Hôm nay chúng ta dược nghe dụ ngôn về 10 cô trinh nữ được giao công tác cầm đèn đi đón TN 32-A151
Hôm nay chúng ta dược nghe dụ ngôn về 10 cô trinh nữ được giao công tác cầm đèn đi đón chàng rể: đám cưới ở nước Do thái xưa thường được tổ chức vào ban đêm nên rất cần có những người cầm đèn vừa để cho cuộc rước cô dâu chú rể có ánh sáng và cũng để cho đám cưới được đẹp đẽ sang trọng. Người ta thường giao công tác này cho các cô trinh nữ. Nhưng dụ ngôn cho chúng ta biết trong 10 cô thì có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Con số 50/50 không có ý nói lên sự cân bằng giữa kẻ khôn người dại nhưng để nói lên điều thường xảy ra trong cuộc sống là tốt xấu đan xen nhau và chúng ta phải canh chừng để mình đừng vào số kẻ xấu, số người dại.
Nhiệm vụ của các cô trinh nữ này là cầm đèn đi đón chàng rể, nếu như đèn cháy sáng lúc chàng rể đến là đạt yêu cầu, trái lại nếu để đèn tắt, dầu khô là tắc trách không chu toàn nhiệm vụ của mình, cho nên các cô phải lo chuẩn bị dầu đèn của mình cho được đầy đủ. Chàng Rể trong dụ ngôn này chỉ Đức Kitô. Chàng Rể đến chậm chỉ việc Chúa Giêsu sẽ trở lại trần gian nhưng Chúa đến chậm tức là Chúa còn trì hoãn không đến tức thời như nhiều người mong đợi. Tuy nhiên như chàng rể đến chậm, thì sớm muộn gì Chúa sẽ đến và đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là nét đặc trưng của dụ ngôn qua việc chàng rể bất ngờ nửa đêm bất ngờ tới thì Chúa Giêsu sẽ trở lại bất ngờ trong ngày tận thế như vậy.
Vì chàng rể đến chậm nên cả các cô khôn ngoan và các cô khờ dại đều thiếp đi và ngủ cả. Dụ ngôn kết luận: “Vậy hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”. Như thế tỉnh thức không nhất thiết là phải kiêng không ngủ nhưng là làm việc mình phải làm đó là dự liệu dầu đèn cho đầy đủ: tức là giữ được đức tin sự bền đỗ như lời Chúa Giêsu: “Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ (Mt 10,22)”
Một chi tiết chúng ta cũng cần làm sáng tỏ: Đó là khi chàng rể tới, các cô khờ dại thấy đèn của mình tắt dầu khô, nên ngỏ lời với các cô khôn ngoan: “Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả” nhưng các khôn ngoan từ chối: “E không đủ cho chúng em và các chị , các chị ra hàng mà mua thì hơn”: điều này Chúa có ý nói ơn cứu độ và các việc lành không thể cho vay mượn được khi con người ra trước tòa Chúa phán xét và chúng ta phải lo tìm kiếm khi còn sống, tới lúc chết, ta sẽ phải trình diện trước mặt Chúa với tất cả những gì mình có, và nếu không đạt được thì chúng ta phải nghe những lời nghiêm khắc của Chúa: “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi”.
Dụ ngôn Chúa Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta một linh đạo của người tín hữu: đó là “linh đạo hôm nay”: Chúng ta hãy trân trọng giây phút hiện tại Chúa cho sống để làm những việc có ích cho mình và cho Nước Chúa ngay ngày hôm nay: đừng có chờ tới ngày mai; hãy làm việc lành ngay hôm nay, hãy chu toàn bổn phận hiện tại, hãy có tinh thần phục vụ Chúa và anh em ngay hôm nay và hãy sử dụng tốt thời giờ của cuộc sống hằng ngày để chuẩn bị cho ngày được sẽ được gặp Chúa: Chúa sẽ đến và đến bất ngờ: Giờ Chúa đến là giờ chết của mỗi người chúng ta và cũng là ngày tận thế: cả hai đều tiềm ẩn yếu tố bất ngờ như lời Chúa dạy: “Các con hãy tỉnh thức vì các con không biết ngày nào Chúa các con sẽ đến (Mt 24,42)”. Trong dụ ngôn nói những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại: cửa đóng lại khi các cô khờ dại tới gõ xin vào có ý nói giờ chết chấm dứt số phận của mỗi người không còn thời gian để mà van xin nữa.
Câu chuyện : Một ngày kia quỉ vương họp toàn thể các quỉ lại để bàn kế làm sao lôi kéo được nhiều người xuống hỏa ngục. Có một tên quỉ già giơ tay xin phát biểu ý kiến: “Thưa hội nghị, tôi nghĩ là nên rỉ tai mọi người là: Chẳng có Thiên Chúa, chẳng có thiên đàng, hỏa ngục gì đâu, cứ tha hồ phạm tội đi không có phải sợ sệt gì hết!”. Quỉ vương phê bình: “Ý kiến này xưa rồi và đa số người ta không có tin lời dụ dỗ đó đâu”. Một lúc sau có tên quỉ trẻ giơ tay xin phát biểu: “Thưa hội nghị, tôi nghĩ là nên rỉ tai mọi người là giờ chết còn lâu mới tới, nên cứ việc chơi bời phạm tội thoải mái đến khi bệnh nặng, ăn năn tội cũng còn kịp, không cần phải ăn sám hối trở lại sớm làm chi cho uổng thời gian”. Quỉ vương vỗ đùi khen hay và yêu cầu các quỉ hãy cám dỗ nguời ta theo kế này.
Vậy mỗi người chúng ta theo lời Chúa dạy hãy sống tốt giây phút hiện tại, làm sao giữ cho ngọn đèn đức tin của ta luôn luôn có đủ dầu để cháy sáng hầu khi tới giờ, Chúa sẽ đến đón nhận ta vào dự Tiệc Cưới Con Chiên trong Nước Thiên Chúa. Amen.
Chủ đề: Hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng “Những cô khôn ngoan vừa mang đèn vừa mang dầu theo” (Mt 25,3)
* Sợi chỉ đỏ:
Ý tưởng “tỉnh thức” được khai triển trong cả 3 bài đọc hôm nay: - Vào thế kỷ, một tác giả TN 32-A152
Ý tưởng “tỉnh thức” được khai triển trong cả 3 bài đọc hôm nay:
- Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã Bài đọc I: Tỉnh thức để gặp được sự khôn ngoan.
- Đáp ca: “Ôi lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, tôi thao thức chạy kiếm Ngài”.
- Tin Mừng: Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể, kết thúc bằng lời khuyên: “Vậy hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”.
- Bài đọc II: Tỉnh thức để đón Chúa quang lâm.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Nhịp sống đều đều dễ ru ngủ chúng ta trong thói quen, thụ động và an phận... quên mất nhiều vấn đề quan trọng thiết yếu. Bởi vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta phải luôn tỉnh thức.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và xin Ngài giúp chúng ta sống theo Lời dạy của Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta mải mê làm ăn sinh sống, đến nỗi không nghĩ đến cuộc sống mai sau. - Chúng ta mải mê lo cho bản thân mình, đến nỗi không nghĩ gì đến tha nhân. - Chúng ta miệt mài tìm hưởng thụ sung sướng mà không nghĩ đến vấn đề tội phúc.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Kn 6,13-17)
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi.
Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm.
2. Ðáp ca (Tv 62)
Thánh vịnh này bày tỏ tâm tình của một người đang sống kiếp lưu đày, tâm tình thao thức kiếm tìm Chúa.
Sự thao thức kiếm tìm được mô tả như người khát mong gặp được nước, người đói mong được của ăn, như người nằm trên giường mà không ngủ được vì mãi nhớ kẻ mình thương.
3. Tin Mừng (Mt 25,1-13
Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể nói đến sự tỉnh thức để đón Chúa khi Ngài quang lâm.
“Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Dụ ngôn này cũng có một chi tiết rất ý nghĩa: 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại mượn dầu. Ðây không phải là thái độ ích kỷ không giúp nhau. Chi tiết này muốn nói rằng trước số phận đời đời, không ai có thể giúp ai được. Vậy mỗi người phải tự lo bằng một cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
4. Bài đọc II (1 Tx 4,12-17)
Tín hữu Thêxalônikê rất mong tới ngày tận thế, vì khi đó họ sẽ được gặp lại Chúa. Nhưng mong mãi mà chưa tới tận thế, họ sợ rằng mình sẽ chết trước ngày đó và không gặp được Chúa.
Thánh Phaolô trấn an họ: Khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi.
Tâm trạng này của tín hữu Thêxalônikê rất lạ đối với chúng ta. Nhưng nó cho thấy điều này là: Chỉ khi nào người ta luôn tỉnh thức sẵn sàng thì người ta mới có thể không sợ mà còn nôn nóng chờ ngày tận thế (hay ngày chết của mình).
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn
Ðối với những việc còn mơ hồ, nghĩa là không chắc sẽ đến hay không, thì không chuẩn bị là việc có thể thông cảm được. Nhưng đối với những việc mình biết chắc chắn sẽ đến, thì chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn.
Trong tương lai, bạn sẽ lên chức giám đốc, sẽ lãnh đạo một công ty lớn chăng? Chưa biết. Vì thế, chưa cần phải nghĩ ngợi lo lắng nhiều. Tới chừng đó sẽ tính.
Hai tháng nữa là đám cưới của con trai bạn. Nếu bạn cẩn thận và khôn ngoan thì chắc hẳn bạn sẽ lo ngay từ hôm nay.
Trong tương lai, có thể xa mà cũng có thể gần, bạn sẽ chết chăng? Chắc chắn rồi. Vậy sao bạn không lo trước? Ðành rằng không ai biết ngày chết của mình, như Ðức Giêsu đã nói rõ “Các con không biết ngày nào, giờ nào”, nhưng chuẩn bị sẵn sàng trước luôn là điều tốt hơn. Vả lại biến cố này vô cùng hệ trọng, hệ trọng hơn cả việc chuẩn bị cho một tiệc cưới.
2. Không nghĩ tới không phải là cách trốn tránh được
Chết là một chuyện rất buồn và rất đáng sợ. Vì thế nhiều người không muốn nghĩ tới nó. Họ giống như con đà điểu sợ người thợ săn nên giấu đầu trong cát.
Nhưng việc con đà điểu chúi đầu vào cát không hề ngăn cản được bước chân người thợ săn càng lúc càng tiến gần tới nó. Cũng thế, việc không nghĩ tới cái chết không giúp người ta trốn được tử thần.
Tốt hơn cả là hãy tỉnh thức chuẩn bị sẵn sàng, như gương các tín hữu Thêxalônikê. Càng chuẩn bị thì ta càng bình an khi cái chết đến. Chuẩn bị hoàn toàn chu đáo thì ta còn có thể vui mừng nôn nóng mong cho ngày chết mau đến nữa.
3. Chờ đợi trong tình yêu
Ðời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. (“Mỗi ngày một tin vui”)
4. Mảnh suy tư
- Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận. (ÐHV 25)
- Bổn phận là giấy vào Nước Trời: “Ai thực hiện ý Cha Ta trên trời, sẽ vào Nước Trời”. (ÐHV 27)
- Nếu ai cũng nên thánh trong bổn phận, thì tâm hồn mới, gia đình mới, thế giới mới. (ÐHV 20)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến,
Chúa có thể đến vào lúc chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Do đó tỉnh thức là việc mỗi Kitô hữu cần phải làm thường xuyên cả cuộc đời mình. Tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh không ngừng nhắc nhở các Kitô hữu/ cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Ðức Kitô./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh/ biết cố gắng sống thánh thiện/ để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này.
2. Ðứng trước cái chết/ mọi người đều sợ hãi/ nhất là đối với những ai chưa chuẩn bị để gặp gỡ Chúa./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu hiểu rằng/ phải làm thật nhiều việc lành phúc đức/ để khi Chúa gọi ra trình diện trước tòa Chúa/ sẽ không bị Chúa khiển trách bất cứ điều gì/ trái lại còn được vui hưởng hạnh phúc trên trời.
3. Tỉnh thức trong bổn phận đối với Chúa và tha nhân/ là những điều căn bản trong đời sống đức tin của những ai tin Chúa./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu/ luôn tỉnh thức như Chúa đã dạy.
4. Dầu cần cho đèn thiêng liêng chính là lời cầu nguyện/ đồng thời cũng là những việc bác ái yêu thương/ như giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta/ biết cầu nguyện không ngừng/ và quảng đại giúp đỡ anh chị em nghèo đói đang sống chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, cuộc sống thường ngày có quá nhiều thử thách gian nan, khiến chúng con dễ sao lãng bổn phận tỉnh thức. Vậy xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con luôn tỉnh thức giữa biết bao phiền toái của cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy nói với Cha chúng ta ở trên trời rằng chúng ta yêu mến Cha và lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng để về nhà Cha khi Cha đến rước chúng ta.
- Sau kinh Lạy Cha: “... và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc...”
VII. GIẢI TÁN
Hôm nay chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu dạy: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào, giờ nào”. Thánh lễ đã xong, nhưng lời Chúa vẫn còn đó. Chúng ta hãy luôn tỉnh thức theo lời Chúa dạy.
LẠY CHÚA, XIN DẠY CHÚNG CON ĐẾM THÁNG NGÀY MÌNH SỐNG
Chủ đề: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90, 12).
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Khôn ngoan là báu vật giá trị nhất, hơn tất cả những gì lòng người dám ước mơ. Tất cả đều ra TN 32-A153
Khôn ngoan là báu vật giá trị nhất, hơn tất cả những gì lòng người dám ước mơ. Tất cả đều ra công tìm kiếm, cho dù có phải trả giá đắt. Đức khôn ngoan không bao giờ để người mến yêu tìm kiếm phải về tay không, tuy mức độ sở hữu vẫn luôn khác biệt.
Kinh nghiệm cuộc sống làm chứng sự khôn ngoan ban tặng mỗi người theo một phẩm trật: lớn nhỏ, hơn kém, tùy thái độ mở lòng đón nhận.
Kinh Thánh còn mạc khải, có sự khôn ngoan đến từ “Trời”, cũng có sự khôn ngoan sinh ra từ “Đất”; sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối nghịch với sự khôn ngoan thế gian. Cái mà thế gian coi là khôn, Thiên Chúa lại cho là “dại dột”; cái thế gian cho là dại dột, Chúa lại chứng tỏ là khôn ngoan thật.
Mầu nhiệm thập giá là sự khôn ngoan của Trời, nhằm cứu cả thế gian, nhưng lại đối nghịch với sự khôn ngoan loài người.
Con người giải quyết mọi vấn đề dựa trên danh lợi thú, còn Đức Giê-su giảng hòa thế gian với nhau và với Thiên Chúa bằng thập giá.
Kết quả: cách của con người làm vấn đề vốn đã phức tạp, lại phức tạp hơn; cách của Thiên Chúa tạo nên một “Trời mới/Đất mới”, nơi công lý và tình thương ngự trị.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách thức tìm kiếm và thực hành đức khôn ngoan để đạt tới sự trọn lành Tin Mừng.
Bài đọc I, trích sách Khôn Ngoan, là những sưu tầm lời dạy của các hiền nhân Israel, ca tụng sự hoàn hảo, thông suốt của đức khôn ngoan, được đặt ngang hàng với Đấng Tối Cao. Bởi lẽ, đức khôn ngoan biết được ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong chính quyết định cội nguồn: sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa mọi loài thọ sinh.
Điểm đặc biệt xuyên suốt lời dạy khôn ngoan là sự ban tặng. Khôn ngoan trao ban hết những thiện hảo cho người ra công tìm kiếm học hỏi. Ai mến chuộng, khao khát, tìm kiếm, thì đức khôn ngoan sẽ tỏ mình ra và cho họ sở hữu nó như một gia sản riêng.
Salomon được coi là vị vua khôn ngoan nhất lịch sử Israel. Được chọn lên kế vị vua cha là David, Salomon đã đi Ga-ba-on dâng của lễ cho Thiên Chúa. Ông không cầu xin cho được sống lâu, giầu sang, chiến thắng quân thù, nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết cách lãnh đạo dân Chúa.
Điều Salomon xin đẹp lòng Chúa, nên ông được Chúa ban sự khôn ngoan, đến nỗi trước và sau ông không có ai sánh bằng, ngay cả nữ hoàng Sabat cũng phải tìm đến nghe lời khôn ngoan của vua.
Noi gương Salomon, chúng ta cũng hằng cầu nguyện: xin cho chúng con được biết việc phải làm và khi làm xin Chúa giúp đỡ cho hết mọi việc chúng con làm từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Đó là cầu xin sự khôn ngoan của trời, chúng ta sẽ nhận lãnh chính cội nguồn sự khôn ngoan “Ngôi Lời hằng hữu”, Đấng khôn ngoan vượt trội Salomon bội phần.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng hôm nay, là chính Đấng Khôn Ngoan của Thiên Chúa, đã “Nhập thể làm Người” ở giữa chúng ta. Ai tin và đón nhận Người được kể vào sổ của những trinh nữ khôn ngoan, được quyền làm con Thiên Chúa, vì đã bởi Thiên Chúa mà sinh ra.
Dụ ngôn những cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể được chia thành hai nhóm khác nhau: “khờ dại” và “khôn ngoan”. Nhóm khờ dại mang đèn, không dầu dự phòng; nhóm khôn ngoan mang đèn đầy dầu.
Kết cục trái ngược: những trinh nữ khôn ngoan theo chàng rể vào dự tiệc cưới, các cô kia bị loại khỏi phòng tiệc vì đèn của họ không cháy sáng, vì đã cạn dầu.
Bài học rút ra từ dụ ngôn này là gì?
Là thái độ tỉnh thức và sẵn sàng của người môn đệ. Đèn là con người, đèn cũng là đức tin được ban trong ngày chịu phép rửa tội và còn nhiều hồng ân khác nữa. Tất cả đều không đảm bảo cho phép tham dự bàn tiệc Nước Trời, trừ phi kẻ được mời phải có áo cưới và dầu nhân đức.
Dầu nhân đức trước tiên phải kể, đó là đức tin nồng nàn, đức cậy trung kiên và đức mến tha thiết. Dầu nhân đức là đời sống kitô hữu hoàn hảo, luôn biết lắng nghe và thực thi ý Chúa, luôn biết chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình cách vui tươi hạnh phúc. Dầu nhân đức còn là tình liên đới hiệp thông, biết chạnh lòng xót thương, biết sẻ chia với lòng quảng đại và luôn biết chia vui cùng lòng chân thật.
Thực thi những điều đó, chúng ta làm phải, ánh sáng trong ta trở nên rực rỡ và khi cầu nguyện sẽ được nhận lời. Đó chính là những người khôn ngoan, luôn biết kiếm tìm đức khôn ngoan và Chúa sẽ cho họ được thỏa chí toại lòng.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, cắt nghĩa hạnh phúc gặp Chúa trong nhãn quan của ngày chung thẩm: ngày chúng ta vượt qua cuộc sống này mà về với Chúa.
Đức Kitô sẽ gọi và đón chúng ta về với Ngài. Tất cả sẽ đi đón Chúa Kitô trên các tầng mây, nghĩa là sự phục sinh từ trong cõi chết.
Tuy nhiên, việc được ở cùng Chúa luôn mãi tùy thuộc thái độ của mỗi người sống niềm hy vọng phục sinh trong cuộc sống hiện tại.
Thưa anh chị em,
Đối với Phao-lô, sống niềm hy vọng phục sinh là phải cố gắng nên giống Chúa, phải đạt tới tầm vóc con người hoàn hảo trong Đức Kitô, mới có đủ yếu tố vui mừng và hy vọng đi đón Chúa trên các tầng mây và được ở cùng Chúa luôn mãi.
Điều Phao-lô khuyên nhủ giáo đoàn sống niềm hy vọng trông chờ Chúa đến, cũng như phương thức tìm kiếm sự khôn ngoan đích thực. Được Chúa Giê-su là được nguồn sung mãn của đức khôn ngoan, đảm bảo cho sự kết hợp nhiệm mầu giữ Chúa Kitô và Hội Thánh, là Mẹ và cũng là chính mỗi người chúng ta.
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho chúng ta trong hành trình tìm kiếm đức khôn ngoan, để như những trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị đèn dầu sẵng sàng theo Giê-su vào dự tiệc cưới Nước Trời. Amen!
Thiên Chúa ‘làm người’ để gặp gỡ ‘con người’ theo những cách thức ‘rất người’; cuộc gặp gỡ TN 32-A154
Thiên Chúa ‘làm người’ để gặp gỡ ‘con người’ theo những cách thức ‘rất người’; cuộc gặp gỡ này không xa xôi, chóng vánh hay hời hợt nhưng là một cuộc gặp gỡ thân mật suốt cả cuộc đời của mỗi người và của từng người. Mỗi người chúng ta được tạo dựng, được gọi, không chỉ để sống nhưng còn để gặp gỡ, để nhập đoàn với con Thiên Chúa đi vào tiệc cưới Nước Trời, tiệc thiên đàng. Đây cũng là một trong những chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, ‘Được gọi để gặp gỡ’.
Thiên Chúa tổ chức tiệc cưới; Con Thiên Chúa tự giới thiệu mình như một ‘Chàng Rể’, Ngài là lý do của niềm vui, lý do của tiệc mừng; mười trinh nữ phù dâu, đại diện cho cô dâu, chia sẻ niềm vui của nàng. Nhiệm vụ duy nhất của họ là chào đón chàng rể và cùng chàng rể đi vào dự tiệc; không ai có thể thay thế vị trí của họ. Việc họ nghiêm túc thực hiện vai trò của mình thế nào, sẽ quyết định hạnh phúc đời đời của họ thể ấy. Hội Thánh là hiền thê của Chúa Kitô; như các trinh nữ phù dâu, mỗi người chúng ta sẽ không hiểu được một cách sâu sắc tình yêu của Chúa Kitô đối với Hội Thánh, nếu Ngài và Hội Thánh đã không trở nên niềm vui cho mỗi người vốn ‘được gọi để gặp gỡ’ và không ai có thể thay thế vị trí của ai.
Cuộc sống là một sự chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ‘Chàng Rể’ và thời gian là một trong những quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa ban cho mỗi người; một khi thời gian mất, nó không bao giờ được phục hồi. Vì ‘được gọi để gặp gỡ’, nên mỗi người nhận ra rằng, khoảnh khắc quan trọng nhất của cuộc đời là khoảnh khắc ‘Chàng Rể’ đến và thực chất, đó cũng là khoảnh khắc chúng ta từ giã cuộc đời. Phút cuối ấy, một cách nào đó, sẽ là kết quả và bản tóm tắt của tất cả giờ ngày chúng ta đã sống cho đến thời điểm đó. Mỗi giây phút là một sự chuẩn bị để gặp ‘Chàng Rể’ Giêsu, Đấng yêu thương chúng ta, hiến mạng sống để đổi lấy sự sống đời đời cho chúng ta; thế nhưng, chúng ta sẽ không tài nào xoay xở ứng biến khi thời khắc Ngài đến nếu mỗi người thiếu khôn ngoan như năm trinh nữ khờ dại mang đèn mà lại không mang theo dầu. Mỗi hành động của đức tin, mỗi hành vi của lòng trông cậy và mỗi hành xử của lòng yêu mến để làm theo ý muốn của Thiên Chúa, sẽ thiết lập một mối quan hệ của chúng ta với ‘Chàng Rể’. Cuộc sống của chúng ta phải là một cuộc tìm kiếm Giêsu, học biết Giêsu và yêu mến Giêsu; trái tim chúng ta sẽ sẵn sàng, cởi mở để canh cánh chờ đợi Ngài như năm trinh nữ khôn ngoan vừa mang đèn lại vừa mang đầy dầu. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy, chính Con Thiên Chúa mỗi ngày đích thân đến tìm gặp con người, ban Lời Ngài, ban Mình Ngài để bất cứ ai muốn gặp gỡ Ngài bất cứ giờ nào cũng có thể gặp được; nhờ đó, vào buổi gặp gỡ cuối cùng của mỗi người, không ai nhìn ai là người xa lạ. Được như thế, bấy giờ, mỗi người sẽ lắng nghe những lời yêu thương của ‘Chủ Tiệc’, “Hỡi tôi tớ tốt lành và khôn ngoan, hãy vào mà hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
Cả một đời theo Chúa, cả một đời tìm kiếm Ngài, một cuộc đời ‘được gọi để gặp gỡ’ ‘Chàng Rể’ Giêsu… thế mà rốt cuộc, thử hỏi ai trong chúng ta muốn mình nói những lời tuyệt vọng như năm cô trinh nữ khờ dại đã nói, “Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi”; và còn gì bi thảm hơn khi mỗi người phải nghe những lời từ bên trong vọng ra rằng, “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi là ai”. ‘Chàng Rể’ chắc chắn biết cô dâu, người mà chàng đã trao cả cuộc đời mình; và ‘Chàng Rể’ biết cả bạn của cô dâu, những người đã hiểu được tình yêu của chàng và nàng, những người đã yêu mến họ. Vì vậy, ‘Chàng Rể’ không thể không biết chúng ta trừ khi chúng ta ‘hết yêu’ hai người hoặc đã cạn tình cạn nghĩa như đèn cạn dầu với ‘Chàng Rể’ và Hiền Thê của Đức Lang Quân. Vì thế, sự chuẩn bị trong khi chờ đợi ‘Chàng Rể’ là cả một cuộc đời chờ đợi trong tin yêu, hy vọng và biết ơn; dầu trong đèn, dầu mang theo đầy bình chính là lòng bác ái của đời người Kitô hữu.
Dầu là biểu tượng của lòng bác ái, Kitô hữu ‘được gọi để gặp gỡ’ chuẩn bị gặp Chúa bất cứ lúc nào, bất cứ ngày nào vì người ấy luôn luôn có lòng bác ái trong đời sống mình. Bác ái không chỉ là niềm đam mê hay một cảm xúc tức thời; bác ái là một cam kết triệt để yêu thương; bác ái là một nếp sống, một cách sống luôn luôn yêu thương người khác bằng trái tim của Chúa Giêsu; bác ái là thói quen hàng ngày mà người Kitô hữu hình thành bằng cách chọn đặt tha nhân trên mình, cống hiến cho tha nhân tất cả những gì Chúa Giêsu đòi hỏi; đó có thể là một hy sinh nhỏ hoặc một hành động anh hùng của thứ tha; nhưng dù trường hợp nào xảy ra, Kitô hữu cũng cần có lòng bác ái thường xuyên để sẵn sàng đón Chúa, gặp Chúa; và đó là khôn ngoan như bài đọc sách Khôn Ngoan nói đến, “Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan, sẽ gặp được nó”; đó cũng là khao khát Thiên Chúa như Thánh Vịnh đáp ca hôm nay thổ lộ, “Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa”. Một trợ sĩ nọ sống êm đềm hạnh phúc nhiều năm trong một tu viện cổ kính. Hằng ngày, thầy làm những việc lặt vặt, phục vụ cộng đoàn với lòng yêu mến. Hôm ấy, khi đang rửa chén, một thiên thần hiện đến nói với thầy, “Chúa sai tôi đến nói với thầy rằng, thời gian của thầy đã mãn; hôm nay, thầy được gọi vào vương quốc vĩnh cửu của Chúa”. Trợ sĩ tươi cười trả lời, “Ôi, thú vị và sung sướng thay, Chúa nhớ đến tôi. Nhưng, thiên thần ơi, ngài thấy đó, còn rất nhiều chén đĩa chưa rửa; tôi thật có lỗi với anh em nếu bỏ ngang công việc mà biến mất. Có lẽ Chúa cũng vui lòng cho phép tôi bước vào cõi đời đời trễ hơn một chút khi đã rửa xong mớ chén đĩa này”.
Thiên thần nhìn vào mắt thầy, đầy cảm thông, “Thầy có lý, tôi sẽ trình với Chúa”; rồi thiên thần biến mất, thầy trợ sĩ tiếp tục rửa chén. Bữa khác, thầy đang làm vườn, thiên thần lại hiện đến. Thầy huơ huơ lưỡi cuốc về phía đám cỏ và nói với thiên thần, “Cỏ mọc um tùm thế này, chắc Chúa có thể chờ tôi thêm chút nữa”; thiên thần lại mỉm cười và biến đi. Một sáng nọ, thầy chăm sóc bệnh nhân, thiên thần lại xuất hiện. Thầy nói, “Ngài thấy đó, còn rất nhiều bệnh nhân chờ tôi”; thiên thần lại mỉm cười và biến đi. Tối hôm ấy, về nhà, thầy trợ sĩ ngả lưng trên chiếc giường đơn sơ của mình, mệt nhọc sau một ngày làm việc cần cù, thầy nhớ lại những lần xin khất hẹn và bất chợt, thấy mình kiệt sức. Thầy quỳ xuống bên giường và cầu nguyện, “Lạy Chúa, giờ đây xin sai thiên thần Chúa đến với con. Con xin hứa, lần này con sẽ không khất nữa”. Tức thì, thiên thần hiện ra đứng kề bên. Thầy nói, “Lần này, nếu ngài đưa tôi đi, tôi hoàn toàn sẵn sàng để đi với ngài vào vương quốc của Chúa”. Thiên thần nhìn sâu vào đáy mắt thầy trợ sĩ, mỉm cười rồi nói, “Thế bấy lâu nay, thầy nghĩ là thầy đang ở đâu?”.
Anh Chị em,
Thầy trợ sĩ bấy lâu hưởng nếm thiên đàng dưới thế mà thầy không hay biết. Một nhà thần học đã viết, “Thiên đàng không phải là nơi có Chúa, nhưng nơi nào có Chúa, nơi đó là thiên đàng”. Như vậy, sống với Chúa, yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân trong bổn phận của đấng bậc mình là sống một đời sống ân sủng, là sống cuộc sống thiên đàng như các trinh nữ khôn ngoan với đèn sáng trưng, với dầu đầy bình; đó là những con người ‘được gọi để gặp gỡ’, gặp Thiên Chúa, gặp con người; cũng là những con người sẵn sàng đón Chúa đến trong đời mình bất cứ lúc nào.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin biến trái tim con thành nơi tích hợp mọi sự nhân lành của trái tim Chúa; cho con biết trân quý giây phút hiện tại, yêu mến bổn phận Chúa trao và luôn luôn nhớ, con ‘được gọi để gặp gỡ’, gặp Chúa và gặp anh em; và như thế, con biết mình đang ở đâu, thật hạnh phúc cho con!”, Amen.
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1] được đặt trong TN 32-A155
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1] được đặt trong ngữ cảnh là các chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của TM I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Dụ ngôn thứ ba về tỉnh thức này được liên kết với hai dụ ngôn trước bằng các từ móc: “khôn ngoan” (phronimos: x. 24,45), “đến chậm” (chronizô: x. 24,48), “sẵn sàng” ([h]etoimos: x. 24,44), và “chủ/Chúa” (kyrios: x. 24,42.45-50).
Câu truyện có đề tài là một cuộc rước dâu, nhưng ta thấy các nhân vật chỉ có hai: mười trinh nữ và chú rể, giống như trong bài nói về ông chủ và tên đầy tớ (24,45-51), cũng như bài nói về người tôi tớ trung thành và người tôi tớ bất trung và ông chủ: chỉ có các tôi tớ và ông chủ (25,14-30). Trong cả ba bài, có một khoảng thời gian chia cách giữa các cuộc gặp gỡ, khoảng thời gian này được nêu bật do sự chậm trễ cố ý (24,48; 25,5) hoặc sự vắng mặt lâu dài (25,19) của ông chủ hoặc của người đóng vai trò đó.
Đọc từ chương 23 đến đây, chúng ta có thể thấy Mt xác định vị trí của các Kitô hữu ở ngay giữa thời gian Israel đã từ khước Đấng Mêsia và tiếp tục từ khước các sứ giả của Người (23,34) và thời gian chờ đợi Con Người ngự đến (24,4b-14).
2.- Bố cục
Khi đọc bản văn, chúng ta có thể nghĩ đến một vở kịch với hành động ngắn và nhanh, với những thay đổi thường xuyên và với một điểm mở nút xảy ra như hậu quả của một lỗi lúc đầu có vẻ chỉ là một lỗi nhỏ. Bản văn có thể chia làm năm “xen” (cảnh):
1) Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (25,1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ); 2) Cảnh 2: Hồi xen giữa(25,5): sự chậm trễ và giấc ngủ; 3) Cảnh 3: Điểm nút (25,6-9): lời loan báo và sự xung đột; 4) Cảnh 4: Điểm mở nút (25,10): những cô được vào và những cô không được vào; 5) Cảnh 5: Hồi cuối cùng (25,11-12): Sự từ chối;
* Kết luận (25,13).
Trạng từ “bấy giờ” cũng như c. 13 thuộc về “khung bên ngoài”.
3.- Vài điểm chú giải
- Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ (1): Câu này không có nghĩa là Nước Trời giống như các trinh nữ, nhưng có nghĩa là “bấy giờ” (tote), khi Nước Trời tỏ hiện ra lần cuối, thì số phận của loài người cũng giống như số phận của các trinh nữ. “Bấy giờ” ở đây chính là “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người” (25,31).
- trinh nữ (1): Đây là những thiếu nữ chưa lập gia đình, là bạn của cô dâu.
- dại … khôn (2): Phronimos, “khôn”, có nghĩa là một người có trái tim (phrên), nghĩa là thông minh. Ở Mt 7,24, người khôn là người biết “xây nhà trên đá”; ở 24,45, người khôn là người biết sẵn sàng theo lệnh của chủ. Còn môros, “dại”, là rỗng, phàm tục, ngu đần, thiếu phán đoán.
- đèn … dầu (3): Dầu và đèn không có ý nghĩa biểu tượng nào, mà chỉ là những chi tiết rất tự nhiên của truyện. Đèn ở đây có thể là những cái bình nhỏ bằng đất nung hoặc là những cây đuốc (một khúc gỗ rỗng, bên trong có một cái bấc nhúng vào dầu). Đây chỉ là những phụ tùng để soi sáng đoàn rước cho thêm phần trang trọng.
- vì chú rể đến chậm (5): Chú rể có thể đến chậm do phải điều đình vào phút chót về những điều khoản của khế ước hôn nhân và những món quà phải biếu cho cha mẹ cô dâu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ)
Ở đầu đề (c. 1), tác giả giới thiệu các nhân vật: chú rể, các thiếu nữ sẽ tháp tùng chàng trong cuộc rước; các cô phải có mặt lúc chàng đến, với đèn cháy sáng. Ở đây hẳn là Đức Giêsu đã lấy cảm hứng từ tập tục cưới hỏi Do Thái rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của Người. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha cô rồi cả hai được một đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn hoặc đuốc mà tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở trong bài này, tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn mười cô phù dâu. Chính họ chiếm chỗ của cô dâu và chờ đợi không phải là một chú rể, nhưng chú rể (của họ). Trong truyện này, vai cô dâu không cần thiết, bởi vì tác giả chỉ muốn khai thác bài học từ vai các cô phù dâu mang đèn mà thôi.
Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều xảy ra như nhau cho cả mười cô trinh nữ. Nhưng các cô khác nhau ở điểm là có năm cô “khờ” (môrai), do không biết tiên liệu, các cô này mang đèn mà không có dầu dự trữ, và năm cô “khôn” (phronimoi), do biết tiên liệu, đã mang thêm dầu dự trữ. Độc giả nhớ lại là ở 7,24-27, cũng có nói đến những dung mạo tích cực và tiêu cực để họ có thể ướm cho mình.
* Cảnh 2: Hồi xen giữa (5): sự chậm trễ và giấc ngủ
Vì chàng rể đến chậm nên các cô đều ngủ cả. Trên sân khấu, chỉ có các cô mà thôi. Hầu như không có một hành động nào, hành động bị “treo” lại, không tiến tới. Sự chậm trễ của chú rễ đã khóa diễn tiến của vở kịch lại. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Chúng ta không biết các cô ngủ ở đâu, nhưng dựa theo tập tục cưới hỏi Do Thái, ta co thể nghĩ là tại nhà cô dâu. Như thế, những cô không có dầu đã không biết dùng thì giờ còn có để giải quyết thiếu sót. Sự chậm trễ của chàng rể lẽ ra phải là cơ may để họ chuẩn bị tốt hơn, nhưng lại không phải như thế.
* Cảnh 3: Điểm nút (6-9): lời loan báo và sự xung đột
Đến đây, phần giới thiệu đã xong, chúng ta đi vào cảnh trung tâm của vở kịch. Bất chợt mọi sự chuyển động. Một lời loan báo, một tiếng “hô” vang lên trong đêm đã thức tỉnh dòng chuyển của vở kịch. Tiếng hô bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu truyện đầy kịch tính. Thông thường, chàng rể đến giữa tiếng đàn ca, nên người ta có thể nghe được từ đàng xa. Đàng này, tiếng hô đột ngột kéo bật các thiếu nữ ra khỏi giấc ngủ. Hành động đến dồn dập, mười trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảnh khắc của sự thật đã đến. Chú rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn đã được thắp, các cô sẽ đi vào tiệc cưới với chàng. Nhưng sự thiếu sót lúc đầu bây giờ trở nên hệ trọng: số dầu dự trữ không đủ cho cả mười chiếc đèn. Tình thế lưỡng nan thì thật đau đớn: chỉ người nào có đèn cháy sáng mới được theo đoàn rước và dự tiệc cưới; các cô khôn không thể nào hy sinh dầu nếu không muốn phải ở ngoài. Do đó câu trả lời duy nhất các cô có thể nói với các bạn là “không”. Bởi vì hoàn cảnh đang và cứ có tính xung đột, nên mẩu đối thoại cũng có tính xung đột. Các cô khôn không đồng ý, không phải là vì ích kỷ, thiếu thông cảm; câu trả lời của các cô diễn tả một tình trạng bất khả kháng thật sự; chính sự thiếu tiên liệu của các cô khờ đưa tới câu trả lời “không” của các bạn. Khi trả lời “không”, các cô khôn chỉ nêu bật một hoàn cảnh là hậu quả của thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Lời xin của các cô khờ đúng là cách giải quyết nhanh nhất cho bế tắc các cô đã rơi vào; nhưng câu trả lời của các cô khôn cũng là giải pháp duy nhất có cô có sẵn trong tầm tay.
* Cảnh 4: Điểm mở nút (10): những cô được vào và những cô không được vào
Các biến cố ào ào kéo đến. Các cô khờ theo gợi ý của các bạn, đi mua dầu. Trong khi đó, động cơ của bài tường thuật được thực hiện: chàng rể đến và đi vào lễ mừng đám cưới. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng, mới được đi theo chú rể. Cửa được đóng lại. Ba hành động đi theo nhau: chú rể đến, các cô khôn đi vào và cửa đóng lại. Ta không thấy gợi ra một chọn lựa nào cả. Cửa đưa vào tiệc cưới không được mở ra nữa. Các cô khờ không còn có thể đi vào được.
* Cảnh 5: Hồi cuối cùng (11-12): sự từ chối
Sau đó, các cô khờ đến; các cô xin được vào trong phòng tiệc. Đây cũng là một đối thoại mang tính xung đột. Phải chăng các cô nại tới sự quen biết đã từng có với chú rể? Ta không thấy các cô viện tới lý do nào cả. Các cô có nói tới lý do đi mua dầu không? Ta cũng không biết. Các cô có nhận ra sai lầm của mình chăng? Ta cũng chẳng hay. Giọng các cô gọi cửa có nét bi thương; dường như các cô nại tới lòng từ bi thương xót của chú rể–chủ nhà. Nhưng chú rể từ khước; chàng nói rằng chàng không quen biết các cô. Hành động của vở kịch đưa tới một tai họa.
Lời các trinh nữ gọi: “Thưa Ngài! Thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!” khiến chúng ta nhớ đến một đoạn trong Bài Giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (x. Mt 7,21-23). Trong dụ ngôn Tiệc cưới, chuyện được mời vẫn không tránh cho người kia khỏi bị trục xuất vì không có áo cưới (22,12-13); ở đây cũng thế, chuyện được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được vào phòng tiệc khi đến trễ. Bây giờ chú rể lại trở thành người gác cửa cứng rắn, khẳng định là không biết họ là ai. Do chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, các cô không còn thuộc phái đoàn của chàng rể nữa. Đi đến đây, dụ ngôn đã biến thành ẩn dụ. Chàng rể (nymphios) trở thành Đức Kitô; lời thưa gửi với chú rể cũng như lời chú rể trả lời cho thấy như thế (kyrios). Đây chính là Đức Kitô đang tuyên bố phán quyết cánh chung. Lời từ chối có tính dứt khoát, chứ không viện lý do nào cả. Chúng ta có thể giả thiết rằng lỗi của các cô khờ là đã không chu toàn nhiệm vụ tháp tùng đoàn rước, tức là vắng mặt vào lúc phải có mặt. Như thế, được vào/không được vào tiệc cưới là phần thưởng/hình phạt mà chú rể–chủ nhân dành cho người đã sẵn sàng/không sẵn sàng mà hoàn tất công tác được yêu cầu.
* Kết luận (13)
Câu kết “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (c. 13) tái khẳng định tầm mức của dụ ngôn. Có thể nói câu này đã xuất hiện ở 24,42. Trong dụ ngôn Mười trinh nữ, câu này có vẻ không hợp, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu truyện không trực tiếp dạy về canh thức, nhưng dạy về việc chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng khi Chúa đến. Thật ra, sự canh thức ở đây chủ yếu hệ tại quyết định của các môn đệ là bền bỉ thi hành cụ thể những gì họ đã được kêu gọi thi hành.
+ Kết luận
Chắc chắn theo bản văn của Mt ở đây, chú rể tượng trưng cho Đức Kitô (cũng như ông chủ trong dụ ngôn Các yến bạc và vị vua trong dụ ngôn Phán xét cuối cùng). Mười trinh nữ là cộng đoàn Kitô hữu đang chờ đợi ngày Quang lâm của chủ mình. Cuộc Quang lâm sẽ chậm xảy ra, dù các Kitô hữu đã tưởng là gần kề. Dù được chờ đợi, Đức Kitô sẽ đến vào lúc không ai ngờ (Mt 24,44.50; x. Lc 12,40.46; Mc 13,33-37; 1 Tx 5,2); chẳng một phỏng đoán nào về ngày giờ Quang lâm có thể được coi là có cơ sở cả.
Thuộc về Nước Thiên Chúa không phải là chuyện tự nhiên. Điều này hàm ý có sự phát triển không đương nhiên là đồng đều với mỗi người. Để được như thế, mỗi người cần phải sống phù hợp, cương quyết, có chọn lựa. Với dụ ngôn Mười trinh nữ, Đức Giêsu cho thấy hành động khôn ngoan, biết tiên liệu và hợp lý có trước có sau là chuyện cần thiết đối với mỗi người. Người ta có thể đạt tới Nước Thiên Chúa nhờ sự khôn ngoan hoặc mất Nước Thiên Chúa do sự khờ dại.
Nếu trên trái đất này, cuộc sống là một cuộc chờ đợi, thì trong thế giới bên kia, cuộc sống là một bữa tiệc cưới, thậm chí là một lễ cưới. Để cho các hình ảnh được phi vật chất hóa, Đức Giêsu nói đến các trinh nữ thay vì các cô dâu tầm thường. Đời sống trên trời là một cuộc sống hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng trinh khiết (x. 19,12).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một nửa số thiếu nữ là khờ. Đây là một lời cảnh giác của tác giả: không phải cứ được gọi gia nhập vào cộng đoàn Kitô hữu là người ta đã có được mọi phẩm chất cần thiết. Các Kitô hữu phải biết đánh giá chính xác thực tại trong đó mình đang sống và có một ý chí cương quyết hành động cho phù hợp. Nếu không chịu áp dụng các giáo huấn của Đức Giêsu vào đời sống mình, mà tiên liệu mọi sự, có thể sẽ quá muộn. Đến khi ấy, có viện dẫn mọi lý do, mọi duyên cớ ra mà thanh minh, đều vô ích.
2. Kết thúc câu truyện hoàn toàn không phù hợp với một đám cưới. Trong một dịp cưới hỏi, hẳn là người ta chẳng để ý là đèn của một vài cô phù dâu bị tắt, với lại nếu thấy thì hẳn cũng chẳng than phiền gì. Hẳn là người ta cũng không từ chối mở cửa cho một vài người đến chậm. Còn chú rể, vì là nhân vật chính, phải lo mừng lễ, hẳn không còn tâm trí đâu mà nói những lời như bài Tin Mừng ghi lại. Bài Tin Mừng chúng ta đọc mang màu sắc cuộc Phán xét chung cuộc.
3. Phán quyết sau này trên cuộc đời ta không phải là chuyện may mắn hay rủi ro vô phương tiên liệu. Không phải là Thiên Chúa có một bản án chuẩn bị trước cho ta, nhưng chính ta thực hiện bản án đó bằng lối sống của mình. Do sự chểnh mảng, các trinh nữ khờ dại đã tự loại mình khỏi niềm vui. Phán quyết chỉ phê chuẩn lối sống này mà thôi. 4. Chúng ta không thể so đo tính toán hơn thiệt trong thời gian chờ đợi Chúa Kitô đến. Bởi vì không biết ngày giờ, chúng ta chỉ còn một việc là luôn luôn sẵn sàng, là vâng phục cho tới cùng và cứ càng lúc càng tha thiết hơn. Khi đó dầu sẽ không bao giờ thiếu trong đèn của chúng ta.
5. Mục tiêu của bài dụ ngôn này là cung cấp một giáo huấn cho Hội Thánh. Độc giả được biết rằng không phải tất cả những người được gọi đến với lễ cưới của chú rể sẽ thật sự được tham dự vào. Đến ngày phán xét cuối cùng, sẽ có một cuộc chia cắt xuyên qua khối các tín hữu để tách những người được chọn với những người được gọi (x. 22,14). Quan trọng không phải là được gọi nhưng là được thử thách, không phải là đèn nhưng là dầu, không phải là tư cách thành viên Hội Thánh nhưng là những việc làm.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật hôm nay là cuộc gặp gỡ của mỗi người với Chúa. Không TN 32-A156
ai trong chúng ta biết được ngày giờ Chúa gọi mình ra khỏi cuộc đời này, vậy, điều khôn ngoan nhất là phải luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Kn 6: 12-16
Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, trong đó tác giả minh họa Đức Khôn Ngoan qua những phẩm tính thần linh. Đức Khôn Ngoan là đối tượng mà con người ra sức tìm kiếm và khao khát được gặp gỡ.
1Tx 4: 13-18
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh Phao-lô khẳng định rằng những tín hữu đã qua đời sẽ được sống lại để rồi cùng với những người đang sống gặp gỡ Thiên Chúa vào ngày Chúa Ki-tô quang lâm.
Mt 25: 1-13
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể”, trong đó chỉ năm cô khôn ngoan chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ này mới có thể vào dự tiệc cưới với chàng rể.
BÀI ĐỌC I (Kn 6: 12-16)
Sách Khôn Ngoan, sách cuối cùng của Cựu Ước, được viết không bằng tiếng Híp-ri, nhưng bằng Hy-ngữ, bởi một tác giả nặc danh, vào những năm 80-50 tCn. Tác giả, một người Do thái gắn bó với niềm tin của cha ông, sống ở thành phố A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, một trong những môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, một nền văn hóa đề cao sự khôn ngoan và sản sinh nhiều trường phái triết học.
Lý do tác giả viết tác phẩm này chính vì Do thái giáo có nguy cơ bị nền văn hóa Hy-lạp rực rỡ đồng hóa. Tác giả muốn chứng minh rằng sự khôn ngoan của Kinh Thánh trổi vượt hơn sự khôn ngoan của ngoại giáo. Trên bình diện văn chương, tác giả định vị mình trong truyền thống Minh Triết Do thái, nhất là sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca. Trên bình diện thần học, sứ điệp của tác giả về Đức Khôn Ngoan đã dọn đường cho khoa thần học về Ngôi Lời và khoa thần học về ân sủng.
Bản văn hôm nay, trích từ phần thứ hai của tác phẩm (ch. 6-10), ca ngợi Đức Khôn Ngoan. Trong phần trích dẫn này, tác giả nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan cách sinh động, linh hoạt và thi vị qua bốn phẩm tính thần linh của Đức Khôn Ngoan:
1. Đức Khôn Ngoan hiện thân Thiên Chúa (6: 12)
Trong câu đầu tiên của đoạn trích hôm nay, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua hình ảnh ánh sáng vĩnh cửu: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ” (6: 12a). Trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, Ngôi Lời Thiên Chúa cũng được minh họa qua hình ảnh như vậy:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
Với ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc chiêm ngưỡng mình:
“Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng” (6: 12b).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc gặp gỡ mình:
“Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp” (6: 12c).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1: 18).
2. Đức Khôn Ngoan đi bước trước (6: 13-14)
Với ai khao khát Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan tự tìm đến và tỏ mình ra cho người ấy:
“Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (6: 13).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đã hiện diện ở đó rồi, “ngồi ngay trước cửa nhà”. Một hình ảnh gợi lên những sáng kiến thần linh, như trực giác về điều mà các nhà thần học sau này gọi: “ân sủng dự phòng”:
“Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (6: 14).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan cũng mô tả Ngôi Lời đi bước trước như vậy:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
3. Đức Khôn Ngoan giúp hoàn thiện sự hiểu biết (6: 15)
Đức Khôn Ngoan xứng đáng cho con người để hết tâm trí suy niệm, vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, ban hạnh phúc cho con người, trút bỏ mọi lo âu phiền muộn khỏi con người:
“Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu” (6: 15).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
4. Đức Khôn Ngoan tỏ mình ra cho những ai yêu mến mình (6: 16) Mục đích của Đức Khôn Ngoan là tìm kiếm những ai yêu mến mình để dẫn họ đến với mình:
“Vì những ai xứng đáng với Đức Ngôn Khoan, thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (6: 16).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan mô tả Ngôi Lời cũng tương tự như vậy:
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1: 11-12).
Nói tóm lại, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua những phẩm tính thần linh như trên là hình bóng của “Ngôi Lời nhập thể”. Chính Đức Giê-su cất tiếng kêu mời con người đến với Ngài, gặp gỡ Ngài, đón nhận Lời Ngài, nội tâm hóa Lời Ngài để Lời Ngài trở thành nguồn mạch phun trào sự sống đời đời trong lòng mình. Với ai yêu mến Ngài, Ngài sẽ tỏ mình ra cho người ấy biết chân tính thần linh của Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).
BÀI ĐỌC II (1Tx 4: 13-18)
Những người Ki-tô hữu tiên khởi tin rằng ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến gần. Niềm tin này dựa vào lời quả quyết của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến” (Mt 24: 34). Ngoài ra, vào thời đó, nhiều thế hệ Do thái chờ đợi ngày cánh chung mà các sách khải huyền Do thái đã tiên báo. Ấy vậy, trong số các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có những người Ki-tô hữu gốc Do thái; họ dễ dàng chia sẻ bầu khí nôn nóng chờ đợi này. Chúng ta có thể cảm nhận tâm trạng đầy xao xuyến của những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca khi họ nêu ra câu hỏi về số phận của những người giữa họ đã qua đời trước ngày Chúa quang lâm: làm thế nào những người này có thể được Ngài dẫn vào Nước Trời? Vậy số phận của họ sẽ như thế nào?
Thánh Phao-lô trấn an họ khi nhắc cho họ nhớ rằng niềm tin của họ đặt nền tảng trên cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu dựa vào niềm xác tín rằng được nên một với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ được chung phần vào cùng một vận mệnh với Ngài.
1. Không ai được mất niềm hy vọng
“Anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”: Chắc hẳn nhiều lương dân được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng vào cuộc sống bên kia cái chết, như linh hồn bất tử của người Hy-lạp hay những đạo lý của những tôn giáo thần bí. Nhưng những người đó có thật sự xác tín như vậy hay không? Họ có dự kiến về sự phục sinh của thân xác hay không? Ngoài ra còn có biết bao người không chờ đợi bất cứ điều gì hay nghi nan ngờ vực.
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này”: Chắc chắn ở đây thánh Phao-lô không nhắm đến một lời chính xác nào đó của Chúa Giê-su, đúng hơn đây là giáo huấn Tin Mừng, dựa trên đó thánh Phao-lô công bố niềm hy vọng lớn lao xuất phát từ Đức Ki-tô.
2. Một niềm xác tín không lay chuyển
Kiểu nói: “Chúng ta, những người đang sống” được hiểu là bao gồm cả thánh Phao-lô lẫn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, những người mà thánh nhân đang ngỏ lời với họ. Quả thật, xem ra thánh Phao-lô hy vọng là mình vẫn còn sống để dự phần vào biến cố vinh quang này, vì thánh nhân nói thêm: “Những người còn lại vào ngày quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu”. Nhưng kiểu nói này cũng có thể được hiểu một cách tổng quát, vì xa hơn một chút, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không biết một chút gì về ngày quang lâm (bản văn này sẽ được trích dẫn vào Chúa Nhật tới).
Dù thế nào, “Lời Chúa” đem lại cho chúng ta một niềm xác tín: những người đang sống vào ngày Chúa quang lâm sẽ không được hưởng bất kỳ ưu tiên nào; đúng hơn những người đã qua đời sẽ sống lại trước tiên để rồi cùng với những người vẫn đang sống sẽ gặp lại Đức Ki-tô và hiệp nhất với Ngài mãi mãi.
Khi đọc đoạn thư này, đừng quá chú trọng đến cảnh tượng mô tả cuộc Quang Lâm ở đây. Thánh Phao-lô mượn những hình ảnh từ các sách khải huyền Do thái. Điều cốt yếu là thực tại mà các hình ảnh này muốn thông đạt.
TIN MỪNG (Mt 25: 1-13)
Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể” được dàn dựng như một vỡ kịch bắt đầu với phần Mở và chấm dứt với phần Kết, ở giữa được phân chia thành ba cảnh theo hình thức đối xứng nghịch đảo:
– Mở (25: 1-4) Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngũ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5). Cành 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9). Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12).
– Kết (25: 13) – Mở (25: 1-4):
Phần Mở giới thiệu các nhân vật. Các cô được chọn làm phù dâu để rước cô dâu về nhà chú rể. Các cô phải có mặt lúc chàng rể đến, với đèn cháy sáng trong tay. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm, vì thế các cô phải tự mình tiên liệu những điều cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ đã được giao phó cho mình. Chắc hẳn Chúa Giê-su đã được gợi hứng từ phong tục tập quán rước dâu của người Do thái, rồi sửa đổi đôi điều để diễn tả giáo huấn của riêng Ngài. Theo tập tục lễ cưới của người Do thái, chàng rể cùng với đoàn rước đến đón cô dâu tại nhà cha mẹ của cô, rồi long trọng rước cô dâu về nhà mình, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Ở đây, Đức Giê-su không đề cập đến cô dâu, vì Ngài có chủ ý khai thác bài học từ các cô phù dâu mà thôi.
Ngay trong phần “Mở” này, Đức Giê-su cung cấp cho thính giả của Ngài chìa khóa để hiểu câu chuyện. Trong số mười cô trinh nữ, có năm cô được gọi là “khờ dại” vì không biết tiên liệu: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, và năm cô được gọi là “khôn ngoan” vì biết tiên liệu: không chỉ mang đèn lại còn mang thêm dầu dự trữ. Cách sống của các cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, còn cách sống của các cô khôn ngoan là biết “tiên liệu phòng xa”.
– Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngủ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5):
Khi màn sân khấu được kéo lên, khung cảnh vắng lặng, không một tiếng động, các cô trinh nữ đều ngủ thiếp cả. Sự kiện các cô ngủ thiếp đi thực ra không có gì sai quấy cả, lý do đơn giản là vì chàng rể đến trễ hơn dự kiến. Cả mười cô đều ngủ, ấy vậy, năm cô khôn ngoan được xem là có thái độ tỉnh thức. Tình trạng tỉnh thức được hiểu ở đây là sau khi đã chuẩn bị mọi việc cách chu đáo, dự phòng những điều bất ngờ có thể xảy ra, các cô có quyền nghỉ ngơi.
– Cảnh 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9)
Đây là cảnh trung tâm của vở diễn. Có tiếng la vang lên giữa đêm vắng: “Chàng rể kia rồi, ra đón đi!”. Khung cảnh vắng lặng bổng nhiên chuyển động dồn dập đem lại kịch tính cho vỡ diễn. Thông thường chàng rể đến giữa tiếng đàn ca xướng hát nên người ta có thể nghe được từ đằng xa. Đàng này, lời loan báo bất ngờ vang lên đánh thức mười cô trinh nữ. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảng khắc mà các cô mong chờ đã đến. Một chút nữa thôi, khi đèn được thắp sáng, các cô sẽ được tháp tùng chàng rể vào tiệc cưới.
Khi thấy đèn mình hết dầu, các cô khờ dại năn nỉ năm cô khôn ngoan chia sẻ dầu với mình. Thật kỳ lạ, năm cô khôn ngoan, mỗi cô có cả một bình đầy ắp dầu, lại từ chối chia sớt dầu với các bạn mình. Có phải các cô khôn ngoan quá ích kỷ không? Đây không phải là chuyện dầu đèn bình thường. Ngọn đèn mà các cô phải giữ cho cháy sáng để đón chàng rể là ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến. Vì thế, để nuôi dưỡng ngọn đèn đặc biệt này, cần đến dầu đặc biệt, dầu của đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin, đức cậy và đức mến là một hành vi tự do và riêng tư của mỗi người. Vì thế, không ai có thể chia sẻ đức tin, đức cậy, đức mến của mình với người khác. Khi từ chối, các cô khôn ngoan chỉ nêu lên hậu quả do thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình.
– Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12)
Trong khi năm cô khờ dại đi mua dầu thì chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan với đèn cháy sáng trong tay tháp tùng chàng rể vào dự tiệc cưới. Cửa phòng tiệc đóng lại.
Sau đó, các cô khờ dại cũng đến khẩn khoan van xin: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với”, nhưng chàng rể đáp lại: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Cuộc đối thoại ngắn này cho thấy sự thiếu sót lúc đầu tưởng rằng đây chỉ là một lỗi sơ xuất vô hại: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, nhưng bây giờ trở nên một hậu quả nghiêm trọng khôn lường: không được vào dự tiệc cưới với chàng rể. Bài học được rút ra: đừng ai nghĩ rằng hễ đã được chọn vào đoàn rước là đảm bảo cho mình được tham dự tiệc cưới. Các cô khờ dại, vì sự chểnh mảng không dự phòng dầu để giữ cho đèn cháy sáng, đã bị loại ra khỏi tiệc cưới.
Đến đây dụ ngôn trở thành ẩn dụ: “chàng rể” là Đức Ki-tô; “mười cô trinh nữ” là hình ảnh Giáo Hội đang chờ đợi ngày Quang Lâm của Chúa mình; “thời gian chậm trễ” diễn tả ngày Quang Lâm bị trì hoãn lâu dài, dù các Ki-tô hữu cứ tưởng là gần kề; tham dự tiệc cưới là được dự phần vào hạnh phúc Nước Trời; “cửa đóng lại” diễn tả sự khai trừ dứt khoát, nhắc chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Giê-su: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác’” (Mt 7: 22-23).
– Kết (25: 13):
Câu 13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” được dùng để kết thúc dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” xem ra không hợp lý cho lắm, bởi vì cả mười cô đều ngủ. Vả lại câu chuyện không trực tiếp dạy về “tỉnh thức”, nhưng về việc chuẩn bị dầu đèn trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ khi nào Ngài đến. Thật ra, tư thế tỉnh thức ở đây hệ tại ở nơi quyết tâm của người môn đệ là trung tín chu toàn những gì mình đã được giao phó.
Trình thuật này phải chăng chỉ là một dụ ngôn thuần túy? Hay là một dụ ngôn với nhiều nét ẩn TN 32-A157
1. Trình thuật này phải chăng chỉ là một dụ ngôn thuần túy? Hay là một dụ ngôn với nhiều nét ẩn dụ (các nét nào và chúng chỉ cái gì)? hay là một ẩn dụ (nếu thế thì dầu, đèn, con số mười trinh nữ chỉ cái gì)?
2. Các hình dung từ khờ – khôn có xuất hiện nơi nào trong Tin Mừng Mt nữa không?
3. Lời răn bảo hãy tỉnh thức (c.13) có mâu thuẫn với sự kiện mười trinh nữ đều ngủ thiếp đi, ngay cả năm cô khôn ngoan không?
1. Thay vì nói mười trinh nữ, có lẽ nên nói là mười cô thiếu nữ, bạn gái của cô dâu, “các cô phù dâu”. Chữ Hy lạp được dùng quả thực có nghĩa là trinh nữ, nhưng ở đây nó chỉ nhằm diễn tả một thiếu nữ chưa chồng, chứ chẳng phải là một nữ tu đã tận hiến, như ta có thể hiểu. Dụ ngôn cảm hứng từ các hôn lễ tại Palestine thời Chúa Giêsu. Các dữ kiện lịch sử ta có về đề tài này rất muộn màng và khác biệt nhau. Mt không cho ta biết nhiều về phong tục đó và chỉ nêu lên những gì ông cần để xây dựng dụ ngôn của ông: một đám rước hôn lễ Đám rước đi đón chàng rể đang đến tìm cô dâu tại nhà cha mẹ cô ta, hay đang dẫn nàng về nhà riêng mình: ở đây không xác định công việc xảy ra lúc nào trong nghi lễ. Thật lạ lùng khi người ta chẳng hề nhắc đến cô dâu (ít là trong các thủ bản đáng tin cậy nhất); có thể cắt nghĩa là vì, trong đám rước, chỉ chàng rể mới đóng vai trò quan trọng xét theo ý nghĩa giáo thuyết của trình thuật. Một vài nhà chú giải đã nêu lên tính cách giả tạo và không có vẻ thực của nhiều nét trong dụ ngôn: đám rước khởi hành quá khuya, việc tiếp đón chàng rể với đèn đuốc, việc chàng rể nửa đêm mới đến và việc chờ đợi lâu giờ làm các thiếu nữ thiếp đi. Thực ra, như nhiều tác giả khác nhận xét (vd Jeremias), hình như các chi tiết đó phù hợp với các tập tục được xác nhận trong văn chương giáo sĩ và dân ca Palestine. Đặc biệt, việc chàng rể đến chậm có thể hiểu được như là do cuộc mặc cả vào phút chót về các điều kiện trong khế ước hôn nhân và về các sính lễ phải dâng cho nhà gái.
Dù các nét đó có vay mượn từ một đám cưới thực sự hay không, thì hình như chắc là, theo sự soạn thảo của Mt, chàng rể tượng trưng cho Chúa Kitô, y như ông chủ trong dụ ngôn nén vàng và vị vua trong cuộc phán xét cùng tận. Quả thế, trong văn bản dụ ngôn tiệc cưới của ông, Mt so sánh Nước Trời với vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử (22, 2), một ám chỉ rõ ràng đến Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong lúc nơi Lc (14, 16- 24), chỉ là vấn đề người kia dọn một tiệc cưới lớn đãi khách. Mười thiếu nữ tượng trưng cho cộng đoàn Kitô hữu chờ ngày Chủ quang lâm (hình ảnh biểu trưng này phải hiểu như vậy, chiếu theo văn mạch chung của tất cả phần, ch. 24-25). Trái lại, không thể gán một nghĩa biểu trưng đặc biệt nào cho dầu, đèn (vì trong trình thuật, các chi tiết đó hoàn toàn có vẻ thực và tự nhiên; hơn nữa, chúng chẳng gợi lên một âm hưởng Cựu ước nào đặc biệt). Đèn được nói ở đây là những đèn bằng đất nung hay những cây đuốc bằng gỗ rỗng có tim nhúng trong dầu. Thành thử đó chỉ là những dụng cụ cần thiết để chiếu sáng đám rước chàng rể cho đàng hoàng long trọng.
2. Dịch đúng hai hình dung từ diễn tả thái độ của hai nhóm thiếu nữ: môros và phronimos không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên người ta vẫn biết đức tính hay khuyết điểm của họ hệ tại chỗ nào: các cô này thì nghĩ đến việc đem dầu dự trữ, các cô nọ thì không. Lối dịch khá phổ biến: trinh nữ khôn ngoan và trinh nữ điên dại xem ra quá mập mờ. Chữ “điên” lại không đúng hơn vì có một âm hưởng bệnh lý; tốt hơn nên nói là năm cô trong bọn thì khờ khạo, chẳng biết phòng xa. Nơi Mt, cùng một tĩnh từ moros ấy chỉ con người xây nhà mình trên cát, nghĩa là chỉ kẻ nghe lời Chúa Giêsu mà không đem ra thực hành. Sự chểnh mảng và bất tiên liệu của y đã làm nhà y phải sụp đổ (7, 26-27). Rồi, trong lời châm biếm Biệt phái, Chúa Giêsu cũng đã gọi họ là khờ dại (môroi) và mù quáng (23, 17) vì do thói phân tích tỉ mỉ, họ đã đi đến chỗ đảo lộn bậc thang giá trị đích thực. Thành thử hình dung từ xấu nghĩa được dùng khi nói về năm thiếu nữ đầu tiên bao hàm một sự suy biến hay thiếu phán đoán nặng nề, một thứ vô ý thức đương nhiên ảnh hưởng đến thái độ sống và gây nên nhiều hậu quả tai hại.
Nhưng năm cô kia thì khôn ngoan. Mt cũng dùng lại các tĩnh từ đã sử dụng để nói về người xây nhà trên đá, kẻ biết nghe và đem lời Đức Giêsu ra thực hành (7, 24). Chữ này cũng gặp thấy trong lời Chúa Giêsu khuyên nhủ môn đồ: “Hãy ở khôn (phronimoi) như con rắn và chân thực như chim câu” (10, 16) và ở chỗ nói về người tôi tớ trung trực cùng khôn ngoan (phronimos) chủ đã đặt trên gia nhân ông để phân phát lương thực cho phải thời (24, 45). Thành thử ta không được coi đây như là một sự khôn khéo tránh thoát chuyện khó khăn hay lợi dụng thời cơ tốt, nhưng là một sự khôn ngoan đích thực trong cuộc sống, một óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại kèm theo một ý chí cương quyết hành động. Trong dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu cũng minh định cùng một sự kiện và cùng một yêu sách khi Người nói: “Thuộc hạng gieo vào đất tốt là kẻ nghe Lời và hiểu, kẻ ấy sinh hoa kết quả và làm ra có hạt thì một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (13, 23). Việc thấu hiểu mà Chúa Giêsu nói còn đi xa hơn sự tán đồng của lý trí, nó giả thiết một sự thấm nhập hoàn toàn Lời Chúa và tạo nên trong ta một kết quả hữu hiệu.
Hãy lưu ý: Lúc khởi hành, hai hạng thiếu nữ đều thuộc về đám rước đi đón hôn phu, cái đám rước tượng trưng cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu; thế mà năm cô trong họ, nghĩa là phân nửa, là những kẻ dại khờ, điều này làm nên cho các Kitô hữu một lời cảnh giác nghiêm trọng: không phải hễ được gọi gia nhập cộng đoàn là đương nhiên có các đức tính cần thiết.
3. Cho dù việc chàng rể đến chậm có thể giải thích dựa vào dân ca Palestine, vẫn rõ ràng là ở đây sự kiện đó muốn nói tới việc Chúa Kitô hoãn lại ngày quang lâm mà các Kitô hữu đầu tiên tưởng là sắp đến. Chờ đợi lâu dài, phải chăng sẽ kéo theo một sự buông lơi lòng nhiệt thành và tỉnh thức? Đúng! Và mối nguy là có người sẽ lợi dụng sự trì hoãn như vậy: đó là thái độ bị tố cáo nơi tên đầy tớ gian ác nghĩ thầm trong lòng: “Chủ ta về trễ”, và tra tay đánh đập bạn bè cùng ăn uống với lũ say sưa.
Theo Mt, thời gian này sẽ kéo dài lâu lắm. Thật là ý nghĩa khi trong dụ ngôn nén vàng của ông, người chủ đã ủy thác của cải cho các đầy tớ mình cũng chỉ trở về sau một thời gian đằng đẵng (25, 19 ; điểm này không có trong dụ ngôn song song về các yến bạc của Lc 19, 15). Các môn đồ chân chính phải biết lợi dụng sự trì hoãn của ngày Quang lâm để sinh lời các nén vàng đã nhận được và nhờ đấy minh chứng lòng trung thành của mình đối với Chúa Kitô. Nhưng vì hình như chủ sẽ trở về trễ nên phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng đón tiếp ông bằng cách ra sức hoạt động cho Nước Trời hơn là cứ ngồi canh gác chẳng hạn như ông chủ nhà trong Mt 24, 43-44; Lc 12, 39-40. Sự tỉnh thức không còn giới hạn ở việc đợi chờ cách thụ động hoặc chỉ có tính cách “phòng vệ” nữa, mà đòi buộc một sự vâng lời cụ thể thánh ý Chúa Kitô.
Theo nhãn giới đó, thì giấc ngủ của mười thiếu nữ chẳng có gì đáng trách. Cả năm cô khôn ngoan cũng ngủ, và ngủ một cách ngon lành vì đã tiên liệu và dự trữ đầy đủ dầu đèn. Cũng vậy, người khôn xây nhà trên đá có thể bình thản đứng nhìn mưa đổ, gió ùa vào nhà mình, vì đã làm mọi thứ cần thiết để ngôi nhà được vững chắc (7, 24- 25).
4. Việc chàng rể đến giữa khuya rõ ràng phản ảnh niềm tin vào việc Chúa Kitô sẽ trở lại vào lúc không ai ngờ (Mt 24, 44; Lc 12, 40). Niềm tin này, ta gặp nhiều lần trong Tân ước (Mt 24, 50; Lc 12, 46 ; Mc 13, 33- 37 ; Lc 12, 20 ; 1Tx 5, 2). Dù đã được chờ đợi, Chúa Kitô vẫn luôn đến cách bất chợt, thình lình trong dụ ngôn ta đang nghiên cứu, giờ chàng rể đến tuyệt đối không thể biết trước được; sự chậm trễ quá độ của ông đã khiến mọi phỏng đoán ra vô ích, và giấc ngủ xâm chiếm cả đoàn kiệu đã làm cho đoạn kết càng thêm tàn nhẫn và không thể nào tránh. Tiếng kêu thình lình xé toang màn đêm khiến cảnh trở nên bi thảm. Vì thường thường, lúc chàng rể đến là có tiếng đàn hát xướng ca của đám rước báo hiệu. Người ta nghe ông đến từ xa và ông dần dần tiến lại, chẳng có một chút bất ngờ nào. Ở đây, tiếng kêu đánh thức đột ngột các cô đang ngủ mê mệt, nên không phải là lời báo tin mà là một dấu hiệu cho thấy đã trễ rồi, chẳng còn làm gì được nữa (24,45). Không còn có phép nghi ngờ, không còn một giây phút nào được mất: chàng rể đã đứng đó, các cô phải lập tức sửa soạn đèn đuốc sẵn sàng (c.7). Chỉ một phút là đủ cho các cô khôn ngoan. Sự bất ngờ không làm họ khó chịu: dù ngủ, họ cũng đã sẵn sàng đón chủ đến; được trữ đầy dầu, đèn họ vẫn sáng luôn luôn (xem thêm Lc 12, 35-38). Óc tiên liệu của họ giờ đây mang lại kết quả.
5. Các cô khờ trái lại thật vô cùng lúng túng: đèn họ tắt rụi (c.8). Họ phải trả giá thói chểnh mảng của mình, thế nhưng họ vẫn còn tìm lối thoát bằng cách lợi dụng tính tiên liệu của những kẻ khác: “Xin cho chúng em chút dầu của các chị”. Các cô khôn trả lời: “E không đủ cho cả chúng em và các chị đâu; chi bằng các chị hãy ra hàng buôn mà mua lấy” (c. 9).
Không được xem các cô này thiếu lòng tốt đối với bè bạn. Câu trả lời của họ có nghĩa là, vào phút chót, chẳng còn phương thế nào để bù trừ cho những thiếu sót của mình bằng cách chạy đến những kẻ khác và cố gắng lợi dụng cái họ có. Rõ ràng là quá trễ. Vào giờ Phán xét, con người sẽ không còn có thể giúp nhau dù những việc lặt vặt. Các toan tính hay các biện pháp tạm thời nghĩ ra bấy giờ để che đậy sự thất bại của mình hóa nên vô ích, các lời bào chữa bịa ra không thay đổi gì hoàn cảnh, những quyết định tốt đẹp nhất cũng hoàn toàn và mãi mãi vô giá trị. Và đây các cô ngu ngốc phải chạy đi mua dầu. Dĩ nhiên, chàng rể đến vào thính lúc đó. “Những kẻ sẵn sàng thì theo vị lang quân vào tiệc, và cửa đóng lại” (c.10).
6. Nơi đoạn kết, trình thuật hoàn toàn rời xa một cảnh đám cưới ở Palestine. Trong bầu khí lễ lạc vui vẻ ấy, có lẽ người ta sẽ không để ý đèn của một vài cô tùy tùng bị tắt rụi và cũng chẳng khiển trách họ gì. Cửa cũng không đóng đẻ những kẻ đến trễ bất cứ lúc nào cũng có thể vào được. Và vì bận tiệc tùng vui vẻ, chàng rể cũng sẽ chẳng phật ý về những chuyện tầm phào như vậy đâu. Nhưng trong, ở dụ ngôn chúng ta mà câu kết luận rõ ràng gợi lên cuộc phán xét sau cùng, sự việc không phải thế.
Lời nài nỉ của các cô: “Lạy Ngài, lạy Ngài, xin mở cho chúng tôi với”, phải được liên kết với một đoạn của Diễn từ trên núi trong đó Chúa Giêsu bảo: không phải mọi kẻ nói với Ta: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là sẽ vào được Nước Trời. Trong ngày ấy, nhiều kẻ sẽ nói với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa, há chúng tôi đã không nhân danh Ngài mà nói tiên tri, nhân danh Ngài mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Ta sẽ tuyên bố với chúng rằng: Ta không hề biết các ngươi; hãy xéo đi xa Ta, hết thảy phường tác quái” (Mt 7, 21-23). Thành thử lời nài nỉ của năm cô đến trễ hoàn toàn vô vọng. Trong dụ ngôn tiệc cưới lời mời vào tham dự không bảo đảm khỏi bị đuổi ra ngoài vì chẳng mặc áo cưới (22, 12-13); ở đây cũng vậy, việc được chọn đi vào đoàn rước chàng rể không bảo đảm cho các cô khờ quên dự trữ dầu quyền được vào phòng tiệc.
Biến thành người giữ cửa sắt đá, chàng rể quả quyết mình không biết các cô và chẳng muốn liên hệ gì với họ. Sự chểnh mảng của họ đã khiến họ bị loại trừ, không còn là người của ông gia đình ông (12, 49- 50), không còn gì chờ đợi ở ông nữa. Trong cả phần cuối cùng này (Mt 25, 10c- 13), nhân vật hôn phu trong dụ ngôn đã gần như hoàn toàn biến mất để nhường chỗ cho Chúa Kitô. Dụ ngôn trở thành ẩn dụ. Thật thế, Đấng mà người ta kêu cầu với tước hiệu của Chúa Kitô Phục sinh: lạy Chúa, lạy Chúa (Kurie eleison), Đấng tuyên ra lời phán quyết : “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không biết các ngươi”, chẳng còn tương ứng với nhân vật trong dụ ngôn nữa, có chàng rể nào mà lại nói thế trong ngày hôn lễ của mình ! – Đó chính là Chúa Giêsu Kitô uy nghi công bố lời phán xét tối hậu! án quyết có thể xem ra nghiêm khắc, nhưng chẳng qua chỉ là phê chuẩn sự lựa chọn hữu trách của con người và rút ra các hậu quả của việc lựa chọn đó mà thôi. Dụ ngôn là dấu chỉ của cuộc phán xét không do Thiên Chúa thi hành trước tiên, nhưng do con người thực hiện trong bản thân bằng chính thái độ sống của mình: các kẻ khờ khạo tự loại bỏ chính mình vậy.
7. Câu châm ngôn cuối cùng “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào” một lần nữa tái khẳng định ý nghĩa của đoạn văn. Câu đó đã nằm ở phần đầu dụ ngôn chủ nhà (24,42) nhưng dưới một dạng thức hơi khác chút xíu. Ở đây, thoạt nhìn qua không mấy ăn hợp với phần còn lại của đoạn văn, vì bản văn không trực tiếp yêu cầu hãy tỉnh thức – các cô khôn ngoan cũng đã ngủ mà – nhưng yêu cầu trữ đèn đầy dầu để sẵn sàng khi Chúa đến. Tuy nhiên đây không phải là một thứ kết luận được chắp vá, có phần giả tạo, vì đối với Mt, sự tỉnh thức chủ yếu hệ tại việc các môn đồ kiên trì quyết định thực hiện trong cụ thể điều mà họ được mời gọi thực hiện. Do đó, đối với họ, sự chờ đợi không phải là một thời gian trống rỗng trong đó lịch sử cứu rỗi chẳng tiến thêm bước nào, mà là một thời gian hăng say chuẩn bị. Tổng động viên không ngừng mọi năng lực của cộng đoàn để làm tăng giá trị đến mức cao nhất lịch sử hiện tại. Niềm xác tín Chúa sẽ đến, cho dù còn lâu, ban cho đời ta ý nghĩa đích thực; một cách nào đó, ta lợi được thời gian của ta, ngày qua ngày, giờ qua giờ, bao lâu ta còn sống trung tín. Ta không được phép tính toán nỗ lực của ta theo kỳ hạn đã ấn định hay thu giảm nó tùy thích vì những mục tiêu giới hạn hơn. Bởi không biết ngày giờ nên ta bị bắt buộc phải luôn sẵn sàng, phải vâng lời đến kỳ cùng và càng lúc càng hơn nữa. Và đời ta sẽ không thiếu dầu miễn là ta luôn tỉnh thức.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ về Nước Trời thì cũng in như mười thiếu nữ": Công thức nhập đề này, duy nhất trong Diễn từ cánh chung, nhắc lại công thức nhập đề của các dụ ngôn về Nước Trời ở chương 13; nó không muốn bảo: Nước Trời giống như mười thiếu nữ, nhưng là: bấy giờ, nghĩa là vào lúc Nước Trời tỏ hiện lần sau hết, có những người giống như các thiếu nữ trong dụ ngôn; tránh ra chữ bấy giờ có cùng một nghĩa với câu 31: "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người... ".
"Đi đón lang quân": Lối so sánh Chúa Giêsu với lang quân chuẩn bị hôn lễ của mình và hình ảnh của chính lễ cưới rất quen thuộc dù ý niệm Messia-lang quân xa lạ với Do thái giáo thời suy đồi. Song tâm điểm của dụ ngôn nằm trong tầm quan trọng được gán cho lúc lang quân đến. Như dụ ngôn đi trước và dụ ngôn nén vâng tiếp liền sau, dụ ngôn mười trinh nữ phải được đọc và hiểu như là lời chú giải toàn bồ giáo huấn của các câu 36-42, chương 24.
"Các cô thiếp đi mà ngủ cả”. Các trinh nữ không bị khiển trách vì đã ngủ, bởi thời gian hoạt động đã qua đối với các cô, nhưng là vì đã chẳng chịu làm công việc phải làm (các cô khờ) ngay từ đầu lễ cưới (đem đủ dầu có nghĩa là trung thành). Bởi thế, lời khuyên hãy tỉnh thức của c.13 không mâu thuẫn với giấc ngủ đó của mười trinh nữ, vì nó được áp dụng vào thời gian trước khi cử hành lễ cưới. Phải tỉnh thức bây giờ để có thể bình thản mà ngủ, với số dầu đã dự tru, trong thời gian cuộc lễ.
"E không đủ cho cả chúng em và các chị": Toàn bộ ý nghĩa dụ ngôn kết tinh trong câu trả lời cứng rắn này đối với các trinh nữ khờ dại chẳng chịu phòng xa. Không còn vấn đề cho hay ngay cả cho mượn chính cái điều bảo đảm cho ta ơn cứu rỗi. Ta thình lình được đưa vào một bầu khí hết sức nghiêm khắc xa hẳn rọi thứ tình cảm, mọi thứ nhân đạo.
KẾT LUẬN
Phải tỉnh thức bây giờ, nghĩa là phải dự trữ đủ dầu, phải trung thành (24,45; 25,23) và phải làm các việc cần làm lập tức để khỏi phải "thức dậy" (sống lại) cách thình lình trong giờ Phán xét. Nếu biết giờ Phán xét hay biết các dấu hiệu tiên báo hiển nhiên, có lẽ con người sẽ trì hoàn việc sống trung thành; nhưng trong phần hai này của Diễn từ cánh chung, một nhấn mạnh sự vô tri của nhân loại về Giờ đó và vì thế, ông chẳng đề cập gì đến các dấu chỉ tiên báo ngày tận cùng nữa cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa đến. Đối với mười trinh nữ, đó là một xác tín chắc chắn, hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và chờ đợi chàng rể tại nơi ấn định họ đã xác tín chàng sẽ tới đến độ không lo âu gì trước sự chậm trễ ấy. Họ đã thiếp đi và ngủ cả, đó là dấu hiệu họ đang bình thản tâm hồn.
Ta cũng tin Chúa đến. Tuy nhiên đôi lần việc chờ đợi làm ta bớt tin tưởng. Chắc chắn, Người đến, nhưng mọi sự xem ra quá bình lặng. Người đến, nhưng chẳng có dấu hiệu gì, người hình như bất động. Khi chẳng có gì xảy ra, khi không một dấu hiệu tiên báo nào xuất hiện, thì sự hao mòn của thời gian dễ tàn phá lòng kiên nhẫn của' ta, các câu hỏi bắt đầu nổi dậy, nghi ngại chen vào lung lay những xác tín chắc chắn nhất; dần dần chính sự mù mờ của kiến thức làm tắt ngủm ngọn đèn nội tâm của ta và đặt trong ta một thái độ dửng dưng nào đó, vì các biến cố đoan hứa xem ra đáng ngờ. Bấy giờ nếu thình lình xảy ra một tai biến, sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi như hoàn toàn vô ích. Chúa đến, đó là điều chắc chắn, là một xác tín bình thản phải được củng cố trong ta. Đó không phải là một giả thuyết, một khả hữu đơn thuần, mà là thực tại hiển nhiên của tương lai ta. Và vì liên hệ tới tương lai ta nên đó chính là viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chợt thể lý của ta. Ước gì niềm xác tín này làm lòng ta tràn ngập bình an, tinh thần ta hoàn toàn thanh thản.
2. Chúa đến, và đến bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười trinh nữ. "Nửa đêm, có tiếng kêu..." như thể việc đi sang ngày mai ấy cũng là việc chuyển từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà ta đang nghe lúc này đây của Thánh lễ. Đấy như là một dấu báo hiệu; trước đó nó đã cho thấy thật là phi lý khi ta trong mình sẽ có đủ giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn loa vang (1Tx 4, 16), như một "con đường Đamas" xem ra bình thường nhưng lại có tính cách quyết định, cuộc giá lâm ấy sẽ áp đặt sẽ mang đi tất cả, và sẽ ban sức sống cho những gì phù hợp với nó cho những ai đón chờ nó, và sẽ tiêu diệt những gì còn lại.
3. Nhưng hăng hái đi đón Chúa và chờ đợi Người đến trong một đức tin an tĩnh thì cũng chẳng đủ tí nào. Phải tích cực chuẩn bị cuộc gặp gỡ đố bằng cách dự trữ thật nhiều việc lành phúc đức, nhiều hành vi xả thân phục vụ các kẻ "bé mọn" quanh ta, nhiều trung tín đối với các công việc khác nhau thuộc bổn phận bậc sống ta. Chỉ có đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa và cho anh em mới sẽ có thể rạng ngời như ánh sáng trong đêm tối trần gian và cho phép ta nghỉ yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở rộng cho ta cánh cửa phòng tiệc của Người.
Học giỏi, bằng cấp nhiều, địa vị cao, được như thế, người đời vẫn coi là thành đạt, nhưng được nhìn TN 32-A158
Học giỏi, bằng cấp nhiều, địa vị cao, được như thế, người đời vẫn coi là thành đạt, nhưng được nhìn nhận là khôn ngoan, là an vui hạnh phúc thật, đó mới là điều bạn nên khao khát kiếm tìm. Làm kinh tế giỏi, công danh sự nghiệp vững chắc, “của chìm của nổi” tầm cỡ, sẽ có nhiều kẻ say mê. Được mọi người “mộ mến”, được gọi là người có tâm có tầm với gia đình xã hội, chắc chắn là điều mà bạn nên theo đuổi ! Đích điểm thành công, hạnh phúc ở hiện tại và tương lai, người xưa đã biết lưu ý con cháu: có hay không, mùa đông mới biết, giầu nghèo ba mươi tết mới hay. Đúng sai, khôn hay khờ, thành hay bại, tất cả sẽ rõ ràng, phân minh, dù thời gian lâu mau, gần hay xa: cháy nhà ra mặt chuột.
Dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể, tưởng vẫn còn nặng mùi phân biệt đối xử: khi kẻ được người không, kẻ khờ thì bơ vơ ở ngoài chẳng ai cứu xét, người khôn thì được vào dự tiệc vui muôn đời ! Lời răn dạy của tiền nhân: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương; đừng ngu ngơ như kẻ bất mãn kinh niên: đi cày quên trâu, đi học quên bút ! “Năm cô khờ mang đèn mà không mang dầu, năm cô khôn mang đèn và còn mang dầu đầy bình”. Hạnh phúc, khổ đau, hệ tại bởi khôn, khờ, mọi sự rõ ràng đáng sợ từ khi nửa đêm “có tiếng hô to: kìa chàng rể đến” ! Thời gian xoá đi nhiều kỷ niệm, thời gian tố cáo mọi kẻ yêu nhau, thời gian sẽ khép lại cơ hội và thời gian cũng mở ra cánh cửa hy vọng nơi người biết sống niềm tin: “những trinh nữ sẵn sàng thì theo chàng rể vào dự tiệc cưới, …”.
“Các chị cho chúng em xin chút dầu, vì đèn của chúng em tắt cả rồi”. Khờ và khôn, say và tỉnh, thời nào cũng có kẻ ở tình cảnh đáng thương, dù các đấng bậc nhắc bảo, cầu nguyện, và đã nghiêm túc sống gương sáng cho con cháu. Người khôn lập luận: phòng bệnh hơn chữa bệnh, người khôn cân nhắc: uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Kể dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể, Chúa Giêsu cho thấy người khôn biết tỉnh thức, biết chuẩn bị dầu đèn đức tin, ước muốn được dự tiệc Nước Trời. Khôn hay khờ, đều được mời “dự tiệc vui”, khôn hay khờ cũng phải tỉnh không được say, có như thế mới không giật mình, trước sự việc xảy đến bất ngờ. Chẳng ai ở đời muốn mình bị mang tiếng là khờ, có ai mà không mơ ước được chàng rể Giêsu đón vào dự tiệc vui muôn đời ! Khôn hay khờ cũng đầy thiếu sót, bất xứng, trước thiên nhan Đấng tối cao: “vì chàng rể đến chậm, nên tất cả các cô đều thiếp đi và ngủ cả…”
Dại nhà khôn chợ mới ngoan, khôn nhà dại chợ thế gian chê cười. (cd). Khôn hay tỉnh, trong sáng hay mờ đục, cũng chỉ là cách nhìn nhận chủ quan; trong tư thế sẵn sàng, người khôn, người tỉnh: đêm có dài bao nhiêu, ngày rồi sẽ tới, khổ đau dù chồng chất, hạnh phúc rồi sẽ hé mở. Có hay không, người khôn ngoan mới đáng hưởng mọi quyền lợi ? Có hay không, việc bác ái tông đồ thuộc về người giầu ? Có thật xã hội luôn cần người tài giỏi, không cần người đức độ lý lẽ ? Nước Trời giống như mười trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có người khôn kẻ dại, họ thao thức đón chàng rể, mong được dự tiệc cưới, họ cùng chuẩn bị dầu đèn, cùng thiếp ngủ, chỉ khác nhau là không mang dầu dự trữ. Người ta mua xe, cần phải có tài xế; cầm đèn đi đón chàng rể, cũng phải mang dầu theo, lãnh nhận đức tin, phải sống đức tin; khôn ngoan ở đời, phải khôn ngoan theo ý Chúa, mới là khôn thật, tỉnh thật.
Được mời gọi đón chàng rể Giêsu, là được yêu thương, là cơ hội tốt, để tham dự tiệc vui muôn đời. Người ta phải dầu đèn đầy đủ, mặc áo cưới xứng hợp, dụ ngôn làm sáng rõ một thông điệp: không tỉnh thức, thiếu sự chuẩn bị là kẻ khờ dại. “Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại”. Khôn ngoan, tỉnh thức, cầm đèn cháy sáng trong tay, chính là sử dụng nén bạc được trao, là sống mến Chúa yêu người, thời giờ, sức khoẻ, hiểu biết, là cơ hội Chúa ban. Để đèn sáng thì phải châm dầu, để không chè chén say xưa, phải ý thức sự giới hạn của mình, tỉnh thức trước bổn phận trách nhiệm được giao. Có duyên mới gặp, hết duyên khó tìm. (KD). Mười trinh nữ và chúng ta hôm nay, tuy khác nhau về điều kiện, thời gian, nhưng ai cũng có cơ hội trở thành người khôn: “các cô khôn mang đèn và dầu đầy bình”.
Khôn hay tỉnh, minh mẫn hay dại khờ, tất cả sẽ rõ ràng khi “nửa đêm có tiếng hô to: kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”. Ít nhiều gì chúng ta đã nghe: này kẻ khôn đều có dại, làm người có dại mới nên khôn. Khao khát đủ khôn ngoan và tỉnh thức, hẳn người ta phải cố gắng: ai đâu yêu kẻ ngu si, ai đâu thương kẻ nằm lì đòi ăn ! Tiếng cầu cứu xin giúp em chút dầu sẽ còn vang vọng mãi nơi cuộc sống này, và câu trả lời của người khôn ngoan tỉnh thức không ai chê trách: “e không đủ cho em và các chị, các chị hãy ra hàng mà mua thì hơn”. Khôn ngoan trong Chúa và khôn ngoan ở đời không thể giống nhau, tỉnh thức ở đời là không ngủ, tỉnh thức theo thánh ý Chúa: là nói, là làm, là sống niềm tin bằng tình yêu thương có Chúa.
Cuộc sống luôn là những bất ngờ. Quá khứ qua đi, tương lai chưa đến và hiện tại ở trong tay mỗi TN 32-A159
Cuộc sống luôn là những bất ngờ. Quá khứ qua đi, tương lai chưa đến và hiện tại ở trong tay mỗi người. Thực ra, quá khứ, hiện tại hay tương lai như thế nào đều tùy thuộc ít nhiều ở cách ta lựa chọn, cách ta sống. Cuộc sống được nối dài bởi những chọn lựa của mỗi người trong chúng ta. Quá khứ đã qua không còn cơ hội nuối tiếc, tương lai chưa tới ta cũng chẳng thể nắm bắt, chỉ còn duy nhất hiện tại nằm trong tầm tay. Chúng ta không thể biết trước được điều gì sẽ xảy ra cho mình. Sống tỉnh thức và sẵn sàng luôn là thái độ của những người khôn ngoan. Khi kể dụ ngôn “Mười trinh nữ” ra đón chú rể, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy sự khờ dại và khôn ngoan của các trinh nữ khi cầm đèn đi đón chú rể (x. Mt 25, 1-13). Người cũng mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” (Mt 25, 13).
Người Do thái có tục lệ ăn cưới ban đêm, không phải rước dâu mà là đón rể. Các trinh nữ với đèn sáng trong tay được chọn đi đón rể. Câu chuyện Đức Giêsu kể rất quen thuộc với văn hóa của người Dothái. Quả thực, cả mười trinh nữ được cử đi đón rể đều có đèn cháy sáng trong tay. Cái khôn hay cái dại của các cô là ở sự chuẩn bị xa. Những cô trinh nữ khôn ngoan vì biết nhìn xa, chuẩn bị dầu đèn kỹ lưỡng. Ngược lại, các cô dại thì chỉ biết cầm đèn sáng trong tay đi đón rể. Họ chưa nhìn xa trông rộng, chưa chuẩn bị dầu đèn kỹ lưỡng như các cô khôn. Chú rể đến muộn, tất cả các cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm có tiếng la lên: “chú rể kia rồi, ra đón đi” (Mt 25, 7). Lúc này tất cả các cô đều tỉnh giấc, sửa soạn dầu đèn. Bấy giờ các cô dại nói với các cô khôn: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” (Mt 25, 9) Các cô khôn đáp lại: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” (Mt 25, 10). Các cô khôn tiếp tục hành trình và được cùng chú rể vào dự tiệc. Sau khi ra hàng mua dầu, quay trở lại thì chàng rể đã đi mất, các cô dại chẳng còn được vào dự tiệc cùng chàng rể.
Chàng rể đến muộn có phải là lỗi của các trinh nữ? Thực ra, việc chàng rể đến muộn là sự có ngoài ý muốn. Giả như chàng rể không đến muộn, có thể cả mười trinh nữ đã được vào dự tiệc cưới cùng chàng rể. Nhưng chỉ khi chàng rể đến muộn, ta mới hay ai dại ai khôn. Tiệc cưới Nước Trời dành cho những ai biết sống tỉnh thức, biết chuẩn bị và luôn sẵn sàng. Là con cái của Chúa, mỗi người cũng được mời gọi sống sự tỉnh thức ấy. Chẳng phải vì ta là con cái Chúa qua bí tích Rửa tội mà được vào dự tiệc cưới Nước Trời nhưng là ở thái độ sống của ta. Ngọn đèn ta lãnh nhận ngày chịu phép Thánh tẩy phải luôn cháy sáng trong cuộc đời chúng ta. Để cho nó cháy mãi, mỗi ngày ta phải bồi dưỡng đời sống đức tin là thứ dầu của tình yêu. Nếu ta chỉ đi lễ đọc kinh thôi thì chưa đủ nhưng để duy trì ngọn lửa ấy, cần lắm một đời sống bác ái yêu thương. Cuộc sống nơi trần gian này là cơ hội để mỗi người chuẩn bị dầu đèn đầy dủ. Hãy tự chuẩn bị dầu đèn cách chu đáo khi còn có cơ hội, đừng để đến giờ cuối mới đi xin. Bởi không ai có thể cho ta điều đó.
Lạy Chúa! Cuộc sống quả bận rộn khiến chúng con dễ bị cuốn vào vòng xoáy tiền bạc, mưu sinh. Nó cũng khiến chúng con chỉ mải mê loay hoay tìm kiếm những của chóng qua đời này mà quên đi đích đến. Nó cũng thường khiến cho chúng con chểnh mảng trong đời sống đức tin. Xin Chúa giúp chúng con biết chọn lựa cách khôn ngoan, biết sống tỉnh thức trong từng giây phút. Nhất là xin giúp chúng con ngay khi ở đời này biết lo lắng chuẩn bị cho đời sau bằng việc sống tin yêu vào Chúa, sống bác ái yêu thương. Đó cũng là đèn và dầu sẽ được thắp sáng trong tay chúng con trên đường di đón chú Rể. Thật hạnh phúc cho chúng con khi được hân hoan vào dự tiệc cưới Nước Trời.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ TN 32-A160
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa.
Trên đường về với Chúa, chúng ta thường xuyên bị cản bước tiến, do bởi sự ngu dại của chính mình. Điều mà thế gian cho là khôn ngoan, thì lại là ngu dại đối với Thiên Chúa, ngược lại, khôn ngoan của Thập Giá, thì lại là ngu dại và điên rồ đối với thế gian. Khôn ngoan của thế gian sẽ làm cho chúng ta bị trói buộc, mất tự do; Khôn ngoan của Thập Giá sẽ làm cho chúng ta được thanh thản, hoàn toàn tự do để thực hiện ý Chúa.
Đức khôn ngoan rất cần thiết cho chúng ta trong việc tuân giữ những gì Chúa dạy. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, nhờ ơn khôn ngoan Chúa ban, mà Đanien và các bạn vẫn giữ được Luật Chúa, không ăn những đồ ô uế, ngay tại triều đình vua ngoại đạo: Họ được Chúa ban ơn hiểu nhiều, biết rộng, về tất cả chữ nghĩa, và lẽ khôn ngoan. Chúa cho lòng họ đầy tràn ơn thông hiểu. Khi vua hỏi họ: về bất cứ điều gì, cần đến sự khôn ngoan và tài trí, vua đều được toại lòng. Bài đọc một của Thánh Lễ, được trích từ sách Khôn Ngoan, chỉ với vỏn vẹn 5 câu, mà cụm từ “Đức Khôn Ngoan” được lặp đi lặp lại đến 14 lần: Ai tìm kiếm, khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan sẽ cho gặp.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách cho thấy: Do trí khôn mù tối, chúng ta đã tôn thờ gỗ đá, vàng bạc và đồng là những thứ do con người làm ra, và suốt đời, chúng ta sống mà cũng chỉ như đã chết. Chúng ta bị bóng tối bủa vây và chỉ còn nhìn thấy đêm đen dày đặc. Tuy nhiên, Thiên giàu lòng từ bi, Người không để chúng ta chết trong sự ngu muội của mình, cho nên, Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để chúng ta được cùng sống với Người. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 62, vịnh gia đã diễn tả sự khôn ngoan của mình qua niềm khao khát Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng đã chọn cho ngày lễ hôm nay cho thấy: sự khôn ngoan được diễn tả qua việc tỉnh thức và sẵn sàng: Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Bài Tin Mừng cho thấy năm cô khôn ngoan đã mang đèn và mang theo cả chai dầu. Có lẽ, năm cô khôn này cũng đã bị năm cô dại cười nhạo: rườm rà, phiền phức, mất công. Trước khi chàng rể đến, cả mười cô đều như nhau, cũng ngủ cả, nhưng, khi chàng rể đến, thì đã có một sự khác biệt rất lớn, giữa những cô khôn và những cô dại. Tình yêu sẽ làm phát sinh những sáng kiến. Khôn ngoan là ở chỗ đó. Do đó, thánh Autinh nói: Yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu đích thực, thì không bao giờ sai lầm. Thiên Chúa là tình yêu, cho nên, Người không bao giờ sai lầm. Người luôn có những sáng kiến để yêu chiều chúng ta. Sáng kiến vĩ đại của Người chính là sự khôn ngoan của Thập Giá, điều mà thế gian coi là ô nhục, và điên rồ. Niềm khao khát đón gặp chàng rể, khiến các cô khôn chuẩn bị thêm cả chai dầu: dù có phiền phức, vất vả, khó chịu một chút, nhưng, lại là sáng kiến khôn ngoan của tình yêu. Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Ước gì chúng ta biết khước từ sự khôn ngoan của thế gian, để trở nên ngu dại, và điên rồ vì Đức Kitô, hầu chúng ta luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng với một tình yêu tự do thực thi ý Chúa, để rồi, chúng ta được thong dong cùng Chúa tiến vào Tiệc Cưới.
Trí khôn của ta đây”, đó là thông điệp mà truyện cổ tích Việt Nam, vẫn đang ghi vào tâm tư TN 32-A161
“Trí khôn của ta đây”, đó là thông điệp mà truyện cổ tích Việt Nam, vẫn đang ghi vào tâm tư trẻ thơ bài học khôn ngoan, một bài học chất chứa đầy kỹ năng sống động. Câu truyện cho thấy, vì bị kích thích tính tò mò, Cọp muốn hiểu, muốn biết tại sao thân to, xác lớn, cọp lại sợ con người. “Chú Cọp” lân la hỏi: này anh bạn, sao anh to lớn như vậy mà để cho người ta bé nhỏ, quát mắng, quất vụt, phải kéo cày như thế ? Trâu ngượng ngùng đáp: vì người có trí khôn, anh cứ đến mà hỏi con người sẽ rõ hơn. Kết thúc câu truyện là Cọp đồng ý chịu người nông dân trói buộc, chỉ mong thoả mãn cái biết, trong khi đó Trâu thì cười té ngửa, trước sự linh lợi của con người: “trí khôn của ta đây” !
Khôn ngoan, dại khờ, cuộc đời là thế, “cái biết” luôn đi cùng với “cái giá” phải trả: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, có cái biết nào miễn phí đâu ? Kinh nghiệm đón khách quý đến nhà, không thể thiếu sự chuẩn bị, ít là theo tiêu chí: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, hoặc trân trọng hơn: khách đến nhà không gà thì vịt. Việc sạch đẹp bên ngoài và niềm vui bên trong, có chút liên quan tới khôn và khờ. Trâu đi cày, phải chịu đòn vọt, khác với Cọp phải bị roi đòn, sợ hú vía, có liên quan đến “tỉnh” và “say”. Đâu phải tự nhiên mà bậc sinh thành quở trách con cháu: khôn nhà dại chợ. Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta lại nói: cười có nguy cơ bị đánh giá là vô duyên, khóc lóc, vẫn bị xem thường là yếu đuối ; bình tĩnh, biết cân nhắc sự việc, cư xử hợp tình hợp lý, luôn được gọi là khôn là ngoan.
Khi trưng dẫn dụ ngôn 10 trinh nữ đi đón chàng rể, Chúa Giêsu không bi quan cho rằng chỉ có 50% số người lanh lợi, hoặc Nước Trời chỉ đủ chỗ cho một nửa nhân loại, đúng hơn, tiệc Nước Trời luôn là cơ hội cho tất cả mọi người khi tỉnh thức, khôn ngoan, biết sống chọn lựa. Mười trinh nữ đi đón chàng rể, họ đều khôn, đã ý thức chọn lựa, do chàng rể đến chậm, các cô đã thiếp ngủ, vì họ giới hạn như nhau, 5 cô bị gọi là khờ, khi không chuẩn bị dầu dữ trữ, nên không đủ chuẩn vào dự tiệc Nước Trời. Muốn vào dự tiệc cưới cùng chàng rể, các cô phải khôn ngoan, có sự chuẩn bị, ở trong tư thế sẵn sàng, phòng tiệc sẽ không mở cửa cho người khờ, thiếu chuẩn bị. Phòng tiệc Nước Trời sẽ không mở, nếu đương sự ngu muội, không tỉnh thức, không cầm cháy sáng trong tay, không minh chứng được sự khôn ngoan theo ý chàng rể Giêsu.
Người nông dân trả lời với con Cọp: trí khôn của ta đây, quả là dễ dàng. Con người chẳng bao giờ trả lời với Đấng tạo thành: khôn ngoan của tôi ở đây, ở kia. Dù khối tài sản bạn to lớn, sự khôn ngoan thật mà bạn muốn mua cũng không thể mua được, không phải vì đó là tiền âm phủ, nhưng vì ở đời không ai đủ khả năng bán sự khôn ngoan. “Các chị cho chúng em xin chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt”, vâng, tình yêu ai bán mà mua, ai cho mà nhận ai thừa mà xin ? Người yêu phải giữ trong tim, phải ghim trong não chứ tìm đâu ra ? Ở trần gian, ta có thể vay mượn tiền của vật chất để tiêu dùng ; khi chàng rể Giêsu đến, không ai có thể mua, hoặc vay mượn công phúc của người khác để trình diện, để trả lời với Chúa: khôn ngoan của con đây ! Khôn ngoan trong Chúa là khôn ngoan thật, là biết cậy trông vào Chúa, để dầu đèn đức tin luôn sáng mãi với thời gian.
Câu truyện dụ ngôn 10 trinh nữ cho thấy nhờ khôn ngoan, người ta sẽ không lỡ chân, trật bước, nhờ tỉnh thức mà đèn lúc nào cũng cháy sáng, nhờ luôn trong tư thế sẵn sàng, ta không phải ưu tư lo lắng khi nào chàng rể Giêsu đến. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không nói, không cho biết ngày giờ tháng năm chàng rể đến, chẳng muốn một thành viên nào bị mang tiếng là khờ dại, là dầu đèn đức tối tăm hết chiếu sáng. Thiên Chúa vẫn cho con người có thời gian suy xét, có cơ hội thức tỉnh sám hối, hầu trả lời với Đức Kitô Đấng đang đến, sẽ đến: khôn ngoan của con đây, việc sống đức tin, đức ái của con đây. Hãy là người khôn ngoan, “hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào, lúc nào Con Người đến”.
Mười trinh nữ đi đón chàng rể, hay mỗi người có một hành trình dài ngắn khác nhau, để chuẩn bị, để minh chứng với chàng rể Giêsu, “con là đầy tớ khôn ngoan và trung tín” của Chúa. Cha ông ta thì dạy rằng: khôn làm cột cái, dại làm cột con, chàng rể Giêsu, Đấng cứu độ trần gian, ước mong tất cả mọi người đều đủ khôn, đủ hiểu, đủ ơn Chúa mà sống tốt ơn gọi của mình. Sống đức tin, sống tỉnh thức, không phải là từ sáng đến tối cứ đứng im cầm đèn cháy sáng, mà phải dấn thân, thể hiện được niềm tin với nén bạc mỗi người, mỗi hoàn cảnh và ơn gọi, ta đang có mà sống xứng hợp nhất. Xin Chúa Giêsu Đấng là Thầy là Chúa, là Đấng đã thắng thế gian, giúp chúng con luôn biết sống ơn ban, hầu chúng con đủ tự tin, mai này sẽ thân thưa: lạy Thầy, khôn ngoan của con đây. Amen.
Trong những ngày này, hầu như rất nhiều người tại đất nước Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới TN 32-A162
Trong những ngày này, hầu như rất nhiều người tại đất nước Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới, cứ mỗi ngày thức dậy là chăm chăm soi vào màn ảnh truyền hình, máy tính hay điện thoại thông minh… để “tìm kiếm kết quả” cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của hai ứng viên Tổng Thống D. Trump và J. Biden. Vâng “câu chuyện Tổng Thống Mỹ” đang là vấn đề nóng nhất hiện nay; và thậm chí, nhiều người cho rằng: kết quả bầu chọn vị Tổng Thống mới của nhiệm kỳ 4 năm sắp tới của Mỹ sẽ định hướng cho một “trật tự thế giới mới”.
Nhưng có thật sự là như thế không ? Liệu “một con người” hay một “chính phủ” có thể định hướng hay đổi thay cả một “con đường”, một “lộ trình” đầy phức tạp, nhiêu khê của cả thế giới nầy ?
Đối với những con người mang tâm thức “duy kinh tế, khoa học, kỹ thuật, sự thông minh…” và “sùng bái” tư cách “cường quốc số một” của Hoa Kỳ cùng với cung cách bang giao mang tính “sen đầm quốc tế” của quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh nầy, thì câu trả lời sẽ là “có”. Nhưng, đối với những ai nhìn “cuộc cờ thế giới” trong viễn tượng đức tin và sự quan phòng đầy khôn ngoan của Thiên Chúa, thì câu trả lời chắc chắn sẽ là “không” ! Vì Thánh vịnh 127 đã dạy rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” !
Và đây chính là nội dung sứ điệp Lời Chúa muốn chuyển tải đến cộng đoàn Kitô hữu chúng ta trong Chúa Nhật gần cuối năm Phụng vụ nầy: MỘT SỰ LỰA CHỌN “VỀ ĐÍCH” KHÔN NGOAN HAY HÃY TÌM KIẾM THIÊN CHÚA VÀ SỰ KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC ĐẾN TỪ NGÀI.
Trước hết, sứ điệp nầy đã từng được vang lên trong suốt chặng đường lịch sử cứu độ, qua tiếng gọi của các sứ ngôn, các bậc hiền giả từ xa xưa trong lịch sử của dân tộc Israel mà những lời Thánh Vịnh 62 được chọn làm Đáp Vịnh Ca hôm nay chứng tỏ: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa. Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước. Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài…
Phải chăng, được Lời Chúa mách bảo, các ngôn sứ và các bậc hiền nhân quân tử thời xưa đã nghiệm thấy rằng: các bậc đế vương cùng những đế quốc hùng mạnh như Ba Tư, Ai Cập, Babylon, Hy Lạp, Rôma… rồi sẽ qua đi, sẽ “biến tan như cơn gió thoảng qua, như cỏ nội hoa đồng…”. Vì thế, ai đặt niềm tin, niềm hy vọng của mình trên “điểm tựa” là những thực tại hão huyền và chóng tàn đó sẽ thất vọng. Vì thế, điều cốt yếu đó chính là “đặt cược” cuộc sống, niềm tin yêu hy vọng vào chính Thiên Chúa và sự khôn ngoan trường cửu của Ngài, như cách cảm nhận và cũng là lời dạy của tác giả sách Khôn Ngoan: “Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước. Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm” (Bđ 1).
Thế nhưng, không phải thời nào, lúc nào dân Chúa cũng đều có chọn lựa “Khôn Ngoan” như thế. Bằng chứng là vào thời Chúa Giêsu, khi xã hội Do Thái bị phân mảnh dưới ách thống trị của Rôma cùng với những cám dỗ đầy hấp dẫn của nền văn hóa thời thượng Hy Lạp, thì sự khôn ngoan mà người ta chọn lựa thường xuyên lại “ngã” về hướng con người, lối trần tục… mà ở đó chính là: chấp nhận cúi đầu trước quyền lực con người thay vì khiêm tốn suy phục Thiên Chúa, chọn lựa sự đảm bảo nơi của cải và giàu sang vật chất thay vì sự khôn ngoan và những giá trị thần linh, chấp nhận ma mánh và thủ thuật của sự gian dối thế gian thay cho việc thực thi lề luật ngàn đời của Giao ước thánh, lề luật của sự tự do trong đời sống con cái Chúa… ; và phải chăng, đó là sự chọn lựa mà người ta dễ dàng chứng kiến qua các diễn biến phức tạp trong cuộc chạy đua tới Toà Bạch ốc của hai ứng viên Tổng Thống đại diện cho hai đảng Cọng Hoà và Dân Chủ trong những ngày “nước rút” nầy !
Thật vậy, thời đó, những người Pharisiêu rao giảng và sống theo một thứ khôn ngoan “giả hình và kiêu ngạo” dựa trên những thứ luật lệ không dẫn đến Thiên Chúa mà cũng chẳng phục vụ con người; riêng nhóm Sa-đốc lại chọn lựa sự khôn ngoan chính là “thiên đàng tại thế” với nhu cầu vật chất và điểm tựa quyền lực chính trị…; trong khi đa phần dân đen khố rách áo ôm thì như “bèo dạt mây trôi”, chẳng biết phải nghe theo tiếng nói, lời dạy của sự khôn ngoan đích thực nào, của vị “rabbi” nào “đủ tâm và đủ tầm” để dạy dỗ, thuyết phục…
Và Thiên Chúa đã không để Dân Ngài phải đợi chờ quá lâu. Ngài đã sai Con Một đến không chỉ soi sáng cho con người những bước đi, những lộ trình ngay nơi cuộc hành lữ dưới thế gian nầy, mà còn dẫn lối đưa đường để nhân loại tiến bước vào quê hương vĩnh cửu.
Thật vậy, nếu con đường “Bát Phúc” và những lời dạy xa gần về việc thực thi giới răn “mến Chúa yêu người” mà chúng ta đã được “giải trình” trong suốt cuộc hành trình của Năm Phụng vụ, thì trong Chúa Nhật sắp kết thúc nầy, Tin Mừng muốn hướng niềm tin và hy vọng của chúng ta đến chân trời “cánh chung”, đến biên giới cuối cùng của cuộc đời tại thế để chuẩn bị bước vào “Bàn Tiệc Nước Trời” mà Thánh sử Matthêô đã khéo minh hoạ qua dụ ngôn Tin Mừng “Mười cô trinh nữ”.
Chúng ta có thể nói được rằng: sứ điệp của vị “Rabbi” đến từ Nadarét đã tiếp nối tài tình những lời giáo huấn của các ngôn sứ, đặc biệt, với lời dạy về sự “Khôn Ngoan” đích thực. Thật vậy, bài học Khôn Ngoan, theo ẩn dụ của Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay, đó là biết hướng về tương lai chung cuộc để đón gặp “Tân Lang” với “đèn dầu nghiêm túc” là hành trang của thiện lương, thánh đức…, như “5 cô thiếu nữ phù dâu với đèn cháy sáng trên tay hân hoan vào dự tiệc cưới”.
Cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu luôn là cuộc lên đường tiến về cùng đích cuộc đời, tiến về quê hương vĩnh cửu. Cuộc hành trình đó, trong ngôn ngữ của dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là “sự tỉnh thức đợi chờ của những người thiếu nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón tân lang”. Thế nhưng, đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng.
– Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng tất cả sự “nôn nóng của tình mẫu tử” được thể hiện qua cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc đứa con rứt ruột của mình. – Người vợ mong đợi chồng trở về từ chiến tuyến với tình yêu thuỷ chung son sắt và chỉn chu trong bổn phận của người vợ, người mẹ… để mái ấm gia đình luôn hồng lên ngọn lửa hạnh phúc lứa đôi. – Người cha già mong đứa con phiêu bạt trở về trong mối tình “phụ tử tình thâm” để không đứa con nào phải ra đi hay bị loại trừ khỏi vòng tay nhân ái bao dung…
Vâng, đó chính là “sự lựa chọn khôn ngoan” cho cuộc hành trình tiến về vĩnh cửu, một lựa chọn của một niềm xác tín và đầy lòng trông cậy rằng: ở cuối đường cuộc sống tại thế, người ta sẽ gặp được một Nước Trời hạnh phúc đang mở cửa đón đợi, một “vị Quân vương đang thết tiệc đợi chờ”, một “Đấng Tình Quân” là Đức Kitô đang mở rộng vòng tay dìu đưa “người bạn thiết” vào địa đàng hạnh phúc…
Đây chính là một “chọn lựa khôn ngoan” hay một “niềm cậy trông vững vàng” mà Thánh Phaolô đã ân cần khuyến dụ cộng đoàn Thêxalônia cách đây gần hai mươi thế kỷ nhưng vẫn còn mang tính thời sự với chúng ta hôm nay: “Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người”.
Sứ điệp đó, giáo lý đó, đâu chỉ là một học thuyết suông ! Trên cuộc hành trình gần 2000 năm của Hội Thánh lữ hành, đã có biết bao nhiêu “cô trinh nữ khôn ngoan” đã sống trọn vẹn sự tỉnh thức và đợi chờ cuộc hội ngộ tình yêu đầy ấn tượng: Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêsa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”; trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài đồng than thở: “Lạy Chúa, con… yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt ra đi, đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút tối 30 tháng 9 năm 1897. “Những người trinh nữ” ấy đã cầm đèn cháy sáng ra đón Chúa và gặp gỡ “người tình lang” muôn thuở…
Tóm lại, vào những ngày gần kết thúc năm phụng vụ, sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta sống đức “Trông cậy” một cách vững vàng, chọn lựa Thiên Chúa và sự khôn ngoan đích thực bằng chính một cuộc đời luôn tỉnh thức để toả sáng nhân đức “mến Chúa yêu người”, để sống động thực hành con đường Bát Phúc, để tín trung nghiêm giữ những lề luật của Giao ước.
Và sự chọn lựa gần nhất, căn bản nhất, sự chọn lựa “về đích” khôn ngoan và đích thực nhất của bây giờ và hôm nay, đó chính là “sắp sẵn với ngọn nến trên tay” để đi vào Bàn Tiệc Đức Ki-Tô đang mở cửa đón mời: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
Nhiều hình ảnh khác nhau về nước Thiên Chúa, cũng gọi là nước Trời, hay nước Thiên đàng được TN 32-A163
Nhiều hình ảnh khác nhau về nước Thiên Chúa, cũng gọi là nước Trời, hay nước Thiên đàng được Chúa Giê-su dùng để giảng dạy về nước hằng sống.
Nước Thiên Chúa được sánh ví và giải thích bằng những dụ ngôn như: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải, dụ ngôn men trong bột, dụ ngôn kho báu và ngọc quí, dụ ngôn chiếc lưới, dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, dụ ngôn thợ làm vườn nho, dụ ngôn hai người con, phúng dụ những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới.
Hôm nay nước Trời được ví như mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem dầu dự trữ. Còn năm cô khôn ngoan sửa soạn đem thêm dầu với đèn (Mt 25:3-4). Theo sử sách ghi lại, đám cưới Do thái thời bấy giờ thường tổ chức vào lúc mặt trời lặn khi bắt đầu ngày mới và họ ăn cưới rất tưng bừng, kéo dài cả mấy ngày. Tuy nhiên đám cưới hôm nay còn những chuyện lòng thòng chưa giải quyết xong như về sinh lễ và của hồi môn giữa hai gia đình dâu rể cho tới nửa đêm. Do đó chàng rể rước dâu về trễ mà các cô khờ dại không ngờ.
Khi được loan báo là chàng rể tới trễ, các cô đều chỗi dậy sửa soạn mang đèn ra đón chàng rể. Thấy đèn hết dầu, các cô khờ dại bèn xin các cô khôn ngoan cho vay chút dầu. Sợ không đủ dầu cho đèn của mình, nên các cô khôn ngoan không dám chia sẻ. Kết quả là khi các cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể tới, cùng với các cô khôn ngoan vào phòng tiệc cưới và cửa được đóng và chốt then lại. Còn các cô khờ thì bị kẹt, đứng ngoài chầu rìa. Lỗi lầm của các cô khờ dại không phải là thiếp ngủ, vì các cô khôn ngoan cũng ngủ, nhưng là thiếu sửa soạn dầu, thiếu dự tính và thiếu óc phòng xa.
Dầu trong Kinh thánh tượng trưng cho ân huệ của Giavê Thiên Chúa, được xức trên người Chúa chọn, mà Thánh kinh gọi là dầu tấn phong (Lv 8:12; 1 Sm 10:l; 16:13). Ðèn không có dầu thì vô dụng. Nói theo nghĩa bóng, tâm hồn không có ơn thánh, là tâm hồn khô héo và cằn cỗi. Người ta có thể trách cứ các cô khôn ngoan là ích kỷ vì đã không cho các cô khờ dại vay dầu để cùng vào phòng cưới đón tiếp chàng rể. Tuy nhiên việc sửa soạn đi ăn cưới: cần đem theo bao nhiêu dầu là tùy thuộc vào dự tính của mỗi người. Dầu cần cho đèn để dự tiệc cưới nước Trời là ơn nghĩa với Chúa. Việc vào nước Trời không phải là việc vay mượn, đổi chác. Người ta có thể nhắc nhở cho người khác sửa soạn dầu tâm hồn để dự tiệc cưới nước Trời, chứ không thể làm thay thế họ được.
Khôn ngoan theo nghĩa Thánh kinh Cựu ước có liên quan tới niềm tin vào Ðức Giavê. Theo sách Châm ngôn thì khôn ngoan, mặc dầu học được bằng kinh nghiệm và truyền tụng, cuối cùng cũng là ân huệ Chúa ban (Cn 2:6). Do đó mà sách Châm ngôn còn dạy: Kính sợ Thiên Chúa là bước khởi đầu của sự khôn ngoan (Cn 1:7). Còn Thánh kinh Tân ước nói về sự khôn ngoan của Chúa hài nhi như sau: Còn Ðức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan (Lc 2:52). Và sau này người hàng xóm láng giềng ngạc nhiên hỏi nhau về Ðức Giêsu Nadarét: Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế (Mt 13:54)? Theo họ, ông chỉ là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria nội trợ và không được đi học tại trường đào tạo làm thầy Ráb-bi, mà sao ông ta được như vậy?
Bài trích sách Khôn ngoan hôm nay đề cao sự khôn ngoan như một bảo đảm cho hạnh phúc nước Trời: Ðể tâm suy niệm về Ðức Khôn ngoan là đạt được sự minh mẫn vẹn tuyền. Ai thức khuya dậy sớm để tìm Ðức Khôn ngoan thì sẽ mau trút được mọi lo âu (Kn 6:15). Ðức khôn ngoan dạy năm cô trinh nữ mang dầu dự trữ cho đèn. Ðức Khôn ngoan được thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca bằng việc tin vào Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại và còn cho người đã an giấc trong Ðức Kitô cũng được vào nước Trời: Nếu chúng ta tin vào Ðức Kitô phục sinh, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Kitô, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người (1Tx 4:14). Xưa kia ở xã hội Việt Nam, người ta trọng chữ trinh của người con gái trước khi cưới hỏi, nên mới có câu tục ngữ: Khôn ba năm, dại một giờ. Vì dại một giờ mà hôn nhân của cô dâu mới cưới bị hủy bỏ và không còn hi vọng có đám cưới thứ hai. Cũng vậy, để dự tiệc cưới nước Trời, người ta cũng phải cẩn thận canh chừng về đời sống thiêng liêng, kẻo lỡ ra không còn đủ thời giờ và cơ hội để mà học khôn chăng?
Tiệc cưới của hoàng tử ám chỉ bữa tiệc nước Trời, khi mà người tín hữu được gọi ra khỏi đời này, để đến dự tiệc nước Trời. Mười cô trinh nữ ám chỉ toàn thể dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ nam nữ cũng nhu giáo dân: đàn ông, đàn bà, già trẻ, lớn bé. Muốn được liệt kê vào sổ các cô trinh nữ khôn ngoan, ta phải sửa soạn linh dược thiêng liêng, chờ ngày Chúa sai thiên thần đến gọi ta ra khỏi thế gian để đối diện trước toà phán xét. Tuy nhiên không ai biết được ngày giờ Chúa gọi, không biết được bệnh tật, tai nạn, thiên tai sẽ đến thế nào?
Việc chàng rể đến vào nửa đêm nói lên tính cách bất thần của ngày giờ Chúa gọi vì Chúa không làm hẹn. Ðợi đến giờ chót mới đi mua dầu dự tiệc cưới là việc quá trễ cho các cô khờ dại, thì cũng có thể là việc quá trễ cho người tín hữu nào, đợi tới giờ phút cuối cùng mới tính sổ nhà linh hồn với Chúa. Như vậy dự định để tính sổ nhà linh hồn vào giờ phút chót là thiếu khôn ngoan. Ta có thể nghe người nọ, người kia nói: Ngày đó họ sẽ hoà giải với Chúa qua bí tích Cáo giải và làm lại cuộc đời. Tiếc rằng ngày đó có thể không xẩy ra vì người ta đã ra đi vĩnh viễn trước ngày đó.
Vậy thì trong khi trông đợi ngày mở tiệc cưới nước Trời – là ngày phán xét – ta cần tỉnh thức, dự phòng, kiên nhẫn và sẵn sàng chờ đợi như Phúc âm dạy, không thể thờ ơ mà quên chuẩn bị dầu đèn cho tâm hồn, là sống trong ơn nghĩa với Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được liệt kê vào số năm cô trinh nữ khôn ngoan:
Lạy Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí. Cũng như năm cô trinh nữ khôn ngoan sửa soạn dầu đèn, xin dạy con biết dự phòng, tỉnh thức và sẵn sàng sửa soạn dầu đèn cho tâm hồn, kẻo khi Chúa gọi con bất thình lình ra khỏi đời này mà tâm hồn con thiếu dầu là thiếu ơn nghĩa với Chúa chăng? Và xin cho con được liệt kê vào sổ năm cô trinh nữ khôn ngoan được vào dự tiệc cưới. Amen.
Tin Mừng theo thánh Matthêô nhiều lần cho thấy, thánh nhân sử dụng phương pháp đối kháng trong TN 32-A164
Tin Mừng theo thánh Matthêô nhiều lần cho thấy, thánh nhân sử dụng phương pháp đối kháng trong cách viết của mình để gây chú ý. Chẳng hạn: lúa tốt – cỏ lùng; chiên – dê; nhà xây trên đá – nhà xây trên cát…
Dụ ngôn hôm nay, thánh nhân cũng cho thấy sự đối khán ấy trong lời dạy của Chúa Giêsu: khôn ngoan – thiếu khôn ngoan; người biết chuẩn bị – người không lo chuẩn bị; người được dự tiệc cưới – người bị khước từ dự tiệc.
Bằng lối so sánh, thánh nhân muốn làm nổi bật hai chiều kích trái nghịch nhau, mâu thuẫn nhau: Người khôn ngoan luôn biết chuẩn bị sẵn sàng cho đời mình để vào hưởng phúc của Chúa – Ngược lại, sự thiếu khôn ngoan của những ai không biết chuẩn bị, sẽ nên vô phúc, sẽ bị khước từ tham dự hạnh phúc ấy.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống chính sự sống đời đời của Thiên Chúa. Chuẩn bị đầy đủ để vào Nước Trời (biểu trưng là tiệc cưới của chàng rể) là biết sống công chính, giữ luật Chúa, yêu Chúa, trung thành với lòng mến mà bản thân dành cho Chúa, yêu anh chị em, sẵn sàng tha thứ, bác ái, tương trợ, quan tâm lẫn nhau… Tất cả những điều ấy là con đường của khôn ngoan, của hạnh phúc sẽ dẫn tới sự sống trong Chúa.
Ngoại trừ những ai sống bê tha, không biết lo cho linh hồn mình, không biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa gọi. Còn tất cả mọi Kitô hữu không ngoan đều hiểu rằng: Cuộc đời mỗi Kitô hữu dù đang nơi dương thế, vẫn hướng về và chờ đợi ngày về cùng Thiên Chúa, khác nào cuộc nghinh đón chàng rể.
Chàng rể mà mỗi Kitô hữu đang trông đợi chính là Chúa Kitô. Người cũng là thẩm phán xét xử từng con người, sau khi họ được Người đến và mang đi.
Tin Mừng cho biết chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là Chúa sẽ đến vào lúc không ai ngờ. Đó là giờ chết của mỗi chúng ta.
Sau khi chàng rể đến, cửa sẽ đóng lại. Cuộc đời trên dương thế của mỗi người cũng đóng lại trong ngày Chúa gọi rời bỏ sự sống hiện tại này.
Ý nghĩa thiêng liêng của hình ảnh “chàng rể đến và cửa sẽ đóng”, đó là: người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị. Vậy hãy như năm cô trinh nữ khôn ngoan, mỗi người cần chuẩn bị hành trang cho ngày giờ Chúa đến gọi đích danh mình.
Nếu ngay bây giờ, ta biết để cho sứ điệp của dụ ngôn lắng sâu vào hồn mình, thấm vào trí nhớ mình, chắc chắn ta sẽ gặp gỡ Chúa, sống cùng Chúa, ở kề bên Chúa trong từng phút giây, từng hoạt động, từng công tác, từng suy tư của ta…
Đã có Chúa sống trong ta luôn luôn, thì nếu có chết, cái chết chỉ là sự nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa, hay chỉ là cuộc gặp gỡ Chúa ở dạng thức khác mà thôi.
Hãy nhớ, người không ngừng gặp gỡ Chúa là người tỉnh thức và khôn ngoan. Họ đang sống chính lời mà Chúa dạy hôm nay: “Các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”.
Ai khôn ngoan và tỉnh thức, dù các chết ập đến bất cứ lúc nào, vẫn không là chết bất ngờ. Ai để cho mình có cuộc gặp gỡ dành cho Chúa luôn luôn, sẽ là người luôn nắm giữ bình an trong giây phút hiện tại, sẽ không sợ hãi trong giờ chết, và trong giờ trình diện trước tòa Chúa.
Còn sống ngày nào trên dương thế, là vẫn còn thời gian để tỉnh thức, để chuẩn bị, để sống “khôn”. Hãy chuẩn bị cho thật đầy đủ dầu đèn là mọi thứ cố gắng nhằm thanh tẩy mình, ăn năn thú tội, xưng tội, lãnh nhận các bí tích khác và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thực thi đức bác ái, thực thi lòng từ tâm với mọi anh chị em…
Tôi xin bắt đầu bài suy niệm này bằng việc giải thích cấu trúc của từ Triết học. Triết học, tiếng TN 32-A165
Tôi xin bắt đầu bài suy niệm này bằng việc giải thích cấu trúc của từ Triết học. Triết học, tiếng Anh viết là philosophy. Từ này đến từ tiếng Hy Lạp gồm hai từ kết hợp lại, đó là philo, tức là yêu mến; và sophia, nghĩa là sự khôn ngoan. Như vậy, triết học có nghĩa là yêu mến sự khôn ngoan hay đi tìm sự khôn ngoan. Môn triết học đưa ta đi tìm hiểu những gì liên quan đến đời sống của con người và vũ trụ, không chỉ có giới hạn ở cuộc sống hiện tại mà đề cập đến những gì xảy ra trong quá khứ và ngay cả trong tương lai. Triết học không chỉ có đặt câu hỏi về một thực trạng thuộc trần gian mà cả đến cuộc sống mai sau của con người.
Những câu hỏi mà các triết gia thường đưa ra, đó là “Thiên Chúa có tồn tại hay không?” “Con người là ai, con người có nguồn gốc từ đâu và sẽ đi về đâu? “Con người có khả năng nhận biết hay không, căn cứ vào đâu để con người nhận biết sự thật?” “Sự thật là gì, sự thiện được hiểu như thế nào, làm sao con người có thể trở nên một người tốt?” “Con người có tương quan như thế nào với nhau, với môi trường và với Thượng Đế?”
Đây là kho tàng của sự khôn ngoan mà môn triết học có ý muốn giúp con người đạt đến. Tuy nhiên, nghịch lý thay môn triết học trong các nhà trường ngày hôm nay thường bị coi nhẹ. Sinh viên thời nay chỉ muốn chọn những môn học nào có liên quan đến sở thích của mình và họ cho là có ích cho nghề nghiệp tương lai. Hay nói cách họ chỉ chọn những môn học liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, kỷ thuật, thương mại, y học… chứ ít ai muốn chịu khó dành thời gian nghe và bàn thảo những chủ đề về sự khôn ngoan.
Thật không ngoa khi ta nhận xét rằng con người thời nay đang thờ ơ với việc yêu mến và tìm kiếm sự ngoan mặc dầu họ biết sự khôn ngoan theo cách hiểu của các triết gia và thần học gia rất cần thiết cho họ. Nói cách khác họ chỉ muốn tìm kiếm sự “khôn ngoan” nào nhằm giúp họ khi ra trường có được việc làm và kiếm được nhiều tiền. Còn những đề tài “Thiên Chúa có tồn tại hay không, con người là ai, làm sao để trở thành người tốt, có sự sống sau khi chết hay không..,” thì họ chẳng màng quan tâm.
Còn đối với người Công Giáo, tháng 11 là tháng cầu nguyện cho các linh hồn, nên chúng ta có cơ hội để suy niệm về chiều sâu của cuộc đời, cụ thể hơn về cái chết, về đời sống mai hậu, để tìm xem chúng ta cần có thái độ như thế nào để chuẩn bị đón nhận cái chết mà không ai có thể chạy trốn. Dĩ nhiên Hội thánh không muốn chúng ta phải chìm đắm trong một cảm giác đau buồn hay nơm nớp sợ hãi về cái chết, nhưng Hội thánh muốn ta luôn sẵn sàng nhìn vào sự chết với thái độ lạc quan và hy vọng, nhìn về một thời khắc quan trọng sẽ đến với mỗi người chúng ta. Vậy làm sao để chúng ta có được sự sẵn sàng đó?
Trong cuốn sách Đường Hy Vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận có kể một câu chuyện như sau: khi một đám trẻ đang vui chơi dưới sân, một giáo viên đến hỏi các em bé rằng: “Nếu trong vòng 5 phút nữa các con chết, các con sẽ làm gì?” Một em trả lời một cách rất tỉnh táo: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.” Em khác lại hối hả thưa: “Con sẽ đi xưng tội…” Cuối cùng một em bé hết sức điềm tĩnh trả lời: “Con-sẽ-tiếp-tục-vui-chơi.” Vâng, đó là câu trả lời của thánh Luy Gonzaga. Câu trả lời này khiến chúng ta cảm thấy hết sức bất ngờ và rất ưng ý, bởi nó mang một ý nghĩa thật là quan trọng, đó là chúng ta cần có cảm giác tự tại và tinh thần sẵn sàng trước mọi tình huống của cuộc sống ngay đến cái chết. Nếu chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng thì đứng trước cái chết không có lý do gì khiến chúng ta sợ hãi cả.
Thật vậy, sẵn sàng chu toàn mọi công việc là sự khôn ngoan để chúng ta luôn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh mà mọi biến cố của cuộc sống. Như dụ ngôn mà Chúa dùng để cảnh tỉnh chúng ta hôm nay, dụ ngôn về 10 cô gái được mời đi đón Tân lang để vào dự tiệc. Tuy nhiên, trong mười cô gái đó, chỉ có 5 cô, khi ra đi biết chuẩn bị đèn và đổ đầy dầu. Vì thế khi chàng rể đến họ cầm đèn cháy sáng trên tay để đón chàng rể và hân hoan đi vào dự tiệc. Chúa gọi họ là những cô trinh nữ khôn ngoan. Còn 5 cô gái khác, ra đi dự tiệc cưới, mang theo đèn nhưng không đổ dầu cho đầy bình. Hôm đó chàng rể lại đến muộn, họ không có đủ dầu, vội vã đi xin dầu, nhưng không ai cho vì không ai cho. Oái ăm thay họ đã luống cuống chạy đi xa để mua, nhưng khi trở về, vì đã quá muộn, nên họ đã bị từ chối. Kinh thánh gọi họ là những cô khờ dại.
Bạn thân mến, cuộc đời chúng ta là một chuỗi những lựa chọn. Chúng ta cần chọn và yêu mến sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Lắng nghe lời Chúa dạy và đem Lời Ngài ra thực hành trong cuộc sống là một thái độ hết sức khôn ngoan của chúng ta. Chúa dạy chúng ta phải biết tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị tâm hồn. Hằng ngày không phải chỉ có biết đâm đầu vào công việc, kiếm tiền, mà quên đi chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng để sẵn sàng đi đón Chúa. Vì giờ phút thiêng liêng đó có thể đến rất bất ngờ, đến bất cứ lúc nào không ai biết.
Hạnh phúc thay cho chúng ta khi luôn tỉnh thức đợi chờ và cầm đèn cháy sáng trong tay để ra đón Chúa. Xin đừng để tâm hồn chúng ta ra ô uế, mê muội chạy theo sự khôn ngoan của trần thế mà đánh mất linh hồn. Và xin cho chúng ta luôn biết tìm đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chuẩn bị sẵn tâm hồn, để khi nghe tiếng Chúa gọi, chúng ta mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa, này con đây” (Tv 39, 8).
Trong những Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về TN 32-A166
Trong những Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về những diễn từ cánh chung được trình bày trong Tin Mừng Mátthêu (từ chương 24-25). Đây là năm diễn từ cuối cùng về cánh chung. Mỗi Chúa Nhật là một dụ ngôn: Chúa nhật hôm nay bắt đầu dụ ngôn mười trinh nữ, Chúa Nhật tới là dụ ngôn những nén bạc, Chúa Nhật cuối cùng là phán xét chung.
Để chú giải dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng rể,” chúng ta cần chú ý đến điểm giống nhau và khác nhau của những cô trinh nữ. Hai yếu tố này làm nên sự hấp dẫn và ý nghĩa của dụ ngôn.
1- Điểm giống nhau giữa các trinh nữ
Quả thế, trong dụ ngôn các trinh nữ có những điểm tương đồng đó là: Họ đều đi đón chàng rể, họ đều mang đèn đi (x. Mt 25, 1-5). Điều này cho phép chúng ta suy tư về một khía cạnh chính yếu của đời sống Kitô hữu – đó là chiều kích cánh chung, nghĩa là cuộc sống Kitô hữu là một hành trình đón chờ Chúa và chúng ta hy vọng sẽ gặp Người. Điều này giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi muôn thủa: Chúng ta là ai và chúng ta sẽ đi về đâu?
Kinh Thánh nói rằng chúng ta chỉ là những người lữ hành khi sống trên trần gian này. Thánh Phêrô trong thư I nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em là khách lạ và lữ hành” (x. 1 Pr 2,11), khi “sống cuộc đời lữ hành này” (x. 1 Pr 1,17). Quả thế, trần gian là quán trọ, là chốn lưu đày, là đò qua sông, hay là nơi tạm trú tạm bợ như được diễn tả: “Con chim ở trọ cành tre, con cá ở trọ trong khe suối nguồn, tôi nay ở trọ trần gian, trăm năm về chốn xa xăm cuối trời” (Trịnh Công Sơn). Đời sống của người Kitô hữu trên trần gian là một cuộc đời lữ hành tiến về nhà Cha trên trời. Chúng ta không có một nơi nào cố định ở trần gian, nhưng là hướng về tương lai vĩnh cửu là Nước Trời (x. Hr 13,14). Vì thế, các Kitô hữu ở “trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” (x. Ga 17,11.16). Quê hương đích thực và vĩnh cửu của con người là ở trên trời, chúng ta chờ đợi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ sẽ đến (x. Pl 3,20).
Theo lịch sử cho biết các Kitô hữu đầu tiên nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp trở lại với họ lần thứ hai, nên họ chỉ tập trung vào việc đón chờ Chúa đến. Từ thế kỷ II, cùng với quan niệm rằng: “Tự bản chất, con người là một lữ khách trên trần gian” (thư gửi cho Diogenes), người ta còn quan niệm thế gian là thế giới của tội lỗi, và vì thế, họ không đòi hỏi phải dấn thân xây dựng thế giới này qua các bổn phận trần thế như trong hôn nhân gia đình, trong công việc làm ăn, trong đất nước họ sống. Vì họ cho rằng những điều đó không có gì thuộc về Kitô giáo. Thời đó, người tín hữu quan niệm rằng: “Kết hôn như mọi người chỉ để sinh con cái, chứ chúng không có ích lợi gì cả.” Cách hiểu về “thân phận lữ hành” mang ý nghĩa cánh chung, chứ không theo ý nghĩa hữu thể học. Nghĩa là người Kitô hữu nhận mình là kẻ lữ hành từ ơn gọi, chứ không phải từ bản tính. Dầu họ được tiền định để sống cho một thế giới khác và thế giới đó là nơi họ xuất phát. Ý thức Kitô giáo về kiếp lữ hành dựa trên nền tảng sự phục sinh của Chúa Kitô: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1). Đó là lý do tại sao người Kitô hữu không bác bỏ sự sáng tạo trong sự thiện hảo nền tảng của nó.
Thời gian sau này, việc tái khám phá vai trò và sự dấn thân của người Kitô hữu trong thế giới đã giảm nhẹ ý nghĩa cánh chung, và dường như người ta lại im lặng không nói nhiều về những sự sau: đó là chết, phán xét, hỏa ngục và thiên đàng. Tuy nhiên, sự chờ đợi Chúa trở lại đượm chất Tin Mừng hơn. Theo đó, khi hướng về thiên đàng không cho phép sao nhãng bổn phận dấn thân cho tha nhân, hơn thế, còn thánh hóa bổn phận này. Các Kitô hữu được dạy rằng phải “biết phán xét với sự khôn ngoan những điều tốt lành ở trần gian, khi chúng ta hướng về những điều tốt lành trên trời.” Thánh Phaolô, sau khi nhắc nhở các tín hữu rằng “thời giờ vắn vỏi,” kết luận: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).
2- Những điểm khác biệt giữa các trinh nữ
Với tiến trình nhận thức trên, giờ đây, chúng ta chuyển sang những điểm khác biệt giữa các cô trinh nữ trong dụ ngôn: Quả thế, năm cô được gọi là khôn ngoan, thì đem đèn và đem dầu theo, khi chàng rể đến muộn, họ tỉnh dậy và sẵn sàng để ra đón chàng rể. Còn năm cô được gọi là khờ dại, vì họ mang đèn mà không mang dầu theo, khi chàng rể đến, họ phải đi mua dầu, khi trở về, thì không thể vào dự tiệc cưới. Dầu là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa họ (x. Mt 25,1-13).
Thánh Augustinô giải thích: những cô khờ dại là biểu tượng con người tự nhiên, chưa được ân sủng biến đổi. Còn những cô khôn ngoan biểu tượng của con người đã được ân sủng biến đổi. Chi tiết dụ ngôn về năm cô khôn ngoan không chia sẻ dầu hay giúp đỡ gì cho những cô khờ dại xem ra họ là người ích kỷ và không muốn giúp người khác. Điều này không cho phép chúng ta hiểu như thế. Ở đây, dụ ngôn chỉ muốn diễn tả rằng vào lúc giờ sau hết, người khác không thể thay thế chúng ta lo phần rỗi mình được, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho chính mình, nếu không sẽ bị loại ra ngoài. Đây là những bổn phận không thể thay thế. Không có cơ hội để thay thế. Nên phải luôn sẵn sàng và chuẩn bị đầy đủ.
Hình ảnh đèn là biểu tượng của đức tin, còn dầu là biểu tượng của đức ái. Nếu đức tin không có đức ái thì như đèn không có dầu và không thể thắp sáng lên được. Cũng như các trinh nữ, để đi đón chàng rể, họ phải có đèn, dầu và lòng khao khát gặp gỡ, cũng thế, để đi đón Chúa và để gặp Chúa, người Kitô hữu phải có đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin giúp chúng ta tin vào Chúa, nhận biết Chúa là Đấng Cứu Độ của chúng ta. Đức cậy là niềm hy vọng, sự khát khao trông chờ của chúng ta trong cuộc gặp gỡ đó. Và đức ái giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Nếu sống cuộc đời lữ hành này mà không có ba nhân đức đối thần, chúng ta giống như những cô trinh nữ khờ dại, đưa đèn đi đón chàng rể mà không mang dầu. Nhưng nếu có ba nhân đức này, chúng ta giống như những cô khôn ngoan, sẽ được gặp Chúa trong ngày sau hết và sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa trên thiên đàng.
Như thế, chờ đợi Chúa trở lại không có nghĩa là chúng ta mong cho được chết sớm, nhưng là tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nghĩa là hướng toàn bộ đời sống của chúng ta vào trong cuộc gặp gỡ Chúa Kitô và biến cuộc gặp gỡ này thành trụ cột của mọi sự chú ý và là biển chỉ đường cho cuộc sống. Khi đó, lúc nào Chúa đến không còn quan trọng nữa, bởi lẽ chúng ta đã luôn sẵn sàng và tỉnh thức để gặp gỡ Chúa rồi. Amen!
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn mười trinh nữ - một thông điệp về việc TN 32-A167
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn mười trinh nữ - một thông điệp về việc chuẩn bị cho ngày Chúa đến lần cuối: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể” (Mt 25: 1). Chàng rể trong câu chuyện là Chúa Giêsu và các phù dâu tượng trưng cho dân Do thái đang mong chờ Đấng Mêsia, và cả chúng ta ngày nay là các tín hữu của Ngài, đang mong chờ ngày Chiên Thiên Chúa phán: “Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ theo việc mình làm” (Kh 22: 12).
Vào thời Chúa Giêsu, nghi lễ đón chú rể diễn ra vào ban đêm, nên các cô phù dâu, vốn là những cô gái trẻ chưa chồng đang ở nhà gái chờ chàng rể đến, phải chuẩn bị đèn thắp sáng sẵn sàng để rước chú rể vào nhà của cha cô dâu, nơi lễ cưới sẽ diễn ra.
Dụ ngôn tập trung vào thái độ mà người ta phải có khi Chúa Giêsu đến. Chúa Giêsu cảnh báo cơn buồn ngủ, dẫn đến sự mất tỉnh thức và cảnh giác, đang xâm chiếm cõi lòng dân Do thái khiến họ dần trở nên mệt mỏi sau thời gian dài mong chờ. Nói cách khác, tự hào rằng mình là dân tuyển chọn của Thiên Chúa, đang “ở trong” Vương quốc, “ở trong Giáo hội” thôi thì chưa đủ: người ta còn cần phải canh thức và chuẩn bị cho Chúa Kitô đến bằng cách cầm đèn sáng trong tay. Sự cảnh giác này phải liên tục và không mệt mỏi, như Thánh Phêrô đã căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).
Thời gian chờ đợi Chúa đến giống như một đêm dài, mà giờ Chàng Rể đến thì lại bất ngờ. Màn đêm trở nên khó đoán định: mọi việc không diễn ra như mọi người mong đợi. Thiên Chúa không làm việc theo lịch trình của chúng ta và Chàng Rể không đến vào lúc chúng ta muốn. Chúng ta có nguy cơ không đủ kiên trì sẵn sàng chờ đợi và đón nhận Chúa Kitô trong cuộc sống hàng ngày đa đoan và nhiễu sự của chúng ta.
Đối với những người đã có kinh nghiệm trông chừng người bệnh nghiêm trọng suốt đêm, đặc biệt nếu người bệnh là người rất thân thiết, họ sẽ nhận ra tầm quan trọng của việc cố gắng giữ cho mình khỏi buồn ngủ. Họ làm mọi thứ trong khả năng của mình để tỉnh táo. Tuy nhiên, vẫn có lúc họ chìm vào giấc ngủ, dù chỉ trong một thời gian ngắn, những khoảnh khắc vượt khỏi tầm kiểm soát của họ…Và khi ấy điều nguy hiểm có thể xảy ra.
Cũng sẽ xảy ra những nguy cơ như vậy trong cuộc sống của mỗi người chúng ta: dù chúng ta cố gắng hết sức để tỉnh táo, nhưng đôi khi chúng ta lại ngủ quên. Chúng ta ngủ quên vì mất lòng tin hoặc vì không kiên trì. Chúng ta ngủ quên khi cảm thấy vô vọng hoặc vì không muốn nhìn vào sự thật về cuộc sống của mình. Sự thật ấy là thời gian cứ trôi qua, thân xác dần lão hóa, tâm trí suy kiệt, bệnh tật xuất hiện, rồi cái chết đến, sau đó là gì nữa... Nhưng chúng ta cứ say ngủ trong một cuộc sống hời hợt, đầu tư quá nhiều tâm trí và lòng dạ vào những thứ phàm trần mau qua: tiền bạc, của cải vật chất, quyền lực, danh tiếng, thú vui, các mối quan hệ...Những thứ này ảnh hưởng đến cách suy nghĩ, phát ngôn và hành động của chúng ta, khiến chúng ta quên mất mục đích đời mình là luôn sẵn sàng ra đón Chúa Kitô - Chàng Rể của Bữa tiệc muôn đời, Đấng đem lại sự sống trọn vẹn. Giờ Chúa đến không ai biết trước được: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến…Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:42-43). Quá gắn bó với chuyện đời, chúng ta sa vào lối sống thực dụng duy vật chất, xem nhẹ “những chuyện đời sau”, trở nên vô thần thực tế, chọn những lợi ích trần thế làm mục đích, không còn khát khao cõi trời cao, khởi đi từ cõi lòng của chính mình, để mình bị dìm ngập trong những mê say trần gian, như sách Sáng thế ký diễn tả: “Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày…Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất” (St 6:5,12) hay như Thánh Phaolô căn dặn các tín hữu của ngài: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm…chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa…Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện” (1 Tx 4:3,5,7). Chúng ta đôi khi tự hỏi: bao giờ Chúa đến với tôi, nhưng ít khi lo tự hỏi: lúc này đây, tôi đã sẵn sàng đón Chúa chưa?
Theo dụ ngôn, mọi người đều ngủ quên: cả những cô trinh nữ khôn ngoan và những cô khờ dại: “Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả” (Mt 25:5). Việc ngủ quên là điều không tránh khỏi, một thực tế của cuộc sống. Vấn đề không nằm ở khả năng tỉnh táo của họ mà nằm ở cách họ chuẩn bị đèn. Đôi khi đèn của chúng ta có thể tắt nhưng nếu chúng ta biết thắp nó sáng lại và sử dụng nó thì chúng ta sẽ biết phải làm gì trong lúc tối tăm. Điều quan trọng là giữ cho đèn luôn có sẵn dầu. Dầu ở đây là Chúa Thánh Thần, và khi một người không có Thần Khí của Thiên Chúa thì không thể nào đến cùng Thiên Chúa, vì Thần Khí của Thiên Chúa chứng thực ai thuộc về Ngài: “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:16). Năm cô khờ dại không có dầu, nghĩa là họ không có Thần Khí của Thiên Chúa, họ không thể được kể vào số những con cái Thiên Chúa, được tham dự niềm vui Bàn Tiệc Nước Trời: “Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại” (Mt 25:10).
Những trinh nữ bị coi là dại dột không phải vì họ buồn ngủ mà điều cơ bản hơn là họ không bao giờ chăm sóc chiếc đèn của họ, không bao giờ nghĩ đến việc chuẩn bị đi đón Chàng Rể. Trong đời của họ, họ chưa bao giờ quan tâm đến Chàng Rể và mong chờ gặp gỡ Ngài; đó là lời giải thích tại sao họ không chuẩn bị đủ dầu. Chúng ta ngày nay có giống như những cô khờ dại này không, chẳng hạn, dửng dưng “không nhận ra hoặc công khai gạt bỏ sự liên kết mật thiết và sống động giữa con người với Thiên Chúa”? (Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes,19).
Dầu giữ cho đèn cháy sáng. Ngọn đèn nhắc nhở chúng ta lời mời gọi của Chúa Giêsu bước theo Ngài: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12) để trở thành ánh sáng: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:14-16). Hơn nữa, người môn đệ của Chúa Giêsu phải trở thành ánh sáng thế gian, ngọn đèn không thể bị giấu dưới thùng: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2:15). Cuộc sống của chúng ta sẽ tỏa sáng cho những người khác và giúp họ tìm ra con đường đích thực của đời mình.
Thánh Augustinô dạy “Hãy tỉnh thức bằng trái tim, tỉnh thức bằng đức tin, tỉnh thức bằng tình yêu thương, tỉnh thức bằng bác ái, tỉnh thức bằng việc lành…; chuẩn bị sẵn đèn, đảm bảo chúng không bị tắt…; đổi mới chúng bằng thứ dầu bên trong là một lương tâm ngay thẳng; thì Chàng Rể sẽ ôm bạn vào lòng yêu thương của Ngài và đưa bạn vào phòng tiệc của Ngài, nơi ngọn đèn của bạn không bao giờ tắt” (Bài giảng 93).
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Giữa lần đầu Chúa Kitô đến và lần cuối cùng Ngài trở lại, có một khoảng “thời gian gần kề” và đó chính là thời gian mà chúng ta đang sống…Thời gian chờ đợi Ngài đến là thời gian Ngài ban cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, với lòng thương xót và kiên nhẫn; đó là thời gian cảnh giác; một thời gian trong đó chúng ta phải thắp sáng những ngọn đèn đức tin, hy vọng và bác ái, thời gian để giữ cho tâm hồn chúng ta luôn rộng mở trước sự Chân,Thiện, Mỹ. Đó là thời gian để sống theo Lời Thiên Chúa, vì chúng ta không biết ngày giờ Chúa Kitô trở lại. Điều Ngài yêu cầu chúng ta là sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ - sẵn sàng cho một cuộc gặp gỡ đẹp đẽ, cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, nghĩa là có thể nhìn thấy những dấu hiệu về sự hiện diện của Ngài, giữ vững đức tin của chúng ta bằng lời cầu nguyện, bằng các bí tích, và chú ý đừng ngủ quên để rồi quên mất Chúa. Cuộc sống của những Kitô hữu đang ngủ mê là một cuộc sống buồn bã, không phải là một cuộc sống hạnh phúc. Người Kitô hữu phải hạnh phúc, với niềm vui của Chúa Giêsu. Chúng ta đừng ngủ quên!” (Buổi tiếp kiến chung, ngày 24 tháng 4 năm 2013).
Đừng cất ngọn đèn Tin Cậy Mến vào tủ mà hãy cầm chúng trên tay và thắp sáng, ngay cả khi thế gian nói rằng điều đó là ngu ngốc và vô nghĩa. Thời gian chờ đợi không kéo dài mãi mãi, rồi ra giữa tăm tối sâu thẳm nhất cõi lòng, sẽ có tiếng kêu vui mừng vang lên: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” (Mt 25:6).
Chắc chắn khi Chúa đến, chúng ta không ai muốn nghe Ngài nói những lời này: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 25: 12). Còn thời gian, còn hy vọng. Chúa của chúng ta, với lòng thương xót dồi dào, liên tục tìm kiếm chúng ta và ban cho chúng ta cơ hội để sửa chữa lối sống của mình, hãy luôn sống trong Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa như trong bài đọc thứ hai viết: “Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà. Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu” (Kn 6:12-15).
Cõi Trần Gian Không Thiếu Kẻ Dại, Nơi Tục Tụy Vẫn Đầy Người Khôn. Dụ ngôn “Mười Cô Trinh TN 32-A168
Cõi Trần Gian Không Thiếu Kẻ Dại Nơi Tục Tụy Vẫn Đầy Người Khôn.
Dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13) nêu rõ vấn đề “tỉnh thức.” Sự tỉnh thức liên quan tình trạng Khôn Ngoan và Dại Khờ. Đây là một trong các dụ ngôn “quen thuộc” nói về cánh chung, đặc biệt là liên quan “tận thế riêng” của mỗi người.
Trong cuộc sống đời thường và tâm linh có hai loại người đối lập nhau: Người Khôn biết phân định và lo xa, còn Kẻ Dại ỷ lại hoặc bất cần nên khinh suất và xả láng. Hai loại người đó được Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, năm cô dại mang đèn mà không mang dầu theo; còn các cô khôn mang đèn và dầu dự trữ. Chú rể đến chậm nên các cô ngủ thiếp. Nửa đêm, có tiếng báo chú rể đến, tất cả các cô thức dậy và cầm lấy đèn.
Nhưng đèn của năm cô dại cạn dầu, không đủ thắp sáng, và họ phải xin dầu. Các cô khôn không dám cho vì biết dầu của họ không thể đủ dầu thắp sáng đèn của chính mình và của người khác, họ khuyên các cô dại nên đi mua dầu. Khi các cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, các cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Cửa phòng đóng lại, cửa cơ hội cũng khép lại vĩnh viễn!
Khi các cô dại trở về và gọi cửa, thì chú rể nói “không biết họ là ai.” Thế là hết! Vì vậy, Chúa Giêsu đã căn dặn và cảnh báo: “Anh em hãy CANH THỨC, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Ai khôn, ai dại đã rõ. Hai năm rõ mười. Trong đời sống, đặc biệt đời sống tâm linh, người mà chúng ta tưởng là khôn lại chỉ là dại, người mà chúng ta tưởng là dại lại là khôn.
I. DẠI MÀ KHÔN
Trong thi phẩm “Dại Khôn,” thi sĩ Trần Tế Xương kết luận: “Này kẻ nên khôn đều có dại, Làm người có dại mới nên khôn.” Trong bài “Dậy Mà Đi,” cụ Ngô Tất Tố xác định: “Ai nên khôn (mà) không khốn một lần!” Trong cái khó ló cái khôn. Cuộc sống cho chúng ta biết rằng đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dầy. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, thuyết tương đối của bác học Einstein vẫn đúng. Thật kỳ lạ!
Kinh Thánh xác định: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời.” (Hc 1:1) Thánh Vịnh gia ý thức: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan. Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy. Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người.” (Tv 111:10) Thánh Bênađô nói: “Nếu con người KHÔNG biết kính sợ và yêu mến Thiên Chúa, bất kể họ gọi Ngài là gì thì KHÔNG THỂ gọi họ là người khôn ngoan.”
Thế nào là khôn ngoan? Kinh Thánh cho biết: “Người khôn tránh bạn xấu.” (Cn 1:8a) Đức khôn ngoan cần thiết trong cuộc sống, vì đó là một ơn của Chúa Thánh Thần. Người khôn ngoan biết tiên liệu và dự phòng điều có thể xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Dù không học nhiều, thậm chí là mù chữ, nhưng người ta vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Thật vậy, Menander (342-291 trước công nguyên) nói: “Tóc bạc KHÔNG sinh ra sự khôn ngoan.” Tác giả sách Huấn Ca thẳng thắn nói: “Già đầu mà ngu.” (Hc 25:2)
Thật thú vị bởi vì đức khôn ngoan liên quan sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác cũng rất cần thiết trong đời sống. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan.” Tác giả sách Giảng Viên cho biết: “NGƯỜI KHÔN biết mở mắt nhìn, KẺ DẠI bước đi trong tăm tối.” (Gv 2:14)
Cần có sự khôn ngoan trước khi có quyền lực, như vậy mới có thể dùng quyền một cách đúng đắn, nếu không sẽ rất nguy hiểm. Vua Salômôn thực sự khôn ngoan khi xin ơn khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Điều ông xin làm Chúa hài lòng: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi.” (1 V 3:11-13; 1 Sb 1:11-12) Ông đã có mọi thứ, và ông nổi tiếng khôn ngoan với vụ kiện “giành con” của hai cô gái điếm. (x. 1 V 3:16-28)
Về tầm quan trọng của sự khôn ngoan, Kinh Thánh nói: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.” (Kn 6:12-14)
Có vài “điều nhỏ” để suy tư:
[1] Nếu chỉ biết sáng đi làm, chiều trở về, ăn uống, xem TV, quẹt điện thoại, rồi ngủ, thì chẳng khác gì động vật;
[2] Nếu có ý định gian lận cái gì đó của người khác thì đó là lúc đen tối nhất của cuộc đời;
[3] Người thầy mà không dạy cho học trò biết ham muốn học tập, đó là tồi tệ;
[4] Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài, đó là học trò ngu dốt, vô trách nhiệm với cuộc đời mình, chẳng hy vọng gì trong tương lai;
[5] Người nóng vội, bộp chộp, ảnh hưởng xấu tới tinh thần và thể lý, ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì họ không hơn con chó giữ nhà;
[6] Sống mà không có ước mơ, luôn than phiền, chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống.
Và còn nhiều điều khác tương tự. Đó là lối sống ích kỷ, chỉ biết yêu mình, không sáng suốt và không khôn ngoan. Sống thụ động và buông xuôi như vậy là lãng phí cuộc đời, là “chết” ngay khi còn hít thở.
Kinh Thánh nói: “Trí khôn ngoan làm miệng nên khéo léo, và thêm sức thuyết phục cho đôi môi.” (Cn 16:23) Sự khôn ngoan không chỉ làm cho người ta linh hoạt về tinh thần, mà còn tươi tỉnh cả về thể lý: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng.” (Gv 8:1) Sự khôn ngoan quá tuyệt vời. Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.” (Kn 6:15-16) Đó không là sự khôn ngoan nhờ phàm nhân mà xuất phát từ Thiên Chúa.
Càng khôn thì càng khéo. Cứ thế và cứ thế. Cái lợi này tích lũy thêm cái ích nọ. Người khôn ngoan biết tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” trong tầm nhìn của loài người. Nhưng điều trường cửu đó là điều thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.” (Tv 63:2-3)
Người khôn ngoan chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, vì sự khôn ngoan đích thực từ Thiên Chúa, và họ có được Ngài. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.” (Tv 63:8)
Khôn ngoan giúp người ta bớt lo lắng, bớt lo lắng thì dễ an tâm, nhờ an tâm mà khả dĩ vui sống. Ngược lại, vì thiếu khôn ngoan mà người ta cảm thấy bất an, khắc khoải, lo sợ và nuối tiếc. Người ta bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Thuyết nhà Phật gọi tình trạng đó là “giác ngộ.” Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp Saigon với phong cách rất “bụi,” ông than thở: “Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật, Thế cho nên tất bật đến bây giờ!” Có thể là muộn khi “ngộ” ra, nhưng muộn vẫn hơn không!
Cũng trong thi phẩm “Dại Khôn,” thi sĩ Trần Tế Xương nhận định: “Thế sự đua nhau nói dại khôn, Biết ai là dại biết ai khôn.” Thật khó có thể biết ai dại, ai khôn. Cứ tưởng người này khôn mà là dại, cứ tưởng người kia dại mà là khôn. Đáng sợ nhất là “cứ tưởng mình khôn,” để rồi phải khốn! Thánh Phaolô cho biết: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người.” (1 Cr 1:25) Người khôn ngoan nhất là người biết kính sợ Thiên Chúa. (x. Tv 111:10) Sống ở đời, chẳng ai biết ngày mai mưa hay nắng, cũng không thể biết đời mình sẽ ra sao, vì thế mà luôn phải tỉnh thức. Đó là dại mà khôn!
II. KHÔN MÀ DẠI
Các kinh sư, luật sĩ, kỳ mục, với nhóm Pharisêu và Sađốc cho chúng ta thấy rõ dạng “khôn mà dại.” Thiên Chúa đã cảnh báo: “Nếu ngươi KHÔNG TỈNH THỨC thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi CHẲNG BIẾT giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3:3) Bão lũ, lụt lội, giông tố, động đất, sóng thần, tai nạn,... Không ai biết lúc nào có “sự cố,” dự báo thời tiết cũng chỉ là đoán chừng, không thể biết chính xác thời điểm. Ngay giữa lòng thành phố mà có nhà tự dưng sụp xuống. Không ai có thể dự đoán, hoàn toàn “bó tay,” vậy mà người ta vẫn dám coi thường Thiên Chúa, muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống này.
Thiên Chúa toàn năng, mọi sự đều bởi Ngài, nhờ Ngài, và Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố cuộc đời. Danh nhân Rabindranath Tagore (1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại,… Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào.” Tư tưởng ngài Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha (Sư Tử Thái Dương).
Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv 139:1-5) Thật vậy, từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Ngài đếm. (Mt 10:30; Lc 12:7) Thiên Chúa dò xét mọi tâm can và thấu suốt mọi tư tưởng, ai tìm Ngài thì Ngài cho gặp, ai lìa xa Ngài thì Ngài lìa bỏ. (1 Sb 28:9)
Thật lạ lùng, chỉ nhỏ nhoi như sợi tóc, chẳng đáng gì, thế mà Thiên Chúa còn quan phòng và tiền định, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan mạng sống con người, mà Ngài lại chính là Sự Sống và Nguồn Sống. (Ga 14:6; Tv 36:10) Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu.” (1 Tx 4:13-14)
Thật diễm phúc cho chúng ta khi được làm người sống ở đời, nhưng người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng là “đi” bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng là cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Thánh Thể và Lời Chúa cần cho mỗi Kitô hữu. Thánh Phaolô nói: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.” (1 Tx 4:15-18)
Qua đó, chúng ta biết chắc chắn thời đại của chúng ta là thời cánh chung, nhưng không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không. Vì không biết nên chúng ta phải tỉnh thức, và không ngừng sống trong tình trạng tỉnh thức, nghĩa là phải sống yêu thương đến từng chi tiết: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hòa thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người.” (1 Tx 5:13-14)
Thời cuối, chúng ta thấy có nhiều thứ rắc rối liên quan đức tin Công Giáo – rối đạo, bỏ đạo, ly dị, tà giáo,... Đó là điều chứng tỏ gần tới điểm kết thúc. Bốn vị giáo hoàng gần đây nhất cho chúng ta thấy “rõ nét” hơn về ngày tận thế qua lời nhận xét của các ngài: [1] “Cuộc trở lại của Đức Kitô KHÔNG CÒN XA.” (Piô XII, 1938-1958) [2] “Cuộc trở lại của Đức Kitô đã ĐẾN GẦN.” (Gioan XXIII, 1958-1963) [3] “Cuộc trở lại của Đức Kitô đã KỀ CẬN.” (Phaolô VI, 1963-1978) [4] “Hãy MỞ CỬA đón Chúa Kitô.” (Gioan Phaolô II, 1978-2005)
Đừng nhẹ dạ cả tin kẻo “tưởng khôn mà dại” rồi phải khốn. Chúa Giêsu xác định: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:22; Mt 24:13) Đó là lúc tỏ tường ai là Người Khôn và ai là Kẻ Dại.
Lạy Thiên Chúa cực thánh, xin dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan, (Tv 51:8) xin dạy con biết đếm tháng ngày con sống để tâm trí con được khôn ngoan, (Tv 90:12) biết trữ dầu-đức-tin để thắp sáng đèn-đời khi canh thức. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bạn có thấy sự khác nhau giữa người THẬT KHÔN NGOAN & người KHÔN NGOAN THẬT không TN 32-A169
Bạn có thấy sự khác nhau giữa người THẬT KHÔN NGOAN & người KHÔN NGOAN THẬT không? Tôi thấy có đấy! Khác ở chỗ nào hả?
Người THẬT KHÔN NGOAN là người cậy vào sức riêng của họ, họ dùng tài năng, trí thông minh, sức khỏe ...để đầu tư, và làm đủ mọi phương cách, thậm chí dùng mọi thủ đoạn, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp thiên luật cũng như dân luật…để mưu tìm những vinh hoa phú quý, những sự giàu sang, chức quyền, danh vọng ở thế gian. Họ là người chẳng hề quan tâm và cũng chẳng lo lắng đầu tư gì cho cuộc sống mai hậu, cho cuộc sống vĩnh cửu sau khi họ từ giã cõi đời này. Họ sống như thể họ không bao giờ phải chết cả!
Còn người KHÔN NGOAN THẬT là người biết cậy dựa vào ơn Chúa, biết dùng tài năng, trí thông minh, sức khỏe…của Chúa ban, để đầu tư, để làm ăn sinh sống, để phục vụ, và để mưu tìm niềm vui, sự hạnh phúc và bình an ở cuộc đời này và nhất là ở đời sau. Nói cách khác, người KHÔN NGOAN THẬT là người biết dùng tất cả mọi phương tiện Chúa ban cho họ, để học hành, lao động, đầu tư, và lo lắng cho cuộc sống tại thế này, nhưng đồng thời, họ cũng biết lo lắng, chuẩn bị cho đời sống tâm linh, lo
để sau khi họ từ giã thế gian này họ sẽ có được một chỗ ở vĩnh cửu trên Thiên Quốc.
Bạn cho phép tôi hỏi nhỏ bạn câu này: “Bạn là người THẬT KHÔN NGOAN, hay là người KHÔN NGOAN THẬT vậy?” Nếu bạn là người KHÔN NGOAN THẬT, đã thì tôi xin chia vui, chúc mừng, và chúc bạn luôn luôn là người KHÔN NGOAN THẬT trong mọi ngày, và trong suốt cuộc đời của bạn.
Còn nếu bạn là người THẬT KHÔN NGOAN, chỉ biết lo cho đời này mà thôi, và chưa lo chi cho đời sau, thì tôi xin bạn hãy suy nghĩ lại. Xin hãy lo liệu và chuẩn bị cho đời sau của bạn, vì cuộc đời này ngắn lắm, rất ngắn nữa là đàng khác, ngắn đến độ Vua Thánh Đa-vít đã phải thốt lên rằng: “Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi… khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (TV 90:10b; 144:4b). Tin tôi đi, dù bạn thích hay không thích, và dù bạn có tài giỏi, khỏe mạnh, đẹp trai, xinh gái, giàu có, sang trọng quý phái…mấy đi chăng nữa, thì một ngày nào đó, có thể hôm nay, tuần này, hay tháng này, hoặc vài chục năm nữa… bạn cũng sẽ phải từ giã cõi trần này, lúc đó bạn sẽ phải bỏ lại tài sản mình cho người khác…ba tấc đất mới thật là nhà, nơi [bạn] ở muôn đời muôn kiếp” (Tv 49:12). Chưa hết, lúc chết rồi thì con mình để dượng nó sai, tiền bạc của mình để dượng nó xài! Thua là cái chắc!
Xin bạn hãy cố gắng và nỗ lực phấn đấu để là một người KHÔN NGOAN THẬT, chứ đừng chỉ là một người THẬT KHÔN NGOAN, bởi vì chết không phải là hết, mà còn có đời sau, còn có đời sống vĩnh hằng nữa. Bạn cứ việc học hành, lao động, đầu tư, làm ăn, lo sao cho bạn có được một đời sống sung túc, bình an và hạnh phúc, nhưng xin bạn đừng dừng lại ở đó, nhưng xin hãy lo liệu, tính toán và đầu tư cho cuộc sống mai hậu của bạn nữa thì lúc đó bạn mới được coi là người KHÔN NGOAN THẬT.
• Lo lắng và chuẩn bị cho đời sau bằng cách noi gương năm cô trinh nữ khôn ngoan trong bài Tin Mừng hôm nay, lo tích trữ cho thật nhiều dầu có tên là bác ái, bố thí, chia sẻ & cho đi, bởi vì trong ngày sau hết, Thiên Chúa chỉ ban sự sống vĩnh cửu cho những người khi còn sống ở trần gian đã cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới áo mặc, đi thăm viếng kẻ bị tù đày và bệnh tật (Mt 25:35-36).
• Lo liệu cho đời sau của bạn bằng cách thu xếp thời gian, siêng năng đến tham dự các thánh lễ và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, bởi vì đây là một phương thế để bạn và tôi chiếm được sự sống vĩnh cửu, bởi vì chính Chúa Giê-su đã hứa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sẽ được sống đời đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6:54).
• Lo liệu sao để bạn được gần gũi, được sống thân tình và được kết hiệp mật thiết với Chúa qua việc cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, suy niệm Lời Chúa, Lần Chuỗi Mân Côi, tham dự Chầu Thánh Thể … bởi vì nếu chúng mình sống kết hiệp thân tình với Chúa khi còn sống, thì sau khi qua đi, chúng ta cũng sẽ được găn bó với Ngài, vì Chúa đã phán: “Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó [với Thầy]” (Ga 14:3).
Nguyện xin Chúa Thánh Thần ban cho bạn và tôi ơn khôn ngoan, ơn thông minh và ơn biết lo liệu, để chúng mình luôn là những người KHÔN NGOAN THẬT, biết lo lắng, dự liệu và đầu tư cho cuộc sống tại thế, nhưng đồng thời cũng biết chuẩn bị thật chu đáo, và thật đầy đủ cho cuộc sống mai hậu nữa. Xin Chúa gìn giữ, chúc lành và ban cho bạn sức khỏe và niềm vui trong tuần lễ mới này.
Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là một câu chuyện rất nổi tiếng, nói về mười cô phù dâu TN 32-A170
Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là một câu chuyện rất nổi tiếng, nói về mười cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Dụ ngôn này nằm trong một loạt các dụ ngôn của Đức Giê-su nói về một chủ đề, đó là phải sẵn sàng khi chờ đợi Chúa. Nói thì dễ, nhưng làm rất khó. Không mấy ai trong chúng ta đã sẵn sàng đón ngày Chúa đến. Thế nào cũng xin Chúa thêm một thời gian vì còn một số việc chưa giải quyết xong.
Xin thì cứ xin, chứ có ai xin cho đời mình dài thêm một gang một tấc mà được ban cho hay chưa! Tuy nhiên, dù chúng ta đã sẵn sàng hay chưa, đến giờ đến buổi, không trễ một khắc và cũng không sớm một giây, Chúa sẽ đến đúng kỳ đúng hẹn theo như chương trình của Chúa. Khổ một nỗi là không ai trong chúng ta biết toàn bộ chương trình của Chúa. Vì thế, dụ ngôn nhắm đến là việc chuẩn bị, sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến.
Chi tiết chàng rể đến chậm thật quan trọng, chúng ta giải thích thế nào đây? Điều này có thể dựa theo thói tục địa phương thời xưa: việc cưới xin không do chú rể và cô dâu chủ động; nhưng nhờ sự mai mối và được chấp thuận bởi hai gia đình. Sau đó cả hai gia đình cần thời gian để thương lượng. Việc thuơng luợng này có thể kéo dài hàng tháng. Nhưng trong dụ ngôn hình như việc dàn xếp xẩy ra trong ngày cưới; và gặp khó khăn nên nhà gái phải chờ đợi, có khi tới khuya hoặc nửa đêm cũng không chừng.
Theo phong tục của những người sống cùng thời với Đức Giê-su, các cô phù dâu sẽ ra ngoài để đón chú rể và vì trời tối cho nên họ cần mang theo đèn. Cả mười cô đều biết là chàng rể sẽ đến trễ, vì thế việc chờ đợi là chuyện tất nhiên. Bởi thế, việc chuẩn bị trong lúc chờ đời thật quan trọng. Đức Giê-su đã nói là có năm cô khôn ngoan và năm cô dại khờ. Các cô được Đức Giê-su khen là khôn ngoan vì họ biết chuẩn bị trong lúc đợi chờ, còn các cô dại khờ vì biết sẽ phải đợi mà lại không biết chuẩn bị.
Thật ra, ngay cả bây giờ, có một điều vô cùng thú vị mà ít ai trong chúng ta để ý đó là chuyện đợi chờ trong dịp lễ cưới. Cho dù các bà đã chuẩn bị sẽ trang điểm thế nào, ăn mặc ra sao, nhưng có ông chồng nào đã không phải chờ đợi các bà vợ trang điểm trước khi đến tham dự đám cưới hay chưa? Gia đình hai họ, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần và ngay cả vị chủ sự nghi lễ cũng phải mòn mỏi chờ đợi cô dâu đến nhà thờ. Việc làm này không đáng được khích lệ, nhưng rất phổ biến. Hình như việc cô dâu đến muộn là một thông lệ nói lên tầm quan trọng của cô dâu. Rồi chờ chụp hình, chờ ở phòng lễ tân để trao quà tặng trước khi vào phòng tiệc. Chờ món ăn đầu tiên. Chờ để nghe các bài phát biểu của hai họ. Chờ nghe cô dâu và chú rể kể lại chuyện tình của đời họ và nói lời cảm ơn…. Nói chung, đám cưới là dịp trọng đại nên mọi người cảm thấy chờ đợi là chuyện hợp tình hợp lý, dễ thông cảm. Vì thế, chúng ta không nên ngạc nhiên khi nghe Đức Giê-su kể một câu chuyện về đám cưới, bao gồm nhiều lần chờ đợi. Và việc chuẩn bị hay sẵn sàng chờ đón chú rể là sứ điệp của Chúa qua dụ ngôn này.
Vẫn biết là như thế, nhưng trong thực tế, việc chờ đợi cũng khiến cho anh em tín hữu tiên khởi cảm thấy mệt mỏi, họ chờ mãi mà chẳng thấy Chúa trở lại. Có lẽ, giống như các cô phù dâu, họ đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ khi chờ đợi. Chúng ta cũng thế, hơn hai ngàn năm đã trôi qua, chúng ta cũng buồn ngủ và lơ là với việc sống đức tin, chểnh mảng trong các công việc đạo đức, bị ảnh hưởng và chạy theo nếp sống thế tục. Thậm chí, có một số người trong chúng ta có thể đã có ý nghĩ rằng Chúa chưa đến ngay bây giờ, thôi để chuyện hối cải và yêu thương cho ngày mai, vẫn còn kịp chán bởi vì đàng nào thì Chúa cũng chưa đến ngay. Trong tâm trạng và với lối suy nghĩ như thế chúng ta mới nhận ra tầm quan trọng của sứ điệp mà dụ ngôn muốn nói hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Vấn đề mà chúng ta cần đặt ra là trong khi chờ đợi, chúng ta phải lựa chọn lối sống nào? Đức Giê-su đã cho chúng ta câu trả lời trong dụ ngôn mà Người nói hôm nay.
Chìa khóa trong dụ ngôn nói về việc sẵn sàng khi chờ đợi mà Đức Giê-su nói là ‘dầu’. Có một số người giải thích dầu ở đây nghĩa là đức tin, cầu nguyện, việc tham dự các thánh lễ hay những việc thờ phượng khác, và tất cả những việc khác giống như vậy. Đó có phải là ý của Thánh Mát-thêu hay không?
Lại phải đặt dụ ngôn này trong tòan bộ Tin Mừng do Thánh sử biên sọan để biết chúng ta cần sống như thế nào để chuẩn bị ngày Chúa đến? Như anh chị em còn nhớ mục tiêu mà thánh Mát-thêu viết Tin Mừng là trình bầy về con người và công việc của Đức Giê-su. Ngài đến trần gian để rao giảng và thiết lập Nước Trời. Thành viên của Nước Trời là những ai sống theo lời dậy bảo của Đức Giê-su trong ‘bài giảng trên núi’. Và một khi chúng ta đã bằng lòng chấp nhận lối sống mà Chúa đề ra trong bài giảng trên núi thì nghèo khó, hèn mọn, đau khổ không hẳn là những điều bất hạnh.
Tuy nhiên, theo bản năng của con người thì nhiều người chỉ áp dụng những tiêu chuẩn trong bài giảng trên núi này một thời gian ngắn; nhưng chờ mãi chẳng thấy Chúa đến khiến họ đâm ra chểnh mảng và xao nhãng.
Rồi nói đến việc xây dựng hòa bình dù chỉ trong một ngày đã là điều khó thưc hiện; nhưng vẫn còn dễ hơn là sống để trở thành khí cụ bình an của Chúa trong một môi trường đầy trở ngại và đối nghịch với Tin Mừng.
Còn nữa, như việc thuơng yêu kẻ khác. Thật là dễ dàng khi chúng ta thương xót và tha thứ cho người khác một vài lần trong cuộc đời. Nhưng quả là khó khăn khi chúng ta phải thực hiện lòng thuơng xót và tha thứ này trong cả cuộc đời.
Sau cùng, chúng ta chẳng hề hay biết ngày nào, giờ nào chú rể sẽ đến. Vì thế phải sẵn sàng bằng cách trang bị cuộc sống cho đủ số luợng dầu là những huấn lịnh được loan báo trong bài giảng trên núi mà chúng ta vừa nói ở trên. Và khi chàng rể đến, chúng ta có lượng dầu đủ để thể thắp đèn ra đón tiếp lang quân.
Ngoài số lượng dầu cần mang theo chúng ta còn phải tạo điều kiện để Chúa biết ta. Thật vậy, khi cánh cửa phòng của tiệc cưới khép lại, chúng ta không nghe thấy tiếng của chàng rể vọng ra: ‘Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô!’ hay sao?
Có nhiều kiểu ta biết Chúa. Nhưng kiểu ‘biết Chúa’ của chúng ta cũng lạ đời lắm. Có ai ngờ cả nhóm, cả gia đình, cả xứ đạo đều tuyên xưng là biết Chúa; thế mà Chúa trong nhà thờ khác Chúa trong cuộc sống. Chẳng cần phải nói đến chuyện cả thể sẽ phải làm, chỉ cần ra đến bãi đậu xe mà gặp ai làm trái ý mình thì biết Chúa của ta ngay. Rồi đến Chúa của ông này chống Chúa bà kia. Chúa của chồng thì khác Chúa của vợ. Vì thế, dù ta có biết Chúa đến độ nào, thì việc biết ấy vẫn là sự biết có ngần có hạn. Còn Chúa biết, là biết hết, biết rõ những gì sâu thẳm nhất trong đời sống của từng người, biết sự giới hạn và yếu đuối của chúng ta. Người biết để tha thứ, để thông cảm và yêu thương. Như vậy, Chúa biết ta vẫn hơn việc ta biết Chúa.
Muốn được Chúa biết, ta cần làm những việc giống như Chúa làm; sống tiêu chuẩn giống như Chúa sống; biết thông cảm và luôn tha thứ như Chúa thuờng thứ tha. Trên hết mọi sự là mời Chúa hiện diện trong mọi cách hành xử của chúng ta. Nếu chúng ta làm đúng như thế thì Chúa sẽ vui mừng, giả như chúng ta hành động chưa được tốt lắm, thì cũng không nên lo lắng quá. Bởi vì Chúa biết và còn biết rất rõ về những việc làm chưa tốt của chúng ta. Nó phát sinh từ sự yếu đuối và chính bởi sự yếu đuối đó mà sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong đời sống của chúng ta.
Tóm lại, niềm tin chưa hẳn là chìa khóa mở cửa phòng của tiệc cưới. Muốn tham dự tiệc cưới, người tín hữu cần có lối sống phù hợp với những điều Chúa dậy trong bài giảng trên núi. Nói cách khác, qua cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta đều phải là họa ảnh lối sống của Chúa. Đó là cách chuẩn bị tốt nhất. Và bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp và cùng tham dự bữa ăn với Chúa rồi. Amen!
Hơn 1940 năm trước, chính xác là năm 79 Công nguyên, núi lửa Vésuve ở Ý đã phun lên. Khi TN 32-A171
Hơn 1940 năm trước, chính xác là năm 79 Công nguyên, núi lửa Vésuve ở Ý đã phun lên. Khi nó ngưng phun lửa, thành phố Pompéi dưới chân nó đã bị chôn vùi dưới gần 6 mét phún thạch. Thành phố nằm yên như thế mãi đến thế kỷ 18, lúc các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Ai ai cũng ngạc nhiên về những điều khám phá được. Bánh mì thành than nhưng vẫn nguyên dạng, trái cây vẫn tiếp tục bốc mùi, những trái ô-liu vẫn còn nổi trong chảo. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phun thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại họa ập xuống. Các thân thể dĩ nhiên đều bị hư hoại, nhưng chúng đã để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng và dày. Dùng cách đổ thạch cao lỏng vào các lỗ trống đó, các nhà khảo cổ học đã khôi phục được hình hài các nạn nhân. Một số tượng này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính canh Rô-ma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm trong tư thế chiến đấu, chân đang đặt trên một đống vàng bạc. Rải rác quanh anh là năm xác khác, có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh hạ thủ. Câu chuyện những bức tượng thạch cao này minh họa sống động cho hai chủ đề trong trình thuật Tin Mừng hôm nay.
Sống Trong Sự Chờ Đợi Chúa
Ngay từ đầu trình thuật, Đức Giê-su không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh xinh đẹp, trẻ trung, vui tươi: mười nàng trinh nữ. Nét duyên dáng của các cô gái này còn nổi bật lên nhờ cử chỉ của họ: cầm một ngọn đèn bước đi trong đêm. Họ được “mời” dự một cuộc “gặp gỡ”. Một ai đó kết hôn: chú rể chờ đợi họ. Cựu Ước vẫn thường trình bày Thiên Chúa như Phu quân của Ít-ra-en. Khi Mát-thêu viết trình thuật này, hình ảnh đám cưới đã rõ ràng được sống thực: đích thân Đức Giê-su là Hôn phu nhiệm mầu... và chính Giáo hội, chính mỗi người chúng ta là hôn thê (xem 1Cr 11,2). Đính hôn. Thành hôn. Tình yêu. Toàn là những hình ảnh xinh đẹp, sống động, hạnh phúc. Dụ ngôn hôm nay thành thử đưa ta đi sâu vào lòng Đức Giê-su: Người tự coi mình như một hôn phu đang yêu nhân loại. Hình ảnh biểu tượng này, vốn tràn ngập Kinh Thánh Cựu Ước, nổi lên nhiều chỗ trong các Tin Mừng: Mc 2,19; Lc 5,34; Mt 9,15; Ga 3,29. Đối với chúng ta, cuộc sống Ki-tô hữu phải chăng như thế? Phải chăng là việc một hôn thê đi đón hôn phu của mình? Phải chăng là khát vọng cháy bỏng về một cuộc gặp gỡ tình yêu?
“Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn...”. Như mọi khi, Đức Giê-su không cất lời để chỉ kể cho nghe một chuyện vui nho nhỏ. Hãy nhớ vào lúc Người kể dụ ngôn này, bối cảnh rất bi thảm: Đức Giê-su chỉ còn vài hôm nữa là chết, chết cách đau đớn. Người vừa tấn công phái Pha-ri-sêu dữ dội. Giờ đây “vụ án Giê-su” đã có trong tâm trí các đối thủ của Người... họ đã quyết định giết Người như “từng giết các ngôn sứ” (Mt 23,34-37). Năm cô “dại” Người nói đến không chỉ là những ả “khờ dại”, “thiếu phòng xa”. Từ Hy-lạp có nghĩa mạnh hơn nhiều. Đây là chuyện “điên dại” thực sự. Và theo nghĩa Kinh Thánh, người “điên dại” trước hết chẳng phải là kẻ ngu ngốc, thiếu nhận thức, nhưng là kẻ “vô đạo”, điên rồ đến độ chống lại Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhủ: làm chi có Chúa Trời!” (Tv 14,1). Trong Tin Mừng, cũng tiếng ấy chỉ kẻ không đem thực hành lời Đức Giê-su (x. Mt 7,26), chỉ những người Pha-ri-sêu “ngu si mù quáng” (Mt 23,17). Năm cô “dại” thành thử không chỉ là những thiếu nữ dễ thương nhưng ngớ ngẩn, lơ đễnh đãng trí. Đó liên can tới một thái độ tinh thần căn bản: “khôn” là kẻ đặt lời mình trên nền tảng Thiên Chúa... “dại” là kẻ đặt đời mình trên nền tảng những giá trị nghèo hèn của nhân loại. Vâng! Cuộc sống là một cái gì rất nghiêm chỉnh: người ta phải tập chọn lựa dần dần để được hay mất tất cả. Đức Giê-su nhắc chúng ta nhớ điều ấy bằng cách phác thảo chân dung năm trinh nữ khôn và năm trinh nữ dại.
Nhưng dẫu câu chuyện chỉ mô tả một đám cưới thông thường, chỉ tiết vẫn xem ra hơi kỳ quái: “Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả”. Hiển nhiên ta đang nghe một ngôn ngữ biểu tượng. Trong “Diễn từ Cánh chung” chúng đang nằm vào (Mt 24-25), các chi tiết này hết sức nổi bật. Đó cũng là ý tưởng trong dụ ngôn nói đến tên đầy tớ đang khi đợi chủ về, đã bắt đầu tỏ ra hung ác say sưa vì “chủ về chậm” (Mt 24,48-49). Đợi chờ! Đợi chờ một ai đến trễ. Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng mình trông đợi Đức Giê-su trở lại: “Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Nhưng ngày gặp gỡ thì không thể tiên liệu. Và Đức Giê-su cảnh giác: nguy cơ nghiêm trọng là ngủ quên. Hình ảnh giấc ngủ thật đánh động: “ngủ” thay vì “sống” đời Ki-tô hữu. Cứ mải đợi chờ Thiên Chúa, “Đấng đến trễ”, xem ra xa vời, ta rút cục đâm mệt mỏi, và thế là nguội lạnh, đờ đẫn, quen nếp.
“Nửa đêm, có tiếng la lên”. Thiên Chúa bao giờ cũng đến “ban đêm” (Mt 24,43-44; Mc 13,35-36; Lc 12,20.39-40; 1Tx 5,2). Một tiếng kêu lớn xé tan màn đêm tĩnh mịch. Cảnh tượng thành ra được cố ý bi thảm hóa. Tiếng la làm ai nấy giật mình: Thiên Chúa đến bất ngờ “vào giờ người ta không ngờ tới” (Mt 24,44), “như chớp lóe từ đông sang tây” (Mt 24,27). Giây phút duy nhất quan trọng đối với mỗi người chính thật là giây phút ấy: giây phút của Thiên Chúa... giây phút của “gặp gỡ”... giây phút mà đối với mỗi một chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua và xé toạc thời gian như trong một tiếng kêu bất ngờ. Chẳng ai biết lúc nào điều ấy tới. Hôm nay? Ngày mai? Trong một năm, mười năm nữa? Đức Giê-su cảnh giác chúng ta: bởi thế phải sẵn sàng. Vậy là chúng ta được tiên báo, một lần thay cho tất cả.
Chuẩn Bị Cho Cuộc Gặp Gỡ Người
“Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn”. Trong trình thuật của Đức Giê-su, hết thảy đều ngủ: khôn cũng như dại... Mọi cô đều có lỗi trong việc đợi chờ. Trong ngôn ngữ biểu tượng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con! Chúa không ngạc nhiên vì những yếu đuối của chúng con. Nhưng Chúa chờ đợi nơi chúng con những gì? Ít nhất cũng để “đèn sáng”. Chúa đâu có đòi điều bất khả: chỉ cần chút tỉnh thức còn lại, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục “canh đêm” đang khi chúng con ngủ. Nhưng các cô dại thì thế nào? Đèn các cô tắt cả. Đành phải xin các cô khôn nhưng đã bị từ chối khéo. Đến chỗ này, luôn luôn có người công phẫn vì thái độ ích kỷ của những trinh nữ gọi là “khôn”. Phản ứng như thế là chẳng hiểu gì về thể văn “dụ ngôn” cả. Chúng ta đã thường nhận xét: mọi chi tiết trong đó không luôn mang bài học. Ở đây, rõ ràng là Đức Giê-su không thể muốn nói: hãy chỉ nghĩ đến mình... từ chối giúp tha nhân đi... cứ giữ cho mình của cải! Người đã nói ngược lại đủ trong nhiều đoạn Tin Mừng khác. Nhưng Người hẳn có một bài học lớn muốn dạy chúng ta qua chi tiết khó có thật như thế, một chi tiết cố ý phóng đại, như trong một bức biếm họa để người ta thấy rõ. Vậy Đức Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì? Xin nghe phần tiếp câu chuyện.
“Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng chú rể đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” Các “trinh nữ dại” đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ đã nhọc công, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ đã thắp đèn lên lại, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ đã đến cửa phòng tiệc cưới, nhưng quá trễ! Đây là điều Đức Giê-su muốn nói. Có phải chúng ta được chọn ngày giờ đâu! Hiển nhiên đây không phải là một chú rể bình thường (ai lại nỡ làm thế trong ngày cưới!) nhưng chính là vị Quan án của Ngày Chung thẩm: “Không phải những ai nói “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành thánh ý Cha thôi” (Mt 7,21).
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”. Phán quyết khủng khiếp này nêu bật tất cả tính nghiêm trọng của tự do chúng ta. Việc chúng ta đã được yêu đâu phải là chuyện cười. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, các “cô dại” đã bị loại khỏi phòng tiệc cưới chỉ vì trước hết, họ đã loại Thiên Chúa. Phán quyết Thiên Chúa đưa ra chỉ diễn tả cái họ đã đáng chịu vì chính thái độ của họ. Biệt phái (Pha-ri-sêu) thời Đức Giê-su hẳn rất hiểu điều này. Nhưng bây giờ là chúng ta, là tôi, là bạn. Bạn có sẵn sàng không? có tỉnh thức không? Có sợ cảnh dân thành Pompéi không? mục lục