Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 30 TN-A Bài 151-187: Điều răn trọng nhất ------------------------------------------ Tin mừng: Mt 22,34-40
34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. - 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” ------------------------------------------ Mục Lục:
Tin mừng Mt 22: 34-40: Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ TN30-A151
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: "Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).
Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.
Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.
Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.
Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói: “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.
Chủ đề: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13, 10).
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Trong Phúc Âm, Chúa Giê-su lớn tiếng tuyên bố: “Ngày sabat được lập ra vì con người, chứ không TN30-A152
Trong Phúc Âm, Chúa Giê-su lớn tiếng tuyên bố: “Ngày sabat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabat. Bởi thế, Con Người làm chủ cả ngày sabat” (Mc 2, 27 – 28).
Tuyên bố của Chúa Giê-su giãi sáng chân lý “Luật vị nhân sinh”, nghĩa là, lề luật được đặt ra nhằm mưu cầu hạnh phúc cho con người và cộng đoàn.
Khi hành xử theo nguyên tắc “luật vị nhân sinh”, con người sẽ trở nên dịu dàng, nhân ái, luôn biết chạnh thương, biết cách đối nhân xử thế phù hợp cho mỗi hoàn cảnh, trên nền tảng công lý và tình thương.
Chúa Giê-su kể dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu. Ngài đã phong thánh cho người biết xót thương người bị nạn và hối thúc tất cả hãy làm như vậy, để đáng hưởng sự sống muôn đời.
Với Chúa Giê-su, nền tảng của lề luật chính là tình yêu và sự sống. Ngài ban lề luật, tất nhằm phục vụ lợi ích con người.
Vậy nên, thánh Phao-lô tóm tắt trong một câu, diễn tả tất cả ý nghĩa của luật: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 10).
Thưa anh chị em,
Nguyên tắc “luật vị nhân sinh” giúp chúng ta hiểu hơn giáo huấn Lời Chúa hôm nay.
Bài đọc I, trích sách Xuất Hành, Mô-sê thiết lập những nguyên tắc hướng dẫn dân khi được định cư trong phần đất Chúa hứa. Họ phải tuân thủ các nguyên tắc đó cách nghiêm ngặt để được hưởng bình an, hạnh phúc và sống lâu dài.
Luật cấm ngược đãi, bóc lột ngoại kiều, cấm cho vay, cầm cố nặng lãi, cấm thu giữa những vật dụng thiết yếu đảm bảo sinh mạng, đều nhắm tới con người là trên hết.
Lòng nhân ái của Israel phải mang đặc tính đại đồng, loại trừ phe nhóm bộ lạc, địa phương. Nếu xưa kia họ đã phải trải qua cảnh nô lệ, bị ngược đãi, bị bóc lột, thì đừng gây tai họa, bất công trên những người khác. Đây chính là cốt lõi của luật lệ vị nhân sinh, bởi nó được thiết lập trên sự công bình và tình bác ái.
Mô-sê, khi ban hành luật, đã có chủ đích luật vì con người. Ông là hình ảnh tiền trưng của Đấng ban hành lề luật cho muôn dân, Đức Giê-su Kitô.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, thu gọn mọi luật lệ bằng một giới răn độc nhất “Tình yêu”: Mến Chúa và yêu người, được xem là chu toàn cả lề luật. Luật mến Chúa, yêu người được thực thi cách chân thành giúp bước đi quân bình trên đôi chân khỏe mạnh, có nghĩa là: phải thi hành điều này và không được quên lãng điều kia. Cả hai hiện diện ở trong nhau, bổ túc cho nhau cách hài hòa, hiệu quả.
Yêu mến tha nhân trong Chúa, mới là yêu mến thật, không nhuốm mầu giả dối, ích kỷ, vì kẻ thực hành như vậy, thì đã học được nơi Chúa tình yêu đích thực, hành động vì một tình yêu luôn luôn lớn hơn.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, coi việc phục vụ trong Thánh Thần mới là phục vụ đích thực, mới là yêu thương như Chúa. Ở giữa cộng đoàn, ngài nêu gương yêu thương nhằm mưu ích cho anh chị em. Phao-lô thúc giục cộng đoàn, noi gương ngài mà biết sống yêu thương chân thành, bởi lẽ: yêu thương không làm thiệt hại người nào, và hơn thế, yêu thương là chu toàn tất cả lề luật.
Thưa anh chị em,
Áp dụng giáo huấn Lời Chúa, đức giáo hoàng Gioan Phaolô 2 thúc giục chúng ta sống lòng thương xót đại đồng. Không coi ai là xa lạ, không lợi dụng hoàn cảnh để bóc lột người khác. Người kitô hữu phải luôn trân trọng, lấy con người làm gốc, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương.
Là kitô hữu, chúng ta không được tự nhốt mình bằng những quan niệm cực đoan, quá khích, dứt khoát nói không với văn hóa loại trừ và khăng khít với văn hóa toàn thể.
Kính thưa cộng đoàn,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại quan niệm và cách hành xử của mình. Tôi thuộc típ người “vị luật” hay “vị nhân sinh”?
Nếu câu trả lời là “vị nhân sinh”, tôi dám chắc mình đang là môn đệ của Chúa Giê-su! Tôi đang suy nghĩ và sống như Giê-su, chỉ muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ. Tôi sẽ đối xử nhân ái với mọi người: “không kết án người vô tội”, vì luôn tôn trọng quan điểm riêng của họ.
Khi dốc lòng hành động “vị nhân sinh”, chúng ta đặt con người trên tất cả và trong khi phục vụ họ, chúng ta học được lòng xót thương, nhân ái. Đây là toa thuốc đặc chủng chữa trị tính vô cảm đang là đại dịch trong tàn phá nhân loại.
Xin Chúa Giê-su, Đấng làm chủ ngày Sabat, giúp chúng ta học được tâm tư của Chúa, để trong tình yêu Ngài, chúng ta trở nên sứ giả hoàn bình: đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, nhờ đó, chúng ta góp phần làm cho Danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến. Amen.
Điều răn nào trọng hơn? Có lẽ chúng ta không đặt câu hỏi như thế bao giờ. Nhưng đối với người TN30-A153
Điều răn nào trọng hơn? Có lẽ chúng ta không đặt câu hỏi như thế bao giờ. Nhưng đối với người Do Thái thì không như vậy, vì trong Luật cũ, có rất nhiều điều cấm cũng như rất nhiều điều răn.
Theo các nhà chuyên môn thì trong Luật cũ có đến 365 điều cấm tương đương với số ngày trong một năm. Vậy điều nào trọng hơn? Các nhà thông luật muốn đo tầm mức của Chúa Giêsu bằng một câu hỏi khá gay go, hơn nữa cũng là dịp để họ bắt bẻ Ngài. Ngài biết nhưng Ngài vẫn trả lời và câu trả lời của Ngài chính xác đến nỗi họ không biết nói gì hơn là chấp nhận. Ngài nhắc lại Kinh Thánh và kèm theo một giới răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Ngài ghép hai điều luật lại với nhau như hai khía cạnh của một tình yêu. Câu trả lời của Ngài cũng là một nhắc nhớ cho chúng ta.
Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức…
Chúng ta làm sao yêu mến Chúa?
Chúa ban cho chúng ta một quả tim để yêu thương. Chúng ta yêu người thân, yêu anh em… thì việc đó không có gì lạ lùng, nhưng yêu mến Chúa, Đấng chúng ta không bao giờ thấy thì làm sao yêu được? Yêu mến Chúa không phải là do khả năng của chúng ta mà là do một hồng ân. Chúng ta là con người xác thịt, Thiên Chúa là Tình Yêu, nhưng là Đấng thiêng liêng, yêu Chúa bằng con tim nhỏ bé của chúng ta là một điều không thể. Nhưng tại sao Chúa lại bảo chúng ta yêu mến Chúa? Và yêu đến hết lòng hết sức? Chúng ta không tự mình yêu mến Chúa nếu Chúa không nâng đỡ chúng ta. Ngài có cách tỏ tình. Ngài tỏ tình bằng cách sai Con Một đến với chúng ta, tỏ tình với chúng ta. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa qua Chúa Kitô mà thôi, Chúa Giêsu tỏ tình bằng nhiều cách, bằng cuộc sống trần gian của Ngài, bằng cái chết đau đớn của Ngài vì chúng ta. Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Chỉ có một con đường duy nhất đó để đến với Chúa Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Chúa Giêsu đến trần gian là để dạy chúng ta yêu mến Cha trên trời. Nhìn Ngài yêu mến Chúa Cha, chúng ta mới thấy được phải yêu Chúa Cha như thế nào. Chính Chúa Con mới yêu mến Chúa Cha đúng nghĩa là yêu mến hết lòng hết sức… Yêu mến Chúa Cha, Ngài chỉ nói đến một điều: “Ta làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Đến nỗi ý Cha là của ăn của Ngài: “Của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người”. Việc thi hành ý Cha không phải đơn thường mà đưa Ngài đến cái chết, đưa đến đau đớn tột cùng đến nỗi Ngài phải cầu khẩn trong mồ hôi máu: “Nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con, mà theo ý Cha”.
Đó là tình yêu nguyên vẹn, trong suốt, thuần túy. Chúng ta yêu mến Chúa Cha khi chúng ta đi theo Chúa Giêsu và yêu mến Chúa Giêsu, vì “Chúa Cha với Ngài là một”. Nhưng yêu Chúa Giêsu thế nào? Cũng bằng con đường thực tế đó là “giữ lời của Ngài”. Như Ngài đã làm theo ý Chúa Cha thế nào, chúng ta cũng phải làm theo ý Ngài như vậy. Ngài là hiện thân của Chúa Cha, là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, vì thế, yêu mến Ngài chính là yêu mến Chúa Cha.
Yêu mến là làm theo ý của người mình yêu. Đó là định luật của mọi tình yêu. Con cái yêu cha mẹ là vâng lời cha mẹ trọn vẹn. Vợ chồng yêu nhau là làm theo ý người mình yêu. Hành động chứng minh cho tình yêu. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nói yêu nhau. Nhiều lúc tiếng nói không đi theo hành động. Những tiếng nói yêu nhau dối trá vẫn thường xảy ra. Nhưng hành động là bằng chứng cụ thể của tình yêu. Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu Ngài bằng những hành động cụ thể, bằng vâng phục. Nhiều người cho rằng yêu như thế thì khô khan, không hấp dẫn. Cần phải có con tim, phải có tình cảm. Vâng, đúng thế. Chúng ta không chỉ yêu mến Chúa bằng hành động mà thôi, mà bằng cả con tim nhỏ bé của chúng ta. Làm sao có thể yêu mến Chúa bằng con tim khi Chúa vẫn vô hình? Đây mới là hồng ân. Khi chúng ta làm theo ý Chúa, Chúa sẽ cho chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài bằng những tâm tình nhẹ nhàng và êm đềm, bằng sự bình an mà thế gian không thể ban cho chúng ta. Sở dĩ chúng ta không cảm nghiệm được sự bình an của Chúa vì chúng ta chưa đạt đến sự vâng phục trọn vẹn. Sự vâng phục của chúng ta vẫn còn pha lẫn những ý muốn riêng, vụ lợi hay chưa khiêm tốn đủ. Tại sao các thánh như Phanxicô Assisi, Têrêxa Hài Đồng Giêsu… yêu mến Chúa đến mức độ say mê? Chỉ vì sự vâng phục của họ hoàn toàn trong sáng.
Tình yêu là cho không và cho hết. Tình yêu chân thật là vô điều kiện, là cho đi mà không đòi hỏi lại. Chúng ta có thực sự cho Chúa hết chưa? Hay chúng ta còn vương vấn những ham muốn trần gian, còn tự ái? Muốn yêu mến Chúa phải qua một cuộc thanh tẩy toàn diện, buông bỏ tất cả bản thân. Chỉ còn một mình Chúa mà thôi. Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá…” Chỉ khi nào chúng ta biết bỏ mình thực sự mới có thể yêu mến Chúa, mới thuộc trọn về Chúa. Dù chúng ta ở trong hoàn cảnh nào, có gia đình hay ở trong tu viện, điều kiện tiên quyết vẫn là bỏ mình.
Yêu là trở nên một với người mình yêu. Đây là định luật của tình yêu mà ai cũng biết, nhưng không mấy người đã thực hiện được. Có lẽ về phần xác thì có thể tương đối thành công, nhưng tâm hồn thì rất khó. Vì thế, nhiều gia đình tan vỡ vì không thể nên một với nhau, vì ích kỷ, vì chỉ tìm mình mà không biết nghĩ đến người mình yêu. Chúa Giêsu yêu chúng ta đến nỗi quên mình, dám chết cho người mình yêu. Ngài đã yêu đến tận cùng. Ngài cũng cho chúng ta những gì cần thiết để nên một với Ngài.
Ngài cho chúng ta lời Ngài. Lắng nghe lời Ngài là nên một với Ngài bằng tâm trí. Ngài cho chúng ta Mình Thánh Ngài để nên một với Ngài bằng thân xác, và nhờ đó chúng ta sống với Ngài, trong Ngài trong mọi thực tại của đời sống, như thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không còn là tôi mà Chúa Kitô sống trong tôi”. Tình yêu như thế mới trọn vẹn. Các thánh đã đạt đến tình yêu trọn vẹn đó.
Nhưng chỉ yêu mến Chúa mà thôi vẫn chưa đủ. Chúa Giêsu liên kết hai giới luật với nhau đến nỗi không thể tách rời là yêu mến tha nhân như chính mình. Thánh Gioan cũng lặp lại giới răn ấy: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em là người nói dối”. Nơi khác ngài cũng nói: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Như thế, tình thương đối với Chúa phải gắn liền với tình yêu tha nhân, làm như chúng ta là thành phần của Chúa, và đúng thế, chúng ta là con Chúa. Yêu thương anh em cũng là một cách yêu mến Chúa, và tình yêu đối với Thiên Chúa nuôi dưỡng tình yêu đối với tha nhân. Trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, Đức Bênêđitô XVI đã nói rõ: “Tình yêu trở thành phục vụ”. “Tình yêu tha nhân bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa trước tiên là trách nhiệm của từng người Kitô hữu”.
Chính Chúa Giêsu đã thúc hối chúng ta yêu thương mọi người, bằng chính cuộc sống của Ngài, Ngài chỉ sống cho mọi người và đã chết cho mọi người. Chúng ta chỉ có một mẫu gương duy nhất, đó là Chúa Giêsu. Chúng ta noi gương Ngài để yêu mến Chúa Cha, chúng ta cũng noi gương Ngài để yêu thương tha nhân. Các thánh đã sống yêu thương như Ngài. Chúng ta nghĩ đến Mẹ Têrêxa Calcutta, thánh Đamiên sống chết cho người cùi, thánh Vinh Sơn Phaolô và biết bao nhiêu đấng thánh đã hiến dâng cuộc sống mình cho tha nhân.
Chúng ta đã yêu thương như thế nào? Dấu hiệu đặc biệt của Kitô hữu là bác ái. Chúng ta có mang huy hiệu ấy trên khuôn mặt chúng ta không? Chúng ta mang đồng phục này, người ta mới có thể nhận ra chúng ta là con Thiên Chúa. Chúng ta cũng mang đồng phục này để vào thiên đàng.
Thế giới hôm nay là một thế giới tàn nhẫn, vô nhân đạo. Chiến tranh khắp nơi đưa nhân loại vào chỗ chết và các nước thi nhau vũ trang. Người ta đang thở không khí của chiến tranh, của tham tàn bóc lột, của hưởng thụ vô tâm. Người Công giáo đã làm được gì trong cái xã hội khốn khổ này? Mỗi người chúng ta phải cảm thấy liên đới với mọi người anh em khốn khổ của chúng ta. Chúng ta đừng để cho tâm hồn chúng ta trở nên vô cảm mà luôn trở nên người Samari nhân hậu đối với mọi người chúng ta gặp trên con đường của chúng ta. “Chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu”, thánh Gioan Thánh giá đã nói như thế.
Đứng trước nhu cầu quá lớn, chúng ta không thể làm gì quan trọng, nhưng điều cần thiết là chúng ta có cảm thấy mình phải làm cái gì đó trong hoàn cảnh riêng của chúng ta không? Nhiều người chán nản vì tưởng rằng mình chẳng làm được gì, nhưng “tình yêu Chúa thúc bách chúng ta”, phải làm một cái gì dù rất nhỏ, miễn là làm vì tình yêu, thì chúng ta đã đóng góp một phần nào đó vào kho tàng yêu thương của mọi người thiện chí. Chúng ta không làm một mình, mà cùng với mọi người. Đó là nghĩa vụ cao cả nhất của chúng ta. Đừng mõi mệt làm việc thiện, đừng mõi mệt yêu thương.
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là mẫu gương yêu thương tuyệt hảo. Ngài cho đi, cho hết mà không đòi hỏi lại. Ăn lấy Chúa là bước vào tình yêu của Ngài, vì chính Ngài hoạt động trong chúng ta, cùng với chúng ta. Ngài mong ước chúng ta yêu thương như Ngài đã yêu thương.
“Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bất ngờ và không bất ngờ là những gì chúng ta sẽ chứng kiến trong phụng vụ Lời Chúa của Chúa TN30-A154
Bất ngờ và không bất ngờ là những gì chúng ta sẽ chứng kiến trong phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay; các bài đọc, Thánh Vịnh đáp ca và bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta những bất ngờ và không bất ngờ đầy thú vị.
Bất ngờ đầu tiên là nhân vật đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu. Đó không phải là một tân tòng xin học đạo, cũng không phải là một người trẻ vốn thường có nhiều vấn nạn; nhưng đến với Chúa Giêsu là một học giả luật. Ông đặt một câu hỏi khá bất ngờ, “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”; dẫu biết mình bị gài bẫy, Chúa Giêsu vẫn điềm tĩnh trả lời một cách bất ngờ bằng một câu trích chẳng bất ngờ chút nào, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, Chúa Trời ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”; nhưng quá bất ngờ, Ngài chua thêm, “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Sẽ không bất ngờ khi chúng ta nghe, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” vì Thiên Chúa đáng được như thế; nhưng sẽ rất bất ngờ khi hiểu rằng, câu nói đó muốn nói, phải yêu mến Thiên Chúa với hết trí, hết tri, hết tâm, hết lực; nghĩa là yêu mến với toàn bộ xác hồn; Thiên Chúa phải là trước hết, trên hết, không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa.
Thiên Chúa đó là ai mà chúng ta phải yêu tuyệt đối đến thế? Câu hỏi này khá bất ngờ và câu trả lời lại càng bất ngờ hơn. Đó là một Thiên Chúa toàn năng vô cùng, quyền phép vô song, cao cả vô lường… tuy điều này chẳng có gì bất ngờ; nhưng sẽ rất bất ngờ khi Thiên Chúa đó còn là một Thiên Chúa xót thương, hạ mình sâu thẳm đến nỗi Người chăm chút đến từng bà goá, từng khách ngoại kiều, từng người nghèo như bài đọc Xuất Hành diễn tả. Chúng ta sẽ ngạc nhiên đến sững sờ khi nghe những lời từ miệng Người phán ra, “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều”; “Đừng làm hại cô nhi quả phụ”; “Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi”; ‘Ngươi hãy trả lại chiếc áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì nó chỉ có một áo ấy để che thân, không còn chiếc nào khác để mặc mà ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, ngươi sẽ chết với Ta’; ‘Ngươi hãy liệu hồn!’, “Vì Ta là Đấng xót thương”.
Một câu hỏi bất ngờ khác có thể đặt ra, vậy thì làm thế nào để chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa tới mức tuyệt đối đến thế? Câu trả lời sẽ không quá bất ngờ là, chúng ta phải biết Đấng chúng ta yêu mến, cũng là Đấng chúng ta dám phó thác toàn bộ đời mình cho Người là Đấng nào, Người là ai? Một khi xác tín Đấng ấy là một Thiên Chúa toàn hảo, toàn năng và toàn thiện thì không còn gì để nghi ngờ, cũng không có gì quá bất ngờ khi chúng ta chọn lựa Người, yêu mến Người và hoàn toàn tin cậy mà phó dâng đời mình cho Người. Một cách trìu mến, Thánh Vịnh đáp ca hôm nay đã bộc lộ tâm tình yêu thương đầy xác tín đó, “Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài”.
Vậy thì điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa đến mức ‘vô cực’ như thế? Câu hỏi này quá bất ngờ và câu trả lời lại càng bất ngờ hơn. Chính ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa sẽ đốt cháy trái tim của chúng ta, trái tim chúng ta sẽ nồng nàn, sẽ xót thương như trái tim Người; tắt một lời, chúng ta sẽ yêu như Thiên Chúa yêu, xót thương như Thiên Chúa xót thương, hành động như Thiên Chúa hành động. Điều này có nghĩa là, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng, chính Chúa Thánh Thần làm những điều kỳ diệu trong tâm hồn mình; chính Thánh Thần sẽ hành động và biến đổi chúng ta ngày càng nên giống Thiên Chúa, nên giống Chúa Giêsu hơn. Và kìa, chính Thiên Chúa sẽ gánh vác và làm những điều lớn lao trong chúng ta như một ngọn lửa tình yêu đang rừng rực cháy. Sẽ không bất ngờ khi Thánh Phaolô vui mừng nói với các tín hữu Êphêsô hôm nay, “Với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo. Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa”.
Bất ngờ lớn lao nhất là tác động của ngọn lửa Thánh Thần đang rực cháy trong tâm hồn để chúng ta làm những điều lớn lao trong cuộc sống cho những anh chị em chung quanh và đó cũng là giới răn thứ hai Chúa Giêsu nói đến. Thật quá bất ngờ! Thế nhưng, bấy giờ, sẽ không còn là bất ngờ khi chúng ta chứng kiến chính Thiên Chúa cùng Thánh Thần của Người đang hoạt động và ngày mỗi ngày, chúng ta sẽ tận mắt chứng kiến dũng lực siêu phàm và tình yêu Thiên Chúa sẽ biến đổi mọi sự thông qua chúng ta, những tôi tớ hèn mọn được yêu thương. Và đó chính là quà tặng cho những ai yêu mến Người, một quà tặng quá bất ngờ.
Một cô gái mù rất hận chính bản thân, bởi vì cô bị mù. Cô hận mọi người, ngoại trừ người bạn trai khả ái; anh luôn ở đó vì cô. Cô nói với anh, “Nếu tôi có thể nhìn thấy thế giới, tôi sẽ lấy anh”. Một hôm, thật bất ngờ, có ai đó đã hiến tặng cô đôi mắt; khi các miếng băng được tháo ra, cô đã có thể thấy mọi sự, kể cả người bạn trai. Anh hỏi cô, “Bây giờ em đã nhìn thấy thế giới, em có chịu kết hôn với anh không?”. Người thiếu nữ nhìn người bạn trai, thấy anh bị mù; nhìn thấy các mí mắt khép kín của anh, cô bị sốc. Cô không chờ đợi điều này, quá bất ngờ. Ý nghĩ là cô sẽ phải nhìn khuôn mặt ấy, với đôi mắt ấy suốt đời đã đưa cô đến chỗ từ chối kết hôn với anh. Người bạn trai rơi lệ và ít ngày sau, bất ngờ, anh đã viết cho cô một bức thư ngắn, nói rằng, “Em thân yêu, em hãy chăm sóc kỹ càng đôi mắt của em, vì trước khi chúng là của em, thì chúng là của anh”.
Anh Chị em,
Thiên Chúa đã trao tặng chúng ta đôi mắt, trái tim và toàn bộ sự sống; tất cả những gì chúng ta có đó chỉ tồn tại, chỉ có giá trị và ý nghĩa cũng như thể hiện hết chức năng của chúng khi chúng được gắn kết với Đấng trao tặng chúng; cùng lúc làm theo ý của Đấng đã trao ban. Với Thiên Chúa không có gì là bất ngờ, Người yêu thương, Người trao tặng; có bất ngờ chăng là từ phía con người, bất ngờ khi nó không gắn kết với Thiên Chúa, không yêu mến Người cũng như đôi mắt của cô gái được trao tặng chẳng có ý nghĩa gì đối với cô khi cô không yêu người đã trao tặng nó.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chẳng bất ngờ khi Chúa trao tặng cho con toàn bộ sự sống và những gì con có; nhưng quá bất ngờ khi Chúa còn cho con cả mạng sống và mỗi ngày còn hiến mình cho con trên các bàn thờ. Xin đừng để con bất ngờ mang tiếng phụ tình khi không yêu mến Chúa đủ và cũng không yêu thương anh em đến mức Chúa mong”, Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Các bài đọc Chúa nhật XXX Thường niên hôm nay rất quan trọng, thúc đẩy chúng ta phải đặt TN30-A155
Các bài đọc Chúa nhật XXX Thường niên hôm nay rất quan trọng, thúc đẩy chúng ta phải đặt ra những câu hỏi về việc quan tâm đến những người dễ bị tổn thương cũng như cách thức con người đối xử với nhau để cổ võ tình yêu.
Trong bài đọc thứ nhất, trích sách Xuất Hành, dân Israen đi qua hoang mạc hướng về miền đất hứa. Sau khi xuất hành khỏi Ai Cập, họ đã đón nhận lề luật, đầu tiên là Mười Điều răn và sau đó là hàng trăm luật lệ bổ sung. Bản thân các bộ luật được viết ra sau khi họ định cư tại vùng đất này, và chúng bao gồm những suy nghĩ, nguyện vọng và nhắc nhở về kinh nghiệm xuất hành cho các thế hệ mai sau.
Bài đọc nêu bật những nhóm người dễ bị tổn thương và lạm dụng nhất: ngoại kiều, góa phụ và trẻ mồ côi. Lề luật được ban hành để bảo vệ những người này và trừng phạt những kẻ áp bức họ. Tinh thần của luật là để nhắc nhở dân Israen quan tâm đến những người bị gạt ra bên lề xã hội và thiếu thốn nhất. Bài đọc cho thấy tầm quan trọng của sự đồng cảm và ký ức, khi dân Israen phải chăm sóc những ngoại kiều họ nhớ lại ký ức đau khổ của chính họ “vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai Cập”. Khi phải chọn lựa các nhà lãnh đạo, hãy cân nhắc xem ai quan tâm đến những người yếu thế và đâu là những chính sách bảo vệ những người đang có nhu cầu cấp thiết nhất?
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu phải đương đầu với một thử thách khác của những người Pharisêu. Một luật sư trong nhóm họ hỏi Chúa về điều răn trọng nhất, và Ngài trả lời bằng cách diễn giải hai điều luật: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đây là một phần trích dẫn của kinh Shema Yisrael (“Hỡi Israel, hãy nghe”), là một lời cầu nguyện của người Do Thái khẳng định tính duy nhất của Thiên Chúa và tầm quan trọng của việc trung thành thờ phượng Ngài (x. Đnl 6,4-5). Chúa Giêsu còn thêm “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” trích từ Lv 19,18.
Chúa Giêsu khẳng định toàn bộ Lề luật và sách các tiên tri đều xoay quanh hai điều luật này, do đó, có những ứng dụng nổi bật với các thính giả thời Chúa Giêsu và cả các Kitô hữu hiện nay. Có thể cho rằng bài Tin mừng hôm nay nêu ra một trong những giáo huấn quan trọng nhất của Chúa Giêsu, trong đó Ngài dựa trên di sản người Do Thái để khẳng định truyền thống và soi sáng điều răn quan trọng nhất: tình yêu thương.
Như đã đề cập trong các bài trước, tiếng Do Thái và Hy Lạp có nhiều từ nói về tình yêu. Các từ trong hai đoạn trích dẫn này là ahavah trong tiếng Do Thái và agape trong tiếng Hy Lạp, mà ý nghĩa của nó vượt khỏi tình cảm đơn giản đối với Thiên Chúa và tha nhân. Những từ này là lời kêu gọi thể hiện sự cam kết chân thành với Chúa qua việc phục vụ Ngài cũng như việc phục vụ giữa con người với nhau.
Có những cách thức cụ thể để thể hiện tình yêu. Tình yêu là thi hành các chính sách bảo vệ người yếu thế và trừng phạt những kẻ áp bức họ. Tình yêu là phê phán những kẻ chĩa vũ khí vào những người hành động cho công lý hơn là vỗ tay khen thưởng việc đe dọa cũng như xúi giục các hành vi thù hận. Tình yêu thương coi mọi người là người láng giềng chứ không chỉ là những người giống như bạn. Tình yêu là chiến đấu cho sự sống.
Thật là giả hình khi cho rằng ủng hộ sự sống của trẻ em chưa được sinh ra có thể miễn trách nhiệm của chúng ta lên tiếng bảo vệ những mảnh đời dễ bị tổn thương, hay ủng hộ những nhóm người sống bên lề xã hội có thể miễn cho chúng ta nhu cầu bảo vệ những trẻ chưa được sinh ra. Cũng là vấn đề khi coi thường nhiều người phải sống và chịu đựng các tệ nạn do nghèo khổ, do phân biệt chúng tộc và do bạo lực mà vẫn cho rằng mình bảo vệ sự sống.
Vì vậy, nếu bạn đang nghĩ đến việc sử dụng Kinh thánh để giúp bạn quyết định những chọn lựa của mình thì sứ điệp của Chúa Giêsu hoàn toàn rõ ràng: yêu thương. Con người bị chia rẽ bởi những lời lẽ và hành động thúc đẩy thù hận và phân rẽ, những hành động đi ngược lại với lời mời gọi yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy để sứ điệp Tin mừng về tình yêu tác động lên những chọn lựa của bạn.
Đâu đó bạn bè, những người không có đạo thường hỏi chúng ta rằng: cốt lõi của đạo Công Giáo TN30-A156
Đâu đó bạn bè, những người không có đạo thường hỏi chúng ta rằng: cốt lõi của đạo Công Giáo là gì? hoặc điểm chính yếu nhất của đạo Công Giáo là gì? Đặt trường hợp, chúng ta được hỏi, liệu chúng ta có thể trả lời được chăng? hay chúng ta chỉ nhoẻn miệng cười trừ, rồi tạm biệt, hẹn ngày trở lại!!
Tin Mừng hôm nay, câu hỏi mà nhóm luật sĩ đặt ra cho Đức Giê-su cũng hóc búa chẳng kém. Tuy từ ngữ khác với câu chữ thời đại chúng ta, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy nội dung không khác gì mấy, “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” (Mt 22, 36). Như chúng ta biết, toàn bộ lề luật Mô-sê và sách các Tiên tri (mà bây giờ chúng ta gọi là Kinh Thánh Cựu Ước) rất nhiều, đặc biệt lề luật của người Do Thái thời ấy thì vô vàn, tỉ mỉ đáng kinh ngạc. Cho nên những ai được gọi nhà thông luật hồi đó, quả thật cũng thuộc loại xuất chúng, không xem thường được!
Họ tưởng rằng, Đức Giê-su sẽ không trả lời được, nhưng ngờ đâu Ngài tóm tắt toàn bộ sách luật Do Thái chỉ bằng một câu ngắn gọn, đó là giới răn yêu thương: kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Tuy hai điều nhưng chỉ là một. Ngài trưng dẫn nguyên văn sách Cựu ước: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (x. Đnl 6, 5) và “ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Lv 19, 18). Ngài quả quyết mạnh mẽ và rõ ràng: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy…Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (x. Mt 22, 38-40). Nói cách khác, Đức Giê-su đặt tầm quan trọng của điều răn mến yêu tha nhân như tính hệ trọng của điều răn yêu mến Thiên Chúa. Và hai giới răn này không được tách rời. Nếu tách biệt, hoặc trọng một điều mà không thực hiện điều kia, thì chúng ta đang rơi vào những lời biện hộ như thường được nghe, được thấy diễn ra trong thực tế của đời sống hằng ngày.
Cụ thể không ít người Công Giáo nghĩ và sống: kính mến Chúa, được thể hiện qua việc đọc kinh, tham dự Thánh lễ, tích cực hăng hái trong công việc nhà xứ, nhưng lại không dễ tha thứ, thương yêu anh chị em mình. Nhiều người vào nhà thờ đọc kinh sốt sắng, to rõ ràng, nhưng khi bước ra khỏi nhà thờ, hoặc về nhà thì lại không dễ thương, nhẹ nhàng, đón nhận yêu mến anh chị em, dễ cáu gắt, để bụng, giận hờn ghen ghét, ganh tị, nuôi hận thù…, hoặc đối xứ không tốt với hàng xóm láng giềng, và thường nhận lại lời chê bai: ‘người có đạo mà sống tệ vậy à?!!!!’ Lắm lúc, chúng ta trung thành, nhiệt tâm với nhà Chúa, năng nỗ đọc kinh hằng ngày, tham gia các hội đoàn giáo xứ, nhưng mối tương quan với anh chị em lại chẳng được tốt, hoặc không mến yêu tha nhân. Ngược lại, nhiều lúc được hỏi: tại sao không đi lễ, không đọc kinh nguyện hằng ngày, thì lời biện hộ hay lí do hay được nhắc tới, là: ‘đạo tại tâm mà, cho nên khỏi phải đi lễ, đọc kinh, chỉ cần yêu thương người, sống tốt với người khác là đủ!’, hay tiêu cực hơn với lối suy nghĩ ‘những người đi lễ, đọc kinh đấy, nhưng vẫn chửi bới người khác, chẳng muốn hy sinh gì của mình để giúp đỡ tha nhân, cho nên tôi chẳng cần làm vậy, biết giúp đỡ người khác, làm việc từ thiện là tốt đẹp rồi!’.
Chẳng cần bàn luận nhiều, hai xu thướng trên đã và đang hiện hữu ngày càng rõ rệt nơi chúng ta. Nếu chúng ta cứ sống như vậy, thì chắc hẳn giới răn yêu thương bị chia cắt; đúng hơn, chúng ta chưa sống đúng điều răn bác ái mà Chúa dạy. Thật ra, khi chúng ta thật lòng kính mến Chúa với toàn bộ con người chúng ta, thì nhờ điều này mà chúng ta mở lòng đón nhận và yêu thương anh chị em như chính bản thân ta. Và ngược lại, mỗi lúc chúng ta làm việc bái ái, giúp đỡ, tha thứ, yêu mến anh chị em thật tình, thì chúng ta cũng đang nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi họ và kính mến Chúa. Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta yếu đuối, tội lỗi, sa ngã, không kiềm chế và xét mình mỗi ngày, thì bị rơi vào tình trạng như thể ‘lừa dối bản thân’ vì như lời của Thánh Gio-an viết: “nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy…Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (x. 1Ga 4, 20-21).
Chính vì vậy, nếu chúng ta thật sự yêu mến hết con người mình thì lòng mến đó sẽ được bộc lộ một cách cụ thể qua những hành động, thói quen tốt lành như: tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm, chuyện trò, tâm sự với Chúa trong các buổi tĩnh tâm, những giờ học hỏi Lời Chúa, học giáo lý; nhất là để Chúa biến đổi bản thân, đón nhận Lời và Mình Máu Thánh nuôi dưỡng chúng ta, Ngài mở lòng, thúc giục chúng ta biết chấp nhận yêu thương anh chị em như chính mình, dám hy sinh thời gian, sức lực, tiền của, trí lực, tài năng để giúp đỡ tha nhân. Những ai dám nói mình tích cực làm việc bác ái, mà không bắt nguồn từ lòng mến Chúa, từ mối tương quan thân tình với Chúa, từ việc thực hành Lời Chúa, thì có lẽ đó chưa được gọi là việc bái ái, đó chỉ có thể là việc từ thiện như biết bao nhiêu tổ chức ngoài xã hội hoặc kể cả những ai không phải Công Giáo cũng đang nỗ lực thực hiện thôi. Thoạt tiên, chữ ‘công việc bác ái’ và ‘công việc từ thiện’ dường như giống nhau và không ít người Công Giáo nghĩ có thể hoán chuyển cho nhau. Tuy nhiên, nếu xét thật gần và kỹ lưỡng về nền tảng, động lực của nó, chúng ta sẽ thấy khác xa. Công việc từ thiện thì ai cũng làm được, miễn họ có lòng thương cảm, trắc ẩn, bất luận họ là Công Giáo hay không. Trong khi ấy, việc bác ái thật sự được xuất phát từ tình mến Thiên Chúa. Đúng hơn là, Thiên Chúa yêu thương chúng ta tha thiết, vô bờ bến, và chúng ta được cảm nhận tình yêu ấy, rồi nó khiến chúng ta kính mến Người như ‘tình yêu đáp đền tình yêu’, ‘con tim đến với con tim’. Mặc khác, tình Chúa dành cho chúng ta quá lớn, nên chúng ta cảm nhận tình yêu ấy đến độ chúng ta dám ra khỏi những gì an toàn, thoải mái của bản thân mà đến với anh chị em bằng nụ cười tươi, bằng ánh mắt yêu thương, bằng đôi tay mở rộng, bằng tâm hồn trong sáng, vị tha, bằng đôi chân tiến bước giúp đỡ tha nhân, cách riêng những ai bị gán cho vùng ‘ngoại vi’, bị loại bỏ, bị xa lánh…Nói một cách chính xác, lúc ấy, chúng ta đang sống giới răn yêu thương thật sự.
Lạy Chúa, ngay giờ đây, ngay khoảnh khắc này, chúng con quỳ trước Chúa, không phải để nài nỉ cầu xin, cho bằng dâng lời cảm tạ vì Chúa đã yêu thương con vô hạn, mặc dù lòng mến của chúng con với Chúa hữu hạn, và đôi lúc tính toán, đầy những điều khoản hay lời hứa suông. Nhưng thật hạnh phúc, nhờ tình Chúa, mà mỗi ngày chúng con cảm nghiệm và được yêu mến Ngài nhiều hơn, thật hơn, cũng như biết mến yêu anh chị em khác nữa.
‘Mến Chúa yêu người’ giới răn yêu thương Tuy hai mà một, tuy một mà hai Không thể tách rời, trung thành thực thi Tương giao chặt chẽ, hoà quyện vào nhau Như sắc không màu, như màu đa sắc Hằng ngày cảm nhận, khoảnh khắc yêu thương. Amen!
Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu trong đoạn văn này nan giải ở điểm nào? Phải chăng đây chỉ TN30-A157
1. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu trong đoạn văn này nan giải ở điểm nào? Phải chăng đây chỉ là một cạm bẫy?
2. Câu trả lời của Chúa Giêsu độc đáo ở điểm nào?
3. Những “cuộc họp nhóm” (c.34) phải chăng thường là điềm lành trong Tin Mừng Mt?
4. Tại sao Chúa Giêsu không trích dẫn một giới răn nào của Thập giới?
5. Phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn nói lên đâu là giới răn trọng nhất mà thôi? Nói cách khác, việc Người đơn giản hóa phải chăng là vì quên sót? Vì muốn loại bớt thay vì muốn triệt để hóa?
1. Trong cơ cấu văn chương của Mt, các câu này phải được hiểu như là một trình thuật về cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu với các địch thủ của người. Sau những câu hỏi về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế (cc. 15-22). Vấn đề kẻ chết sống lại ( cc.23- 33), là đến những câu hỏi về giới răn trọng nhất (cc. 34-40) rồi về Con vua Đavít (cc.41- 46) ; bốn đề tài này là những đề tài được tranh luận nhiều nhất nơi người Do thái thời Chúa Gíêsu.
2. Khi các giáo sĩ ghi nhận sự đa phức của các giới răn, thì bao giờ cũng là để nhấn mạnh tầm quan trọng ngang nhau của chúng, từ giới răn nhỏ nhất đến giới răn lớn nhất: cũng như ai lỗi phạm mọi giới răn là cởi bỏ ách luật, đoạn tiêu Giao ước, và ngang nhiên chống lại Lề luật, thù cũng thế, ai chỉ lỗi phạm một giới răn là cởi bỏ ách luật, chống lại lề luật và đoạn tiêu giao ước” (Mekhilta sur l’exode 6), “Uớc gì giới răn nhỏ cũng được ngươi mến yêu như giới răn lớn ” (Sitré sur le Dt 12, 28), “Nếu bắt đầu nghe chút ít, cuối cùng người ta sẽ nghe nhiều… đến nỗi giới răn ít quan trọng cũng được người yêu mến như giới răn lớn lao” (ibld. 13, 19) “Nếu lỗi phạm điều luật hay yêu mến tha nhân như chính mình, thì cuối cùng người ta sẽ phạm luật: không được báo thù, không được giận ghét, và đi đến chỗ đổ máu tha nhân” (ibid.19, 11).
Tinh thần nệ luật tỉ mỉ này, như mọi tinh thần nệ luật đã phát sinh khi thì một niềm vui chân thành trong sự tuân phục, khi thì một niềm tự mãn có tính cách biệt phái (coi Lc 15,29), lúc lại một mối lo âu nơi những ai không thể nào thỏa mãn vô số giới răn cổ truyền (x.Mt 19, 18). Theo truyền thống của Hội đường, Lề luật gồm 613 giới luật tích cực, trong đó có 365 điểm cấm và 248 qui định. Từ lâu người ta đã muốn tổng hợp chúng lại và đưa ra những đường nét chính yếu (Đavít rút gọn các giới răn vào 11 điều chính: Tv 15, 2- 5 ; Isaia vào 6: Is 33, 15; Mica vào 3: Mca 6, 8 ; Amốt vào 2: Am 5, 4 ; Habacuc và 1: người công chính sống bằng tín trung: Hb 2, 4), nhưng vẫn không sao giờ thực sự vượt qua được tính cách tỉ mỉ quá độ của nền đạo đức này.
Thành thử tính cách độc đáo của bản văn chúng ta không nằm trong ý tưởng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, mà Cựu ước lẫn Do thái giáo đều quá biết rõ, nhưng trong việc chúng được đưa lại gần nhau và trong chỗ đứng tối thượng mà Chúa Giêsu ban cho “bảng tóm lược” Lề luật này. Vì cả hai giới răn ấy nằm trong những đoạn rất xa nhau của Cựu ước cũng có thể thêm rằng giới răn về tình yêu tha nhân chỉ dược ghi lại một cách rất sơ sài: “Người sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngoại, song ngươi sẽ yêu đồng loại ngươi như chính mình; Ta là Giavê ” (Lv 19, 18).
3. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ thiết lập một phẩm trật giữ các giới răn, đặt hai giới răn về tình yêu đứng đầu 613 qui định của Lề luật, theo kiểu một sự cận kề, mà còn thêm: “Toàn thể Lề luật và các ngôn sứ đều qui vào hai giới răn ấy” (c.40). Thế nghĩa là gì’? “Lề luật và các ngôn sứ ” là một thành ngữ thông dụng, một kiểu nói chỉ cái biểu thức sống động của ý muốn Thiên Chúa như đã được ghi vào toàn bộ Thánh Kinh. Vậy phải chăng có thể giản lược vào một công thức ngắn ngủi và cô đọng như thế cái ý muốn thần linh đã được ghi vào trong rất nhiều sách và đã được biểu lộ trong nhiều thời kỳ khác nhau? Phải chăng có một cách diễn tả một cách biểu lộ thiên ý mà tóm tắt được mọi cách diễn tả khác? Hay là xét về phía con người, phải chăng có một phương thế để thực hiện thánh ý Thiên Chúa đã được mặc khải rất nhiều lần và nhiều cách, nếu người ta chỉ cần giữ một giới răn hay hai giới răn nhưng được gồm lại một? Lời của Chúa Giêsu đáp trả rõ ràng cho câu hỏi đó và vì thế đã thiết lập một Luật mới thật sự. Giới răn đôi về tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân thật ra gồm tóm mọi giới răn khác. Và ta có thể xác quyết ngược lại là mọi giới răn khác rốt cục đều quy về giới răn ấy. Thật là một giáo huấn mới mẻ. Vì Chúa Giêsu không chỉ nói đâu là giới răn trọng nhất, mà còn bảo mọi giới răn khác thực ra được gồm tóm trong nó. Quả là một cuộc giải phóng kỳ diệu cho con người ! Con người không còn phải lo lắng giữ cho được 248 điều truyền và 365 giới cấm nữa. Họ chỉ còn giữ hai giới răn thôi. Ai thực sự hoàn thành những gì đòi hỏi trong hai giới răn ấy thì có thể tin chắc rằng mình đã hoàn tất Lề luật và như thế hoàn tất thánh ý đích thực của Thiên Chúa. Kể cũng ích lợi nếu xem thêm những phát biểu song song về giáo huấn này của Chúa Giêsu trong Mt 7, 12 (luật vàng) ; Gl 5, 14 và Rm 13, 8-10.
Giáo huấn Chúa Giêsu đưa ra trong cuộc tranh luận với người Biệt phái hôm nay, chúng ta đă từng biết đến qua Bài giảng trên núi; nhưng ở đây nó được nhắc lại một cách rõ ràng và được nhấn mạnh nhiều hơn. Mọi cố gắng của con người phải xuất phát từ một căn nguyên và tiến đến cùng một cùng đích: tình yêu. Con người đã không chỉ được tạo dựng để vâng phục Thiên Chúa như vâng phục chủ và chúa của mình nhưng còn để yêu mến Ngài như Cha. Việc vâng lời chỉ trở nên đích thực nhờ tình yêu mến. Thiên Chúa không mong có những tên nô lệ đầy sợ hãi, nhưng muốn có những người con tự do. Tình yêu Thiên Chúa phải là trung tâm và nguồn mạch của mọi lòng hiếu thảo vậy.
Tình yêu đối với tha nhân cũng phải phát xuất từ cùng nguồn mạch đó. Ta đã biết “tha nhân” không chỉ là người đồng hương, người đồng xứ, theo như quan niệm cổ hũ Do thái đương thời nữa. Mọi người có thể là tha nhân của tôi; nhưng thực tế không tất nhiên như vậy, vì người ta rất dễ trốn vào trong tình yêu đối với tha nhân xa xôi, rất dễ chọn lựa đối tượng xa vời nhất của tình yêu chân chính; nên cụ thể ra, tha nhân là hết mọi ai mà tôi có liên hệ cách cụ thể và đích thực. Tình .yêu của môn đồ Chúa Giêsu không được có giới hạn biên cương. Gương mẫu của họ là tình yêu của chúa Cha, Đấng cho mặt trời soi chiếu trên kẻ dữ cũng như người lành, và làm mưa trên người công chính lẫn hạng bất lương (5, 45). Trong mọi tương quan với hết mọi người, qui tắc bao giờ cũng vẫn là một: chính tình yêu tạo nên sức mạnh sinh động và làm cho các mối tương quan đích thực, giữa nhân vị này với nhân vị kia được thiết lập dễ dàng.
Ta thấy từ bản văn này toát ra một tư tưởng cao siêu chừng nào về cuộc sống con người. Chính nhờ tình yêu mà cuộc sống được tạo thành và phải trở nên duy nhất, không một nứt rạn rẽ phân. Chẳng còn ai bị bắt buộc phụng phí sức lực của mình trong một rừng qui định, luật điều, khuyến cáo nữa. Đối với môn đồ Chúa Giêsu, chỉ có một điều đáng kể, đó là thái độ thâm sâu của mình. Trong bối cảnh ấy, thật dễ hiểu rằng ta không bao giờ bị ép buộc phải cứ mãi đi tìm một câu trả lời cho một trường hợp cụ thể, vì ý của Thiên Chúa luôn luôn được xác định rõ nếu ta có một tình yêu thật lớn.
Chúa Giêsu không nói, ít ra trong đoạn Tin Mừng này, phải thực hành hai giới răn ấy làm sao. Phải chăng đây là hai đường hướng khác biệt, một đàng yêu mến Thiên Chúa, một đàng yêu mến tha nhân? Phải chăng tình yêu khác nhau trong cả hai trường hợp? Nhưng Người, qua cuộc sống, chỉ cho ta thấy đâu là tương quan giữa hai tình yêu đó. Trong đời Người, việc hoàn thành tôn ý của Thiên Chúa và tình yêu phục vụ nhân loại được nối kết trong cùng một thực tại duy nhất. Dĩ nhiên vì tình yêu tha nhân mà Người hoàn tất công trình cứu chuộc, nhưng tình yêu ấy không tách khỏi tình yêu Thiên Chúa, vì đó là ý Chúa Cha (20,28). Ta cũng thấy điều này được phát biểu một cách tuyệt diệu trong thư các sứ đồ và đặc biệt trong đoạn thời danh sau đây: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì cho là kẻ nói dối; vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng nó chẳng thấy bao giờ. Và đây là lịnh tuyền ta đã lĩnh lấy nơi Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì hãy yêu mến anh em” (1 Ga 4, 20-21).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Biệt phái tụ họp lại một chỗ": Kiểu nói được dùng ở đây (“sunôthêsan epi to auto") là một trích dẫn nguyên văn từ Thánh vịnh 2,2: "Vua chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (dịch sát chữ: "tụ họp lại một chỗ" (sunêthôsan opi to auto) chống lại Giavê và Chúa Kitô của Ngài". Thế mà, trong 26, 3 Mt sẽ còn dùng lại cùng động từ ấy (ở cùng một cách, một thì, một ngôi) để diễn tả âm mưu tại nhà Caipha giữa các thượng tế và các kỳ lão nhằm giết Chúa Giêsu. Qua sự tương đồng ấy, Matthêu ngụ ý là những cuộc tranh chấp trong chương trình này chỉ là mào đầu cho cuộc đối đầu quyết liệt sẽ đưa Chúa Giêsu đến thập giá. Những cuộc tụ họp như vậy của các đầu mục trong dân hay được Matthêu nhắc lới (2, 4; 22, 41; 26, 3. 57; 27, 62; 28,12) và thường là điềm dữ.
"Để làm Người lúng túng": dịch sát chữ: "Để thử Người" Matthêu cũng dùng động từ này (pelrazein) ở 22, 18 nơi kể lại chuyện người ta "thử" Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng luôn luôn là dùng cạm bẫy trong cả đoạn.
"Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật": Lời giải thích được yêu cầu thật đặc biệt quan trọng, vì đây không phải là giải thích một trường hợp cụ thể, đặc thù nhưng là làm sáng tỏ một đòi hỏi luân lý trong chính bản chất của nó. Bản văn hy ngữ dịch sát chữ như sau: Đâu là giới lăn lớn trong Lề luật. Nhưng hình thức nguyên cấp (positio của tĩnh từ lớn (megalê) có giá trị tuyệt đối cấp (superlatio, như thường thấy trong Hy ngữ bình dân (Koinè) và trong bản 70 chịu ảnh hưởng của Hy bá, nhất là nếu sau nó có một danh từ tập hợp, ở đây là Lề luật, hiểu theo nghĩa toàn bộ các giới răn.
"Ngươi phải yêu mến...". Trong việc triệt để hóa Lề luật này, không có vấn đề đơn giản hóa bằng cách loại bỏ những điều lệ phụ tùy (mà Chúa Giêsu lẫn môn đồ đều tuân giữ) cho bằng là nhắc lại ý nghĩa của các giới răn, và cho thấy chúng bắt nguồn từ trong ý định tối cao của Thiên Chúa. Còn về hình thức phát biểu của giới răn này, đừng tìm cách phân tích đâu là những phạm vi tương ứng của lòng, của linh hồn, của trí khôn: ý nghĩa trùng tích của các thành ngữ là: tình yêu phải có tính cách toàn diện, nghĩa là phải động viên tất cả con người; dầu sao, chỉ cần một từ ngữ thôi, như "lòng" chẳng hạn, cũng đủ để ám chỉ toàn thể con người; các tiếng khác thuộc về kiểu nói hùng biện; lòng và tư tưởng (hy lạp: dianoia) là tiếng dịch chữ lòng (hy bá: leb) của Cựu ước; không nên nghĩ đến một chức năng đặc biệt nào đó của trí tuệ suy luận; trí tuệ được vận dụng vì toàn thể con người dấn thân.
"Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất": Chữ "và" nối liền hai tĩnh từ lớn và đệ nhất chắc có nghĩa giải thích hơn là có nghĩa cộng thêm: giới răn này đứng đầu hết vì nó quan trọng nhất xét về nội dung và ngược lại; tĩnh từ đệ nhất không muốn nói là giới răn đứng đầu nhiều giới răn khác nhưng là đứng đầu tất cả xét về phương diện ý nghĩa, vì chính nó đem lại ý nghĩa đích thực cho mọi giới răn. Bởi vậy kiểu nói thứ đến cũng giống như điều ấy chẳng có nghĩa là: ở hàng thứ hai xét về bậc quan trọng, nhưng là: cũng quan trọng như giới răn thứ nhất; giới răn thứ hai không thể so sánh, hay tương tự như giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng cửa cái mà nó dạy truyền; tuy nhiên nó không đồng nhất theo nghĩa có thể chuyển hoán: tình yêu tha nhân chẳng được đồng hóa với lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng yêu mến tha nhân cũng khẩn thiết như mến yêu Thiên Chúa.
“Toàn thể Lề luật cùng các sứ ngôn": Chúa Giêsu hoàn toàn đứng trên lãnh vực các Sách thánh đã được ban cho tổ tiên dân Do thái. Người không phát minh điều gì; tầm quan trọng của hai giới răn này dựa trên sự kiện chúng tóm kết tất cả các Sách Thánh; nhưng đàng khác, Chúa Giêsu đã tái giải thích các Sách Thánh ấy khi mặc khải ý nghĩa thâm sâu của chúng ra (x Rm 13, 9).
KẾT LUẬN
Cái mang lại cho giới răn này uy tín và sự cao cả, chính là vì Chúa Giêsu đã phát biểu nó lên và cho nó là lớn lao, quan trọng. Người không mang đến (hay chưa mang đến) một giới răn mới mẻ, nhưng Người mặc cho giới răn cũ giá trị đích thực củ a nó. Câu trả lời của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời của một ký lục, song là của Chủ lề luật. Chính người công bố nó và hoàn thành nó (5,17). Và chính việc người hoàn thành Lề luật đã đem lại cho Lề luật một tính cách mới mẻ thực sự. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân không phải chỉ là hai thái độ nhân loại được truyền làm; chúng được hiện thân trong con người của Chúa Giêsu. Chính vì đến để hoàn tất Lề luật và các ngôn sứ qua cuộc sống, cái chết và sự phục sinh, mà Người có thể tuyên bố với uy quyền rằng tất cả nội dung của Cựu ước đều được “quy về" giới răn mến Chúa và yêu người. Chính trong Người mà không những Lề luật dưới hình thức giới răn, nhưng cả lời hứa về ân sủng đã do các ngôn sứ loan báo, đều tìm được sự thành tựu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Yêu tha nhân không có nghĩa là yêu họ chỉ vì Thiên Chúa đòi buộc, chỉ vì để vâng lời Ngài. Mối dây Chúa Giêsu thiết lập giữa hai giới răn chẳng phải là một mối dây ngoại tại, pháp lý, tự ý người bày ra, song là nằm trong lý luận của Thiên Chúa, trong chính bản chất của sự vật mà Ngài đã tạo dựng, rằng là ta không thể yêu Ngài mà yêu anh em. Và không phải làm như thể là vì anh em, mà trong thâm tâm lại làm vì Thiên Chúa. Thiên Chúa đích thực chẳng phải là sản phẩm của những ước vọng và những tưởng tượng đạo đức của con ngươi. Ngài đã đi vào trong lịch sử của chúng ta đã can thiệp vào đó bằng cách trở nên liên đối với con người. Ngài đồng hóa với con người (Cv 9, 5: "Ta là Giêsu người đang bắt bớ") đến nói từ đây ta không thể phân biệt Ngài khỏi con người nữa. Thành thử khi thực sự yêu tha nhân vì họ (như Thiên Chúa yêu họ vì họ chứ chẳng phải vì Ngài, vì tình yêu này không đem lại cho Ngài gì cả) ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Chỉ có một tình yêu, cũng như con người chỉ có một quả tim, một tấm lòng.
2. Một cách cụ thể, phải yêu tha nhân thế nào? Chẳng phải bằng tình cảm (vì có một vài thứ ác cảm tự nhiên hầu như không thể vượt qua) cho bằng là qua thái độ và hành động. Thánh Phaolô đã mô tả cho chúng ta lòng bác ái đích thực như sau: "Đức ái thì khoan dung, nhân hậu; đức ái không ghen tương; ba hoa, tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ; không cáu kỉnh, không chấp nhất sự ác, không mừng trước sự bất công, nhưng biết chia vui cùng lẽ phải. Trong muôn sự, đức ái hết lòng bao dung, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy, hết lòng kiên nhẫn" (1Cr 13, 4-6). Khi tìm cách tha thứ lỗi lầm của tha nhân, khi luôn hy vọng họ trở nên tốt hơn cho dù bề ngoài thế nào chăng nữa, khi chấp nhận họ như họ đang là, lúc đó chúng ta mới thương yêu thực sự, lúc đó chúng ta mới thật là con cái của Thiên Chúa.
Tin mừng Mt 22, 34-40: Thiên Chúa qua Môisen đã huấn dụ dân việc yêu mến Thiên Chúa phải dẫn chúng ta đến việc biết yêu thương anh chị em mình, nhất là những người bé mọn, yếu thế, những người không có địa vị trong xã hội.
Suy Niệm:
Các giới răn của đạo Kitô giáo, hay đúng hơn là của Đạo Công Giáo dạy chúng ta về việc mến TN30-A158
Các giới răn của đạo Kitô giáo, hay đúng hơn là của Đạo Công Giáo dạy chúng ta về việc mến Chúa và yêu người. Thiết nghĩ, điều này không phải là do chúng ta tự đặt ra, nhưng giới răn yêu thương ấy đã có từ trong thời Cựu Ước.
Bài đọc thứ Nhất trích sách Xuất Hành cho chúng ta biết, Thiên Chúa qua Môisen đã huấn dụ dân việc yêu mến Thiên Chúa phải dẫn chúng ta đến việc biết yêu thương anh chị em mình, nhất là những người bé mọn, yếu thế, những người không có địa vị trong xã hội. Nếu chúng ta ức hiếp anh chị em mình, Thiên Chúa sẽ tính sổ với chúng ta, để trả lại công bằng cho anh chị em ấy. Vâng, những người có tôn giáo biết rằng những việc chúng ta làm không qua mắt được Thần Linh, vì thế mà cần phải tập sống ngay lành, mến Chúa yêu người như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau, nhất là với người khó khăn, cho vay mà không được lấy lãi. Giữ vật thế chân là chiếc áo làm mền đắp của người nghèo, thì khi đêm về phải trả lại cho họ đồ cầm cố đó trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.
Tuy nhiên, ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Đến thời Chúa Giêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Vì thế, Chúa Giêsu đã tóm kết qui luật mến Chúa và yêu người cách cụ thể hơn. “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.”
Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy, nhưng thường thì người ta lại không thi hành. Con người ta nói mình yêu mến Thiên Chúa thì rất dễ, có khi chúng ta nại đến việc đọc kinh, dự lễ, miệng râm ran kinh Mân Côi vì lòng mến Chúa, nhưng lòng yêu mến anh chị em sống chung quanh ta thì lại rất khó. Vị thánh Tông đồ cho ta biết chúng ta đừng yêu nơi đầu môi chót lưỡi. Vâng, chúng ta không thể phục vụ anh chị em trong tư thế của một người đầy tớ nếu mình xử sự theo thói quan liêu, kẻ trên người trước, bố thí cho người dưới yếu thế. Đã có những con sâu làm rầu nồi canh làm cho nồi canh nhiễm bẩn. Nhưng không vì thế mà tinh thần đồng bào bị coi nhẹ. Nói đến tinh thần tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách, thậm chí lá rách đùm lá nát” thì dân tộc Việt Nam chúng ta không thua kém một dân tộc nào trên thế giới. Có những tấm lòng yêu thương anh chị em mình bằng những hành động biết nói.
Khi trận dịch bệnh xảy ra trên đất nước Việt Nam thân yêu, và ảnh hưởng trực tiếp trước tiên là tới những người nghèo, những người không có đủ lương thực hàng ngày thì nói gì đến việc tích trữ lương thực trong những ngày phải cách ly vì dịch bệnh, thì đã có những tấm lòng hảo tâm của người dân sáng kiến ra cây ATM gạo, những nơi sẵn sàng trao mì gói miễn phí đến người cần.
Hay trong những ngày bão lũ ở miền Trung của đất nước chúng ta hiện nay, báo đài hay nhắc tới ba địa danh chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão lũ là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế mà người dân quen gọi tắc bộ ba ấy là Bình-Trị-Thiên, thì cũng đã có nhiều hình ảnh thật đẹp không chỉ của Thủy Tiên, vợ cầu thủ bóng đá Công Vinh, mà còn rất nhiều tấm lòng hảo tâm của những người sẵn sàng làm thiện nguyện từ việc ủng hộ tiền của, vật chất, thậm chí các chị em phụ nữ dành ngày mừng 20/10 thật ý nghĩa bằng việc cùng nhau gói bánh tét chuyển tới cho anh chị em đồng bào của mình đang phải gánh chịu việc mất mát nhà cửa, người thân, không nơi khô ráo nương náo có được chút ấm lòng! Nườm nượp đoàn xe tải tiếp tế, cứu trợ khắp nơi từ Nam ra Bắc, từ cao nguyên xuống vùng rốn lũ, từ miền ngoài vào dãy Trường Sơn.
Lạy Chúa, ước gì lòng mến Chúa thương người nơi mỗi chúng con luôn là điểm then chốt cho chúng con sống đức tin của mình giữa lòng xã hội hôm nay. Amen.
Tình yêu! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú TN30-A159
Tình yêu! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta đã làm mất ý nghĩa cao qúi của tình yêu, đồng hóa tình yêu với tình dục. Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.
Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hòan hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói:”Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối:
Theo Đức Cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị:”Ama et fac quod agis”(Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 22,21-27.
So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:”Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.
Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau, nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất: người góa bụa, mồ côi và nghèo khó.
Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công, họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.
+ Bài đọc 2: 1Tx 1,5c-10.
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp: đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
+ Bài Tin mừng: Mt 22,34-30.
Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần này họ cử một tiến sĩ luật để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề: điều răn nào trọng nhất trong sách Luật. Câu hỏi này không phải là dễ trả lời. Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa. Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi:
- Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong các sách Luật.
- Hai là liên kết hai luật ấy: điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.
- Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.
Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Mến Chúa yêu người
I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng:”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Chúa Giêsu còn thêm:”Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn.
Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
II. NÓI VỄ CHỮ YÊU.
1. Chưa có một định nghĩa thoả đáng.
Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Còn rất trừu tượng.
Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, Nó đến với ta một buổi chiều. Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Theo thánh Phaolô thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Thánh Gioan tông đồ thì nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình. Đại khái:
* Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu). * Yêu là đau khổ. * Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24; Mc 10,52). * Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11). * Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói:”Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
2. Yêu trong thực hành.
Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne:”Yêu mến Chúa là gì? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là:”Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU.
1. Tình yêu và hy sinh.
Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến...
Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.
(cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).
2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu.
Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được. Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307)
3. Tình yêu trong phục vụ.
Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài:”Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói:”Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể:”Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói:”Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư:”Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói:”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8-10).
Thánh Augustinô khuyên: ”Ama et fac quod agis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng, Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con. Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ, Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa, Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân, Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Tin mừng Mt 22, 34-40: Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn TN30-A160
Tin mừng Mt 22, 34-40: Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô)...
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh.
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: "Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXX Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn TN30-A161
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXX Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình: được thêm lòng Tin Cậy Mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu chúng ta đáng được hưởng những gì Chúa hứa ban.
Tin, Cậy, Mến là ba nhân đức đối thần: càng tin tưởng, yêu mến, cậy trông vào Chúa, chúng ta sẽ càng yêu mến và mau mắn thi hành những gì Chúa truyền dạy. Bài đọc một của giờ Kinh Sách, được trích từ sách Khôn Ngoan cho thấy: Đức Chúa đã sáng tạo muôn loài, và Người cho chúng hiện hữu, mọi loài thụ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra muôn loài muôn vật, cho nên, những ai không ngừng tìm kiếm Chúa, và gắn kết với Người, thì được gọi là người khôn ngoan, và cái chết chẳng có quyền chi đối với họ, do bởi, đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách, được trích từ thư của thánh Cơlêmentê I, giáo hoàng, gửi tín hữu Côrintô cho thấy: Chúa thi ân cho mọi loài khi dựng nên trời đất trong trật tự hài hòa, và tất cả đều tuân theo lệnh của Chúa: mặt trời, mặt trăng và muôn ngàn tinh tú xoay chuyển trong trật tự hài hoà không chút sai lệch. Đấng Hoá Công vĩ đại và Chúa Tể muôn loài đã truyền cho tất cả những sự đó diễn ra trong bình an và hòa hợp. Do đó, với tư cách là người anh cả của vũ trụ này, chúng ta phải biết sống tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với tất cả muôn loài Chúa đã dựng nên.
Bài đọc một của Thánh Lễ, được trích từ sách Xuất Hành cho thấy những lời cảnh báo, nhắc nhở Dân Chúa sống công bình và bác ái với nhau: Nếu các ngươi ức hiếp mẹ góa con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu Thêxalônica đã từ bỏ ngẫu tượng, để phụng sự Thiên Chúa và chờ đợi Con của Người: Quả thế, từ nơi anh em, Lời Chúa đã vang ra, không những ở Makêđônia và Akhaia, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.
Để có thể sống theo những gì Chúa dạy, chúng ta không thể tìm kiếm sức mạnh ở đâu khác, ngoài Chúa. Do đó, trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 17, vịnh gia đã thân thưa cùng Chúa: Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. Cũng vậy, câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã trả lời cho nhà thông luật rằng: Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn: Mến Chúa và yêu người. Để sống được giới răn yêu thương của Chúa, chắc chắn, tự sức mình chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta được phát xuất từ tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, và chúng ta sẽ quay về với Thiên Chúa nhờ tình yêu cứu độ của Người, cho nên, chúng ta phải quy hướng về Chúa: tìm nương ẩn nơi Chúa và cậy nhờ vào sức mạnh của Người.
Thiên Chúa sáng tạo muôn loài muôn vật là để tất cả cùng hiện hữu, và cùng tồn tại với nhau. Chúa mới là Chủ Tể, còn chúng ta là thụ tạo của Người, vì thế, chúng ta phải sống tâm tình Tin Cậy Mến đối với Chúa, và sống hòa hợp đối với nhau: yêu thương tha nhân và tôn trọng giữ gìn thiên nhiên vạn vật; yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, và yêu thương tha nhân như chính mình, như chính Chúa đã yêu và thí mạng vì chúng ta.
Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của Người hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình, chúng ta là bạn hữu của Thiên Chúa, nếu chúng ta biết yêu mến Chúa, và tuân giữ Lời Chúa, cũng như, không ngừng tìm kiếm Chúa, và cậy dựa vào sức mạnh của Người. Nếu chúng ta được soi sáng bởi tình yêu tự hủy, và tự hiến của Chúa, thì lòng yêu mến của chúng ta sẽ được thanh luyện khỏi những ích kỷ, và những toan tính hẹp hòi, lúc bấy giờ, chúng ta sẽ dâng hiến cho Chúa cách quảng đại, và trao tặng cho tha nhân cách nhưng không. Chúng ta nguyện xin Chúa ban cho mình: biết đặt hết lòng Tin Cậy Mến vào Chúa, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, để chúng ta có thể sống giới luật yêu thương của Chúa cách tốt đẹp như lòng Chúa ước mong. Ước gì được như thế!
Nét độc đáo của Tình yêu trong Kitô giáo chính là duy nhất tính của tình yêu khi Mến Chúa và TN30-A162
Nét độc đáo của Tình yêu trong Kitô giáo chính là duy nhất tính của tình yêu khi Mến Chúa và Yêu người là một, điều mà người ta rất khó chấp nhận, nhưng lại là điều Thiên Chúa muốn.
Là điều rất khó chấp nhận, vì ai cũng muốn phân biệt rõ rệt Thiên Chúa là Thiên Chúa và con người là con người : Thiên Chúa chí thánh chí tôn, con người yếu đuối, tội lụy ; Thiên Chúa toàn năng, cao cả, con người bất toàn, bất xứng, và một khi rành rọt phân biệt như thế, người ta sẽ có thể yêu Thiên Chúa mà không phải yêu con người ; có thể tử tế với Thiên Chúa mà không tử tế với những người không cần phải được đối xử tử tế ; có thể “mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mt 22,37), mà vẫn bình an tự cho phép ghét những người làm hại mình, và khinh những ai bị coi là đáng khinh ; có thể phụng sự Thiên Chúa bằng hết sức lực, tiền của, mà vẫn không áy náy khi ki bo, bần tiện, keo kiệt với người thân và tham lam, lọc lừa chiếm đọat tài sản của người xa lạ ; có thể hiến mình cho Thiên Chúa, mà chẳng bận tâm, nặng lòng khi cùng lúc “hy sinh” người khác vì vinh quang, quyền lợi của bản thân mình ; có thể chết sống với Nước Trời, nhưng cùng lúc phá họai nước đời, cộng đồng nhân loại ; có thể là con Chúa, nhưng đồng thời là kẻ thù của con người, bởi giữa tình yêu dâng Thiên Chúa và tình yêu cho đồng loại được phân ranh cẩn thận, và hai tình yêu không qua lại, ảnh hưởng trên nhau.
Nhưng đó là phiá con người, về phiá Thiên Chúa thì khác hẳn, và chủ trương Yêu Thương của Thiên Chúa đã bị nhiều người lên án là “huyên thuyên, nhập nhằng, lẫn lộn Thiên Chúa với con người” khi nghe Đức Giêsu đã công bố : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”, khi một người thông luật hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng : “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36-39).
Đây là cốt lõi giáo lý mới của Đức Giêsu, điều mà người Do Thái còn xa lạ và bỡ ngỡ khi nghe Ngài công bố, bởi Luật Môsê chỉ dừng lại ở công bình trong tương quan giữa người với người, mặc dù với Thiên Chúa thì phải “mến yêu hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, khi cho phép trong tương quan con người với nhau thì “mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5,38), yêu người thương mình và ghét kẻ thù mình (x. Mt 5,43), nghiã là “ăn miếng trả miếng, ân oán sòng phẳng”, trong khi Luật mới của Đức Giêsu lại dậy : “Đừng chống cự người ác… Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,39.44).
Đức Giêsu còn đi xa hơn khi “đồng hoá” Thiên Chúa với những con người bé mọn, nghèo hèn, ốm đau, tù đầy, vô gia cư, tha phương cầu thực, và tuyên bố tình yêu cũng như việc làm tốt được thực hiện cho những con người yếu đuối, bần hàn, vô danh tiểu tốt, sa cơ thất thế này là làm cho chính Thiên Chúa (x. Mt 25,31-46). Cũng vậy, Thiên Chúa lấy chính con người làm thước đo tình yêu đối với Ngài và mức độ ân sủng, lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta cũng tùy thuộc vào lòng qủang đại và thương xót của chúng ta đối với người khác, như Đức Giêsu đã khẳng định trong Tin Mừng : “Anh em đong cho ai đấu nào, sẽ được Thiên Chúa đong lại đấu đó”, “Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người mắc lỗi với chúng con” (Mt 6,12), “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).
Thực vậy, mầu nhiệm tình yêu trong Kitô giáo là chân lý được mặc khải từ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu (1 Ga 4,16). Mầu nhiệm tình yêu ấy tuy là mầu nhiệm, nhưng là mầu nhiệm nhập thế, nhập thể, nên được biểu hiện sống động và cụ thể trong đời sống thực sự và thường ngày của con người. Mầu nhiệm tình yêu từ Thiên Chúa đến trong thế giới loài người không mơ hồ, viển vông, mây khói, nhưng có chỗ đứng, bãi đáp hộ khẩu trên da thịt, trong tâm hồn, ngay giữa sinh hoạt của con người, những con người bằng xương bằng thịt, cá vị, độc lập. Mầu nhiệm Tình Yêu ấy đã được Cựu Ước xây dựng nền tảng khi đòi hỏi tín hữu Do Thái : “không được ngược đãi và áp bức người ngoại kiều, không được ức hiếp mẹ goá con côi, không được cho vay nặng lãi người nghèo” (x. Xh 22,20-24) để rồi khi Đức Giêsu đến, Ngài đã kiện toàn Giới Luật duy nhất và đời đời của Thiên Chúa : Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như mình vậy, bởi “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40).
Vâng, là người Kitô hữu, chúng ta thuộc về và được tháp nhập vào Đức Giêsu, Thiên Chúa Tình Yêu, và tình yêu Thiên Chúa được thực hiện khi chúng ta yêu thương anh em mình, nhất là những anh em hèn mọn, kém cỏi, yếu đuối, xấu số, bất hạnh nhất, bởi đó là Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta xác định và làm chứng tình yêu đối với Ngài bằng yêu thương anh em, nếu không chúng ta là những kẻ xảo trá, lừa lọc, như thánh Gioan tông đồ đã viết : Nếu ai nói : “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).
Vẫn biết yêu Thiên Chúa dễ hơn yêu anh em cận kề chung sống với bao nhiêu chuyện không hài lòng, vừa ý, bao nhiêu điều chướng tai gai mắt và yếu đuối, lỗi lầm, trong khi Thiên Chúa vô hình, lại toàn năng, thánh thiện, có quyền sinh tử trên mọi loài, nhưng Chúa muốn tự đồng hoá mình với người anh em hèn yếu ; Chúa muốn lấy người anh em bất xứng, bất toàn làm thước đo tình yêu của ta với Ngài ; Chúa muốn chọn người anh em nghèo khó, cơ bần làm đấu đong ơn phúc ; Chúa muốn ta chuẩn bị hành trang để ra trước tôn nhan Ngài ngày chung thẩm nơi người anh em bị coi là đồ bỏ, vô tích sự, không sinh lợi cho ai, không giúp ích được người nào, có khi còn là gánh nặng của mọi người, nên chúng ta hãy vui vẻ tập sống mỗi ngày Yêu Chúa trong Anh Em, Yêu Thương anh em vì Yêu Mến Chúa, vì đó là Ý Muốn thánh thiện của Thiên Chúa.
Từ trước đến nay, ta vẫn luôn nghĩ rằng, yêu thương là điều dễ dàng. Khi biết yêu thương người, trái TN30-A163
Từ trước đến nay, ta vẫn luôn nghĩ rằng, yêu thương là điều dễ dàng. Khi biết yêu thương người, trái tim ta mở rộng và ngập tràn niềm hạnh phúc. Trong tâm trí ta, hình ảnh của người yêu luôn chiếm trọn. Ta luôn vun đắp cho tình yêu ấy ngày một đẹp hơn. Cho đến một ngày, khi tình yêu bắt đầu bị thử thách, trái tim ta rạn vỡ, tâm trí ta rối bời. Đến bây giờ, ta mới nghe được tiếng nói của Tình Yêu.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 35).
Lặng nghe lời Thầy Giêsu, lòng ta đã bừng tỉnh sau những tháng ngày u mê. Khi tình yêu bị thử thách, ta mới chợt nhận ra, ta chưa yêu Chúa hết lòng, chưa yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn của ta. Ta đã khao khát yêu thương hết mọi người như Chúa mời gọi. Nhưng kỳ thực, tình yêu của ta rất giới hạn. Khi ta đã yêu thương hết tình mà lại chẳng nhận được những gì mình chờ mong, ta hụt hẫng lắm, ta buồn đến chết được. Ta đã yêu thật nhưng buồn thay, ta đã chỉ tìm kiếm chính mình, ta đã chỉ yêu mình mà thôi. Làm sao để ta có thể yêu như Chúa yêu? Mỗi ngày, khi nhìn lại những gì đã xảy ra, ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để Người đốt lên ngọn lửa yêu mến Chúa trong lòng ta. Người sẽ chiếu soi vào tâm hồn ta, cho ta thấy được những chỗ tối tăm, những góc nhọn cần cắt tỉa. Để khi yêu người khác, ta không làm cho họ bị tổn thương. Hãy nhìn xem nhé, một người mẹ rất thương con, bà lo sợ con sẽ phải vất vả nên dù đứa con của bà đã lớn, đã có thể tự làm được mọi việc nhưng bà đã không cho nó làm. Dần dần, đứa con được mẹ bao bọc cẩn thận lại trở thành một người không thể tự đứng trên đôi chân của mình. Nó mặc cảm, tự ti với bạn bè, luôn nghĩ mình vô dụng. Yêu như Chúa yêu là dành cho người mình yêu trọn trái tim và con người của mình. Một người mẹ có thể thức suốt đêm chăm sóc cho đứa con bị bệnh. Bà có thể làm việc vất vả, có thể dãi nắng dầm mưa, hy sinh cả cuộc đời để cho con mình được khôn lớn. Cả cuộc đời, bà sống cho chồng, cho con. Tình yêu là quên mình đi như thế.
Yêu Chúa, ta đã bước vào con đường Chúa muốn ta đi. Ta không hề biết mình có ơn gọi, cho đến một ngày Lời Chúa cứ mãi hối thúc trong tâm hồn, lời ấy lôi cuốn ta và cứ thế ta bước đi bằng tất cả sự liều lĩnh và đam mê của tuổi trẻ. Ta xác tín rằng, Thiên Chúa đã chọn ta từ trước và ta đã đáp lời mời gọi đầy yêu thương ấy bằng cả con người mình, bằng cả cuộc đời của mình. Tình yêu nam nữ là một mối tình đẹp. Tình yêu với Thiên Chúa lại là một mối tình tuyệt vời hơn nữa. Đấng là Tình Yêu viên mãn đã yêu thương ta, Người rung động, thổn thức và say mê con người: “Vì mỗi lần nhắc đến con, ta lại thấy nhớ thương. Nên lòng ta bồi hồi thổn thức. Ta thương con, thương con rất nhiều” (Gr 31,20). Cảm nhận tình yêu Chúa dành cho mình, ta sẽ nhận ra mình là người hạnh phúc nhất. Ta muốn được giống người mình yêu. Chúa Giêsu yêu ta, Người chẳng hề chấp tội ta. Người luôn đón nhận ta và rủ lòng xót thương ta. Yêu như Chúa yêu là sống trong đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13, 4-8).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con nhìn lại tình yêu con dành cho Chúa và cho tha nhân. Đây trái tim của con, con xin dâng lại cho Chúa. Xin Chúa khắc ghi vào trái tim con tìm yêu của Chúa, cho con cảm nhận được tình Chúa yêu con. Để khi được Chúa yêu, con cũng biết yêu mến Chúa hết tâm hồn và yêu người khác như Chúa đã yêu con. Amen.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,35-36).
Nhóm Pharisêu cử một người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật TN30-A164
Nhóm Pharisêu cử một người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,35-36). Đây cũng là lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho mỗi người chúng ta. Nhìn vào cuộc sống thực tại, chúng ta đã vun trồng lòng yêu mến ấy như thế nào?
Có vô số cách để nuôi dưỡng lòng yêu mến Chúa. Mỗi người có ơn riêng, có cách thức yêu mến Chúa của mình. Nhưng để có lòng yêu mến Chúa, trước tiên, chúng ta phải ý thức Thiên Chúa là của mình, là đối tượng duy nhất của lòng trí và trong cuộc sống của mình. Khi đó, lòng yêu mến mới thể hiện trong suy nghĩ và diễn ra hành động: nói những lời ấy cho mọi người lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy và viết lên khung cửa nhà, cửa thành của mình (x.Đnl 6,4-9). Bên cạnh đó, trí nhớ là cửa sổ tâm hồn giúp chúng ta luôn nhớ đến người mình yêu, nhớ người yêu mình đã chịu chết vì mình và vì mọi người như thế nào. Chính tình yêu nhớ nhung đó là động lực thúc bách chúng ta đạt tới lòng yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Lòng yêu mến đó sẽ được nuôi dưỡng tùy theo cách của mọi người. Có người được nuôi dưỡng lòng yêu mến bằng việc nguyện ngắm, chiêm niệm. Người này được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, người kia được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện hằng ngày hay những việc hy sinh…. Tuy nhiên, dù chúng ta có theo cách nào đi chăng nữa thì trong mọi việc mình làm, chúng ta vẫn luôn cần đến ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần, Đấng biết Đức Giêsu là ai và chỉ có Chúa Thánh Thần mới gợi lên trong ta lòng yêu mến Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Thần Tình Yêu, cầu xin Ngài giúp chúng ta biết yêu và biết giữ lòng yêu mến Chúa mỗi ngày.
Trong cuộc chạy đua vật chất hiện nay, bạn thấy mình có còn lòng yêu mến Chúa nữa không? Nếu còn, bạn đã và đang thực thi lòng mến ấy như thế nào? Nếu không có lòng mến Chúa, làm sao bạn có thể đạt tới việc thực thi điều răn thứ hai là yêu người thân cận như chính mình?
Lạy Chúa, Chúa đang mời gọi con hãy yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Xin cho con biết giữ và nuôi dưỡng ngọn lửa yêu mến mỗi ngày, biết đặt Chúa là đích điểm của đời mình như Chúa đã đặt chúng con trong ơn cứu độ của Ngài. Amen.
Đức ái là đức mến, yêu thương, thương xót – một trong ba nhân đức đối thần, nhưng là nhân TN30-A165
Đức ái là đức mến, yêu thương, thương xót – một trong ba nhân đức đối thần, nhưng là nhân đức tồn tại vĩnh viễn, cả đời này và đời sau. Do đó, “đức ái cao cả nhất.” (1 Cr 13:13) Đạo của Chúa là đạo yêu thương, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16) Sách Gương Chúa Giêsu nói: “Ái tình sinh bởi Thiên Chúa, cũng chỉ để quy hướng về Thiên Chúa là tình yêu.”
Tình yêu chân thành rất kỳ diệu. Đấng đáng kính Charles de Foucauld cho biết: “Khi sống trong tình yêu, người ta khiêm nhường, thấy mình rất vô nghĩa và không là gì bên cạnh Đấng mình yêu dấu.” Thánh Bernard lý luận: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ.” Tình yêu không biên giới, đức ái vô hạn.
Duy nhất một Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng tạo thành vũ trụ và quy định Thánh Luật. Người ta gọi là luật tự nhiên nhưng chính là luật thiên nhiên, mà chỉ có Thiên Chúa là Đấng ấn định quy luật đó. Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8) Thánh Phaolô so sánh mạnh mẽ: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:25) Phải thực sự vững tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận này, người vô thần và cố chấp không bao giờ hiểu – vì không muốn hiểu.
Đạo Yêu Thương của Chúa có luật gồm 10 điều khoản – gọi là Thập Giới hoặc Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lại chỉ là hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai khoản luật đó có thể “rút gọn” chỉ còn một chữ YÊU. Nói ngắn gọn cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu – Luật Tình. Đó là Luật hai-trong-một.
Ngoài Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban qua Môisê, Giáo Hội còn có Năm Điều Răn. [*] Tất cả 15 điều (10 + 5) đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, 3 điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, 7 điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người khó lắm.” Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2:17 và 26) Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối.” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20) Yêu thương liên quan công lý, có công lý thì mới có hòa bình đích thực.
Rất ngắn gọn với chỉ một chữ YÊU, không thể ngắn hơn được nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài.” Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28) Phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm. Có yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời Thiên Chúa.
Chữ Yêu liên quan chữ Thập, có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt,…), và hướng xuống để đến với các linh hồn nơi Luyện Hình. Thật tuyệt vời biết bao! Cũng vậy, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Không ai có thể giả bộ được. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng độc đáo lắm!
Như chúng ta đã biết là “luật vị nhân sinh.” Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy, hoặc các quy ước bất thành văn. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin.” (Gl 3:24) Càng vững tin càng trở nên công chính.
Ngay từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi KHÔNG được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ goá con côi, các ngươi KHÔNG được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.” (Xh 22:20-23) Rất rõ ràng, cụ thể.
Cựu Ước đã có “luật đạo đức và luật tôn giáo.” (Xh 22:17-30) Bất cứ luật nào cũng phải bao gồm yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé,” nhưng phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật không thể theo kiểu “luật rừng,” mà phải nghiêm minh như quân luật: Quân pháp bất vị thân. Nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình.” – Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm. Thật không dễ, nhất là trong xã hội Việt Nam nhiễu nhương ngày nay. Ai làm được vậy mới đáng tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn giống Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu nói rằng Lề Luật chính xác đến từng chi tiết, một chấm một phết cũng không sai. (Mt 5:18) Thật vậy, Luật Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.” (Xh 22:24-26) Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, Thiên Luật, Thánh Luật, chan chứa Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo khôn ví!
Khôn tả khi được sống trong luật thiện hảo như vậy, vì thế mà Thánh Vịnh gia đã minh định: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3) Thánh Vịnh gia còn cho biết điều kỳ diệu: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.” (Tv 18:4) Đó chính là phép lạ, và điều đó vẫn xảy ra hằng ngày với mọi người – dù tín nhân hoặc vô thần.
Từng giây phút chúng ta cũng vẫn nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Giờ đây, dù một thoáng nghĩ, hãy cùng Thánh Vịnh gia xác tín và xưng tụng Ngài: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho con trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ con, là Thượng Đế giúp con rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền con.” (Tv 18:47-48) Được vậy, chắc chắn Thiên Chúa lập tức quên hết tội lỗi của chúng ta và âu yếm ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm êm ái yêu thương của Ngài.
Cuộc sống ai cũng có những khó khăn, mỗi người mỗi kiểu, vấn đề là có nỗ lực hợp tác với ơn Chúa hay không. Thánh Phaolô bộc bạch: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia.” (1 Tx 1:5-7) Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức có quyền, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” (nguy hiểm nhất là “luật rừng” theo ý riêng) để rồi làm khổ người khác. Có “quyền” là để phục vụ (Mt 20:26-28; Mc 10:43-45) chứ không phải để “hành” người khác, đó mới là “đúng luật” theo Ý Chúa.
Ngoài ra, Thánh Phaolô còn cho biết thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến.” (1 Tx 1:9-10) Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như trước đó Thánh Phaolô cũng đã xác nhận: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.” (1 Tx 1:8) Tất cả chỉ vì đức ái theo tinh thần của Đức Giêsu Kitô.
Trình thuật Mt 22:34-40 (≈ Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) nói về “điều răn trọng nhất” – yêu thương, đức ái. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật vấn đề đức ái.
Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sađốc phải câm miệng – nhóm này không tin có sự sống lại, và cùng những người Pharisêu họp nhau lại để bàn cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà không được. Lần này, một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Ngài thản nhiên: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Sađốc phải ngậm bồ hòn làm ngọt, đành cắn răng mà im như thóc thối vậy thôi.
Nói tới nói lui, nói trước nói sau, nói đi nói lại, nói ngang nói dọc,… nói kiểu nào hoặc theo cách nào thì cũng chỉ để diễn giải đức ái. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô, tự nguyện chứ không miễn cưỡng, thì phải “giữ trọn vẹn lề luật.” (Gl 5:3) Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao vậy? Thánh Gioan xác định: “Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8) Còn Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13:10) Rất rạch ròi, rất lô-gích!
Đức ái vô vô điều kiện, không tính toán, không so đo, không phân bì. Từ thiện là một dạng đức ái. Các thánh đã sống trọn đức ái, yêu “tới bến” và như hóa điên rồ theo cách của Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn nên thánh, chúng ta phải có gen Y (yêu) giống như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – loại máu mà y học không thể biết vì không đủ trình độ để phát hiện.
Thánh LM TS Tôma Aquinô xác định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta.” Thánh Augustinô cũng xác nhận: “Ngài có đó khi ta tưởng mình cô đơn, Ngài lắng nghe khi chẳng ai đáp lại, Ngài yêu thương khi tất cả hững hờ.” Quả thật, tình yêu Thiên Chúa còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu. Chắc chắn như vậy.
Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái.” (Rm 13:8) Và mỗi chúng ta đều phải nỗ lực thanh toán món nợ đức ái suốt đời!
Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin tạo cho con trái tim có loại máu như Ngài để con nhận biết chính con, nhờ vậy mà con có thể hết lòng yêu mến Ngài và yêu thương tha nhân vô điều kiện. “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” (Tv 18:2-3)
Lạy Chúa từ nhân, xin thương tha thứ tội lỗi cho những người suy nghĩ ích kỷ và tham lam mà cứu khổ cứu nạn dân miền Trung đang chịu cảnh tang tóc vì tai họa lũ lụt, xin cho các nạn nhân được hưởng Tôn Nhan Ngài. Lạy Đức Mẹ La Vang, xin chỉ cho dân lành biết loại “lá vằng tâm linh” để có thể đặc trị hoàn cảnh tai ương oan ức này. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
------ [*] Có chút “lấn cấn” này: Giáo Hội hiệp nhất và duy nhất, nhưng có những nơi ở giáo phận khác, cùng giáo tỉnh Saigon, vẫn sử dụng kinh Sáu Điều Răn Hội Thánh, chứ không đọc kinh Năm Điều Răn Hội Thánh. (sic!)
Có những con đường dẫn ta đến công thành danh toại, biết bao kế hoạch làm ăn hợp lý mang TN30-A166
Có những con đường dẫn ta đến công thành danh toại, biết bao kế hoạch làm ăn hợp lý mang đến thu nhập cao, tất nhiên trở thành đại gia. Có những con đường đi hoài đi mãi vẫn mông lung, nên chăng ta cần điều chỉnh lại phương hướng ? Bậc cha mẹ tạo điều kiện cho con ăn học, ấy vậy, các ngài không thể thay con cắp sách đến trường lớp. Cả chú bác cô dì, các chuyên gia tư vấn, hướng nghiệp, nhưng chẳng ai có thể quyết định, chọn lựa, thay cho con cháu mình ! Mỗi người, dù khôn, dù khờ, hoàn cảnh nghèo hèn, sống trong đất nước văn minh, là dân đen hay tri thức, hầu hết đều muốn mong hoà bình và hạnh phúc. Có chăng, rất nên tự hỏi, ta đang bước đi trên con đường nào, sử dụng con tim khối óc trong tự do hay phó mặc số phận ?
Tiền nhân có câu: phong lưu mỗi người mỗi cách, lịch sự mỗi người mỗi kiểu. Thực ra thì non cao cũng có đường trèo, cuộc đời rắc rối mấy, người người đoàn kết yêu thương vẫn có lối thoát. Do thái giáo vẫn nhìn nhận các luật sĩ biệt phái là đạo đức, họ tin Chúa, yêu Chúa, theo phong cách riêng của họ. Đạo đức, một vấn đề hết sức nhạy cảm trước tôn giáo và cộng đồng nhân loại, Đức Giêsu đã từng bị chống đối, nghi ngờ, dù Ngài giải thích kinh thánh hay, có tính thuyết phục, lời nói việc làm của Ngài không hề trái nghịch luật yêu thương. Đúng, lời chân thành, việc làm tử tế, nhân từ, là những câu ngắn, dễ nói, song âm vang của chúng thật còn mãi.
Cùng hoà nhịp trước muôn vàn cái đẹp, cái nhất, nơi cuộc sống, Đức Giêsu thật chí lý cho thấy quan niệm: ăn theo thuở, ở theo thời, không thể phù hợp với bác ái mà có tính toán hơn thiệt. Hành động yêu thương không thể dừng lại ở việc nhìn, xem, hoặc thách đố nhau, đâu là con đường ngắn nhất, hay nhất, để sống tốt nhất. “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết trí khôn, … ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”, có phải Đức Giêsu nhắc ta điều hạnh phúc nhất, quan trọng nhất là yêu: được yêu, và biết yêu ? Đức Giêsu trả lời chung cho muôn thế hệ, thế nào là giỏi nhất, giầu nhất, đạo đức nhất, giới luật quan trọng nhất, con đường quan trọng nhất, để đến hạnh phúc thật, đó là mến Chúa yêu người.
Con đường Thầy Giêsu đến thế gian là yêu mến phục vụ, trong khi các luật sĩ biệt phái chỉ nhận ra Đức Giêsu là con bác thợ mộc, có những bất đồng quan điểm về giáo lý truyền thống mà họ giảng dạy. Người trẻ thời nay không hỏi bậc sinh thành về điều hay nhất, chẳng quan tâm đâu là vấn đề quan trọng, nhưng các bạn vẫn biết rằng dù tài giỏi, thành đạt, giầu sang phú quý, cũng đến ngày họ buông xuôi tất cả để trở về với thân cát bụi. Theo bước Thầy Giêsu, có thể mỗi người còn nhiều hạn chế, nhưng ơn tự nhiên vẫn giúp ta đủ hiểu: dẫu rằng thông hoạt, chẳng học cũng hư người, tài chi bằng trời, chẳng học cũng phải khổ. Đón nhận giới luật yêu thương là đi con đường Giêsu, thực thi việc mến Chúa yêu người là đang bước theo Giêsu, có thể trí lòng ta còn nhiều lắng lo, ngờ vực, về sức mạnh và tình yêu Chúa.
Con đường đi đến hạnh phúc luôn “mở ngỏ” cho từng người, nhưng chắc chắn ta không thể trưởng thành, nếu cuộc sống dễ dàng, người ta chỉ thật sự hoàn thiện mình, khi đã vượt qua bài học khổ đau nơi hiện tại. Nhiều người trong chúng ta đã nghe tiền nhân nói: học là học để mà hành, vừa học vừa hành mới thành người khôn. Nhiều người vẫn đang thao thức địa vị lớn nhất, lương cao nhất, và bước đi trong nguy hiểm nhất, người ngoài cuộc cho rằng đi con đường như thế là khờ nhất ! Theo bước Giêsu để được học hỏi, được thực hành bài học yêu thương. Bước theo Giêsu sẽ không có chỗ nhất, không được giầu nhất ở đời này. Dù ta bần cùng hay phú quý, mỗi người vẫn đủ hiểu và tác động của ơn ban, giúp ta sống giới luật yêu thương chuẩn nhất, đúng nhất.
Cái gì đẹp nhất, quý nhất ? khối kẻ vẫn cho rằng đó là sức khoẻ, thời giờ, mạng sống, hoặc công danh sự nghiệp. Con đường nào dẫn đến niềm vui thật, hạnh phúc thật ? người tín hữu không khó để quả quyết là mến Chúa yêu người. Tham khảo chuyên gia kinh tế, bước theo bậc hiền tài nào, hầu vượt thắng sự giới hạn của phận người, có thể còn nhiều kẻ đang lần mò tìm kiếm ! Đạo hiếu căn bản nơi gia đình là hoà thuận yêu thương, là yêu cha mến mẹ, ai cũng phải biết. Đạo làm người, ai cũng được chỉ dạy kính trên nhường dưới, cư xử có tình có nghĩa với nhau, có lạ lẫm gì đâu ! Thánh Augustinô nói rằng: hãy sống mến yêu đi, rồi bạn làm gì cũng thành công. Theo bước Giêsu, ở trong tình yêu Giêsu, mỗi người sẽ hiểu và đủ ý thức để thực hành bài học mến Chúa yêu người cách tốt đẹp nhất. Amen.
Tình yêu là sợi dây huyền diệu. Nó có khả năng nối kết mọi người gần nhau hơn. Tình yêu đích TN30-A167
Tình yêu là sợi dây huyền diệu. Nó có khả năng nối kết mọi người gần nhau hơn. Tình yêu đích thực là tình yêu đến từ Thiên Chúa, tình yêu của Thánh Thần. Thiên Chúa dạy ta “sống mến Chúa yêu người” qua hai giới răn mà Đức Giêsu mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 22, 34-40). Nếu chỉ yêu theo cách của ta, ta sẽ chẳng thể nào vươn tới tình yêu đích thực. Bởi đó, ta cần đến ơn Chúa, mà tình yêu Thánh Thần là sợi dây liên kết, thúc đẩy ta dành cho Chúa một chỗ đứng cao nhất, quan trọng nhất trong cuộc đời, và “yêu người thân cận như chính mình”(Mt 22, 39).
Điều răn trọng nhất và cũng là điều răn thứ nhất chính là:“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi”(Mt 22, 37). Tại sao vậy? Thiên Chúa chính là Đấng tạo thành, yêu thương và cứu chuộc ta. Người yêu ta đến nỗi trao ban chính Con Một yêu quý cho nhân loại. Không phải Thiên Chúa cần đến ta nhưng chính khi ta yêu mến Ngài “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là khi ta bày tỏ tâm tình con thảo đối với Ngài, mặt khác đó cũng là phần phúc lớn lao của ta. Khi yêu mến Thiên Chúa bằng Thánh Thần, mỗi ngày ta sẽ thuộc về Ngài và hoàn toàn có khả năng để cho Ngài làm chủ và hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm, cùng bước đi theo đường lối của Ngài. Yêu mến Thiên Chúa trong Thánh Thần là từ bỏ mọi ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa mà phụng sự Người (x.1Tx 1,9). Là con người, chúng ta không thể nào tránh khỏi xu thế chạy theo danh vọng, tiền tài, quyền lực cùng các đam mê là những ngẫu tượng kéo ta xa Thiên Chúa. Noi gương các tín hữu Thêxalônica, dù trong mọi khó khăn thử thách, chúng ta cũng hãy can đảm từ bỏ mọi ngẫu tượng mà quay về cùng Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu Kitô. Để yêu mến Thiên Chúa cách đầy đủ, đúng nghĩa, chúng ta cần thi hành điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 39).
“Đức tin không hành động là đức tin chết” (x. Gc 2,17). Thiết nghĩ, khi ta sống điều răn thứ hai là cách cụ thể và rõ ràng nhất để diễn tả tình yêu ta dành cho Thiên Chúa. “ Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35). Tất cả chúng ta đều được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi đó, để yêu người thân cận như chính mình ta cần nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính ta và nơi tha nhân. Thánh Giuseppe Moscati là một bác sĩ của người nghèo. Có thể nói, ngài đã sống trọn vẹn hai giới răn Chúa dạy. Cuộc đời của ngài cống hiến cho Thiên Chúa, cho những bệnh nhân đặc biệt là các bệnh nhân nghèo. Ngài làm được điều đó vì Ngài đã nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mỗi bệnh nhân để rồi dành hết tất cả tình yêu mà chăm sóc, cứu chữa cho biết bao mảnh đời. Cũng chính tình yêu dành cho Thiên Chúa ngang qua các bệnh nhân đã thôi thúc ngài dấn thân vào tận cùng các khu ổ chuột, nơi những con người nghèo nhất sinh sống. Trong Tin Mừng, khi nói về ngày cánh chung, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rằng, khi ta làm một việc nhỏ bé cho những người anh em bé mọn chính là làm cho Chúa (X. Mt 25, 40). Thiết nghĩ, khi ta sống điều răn thứ nhất thì ta không thể không sống điều răn thứ hai. Cũng vậy, điều răn thứ hai giúp ta sống trọn vẹn điều răn thứ nhất. Trong Thánh Thần, chúng ta sẽ biết phải yêu thế nào.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được diễm phúc làm con cái Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống theo sự soi dẫn của Thánh Thần Tình yêu để chúng con biết dành cho Chúa một vị trí cao nhất trong cuộc đời cùng yêu thương anh chị em như chính mình. Nhờ đó, chúng con sẽ ngày cành hiểu biết và yêu mến Chúa trên hết mọi sự và dám sống cho tình yêu đích thực. Amen.
Lãnh đạo Do Thái thời trước không hoà thuận khi họ bàn về tầm quan trọng trong việc giữ các TN30-A168
Lãnh đạo Do Thái thời trước không hoà thuận khi họ bàn về tầm quan trọng trong việc giữ các giới luật. Người thì cho rằng luật ‘Cắt bì’ là giới răn quan trọng nhất. Nhóm khác lại lí luận giữ ngày ‘Lễ Nghỉ’ được coi là quan trọng hàng đầu. Nhóm khác nữa lại chú trọng đến việc ‘Thờ Phượng Thiên Chúa là trọng hơn cả. Người luật sư thuộc nhóm này. Anh ta đưa vấn đề hỏi Đức Kitô với hy vọng Đức Kitô đứng về phía anh ta. Anh hỏi, ‘Xin Thầy cho biết giới răn nào quan trọng hơn cả’. Đức Kitô nhắc lại giới luật trong sách Đệ nhị Luật 6:5 dậy ‘hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em’. Nhắc lại giới răn đó nhưng Đức Kitô không ngưng tại đó, Ngài dậy thêm giới răn quan trọng tiếp theo là ‘yêu mến tha nhân như chính mình’. Hai giới răn này tóm gọn lề luật, mến Chúa, yêu người. Giới răn thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa và giới răn thứ hai là yêu mến tha nhân. Đức Kitô cho biết hai giới răn này gắn bó đến độ không thể chia lìa. Người ta không thể nói thờ phượng Thiên Chúa hết lòng mà lại không yêu người. Thờ phượng Thiên Chúa mà không yêu tha nhân chính là thờ phượng Chúa bằng môi miệng. Thương yêu tha nhân mà không làm vinh danh Chúa chính là làm công việc bác ái xã hội cho vinh danh tên tuổi mình. Vì thế xã hội vinh danh, ca tụng cá nhân đó. Yêu mến tha nhân chính là nhận biết người đó là nhân vị đặc thù được được Thiên Chúa dựng nên. Thứ hai là nhận biết con người đó có mang hình ảnh Chúa trong người. Điều răn thứ hai giống như điều răn thứ nhất. Chữ ‘giống như’ của điều răn thứ hai bao hàm nhiều í nghĩa. Thứ nhất chính là làm cho tha nhân nhận biết Thiên Chúa qua cuộc sống của chính ta để tha nhân tôn vinh và ca tụng thiên Chúa. Thứ hai, bởi nếu không có mẫu mực để yêu thương, chúng ta không biết phải yêu tha nhân như thế nào cho phải lẽ. Vì thế chữ ‘giống như’ đưa ra mẫu mực yêu thương. Điều này có nghĩa là ta phải yêu tha nhân cùng cung cách Thiên Chúa yêu ta. Làm như thế tình yêu con người được phỏng theo và thánh hoá thành tình yêu thần linh. Điều này có thể thực hiện được, không phải do tài trí của ta, mà chính là do tình yêu Chúa trong ta thực hiện điều đó. Tình yêu nhân loại thường thiên vị và mong được đền đáp. Tình yêu Chúa không đòi đền đáp và đầy tràn tình thương. Khi ta yêu tha nhân bằng tình yêu thần linh, tình yêu Thiên Chúa sống động trong đời sống xã hội con người.
Tình yêu thiên Chúa luôn sống động. Bởi vì tình yêu sống động nên tình yêu đó luôn tái tạo. Tái tạo sinh ra tạo vật mới, chúng tốt lành và hữu dụng bởi những tạo vật mới phát sinh từ tình yêu. Tình yêu sáng tạo rõ ràng nhất là trình thuật trong hai chương đầu của sách Sáng Thế Kí. Chúng ta được mời gọi dự phần vào việc sáng tạo một cách khiêm nhường, nhỏ bé hơn. Chúng ta không cần phải thực hiện kì công vĩ đại, chuyển núi, dời sông. Chúng ta được mời gọi làm tốt đẹp cuộc sống, vui vẻ làm công việc hàng ngày, và làm với lòng mến. Chẳng hạn như khi gặp người cần nâng đỡ, chúng ta nâng đỡ họ khi họ gặp khủng hoảng công ăn, việc làm, khủng hoảng tài chánh, khủng hoảng đời sống gia đình, khủng hoảng tình trạng con cái. Quan trọng hơn cả là khủng hoảng về đời sống đức tin; Chúng ta sẵng lòng giúp người trong khả năng, khi người cần đến sự giúp đỡ của ta; chúng ta tỏ lòng rộng lượng với người làm ta phật lòng, sẵn sàng tha thứ khi họ tỏ lòng thống hối hay ngỏ lời xin lỗi. Những việc này không ảnh hưởng đến công trình sáng tạo, nhưng chúng lại rất có giá trị với tha nhân bởi những việc đó ban sự sống, hỗ trợ sự sống và là nguồn sống.
Tình yêu Thiên Chúa còn gắn liền với hy sinh. Đức Kitô diễn tả tình yêu đó bằng cách tự nguyện vác thập giá đền thay tội nhân loại, để ban ơn cứu dộ, thánh hoá và đổi mới cuộc sống tâm linh con người. Một khi ta thực hành tình yêu thần linh trong gia đình thì gia đình sẽ êm vui, đầm ấm. Ta biết rõ nhiệm vụ và mục đích cuộc sống, khi thể hiện tình yêu thần linh trong cộng đoàn thì cộng đoàn đó là cộng đoàn mở rộng vòng tay chào đón tha nhân. Khi mọi thành viên trong gia đình sống với nhau bằng tình yêu thần linh ban phát, gia đình đó là nguồn thương yêu, hạnh phúc. Đời sống không còn là gánh nặng.
Bình an và hạnh phúc là bạn đồng hành trong cuộc sống.
Có bao giờ mỗi người trong chúng ta tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người TN30-A169
Có bao giờ mỗi người trong chúng ta tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người?
Lấy ví dụ: ta có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: “Con phải lo học bài, con phải siêng học”. Sở dĩ chúng ta bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học.
Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu nhau. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn, đó là: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình”.
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đầng.
Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ.
Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: “Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối. Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng minh chứng mình yêu mến Thiên Chúa.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo, từng người ý thức: Chúa sai chúng ta đi vào cuộc đời như những nhà truyền giáo. Nhưng sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là cách truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu.
Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của mọi hành vi đạo đức, nên đạo Công Giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi.
Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là nhà truyền giáo rồi.
Nhưng không phải lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa. Nhưng điều mà người thầy có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò…
Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị ngả. Hoặc ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng… Tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Dù chỉ là những việc nhỏ, nhưng chúng ta cố gắng thực hành bằng tất cả lòng yêu mến của mình. Đó chính là cách chúng ta có thể làm chứng cho Chúa.
Tin rằng mỗi người đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công Giáo. Chỉ cần gieo vào lòng người khác cảm tình tôn giáo đối với đức tin của mình, ta đã khởi sự truyền giáo.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trái tim biết yêu thương, để chúng con sống với mọi người bằng chính lòng yêu thương ấy. Chúng con tin, một khi chúng con thể hiện lòng yêu thương của mình, chúng con đã có thể loan báo về Chúa cho anh chị em của chúng con. Amen.
Khi xếp hạng một điều gì là “nhất”, thông thường điều được gọi là nhất ấy chỉ có một mà thôi TN30-A170
Khi xếp hạng một điều gì là “nhất”, thông thường điều được gọi là nhất ấy chỉ có một mà thôi. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại khẳng định cả hai điều được coi nhà nhất. Quả vậy, sau khi trích dẫn quy định của luật Cựu ước: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”, Người nói: “Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất”. Tiếp theo Người khẳng định: “Điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ngươi”. Như vậy, mến Chúa yêu người có vẻ như hai điều răn, nhưng thực ra chỉ một giới răn duy nhất, giống như hai mặt của cùng một tấm huân chương, vì cả hai đều mang tầm quan trọng như nhau. Giới răn này là tình yêu mến nhằm tới hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Mến Chúa và yêu người thường đi đôi với nhau và làm nên một đức mến hoàn hảo. Nói cách khác, mến Chúa mà không yêu người thì chỉ là lý thuyết suông; yêu người mà không đặt trên nền tảng vì Chúa sẽ thiếu đi khía cạnh siêu nhiên và có nguy cơ trở thành tình yêu ích kỷ. Yêu mến tha nhân là cụ thể hóa lòng yêu mến Chúa. Tại sao phải yêu mến Thiên Chúa? Tình yêu đâu có phải là một lệnh truyền hay một điều bắt buộc? Nhiều người đã đặt ra câu hỏi này. Tình yêu mến dành cho Thiên Chúa được coi như một giới răn từ thời Cựu ước, bởi vì Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng giải phóng con người. Mỗi người Do Thái được dạy ngay từ thuở còn thơ để nhận ra Thiên Chúa là Đấng che chở hướng dẫn dân riêng của Ngài. Vì thế, tình yêu mến mỗi con dân Do Thái dành cho Chúa vừa là lòng hiếu thảo như đối với đấng sinh thành, vừa là lòng biết ơn vì Ngài đã giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Ai Cập để đưa về miền đất hứa. Đối với chúng ta hôm nay, là dân Israen mới, lòng yêu mến Thiên Chúa xuất phát từ việc chân nhận Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và dựng nên con người. Lòng yêu mến mà chúng ta dành cho Chúa vừa là lòng biết ơn, và là lời tôn vinh quyền năng cao cả của Ngài. Đó không phải một thứ yêu mến vị lợi, nhưng xuất phát từ trái tim chân thành, như con thơ đối với cha mẹ. Tại sao lại phải yêu mến tha nhân? Nếu tìm trong giáo huấn của Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy câu trả lời của chính Chúa Giêsu: tha nhân là anh chị em với chúng ta, vì hết thảy chúng ta có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn bênh vực và đứng về phía người nghèo, người góa bụa và cô nhi. Đó là một trong những điểm nhấn trong giáo huấn của Cựu ước, như Bài đọc I đã diễn tả: “Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van”. Được trình bày trong lối văn chương và quan niệm của Cựu ước, Thiên Chúa còn sẵn sàng ra tay đối với những ai ức hiếp người nghèo. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu còn khẳng định: Người đồng hóa và hiện thân nơi những người bất hạnh, đến nỗi những ai xúc phạm người nghèo là xúc phạm Chúa, những ai giúp đỡ người nghèo là giúp đỡ Chúa (x. Mt 25). Chúa dạy chúng ta không chỉ yêu mến người làm ơn cho mình. Tình yêu mến này vượt qua mọi ranh giới, thậm chí yêu thương cả kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Yêu thương kẻ thù là bằng chứng của lòng bao dung và sự tha thứ đích thực. Đức mến là cốt lõi của Đạo Chúa. Đức mến cũng là nội dung chính của Luật Môi-sen và sách các Ngôn sứ, như lời Chúa Giêsu đã quả quyết. Sau này, Thánh Phaolô cũng diễn tả một cách rất xác tín: “Yêu thương thì chu toàn Lề luật” (Rm 13,10). Đức mến mà chúng ta đang bàn tới không chỉ dừng ở lý thuyết, nhưng phải được thể hiện và chứng minh qua việc làm. Thánh Phaolô đã khen ngợi cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, vì những việc tốt lành họ đã làm để sống đức tin, qua việc đón tiếp các anh chị em đồng đạo và qua việc từ bỏ ngẫu thần, chuyên tâm phụng thờ Thiên Chúa. Nói cách khác, cộng đoàn tín hữu này được khen ngợi vì họ mến Chúa yêu người. Như chúng ta vẫn đọc trong câu kết của kinh Mười điều răn: “Mười điều răn ấy tóm lại hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”, lòng mến là cốt lõi của Đạo Chúa và tóm lược toàn bộ giáo huấn của Ngài. Khi thực thi tình mến một cách đích thực, chúng ta trở nên quảng đại, khước từ những toan tính mưu cầu lợi ích riêng. Tình yêu đích thực sẽ làm cho con người được tự do, vì sẵn sàng hiến thân và hy sinh vì lợi ích của Nước Trời và lợi ích của tha nhân. Tình yêu hướng chúng ta về những người đang sống xung quanh mình, quan tâm tới họ và giúp cho họ hạnh phúc. Mến Chúa yêu người, đó là giới răn trọng nhất. “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân” (Thánh Augustinô). “Yêu là tìm hạnh phúc của mình trong chính hạnh phúc của kẻ khác” (Léibnitz).
Mặc dù đã thất bại nhiều lần, nhưng nhóm Pharisêu cùng nhóm Hêrôđê và Xađốc không từ bỏ TN30-A171
Mặc dù đã thất bại nhiều lần, nhưng nhóm Pharisêu cùng nhóm Hêrôđê và Xađốc không từ bỏ ý định loại trừ Chúa Giêsu. Lần này, chúng cử một người thông luật đến hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Chúa Giêsu đáp “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 36-37). Với câu trả lời này, chúng ta dễ lầm tưởng tình yêu của Chúa có một mức độ nào đó. Trong khi đó, chúng ta nói tình yêu của Chúa là không bờ không bến, tình yêu vô tận. Hay thiệt! Nhưng không, có lẽ vì trí hiểu chúng ta có hạn, chúng ta cần có một hành động cụ thể để diễn tả tình yêu sâu sắc, đầy đủ và chân thành hơn.
Khi nói đến tình yêu, chúng ta nghĩ ngay đến biểu tượng của trái tim. Trái tim thể hiện tình yêu, là cõi lòng và là nơi xuất phát tình yêu của mỗi người. Khi đôi lứa yêu nhau thật sâu đậm, họ trao cho nhau những câu nói ngọt ngào “Anh yêu em!” hay “Em yêu anh!”. Không chỉ ở lời nói, họ còn có những cử chỉ trông thật hạnh phúc. Tình yêu đôi lứa là thế đó. Còn tình yêu Chúa Giêsu là thế nào? Vâng, chẳng phải Ngài đã nói yêu Ngài là phải yêu hết lòng, hết cả linh hồn, nghĩa là yêu cả con tim, cõi lòng và luôn một lòng hướng về Ngài. Như Mẹ Maria đã cất tiếng hát rằng “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Vâng, Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng tiếng hát và sống lời ấy cả linh hồn, thể xác trong suốt cuộc đời. Để thực hiện đều ấy, Mẹ đã hy sinh những gì Mẹ có, ngay cả trí khôn. Nói đến trí khôn là nói đến sự hiểu biết, là trí thức, suy luận và sự phán đoán của mỗi chúng ta. Chúng ta phải dùng trí khôn ấy để đào sâu tình yêu của Thiên Chúa, dù Thiên Chúa quá Mầu nhiệm và sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ mon men dọc bờ biển mà thôi. Thật là buồn! Buồn, nhưng vẫn khao khát tìm hiểu Ngài. Có hiểu Ngài, chúng ta mới có thể yêu bằng tình yêu đích thực. Trong Tin Mừng Luca còn nói thêm yêu Chúa là “yêu hết sức lực” (Lc 10,27). Sức lực là sức khỏe để làm việc. Và, yêu không chỉ dừng ở tấm lòng mà còn phải được thể hiện ở bên ngoài. Chúng ta có sức khỏe nhưng lại không làm, cứ lẩn trốn hay làm hời hợt, mặc cho ai đang gánh vác nặng nề. Như thế là ta đã yêu Chúa hết sức lực chưa? Chúng ta hãy tự trả lời.
Chúa Giêsu, Ngài mong muốn chúng ta yêu Ngài bằng cả con người chúng ta trong mọi sự. Vậy làm sao chúng ta thực hiện được? Chúng ta là những con người yếu đuối, sức lực có hạn. Bởi vậy, hoàn cảnh và sự cám dỗ làm cho mục đích hành động của chúng ta dễ xoay chiều. Trong đó, có hai loại sâu đục khoét tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, đó là ghen tị và nói xấu. Vì thế, thay vì chúng ta yêu Chúa, chúng ta lại yêu mình và quên người anh em của mình. Nhưng đừng vì thế mà nản chí, như Chúa Giêsu đã nói “Kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Ngoài ra, điều răn mến Chúa và yêu người là hai nét đẹp của đạo Thiên Chúa, là tình yêu tuyệt vời của người Kitô hữu.
Lạy Chúa! Chúa là Đấng tình yêu. Những điều răn của Chúa luôn giúp con người sống trong tình yêu. Xin Chúa cho chúng con sống tình yêu Chúa với cả tấm lòng và không ngừng đáp trả tình yêu ấy. Amen.
Trên chuyến xe, một giáo lý viên vui vẻ hỏi các học trò của mình: Đố các em biết, muốn thi vào TN30-A172
Trên chuyến xe, một giáo lý viên vui vẻ hỏi các học trò của mình:
Đố các em biết, muốn thi vào trường của Thầy Giêsu thì mấy điểm là đậu?
Bất ngờ trước câu hỏi của thầy, các trò đều im lặng suy nghĩ. Ai cũng băn khoăn, muốn tìm cho mình một câu trả lời. Một em trong đám học trò lên tiếng trước:
– Thưa thầy, em nghĩ là không có giới hạn ạ.
– Thầy ghi nhận câu trả lời của em. Có em nào có ý kiến khác không?
Thầy giáo ân cần nhìn những khuôn mặt của đám học trò đang đượm nét suy tư. Được thầy khuyến khích, các em lần lượt đưa ra ý kiến của mình. Sau cùng, đáp án mà thầy đưa ra thật bất ngờ:
– Muốn vào học trường của Thầy Giêsu, chỉ cần đạt hai điểm thôi.
– Hai điểm thôi. Thế là thế nào?
Không để các trò phải đợi lâu, thầy ôn tồn giải thích:
– Có hai điểm thôi mà hai điểm này đều bắt đầu bằng chữ “yêu”. Đó là: mến Chúa và yêu người. Hai điểm này, chúng ta phải học cả đời bằng sự nỗ lực và nghiêm túc. Tự sức mình không thôi thì chúng ta không ai đạt cả. Phải biết rằng, chính Chúa mới “làm cho nó lớn lên.” Các em phải cậy nhờ ơn Chúa từng ngày.
Câu chuyện trên đây cũng vừa nhắc lại bài học mà hơn hai ngàn năm trước, Thầy Giêsu đã giảng dạy và lời dạy ấy vẫn còn hối thúc mỗi người trong thời đại hôm nay và cho đến muôn đời.
Những kẻ chống đối Thầy Giêsu vẫn luôn tìm cơ hội để thử Thầy, tìm cớ để kết án Thầy mà chưa được. Hôm nay, những người Pharisêu cũng họp nhau lại rồi tìm đến hỏi Thầy Giêsu. Họ chọn ra một người thông luật đứng ra mà thưa rằng “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22, 36). Quả là một câu hỏi đầy khôn ngoan. Thầy Giêsu không ngần ngại trả lời “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 37-39). Thầy phải là một người am tường luật và nhất là đã sống trọn vẹn luật ấy mới có thể đưa ra câu trả lời xuất sắc như vậy. Thế nhưng, tại sao họ lại xem Thầy như cái gai cần phải loại trừ chứ không phải là một tấm gương cần học hỏi?
Những người Pharisêu nắm rất rõ về các điều luật và giữ từng chi tiết nhỏ của luật Môsê. Là những thầy dạy, các ông không những giữ luật cẩn thận mà còn buộc người khác giữ luật đến mức khắt khe. Sống trong bầu khí ấy, Thầy Giêsu bị xem là kẻ chống đối lề luật. Xem ra, Thầy không nghiêm túc giữ các chi tiết nhỏ trong bộ luật ấy. Chẳng phải Thầy đã không rửa tay trước bữa ăn, đã ngang nhiên chữa bệnh trong ngày sa bát đó sao. Thầy là cái gai cho những ai sống tinh thần luật vị luật. Theo chân Thầy, bước sát với Thầy trong từng hành trình Thầy đi, ta mới có cơ hội hiểu Thầy hơn. Thầy không sống tinh thần luật vị luật nhưng Thầy đề cao phẩm giá của con người. Tất cả mọi lề luật đặt ra đều nhằm phục vụ con người, là cơ hội làm thăng tiến đời sống con người chứ không phải kìm kẹp và trói buộc con người đến mức giết chết con người. Một lần kia, Thầy Giêsu buồn lắm, buồn cho thái độ cứng nhắc của các kinh sư và biệt phái khi họ cứ khăng khăng chủ trương ngày sa bát không làm gì cả. “Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” (Lc 6,9). Thầy Giêsu muốn cho họ hiểu rằng, “con người làm chủ ngày ngày sa bát” và ngày của Chúa chính là cơ hội cho con người thánh hóa bản thân. Thầy sống luật và dạy người ta sống luật vị nhân sinh. Thầy yêu người, đó là điều chắc chắn. Và khi thấy Thầy yêu người đến quên cả bản thân mình, người ta sẽ thấy được Thầy yêu Chúa Cha dường nào.
Từ sáng sớm, khi trời còn tối đất, Thầy đã lên núi để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Suốt một ngày dài vất vả phục vụ, nâng đỡ và chữa lành cho bao người, tình thương của Thầy cứ trải dài mãi cho bao mảnh đời bất hạnh. Thầy đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha, luôn cảm tạ và ngợi khen Cha mọi lúc. “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, …” (Mt 11, 25). Thầy đã kín múc nguồn tình yêu và ân sủng từ Chúa Cha và để “ý Cha thể hiện”, “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12, 49). Ngọn lửa tình yêu của Thầy mãi bừng cháy và thắp sáng mãi tâm hồn bao người để khi tình yêu Thầy chạm đến họ, họ lại hoan hỷ mang tình yêu ấy trao ban cho người khác. Thầy yêu Chúa Cha và luôn vâng phục Chúa Cha. Thầy yêu Cha và ý Cha cũng là ý của Thầy. Thầy yêu con người bằng cả trái tim. Thầy yêu họ như họ là. Hai điều răn Thầy dạy, chính Thầy đã sống cách trọn vẹn nhất. Thầy là mẫu gương tuyệt vời cho tất cả mọi người. Một tình yêu dâng hiến đến cùng.
Đọc từng lời Thầy dạy, lòng ta như gõ nhịp, từng nhịp hối thúc ta mau mắn sống Lời. Yêu Chúa là luôn tôn thờ, cảm tạ và ngợi khen Chúa trong suốt cuộc đời, luôn biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa. Đó là cái cánh thứ nhất. Cái cánh thứ hai giúp chúng ta thăng bằng và bay cao hơn chính là việc ta yêu người. Yêu người là đón nhận họ như họ là, là sẵn lòng hy sinh vì họ, hết lòng phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Để sống được hai điều Chúa dạy, chúng con cần có ơn Chúa thật nhiều. Xin cho con luôn biết hướng lòng lên Chúa để tôn thờ, cảm tạ và ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời. Xin cho con thể hiện tình yêu Chúa cách sống động và chân thực nhất mỗi khi con biết yêu thương những người xung quanh con. Amen.
Mấy người Biệt phái cùng nhau, Giải tìm thắc mắc, để sau hại Người. Sa-đu nể phục ơn trời, Các nhà thông luật, góp lời hỏi han. Luật nào trọng nhất Chúa ban? Mến yêu Thiên Chúa, thiên nhan kính thờ. Hết lòng, hết trí vô bờ, Giới răn thứ nhất, thiên sơ diệu vời. Thứ hai yêu mến con người, Kẻ lành người dữ, trong đời hôm nay. Yêu thương như chính mình này, Chu toàn thánh ý, phúc thay phận người. Yêu người, yêu Chúa, gọi mời, Thi hành bác ái, rạng ngời tin yêu. Tình yêu mầu nhiệm cao siêu. Tiên tri lề luật, giới điều khắc ghi. Chu toàn luật Chúa phát huy, Tin yêu phó thác, gẫm suy trong lòng. Tình yêu Thiên Chúa ước mong, Mở lòng thương xót, tinh trong sáng ngời.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài sáng tạo vũ trụ và muôn loài vì yêu. Ngài tạo dựng con người cũng từ tình yêu. Chúa cứu độ con người qua tình yêu. Tình yêu là mầu nhiệm. Mọi loài đều được chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa qua nhiều cấp bậc.
Đặc biệt tình yêu nơi con người. Con người có trái tim biết yêu thương và chia sẻ. Có tình yêu dâng hiến, tình yêu gia đình, tình yêu lứa đôi, tình yêu tha nhân, tình bằng hữu và tình yêu tổ quốc… Mỗi thứ tình yêu có thể phát triển tới cùng độ và người ta dám hy sinh cho người mình yêu.
Chính nhờ tình yêu, Thiên Chúa đã giáng thế làm người và đã hy sinh mạng sống để cứu độ con người. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Chúa đã thực hành. Chúa luôn chia sẻ tình yêu trong sự thông hiệp của Chúa Ba Ngôi. Chúa đã hiến mạng sống mình cho tha nhân vì yêu.
Tình yêu cao vời quá. Tinh yêu của con người quanh quyện nhiều nhu cầu yêu khác nhau. Tình yêu của chúng ta không tinh ròng, nên bị pha chế bởi nhiều vị ích kỷ và cân đo đong đếm. Chúng ta đã yêu nhiều, nhưng thường là yêu những điều chúng ta ưa thích. Chúng ta yêu vì lợi ích của chúng ta nhiều hơn. Chúng ta cũng chưa dám hoàn toàn xả thân vì và cho người khác. Chúng ta còn tính toán hơn thiệt trong tình yêu.
Trong bộ sách ‘Tự Thuật’ (Confessio), thánh Augustinô đã viết: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn TN30-A174
Trong bộ sách ‘Tự Thuật’ (Confessio), thánh Augustinô đã viết: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Văn hào Léon Tolstoi trong một tác phẩm ngắn với tựa đề ‘Con người sống bằng gì’, cũng khẳng quyết rằng, chúng ta sống và tồn tại không phải chỉ bằng cơm bánh, nhưng bằng chính tình yêu. Chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần giáo huấn về tình yêu như luật sống căn bản của mọi Kitô hữu, và các bài đọc lời Chúa hôm nay một lần nữa nhắc lại cho chúng ta quy chuẩn quan trọng này. Tuy nhiên đây không phải là một ý niệm trừu tượng hay mơ hồ, nhưng tình yêu chính là yếu tính (essere) căn bản nơi cuộc sống của những học trò Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng đã viết : “Yêu mến là chu toàn lề luật (Rm 13,16). Vì vậy, phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đi sâu hơn vào quỹ đạo tình yêu, và đây là lề luật chính yếu mà Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần.
Luật yêu thương
Bất cứ đoàn thể nào hay tổ chức xã hội nào cũng có những luật lệ hoặc những quy định để phục vụ cho thiện ích chung của mọi thành viên. Bộ giáo luật năm 1983 của Giáo hội gồm 1752 điều khoản và ngay trong lời giới thiệu, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã hướng dẫn : “Những khoản luật ghi trong bộ sách đã được viết ra nhằm phục vụ thiện ích của các linh hồn, giúp họ sống cuộc sống Kitô hữu một cách hoàn hảo (x. Lời giới thiệu bộ Giáo luật). Từ xa xưa, Môise cũng soạn thảo những luật lệ để dân Do Thái tuân giữ. Riêng bộ Ngũ thư (sách Torah) cũng đã ghi lại 613 điều khoản gồm 365 luật cấm và 248 điều buộc, không kể những quy định theo truyền thống được viết lại trong sách Talmud. Khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã công bố rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật nhưng là để kiện toàn, bằng cách mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, chiều kích nội tâm hóa. Ngài mời gọi chúng ta thực hành lề luật với một tinh thần mới, chứ không phải giữ luật một cách hình thức hời hợt bên ngoài. Tinh thần nội tâm hóa cũng được Chúa nhắc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài nói đến việc thực hành tình yêu, vì tình yêu là quy chuẩn duy nhất, là khung căn bản cho tất cả mọi khoản luật mà chúng ta tuân giữ. Vì vậy, trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các học trò thân tín di chúc thiêng liêng sau cùng : “Thầy ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy được hiển thị cách tròn đầy xuyên qua Thập giá, như Chúa đã từng nói : “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu’. Một số nhà tu đức cắt nghĩa về tình yêu Thiên Chúa hiển thị nơi Thập giá với hai chiều kích: Hướng thiên và hướng về tha nhân. Thanh dọc của Thập giá vút thẳng lên trời (verical) như biểu tượng về tình yêu quy về Thiên Chúa. Thanh ngang (horizontal) của Thập giá là hình ảnh của một tình yêu hướng đến tha nhân. Đây là hai chiều kích mà Chúa đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay : “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức, hết trí khôn, và ngươi cũng phải yêu thương tha nhân như chính mình”.
Những đòi hỏi của tình yêu
Con người ngày hôm nay, đặc biệt các bạn trẻ rất dễ lạm phát ý niệm về tình yêu và sử dụng hạn từ này khá mơ hồ, có khi rất sai lạc. Tình yêu không phải là tình dục. Tình yêu cũng không phải chỉ là những rung động của con tim hay những xao xuyến của cõi lòng. Nhiều bạn trẻ khi bắt đầu có cảm tình với nhau đã sẵn sàng trao thân bất chấp tất cả, và cuối cùng đã phải trả giá đắt cho sự nông nổi của mình. Tình yêu mà Chúa nói hôm nay phát nguyên từ nơi Thiên Chúa, như Thánh Gioan Tông đồ đã định nghĩa ‘Thiên Chúa là tình yêu’. Tình yêu chân chính và đích thực mà chúng ta cần học hỏi và sao chép lại, chính là tình yêu khởi phát từ trái tim Chúa Giêsu như Ngài đã nói “Anh em hãy yêu thương nhau, ‘như’ thầy đã yêu thương anh em”. Trong chương 10 của Tin Mừng thứ tư, Chúa Giêsu nói đến chân dung của một vị mục tử nhân lành đã thể hiện tình yêu một cách trọn hảo. Người mục tử nhân lành biết các con chiên trong đàn của mình. Người mục tử nhân lành cũng đi tìm kiếm các con chiên lạc, và người mục tử nhân lành thí mạng sống vì đàn chiên. Đây là 3 sắc nét căn bản mà chúng ta cần học hỏi từ nơi tình yêu của Chúa Giêsu để đem ra thực hành. Biết các con chiên không phải là cái biết của tri thức hay của lý luận, nhưng là cái biết của sự hiệp thông, cái biết của việc chia thân sẻ phận và chung hòa cuộc sống. Nói theo thuật ngữ bình dân của Đức Thánh Cha Phanxicô, người mục tử phải ‘có mùi chiên’. Cũng vậy, việc đi tìm kiếm con chiên lạc hàm ngậm một tình yêu tha thứ đến vô tận, một tình yêu để chữa lành chứ không bao giờ kết án hay ‘làm thịt’ các con chiên của mình. Cao điểm của tình yêu chính là việc hiến trao ngay cả mạng sống. Trong lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy nhiều vị thánh đã sống tận căn mầu nhiệm trao ban này, như Cha Thánh Đamiêng đã sống trọn cuộc đời giữa những người cùi ở hòn đảo Molokai hoặc Cha Thánh Maximilien Kolbe đã tình nguyện chấp nhận chết thay cho một anh bạn tù. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mới mở ra một hướng mới trong việc phong thánh, đó là những ai biết chắc chắn mình không thể qua khỏi, đã quảng đại hiến trao những cơ phận nơi thân thể mình để tặng cho người khác. Họ cũng có thể được Giáo hội công nhận là những vị thánh, bởi vì hành động của họ khởi phát từ một tình yêu cách tự nguyện.
Những tội nghịch với đức ái
Theo quan niệm thông thường, người mắc tội là một người đã vi phạm một luật lệ và có đủ chứng cứ để kết tội họ. Vì vậy, trong các phiên tòa xã hội, vẫn thường xảy ra tình trạng một người bị kết án oan sai, hoặc có những người phạm những tội tày đình nhưng không bị kết án do thiếu bằng chứng hoặc do lỗi của các vị thẩm phán. Đối với Thiên Chúa, thì không bao giờ xảy ra như thế. Ngài thấu tỏ mọi sự nơi tâm can từng người. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã nói đến căn gốc tội lỗi từ trong cõi lòng chứ không phải chỉ dừng lại trên những hành vi bên ngoài. “Ai giận anh em mình, ai rủa anh em mình thì đáng bị luật phạt, đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt… Ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn, thì đã mắc tội ngoại tình ngay trong lòng”. Khi đi xưng tội, nhiều người thực sự chưa biết xét mình, tức là chưa biết nhìn thẳng vào nội tâm để khám phá những điều bẩn thỉu, nghịch với đức ái ngay từ trong tâm hồn của họ. Đi đến nhà thờ một cách chiếu lệ cho xong ván lễ mà không đến để gặp gỡ Thiên Chúa, vẫn chưa phải là chu toàn luật như Chúa nói hôm nay. “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức”. Giận ghét người khác, nói hành nói xấu hay lọc lừa, gian dối để làm hại lẫn nhau, là những tội gián tiếp phạm đến điều răn thứ năm ‘Cấm giết người”, mà chúng ta vẫn thường không để ý tới. Yêu mến tha nhân như chính mình là phải làm sao loại bỏ những thứ tội đó ra khỏi cuộc sống của chúng ta.
Kết luận
Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết : “Anh em hãy gớm ghét điều ác, khăng khít với điều lành, mừng vui trong hy vọng, kiên nhẫn lúc gặp gian truân, chuyên cần cầu nguyện, chia sẻ với người túng thiếu. Hãy vui với người vui, khóc với kẻ khóc, cùng nhau tâm đầu ý hợp, đừng quá cao vọng về mình, trái lại hãy biết bỏ mình, chuộng phần kém hơn. Đừng lấy ác báo ác, điều thiện hãy cố quan tâm..”. Đây là toàn cảnh của một bức tranh có tựa đề ‘tình yêu’, tương thích với sứ điệp về tình yêu mà Chúa nói đến hôm nay.
Chúng ta đã nghe bài Tin Mừng hôm nay rất nhiều lần và những gì Chúa nói chúng ta đã thuộc TN30-A175
Chúng ta đã nghe bài Tin Mừng hôm nay rất nhiều lần và những gì Chúa nói chúng ta đã thuộc lòng ngay từ khi còn nhỏ.
1. Khi người ta hỏi Chúa xem giới răn nào là lớn nhất, thì câu trả lời của Chúa là hai giới răn và cả hai giới răn này đều đã có sẵn trong Cựu Ước. Chúa đã trưng dẫn cả hai và đặc biệt hơn là Chúa đã làm cho chúng có tầm quan trọng như nhau. Chính vì thế mà chúng ta không được tách riêng ra, như trong thực hành chúng ta thường làm như thế.
Một số người nghĩ rằng, nếu chúng ta có đủ đức tin thì cuộc sống chúng ta sẽ êm trôi suôn sẻ. Nghĩ như vậy thôi chứ thực tế không phải như vậy. Đức tin không che chắn cho chúng ta khỏi những va chạm đau thương của cuộc đời.
Vào thời các tu sĩ còn sống ở trong sa mạc, có một tu sĩ tên là Moses nổi tiếng là thánh thiện. Lễ Phục Sinh sắp đến nên các thầy họp nhau lại, bàn xem nên làm gì để chuẩn bị mừng lễ cho sốt sáng và đem lại nhiều ích lợi. Họ cùng quyết định sẽ ăn chay trọn vẹn Tuần Thánh. Để thực hiện quyết tâm này, mỗi thầy phải trở về nơi mình ở, và ở đó họ phải ăn chay và cầu nguyện.
Công việc lúc ban đầu diễn tiến rất tốt đẹp, nhưng, đến giữa tuần thì có hai thầy khách lang thang đến thăm thầy Moses. Nhận thấy rằng họ đang đói, thầy Moses nấu một chút rau cho họ ăn. Để cho họ đỡ ngại ngùng và cảm thấy thoải mái, thì chính thầy cũng ăn một ít.
Trong khi đó, thì các thầy khác thấy khói bốc lên từ chỗ ở của thầy Moses. Việc đó có nghĩa là thầy Moses đã đốt lửa để nấu ăn. Nói một cách khác, thầy đã vi phạm luật ăn chay và điều này đã làm cho họ bị dội. Chỉ trong nháy mắt cái nhìn của nhiều người đối với thầy Moises đã thay đổi hoàn toàn. Họ coi thầy như đã rơi từ đỉnh cao của sự thánh thiện xuống vực thẳm.
Nhận ra sự sự đánh giá trong mắt những người anh em, thầy Moises hỏi: “Tôi đã phạm tội gì khiến các thầy lại nhìn tôi như thế?”
Họ trả lời: “Thầy đã vi phạm luật giữ chay.”
Thầy Moises bình tĩnh trả lời “Vâng! Đúng là tôi đã làm thế. Tôi đã vi phạm giới luật của con người trong việc chia sẻ của ăn với những người anh em của chúng ta. Nhưng tôi đã giữ giới răn của Thiên Chúa là chúng ta phải yêu thương nhau.”
Khi nghe nói như vậy, các thầy trở nên yên lặng và khôn ngoan rút lui một cách khiêm tốn.
Vâng! Có những người tuyên bố là mình yêu mến Thiên Chúa nhưng trong thực tế lại không quan tâm tới bổn phận yêu thương người khác. Những người như thế họ mới chỉ sống có một nửa của Tin Mừng.
Ngược lại, lại có những người đi đến thái cực đoan khác. Họ đã tỏ ra rất nhiệt tình để xây dựng một thế giới tốt đẹp nhưng chưa bao giờ họ nghĩ đến Thiên Chúa hoặc cầu nguyện với Người. Họ cũng chỉ là những người sống nửa phần của Tin Mừng.
Đức Kitô dạy chúng ta phải sống trọn vẹn cả Tin Mừng, nghĩa là vừa phải yêu mến Thiên Chúa và đồng thời cũng phải yêu người thân cận như chính mình. Người đã không nói rằng hai chuyện đó chỉ là một, nhưng muốn bảo rằng chúng ta không thể làm việc này mà bỏ việc kia, nghĩa là chỉ yêu mến Thiên Chúa mà lại không thương yêu anh em.
Đức Giêsu còn nói: “Anh em hãy yêu thương người thân cận như chính mình.” Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận mình và bắt đầu yêu thương chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu yêu thương người khác như Thiên Chúa truyền dạy.
Đối với những người mà trong lòng còn chất đầy sự căm ghét và hận thù hận, thì dứt khoát là họ sẽ không có khả năng yêu thương người khác. Họ thường đổ lỗi và khiển trách người khác những điều mà họ không thích nơi chính mình. Rõ ràng người khác là đối tuợng để họ bộc lộ chính con người của họ.
Một cụ già đang ngồi trên băng ghế ở bìa làng thì có một người tới hỏi:
– Những người dân trong làng này như thế nào?
Cụ già hỏi lại:
– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao?
Người đó trả lời:
– Họ rất tốt, quảng đại, và và giả như cụ có đến đó mà gặp khó khăn thì họ sẽ làm cho cụ tất cả những gì cụ cần.
Cụ già nói:
– Vậy tôi nghĩ rằng ông cũng sẽ thấy có nhiều người như thế trong làng này.
Ít lâu sau đó, lại có một người khác cũng tới gặp cụ già và hỏi cùng một câu hỏi như trước:
– Những người dân trong làng này như thế nào?
Và cụ già cũng hỏi lại một câu y như cụ đã hỏi người thứ nhất:
– Thế những người trong ngôi làng trước đây của ông ra sao?
Người đó trả lời:
– Đó là một nơi kinh khủng. Thật sự là tôi rất mừng vì đã rời khỏi nơi đó. Người dân nơi đó keo kiệt, không tốt và nếu cụ đến đó mà gặp khó khăn thì chắc là cụ sẽ không gặp được ai nhấc một ngón tay để giúp cụ đâu.
Cụ già nhìn người khách là và hóm hỉnh trả lời:
– Tôi e rằng ông cũng sẽ gặp rất nhiều người như thế trong làng này.
Điểm chính yếu mà tác giả trong câu chuyện muốn chia sẻ với chúng ta là: “ Nếu chúng ta nhìn người khác không như họ là mà như chúng ta là thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều thảm họa cho cuộc sống của chúng ta. Nếu chúng ta nhìn người khác bằng cái nhìn xấu thì đó là dấu hiệu cho thấy rằng chính chúng ta đang có rất nhiều bất ổn. Một người không có sự bình an nơi chính mình thì sẽ rất dễ dàng gây sự với những người chung quanh mình”.
Người ta kể một giai thoại về Mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần kia trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa phải đối diện với một phỏng vấn viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội Công giáo. Ông ta đặt cho mẹ Têrêsa câu hỏi:
– Bà yêu thương và phục vụ người nghèo, tốt lắm, thế còn bao nhiêu của cải của toà thánh Vatican và Giáo hội thì sao?
Mẹ Têrêsa là một người thành thực đến độ thẳng thắn mà không phật lòng người đối diện. Mẹ nhìn thẳng vào mắt người phóng viên và nói với ông:
– Ông quả là người không được hạnh phúc, có một cái gì đó đang gặm nhấm tâm hồn ông, ông không có sự bình an trong tâm hồn.
Lời nói đơn xơ và thành thực của Mẹ Têrêsa như mũi tên phóng vào tim người đối diện khiến ông để lộ rõ sự bối rối trên khuôn mặt của ông. Không để mất cơ hội, Mẹ Têrêsa như người mẹ hiền ân cần lo lắng đã ôn tồn nói với ông:
– Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Đến đây người phóng viên như cá cắn câu, ông thành thật hỏi:
– Tôi phải làm gì để có đức tin?
Mẹ Têrêsa đáp:
– Ông hãy cầu nguyện và tôi cũng sẽ cầu nguyện cho ông. Ông hãy cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông, một nụ cười có thể đánh động người khác, một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Quả nếu chúng ta không yêu thương chính mình, chúng ta cũng không thể yêu thương người khác. Vậy trước hết, chúng ta phải yêu thương chính mình và phải yêu cho đúng đúng cách, bằng không thì chúng ta sẽ chẳng có đủ khả năng để yêu thương người khác như Chúa mong muốn.
Có người bảo rằng yêu mình là sai, thậm chí còn là một điều tội lỗi. Dĩ nhiên, có một hình thức tự ái không đúng. Chúng ta gọi nó là sự ích kỷ hoặc cố chấp. Nhưng có một hình thức yêu mình có ích lợi và nếu không có nó chúng ta không thể thật sự yêu thương người khác.
Chúng ta không thể bay mà không có cánh. Chúng ta không thể lớn lên mà không có gốc rễ. Chúng ta không thể sưởi ấm cho người khác nếu lò sưởi của chúng ta lạnh lẽo và trống rỗng. Chúng ta chỉ có thể yêu với mức độ tình yêu chúng ta có nơi chúng ta.
Thật là dễ dàng khi yêu một người nào đó mà họ dễ thương. Nhưng không dễ yêu một người nào đó khi họ có khuyết điểm một cách rõ ràng và hiển nhiên. Đó là một trắc nghiệm về tình yêu thật sự. Nơi nào không có tình yêu, hãy gieo rắc tình yêu và bạn sẽ được hưởng tình yêu. Nơi nào không có tình yêu, hãy đặt tình yêu, và bạn sẽ khám phá ra tình yêu.
Vâng đó là điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay. Amen.
Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng đã có lần tranh luận với nhau về điều cơ bản nhất trong Giáo lý TN30-A176
Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng đã có lần tranh luận với nhau về điều cơ bản nhất trong Giáo lý của Hội Thánh Chúa tại trần gian : Đâu là điều quan trọng, cốt lõi nhất trong Đạo Công Giáo? Cũng không ít lần trong chúng ta gặp câu hỏi ấy từ những người bạn không cùng niềm tin. Có người muốn thực sự tìm hiểu Đạo Thánh Chúa, nhưng cũng có người muốn thử xem người Công Giáo biết về Giáo lý của Đạo mình như thế nào? Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho chúng ta hiểu, điều mà hôm nay nhiều người vẫn thắc mắc, vẫn tranh luận, tìm hiểu thì đã xuất hiện ngay từ thời Chúa Giêsu, tức là cách đây cả hai ngàn năm. Những người Pharisiêu thông luật nhưng lại cũng vẫn so đo xét nét trong việc giữ luật và giám luật . Họ đã hỏi Đức Giêsu xem Người nhận định thế nào về lề luật trong Đạo cũ, theo luật Mô-sê: Điều răn nào là điều răn trọng nhất ?. Đức Giêsu đáp :” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Hết lòng, hết Linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và ( là) điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô- sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy “.
Không ít người Công Giáo Việt Nam hiện nay hiểu điều Chúa Giêsu trả lời các nhà thông luật theo cách xếp thứ tự. Điều răn thứ nhất thì trọng hơn điều răn thứ hai. Có nghĩa là người Công Giáo phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí trước đã, tức là phải đọc kinh, dự lễ, tham gia đầy đủ các Bí tích, các nghi thức phụng vụ, các ngày lễ lớn trong năm . . .sau mới tính đến việc thực thi bác ái , yêu thương, giúp đỡ người khác khi có thể. Bởi đó là điều thứ yếu, đứng thứ hai ( hiểu theo nghĩa đen ) như lời Chúa nói hôm nay. Chính vì có suy nghĩ đó trong người tín hữu mà Ủy Ban Giáo dân thuộc Hội Đồng GiámMục Việt Nam đã từng có lần tổ chức một cuộc Hội thảo tòan quốc, hơn chục năm về trước do Đức Giám Mục Fx Nguyễn Văn Sang, GP Thái Bình chủ trì( vừa được Chúa gọi về 5/10/2017), với chủ đề “Sống Đạo hôm nay “.Luật sư Nguyễn Ngọc Bích được mời thuyết trình cùng với một số Giáo dân từ Giáo phận Sài- Gòn ra dự. Ông đã nhận định: với một số không nhỏ người tín hữu hôm nay thì”Mến Chúa dễ hơn yêu người”. Người Công giáo dễ dàng đến với Chúa và được gọi là đạo đức hơn người khác vì chăm chỉ có mặt trong nhà thờ, nhà nguyện, ăn chay, hãm mình nhưng lại ít tham gia vào các họat động bác ái xã hội, xa lạ với việc giữ đức công bằng trong quan hệ làm ăn. Thiếu quan tâm nhường nhịn nhau trong cuộc sống ngòai đời. Coi việc giúp đỡ người nghèo, khuyết tật, tham gia hiến máu cứu người, tham gia các đòan công tác xã hội . . .là việc trần thế, không liên quan gì đến việc thờ phượng kính mến Chúa. Thậm chí còn là việc “Chính trị”. Sau bài thuyết trình, có ý kiến nêu là diễn giả thiếu tôn trọng các bậc tu hành, coi thường đời sống tu trì, chịu ảnh hưởng phái “cấp tiến “ . . . khiến diễn giả tự coi mình bị “ném đá “. Chỉ đến khi Đức Giám mục chủ tịch Ủy Ban Giáo dân nêu chứng từ là chính bản thân Ngài không ngại tham gia các họat động “yêu người” trong xã hội, và coi đó như một bổn phận phải làm thì những ý kiến phản bác mới dịu đi .
Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Người đã nhắc đi nhắc lại để các tông đồ và những người tin theo Chúa những ngày ấy nắm vững: “Đây là Điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “(Ga 15,12 ) và “Điều răn Thầy truyền dạy anh em là HÃY YÊU THƯƠNG NHAU “ (Ga 15, 17 )
Lạy Chúa,
Xin Chúa cho con hiểu rằng “Mười điều răn ấy tóm về hai (điều) này là: Trước, thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Sau, lại yêu người như mình ta vậy “( Kinh Mười điều răn ). Thực thi hai điều ấy một cách thiết thực, thể hiện niềm tin bằng những hành động cụ thể chính là chúng con trở thành con Cha , đấng ngự trên trời vậy. AMEN.
I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 22,34-40)
34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. – 35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” 37 Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
2.1 Trong đời sống công khai Đức Giê-su đã phải đối phó với phái Xa-đốc và nhất là các Pha-ri-sêu TN30-A177
2.1 Trong đời sống công khai Đức Giê-su đã phải đối phó với phái Xa-đốc và nhất là các Pha-ri-sêu. Họ tìm cách bắt bẻ Đức Giê-su bằng cách giương bẫy hãm hại Người. Nhưng Đức Giê-su chẳng những không bao giờ sa bẫy của họ mà Nguời còn tận dụng mọi cơ hội để chuyển cho họ những thông điệp vô cùng quan trọng của Ki-tô giáo. Như trong bài Phúc Âm hôm nay, trước câu hỏi của những người Pha-ri-sêu: “Trong Sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giê-su đã trả lời cách dứt khoát: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”
Rồi Người đã bồi thêm: ”Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.” Mến Chúa yêu người là cốt lõi của Đạo Chúa.
2.2 ”Yêu người thân cận như chính mình” vì mọi người đều có phẩm giá cao trọng như mình: ai cũng có linh hồn bất tử, có trí khôn và ý chí, có ơn gọi và sứ mạng cao cả tương tự nhau. Giữa người với người nếu có khác biệt thì chỉ là khác biệt ở những giá trị phụ, mau qua như giầu hay nghèo, khỏe mạnh hay yếu ớt, may mắn hay xui xẻo, có địa cao hay thấp trong xã hội, có việc làm hậu hĩnh hay chỉ đủ sống.
2.3 Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Đức Giê-su đã hiến kế cho chúng ta biết cách biến những người xa lạ thành những người thân cận của mình: người thân cận không phải là người có liên hệ máu mủ ruột thịt mà là người được chúng ta quan tâm và giúp đỡ. Nếu ai cũng ”yêu người thân cận như chính mình” thì xã hội loài người sẽ no đủ, bình an và hạnh phúc, vì khi đó không còn cảnh người là sói của người nữa. Nhìn vào xã hội Việt Nam ta hiện nay chúng ta thấy bao cảnh chém giết, cướp bóc, lừa đảo, hãm hại nhau, phát tán chất độc…. chung quy đều do con người không biết ”yêu người thân cận như chính mình” mà chỉ biết yêu túi tiền và tài sản của mình mà thôi.
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Là người công giáo, cùng với nhiệm vụ phụng thờ Thiên Chúa tôi phải yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận của tôi trước hết là vợ con, anh em họ hàng. Người thân cận của tôi còn là bà con cùng khu phố, là giáo dân cùng giáo xứ, là đồng bào cả nước.
3.2 Làm sao tôi yêu tất cả những người ấy như chính mình được? Thật khó quá. Tôi phải đi từng bước một: trước hết tôi phải tuyệt đối tránh không làm hại gì ai; kế đến tôi phải quan tâm giúp đỡ những người xung quanh cần đến sự quan tâm giúp đỡ của tôi và sau cùng tôi phải đóng góp vào sự thăng tiến chung của cả xã hội cũng như làm dịu bớt nỗi đau nỗi khổ của những người nghèo và những nạn nhân của mưa bão, lũ lụt, lở đất, đắm tầu v.v… Nhưng sự đóng góp của tôi có thấm gì so với nhu cầu của các nạn nhân. Tôi thật xấu hổ mỗi khi nhìn thấy cảnh thiên tai tàn phá đất nước và cảnh nghèo khổ mà đồng bào tôi phải chịu!
IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, Cha muốn chúng con được ấm no, hạnh phúc. Cha dậy chúng con phải biết yêu người thân cận như chính mình. Cha là Tình Yêu, Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Cha. Chúng con nguyện cố gắng thực thi bác ái yêu thương để xứng đáng làm con cái Cha. Nhưng bao giờ chúng con cũng thấy sự thiếu sót lớn lao của chúng con trước đòi hỏi của Tình Yêu. Lúc nào chúng con cũng thấy mình xấu hổ trước nhu cầu của người khác và sự bất lực của chúng con. Xin Chúa đoái thương những người đang đau khổ và túng thiếu trong xã hội. Xin Chúa nâng đỡ ủi an họ. Amen.
Yêu Chúa và yêu tha nhân là hai giới răn quan trọng, liên kết, đòi hỏi và thúc bách mọi Kitô hữu TN30-A178
Yêu Chúa và yêu tha nhân là hai giới răn quan trọng, liên kết, đòi hỏi và thúc bách mọi Kitô hữu trong quyết tâm thực hành. Tuy nhiên, thực hành giới luật yêu thương không phải là điều dễ dàng, bởi vì nó va chạm đến hai đối tượng: Thiên Chúa và con người.
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, vô hình chẳng ai nhìn thấy bao giờ. Còn lại con người là những thụ tạo mà ta thường ngày va chạm, đối diện nhưng lại không phải là đối tượng dễ ưa, dễ nhìn, và dễ mến. Ngay trong tình trường, hai người yêu nhau thắm thiết nhưng thường chỉ ghi đậm dấu ấn ở những buổi ban đầu, càng về lâu về dài, tình yêu càng bị soi mòn, bị thử thách, và đòi hỏi nhiều cố gắng. Đó là lý do tại sao nhiều cặp vợ chồng đã có một khởi đầu rất lãng mạn, rất đắm đuối, rất nồng nàn, rất cuồng nhiệt, nhưng sau cùng đã có kết thúc đau đớn, chia ly.
Như vậy thì làm sao thực hành được giới luật yêu thương? Làm sao yêu Chúa qua yêu người? Hôm nay với câu trả lời của Chúa Giêsu cho người thông luật thuộc nhóm Sađốc, và qua ông Ngài cũng muốn nói với tất cả chúng ta. Không tránh né yêu Chúa và hơn nữa, Ngài còn đòi hỏi phải yêu mến với tất cả con tim, tất cả linh hồn, và tất cả ý chí.
Đòi hỏi quá cao vượt xa những yếu đuối của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã khéo nhắc cho con người rằng, con đường thực hành yêu mến phải đi từ con tim qua tâm hồn rồi mới lên đến lý trí. Cả ba thánh sử Máccô, Matthêu và Luca đều ghi rõ thứ tự hành động ấy như sau: Yêu Chúa hết lòng (con tim), hết linh hồn và hết trí khôn (mind). Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại đặt linh hồn giữa trái tim và lý trí trong thứ tự thực hành đức mến đối với Thiên Chúa?
Thật ra, Chúa Giêsu không lầm, và cũng không lẫn lộn khi xếp đặt thứ tự những cung bậc mà chúng ta phải thực hành, phải luyện tập trong đức mến yêu đối với Thiên Chúa. Ai cũng biết, con đường từ trái tim lên đến khối óc tuy gần mà xa, tuy xa mà gần. Trong tình yêu cũng như trong mọi tính toán, con tim và khối óc có lý lẽ riêng của nó. Có những cái chúng ta thích mà người khác không thích. Hay lúc này thích, lúc khác không thích. Có những cái chúng ta yêu mà người khác không yêu, hoặc lúc yêu lúc ghét. Bởi đó để con tim và khối óc cùng một nhịp điệu trong tác động tình yêu, chúng cần một nhịp cầu nối kết, ít nhất trong lãnh vực tâm linh, đó là linh hồn. Linh hồn chính là tác nhân tinh thần nối kết những cái mà cả con tim và khối óc không nhận ra hoặc không đồng nhịp với nhau.
Trái tim liên quan đến những tình cảm và ước muốn. Chúa Giêsu với bản tính nhân loại, Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung cảm, thao thức. Phúc Âm đã nhắc lại có lần Chúa đã khóc trước mộ của bạn thân Lazarô, và thổn thức trước quan tài của người con trai bà góa thành Naim. Ngài biết sự rung động của con tim luôn luôn là những nhịp điệu tha thiết nhất đi vào đời sống tình cảm cũng như ước muốn con người. Do đó, Ngài muốn chúng ta diễn tả tình yêu bằng những cảm nhận và nhịp đập con tim trước. Vì trong những rung động tình cảm, con người dễ dàng làm vui lòng Thiên Chúa qua sự đón nhận và yêu thương những anh chị em đồng loại, những thụ tạo mang hình ảnh của Ngài.
Lý trí có liên quan đến những quyết định và nguyên tắc, đến những lý lẽ và những nhận định sáng suốt. Tình yêu Thiên Chúa không phải là một thứ tình cảm yếu ớt, ướt át, màu mè, hoặc ủy mị. Do đó, yếu tố lý trí quyết định và chọn lựa những phương thức cũng như những thực hành trưởng thành, đứng đắn phù hợp với hành vi nhân tính khi hướng những tư tưởng cũng như hành động về với tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng những tình cảm, ước muốn và quyết định ấy phải phát xuất từ nội tâm và để Chúa diễn đạt qua những ước muốn từ bên trong là tác động yêu mến của linh hồn. Điều đó cũng có nghĩa là từ nơi sâu thẳm của linh hồn với những lo lắng, những ước muốn, những sợ hãi được đem đặt trước Thiên Chúa để Ngài nói với chúng bằng tiếng nói và cách nói của Ngài.
Như vậy, sau khi đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa điều khiển và hướng dẫn, cùng với những thao thức của con tim qua tiếng Ngài phán bảo trong tâm hồn, lúc đó lý trí mới thật sự khuất phục, và mới định hình những quyết định, những nguyên tắc hành động như thế nào. Riêng Thánh Máccô và Luca thì thêm với tất cả sức lực (all your strength).
Yêu Chúa với hết trái tim, hết linh hồn, và hết ý chí là yêu một cách trọn vẹn, yêu bằng tất cả sức mạnh, tài năng, cảm tình, yếu đuối, và bằng sự sáng suốt của lý trí. Dĩ nhiên, để tình yêu này được thực hiện, đòi phải có sức mạnh và nghị lực, có nghĩa là phải chấp nhận hy sinh. Vì chỉ với những cố gắng không ngừng trong tất cả cảnh huống cuộc đời, chúng ta mới có thể thực hiện được giới luật cao cả là mến Chúa, yêu người. Chúa Giêsu là Đấng đã nói về tình yêu, và đã minh chứng tình yêu đối với những bạn hữu của Ngài: “Không ai có tình yêu lớn hơn người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Gioan 15:13). Đó cũng là hình ảnh một linh hồn yêu mến Thiên Chúa hết trái tim, hết linh hồn, và hết trí khôn.
“Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gioan 4:8). Lạy Chúa! Con yêu mến Chúa. Xin giúp con biết chứng minh tình yêu của mình qua những quan tâm, chia sẻ và phục vụ anh chị em con.
Khi nói đến “ tình yêu”, người ta thường nghĩ về ”tội lỗi”, bởi vì “tình yêu “ theo ý nghĩa “dục vọng TN30-A179
Khi nói đến “ tình yêu”, người ta thường nghĩ về ”tội lỗi”, bởi vì “tình yêu “ theo ý nghĩa “dục vọng”, “tình dục”, thì tình yêu ấy dường như là có “can dự” vào “tội lỗi”.
Vâng, không phải vậy, bởi vì, “Tình Yêu chính là Thiên Chúa”, bởi vì, nguyên lý tình yêu chính là “sự sống”. Vì sự sống không thể tách rời “tình yêu”.
Giải pháp “cứu khổ” của Đạo Phật là”không sinh” “ không diệt”, như vậy, tức không có “tình yêu”. Rõ ràng, giải pháp của Đạo Phật không có “Cứu Độ” chúng sanh, bởi vì , biết trần gian là “khổ ải” do tội lỗi, dục vọng, tham ,sân ,si , nhưng không có “giải pháp” để Cứu Độ, chỉ “tìm” giải pháp, tìm cách, tìm “công thức” chứ không thể “hiện thực” , điều đó có nghĩa là “cho cách nấu cơm”, chứ không cho “gạo” để nấu. Có nghĩa là cho “ phương pháp “ nấu ăn, chứ không cho “ đồ ăn”, nghĩa là chỉ cho “ lý thuyết, chứ không có thực tiễn. Vâng, nguyên lý của Đạo Phật là như vậy, tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì, Đức Phật không ban phước, cũng như không giáng họa, ngài chỉ cho “công thức” để tự cứu.
Vì thế, khác với “ chân lý ” Kitô giáo, khi nói đến “ tình yêu” nơi nhà Phật, người ta không thể đón nhận được. Họ chỉ có “Từ Bi”, “ Hỷ Xả” “ Vị Tha”, như vậy, “từ bi” là sự hiền lành hết mức, bi là tròn, từ là hiền lành, “hỷ xả” có nghĩa là “ vui vẻ”, “xả” là “mở ra”, tức là mở lòng, cởi mở, xởi lởi. Không cau có, giận dữ, nhưng lúc nào cũng vui tươi với tha nhân. “Vị tha” có nghĩa là “ vì người khác”, vì người khác mà mình vui vẻ, hiền lành. Như vậy, là chân tu của nhà Phật rồi. Muốn vậy, người Phật tử phải có một trí huệ cao siêu hơn người mới có thể thực hiện được, muốn có trí huệ cao siêu, thì phải học Phật pháp, tức giáo lý của Đức Phật.
Theo đó, Đức Phật chỉ dừng lại ở bậc thánh hiền, thánh nhân, quân tử, như nho giáo, chứ không thể đạt đến Thiên Chúa là Chủ Trời được. Vì thế, học Phật Pháp để biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Vậy, thế nào là “Tình yêu” ? Vâng, thưa trước hết, “tình yêu” phải là một sự “sinh ra”, Thiên Chúa tạo dựng nhân thế, tức phàm nhân bởi một sự ” sinh ra” bởi hư không, không ai có thể “ đói hỏi” Thiên Chúa sinh ra mình. Đó là “tình yêu” vô biên, một tình yêu nhưng không, Vì, “từ thuở đời đời, Ta đã sinh ra ngươi”. Vì, “ Ngay khi còn trong bụng mẹ, Ta đã biết ngươi”. Vâng, vì đó là “THIÊN CHÚA”. Không một ai lý giải Thiên Chúa được, Thiên Chúa là ai? Tại sao có Thiên Chúa. Chỉ biết . “Thiên Chúa là tình yêu” mà thôi . Vì thế, ai được đón nhận Thiên Chúa là đón nhận được một “ mối tình “ vĩnh cửu và duy nhất.
Từ thuở đời đời, tức từ hư vô, từ trước muôn thuở, cái thuở mà tôi là một tạo vật, tôi chỉ biết thế và ngay hôm nay, có thể, tôi vĩnh viễn xa lìa thân xác nầy, tôi cũng không biết được, hay đôi ba chục năm nữa, tôi cũng không hề biết được., vì mọi thứ đều là” phù vân”, “Phù vân nối tiếp phù vân, mọi sự đều là phù vân” ( Gv ), thì làm sao tôi có thể biết được điều gì khác ngoài phù vân.
Như vậy, từ phù vân, tôi được tạo thành một thân thể do bởi một Đấng duy Nhất là Thiên Chúa mà thôi. Nhưng là tính người, là vật thụ tạo, không thể có dũng khí tự vệ, tự nhiên lẫn siêu nhiên. Vì vậy, tội bị “sa ngã”, Thiên Chúa , Đấng tạo thành tôi, Ngài thật giận dữ, đuổi tôi đi tức khắc, vì sự bất tuân, nhưng, rồi vì tình yêu, một thứ “tình muôn thuở”, mà Ngài đã tạo nên tôi, nên Ngài đã “ tha thứ” cho tôi, Ngài đã gọi tôi quay về, để Ngài yêu thương.
Vâng, rõ ràng hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu là như thế đấy. vâng, nhưng tình yêu càng lớn, hy sinh càng nhiều. Sư tha thứ của Thiên Chúa không phải là một sự tha thứ suông, Một sự tha thứ có “ấn tích” , có “hiệu lực”, đó là “ ơn Cứu Chuộc”, một “ Hy Tế” tối cao duy nhất, đó là “Hiến Tế Thập Gía”, một “ Hy Lễ “ bởi cái gọi là “ Tình Yêu”. Vì , Ngài đã dùng chính “Người Con Một”, như một “bửu bối” và còn hơn thế nữa, như một “ Con Ngươi” trong mắt Ngài, hay như một “ Qủa Tim” trong lòng Ngài, đã rút ra vì “tình yêu” chúng ta. Điều đó chính là ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa. Như thế, là “Tình Yêu Cứu Chuộc”. Tình yêu tự hiến và trao ban, tình yêu nơi Đấng Tạo Thành đối với loài thụ tạo có linh hồn, không ai có thể làm được điều đó.
Tình yêu Tạo dựng thật cao cả, nhưng tình yêu Cứu Chuộc còn nhiệm mầu hơn, bởi vì, “ yêu “ ai thì nên giống người ấy. Nhưng, Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành đã trở nên như phàm nhân, không hòa mình như tội lỗi của phàm nhân, mà trở nên “sự hữu hình” như phàm nhân, để Cứu Chuộc phàm nhân. Thiên Chúa muốn “trở nên” con người, không phải trở nên kiếp tội lỗi, mà qua một cuộc “ khổ nạn” để trở nên giá chuộc loài người.
Vâng, tình yêu bởi Thiên Chúa là như thế, Tin Mừng ( Mt 22 , 34 – 40 ) hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta giới luật “ tình yêu”. Một tình yêu tạo dựng nơi Thiên Chúa đó là giới luật trên hết. Gọi là Điều Răn đứng đầu, và Điều Răn thứ hai chính là điều mà Thiên cháu muốn chúng ta thực thi đối với “mầu nhiệm tạo thành và cứu chuộc” của Thiên Chúa, đó là yêu thương “ người thân cận” của mình như chính Thiên Chúa đã yêu thương.
Vâng, như chúng ta biết, Đoạn Lời Chúa( Mt 22, 34 -40) hôm nay phát xuất từ sách Đệ Nhị Luật là sách cuối cùng trong bộ sách đầu tiên của Cứu Ứơc, gọi là Ngũ Thư, tức năm cuốn sách đầu tiên là : Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân số, và Đệ Nhị Luật. Đệ Nhị luật là sách dạy để thực thi luật dành cho con người mà đã có từ sách Xuất Hành, là thời kỳ Dân Chúa bị lưu đày bên Ai-cập.
Đoan sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6, 4 -9) được gọi là Kinh Shơ-ma của người Israel, gọi là Kinh Nhật Tụng của họ.” Người phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức ngươi, hết trí khôn người, và yêu thương anh em ngươi như chính mình ngươi…” đoan nầy được truyền cho Môi-sen buộc dân chúng phải khắc trên cửa nhà, trên tường, đeo trên tay khi đi ra đường.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương nhân thế, nên đã xuống thế làm Người để dạy cho loài người biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người một cách kỳ diệu , dù họ sa ngã, và vì thế phàm nhân cũng phải yêu thương nhau như nguồn cội của tình yêu duy nhất bởi Thiên Chúa mà ra, hầu chu toàn được giới luật tình yêu duy nhất từ nơi Thiên Chúa ./. Amen
Nói đến tình yêu là nói về điều cao quí nhất trần đời nhưng tình yêu rất trừu tượng vì thế nói TN30-A180
Nói đến tình yêu là nói về điều cao quí nhất trần đời nhưng tình yêu rất trừu tượng vì thế nói đến tình yêu người ta thường nói đến dấu chỉ hay biểu tượng của tình yêu. Biểu tượng được diễn tả qua lời nói hay cử chỉ, điệu bộ. Biểu tượng diễn tả tình yêu qua hành động cụ thể như nụ hôn, bắt tay thân mật, ôm choàng. Ngoài ra còn có các cử chỉ, điệu bộ diễn tả trên khuôn mặt biểu lộ tình cảm con người dành cho nhau. Khoa học kĩ thuật cũng được dùng để gởi cho nhau lời chào thân ái, tấm hình mới chụp và khung cảnh mình ngưỡng mộ. Người nhận được những tâm tình đó cảm thấy vui vì biết rằng đâu đó có người thương yêu gởi cho những tình cảm chân thành và chính họ cũng nhận biết họ được yêu thương và họ cũng chia sẻ tình yêu đó đến người khác. Tình cảm chân thành đến từ sâu thẳm của con tim yêu mến, nồng nàn và chính tình yêu đó kêu gọi khối óc phát ra hành động yêu thương, trìu mến. Bên cạnh hành động yêu thương chân thành không vụ lợi còn có hành động yêu thương có điều kiện kèm theo và thường là vụ lợi ẩn hình sau hành động yêu thương.
Người Pharisee hỏi Đức Kitô giới răn nào quan trọng nhất? Đức Kitô đáp lại, yêu Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và kế đến là yêu tha nhân như chính mình Mat 22,36-40.
Đức Kitô đưa ngay ra câu trả lời bởi đây chính là lối sống thường ngày của Ngài. Từ gia đình Ngài được hưởng cuộc sống yêu thương như thế nên khi có người hỏi đến Ngài đáp lại bằng chính kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm sống thực tế của Ngài, phát xuất tự gia đình, được giáo dục sống như thế từ thuở nhỏ cho đến tuổi trưởng thành. Đức Kitô đáp lại cách sống yêu thương là điều Ngài thực hiện hàng ngày, hành xử trong cuộc sống. Yêu mến Chúa với tâm tình cảm tạ bởi có sự sống là do Chúa ban. Liên kết với Chúa để luôn nhận biết vô vàn yêu thương Chúa ban. Thứ đến sống vui vẻ với tha nhân bởi họ là con cái Chúa. Lối sống đầy yêu thương, yêu tha nhân như yêu mình là yêu chân thành phát xuất tự con tim nồng ấm. Yêu tha nhân ngầm mong lợi nhuận không phải là yêu chân chính đến từ con tim mà là yêu có chọn lựa, tính toán hơn thiệt, đến từ khối óc. Yêu có tính toán hơn thiệt là đổi chác, thương mại, tình yêu. Buôn bán tình yêu là biến tình yêu thành món hàng. Buôn bán, trả giá luôn đi chung với nhau nên có định giá cho tình yêu. Tình yêu chân chính đòi hy sinh, vô giá, không giá nào mua đuợc. Đức Kitô kêu gọi ai theo Ngài phải yêu Ngài bằng con tim chân chính, con tim nồng nàn yêu thương. Con tim biết nhậy cảm trước đau khổ của tha nhân, con tim biết tha thứ, con tim biết thông cảm, con tim biết nhu cầu được yêu và phân phát tình yêu vô vị lợi. Đức Kitô yêu ta bằng tình yêu đó và ta cần đáp trả bằng tình yêu chân thành đó. Đức Kitô yêu con người bằng cách tự nguyện chết cho con người, Kitô hữu cũng đáp trả bằng cách tự nguyện hiến thân mình cho Đức Kitô qua cuộc sống phục vụ các anh chị em khác.
Yêu Đức Kitô bằng môi miệng chính là tình yêu thiếu chiều sâu, chỉ có bề ngoài mà bề ngoài thì dễ thay đổi, ảnh huởng bởi ngoại cảnh, bởi điều kiện sống và lợi nhuận xã hội. Tình yêu chân chính phải đến từ sâu thẳm trong tâm hồn, không bị ngoại cảnh chi phối. Yêu trên môi miệng là yêu có điều kiện, chọn lựa trong yêu thương. Nay chọn yêu người này; mai vất bỏ chọn người khác. Nếu không vất bỏ thì cũng bỏ xó. Một đời chọn rồi bỏ nên không bao giờ yêu thật sự. Yêu tạm bợ không thể là tình yêu chân chính. Mối tình đầu đến mối tình cuối đều tạm bợ, kết qủa của chọn lựa.
Bài đọc sách Xuất Hành và bài Phúc Âm hôm nay ( Xh 22:21-27; Mt 22:34-40) nói về Mến Chúa TN30-A181
Bài đọc sách Xuất Hành và bài Phúc Âm hôm nay ( Xh 22:21-27; Mt 22:34-40) nói về Mến Chúa và Yêu người là giới răn quan trọng nhất. Bài đọc sách Xuất Hành nhắc lại một số điều luật về cô nhi quả phụ và người nghèo khó. Thiên Chúa nhắc nhở dân Người rằng: đã có thời các ngươi là người ngoại quốc sống trên đất khách. Đối với người ngoại quốc, cô nhi quả phụ và người nghèo khổ, chúng ta phải lấy công minh và tình thương cảm mà đối sử. Nếu không Thiên Chúa sẽ luận phạt nghiêm ngặt để bảo vệ kẻ cô thế.
Thiên Chúa thì nghiêm minh trước thái độ tiêu cực và hành động của chúng ta đối với tha nhân, đặc biệt người nghèo khó, kẻ xa lạ, những người kém may mắn và khác biệt với chúng ta. Niềm tin đích thực, tình yêu Chúa và mối liên hệ giữa chúng ta và Chúa Kito được định giá ở cung cách chúng ta đối sử với tha nhân. Hai bài đọc hôm nay thúc giục chúng ta hãy thống hối và xin tha thứ vì những thái độ tiêu cực cũng như những hành động trái phép của chúng ta đối với họ. Bài Phúc Âm hôm nay chính là lời cầu căn bản của kinh Shema (lời tuyên xưng đức tin của người Do Thái): “Hãy nghe đây, hỡi Israel, Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất” (Tl 6:4). Giống như chúng ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta nơi chúa Kito bằng kinh Tin Kính thì người Do Thái tuyên xưng niềm tin của họ bằng kinh Shema trong các giờ lễ của họ ở nhà nguyện. Kinh Shema là bản tóm tắt nói lên một tôn giáo đích thực: “Hãy nghe đây, hỡi Israel. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất; ngươi hãy yêu mến Chúa của các ngươi hết lòng, hết trí, hết sức của các ngươi”(Tl 6:4-5). Bài Phúc Âm Mathieu (Mt 22:34-40) đi song hành với bài cùa của Marco (Mc 12:28-34) diễn tả cuộc đối thoại giữa đức Giesu và một kinh sư. Đức Giesu đã làm ông ta phải ngạc nhiên và nể sợ vì Người đã nắm vững cuộc hội thoại gây nhiều tranh cãi. Đức Giesu đã khen ngợi nhà thông luật đó và nói: “Nước Thiên Chúa không còn ở xa ông đâu.” (Mc 12-34). Mathieu về sau đã khai triển quang cảnh này rộng hơn.
Các người biệt phái là những nhà kinh điển, họ thông suốt luật lệ và coi luật là túi khôn và là điều duy nhất cần phải học hỏi. Các kinh sư thường nắm vị thế lãnh đạo trong cộng đồng Do Thái và rất được nể trọng.
Các thầy dạy luật Torah ( kinh sư và rabbis) luôn luôn tranh cãi về tính tương đối của các giới luật trong Cựu Ước. Họ là những học giả và nhà trí thức của Do Thái Giáo. Các biệt phái đã xác định được 613 giới răn trong luật Torah (5 sách đầu của Kinh Thánh). Trong số 613 điều thì 248 điều có tính tích cực:“Ngươi phải làm” và 365 điều có tính tiêu cực “Ngươi không được làm”. Câu hỏi của một học sĩ tỏ ra khá thành thật. Họ hỏi đức Giesu để thử Người là “Giới răn nào là giới răn đầu và quan trọng nhất?” Đức Giesu trả lời bằng cách dẫn chứng sách Thứ luật (Tl 6:4-5) và kinh Shema mà người Do Thái vẫn đọc hàng ngày. Dù họ hỏi Chúa chỉ một điều răn, nhưng Chúa đã trả lời họ hai điều liên kết lại với nhau, Chúa đã vượt quá câu hỏi của họ là liên kết điều thứ nhất và quan trọng nhất với điều thứ hai đã có trong sách Levi: “Hãy yêu người lân cận mình như chính mình”(Lv 19:18). Hai điều luật này là nguồn gốc phát sinh ra toàn thể bộ luật và các lời tiên tri. Chúa Giesu đã không trừ bỏ một điều luật nào cả. Người nói thêm rất rõ ràng là: “Tất cả luật lệ và lời các ngôn sứ đều nằm ở hai điều răn này” (Mt 22:40). Ở điểm này, Marco cho biết vị học giả đã tỏ ra đồng ý với đức Giesu và khen ngợi Người (Mc 12:33-34).
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ Ý TƯỞNG TIÊN KHỞI CỦA ĐỨC GIESU
Mến Chúa Yêu Người không phải là ý tưởng tiên khởi của chúa Giesu. Nó có từ lâu đời
trong Kinh Thánh Hebrew (Do Thái). Tuy nhiên ý tưởng duy nhất và tuyệt hảo của chúa Giesu là “Chúng ta không thể làm điều này mà không làm điều kia”. Yêu người hàng xóm / tha nhân được thúc đẩy, khuyến khích bởi Yêu Thiên Chúa. Yêu Thiên Chúa được chứng tỏ và mạnh mẽ bởi yêu mến người hàng xóm / tha nhân. Yêu người hàng xóm cũng không phải là yêu vì đòi hỏi của tình yêu Thiên Chúa, một hoàn thành xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, nhưng -ở một ý nghĩa nào đó- nó cũng là một điều kiện tiên thiên. Không thể có tình yêu Chúa thực sự mà tự nó đã không phải là tình yêu tha nhân và, tình yêu Thiên Chúa gặp gỡ đúng với bản thể của tình yêu Thiên Chúa qua việc hoàn chỉnh tình yêu tha nhân.
GIÁO HUẤN CỦA MAISEN VÀ ĐỨC GIESU
Giảng huấn của Maisen nằm trong kinh Shema (Tl 6:5; Lv 19:34) được đức Giesu xác định lại trong bài Phúc Âm hôm nay, là tất cả mọi giới răn được tóm gọn trong giới răn Mến Chúa và Tử Tế với những người hàng xóm. Mỗi khi người Do Thái đọc kinh Shema và người Kito hữu nhớ lại hai điều răn thứ nhất và thứ hai thì, chúng ta nhờ ân sủng của Thiên Chúa, được xích lại gần nhau hơn. Khi nào chúng ta làm dấu Thánh Giá, là chúng ta vạch dấu Shema lên thân xác chúng ta, như đụng vào đầu, vào trái tim và vào vai chúng ta và thề hứa sẽ phục vụ Thiên Chúa.
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Dựa vào ý nghĩa những bài kinh thánh hôm nay, tuần này chúng ta cùng nhau suy niệm về hai vấn đề.
*Thứ nhất số # 42 trong Ánh Sáng Muôn Dân / Lumen Gentium, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội của công đồng Vatican II. “Thiên Chúa là Tình Yêu, là đấng ẩn mình trong tình yêu, trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong Người.” Nhưng Thiên Chúa đổ tình yêu của Người tràn ngập chúng ta qua Chúa Thánh Thần là đấng Thiên Chúa ban cho chúng ta. Đó là tặng vật đầu đời và cần thiết nhất, nhờ đó mà chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân vì Thiên Chúa. Thực vậy, để cho tình yêu ấy, như là hạt giống tốt, có thể nảy mầm và sinh hoa trái trong tâm hồn, rồi mỗi một tín hữu đó phải thiết tha lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Thánh Ý Chúa và hoàn thành điều mà Thiên Chúa đã khởi đầu bằng chính những hành động của họ với sự giúp đỡ của hồng ân Thiên Chúa. Những hành động này bao gồm việc sử dụng các phép bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể, thường xuyên tham dự những nghi lễ phụng vụ, áp dụng vào việc cầu nguyện, hãm mình, phục vụ người anh em một cách cụ thể và liên tục thực hành các nhân đức. Vì bác ái -như một sợi dây liên kết giữa sự hoàn hảo và chu toàn luật lệ- đã điều khiển mọi phương cách để đạt sự thánh đức và ban sinh sự sống cho chính những phương cách ấy. Chính đức ái sẽ hướng dẫn chúng ta đến đích sau cùng. Chính tình yêu Thiên Chúa và tình thương tha nhân biểu hiện người môn đệ đích thực của Chúa Kito.
*Thứ hai: Phần mở đầu Thông Điệp đầu tiên của Đức Biển Đức XVI Thiên Chúa là Tinh Yêu / Deus caritas est phát hành năm 2005, đã tóm gọn rất tuyệt với bài Kinh Thánh hôm nay:
“Là Kito hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một tư tưởng cao siêu, nhưng là điểm gặp gỡ của một biến cố và một nhân vật đã ban cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi nhất định (….) Hiểu biết được chính điểm của tình yêu thì niềm tin kito giáo sẽ giữ lại được cốt lõi của niềm tin Israel, đồng thời làm cho nó có một chiều sâu và bề ngang mới. Người Do Thái đạo đức cầu nguyện hàng ngày bằng những lời trong sách Thứ Luật là sách diễn tả sự hiện hữu của con tim: “Hãy nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa của Thiên Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, ngươi sẽ yêu Chúa của ngươi hết tâm hồn hết trí khôn và hết sức ngươi” (Tl 6:4-5). Đức Giesu đã kết hợp điều răn mến Chúa và Yêu người như đã có trong sách Levi:“Ngươi sẽ yêu người láng giềng như chính ngươi”(Lv 19:18; Mc 12:29-31) thành một cảm nhận đơn giản. Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4:10), nên tình yêu bây giờ không còn là một giới răn đơn thuần nữa; mà là một đáp lễ trả lại cho tặng vật tình yêu mà nhờ đó Thiên Chúa đã đến gần chúng ta.
MUỐN CHO THÌ PHẢI CÓ.
Hiện nay có một số người Công Giáo tốt tự xưng là “ngôn sứ” khi họ nắm giữ những vấn đề công lý xã hội trong Giáo Hội. Trong khi giữ những nhiệm vụ quan trọng về công lý xã hội trong truyền thống Công Giáo, TGM Oscar Romeo và Dorothy Day thường tỏ ra tiêu cực đối với Mẹ Teresa thành Calcuta. Các ngài cho rằng mẹ không bao giờ đề cập đến “hệ thống ma quỉ” ở thời đại ngày nay. Họ nói rằng mẹ không bao giờ đưa vấn đề ngôn sứ ra để tranh luận và, mẹ đơn thuần chỉ đóng một vai trò gương mẫu an bình trong một Giáo Hội mà nam giới là chủ động!
Đối với tôi, điều làm tôi khâm phục và cảm kích là Mẹ Teresa và các chị em của mẹ nói về Yêu Chúa và Yêu tha nhân, chia sẻ sự “nghèo khổ”; nó vượt lên trên những cái gọi là luận lý của nhiều tổ chức, cơ quan của chúng ta ngày nay chỉ thích những chương trình cho người nghèo có tính chính trị thay vì thông công một cách sâu sắc với từng cá nhân con người nghèo khổ.
Điều mà Giáo Hội để ý đến nơi các thánh và các chân phước không chỉ những công việc vĩ đại –như giải Nobel Hòa Bình hay những giải thưởng quốc tế khác- mà là những việc làm cụ thể, qua đó các thánh, các chân phước đã biến đổi cả bên trong lẫn bên ngoài nhờ hồng ân Thiên Chúa và cách áp dụng giới răn Mến Chúa Yêu Người.
Một ngạc nhiên nữa là tôi đã trông thấy một tấm thiệp của Mẹ Teresa. Nó không giống như bất cứ một tấm thiệp nào khác, không địa chỉ, không số điện thoại, không số FAX, không Email, chỉ vỏn vẹn những hàng chữ như sau:
The fruit of Silence is PRAYER The fruit of Prayer is FAITH The fruit of Faith is LOVE The fruit of Love is SERVICE The fruit of Service is PEACE
God bless you Mother Teresa
*****
Hoa trái của Yên Lặng là CẦU NGUYỆN Hoa trái của Cầu Nguyện là NIỀM TIN Hoa trái của Niềm Tin là TÌNH YÊU Hoa trái của Tình Yêu là PHỤNG SỰ Hoa trái của Phụng Sự là AN BÌNH Xin Chúa chúc lành cho bạn
Mẹ Teresa
Ngày nay, chúng ta không cần bất cứ tin tức gì để liên lạc với Mẹ, vì Mẹ luôn luôn sẵn sàng cho chúng ta qua sự hiệp thông của các Thánh.Xin Mẹ Teresa thành Calcutta cầu bầu cho chúng con, dạy chúng con cách mến Chúa và yêu người trong hợp nhất và hòa điệu.
Luật để con người sống tốt hơn. Nhưng trong cuộc sống quá nhiều luật, làm sao để nhớ, để sống TN30-A182
Luật để con người sống tốt hơn. Nhưng trong cuộc sống quá nhiều luật, làm sao để nhớ, để sống ? Cốt lõi của các điều luật nằm hệ tại ở điều gì ? Đức Giêsu đã trả lời cho những người thông luật Do Thái, những người Pharisiêu và mỗi người chúng ta, điều răn quan trọng nhất chỉ vỏn vẹn trong bốn chữ : “yêu Chúa, yêu người” (Mt 22, 34-40).
Yêu Chúa, phải chăng là chỉ đi lễ, đi nhà thờ, đọc kinh là đủ ? Đức Giêsu đã dạy : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Đúng vậy, Chúa mời gọi chúng ta yêu Chúa bằng trọn vẹn con người của mình. Chúng ta tham dự Thánh lễ, đọc kinh, thân xác chúng ta hiện diện, nhưng liệu rằng, cả con người chúng ta đang thực sự hướng về Chúa ? Hay lòng trí chúng ta đang bị phân tâm về những điều khác ? Với các bạn trẻ, nào là lo lắng ngày mai phải thi, phải học, các bài tập chưa làm xong, chuẩn bị đến giờ hẹn với bạn bè,… Cũng có khi chúng ta đi lễ nhưng lại luôn nghĩ không biết “số đề” hôm nay về “con” bao nhiêu ? Những dự án, tính toán, việc này việc kia chưa xong… ; các con số, các phép toán luôn hiện lên trong đầu… Nhiều lúc, đi lễ chúng ta để ý nhiều chuyện : hôm nay tôi mặc áo đẹp, hôm nay tôi có phong cách khác,…Đã nhiều lần, chúng ta tham dự Thánh lễ, đọc kinh, chúng ta còn ngủ gật từ đầu đến cuối… Như vậy, mặc dù chúng ta đến cùng Chúa nhưng chúng ta lại loay hoay, lơ đãng với công việc của chúng ta. Chúng ta gặp Chúa nhưng chúng ta lại coi Chúa như “người thừa” vậy! Thế mới biết chúng ta thật mỏng giòn, yếu đuối, ngay cả tâm trí của mình, mình cũng khó có thể kiểm soát được. Vậy mà, Thiên Chúa chẳng trách cứ. Người luôn mời gọi chúng ta đến với Người bất cứ lúc nào, trong bất cứ tình trạng nào. Để đáp lại sự chờ đợi đầy yêu thương ấy, hằng ngày, chúng ta cần luôn ý thức về sự hiện diện của chúng ta trước Chúa, mỗi khi chúng ta tham dự phụng vụ, cầu nguyện, ngay cả khi chúng ta làm việc. Đó là chúng ta thể hiện tình yêu của chúng ta với Chúa.
Vậy, trong cuộc sống với tha nhân thì sao ? Chúa Giêsu khẳng định, một điều răn quan trọng không kém điều răn thứ nhất là : “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Mt 22, 39). Có người lý luận rằng : yêu Chúa là yêu Chúa, yêu người khác là khác, hai đối tượng rất khác nhau, làm sao có thể giống được ? Nó đáng ghét như vậy, làm sao tôi thương nó được ? Nhìn mặt nó, tôi còn không thèm chứ huống gì là yêu thương nó ?! Khi chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng yêu thương nhau, bởi mỗi người chính là hình ảnh của Thiên Chúa Xót Thương. Khi chúng ta yêu thương tha nhân, chính là lúc chúng ta thể hiện niềm tin vào Chúa, thể hiện tình yêu của chúng ta dành cho Chúa. Đó là tình yêu rất đẹp và Chúa luôn sẵn lòng để đón nhận của lễ ấy. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy” (1Ga 4,20). Mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống “đạo yêu thương”. Chúng ta yêu Chúa không chỉ trong nhà thờ, nhưng còn yêu Chúa cả trong cuộc sống với những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ, dù đó là người sang trọng quyền quý, có học thức, hay cả những người bệnh tật, nghèo khổ, hoặc cả những người chúng ta không ưa. Đó chính là những món quà mà Chúa đã gửi đến cho chúng ta hằng ngày.
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con tình yêu của Chúa. Xin cho dạy chúng con biết yêu Chúa với trọn cả con người. Xin cho chúng con biết mở rộng con tim, giang rộng đôi tay, rèn luyện đôi chân nhanh nhẹn, đôi mắt cảm thông, đôi tai lắng nghe và thấu hiểu, miệng lưỡi sẵn sàng cho đi những lời yêu thương, để chúng con luôn hướng về Chúa, và luôn đến cùng tha nhân trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh của chúng con. Amen.
“Hãy yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, và yêu người thân cận như chính mình người” (Mt 22, 37, 39)
Chúa Giê-su đã tóm lại toàn bộ lề luật của Môi-sê và các sách Ngôn Sứ chỉ trong hai điều răn TN30-A183
Chúa Giê-su đã tóm lại toàn bộ lề luật của Môi-sê và các sách Ngôn Sứ chỉ trong hai điều răn trọng nhất “mến Chúa và yêu người”. Nghe rất dễ, nhưng không dễ thực hành, bởi sự đòi buộc tuyệt đối của điều răn. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” nghĩa là yêu Chúa trên hết mọi sự. Luật này luôn đặt mỗi chúng ta trước một chọn lựa dứt khoát: chọn Chúa hay chọn sự phàm tục. Ai cũng có lòng yêu sự thế gian này, nhưng phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Yêu cha mẹ hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy, huống là yêu chuộng những gì là phù vân chóng vánh. Yêu mến Chúa là đặt mình hoàn toàn thuộc về Chúa, không để cho lòng trí, linh hồn thuộc về ai khác, thuộc về sự gì khác. Nói cách khác là buông bỏ mọi sự mà qui hướng về Chúa. Cũng vây, “yêu người như chính mình” đòi hỏi chúng ta buông bỏ chính mình mà qui hướng về tha nhân, cho tha nhân được bình an thiện hảo.
Không đơn giản mà thực thi điều răn ‘mến Chúa yêu người’, nếu không có Thánh Thần, Nguồn Trợ Lực ban ân sủng Thiên Chúa. Hãy khẩn khoản nài xin ơn Yêu của Chúa Thánh Thần, để Người soi sáng cho ta nhận ra một mẫu gương giữ đôi điều luật này chuẩn mực nhất: chính là Đức Giê-su Ki-tô. Hãy yêu như Giê-su. Vì Người đã yêu Chúa Cha và đặt mình hoàn toàn thuộc về Chúa Cha. Vì Người đã yêu nhân loại và hoàn toàn bỏ mình, hiến thân mình cho nhân loại được hạnh phúc. Không có mẫu giữ luật yêu nào có thể sống động và quyến rũ cho bằng mẫu yêu của Chúa Giê-su, Đấng kiện toàn lề luật
Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến Chúa, và yêu thương người, như Đức Giê-su, Con Chúa đã yêu. A men.
Đêm 25/10/2017 tại đảo Phú Quốc, Kiên Giang đã diễn ra vòng chung kết cuộc thi Hoa Hậu TN30-A184
1. Đêm 25/10/2017 tại đảo Phú Quốc, Kiên Giang đã diễn ra vòng chung kết cuộc thi Hoa Hậu Hòa Bình Thế Giới 2017. Trong phần thi hùng biện, các thí sinh Top 10 sẽ trình bày chủ đề “chấm dứt chiến tranh”. Mỗi người đẹp đại diện cho đất nước của mình đều có một cái nhìn khác nhau, nhưng tựu trung lại vẫn là tình yêu thương sẽ chấm dứt chiến tranh và làm cho thế giới nên tốt đẹp hơn. Sau đó Ban Giám khảo chọn ra Top 5 để bước vào phần thi trả lời câu hỏi duy nhất của ban tổ chức: “Nếu có thể ban hành một đạo luật để trừng phạt những người gây ra chiến tranh và bạo lực, bạn sẽ ban hành đạo luật gì?”Hoa Hậu Peru nói: “Tôi sẽ bắt họ phải sống ở trại tị nạn để họ phải chịu những gì mà họ đã gây ra cho rất nhiều người”. Hoa Hậu Pueto Rico: “Tôi sẽ bắt họ làm những công việc thiện nguyện cho xã hội”. Hoa Hậu CH Sec và Hoa Hậu Philippines thì nói không thể trừng phạt họ, vì sẽ càng làm cho chiến tranh và bạo lực gia tăng. Riêng Hoa HậuVenezuela đã trả lời một cách mạnh mẽ và xác quyết: “Tôi là người tin vào Chúa, tôi cũng tin rằng, đạo luật của Chúa là đạo luật quan trọng nhất. Cách mà tôi có thể sử dụng để chấm dứt chiến tranh là đẩy mạnh tình yêu, sự tôn trọng và chia sẻ”. Vâng, đạo luật của Chúa chính là đạo luật yêu thương, và nếu có tình yêu thương thì thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
2. “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng là hình ảnh tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa. Những tưởng sự phản bội của họ sẽ làm cho tình yêu đó bị phai mờ. Nhưng không, dù con người có như thế nào đi chăng nữa, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương họ như lời Ngài đã phán: “Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho con lòng xót thương” (Gr 31,3).
Tình yêu đó được Thiên Chúa nhắn nhủ trong sách Xuất hành để dân biết cách mà sống cho phải đạo làm người với nhau: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức… Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp… Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ… Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn…” (x.Xh 22, 20-26).
Tình yêu đó được Đức Giêsu thể hiện một cách trọn vẹn trong suốt 33 năm hành trình dương thế. Nó được gói gọn lại trong câu trả lời cho người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay về thao thức chung của người Do Thái: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22, 36). Câu trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và yêu người thân cận như chính mình” (x.Mt 22, 37. 39). Điểm độc đáo của Đức Giêsu là gắn liền hai việc “mến Chúa – yêu người” lại với nhau, cho nó một giá trị như nhau; và tập trung mọi giới luật vào hai điều răn đứng đầu này. Từ đây mọi người bất kể là ai, làm gì, tin gì… miễn là họ có và thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống thì họ đã chu toàn lề luật, vì như thánh Phaolô đã nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 10). Đó cũng là tiêu chuẩn để Thiên Chúa “xếp loại” con người “khi Ngài đến trong vinh quang” trong dụ ngôn nổi tiếng về ngày phán xét chung (Mt 25, 31-46).
3. Vì lẽ đó mà đạo Thiên Chúa trở thành đạo Yêu Thương, và “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga13, 35).Không cần biết anh theo đạo nào, không cần biết anh làm gì, không cần biết gia thế của anh ra sao,… nhưng miễn là cách sống của anh làm cho những người chung quanh cảm thấy dễ chịu, họ được nâng đỡ về tinh thần cũng như vật chất, họ thấy nhẹ nhàng khi tiếp xúc với anh, họ thấy anh dễ mến, dễ thương, dễ gần… thì rõ ràng anh đang theo “đạo yêu thương”.
Tuy nhiên, là người Công giáo, được lời Chúa hướng dẫn, được Giáo hội đồng hành thì chúng ta càng phải sống tình yêu thương một cách cụ thể hơn, vì chúng ta vừa phải tìm hạnh phúc cho mình, vừa phải làm chứng cho tình yêu của Chúa. Chúng ta không phải sống yêu thương một cách tự nhiên, mà tình yêu của chúng ta xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, được cụ thể qua cuộc đời và cái chết của Đức Giêsu Kitô; để hơn ai hết, người Công giáo phải sống yêu thương, vì Thiên Chúa họ tôn thờ chính là tình yêu.
Linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên sáng tác bài hát “sống cho tình yêu” trong đó có đoạn: “Chúa gọi con vào đời, không phải để làm điều chi, nhưng là để sống tình yêu”. Sống yêu thương thì ai cũng biết và ai cũng muốn, vì chắc chắn một điều nơi nào có tình yêu thì nơi đó sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng trên thực tế, thế giới phải đối diện với chiến tranh; tình trạng di cư khiến nhiều người chết trên biển và nhiều người khác sống ở các trại tị nạn; những nước nghèo không có lương thực, nước sạch và thuốc uống… Ở Việt Nam, quốc nạn ăn hối lộ, bán thuốc giả; chém giết người một cách man rợ; ly dị, phá thai, khủng hoảng gia đình; giáo dục thế hệ trẻ ngày càng xuống cấp biểu hiện qua các vụ bạo lực học đường ngày càng gia tăng… Tất cả những biểu hiện này đều tựu trung về một vấn đề cốt cán chính là thiếu vắng tình yêu thương.
Thiếu vắng tình yêu thương không phải do không có, không còn, nhưng vì một giá trị khác đang lấn át nó. Giá trị đó chính là lợi ích cá nhân. Quả thật, vì lợi ích cá nhân mà người ta sẵn sàng làm tất cả mọi sự. Tội lỗi của con người là do ma quỷ cám dỗ để họ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Vì lợi ích cá nhân mà người ta ăn hối lộ, gian lận kể cả việc buôn bán thuốc giả, phá thai, ly dị; giới trẻ hung hăng đánh đập nhau, chém giết người khác cũng chỉ vì cái tôi cá nhân của mình.
Trong mọi sự nếu biết nghĩ đến người khác thì chắc chắn đó là tình yêu thương. Ngược lại nếu làm bất cứ việc gì mà còn nghĩ đến bản thân mình thì ắt sẽ mặt trái của tình yêu. Khi người chồng, người vợ luôn nghĩ đến người bạn đời, đến gia đình của mình nên họ sẵn sàng làm mọi sự có ích và tốt đẹp cho gia đình, và cũng sẵn sàng từ khước những gì gây nguy hại cho gia đình mình. Khi người trẻ yêu nhau, muốn chiếm đoạt thân xác của nhau là họ đang nghĩ đến mình hay người khác?…
Nói tóm lại, nơi nào có tình yêu nơi đó sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Để có được tình yêu thì phải biết từ bỏ cái tôi cá nhân, những lợi ích của riêng mình để nghĩ đến gia đình, tập thể, Giáo hội và xã hội. Nhưng quan trọng nhất, theo chia sẻ của cô hoa hậu Venezuela: niềm tin vào Thiên Chúa sẽ giải quyết tất cả.
Xin Chúa ban cho con một niềm tin mạnh mẽ để con biết sống yêu thương như Chúa chỉ dạy.
Vì liên tiếp thất bại trong việc “thử”, “gài bẫy” Đức Ki-tô, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm TN30-A185
Vì liên tiếp thất bại trong việc “thử”, “gài bẫy” Đức Ki-tô, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Thực chất thì họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt 22, 36-40).
Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu giải trình, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời là “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta” (Mc 12, 29).
Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ. Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes” (số 22) đã giải thích rõ ràng: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.”
Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Thiên Chúa. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).
Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25, 40).
Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.
Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: “Thế nào là sự tử tế?” Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.
Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (Sắc lệnh Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).
“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết những người Biệt phái sai một nhà thông luật đến hỏi TN30-A186
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết những người Biệt phái sai một nhà thông luật đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào quan trọng nhất?” Vì luật Do thái vào thời đó có tới 613 điều lệ. Trong số đó có 365 điều luật cấm không được làm, và 248 khoản luật dạy những điều phải thực hành. Do đó những người Biệt phái nghĩ rằng đây là câu hỏi khó khăn và phức tạp không ai có thể trả lời được. Chính họ cũng bối rối không phân biệt rõ ràng luật nào là quan trọng hơn và luật nào là quan trọng nhất. Và như thế họ nghĩ rằng nếu hỏi Chúa Giêsu thì Ngài cũng sẽ bí, không có câu trả lời và như thế họ có cơ hội làm nhục, làm mất uy tín của Chúa trước đám đông. Chúng ta biết người Biệt phái và nhóm luật sĩ luôn tìm cách ám hại Chúa Giê-su. Họ tìm đủ mọi cách, mọi lý do, mọi cơ hội để gây hấn, tranh luận với Chúa Giê-su không phải để tìm hiểu học hỏi, nhưng để tìm cách gài bẫy Người, với âm mưu vu khống, kết án và giết Người.
Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho họ ngạc nhiên với câu trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” Và Chúa nói tiếp:” Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó.” Hai giới răn này đều đã có sẵn trong Cựu ước. Chúa đã trưng dẫn cả hai và đặc biệt hơn Chúa đã làm cho hai giới răn này có tầm quan trọng như nhau.
Chúng ta thấy có những người tuyên bố mình yêu mến Thiên Chúa vì lần hạt, đọc kinh và đi xem lễ thường xuyên, nhưng trong thực tế lại không quan tâm tới bổn phận yêu thương người khác. Họ sống ích kỷ, khép kín và cá nhân, không có lòng bác ái, quảng đại, cũng như không có tấm lòng hy sinh phục vụ, giúp đỡ người khác. Những người như thế mới chỉ sống có một nửa Tin mừng.
Ngược lại, lại có những người sống ở một cực đoan khác. Họ tỏ ra rất hăng say nhiệt tình để xây dựng một xã hội tốt đẹp, làm nhiều việc tốt lành, bác ái và hy sinh phục vụ giúp đỡ người khác, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến hay không có đức tin vào Chúa, hoặc chỉ chỉ cầu nguyện với Người thôi. Họ cũng chỉ là những người sống nửa phần của giới răn yêu thương của Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, Chúa Giê-su Ki-tô dạy chúng ta phải sống trọn vẹn cả Tin mừng, sống trọn giới răn yêu thương, có nghĩa là vừa phải yêu mến Thiên Chúa và đồng thời phải yêu mến người khác như chính mình. Chúa đã không nói rằng hai giới răn đó chỉ là một, nhưng Chúa dạy chúng ta rằng chúng ta không thể làm việc này mà bỏ việc kia, nghĩa là chỉ yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh chị em.
Chúng ta cần nhớ lời Chúa Giê-su nói: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất.” Giống không có nghĩa là thay thế mà phải là cả hai, vừa phải đặt Chúa trên hết và trước hết mọi sự, mọi người, thực hành những việc thờ kính Chúa, làm chứng và làm sáng danh Chúa, vừa phải thể hiện những việc bác ái, quảng đại, hy sinh giúp đỡ anh chị em, nhất là những người trong tình cảnh khó khăn.
Có một câu chuyện thật cảm động xảy ra vào năm 1941 trong thế chiến thứ hai, về một vị linh mục tên là Ma-xi-mi-li-an Kol-be bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng. Chính vị linh mục đã xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Đối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn. Sau cùng vị linh mục này đã can đảm tình nguyện thay thế chết một người cha của một gia đình bị chọn chịu hành quyết. Vị linh mục đã thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa qua cái chết của mình để yêu thương người khác.
Chúng ta biết, theo cảm tính tự nhiên của con người, chúng ta chỉ yêu thương những người gần gũi, bạn bè thân thuộc, những người dễ yêu và những người yêu thương chúng ta. Chân lý hay giới răn yêu thương Chúa Giêsu dạy chúng ta là phải yêu thương cả những người khó yêu, và những người không những không yêu mà còn thù ghét và làm hại chúng ta nữa. Chính những người này mới cần tới lòng yêu thương của chúng ta hơn hết. Thật là một điều khó thực hiện, nhưng nếu chúng ta có tầm suy nghĩ xâu xa thì chúng ta sẽ nhận thấy những người này không ai ngoài là chính chúng ta. Vì chính chúng ta là những con người tội lỗi, xấu xa và khó thương, Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế, trở thành một con người hèn mọn, chịu đau khổ và chết trên thập giá để yêu thương và cứu rỗi chúng ta. Chúa Giê-su dạy chúng ta yêu thương không những bằng lời nói mà quan trọng hơn bằng hành động, Người nói: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình yêu cao quý hơn mối tình của người thí mạng mình vì bạn hữu.” Thật vậy, Chúa Giê-su đã hy sinh chết trên thập giá vì yêu thương chúng ta là những người tội lỗi và xấu xa.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì dễ lắm, có khi chỉ đọc vài ba kinh hay đi tham dự Thánh lễ là đủ, nhưng yêu thương người khác như chính mình thì khó, nhất là những người thù ghét chúng ta thì càng khó hơn. Nhưng đây lại là giới răn, chân lý của Chúa dạy. Yêu thương người khác như chính mình là chúng ta cố gắng tránh đời sống giả dối hình thức bề ngoài của những người Pharisêu, là những người có tâm hồn chai đá, có tâm độc. Như chúng ta thấy họ cố tìm mọi cách để gài bẫy, vu khống, lên án làm hại Chúa. Xin Chúa giúp và ban ơn để chúng ta sống giới răn chân lý yêu thương của Người một cách chân tình, để sống kết hợp mật thiết với Chúa hơn, có lòng bác ái và quảng đại với tha nhân hơn, để chúng ta sống trong an bình và hạnh phúc đời này và đời sau.
Từ Cựu Ước cho tới Tân Ước, Thiên Chúa chỉ muốn mạc khải cho con người biết Người là Tình TN30-A187
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Từ Cựu Ước cho tới Tân Ước, Thiên Chúa chỉ muốn mạc khải cho con người biết Người là Tình Yêu. Vì là Tình Yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Vì là Tình Yêu nên Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa chỉ mong đợi một điều là loài người nhận ra:
* Người là Vị Thần Linh đáng được yêu mến trên hết mọi sự.
Và
* Con người, vì đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa, và đã được Con Thiên Chúa chết trên thập giá để cứu chuộc, nên đáng được đồng loại yêu thương như chính bản thân mình.
Cốt yếu của Đạo Mạc Khải là ở đó! Kitô giáo chỉ có MỘT giới răn, vì mến Chúa và yêu người chỉ là một.
II. NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Bài đọc 1: Xh 22,20-26: "Nếu các ngươi hà hiếp các cô nhi quả phụ, Ta sẽ nổi giận các ngươi" Đây Chúa phán: "Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi.
"Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Đấng thương xót".
2.2 Bài đọc 2: 1 Tx 1,5c-10: "Anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa để phụng sự Người và để trông đợi Con của Người" Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.
Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, "Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại", là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
2.3 Bài Tin Mừng: Mt 22,34-40: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN CHÚA
3.1 Dung Mạo của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?):
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Đấng đã đặc biệt quan tâm đến những người ngoại kiều và những thành phần bé nhỏ, bất hạnh (mẹ góa con côi) trong xã hội Israel. Có thể nói Thiên Chúa muốn cho dân Israel hiểu rằng Người luôn bảo vệ “quyền” của những người sa cơ lỡ vận trong xã hội và đứng ra bênh vực họ mỗi khi họ bị khinh khi áp bức. Lời kêu cứu của những người này như có sức mạnh làm Thiên Chúa động lòng và khiến Thiên Chúa phải hành động (bài đọc 1).
* Là Chúa Giêsu, Đấng đã hòa nhập và tóm kết hai giới răn [mến Chúa yêu Người] thành một giới răn duy nhất, một cách hết sức tài tình và đầy quyền uy (bài Phúc âm), khiến từ nay, ai không yêu người thân cận thì khó mà nói được là mình yêu Chúa! Điều Chúa Giêsu còn muốn chúng ta quan tâm là CÁCH chúng ta được mời gọi mến Chúa và yêu người thân cận. Mến Chúa thì mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.” Còn yêu người thân cận thì yêu “như chính mình.”
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng hiện diện và hành động cùng Chúa Cha và Chúa Giêsu trong cách hành xử và giáo huấn của Thiên Chúa. Người cũng là Đấng tác động và giúp đỡ các Kitô hữu hiểu và thực hành giới răn kép (mến Chúa và yêu người) là tổng hợp cả luật Môsê và các sách ngôn sứ.
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là thực hành giới răn: Mến Chúa yêu người:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi." và
“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22,37.39).
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
Để thực hiện giáo huấn của Lời Chúa hôm nay,
* Trước hết mỗi người chúng ta phải hiểu
- thế nào là “yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"
và
- thế nào là “yêu người thân cận như chính mình.”
“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng” là yêu mến Thiên Chúa với tất cả tình cảm chân thật và sâu đậm;
“Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn” là chỉ có một mình Thiên Chúa làm chủ và ngự trị linh hồn mình mà thôi;
“Yêu mến Thiên Chúa hết trí khôn” là vận dụng mọi khả năng trí tuệ, mọi hiểu biết, kiến thức mà phụng thờ Thiên Chúa;
Còn “yêu người thân cận như chính mình” là yêu mình thế nào thì yêu người thân cận thế ấy! Người thân cận không hẳn chỉ là những người sống bên cạnh chúng ta mà chính yếu là những người cần đến chúng ta giúp đỡ, mong được chúng ta phục vụ.
* Kế đến mỗi người phải thường xuyên “tự kiểm” xem mình đã yêu Chúa và yêu người như Chúa dậy chưa? Cụ thể là nhìn xem mình đã dành bao nhiêu thời gian, sức lực và khả năng cho việc phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ những người cần đến mình?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho mọi dân mọi nước biết kính sợ và thờ phượng Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Độ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ, để mọi người thực hành giới răn kính Chúa yêu người một cách nghiêm chỉnh và quyết liệt.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người di dân nội địa hay từ nước mình đến nước khác, để họ được các chính quyền và người ban xú tôn trọng và giúp đỡ và có cuộc sống an vui hạnh phúc nơi đất khách quê người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các thành phần bất hạnh, neo đơn, nghèo nàn, bị áp bức, khinh khi trong xã hội để họ gặp được những người Samari nhân hậu ra tay trợ giúp cho đời sống vật chất và tinh thần của họ được no đủ và hạnh phúc.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigòn ngày 25 tháng 10 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.