luôn được tỏa sáng cho mọi người.
Sống theo lương tâm ngay chính, hoà thuận, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, làm những việc lành phúc đức… để ngày càng có thêm nhiều người sống như ta. Qua đó, Nước Chúa ngày càng được mở rộng cho đến khi nào tất cả loài người đều biết sống như thế thì Vương quốc Tình Yêu sẽ tỏ hiện dưới ánh quang Thiên Chúa.
Long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta cũng bình tâm soi xét lại cuộc đời mình để nhận ra những thiếu sót và lỗi lầm vì bao đam mê và vương vấn trần tục. Chúng ta mong đợi ngày hồng phúc, ngày Chúa của chúng ta vinh quang ngự đến, xét xử mọi người chúng ta.
Vì thế, từng giây phút ta phải sẵn sàng và chuẩn bị tâm hồn để đón rước Vua của chúng ta ngự đến trong giờ sau hết của cuộc đời mỗi người. Ngày xét xử đó có thể là “ngày hạnh phúc, vui mừng và vinh quang” nhưng cũng có thể là “ngày tăm tối, khóc lóc và nghiến răng.”
Lạy Chúa, trong những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội cho chúng con nhìn lại những chân giá trị của cuộc phán xét chung ngày tận thế. Giáo Hội cũng đặc biệt nhắc nhở chúng con về vương quyền của Ðức Giêsu Kitô và mối tương quan giữa hành vi của chúng con với vương quyền ấy.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ vương quốc của Chúa là bền vững và đem lại hạnh phúc trường cửu cho chúng con. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội luôn nêu gương bác ái yêu thương cho mọi người. Xin cho các Kitô hữu biết nhìn thấy Chúa trong anh chị em nghèo khổ, bất hạnh xung quanh để tận tình hy sinh, thương yêu giúp đỡ họ cả phần hồn lẫn phần xác.
Và xin cho chúng con biết đặt niềm tin cậy vào Chúa, biết chuẩn bị ngay từ đời này những gì cần thiết. Để mai sau xứng đáng được vào Vương quốc Tình Yêu là “Vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an”.
Lễ Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ đã được Đức Pi-ô XI thiết lập, nhằm khẳng định niềm tin của Giáo TN 34-ABC403
Lễ Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ đã được Đức Pi-ô XI thiết lập, nhằm khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng hoàn vũ của Chúa Ki-tô trên cá nhân, gia đình và xã hội. Trong Thông Điệp “Quas primas” được ban hành vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI lên án đặc biệt chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa này phủ nhận triệt để vương quyền của Chúa Ki-tô. Đức Giê-su không những là Thầy, là Anh, là Bạn mà còn là Vua của chúng ta nữa.
2Sm 5: 1-3
Bài Đọc I gợi nhớ tổ tiên của Chúa Ki-tô là vua Đa-vít. Trước đó, Đa-vít đã được các chi tộc miền Nam tôn phong làm vua, bây giờ lại được các chi tộc miền Bắc tấn phong làm vua tại Khép-rôn. Như vậy, vua Đa-vít, tổ tiên của Đức Giê-su, đã thống nhất toàn thể dân Ít-ra-en và đã thiết lập vương quốc trong sự bình an thịnh trị.
Cl 1: 12-20
Trong thư của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Cô-lô-xê, chúng ta gặp thấy một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, tôn vinh Chúa Ki-tô, Ngài là Chủ Tể của vũ trụ và là Thủ Lãnh của Giáo Hội.
Lc 23: 35-43
Tin Mừng Lu-ca thuật lại tình tiết của người gian phi sám hối. Anh nhận ra ở nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh là Người Công Chính thập toàn, Vua Thiên Quốc, Đấng đầy lòng thương xót, Ngài có quyền dẫn đưa các tội nhân vào Vương Quốc của Ngài.
BÀI ĐỌC I (2Sm 5: 1-3)
Bản văn này đưa chúng ta trở lại bối cảnh của năm 1000 trước Công Nguyên. Trong thời gian dài, dân Ít-ra-en đã từ chối chọn cho mình một vị vua, vì Đức Chúa là vua duy nhất của họ.
1. Hoàn cảnh đòi buộc
Trong những giờ phút nguy kịch cần đến những hành động đúng lúc, các chi tộc chỉ định những vị đứng đầu tạm thời mà họ gọi các “Thủ Lãnh”. Nhưng trước mối nguy của quân Pha-lê-tinh càng lúc càng khẩn thiết và nghiêm trọng, toàn dân Ít-ra-en cảm thấy cần phải huy động mọi sức mạnh và phối hợp mọi thế lực. Ông Sa-mu-en, vị Thủ Lãnh cuối cùng đã xức dầu tấn phong vua Sa-un (vào năm 1030-1025 trước Công Nguyên). Nhưng vì vua Sa-un đã làm những điều trái mắt Đức Chúa, ngôn sứ Sa-mu-en được Đức Chúa sai đi xức dầu tấn phong cậu bé Đa-vít, con trai út của ông Gie-sê, thay thế vua Sa-un.
2. Đa-vít được tấn phong làm vua
Kể từ khi còn ở dưới trướng của vua Sa-un, Đa-vít đã tỏ ra là một người có tài thao lược. Vả lại, tên “Đa-vít” có nghĩa “thủ lãnh”, “người chỉ huy”. Thuộc hạ của ông đã ca ngợi nhân cách của ông, lòng quảng đại của ông trong việc phân chia chiến lợi phẩm. Đồng thời, việc ông xuất thân từ làng Bết-lê-hem chiếm được cảm tình của các chi tộc miền Nam, họ đã tôn ông lên làm vua tại Khép-rôn (vào năm 1010 trước Công Nguyên).
Vào lúc đó, các chi tộc miền Bắc vẫn trung thành với nhà Sa-un. Nhưng những cuộc tranh chấp quyền hành và những cuộc trả thù đã dẫn đến việc ám sát vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un. Vì thế, các chi tộc miền Bắc liên minh với vua Đa-vít. Đoạn trích hôm nay là chuyện tích về các chi tộc miền Bắc thần phục vua Đa-vít.
3. Sấm ngôn về vua Mê-si-a
Như vậy vua Đa-vít trở thành vua của toàn dân Ít-ra-en và cai trị một dân thống nhất; “vua Đa-vít lập giao ước” với toàn thể các chi tộc Ít-ra-en. Vua đã chiếm Giê-ru-sa-lem và thiết lập thành này làm thủ đô. Đa-vít là vị vua đầu tiên của thành thánh, thành này sẽ là biểu tượng nơi cư ngụ của Đức Chúa ở cõi thế.
Các ngôn sứ sẽ nêu bật nhân cách Đa-vít và sẽ loan báo rằng từ nhà Đa-vít sẽ sinh hạ vua Mê-si-a mà vương quốc của Ngài sẽ là vương quốc bình an và công chính.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 12-20)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-lô-xê này chứa đựng một bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô, Chủ Tể của vũ trụ và Thủ Lãnh của Giáo Hội.
1. Bối cảnh
Thư gửi tín hữu Cô-lô-xê được viết trong khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61 và 63. Trong thời gian này, thánh Phao-lô đã suy nghĩ sâu xa về Chúa Ki-tô, trên cùng một mức độ như người ta gặp thấy trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thư này thuộc cùng một thời kỳ. Nhưng bài thánh thi, trung tâm phát triển đạo lý của thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, xem ra là một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, cũng như bài thánh thi được trích dẫn trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê. Trong trường hợp thư gửi tín hữu Cô-lô-xê này, bài thánh thi là câu trả lời tốt nhất cho những biện luận sai lạc được phổ biến trong khắp các giáo đoàn miền Phygia. Thánh nhân đã được báo cho biết những biện luận sai lạc này: chúng giảm thiểu vai trò của Chúa Ki-tô trong công trình tạo dựng cũng như công trình cứu độ, vì quá đề cao những quyền năng trung gian, nhất là các thiên sứ.
Đoạn trích hôm nay gồm có hai phần: phần dẫn nhập (1: 12-14) và bài thánh thi (1: 15-20).
2. Phần dẫn nhập (1: 12-14)
A- Vương Quốc của Thánh Tử
Phần dẫn nhập mở đầu với việc chúc tụng Chúa Cha. Ở phần dẫn nhập này, chúng ta gặp thấy lần duy nhất trong Tân Ước diễn ngữ “vương quốc Thánh Tử chí ái”. Các tác giả Tin Mừng nói về Vương Quốc Thiên Chúa hay Nước Trời, chứ không Vương Quốc Thánh Tử. Thật ra, trước quan tổng trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã công bố mình là vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này (Ga 18: 36). Ở đây, rõ ràng thánh Phao-lô ca ngợi vương quốc của Thánh Tử.
B- Cảm tạ Chúa Cha
Chính luôn luôn với Chúa Cha mà thánh Phao-lô dâng lên lời nguyện cầu của mình; và cũng chính luôn luôn về Chúa Cha mà thánh nhân quy chiếu nguyên lý cứu độ. Lời cầu nguyện của Giáo Hội cũng sẽ theo cùng một chuyển động như thế: cầu nguyện là hành vi cảm tạ Thiên Chúa, vì Đức Ki-tô và nhờ Đức Ki-tô.
Rõ ràng thánh nhân đang mời gọi các Ki-tô hữu gốc lương dân, chắc chắn họ chiếm đa số trong Giáo Đoàn Cô-lô-xê, hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng “đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng”. Ơn cứu thoát vốn là gia nghiệp được dành riêng cho dân Ít-ra-en xưa, nay Thiên Chúa cho dân ngoại cũng được dự phần vào (x. Cl 1: 11-13). Họ được dự phần vào nhờ phép Thánh Tẩy, tức là lìa bỏ mọi quyền lực tối tăm mà bước vào “trong cõi đầy ánh sáng”.
Đoạn, thánh Phao-lô chuyển từ “anh em” sang “chúng ta”: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm”. Thánh nhân không tách mình ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Không phải chính thánh nhân cũng đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và được ánh sáng chói lòa của Đấng Phục Sinh quật ngã và chinh phục trên đường Đa-mát đấy sao?
C- Ơn Cứu Độ
Sau cùng, lời ca ngợi cao cả nhất dâng lên Thiên Chúa: “Người đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi”. “Ơn cứu chuộc” không gì khác hơn là giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi, tức là ơn tha thứ tội lỗi, do sáng kiến của Chúa Cha, nhờ Đức Giê-su Ki-tô là Thánh Tử.
Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô dùng thì quá khứ: “Người đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái”. Đây là nét đặc trưng của các “thư trong tù” của thánh nhân. Ơn cứu độ là một thực tại đã được thực hiện rồi và đang thành tựu. Trong thư gửi cho các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân cũng nói như thế: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6). Trong cảnh xiềng xích, thánh nhân đã chiêm ngắm mầu nhiệm; thánh nhân định lượng sự viên mãn của mầu nhiệm; thánh nhân chăm chú chiêm ngưỡng ơn cứu độ đã được thực hiện và đang đơm bông kết trái. Từ suy niệm, thánh nhân dẫn đưa chúng ta vào bài thánh thi tôn vinh Thánh Tử.
3. Bài thánh thi (1: 15-20)
A- Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong công trình tạo dựng
“Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử nắm quyền Trưởng Tử trên mọi loài thụ sinh, vì trong Người muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.
Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn trào lưu minh triết:
– “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26).
– “Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất. Ta đã được tấn phong từ đời đời, từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất… Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời… Khi người đặt nền móng cho đất. Ta hiện diện bên Người như tay thợ cả…” (Cn 8: 22tt.).
Phần mở đầu của bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ:
“Vì trong Người muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.
Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ của thư gửi các tín hữu Cô-lô-xê này trong Tựa Ngôn của mình:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành. Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).
Viễn cảnh của bài thánh thi không mang tính vũ trụ, nhưng mang tính thần học: Đức Giê-su Ki-tô “thâu tóm” trong Ngài toàn thể vũ trụ:
“Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (1: 17).
B- Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên
Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài cũng là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thụ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền: Đức Giê-su Ki-tô là “An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (Kh 22: 13).
Chính Đức Giê-su Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ:
“Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá, Thiên Chúa đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (1: 20).
Song đối với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.
Khi trích dẫn thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô này, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây diễn ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự. TIN MỪNG (Lc 23: 34-43)
Vào Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ này, năm phụng vụ của Tin Mừng Lu-ca, Giáo Hội trích dẫn Tin Mừng Lu-ca để gợi lên dung mạo của Vua Ki-tô.
1. Bối cảnh
Đức Giê-su bị đóng đinh, bị bêu xấu, đối tượng của những lời nhục mạ và chế nhạo. Ở đây, chúng ta có thể nhận ra Tv 22: 8:
“Thấy con ai nấy cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mĩa mai”.
Ở trên đầu Ngài, một tấm bảng ghi bản án: “Đây là vua người Do thái”.
Thật ra, Tin Mừng Lu-ca bày tỏ thái độ thiện cảm của dân chúng đối với Đấng chịu đóng đinh. Họ không dự phần vào những lời nhục mạ; họ trầm ngâm đứng nhìn. Nhưng rồi một ánh sáng bất chợt lóe lên, những lời nói thốt lên trước khi mọi sự được hoàn tất. Đó là những lời nói phát xuất từ một trong hai tên gian phi chịu đóng đinh với Chúa Giê-su. Tình tiết này thuộc riêng thánh Lu-ca.
2. Lời khẩn nguyện của người gian phi sám hối
Trong khi một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài buông những lời phỉ báng mà hắn đã nghe các thủ lãnh Do thái nhục mạ Đức Giê-su: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!”, thì người gian phi kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không sợ!”, rồi công bố Ngài vô tội: “Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm gì trái!”.
Ân sủng được ban ngay tức khắc cho người gian phi khiêm tốn này, anh xưng thú tội lỗi mà mình đã làm, và như thế mặc nhiên bày tỏ tâm tình sám hối của mình. Anh ta nhận ra Đức Giê-su là vua Mê-si-a và lời cầu xin đầy tin tưởng của anh chứng tỏ anh tin chắc là mình được tha thứ: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.
Thật hiếm khi Đức Giê-su được gọi đích danh như thế. Chắc chắn, ở đây có một ghi nhận mang tính thực tế: tiếng kêu của một tội nhân ngỏ lời với người cùng chịu chung cảnh cùng khốn với mình: “Xin nhớ đến tôi”. Đây là lời mở đầu kinh nguyện Do thái mà những người hấp hối ngỏ lời với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con”, “Xin nhớ đến giao ước của Ngài”, vân vân.
3. Lời đáp trả của Chúa Giê-su
Đức Giê-su trả lời anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Đây là lời khẳng định long trọng: “Tôi bảo thật anh” mà Lu-ca hiếm khi sử dụng.
Tại Tin Mừng Lu-ca, “Hôm nay” là từ ngữ luôn luôn được kết nối với sự đăng quang của ơn cứu độ. Đó là “hôm nay” mà các thiên sứ đã loan báo ở Bết-lê-hem: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (2: 11); đó là “hôm nay” mà Chúa Cha đã công bố vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3: 22); đó là “hôm nay” mà Chúa Giê-su đã tuyên bố ở hội đường Na-da-rét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe” (4: 21), và cũng là “hôm nay” mà Ngài đã ngỏ lời với ông Da-kêu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19: 9).
Kể từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, niềm tin vào sự sống lại vào ngày tận thế ló rạng, Thiên Đàng biểu tượng nơi ở mà những người công chính mong chờ sau khi qua đời. Thuật ngữ này luân phiên với diễn ngữ “trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham” mà Lu-ca nêu lên trong dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô khốn cùng. Anh La-da-rô qua đời, được vui hưởng niềm hoan lạc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (16: 23).
4. “Anh sẽ được ở với tôi”
Trong lời khẩn nguyện khiêm tốn, người gian phi sám hối phó thác tương lai của mình vào Đức Giê-su. Tương lai này được tóm gọn vào lời Chúa Giê-su ngỏ với anh: “Anh sẽ được ở với tôi”, lời này định nghĩa đức cậy trông của Ki-tô giáo. Niềm hoan lạc của Nước Trời hoàn toàn được thu tóm ở nơi lời hứa này về cuộc sống thân mật với Chúa.
Chúng ta đừng quên nét đặc trưng của Tin Mừng Lu-ca là lòng Chúa xót thương. Chẳng hạn như chỉ thánh Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su tha thứ người phụ nữ nổi tiếng tội lỗi trong thành: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha thứ, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (7: 47), hay chỉ mình thánh Lu-ca ghi lại dụ ngôn: ‘Người cha nhân hậu” (15: 11: 32), dụ ngôn: “Người Sa-ma-ri nhân lành”, hoặc chỉ có mình Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su cầu nguyện cho thánh Phê-rô trước khi bước vào cuộc Thương Khó Tử Nạn của Ngài: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy cầu nguyện cho anh để anh không mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (22: 32).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chỉ thánh Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su cầu nguyện trên thập giá cho những người hãm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (23: 34) và câu chuyện thật cảm động của một người gian phi sám hối.
Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có TN 34-ABC404
Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời!
Ngày nay, trên thế giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường vận động cử chi bầu cho mình, và muốn được trúng cử thì đương sự phải đưa ra những kế hoạch mình sẽ làm trong nhiệm kỳ tới. Nếu lòng dân thấy thuận thì họ bầu cho. Rồi đến khi đắc cử, thường họ hay mở tiệc ăn mừng. Đến ngày ra mắt công chúng, đương sự phải có một bài diễn văn rất hay... như là một cách thức cám ơn dân chúng đã bầu cho mình. Và khi thi hành, người ta dùng quyền để cai trị con dân và giữ gìn an ninh quốc gia.
Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời, vị Vua ấy lại chọn cho mình một đời sống từ bỏ, khiêm hạ, yêu thương, khước từ vinh hoa phú quý, lợi lộc trần gian. Vị Vua ấy không cai quản và điều hành bằng quyền lực, mà bằng tình yêu. Rồi cuối cùng trở nên Đấng xóa tội trền gian qua cái chết (x. Ga 1,29). Vị Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô.
1. Đức Giêsu là vua cách lạ lùng
Nếu một vị vua theo kiểu trần gian, ngày đăng quang và xưng vương phải là một ngày trọng đại, có các lễ nghi trang trọng, có dân chúng reo hò chúc tụng, thì Đức Giêsu làm vua, lại là vị vua âm thầm, khiêm hạ, cả cuộc đời, không hề có kiểu "diễu sĩ dương oai" không kèn không trống.
Vương quyền của Ngài được tỏ lộ không phải qua một nghi thức trọng thể, mà lại qua một tấm bảng bêu xấu mà Philatô truyền lệnh đóng trên thập giá, phía đầu Ngài: "Đây là Vua dân Do Thái". Ngai vàng không phải là một cái nghế được sơn son thiếp vàng lộng lẫy cao sang, mà là hai thanh gỗ được ghép lại với nhau thành hình thập tự để làm ngai cho Vua trời ngự giá. Đây là một hình khổ mà người Do thái thời bấy giờ dành cho những kẻ bị kết án tử.
Vương niệm của Ngài không phải là mũ làm bằng kim loại quý (thường là bằng Vàng) và được khảm những châu báu, ngọc ngà, đá quý, kim cương. Còn Đức Giêsu lại có một vương niệm đặc biệt, đó là một vòng gai được đội trên đầu. Vương trượng là cây sậy yếu ớt, được người ta đưa cho để nhằm chế giễu, chọc ghẹo. Các quan hầu cận là 12 tông đồ, ít học, kém hiểu biết và hoàn toàn không mảy may am tường về chuyện binh đao, họ còn là kẻ bán Chúa, trối Thầy, những kẻ khác thì chạy trốn,... Áo cẩm bào thì lại là thân hình ô nhục. Người thân dự lễ phong vương lại là kẻ thù, chỉ có một vài người vỏn vẹn là Mẹ Ngài, Gioan, mấy phụ nữ và 2 tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài. Lẽ ra thần dân tung hô "chúc tụng vạn tuế đức vua" thì lại là: "đóng đinh nói đi", "đóng đinh nó vào thập giá", đến nỗi ngay cả kẻ cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng cất lên những lời nguyền rủa, nhục mạ, thách thức: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Khung cảnh phong vương thì lại ở trên núi sọ, thay vì ở trong thành phố... Diễn từ khai mạc là: "Lạy Cha xin hãy tha cho họ" và sau cùng: "Mọi sự đã hoàn tất".
Khi lập pháp thì lại hoàn toàn "Vâng theo ý Cha". Khi truyền lệnh hành pháp thì lại chỉ có vỏn vẹn trong giới luật Yêu thương: "Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Và "Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết... Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta"(Is 53,7-8). Suốt cả hành trình loan báo về Nước Trời, Ngài đã không ngồi yên, mà nay đây mai đó, miễn sao Tin Mừng cứu độ được loan báo và không hề có một dinh thự, lâu đài, mà là: "con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ dựa đầu".
Như thế, triều đại của Đức Giêsu được kết thúc qua cái chết ô nhục trên thập giá.
2. Đức Giêsu là vua của Tình Yêu
Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa thì vượt xa trí hiểu của con người. Thật vậy, Người đã dùng hành động tưởng chừng như bêu xấu này để mặc khải một lần nữa về bản chất Tình Yêu của Thiên Chúa qua người Con Một của Người là Đức Giê su Kitô.
Ngài là Vua, nhưng lại là một vị vua khiêm nhường, nhân hậu, Ngài là Vua của Hoà bình, Vua Tình yêu. Một vị vua thiếu thốn đủ điều: "Con Người không có nơi tựa đầu", một vị Vua chết cho thần dân được sống. Ngài là một vị vua của lòng người, của nhân tâm. Ngài xử dụng quyền lực, nhưng là thứ quyền lực "mềm" chứ không phải là quyền lực "cứng" như các nhà lãnh đạo vẫn thường xử dụng.
Vị Vua ấy được ví như người mục tử nhân lành, biết và hiểu rõ từng con chiên trong đàn. Người Mục Tử ấy sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên khi gặp sói dữ và chấp nhận hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình (x. Ed 34,11-12.15-17). Thật vậy, người mực tử chân chính là người còn yêu thương cả những con chiên hư hỏng, đi lạc và tìm cách đưa nó về ràn: vị Vua ấy đến trần gian để cứu vớt những gì đã hư mất (x. Lc 19,1-10). Và vì yêu, Ngài đã "đền bù tội lỗi cả thế gian" (1 Ga 2,2), cũng vì yêu mà: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người" (2 Cr 5,21). Đức Vua ấy đã trở nên: "Người Tôi Tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa", Đấng gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian, và dùng chính cái chết của mình để mưu cầu ơn tha tội cho nhân loại. Ngài "đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi" (x. Is 53,2-12). Vì yêu, Ngài đã chấp nhận làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi, thu thuế, gái điếm, những người ốm đau, bệnh tật, thấp cổ bé họng... Vì thế, Ngài đã lên tiếng bênh vực những người cô thế cô thân. Và mời gọi mọi người hãy Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15,13).
Và như một quy luật: sự sống, niềm vui và hạnh phúc nơi con người chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, mới nghe người trộm lành cất tiếng kêu xin: "Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!" thì ngay lập tức, Ngài đã đưa anh ta vào vương quốc của mình qua lời tuyên bố: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng ".
3. Người Kitô hữu tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu đều được tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Kitô ngày ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Qua Bí tích này, chúng ta được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến, vâng phục Cha hết lòng và, cuối cùng đã chết vì yêu để làm vinh danh Đấng đã sai mình đến trần gian hầu biểu lộ tấm lòng từ ái của Thiên Chúa cho nhân loại.
Khi thông chia và được thừa tự sứ vụ đó của Đức Giêsu qua Giáo Hội, nơi Bí tích Rửa Tội, mỗi chúng ta đều có bổn phận thi hành sứ vụ đó trong cuộc đời Kitô hữu của mình.
Là người kitô hữu, chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận này với một cách tốt đẹp khi noi gương và trở nên giống Đức Giêsu là dám chấp nhận khước từ những vinh hoa lợi lộc thuần túy trần thế. Ở điểm này, thánh Phaolô đã diễn tả: "Đức Kitô, Đấng vốn dĩ giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Người (x. 2 Cr 8,9).
Thật vậy, muốn được cứu độ, ta phải sống thực sự với tinh thần nghèo như Chúa, vì nghèo thì mới dễ yêu và khi yêu mới mong được trọn vẹn. Nếu chúng ta là con người đúng nghĩa thì phải có cả hồn và xác trong một thân thể, thì nghèo và yêu được ví như hai mặt của cùng một tấm mề đai.
Lời mời gọi của Đức Giêsu: "Hãy đến với tôi, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11: 28-29). "Mang lấy ách" của Chúa là gì nếu không phải là: "Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em". Ách này không thể mang vác được, nếu ta kiêu căng, ngạo mạn và tự mãn, nhưng chỉ với sự hiền lành, khiêm nhường và tình yêu phát xuất từ con tim chân thành.
Thật vậy, chúng ta không thể cùng lúc vừa là Kitô hữu vừa mang tinh thần thế tục. Nếu để hai yếu tố đó thường trực trong con người chúng ta cùng một thời điểm, thì mọi việc chúng ta làm và suy nghĩ sẽ rơi vào tình trạng hư ảo, ngạo mạn, tự đắc.
Ước gì sống tinh thần nghèo và đến với người nghèo bằng một trái tim yêu thương rộng mở sẽ là hướng đích của mỗi chúng ta khi noi gương của vị Vua tình yêu, đã sống và chết vì yêu.
Sống được như thế, chúng ta mới có hy vọng được hưởng lời chúc phúc của Chúa: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi" (Mt 25,34), nơi đó có Vua Tình Yêu ngự trị (x. Pl 2,6-11).
Lạy Đức Giêsu là Vua vũ trụ, xin cho danh Cha được cả sáng, Nước Cha được hiển trị đến tận cùng bờ cõi trái đất. Xin Chúa hãy thống trị lòng trí chúng con bằng tinh thần của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong quỹ đạo của tình yêu, để sau cuộc đời này, chúng con được vào Vương Quốc của Chúa trên trời là nơi dành cho những người yêu và được yêu. Amen.
Ngụ ngôn 2 con gà trống, ít nhiều gì cũng đọng lại trong chúng ta một chút suy tư về sự đời TN 34-ABC405
Ngụ ngôn 2 con gà trống, ít nhiều gì cũng đọng lại trong chúng ta một chút suy tư về sự đời. Hai chú gà con được gà mẹ chăm sóc chu đáo, rồi khi lớn lên, chúng trở thành hai con gà trống rất to đẹp. Chúng hay cãi nhau, con nào cũng tự cho là mình đẹp, oai phong, có quyền làm vua của nông trại. Một hôm, chúng cãi nhau, gà mẹ can ngăn không được, chúng quyết chiến với nhau, chúng tuyên bố, nếu ai thắng sẽ làm chủ, làm vua của nông trại này. Cuối cùng thì cuộc chiến cũng có thắng kẻ thua. Con gà thắng trận liền bay lên đống rơm cất tiếng gáy vang trời, nào ngờ tiếng gáy của chú gà, đã khiến con đại bàng từ xa tìm đến vồ luôn chú gà thắng trận mang đi. Trong khi đó chú gà bại trận đang năm thoi thóp nửa sống nửa chết ! Bài học mà tiền nhân chúng ta nhắc nhớ: nơi đâu có tranh chấp, sự chết liền xuất hiện; nơi đâu có tình yêu, đó mới thực sự là tổ quốc, là quê hương.
Yêu và ghét, vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, thành công hay thất bại, từ xa xưa vẫn là cơ hội dẫn người ta tới một chân lý ở phía trước. Tình yêu đâu phải vì tiền, tình yêu đâu phải ngẫu nhiên mà thành, tình yêu đâu phải tranh giành, tình yêu là phải chân thành thuỷ chung. Ở đời có hai thứ không thể giấu được ai, đó là đang say và đang yêu. Có hai thứ cần, là được yêu và được tự do. Cổ nhân cũng nói: ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên. Ý tưởng và suy tư mỗi người mỗi khác, điều đó vừa làm phong phú sứ mạng, vừa nói lên sự giới hạn của mình, bạn có thể khuyên bảo nhau, nhưng không thể bắt ai làm việc thiện. Các môn đệ tin Đức Giêsu, rất mong được thấy Chúa thực hiện quyền phép để thắng kẻ thù, số đông khác còn mong muốn Đức Giêsu làm vua để khôi phục đất nước, …
Vâng, trở nên môn đệ, làm thần dân của Thầy Giêsu, xem ra có vẻ mơ hồ, bởi hiện tại là đau khổ thập giá, vị Thầy vĩ đại lúc này đang quằn quại như số phận của tử tội mà thôi ! Đức Giêsu chịu treo trên thập giá không phải say rượu, có chăng là say tình, say tới độ mê muội, dù người ta chế giễu, nhục mạ, Ngài vẫn im lặng, khó hiểu … Tiếng la hét, nhạo cười, quá khủng khiếp, đáng sợ: “nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Cả đời hai tên trộm làm điều phi pháp cũng lên tiếng: “nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” ! Được yêu, được tự do là quyết định hết sức ý nghĩa của anh trộm lành: ông này là Vua dân do-thái, tin ông Giêsu là Vua, cảm nhận được ánh mắt nhân từ của Vua Giêsu, và anh ta đã biết phải làm gì để là thần dân của Giêsu …
Hôm nay đây, “anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”, anh sẽ cảm nhận đau khổ trần gian và hạnh phúc nước trời thật đặc biệt. Hôm nay đây, anh sẽ rõ ràng hơn vua chúa trần gian, không thể so sánh với Vua Giêsu, còn gọi là Vua Tình Yêu, thật đáng tự hào khi được gọi là con Vua Trời. Qua anh trộm lành, có phải Vua Giêsu còn muốn nói cho thiên hạ: nghịch cảnh không phải là để ngăn cản, nhưng là để vượt qua. Một thật bại, có thể trở thành cơ hội vàng, khi ta nắm bắt và xoay chuyển chúng ? Ở trên thiên đàng với Ta, muốn làm thần dân của Ta, các thủ lãnh và đám đông dân chúng hôm đó, đều có thể. Thực ra, tin và yêu không phải là rung động, không phải là ái mộ, càng không phải là động chân động tay, mà phải là hiểu. Hai anh trộm bên tả bên hữu Đức Giêsu đều là kẻ xấu, là tội đồ, nhưng đối diện với giờ sau hết, một anh đã tận dụng được cơ hội để tin, để yêu, và rồi để hiểu, anh ta đã thống hối ăn năn thật sự.
Ở trên thiên đàng với Ta, ở trong vương quốc của Ta, lời vị Vua tình yêu đang chịu treo trên thập giá, sẽ mãi mãi là “mầu nhiệm” đối với những ai cứng lòng, thiếu niềm tin yêu. Người giỏi chiến đấu, không bao giờ trách móc tướng sĩ, mà sẽ tập trung vào thế cuộc. (Tôn Tử). Vua Giêsu, Vua tình yêu, ở đâu, hoàn cảnh nào, thời đại nào, Ngài vẫn là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. “Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu ?”. Qua anh trộm lành, Vua Giêsu rất muốn chuyển tải nhiều thông điệp đến người cùng thời và hậu thế: ai cũng có cơ hội để tuyên xưng niềm tin yêu. Ai cũng phải biết mình, hiểu mình: sống đừng giả bộ, yêu đừng lệ thuộc, nghe đừng bào chữa, nói đừng xúc phạm. Cơ hội sẽ tan biến, đáng sợ nhất là vào một ngày bạn tỉnh táo, bạn nhận ra mình không có ai bên cạnh, không có gì để chờ đợi, để hy vọng !
Ở trên thiên đàng với Ta, không chỉ là lời khích lệ, là phần thưởng cho anh trộm lành, nhưng còn là lời tuyên dương niềm tin yêu, mà Vua Giêsu đã nói với nhân thế: “Ta bảo thật ngươi”, … ngay hôm nay và lúc này, ngươi thực sự là thần dân của Ta. Dù không đo được cảm giác của anh trộm lành, không phân tích được tốc độ của niềm tin mà anh ta đạt được, không hiểu hết hết tài trí mà anh ta đã vận dụng, để rồi anh có được Nước Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đang là thần dân của Vua Giêsu, nhưng đó mới là một nửa niềm vui, một nửa niềm tin yêu một cách tự do như anh trộm lành. Cái chân lý mà tới “phút 99” người trộm lành đã phát hiện, đã gặp và đã có, đó là TIN, là tuyên xưng NIỀM TIN: Đức Giêsu chính là VUA TÌNH YÊU, là Thiên Chúa cứu độ. Mỗi chúng ta hôm nay, ai cũng có cơ hội để cảm nhận: ở trên thiên đàng với Ta. Amen.
Có người nào cho đến những giây phút cuối đời lại phải hứng chịu những cười nhạo, chế giễu TN 34-ABC406
Có người nào cho đến những giây phút cuối đời lại phải hứng chịu những cười nhạo, chế giễu, nhục mạ như vua Giêsu? Từ trên thánh giá, vua Giêsu hoàn toàn thinh lặng trước những lời nói xúc phạm của những kẻ đang nhục mạ, cười nhạo và đang thách thức mình. Người chỉ lên tiếng đáp lại lời cầu xin tha thiết của một người tử tù- người duy nhất đã dám lên tiếng bênh vực Người. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng” (Lc 23, 43). Người hứa ban cho anh phần thưởng tuyệt vời dành cho những ai biết thương xót thì sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Vua Giêsu đã dành cả cuộc đời của mình để sống và rao giảng về vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa là tình yêu. Con đường cứu độ của Người được thực hiện bằng việc hiến dâng cho Thiên Chúa Cha tình yêu tự hiến. Thiết nghĩ, vương quyền của vua Giêsu chính là tình yêu. Người cai trị vũ trụ này với tình yêu khôn dò khôn thấu, Người đã sống cho tình yêu và là chính tình yêu. Những ai muốn trở thành công dân của vương quốc Giêsu thì nhất thiết phải đạt tiêu chuẩn này: biết sống yêu thương. Trước mặt tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Vậy thì Nước của Chúa ở đâu? Lời hứa của Chúa Giêsu dành cho người gian phi đã lên tiếng bênh vực Người cho ta câu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng”. Thiên Đàng là nơi không còn đau khổ, chỉ còn vui sống hạnh phúc khi được ở với Đức Kitô.
Nếu trên trần gian này ta biết sống yêu thương thì chắc chắn ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào Nước của Người. Chính Người đã hứa ban phần thưởng cho những ai yêu mến Người. Dân chúng thì “khoanh tay đứng nhìn”, các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo người tử tù Giêsu, cách lính tráng chế giễu Người, một trong hai người tử tù đã nhục mạ Người. Những hành vi này đều cảnh tỉnh ta về thái độ và cách ta hành xử với những người khác. Đứng trước một người bị kết tội, ta có tỏ lòng thương xót họ hay ta cũng tự cho mình có quyền giết chết người khác bằng lời nói. Vũ khí giết chết thân xác nhưng lời nói đầy bạo lực và thái độ khinh chê của ta sẽ giết chết tinh thần của người khác. Ta có nhận ra khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh nơi khuôn mặt đầy thương tích của họ không? Rất dễ để buông một lời than trách, nguyền rủa người khác nhưng lại rất khó để trao ban một lời nói tử tế, tôn trọng người khác, nhất là dành sự quan tâm và yêu thương cho những người bị xem là tội lỗi cách công khai. Hành động đầy can đảm của người tử tội đã bênh vực Chúa Giêsu thôi thúc ta cũng hãy biết kính sợ Thiên Chúa, chê ghét tội lỗi nhưng yêu thương những tội nhân; đừng chỉ nhìn về quá khứ của họ nhưng hãy sống trong giây phút hiện tại, giúp họ mở ra cánh cửa tương lai tốt đẹp hơn. Có lẽ, không có điều gì dễ hơn việc kết án một người bằng một trái tim vô cảm. Chỉ có tình yêu mới sáng tạo và đem lại sự sống mới.
Là công dân của Nước Chúa, ta hãy noi gương vua Giêsu, sống yêu thương mọi người anh chị em chung quanh, học cách tha thứ và quảng đại, trước là đối với mình, sau là với người khác. Khi yêu thương bản thân đúng cách, người ta sẽ biết cách để yêu thương người khác. Khi ta biết yêu thương như Chúa, ta sẽ trở nên giống Chúa, và ta cũng sẽ có được một nguồn năng lực nơi mình phát ra chữa lành hết mọi người- năng lực ấy không phải do chính bản thân ta nhưng là chính Chúa. Một người yêu mến Chúa thực sự thì cũng yêu thương anh chị em mình. Như lời thánh Gioan đã khẳng định: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,21).
Rất nhiều những khát mong Chúa làm vua, xin Người giải quyết mọi khó khăn, bức xúc, bất công TN 34-ABC407
Rất nhiều những khát mong Chúa làm vua, xin Người giải quyết mọi khó khăn, bức xúc, bất công, độc tài và nhiều chuyện khác liên quan đến an sinh, trật tự thế giới. Mong ước về một vị vua đầy toàn năng, toàn trị thế giới này, vẫn là câu trả lời của Chúa im lặng trên thập giá. Vị Vua không như các vị vua trần gian khác.
Thất vọng nếu chỉ dừng ở thập giá.
Khát mong chỉ dừng lại ở thập giá, con người sẽ thất vọng về những mong chờ của mình về một Thiên Chúa toàn năng. Người ta sẽ chẳng bao giờ giải thích được Một Thiên Chúa toàn năng sao lại là con người tử tội? Một Thiên Chúa toàn trị trên địa cầu mà lại chịu chết dưới tay quan quyền thế gian?.
Chúa Giê su là Đấng Messia, đầy quyền năng, đầy tràn sức mạnh, có thể thống trị toàn cõi địa cầu, giải thoát các dân tộc bị toàn trị, bất công, đói kém triền miên, xung đột lợi ích. Đem lại sự thịnh vượng, giải quyết cho những vấn đề khó khăn kinh tế. Một vị vua thay thế các vua quan trên trần gian.
Thật thất vọng cho mọi khát vọng của những người xem Chúa như vị vua trần gian, can thiệp vào chính trị, trả lại nền độc lập tự trị cho Israel. Hoặc như cách nghĩ về vương quyền, như xưa Mẹ con Zêbêdê, xin cho con ngồi bên tả bên hữu (Mt 20, 20 -28). Một số bỏ ra đi khi nghe (Ga, 6, 66) về diễn từ “Bánh Hằng Sống”. Không như kỳ vọng của mọi người, ngay ở toà án Philatô, khi quyết định tha Baraba hay Chúa Giêsu, Người đã bị liệt vào hàng trộm cướp, họ đã xin tha Baraba (Mt 27, 20) và đòi đóng đinh Chúa.
Không như những mong ước của nhiều người, Chúa xuống khỏi thập giá để họ có thể tin, họ đã bỏ ra đi. Có vẻ như họ đã thất vọng về một người uy quyền, toàn năng mà chẳng thể hiện gì trên thập giá, cứ im lặng mà chịu chết. Thật thất vọng!
Mầu nhiệm thập giá thật không hiểu, nếu chỉ dừng lại ở cái chết theo cách nghĩ con người.
Vua các vua
Trở lại vinh tụng ca của Thánh Phaolô nói về việc Thiên Chúa Cha siêu tôn Chúa Con, nhờ sự vâng phục của Người (Pl 2, 6 – 11). Nếu muốn hiểu biết về ý nghĩa của thập giá cần có lòng khiêm hạ lắng nghe cách Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu.
Là Vua, Chúa Giêsu tự hiến tế chính mình để thánh hiến mọi người (Ga 17, 19).
Là Vua, Chúa Giêsu trở nên người phục vụ sự sống cho con người: “Vì chưng Con Người không đến để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ, và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mc 10, 45).
Là Vua không ngai: “Chồn có hang, chim trời có tổ, chứ Con người không có chỗ ngả đầu” (Lc 9, 58).
Là Vua mang lại sự sống đời đời nhờ sự Phục sinh của Người. Muốn hiểu về vương quyền của Chúa, cần đón nhận mầu nhiệm Phục Sinh, nghĩa là từ bỏ tội lỗi, sống đời sống mới trong Chúa.
Sau cùng, Chúa là Vua Tình yêu tuyệt đối, yêu thương con người không điều kiện, chỉ vì tình yêu. Dù con người đáp lại, không thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự, cũng hãy yêu mến Chúa với tất cả sự yếu kém của mình. Một tình yêu thiếu sót dâng trao tình yêu vô biên, xin được biến đổi trong Người.
Chúa là vua, xin Người làm chủ cõi lòng chúng con, cho chúng con hằng khao khát Người trong mọi hoàn cảnh.
Treo thân thánh giá đớn đau, Nhiều người cười nhạo, hãy mau thoát rời. Họ còn thách thức nhiều TN 34-ABC408
Treo thân thánh giá đớn đau, Nhiều người cười nhạo, hãy mau thoát rời. Họ còn thách thức nhiều lời, Ác tâm phản bội, tạo khơi mối thù. Hùa theo thủ lãnh đui mù, Giấm chua thay nước, dập trù tấm thân. Mạo danh chế diễu ngu đần, Tuyên xưng danh thánh, thế trần gian manh. Trả thù bản án đóng đanh, Tâu vua Do-thái, chính danh của Người. Xếp hàng trộm cướp nhạo cười, Đóng đinh xỉ nhục, đồng thời khinh khi. Tỏ lòng thương xót từ bi, Một anh kẻ trộm, thực thi giao hòa. Cả đời làm ác phai nhòa, Nài xin sám hối, trước tòa thứ tha. Thiên đàng rộng mở bao la, Chúa tha tất cả, ác tà xóa tan. Hôm nay hưởng phúc thiên nhan, Vua trời chiến thắng, vẻ vang muôn đời.
Các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu rằng: Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi. Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá trần trụi mà chúng lại tuyện xưng là Vua. Bảng viết treo trên cây thánh giá: Người này là Vua dân Do Thái, được nhà cầm quyền Rôma ấn định và không thể thay đổi. Tước hiệu quân vương của Chúa Kitô được chính quyền Rôma thừa nhận cách hy hữu trong bản án. Trong khi đó, dưới chân thập giá, đám đông tò mò nhìn xem quân lính nhạo cười Chúa.
Người ta gọi Ngài là Vua dân Do Thái, nhưng chỉ để nhạo báng Ngài. Lúc bị xét xử và kết án như một tên tử tội, bọn lính đặt Chúa ngồi trên ghế và khoác cho Chúa áo choàng đỏ, đội lên đầu một mão gai như Vương miện và bắt cầm cây gậy như cây Phủ việt, rồi qùy gối chế nhạo: Tâu Vua dân Do Thái. Họ đâu có biết họ đang bái lạy Vua cả trời đất, Vua các Vua. Chúa Giêsu là vị Vua có ngai vàng là chính cây Thập giá và lễ phong vương với bảng viết danh hiệu INRI. Chúa Giêsu là vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian. Vương quốc của Chúa là vương quốc tình thương và hy vọng.
Chúa kết thúc cuộc sống trần gian trên thánh giá. Các đối thủ nhục mạ và đóng đinh Chúa giữa hai tên trộm và nói rằng hắn xưng mình là Vua, nhưng chỉ là vua bịp đáng chết như tên gian phi. Họ hoàn toàn không biết Chúa Giêsu là ai. Họ đã xúc phạm đến Chúa cách tồi tệ. Chúa im lặng cam chịu mọi khổ nhục để hoàn tất hy tế dâng Chúa Cha để đền tội cho nhân loại.
Chính trên thập giá, vương quyền Chúa đã thắng tâm hồn con người. Một trong hai tên trộm đã thưa rằng: Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhờ đến tôi. Anh trộm đã cảm thông với Chúa. Anh đã nhận ra quyền năng và tin vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã chấp nhận anh như người đầu tiên bước vào Nước của Chúa: Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta. Anh đã được giải thoát. Anh đã đi đường tắt vào cửa thiên đàng.
Vua Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua của tâm hồn. Chúa yêu thương mọi người như người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa đã yêu thương và tha thứ tất cả những người đã xúc phạm đến Chúa. Trên thánh giá, Chúa đã xin Chúa Cha tha tội cho họ vì họ lầm chẳng biết. Chúng ta nài xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta, vì chúng ta cố tình phạm tội làm mất lòng Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.
Vua trần gian thì lấy quyền mà thống trị thiên hạ. Còn những ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ TN 34-ABC409
Vua trần gian thì lấy quyền mà thống trị thiên hạ. Còn những ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ mọi người. Đó là điều mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ qua chính cuộc sống của Ngài khi còn ở trần gian. Và hôm nay, như trong Tin mừng Luca trình thuật, Ngài là Vua vũ trụ nhưng đã chết cho toàn dân thiên hạ. Là Vua nhưng Ngài đã đem chính mạng sống của mình để đánh đổi cho cuộc sống của nhân loại. Ngài chết, nhưng cái chết của Ngài không phải của một tội nhân, nhưng chết cho những ai đáng lẽ ra phải chết. Chắc hẳn chỉ có mình Ngài đã dám làm điều đó. Ngài đang dạy chúng ta bài học về một tình yêu bất tận. Có ông vua nào trên trần gian đã từng làm điều Giêsu đã làm.
Nhìn vào hình ảnh của quân lính và dân chúng, họ có thể làm gì ngoài việc chế nhạo, đóng đinh Ngài vào thập giá. Điều đó cho chúng ta thấy sự bất lực, yếu hèn của kiếp người. Họ mong muốn Giêsu làm một phép lạ nào đó nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi bản thân, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra khi con người biết mở rộng lòng mình với Thiên Chúa. Chỉ nhưng ai nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng cứu độ với một lòng tin mạnh mẽ, thì sẽ thấy ơn cứu độ xảy ra ngay trong chính cuộc sống của mình. Và người trộm lành đã nhận được ân huệ ấy ngay từ giây phút anh nhận ra Giêsu là Đấng Cứu Độ. Với lòng ăn năn thống hối thật sự, anh đã được cùng với Thiên Chúa lãnh nhận nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu mà có lẽ anh đã khao khát bấy lâu nay. Và ngay khi nhận ra sự bất toàn yếu đuối của bản thân, anh đã được chính sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa lôi cuốn, và giúp anh nhận ra hạnh phúc vĩnh cửu chỉ có từ Thiên Chúa. Anh đã khiêm tốn thật sự để cho Chúa đi vào tâm hồn mình và chính nơi đó anh đã gặp gỡ được Thiên Chúa.
Còn đối với Đức Giêsu, Ngài dùng chính tình yêu thủy chung qua cái chết của mình để biến đổi tội nhân và cứu chuộc nhân loại. Đối với Ngài, tất cả chỉ vì tình yêu. Tình yêu tuyệt đối dành cho Cha đã giúp cho Ngài hi sinh đến giọt máu cuối cùng. Tình yêu vô điều kiện dành cho nhân loại đã làm cho Ngài không còn nhận ra hành động tội lỗi của con người, đến nỗi Ngài đã xin Cha tha thứ cho việc con người làm chỉ vì họ không biết. Đối với Ngài họ là nhưng người đáng thương hơn đáng trách. Tình yêu của Ngài đã che lấp muôn vàn tội lỗi của con người (x. 1Pr 4, 8). Tình yêu đó được biểu lộ cách tỏ tường khi Ngài nói với người trộm lành “Tôi bảo thật anh, hôm nay, ngươi sẽ được ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
Còn đối với chúng ta, những Kitô hữu đang sống trong niềm tin và hi vọng vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta đã và đang làm gì để đáp trả lại tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta? Vì tình yêu, vua Giêsu đã từ bỏ địa vị cao sang của mình để mang đến cho nhân loại một tình yêu vĩnh cửu trong Nước của Cha Ngài như Ngài đã hứa “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” (Ga 14, 2). Chúng ta có muốn từ bỏ những gì cuốn hút, quyến rũ nơi trần gian đã làm cho ta không còn nhìn nhận đâu là hạnh phúc bất diệt để vào trong vinh quang mà Giêsu đã hứa như Ngài đã nói với người trộm lành không? Chúng ta có dám để cho Chúa đi vào tận cõi lòng để ta được biến đổi và trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài không?
Lạy Chúa, giữa một thế giới đang tìm kiếm những giá trị phù vân, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm những gì phù hợp với giá trị Tin mừng. Xin cho chúng con được biến đổi mỗi ngày nhờ ơn Chúa, để chúng con biết nhận ra đâu là hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban cho những ai hi vọng vào tình yêu của Ngài, hầu mai sau chúng con cũng xứng đáng hưởng ơn cứu độ muôn đời. Amen.
Đồi Canvê, một buổi chiều u ám. Ba người tử tội bị treo trên cây thập giá, mỗi người một cuộc TN 34-ABC410
Đồi Canvê, một buổi chiều u ám. Ba người tử tội bị treo trên cây thập giá, mỗi người một cuộc đời. Người tử tội bị đóng đinh ở giữa đã từng là người nổi danh một thời. Phía trên thập giá của Người có ghi bản án: “Đây Là Vua Dân Do Thái”. Người tên là Giêsu.
Đức Giêsu có phải là vua dân Dothái không? Tại sao Người lại chấp nhận chịu chung một hình phạt với hai tên gian phi, chết nhục nhã trên thập giá? Đứng dưới chân thập giá, dân chúng thì đứng nhìn. Họ đang nghĩ gì, lòng họ có quặn đau trước con người Giêsu, người đã từng chữa lành bệnh tật cho họ, Đấng mà mới hôm qua đây họ còn tung hô: “Hoan hô Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21, 9)? Các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn! (Lc 23, 35). Lính tráng chế giễu Người và một trong hai tên gian phi cũng nhục mạ Người. Người là ai?
Khi tổng trấn Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Dothái không?” (Ga 18, 33), Chúa Giêsu đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga 18, 36). Đức Giêsu quả thật là Vua nhưng Nước của Người không thuộc chốn này như lời Người quả quyết. Người hứa với người tử tội đã bênh vực mình khi anh cầu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 42) rằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, Đấng đã dùng cái chết của mình mà giao hòa con người với Thiên Chúa, đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời (Cl 1, 20). Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, ta được mời gọi nhìn lại chỗ đứng của mình dưới chân thập giá Chúa Kitô. Đứng dưới thập giá của Người, ta đã mang tâm tình và thái độ nào? Trong cuộc sống, có những lúc ta cũng đã thách thức Chúa vì không hài lòng với chính mình. Thật đáng buồn khi ta đã chỉ muốn được Chúa giải thoát khỏi đau khổ mà không lặng nhìn ngắm Chúa để cùng với Người đón nhận chén đắng Cha trao. Chúa Giêsu đã không chối từ cái gọi là thực tế của một con người là khổ đau và bị bách hại. Người chỉ tìm kiếm thánh ý Chúa Cha và yêu mến Cha hết lòng. Theo gương Chúa Kitô, ta hãy phó thách hoàn toàn con người và cuộc sống mình cho Thiên Chúa. Chắc chắn, Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta sẽ dành hết tất cả những gì tốt đẹp nhất cho ta. Điều quan trọng là ta có để cho Chúa Kitô làm Vua của lòng mình không?
Lạy Chúa Giêsu là Vua Vũ Trụ! Xin Ngài hãy làm vua của lòng con. Xin cho con đứng dưới chân thập giá Chúa mỗi ngày, để cùng với Mẹ Maria và Thánh Gioan Tông đồ, con được trung kiên theo Chúa đến cùng. Amen.
Vua chúa trần gian nắm quyền trị nước. Có nhiều vị vua được quần thần và dân chúng kính trọng TN 34-ABC411
Vua chúa trần gian nắm quyền trị nước. Có nhiều vị vua được quần thần và dân chúng kính trọng và tùng phục. Cũng có một vị vua mang tên Giêsu. Tuy nhiên, ngai của vị vua này không phải là ngai vàng nhưng là cây thập giá. Vì thế, trước một vị vua quá khiêm hạ, các thủ lãnh và binh lính đã cười nhạo, chế giễu. Họ không thể đón nhận vì vị vua dân Do thái lại là người chẳng còn gì.
“Nếu ông là vua dân Do thái, thì hãy cứu lấy mình đi” (Lc 23,37). “Hãy cứu lấy mình” được Tin Mừng nhắc lại ba lần với ba hạng người khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là cùng thách thức Đức Giêsu. Khi tổng trấn Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Dothái không?” (Ga 18, 33). Chúa Giêsu đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga 18, 36). Những người tụ cho mình là hiểu biết lại không thể nhận ra Giêsu bị treo trên thập giá là một vị vua nhưng một trong hai tên gian phi đã nhận ra Ngài là vua khi nói: “ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Nhờ sự hoán cải cùng lời kêu xin chân thật, ông đã được Đức Giêsu đáp lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”(Lc 23, 43).
Đức Giêsu là vua. Ngài đã được Chúa Cha công bố: “Đây là con yêu dấu Ta, hãy vâng nghe lời Người”(Mc 9,7). Thiên Chúa mời gọi mọi người hãy vâng nghe lời Con của Ngài. Thái độ vâng nghe biểu hiện một sự đón nhận và đặt để Đức Giêsu là chủ và là Vua của mình. Ngài là Vua mạnh mẽ oai hùng trước những địch thù gian ác, là Vị Vua cả Vũ trụ và Vua sự sống. Đức Giêsu là vua thật nhưng người ta lại thích vẻ hào nhoáng bên ngoài của những ông vua giả. Vì thời nay, cái giả lại có vẻ đẹp hơn cái thật, hoa giả, điện thoại giả và ngay cả người cũng giả luôn. Sống trong thời đại vàng thau lẫn lộn, liệu còn ai sống sự vâng phục trong Đức Giêsu? Là Kitô hữu, là con Thiên Chúa, chúng ta đang vâng phục vị vua nào? Phải chăng vua đam mê, vua danh vọng hay Vua Giêsu Kitô? Ước gì mỗi người chúng ta được thức tỉnh được như tên gian phi là nhận thấy vị vua đích thực cùng đích của mình là ai. Đức Giêsu Kitô – Vua Vũ Trụ đã từ bỏ vương quyền đến sống với dân mình, để hiểu, để cùng chịu những cực nhọc và đau khổ của dân, để đem ơn cứu độ cho dân. Ngài trao ban chính mạng sống mình để dân được sống và sống dồi dào trong Chúa Cha. Ngài là Vị Vua duy nhất ở đời này và cả đời sau.
Lạy Đức Giêsu, “Ngài là Vua từ ái, vinh danh Ngài cùng với Chúa Cha, cao sang hiển trị thiên tòa, cùng Thánh Thần Chúa vinh hoa muôn đời” (Thánh thi kinh sáng). Xin giúp chúng con biết, nhận ra và chọn Ngài là Vua duy nhất của cuộc đời mình. Amen.
Là một Kitô hữu, chắc ai trong chúng ta khi nhìn vào bất cứ cây Thánh giá đều thấy có chữ TN 34-ABC412
Là một Kitô hữu, chắc ai trong chúng ta khi nhìn vào bất cứ cây Thánh giá đều thấy có chữ IN-RI, nghĩa là “Giêsu Nadarét, Vua của dân Do thái.” Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Giêsu Vua vũ trụ, cũng là Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Đây là cơ hội để mỗi người nhìn lại cung cách sống của mình trong tư cách là những thần dân của vua Kitô, chúng ta có sống danh xưng “Kitô hữu” ấy cách ý thức và trách nhiệm hay không?
“Ông Giêsu ơi khi nào ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi’’(Lc 23,42b). Đây là câu nói của tên gian phi khi cùng chịu chết trên cây thập giá với Đức Giêsu, tên gian phi này như nhận ra được Đức Giêsu là một vị vua đích thực. Mỗi người trong chúng ta cũng có xu hướng tự tôn cho mình những vị vua. Nào là vua xe hơi, vua nhà lầu, vua tiền tài danh vọng, vua bóng đá … và chính Đức Giêsu cũng là một vị Vua nhưng sao Ngài lại dễ bị con người lãng quên đến thế? Ngài là vị vua của tình yêu, chính Ngài đã đến thế gian mang lấy thân phận con người, phải chịu đau khổ và chịu chết trên cây thập giá như một tội nhân. Trước lúc chịu chết Ngài vẫn tha thứ cho tên gian phi: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,43). Chính Chúa Giêsu là ngọn lửa của tình yêu, đã đến thế gian và ném ngọn lửa ấy vào tâm hồn mỗi con người chúng ta và Ngài thầm ước mong rằng ngọn lửa của tình yêu đó sẽ cháy lên và lan tỏa cho mọi người xung quanh.
“Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ” (Mt 10,45) Con Thiên Chúa đã xuống thế gian trong thân phận một con người, Ngài đã cúi mình xuống mà phục vụ những người nghèo nhất trong các người nghèo, chính Ngài cũng đã cúi xuống mà rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc cuối cùng trước khi đi chịu chết, đây là một hành động thể hiện sự yêu thương và phục vụ. Ngài là vị Vua của vũ trụ nhưng vị vua này không ngồi trên ngai vàng cao sang, Ngài chọn thánh giá gỗ làm ngai cho mình và đổi lại là sự sống cho nhân loại. Vị Vua không cai trị thần dân bằng quyền lực nhưng bằng tình yêu thương, Vị Vua không có lãnh thổ trong thế giới nhưng luôn có trong tim mỗi con người .
Vậy tôi và bạn hãy thử đặt ra một câu hỏi rằng: “Đức Giêsu có phải là vị vua của đời mình hay không?” Ngài có phải là vị vua mà chúng đang kiếm tìm? hay chính chúng ta đang kiếm tìm và tôn thờ một vị vua nào khác? Hãy để cho Chúa Giêsu chiếm ngự tâm hồn chúng ta, Ngài mới thực sự đáng giá hơn tất cả kho tàng và những thứ phù phiếm mau qua. Chẳng có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã thí mạng sống vì chính chúng ta, ngay cả khi chúng ta bất xứng, Chúa vẫn yêu thương ta bằng tình yêu vô điều kiện nhưng chúng ta có nhận ra điều ấy, nhận ra sự cai trị của Ngài cách âm thầm, bằng những yêu thương, phục vụ tế nhị và khiêm tốn đến nỗi không để lại dấu vết gì. Trong thế giớ 4.0 ngày hôm nay, các bạn trẻ có xu hướng chỉ quan tâm đến bản thân mà không nghĩ đến người khác, họ chỉ nghĩ những thứ tốt đẹp và niềm vui đến với bản thân mà quên đi ngoài kia còn bao người thiếu vắng tình yêu thương và sự chia sẻ và dĩ nhiên Chúa thật xa vời trong khái niệm của họ. Là Kitô hữu, chính tôi và bạn sẽ phải là những chứng nhân tình yêu giữa một xã hội đầy cạm bẫy này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được rằng yêu thương phục vụ tha nhân là con đường dẫn đến thiên đàng và vô cảm thờ ơ trước những nỗi đau khổ cảu tha nhân là con đường dẫn đến hỏa ngục. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ là một ngọn lửa của tình yêu, dám bỏ đi chủ nghĩa cá nhân mà sống yêu thương phục vụ như Chúa đã phục vụ chúng ta.
Đủ lớn khôn để ghi dấu mức độ trưởng thành, đủ năng lực xây dựng ngôi nhà đẹp, tiện nghi, nhưng TN 34-ABC413
Đủ lớn khôn để ghi dấu mức độ trưởng thành, đủ năng lực xây dựng ngôi nhà đẹp, tiện nghi, nhưng cần lựa chọn vật liệu kiến tạo cuộc đời mình theo tiêu chí hạnh phúc, bao giờ cũng là khó khăn phức tạp. Đầu tư công sức tiền của, nuôi dưỡng ý tưởng: điều lành thì nhớ, điều dở hãy quên, ấy vậy, giữa thành công và thất bại, luôn có “con sông” gian khổ, hẳn vẫn thực sự cần thiết cho ta biết mình là ai ! Hiểu cha mẹ ông bà, các đấng bậc đã từng yêu thương, hy sinh cho con cháu, nhưng chưa chắc ai cũng đủ ý thức để sống, và chu toàn ơn gọi hiếu kính đối với các ngài. Hiểu, biết, và sống niềm tin, dù có trừu tượng lý thuyết, thì phận làm con cháu, vẫn phải sống “ân đức cao dầy” không thể khác được.
Có những thứ người ta cần, và chờ mong trong cuộc sống, ta sẽ nói: càng nhiều càng lành, nhiều tiền, nhiều sự khôn ngoan, nhiều sức khoẻ, nhiều sự hiểu biết… Chúa Giêsu trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện bằng lời, bằng hành động yêu thương tha thứ, và Chúa chờ mong mọi người, chờ mong hai kẻ trộm sám hối ăn năn càng nhiều càng tốt. Trong khi đó, hai anh trộm và nhiều người đứng dưới chân thập giá hôm đó, họ chờ mong phép lạ Ông Giêsu sẽ thực hiện ít là thoát khỏi đau thương, xuống khỏi thập giá. Chúa Giêsu thấy rõ nhu cầu của mọi người là cần được sống, Ngài đã minh chứng cho họ thấy thế nào là yêu, như thế nào là Giêsu, Vua tình yêu, khi Ngài xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại, trước khi trút hơi thở cuối cùng trong tín thác.
Vua theo quan niệm thông thường là được ăn trên ngồi chốc, là có kẻ hầu người hạ, được gọi là thái tử con trời, gắn với câu ca dao: con vua thời lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa. Vua Giêsu chịu treo trên thập giá vì yêu, có mão gai nhọn, không có binh hùng dũng tướng, nhất định không phải là vua trần thế, là Thái Tử, nhưng không đến để được phục vụ. Hai anh trộm năm xưa thấm nhuần được như thế nào là phần thưởng và hình phạt của xã hội. Chúa Giêsu bằng lời nói chân thành và hành động yêu thương đã soi sáng và giúp người trộm lành nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa thật lớn lao đối với tội nhân. Tất cả những ai suy gẫm hiệp thông với mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, đều có thể cảm nhận: người biết nhìn xa trông rộng thì sớm muộn cũng thấy bình an, người biếng nhác, lười suy xét, nguy hiểm luôn vây quanh.
Giêsu, Vua tình yêu, là Giêsu chịu đau khổ trên thập giá, Giêsu, Vua tình yêu, chính là Giêsu Kitô Đấng đã sống lại từ cõi chết. Giêsu, Vua tình yêu, không xuống khỏi thập giá trước sự thách thức và chờ mong của đám đông đang hò hét. Giêsu, Vua tình yêu, Ngài không phạt, không loại trừ kẻ xấu xa tội lỗi, Giêsu, Vua tình yêu, Ngài đợi chờ kẻ trộm có lòng hối cải và ban ơn tha thứ: “ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Đúng, thời nào, ở đâu cũng có người tốt, người chưa tốt, nhưng ở đâu và đối tượng nào, cũng thao thức được hạnh phúc. Đúng, tình yêu và ơn tha thứ, mới làm cho người ta hiểu: sự khác biệt giữa thành công và thất bại không phải ở sức mạnh, kiến thức, hay sự hiểu biết, mà chính là ở lý trí và sự quyết tâm hành động.
Người xưa có câu: xem mặt đặt tên, hoặc chiến thắng, thành công, không thể là do tình cờ. Các luật sĩ biệt phái, đám đông, đắc thắng hò reo, cả anh trộm bên tả cũng a-dua nhục mạ Con Thiên Chúa, trong khi đó, kẻ tội lỗi bên hữu thì vừa đủ sáng, vừa đủ nghe, vừa đủ cảm nhận thế nào là tình yêu và lòng thương xót của Đấng cứu độ trần gian. Giêsu, Vua tình yêu, Ngài là hiện thân của Chúa Cha: đau khổ, thập giá, tử nạn phục sinh, chính là ơn ban, là cơ hội, mỗi gia đình, mỗi tâm hồn, và tất cả những ai tội lỗi, đều là đối tượng của Đấng giầu lòng thương xót. Người đương thời nhìn lên Chúa Giêsu: kẻ vui, người đắc chí, người khác thấy đau thương mất mát, những môn đệ thì khó hiểu, đúng hơn, tất cả đều đáng thương, vì ai cũng cần được biến đổi, cần được hưởng lòng thương xót của Đấng cứu độ trần gian.
Cha ông chúng ta có câu: gươm trần có thể làm cho người ta khiếp sợ mà thay đổi lập trường, nhưng tình yêu thật, lòng bao dung tha thứ thật, mới thu phục và có sức biến đổi tâm tính lòng dạ con người. Chúa Giêsu từ cây thập giá đau khổ, bằng sự trần trụi, bằng hành động yêu thương tha thứ, Ngài đã cho nhân thế một quan niệm đặc biệt: Thiên Chúa làm Người và làm Đấng cứu độ. Hôm nay đây, cả thế giới đang kêu gọi nhà nhà, người người, hãy sống hoà thuận yêu thương, quảng đại tha thứ, trong khi đó, người kitô hữu chúng ta đang tuyên xưng Đức Giêsu, Vua tình yêu, Ngài không xuống khỏi thập giá, Ngài không ban vàng bạc châu báu, không đáp ứng nhu cầu để chúng ta sống mãi ở đời này. Giêsu, Vua tình yêu, Ngài không hứa sẽ cất hết đau khổ bệnh tật cho thế giới, Ngài hứa ban tình yêu, ban sức mạnh, cho chúng ta, cho những kẻ đang tin tưởng cậy trông và sống giáo huấn của Ngài: “ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”. Amen.
Việc cảnh sát Anh phát hiện ra 39 người Việt chết trong chiếc xe đông lạnh hôm 23/10 vừa qua TN 34-ABC414
Việc cảnh sát Anh phát hiện ra 39 người Việt chết trong chiếc xe đông lạnh hôm 23/10 vừa qua đã gây chấn động cho cả thế giới. Người ta đặt vấn đề: tại sao cho đến hôm nay vẫn có nhiều người dám liều mạng sống để được vào Mỹ hoặc các nước phát triển. Làn sóng di dân từ Châu Phi, Bắc Mỹ và Châu Á đặc biệt là tại Việt Nam dường như chưa lúc nào ngừng. Tại Việt Nam từ năm 1954 khoảng ba triệu người di cư từ bắc vào nam với hy vọng tìm kiếm được một cuộc sống an lành. Sau năm 1975, một đợt di dân khổng lồ bằng đường biển đã khiến cho hành trăm ngàn người Việt bỏ quê hương để đi tìm đất mới, nhiều người trong họ đã bỏ xác ngoài biển khơi. Sau đó là những cuộc di dân qua hình thức HO, bảo lãnh, con lai và đến nay là những cuộc di dân lao động qua các hình thức xuất khẩu lao động. Những người may mắn được “đi nhờ” trên máy bay của Chủ tịch Quốc Hội, có người đi bằng đường bộ qua Trung Quốc hoặc qua những đường dây cò lái…tất cả đều phải trả một giá rất đắt không chỉ bằng tiền nhưng bằng cả mạng sống của mình. Những người này di dân vì lý do gì? Có rất nhiều lý do từ chính trị, kinh tế, tôn giáo… nhưng tất cả có chung một mục tiêu là: mơ ước và tìm kiếm một thế giới mới, một thiên đàng nơi trần gian, với hy vọng sẽ bớt khổ, sẽ hạnh phúc hơn, tự do hơn.
Hôm nay mừng lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ, Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta một vương quốc nơi đó sẽ không còn đau khổ nhưng ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Vương quốc này mở cửa đón tất cả mọi người mọi dân. Đó và vương quốc Nước Trời, có vua Giêsu là thủ lãnh là Đấng dẫn dắt và chăm sóc cho toàn dân. Vương quốc Nước Trời là khao khát sâu thẳm của tất cả mọi người. Tuy nhiên, để trở thành công dân Nước Trời, đòi mỗi người phải tỏ lòng thần phục vua Giêsu. Để gia nhập vương quốc Nước Trời mỗi người cần phải có “hộ chiếu và visa” là lòng tin và các việc làm thể hiện tình yêu của mình đối với Chúa mới có thể được cư ngụ lâu dài trong Nước Trời.
Sách Samuen thuật lai một sự kiện những người Israel đến gặp vua Đavit lúc đó đang làm vua miền Giuda để xin ông làm vua dẫn dắt cả miền Israel, khi đó hai miền chưa thống nhất. Vua Đavít đã chấp nhận lời thỉnh cầu của người Israel và ký kết giao ước với họ. Sau đó, họ xức dầu tấn phong Đavít làm vua Israel. Kể từ đây đất nước được thống nhất toàn lãnh thổ, từ Bắc chí Nam quy về một mối. Người Israel xin Đavít làm vua vì tin vào Lời Chúa đã nói với Đavít: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.” Họ tin rằng qua Đavít, chính Thiên Chúa là Đấng làm vua lãnh đạo Israel. Niềm tin có Thiên Chúa làm vua là Đấng lãnh đạo đã trở thành niềm tự hào cho dân Israel và là động lực thúc đẩy Israel sống chu toàn lề luật của Thiên Chúa, xứng đáng là thần dân của Người.
Vương quốc Israel dưới quyền lãnh đạo của vua Đavít là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa sẽ thiết lập vương quốc của Ngài, quy tụ tất cả các dân tộc trên toàn thế giới để làm nên dân thuộc quyền của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thực hiện việc quy tụ nhân loại trở nên một dân mới qua cái chết và cuộc phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã diễn tả công trình thiết lập vương quốc Nước Trời qua thư gửi cho cộng đoàn Côlôsê: “Anh em hãy vui mừng tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh.” Thánh Phaolô còn diễn tả công trình kỳ diệu này qua bài ca rất đẹp: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” Thánh Phaolô còn cho thấy Thánh Tử Giêsu chính là Đấng quy tụ muôn loài muôn vật qua cái chết và sự phục sinh của Ngài và đặt muôn vật dưới quyền thủ lãnh của Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa Cha đã đón nhận công lao của Chúa Giêsu và trao lại tất cả vương quyền cho Chúa Giêsu, để Ngài làm Thủ Lãnh mọi vật mọi loài và tiếp tục nuôi dưỡng dẫn dắt toàn dân mà Ngài đã đổ máu ra cứu chuộc. Như vậy, được trở nên công dân của Nước Trời, có nghĩa là được gia nhập vào vương quốc của Vua Giêsu và phải sống theo giới răn lề luật của Ngài.
Vương quốc của Chúa Giêsu không có sự phân biệt kỳ thị giàu nghèo, sang hèn nhưng mở ra cho hết mọi người miễn là tin Vua Giêsu là chính Thiên Chúa và là Thủ Lãnh. Câu chuyện trong Tin Mừng thánh Luca thuật lại cho thấy điều đó. Cùng chịu đóng đinh trên thấp giá với Chúa Giêsu có hai tên trộm, một tên bên phải, một tên bên trái. Người Do Thái cố tình làm như vậy để nhục mạ Đức Giêsu, coi Ngài như vua trộm cướp. Tên trộm bên trái đã theo cái nhìn của người Do Thái, anh nhục mạ, mỉa mai Đức Giêsu: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi nữa.” Tên trộm bên phải đã không nhìn theo cái nhìn bên ngoài, nhưng anh đã tin Đấng đang bị đóng đinh bên cạnh là Đấng quyền năng là vua là Thiên Chúa. Vì vậy, anh đã mắng tên trộm bên kia vì hắn không biết kính sợ Thiên Chúa và thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” Chúa Giêsu đã đáp lại lòng tin của anh một cách hết sức quảng đại: “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ được vào Thiên Đường với tôi.”
Người đời sẽ cho rằng quyết định cuối cùng này của Đức Giêsu là vô lý, nhưng Thiên Chúa không dựa trên lý lẽ của con người. Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của mỗi người, Ngài chỉ quan tâm đến hiện tại và mở ra cho con người một tương lai. Chúa Giêsu không quan tâm đến quá khứ trộm cướp của anh trộm này, Ngài chỉ quan tâm lúc này đây, anh sám hối và tin vào Ngài là Thiên Chúa đồng thời khiêm tốn cầu xin với Ngài. Thiên Chúa sẵn sàng mở rộng vòng tay đón nhận tất cả, tha thứ tất cả và ban tặng cho họ một tương lai mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Thưa quý OBACE, để xin nhập cảnh vào Hoa Kỳ hay các nước luôn đòi phải có Visa và phải đáp ứng các điều kiện của quốc gia đó. Cũng vậy, để vào Nước Trời mỗi người cũng cần phải đáp ứng điều kiện của Nước Trời. Điều kiện của Nước Trời rất đơn giản, chỉ cần có một đức tin chân thành được thể hiện qua sự thiện chí, cố gắng của mỗi người. Vương quốc Nước Trời là nơi dành cho tất cả mọi người thuộc mọi dân mọi thành phần. Cho dù họ là người tốt lành hay kẻ gian ác, nhưng có lòng tin, biết hối hận và thành tâm thiện chí thì sẽ được vào.
Mừng lễ Chúa Giêsu vua vũ trụ, chúng ta cùng suy tôn vương quyền của Chúa Giêsu, Đấng đã được Thiên Chúa đặt làm vua thống trị muôn loài. Chúng ta suy tôn không chỉ qua một buổi lễ nhưng phải là sự thần phục hoàn toàn vương quyền của Ngài. Nhờ Bí tích Rửa tội, mỗi người đã được gia nhập vào vương quốc của Chúa Giêsu, vì thế chúng ta phải tôn Ngài làm chủ là Đấng dẫn dắt cuộc sống cá nhân và gia đình; phải tuân hành cách tốt đẹp luật pháp trong vương quốc của Ngài, luật của vương quốc Vua Giêsu chính là lề luật của Tin Mừng. Chúng ta còn phải trở thành người bảo vệ và là chiến sĩ chinh phục mọi người gia nhập vào vương quốc của Chúa.
Thế giới ngày nay đang tạo ra rất nhiều ngẫu tượng, thần tượng và những vương quốc ảo để lôi kéo mọi người. Nhiều người bị lôi kéo vào thế giới ảo: thế giới công nghệ, thế giới của người giàu, thế giới kinh doanh…nhiều người đang cố gắng để gia nhập các thế giới đó bằng mọi giá. Nhiều người trẻ ngày nay bị quay cuồng với cám dỗ trở thành vua trong các lãnh vực… coi đó như một giải pháp đem đến sự an toàn và hạnh phúc. Vì vậy, nhiều người đã sẵn sàng đánh đổi đời sống đạo của mình, loại trừ vua Giêsu ra khỏi cuộc đời để phục lạy các thế giới này. Thực tế cho thấy các thế giới do con người tạo ra, các vua do con người dựng nên đều là giả dối, đều mau chóng xụp đổ. Những ai đặt cuộc đời vào nó chắc chắn sẽ bị thất bại và thất vọng.
Thế giới của ma quỷ là có thật, nó rất mạnh và rất mưu mô, nó sẵn sàng tấn công lừa đảo, lôi kéo con người. Khi tâm hồn và gia đình không có Chúa thì ma quỷ sự dữ sẽ xâm chiếm tâm hồn đó và gia đình đó. Ma quỷ sẽ làm cho tâm hồn trở nên ngày càng tồi tệ hơn, bất an hơn; nó làm cho gia đình bất hòa bất hạnh và gây đổ vỡ cho gia đình.
Vương quốc của vua Giêsu là vướng quốc của tình yêu, bình an và hạnh phúc, những ai thường xuyên đón Chúa qua việc lãnh nhận các Bí Tích, Chúa sẽ là vua bảo vệ tâm hồn đó. Cũng vậy, những gia đình nào đem Chúa về với gia đình, đặt Chúa làm vua của gia đình, suy tôn Chúa qua các giờ kinh sớm tối, Chúa sẽ là vua, là chủ và là Đấng bảo vệ gia đình và đem đến cho gia đình hạnh phúc và bình an.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt Chúa làm vua làm chủ hướng dẫn cuộc sống cá nhân và gia đình, tôn vinh vương quyền của Chúa qua việc sẵn sàng vâng theo sự hướng dẫn chỉ dạy của vua Giêsu. Amen.
Khép lại chu kỳ năm C, phụng vụ của ngày đại lễ hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô TN 34-ABC415
Khép lại chu kỳ năm C, phụng vụ của ngày đại lễ hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô là Vua vũ trụ. Các bài đọc Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe giúp khám phá ý nghĩa tước hiệu vua của Chúa Kitô, Nước Chúa Kitô và những điều kiện để vào Nước Chúa.
1- Ý nghĩa tước hiệu vua của Chúa Kitô
Chúng ta có thể hiểu sai về tước hiệu vua của Chúa Kitô. Điều này đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu.
Quả thế, trong Tin Mừng, dân chúng và nhiều môn đệ của Đức Giêsu có một quan niệm về Đấng Mêsia theo nghĩa chính trị. Họ chờ đợi một Đấng Mêsia, một vị vua đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ và thống trị của người La Mã. Bởi thế, khi Đức Giêsu xuất hiện như là một người giảng dạy có uy quyền, có khả năng làm nhiều phép lạ, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, họ tôn Người lên làm vua.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thẳng thắn khước từ kiểu làm vua theo nghĩa chính trị và trần thế như vậy. Một đàng, Người tự nhận mình là Vua và đến trong thế gian để làm Vua. Nhưng đàng khác, Người xác định rõ tước hiệu vua của mình theo một kiểu khác. Trong cuộc đối thoại với Philatô, Chúa Giêsu làm rõ điều đó. Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu trả lời: “Chính ông nói điều đó, tôi là vua” (x. Ga 18,37).
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu, đó là biến cố thập giá. Nếu thập giá là hình phạt ô nhục nhất đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, thì theo cái nhìn thần học của Luca, thập giá là tột đỉnh của tình yêu và nguồn mạch ơn cứu độ. Bởi thế, cả cuộc đời Đức Giêsu hướng về Giêrusalem và nhất quyết đi lên đó. Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá cùng với hai tên gian phi. Một tên chết đến gần cửa cổ mà vẫn còn chế nhạo Người. Còn một tên nhận ra Người là Con Thiên Chúa và là vua; anh ta cầu khẩn Người: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Đây là lúc Đức Giêsu thể hiện khuôn mặt đích thực của một vị vua uy quyền. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá lời cầu xin. Thay vì hứa một tương lai bất định, Người nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Như thế, Đức Giêsu trên thập giá thực thi quyền bính của một vị vua của tình yêu. Đúng như bản án được ghi trên thập giá: “Đây là Vua người Do Thái.” Người không chỉ là vua Do Thái mà còn là Vua muôn dân, Vua vũ trụ. Trước đây Đức Giêsu tránh tước hiệu vua kẻo người ta hiểu lầm. Bây giờ, tước hiệu vua xuất hiện trước mắt mọi người một cách rõ ràng nhất. Từ khi Người hiến mình trên thập giá, Người là vua đích thực cai quản theo cách của mình mà Philatô và những người lãnh đạo Do Thái không thể nào hiểu.
2- Ý nghĩa Nước Chúa Kitô
Vậy nếu Chúa Kitô là Vua, Người làm Vua ở đâu hay ở nơi nào? Khi nói đến Nước Chúa Kitô, chúng ta có thể hình dung về một vị Vua cai quản một vùng đất, một quốc gia hay một địa hạt nào đó. Thực ra, Nước Chúa Kitô không được đồng hóa với bất cứ quốc gia hay vương quyền trần thế nào trên thế giới, nó vô hình, người ta không quan sát được. Chính Chúa Giêsu quả quyết với Philatô rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36).
Nhưng Nước Chúa là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (x. Rm 14,17); Nước Chúa hiện diện trong tâm hồn mỗi người. Và Đức Kitô là vua các tâm hồn con người. Lời cầu nguyện rất ý nghĩa của Kinh Tiền Tụng nhắc nhở chúng ta rằng vương quốc của Người là “một vương quốc vĩnh cửu và vô biên: vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an.”
Trong Nước đó, thập giá là ngai tòa, mão gai là vương miện, lưỡi đòng là vương trượng, áo mặc là long bào, hai cánh tay giang ra là cán cân công lý, lề luật xét xử là tình yêu, sự yếu hèn của thập giá là sức mạnh và quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Vương quốc này không có quyền lực, không có binh đội nào để sử dụng. Ai, đứng về sự thật và tình yêu thì thuộc về Nước Chúa.
3- Để thuộc về Nước Trời
Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Đức Kitô là Vua nhân loại; Người giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi và cho ta được gia nhập vào Nước Chúa, như lời thánh Phaolô nói ở trong bài đọc II: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi… Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,13-14.20). Đức Giêsu là Vua dẫn chúng ta vào Nước Trời để hiệp thông với Thiên Chúa và để lãnh nhận ơn cứu độ. Người trộm lành trở thành hình ảnh của hy vọng – sự an ủi chắc chắn, lòng nhân từ của Thiên Chúa có thể đến với chúng ta ngay trong giây phút cuối cùng; dù có lầm lạc hay yếu đuối thế nào, nhưng nếu chúng ta biết hoán cải và cầu xin ơn lòng khoan hậu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện đó sẽ không vô ích.
Từ những ý nghĩa trên, có một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đặt ra trong ngày lễ này là Chúa Kitô có phải là Vua của tâm hồn tôi không? Tôi có nhận biết và tôn thờ Người như là Vua không? Theo thánh Phaolô, có hai cách thế sống: hoặc là sống cho chính mình hoặc là cho Chúa (Rm 14,7-9). Sống cho mình nghĩa là khép kín trên chính mình, chỉ lo tìm thỏa mãn và vinh quang cá nhân mà không có hướng nhìn về vĩnh cửu. Ngược lại, sống cho Chúa là hiến mình cho Người, sống theo ý Người, vì vinh quang và Nước Chúa.
Sống cho Thiên Chúa cũng có nghĩa là thực thi lòng bác ái đối với tha nhân, nhất là phục vụ những người nghèo và người đau khổ. Đây cũng là điều kiện để được vào thiên đàng. Bởi lẽ, vào ngày sau hết, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta làm hoặc không làm cho những kẻ bé mọn nhất. Tin Mừng Mátthêu 25 nói về tiêu chuẩn của sự phán xét chung: Vị Vua nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi… vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36).
Như thế, để được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, chúng ta được mời gọi thực thi lòng thương xót đối với những người nghèo và những ai gặp đau khổ. Nguyện xin Đức Maria, Nữ Vương trời đất, hướng dẫn chúng ta trên con đường hướng về Nước Trời. Amen.
Đức Kitô, vua nước trời xuống trần gian được đại đa số đón nhận và thiểu số cực lực chống đối TN 34-ABC416
Đức Kitô, vua nước trời xuống trần gian được đại đa số đón nhận và thiểu số cực lực chống đối. Đón nhận vua nước trời là những nghèo khó, kẻ bị áp bức, bị đối xử bất công, bị hành hạ, coi thường trong xã hội họ đang sống. Họ vui mừng đón nhận Ngài. Hàng hàng, lớp lớp đến lắng nghe, học hỏi và trở thành môn đệ. Họ là số đông nhưng không nắm quyền hành trong tay, số đông của thấp cổ, bé miệng. Họ đón nhận Ngài vì họ mong được giải thoát khỏi ách nô lệ, giã từ giai cấp bần cùng, bị ép buộc phục vụ. Đối nghịch thành phần nghèo hèn là thành phần kiêu căng, nhờ giầu sang, cậy trưởng giả, bám vào trí thức. Họ là thành phần thiểu số, họ cực lực phản đối, chống lại bởi họ có quyền trong tay, có chức, có lực, có kẻ theo hầu và họ thưởng đám đầy tớ này làm công cụ, phục vụ, nghe lời họ sai bảo, tìm cách trước là hạ nhục vua nước trời, Đức Kitô. Nếu số người ủng hộ vẫn đông đảo họ sẽ thi hành cách tàn bạo, đáng khinh bỉ hơn là thủ tiêu Vua nước trời. Họ thủ tiêu bằng cách mượn tay ngoại bang để tay họ khỏi dính máu người khác. Ngoại bang trong trường hợp này là sức mạnh của quân viễn chinh Roma.
Dù đón nhận hay chống đối cả hai nhóm nghèo, giầu đều hiểu sai í nghĩa phục vụ Vua nước trời giảng dậy.
Thứ nhất, Ngài không đến làm chính trị bởi nước của Ngài không thuộc về trần thế. Ngài không tổ chức đội quân, cảnh sát hay ngấm ngầm cộng tác với côn đồ. Môn đệ của Ngài được học về yêu tha nhân, tha thứ nếu lỡ có tránh tranh chấp. Trong mọi hoàn cảnh luôn tìm cách giúp đỡ, không phân biệt mầu da, thành phần, giai cấp. Ngài đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ tội lỗi của chính họ, và tội lỗi của xã hội họ đang sống. Để khỏi chết muôn đời do tội lỗi gây ra, Ngài ban cho họ sự sống trường sinh. Tất cả những ai đón nhận với tâm tình đó đều được hưởng nước trời, sau khi họ hoàn thành cuộc lữ hành trần thế. Thành phần chống đối khởi đầu bằng việc ghen tị. Đám đông khen ngợi, ca tụng Vua nước trời khiến họ bực mình, ghen ghét. Đổ thêm dầu vào lửa là do giáo huấn của Ngài. Giáo huấn ngài hướng dẫn, kêu gọi sống công chính; nghịch điều nhóm lãnh đạo đang làm. Ngài kêu gọi tha thứ; chạm phải điều nhóm lãnh đạo chủ trương trả thù, tiêu diệt thành phần không chung chủ trương với họ. Ngài kêu gọi sống bình đẳng; trái với chủ trương giai cấp cai trị và bị cai trị. Vì những lí do trên mà họ quyết tâm chống lại. Bởi sống theo Ngài là họ mất quyền cai trị, quyền được ăn, được nói, được trọng vọng nơi công chúng. Điều này cho thấy giáo huấn của Vua nước trời không có gì sai. Giáo huấn này bị chống đối bởi nhóm thống trị đặt quyền lợi cá nhân trên công chúng. Họ không thể giết Vua nước trời vì giáo huấn của Ngài. Nhóm thống trị ghép cho Vua nước trời tội làm loạn, tụ tập đám đông chống lại nhóm lãnh đạo, tội phản nghịch xử tử hình.
Thứ hai, cả hai nhóm đều không hiểu Vua nước trời đến không phải để tỏ uy quyền mà để phục vụ và cứu chuộc. Vì hiểu lầm như thế nên khi xét xử Ngài họ luôn kêu Ngài là ‘vua’ theo nghĩa nhục mạ, xỉ nhục hơn là kính trọng. Ba nhóm người đại diện cho xã hội đều kêu gọi Vua nước trời tỏ quyền năng ra nhưng Ngài từ chối. Nhóm lãnh đạo các tôn giáo đứng từ xa nhìn khinh bỉ. Họ nói với nhau: ‘Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu hắn thật là ĐẤng Kitô.’ Lk 23,35. Gần Ngài hơn, dưới chân thập tự, nhóm lính nghe Ngài kêu khát. Chúng lấy dấm đưa cho và nói ‘Nếu ông là vua dân Do Thái, thì cứu lấy mình đi’. c. 37. Gần hơn cả là tên trộm bị treo trên thập giá, lên tiếng ‘Ông không phải là Đấng Kitô sao? hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa c. 39’. Cả ba nhóm đều muốn Vua nước trời tỏ uy quyền. Vua nước trời đến để hoà giải, tha thứ nên Vua nước trời lên tiếng xin tha cho mọi người ‘Lậy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm c. 34’. Tất cả đều muốn được cứu nhưng họ muốn Vua nước trời cứu theo phong cách của họ. Có nghĩa là biểu diễn uy quyền bằng cách tự xuống khỏi thập giá. Vua nước trời muốn cứu họ theo phong cách của Ngài, không phải cách của họ, vì thế họ từ chối.
Không phải tất cả đều từ chối giáo huấn của Vua nước trời. Trong cơn cùng cực một trong hai tên trộm nhận ra điều đó và anh ta đã nói với Vua nước trời. ‘Ông Giêsu ơi, khi nào ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi c.43’ . Vua nước trời hứa với anh ta ‘Ngay hôm nay anh sẽ ở thiên đàng với Tôi c.43b’.
Sau khi Ngài tắt thở một số chứng kiến cảnh bất thường của đất trời liền đấm ngực ăn năn, thống hối. Người đầu tiên là thủ lãnh nhóm hành hình ông ta đấm ngực nói ‘Người này đích thực là người công chính’ c.47b. Đám đông cũng âm thầm ra về, không còn vung tay đả kích như trước.
‘Ngay hôm nay anh sẽ ở thiên đàng với Tôi’ chính là sứ mạng trần thế của Vua nước trời. Mục đích của Ngài đến trần gian là ban sự sống đời đời cho những ai đón nhận và tin vào Ngài.
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 TN 34-ABC417
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa. Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua. Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).
Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.
Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, vẫn được xem là một hệ thống đạo đức, triết lý, chặt chẽ TN 34-ABC418
Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, vẫn được xem là một hệ thống đạo đức, triết lý, chặt chẽ theo tư tưởng “Nho giáo”. Để công thành danh toại, dù ở lãnh vực nào, người ta vẫn cần quan tâm đến những chi tiết nhỏ bé, rõ ràng nhất, từ bản thân, gia đình, rồi đến xã hội. Trong giáo dục, các bậc làm cha mẹ luôn đặt trọng tâm vào việc đầu tư: muốn sang thì bắc Cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Phạm vi gia đình, xã hội, đất nước, sẽ phát triển và hữu hiệu khi được liên kết với “từng cá nhân”, theo lý luận: một tinh thần minh mẫn trong một thân xác tráng kiện. Người tốt, gia đình sẽ tốt, xã hội an vui, đất nước vững mạnh.
Vấn nạn chung, Đức Giêsu nhân vật kỳ lạ đến khó hiểu với mọi đối tượng, cả trong ngôn từ lẫn hành động: giảng dạy hấp dẫn, làm cho người què đi được, mở miệng người câm, phục sinh kẻ chết… Tài đức như vậy, tình yêu thương ngập tràn trong cách cư xử, nhưng Ngài bị vu oan cáo vạ, bị đòn vọt, bị đóng đinh thập giá cùng hai tên trộm cướp ! Dưới chân thập giá hôm đó có cả những kẻ từng chứng kiến phép lạ, từng bị “hớp hồn” khi nghe Ngài giảng dạy nay họ đang hò hét, đắc thắng… Cả anh trộm bên tả cũng buông lời thóa mạ: “nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
Cha ông chúng ta có câu: tướng bại trận không thể nói mạnh, quan mất nước không thể nói hay. Đức Giêsu không xưng vương, không hành xử như một dũng tướng “chết vinh hơn sống nhục”. Đức Giêsu khi trên thập giá, người ta chỉ đọc được nơi Ngài là “vua tình yêu”, tha thứ, không hận đời. Trước nhãn giới tự nhiên, Đức Giêsu hoàn toàn thất bại, bị án chết thảm khi tuổi 33, đã từng chữa lành vết thương thể xác tâm hồn cho đám đông, nhưng Ngài không tự cứu mình ! Thắc mắc, chờ mong ông Giêsu xuống khỏi thập giá, hy vọng binh hùng tướng dũng từ Vương Quốc của Ngài sẽ tới ra tay lật đổ kẻ ác tâm. Hy vọng, đợi chờ, tâm trạng đó cả người thánh thiện đạo đức, người tội lỗi nhất đều vô vọng bởi sự lặng thinh của tình yêu Giêsu.
Xưa Tuân Tử dạy các học trò: “im lặng, lắng nghe, ghi nhớ, hành động và khôn ngoan, chính là 5 bậc thang khác nhau của trí tuệ”. Nay người ta chủ trương biết vui với người vui, biết khóc với người khóc, đó là hành vi của người có văn hóa, tri thức, biết ứng xử và thấu cảm. Không có gì vô duyên và đáng trách hơn, khi người ta đang khóc mà mình cười, hoặc ngược lại. Vương Quốc của Đức Giêsu thật mông lung ! Mức độ câu trả lời xác thực bao nhiêu về “Vua Giêsu” khi ở phía đầu Người, có tấm bảng ghi bằng ba thứ tiếng Hy-lạp, La-tinh và Do-thái: “Người này là Vua dân Do-Thái”. Philatô vô tình hãy hữu ý về điều ông đã viết “Vua Giêsu” ? Các thi sĩ thật độc đáo khi đưa ra ý tưởng: chỉ mất 3 giây để nói lời yêu, nhưng họ phải mất cả đời người để chứng minh lời yêu ấy.
Ngoài những phán đoán tiêu cực của một số người đứng dưới chờ Đức Giêsu thực thi vương quyền, nào ai ngờ, anh trộm lành khám phá ra Đức Giêsu chính là “Vị Vua” mà tâm hồn anh đang thiếu: tình yêu, tha thứ. Chỉ một câu nói tưởng chừng vu vơ, nhưng đó lại là lời thống hối, tuyên tín “Vương Quyền Giêsu”: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Âm nhạc thể hiện những điều không thể nói, và cũng thể hiện những điều không thể lặng câm. (V.Hugo). Anh trộm lành không tấu lên giai điệu uất hận, thách thức chế giễu Đức Giêsu, hay ai oán đời mình…, anh đã thể hiện được điều cần thiết đối với phút “thứ 90” của đời người.
Tục ngữ có câu: im lặng là vàng, hay: thời gian làm lành mọi vết thương. Cái gì rồi cũng trôi qua, cái gì rồi cũng nhàm chán, cái gì rồi cũng tiêu vong, duy chỉ có tình yêu là tồn tại. Trong suốt thời gian chịu treo mình trên thập giá, Đức Giêsu chỉ thinh lặng, dù đám đông vẫn la ó, thách thức, nhạo cười…! Phút giây quý báu trôi qua, người ta chỉ nghe được những lời yêu thương, tha thứ, cụ thể là vết thương tâm hồn người trộm lành. Cuối cùng, không phải chỉ một số người hôm xưa, mà cả nhân loại đã được nghe Chúa Giêsu bày tỏ về “Vương Quốc” của Ngài: “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi ở trên thiên đàng với Ta”.
Niềm vui thông thường của người đời là: cha mẹ giầu thì con có, cha mẹ khó thì con không. Ông bà cha mẹ có chức danh, con cháu dễ cậy nhờ, bậc sinh thành sống có đức con cháu mặc sức mà ăn. Niềm tự hào và phúc đức của người Kitô hữu không dừng lại ở hưởng thụ, nhưng hạnh phúc hơn cả là được đứng vào hàng ngũ con cháu của “Vương Quốc Giêsu”. Sai lầm là điều tự nhiên nơi con người, ấy vậy, cái khó ở chỗ làm sao ta biết mình sai để sửa chữa ? Ăn trên ngồi chốc là cách cư xử của đại gia, nhưng làm sao để ta nhận ra sống hài hòa yêu thương mới là cùng đích của công dân “Nước Trời” ? Có gì đẹp trên đời hơn thế, người với người sống để yêu thương. Có gì hạnh phúc hơn, sau một cuộc đời học, hiểu, và sống chữ yêu, để rồi ta được nghe Chúa Giêsu nói: ngay hôm nay người sẽ được trên Vương Quốc của Ta. Amen.
Hôm nay Hội Thánh tuyên xưng Chúa Kitô là Vua, nhưng không phải vua bình thường, không phải TN 34-ABC419
Hôm nay Hội Thánh tuyên xưng Chúa Kitô là Vua, nhưng không phải vua bình thường, không phải vua một quốc gia, một dân tộc, nhưng còn hơn vua quốc gia hay dân tộc: Người là Vua các vua Chúa các chúa. Và còn lớn hơn thế: Người là Vua vũ trụ.
Bài đọc hai, trích thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô cho thấy vương quyền của Chúa Kitô còn hơn gấp bội lần, vương quyền đó tuyệt đối. Tuyệt đối vì: Người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mọi loài cả trên trời, cả dưới đất, dù hữu hình hay vô hình, tất cả chỉ được tạo thành nhờ Người. Người có trước mọi loài. Người bá chủ mọi loài.
Vì vương quyền của Chúa Kitô là vương quyền tuyệt đối, nên khi nói Chúa Kitô là Vua vũ trụ, ta tuyên xưng và tôn vinh vương quyền của Người theo nghĩa tuyệt đối này.
Nhưng tôi lại thấy có cái gì mâu thuẫn trong cách trình bày của Hội Thánh về khuôn mặt của Vua Kitô?
Người là Vua lớn lao: Vua vũ trụ tuyệt đối, vương quốc của Người bao trùm mọi nơi và mọi sự, vương quyền của Người trải rộng như thế, vậy mà trong lễ này, Hội Thánh lại chọn Tin Mừng nói về việc Chúa chịu đóng đinh để ta suy niệm.
Ngay đầu bài Tin Mừng, thánh Luca cho biết “các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu”. Ngày người ta lên ngôi vua, là ngày vinh quang, ngày nổi đình nổ đám, ngày tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của. Đàng này một tử tội chịu đóng đinh trên thập giá trần trụi giữa trời giữa đất, lại được tôn xưng là vua!
Có cái gì đó quá mâu thuẫn. Mâu thuẫn đến độ phi lý. Vậy Hội Thánh có sai lầm, hay Hội Thánh có ý gì khác?
Hội Thánh cố tình trình bày như thế, để chính trong cái mà ta cho là mâu thuẫn, đòi ta phải khám phá ý nghĩa đích thực của Vua Kitô.
Đó là Chúa Kitô có đủ mọi uy quyền, nhưng không phải để ra oai tác oái, mà để cai trị bằng tình yêu.
Vương quyền Người càng tuyệt đối, vương quốc Người càng bao trùm bao nhiêu thì tình yêu của Người càng lớn lao bấy nhiêu.
Hóa ra khi trình bày Vua vũ trụ qua khuôn mặt của thập giá, Hội Thánh không mâu thuẫn, ngược lại Chúa Kitô mới “ngược đời”: Vua vũ trụ đấy, nhưng lại bảo rằng: “Ta đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hgiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Vua vũ trụ đấy, nhưng lại cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Vua vũ trụ đấy, nhưng người ta tôn làm vua – sau khi họ hưởng từ nơi Người một phép lạ cả thể: đang thiếu thốn vậy mà được ăn đến phát no và còn dư vật – thì Vua lại chạy trốn, không nhận sự vinh quang được ban tặng từ những con người trần thế.
Còn nhớ khi thánh Phêrô tuyên xưng bằng một lời long trọng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, thì ngay sau lời tuyên xưng đó, Vua Kitô báo trước cuộc khổ nạn của mình: Phải nhiều nhiều đau khổ, bị người ta giết rồi mới sống lại.
Tin Mừng thánh Gioan, trong khi tường thuật cuộc đối thoại giữa Chúa Kitô và ông Nicôđêmô, có ghi lại câu nói của Chúa khi Chúa khẳng định vương quyền của Người: “Như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, con người cũng sẽ được giương cao như vậy”.
Lời này tương đương một lời nói khác của Chúa Kitô, cũng theo Tin Mừng Gioan: “Ngày nào Ta được giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Rồi thánh Gioan kết luận: Người nói Người được giương cao là ám chỉ cái chết của Người.
Mà cái chết của Vua Kitô, cứ nhìn bằng mắt phàm trần, đó là cái chết ô nhục, chết treo trên thập giá. Nhưng với Chúa Kitô, chính khi được treo lên là lúc được giương cao. Treo lên là được tôn vinh.
Vẫn chưa hết. Sau khi phục sinh, sách Công vụ Tông đồ gọi Vua Kitô là Đức Chúa. Tước vị Đức Chúa, trước kia chỉ dành cho Thiên Chúa, nay áp dụng cho Vua Kitô để tuyên phong Người.
Đức Chúa hiện ra trong vinh quang phục sinh để trao ban bình an cho các môn đệ, thì ngay trong lúc trao ban bình an, lại cho các ông xem tay và cạnh sườn. Tại sao? Tại vì dấu của thập giá vẫn hằn sâu trên tay và trên cạnh sườn.
Trên thập giá, Chúa kitô được giương cao, cho nên trên thập giá, vương quyền của Chúa Kitô tuyệt đối. Trên thập giá, Chúa Kitô là Vua, Vua vũ trụ. Trên thập giá Chúa Kitô là Chúa, Chúa mọi loài.
Tất cả những hình ảnh ấy là gì nếu không phải là tình yêu? Dấu của thập giá càng khắc sâu bao nhiêu, thì gương mặt của Vua Tình yêu càng rực rỡ bấy nhiêu. Chỉ khi yêu như thế, Vua Kitô mới là Vua đúng nghĩa.
Chỉ có Vua Kitô mới làm vua “ngược đời” như thế, nhưng lại rất tuyệt vời!
Vì là Vua Tình yêu, cho nên Chúa dạy anh chị em và tôi hãy yêu như Người đã yêu. Chỉ có yêu như Chúa, ta mới xứng đáng là thần dân của Chúa.
Tôi nghĩ hình ảnh anh chị em lo cho con cái, hiến thân nuôi nấng, dạy dỗ con nên người là lúc ta sống tình yêu của Chúa Kitô. Tôi thấy có nhiều cha mẹ quên mình, nhận hết mọi cực nhọc, suốt ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất; hết buôn gánh lại bán bưng. Nhưng hình ảnh đó rất đẹp để diễn tả Tình yêu Chúa Kitô.
Ngược lại con cái cũng hãy yêu thương cha mẹ mình. Từ lời ăn tiếng nói, sao cho nhẹ nhàng, không gắt gỏng, cải vả, không trả treo, không lời một tiếng hai với cha mẹ; đến hành động và suy nghĩ, sao cho xứng là con thảo, con ngoan.
Sống trên thuận dưới hòa như thế, sẽ là gia đình sống tình yêu của Chúa Kitô.
Anh chị em hãy yêu đi, tình yêu sẽ cho ta biết phải làm gì để tận hiến cho người mình yêu.
Cuộc chạy đua vào nhà Trắng đã đến hồi khép lại. Ông Donald Trump thuộc Đảng Cộng hòa đã TN 34-ABC420
Cuộc chạy đua vào nhà Trắng đã đến hồi khép lại. Ông Donald Trump thuộc Đảng Cộng hòa đã đánh bại đối thủ của mình là bà Hillary Clinton thuộc Đảng Dân chủ. Tổng thống thứ 45 của Hoa kỳ, một con người có thể nói đầy quyền uy, và mọi đường lối, lãnh đạo có tầm ảnh hưởng rất lớn không chỉ ở Mỹ, mà còn trên toàn thế giới. Người ta biết nhiều đến vị tân tổng thống của Hoa kỳ, qua các phương tiện truyền thông. Nếu không còn gì trở ngại, thì ngày nhận chức chắc là linh đình và nguy nga, hoành tráng và trang trọng biết là dường nào. Chẳng khác nào một vị vua chúa trong các cung điện hoàng gia. Trong chúa nhật cuối của năm phụng vụ, chúng ta được Giáo hội giới thiệu cho toàn thể nhân loại chân dung của một vị Vua, người ta gọi Ngài là: VUA GIÊ-SU.
Khác hẳn với những ông hoàng trần thế. Vị vua này không giống ai cả. Vua không có nơi gối đầu, không vương quốc, lãnh thổ, quân đội. Không đấu tranh, bạo động, không tranh giành quyền lực, chỉ sống và yêu như chính cuộc đời của Ngài. Chịu đóng đinh trên Thập Giá, giữa những người gian phi, tấm bảng trên đầu Ngài khẳng định đây là Vua dân Do thái. Vị vua đã đến trần gian và chịu nộp mình vì tội lỗi của con người. Vua Giê-su đã trở nên người phục vụ, và yêu nhân loại cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài đã bỏ cung điện là trời cao, để đến với đất thấp là con người. Chuyến vi hành vỏn vẹn có hơn 30 năm, kể từ lúc sinh ra, nhưng đã để lại nhiều dấu ấn, trong dòng chảy của ơn cứu độ. Làm vua mà không có ngai vàng, đến nỗi các vị vua Hê-rô-đê, Phi-la-tô hết sức ngỡ ngàng khi đối diện với Chúa Giê-su. “Ông là Vua sao”. Vua mà để cho người ta đến bắt và đem đi hành hình, rồi đóng đinh vào cây gỗ giá. Chẳng ai có thể hiểu được, vương quốc của Ngài ở đâu, thần dân của Ngài ở đâu. Người ta lạnh lùng với hình ảnh một Đức Vua đang quặn mình tắt thở trên cây Thánh Giá. Họ đâu biết rằng, Đấng bị treo trên cao là Vua vũ trụ, Vua đất trời. Nước Ngài không thuộc về thế gian, vì thế gian sẽ qua đi. Còn vương của Chúa Giê-su mới trường tồn vĩnh cửu. Người trộm lành không biết xuất phát từ đâu, khi anh nhận ra nơi Đức Giê-su, là Đấng cứu độ: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” Và Đức Giê-su đã chập nhận ngay đều thỉnh cầu của kẻ cùng chung số phận với mình. Kẻ trên Thánh Giá, và người ở bên dưới, hận thù sục sôi khi con người ra tay giết chết Đấng đã rất mực yêu thương mình. Thay vì trả thù cho những đối xử độc ác của con người, thì Chúa Giê-su đã xin Chúa Cha tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình.
Trong thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phao-lô đã viết rằng: “Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang” (Pl 2, 6-11).
Lạy Chúa Giê-su Vua muôn loài, xin Ngài ngự đến trong cõi lòng mỗi chúng con, để chúng con thuộc về Ngài và là thần dân của Ngài trong nước vinh hiển hằng sống. Amen.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ Năm C. Tuần tới là Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng TN 34-ABC421
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ Năm C. Tuần tới là Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng, khởi đầu cho năm phụng vụ mới Năm A. Chúa nhật này, cùng với Giáo hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua. Nghe bài Tin mừng nhiều người có thể thắc mắc tại sao Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin mừng về sự kiện Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, bị dân chúng nhạo cười và chết tủi nhục trong ngày lễ kính Chúa Ki-tô Vua hôm nay? Không biết có lầm không? Thật khó hiểu! Khó hiểu bởi vì tâm trí chúng ta thường liên tưởng tới một ông vua theo kiểu trần gian, sống cuộc sống giàu sang và được trọng vọng. Trong khi Chúa Giê-su đã cho biết trong Tin mừng thánh Gioan “Nước tôi không thuộc trần gian này.” Vậy thì vương quốc của Chúa là gì? Hay mang tính cách gì? Xin được chia sẻ 3 tính cách vương quyền của Chúa Giê-su Ki-tô sau đây.
Thứ nhất, vương quốc của Chúa Giê-su là của sự trung thành. Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa đã thiết lập vương quốc này, nhưng ma quỉ phá hoại bằng cách xúi dục con người phạm tội không vâng lời Ngài. Vì thế, Chúa Giê-su đã vâng lời Thiên Chúa Cha, khiêm nhường sinh xuống trần và mặc lấy bản tính con người. Người đã không sống cho riêng mình, nhưng luôn trung thành sống theo ý Chúa Cha và chu toàn sứ vụ cứu độ nhân loại qua cái chết trên thập giá. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa, qui tụ những người tin và trung thành vào trong nhà Cha trên trời.
Thứ hai, vương quốc của Chúa Giê-su là vương quốc của sự tự do. Khi con người phản bội không vâng lời và rời xa Chúa thì rơi vào bàn tay của ma quỉ và làm nô lệ cho nó. Ma quỉ trói buộc con người lại bằng những sợi dây ích kỷ và kiêu căng, bằng sợi dây tham lam vật chất và tiền bạc, và bằng những thứ đam mê và nghiện ngập. Chúa Giê-su xuống thế làm người mục đích là để giải thoát con người khỏi ách nô lệ của ma quỉ, cứu con người khỏi mọi sự sợ hãi, thoát khỏi áp lực của những sự cám dỗ, và dẫn đưa con người sống trong bóng tối của tội lỗi và sự chết ra ánh sáng ân sủng, chân lý và an bình. Trọn cuộc đời, Chúa Giê-su sống trong tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ một áp lực nào để phục vụ và hy sinh. Ngay từ giờ phút đầu tiên trước khi rao giảng công khai, Người đã chống lại và đánh tan những cơn cám dỗ của ma quỉ về vật chất, danh vọng và thế lực trong sa mạc, cho đến giờ phút cuối cùng khi bị treo trên cây thập giá bị những sự thách thức của dân chúng: “Nếu ông là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.” Nhưng Chúa Giê-su đã đi vào cái chết một cách rất tự do, phá tung những xiềng xích nô lệ, và khởi đầu cho một triều đại mới cho những ai muốn sống tự do là con cái Chúa.
Vương quốc thứ ba của Chúa Giê-su là vương quốc của tình yêu. Chúa Giê-su xuống trần là để làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa Cha. Người rao giảng về ân sủng Nước Trời, cứu chữa những người đau khổ và tha thứ cho những người tội lỗi. Người tha thứ cho những kẻ vu khống, đánh đập và đóng đinh Người vào thập giá. Tình yêu lên đến cực điểm khi Người giang tay trên thập giá như Người đã nói “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng chết cho người mình yêu.” Chúa Giê-su đã biến thập giá trở thành Thánh giá tình yêu. Thánh giá diễn tả tình yêu của Chúa Giê-su dành cho Thiên Chúa Cha và cho con người nhân loại mọi thời đại. Chúa Giê-su là sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha cho con người nhân loại, và tình yêu cao cả này đã lan tỏa ra tới mọi góc biển chân trời.
Ông bà anh chị em thân mến. Các thánh tử đạo Việt Nam cha ông của chúng ta mà chúng ta mừng kính hôm nay đã nhận ra vương quyền và tình yêu của Chúa Giê-su. Các ngài hân hoan vui mừng minh chứng vương quốc của Chúa Ki-tô bằng sự trung thành, bằng những sự đau khổ và bằng cái chết vì đức tin của các ngài. Để làm chứng cho vương quốc của Chúa Giê-su và làm sáng danh Người, các thánh tử đạo Việt Nam đã phải có những quyết định và chọn lựa can đảm. Có khi thật khó khăn như tuân theo hay không lệnh của vua quan, nhưng có khi rất đơn giản như bước qua hay không bước qua Thánh giá. Bước qua thì có ngay danh vọng và tiền bạc, nếu không bước qua thì lập tức lãnh lấy những cực hình và cái chết. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá Chúa Ki-tô tôi kính thờ, tôi bước qua sao được.” Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi thuộc Hội Thừa Sai Paris, đã dứt khoát trả lời cho viên quan ra lệnh cho ngài phải bước qua thập giá rằng: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!” Đây là những quyết định, chọn lựa thật can đảm và hùng hồn, minh chứng lòng xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô và vương quốc của Người.
Ông bà anh chị em thân mến. Mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua và kính các thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, mời gọi mỗi người chúng ta, là con cháu của các ngài, nhìn lại cuộc sống đức tin của chúng ta ngày hôm nay như thế nào. Cuộc sống và những quyết định về lòng xác tín vào Chúa Giê-su Ki-tô Vua của chúng ta hôm nay không đòi chúng ta phải chịu nhiều đau khổ hay cực hình, nhưng cũng không kém phần khó khăn, thử thách và cần nhiều sự hy sinh cũng như quảng đại. Thật vậy, chúng ta đang phải đối diện với những sự lôi cuốn tham lam tiền bạc và vật chất, đứng trước sự cám dỗ của đời sống ích kỷ cá nhân, sự kiêu căng, tự cao và hờ hững với Lời Chúa, làm chúng ta xa Chúa. Xin Chúa Giê-su Ki-tô Vua, qua lời cầu bầu của các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, phá tan những xiềng xích trói buộc chúng ta, để chúng ta được sống trong tự do là con cái Chúa, giúp chúng ta biết noi gương các thánh, sống chứng nhân trung thành với Chúa Giê-su Ki-tô Vua và làm sáng danh Người đời này, để chúng ta được chung hưởng vinh phúc Vương Quốc của Chúa đời sau.
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu với TN 34-ABC422
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu với một danh xưng rất đặc biệt: Vua vũ trụ. Xin đừng vội phê phán và kết luận danh xưng này đã lỗi thời và thuộc về chế độ phong kiến lạc hậu, vì vương quyền của Chúa Giêsu không như lối suy nghĩ của con người: Người là Vua công chính và là Đấng cứu độ.
Trong Cựu ước, có ba chức vụ được chính Thiên Chúa chọn và xức dầu, đó là vua, ngôn sứ và tư tế. Vì được Thiên Chúa chọn, nên ba vị này hành động nhân danh Thiên Chúa. Họ cũng là người chuyển tải sứ điệp và lệnh truyền của Chúa cho Dân riêng.
– Vua là người thay mặt Chúa để điều hành dân thánh. Ông cũng được gọi là “con Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa khẳng định danh xưng này, trong trường hợp vua Đavít (x. S Sm 7,14)
– Ngôn sứ là người chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa. Nội dung sứ điệp có thể là lời khiển trách hoặc khen ngợi. Đó cũng có thể là lời cảnh báo trước những tai hoạ và kêu gọi ăn năn sám hối để thoát hình phạt.
– Tư tế là người chịu trách nhiệm về sự thánh thiện của dân được tuyển chọn. Họ cũng là những người cầm cân nảy mực trong việc tuân thủ những quy định luân lý cũng như phụng tự.
Đức Giêsu là Đấng Được Xức Dầu. Vì vậy mà Người được gọi là Đấng Kitô. Người kiêm nhiệm cả ba chức vụ nói trên đây. Người vừa là Ngôn sứ, là Tư tế và là Vua. Chúa Giêsu đã đến trần gian để loan báo tình thương của Chúa Cha, kêu gọi mọi người sống chan hoà yêu thương. Ngài đã dâng chính mình làm hy tế, để hoà giải Thiên Chúa với con người. Người thống trị muôn dân bằng tình yêu và bằng dấn thân phục vụ.
Khi còn tại thế, Chúa Giêsu đã tránh sự hiểu lầm về chức vụ vương đế của Người. Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, nhiều người muốn tôn người làm vua, chỉ với mục đích từ nay sẽ có bánh ăn hằng ngày mà không phải lao động vất vả. Chúa Giêsu đã lánh mặt đi lên núi một mình (x. Ga 6,15).
Vua Đavít là hình ảnh của Vị Vua Vũ Trụ là Đức Giêsu là chúng ta tôn vinh hôm nay. Ông là vị vua thứ hai sau Saun, kể từ khi Ít-ra-en thiết lập nền quân chủ. Vị vua này đã có một vương quốc ổn định và giàu có. Sau này, Đức Giêsu được gọi là “Con vua Đavít”. Người Do Thái cũng dùng danh xưng này để chào đón khi Người vào thành thánh Giêrusalem. Việc Đavít được xức dầu phong vương được coi như một việc làm theo ý của Thiên Chúa và là một biến cố quan trọng trong lịch sử Do Thái.
Trong ngày tôn vinh Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, Thánh sử Luca lại giới thiệu với chúng ta một hình ảnh lạ kỳ về vị Vua này. Đó là vị Vua không ngai vàng, lại còn bị hành hạ dã man, bị đóng đinh trên thập giá và bị phỉ nhổ. Một tên trộm cùng bị đóng đinh cũng nhục mạ Người. Tuy vậy, qua hình hài thâm tím bầm dập ấy, một tên trộm khác lại nhận ra vương quyền thiêng liêng. Lịch sử hơn hai ngàn năm qua, vẫn luôn có những người phỉ nhổ Chúa và vẫn có những người tôn nhận vương quyền của Người. Chúa Giêsu làm Vua không phải để cai trị mà là để phục vụ con người. Chúa đã chết trên thập giá vì yêu thương con người. Người đã mang trên mình tội lỗi của muôn dân. Nếu một vị vua trần thế đã có công lập quốc hay đã thắng trận vẻ vang, thì Vua Giêsu đã loan báo vương quốc vĩnh cửu và đã chiến thắng ma quỷ, chiến thắng tử thần. Những ai tôn nhận vương quyền của Người, sẽ được Người cho hưởng hạnh phúc với Người, như trường hợp người trộm sám hối.
Chúng ta hãy tôn nhận vương quyền của Chúa Giêsu để được Người chúc phúc. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu được chia sẻ ba chức năng của Chúa Giêsu, cũng là ba chức năng của Giáo Hội, tức là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tôn vinh Chúa Giêsu Vua vũ trụ giúp người tín hữu ý thức hơn về danh dự và bổn phận trách nhiệm của mình. Kitô hữu cũng là công dân của Nước Trời, công dân của vương quốc có Chúa Giêsu làm chủ. Vương quốc của Đức Giêsu không thu hẹp trong ranh giới của một quốc gia, nhưng lan rộng khắp thế giới, vì “Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất”. (Bài đọc II). Vương quốc của Chúa Giêsu chính là vương quốc của hoà bình và tình yêu. Để xứng đáng là công dân của vương quốc ấy, mỗi tín hữu phải trở nên chứng nhân tình yêu giữa đời.
Vào Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, Giáo hội cử hành lễ Chúa Kitô Vua với ước muốn TN 34-ABC423
Vào Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, Giáo hội cử hành lễ Chúa Kitô Vua với ước muốn cho mọi người thấy Vương quyền của Chúa Kitô Vua hoàn vũ, đồng thời hô vang: Hoan hô Chúa Cứu Thế là Vua!
Dòng dõi vua Đavít
Thiên Chúa đã thề hứa cùng David rằng, giòng dõi ông sẽ làm vua cai trị đến muôn đời (x. 2. Sm 7,10). Nhưng sống cảnh lưu đày, làm sao có vua để cai trị? Lời Chúa hứa qua miệng tiên tri Isaia có viết: “Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non” (Is 11,1). Mầm non mọc lên từ gốc tổ Jesse chính là Đức Kitô, thuộc giòng tộc Jesse, cha của vua David.
Đavid là vua, Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavid. Khi các đầu mục đến Hêbron yết kiến Ðavít và xin qui phục vương quyền của ông. Họ thưa: Ngài (tức là Ðavít) cũng là cốt nhục với chúng tôi. Ngài đã từng là tướng triều Saulê, Vua nước chúng tôi. Ngài đã được Thiên Chúa chọn để chăn dắt và lãnh đạo dân Người.
Những lời trên cho thấy một vị Vua của Israel… phải có cốt nhục với đồng bào của ông; phải vào sinh ra tử cho đất nước của họ; và nhất là ông phải được Thiên Chúa chọn. Nếu vương quốc của Ðavít chỉ có ở nơi Ðavít thì vương quốc của Chúa Kitô cũng chỉ có ở nơi Chúa Kitô và là công trình của Thiên Chúa và hoàn toàn lệ thuộc Chúa Kitô; nên Nước của Người không thuộc về thế gian này.
Chúa Giêsu Kitô, tuy sinh ra như một con người; nhưng Người lại có uy quyền của Thiên Chúa, vì “Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và thông hiểu, thần khí mưu lược và mạnh mẽ, thần khí hiểu biết và đạo đức, thần khí kính sợ Đức Chúa” (Is 11, 2).
Ðavít là vị mục tử đầy nhân ái và đạo đức đã là hình ảnh báo trước về Vua Thiên Sai sẽ đến cứu dân và xây hạnh phúc cho dân là Đức Giêsu Kitô, vua vũ hoàn. Cả hai đã được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng vương quyền của cả hai đều phải vào sinh ra tử cho dân mới được dân công nhận, nhằm bảo hộ bênh vực để dân Chúa được bình an và hạnh phúc.
Chúa Giêsu Kitô là Vua
Ai cũng biết suốt đời Chúa Giêsu chẳng có vẻ gì là một ông Vua. Người còn nhất mực từ chối mỗi khi dân chúng có ý tưởng tôn Người làm Vua. Nhưng bỗng dưng Người có một thay đổi bất ngờ. Hôm vào Giêrusalem, Người muốn tỏ ra mình là một ông vua thái hòa. Người cỡi lừa, ung dung để cho người ta lấy lá, lấy áo lót đường cho Người đi, và Người chấp nhận để cho người ta tung hô mình là Con Vua Ðavít, vua của Israel.
Nhưng trong cuộc rước ấy, Người vẫn âm thầm. Và Người cũng không có một cử chỉ hoàng đế nào trong dịp nô nức ấy. Thế rồi Người bị nộp, bị trói, bị đánh, bị điệu ra trước tòa. Chính ở đây và từ đây Người mới có thái độ làm vua.
Hướng nhìn lên đồi Calvariô nơi treo Chúa Giêsu Kitô trên cây Thánh Giá, chúng ta khám phá ra Vị Vua Nhân Lành hiến mạng vì đàn chiên, thương xót, tha thứ và cứu vớt tội nhân. Tấm bảng trên đầu có ghi: “Người này là vua dân Do thái” (Lc 23,38). Điều Philatô đã viết là đã viết. Hình khổ Vua chịu thật là khủng khiếp, mặt mày biến dạng. Thế mà Người lại là vua ư? Sao có thể thế được? Người là Vua những gì?
Câu trả lời: Chúa Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua.
Vương quốc của Vua Giêsu là sự thật và là sự sống, Vương quốc thánh thiện và tràn đầy ân sủng, Vương quốc yêu thương, công lý và an bình. Một vương quốc được sinh ra từ Máu và nước từ cạnh sườn đâm thủng của Chúa Giêsu Kitô. Vương quốc của Vua Chúa Giêsu, Đấng đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), là Vua duy nhất của vũ hoàn, Vua khiêm nhường, Vua quyền năng.
Thánh Giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Chúa Giêsu bị hỏi: “Nếu ông là Đấng Kitô” (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Người đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: “Nếu ông là Đấng Kitô “(Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La-mã thách thức Người: ”Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi“(Lc 23, 38). Một tên trộm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 40). Họ khác nhau về địa vị, nhưng lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa: “Ông hãy tự cứu mình đi !” Như thể thách Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình ! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh cho ta thấy. Người đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội. Khi chịu treo thên thập giá Chúa Giêsu đã mạc khải vinh quang của Người, Người là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Công dân Vua Giêsu
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, Chúa Kitô hay ai khác? Theo thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: “hoặc cho mình hay cho Chúa” (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Tình Yêu. Xin thương xót chúng con, xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen. mục lục
Ngày lễ “Chúa Kitô Vua” lần đầu tiên được thiết lập vào năm 1925, và Đức Thánh Cha Phaolô VI đã TN 34-ABC424
Ngày lễ “Chúa Kitô Vua” lần đầu tiên được thiết lập vào năm 1925, và Đức Thánh Cha Phaolô VI đã mở rộng tên gọi đó thành “Chúa Kitô Vua Vũ trụ” vào năm 1969.
Từ khóa của các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay là “Vua”, được đề cập đến sáu lần:
“Ngay cả trước kia, khi ông Saun làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel. Thiên Chúa đã phán với ngài: ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.’ Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khéprôn. Vua Đavít lập giao ước với họ tại Khéprôn, trước nhan Thiên Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đavít làm vua Israel” (2 Samuel 5: 2-3).
“Nếu ông là vua dân Dothái, ông hãy tự cứu mình đi”. Phía trên đầu Ngài có tấm bảng đề chữ Hy lạp, La tinh và Do thái như sau:“Người Này Là Vua Dân Do Thái” (Lc 23: 37-38).
Việc tôn xưng Chúa Giêsu là Vua, đặc biệt trong bối cảnh của bài đọc hôm nay, đòi hỏi một đức tin sáng suốt. Thường thì hình ảnh của một vị vua gợi ra sự giàu có, hào sảng, cũng như quyền lực quân sự và chính trị. Chúa Giêsu không được mô tả là vua theo cung cách đó. Lần đầu tiên khi Ngài xuất hiện với tư cách là vua, thì Ngài đã đi giữa những người nghèo đang vẫy những cành lá trong khi Ngài ngồi trên lưng một con lừa! Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một vương quốc thế gian. “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36)
Tuy nhiên, câu chuyện có tầm quan trọng lớn lao được đề cập trong cả bốn sách Tin mừng, và ứng nghiệm lời của một vị tiên tri lớn trong Cựu ước: “Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (Dacaria 9: 9)
Con lừa tượng trưng cho vị vua hiền lành, chính trực, đem lại hòa bình cho nhân loại và bình an cho mọi cõi lòng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2: 14).
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là một vị Vua của những cõi lòng. Ngài không chỉ là một Thầy dạy toàn cầu, Giảng viên hoàn vũ, hay Người bảo vệ nhân loại. Qua danh hiệu “Vua vũ trụ”, Giáo hội muốn thông truyền tầm mức siêu việt của Chúa Giêsu, rằng Chúa bao gồm tất cả mọi thực tại, không chỉ thực tại phàm trần. Chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính Nixêa rằng Thiên Chúa đã tạo ra muôn vật hữu hình và vô hình. Vì vậy, Chúa Giêsu là Vua trên tất cả các hành tinh, ngôi sao, hố đen, chuẩn tinh và những mặt trời đang bùng nổ ở những góc tối đen nhất của không gian xa xôi. Ngài là Vua trên trái đất và tất cả các thác nước, rừng nhiệt đới, đỉnh núi, vùng sa mạc rộng lớn và những đáy biển tối tăm. Ngài cũng thống trị mọi thụ tạo thuần linh thánh thiêng. Ngài thống trị mọi thụ tạo bởi vì Ngài là nguồn gốc của mọi thụ tạo:
“Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Ngài, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Ngài và trong Ngài. Và Ngài có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Ngài, Ngài là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Ngài làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Ngài” (Cl 1: 15-19).
Thánh Tôma Aquinô đã dạy một cách chính xác khi ngài viết rằng Thiên Chúa không phải là hữu thể hoàn hảo nhất giữa các thụ tạo, không phải chỉ là hữu thể ấn tượng nhất sống trong quả bong bóng chứa các hữu thể khác nhau, nhưng Ngài chính là “Hữu Thể Tự Tại, vô thủy vô chung, một thực tại là nguyên lý tiên khởi và là cứu cánh tối hậu của mọi sự, “mà mọi người gọi là Thiên Chúa.” [1]
Vì vậy, là những người tin theo Chúa, chúng ta sống trong vương quốc của Ngài như thế nào? Đó là sống trong đức tin và ơn cứu độ. Cần phải có một thái độ đức tin và mở lòng ra để chúng ta có thể sống đúng theo con người thật của chúng ta trong tư cách là con cái của Thiên Chúa.
Khi chúng ta cảm thấy vất vả sống đức tin của mình, chúng ta nên suy ngẫm những lời nói của ĐTC Phanxicô rằng Thiên Chúa hiện diện trong những việc thường ngày:
“Các dụ ngôn mà phụng vụ hôm nay trình bày với chúng ta được lấy cảm hứng từ cuộc sống thường ngày của chúng ta và cho thấy cái nhìn chú ý và sâu sắc của Chúa Giêsu; Ngài quan sát thực tế và qua những hình ảnh nho nhỏ hàng ngày, Ngài mở ra những cửa sổ về mầu nhiệm của Thiên Chúa và diễn tiến của các sự kiện của con người. Chúa Giêsu noi cách rất dễ hiểu, bằng những hình ảnh của thực tế, của cuộc sống hàng ngày. Bằng cách này, Chúa dạy chúng ta rằng ngay cả những sự việc xảy ra mỗi ngày, những điều mà đôi khi có vẻ giống nhau, không thay đổi, và chúng ta thực hiện cách lơ là và mệt mỏi, chính là nơi có sự hiện diện ẩn dấu của Thiên Chúa, nghĩa là chúng cũng có ý nghĩa. Do đó, chúng ta cũng cần những đôi mắt chăm chú để có thể “tìm kiếm và tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự.” [2]
Chính lúc đó chúng ta biết mình đang ở trong vương quốc của Thiên Chúa. Chúng ta giống như tên trộm trên thập giá “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23: 42).
Vương quốc của Thiên Chúa là một vương quốc của lòng trắc ẩn và tình yêu thương. Một thế giới mà chúng ta cố gắng yêu thương và tôn trọng lẫn nhau cũng như tôn trọng Trái đất, không phân biệt niềm tin, màu da hay giới tính. Trong thế giới hiện đại của chúng ta, chúng ta có thể sống theo đức tin của mình bằng cách tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa qua nghệ thuật, thi ca, âm nhạc và các điệu múa hát, cũng như cầu nguyện, tự chăm sóc và chăm sóc lẫn nhau. Tất cả những gì chúng ta cần là một tinh thần biết ơn, tin tưởng cậy trông và yêu mến hướng về Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô.
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ là liều thuốc khử bỏ sai lầm trong những suy nghĩ về một Giêsu riêng tư, cách biệt, một Giêsu chỉ tác động đến những không gian nào trong đời sống của Kitô hữu mà họ cho phép Ngài được bước vào. Không phải thế! Chúa Giêsu muốn ngự trị trong mọi lĩnh vực cuộc sống của chúng ta, nơi nhà ở, trong nhà máy, ngoài sân, tại văn phòng, khi quây quần ăn uống nói chuyện vui vẻ, trên sân thể thao, trong xe hơi, trong các bữa ăn, khi gọi điện thoại, v..v... Lĩnh vực hành động của Ngài không có biên giới. Từ một góc nhìn này, đây là một lối sống tâm linh đầy thách thức, và đòi hỏi phải hạn chế. Một Thiên Chúa gây khó chịu, cầm giữ mọi thứ như vậy có thể khiến cuộc sống giống như một cái lồng nhốt, nơi mà sự tự thể hiện bị thúc ép bởi các quy tắc của Ngài.
Tuy nhiên, từ một góc nhìn khác, toàn bộ vương quyền của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta là nhằm giải thoát. Có nghĩa là người ta không tìm thấy Ngài chỉ trong Nhà thờ. Không chỉ trong thánh lễ ngày Chúa nhật? Tất nhiên rồi! Chúng ta không cần lúc nào cũng phải cầm chuỗi Mân Côi trong bàn tay thì mới gọi là ở gần Thiên Chúa và Mẹ Maria. Thiên Chúa được tìm thấy bên trong các bổn phận hàng ngày của chúng ta vốn là chất liệu của cuộc sống. Điều này khiến tâm trí chúng ta nhẹ nhõm và cõi lòng của chúng ta được an ủi. Chúng ta không bị phân tâm bởi những điều cao siêu hơn khi chúng ta quản lý một gia đình, kiếm sống, luyện tập sức khỏe, nuôi dạy con cái hoặc chăm sóc nhà cửa. Khi Chúa Kitô là Vua của mọi thứ, những điều phàm trần không còn phải là những điều tầm thường. Thế giới phong phú và sống động hơn khi cuộc sống của chúng ta là một ơn gọi bao gồm mọi sự. Chúa Giêsu trị vì và chúng ta là thần dân của Ngài. “Chúng ta” có nghĩa là tất cả linh hồn, tâm trí, lương tâm, mục tiêu, tình yêu, công việc, khát vọng, thất vọng và tất cả những gì tạo nên cuộc sống của chúng ta. Chúng ta vui mừng khi được là thần dân của một vị Vua nhân lành hiện diện mọi nơi mọi lúc với chúng ta như vậy.
Thiên Chúa không dùng quyền làm Vua của Ngài để buộc mọi người phải theo Ngài. Thay vào đó, chúng ta được khuyến khích bỏ đi những thứ tin tưởng mù quáng của mình và làm triển nở một đức tin trưởng thành với một tâm trí sáng suốt. Trong đức tin đó, chúng ta được khuyến khích tìm kiếm, học hỏi và tham gia các buổi phụng tự cử hành bí tích của Hội Thánh để có thể được Thánh Thần Thiên Chúa hoán cải, tăng trưởng, và sống đời sống Kitô hữu đích thực trong Vương Quốc Thiên Chúa.
Nếu khi nào hạt giống đức tin Kitô hữu, vốn được gieo trồng khi chúng ta lãnh Bí tích Rửa tội, bị “người ta giẫm lên và chim trời ăn mất” (Lc 8:5) khiến chúng ta rời xa Thiên Chúa nhiều năm tháng như “người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa” (Lc 15:1-13), thì chúng ta hãy cứ tin rằng Thiên Chúa là Cha “là tình yêu” (1 Gioan 4:8) vẫn luôn chờ đợi đứa con hoang đàng trở về.
Lạy Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, vương quyền của Chúa trên mọi loài thọ tạo không chất thêm gáng nặng trên cuộc đời của chúng con. Chúa sắp đặt mọi sự quy hướng về Chúa và điều khiển các sinh vật của Chúa với sự hiền lành, chính trực, bình an. Xin giúp chúng con trung thành và tuân theo những gì Chúa mong muốn, để chúng con được sống trong Vương quốc của Chúa, ngay hôm nay và mãi mãi mai sau. Amen.
Phêrô Phạm Văn Trung --------- Chú thích: [1] Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 34. [2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường thánh Phêrô, trưa Chúa Nhật 13/6/2021.
Lễ Chúa Kitô Vua là một lễ mới có trong thế kỷ này, được cử hành lần đầu tiên năm 1925. Trong TN 34-ABC425
Lễ Chúa Kitô Vua là một lễ mới có trong thế kỷ này, được cử hành lần đầu tiên năm 1925. Trong thực tế, việc cử hành đích thực vương quyền của Đức Giê-su là lễ Thăng thiên. Nhưng trong Chúa nhật cuối của Năm Phụng vụ này, chúng ta chiêm ngưỡng “Vương triều Thiên Chúa” đang đến dần qua lịch sử, và đang tiến tới chỗ hoàn thành vào cuối thời gian.
Nhưng nghịch lý thay, để mừng lễ Chúa Ki-tô Vua, Giáo Hội đề ra cho chúng ta quang cảnh Đức Giê-su khai mạc vương triều của Người trên ngai thập giá… với triều thiên là mão gai nhuộm máu khuôn mặt… với sắc phong là một bản án đóng trên đầu: “Đây là vua người Do-thái!”… với hai chứng nhân, hai quan cận thần là hai tên gian phi cùng bị kết án tử.
Một nghịch lý hết sức theo kiểu Tin Mừng! Vua ư? Vâng! Nhưng chắc chắn không như những ai hoan hô ủng hộ hay chống đối kết án Người đã hiểu… Vua “theo cách Thiên Chúa”! Vương quyền “tha thứ yêu thương” mà Thập giá là biểu tượng sống động! Nên trong số những kẻ chứng kiến cuộc “đăng quang”của Người, phần lớn chống đối hoặc không chấp nhận.
1. Những kẻ chống đối
Đầu tiên, thiết tưởng nên đọc câu 33 trước đó để hình dung được quang cảnh tổng quát: “Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá cùng lúc với hai tên gian phi…”. Đây là một đỉnh điểm! Một “đỉnh cao” của Tin Mừng. Sau “đỉnh núi Bát phúc” nơi Đức Giê-su tung ra sứ điệp đầu tiên, sau “đỉnh núi Ta-bo” nơi Đức Giê-su biến hình và được Chúa Cha phong tặng: “Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”… thì đây là đỉnh thứ ba và là đỉnh sau hết của Tin Mừng. Nơi cổng thành Giê-ru-sa-lem, gần cửa Ép-ra-im, trên một công trường khai thác đá cũ, các thợ khai thác đã để lại chỗ một tảng đá cứng hơn, một khối trơ vơ cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là “Gôn-gô-ta”, nghĩa là “Sọ”, do hình dáng khối thạch. Một truyền thuyết cổ xưa cho rằng đó là sọ của A-đam, được chôn ở đó mãi mãi! Đỉnh cao Tin Mừng thành ra là một “hòn trọc”, một “núi quạnh hiu”, một “nơi sầu não”: một gò nhỏ, hơi cao hơn mặt đất, dùng dựng giá xử tử, gần con lộ đông người… hầu tất cả có thể thấy những kẻ bị kết án mà nhớ gương.
Trong thực tế, “dân chúng thì đứng nhìn”! Từ Lu-ca sử dụng ở đây thật ý nghĩa. Ông không dùng tiếng “đám đông”, nhưng là tiếng “dân chúng” (laos trong Hy-ngữ), tiếng thường chỉ “dân Thiên Chúa”. Cũng từ này đã được sử dụng trong câu nói “Toàn dân say mê nghe Đức Giê-su giảng dạy trong Đền thờ” (Lc 19,48), vào chính lúc “các thượng tế, kinh sư và kỳ hào trong dân tìm giết Người cho được” (Lc 19,47). “Và dân chúng đứng đó mà nhìn”, như choáng ngợp trước biến cố. Im lặng của một lũ đông bao giờ cũng gây ấn tượng! Đám dân Ít-ra-en này không còn hiểu gì nữa. Họ đã chờ đợi Đấng Mê-si-a như một “ông vua”, một Đa-vít mới. Vương quyền đã kéo dài ít lâu trong lịch sử họ, với lúc huy hoàng là thời Đa-vít và Sa-lo-mon, song mọi ông vua tiếp đó đều không có tầm cỡ như hai vị. Từ bao thế kỷ, họ đã mơ mộng một Đấng Mê-si-a vương đế, hiếu chiến, đánh bại các kẻ thù. Vâng, họ đã tưởng rằng Đức Giê-su đến “khôi phục vương quyền tại Ít-ra-en”, nên đã thử tôn Người lên làm vua, nhưng Người đã bỏ chạy (Ga 6,15; Lc 19,38). Và bây giờ, Người có đó, bị kết án tử!
Khác với đám dân đứng nhìn, im lặng và ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng… thì “các thủ lãnh buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Các thủ lãnh thách thức Đức Giê-su bày tỏ “vương quyền Ki-tô của Người”. “Ki-tô” (“kẻ được Thiên Chúa xức dầu”) là một vương tước, vì vua chúa Ít-ra-en từng được gọi vậy và thật sự đã được “thánh hiến” bằng dầu thánh, khiến họ trở thành những Ki-tô (do chữ Christos của Hy-lạp, dịch từ Mê-si-a của Hip-ri). Nếu Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, là người được tuyển chọn (từ ngữ mượn nơi Is 42,1), là Đấng Cứu thế, thì trước hết Người hãy tự cứu mình!
Các lời gào thét của đám chế giễu làm vọng lại các gợi ý của ma quỷ khi Đức Giê-su bị cám dỗ ở hoang địa, ngày đầu đời công khai (x. Lc 4,3)… cũng như các lời quở trách của đồng hương ở Na-da-rét: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình trước” (Lc 4,23). Trong thế giới hiện đại của chúng ta, hạng “chế giễu Thiên Chúa” không mấy còn cao giọng làm việc ấy, nhưng vẫn luôn là cùng câu hỏi, cùng lầm lẫn: “Thiên Chúa hãy tỏ mình ra cho chúng tôi xem nào! Người xuất hiện đi nếu Người có thật!”. Và câu trả lời của Thiên Chúa luôn là câu trả lời của Đức Giê-su: im lặng, không can thiệp ở mức độ các sự vật mà Người để cho hiện hữu với tất cả sự tự trị của chúng… Người chẳng tự biện hộ cho mình… Người để mình bị tố cáo là bất lực và không hiện hữu… Như Thiên Chúa, Đức Giê-su đã chẳng bao giờ chiều theo cám dỗ “hành động vì mình”, sử dụng Toàn Năng của mình cho chính mình. Đó đâu phải là cung cách của Tình yêu!
Cả “lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là Vua dân Do-thái thì tự cứu mình đi!” Chính những người Rô-ma ngoại giáo thuộc đạo quân chiếm đóng sử dụng tước hiệu “vua” cho Người. Chế giễu tột mức đối với kẻ bị gạt ra bên lề này, chịu treo thập giá này, vốn đang thở có tiếng ran… Lại một tên xưng hùng xưng bá nữa!
Chưa hết! “Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là Vua người Do-thái”. Nghi lễ đăng quang của vua chúa tại Ít-ra-en thường bao gồm việc tấn phong: một tư tế, nhân danh chính Thiên Chúa, ban cho vua “tước hiệu” qua lời đọc như thấy trong Thánh vịnh: “Ngày đăng quang Con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh Con” (Tv 109). Ở đây, bên trên “ngai” ứng biến là thập giá, bản án dùng làm sắc phong tương tự lời Chúa Cha tấn phong Con mình trên giòng nước Gio-đan ngày Người chịu phép rửa: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Theo các Tin Mừng, Đức Giê-su đúng là đã tự giới thiệu mình như một ông vua, nhưng “vương quyền chẳng thuộc thế gian này” (Ga 18,36). Trong tất cả sứ vụ của mình, Người đã hết sức chú ý để thiên hạ không thể giải thích sứ vụ ấy theo chiều hướng chính trị. Vương quyền Người đúng là được thiết lập “ở trần gian”, nhưng không tranh chấp với các “vương quốc hay hệ thống chính trị trần thế”. Thập giá này, ngai báu này, vương tước này làm vỡ tung mọi “hy vọng ảo tưởng” về một thứ Mê-si-a vua chúa tại Ít-ra-en.
Cuối cùng, “một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng xỉ vả Người: ‘Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Cứu mình đi xem nào, và cứu chúng tôi với!’” Giê-su đúng là ông vua bị nhạo báng đến cùng cực. Đã bị biến dạng, lột trần, phủ đầy đờm rãi, nhuộm máu toàn thân, có hai tên gian phi làm chứng nhân đăng quang và cận thần hầu hạ, giờ đây lại bị một trong hai đứa xỉ vả. (Thật ra đây là hai tay kháng chiến chống quân xâm lược, nhưng nhà cầm quyền Rô-ma, như nhiều chế độ độc tài hiện đại, đã hình sự hóa việc làm mang tính chính trị của họ. Tác giả Tin Mừng chỉ gọi họ theo cách thông thường giữa dân chúng). Trình thuật của Lu-ca quả đã được xây dựng cách bi thảm, trong một sự căng thẳng càng lúc càng dâng cao: dân chúng “đứng nhìn”… thủ lãnh “nhạo báng”…lính tráng “chế giễu”… bản án “lăng nhục”… và gian phi “xỉ vả”…
2. Những người công nhận
Nhưng trong tiếng la hét khinh bỉ của mọi người, này đây một giọng nói yếu ớt và khốn khổ cất lên, giọng của tên gian phi còn lại: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Chi tiết này hẳn đã được chính Đức Ma-ri-a nghe dưới chân Thập giá và đã kể lại cho vị thánh sử. Là tác giả Tin Mừng về lòng “thương xót” và về những “người nghèo”, Lu-ca hẳn đã đặc biệt vui mừng vì câu này, câu mà chỉ mình ông ghi lại.
Đấy là cái hôn đầu hết và cuối cùng của đức tin và tình yêu. Đức tin và tình yêu của tên “gian phi” thống hối. Vương quyền của Đức Ki-tô, Vương quốc của Thiên Chúa, chỉ mở ra cho những ai “thống hối”. Cách Đức Ki-tô thực thi vương quyền mình trên loài người, kể cả các kẻ thù, là ban ơn tha thứ cho họ (Lc 23,34.43)… một ơn tha thứ vô hạn! Để vào Vương quốc đó, thì không phải cần mang cho được danh hiệu “chính nhân”, song phải tự nhận mình là “tội nhân”, biết đón nhận ơn tha thứ luôn được Thiên Chúa cống hiến cho mình. Người thứ nhất cảm nghiệm sự hòa giải phổ quát này là một tên “gian phi” biết thừa nhận tội lỗi mình, đồng thời công bố sự vô tội của Đức Giê-su. Y đã đoán được Vương quốc mà Đức Giê-su chết cho là một vương quốc yêu thương tha thứ, và lời cầu nguyện khiêm tốn của y đã mở được cho y cánh cửa Vương quốc này: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.
Nếu xem các câu tiếp (23,47-48), ta sẽ khám phá thêm hai hạng công nhận vương quyền ngược đời này của Đức Ki-tô. Đó là viên đại đội trưởng và những kẻ chứng kiến cảnh tượng. Khi thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan tôn vinh Thiên Chúa mà rằng: “Người này đích thực là người công chính”, còn đám đông thì đấm ngực trở về nhà. Họ đã nhận ra Đức Giê-su là vua cao cả, đích thật vì Người đã chiến thắng bản năng báo thù vốn có trong mỗi cá nhân, một bản năng sẽ chỗi dậy như vũ bão khi bản thân bị bách hại; vì Người đã chứng tỏ tình yêu mãnh liệt qua sự tự hiến, tự hiến suốt cuộc đời, tự hiến trong đau khổ và tự hiến bằng cái chết.
Để kết thúc việc suy niệm, ta hãy nghe bài thơ sau đây của một thi sĩ mô tả cái chết của Đức Giê-su theo cách Mẹ Người hỏi chuyện Người, đại ý như sau: “Con sẽ chết lúc đêm khuya, ở nơi kín đáo chăng? - Không, giữa ban ngày và ở nơi muôn mắt nhìn ngó. - Chung quanh con sẽ có bạn hữu yêu dấu chăng? - Không, bạn hữu đều tránh xa, chỉ có kẻ thù nghịch. - Con sẽ nằm trên giường êm ấm mà chết chăng? - Không, con sẽ bị treo trên cây thập tự. - Con sẽ chết lúc già nua yếu nhược chăng? - Không, chính lúc còn thanh niên mạnh khỏe. - Con sẽ chết cách vinh quang xứng đáng chăng? - Không, sẽ chết cách trần trụi ô nhục. - Xác của con sẽ được chôn cất lành lặn cả chăng? - Không, sẽ bị giáo đâm đinh đóng. - Con sẽ chết với những bậc hiền triết quân tử chăng? - Không, con sẽ chết giữa hai tên trộm cướp. - Tội nghiệp! Cớ sao con phải chịu nông nỗi dường ấy? - Để làm trọn thánh ý Đức Chúa Cha và để cứu loài người khỏi tội lỗi!”
Suốt năm nay, dựa vào Luca chúng ta đã suy niệm về những hình ảnh gương mẫu của Chúa Giesu TN 34-ABC426
Suốt năm nay, dựa vào Luca chúng ta đã suy niệm về những hình ảnh gương mẫu của Chúa Giesu, đặc biệt sứ vụ Thương xót, Tha Thứ và Hòa Giải. Tin Mừng Luca đã chuyển động từ từ đi dần tới Thập Giá. Và hôm nay chủ đề đó đã đạt tới. Chúa Kitô chịu chết trên thập giá.
Lễ kính Chúa Kitô Vua nhằm Chúa Nhật kết thúc năm phụng vụ, là dịp chúng ta tìm hiểu về Chúa Giêsu Kitô Vua, về Vương Quyền của Người. Người là vua thế nào, có giống những ông vua trần thế không?
CÁI CHẾT CỦA CON THIÊN CHÚA, VUA DO THÁI
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay (Lc 23:35-43) cho thấy kẻ tội lỗi biết ăn năn thống hối đã được Chúa Giêsu tha thứ và ban ơn cứu rỗi. Chúa đã luôn luôn nhắc nhở các môn đệ là nên tha thứ, không dùng bạo lực đáp trả bạo lực. Do đó Người đã tha thứ cho những kẻ đã kết án, đánh đập, xỉ vả và lấy dao đâm vào thân xác Người (Lc 23:34).
Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh cùng với hai tên tội phạm đã ứng nghiệm lời Chúa nói trong bữa Tiệc Ly (Lc 23:33). Cuộc đối thoại giữa Chúa và hai tên trộm quả là thê lương và nhức nhối. Một tên đã a tòng với đám lính chế nhạo và thách thức Chúa: “Ông không phải là đấng thiên sai sao? Hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi đi!” Nhưng tên kia biết mình có tội mắng lại hắn và xin Chúa thương tha thứ (Lc 23:39-43): “Mi cũng đang chịu cùng một hình phạt, mà không sợ Thiên Chúa sao? Chúng ta bị phạt như thế này là đáng rồi, còn ông này có làm gì nên tội đâu.” Rồi hắn thưa cùng Chúa “Thưa Ngài Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài về vương quốc của Ngài.” Chúa đã trả lời hắn: “Thật vậy, ta cho ngươi hay, hôm nay ngươi sẽ về ở cùng ta trên thiên quốc. Cuộc đàm thoại này giống như câu chuyên người thu thuế và người biệt phái cầu nguyện trong đền thánh (Lc 18: 9-14). Kết cục Chúa Giêsu hứa với tên tội phạm biết ăn năn hối cải, không chỉ được tha thứ mà còn có chỗ vinh dự trên thiên đàng.
Có ai tưởng tượng được Con Thiên Chúa, Vua dân Do Thái lại bị chết ô nhục như thế? Những tiếng tội phạm, bị kết án, bị đóng đinh, bị trần truồng, nhạo báng, xỉ nhục, cười nhạo, chửi rủa, bị tát vào mặt, bị nhổ nước miếng… quả khó có thể là đùa dỡn về một ông vua. Triều thiên là mạo gai. Sỉ nhục, ê chề thay cho vui mừng, tung hô ca tụng.
KHÁC BIỆT GIỮA VƯƠNG QUYỀN THIÊN CHÚA VÀ VƯƠNG QUYỀN TRẦN THẾ
Danh hiệu VUA của Chúa Giêsu không phải là danh hiệu Vua trần thế. Xuyên suốt lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người một ông vua công chính, khôn ngoan, công bằng và ngay thẳng ở trần gian để muôn dân an tâm vui sống hạnh phúc. Và Thiên Chúa đã hoàn thành lời hứa đó qua Chúa Giêsu.
Vương quyền của Chúa Giêsu đã chia sẻ với loài người nỗi vô vọng, nhưng Người vẫn là nguồn mạch hy vọng và sự sống, điều mà tên tội phạm bị treo trên thập tự cùng với Chúa đã hiểu được phần nào (Lc 23:35-43). Hắn đã nghĩ đến triều đại mai sau, xin Chúa nhớ đến hắn khi về vương quốc và đã được Chúa tha thứ. Cách sống của Chúa Giêsu không như các vua trần thế. Vương quốc của Chúa không phải vương quốc mà Philatô nghĩ. Rôma là vương quốc thống trị, đặc quyền đặc lợi, oán thù, xâm lăng và chiếm đoạt. Vương quốc Giêsu, trái lại được xây dựng trên tình yêu, công lý, hòa giải, phục vụ và hòa bình. Ai là người có thể đạt tới tầm vóc vua như Đức Kitô mà vẫn giữ được tính ‘vô quyền’? Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta có thể hiểu phần nào tước vị Vua của Chúa. Người không cúi đầu qụy lụy, không dùng bạo lực đáp trả bạo lực
ĐỨC KITÔ LÀ ĐẠI DIỆN CỦA THIÊN CHÚA Ở TRẦN GIAN
Nơi thư thánh Phaolô gửi tín hữu Colossians (Cl 1:12-20) đã tóm gọn ơn cứu chuộc của Thiên Chúa Cha. Hình ảnh đó biểu hiện cuộc xuất hành khỏi Ai Cập của dân Do Thái và tính vương quốc của chúa Giêsu Kitô. Cứu chuộc là tha thứ mọi tội lỗi (x. Cv 2:38; Rm 3:24-25; Ep 1:7).
Chúa Kitô cũng là Đấng sáng tạo trung gian (Cl 1:15-18a), là đại diện Thiên Chúa trong việc tạo dựng muôn loài muôn vật và có trước mọi sự, đồng thời là ơn cứu độ trần gian (Cl 1:18b-20).
Một điểm quan trọng nữa là thánh Phaolô gọi Giáo Hội là “thân thể Chúa Kitô” (1 Cr 12:12-27; Rm12:4-5) hoặc là“đầu của cơ thể”. Là trưởng tử được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết (Cv 26:23; Kh 1:5) thì Người cũng được Thiên Chúa đặt đứng đầu cả cộng đồng Giáo Hội do chính Người đã dựng nên, đồng thời cũng là vua muôn loài muôn vật. Nhiệm vụ của Người là giúp mọi người hòa giải với nhau và với Thiên Chúa (Cl 1:20). Máu Chúa đã đổ trên thập giá (20) là dấu chỉ đặc biệt nhất về ơn cứu độ do cái chết của Đức Kitô (x. Cl 2:14-15; 1 Cr 1:17.18,23).
ĐÔI LỜI KẾT: VƯƠNG QUỐC THIÊN CHÚA VÀ GIÁO HỘI
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta nên hiểu rõ danh từ Vương Quốc và Triều Đại Thiên Chúa. Nếu dùng kỹ thuật điện tử tân kỳ thời nay để cắt nghĩa những mạc khải Kitô giáo và cách Giáo Hội truyền đạt những mạc khải đó thì quả là khó khăn vô cùng vì người ta sẽ hiểu sai danh từ “Vương Quốc” hay “Triều Đại Thiên Chúa” là danh từ chỉ Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội của Người.
Giáo Hội là cái xe chuyên chở cần thiết, là dụng cụ đặc quyền giúp chúng ta tiếp cận với Chúa Kitô, nhận cuộc sống của Người qua các phép bí tích, nghe Lời Người truyền dạy qua những giảng huấn của Giáo Hội, và làm cuộc hành trình đi đến một vương quốc thiên đàng đang ở trước mặt.
Chúa Giêsu là tiên tri vĩ đại, là Thiên Chúa mạc khải trọn vẹn và duy nhất, là Đấng Cứu Chuộc tất cả mọi người. Nên nhớ từ Kitô hữu thì không bao giờ vô nghĩa mà luôn luôn bao hàm ý nghĩa thần học, phối hợp, đi sâu vào một “viễn tượng” là “sự khôn ngoan” của thời đại ngày nay.
Chúa Giêsu đã mang những vết thương của Người về thiên đàng, ở đó cũng có một chỗ dành cho chúng ta. Có bao giờ chúng ta kêu lên rằng: “Chúa ơi, Chúa đang ở đâu?” Chúa đang treo mình trên thập giá, thân xác tan nát, hai tay giang ra như ôm lấy chúng ta, và âu yếm kêu gọi chúng ta cùng lên đó với Người và ngắm nhìn thế giới từ một viễn tượng hoàn toàn mới. Chúng ta cần phải kêu cầu lòng thương xót của Chúa, xin Chúa đừng quên chúng ta nơi Tân Jerusalem: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy nhớ đến tôi khi Chúa về vương quốc của Chúa”.
Từ vực sâu chúng ta có thể cầu nguyện cùng với Cleopas và người bạn đồng hành với ông trên đường Emmaus: “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày đã tàn.” Khi thất vọng ê chề tưởng như không lối thoát, chúng tôi vẫn còn hy vọng và nhớ lại tiếng Chúa vang vọng “Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha.”
Vương quyền của Chúa ban cho chúng ta cái gì? Lễ kính Kitô Vua giúp chúng ta nhớ lại ơn cứu độ Chúa ban cho chúng ta qua những biến cố kinh hoàng đau thương. Khi chung quanh chúng ta mọi sự đều chìm đắm trong đêm tối u mê dày đặc, hủy hoại và chết chóc, chúng ta vẫn ‘không cô đơn’, trái lại được tràn đầy Hy Vọng vì chúng ta có Chúa bị treo trên thập giá, hai tay giang ra như đón chào và thương xót. Chớ gì chúng ta có đủ can đảm để kêu xin Chúa Kitô là Vua đầy lòng thương xót nhớ đến chúng ta nơi vương quốc của Người.
Vua Muôn Vua – Thiên Vương Đệ Nhất Chúa Các Chúa – Tạo Hóa Toàn Năng.
Chúa Giêsu là Vua nhưng không lễ đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không vương TN 34-ABC427
Chúa Giêsu là Vua nhưng không lễ đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không vương miện, không long bào,… như các vua chúa trần gian. Ngài là Vua-đa-không, và cũng chẳng được tiền hô hậu ủng, mà chỉ có những lời phản đối, chế giễu, nhạo báng,...
Qua trình thuật Lc 23:35-43, Thánh Luca kể lại giây phút “đăng quang” đặc biệt của Vua Giêsu: Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái.”
Vua Giêsu bị sỉ nhục đến tột cùng, nhưng Ngài vẫn im lặng. Sự im lặng của Ngài khiến những kẻ thủ ác hả hê và ngạo nghễ, tưởng mình đã chiến thắng. Sự kiêu ngạo thật tồi tệ! Không chỉ có thế, chính một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Ngài: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Đúng là kẻ hợm hĩnh già mồm. Chết đến nơi mà còn hống hách với người khác.
Nghe “ngứa tai” nên tên kia lên tiếng mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Xấu thì xấu, dữ thì dữ, ác thì ác, nhưng tâm hồn của anh ta không như dáng bặm trợn bề ngoài. Và rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Tướng cướp khét tiếng Dismas với đời mà thật diễm phúc hơn ai hết.
Tội tày trời, cả đời không hề tỏ ra chút xót thương bất cứ ai, coi trời bằng vung, có lẽ chẳng ai dám “chơi ngông” như Dismas. Chỉ một lời sám hối chân thành, mọi tội lỗi của anh ta được Vua Giêsu xóa bỏ hết, gã được trắng án, không phải vô Luyện Hình, mà được cùng Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó. Vua Giêsu nhân hiền và đại lượng ngoài sức tưởng tượng của loài người. Điều này nhắc nhở chúng ta đừng tuyệt vọng, dẫu có đôi khi cảm thấy thất vọng theo bản tính phàm nhân, hãy vững tin vào Lòng Chúa Thương Xót vô tận.
Nếu thất vọng về tình trạng tội lỗi của mình, đó là một dạng kiêu ngạo, vì không tin vào ơn tha thứ của Thiên Chúa. Vì thế, hãy vững tin, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới.” (Nhật Ký, số 1485) Và Ngài hứa: “Không một linh hồn nào kêu gọi Lòng Thương Xót của Ta mà phải thất vọng bao giờ.” (Nhật Ký, số 1541) Lời hứa đó đã, đang và sẽ được áp dụng với bất cứ tội nhân nào chân thành sám hối, mãi cho đến tận thế.
Lễ Chúa Kitô Vua nhắc nhở những người có chức quyền điều rất quan trọng qua lời Chúa Giêsu xác định với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Đừng tưởng có “quyền” rồi thì mặc sức “hành” người khác, vả lại “quyền” gì cũng có “hạn” – Việt ngữ thâm thúy khi gọi là quyền hạn. Mọi người đều là tôi tớ, Chúa Giêsu nói rõ: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” (Lc 12:47-48)
Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa của anh em là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, xử công minh cho cô nhi quả phụ, yêu thương ngoại kiều, và cho họ bánh ăn, áo mặc.” (Đnl 10:17-18) Thiên Chúa là Vua Hòa Bình, Vua Công Lý, Vua Lòng Thương Xót, và mọi quyền hành đều phát xuất từ Ngài. Đặc biệt là Ngài chí công, nghiêm minh khi thưởng – phạt. Vua Giêsu là Thiên Chúa, thế mà Ngài đã đi trọn con đường đau khổ mới có thể đạt tới Vương Quốc vinh quang, vĩnh hằng, chắc chắn chúng ta không thể đi bất cứ một con đường nào khác!
Người ta ví von rằng “hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ, loại ít phức tạp thì ít hư hỏng, loại càng đơn giản thì càng bền. Dù ít hay nhiều, hạnh phúc nào cũng có nước mắt, loại chất lỏng có vị mặn chát. Tình yêu càng nhiều đau khổ, niềm hạnh phúc càng chan chứa. Cuộc sống cũng tương tự, hầu như đó là nguyên lý cuộc đời.
Sự sống và sự chết liên quan lẫn nhau. Sống mà cứ coi như mình sắp chết để có thể tránh nhiều thứ phiền toái, và thật kỳ lạ, chính cái chết lại là ngưỡng bước vào sự sống. Vinh quang và đau khổ là hai lĩnh vực trái ngược nhau nhưng lại liên quan lẫn nhau. Đức Kitô là Sự Sống, (Ga 14:6) tức là Nguồn Sống, bất cứ ai muốn đến với Chúa Cha đều phải đi qua “con đường của sự sống” ấy, không thể không “đi qua” chính Đức Kitô Giêsu.
Ngài là chính sự sống mà lại bị người ta giết chết, nhưng rồi Ngài đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh vinh hiển, và mãi mãi Tử Thần phải thần phục Ngài. Ngài là Vua của muôn loài, và Ngài được Chúa Cha trao quyền xét xử muôn loài, ngay cả Satan cũng phải xuất đầu lộ diện mà trình diện Ngài: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa.” (G 2:1)
Trình thuật ngắn gọn 2 Sm 5:1-3 cho biết: Toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua Đavít tại Khéprôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Saun làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel.” Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.” Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khéprôn. Vua Đavít lập giao ước với họ tại Khéprôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đavít làm vua Israel.
Thời Cựu Ước, Quốc Vương là hình bóng tiên báo về Vị Thiên Vương Tối Cao thời Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Điều tiên báo từ ngàn xưa đã ứng nghiệm từ hai ngàn năm qua: Đức Kitô đã đến thế gian. Và chính Ngài cũng đã xác định: “Ai NGHE lời tôi và TIN vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5:24) Vua chúa trần gian có thể hét ra lửa, xử sao nên vậy, nhưng chỉ là cho sống hoặc bắt chết về phần xác mà thôi, còn Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, đặc biệt là Ngài “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28) Tử Thần còn khuất phục thì không ai có thể trái lệnh Ngài!
Chúng ta được là thần dân của Thiên Vương Giêsu, Thánh Vương Kitô, thật là hạnh phúc biết bao! Không thể có niềm hạnh phúc nào khác khả dĩ so sánh được với niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng. Khi vui mừng, chắc chắn người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng ấy được. Thánh Vịnh gia cũng người trần mắt thịt, thế nên không thể không bày tỏ hạnh phúc: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’ Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân.” (Tv 122:1-2)
Nhà Chúa luôn linh thiêng, khó diễn tả bằng phàm ngôn, vì đó là Nhà Cầu Nguyện. Giêrusalem là hình bóng của Thánh Đô Thiên Quốc. Dù là Đền Thờ nơi trần gian nhưng vẫn được xây dựng một cách đặc biệt. Thánh Vịnh gia mô tả: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Israel. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đavít.” (Tv 122:3-5)
Từ ngàn xưa đến muôn đời, Đức Giêsu Kitô là Vua cả vũ trụ, cả càn khôn, cách riêng Ngài là Vua của cuộc đời mỗi chúng ta. Hãy không ngừng tôn vinh Ngài: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:10) Với diễm phúc này, chúng ta có dành cả đời để dâng lời cảm tạ cũng không đủ. Mong ước chúng ta được tiếp tục là thần dân của Ngài nơi Thiên Quốc Vĩnh Hằng để chúc tụng Ngài đời đời. Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, hạnh phúc tăng theo cấp số nhân. Niềm vui quá lớn, hạnh phúc dạt dào. Thật khó tả!
Với kinh nghiệm từng trải và bằng cảm nghiệm tâm linh sâu sắc, Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta ĐƯỢC ơn cứu chuộc, ĐƯỢC thứ tha tội lỗi.” (Cl 1:12-14) Quả thật, tội nhân chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế nhưng không phải là mơ mà là sự thật.
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng NHỜ Người và CHO Người.” (Cl 1:15-16) Được làm thụ tạo là hạnh phúc lắm rồi, nhưng chúng ta không chỉ là thụ tạo mà còn được làm người, hơn hẳn các loài thực vật, sinh vật và động vật, đặc biệt còn được làm con cái của Thiên Chúa. Điều đó được chứng minh qua hằng ngày, chúng ta hãnh diện được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ: “Lạy Cha (của) chúng con, Đấng ngự ở trên trời,…” Thật là trên cả tuyệt vời, diễm phúc vô cùng!
Thánh Phaolô cho biết: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1:17-20)
Chúa Giêsu là Huynh Trưởng, còn tất cả chúng ta là những tiểu đệ và tiểu muội của Ngài. Ngài là Vua, vậy chúng ta là em của Vua, nghĩa là chúng ta thuộc Hoàng Gia. Đặc biệt hơn, chúng ta còn được hòa tan vào Vua Giêsu Kitô, nên một với Ngài mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể. Vô cùng kỳ diệu, trí óc phàm nhân không thể hiểu thấu.
Đức Vua Kitô đau khổ, chúng ta cũng phải đau khổ. Ngài đã chết và phục sinh vinh quang, chúng ta cũng vậy. Quả thật, Thánh Phaolô nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.” (2 Tm 2:11-12)
Lạy Thánh Phụ, xin ban thêm những ơn cần thiết để chúng con sống xứng đáng là con cái của Ngài, xin tha thứ những lần chúng con yếu đuối. Xin ban Thần Khí hướng dẫn chúng con đi đúng hướng Ngài muốn. Chúng con cầu xin nhân danh Thiên Vương Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ. Xin mời bạn cùng với tôi đọc qua lời nguyện TN 34-ABC428
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ.
Xin mời bạn cùng với tôi đọc qua lời nguyện nhập lễ, và lời Kinh Tiền Tụng của ngày Lễ Chúa Kitô Vua.
- Nhập lễ: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng.”
- Kinh Tiền Tụng: “Lạy Chúa, Chúa đã xức dầu hoan lạc tấn phong Con Một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con làm linh mục đời đời và làm vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ thập giá làm lễ phẩm hoà giải và tinh tuyền, người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài quy phục quyền bính mình, Người trao lại cho Chúa là Ðấng uy linh cao cả, một vương quốc vĩnh cữu và vô biên: vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an.”
Sau khi đọc qua hai lời kinh nguyện trên, bạn có thấy Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng mình điều gì không? Riêng tôi, tôi nhận ra rằng, Mẹ Giáo Hội muốn nhắc nhở tôi 3 điều rất quan trọng sau đây:
Ø Thứ nhất, Chúa Giêsu chính là Vua vũ trụ. Ngài là Vua trên các vua, và là Chúa trên các chúa.
Ø Thứ hai, qua Bí Tích Rửa Tội, tôi trở thành con Chúa, thuộc dòng dõi hoàng tộc, và là công dân Nước Trời.
Ø Thứ ba, Thiên Quốc là quê hương thật, là cùng đích, và là nơi cư ngụ vĩnh viễn của tôi.
Bạn có nhận ra rằng (1) Chúa Giêsu là Vua của bạn; (2) Bạn là con của Chúa, là Hoàng Tử, là Công Chúa, là công dân Nước Trời; và (3) Thiên Quốc mới là quê hương thật của bạn không? Nếu bạn chưa nhận ra ba điều này, hay đối với bạn ba điều này chả có gì là quan trọng cả, thì tôi xin bạn hãy suy nghĩ lại, tôi cũng xin Chúa ban cho bạn ơn khôn ngoan để bạn chú ý hơn đến 3 điều đó. Bởi vì, đối với tôi, 3 điều mà Mẹ Giáo Hội nhắc nhở cho tôi qua lời nguyện Nhập Lễ và Kinh Tiền Tụng vô cùng quan trọng. Thật vậy!
1. Khi nhận ra rằng Chúa Giêsu Kitô chính là Vua và là Chúa của tôi, thì:
• Tôi sẽ kính sợ và yêu mến Ngài trên hết mọi sự, bởi vì duy chỉ có mình Ngài là “Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5).
• Tôi sẽ không thờ lạy, và sẽ không làm nô lệ cho những ông vua có tên: tiền, xe cộ, sex, nhà cửa, sắc đẹp, danh vọng, địa vị … Bởi vì tất cả những vua này không bao giờ đem lại cho tôi sự bình an và hạnh phúc lâu dài và đích thực, nhưng chỉ đem lại những hạnh phúc giả tạo, ngắn ngủi và phù phiếm.
2. Khi tôi ý thức rằng, tôi là Con Chúa, thuộc dòng dõi hoàng tộc và là công dân Nước Trời, thì:
• Tôi sẽ không làm những điều xấu xa khiến cho Vua Cha của tôi, và anh chị em trong dòng dõi hoàng tộc của tôi phải mất mặt, phiền lòng và đau khổ.
• Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để chu toàn bổ phận của một công dân Nước Trời, qua việc tuân giữ Mười Điều Răn của Chúa, và Năm Điều Răn của Hội Thánh.
• Tôi sẽ không làm cho đồng bào của tôi ở Thiên Quốc phải xấu hỏ hay bẽ mặt vì tôi. Nhưng sẽ cố gắng sống tốt và làm những việc lành, để ngày sau hết, tôi sẽ được định cư trên Thiên Quốc với các ngài.
3. Khi tôi nhận ra rằng, Thiên Quốc chính là quê hương thật và là cùng đích của đời tôi, thì:
• Tôi sẽ không cắm cúi lo đầu tư vào căn nhà tạm ở trần thế này, nhưng tôi sẽ hướng lòng trí về Thượng Giới, lo đầu tư thật nhiều vào căn nhà vĩnh viễn ở trên trời.
• Tôi sẽ cố gắng làm mọi sự, chấp nhận mọi gian nan thử thách, dám đánh đổi tất cả, và tận dụng mọi phương tiện Chúa ban để có được tấm VISA vào định cư vĩnh viễn nơi Thiên Quốc.
Tôi tin chắc rằng, nếu bạn và tôi lắng nghe những lời nhắc nhở của Mẹ Giáo Hội về ba điều trên, xác tín rằng chỉ có Chúa mới là Vua của mình, và cố gắng hết sức mình để kính thờ Chúa, giữ gìn thanh danh của Hoàng Tộc, cũng như luôn hướng lòng về thượng giới, lo đầu tư tất cả vào đời sống mai hậu… thì trong ngày sau hết, Đức Vua Giêsu sẽ cho chúng mình được định cư ở Thiên Quốc. Ở đó, chúng mình sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Đức Mẹ Maria và các chư thánh. Cố gắng lên bạn nhé! mục lục
Trong Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, chúng ta hướng về ngày cùng tận của thế giới TN 34-ABC429
Trong Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, chúng ta hướng về ngày cùng tận của thế giới, ngày mà chúng ta trông đợi Đức Giê-su uy nghi vinh hiển đến trong tư thế của một ông vua, không theo nghĩa thế trần. Đức Ki-tô sẽ đến như một vị vua đầy lòng nhân ái, quan tâm, lo lắng, chăm sóc và hy sinh cho toàn dân thuộc về Nước của Người, không loại trừ một ai.
Đó chính là đích điểm nói lên tình yêu, lòng thương xót của Người dành cho thế gian này. Và, để diễn tả ý tưởng này, phụng vụ của Hội Thánh, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã mô tả những việc xẩy ra trong giây phút cuối đời của Chúa Giê-su khi Người bị treo trên Thập giá. Giây phút này được coi như cao điểm của những thử thách mà Đức Giê-su đã chiến đấu để hoàn tất vai trò và nhiệm vụ mà Chúa Cha đã trao phó. Những gì xẩy ra hôm nay được coi như thử thách hay cám dỗ cuối cùng mà Đức Giê-su cần phải đối diện. Trận chiến kéo Đức Giê-su ra khỏi thập giá được lập đi lập lại bởi những người đang hiện diện dưới chân của cây thập giá. Còn dân chúng thì đứng từ đàng xa mà nhìn.
Trước hết, các thủ lãnh cám dỗ Chúa: “hãy xuống khỏi thập giá đi!” Lý luận họ đưa ra thật xác đáng rằng nếu Đức Chúa đã từng giúp và cứu nhiều người thì giờ đây tại sao lại chịu trói như thế. Và nếu quyền năng của Thiên Chúa ở với Đức Chúa thì đây là giây phút bộc lộ cho mọi người biết thì hãy tự cứu mình đi. Nghe chúng nói thì chướng tai và nhìn họ lại thêm gai mắt; thôi thì biểu lộ uy quyền cho chúng biết tay. Nếu Đức Giê-su làm như thế sẽ mắc bẫy của chúng!
Quân lính cũng đưa ra món mồi tuơng tự: “Hãy xuống khỏi thập giá”. Vua mà không có quyền thì nói ai tin. Cứu mình khỏi cảnh ô nhục và cho muôn dân thấy vương quyền của Người. Lại một lời mời gọi đi con đuờng tắt dẫn vào ngõ cụt, trái ý Chúa Cha nên Người đã không theo.
Rồi đến người tử tội cũng muốn ăn ké; nhưng cám dỗ mà anh ta đưa ra chạm vào căn tính ‘Mesia’ của Người. Đức Kitô đuợc xức dầu, tấn phong để thực hiện nhiệm vụ của người tôi tớ, chứ đâu phải đến để tìm quyền lực và vinh danh hư ảo.
Đức Giê-su đã không chịu lùi bước, Người đã chiến đấu. Tuy vậy, truớc mắt họ thì hình như Đức Giê-su là nguời thua cuộc, thất bại. Nhưng, qua sự vâng phục thẩm sâu của Đức Giê-su như thế cho nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Đức Giê-su đã đuợc Chúa Cha tôn vinh là Vua, là Chúa của muôn dân muôn nuớc. Qua tấm lòng hiếu kính và vâng phục, Người đã sửa lại những sai trật của con người từ nguyên thủy để ban cho tất cả nguồn ơn cứu độ.
Còn chúng ta thì sao?
Hãy ghé mắt nhìn vào tội nhân thứ hai. Tôi thấy trong anh có tôi. Anh là đại diện và là mẫu guơng cho các người thuộc về ‘nuớc’ của Đức Giê-su. Anh nhìn nhận lỗi phạm của chính mình và cũng nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su, rồi cầu xin Người cứu vớt. Thái độ của anh hòan tòan khác và trái nguợc với những người thủ lãnh, quân lính và phạm nhân bên kia. Và anh đã đuợc cứu.
‘Hôm nay’ không phải ngày mai. Ngay bây giờ, ngay lúc này anh đuợc ở trên thiên đàng với Chúa. Thiên đàng ở đây không phải là nơi chốn, nhưng là tình trạng hiệp nhất hòan hảo giữa Chúa và anh. Anh đã đạt được sự hiệp thông trọn vẹn này qua việc nhận ra sự hèn yếu của bản thân mà nuơng tựa hoàn toàn vào Chúa. Trong mối dây hiệp nhất, anh được ơn tha thứ.
Đây cũng chính là điều mà chúng ta theo đuổi trong suốt cuộc đời. Lòng thuơng xót của Chúa là chốn nuơng thân cho những ai thuộc về Nước Thiên Chúa. Chúa thương xót để chúng ta xót thương nhau.
Sau đây là vài truyện ngắn nói lên một vài gương sáng để chúng ta cùng suy cùng gẫm:
Truyện thứ nhất xẩy ra vào một đêm khuya lạnh giá tại thành phố Dublin, bên Ái Nhĩ Lan. Có cô y tá đang vội vã chạy trên đường hầu bắt kịp chuyến xe buýt cuối cùng để về nhà, thì trước mắt cô là một cảnh tượng rất đáng thương tâm. Một người đàn ông trẻ tuổi nằm trên vỉa hè. Anh ta dường như là người say rượu hay mới bị ai đánh đang cần sự trợ giúp. Tuy đang vội, nhưng lòng trắc ẩn và lương tâm của một y tá đánh thức cô. Cô dừng lại để tìm cách giúp đỡ anh. Nhưng, khi cô vừa cúi mình xuống thì anh ta nhẩy chồm lên, chộp lấy chiếc xách tay của cô. Hai bên giằng co nhau. Cô không chịu buông tay và anh ta cũng không bỏ cuộc. Trong lúc dành giật, thì bỗng nhiên vào một khoảnh khắc nào đó, ánh mắt của họ gặp nhau và chàng thanh niên giả vờ bị thương mới buông tay ra và kêu lên ‘Ồ, chị là cô y tá Murphy,’ và họ bắt đầu trò chuyện.
Số là vào một thời gian trước đây, cậu thanh niên đó đã nằm trong nhà thương với một cái chân bị gãy, và cô y tá Murphy là người đã tận tình săn sóc và đối xử rất tốt với anh.
Trong khi nói chuyện, anh hỏi cô đi đâu? Cô y tá tốt bụng nói cho anh biết là cô đang trên đường đến trạm xe buýt để đón xe về nhà. Nghe đến đó, anh cùng với cô đi bộ đến trạm xe buýt, xin lỗi cô về những gì đã xảy ra và chào tạm biệt cô.
Truyện thứ hai được kể lại bởi mẹ Thánh Teresa thành Calcuta, bên Ấn độ. Vào một ngày kia, từ trong một cống rãnh đầy mùi hôi thối tại Calcuta, Mẹ đã nhặt được một người đàn ông và đưa ông về nhà dành cho những người đang hấp hối. Trước khi chết, anh thưa với mẹ rằng "Thưa sơ, khi còn sống con đã sống như một con vật nhưng khi chết con lại được yêu thương, chăm sóc và chết như một thiên thần." Mẹ vô cùng cảm kích khi nghe những lời như thế. Ông đã chết mà không oán trách hay nguyền rủa ai. Mẹ cảm thấy thật vinh dự khi có cơ hội giúp ông sống những giờ phút cuối đời với cảm giác được yêu thương và trân trọng như một thiên thần.
Lòng nhân ái và sự săn sóc đặc biệt của Mẹ Teresa, các nữ tu trong Dòng của Mẹ và chị y tá mang tên Murphy đã đánh động lòng tốt, sự thiện hảo của nhiều người, trong đó có một người sẵn sàng phạm tội ác. Anh đã được cảm hóa, không cướp giật vì qua việc làm nhân ái của cô y tá Murphy đã đánh thức bản tính thiện lương và lòng tốt mà Thiên Chúa, Đấng tạo hóa đã ban cho anh. Tất cả mọi vật Thiên Chúa tạo dựng đều tốt.
Ước gì qua lối sống xót thuơng mà chúng ta đặt tha nhân làm đối tượng sẽ giúp chúng ta nhận ra sự bất tòan của bản thân mà nương tựa vào Chúa. Vì trong khoảnh khắc như thế, Chúa làm cho con tim ta rung động, mắt ta sáng hơn, đôi tai ta nghe rõ hơn nhưng lời van xin của kẻ khác, nhất là những người nghèo. Họ đang chờ lòng xót thương của anh chị em.
Hãy nuơng tựa vào Chúa. Người chính là nguồn năng lực duy nhất giúp chúng ta tiếp tục sống và làm chứng cho thế giới nhận ra Chúa là Vua yêu thương, là Chúa của lòng thương xót. Amen!
Một số vị vua thời xưa, vì muốn biết đời sống thực tế của dân nên đã vi hành, nghĩa là cải trang TN 34-ABC430
Một số vị vua thời xưa, vì muốn biết đời sống thực tế của dân nên đã vi hành, nghĩa là cải trang làm thường dân, bí mật ra khỏi cung vua, không cho ai biết. Vua cố tình che giấu thân phận thật sự của mình, vì muốn mắt thấy tai nghe những gì đang diễn ra trong nước, nhờ đó vua biết được dân tình, và lãnh đạo sao cho hợp ý dân. Vi hành thường là hành vi của một vị minh quân. Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta hình ảnh một vị vua. Đây không phải là một vị vua trần thế, mà là Vua Giêsu trong ngày Ngài trở lại ngự trên ngai vinh hiển, bừng tỏa ánh vinh quang, có tất cả thiên sứ của Ngài theo sau hầu cận. Muôn dân thiên hạ đông vô kể được tập hợp trước nhan Ngài. Vua Giêsu sẽ là Đấng tuyên bố về số phận đời đời của họ. Ngài tách biệt mọi người thành hai nhóm, đứng hai bên tả hữu. Nhóm bên hữu được gọi là “những kẻ được Cha Ta chúc phúc.” Nhóm này được mời đến thừa hưởng Nước Trời. Còn nhóm bên tả là “những kẻ bị nguyền rủa.” Họ sẽ phải chịu cực hình muôn kiếp với Satan. Bởi đâu có sự khác biệt kinh khủng này nơi hai nhóm? Vua Giêsu lấy tiêu chuẩn nào để phân loại đôi bên? Biết được tiêu chuẩn này, chúng ta hy vọng được ơn cứu độ. Có sáu việc bác ái được Vua Giêsu kể tới bốn lần: Cho người đói ăn, người khát uống, người trần trụi áo che thân, tiếp khách lỡ đường, thăm nom bệnh nhân, đến với tù nhân. Một người được thưởng hay bị luận phạt tùy theo người ấy làm hay không làm những việc ấy cho tha nhân. Tha nhân ở đây là những kẻ thiếu thốn cả hồn lẫn xác. Họ không chỉ cần cơm áo mà còn cần một mái nhà, cần được an ủi, đỡ nâng, cần được lắng nghe, thăm hỏi. Bất cứ ai dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình, đối xử với người khác như một phần của chính mình, người ấy đã giữ được điều răn thứ hai mà Đức Giêsu nói đến. Nhưng nét độc đáo và lý thú của bài Tin Mừng hôm nay lại nằm ở chỗ Đức Giêsu đưa ra một khẳng định bất ngờ. Đó là: những kẻ đói khát, rách rưới, vô gia cư, yếu đau, thậm chí cả những kẻ bị giam cầm tù tội, đều là hiện thân của chính Ngài, là sự hiện diện của Ngài. Ai giúp họ là giúp Ngài, ai từ chối họ là từ chối Ngài. Mà ai từ chối Ngài sẽ bị Cha Ngài không nhận vào Vương quốc. Chúng ta thường quen với hình ảnh một Thiên Chúa oai phong, một Thiên Chúa giàu sang, luôn là Đấng ban phát dư dật. Chúng ta không quen với hình ảnh một Thiên Chúa ngửa tay xin, Một Thiên Chúa xấu xí vì túng nghèo, vì bệnh tật, vì vấp váp. Vua Giêsu nhận mình chính là đấng Emmanuel lạ lùng. Ngài chẳng những ở với chúng ta, mà còn ở nơi những anh chị em bất hạnh, thiếu may mắn. Như thế Ngài vẫn ở quanh ta, ở gần ta đến nỗi ta có thế chạm được. Lúc nào ta cũng có thể tiếp xúc với Ngài: nuôi sống Ngài qua ngày, cho Ngài trú ngụ trong nhà mình, thăm ngài ở nhà tù, nhà thương. Ngài không chỉ là Đấng ban ơn trong nhà thờ, mà còn là Đấng đang xin ta trợ giúp ngoài nhà thờ. Vào ngày tận thế, hy vọng chúng ta không bị sững sờ mà nói: “Lạy Chúa, có bao giờ con thấy Chúa đói khát, lỡ đường, bệnh tật…” Vua Giêsu quyền năng đã đồng hóa mình với những người yếu, mà Ngài gọi là “những anh em bé mọn nhất này của Ta đây.” Ngài không vi hành, giả trang thường dân như các vị vua ngày xưa. vì Ngài hiện diện thật sự nơi từng người bị xã hội coi thường. Chúng ta phải có khả năng thấy được sự hiện diện khó nghèo ấy. Chúng ta sẽ bị xét xử không phải vì đã làm điều xấu xa, Nhưng vì tội thiếu sót, không làm điều tốt có thể làm cho tha nhân.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách: những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: “Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta.” Thánh Têrêsa Calcutta.
Trong những ngày này, cả thế giới hồi hộp theo dõi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của hai ứng TN 34-ABC431
cử viên tổng thống Hoa Kỳ, một vị thuộc đảng Cộng hoà, một vị thuộc đảng Dân chủ. Cuộc đua càng gay cấn khi có những cáo buộc từ phía đảng Cộng hoà, cho rằng Đảng Dân chủ đã có những gian lận trong việc bầu cử, nhất là từ những lá phiếu gửi qua đường bưu điện. Những phê phán nặng lời đến từ hai phía, làm cho nước Mỹ hỗn loạn. Đã có nhiều cuộc biểu tình và bạo động đến từ những người ủng hộ các ứng viên tổng thống. Chắc chắn nước Mỹ phải có tổng thống trong vài tuần tới. Tuy vậy, những lùm xùm xung quanh việc bầu cử đang làm ảnh hưởng đến hình ảnh của đất nước quyền lực nhất thế giới. Nó cũng cho thấy cơn cám dỗ quyền lực thật ghê gớm và mạnh mẽ. Những hứa hẹn khi tranh cử, những thủ đoạn trong bầu cử, đều cho thấy người ta dùng mọi cách để đạt được quyền lực, mà đó lại lại quyền lực nhất thời.
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Vua Vũ trụ. Danh hiệu “Vua” được coi như quy tóm những lời danh xưng mà Giáo Hội đã dành để tôn vinh Ngôi Lời nhập thể trong suốt một năm. Danh hiệu “Vua” dễ gây ngộ nhận, đồng thời có thể là cơ hội để những người thiếu thiện cảm với Kitô giáo suy diễn công kích. Thực sự, khi tôn vinh Đức Giêsu Kitô là “Vua”, truyền thống Giáo Hội khẳng định: Người là Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo. Người cũng là Đấng Cứu chuộc và xoá bỏ tội lỗi trần gian. Người là Đấng khai mở kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công bình, chân lý và tình yêu. Trong giáo huấn của Chúa Giêsu, Người luôn nhấn mạnh đến những yếu tố này. Cũng như một vị vua thống trị cõi sơn hà, Đức Giêsu là Vua của hoà bình như lời tiên báo của các ngôn sứ trong Cựu ước. Người thiết lập hoà bình giữa các dân tộc, và nhất là hoà bình trong tâm hồn con người. Vương quốc của Người rộng lớn bao la và hiện diện trong trái tim của những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và chuyên cần thực thi giáo huấn của Người.
Lời Chúa trong lễ Chúa Kitô Vua diễn tả Người là một vị Vua hoàn toàn khác với quan niệm trần gian. Ngôn sứ Edêkien diễn tả vị vua như một mục tử. Đây là hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Do Thái thời xưa. Vị vua này có đủ các đức tính của một mục tử, luôn ân cần săn sóc đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử trong ngôn sứ Edêkien sẽ được tròn đầy ý nghĩa qua cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Người đã chấp nhận chết để nhân loại được sống. Người rảo khắp xứ Palestina để chữa lành con người tổn thương do tội lỗi và do bệnh tật thể xác cũng như tinh thần gây nên. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá đã quy tụ muôn dân, làm cho nhân loại trở thành gia đình của Thiên Chúa. Người đã phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân ngoại và dân Do Thái, làm cho thế giới này trở thành vương quốc của tình huynh đệ. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều này trong thư gửi giáo dân Côrintô (Bài đọc II). Đức Giêsu được tôn vinh là Vua, vì Người đã chấp nhận cái chết để ban cho nhân loại sự sống, như một mục tử hy sinh mạng sống để đàn chiên được bình an. Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: quyền lực vương đế của Người không phải để thống trị, mà là để phục vụ và yêu thương.
Cũng hoàn toàn khác với quan niệm một vị vua trần gian hay một tổng thống ngoài đời, hình ảnh về vị Vua khiến chúng ta ngỡ ngàng hơn nữa, qua trình thuật của sử gia Matthêu về ngày phán xét chung. Lúc đó, vị Vua xuất hiện như một vị thẩm phán công minh. Người xét xử kẻ dữ và kẻ lành, trả công cho mỗi người theo công việc họ đã làm khi sống trên dương gian. Những người chịu phán xét ngạc nhiên trước lời tuyên bố của vị Thẩm phán: “Tôi bảo thật anh em: những gì anh em làm cho một trong các người bé mọn nhất này của Tôi, là anh em đã làm cho chính Tôi” (Mt 25,40). Thì ra, Đức Giêsu đồng hoá mình với những kẻ bé mọn, cơ nhỡ và bất hạnh trong cuộc đời, để rồi những ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa; những ai bỏ rơi họ là bỏ rơi Chúa. Vị Vua của chúng ta là như thế đó. Những ai chuyên tâm làm việc thiện và giúp đỡ anh chị em mình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc đời đời. Ngày hôm nay, vị Vua Giêsu vẫn đang cùng đi với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống, để khích lệ, thêm sức cho chúng ta trên đường đời. Mỗi khi thực thi giáo huấn của Người là chúng ta góp phần làm cho vương quốc tình yêu của Người được triển nở và lan rộng. Lời cầu nguyện “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, cần phải đi đôi với những nỗ lực cố gắng làm cho vương quốc hoà bình mà Đức Giêsu khai mở được thực hiện. Là Kitô hữu cũng là công dân của vương quốc vĩnh cửu. Xin cho chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu cao quý này, để đáng được Chúa chúc phúc, hôm nay cũng như vào giờ phán xét cuối cùng.
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ: Chúa Nhật cuối cùng nhắc nhớ chúng ta TN 34-ABC432
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ: Chúa Nhật cuối cùng nhắc nhớ chúng ta thời điểm cuối cùng của mọi sự, của thời gian và cũng nhắc nhở thời điểm kết thúc cuộc đời chúng ta. Hướng về điểm tận cùng, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Giê-su Ki-tô là Vua Vũ Trụ, và cũng là Vua của mỗi người chúng ta, của cuộc đời chúng ta nữa, đời này và đời sau.
Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa hãy lôi kéo chúng ta, để chúng ta trở thành “thần dân” của Người, để chúng ta thuộc về Người, thay vì là “thần dân” của những điều trong thế giới này, thuộc về những gì trong cuộc đời này, chẳng hạn tiền tài, danh vọng hay những điều hư ảo.
Chúng ta cũng hãy phó thác những người thân yêu quá cố của chúng ta nữa nơi tình thương bao dung của Đức Giê-su Ki-tô Vua, như thánh Phao-lô xác tín trong bài đọc II:
Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. (1Cr 15, 22)
Vua Vũ Trụ và điểm kết thúc
Trong Thánh Lễ Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Giê-su Ki-tô, là Vua Vũ Trụ, nghĩa là “Đấng nắm vương quyền”, như thánh Phao-lô nói trong bài đọc II: “Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15, 25-26).
Như thế, Thánh Lễ hôm nay đem lại cho chúng ta một niềm hi vọng rất lớn. Thật vậy, một đàng thời điểm cuối cùng của Phụng vụ năm A, từ Mùa Vọng năm 2016 đến hết tuần lễ này, nhắc nhớ chúng ta rằng, mọi sự, dù là trời dù là đất, dù có bền vững, dù có mới mẻ, dù còn trẻ trung, tất cả sẽ đi đến điểm kết thúc, trong đó có thế giới chúng ta đang sống, nhất là chính cuộc đời của chúng ta. Dù chúng ta ở lứa tuổi nào, rồi một ngày kia, chúng ta cũng sẽ đi đến điểm kết thúc là sự chết, giống như những người quá cố được an táng ở các nghĩa trang hay được lưu tồn trong các nhà hài cốt, mà chúng ta đã viếng thăm trong tháng 11 này, và nhất là giống như những người mới qua đời đang còn ở giữa chúng ta, vẫn chưa được mai táng.
Nhưng đàng khác, chúng ta có niềm hi vọng là Đức Giê-su Ki-tô, bởi vì Người đã vượt qua điểm tận cùng của mọi sự, Người đã chiến thắng cái chết, là điểm tới của tất cả chúng ta, để trở thành Vua của chúng ta, cả ở đời này lẫn đời sau. Vậy, chúng ta đừng tôn ai làm Vua, đừng biến điều gì làm chủ, làm chúa, làm thần tượng, hay làm cùng đích của chúng ta, dù đó là tiền của, phương tiện, bằng cấp, thành công, danh vọng, tiếng tăm. Bởi vì, cùng với chúng ta, tất cả rồi sẽ qua đi. Người Do thái đã tôn Đa vít làm vua, nhưng vua Đa vít cũng đã chết (x. 2Sm 5, 1-3). Vì thế, người Do-thái và chúng ta hôm nay được mời gọi hãy tôn thờ một Vị Vua duy nhất, mà vua Đa-vít chỉ là hình bóng thôi, đó là Đức Ki-tô Vua Muôn Loài.
Như thế, khi chúng ta tôn vinh Đức Ki tô là Vua, chúng ta không chỉ tôn vinh Người là Vua Vũ Trụ, nhưng còn là và nhất là Vua của cuộc đời của chúng ta, và không chỉ là Vua của cuộc đời mai sau, sau cái chết, nhưng còn là Vua của cuộc đời chóng qua của chúng ta hôm nay. Điều này sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta bình tâm với mọi sự, tương đối hóa mọi sự, đem lại hướng đi và niềm hi vọng cho chúng ta ngay hôm nay.
Và để tôn vinh và đón nhận Đức Giê-su Ki-tô là Vua của cuộc đời chúng ta, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Người mời gọi mỗi người chúng ta sống ơn gọi trở nên “con chiên”, thay vì tự biến mình “con dê”!
“Mục tử tách chiên và dê”
Trong cuộc phán xét, lúc đầu mọi người tụ tập không phân biệt, nhưng ngay sau đó Con Người đến trong vinh quang và tách cả loài người ra làm hai nhóm. Ở đây, Đức Giêsu dùng hình ảnh để diễn tả như trong các dụ ngôn: Con Người hành động giống như người mục tử tách chiên ra khỏi dê, sau đó đặt chiên ở bên phải và dê ở bên trái của mình.
Hình ảnh này thật an ủi chúng ta, bởi vì chắc chắn chúng ta không phải là “dê”, chẳng phải là dê con hay dê cụ gì cả. Loài người chúng tự bản chất là “chiên”, và con chiên là biểu tượng của sự hiền lành, vì chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được tái sinh trong máu của Con Chiên tinh tuyền, được kêu gọi trở thành môn đệ của Ngài. Vậy cái lũ dê kia ở đâu mà ra vậy? Thế nào là chiên, thế nào là dê? Đâu là đặc điểm của chiên và đâu là đặc điểm của dê?
Đức Vua gọi những người ở bên phải là những người được chúc phúc của Chúa Cha; họ được mời đến đón nhận Nước Trời, đã được chuẩn bị cho họ từ thủa tạo thiên lập địa. Những lời này làm chúng ta nhớ lại lời của thánh Phaolô: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người” (Eph 1, 4). Họ được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và sống theo ơn gọi thần linh của mình, đó là thông truyền, là chia sẻ, là động lòng, là cảm thông.
Đức Vua gọi những người ở bên trái là “những kẻ bị nguyền rủa”; họ bị đuổi xa khỏi Đức Vua, để vào nơi lửa cháy muôn đời vốn đã được chuẩn bị cho ma quỉ và các thần loại của nó. Điều lạ lùng là, Đức Vua đã không kể ra những hành vi phạm tội ghê gớm mà luật cấm: ghét anh em, trộm cắp, nói dối, lừa gạt, thề gian, bóc lột, cướp của, gian dâm, giết người. Nhưng lại kể ra những việc những người này đã không làm!
Như thế, vấn đề không phải là những hành vi ghê ghớm đã phạm, bởi vì Đức Vua không lấy sổ ra đọc to lên mọi tội lỗi của chúng ta; Ngài cũng không xét xử từng người một; Ngài chỉ nêu ra thái độ thờ ơ, dửng dưng đối với anh chị em đồng loại của cả một nhóm người đứng bên trái; nghĩa là những gì chúng ta đáng lẽ phải làm, không phải vì luật buộc, nhưng vì lòng mến, nhưng chúng ta đã không làm. Đức Vua không quan tâm đến những hành vi sai trái mà lề luật đạo đời nghiêm cấm, nhưng Ngài xét xử năng động sống với người khác ở nơi sâu thẳm của mỗi người. Có thể nói, những người đứng bên trái là những người đã sống theo năng động của ma quỉ và các thần của nó, đó là qui về mình, là không san sẻ, là cứng lòng, là vô cảm. Họ sẽ về sống với ma quỉ, xét cho cùng họ không cần phải bị xét xử và bị dẫn đi đến đó, bởi vì họ lựa chọn đi đến đó. Họ sinh ra là “chiên”, nhưng họ tự biến mình thành “dê”.
“Những anh em bé nhỏ nhất của Ta”
Khi công bố lí do của lời phán quyết, Đức Vua nói chính mình đã đói, đã khát, đã là khách lạ, là người không có cái khố che thân, là tù nhân. Và Ngài không nói theo nghĩa bóng hay nghĩa liên đới, vì Ngài đã thực sự là con người đáng thương này; hay đúng hơn, tất cả những con người đáng thương trong nhân loại mọi thời, mà Ngài gọi là những người bé nhỏ nhất và là “anh em của Ngài”, đều hội tụ nơi ngôi vị của Ngài, nhất là trong cuộc Thương Khó.
Vậy là còn có “những anh chị em bé nhỏ nhất” của Chúa nữa. Họ đâu rồi? Họ là anh chị em của Đức Kitô, họ thuộc về Đức Kitô, vì thế họ không bị xét xử. Đơn giản là vì Đức Kitô, không thể xét xử người thân của mình được. Vì thế, lời mời gọi tận cùng của Lời Chúa hôm nay, là chúng ta hãy trở nên người thân của Đức Kitô, trở nên anh chị em của Đức Kitô; điều này có nghĩa là trở nên nhỏ bé như chính Đức Kitô đã trở nên nhỏ bé trong thế giới loài người. Như thế, chúng ta sẽ không bị đưa ra xét xử, như thánh Phaolô nói: “Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô, thì không còn bị lên án nữa” (Rm 8, 1).
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Ước gì mỗi người TN 34-ABC433
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Ước gì mỗi người hãy để Đức Yêsu là vua nơi lòng mình.
1. Đức Yêsu là Vua
Vua là từ ngữ chỉ người đứng đầu một nước. Vua có quyền trên tất cả, lệnh của vua là luật cho thần dân. Vua là người có quyền sinh sát, có quyền để sống hay giết chết: “vua xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Dân Do Thái có Saul là vị vua đầu tiên, sau đó tới David rồi Salômôn. Việt Nam có Đinh Bộ Lĩnh làm vua đầu tiên lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng; vị vua cuối cùng của Việt Nam là Bảo Đại.
Đức Yêsu là vua. Dân Do Thái và những người lãnh đạo tôn giáo thời đó đã tố cáo Đức Yêsu như người muốn làm vua, nghĩa là, muốn nổi lên chống đối chế độ thống trị Roma lúc đó. Philatô đã hỏi Đức Yêsu: “nhà ngươi mà là vua dân Do Thái à?” Đức Yêsu chấp nhận Ngài là vua, nhưng không phải là vua ở trần thế này. Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Yêsu xuất hiện trên mây trời như vị vua ngồi trên ngai xét xử.
Đức Yêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là người hoàn toàn như chúng ta, nhưng không chỉ là người. Ngài được Thiên Chúa ban cho toàn quyền trên trời dưới đất (Mt.28, 18). Ngài là Đấng vượt trên tất cả. Hôm nay, Giáo Hội dùng từ ngữ Đức Yêsu Kitô là Vua để mừng Ngài, và còn dùng nhiều từ ngữ khác để diễn tả con người đặc biệt của Ngài, chẳng hạn như Đấng chăn chiên lành, Chiên Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. Tất cả những từ ngữ trên chỉ có thể diễn tả phần nào “bản chất” của Đức Yêsu.
2. Đức Yêsu còn hơn một vị vua
Đức Yêsu là một người như tất cả mọi người. Những người làng Nadaret nhận biết điều này hơn ai hết. Họ đã muốn xô Đức Yêsu xuống vực khi Ngài về Nadaret rao giảng trong tư thế của một tiên tri (Lc.4, 28-30). Tuy nhiên, Đức Yêsu không chỉ là một người. Nơi Ngài còn có điều gì hơn nữa. Các tông đồ là những người được diễm phúc theo Ngài suốt ba năm trời đã nhận ra điều đó: Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt hồ, truyền sóng biển hồ yên lặng, cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ què đi được. Không chỉ thế, Ngài còn nói những lời “rất khó nghe” với cái nhìn của người Do Thái, đặc biệt là những người có học: Ngài nói như thể Ngài ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài nói như thể Ngài với Thiên Chúa là một (Ga.10, 30); Ngài nói như thể Ngài có quyền tha tội mà theo quan điểm của người Do Thái: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Mc.2, 7); Ngài nói như thể Ngài có trước Abraham, ông tổ của người Do Thái (Ga.8, 58). Cách hành xử của Đức Yêsu rất khác người, và như vậy chúng ta hiểu tại sao những người lãnh đạo và trí thức hồi đó không chỉ không ưa Đức Yêsu mà còn muốn giết Đức Yêsu nữa.
Sau khi Đức Yêsu sống lại, các tông đồ hiểu hơn người thầy mà họ yêu quý. Đức Yêsu luôn được hiểu là một Đấng “khác” với Thiên Chúa, nhưng Ngài liên kết với Thiên Chúa cách rất đặc biệt. Ngài nhận ý Thiên Chúa là ý và lương thực của Ngài (Mc.14, 36; Ga.4, 34). Ngài là một với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao những nhà thần học sau đó đã dùng từ ngữ ngôi hai nhập thể để nói về bản thể của Đức Yêsu. Từ ngữ “ngôi hai nhập thể” cũng là từ ngữ để diễn tả thực tại khôn lường “Đức Yêsu”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất; và Đức Yêsu là Đấng liên kết đặc biệt với Thiên Chúa đến độ có thể nói: Ngài là Thiên Chúa. Tuy vậy, Ngài “khác” với Thiên Chúa là Cha.
3. Hãy để Đức Yêsu là Vua
Đức Yêsu là Đấng diễn tả tuyệt vời về Thiên Chúa, đến độ các nhà thần học diễn tả Ngài là Lời của Thiên Chúa Tình Yêu. Đức Yêsu yêu thương và dạy dỗ con người. Con người, cuộc đời của Ngài là bài học, là lời dạy. Cách sống của Ngài là đường dẫn con người đến với Thiên Chúa. Ngài dạy con người sống yêu thương như Ngài: hiến mạng cho người mình yêu. Ngài chấp nhận chết trên thập giá vì yêu; bí tích Thánh Thể là biểu trưng trước đó.
Qua Đức Yêsu, đặc biệt qua cái chết thê thảm trên thập giá của Ngài, con người nhận biết Thiên Chúa yêu con người vô cùng, như thể còn hơn cả Đức Yêsu. Thiên Chúa yêu con người. Đức Yêsu yêu con người. Như vậy, những ai thuộc về Thiên Chúa cũng phải sống yêu thương. Tiêu chuẩn phán xét của vị vua vào ngày cánh chung, không phải là người đó có được rửa tội hay không, không phải người đó là linh mục hay giáo dân, không phải người đó có nói giỏi về Thiên Chúa không, mà là có yêu thương tha nhân hay không.
Chính khi con người yêu thương tha nhân, đặc biệt những người nghèo, là yêu thương Thiên Chúa, là biết Thiên Chúa. Cái biết được thể hiện bằng cuộc sống, chứ không bằng lời nói. “Ai yêu thương là biết Thiên Chúa, ai không yêu thương là không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 7-8). “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, mà là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21-23). “Dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc giúp cho một người”. Ai sống yêu thương, là đang để Đức Yêsu làm vua nơi lòng mình, là chấp nhận luật yêu thương trong vương quốc của Ngài. Nếu mình cố gắng sống yêu thương, thì gia đình sẽ an vui hạnh phúc hơn, những người sống và làm việc bên mình sẽ bình an hơn, cuộc đời mình sẽ tươi đẹp hơn. Hãy để Đức Yêsu làm vua nơi lòng mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Yêsu là ai đối với bạn?
2. Cuối năm người ta tính sổ đời. Bạn có định tính sổ với Chúa dịp cuối năm phụng vụ này không? Đâu là tiêu chuẩn để bạn tính sổ với Thiên Chúa?
3. Tha nhân, là ai đối với bạn? Bạn có cách nào để làm cuộc đời đẹp hơn không?
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm TN 34-ABC434
Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.
Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Lễ này kết thúc năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.
Ed 34: 11-12, 15-17
Bài Đọc I, trích sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành, trong đó ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a mà muôn dân mong đợi không chỉ là vua, nhưng còn là mục tử nhân lành chăn dắt dân Ngài.
1Cr 15: 20-26, 28
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Chúa Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài. Vào ngày chung cuộc, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực của Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46
Tin Mừng trình bày Ngày Chung Thẩm, vào ngày đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 tCn, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa này bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân đội Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân đội Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các vua Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.
Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en từ ngôn sứ loan báo tai họa biến thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng: Sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
1. Sứ điệp hy vọng
Trước hết, sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa): mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày sang Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.
Ngôn sứ hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và quy tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tích, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Ngài sẽ trừng trị những mục tử gian ác, những kẻ cậy quyền dựa thế chà đạp những kẻ nghèo hèn thấp cổ bé miệng.
Sứ điệp chứa chan hy vọng gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ lãnh đạo dân Ngài.
2. Tôn giáo tình yêu
Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi sứ điệp còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”.
Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính trên những tiêu chuẩn tình yêu này mà vị Vua Mục Tử tuyên án.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)
Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, được thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác vốn ngăn trở linh hồn lại được thăng hoa cách viên mãn, vốn ngục tù giam hãm linh hồn lại được sống lại?
Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rễ trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành phần kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô nêu lên.
1. Một sự liên đới giữa sự phục sinh của Đức Giê-su và sự phục sinh của chúng ta
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta, liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô, Ngài là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta được cứu . 2. Vương quyền của Đức Giê-su
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về ngày chung cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Ngài đã được trao ban. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)
Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến này đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.
1. Con Người
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi thuật ngữ “Con Người” được đặt ở đầu. Tước vị “Con Người” theo nguyên ngữ: “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân”: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thiên giới, nhưng không kém phàm nhân.
Như vậy, Đức Vua, được gọi “Con Người”, giáng trần để xét xử trần gian nhắc nhớ, trước tiên Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng này ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua -Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo khổ thua thiệt và bênh vực họ, đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.
Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức (Xh 2: 23-25). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo những từ ngữ loan báo Tin Mừng:
“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do, lại còn lột cả áo che thân của họ. Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống, người đói lả, anh từ chối bánh ăn. Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành, và cho người thần thế được định cư. Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng, các cô nhi, anh bắt phải bó tay. Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).’
2. Mến Chúa và yêu người
Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất ở nơi Ngài Thiên Chúa và nhân loại chúng ta?’
Trong hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu của Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy”.
3. Bối cảnh lịch sử
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng này đã có thể có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn văn này, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bị bách hại, chịu những gian truân tứ phía, bị tù đày. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải chính trên đường Đa-mát Đức Giê-su đã nói với Phao-lô, kẻ bách hại các tín hữu của Ngài: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9: 4) sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn nhiều.
4. Tầm mức hoàn vũ
“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa… Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Hơn nữa, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).
Đức Giê-su nối kết diễn từ “Cánh Chung” với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Ki-tô: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.
Thời đại hôm nay, khi nói đến vua, người ta hiểu như một thể chế đã không còn hợp thời. Trên TN 34-ABC435
Thời đại hôm nay, khi nói đến vua, người ta hiểu như một thể chế đã không còn hợp thời. Trên thế giới hôm nay, không có mấy nước còn vua, nhưng còn rất nhiều nhà độc tài không kém các vua thời xưa. Nhưng sao Giáo hội lại tôn vinh Chúa Kitô là vua? Giáo hội có đi ngược trào lưu hiện nay và tỏ ra như không còn phù hợp với con người hôm nay không? Giáo hội còn mang một não trạng cổ hủ hay không? Trên thế giới hôm nay, từ vua mang nhiều nghĩa khác nhau và có rất nhiều thứ vua mới. Người ta nói đến vua bóng đá, vua sân khấu, vua dầu hỏa, vua xe điện… Nghĩa là một người nào đứng đầu trong một bộ môn nào đó. Vậy thì vua Giêsu cũng sẽ được hiểu theo nghĩa thông dụng đó không?
Hôm nay, ngày Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội tôn vinh Chúa Kitô Vua vũ trụ để chứng tỏ Chúa Giêsu là Đầu và là Cuối của mọi sự. Vua Giêsu của chúng ta không thể được xem như các vua trần thế. Ngài là vua tuyệt đối. Ngài là Đấng sáng tạo trời đất, vũ trụ càn khôn, Ngài là chủ thời gian và là cùng đích của mọi sự, là hạnh phúc của những kẻ yêu mến Ngài.
Những người không có đức tin có thể cho chúng ta là những con người ngây ngô, nhìn nhận một Thiên Chúa mà không bao giờ thấy. Một người không tin mà cũng là một người thân, nói với tôi: “Đối với tôi, chết là hết, sao anh có thể tin vào một Thiên Chúa tạo nên vũ trụ, chủ tể mọi loài, tôi không thể tin được, anh có thể cho tôi biết tại sao anh tin không?” Tôi từ chối, nhưng anh nài nỉ tôi mãi. Tôi chấp nhận trả lời vấn nạn của anh. Tôi hỏi: “Anh có chấp nhận nguyên tắc này không là của ai nấy xài, anh không có quyền lấy của người khác?” Anh trả lời: “Đúng vậy”. Tôi hỏi: “Vậy không khí anh đang thở là của ai, có phải là của anh không?” Anh ngạc nhiên bảo: “Thì tôi phải thở chứ làm sao?” “Nhưng có phải là của anh không?” Anh trả lời: “Không”. Nước ở dưới sông anh múc lên anh xài, có phải là của anh không?” Trả lời: “Không”. Tôi hỏi tiếp: “Tiền của anh, nhà của anh người ta lấy anh có chịu không?” “Không”. Vậy tại sao anh lấy không khí, nước… anh xài mà không phải là của anh, thì sao? Vậy là anh ăn cướp của người khác”. Anh ấy trả lời: “Anh cũng như tôi thôi”. Không, tôi khác hẳn, vì tôi nhìn nhận Đấng đã ban cho tôi mọi thứ đó và tôi gọi Ngài là cha tôi”. Anh im lặng, ra chiều suy nghĩ…
Vương quyền của Chúa Kitô vượt hẳn mọi vương quyền trần gian. Con người dù quyền thế đến mức nào cũng chỉ là con người, chỉ có một thời thôi. Và họ phải chết. Chúa Kitô là Vua muôn đời, là Vua tuyệt đối và vĩnh cửu. Ngài là chủ của sự sống, là chủ tể mọi loài. Ngài cũng là Tình Yêu. Vua Giêsu của chúng ta là Vua Tình Yêu.
Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu chúng ta suy niệm hôm nay, thánh sử đã vẽ ra cho chúng ta một bức tranh hết sức hùng vĩ, cho chúng ta thấy rõ vương quyền của Chúa chúng ta như thế nào. Tuy chỉ là một dụ ngôn, nhưng chúng ta cũng có thể nhờ đó hiểu được Chúa muốn nói gì.
Thánh Matthêu trình bày vương quyền của Chúa Kitô như vị thẩm phán đầy uy nghi. Ngài phán xét toàn thể nhân loại chứ không chỉ một số người nào dưới quyền mình: “Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu”. Không thể có vị vua nào trong thế gian có được như thế. Ngài là vị thẩm phán tối cao, xét xử toàn thể nhân loại. Tất cả mọi người đều tề tựu trước nhan thánh Ngài. Ngài cho tách ra hai hạng người mà thánh Matthêu gọi là chiên và dê. Chiên chính là những người tốt và dê là những kẻ xấu.
Vua lên tiếng nói với những người tốt cũng như những kẻ xấu và gây ngạc nhiên cho cả hai. Với người tốt, Ngài cho họ thấy rằng, họ được ân thưởng vì đã thấy Ngài nghèo nàn, đau đớn, đói rách, khốn khổ, và đã thương đến Ngài: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống…” Ta đói, Ta khát… các ngươi đã làm cho chính Ta. Những lời đảo lộn tất cả mọi suy nghĩ của chúng ta. Những người lành hoàn toàn mất phương hướng: “Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống…?” Người nghèo, người khốn khổ đó là chính Ta.
Phúc cho chúng ta ngay từ trần gian này, chúng ta nhận biết Ngài qua những người anh em khốn khổ của chúng ta! Dù chúng ta không nhận ra Ngài nơi anh em khốn khổ đó, nhưng nếu chúng ta thực tình yêu thương họ, thì Ngài vẫn chấp nhận chúng ta trong đoàn chiên của Ngài, những kẻ được chúc phúc và sẽ lãnh nhận phần thưởng đã dành cho chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ nhận thấy Ngài khắp nơi trên mọi nẻo đường của chúng ta. Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Chúng ta sẽ được xét xử bằng tình yêu”.
Đối với những người không biết yêu thương, những người vô cảm, những kẻ chỉ biết khai thác anh em mình thì Vua sẽ không thể chấp nhận: “Hỡi những kẻ bị nguyền rủa kia, hãy đi khuất mắt Ta… mà vào lửa đời đời đã dành sẵn cho Ác Quỷ và các sứ thần của nó…”
Vua của chúng ta là Đấng toàn năng cao cả nhưng Ngài đã trở thành những người bé nhỏ nhất trên đời này. Hãy biến đổi cái nhìn của chúng ta. Xưa kia, khi xuống thế làm người, Ngài đã mang thân phận của con người nghèo nàn nhất, hôm nay, Ngài vẫn tiếp tục mang thân phận khốn khổ đó trong tất cả những người anh em khốn khổ của chúng ta. Chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của anh em chúng ta được sao?
Những người như Mẹ Têrêxa Calcutta, Phanxicô Assisi, Vinh sơn đệ Phaolô và biết bao đấng thánh khác… những người đó đã tìm thấy Chúa trong những kẻ khốn khổ nhất. Các ngài đã sống như Chúa đòi hỏi. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn chú trọng đến người nghèo, những người bị bỏ rơi. Trong Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng, Ngài đã cho thấy phải ưu tiên chú ý đến những người thấp hèn, những người dễ bị tổn thương.
Vua Giêsu của chúng ta đã tự đồng hóa mình với những ai khốn khổ bần cùng. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy Ngài trong những nơi sang trọng xa hoa, nhưng chính trong những người tật nguyền nghèo đói, chúng ta mới gặp Ngài. Nhưng chúng ta đủ yêu thương để nhìn thấy Ngài trong khuôn mặt của những người anh em khốn cùng không? Chúng ta có quyền chọn lựa, Ngài hay sự sang trọng thế gian? May thay, trong thế giới ích kỷ và xa hoa này vẫn còn những tâm hồn biết xả thân cho người nghèo, đem gia tài sản nghiệp cứu giúp những ai cùng khốn, dám liều mạng cho những nạn nhân chiến tranh… Vua Giêsu đang cần những bàn tay quảng đại đó.
Chúng ta có ở trong số những người đó không? Chúng ta có dám hy sinh một cái gì đó cho anh em thống khổ của chúng ta không? Chúng ta được mang danh là Kitô hữu, chúng ta đã làm gì?
Vua Giêsu sẽ không nhìn nhận chúng ta nếu chúng ta không nhìn nhận Ngài trong những kẻ bé mọn, những kẻ bị thiệt thòi nhất. Đó là điều kiện tiên quyết của Ngài. Không thể có con đường nào khác.
Chúa Giêsu hôm nay trở thành người nghèo nhất khi Ngài trở thành tấm bánh cho chúng ta. Ngài đến để mang lấy thân phận của mọi người hôm nay khi đến trong mỗi người. Ăn lấy Chúa Tình Yêu mà không trở thành tình yêu là một điều hết sức vô lý. Chúng ta không thể nào làm như thế vì nó sẽ làm tổn thương nặng nề cho Chúa chúng ta là Vua Tình Yêu.
Chủ đề: Thập giá nơi quyền lực Đấng bị đóng đinh được tỏa rạng.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Thế gian biểu lộ quyền lực bằng danh lợi thú, được nhiều người chấp nhận, sùng bái sự khôn TN 34-ABC436
Thế gian biểu lộ quyền lực bằng danh lợi thú, được nhiều người chấp nhận, sùng bái sự khôn ngoan kiểu này.
Đức Giê-su mạc khải quyền lực khôn tả bằng sự tự hủy: không dành địa vị ngang hàng Thiên Chúa, trái lại, trút bỏ mình ra “không”, đem thân đội lốt người phàm, tự hạ mình vâng lời cho đến chết trên thập giá; vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài, tặng ban Danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, hầu khi nghe danh thánh Giê-su mọi gối phải bái quỳ, thờ lạy và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Giê-su là Chúa, để Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Những lời mạc khải vừa trích đọc, mô tả căn tính Giê-su kitô/Vua, đến trần gian để tất cả được sống và sống dồi dào.
Lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ, được cử hành vào chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ nhằm giới thiệu địa cao quý nhất của Đấng vượt trên tất cả, chủ tể mọi loài.
Nơi Ngài quy tụ tất cả trong cùng một quyền bính: sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian. Quyền bính ấy được thực hiện trong “tình yêu và sự sống”, ngang qua thập giá của Đấng chịu đóng đinh. Đó là, vương quốc sự thật và sự sống, vương quốc công chính, bình an và hy vọng trong Thánh Thần.
Bởi vậy, danh hiệu Giê-su, Vua vũ trụ đồng hóa với danh hiệu Mục tử nhân lành của đoàn chiên. Ngài đến cốt để chiên được sống và sống dồi dào.
Để thấu hiểu vai trò Giê-su/Vua, Mục tử tốt lành của đoàn chiên, chúng ta suy gẫm các bài sách thánh tuyên đọc hôm nay.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Ézékiel, là những lời sấm an ủi, dẫy tràn niềm hy vọng Chúa gởi đến cho dân đang trong cảnh lưu đày bên Babylon. Họ bị phân tán trong mọi vùng của đế quốc Át-sua, như những bầy chiên bị tản mác trên các vùng đồi núi hoang vu rận rạp với đủ thứ đe dọa rình rập: bị kỳ thị khinh rẻ, bị bóc lột đến cả nhu cầu tối thiểu tồn tại, bị khủng bố hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần...
Trong hoàn cảnh như thế, dân mong mỏi điều gì nhất ? Thưa: được giải phóng khỏi nô lệ, được hồi hương, được tự do, độc lập! Nhưng ai sẽ làm công việc này ?
Ézékiel cho biết: Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ giải phóng dân, Ngài là Vua và cũng là Mục tử tốt lành. Chúa sẽ đích thân kiểm đếm chiên, sẽ lắng nghe nỗi lòng của chiên, xót thương số phận bi đát của chiên. Chính Ngài sẽ đưa chiên trở về miền đất hứa, miền đất tự do và sự sống. Nơi đó, chiên được bảo vệ khỏi mọi đe dọa ngoại bang, chẳng còn phải sợ thiếu thốn đói khát, được chữa trị phục hồi khi đau ốm. Tất cả đều được chăn dắt trong sự công minh chính trực.
Lời sấm đảm bảo cho một tương lai huy hoàng: chiên được sống và sống dồi dào. Thật hạnh phúc biết bao cho đoàn chiên có được đức vua/mục tử tốt lành như vậy!
Thật và rất thật, lời sấm, trong bài đọc I, ứng nghiệm trực tiếp nơi Chúa Giê-su, Vua/Mục tử nhân lành, được sai đến từ Chúa Cha “Thiên Chúa thật - Người thật”.
Giê-su Kitô đích thực “Messiah”, Đấng muôn dân mong đợi! Ngài đến thiết lập triều đại Nước Thiên Chúa, chăn dắt dân trong sự công minh chính trực: “Ngay từ bây giờ và cho đến muôn đời, lòng ghen yêu của Chúa thiên binh thực thi điều đó” (Is 9, 6).
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, ngự đến uy nghi tràn ngập vinh quang sáng láng, thực hiện việc xét xử muôn dân. Thật ra, đây là lối văn khải huyền muốn trình bày hồng ân cứu độ là vô giá, nhưng cũng cần đến sự mở lòng và cộng tác với ơn Chúa của mỗi cá nhân.
Bài sách thánh không nhằm kích thích óc tưởng tượng của người thời đại về một vị vua cao sang trần thế: mũ mão, áo sống, đai lưng, điện ngọc, bệ rồng, oai phong lẫm liệt, tiền hô, hậu ủng..., mà trên tất cả, trình bày vinh quang và uy quyền thập giá của Đấng chịu đóng đinh.
Thưa anh chị em,
Thập giá vừa mang năng lực “giết chết”, vừa mang “hồng ân sự sống”.
Đấng treo thập giá đã giết chết hận thù, tội lỗi và sự chết, để ban cho kẻ tin vào Ngài có khả năng “Đóng đinh thân xác mình cùng mọi tính hư vào thập giá” (Ga 5, 24), đồng thời, khi từ cõi chết sống lại, Đấng Phục Sinh cho kẻ sống lại với Ngài có khả năng tìm kiếm những sự Trên Trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Cuộc xét xử của Vua Kitô dựa vào 3 tiêu chí nền tảng: xét xử thế gian về tội, về sự công chính và về án phạt. Về tội: vì họ không tin vào Ta; về sự công chính: vì Ta về cùng Cha; về án phạt: vì đầu mục thế gian này đã bị kết án rồi (cf. Jn 16, 8 – 11).
Chiếu theo các tiêu chí nền tảng, áp dụng cho cuộc xét xử chung thẩm ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là sự thiếu lòng tin vào Chúa Giê-su.
Kẻ không tin Giê-su, cũng sẽ không chấp nhận tình yêu tự hiến trên thập giá, một mực kết án, Giê-su đồ chúc dữ, thì làm sao sống như Người đã sống “yêu thương đến cùng và dám chết vì người mình yêu”, nên họ khước từ “đức ái” đối với người anh chị em cho dù những người đó là hiện thân của chính Chúa.
Quyền lực của Đấng chịu đóng đinh biểu lộ trong sự phục sinh và cho những kẻ tin cũng được sống lại với Người.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, quảng diễn quyền tối thượng của Đức Kitô/Vua thực hiện trong việc làm cho kẻ tin được trỗi dậy với Ngài.
Giê-su, trỗi dậy từ cõi chết, mở đường sự sống cho những ai đã an giấc ngàn thu. Bởi sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha, Giê-su trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.
Quyền cai trị của vua Giê-su là tiêu diệt mọi thế lực thù địch với chân lý, sự thật và sự sống, bắt mọi loài quy phục quyền bính mình, rồi trao lại cho Thiên Chúa Cha và trong vương quốc vĩnh cửu ấy: “Tình yêu và sự sống” tồn tại muôn đời.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay nhắn gởi chúng ta hai điều:
Một là: Tín thác cậy trông vững vàng vào ơn Chúa cứu độ, bởi lẽ, tin đã làm chúng ta nên công chính. Như dân Chúa thời lưu đày dẫy tràn niềm cậy trông ơn giải phóng và Chúa đã thực hiện vào lúc thời gian viên mãn, chúng ta cũng đừng bao giờ ngã lòng trông cậy, cho dù có ngập lút thử thách gian truân: tai họa, ốm đau bệnh tật, tang chế... Hãy tin vững vàng, bởi thâm tín rằng: Chúa đang ở đó đỡ nâng và bình an sẽ tràn ngập cõi lòng.
Hai là: Cộng tác với ơn Chúa để thực thi công bình, bác ái, yêu thương, vì những gì chúng ta làm cho những kẻ bé mọn nhất, là đang làm cho chính Chúa. Phần thưởng lớn lao trên trời sẽ dành cho kẻ thực thi huấn lệnh yêu thương của Ngài.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)
Sẽ có phán xét chung vào ngày.... Điều xác tín này chắc chắn là không sai lầm. Mặc dù, đó là TN 34-ABC437
“Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước tòa Chúa Kitô để trả lẽ vể các hành vi của mình” (Giáo lý Hội thánh công giáo). Điều xác tín này chắc chắn là không sai lầm. Mặc dù, đó là ngày nào thì không ai được biết nhưng điều gì sẽ xảy ra trong ngày đó thì đã được nói quá rõ ràng. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Người “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25,31). Người sẽ ngồi trên ngai của Người và theo lẽ chính trực mà xét xử, mà “tách chiên ra khỏi dê”. Ngày ấy Thiên Chúa không hỏi Ta có bao nhiêu hecta đất, giữ chức vụ gì trong xã hội, nói được mấy thứ tiếng hay học hàm, học vị thế nào. Nhưng điều Ngài đặt nặng nhất là “món nợ yêu thương”, là anh đã làm được gì cho đồng loại của mình.
Như Thiên chúa yêu thương. Đức Giêsu cũng muốn con người hãy yêu thương nhau. Trong đó đối tượng được chú ý đặc biệt là những “kẻ bé mọn” tức là những ai xét thấy là cần phải được nâng đỡ trên mọi lãnh vực. Ở đây cụ thể có sáu loại việc: đói cho ăn, khát cho uống; lỡ đường cho nương trọ; trần truồng cho mặc, bệnh tật thì thăm viếng, tù đày thì ủi an. Tất nhiên còn nhiều điều khác nữa. Kể cả là sự giúp đỡ về tinh thần, bảo vệ công lý, xây dựng hoà bình… Thiên Chúa muốn chúng ta thương yêu người khác rồi chính Ngài lại là người đứng ra trả ơn cho chung ta. Đây mới chính là điều không ai ngờ tới. Thật vậy, khi làm điều thiện tức là chúng ta không những làm theo lời dạy của Chúa mà còn diễn tả cách sống động tình thương của Thiên Chúa tại trần gian này. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa ham danh lợi, muốn được mọi người biết đến lòng quảng đại của mình. Thiên Chúa không như con ngươì, và Ngài cũng chẳng cần phải muốn thế để làm gì. Điều quan trọng là Ngài muốn con người biết yêu thương, biết chia sẻ cho nhau, nâng đỡ nhau trên cuộc đời vốn đã quá khó nhọc nầy. Và yêu thương chính là tiếng nói mạnh mẽ nhất của người con biết nghe lời, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Ga13,35). Mặc khác, trong trách nhiệm liên đới, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, chúng ta đâu thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại.
Có lẽ bạn không phủ nhận rằng, bạn cũng có nhu cầu được yêu thương. Vậy nếu bạn thực hành việc yêu thương với người khác cũng là hợp lý thôi. “muốn ăn phải gắp cho người” mà. Kẻ dữ làm sao biết yêu thương và khi hành động thiếu bác ái là ta không muốn yêu thương nơi chính bản thân mình. Như vậy, nếu có phải chịu hình phạt trong lửa hoả ngục cũng không là điều ngạc nhiên.
Hơn nữa, đây còn là chuyện làm cho chính Chúa. Làm cho con người mà Thiên Chúa trả công thì còn mong ước gì hơn.
Muôn thuở Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta bất luận chúng ta tốt xấu. Tuy vậy, một khi chúng ta làm theo lời dạy của Chúa, chúng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn. Vậy, có lý do gì để bạn khước từ tình thương và hạnh phúc đã dành sẵn cho người biết lắng nghe và thực hành lời Chúa?
“Phần gia nghiệp” chỉ dành cho những ai biết sống tinh thần Phúc Âm.
Trong lớp giáo lý nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh: - Ta phạm tội nào thì phải sa hỏa ngục? Đây TN 34-ABC438
Trong lớp giáo lý nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh:
- Ta phạm tội nào thì phải sa hỏa ngục?
Đây là một câu hỏi dễ nên có nhiều học sinh giơ tay xin đáp. Các câu đáp quy về những thứ tội sau đây:
- Tội cố ý giết người, cố tình gây thiệt hại cho người khác như trộm cắp, chiếm đoạt; cố tình phạm tội tà dâm, ngoại tình; cố ý lăng mạ làm mất danh dự người khác, vân vân…
Giáo lý viên nói:
- Tất cả các câu đáp của các em đều đúng. Bây giờ thầy hỏi tiếp:
- Có khi nào ta không phạm những thứ tội như thế, cũng không cố tình làm hại ai, không đụng chạm gì đến tài sản hay thân thể người khác… mà phải sa hỏa ngục không?
Sau một hồi cau mày suy nghĩ, các học sinh đều trả lời là không. Thế nhưng thầy lại bảo là có, khiến cả lớp ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Thầy nói tiếp: Có những khi ta không làm tổn thương ai, không chiếm đoạt tài sản người khác, không xúc phạm đến ai… thế mà vẫn có thể bị sa hỏa ngục vì không ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khó.
Nghe thế, học sinh lại thêm nghi ngờ.
Để thuyết phục học sinh tin chắc điều này, thầy trích dẫn lời dạy của Chúa Giê-su qua hai dụ ngôn sau đây:
Thứ nhất là dụ ngôn người giàu có với La-da-rô khốn khổ trong Tin mừng Luca. Người giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy mà ăn cho đỡ đói, nhưng cũng chẳng ai cho.”
Thế rồi, cả hai người đều chết. La-da-rô thì được vào thiên đàng vinh hiển; còn lão phú hộ thì phải sa hỏa ngục” (Lc 16, 19-21).
Người giàu đã làm gì đến nỗi phải sa hỏa ngục? Ông ta không mắng chửi, không đánh đập, không xua đuổi La-da-rô… Thế thì tại sao lão lại phải sa hỏa ngục?
Lão phải sa hỏa ngục vì lão không ra tay cứu giúp La-da-rô đang đói khát trong khi lão thừa mứa thức ăn.
Thứ hai là qua dụ ngôn cuộc “Phán xét cuối cùng” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su lên án những người không ra tay cứu giúp người cùng khổ bằng những lời lẽ hết sức nặng nề:
“Hỡi phường bị chúc dữ kia! Hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng…”
Thế là những người này hết sức bàng hoảng, sửng sốt, khiếp sợ và tự hỏi: “Mình đã làm gì nên tội mà Chúa bắt mình phải chịu hình phạt khủng khiếp đến thế? Mình không giết người, không đốt nhà, không chiếm đoạt tài sản của ai, không gian dâm, không ngoại tình, không mắng chửi hay làm mất thanh danh phẩm giá bất cứ ai… Thế thì tại sao lại phải chịu hình phạt nặng nề kinh khủng như thế?
Chúa Giê-su đáp: Các ngươi phải sa hỏa ngục “vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
“Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Chúa đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: Những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta” (Mt 25, 46).
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng con không ngờ có một thứ tội rất nặng nề mà ai vi phạm thì phải sa hỏa ngục đau khổ muôn đời, đó là tội không biết ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khổ.
Xin cho chúng con luôn quan tâm giúp đỡ người khốn khó, biết giảm bớt những chi tiêu không cần thiết để chia sẻ cho những anh chị em nghèo thiếu chung quanh; nhờ đó, mai đây Chúa sẽ tuyên bố với chúng con rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” vì các ngươi đã ra tay cứu giúp những anh chị em đang lâm cảnh gian nan.
Hẳn ai trong chúng ta ít nhiều đã quen với hình ảnh vương đế oai phong trong truyền thuyết, cổ TN 34-ABC439
Hẳn ai trong chúng ta ít nhiều đã quen với hình ảnh vương đế oai phong trong truyền thuyết, cổ tích Việt Nam! Bên cạnh nhiều vị vua hiền đức, biết hy sinh tư lợi mà lo cho xã tắc, dân an, quốc mạnh; cũng không thiếu những thời vua chúa sa vào lạc thú, chỉ biết lợi ích cá nhân, mà chẳng lo cho dân nước!
Hôm nay, chúng ta mừng kính trọng thể lễ Chúa Ki-tô Vua với một tâm thế hồ hỡi khác mọi khi. Vì ai nấy đều lo giãn cách, giữ mọi biện pháp cơ bản hầu phòng bệnh dịch quái ác cô-vi, nhưng cũng không quên sống đạo, sống bác ái như vị Vua Giê-su đã dạy và làm gương cho chúng ta: hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu (x. Ga 15, 13). Hơn nữa, dịp lễ này khiến chúng ta nhìn lại, tự vấn và xác tín rằng: ngoài Vua Giê-su Ki-tô, còn ai hoặc điều gì đang cai trị đời tôi? Tôi biết không ai khác hoặc sự việc gì đó có thể làm vua đời tôi, nhưng vì thói hư tật xấu, vì thói đời bản thân mà tôi đang cho phép họ hay sự thể ấy kiểm soát và điều khiển đời tôi như thể vương đế?
Trước hết, Vua Ki-tô của chúng ta đích thật là chủ chiên lành, Người chăn dắt, nuôi dưỡng đoàn chiên, chứ không vì lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm mà loại bỏ đoàn chiên hoặc lãng quên chúng: "chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta...Ta sẽ chăm sóc và chăn dắt nó trong sự công chính" (x Ed 34, 15-16). Người là vị vua dám bỏ vinh quang trời cao, xuống gian trần, mặc lấy xác phàm con người. Người là vị vua dám ra đi tìm kiếm chiên lạc, bất luận nó bị thế nào. Người là vị vua trao ban sự sống bản thân để mọi người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10). Nếu chúng ta là thần dân của vị vua này, ắt hẳn chúng ta cũng noi gương Người, biết mưu cầu lợi ích tha nhân hơn là tư lợi, biết hy sinh cho tha nhân, biết chia san ân sủng, tài năng cho cộng đoàn, thay vì chôn dấu, v.v...
Mặc dù là vua muôn dân, muôn loài, nhưng Đức Giê-su Ki-tô khiêm hạ đến tột cùng (x. Pl 2, 6-11), và "Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự" (x 1Cr 15, 24. 28). Đường đường là vị vua cao sang, ai ai cũng phải phục tùng, bái quỳ, và được bảo vệ hết mực. Như chúng ta quen với hình ảnh thông thường: dân nước, quân lính phải bảo vệ vua, kể cả hy sinh mạng sống mình; nhưng ở đây ngược lại, Vua Giê-su hy sinh mạng sống mình, không những bảo vệ mà còn mang lại sự sống đời đời cho thần dân của Người. Vậy tôi đang là thần dân của Người, hay dân của thần nào khác? Thần ấy có thể là tiền tài, danh vọng, cái tôi, địa vị, quyền lợi cá nhân, hoặc một thú vui nào đó đang thống trị, giam hãm đời tôi. Nếu tôi là thần dân của Vua Giê-su, thì chắc chắn không ai khác, chỉ có Người làm chủ toàn bộ con người và cuộc đời tôi.
Sau cùng, Vua Giê-su Ki-tô là vị Vua nhân hậu và công bình như người mục tử tách chiên ra khỏi dê (x. Mt 25, 32). Người tách biệt chiên và dê dựa trên tình bác ái mà chính Người đã sống, đã làm chứng cho chúng ta, cũng như chúng ta được lãnh nhận sức mạnh ân sủng từ Người, ngỏ hầu thực thi giới răn yêu thương ấy. Chứ Người không dựa trên những tiêu chuẩn mà chúng ta hay mặc định như: thành quả, thành đạt để phân xử. Người cũng chẳng dựa trên văn bằng học vấn, trình độ khoa học, hay nghiên cứu để phân xử công bình. Đúng hơn, Người chỉ dựa vào việc chúng ta đã sống bác ái yêu thương cụ thể chưa, hay chỉ sống giới răn ấy trong tư tưởng, trong lý tưởng, trong lời nói, mà chưa thực hành bao giờ, hoặc nếu có thực hiện đi chăng nữa cũng chỉ hời hợt và thứ yếu! Vua Giê-su Ki-tô đòi hỏi thần dân của Người biết nhận ra sự hiện diện của Người nơi anh chị em, đặc biệt những ai bé mọn nhất, vì Người tự đồng hoá mình với họ: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Tương tự, nếu chúng ta không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là chúng ta không làm cho chính Vua Giê-su (x. Mt 25, 45).
Giờ đây, với tâm tình đơn sơ, tín thác, chúng ta cùng hiệp nhất dâng lời nguyện xin:
Lạy Vua Giê-su lòng con mến yêu Xin trao đời con vào đôi tay nhân từ của Chúa Xin mãi làm Vua khoan dung hướng dẫn đỡ nâng Đừng để con trở nên "ông vua con" của mình Đừng để ai đó cai trị, điều khiển trí lòng con Đừng để sự gì chiếm lấy ngôi vị vương đế đích thật Đừng để và đừng để con sa vào ý nghĩ làm "vua chúa" ai! Trên hết, xin Người làm Vua vĩnh hằng đời con. Amen!
Khi nghe hay suy niệm về Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta có những ấn tượng gì? Chúng ta mong TN 34-ABC440
Khi nghe hay suy niệm về Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta có những ấn tượng gì? Chúng ta mong muốn điều gì nơi vị Vua này, hay những gì Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta? Là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng về Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa, là vị Vua của tình yêu thương cách mạch lạc, hào hùng. Nhưng thật ra trong tận cõi thâm sâu của lòng trí mình, Ngài có thực sự là vị Vua, là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta hay không?
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” đó là sứ điệp mà Thánh vịnh 22 trong bài Đáp ca đã mời gọi chúng ta; trong mọi hoàn cảnh sống, hãy tin tưởng và ký thác cuộc sống cho Chúa. Hãy để vị Vua Giêsu Kitô chăm sóc, nuôi dưỡng, che chở bảo vệ chúng ta. “Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống.” Câu hỏi được đặt ra: Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, là Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo nên trời đất muôn vật, vậy thì tại sao Chúa lại vẫn để cho xảy ra khi có nhiều người đang còn vật lộn với cuộc sống nghèo đói, đau khổ trên trần gian này?
Chúa Giêsu trong Tin mừng của Matthêu soi sáng, mời gọi chúng ta, hãy mở lòng tìm kiếm, đón nhận vị Vua Kitô Vũ Trụ này và hãy tin nhận về chính vương quyền của Ðức Giêsu Kitô trong chính cuộc sống của chúng ta, cũng như những mối tương quan trong các hành động của chúng ta với vương quyền của Ngài. Vậy thì, chúng ta sẽ đi đâu để tìm gặp vị Vua Kitô và vương quyền của Ngài được thể hiện như thế nào? Thật ra, chúng ta sẽ không thể tìm thấy được hình ảnh của một vị Vua Kitô với vàng bạc, của cải, cung điện nguy nga tráng lệ; chúng ta cũng sẽ không bao giờ tìm thấy hình ảnh của vị vua, ngồi trên ngai tòa để cai trị, để bắt người khác phục lụy mình. Nhưng hôm nay chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng và đối diện với hình ảnh của một vị Vua Vũ Trụ nhân từ với trái tim của Người Mục tử giàu lòng thương xót, một vị Thiên Chúa Toàn Năng, đầy uy quyền trong những con người phận nhỏ, những con người đang phải chịu những hoàn cảnh đói khổ, yếu đau, tù đày…, trong những hình ảnh của những con người như vậy, Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta hãy khám phá, tin nhận Ngài là Cha, là vị Vua yêu thương của chúng ta, đồng thời chúng ta hãy yêu thương và sẻ chia những gì mà chúng ta đã lãnh nhận. Vì chính khi chúng ta làm một điều gì cho một trong những anh chị em bé mọn nhất là chúng ta đã làm cho chính Thiên Chúa.
Mattheu cũng đã minh chứng hầu giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về hậu quả và hệ lụy của sự bất công, nghèo đói, đau khổ và thiếu thốn trong cuộc sống trần gian này. Ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, che chở và bảo vệ. Thế nhưng, con người đã không biết sử dụng những ơn lành mà Chúa ban để tôn vinh Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Hậu quả và hệ lụy của mọi đau khổ, nghèo đói… là do con người chỉ nghĩ đến những lợi ích cá nhân, do con người sống ích kỷ hẹp hòi với người đồng loại, do con người chỉ biết sống như chỉ có ngày hôm nay mà thôi. Còn tệ hại hơn khi con người nhẫn tâm bóc lột và “sống trên xương máu” của những con người nghèo khổ, bất hạnh và phận nhỏ.
Hình ảnh của một vị Vua tốt lành, vị Mục tử nhân hậu được vang vọng lại trong lời của Tiên tri Ezêkiel. Thiên Chúa luôn quan tâm, lo lắng, chăm sóc, bảo vệ, chở che, còn hơn thế, Ngài sẽ băng bó, chữa lành khi chúng ta bị thương tích hay sẽ đi tìm để đưa chúng ta về khi lầm đường lạc lối. Trong khi con người ngày nay thường chọn cho mình nhiều “Thần Tượng” để chạy theo, bắt chước, họ muốn lựa chọn cho mình nhiều vị vua như tiền bạc, của cải, danh vọng… Nhưng với chúng ta là những Kitô hữu, liệu chúng ta có muốn mở lòng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô là vị Vua của lòng trí và cuộc đời của chúng ta hay không?
Thưa ACE, trong những ngày cuối năm phụng vụ, nhìn lại trong suốt thời gian qua, chúng ta có thật sự vui và hạnh phúc, khi chúng ta có vị Vua Giêsu, cùng với những ân phúc và vương quốc mà Ngài hứa ban cho chúng ta? Hạnh phúc đích thực của chúng ta không phải chỉ là những gì chúng ta đã lãnh nhận được, nhưng còn hệ tại nơi những gì chúng ta quảng đại, yêu thương, sẻ chia cho anh chị em vì danh Chúa. Xin Chúa Kitô Vua Vũ trụ, giúp chúng con tín thác hơn vào Ngài và xin cho chúng con luôn chọn Chúa là Vua là đối tượng duy nhất của lòng trí con, để con yêu mến, tôn thờ và phụng sự Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời con. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
ĐỨC TIN LÀ VIỆC QUAN TÂM THIẾT THỰC ĐỐI VỚI THA NHÂN CHỨ KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ NIỀM TIN.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, lễ Chúa Kitô Vua. Đây là cơ hội để suy TN 34-ABC441
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, lễ Chúa Kitô Vua. Đây là cơ hội để suy ngẫm về quá khứ và lập kế hoạch cho tương lai.
Tin Mừng hôm nay là chóp đỉnh của các chủ đề mà chúng ta đã đọc nơi Tin mừng Matthêu trong vài tháng vừa qua: hành vi đạo đức, sự phán xét cuối cùng, phần thưởng và hình phạt. Chúa Giêsu chia sẻ quan điểm về ngày phán xét chung cuộc, mô tả Ngài như một vị Vua ngồi trên ngai, nên đoạn Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ hôm nay. Như người mục tử tách chiên khỏi dê, Chúa Giêsu cũng quy tụ con người theo cách họ đã sống.
“Chiên” là hình ảnh của những ai yêu thương và quan tâm đến tha nhân. Họ cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón người lạ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. “Dê” thì làm ngược lại, là phớt lờ những người ở bên lề xã hội và những người cần được giúp đỡ nhất. Mỗi nhóm người sẽ bị phán xét theo những gì mà họ đã và không làm, chiên thì được thừa hưởng vương quốc và sự sống đời đời, còn dê phải nhận hình phạt đời đời.
Dụ ngôn về cuộc phán xét này thường được nêu lên để nhắc nhở mọi người biết phục vụ, bênh vực những người yếu thế và tìm kiếm công lý. Nó đề ra những ưu tiên cho người tín hữu bằng cách khẳng định rằng đức tin không chỉ là sự gắn bó trung thành của một người với một số điều phải tin mà là sự quan tâm thiết thực dành cho con người trên thế giới.
Các việc làm được liệt kê ở đây bao gồm những mối thương người, gọi là thương xác 7 mối, vì nhấn mạnh đến nhu cầu thể lý nhằm cổ võ và duy trì sự sống. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta rằng khi phục vụ tha nhân và đáp ứng nhu cầu của họ, là phục vụ chính Chúa. Hơn nữa, khi phớt lờ và đổ lỗi cho người khác, cũng như xem nhẹ nhu cầu của họ, thì chúng ta đã coi thường người khác và chính Chúa: “Khi các ngươi không làm điều đó cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, thì các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
Mặc dù đây là một đoạn Kinh Thánh mang tính cánh chung về thời khắc tương lai, mục đích của nó là tạo ra sự thay đổi trong hiện tại. Điểm chính yếu không phải để khẳng định Chúa Kitô Vua là vị thẩm phán vào ngày cuối cùng mà là khẳng định rằng Chúa Kitô Vua đang hiện diện giữa những người nghèo, những người nhập cư, bệnh tật và những người bị cầm tù. Phải lưu ý chứ không nên cắt giảm những ngụ ý thần học rất lớn lao của đoạn Tin mừng này. Chúa Giêsu tuyên bố rằng người có đức tin chính trực có nghĩa là hành động cho những ai đang có nhu cầu, như Chúa Kitô Vua ở với họ. Sống đức tin đòi hỏi cam kết phục vụ và bênh vực những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, không hạ thấp nhân phẩm, gièm pha hay coi thường họ.
Khi kết thúc năm khó khăn này và chuẩn bị cho một chu kỳ phụng vụ mới, chúng ta nên suy ngẫm về những gì chúng ta đã làm và sẽ làm để sống theo lệnh truyền của Tin Mừng là yêu thương và phục vụ người khác.
Tin mừng Mt 25, 31-46: Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này...
Đức Giáo Hòang Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua vào ngày 11/12/925 trong bầu khí tạ TN 34-ABC442
Đức Giáo Hòang Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua vào ngày 11/12/925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm Thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác.
Về phía Giáo Hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo Hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại, đồng thời Giáo Hội cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Chính vì vậy, bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân chia mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin.
Để ám chỉ hai loại người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Êdêkien đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại.
Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới được phân rẽ: «cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm» (13,30).
Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt.
Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào? Và đâu là tiêu chuẩn để Thiên Chúa phân loại?
Tin Mừng cho ta thấy:
- ngày ấy, toàn nhân loại được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa.
- ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
- ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: đó là cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.
Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân;
không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều...
Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia
Truyện thánh Martinô thành Tours.
Martinô là một quân nhân Rôma và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất.
Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh của ông.
Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời: ”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”.
Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40) và Chúa nói tiếp: “hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ, vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày Lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý TN 34-ABC443
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày Lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Thiên Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô, là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho chúng ta biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh, và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng Người.
Bài đọc một của giờ Kinh Sách, được trích từ sách Khải Huyền cho thấy Đức Vua Kitô với vẻ huy hoàng khi Người ngự đến. Tất cả mọi hình ảnh được sử dụng để giúp chúng ta hiểu rằng: Đấng đã chết trên thập giá là Đấng đang sống. Chính Người đã nói: Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời, Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách, được trích từ khảo luận của linh mục Origiênê về cầu nguyện, ngài nói: Ai cầu cho triều đại Thiên Chúa mau đến, thì cũng cầu cho vương quyền của Thiên Chúa nơi mình được tăng triển, đem lại hoa trái và đạt tới tột đỉnh. Vương quyền trên thế gian nay đã thuộc về Chúa chúng ta và Đức Kitô của Người; Người sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời. Do đó, chúng ta phải phụng thờ và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng Đức Vua của chúng ta.
Thiên Chúa muốn quy tụ muôn loài dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô, Người là Con Chiên đã bị giết, nay xứng đáng lãnh nhận: phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang. Người là Vua ngự trị muôn đời, Người tuôn đổ phúc lành, cho dân hưởng bình an, như lời Ca Nhập Lễ và Ca Hiệp Lễ mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ hôm nay.
Qua bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 22, các nhà phụng vụ muốn chúng ta nhìn ngắm Vua Kitô, như một mục tử nhân lành: chăn dắt, và bảo vệ chúng ta. Qua câu Tung Hô Tin Mừng, các nhà phụng vụ muốn chúng ta chúc tụng ngợi khen Vua Kitô của chúng ta: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít tổ phụ chúng ta.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Êdêkien cho biết: Đức Chúa là Chúa Thượng phán: này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.
Trong bài đọc hai, thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã cho thấy: Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Kitô chính là Vua Tình Yêu. Người đến xét xử thế gian: Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người, và Người sẽ tách biệt chiên với dê. Vua Tình Yêu xét xử thế gian theo tiêu chuẩn tình yêu: Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Thiên Chúa là tình yêu, Vương Quốc của Người là Vương Quốc tình yêu, công dân của Người là những ai biết sống yêu thương. Vua Kitô đã rời bỏ trời cao, để đến ở với con người: đến không phải để được hầu hạ, nhưng, để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Do đó, yêu thương phải là căn tính của những ai muốn quy phục Vương Quyền của Vua Kitô; phục vụ phải là kim chỉ nam hành động cho những ai muốn thuộc về Vương Quốc của Vua Kitô. Vua Kitô đã hành động vì yêu thương, thì chúng ta là thần dân của Người, chúng ta cũng phải làm như Người đã làm. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn những việc làm yêu thương và phục vụ của chúng ta trở thành lời ngợi khen chúc tụng, và thành những của lễ phụng thờ dâng lên Đức Vua của chúng ta, thì những việc làm yêu thương và phục vụ đó: cũng phải mang những thương tích tình yêu, của Đức Vua Tình Yêu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta, và để rồi, vào ngày phán xét, chúng ta sẽ được nghe từng chính miệng Người: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
Phần thưởng cao quý là gì, đối tượng sẽ nhận giải là ai ? Sống lâu trăm tuổi có phải là phúc đức TN 34-ABC444
Phần thưởng cao quý là gì, đối tượng sẽ nhận giải là ai ? Sống lâu trăm tuổi có phải là phúc đức không ? Lộc trời ban phát, đất nước khang an, gia đình trên thuận dưới hoà, phải chăng điều đó nên dừng lại ở mơ ước ? Thực ra, thích được khen thưởng, muốn mong sống trường thọ, được phúc lộc của tổ tiên dòng tộc, không phải là thao thức vô lý. Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có công danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ). Con người tự nhiên hướng tới thành đạt, vừa có tiếng, vừa có miếng, được “cả chì lẫn chài”, ước muốn như thế cũng chẳng ai vội lên án là sai trái, tội lỗi. Xã hội phát triển, đất nước phồn vinh, từng thành viên gia đình tiếp nối tinh thần ái quốc, cũng là ba điều làm nên giá trị một đời người: chăm chỉ, chân thật, yêu thương.
Phần phúc của người tin theo Thầy Giêsu là gì, các tín hữu kitô sẽ lãnh nhận phần thưởng thế nào ? Tất cả đã có lời giải: “khi Con Người đến trong vinh quang, … Người sẽ phân chia họ ra như mục tử tách chiên ra khỏi dê, chiên thì Người cho ngự bên phải, dê thì Người cho ở bên trái”. Thầy Giêsu đến trong vinh quang, có phải là Đấng Ktiô đã hoàn tất sứ mạng trần thế mà Chúa Cha uỷ thác không ? Những ai tin theo Thầy Giêsu cách triệt để, hiển nhiên họ được gọi là chiên, là môn đệ của Đức Giêsu Kitô Đấng cứu độ, hẳn không ai phản đối ? Sống ở đâu, thế hệ nào, người ta cũng dễ dàng hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: một người làm quan, cả họ được nhờ, hoặc con vua thời lại làm vua.
Phần phúc người kitô hữu không phải ở trần thế này, quả quyết đó thuộc về những ai sống niềm tin kitô giáo, vẫn tuyên xưng hàng ngày, hàng tuần: lạy Cha chúng con ở trên trời ; tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…. Kitô Vua, Đức Kitô Vua vũ trụ, không có gì xa lạ: “Bấy giờ Vua sẽ phán với người bên hữu rằng, hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy nhận lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi ngay từ khi tạo thành vũ trụ …”. Ở trần thế này, cuộc sống hiện tại lúc này, Lời Thầy Giêsu, giáo huấn Đức Giêsu: “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tương lai của người tín hữu, hạnh phúc của những ai sống giới luật yêu thương, chắc chắn không phải là được giầu có vật chất, mà là được ghi nhận vào số đoàn chiên của Vua Giêsu.
Hãy nhận lãnh phần phúc, hãy nhận lấy gia nghiệp đời đời, bao giờ cũng là lời người người thích nghe, muốn nghe, nhất là lời: Vua Giêsu, Vua Tình Yêu, dù ở hiện tại hay tương lai. Để trở thành người tốt: phụ nữ đừng ỷ vào nhan sắc, vì nó sẽ tàn phai theo thời gian, phụ nữ có tâm hồn đẹp, mới đáng gọi là người phụ nữ tuyệt vời. Là Đấng mày râu: đừng ỷ vào tài trí thông minh, vì thành công hạnh phúc, ở đời này, bạn phải để lại cho người thân, cho hậu thế một hình ảnh thật. Là thần dân của Vua Giêsu, bạn không thể sống niềm tin trên môi miệng, không thể chia sẻ tình bác bái với kẻ nghèo hèn xung quanh mình bằng lời nói suông. Ngày quang lâm, Vua Giêsu sẽ ban phần phúc và nhắc lại lời đáng yêu: “những gì các con đã làm cho những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta”.
Bạn sẽ nhận lãnh phần phúc thế nào, bạn đã nghe, đã từng có cơ hội để gẫm để suy: gieo gì gặt nấy ; khôn thì trong trí lượng ra, dại thì học lỏm người ta bề ngoài. (tục ngữ). Ước muốn được gặt hái hạnh phúc là đúng rồi: có lý trí tự do hành động khôn ngoan, người anh chị em đau khổ ở xung quanh, ta cư xử và đang sống đức ái thế nào, khi ta vẫn nói mỗi người đều mang hình ảnh của Chúa ! Vua Giêsu, Vua Tình Yêu, Ngài là sự thật: bao lâu tâm tính của ta chưa được biến đổi, chưa thấm nhuần tình yêu Giêsu, không thể là thần dân của Vua Giêsu, không thể nói đến phần phúc phần thưởng làm gì ! Cuộc sống hiện tại người tín hữu được sánh ví như một cuốn sách, mỗi ngày của bạn là một trang sách, có càng nhiều trang sách hay, quyền sách càng ý nghĩa.
Ngôn ngữ người trẻ hôm nay, họ lạc quan cho rằng: phụ nữ đẹp, không cần phải nghiêng nước nghiêng thành, chỉ cần một nam nhân quân tử nghiêng về cô ấy trọn đời là đủ. Vì chưng: lời nói gió bay, hứa càng hay chia tay càng thấm. Ngôn ngữ của Vua Giêsu mãi mãi là Tình Yêu, là sự nhạy bén trước người thật, việc thật, minh chứng bằng việc làm: “cho không, biếu không”. Lãnh nhận phần thưởng, phần phúc, một mơ ước đẹp, Vua Giêsu “đồng hoá” Ngài với kẻ nghèo hèn, tù tội, đói cơm bánh, khát tình thương: “vì xưa Ta đói, các người cho ăn, Ta khát các người cho uống, Ta là khách lạ, các người tiếp rước, …”. Cánh cửa Nước Trời chưa qua chưa biết, nhưng lãnh nhận phần phúc đời đời đã được Chúa Giêsu lưu ý chúng ta bằng lời rõ ràng: “còn người lành sẽ được vào hưởng hạnh phúc ngàn thu”. Amen.
Trong bối cảnh xã hội, chính trị hiện nay, người ta ngao ngán khi nghe hai chữ “vua chúa”, vì càng TN 34-ABC445
Trong bối cảnh xã hội, chính trị hiện nay, người ta ngao ngán khi nghe hai chữ “vua chúa”, vì càng ngày “vua chúa” càng chen chúc nhau mọc lên như nấm làm đám dân lành đã khổ nay càng khổ hơn.
Hiện tượng vua một vùng, chúa một cõi, bất kể vùng ấy bé như thôn ấp, chẳng trừ vùng ấy chỉ to bằng khu phố nhỏ đã làm nhiều người dị ứng với hai từ Vua – Chúa. Chính trong tâm trạng ngán ngẩm, sợ hãi cảnh vua chúa xưng hùng xưng bá, tham ô, trấn lột, đàn áp đám dân đen nghèo khổ, thấp cổ bé miệng, mà chúng ta mừng lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Vua các tâm hồn.
Một chi tiết mang tính lịch sử đó là lễ Chúa Kitô vua đã được Giáo Hội thiết lập vào năm 1925, thời điểm mà nhiều chế độ vua chúa ở Âu Châu đột nhiên đồng loạt biến mất, cũng là lúc Kitô giáo bị nhiều học thuyết vô thần tấn công dữ dội. Chính trong bối cảnh này lễ Chúa Kitô Vua được cử hành với hình ảnh Đức Kitô Vua là Mục Tử nhân lành, Vua nhân hậu giầu lòng thương xót, Vua khiêm hạ “đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống vì mọi người”, một hình ảnh Vua hoàn toàn khác các vua chúa thế gian chỉ “dùng uy mà thống trị, dùng quyền mà cai quản” (Mt 20,25).
Vua Giêsu như Mục Tử nhân lành:
Ngôn sứ Êdêkien đã mô tả chân dung Mục Tử nhân lành là Đức Giêsu: “Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm… Ta sẽ kéo chúng ra mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt… Ta sẽ tập hợp chúng… Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi, và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ítraen. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ítraen. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta… Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm ; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về ; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó ; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh…” (Ed 34,11-16).
Trong Tân Ước, chính Đức Giêsu đã nhận mình là “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Vương quyền của Vua Giêsu là lòng thương xót:
Vương quyền của Chúa Giêsu Vua đến từ Thiên Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót đã ban cho Ngài mọi quyền “cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết”. Ngài đã tiêu diệt sự chết khi sống lại vinh quang, để “mọi người, vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người, nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng đuợc Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,22).
Như thế, vương quyền của Vua Giêsu là để thương xót, cứu chuộc mọi người khỏi án tử đời đời do tội lỗi mang lại. Chính lòng thương xót của Chúa Cha đã phong vương cho Ngài, để Ngài trở nên Vua Cứu Độ nhân hậu, mà nhờ sự chết và phục sinh của Ngài, tất cả những ai phải chết vì một người đã đem tội lỗi vào thế gian sẽ được Ngài cứu sống. Nói cách khác, Đức Giêsu là dung mạo đích thực của Thiên Chúa giầu lòng thương xót và chính Ngài đã thực hiện lòng thương xót ấy trên nhân loại, với vương quyền của Thiên Chúa Cha khi bắt thù địch cuối cùng là sự chết phải quy phục dưới chân Ngài.
Một Đức Vua đã dùng vương quyền để cứu sống con dân bằng hiến mình làm Của Lễ chuộc tội dân hẳn phải là Đức Vua vô cùng nhân hậu và bao la lòng thương xót.
Đức Giêsu là Vua Tình Yêu:
Quang cảnh ngày phán xét chung trong Tin Mừng Matthêu được bao trùm bởi Công Lý tình thương, khi “Con Người đến trong vinh quang của Người” (Mt 25,31) để xét xử mọi người về tình yêu của họ, về nén bạc yêu thương Thiên Chúa đã trao cho mỗi người.
Đức Vua Giêsu đã không hỏi bất cứ ai về bất cứ sự gì, ngoài những việc làm của tình yêu trong suốt cuộc đời dương thế, những việc làm thường ngày, những đối tượng thường gặp, những con người thường thấy. Không có gì xa lạ, xa xôi, trắc trở, nhưng tất cả đều gần gũi, quen thuộc, kề bên. Chỉ có một điều, một tiêu chuẩn để quyết định đó là việc sử dụng khả năng yêu thương để yêu thương.
Khi nói đến “khả năng yêu thương để yêu thương” là nói đến phục vụ, vì phục vụ là hành động cụ thể, thiết thực của tình yêu, như đôi tay là hành động biểu lộ ý muốn và quyết định chọn lựa của tim óc.
Phục vụ tha nhân, phục vụ người thân, phục vụ nguời bần hàn, cơ nhỡ. Tất cả là mục tiêu của lệnh truyền “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” (Ga 15,12), mà ngày phán xét, mỗi người sẽ phải trả lời về việc thực hiện nghiã vụ yêu thương không thể bỏ qua này.
Cũng chính vì yêu Thương là khả năng Thiên Chúa ban cho hết mọi người, nên ai cũng có thể yêu, người nào cũng có thể phục vụ. Chẳng thế mà những người lành đã ngỡ ngàng, chưng hửng khi Đức Giêsu nói với họ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đới, ccá ngươi đã cho ăn ; Ta khát ; các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36). Và tất nhiên, kẻ dữ đứng bên trái cũng giật mình hốt hoảng khi bị luận phạt, vì đã không làm như những người lành.
Thực vậy, cả người lành và kẻ dữ đều ngạc nhiên, sững sờ vì không một ai trong họ đã có thể ngờ: khả năng yêu thương được Thiên Chúa ban, cũng như nén bạc Tình Yêu được trao phó lại quan trọng đến thế!
Là Vua Tình Yêu, Đức Giêsu muốn thần dân của Ngài tiếp tay với Ngài để biến đổi thế giới hận thù, bạo lực thành thế giới yêu thương, an bình. Ngài muốn xây dựng một thế giới mới của Tình Yêu, một thế giới, ở đó mọi người nhận biết nhau là anh em, con cùng một Cha trên trời, một thế giới của lòng thương xót được chính Thiên Chúa giầu lòng xót thương qủan cai, chăm sóc như Mục Tử chăm sóc, quản cai đòan chiên yêu qúy của mình.
Đức Giêsu là Vua khiêm hạ: Đức Giêsu đến trong thế gian để làm Vua, như Ngài đã khẳng định trước quan Philatô (x. Mt 27,11), nhưng Vương Quyền của Ngài không như vương quyền của các vua chúa thế gian, vì Ngài làm Vua “không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mang sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Sứ vụ “Đức Vua” của Ngài thật khác “một trời một vực » với việc làm của các vua chúa thời nay: tham lạm, hưởng thụ, lợi dụng chức quyền hà hiếp, bóc lột dân đến tận xương tủy đến vô cảm, vô tâm, vô đạo đức…
Sự khiêm hạ của Vua Giêsu còn đuợc biểu hiện qua cung cách, thái độ bên ngoài như qùy xuống rửa chân cho môn đệ, ngồi trên lưng lừa con bé nhỏ, đơn sơ tiến vào thành thánh giữa rừng người dậy sóng “Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!” (Mc 11,9) như ngôn sứ Dacaria đã tuyên sấm: “Hỡi thuếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò! Vì kià Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dc 9,9) ; và đặc biệt hơn cả là Ngài đã khiêm hạ “tự đồng hoá mình” với những người nghèo đói, đau ốm, tù đầy, tha hương, bị bạc đãi, bỏ rơi, bị khước từ, nguyền rủa, như Ngài đã qủa quyết trước những người lành đã yêu thương, phục vụ anh chị em bất hạnh, kém may mắn của họ: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Thời nay, dân được gặp quan huyện, quan xã đã là chuyện hiếm hoi, qúa khó, nói gì đến Vua Chúa xuống với dân. Thế mà Đức Vua “Ngôi Lời” đã khiêm hạ tự nguyện xuống thế làm người, mà còn làm người yếu đuối, nghèo nàn, hèn mọn nhất trong những người hèn mọn, nghèo nàn, yếu đuối…
Xin Đức Giêsu, Vua nhân hậu, Vua khiêm hạ, Vua tình yêu, Vua Lòng Thương Xót ban cho Giáo Hội nhiều mục tử có trái tim của Chúa để dân Chúa ngày càng được “sống và sống dồi dào” như đoàn chiên “chẳng thiếu thốn gì, được nằm nghỉ trong đồng cỏ xanh tươi, bên dòng nước trong lành” (Tv 22,1-2), vì “có lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ suốt cuộc đời, và được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 2,6).
Đoạn Tin Mừng hôm nay đã thay đổi định hướng sống và trở thành chương trình hành động của TN 34-ABC446
Đoạn Tin Mừng hôm nay đã thay đổi định hướng sống và trở thành chương trình hành động của người nữ tu Têrêsa Calcutta. Lời Chúa hôm nay cũng chính là Lời Chúa mà mẹ đã từng nghe, từng đọc, từng suy gẫm, nhưng nay mới nhận ra một điều thật mới lạ làm chấn động trái tim mình. Đó là những người nghèo khổ, xấu số, bất hạnh… không chỉ là những người đáng thương cần cứu giúp mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đang đau khổ. Mẹ đã “tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”. Từ đó, mẹ đã say mê phục vụ những bệnh nhân tồi tàn, đã cúi xuống bên những người kiệt sức, đã cứu giúp những người tàn tật, đã ôm về những người bị bỏ mặc cho chết bên vệ đường. Mẹ nhận ra phẩm giá cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Đối với mẹ, lòng thương xót là “muối” khiến cho mỗi việc mẹ làm thêm đậm đà hương vị, và là “ánh sáng” chiếu soi đêm tối của những cuộc đời không còn nước mắt nữa, mà khóc thương cho sự khốn cùng của mình.
Mỗi người khốn cùng cũng là một bí tích, là nơi mà chúng ta có thể thực sự gặp gỡ chính Đức Giêsu. Trong dụ ngôn ngày phán xét, Vua Giêsu đã đồng hoá mình với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay tù đày, mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày. Ngài ẩn mình hay đúng hơn Ngài tỏ mình qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay xin ta giúp các anh chị em bé mọn nhất của Ngài: những người lầm than khốn khổ và bệnh tật nghèo hèn; những người dốt nát và mù chữ; những người đang sống nơi đầu đường xó chợ; những người bị suy sụp tinh thần; những người không nơi nương tựa và đang sống cô đơn buồn tủi; những người góa bụa con côi: những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê; những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác, và bị đẩy ra bên lề xã hội.
Sự tổn thương nặng nề nhất của người nghèo hôm nay là bị tuốt lột nhân phẩm, bị bóc lột nhân cách, bị trấn lột nhân tính, để rồi cuối cùng bị khinh khi chế giễu, bị coi là vô dụng, thừa thãi. Và như vậy, sự ác lớn nhất của con người hôm nay là mất tình yêu, là dửng dưng, vô cảm.
Thế giới ngày càng văn minh tiến bộ, nhưng vẫn còn đầy bất công và tội ác, không chỉ do những kẻ ác gây ra mà còn do người ta im lặng trước sự ác. Martin Luther King đã lên án: “Thế giới đang chìm đắm trong đau khổ, không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà vì sự im lặng của những người tốt”. Hóa ra những người tốt cũng là những kẻ xấu, vì đã đồng lõa hay thỏa hiệp với sự dữ: khi chỉ lo cho bản thân mà không quan tâm đến tha nhân; khi không dám nói lên sự thật; không dám lên tiếng cho những người thấp cổ bé họng, không dám che chở những người thất thế cô thân,v.v…
Có thể nói mỗi người chúng ta đang xây dựng hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu cho mình ngày qua ngày. Chúng ta sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm hay không làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Ngài, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; là các việc Ngài đã làm, và ai làm như thế cho tha nhân là làm cho chính Ngài.
Bài học của đoạn Tin Mừng hôm nay đã quá rõ: đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu; tình yêu đối với tha nhân cũng chính là tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm được gọi là “tốt” đối với anh chị em, ta hãy làm mọi việc cho họ như làm cho chính Chúa. Hãy thay đổi định hướng sống và chương trình hành động một cách cụ thể, cho phù hợp với lòng thương xót Chúa trên cuộc đời mình, để góp phần với Chúa Giêsu, Vua vũ trụ, Đấng đang qui tụ những người lành để làm nên một thế giới tình yêu tinh ròng.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Tha nhân cũng chính là bản thân con trong mọi liên hệ của đời sống, vì cũng được cứu chuộc bởi giá máu của Ngài.
Con chỉ kiện toàn được bản thân, trong tình liên đới với tha nhân, từ những trắc trở và khổ sở buồn rầu, hay những vui mừng và lo âu của họ; từ những thất bại đến thành công, hay những hy vọng và chờ mong của họ; từ những sa lầy và đau thương tội lỗi, hay những sám hối và vươn lên của họ.
Lạy Chúa Giêsu! Vua vũ trụ, cũng là Vua tình yêu muôn thuở, Cho con trở nên nhịp đập của trái tim Chúa, biết cùng rung cảm chân tình và sâu lắng về từng hiện trạng cay đắng của con người
Chúa đã cúi xuống trên cuộc đời con, cuộc đời tăm tối và hư vô vì tội lỗi, xin cho con biết cúi xuống thật sâu, để đỡ nâng những người khốn khổ u sầu, vì họ cũng chính là Chúa chịu thương đau, để cho cuộc sống con được đẹp mầu.
Xin cho con một trái tim cảm thấu, một trái tim nung nấu sống tình yêu, để con dám hành động thật nhiều, cho bao người đang lầm than túng thiếu, góp phần cho cuộc sống bớt tiêu điều, để ngày Chúa đến vui mừng biết bao nhiêu! Amen.
Giêsu, Đức Vua Tình Yêu! Xin Ngài soi chiếu đường tình yêu chúng con. Cho từng trái tim cháy TN 34-ABC447
“Giêsu, Đức Vua Tình Yêu! Xin Ngài soi chiếu đường tình yêu chúng con. Cho từng trái tim cháy lên lửa mến thiết tha. Cho đời sáng tươi cho ân tình ngát hương hoa” (Bài hát: Giêsu Vua Tình Yêu – Ân Phúc).
Lặng nghe lời ca tha thiết, ta thấy lòng bừng cháy một khát khao: được yêu như Chúa yêu.
Những tháng ngày lặng lẽ trong đời, ta cảm nhận thật rõ những phút giây của yêu thương tràn đầy. Chúa yêu ta từ trong những lỗi lầm của ta. Có nhiều lần, ta ngậm ngùi nghe lời than thở của Người: “Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?” (Mc 9,19). Chỉ có tình yêu mới giúp cho người ta có thể đón nhận được sự khác biệt của người khác. Nó làm cho họ có khả năng chịu đựng được cả những kẻ cứng lòng tin. Chúa Giêsu đã rất yêu ta. Người kiên nhẫn chờ đợi để ta được lớn lên. Thế rồi, một ngày kia, cũng trong giây phút chuyện trò thân thương, Người nói với ta: “Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 18, 20). Lời ấy đi thẳng vào trái tim ta và làm cho nó ấm lên.
Chúa Giêsu là Đức Vua Tình Yêu. Tình yêu Người dành cho ta cao quý dường bao. Ta được Người yêu thương vô điều kiện, tình yêu ta nhận được làm cho ta lớn lên, trở nên giống Đấng đã yêu ta. Nghĩa là, ta cũng hãy yêu thương người khác vô điều kiện như Chúa đã yêu ta vậy. Trong ngày sau hết, ta sẽ trình diện trước Đấng đã yêu ta như thế nào? Ta sẽ là “chiên” hay “dê”? được vào hưởng phúc hay bị đẩy ra chốn tối tăm? Trong ngày phán xét, tất cả mọi người đều phải mang theo lễ phẩm là tình yêu mà mình đã trao ban cho người khác (x. Mt 25, 31-46). Ta có ngờ đâu, khi yêu thương ai là ta yêu thương chính Chúa, ta từ chối ai là từ chối Chúa. Chúa Giêsu đã cho ta biết trước điều ấy, để đang khi còn được sống trên cõi đời này, ta biết thực thi lòng bác ái với mọi người. Muốn yêu người khác, ta phải biết quên mình đi. Quả thật, nhiều lúc, ta đã chỉ biết nghĩ đến mình: khi đang dở dang công việc, thật khó để đến giúp người khác; khi đang rơi vào cảnh túng quấn, thật khó để nghĩ đến người đang nghèo túng hơn ta; … Chỉ khi nhìn thấy Chúa nơi người thân cận, ta mới có thể yêu thương họ. Mỗi ngày, ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần Tình Yêu đến với tâm hồn lạnh lẽo của ta, để Người làm bừng cháy lên trong trái tim ta tình yêu của Chúa, xin Người mở đôi mắt để ta nhìn thấy Chúa nơi người thân cận. Ta nhìn thấy Chúa nơi người khác bằng đôi mắt đức tin.
Lạy Chúa! Xin củng cố đức tin cho con, cho con được hiểu biết Chúa hơn và yêu mến Chúa hơn. Mỗi lần con đến với anh chị em của con, xin cho con luôn nhớ rằng, Chúa đang hiện diện trong họ. Xin cho con nghe được lời mời gọi Chúa dành cho con và can đảm vượt lên chính mình để yêu thương như Chúa muốn. Amen.
Chúng ta thường đánh giá nhau theo vẻ bề ngoài. Một người ăn mặc lụa là, trang sức long lanh TN 34-ABC448
Chúng ta thường đánh giá nhau theo vẻ bề ngoài. Một người ăn mặc lụa là, trang sức long lanh, giàu có, chúng ta coi trọng họ. Chúng ta cũng thường mặc định: một ông vua phải là người có thế có quyền, luôn có người hầu kẻ hạ, mọi người phải kính trọng và phục tùng. Tư tưởng dẫn đến hành động. Những cái nhìn đó làm cho chúng ta rơi vào những hành động, lời nói sai lầm và dễ xét đoán người khác. Có người giàu có thật, nhưng cuộc sống họ giản dị, ăn mặc bình thường. Cũng có những vị vua thường vi hành thăm dân. Và có một vua không chỉ là vi hành mà còn trở nên như thần dân của mình. Đó là vua Giêsu.
Vua Hêrôđê đã không tin Chúa Giêsu là vua, ông chỉ nhìn thấy con người hiện tại của Ngài: chẳng còn gì ngoài sợi dây xích và thân mình tả tơi. Ông cũng không tin Chúa Giêsu là vua, bởi ông nghe các Thượng tế tố cáo Ngài, ông biết hoàn cảnh cùng thân thế của Ngài (x. Mt 27, 11-14). Nhưng Chúa Giêsu thật là vua, không chỉ vua của một nước mà là Vua cả vũ trụ này. Ngài là Con Thiên Chúa- Đấng đã dựng nên vũ trụ này. Chúa Cha đã trao mọi sự cho Chúa Con. Chúa Con luôn sống theo ý Chúa Cha và nên một với Chúa Cha. Ngài là vua vũ trụ, vị vua đã sống kiếp người, mặc lấy những đau khổ và gánh tội cho muôn người. Ngài gánh tội cho đến chết trên thánh giá. Tại Núi Sọ, Chúa Giêsu bị hành hình. Viên đại đội trưởng đang thi hành công việc của mình, ông đã thấy Chúa Giêsu trong giờ phút cuối cùng ấy. Ông đã thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Ông công nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cũng có nghĩa ông công nhận Chúa Giêsu thật là Vua. Một vị vua đã hy sinh tính mạng mình để đem ơn cứu độ và sự hòa bình cho mọi người. Ngài là Vị Vua luôn xem xét và thực hành mọi việc trong tình yêu thương. Ngài xét xử mọi người không theo kiểu thế gian nhưng dựa vào những việc mọi người đã làm cho nhau. Ngài thấy rõ tâm can của mọi người (x.Tv 139). Những ai sống mến Chúa yêu người, Ngài sẽ cho hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ. Còn những ai không mến Chúa yêu người, họ sẽ phải vào lửa đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Qủy và các sứ thần của nó (x. Mt 25,34-43). Ngài không chỉ là vị vua phán xét ở thế gian mà phán xét cả cuộc sống mai sau.
Hãy đến với vua Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, trong Thánh lễ. Một vị vua đã dùng chính mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng thần dân của mình. Trong ngày lễ Chúa Giêsu-Vua Vũ Trụ, chúng ta hãy cầu xin Ngài tiếp tục yêu thương chúng ta và giúp chúng ta nhận ra và tin Ngài là vị vua của mình để chúng ta biết sống xứng đáng là một người dân, người con của Ngài.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ! Ngài là Vị Vua của chúng con. Chúng con nguyện tán dương chúc tụng Thánh danh Ngài đến muôn đời muôn thuở. Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Vua của chúng con ngay ở đời này qua những người nghèo, người đau khổ bệnh tật. Nhờ đó, chúng con sẽ được chung hưởng hạnh phúc trên Nước Trời, nơi Chúa đã dọn sẵn cho con. Amen.
Ngày lễ mừng kính Đức Kitô Vua, xin được nhấn mạnh hai điểm. Thứ nhất mọi tạo vật trên trời TN 34-ABC449
Ngày lễ mừng kính Đức Kitô Vua, xin được nhấn mạnh hai điểm. Thứ nhất mọi tạo vật trên trời, dưới đất đều run sợ, phủ phục trước vinh quang Chúa; thứ hai Đức Kitô là vua toàn thể vũ trụ.
Trong ngày phán xét, Đức Kitô đến trong vinh quang. Thiên Thần Chúa quy tụ muôn dân, muôn nước trước Con Thiên Chúa. Mọi tạo vật đều run sợ, phủ phục trước vinh quang Con Thiên Chúa để nghe Ngài đưa ra phán quyết sau cùng. Điều này cho biết Đức Kitô là Đấng duy nhất có tiếng nói cuối cùng về cuộc sống trường sinh. Thần dữ là ma quỉ có sức mạnh, ảnh hưởng cám dỗ bao lâu con người còn hơi thở, còn bị chúng cám dỗ, mua chuộc. Chúng tung hoành, tác oai, tác quái khi con người cộng tác với chúng. Khi con người lìa cõi thế không còn khả năng cộng tác với chúng nữa. Chúng câm lặng trong ngày phán xét bởi chính chúng bị Thiên Chúa tuyên án phạt. Sức mạnh của thần chết xem ra có tiếng nói trên thân xác con người. Đây là một hiểu lầm rất lớn do ma quỷ ngụy tạo. Con người sinh ra trên mặt đất, con người sống hay chết, ngày giờ ra đi đều do quyền năng Thiên Chúa. Ngài cho người nào sống bao lâu nơi trần gian đều do Ngài quyết định. Việc ra đi, thời gian giã từ cõi thế của mỗi cá nhân đều nằm trong tay Thiên chúa. Thần chết tự nhận có tiếng nói đó. Thực ra chúng không có. Sau khi linh hồn lìa khỏi xác, giã từ trái đất, Đức Kitô là Đấng duy nhất đưa ra phán quyết thưởng, phạt, công minh về cuộc sống con người. Trước tôn nhan Thiên Chúa, mọi loài thụ tạo đều run sợ. Run sợ vì nhiều lí do. Thứ nhất, đây là đầu và cũng là lần cuối cùng mọi thụ tạo nhìn thấy Vinh quang Con Thiên Chúa. Thứ hai, Vinh Quang Chúa cao sang hùng vĩ vượt qua diễn tả của con người. Tựa như bình nhựa không thể đựng acid, mà phải là bình sành. Nhân loại không thể đón nhận vinh quang Thiên Chúa mà không run sợ, phủ phục bởi nhân loại không được tạo dựng để trực tiếp đón nhận vinh quang Chúa. Kinh nghiệm của các tông đồ trên núi thánh Khi Đức Kitô biến hình. Các ông không nhìn thấy vinh quang Chúa, chỉ nghe tiếng Ngài phán ra trên không trung như tiếng sấm gầm, các ông thấy khuôn mặt Đức Kitô sáng rực và áo Ngài trở nên tuyết trắng. Chính những biến đổi này khiến các ông run sợ, phủ phục, cúi mặt xuống mặt đất Mt 17,2.
Trong ngày phán xét, nhiều linh hồn vừa run sợ, vừa nhảy mừng, hoan ca, vui vẻ, vì ngày vinh quang đang đến để được kết hợp với Đức Kitô, Đấng mà họ một đời chuyên tâm trung thành. Cũng trong ngày đó một số vừa run sợ, vừa vỡ lẽ. Run rẩy, vỡ lẽ bởi giờ đây họ nhận biết tính kiêu căng, tự phụ, tự mãn đã lừa dối họ. Họ tự chọn từ chối sống theo hướng dẫn của Con Thiên Chúa. Họ tự chọn đặt í riêng họ lên trên í Chúa. Chính cái hiểu biết, sự khôn ngoan, thông thái của họ lừa dối, gạt gẫm họ đi đến tình trạng chối bỏ Một Thiên Chúa hiện hữu. Giờ phút này họ mới nhận biết sai lầm thì đã quá trễ. Sợ hãi dồn dập tâm hồn họ như những cơn sóng, cơn sau mạnh hơn cơn trước, áp đảo tâm thần họ, xô lấp tâm can, vùi dập cuộc đời họ. Nơi trần thế có thời họ lập mưa dìm người nọ. Họ tạo gió, đè người này. Họ lập mưu ép người kia. Giờ đây chính họ nhận hậu quả do họ gây nên cho tha nhân, tác oai, tác quái trên đồng loại. Nạn nhân của họ được Đức Kitô đón vào Thiên quốc. Trong giây phút họ biết rõ bạc phận, vô phước đời họ gây nên. Con Thiên Chúa cũng không đáp ứng lời họ khóc than, bởi trước đó họ từng từ chối tiếng khóc than, kêu oan của tha nhân. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta Jn 10. Họ từ chối nghe tiếng gọi Chủ Chiên. Họ chọn cuộc sống hoang dại, vì thế họ bị từ chối vào chung đàn chiên. Họ sống ngoài chuồng chiên và lang thang vào vùng tăm tối.
Đức Kitô an ủi chiên Ngài. Bởi các ngươi đã trung tín rong việc nhỏ Mt 25,12. Sống đời sống cố gắng phục vụ tha nhân, trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa. Giờ đây Kitô hữu vào hưởng cuộc sống trường sinh, tràn đầy hạnh phúc, Hãy vào hưởng gia nghiệp Cha Ta đã dành sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên, lập địa c.3. Nơi trần thế Kitô hữu sống cho Thiên Chúa nhiều hơn cho chính họ. Kitô hữu làm cho giáo huấn của Đức Kitô sống động trong đời sống tha nhân. Đức Kitô trao cho Kitô hữu trách nhiệm chăm sóc kẻ ốm đau, nâng đỡ người già cả, an ủi kẻ sầu khổ và thăm viếng kẻ ốm đau. Kitô hữu đã hoàn thành trách nhiệm trao phó. Trách nhiệm mà khi còn tại thế Chính Đức Kitô thực hiện điều đó và Kitô hữu nối tiếp tốt đẹp công việc Ngài khởi sự. Giờ đây Kitô hữu vào hưởng phúc trường sinh, nơi không còn lệ rơi; tang thương bỏ lại trần gian; đau khổ bị tiêu diệt. Thay vào đó là hoà bình vĩnh cửu, tình yêu chan hoà.
Điểm thứ hai. Chúng ta có thể khẳng định Đức Kitô không phải chì là vua cho một thiểu số, cho dân riêng Chúa. Đức Kitô là vua toàn thể vũ trụ. Điều này được xác định bởi Ngài có toàn quyền trên trật tự thiên nhiên. Ngài ra lệnh cho sóng biển êm dịu và chúng vâng phục Ngài Mt 14. Ngài ra lệnh cho gió bão êm lại và chúng liền vâng phục. Đối với bệnh tật và các chứng nan i, bất trị. Ngài lên tiếng là chúng biến mất, bệnh nhân lành như chưa hề mắc bệnh. Người què đi được, câm ca hát, điếc nghe tiếng chim hót đầu ngành, mù thấy mặt trời mọc và kẻ chết sống lại. Ma quỉ trông thấy bóng dáng Ngài chúng than trách sợ bị tiêu diệt Mt 8,29. Ngài phá tan xiềng xích tội lỗi trói buộc con người. Mọi quyền lực, sức mạnh trong vũ trụ đều phủ phục dưới chân Ngài. Vua vũ trụ kêu gọi các môn đệ học từ Ngài để trở nên công chính. Công chính trong lời nói, công chính trong hành động. Công chính bắt nguồn từ lối sống khiêm nhường, phục vụ khiêm nhường bằng các hành động nhỏ mọn, tầm thường. Việc tầm thường đến độ môn đệ không nhận ra, khi họ thực hiện điều đó cho tha nhân chính là thực hiện điều đó cho chính Đức Kitô Mt 11,29. Điều đó thành sự thực bởi chính Đức Kitô đồng hoá Ngài với kẻ hèn mọn, nghèo hèn, kẻ vô gia cư, kẻ xã hội làm ngơ. Cuộc sống trần thế Đức Kitô hiểu rõ điều đó. Ngài bị chối bỏ, bị xua đuổi, thành dân tị nạn, bị đói khát ngay cả trong giờ chết. Những ai tự chọn sống theo í riêng sẽ không thể sống chung với những ai chọn sống theo í Chúa. Chọn sống yêu thương, theo í Chúa sẽ được Chúa yêu thương; chọn sống theo í riêng sẽ sống trong đêm đen.
Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất, và Ngài “có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28) Thật vậy TN 34-ABC450
Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất, và Ngài “có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28) Thật vậy, sau khi phục sinh, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với 11 môn đệ tại Galilê và xác nhận: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18)
Chúa Giêsu được toàn quyền, nghĩa là Ngài cũng là Thẩm Phán xét xử trong ngày chung thẩm. Ngài xét xử đầy lòng thương xót nhưng cũng rất thẳng thắn, công minh. Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai.” (Hc 35:12; Đnl 10:17-18; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9) Kinh Thánh còn cho biết chi tiết với cách nói mạnh mẽ hơn: “Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè. Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt.” (Kn 6:7-8)
Đó là luật công bằng, như Chúa Giêsu đã xác định: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” (Lc 12:48) Tuy nhiên, bản chất vốn dĩ là tình yêu nên Thiên Chúa có đặc điểm bất biến: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26) Nếu Thiên Chúa chấp tội thì chẳng ai có thể đứng vững trước Tôn Nhan Ngài. (Tv 130:3) Thật vậy, “Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm.” (Tv 103:10)
Trong xã hội loài người, các lãnh thổ khác nhau chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia, mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, phàm ngôn gọi là nguyên thủ quốc gia – thay đổi tùy thời: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,… Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng – người kế vị Thánh Phêrô cai quản Giáo Hội tại thế.
Người ta có câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Dĩ nhiên đó là nói về thế gian. Các nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là duy nhất, vĩnh viễn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục.” (Lc 12:5) Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài KHÔNG có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Rất rõ ràng.
Theo chiết tự chữ Hán, chữ Vương (vua, 王), ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên, Nhân, Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng” với ý nghĩa “vua là người nối kết trời, đất và con người.” Đúng theo nghĩa đó thì trọng trách nặng nề lắm, nhưng vua trần gian chẳng mấy người như vậy, đôi khi họ còn ngược ngạo, hống hách, làm khổ dân mà thôi. Tương tự, gần gũi chữ Vương (王) là chữ Chủ (主), cũng có nghĩa là Chúa, viết như chữ Vương và có thêm “ngọn lửa” ở trên, với ý nghĩa: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa trên đầu ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi theo ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự thật thâm thúy, đúng là chữ phải có nghĩa.
Đệ Nhất Thiên Vương là Chúa Giêsu, vì Ngài là Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Có điều rất kỳ lạ: Vua chúa trần gian có mọi thứ, còn Chúa Giêsu là Vua Đa Không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,… Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang.
Tại sao như vậy? Chính Chúa Giêsu minh định với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.” (Ga 5:22, 26-27)
ĐỨC VUA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Thật khủng khiếp với quyền sinh sát trong tay vua chúa trần gian: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Vì họ tự nhận là Thiên Tử – Con Trời, hét ra lửa, mửa ra quyền. Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Là Vua các vua, nhưng Chúa Giêsu luôn động lòng trắc ẩn, chạnh lòng thương xót. Ngài đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài nhắn nhủ: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu là Vua Thương Xót, luôn nhân hậu, nhân ái và từ tâm.
Chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.” (Ed 34:11-12) Thật vậy, khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở ngay bên; khi cuộc đời êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc sống như ở trong ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự như thế, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo, vì đức tin còn yếu kém.
Là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa biết rõ chúng ta thế nào, và Ngài đã xác định: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.” (Ed 34:15-17) Ngài không bỏ qua bất cứ ai, người nào càng đau khổ thì càng được Ngài thương xót. Thật vậy, Ngài không phân biệt, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để tìm cho được 1 con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh. (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7) Phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn đạt lòng thương xót mầu nhiệm như vậy.
May thay, hiếm nhưng vẫn có: Các vua chúa trần gian ít có người đích thân vi hành như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa. Ông là vua tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Có đến thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo,” liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!” Ngay cả tỉnh trưởng hoặc quận trưởng cũng vậy, chẳng mấy người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân. Đạo cũng không khác lắm, có bao nhiêu giám mục hoặc linh mục tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” như vậy, có lẽ nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm. Đúng là “sự thật mất lòng” mà.
Quả thật rất ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân, ngài đã sống đúng khẩu hiệu giám mục của ngài: “Caritas et Amor – Bác Ái và Yêu Thương.”
Cuộc đời luôn có những ngịch lý: Biết nhiều thì khổ nhiều; thấy nhiều thì chán nhiều; nghe nhiều thì nóng máu. Làm ngơ thì người ta nói mình sợ, nói ra thì bị ghét. Thẳng thắn sẽ va chạm, chỉ khổ mình thôi. Thế nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ vào hùa, đồng lõa. Thật may còn có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Mỗi tín nhân đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy thì hạnh phúc biết bao!
Chắc chắn đức tin phải được tôi luyện trong gian truân thì mới có thể dần dần trở nên tinh ròng, và lúc đó người ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:4-5) Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Thật là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc đó không thể có nếu cứ sống tà tà. Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để chúng ta lâm vào ngõ cụt, bởi vì bản chất của Ngài là tình yêu, (1 Ga 4:8 và 16) mà tình yêu thì bất diệt.
Chúa Giêsu là Để Nhất Thiên Vương, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, chúng ta không thể sống khác nếu muốn đi theo Ngài.
Ngài là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét đến nỗi giết Ngài, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, và cai trị cả Tử Thần. (x. 1 Cr 15:25) Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” (1 Cr 15:20-24)
Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên hoàn toàn hợp lý khi Ngài có toàn quyền: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.” (1 Cr 15:25-27) Đức Kitô là Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28)
Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh, bảo – bửu,…), thậm chí muốn tâu bẩm cũng phải tránh né: “Muôn tâu bệ hạ!” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ôi, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu thì không sợ “phạm húy,” cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài.”
ĐỨC VUA CÔNG MINH CHÍNH TRỰC
Thiên Chúa “xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người, và xét xử muôn dân theo lẽ công bình.” (Tv 96:13 và Tv 98:9)
Trình thuật Mt 25:31-46 nói về thời điểm Vua Kitô xét xử nhân loại. Về cuộc phán xét chung, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế: Chiên và Dê. Hình ảnh gần gũi với đời sống. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “bắt mắt,” còn dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “khó nhìn.” Chiên là người lành, dê là kẻ dữ. Rất dễ hiểu.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han.” (Mt 25:34-37)
Nghe Vua Kitô nói vậy, họ ngạc nhiên vì họ chưa hề thấy Chúa gặp hoạn nạn mà giúp đỡ, nhưng Chúa Giêsu xác định: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy.” (Mt 25:41) Thật lạ lùng quá chừng!
Tương tự, Đức Vua nói với những người ở bên trái những điều như đã nói với những người bên phải, chỉ khác chữ KHÔNG. (Mt 25:42-44) Và họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị KHÔNG làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã KHÔNG làm cho chính Tôi vậy.” (Mt 25:46) Hết lý lẽ để biện minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời, (Mt 25:14-30) và thực hành đức ái. (Mt 25:31-46)
Đức Vua không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hay “bà nọ” để được ưu tiên. Có lẽ chúng ta nghe nhiều và nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa vui tính, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại,” thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không loại trừ. Người ta cứng lòng, tự mãn, hay giả mù sa mưa?
Thực sự không hề dễ để có thể nhận ra Chúa nơi người khác, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay.”
Yêu thương là xót thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng, (Ga 13:1) Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là qua Bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta cố chấp mà thôi. Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận.” Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Như vậy thì chúng ta không công bằng với Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta bất công với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua các vua nhưng không được tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt mau hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá.” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15) Quả thật, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân xưa.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, suốt ba năm hoạt động công khai, hằng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người nghèo khổ nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của mọi người. Là Vua với đầy quyền lực trong tay, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như đã nói: “Ai làm lớn phải phục vụ.” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Thật diễm phúc khi chúng ta là thần dân của Vua Kitô Giêsu!
Lạy Đức Vua Kitô Giêsu, xin tỏ cho con thấy tình thương của Ngài và ban ơn cứu độ cho con. (Tv 85:8) Xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. (Tv 106:4) Xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu, vì chính Ngài làm chủ muôn dân. (Tv 82:8) Xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Chân Lý và Tình Yêu cao cả. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, hằng sinh, đồng hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.