Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc. {Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.} - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------ Mục Lục:
Theo thống kê mới nhất của Center for Applied Research in the Apostolate, gọi tắt là CARA, trong TN 28-A201
Theo thống kê mới nhất của Center for Applied Research in the Apostolate, gọi tắt là CARA, trong năm 2019, Giáo Hội Mỹ có 64.9 triệu tín hữu, nhưng con số đi tham dự Thánh Lễ hằng tuần chỉ vào khoảng 21.1%, tức là khoảng 13 triệu. Như vậy, rõ ràng, số giáo dân tham dự Thánh Lễ đã bị suy giảm rất nhiều, nếu không muốn nói là suy giảm một cách rất trầm trọng.
Bạn có biết lý do tại sao không? Nếu kể cả lý do sợ bị… mắc dịch, thì có khoảng 1001 lý do để trả lời cho câu hỏi tại sao người Công Giáo không đi Lễ đông đảo như hồi thập niên 60 & 70 nữa. Ví dụ, vì những vụ tai tiếng, vì những gương mù gương xấu trong Giáo Hội, vì sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật, vì người ta mải mê lo cho công danh sự nghiệp, vì bận học hành, vì bận làm ăn, buôn bán, đi du lịch, giải trí, du ngoạn, vì có quá nhiều cám dỗ trên internet...
Thế nhưng, theo tôi, có một lý do khiến cho con số đi tham dự Thánh Lễ càng ngày càng bị sút giảm đó là vì nhiều người Công Giáo CHƯA NHẬN THẤY những lợi ích vô cùng cao quý của Thánh Lễ! Họ không biết rằng, khi đến tham dự các Thánh Lễ, Chúa sẽ ban cho họ và gia đình của họ rất nhiều ơn ích, cả về phần hồn lẫn phần xác, cả ở đời này lẫn ở đời sau… vì thế cho nên người ta mới lơ là, mới coi nhẹ việc đến tham dự Thánh Lễ.
Tôi xin đơn cử ra đây ít nhất năm lợi ích vô cùng lớn lao mà chúng mình sẽ nhận được khi đi tham dự Thánh Lễ.
1. Khi đến tham dự Thánh Lễ, Thiên Chúa sẽ soi lòng mở trí cho bạn và tôi nhận ra rằng tất cả những gì mà chúng mình đang có, đang sở hữu… là từ Thiên Chúa mà ra, tự bản thân mình chẳng có gì cả, chỉ có một con số Zero to
tướng mà thôi. Tất cả là của Chúa! Nhờ vậy bạn và tôi sẽ sống khiêm tốn hơn.
2. Gia đình của bạn sẽ sống vui vẻ, bình an và hạnh phúc hơn. Vì khi nghỉ ngày Chúa Nhật, và khi đến tham dự Thánh Lễ, bạn và con cái có cơ hội chú tâm đến gia đình và thân hữu, những người mà thường nhật [bạn và gia đình của bạn] khó chú tâm tới và bạn cũng có thời gian để suy tư, tĩnh lặng, rèn luyện và suy niệm cần thiết để đời sống nội tâm của [bạn] được phát triển (GLCG # 2186).
3. Khi tham dự Thánh Lễ và khi rước Mình & Máu Thánh Chúa, chúng mình được Chúa cứu thoát khỏi các tội thường ngày và giữ gìn [tôi và bạn] khỏi sa phạm các tội trọng” (GLCG # 1436).
4. Khi tham dự Thánh Lễ, bạn và tôi mới được rước Mình & Máu Thánh Chúa, mới được sống kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở trong tôi và tôi ở trong người ấy… và sẽ được sống đời đời” (Ga 6:56-57). Được ở trong Ngài, có nghĩa là bạn sẽ ở với, và sẽ ở trong TÌNH YÊU, BÌNH AN & HẠNH PHÚC vì Thiên Chúa là Tình yêu và là nguồn gốc của mọi sự thiện hảo.
5. Đến tham dự Thánh Lễ, chúng mình sẽ có cơ hội hiệp thông với cộng đoàn cầu nguyện cho những người còn sống cũng như đã ly trần, trong đó có tổ tiên, ông bà, cha mẹ, ân nhân, người đau ốm, kẻ bệnh tật… Đó chẳng phải là một cách báo hiếu thật tuyệt vời và là một nghĩa cử bác ái rất lớn hay sao?
Bạn thân mến, nếu hôm nay, bạn nhận ra những ơn ích cao cả của Thánh Lễ Misa, và nếu bạn đồng ý với tôi rằng, khi bạn và tôi thờ ơ lãnh đạm trước lời mời gọi của Chúa: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35); và khi lười biếng không đến tham dự Thánh Lễ, thì chúng mình sẽ bị thiệt thòi, và bị mất mát rất nhiều … thì xin bạn hãy cố gắng đến tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, và cả Thánh Lễ ngày thường nữa.
Nếu vì một lý do nào đó thật chính đáng, ví dụ như khi mắc bệnh nặng, phải chăm sóc cho bệnh nhân, hay con cái bị bệnh, hoặc khi sinh nở, vì đường xá bị đóng băng, vì ở cách xa nhà thờ không có phương tiện giao thông… thì lúc đó bạn được miễn chuẩn việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Chứ còn nếu bỏ lễ Chúa Nhật, bỏ lễ buộc, lễ trọng là vì tham việc, vì ham làm overtime, bận đi dự tiệc sinh nhật, tiệc cưới, bận đi vacation, đi casino, đi câu, đi camping, coi football… thì không ổn chút nào cả, nếu không muốn nói là nguy hại!
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở trong tôi và tôi ở trong người ấy … và sẽ được sống đời đời” (Ga 6:56-57). Khi đến tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa, Chúa sẽ ở với chúng mình. Và khi có Chúa ở với chúng mình rồi thì cuộc sống của bạn và của tôi sẽ bình an hơn, vui vẻ hơn và sẽ hạnh phúc hơn, đó là điều chắc chắn.
Ước mong tất cả mọi tín hữu đều nhận ra được những lợi ích vô cùng cao quý của thánh lễ Misa. Nhờ vậy họ sẽ hăng say, phấn khởi và hồ hởi mỗi khi đến tham dự thánh lễ, chứ không lơ là và thờ ơ trước những ân huệ của Chúa
ban cho một cách nhưng không như trước nữa. Cầu chúc bạn một tuần lễ mới thật nhiều niềm vui, bình an, mạnh khỏe và tràn đầy ơn Chúa.
Một cha xứ vùng ngoại ô Berlin nước Đức có kể câu chuyện mình đã cho một bé gái 13 tuổi TN 28-A202
Một cha xứ vùng ngoại ô Berlin nước Đức có kể câu chuyện mình đã cho một bé gái 13 tuổi rước lễ vỡ lòng trong những hoàn cảnh đặc biệt như sau: “Tôi đã để ý em ngay giữa đám học trò lớp giáo lý: em có vóc dáng gầy còm và nước da trắng bệch! Một ngày nọ em đến tìm tôi và nói, đôi mắt rưng rưng: “Lạy Cha, con sẽ không thể rước lễ vỡ lòng như các bạn được” - “Sao vậy con?”, tôi hỏi. “Ba má con không muốn. Vả lại con chưa bao giờ xưng tội” - “Thì con cứ lễ phép xin ba má -tôi an ủi nó- có lẽ rồi ba má cũng cho thôi”. Vài tuần trôi qua. Một hôm em đến tìm tôi, rồi bằng một giọng run run, kể cho tôi nghe những chuyện gì đã xảy tới: “Ba con đã nổi tức lên và la mắng con tơi bời”. Cô bé đáng thương làm cho tôi hết sức xúc động. Tôi dặn em cầu xin Thiên Chúa xếp đặt mọi sự để em có thể rước lễ vỡ lòng. Nhưng ngày trọng đại đã đến mà em vẫn không được phép như lòng mong ước. Hôm sau, các bé gái khác kể lại diễn tiến cuộc lễ xinh đẹp cảm động khiến cô bé đáng thương càng thêm buồn rầu. Vài ngày sau em đến tìm tôi: “Khi nào mẹ con sai con đi mua hàng ngang qua trước nhà thờ, con có thể lợi dụng vài phút để vào xưng tội được chứ! Con sẽ chạy thật nhanh để mẹ con không nhận thấy chuyện gì”. Tới ngày giờ đã hẹn, tôi đợi em bé và em đã xưng tội lần đầu tiên với lòng sốt sắng khôn tả. “Bây giờ -tôi bảo em- con về mau đi để nhà con không biết chuyện gì xảy đến”. Nhưng em đã tha thiết van nài: “Lạy Cha, Cha còn đứng đây, xin Cha cho con được rước lễ”. Tôi không thể từ chối và cô bé đã lãnh lấy Mình Thánh lần đầu tiên trong đời với một lòng sốt sắng tuyệt diệu”. Và cha xứ kết luận: “Tôi đã thấy rất nhiều trẻ rước lễ vỡ lòng; nhưng chưa có em nào làm tôi xúc động như bé gái đó”. Thật khác xa với sự dửng dưng của các thực khách được mời dự tiệc trong dụ ngôn hôm nay.
1. Quảng đại đáp lại lời mời của Thiên Chúa.
Tin Mừng chẳng bao giờ cho ta những định nghĩa lớn lao trừu tượng về Thiên Chúa, Thiên đàng, Giáo hội… Không! Tin Mừng đúng ra là một cuốn sách lớn đầy hình ảnh. Chứng kiến trên tivi hay mạng internet sự thành công của các đám cưới vương giả, ta thấy hình ảnh Đức Giê-su sử dụng thuở ấy xem ra đâu có lỗi thời… cho dẫu nó có một tính cách “đông phương” rất đậm nét.
Đức Giê-su trình bày cho ta một vị Thiên Chúa “tổ chức đám cưới cho con trai mình”: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình đẹp nhất! Hiển nhiên quý tử ấy là Đức Giê-su. Đức Giê-su “si tình”. Người đã cưới một hôn thê Người yêu say đắm: nhân loại. Hình ảnh đám cưới này như một sợi chỉ bạc chạy suốt Kinh Thánh: Tv 45,7-8; toàn bộ Diễm ca; Is 54,4-8; 61,10; 62,4-5; Gr 2,2;31,3; Ed 16; Hs 1-3; Mt 25,1-13; 9,15; Mc 2,9; Ga 3,29; 2Cr 19,29; 21,2-9; 22,17; Ep 5,25; Kh 20,9; 21,2-9… Vâng, từ đầu đến cuối Mạc khải, các tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại là một “giao ước”, một “hôn lễ”. Điều ấy sẽ thay đổi gì nơi “tôn giáo” của tôi nếu thay vì coi nó những chân lý phải tin hay những huấn lệnh phải giữ, tôi đi đến chỗ thật sự coi nó như một “chuyện tình”?
“Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc”. Thiên Chúa mơ tưởng một bàn tiệc vũ trụ cho nhân loại… một bữa tiệc thật “vương giả”… một lễ hội thật tưng bừng! Hãy thử hỏi xem bất cứ đứa bé nào những hoàn cảnh khiến nó sung sướng hạnh phúc nhất. “Đó là khi nhà có nhiều khách dự tiệc!” Bữa ăn lễ là cả một biểu tượng về niềm vui chia sẻ. Ngày nay cũng thế, chính “tiệc cưới” thường quy tụ các thực khách vui vẻ nhiều nhất: thức ăn chọn lọc này, rượu bia hảo hạng này, ca nhạc khiêu vũ này, lễ phục xinh đẹp này… Mời bạn đến dự lễ, bàn tiệc Thiên Chúa quy tụ các thực khách đã sẵn sàng rồi! Nhưng những người này sẽ làm chi?
“Họ không chịu đến”. Tội nghiệp nhà vua! Thật đáng thất vọng. Ông lại sai các đầy tớ đi mời phen nữa, lần này với những lời lẽ tha thiết hơn. Như trong dụ ngôn “tá điền sát nhân”, các thái độ từ chối của nhân loại xem ra chẳng làm Thiên Chúa kinh ngạc. Không mệt mỏi, ông nhắc lại lời mời gọi và gởi các đầy tớ khác. Đây không phải là một câu chuyện quá khứ xa xưa. Mời mọc thì thời nào cũng có cả. Và trước hết không phải là vấn đề những người khác. Chính tôi đã được Thiên Chúa gởi cho một “thiệp mời”. Tôi có ý thức rằng mình đang được chờ đợi không? Có ý thức rằng có một chỗ cho tôi trong bàn tiệc không? Lẽ ra tôi phải thật sự để giờ tự vấn mỗi tối về các lời kêu gọi Thiên Chúa không ngừng ngỏ với tôi suốt ngày. Và mỗi Chúa nhật, để giờ tự hỏi những lời mời nào của Thiên Chúa đã bị tôi bỏ quên trong tuần sống.
Nhưng như trong “mùa hái nho đẫm máu” Chúa nhật tuần trước, tiệc cưới nay lại bị nhận chìm vào thảm cảnh: “Quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết”. Các “tiệc cưới đẫm máu” cũng là biểu trưng sự từ chối Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giê-su kể chuyện này chắc hẳn chỉ vài hôm trước cuộc Thương khó… trong tuần lễ cuối cùng. Cái chết của Người đã được quyết định trong bóng tối bởi các thủ lãnh ở Giê-ru-sa-lem. Nhưng ta biết rõ, không chỉ có những kẻ đương thời với Đức GS mà còn cả chính ta, chính thế giới hiện giờ từ chối lời mời mọc của Thiên Chúa.
Lời mô tả thái độ thờ ơ của khách mời mang tính thời sự nóng bỏng. Đức Giê-su vẽ lên hai loại: 1/ những kẻ “lơ là” với thái độ lãnh đạm gần như tự nhiên, thậm chí không có vẻ để ý họ là những kẻ được mời và chỉ nghĩ tới công chuyện của họ… 2/ những kẻ “chống cưỡng” cố ý từ chối lời mời và còn hung dữ hành hạ các đầy tớ…
Như thế, Đức Giê-su mô tả rất chính xác tình trạng thế giới hiện thời. Chỉ cần diễn tả lại câu chuyện ngày xưa với các ví dụ của ngày nay thì đủ rõ: “Đi dự lễ làm sao được? Tôi chỉ có Chúa nhật để chơi thể thao thôi… Đây là ngày chúng tôi đi nghỉ… Đây là ngày tôi bận khâu vá… Sau khi đã vui chơi giải trí suốt cả tối Thứ bảy, làm sao có sức đi lễ và học giáo lý Chúa nhật nổi… Và rồi, tôi còn có bài làm bài thi phải ôn lại…”. Ơ thì đúng! Tất cả chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và duy vật chủ nghĩa bao quanh cầm giữ. Và tất cả chúng ta liều mình cho Thiên Chúa chỗ rốt hết, thời gian cặn. Biết bao tiếng nói khác phủ lấp tiếng gọi của Người: “Xin mời đến dự tiệc cưới của Ta!” Chúng ta đếch thèm đếm xỉa!
“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Lịch sử Đông phương cổ cung cấp cho ta lắm giai thoại kiểu này. Nhưng một lần nữa, phải hiểu rằng mình đang ở trong loại dụ ngôn, nên ta đừng tìm ý nghĩa chặt chẽ cho mọi chi tiết. Tuy nhiên, “thành phố bị thiêu hủy” này làm ta nghĩ tới một biến cố đã gây chấn thương cho người Do-thái lẫn Ki-tô hữu thế kỷ Thứ nhất, và đã nên cơ hội đoạn tuyệt giữa Hội Đường và Nhà Thờ. Khi Mát-thêu viết trình thuật mình. Giê-ru-sa-lem đã bị các đạo quân Rôma của Titô phá hủy năm 70 thật sự. Làm sao một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô tuyệt vời của dân Ít-ra-en? Các biến cố lịch sử được giải thích bằng nhiều cách. Và thời nào cũng vậy, các ngôn sứ đã từng giải thích việc phá hủy những thành phố lớn như một “hình phạt của Thiên Chúa” (x. Is 5,26-29; 7,18; Gr 5,15-17).
Vua liền cho đầy tớ đi mời hết thảy những ai gặp trên đường, bất luận sang hèn tốt xấu… Thế là những kẻ người ta không trông mong lại được mời và họ đã chấp nhận. Dân Do-thái, hạng được mời trước hết, vậy là nhường chỗ cho lương dân. Nhưng một lần nữa, phải coi chừng mọi kiểu tự mãn có màu sắc kỳ thị chủng tộc. Vì chính chúng ta cũng có liên can trong việc từ chối. Chúng ta có thể thành thật nói rằng mình luôn “vâng theo” mọi tiếng gọi lặp đi lặp lại của Thiên Chúa trong cuộc sống thường nhật không? Đức Giê-su cảnh giác chúng ta: phòng tiệc sẽ đầy… cho dẫu “quý khách khả kính” đã không thèm đáp lại. Người sẽ lấp đầy phòng tiệc của Người với những kẻ rách rưới, bị khai trừ, tạp nhạp đủ loại. Thánh Lu-ca, trong dụ ngôn song song, đã nói rõ điều ấy: chính “những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” chiếm chỗ các khách mời đầu tiên (Lc 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn khác, cũng bảo ta như vậy: “Hạng thu thuế và lũ gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các thượng tế và kỳ mục” (Mt 21,31).
“Vậy hãy ra đi, gặp ai thì mời hết, bất luận tốt xấu…”. Hãy để mình bị chất vấn bởi các lời dị thường này. Chúng ta có trái tim rộng rãi như Thiên Chúa vậy không? Phải chăng chúng ta không luôn luôn bị “tinh hoa chủ nghĩa” cám dỗ? Phải chăng chúng ta không luôn luôn mơ ước một một Giáo hội gồm những con người thanh sạch, năng nổ, có động lực đức tin tốt đẹp? Phải chăng chúng ta chẳng hề phê phán các thực hành của “tôn giáo bình dân”? Còn Thiên Chúa, Người mời hết mọi người. Hổ lốn! Không phân biệt! Thậm chí còn có vẻ ưu đãi những kẻ nghèo hèn, những kẻ bên lề, những kẻ khốn khổ, những kẻ bị bỏ mặc, những kẻ ở ngoại biên, như Đức Thánh Cha Phanxicô hay đề cập.
2. Chuẩn bị đầy đủ để gặp gỡ Người.
“Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì”. Đến đây xảy ra mấy chi tiết xem ra lạ lùng. Đã mời người ta đột xuất ngoài đường và bất phân biệt như vậy, sao lại đòi phải có y phục lễ cưới. Rồi tại sao lại chỉ có một chứ không phải nhiều kẻ thiếu lễ thức này? Thật ra vấn đề cũng đơn giản nếu ta hiểu được phong tục thời đó, một phong tục mà ở đây Mt không nêu rõ vì nghĩ rằng độc giả (tức thời) của ông đều biết (Mt là người ít khi giải thích các phong tục, khác với Mc: so sánh Mt 15,2 với Mc 7,2-3). Đó là ngày xưa, trong xã hội Tây Á (ngày nay cũng có nhiều nơi làm như vậy), vua chúa hay những người giàu, khi mời khách dự tiệc, bao giờ cũng để sẵn nhiều bộ lễ phục giống nhau ngoài cửa phòng tiệc cho thực khách mặc trước khi vào ăn. Thói quen này nhắm hai mục đích: một là để chủ nhân khoe sự giàu có của mình, hai là để tạo bình đẳng giữa các thực khách (chẳng còn mấy ai biết địa vị xã hội của người ngồi cạnh), ngõ hầu họ dễ trò chuyện với nhau, cởi mở với nhau, khiến bữa tiệc thêm thân tình vui vẻ. Con người duy nhất không thèm mặc áo cưới ông vua để sẵn chứng tỏ một sự vô ý thức lẫn khinh thường, vì thế y đáng bị trục xuất. Dẫu có lòng nhân ái mời gọi mọi người xấu tốt, Thiên Chúa không vì thế mà tỏ ra nhu nhược dễ dãi, để con người muốn làm gì thì làm. Tình yêu của Người là một tình yêu nâng cao tâm hồn chúng ta. Biểu tượng y phục thường gặp trong Kinh Thánh, muốn nói ơn cứu rỗi không bao giờ là tự động cả: phải biết “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng cách biến đổi mình… bằng cách “mặc lấy con người mới” (x. Gl 3,27; Ep 4,24; Cl 3,10).
Hình phạt nặng nề cũng như các từ khuôn đúc (x. Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) mô tả cuộc phán xét… nêu bật tính cách biểu tượng hiển nhiên của “y phục lễ cưới” này. Được vô phòng tiệc cưới một lần rồi thôi đâu có đủ! Việc đã đón nhận Lời Thiên Chúa không khiến ta mãi mãi an toàn! Nhưng ai đã chiếm chỗ các khách mời đầu tiên, cả họ nữa, cũng chẳng được đặc miễn: nếu tỏ ra bất xứng với bàn tiệc của Thiên Chúa, họ sẽ bị loại ra ngoài.
Lời cảnh báo này nghiêm trọng biết mấy! Nó tố cáo thái độ tự mãn an toàn quá ư dễ dãi của chúng ta, nhắc nhớ trách nhiệm lớn lao của người tín hữu. Lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn vô biên, nhưng ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người được, không thể coi thường lời Người đòi hỏi chúng ta phải nên thánh. Hay nói cách khác, kho ân huệ Thiên Chúa thì sẵn đó, nhưng nhận được hay không và nhiều hay ít là tùy bàn tay, tấm lòng của chúng ta mở hay khép, rộng mở hay hé mở. Khi được linh mục “mời” lên rước lễ với câu: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa”, chúng ta không chỉ thưa “vâng” nhưng trước đó còn nói: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời…”. mục lục
Dụ ngôn Tiệc cưới của hoàng tử cho biết, Do thái là dân được Thiên Chúa ưu tiên ban hạnh phúc TN 28-A203
Dụ ngôn Tiệc cưới của hoàng tử cho biết, Do thái là dân được Thiên Chúa ưu tiên ban hạnh phúc Nước Trời. Nhưng họ không xứng lãnh nhận, vì họ chọn và xem trọng những giá trị thuộc về trần thế.
Thiên Chúa cũng ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, người được mời gọi vào hưởng hạnh phúc của Chúa phải có lối sống phù hợp, phải luôn nhìn lại bản thân để sửa đổi mình sao cho ngày càng trưởng thành và nên xứng hợp với đường lối thánh thiện mà Chúa đã vạch ra.
Vì thế, dựa trên giáo huấn mà Chúa, chúng ta cần suy xét lại bản thân về lối nghĩ, lối sống, lối hành xử, lối tương quan... của mình với Chúa, với anh chị em, với tình yêu của Chúa và tình yêu mà mình dành cho anh chị em.
Đừng như những người được mời trong dụ ngôn, họ "không đếm xỉa gì" đến ông chủ. Đó là sự phản bội tận cùng đối với lòng xót thương, sự quan tâm của ông chủ. Họ viện mọi lý do để chối từ ông: "Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán". Thậm chí, tệ hơn, tàn nhẫn và đáng lên án, có kẻ dám "bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".
Thiên Chúa yêu thương tìm ngỏ lời và kết ước với loài người, trong khi loài người lại phản bội lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng không phải loài người chung chung, mà là từng người trong chúng ta.
Chúa cho ta tham dự hạnh phúc Nước Trời (diễn tả bằng tiệc cưới hoàng tử), nhưng biết bao nhiêu lần, ta có đủ lý do để đẩy Chúa ra khỏi tâm trí, đời sống và mọi ảnh hưởng của mình. Vì thiếu lòng yêu Chúa, hoặc không thực tâm yêu Chúa như Chúa muốn, ta thờ ơ, lãnh đạm, coi thường, bất cần Chúa.
Ta nại vào công việc, hoàn cảnh, sức khỏe, đáp lễ với người thân quen, đối đầu với những sinh tồn, với đủ thứ ưu tư của đời sống... để không tham dự giây phúc cầu nguyện, bỏ tôn vinh Thánh Thể, bỏ sinh hoạt đạo đức, bỏ thánh lễ...
Ta cho rằng mình nhiều bận rộn, nhiều hiện diện khác để tránh tối đa việc gặp gỡ Chúa. Chúng ta chối từ tình yêu của Chúa vì mải mê trần thế, không mảy may đếm xỉa đến việc Chúa đợi chờ mình.
Người thất nghiệp cho rằng mình phải đôn đáo tìm việc làm, phải "làm thuê độ nhật" đầy vất vả, đầy nặng nề..., thế là tránh xa Chúa.
Người nghèo cho rằng mình còn thiếu thốn, phải lo kiếm tiền, lo bươn chải để bù đắp cho bản thân, cho gia đình, và mọi sinh hoạt, mọi chi phí của gia đình..., thế là không có giờ ở bên Chúa.
Người có việc làm cho rằng mình phải đi làm, phải "đầu tắt mặt tối", phải chịu đựng sự mệt mỏi, chịu đựng sự hao kiệt sức khỏe, thế là càng ngày càng xa Chúa, xa đến vời vợi.
Người giàu cho rằng mình phải lo toan đủ điều khi vừa đối nội, đối ngoại, vừa sắp xếp cuộc sống bản thân, gia đình, những tương quan xã hội, vừa phải cân bằng những tương quan, những giao hảo... để có được sự ổn trên thỏa dưới, đẹp nhất có thể, bằng lòng nhất có thể. Chỉ có Chúa là đứng ngoài mọi chương trình, mọi sắp xếp. Chúa đành xa vắng tự lúc nào.
Điều tệ hại là, dù ta nói mình thờ Chúa, nhưng ta lại có quá nhiều lý do, ai cũng có lý do, lý do nào cũng chính đáng, lý do nào cũng gắn chặt từng mắt xích, từng nút thắt đến nỗi lý do nào cũng trọng, cũng cần, cũng thiết yếu.
Dù nói mình thờ Chúa, nhưng thật mỉa mai, mỉa mai đến chua xót, đến cồn cào, đến quặn thắt, ta có thể bỏ Chúa, nhưng không thể bỏ bất cứ lý do nào!
Đối tượng nào cũng có thể gạt bỏ Thiên Chúa, nếu muốn. Lý do mà người có việc làm hay không có việc làm, người nghèo hay người giàu đưa ra chỉ là cái cớ biện minh cho việc loại trừ Thiên Chúa mà thôi.
Nhưng dù loài người có rắp tâm phản bội đến đâu, Thiên Chúa vẫn thủy chung trong tình yêu của mình. Chính trong tình yêu bền bỉ, Thiên Chúa sai Con Một đến trần gian, đưa loài người vào dự tiệc tình yêu hạnh phúc với Người.
Sách Thủ lãnh của Cựu ước ghi lại câu chuyện về ông Ghípon. Ông chính là tấm gương dạy chúng ta về việc biết ăn năn tội, sửa đổ đời sống.
Trước đây, khi ở nhà cha mình, ông là khách làng chơi nổi tiếng. Đến khi cha qua đời, bị anh em loại trừ, ông mới ăn năn tội, quay về với sự công chính.
Khi người Do thái bị quân Ammon đàn áp, ông Ghípon nhận lời lãnh đạo kháng chiến. Với đức tin mạnh, điều ông cầu xin duy nhất là "được Chúa ở cùng". Ông tin lời cầu nguyện được Chúa chấp nhận. Ông tin Chúa ở cùng ông và đoàn viễn chinh do ông lãnh đạo. Quả thật, Ghípon đã thắng trận.
Từ một người tội lỗi, Ghípon không chỉ trở thành người lãnh đạo, mà còn là người nêu gương cho dân vì lòng trung tín giữ lời Chúa, lề luật và giao ước của Chúa. Ông Ghípon hoàn toàn thay đổi để Chúa tùy nghi sử dụng ông cho vinh hiển và sáng danh Chúa như ý Chúa muốn.
Vậy, mỗi người trong chúng ta cần ghi nhớ: Con người biết nỗ lực trung thành với Chúa là con người có trái tim rung động trước tình yêu của Chúa, chứ không chai đá chỉ biết chạy theo những gian dối của trần gian.
Đó cũng là trái tim trong sạch vì được tẩy rửa trong lòng mến mà chính bản thân dành cho Thiên Chúa.
Con người nỗ lực trung thành với Chúa còn là người biết dẹp bỏ mọi tham lam, ô uế và gian tà để xứng đáng đón tiếp tình yêu của Chúa.
Con người nỗ lực trung thành với Chúa biết cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng và tẩy rửa linh hồn bằng thường xuyên lãnh bí tích giải tội, quyết tâm xa tránh những cám dỗ, những điều kiện dễ dẫn đến phạm tội.
Con người nỗ lực trung thành với Chúa biết chống lại tư tưởng gian tà, quyết thực hành lề luật của Chúa và của Hội Thánh, chứ không sống theo xác thịt với những đam mê dục vọng của nó.