Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 34-ABC Bài 451-479: Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người (Năm B & C chỉ lưu trong thư mục ABC này thôi) ------------------------------------------
Năm A: Phúc Âm: Mt 25,31-46: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. “Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”. “Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta”. “Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!” “Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?” Khi ấy Người đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”. - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Phúc Âm: Ga 18, 33b-37: “Quan nói đúng: Tôi là Vua”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Chúa Giêsu đáp: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” Philatô đáp: “Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?” Chúa Giêsu đáp: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. - Ðó là lời Chúa.
Năm C: Phúc Âm: Lc 23, 35-43: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". - Ðó là lời Chúa.
Quyền lực là một cám dỗ có ma lực ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho TN 34-ABC451
Quyền lực là một cám dỗ có ma lực ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho người ta nhiều bổng lộc, giúp họ vinh thân phì gia. Trong xã hội Việt Nam của chúng ta, những tham vọng quyền lực đã và đang làm nghèo đất nước và gây bức xúc cho người dân. Nhiều người tìm cách đút lót hối lộ để được vào guồng máy lãnh đạo của nhà nước, thậm chí vào Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của một quốc gia (Thông tin trên một số trang mạng điện tử, trong đó có BBC, cho thấy bà Châu Thị Thu Nga khai đã đút lót 30 tỷ để được làm đại biểu Quốc hội). Trong bối cảnh này, tôn vinh Đức Giêsu với tước hiệu “Vua” dễ làm cho người đương thời hiểu sai về sứ vụ của Người. Chính Chúa đã nói với quan Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Đức Giêsu là Vua vũ trụ, nhưng là vị Vua đến để phục vụ con người và đem cho họ sự sống, niềm vui và hạnh phúc. Là Thiên Chúa quyền năng, Đức Giêsu cũng là vị thẩm phán nhân từ và công minh. Người sẽ xét xử nhân loại về hành vi và đời sống của họ, vào lúc tận cùng của thời gian. Vị thẩm phán này không chỉ xuất hiện vào thời tận thế, nhưng Người luôn đồng hành với con người trong hành trình dương thế. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên để diễn tả sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với Dân riêng Ngài đã chọn. Những chi tiết được nêu giúp chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của một người mẹ, luôn hiểu thấu tình trạng của mỗi người con trong những đứa con của mình. Chúa Giêsu đến trần gian đã thực hiện những gì Cựu ước đã loan báo. Người tuyên bố, Người là Mục tử nhân lành. Người chăm sóc các tội nhân, chữa lành những người bệnh, giúp những người bị gạt ra bên lề trở lại hòa nhập cuộc sống xã hội. Không một con chiên nào bị quên lãng hay bỏ rơi, dù là những con chiên bệnh tật còm cõi. Người mục tử còn cất công lặn lội đi tìm những con chiên bị lạc. Ông vui niềm vui của đoàn chiên, ưu tư trăn trở khi thấy lợi ích của đàn chiên bị đe dọa. Chúa Giêsu đã thể hiện vương quyền của người không phải để thống trị, nhưng để yêu thương và phục vụ con người. Chúa cũng khẳng định: Người không đến trần gian để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu rỗi con người. Trọn vẹn cuộc sống và nhất là cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh điều đó. Chúa chấp nhận sự chết để cho con người được sống. Người chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc. Đó là vương quyền đích thực của Người. Vương quyền này, hoàn toàn khác với vương quyền thế gian. Một cách đặc biệt, vương quyền của Đức Giêsu thể hiện qua cuộc phán xét cuối cùng, hay còn gọi là phán xét chung. Đó là ngày tận thế, khi vũ trụ này sẽ qua đi, nhường chỗ cho trời mới đất mới. Lúc đó, hậu vận tương lai của mỗi người cũng được quyết định. Chính Chúa Giêsu đã diễn tả cuộc phán xét chung, với những chi tiết cụ thể và dễ hiểu. Hình ảnh cuộc phán xét chung cũng là câu trả lời cho biết bao vấn nạn được đặt ra về sự công bằng, về đời sống thánh hiện hoặc gian ác, về sự sống bên kia sự chết. Vị Vua của ngày phán xét chung là vị thẩm phán nhân từ nhưng cũng rất công minh. Người sẽ dựa vào thái độ của mỗi người đối với người nghèo mà quyết định tương lai hậu vận của họ. Tác giả Tin Mừng nói đến sự ngạc nhiên của những người có mặt trong phiên tòa, cả những người tốt cũng như người xấu, khi họ thấy Chúa tự đồng hóa mình với những người đói khát, trần trụi, tù đày, đau yếu, cơ nhỡ… Thì ra ai giúp người nghèo là giúp Chúa. Ai bỏ rơi người nghèo là bỏ rơi Chúa. Trong ngày phán xét chung, không thấy vị Vua đề cập tới những chức tước, địa vị đạo đời của chúng ta hoặc những công lao lẫy lừng chúng ta đã làm khi sinh thời, nhưng Người nhấn mạnh đến cách chúng ta đối xử với anh chị em mình. Người tín hữu sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Họ là công dân của một vương quốc vĩnh cửu. Vương quốc ấy đang hiện diện trên thế gian như “vương quốc của Tình yêu, vương quốc của Sự thật”. Vương quốc ấy sẽ tỏ hiện hoàn toàn khi mọi sự được đặt dưới chân Chúa Giêsu là Vua muôn loài (Bài đọc II).
Là người tín hữu, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa. Đây là một trong những hình ảnh thường được dùng để diễn tả Giáo Hội. Tuy vậy, so sánh nào cũng khập khiễng. Hình ảnh “con chiên” dễ gây hiểu lầm, vừa coi giáo dân như những người mù quáng mê muội phục quyền, vừa tạo cho người tín hữu lối sống thụ động, thiếu cộng tác tích cực trong việc xây dựng và điều hành cộng đoàn. Ơn gọi Kitô hữu trao trách nhiệm cho chúng ta cộng tác phần mình làm cho vương quyền của Đức Kitô lan tỏa trên thế gian này. Sống trên đời, đừng quên sẽ có ngày phải đứng trước tòa phán xét. Hình ảnh phán xét sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, để không phải hổ thẹn, và nhất là không bị kết án trầm luân trước vị Thẩm phán nhân từ và công minh là Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ chúng ta.
Tình yêu quan trọng hơn bao giờ hết khi được trao vương quyền. Tình yêu đủ lớn, đủ mạnh, mới TN 34-ABC452
Tình yêu quan trọng hơn bao giờ hết khi được trao vương quyền. Tình yêu đủ lớn, đủ mạnh, mới thấy được những điều cần thiết để kiến tạo cho những người được trao cho dưới quyền và cho một lãnh thổ an sinh, an vui, hạnh phúc. Rất khó có một tình yêu đủ lớn như vậy, nếu thiếu ý thức điều Chúa Giêsu nói với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19, 11)
Một trái tim hiểu biết và yêu thương
Trong buổi tiếp kiến chung, Đức Giáo Hoàng Phan xi cô nói: “Khi con người không cảm thấy mình được yêu thương, thì họ có nguy cơ bị sa lầy vào “sự nô lệ gớm ghê” là tin rằng tình yêu chỉ dựa trên sắc diện bề ngoài hay khả năng xứng đáng. Hãy thử tưởng tượng xem trong một thế giới có tất cả mọi người đều nài xin cho có những lý do để thu hút sự chú ý của người khác, và không một ai muốn yêu một người khác cách nhưng không. Dường như đây là một thế giới của nhân lọai, nhưng thực ra đây là hỏa ngục.”.
Được hiểu biết và được yêu thương là nhu cầu của mọi người, đặc biệt những người chẳng được ai quan tâm. Để yêu thương đủ đã là một điều khó, vì yêu thương luôn quy về cái tôi của mình.
Tình yêu là tự đóng đinh.
Chúa Giêsu là mẫu gương cho tình yêu tự đóng đinh. Thánh Phaolô nói về tình yêu đó là một tình yêu tự hạ: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2, 6 – 7). Khiêm nhường là bài học cần luyện tập luôn, đó là một đức tính dẫn đường đến khôn ngoan, Wanter Scott viết: “Cái đầu tỉnh táo, trái tim trung thực, tinh thần khiêm nhường là ba người dẫn đường tốt nhất qua thời gian và cõi vĩnh hằng”.
Tình yêu chia sẻ
Hành vi tình yêu trao đi vì nhận biết mình là người “đến để phục vụ chứ không để được phục vụ” (Mt 20, 28). Con người sống với, sống cho và sống vì người khác. Khi đến trong trần gian này, mọi người đã thụ hưởng biết bao điều tốt đẹp do những người đi trước cống hiến. Chúa dạy: “Nhận nhưng không hãy trao đi nhưng không” (Mt 10, 8).
Tình yêu mời gọi sống thanh bần, (Ngày thế giới người nghèo)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi, một đời sống trở nên cho mọi người: “Chúng ta đừng quên rằng, đối với các môn đệ của Đức Ki-tô, thanh bần trước tiên là một ơn gọi theo Đức Giê-su nghèo. Đó là việc bước theo ngài và cùng với ngài, một hành trình dẫn đến hạnh phúc Nước Trời (x. Mt 5,3; Lc 6,20). Thanh bần có nghĩa là một con tim khiêm tốn biết đón nhận thân phận thụ tạo, giới hạn và tội lỗi của mình, để vượt thắng cám dỗ, một thứ cám dỗ cho rằng mình toàn năng và bất tử. Thanh bần là thái độ của tâm hồn ngăn cản ta nghĩ đến tiền bạc, con đường công danh sự nghiệp sang trọng như mục đích cuộc sống và là điều kiện để đạt được hạnh phúc. Đúng hơn chính thanh bần tạo ra những điều kiện để tự do, lãnh nhận trách nhiệm bản thân và xã hội, mặc dù mình có những giới hạn, tín thác vào sự gần gũi của Thiên Chúa và được ơn thánh của Chúa nâng đỡ. Hiểu theo nghĩa đó, thanh bần là thước đo giúp đánh giá và sử dụng đúng đắn những của cải vật chất và sống các liên hệ và tình cảm mà không ích kỷ và chiếm hữu (x. GLCG, các số 25-45).” (Thông điệp ngày thế giới người nghèo, số 5)
Vương quyền thiếu vắng tình yêu hướng về xây dượng công bình, bác ái, yêu thương là vương quyền của bạo lực, của sự dữ. Cần có tình yêu đích thực để thực thi vương quyền vì quyền được trao là để phục vụ và hiến dâng mạng sống như lời mời gọi của Chúa.
Mấy ai trong chúng ta thích làm người thấp bé bởi ai cũng muốn mình được người khác tôn trọng TN 34-ABC453
Mấy ai trong chúng ta thích làm người thấp bé bởi ai cũng muốn mình được người khác tôn trọng cả. Vì thế, hầu hết chúng ta đều có tham vọng được làm lớn.
Trong một lớp học, cô giáo hỏi học trò:
– Ước mơ của con là gì?
– Dạ, thưa cô, con muốn làm phi công. Con muốn làm bác sĩ. Con sẽ làm chú công an. Con sẽ làm ông vua.
Các học sinh thi nhau trả lời.
-Sao con lại thích làm ông vua?
Thưa cô, làm vua con sẽ có nhiều người hầu, có người bảo vệ, được ăn uống thỏa thích ạ. Con sẽ không bị ai ăn hiếp. Con muốn làm gì thì làm ạ.
Quả đúng như em học sinh nói. Ngày hôm nay, một ông vua chỉ có quyền hành trong một đất nước mà thôi. Có một vị vua luôn được thần dân ca tụng, ngợi khen, cảm tạ mỗi ngày, đó là Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ. Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn loài. Ngài là vua nhưng luôn sống trong sự vâng phục Chúa Cha. Ngài từ bỏ ngai vàng, quyền bính xuống sống cùng nhân loại, Ngài mang lấy những gánh nặng và đau khổ của nhân loại, Ngài xoa dịu những đau khổ để mang tình yêu và niềm vui đến cho nhân loại. Danh hiệu vua dân Do Thái của Ngài được mọi người biết đến nhờ ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Họ đã tìm đến Vua Hêrôđê và hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu” (Mt 2,2). Từ đó, tiếng Người được lan rộng. Qủa thực, một con người ngay trước mặt họ là người nghèo khổ, sinh ra trong một gia đình thất thế, thì làm sao dân chúng tin được đó là vua, dù Ngài đã làm nhiều phép lạ. Nhưng đều quan trọng là từ nơi nơi Ngài, mọi người đã tìm được hạnh phúc và tình yêu. Bởi vị Vua này chỉ hằng mong cho dân Người được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Ngài là Vua nhưng lại không ở trong lâu đài nguy nga; không mặc lụa là gấm vóc; không dùng quyền uy để ra lệnh. Trái lại, Ngài là vua của sự nghèo hèn và khiêm hạ. Ngoài Ngài ra, không có vị vua nào tuyệt vời hơn cả.
Vua thế gian ngày ngày ngồi trong cung, nghe những lời cáo kiện của muôn dân. Còn Vua Giêsu đi khắp đó đây, để hòa nhập vào cuộc sống của mỗi người. Người phán xét thật công minh, chân thật dựa vào công đức của mỗi người. Ngài cũng không thiên vị một ai, vì tất cả mỗi người là con cái của Ngài. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tách biệt chúng ta như đàn chiên và dê. Mọi người cũng sẽ bất ngờ về điều ngài nói (Mt 25,34 -36). Người sẽ làm những việc mà vua thế gian không làm được. Thánh Raymonđo Pênhapho đã nói với một tu sĩ khi nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở ngài rằng: “Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối chúng ta đi”. Với niềm tin ấy, ngài đã cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm mà đi. Thế là ngài đã cập bến an toàn. Cũng chính phép lạ ấy đã cải hóa được nhà vua trở lại với lương tâm. Vâng, Đức Giêsu, Ngài là vua vừa nghiêm khắc nhưng tràn đầy tình thương xót và luôn làm phép lạ cho những ai tin vào Ngài. Chúng ta hãy vui lên vì chúng ta có một Đức Vua tuyệt vời và luôn tuyệt vời.
Hoan hô Vua Kitô. Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng vinh quang, niềm vui của Ngài. Xin Chúa hãy tiếp tục cho chúng con không ngừng làm công tử, công chúa và hiền thê của Ngài. Amen.
Xế chiều, cơn mưa bất ngờ chợt đến đùa nghịch với hàng cây bên đường. Dòng người cũng hối TN 34-ABC454
Xế chiều, cơn mưa bất ngờ chợt đến đùa nghịch với hàng cây bên đường. Dòng người cũng hối hả chạy xe thật nhanh để trở về nhà. Cây cối hồ hởi đón những hạt mưa mát rượi nhưng con người lại đang cố che thật kín để tránh mưa. Bên vỉa hè, có bà cụ quẩy gánh hàng rong đang vội vã bước thật nhanh cho hàng kẻo ướt. Đang vội vã nhưng vừa trông thấy một người ăn xin đang nép mình thu lu trong mái hiên của một quán nhỏ đã đóng cửa, bà ghé vào lấy từ trong gánh hàng của mình một bọc bánh nhỏ trao cho người ăn xin.
– Cám ơn bà!
– Ơn nghĩa gì. Có chút, bà ăn cho đỡ đói. Tôi nghèo nên cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.
Hai người đàn bà cùng khổ nhìn nhau nở nụ cười hạnh phúc.
Trong cảnh khốn cùng, người ta thương nhau, chia sẻ cho nhau những gì mình có. Có lẽ, từ trong cái khổ của mình, phần nào người ta cũng hiểu được cái khổ của người khác?
Hôm nay, Thầy Giêsu cũng đề cao giá trị về lòng nhân ái của mỗi người đối với tha nhân. Trong ngày cánh chung, Thiên Chúa sẽ xét xử mỗi người không theo việc lạ họ đã làm nhưng theo lòng nhân ái họ đã dành cho tha nhân. Có những lần ta quan tâm tới người bên cạnh và thật sự ta đã nhận được niềm vui. Họ đã biết ơn ta, ta cũng muốn tiếp tục giúp đỡ họ. Nhìn thấy một em bé phải vất vả mưa sinh trong khi những bạn cùng trang lứa được tung tăng đến trường, ta cũng chạnh lòng. Ta mua cho em một tờ vé số. Có lần, ta đã bỏ tiền cho người hành khất bên vệ đường. Ta đã dìu một bà cụ qua đường. Nhiều lắm những lần ta đã giúp đỡ những người bên cạnh ta nhưng nhiều khi ta đâu ý thức rằng, họ là hình ảnh của Chúa. Ta đã giúp đỡ họ bởi con tim ta được thúc đẩy và lòng nhân ái trong ta không cho phép ta từ chối giúp đỡ họ.
Thế nhưng, cuộc sống vốn dĩ rất phức tạp. Chính trong bản thân ta cũng luôn có những sự giằng co giữa việc giúp đỡ người khác hay mặc kệ họ. Đã không ít lần ta phớt lờ, không giúp đỡ họ. Ta quá bận rộn với chính những nỗi bận tâm riêng. Làm sao có thời gian cho họ? Những khó khăn của họ có ảnh hưởng gì đến ta đâu. Ta cũng khổ quá rồi mà chẳng có ai quan tâm ta cả. Nghĩ đến bản thân, ta cũng đáng thương lắm chứ. Quả là niềm vui nhận được khi giúp đỡ một người cho ta một kinh nghiệm đáng quý nhưng đâu là động lực giúp ta tiếp tục nâng đỡ những người bên cạnh ta? Chỉ vì ích kỷ, ta đã không tra tay giúp đỡ họ khi có thể. Ta không ý thức rằng, chính họ là anh em của ta, họ là hình ảnh của Chúa. Chỉ khi nhận ra rằng, giúp đỡ họ cũng là làm cho chính Chúa thì ta mới đủ tình yêu để thực hiện những điều vượt quá giới hạn của con tim ta. Cũng chỉ vì ta không ở trong hoàn cảnh của họ, ta không hiểu được những gì họ phải trải qua, những khó khăn họ phải đối mặt. Nhiều khi ta đã khuyên răn họ nhiều điều vì muốn tốt cho họ nhưng lại chẳng giúp họ những gì họ thật sự cần thiết. Ta không lưu tâm đến họ nên không biết các nhu cầu của họ. Thật tội nghiệp, ta đã đẩy mình vào một ngõ cụt và chẳng thể ngờ, một ngày kia ta sẽ phải trả lẽ về những gì đã làm.
Vừa lên đến cầu thang, ta bắt gặp một người đang khiêng đồ nặng, ta cũng mệt quá rồi nên đi vội lên phòng. Nào ngờ, vừa mở cửa thì ta nghe có tiếng động dưới chân cầu thang. Chỉ vì ta không nhạy bén giúp người ấy một tay mà họ bị té. Nhìn xuống, ta thấy có người đang giúp nên lại thôi. Đêm về, nằm trên giường, mệt mỏi lắm nhưng ta chẳng thể nào chợp mắt được. Lời cứ vang vọng trong ta, chất vấn ta: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 45). Ta ước gì có thể trở lại ngay lúc ấy để giúp họ. Lòng ta hối hận. Ta tạ ơn Chúa đã cho ta có cơ hội để nhìn lại. Ta quyết tâm ngày mai sẽ mang lại niềm vui cho một người nào đó mà ta gặp. Ta sẽ ghé thăm người bạn lúc chiều bị té.
Có người bảo rằng: “Tôi tạo phúc thì tôi hưởng, ông ấy tạo nghiệp thì ông ấy khổ. Thế thôi.” Mới nghe qua, ta thấy cũng đúng nhưng ngẫm kỹ lại ta thấy có điều gì đó không ổn. Cái phúc và cái họa mà mỗi người tạo ra đều có thể ảnh hưởng đến người khác. Mỗi người là một cá thể độc lập nhưng lại chẳng hề đơn độc một mình. Bởi, tình liên đới đòi hỏi con người sống có trách nhiệm với nhau. Giống như lúc chiều, nếu ta nhanh chóng phụ người ấy một tay thì có thể họ đâu bị té. Khi ta giúp đỡ một người là ta mang lại niềm vui cho họ, ta quan tâm đến họ và tôn trọng họ. Dù là một người nghèo, họ cũng có những điều đáng quý trọng mà ta phải học hỏi.
Chúa Giêsu là Vua, một vị vua của Tình yêu. người đã bày tỏ vương quyền của mình bằng tình yêu dâng hiến, một vị vua khiêm nhường phục vụ, tự khiêm tự hạ. Ngài là mẫu gương cho muôn người trong muôn thế hệ. Là thần dân của Ngài, ta cũng phải sống tinh thần yêu thương tha nhân bằng một trái tim tự hiến, một tâm hồn biết khiêm nhường phục vụ. Vì đây là khả năng Chúa ban, nên ta hãy nài xin Chúa cho ta sống được tinh thần ấy.
Lạy Chúa! Chúa đã dạy con rằng, những người bên cạnh con, họ là anh em của con, hơn hết họ là hình ảnh của Chúa. Chúa vẫn mời gọi con yêu thương họ. Chúa biết rằng, khả năng yêu thương của con có giới hạn. Xin Chúa mỗi ngày đổ đầy tình yêu trong trái tim con để con có thể yêu cả những người mà con không ưa. Lạy Chúa, xin cho con luôn ý thức rằng, mỗi lần con làm một điều tốt lành cho những người bên cạnh là con đang làm cho chính Chúa, để đến ngày ra trước tòa Chúa, con cũng được chung phần hạnh phúc với Chúa. Amen.
Khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’, ấn tượng đầu tiên mà tôi có là: đi đạo chẳng TN 34-ABC455
Khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’, ấn tượng đầu tiên mà tôi có là: đi đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’ thì Vua Vũ Trụ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo nào đâu; vì thế đi đạo hay không cũng như nhau thôi. Cũng vậy khi Người phán: ‘hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ thì đâu chỉ dành cho những người đã được rửa tội, những người năng lãnh nhận các phép bí tích! Tiêu chuẩn Người áp dụng có vẻ quá đời thường, quá nhân bản…, phần nào có vẻ quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả anh chị em không Ki-tô hữu (non-Christians) cũng dễ dàng đạt được; đó là sống yêu thương, sống từ nhân với hết mọi người. Các Phật Tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong một cộng đoàn. Nếu đã như thế thì, làm Ki-tô hữu được Phúc Âm dạy bảo, được các Bí Tích đỡ nâng, được các luật lệ, luân lý chở che… thực tế sẽ mang lại lợi ích gì cho tôi trong ngày Đức Vua đến xét xử trần gian?
Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan! Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật nào mà Người đã ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử lại chỉ qui hướng trực tiếp về cá nhân Người mà thôi: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như Đức Giê-su muốn cho thấy: chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để được mọi người thương xót và gia ân. Như vậy, được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung nhất, đó là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ, đồng thời chính Người cũng đang chờ đợi để được mọi người thương xót.
Nếu chập hai yếu tố trên lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Ki-tô hữu, ơn gọi mà tôi đã được diễm phúc tiếp nhận! Nhiều người không phải là Ki-tô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và hay tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘vị Vua dấu mặt’ đang chờ đợi được xót thương: “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” Đức Giê-su cho thấy rõ, như thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và khao khát tình yêu; “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Lúc này, tôi thành thực chúc mừng các anh chị em chưa được biết Chúa, vì thật may mắn cho anh chị em biết mấy! Nhưng, nếu anh chị chỉ mới giữ có một vế (làm mà không biết) mà đã được như thế, thì huống hồ chi Ki-tô hữu chúng tôi, nếu giữ được cả hai vế (làm và biết) thì thật còn may mắn biết bao; Ki-tô hữu chúng tôi mới là những người duy nhất trên trần gian này được diễm phúc có được cả hai vế ‘biết và làm’ để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất với Đức Vua xót thương và chờ đợi được thương xót. Nhờ đức tin, mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội, chúng tôi đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương; rồi trong suốt quá trình sống đời Ki-tô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt bí tích Hòa Giải, chúng tôi đã có không biết bao nhiêu là dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua; Lời của Vua hằng thôi thúc chúng tôi diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của chúng tôi không còn là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà đã trở thành một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái, Đức Giê-su gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Do đó không một ai trong chúng tôi sẽ còn dám lên tiếng: “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…” vì chúng tôi đã có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương, cũng như chúng tôi thừa biết rằng: Đức Vua chúng tôi tôn thờ lại rất khao khát được hồi ân, được chúng tôi đáp lại bằng mến thương, đặc biệt qua các hành động nhân hậu đối với các người anh em. Do đó khi gặp lại Đức Vua quang lâm, các Ki-tô hữu chúng tôi sẽ phải là những người trước hết “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28), vì chúng tôi biết chắc rằng: mình đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.
Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Đức Vua đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người thương xót, đồng thời Người cũng khao khát được con thương xót lại. Chớ gì chương trình sống Ki-tô của con chỉ đơn giản là nhận biết mình được xót thương để rồi cố gắng đáp trả bằng thương xót tha nhân. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ chính các Ki-tô hữu chúng con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, và nhắc nhở cho mọi người rằng: có một Đức Vua yêu mến và xót thương hết thảy mọi người, đang chờ nhận được lòng thương xót. A-men.
Ít ra có hai lối giải thích câu này: 1/ Đây là tất cả mọi dân trên thế giới (Trilling, Feuillet, Jeremias, J.Broer TN 34-ABC456
Ít ra có hai lối giải thích câu này:
1/ Đây là tất cả mọi dân trên thế giới (Trilling, Feuillet, Jeremias, J.Broer…).
2/ Đây chỉ là những dân tộc nào đã được loan báo Tin Mừng và đã thành Kitô hữu. (J.R. Michaels, A.Descamps…).
Lối giải thích 1 hợp lý hơn, vì thuật ngữ ta ethuê mà Mt quen dùng có nghĩa là tất cả mọi dân tộc. Chẳng hạn hãy xem Mt 4,15 6,32 24,9-14 28,19. Các Tin Mừng nhất lãm khác cũng dùng thuật ngữ này với ý nghĩa đó, xem Mc 13,10; Lc 24,27…
Có phải những dân ấy đã được loan báo Tin Mừng hết chăng? Một số nhà chú giải nghĩ như vậy, vì họ đưa vào Mt 24,14 “Tin Mừng Nước Chúa sẽ được loan báo khắp thế gian… rồi khi ấy mới là ngày cung tận”. Légasse dựa vào câu trên nên cho rằng tới ngày chung thẩm thì tất cả mọi dân tộc đã được loan báo Tin Mừng. tuy nhiên Mt không có ý nói thế, Mt chỉ có ý nói rằng Tin Mừng được loan báo khắp nơi thôi. Do đó dù cho tất cả mọi dân đều đã được loan báo Tin mừng, nhưng không nhất thiết từng người được nghe Tin Mừng. Vì thế có thể là tới ngày chung thẩm, dân tộc nào cũng có những người đã nghe Tin Mừng và cũng còn nhiều người chưa nghe.
Vấn đề của câu 40: Những kẻ bé mọn 1- Nhiều nhà chú giải cho rằng “Những kẻ bé mọn” là các môn đệ của Đức Kitô, hay rỏ hơn nữa, đí là “những môn đệ có sứ mạng rao giảng Tin Mừng”; Họ nghĩ như xậy vì những lý do sau:
a/ Trong Tin Mừng Mt mỗi lần nói tới “Những kẻ bé mọn” thì đều có nghĩa là các môn đệ
b/ Mt (không giống như Lc) không mấy quan tâm đến những người nghèo nàn khổ sở, do đó không nên hiểu thuật ngữ trên ám chỉ giới nghèo khổ.
c/ Giả sử thuật ngữ “hết mọi dân” có nghĩa là những dân đã được nghe Tin Mừngm thì phải hiểu “những kẻ bé mọn” là những môn đệ rao giảng Tin Mừng ấy
d/ Trong Mt 10,42, Đức Giêsu xem sự đón tiếp dành cho các môn đệ cũng là dành cho chính Ngài.
2- Nhưng nhiều nhà chú giải khác muốn hiểu “những kẻ bé mọn” là nói chung về tất cả những người lâm cảnh nghèo khổ. Họ trả lời cho những lập luận của nhóm một ở trên như sau:
a) Đành rằng Mt thường dùng thuật ngữ này đẻ chỉ các môn đệ. Nhưng tất cả đền trong những huấn từ Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ.
b) Hẳn nhiên là Mt không quan tâm như Lc đối với những người nghèo khổ. Nhưng như thế không có nghĩa là Mt hoàn toàn bỏ quên họ đến nỗi không có lần nào nói tới họ. Ngoài ra cần nhớ rằng Lc viết cho lương dân nên phải nhấn mạnh tới những việc phục vụ người nghèo khổ, cìn Mt viết cho người do thái vốn đã được chỉ dạy giúp đỡ người nghèo khổ rồi, không cần lập lại nhiều. (Hãy xem những giáo huấn của các ngôn sứ).
c) Về lạp luận (c) trước tiên phải chứng minh thuật ngữ “hết mọi dân” là những dân đã nghe Tin Mừng, rồi sau đó mới suy ra “những kẻ bé mọn” là các môn đệ được. Mà như đã trình bày ở phần I, ta kông thể hiểu “hết mọi dân” chỉ là những dân được nghe Tin Mừng.
d) Trong Mt 10,42 Đức Giêsu có đồng hóa “những kẻ bé mọn” với các môn đệ Ngài, nhưng cũng có thêm “trong tư cách họ là môn đệ”. Cũng thế trong Mt 18,5 Ngài nói đến việc tiếp rước “những kẻ bé mọn” “vì Danh Thầy”. Còn trong dụ ngôn ngày chung thẩm, không có thêm những chữ như trên.
Ngoài ra còn vấn nạn này nữa: Nếu Đức Kitô đang phán xét các dân về thái độ họ tiếp rước các môn đệ, tại sao Ngài chỉ dựa vào tiêu chuẩn vật chất, mà lại không theo các tiêu chuẩn khác hợp lý hơn, chẳng hạn có lắng nghe Lời Giảng hay không, có đức tin không, có nhận Phép Rửa không?
Thêm một vấn nạn nữa: Nếu xem “những kẻ bé mọn” là tất cả mọi người khốn khổ, bất kỳ họ có là môn đệ Đức Giêsu hay không thì cuộc phán xét của Đức Giêsu mới hợp lý. Tất cả những ai (môn đệ Đức Giêsu hay không) nếu gặp một người khốn khổ (môn đệ hay không) mà rat ay cứu giúp thì sẽ được thưởng, còn ngược lại thì sẽ bị phạt. Có như vậy mới là chung thẩm, nghĩ là cuộc phán xét tất cả mọi người.
Các chi tiết khác c 32 – “Tách chiên ra khỏi dê”: ở Palestina các mục tử dẫn một đoàn trong đó có chiên và dê lẫn lộn nhau. Đến tối họ mới tách riêng ra. Lý do là chiên thì quý hơn, tách riêng để coi chừng cẩn thận hơn; hơn nữa, chiên có nhiều lông nên để riêng, dê ít lông phải để riêng ở chỗ ấm áp hơn.
c 37 – Không phải những người lành đã quên những sự giúp đỡ đối với kẻ khốn khổ mà thực là họ không biết rằng kẻ khốn khổ là hiện thân của Đức Giêsu Kitô. Ý nghĩa trọn vẹn của việc lành họ làm chỉ được hiện rõ vào giờ cuối cùng, Tư tưởng này phù hợp với quan điểm chung của Mt (Mt 6,4: “Còn ngươi, Đấng thấu suốt cõi thầm kín sẽ trả công cho ngươi”).
40-45 – hãy chú ý động từ làm được xử dụng 4 lần. Đức Giêsu nói bằng tiếng Aram. Động từ “abad” vừa có nghĩa là làm, vừa có nghĩa phục vụ (faire – servir)
c 46 – Trong văn chương khải huyền do thái, hình phạt được dành cho những dân ngoại, những kẻ thù của Israel. Cón ở đây hình phạt khủng khiếp được dành cho những người không thể hiện lòng bác ái yêu thương. Đây cũng phù hợp với quan niệm chung của Mt (xem các chương 24-25).
Thẩm phán là người có quyền xét xử tại một phiên tòa, cũng gọi là quan tòa. Tại một số quốc TN 34-ABC457
Thẩm phán là người có quyền xét xử tại một phiên tòa, cũng gọi là quan tòa. Tại một số quốc gia, quyền hạn của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội thẩm. Tòa án cũng có nhiều cấp khác nhau, cao nhất là tòa án tối cao.
Thiên Chúa Cha không xét xử ai, mà Ngài trao mọi quyền xét xử cho Thiên Chúa Con (x. Ga 5:22). Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã từng minh định với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Chúa Giêsu là Vua của các vua, là Chúa của các chúa, nhưng Ngài không là Vua như người ta tưởng, bởi vì chính Ngài đã xác định với ông Philatô rằng Vương Quốc của Ngài không thuộc về thế gian này (x. Ga 18:36), tức là thuộc về Cõi Trời, nơi mà phàm nhân không hề biết, không phải như cung trăng hoặc một nơi xa lạ nào đó mà thiên văn học đã phát hiện.
Như chúng ta biết, xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Trong mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,… Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng.
Người ta có câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5; x. Mt 10:28). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Quyền xét xử của Philatô chỉ trong thời điểm đó, có quyền vì còn chức, tạm thời thôi.
Xét về từ ngữ và ý nghĩa, trong Hán tự có chữ 王 [wáng], nghĩa là vương (vua). Về chiết tự, ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Ý nghĩa thật thâm sâu, và với ý nghĩa này thì vua phải là người cao thượng, thế nhưng người ta thường lạm quyền thái quá. Chỉ là vua trần gian mà còn là “mối liên kết” như vậy thì huống chi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Vương của vũ trụ.
Gần gũi với chữ 王 (vương) là chữ 主 [Zhǔ], nghĩa là “Chủ” hoặc “Chúa”, viết giống như chữ Vương nhưng có thêm “ngọn lửa” ở trên: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa trên đầu Ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi theo Ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự là chữ tượng hình mà hàm súc thâm thúy quá!
Vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật là quá đỗi lạ lùng, Ngài là Vua của các vua và là Chúa của các chúa nhưng lại hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian, vì Ngài là Vua-đa-không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,… Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Câu trả lời được chính Chúa Giêsu xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).
NHÂN HẬU và KHIÊM NHƯỜNG
Vua chúa trần gian tự nhận là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, và có trọn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương và cũng là Thẩm Phán Tối Thượng nhưng Chúa Giêsu lại vô cùng hiền lành, nhân hậu, từ tâm. Ngài là Quan Tòa khiêm nhường và nhân ái.
Quả thật, chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Ngay khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài vẫn đang hiện diện ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Chắc chắn Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, đặc biệt là người nào càng bất hạnh thì càng được Ngài thương xót và chăm sóc nhiều hơn. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm kiếm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).
Tìm kiếm trong số các vua chúa trần gian, nếu không là “hàng hiếm” thì cũng chẳng thấy nhiều người vì dân, vì nước, đích thân vi hành để biết dân tình ra sao. Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”. Quan trên, quan dưới vô vàn – Ít quan thật tốt, nhiều quan tham tàn! Tuy ít nhưng có những người đáng nể phục là cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, và một số tổng thống của Hoa Kỳ, đó là sự thật mang tính lịch sử, không thể chối cãi.
Cấp nào cũng đa dạng. Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có thực sự tìm chiên lạc, chiên yếu, chiên bệnh, hay chỉ thân với chiên béo? Có chức nên có quyền, họ đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!
Phải chân nhận rằng thực sự ấn tượng với Đức cố GM Jean Cassaigne (1895-1973), người ta thường thân thương gọi ngài là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục của GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Cuộc sống thật nhiêu khê, biết nhiều thì khổ nhiều, thấy nhiều thì chán nhiều, nghe nhiều thì “nóng gáy” nhiều: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1:18). Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Cái gì cũng cần khổ luyện. Đức tin cũng vậy, phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.
HẰNG HỮU và HẰNG SINH
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, là Đệ Nhất Thiên Vương, nhưng không phải là Phú Vương mà là Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác Ngài?
Và có điều đặc biệt: Chúa Giêsu LÀ Vua của người sống chứ KHÔNG LÀ Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Chúa Giêsu là Vua Hằng Hữu và Hằng Sinh, nhưng Ngài đã chịu đau khổ tột cùng, thế nên Ngài có toàn quyền. Hoàn toàn hợp lý. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).
Vào thời quân chủ ngày xưa, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh, bất tuân là bất trung. Chính cái chết minh chứng lòng thành của tôi trung. Đã từng có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Còn nữa, người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,…), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua, mà chỉ được tâu “cái bệ rồng” của vua ngồi mà thôi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, Ngài cho phép chúng ta cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài!”.
Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!
Ròng rã suốt những năm tháng hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài dạy người khác làm: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn LÀM NHIỀU HƠN NÓI. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Nhân Ái và Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này. Deo gratias – Tạ ơn Thiên Chúa!
NHÂN ÁI và CÔNG BÌNH
Nhân ái và công bình là nền tảng vững chắc của cuộc sống. Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 25:31-46, cho biết về cuộc tái lâm và cách xét xử của Chúa Giêsu – Thiên Vương Chí Thánh và Thẩm Phán Tối Thượng. Chúa Giêsu đã sử dụng hình ảnh thực tế, gần gũi đời thường và dễ hiểu: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là hình ảnh của Người Lành, dê là hình ảnh của Kẻ Dữ. Hai hình ảnh đối nghịch nhau!
Tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã bằng lòng chịu chết để cứu độ nhân loại, vì thế Ngài cũng có toàn quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực và đầy tình xót thương. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai, Ngài được các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37). Hạnh phúc thay cho những ai được Ngài cười và nói như vậy!
Khi nghe Ngài nói vậy, họ ngạc nhiên vì họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?
Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”. Một cách nhận định chứa đầy niềm tin Kitô giáo.
Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, chính Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến QUYỀN LỢI, không mấy ai nói đến BỔN PHẬN”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Mâu thuẫn. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Lạy Thẩm Phán nhân hậu, xin dủ lòng thương xót con – kẻ tội lỗi khốn nạn. Con tín thác vào Ngài, Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Tin mừng Chúa nhật lễ Đức Giêsu Kitô vua vũ trụ trình bày ngày Chúa quang lâm, Người đến trong TN 34-ABC458
Tin mừng Chúa nhật lễ Đức Giêsu Kitô vua vũ trụ trình bày ngày Chúa quang lâm, Người đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Khi ấy, Người sẽ thi hành quyền bính như một vị vua: “Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người và Người sẽ phân chia họ ra”. Người Do Thái quan niệm ngai uy linh chỉ dành cho Thuên Chúa để xác nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài là vua tình thương. Ngày sau hết, Đức Giêsu chỉ xét xử chúng ta về giới luật yêu thương, bởi đạo Ngài thiết lập là đạo tình thương, đạo bác ái:
“Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Hãy yêu thương anh em như chính mình” (Mt 22, 37.39).
“Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25, 45).
Trong viễn cảnh ngày tận thế, ngày mà Đức Giêsu sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Tin mừng Matthêu đề cập tới vương quyền của Chúa Giêsu: Ngài là vua không như những vua chúa trần gian cai trị dân bằng sức mạnh của vũ khí, quyền lực, kinh tế, tiền bạc… Đức Giêsu cai trị bằng tình yêu, hy sinh và phục vụ. Đức Giêsu là vua tình thương: “Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hy sinh mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mt 20, 28). Vương quốc của Người gồm những người nghèo khó, cùng cực, đói khát, bị bỏ rơi, bị tù đày… Những ai săn sóc, phục vụ, giúp đỡ, an ủi những người bé nhỏ nghèo khổ thì thuộc về vương quốc của Đức Giêsu, là công dân của Nước Trời:
“Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta”
Như thế, Đưc Giêsu đã đồng hóa tình Chúa và tình người. Yêu Chúa là yêu người; yêu người là thước đo lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Trong hoạt cảnh ngày phán xét, thánh Matthêu muốn trình bày việc người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên là những người lành được hưởng hạnh phúc quê trời. Dê là những người bất lương sẽ bị luận phạt. Điều làm cho chúng ta vô cùng ngạc nhiên: Đã có những người không nhận ra điều này, là họ đang phục vụ Đức Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ trần truồng mặc, đón tiếp khách lỡ đương, thăm viếng người đau yếu, tù đày… Cũng có nhiều người đã không nhận ra rằng, họ đã thực sự chểnh mảng không phục vụ Đức Giêsu Kitô, khi họ làm ngơ, vô cảm trước những nhu cầu của những người nghèo khổ (GLCG 2443). Chính khi chúng ta làm phước giúp đỡ những người nghèo khổ là làm cho chính Chúa. Chính khi chúng ta từ chối không giúp đỡ anh em là chúng ta đã từ chối không làm cho Chúa. Tất cả người lành, kẻ dữ đều ngạc nhiên nói: “Lạy Chúa, chúng con có bao giờ thấy Chúa đói khát, đau yếu hay ở tù…, mà chẳng giúp Chúa đâu…!”.
Tin mừng nói rất rõ người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia bởi tiêu chuẩn căn bản là tình thương, bác ái, chứ không dựa vào danh giá, chức vụ, địa vị trong xã hội. Những hoạt động từ thiện, những việc phục vụ tha nhân trong tình yêu sẽ có giá trị vĩnh cửu và đạt được hạnh phúc Nước Trời. Ngược lại, vô cảm, hờ hững trước những khổ đau của anh em là từ chối Thiên Chúa, phản bội Ngài… sẽ bị luận phạt.
Trong thế giới văn minh hôm nay với nền kinh tế thị trường, nền đạo đức đang xuống cấp trầm trọng trong gia đình, học đường và xã hội, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi mọi người xây dựng một nền văn minh tình thương, chống lại nền văn minh sự chết qua việc phục vụ tha nhân, công bằng, thực thi công lý, sống lương thiện.
Đứng trước nhu cầu của thế giới hôm nay với 80% dân số toàn cầu là thành phần nghèo. Theo báo cáo của Hội nghị Quốc tế về các trẻ em nghèo trên thế giới. Mỗi năm, có 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, thiếu sự chăm sóc về thuốc men. Hiện nay, một số nước ở Châu Phi đang chịu cảnh đói và thiếu lương thực (ở Somali…). Trong khi đó, thế giới dư thừa thực phẩm. Con người hôm nay sơ cứng, lãnh đạm, hờ hững trước những khổ đau của anh em mình.
Giáo hội luôn khẳng định vai trò của mình là tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô, luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía người nghèo, những kẻ bị bỏ rơi. Giáo hội không ngừng lên tiếng, kêu gọi, đấu tranh chống lại sự nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức để động viên mọi người thực hiện một nền văn minh tình thương.
Con Người ngự đến vinh quang, Thiên Thần hầu cận, cao sang tầng trời. Muôn dân tập họp bên TN 34-ABC459
Con Người ngự đến vinh quang, Thiên Thần hầu cận, cao sang tầng trời. Muôn dân tập họp bên Người, Phân chia phán xét, cuộc đời trần gian. Chiên dê tách biệt trước nhan, Chiên nằm bên hữu, Chúa ban phúc lành. Cha Ta chúc phúc lòng thành, Nước Trời gia nghiệp, thưởng dành các ngươi. Vì xưa đói khát ở đời, Cho ăn đãi uống, một thời vị tha. Ta là khách lạ phương xa, Rộng lòng tiếp đón, vào nhà trú chân. Yếu đau bệnh họan cơ bần, Viếng thăm chăm sóc, ân cần lo toan. Tình thương đức ái khôn ngoan, Chính Ta bé mọn, hân hoan đón chào. Dê nằm bên trái tự cao, Không thương, chẳng giúp, tự hào chủ quan. Không thăm, thiếu viếng đa đoan, Sống đời ích kỷ, bất toàn trí tâm.
Chúa Giêsu Kitô là Vua Vũ Trụ, Vua các Vua. Ngài ngự cao siêu trên mọi tầng trời, nhưng lại rất gần gũi với con người trần thế. Ngài là Chúa muôn loài trên tầng cao thẳm, nhưng lại hạ thế làm người. Một Thiên Chúa vừa cao cả vừa gần gũi. Chúa uy quyền để chúng ta kính bái tôn thờ và gần gũi để chúng ta gặp gỡ, tâm sự và hiệp thông.
Chúa Kitô là Vua không phải như các vị vua trần thế. Chúa không cần có giang sơn tổ quốc, quân quyền và không ngai vàng cùng kẻ hầu người hạ. Chúa là Vua của tâm hồn, Vua tình yêu. Ai biết yêu là thuộc về con dân của Nước Chúa. Nước của Chúa không có biên cương lãnh thổ, nhưng là nước trong tâm hồn con người.
Chúa ở gần chúng ta đến nỗi chúng ta không nhận ra Ngài. Ngài hiện diên không đâu xa, mà nơi chính anh chị em chung quanh chúng ta. Ngài ẩn thân qua những người nghèo khổ, kẻ mồ côi góa bụa, người đói khát, kẻ tù đầy, người bệnh họan, kẻ tật nguyền, cô đơn và nơi những người không có nơi nương tựa. Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài?
Thật dễ và cũng thật khó để nhận diện ra Chúa Kitô. Ngài hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhưng chúng ta đã rất nhiều lần ngoảnh mặt làm ngơ. Một câu chào hỏi cũng không. Một bát nước lạnh cũng từ chối. Một miếng bánh vụn không muốn chia xẻ. Một chiếc áo hay chiếc quần cũ cũng không muốn cho đi. Đôi khi chúng ta còn nhìn anh em bất hạnh với con mắt khinh thị, nghi ngờ và chối từ. Chúng ta sợ dơ dáy bẩn thỉu, sợ bị quấy rầy và còn sợ nhiều thứ khác… Chúng ta không muốn chia xẻ tình yêu với họ.
Chính Vua Vũ Trụ lại ở bên những người bị ruồng rẫy bỏ rơi đó. Chúa mang thân phận nghèo đói của kẻ ăn xin. Chúa muốn chúng ta đón tiếp các anh em cùng khốn như là đón tiếp chính Chúa. Phần thưởng Chúa dành cho những ai biết chia sẻ tình yêu với họ. Chúng ta không phải đi đâu xa để tìm gặp Chúa. Chúa là Vua ngay trong lòng và ngay bên cạnh chúng ta. Hãy mở mắt tâm hồn để nhận diện ra Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là Vua của lòng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ tình nhân ái với những người cùng khốn đang hiện diện chung quanh chúng con. Chúng con biết rằng khi chúng con đón tiếp họ, là chúng con đang đón tiếp chính Chúa.
Tình cờ gặp lại người quen, tôi hỏi: bạn có hay về thăm cha mẹ không? Người ấy nói: chẳng có TN 34-ABC460
Tình cờ gặp lại người quen, tôi hỏi: bạn có hay về thăm cha mẹ không? Người ấy nói: chẳng có thời gian để về! Nhiều khi muốn về nhưng lại chẳng có điều kiện nên cũng đành nhớ nhung từ xa!
Có lẽ trong cuộc đời vì tất bật mưu sinh với miếng cơm manh áo, với danh vọng quyền lực mà ta đã lãng quên người thân. Đôi khi giật mình vì mải miết làm ăn mà ta đã bỏ rơi gia đình, bạn bè và người thân.
Xã hội hôm nay là xã hội của công việc, khiến ai cũng bận rộn, ai cũng tất bật ngược xuôi nên dường như chẳng còn thời giờ ngó đến nhau, thăm nom nhau và cũng chẳng mấy ai quan tâm giúp đỡ nhau. Hàng xóm láng giềng nhiều nơi chẳng biết tên nhau. Cùng chung cư cũng xa cách nhau. Con cái chẳng mấy khi về thăm cha mẹ. Anh em có còn mấy ai đùm bọc và giúp đỡ nhau?
Xã hội hôm nay tình liên đới đã mai một. Cuộc sống chia sẻ ngọt bùi với nhau đang đi vào cổ tích. Giả sử có một phiên tòa xét xử vì tội sống thiếu tình liên đới có lẽ người người sẽ bị phạt, nhà nhà sẽ bị vạ như câu chuyện ngày xưa đã kể.
Chuyện kể rằng: Vào giữa thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ, tại một nơi nghèo nhất trong thành phố New York, có diễn ra vụ xét xử một phụ nữ ăn trộm bánh mì vì đói.
Quan tòa hỏi: “Bị cáo, có đúng là bà đã ăn trộm bánh mì không?”.
Người phụ nữ cúi đầu và lúng túng trả lời: “Đúng vậy! Thưa quan tòa, tôi thực sự đã ăn trộm bánh mì!”.
Quan tòa lại hỏi: “Động cơ ăn trộm bánh mì của bà là gì? Có phải vì đói khát không?”
“Đúng ạ!” Người phụ nữ ngẩng đầu lên, đôi mắt nhìn vị thẩm phán và nói: “Đúng là tôi đói. Con rể đã bỏ rơi gia đình, con gái tôi thì bị bệnh, còn 2 đứa cháu nhỏ đang chết đói. Chúng đã mấy ngày hôm nay không được ăn rồi. Tôi không thể trơ mắt nhìn chúng chết đói được, chúng vẫn còn quá nhỏ!”.
Vị thẩm phán thở dài, nhìn về phía người phụ nữ và nói: “Bị cáo, tôi phải làm việc theo lẽ công bằng, chấp hành theo pháp luật. Bà phải nộp phạt 10 đô la”.
Sau đó ông nói lớn: “Đây là 10 đô la mà tôi sẽ trả cho án phạt này. Ngoài ra tôi phạt mỗi người trong phòng xét xử này 50 cent, đó là số tiền phạt cho sự thờ ơ của chúng ta khi ở cùng khu phố mà lại để cho một người phụ nữ phải đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu.
Ngày hôm sau, tờ báo thành phố New York đưa tin đã có 47,5 đô la được gửi đến cho người phụ nữ khốn khó kia.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống tình liên đới với tha nhân, không chỉ vì có chung một Cha trên trời nên “tứ hải giai huynh đệ”, mà còn vì con người là “hình ảnh Thiên Chúa”. Chính Chúa đã tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Chúa mời gọi chúng ta: ai tiếp rước họ là tiếp rước chính Chúa. Ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Ngược lại, Chúa cũng sẽ luận phạt vì chúng ta đã từng khước từ thi ân cho những con người cùng khổ đó.
Thực vậy, trong ngày phán xét, Chúa không hỏi về bằng cấp của chúng ta cao hay thấp. Chúa không xét duyệt chúng ta dựa trên địa vị trần thế. Chúa phán xét theo tinh thần bác ái mà chúng ta đã dành cho tha nhân. Công hay tội tuỳ thuộc vào lòng bác ái chúng ta có hay không trong những lời nói và việc làm của mình? Chúa đã từng chê trách thái độ vô cảm của những biệt phái, và của những thầy tư tế khi để mặc người bị nạn trên đường đến Giê-ri-cô. Chúa cũng từng dùng dụ ngôn để răn dạy thái độ dửng dưng trước bất hạnh của đồng loại qua dụ ngôn “người phú hộ và Lagiaro”. Chúa cũng sẽ luận tội nếu chúng ta cũng thiếu trách nhiệm và sống thiếu tình liên đới qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân.
Chúa Giê-su là Vua, nhưng Ngài đã cúi mình phục vụ tha nhân. Ngài tự hoà nhập với con người. Ngài đồng hành với con người. Ngài chia sẻ phận người nổi trôi với con người. Ngài đã đến để phục vụ và hiến mạng sống vì hạnh phúc tha nhân. Ngài còn mời gọi chúng ta “ai muốn làm lớn hãy cúi mình phục vụ anh em”.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống cao đẹp cho dẫu có thiệt thòi vì đi ngược lại với lối sống của thế gian. Xin cho chúng ta luôn can đảm làm chứng cho tình yêu bất diệt của Chúa là dám “thí mạng sống mình vì người mình yêu” và biết yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.
Có người xem nước Mỹ như thiên đàng hạ giới và mong sao có thể đặt chân đến miền đất mơ TN 34-ABC461
Có người xem nước Mỹ như thiên đàng hạ giới và mong sao có thể đặt chân đến miền đất mơ ước này.
Ai muốn đạt nguyện vọng này thì phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ nộp lên Tòa lãnh sự Mỹ và điều quan trọng nhất là liệu làm sao khi đến giờ phỏng vấn xin visa nhập cảnh, phải đối đáp cho hợp tình hợp lý để được nhân viên phỏng vấn của toà lãnh sự đồng ý cấp visa.
Đây là giờ phút quyết định và rất quan trọng. Vì thế, người xin phỏng vấn phải chuẩn bị những thứ cần thiết cho giờ phút quan trọng này và họ thường tìm hiểu trước xem nhân viên phỏng vấn của toà lãnh sự sẽ hỏi những câu gì để chuẩn bị câu trả lời cho thỏa đáng, hầu được cấp visa.
Mai đây mỗi người chúng ta cũng đều phải trải qua một cuộc phỏng vấn quan trọng hơn nhiều, không phải là phỏng vấn xin visa vào Mỹ mà là phỏng vấn để có visa vào thiên đàng, để được định cư vĩnh viễn trên thiên quốc.
Muốn có visa vào thiên đàng, chúng ta cũng phải qua một cuộc phỏng vấn mà nhân viên phỏng vấn là Chúa Giê-su.
Ai cũng muốn biết trước Chúa Giê-su sẽ hỏi mình câu gì, để chuẩn bị trả lời cho xác đáng, để được định cư trên cõi hạnh phúc đến muôn thuở muôn đời.
Chúa Giê-su là một người phỏng vấn đặc biệt có một không hai trên đời nầy. Ngài muốn cho tất cả những ai đi phỏng vấn đều được trúng tuyển nên Ngài cho biết những câu mà Ngài sẽ hỏi họ.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su truyền cho thư ký của Ngài là Mát-thêu viết ra những câu mà Ngài sẽ hỏi các ứng viên xin định cư trên nước Trời và thông báo rộng rãi cho mọi người khắp nơi được biết để chuẩn bị.
Mời cộng đoàn phụng vụ theo dõi kịch bản sau đây để biết nội dung các câu hỏi của Chúa Giê-su.
Hôm ấy, anh Mít và Xoài theo lịch hẹn, ra trình diện Chúa Giê-su để được phỏng vấn xin visa vào thiên đàng.
Thiên thần xướng tên: Mời Lu-ca Trần Văn Mít. Mít rất tự tin, hô lên: Có mặt, rồi đến trình diện Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su hỏi câu thứ nhất:
“Muốn được lên thiên đàng thì người ta phải làm gì?”
Mít mừng thầm vì gặp câu hỏi dễ, anh mau mắn trả: “Thưa, phải mến Chúa, yêu người.”
Chúa mỉm cười: “Chính xác!”
Chúa hỏi tiếp: “Lòng mến Chúa phải được thể hiện cách cụ thể trong sinh hoạt đời thường ra sao?”
Mít trả lời ngay: “Thưa, lòng mến Chúa phải được thể hiện cụ thể bằng việc yêu thương phục vụ những người chung quanh, đặc biệt là những người bất hạnh đang cần giúp đỡ.”
Chúa Giê-su vui sướng vỗ đùi: “Tuyệt vời! Chính xác!”
Chúa lại hỏi câu thứ ba: “Vậy thì khi thấy người đói khát, con có cho họ ăn uống không?” Đến đây, Mít cúi đầu xấu hổ và ngập ngừng đáp: “Thưa không.”
Bấy giờ khuôn mặt Chúa Giê su trở nên đăm chiêu trầm mặc. Ngài buồn bã lắc đầu.
Rồi Chúa hỏi: “Khi thấy người đau ốm… con có thăm viếng, giúp đỡ họ không?”
Mít run run đáp: “Lạy Chúa, con chưa hề giúp đỡ ai.”
Bấy giờ bỗng nhiên Chúa Giê-su đùng đùng nổi giận, Ngài xua tay đuổi Mít đi và quát: “’Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng” (Mt 25,41).
Sau đó, thiên thần lại xướng tên: Mời Phê-rô Nguyễn Văn Xoài. Xoài đáp: “Có mặt” rồi tiến đến trước vị giám khảo uy nghi.
Chúa hỏi câu thứ nhất: “Con có thăm viếng, chăm sóc người đau khổ, bệnh tật không?”
Xoài vui vẻ, đáp: “Thưa có.”
Lúc nầy, nét mặt Chúa trở nên tươi tắn hơn, nụ cười của Ngài rạng rỡ hơn, Ngài gật gù vui vẻ đáp lại: “Tốt, tốt lắm! Con ngoan của Ta.”
Chúa tiếp: “Con có quan tâm, giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh không?”
Xoài tỏ ra vui mừng và đáp: “Thưa có.”
Bấy giờ Chúa Giê-su đứng lên, rời khỏi ngai toà, bước xuống ôm choàng lấy Xoài và lớn tiếng chúc mừng:
“Nào hãy đến, con là người được Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho con từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34), rồi Ngài ra lệnh cho ca đoàn thiên thần đàn hát tưng bừng, rước Xoài vào chính điện, trình diện với Thiên Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, với Mẹ Maria, với thánh cả Giu-se và toàn thể các thánh. Tất cả vỗ tay chào đón Xoài như một chiến sĩ thắng trận trở về.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa dạy chúng con biết muốn được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời thì phải mến Chúa, yêu người và thể hiện lòng yêu mến Chúa qua việc chăm lo phục vụ cho những người bất hạnh chung quanh.
Nguyện xin Chúa cho chúng con luôn ghi nhớ lời Chúa dạy và đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nhờ đó, mai đây chúng con được Chúa đón vào quê trời hưởng phúc vinh quang.
Năm phụng vụ khởi đầu bằng mầu nhiệm nhập thể, và kết thúc bằng việc tuyên xưng vương quyền TN 34-ABC462
Năm phụng vụ khởi đầu bằng mầu nhiệm nhập thể, và kết thúc bằng việc tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô. Qua đó, Hội Thánh dạy: Chúa Kitô không xa cách ta. Người có một cuộc đời chẳng khác ta. Chính trong cuộc đời ấy, Người làm Vua toàn cõi vũ trụ. Chính nhờ đi qua cuộc đời ấy, Người nắm giữ quyền bính đời đời.
Chúng ta cũng được sinh ra trong cuộc đời. Như Chúa Kitô, nhờ khởi đi từ cuộc đời, ta sẽ về cùng Thiên Chúa. Hãy sống như Chúa Kitô, để cùng Người ta hiển trị trong Nhà Cha của mình.
I. NHẮC LẠI VƯƠNG QUYỀN CỦA VUA KITÔ.
Mặc dù lễ Chúa Kitô là Vua mới được Đức Thánh Cha Piô XI thiết lập năm 1925, nhằm hiến dâng thế giới và nền hòa bình của nhân loại cho Chúa Kitô. Nhưng vương quyền của Người đã được Hội Thánh tuyên xưng từ xa xưa.
Chẳng hạn, Trên ngọn một cây tháp dựng từ năm 1586 do hoàng đế Caligula, giữa quảng trường thánh Phêrô – Vatican, có khắc ba lời tuyên xưng: Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng; Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị; Christus imperat: Chúa Kitô thống lãnh.
Vì thế, khi lập lễ tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô, Hội Thánh nhắc lại niềm xác tín của mình:
– Muôn đời, chỉ một mình Chúa Kitô là Vua toàn cõi vũ trụ. Người là Đức Vua toàn thắng. Người đã, đang và sẽ còn tiếp tục hiển trị và thống lãnh trên trời, dưới đất. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Ga 28, 18).
– Muôn đời, Chúa Kitô vượt trên thời gian. Chính vì thế, Chúa Kitô là Chủ thời gian. Mọi chiều kích lịch sử điều đặt dưới quyền thống lãnh của Người. Chỉ một mình Người nhận lãnh thánh ý Thiên Chúa để nắm quyền kết thúc thời gian: Thiên Chúa “đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 10).
– Muôn đời Chúa Kitô là Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu. Trong thánh ý Thiên Chúa, một mình Chúa Kitô là Chủ thế giới nhân sinh. Như vậy, Người là Chủ của nhân loại, Chủ của lịch sử nhân loại, Chủ của vận mạng cả nhân loại. Bởi Thiên Chúa “đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai” (Ep 1, 21).
– Muôn đời Chúa Kitô là Chủ từng con người. Người nắm giữ mọi phán quyết trên cuộc đời ta. Người cũng sẽ phán quyết cách công bình, thẳng thắn trong ngày ta trình diện trước tòa án của Người:
Nếu ta sống lành thánh thì Chúa phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25, 34).
Nếu ta đứng ngoài nghĩa cử yêu thương thì Chúa phán: “Quân bị nguyền rủ kia, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25, 41).
II. ĐỂ VÀO SỰ SỐNG CHÚA BAN:
Bài Tin Mừng cho thấy quang cảnh xử án của Đức Vua dành cho chúng ta. Thật bất ngờ, nội dung cuộc xử án chỉ xoay quanh tình thương: “Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta… Những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Vậy để được tham dự vào sự sống Chúa ban, mỗi người hãy sống lòng yêu thương qua từ nghĩa cử, từng hành động, từng tương quan, từng suy nghĩ, từng biểu hiện những nghĩ ấy của mình.
Làm cách nào để có thể sống tình yêu thương như Chúa dạy? Có rất nhiều tấm gương dạy ta sống yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Cuộc đời và lối sống của thánh Gioan Maria Vianney là một trong những bằng chứng giúp ta học tập mà thực thi tình yêu thương với anh chị em xung quanh mình.
Người ta kể, trong lúc giáo phận Belley, nơi ngài đã từng cống hiến đời linh mục của mình, tiến hành điều tra các nhân đức để lập hồ sơ xin phong thánh cho cha Gioan Maria Vianney, bỗng có một cụ già nghèo, quê mùa đến làm chứng:
“Hôm ấy, trời đã tối, tôi thấy cha Vianney đi giúp tuần đại phúc ở một xứ xa về; giữa đường vắng chỉ có tôi với ngài; vừa gặp tôi, ngài vui vẻ lên tiếng:
– Chào ông, ông có khỏe không? Công việc làm ăn ra sao?
– Con chào cha. Con cám ơn Chúa. Con vẫn khỏe. Nhưng… Chẳng giấu gì cha, con túng thiếu quá, mất liên tiếp ba vụ mùa liền!
– Tội nghiệp! Tôi thương ông và các cháu lắm! Chúng nó rất ngoan.
Vừa nói ngài vừa xỏ tay vào túi áo, lục soát khắp cùng mà cũng chẳng có được một xu. Nhìn trước nhìn sau, ngài ghé vào tai tôi bảo nhỏ:
– Ông chịu khó đợi cha một chút!
Tôi vâng lời đứng đợi. Ngài rón rén đi ra sau một lùm cây… Mấy phút sau ngài trở lại, trao tận tay tôi một vật và nói:
– Cha không còn gì cả. Ông vui lòng lấy cái quần của cha đây đem bán mà mua bánh mì cho các cháu. Ông thông cảm, bữa sau có chút gì cha sẽ giúp cho thêm. Thôi chào ông nhé!
Nói xong, cha Gioan nhanh chân bước đi. Tôi vẫn chưa kịp cám ơn ngài vì quá xúc động nghẹn ngào…”.
Là tín hữu Kitô, chúng ta đừng chỉ nói yêu thương, nhưng hãy sống lòng yêu thương mọi nơi mọi lúc. Mỗi người hãy là chứng nhân của tình yêu. Mỗi người hãy làm điểm nối kết để nhân rộng lòng yêu thương ngày một lớn, mạnh mẽ trên khắp mọi nơi mà mình hiện diện.
Hãy nhớ: Sống tình yêu, sẽ được Chúa xét xử bằng tình yêu.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta được chứng kiến phiên tòa xử Đức Giêsu Kitô mà vị xét xử TN 34-ABC463
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta được chứng kiến phiên tòa xử Đức Giêsu Kitô mà vị xét xử là quan Tổng trấn PhilaTô. Cuộc thẩm vấn công khai với lời tra hỏi đầu tiên :”Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”. Kể ra PhilaTô cũng là người chấp hành nghiêm việc xử án, tức là có hỏi và để phạm nhân trả lời, thậm chí vặn lại. Nghe Đức Giêsu hỏi lại, ông không tỏ phản ứng bực tức của kẻ có quyền :” Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi “. Ông vẫn đường đường đối đáp tiếp với Chúa Giêsu : ” chính dân của ông và các Thượng tế đã nộp ông cho tôi, Ông đã làm gì ?” Khi thấy Người nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này “. PhilaTô lúc này đã lộ nguyên hình vị quan tay sai, ông đã đặt một câu hỏi mang tính bức cung để mong Đức Giêsu xác nhận điều người Do Thái tố giác : ” Vậy ông là vua sao ? “.
PhilaTô nghe đến “ Nước của Chúa Giêsu “ dù là không thuộc về thế gian này, nhưng vì e sợ những người đứng đầu một tổ chức chống lại hòang đế, tức là chống lại ông, nên cũng buộc phải vu cho Chúa tội dám nhận là Vua. Đức Kitô không phủ nhận điều đó, nhưng Người khéo léo : ” Chính Ngài nói rằng tôi là Vua. Nhưng tôi sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này,(là )làm chứng cho sư thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi “. Đến đây thì đã rõ, dù Philatô có chạy theo những tố giác của người Do Thái nhưng hẳn là ông cũng ngộ ra được một điều: Ông Giêsu không phải như những vị vua trần thế. Ông vua mà lại không có binh lính dưới quyền, không có vũ khí bảo vệ. Ông vua không có lãnh địa, dinh cơ, không ngai vàng cung điện. Ông vua mà nước không thuộc chốn này chỉ có thể là Vua. . . ảo.
Quả thật, Đức Giêsu, vị Vua của những lời răn dạy. Vua tình yêu, Vua của sự thật, Vua của công lý. Ai chấp nhận đứng về sự thật thì theo Người. Người đã không xưng mình là Vua nhưng chính những con người đơn sơ, bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi nhận mình là thần dân của vương quốc nước trời tôn vinh Người . Đường lối cai trị của Người là hiền lành, khiêm nhường. Người đến với con dân nuớc Người không để được hầu hạ, mà chính là hầu hạ mọi người, để con người được nâng lên địa vị như Người, là con Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Đã có một thời chúng con ngộ nhận Chúa là Vua thống trị thế giới này về mặt quyền bính trần gian, nên có lúc những người con Chúa đòi mọi người chưa tin vào Chúa phải khuất phục, khiếp đảm. Chính trong thâm tâm, chúng con cũng từng nghĩ Chúa phải là vua trên các vị vua trần thế, nên đã khiến những người con của Chúa tự cho là hơn người khác, tài giỏi hơn, thánh thiện hơn, đạo đức hơn và có quyền coi khinh, coi rẻ anh em mình. Hiểu như thế là không nhận ra được Giêsu , vị Vua của tình yêu thương, vị Vua của lòng thương xót . Vị Vua dám lấy chính thân mình chết thay cho con người. Vị Vua từ bỏ địa vị là Thiên Chúa để trở thành một con người, hầu cứu con người thóat mọi tội lỗi, khổ đau, bất hòa, chia rẽ, tranh giành, xảo quyệt để tiến đến sự bình an, đạt đến công lý, yêu thương và sự thật.
Xin cho con luôn biết tôn nhận Chúa là Vua của tâm hồn con, gia đình con. Hầu từ bản thân, gia đình con sẽ tràn ngập tình yêu thương, tiến đến xây dựng khu xóm, địa phương, đất nước và cả thế giới này dần dần thành một vương quốc của Tình yêu thương cho đến khi Chúa đến . AMEN.
Khao khát được công thành danh toại, không muốn thua chị kém em về mặt hiểu biết, về tấm TN 34-ABC464
Khao khát được công thành danh toại, không muốn thua chị kém em về mặt hiểu biết, về tấm lòng bao dung, người có ước mơ đẹp như thế, phải là người được chăm sóc giáo dục tốt từ tấm bé. Tục ngữ có câu: vỏ quýt dầy, có móng tay nhọn. Con voi to lớn, không sợ con vật nào, nhưng lại có thể gục ngã vì con kiến nhỏ xíu. Lịch sử Việt Nam ghi nhận, Kiều Công Tiễn tạo phản, rồi liên kết với quân Nam Hán nhằm củng cố địa vị, nhưng Ngô Quyền đã phá tan âm mưu xâm lược từ một trận hải chiến “Bạch Đằng Giang” (năm 938). Trong đời sống siêu nhiên, mỗi người dù tin hay không, chúng ta vẫn dang chịu sự phân xử rất công minh: làm việc thiện, tâm hồn sẽ bình an ; làm điều xấu, lương tâm sẽ cắn rứt.
Theo tự nhiên, đoàn tầu có giờ khởi hành, cũng sẽ có điểm dừng, có giờ kết thúc ; được sinh ra làm con Chúa, ắt phải có ngày trình diện Chúa về những việc làm tốt xấu, đó là quy luật, là công bằng. Con đường chật hẹp hoặc rộng lớn, đều mang một sứ mệnh đưa dẫn người ta đến điểm dừng, dù đích đến hạnh phúc của mỗi người sẽ được cân đo bằng việc làm, bằng nghĩa cử yêu thương. Bậc cha mẹ nuôi dạy con, yêu thương con, đầu tư cho con, rồi khi chia gia tài cho con, các ngài luôn mong ước các con biết sử dụng tiền của, biết sống đạo làm người, hầu xây dựng một đời sống thật ý nghĩa cho dòng tộc. Xã hội gia đình, thực tại tâm linh, hay sức khoẻ, trí tuệ, mỗi người mỗi khác, nhưng tự do, quỹ thời gian, luôn là cơ hội để chúng ta minh chứng về sự khôn ngoan của mình.
Vua chúa trần gian hiểu theo nghĩa tích cực là thay trời phật lãnh đạo, lo cho dân an quốc thái, vua trần gian hành quyền trên dân, ban phát bổng lộc cho người có công, tiêu diệt hoặc bỏ tù người có tội. Vua Giêsu mà chúng ta hằng tuyên xưng là Vua Tình Yêu, Ngài không ngồi trên ngai để chỉ đạo, phân xử, luận tội, Ngài ở nơi tâm hồn người nghèo đói, đau bệnh, Ngài mang hình ảnh của những người bị xem là ngu dốt, “thấp cổ bé miệng” trong xã hội. Vua trần gian còn được soi sáng để làm nhiều điều tốt cho dân, Con Vua Trời ở trong vũ trụ vạn vật, ở trong tâm hồn mỗi người, để ban phát hồng ân cứu độ, vì Ngài là Tình Yêu.
Từ xưa đến nay, không ai đủ tư cách tự phong chức tước cho mình, nhưng qua việc làm, qua những nghĩa cử bác ái, ai cũng phải tự chứng minh về trách nhiệm và bổn phận đối với ơn gọi làm thần dân của Vua Giêsu. Mọi người đều mơ ước xã hội có sự công minh rõ ràng, thưởng phạt đối với kẻ làm điều xấu và vinh danh người biết thực thi nghĩa cử đẹp. Trong ơn gọi kitô giáo, mỗi người còn đủ khôn ngoan để hiểu biết và thực thi đức công bằng đối với nén bạc mỗi người đã lãnh nhận, dù trái tim và khối óc vẫn đang lên tiếng, thôi thúc chúng ta hành động. Người kitô hữu sẽ không kỳ thị kẻ xấu người tốt, tách biệt lương giáo, nhưng ai cũng được hiểu biết phải sống có trách nhiệm, có bổn phận yêu thương tha nhân, vì tiếng nói sâu thẳm nơi tâm hồn đang phán xét việc làm của mỗi người.
Khuynh hướng tự nhiên, không ai “tự phong” cho mình là người giầu, dư thừa tiền của vật chất, cũng không có người nghèo khổ viết tên đeo bảng: tôi là người nghèo, tôi cần tiền, cần trợ giúp, dù chúng ta đều ý thức mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Tục ngữ có câu: con có khóc, mẹ mới cho con bú. Có những lý luận cho rằng vì con chưa nói được, chưa thể diễn tả được, nên nó phải khóc để nhắc mẹ nó hãy thực thi sứ mệnh yêu thương nó. Và cũng có lý lẽ khác lại nói: bản chất của người mẹ là thương con, nhưng người mẹ rất cần con thổ lộ một chút tâm tư để người mẹ đáp ứng đúng, và phù hợp, không làm tổn thương đến lòng tự trọng người con.
Ngày hôm nay, nghệ thuật đối nhân xử thế, hoặc kinh nghiệm sách vở, mỗi người sẽ không khó vi phạm tội vô tình với anh chị em mình. Người xưa có câu: kẻ ngu thường tỏ ra là mình nguy hiểm, nhưng kẻ nguy hiểm thường lại tỏ ra mình là ngu dốt. Hãy khiêm tốn, hãy hành động bác ái hơn là chỉ là hô hoán suông. Dù phủ nhận trời phật, xã hội vẫn đang chủ trương phải nghĩ đến anh chị em gặp thiên tai, và kêu gọi cộng đồng hãy quảng đại trợ giúp kẻ nghèo khổ, ít là vì đạo làm người: tứ hải giai huynh đệ. Chúa Giêsu mô tả cuộc phán xét chung dựa trên hành động yêu thương, ngày sau hết Ngài sẽ đến theo quy luật để phân biệt tốt xấu, vinh danh người hiền đức và khiển trách kẻ ác tâm, vì Chúa là tình yêu, công bằng và hay thương xót.
Với dụ ngôn ngày chung cuộc là có thật, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho con người biết tất cả những gì được coi là bí mật trong ơn gọi làm thần dân của Nước Chúa: niềm vui, phần thưởng, hạnh phúc đời đời. Đức Giêsu Vua Tình Yêu, Ngài sẽ giúp mỗi người thấy được sự phân minh rõ ràng bởi tình yêu thương chúng ta đã nhận lãnh và sẻ chia. Hạnh phúc được sánh ví như một thứ nước thơm, người kitô hữu không thể vẩy nước thơm lên anh chị em mình mà ta không làm vương vài giọt lên chính mình. Xin Vua Giêsu tiếp tục đồng hành và làm cho trái tim của chúng con luôn mềm mại và đầy tình mến yêu đối với anh chị em chúng con gặp gỡ mỗi ngày. Amen.
Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng cuộc sống đời này chỉ là tạm bợ, và cuộc sống thực TN 34-ABC465
Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng cuộc sống đời này chỉ là tạm bợ, và cuộc sống thực sự của mỗi người là ở đời sau, trong Nước Trời. Vào ngày sau hết, chúng ta sẽ được nhìn thấy nhãn tiền gương mặt Đức Vua Vinh Hiển, và Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc mình làm (x. Mt 25, 31-46). Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc diện kiến quan trọng ấy.
Thiên Chúa là Vị Vua yêu thương, Người chăm sóc chúng ta trong từng giây phút. Mỗi ngày sống là một món quà mà Người gửi đến cho mỗi người. Thật hạnh phúc khi mỗi sáng thức dậy chúng ta thấy mình vẫn còn đang hiện diện, và một ngày mới với những công việc đang chờ đón. Đã có biết bao hoàn cảnh chẳng được như chúng ta. Hôm nay, người ấy còn hiện diện, nhưng có thể ngày mai sẽ chẳng còn nữa. Đó là điều mà chẳng ai biết trước được. Chúng ta hãy tận dụng mỗi phút giây và làm cho nó trở nên ý nghĩa hơn. Những ai dạy học hãy trao những kiến thức bằng cả trái tim của người thầy. Những ai làm văn phòng hãy làm với hết năng lực trong sự rõ ràng, công minh. Những ai làm thợ xây hãy làm với cả sự tinh tế và trách nhiệm… Một công việc dù nhỏ bé đến đâu, chúng ta hãy làm bằng cả tấm lòng. Như thế, cuộc sống của mỗi người sẽ trở nên đẹp hơn, ý nghĩa hơn. Khi đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Đàng đang hiện diện ngay giữa trần gian này.
Một phương thế hữu hiệu có thể giúp chúng ta để đạt được hạnh phúc đời sau đó chính là quan tâm tới những người nghèo, những người nhỏ bé. Chính Chúa đã nói: “Ta bảo thật các ngươi; mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Trong bài giảng của Đức Thánh Cha ngày 19/11/2017, ngày Quốc tế người nghèo, Đức Thánh Cha đã nói: “Nếu trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, thì họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào Thiên Đàng của chúng ta”. Thật vậy, tâm lý tự nhiên của chúng ta khi gặp những người nghèo, những người bệnh tật là xa lánh, hắt hủi, chê bai,…Tại sao vậy? Nguyên nhân có thể do người nghèo thường làm những công việc bẩn thỉu, hôi hám, thấp hèn. Nhưng chính Chúa Giêsu đang hiện diện trong họ. Người đang mời gọi chúng ta bỏ qua những rào cản bên ngoài để đến với họ bằng con tim biết rung cảm. Họ đang khao khát được hòa nhập cùng với chúng ta, và được nhìn nhận trong xã hội. Những con người ấy đang cần được chúng ta đùm bọc, sẻ chia, chứ không phải là xa lánh.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì mỗi buổi sáng thức dậy, chúng con biết sẽ được sống thêm một ngày. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa ban để từng giây phút qua đi đều mang lại cho chúng con những điều ý nghĩa. Đặc biệt, xin cho chúng con can đảm bỏ qua những rào cản của địa vị, hoàn cảnh sống,… để đến với từng người chúng con gặp gỡ, đặc biệt là những người nghèo, bị bỏ rơi. Để mai sau, chính những người ấy dẫn chúng con tới Nước Trời, diện kiện trước Vua Giêsu. Amen.
Ai cũng biết, vua là người đứng đầu một Đất Nước , một Quốc Gia, người có quyền thống lãnh toàn TN 34-ABC466
Ai cũng biết, vua là người đứng đầu một Đất Nước , một Quốc Gia, người có quyền thống lãnh toàn quốc. Nếu một vị vua nhân ái, hiền lành, thương dân , lo cho dân, thì người ta gọi vị vua ấy là : “ Minh vương”, còn nếu vị vua ấy độc ác , thì người ta gọi là: “ Hôn quân” hay “ Bạo chúa”. Nếu ai sống trong một vương quốc của một bạo chúa, thì coi như “ tàn đời”. Vâng, đó là Vua trần thế, vua ở thế gian.
Nhưn, hôm nay đây, Giáo Hội Công giáo mừng kinh một Vị Vua duy nhất trên Nước Trời, đó là Vua Giêsu. Vị vua nhân ái , Người đã “ đồng hóa” với “thần dân” nghèo hèn của Người.
Tin Mừng (Mt 25, 31 -46), là Đoạn Tin Mừng nói về “Ngày phán xét chung”, tuy dài nhưng, nội dung tóm lược là: “VỊ THẨM PHÁN THƯƠNG XÓT”. Đó là, Đức Giêsu- Kitô, Vị Vua Duy Nhất trên Vương Quốc vĩnh cửu. Thường thì các bậc quân vương trần thế đứng về phía người giàu, không có vị vua nào đừng về phía người nghèo. Nội dung Tin Mừng hôm nay, tuy là cuộc phán xét chung, chung thẩm, nhưng thực ra chỉ có một vần đề duy nhất là : Biết chia sẻ cho tha nhân.
Sự đói, khát Sự trần truồng Sự đau yếu, tù tội. Sự trú ngụ, lữ khách Tóm lại là nhu cầu hằng ngày của tha nhân, tức người đồng loại. như , chúng ta biết, Vị Thẩm Phán chí công là chính Chúa Giêsu, đồng thời là vị Vua nhân ái, mặc nhiên Người không bất công, Người không thể nào “lên án“ người vô tội.
Theo ý nghĩa Tin Mừng, Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được sống cách bình đẳng, không phải chỉ có người giàu có mới sống được , còn những thân phận nghèo khổ, cơ cực thì phải sống lầm than , đau khổ.
Vì không phải ai cũng nghèo khổ, thì thế giới nầy không còn là một thế giới sống, mà là hỏa ngục, nơi đọa đày tội nhân. Hoặc, thế giới nầy không phải là nơi “cực lạc” vĩnh hằng, để ai ai cũng giàu có.
Thiên Chúa “đồng hóa” với người nghèo là để cho người giàu” tạo phúc” cho họ, giàu vật chất chưa đủ, còn phải giàu tâm linh. Tại sao, Thiên Chúa muốn đồng hóa với người nghèo, người đau khổ bất hạnh. Bởi vì, Thiên Chúa muốn cho họ giàu có “ân sủng” là chính Chúa, nơi Chúa, nơi “dựa” vũng chắc và cũng là nơi bù đáp : “ thỏa mãn “nhất cho người đau khổ.
Đau khổ là “bậc thang thánh thiện”, nếu người ta biết khai thác “ giá trị” của đau khổ. Vì, đau khổ sinh ra khiêm nhường, khiêm nhừơng sinh ra bác ái, bác ái sinh ra công phúc, vì bác ái chính là Thiên Chúa.
Vì thế, Đau khổ không phải là sự trừng phạt, mà là dịp để cho người nghèo lập công, và người giàu tạo phúc. Thiên Chúa yêu thương và “chia sẻ” chính mình, vì thế, Người muốn thế nhân chia sẻ với người khác. Chia sẻ là bản tính Thiên Chúa, không phải Thiên Chúa chủ trương “ lấy của người giàu chia cho người nghèo” một cách bất công , vô lý. Thiên Chúa đồng hóa với người bất hạnh vì Thiên Chúa muốn biểu lộ bản chất “tình yêu” chính là Thiên Chúa. Vì, Thiên Chúa cho đi chính mình, Thiên Chúa ban tặng chính Thiên Chúa cho người giàu cũng như kẻ nghèo. Thiên Chúa đòi hỏi yêu thương người nghèo, vì người giàu cũng đã được Thiên Chúa yêu thương rồi, khi nghe Đọan Tin Mừng hôm nay, người ta nghĩ Thiên Chúa “ bất công”, vì tại sao, Thiên Chúa lại yêu thương người nghèo đến độ đồng hóa với họ?!
Vâng, thưa quý vị, đây chính là điểm mấu chốt của vấn đề, mà có những học thuyết thế gian không thể “ bắt chước được. Như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Maxs – Lênin, chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng hạn. bởi vì, những thứ chủ nghĩa nầy hoàn toàn là do con người, bởi con người mà ra., gọi là “ chủ thuyết “ có nghĩa là chỉ có “ nói “ là chính, chứ không làm.
Còn Thiên Chúa đã làm những gì Người nói, sở dĩ Lời Chúa hôm nay mang tính là “chung thẩm”, nhưng có được “ Lời lẽ” nầy là do “ Mầu nhiệm Cứu Độ”, mầu nhiệm làm Người của Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu. – Kitô, Vị Vua nhân ái.
Kết cục chung thẩm không phải là người nghèo, người bất hạnh được tuyên dương, hay đề cao, hoặc tất cả người nghèo được lên Thiên Đàng, hoặc tất cả những ai ở tù, những ai vô gia cư, đau yếu , bệnh tật mà được lên Thiên Đàng hết đâu.
Nhưng, là những ai có điều kiện, hoặc gặp gỡ người bất hạnh, mà “ bỏ qua”, thì mặc nhiên căn cứ Lời Chúa hôm nay, họ sẽ trả lẽ.
Lạy Chúa là Cha Toàn Năng, Cha đã ban Thánh Tử Giêsu là VỊ THẨM PHÁN CHÍ CÔNG trong ngày sau hết. Xin cho những ai nghe Lời Chúa hôm nay được mau mắn thực thi, vì Lời Chúa dành cho kẻ công chính, cũng như kẻ bất lương, người giàu cùng kẻ nghèo, xin thương ban cho mọi người đều biết nhận ra tình Chúa cao vời mà đáp đền muôn một./. Amen.
Thời đại vua chúa đã qua đi, ngày nay rất ít quốc gia còn sót lại hoàng tộc. Nếu có hoàng gia đóng TN 34-ABC467
Thời đại vua chúa đã qua đi, ngày nay rất ít quốc gia còn sót lại hoàng tộc. Nếu có hoàng gia đóng vai trò biểu tượng của một thời đại vàng son đã qua mà không nắm giữ quyền hành lãnh đạo, chủ trì vận mạng dân tộc trong tay như thời xưa. Việc lãnh đạo đất nước nằm trong tay những người do dân cử. Điều này cho thấy không chủ thuyết, chủ nghĩa hay đảng phái chính trị nào tồn tại vĩnh viễn.
Giáo Hội mừng kính lễ Đức Kitô vua. Đức Kitô không phải là vua một chủ nghĩa, môt chủ thuyết mà là vua của tình yêu, vua bình an. Tình yêu là điều không thể thiếu trong cuộc sống, không có tình yêu không có sự sống thật; không tình yêu không có bình an thật. Tình yêu chân chính và nước của vua tình yêu luôn tồn tại. Tình yêu chân chính tồn tại muôn đời, vĩnh cửu bởi tình yêu đó được vua sự sống, vua tình yêu ban phát sự sống vĩnh cửu. Lễ Đức Kitô vua được cử hành để nhắc nhở nhân loại về sự tai hoạ, tàn phả nhân phẩm do các chủ nghĩa thời đại. Đức Kitô đến trần gian hướng dẫn con người về con đường chân lí, sự thật và sự sống và đường lối đó bị xã hội lên án, loại bỏ vì trái nghịch hướng dẫn của xã hội. Để triệt tiêu lòng nhân ái họ tìm cách giáng hoạ và kết án tử hình, đóng đinh Đức Kitô vào thập tự. Kitô hữu chia sẻ ơn vương quyền qua bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được mời gọi chia sẻ ơn vương quyền làm chứng nhân cho vua tình yêu qua cách sống yêu thương, tha thứ, cầu nguyện và cổ võ cho bình an. Đức Kitô luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần thế. Dù không nhìn thấy nhưng cảm nhận có Ngài gần bên khi chúng ta tuyên xưng công lí, cổ võ cho an bình và lên tiếng bảo vệ kẻ thế cô. Sống thực hành ơn vương giả của Kitô hữu là sống một đời sống tôn trọng sự thật, công bằng, bác ái do Đức Kitô giáo huấn. Khi trả lời cho Philatô, kẻ chất vấn Ngài, Đức Kitô đáp.
Tôi đến thế gian để làm chứng cho sự thật và ai làm theo sự thật thì nghe lời tôi Jn 18,37.
Mỗi khi chúng ta dám lên tiếng chống lại bất công, tranh đấu cho công lí, cho sự thật, cho bình an thực sự là lúc chúng ta đang sống ơn vương quyền của Đức Kitô bởi Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và sự thật đó là nhận biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên ta, dựng lên vũ trụ và Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta bị đối xử bất công, bị vu oan, cáo vạ vì lẽ công chính là lúc chúng ta đang chia sẻ nỗi khổ đau của Đức Kitô trên thập giá. Tất cả mọi cố gắng giải thích lệch lạc, xuyên tạc, cố gắng bẻ cong, uấn éo chân lí Đức Kitô rao giảng và sống đều thuộc về con người, do con người nguỵ tạo, đội lốt dưới hình thức xem ra có vẻ tốt lành, đều là giả tạo.
Hãy xuống khỏi thập giá, để chúng ta tin. Mat 27,42.
Mỗi lần chúng ta chống trả lại các cơn cám dỗ dưới mọi hình thức, kể cả kì thị, chia rẽ là chúng ta đang thực hành ơn vương quyền của Đức Kitô bởi chính Ngài đã chống lại các cơn cám dỗ, chiến thắng thần chết sự dữ, đập tan bóng tối của thần ác để sống lại vinh quang, đổi mới tạo vật, thiết lập thiên quốc vĩnh cửu, bình an. Sách Khải Huyền gọi Ngài là Đấng khởi đầu đổi mới vạn vật. Kh 1,5
Mỗi khi chúng ta nói thật, sống thật, làm chứng cho sự thật. Mỗi khi chúng ta làm chủ thói xấu con người mình, bắt chúng phải phục tùng ta chính là lúc chúng ta sống ơn vương quyền của Đức Kitô bởi chính Đức Kitô chiến thắng thần dữ, đập tan thần chết, kêu gọi chúng ta sống trong chân lí và sự thật. Đức Kitô không đến trần gian để thiết lập vương quốc trần thế nhưng thiết lập thiên quốc, kêu gọi con người sống tôn trọng sự thật, công lí và bình an vì mọi người đều do Chúa tạo dựng, đều là anh chị em trong Đức Kitô. Ngài là vua của bình an nên khi người ta chửi rủa, đánh mắng, thách thức Ngài luôn im lặng, không lên tiếng tranh biện. Tình yêu chân chính đòi hy sinh, thực hành, không phải để tranh biện, cãi lí. Kitô hữu được mời gọi sống công lí cho chính mình, cho anh chị em, cho xã hội và bảo vệ trái đất và vũ trụ do Chúa tạo thành.
Về ngày phán xét chung, Đức Giêsu đã nói: “ Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả TN 34-ABC468
Về ngày phán xét chung, Đức Giêsu đã nói: “ Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.”( Mt 24:36) Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy viễn cảnh ngày“Con Người sẽ đến trong vinh quang” để phán xét con người. Ngày ấy sẽ xảy ra như thế nào và số phận của mỗi người sẽ ra sao? Để được chúc phúc, phải tỉnh thức, sẵn sàngvà hành động thế nào?
“ Bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên và dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.” Và Người sẽ bắt đầu phán xét.
Như vào mùa gặt, chủ ruộng phân loại lúa tốt và cổ lùng, vào ngày phán xét chung Vị Thẩm Phán Tối Cao tách biệt chiên và dê. Lúa tốt và cỏ lùng sống chung trong một thửa ruộng, chiên và dê sống chung trong một đàn, người lành người dữ, người tin hay không tin đều thuộc cộng đồng nhân loại.
Với những người đứng bên hữu,Vị Thẩm Phán sẽ phán quyết: “ Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống…”; và với những người đứng bên trái, Ngài sẽ lên án: “ Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống…”
Vị Thẩm Phán Tối Cao không xét là giáo sĩ hay giáo dân, không dựa vào địa vị xã hội giàu hay nghèo; Ngài cũng không lấy tiêu chuẩn tham dự Thánh lễ nhiều hay ít, siêng năng đọc kinh, cầu nguyện hay biếng nhác… Được chúc phúc hay bị lên án là tùy vào tiêu chuẩn làm hay không làm, cho hay không cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, tiếp rước người khách lạ, người trần truồng cho áo mặc, chăm non kẻ yếu đau, thăm viếng người tù tội. Như vậy, tiêu chuẩn để Thiên Chúa phán xét loài người dựa trên hành vi bác ái yêu thương người đồng loại chứ không dựa trên lời nói suông. Mỗi lần chúng ta làmnhững việc yêu thương bác ái, phục vụ những người anh em bé nhỏ đang sống chung quanh chúng ta,là chúng ta làm cho chính Chúa.
Những người được thưởng và cả những người bị phạt, nếu thấy Chúa đói khát, trần truồng, ốm đau, tù đày, không biết có làm được như lời họ nói: “ Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Cuộc sống của Đức Giêsu ở trần gian, cuộc khổ nạn chịu chết trên Thánh Giá đã tố giác lòng hèn nhát, dối trá của con người!
Nếu được hỏi: Tình yêu phải như thế nào, có lẽ tùy hoàn cảnh, tùy nhận thức, mỗi người chúng ta có những quan điểm khác nhau. Riêng thánh Augustine, tiến sĩ Hội Thánh đã trả lời câu hỏi trên như sau:” Tình yêu có đôi tay để giúp đỡ người khác. Tình yêu có đôi chân để mau mắn đến với những ai nghèo khó và những ai cùng quẫn. Tình yêu có đôi mắt để nhìn thấy những nỗi khổ tâm và sự thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để lắng nghe những tiếng thở than và những lời ai oán của người khác. Hình dạng của tình yêu là như thế.”
Chúa Kitô là Vua Tình yêu.Vương quốc của Ngài là Vương Quốc tình yêu. Muốn vào Vương Quốc của Ngài, chúng ta phải trở thành công dân của Vương Quốc ấy, phải có lòng yêu mến Chúa và yêu mến anh em thật sự. Đến ngày phán xét, chúng ta bị kết án không phải vì những lỗi lầm đã phạm,mà là vì những tội lỗi do thiếu sót trong Luật Yêu thương của Thiên Chúa.
Nhờ đức tin, chúng ta được nên công chính, được ơn cứu độ; nhưng đức tin đích thực sống động phải là đức tin đi đôi với việc làm. “ Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. ( Gc 2: 17)Hành động của đức tin trong cuộc sống hôm nay quyết định cho số phận mai sau.
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi TN 34-ABC469
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giê-su, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó, thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định, đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.
Thực thế, ngay như ở Việt Nam cũng đang áp dụng một chế độ được gọi là dân chủ, gọi bộ máy chính quyền là nơi tập trung dân chủ, và khẩu hiệu được nêu lên thật… hoành tráng: “Dân làm chủ”. Dân được làm chủ, nhưng lại do “chính quyền quản lý” và đặc biệt là “Đảng lãnh đạo”. Đồng thời, nơi gọi là “tập trung dân chủ” (bộ máy chính quyền) thì hầu hết phải là những đảng viên gộc, còn giai cấp lãnh đạo chính quyền phải là những “chóp bu” (cấp lãnh đạo) của Đảng. Nói tóm lại, tất cả đều do Đảng cầm quyền sinh sát. Thế đấy! Và có lẽ được làm chủ như vậy nên ông chủ (dân ngu khu đen) lúc nào cũng… méo mặt, khốn đốn trước quý vị đầy tớ! Không chỉ ở Việt Nam, mà cũng vẫn còn nhiều nơi trên thế giới chỉ dân chủ ở cái quốc hiệu, ở cái tiêu đề trên những văn bản pháp quy, ở những khẩu hiệu… Ôi chao! Chẳng lẽ cái áo lại thực sự làm nên thầy tu hay sao? Thôi chẳng dám dông dài nữa, kẻo lại phạm huý, chạm nọc. Xin được chia sẻ vào chủ đề: Lễ Chúa Ki-tô Vua.
Như vậy thì phải hiểu như thế nào về thánh hiệu Đức Ki-tô Vua Vũ Trụ? Thời quân chủ, vua được trọng vọng ví như con rồng: thân thể của vua đựơc gọi là mình rồng (long thể: 龍體), mặt là mặt rồng (long nhan: 龍顏), râu là râu rồng (long tu: 龍鬚), nơi vua ở là điện rồng (long điện: 龍殿), áo vua mặc là áo rồng (long bào: 龍袍), ghế vua ngồi là ghế rồng (long ỷ: 龍袍), giường vua nằm là giường rồng (long sàng: 龍床), xe vua đi là xe rồng (long xa: 龍車). Chưa hết, vì là rồng nên chỗ vua ngồi tại triều đình phải là một cái ghế được chạm khắc hình rồng và sơn son thếp vàng choáng lộn, gọi là ngai vàng (hay “bảo toạ”: 寶座). Đến khi vua chết thì phải tìm mạch rồng (long mạch: 龍衇) mà táng xác và bắt cả nước phải để tang (quốc tang: 國喪).
Cái gì cũng rồng hết trơn, chỉ khác một điều, ấy là rồng thì phun nước mà vua thì hét ra lửa, mửa ra khói. Khiếp quá! Còn ông vua Giê-su thì sao? Đó chỉ là một người xuất thân trong một gia đình lao động nghèo ở một làng quê nghèo và hẻo lánh; là con của một ông thợ mộc trầm lặng và một bà nội trợ hiền lành; ăn mặc thì xuềnh xoàng, tụ họp môn đệ (kiểu như họp triều đình) để giảng dạy khi thì trên một bãi cỏ, lúc thì ven đường đi, bên bờ giếng, trên triền núi, nếu có tụ họp trong nhà thì lại là nhà của một bệnh nhân hay một người nghèo kiết xác; di chuyển thì đa phần là lội bộ hơn là cưỡi ngựa hoặc đi xe, đến khi chết thì bị nhục hình chết treo trên thập giá và được môn đệ táng trong hang đá. Vậy đó! Như vậy mà gọi được là vua sao?
Hoá cho nên, nếu chỉ căn cứ vào bộ vó bên ngoài thì không thể đánh giá đúng chất lượng được. Xanh vỏ đỏ lòng, “tốt mã giẻ cùi” (1) cũng là lẽ thường tình thế sự. Thực ra, cũng không phải tất cả những ông vua phong kiến (kể cả những ông vua hiện đại được gọi bằng tên khác như: thống chế, tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước…) đều xấu xa, đáng lên án. Cũng có nhiều những ông vua thương dân như con, biết “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người” (“tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” 先天下之忧而忧,后天下之乐而乐 ), rất xứng đáng là những bậc minh quân trị vì dân nước. Với Đức Giê-su thì vì Người là Con của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, điều này không phải chỉ do Người tự xưng (đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – Mt 26, 65), mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Mt 3, 1-17), khi Người biến hình trên núi (Lc 9, 28-36), đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa.
Đức Giê-su Ki-tô chính là ”Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình.” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài, như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giê-su Ki-tô thật sự là vua trên hết các vua, chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.
Ngày 11/12/1925, Đức Giáo hoàng Pi-ô XI thiết lập lễ kính trọng thể CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ VUA, với lời nhắc nhở cộng đồng dân Chúa rằng: Chúa Giê-su Ki-tô, Con của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, chính Người là Vua vũ trụ, Vua muôn loài. Người không những là Vua của từng cá nhân, từng gia đình mà còn là Vua của tất cả mọi loài, mọi người, mọi dân tộc, là Vua trên hết các vua ở trần gian này. Vương quyền của Người chi phối toàn thể vũ trụ, mặc dù vương quyền ấy là linh thiêng, vĩnh cửu, không lệ thuộc vào không gian, thời gian hữu hạn, không thuộc về thế gian (Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao? ” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” – Ga 18, 36-37).
Lịch sử cứu độ đã khẳng định Đức Giê-su Ki-tô là Vua không theo nghĩa chính trị hẹp hòi của trần thế với những ưu thế tuyệt đỉnh về vật chất trong một quốc gia như những vua chúa gian trần. Sau đó, tại Công đồng Va-ti-ca-nô II, khi canh tân Phụng vụ, Giáo hội đưa thêm vào một ý nghĩa mới: “ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VUA VŨ TRỤ” (Giáo hội thừa nhận đặc tính vũ trụ và cánh chung được thể hiện cụ thể và đầy đủ nhất nơi mầu nhiệm Giê-su Ki-tô, vì thế nên Lễ này được đặt vào đúng vị trí của nó: Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, thay vì như trước đó, Đức Pi-ô XI để vào CN trước ngày Lễ Các Thánh 01/11).
Không bút mục nào có thể kể hoặc ghi lại cho hết được những điều mà Đức Vua Giê-su đã nói, đã dạy và đã làm, thật đúng như lời Gio-an Thánh sử: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Quả thực nếu chỉ nhìn vấn đề bằng con mắt trần tuc thì ông Vua Giê-su là một ông vua không giống ai – một ông vua kỳ dị! Và vì thế cần phải có nhãn quan thần học để có thể suy niệm và chia sẻ Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô – Vua vũ trụ.
Muốn được vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện và khắc ghi trong tâm khảm lời dạy của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su: ”Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.” (Pl 2, 5-11).
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Ki-tô là Người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ)
Chú thích: (1) “Tốt mã giẻ cùi”: Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), “Giẻ cùi” có tên khoa học là: Urocissa erythroryncha. Đây là một loài chim có dáng vẻ bề ngoài (bộ lông và cái đuôi) rất đẹp. Tiếc rằng chúng lại hay ăn phân chó (“Giẻ cùi tốt mã dài đuôi, Hay ăn phân chó ai nuôi giẻ cùi?” – ca dao VN). Thành ngữ “Tốt mã giẻ cùi” có ngụ ý chỉ những con người chỉ chuộng vẻ hào nhoáng bên ngoài, nhưng thực chất bên trong thì chẳng có gì là tốt đẹp cả.
Cách đây mấy tuần, Việt Nam mời một tỉ phú Trung Quốc là Jack Ma nói chuyện với các bạn TN 34-ABC470
Cách đây mấy tuần, Việt Nam mời một tỉ phú Trung Quốc là Jack Ma nói chuyện với các bạn trẻ, ông đã đưa ra những lời khuyến khích cũng như thách thức người trẻ học theo ông. Báo chí muốn tôn ông này như một ông vua của sự thành công từ hai bàn tay trắng. Một số bạn trẻ Việt Nam ngưỡng mộ ông đến độ, một bạn đã quỳ xuống lậy và hôn chân ông. Hành động thiếu suy nghĩ và hết sức phản cảm của một bạn trẻ đang phản ánh tình trạng sống hời hợt, thiếu chiều sâu của một tầng lớp trong các bạn trẻ. Nhưng điều băn khoăn hơn đó là: nhà tỉ phú Jack Ma này giàu lên nhờ kinh doanh và điều khiển một mạng lưới cung cấp hàng giả, hàng nhái toàn cầu. Các nhà tổ chức không biết cố ý hay vô tình đã đưa một con người làm đồ giả, đồ nhái để làm gương cho các bạn trẻ. Như vậy chẳng khác gì họ tôn vinh những con người làm giàu bằng sự giả dối, hay đúng hơn là một tên ăn cắp trí tuệ của người khác.
Trong tuần cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, chắc chắn Ngài không phải là vua theo kiểu báo chí tôn vinh, nhưng Ngài thực sự là Vua, là Chúa, Đấng làm chủ và cầm quyền sinh tử mọi người, mọi vật và cả vũ trụ này. Dù con người có nhận biết Ngài hay không, thì Ngài vẫn là Vua, Đấng tạo dựng và đang tiếp tục điều khiển vũ trụ theo một trật tự lạ lùng, hài hòa và hết sức kì diệu.
Lời Chúa trong ngày lễ hôm nay cho thấy nét nổi bật nơi vị vua Giêsu, Ngài là vua Tình Yêu – Vua Công Bình. Tiên tri Ezekiel diễn tả Thiên Chúa là Vua tình yêu qua hình ảnh của một mục tử hết lòng yêu thương chăm sóc cho đoàn chiên của Ngài. Chúng ta biết rằng trong văn hóa Do Thái, tương quan mục tử và đoàn chiên là một tương quan hết sức đặc biệt. Đây không chỉ là tương quan giữa con người và đàn vật, mà giống như tương quan cha con, như người thân thiết ruột thịt. Vì thế, Thiên Chúa đã nói về tình thương của Ngài đối với dân, giống như tình thương của mục tử đối với đoàn chiên: Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của ta, chính Ta sẽ kiểm đếm đàn chiên của mình sau những ngày chúng bị tản mác. Chính Ta sẽ quy tụ chúng và đưa chúng ra khỏi những ngày tối tăm mù mịt. Với những lời lẽ như thế, Thiên Chúa muốn diễn tả tình yêu đầy tràn Ngài dành cho dân của Ngài. Thiên Chúa khẳng định: Chính Ngài sẽ “dùng đôi tay, dùng sức lực” và tình thương của mình để chăm sóc cho đoàn dân chứ không cậy nhờ ai khác. Ngài chăm sóc dân Ngài bằng hết cả trái tim và tất cả tấm lòng yêu thương. Tiên tri cũng cho thấy, Thiên Chúa không chỉ yêu thương dân Ngài một cách chung chung, cũng không yêu thương như một đám đông, nhưng Ngài yêu thương chăm sóc cho mỗi người và từng người một cách cụ thể, riêng biệt theo từng hoàn cảnh mỗi người: Con nào bị lạc, Ta đi tìm. Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó. Con nào bệnh tật, Ta sẽ chăm sóc. Con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng.
Thiên Chúa cho thấy Ngài không chỉ là Vua Tình Yêu nhưng Ngài còn là vị Vua Công Bình khi khẳng định: Chính Ta sẽ xét xử giữa chiên và dê, sẽ phân biệt chúng. Trong dụ ngôn ngày chung thẩm, Chúa Giêsu đã giải thích rõ hơn về cuộc xét xử này khi dùng hình ảnh một phiên tòa thật uy nghi đáng sợ. Ngày Con Người ngự đến có đoàn tùy tùng là các thiên thần hầu cận. Ngài sẽ ngự trên ngai và ra lệnh triệu tập muôn dân quy tụ trước mặt Người. Cách diễn tả này cho thấy, ngày phán xét là ngày Thiên Chúa thể hiện sự công thẳng và công bình của một vị chúa tể nghiêm minh.
Ngày ấy, Vua Giêsu sẽ tách biệt rạch ròi người tốt và người xấu như mục tử tách chiên ra khỏi dê, người tốt thì được thưởng, người xấu sẽ bị loại trừ. Vua Công Bình sẽ trả lại sự công bằng cho mọi người mọi dân. Ngài thật công thẳng, nghiêm minh, không cả nể, không bỏ quên những việc tốt và cũng không làm ngơ trước việc xấu của con người. Mọi hành động tốt hoặc xấu đều được xét xử công khai. Các việc tốt sẽ được trọng thưởng cân xứng và các việc xấu, cũng như các việc đáng lẽ phải làm mà không làm, sẽ bị phạt tương xứng.
Vua Tình Yêu sẽ xét hỏi những điều gì? Ngài sẽ xét hỏi, khen thưởng hay luận phạt về một nội dung duy nhất, đó là sự chạnh thương, việc tốt lành mỗi người đã làm cho anh em. Vua Giêsu không hỏi về tiền bạc, bằng cấp, nhà cửa hoặc sự giàu sang, Ngài cũng không hỏi về thân thế, gốc gác, địa vị hoặc các mối quan hệ xã hội. Cả những người bên phải và bên trái, người tốt và xấu đều được thưởng hoặc bị loại trừ chỉ vì lý do: Khi xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta bị tù đày, các ngươi đã viếng thăm ta.
Cả những người được thưởng và bị phạt đều ngỡ ngàng thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống? Có bao giờ tôi thấy Chúa trần truồng mà cho mặc hay yếu đau mà thăm viếng đâu? Vua Giêsu đáp lại: Mỗi lần các ngươi làm như vậy cho một trong các anh em nhỏ bé nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta. Cũng vậy, những kẻ bị loại trừ thắc mắc và đã được trả lời: Vì Ta đói các ngươi không cho ăn… Mỗi lần các ngươi đã không làm gì cho các anh em bé nhỏ nhất của ta là các ngươi không làm cho Ta.
Như vậy, Vua Giêsu đánh giá cao và phân biệt người tốt và người xấu, người đáng thưởng và kẻ bị loại trừ ở chỗ, họ có một tấm lòng chạnh thương với anh em. Người có lòng chạnh thương và trái tim trắc ẩn sẽ dễ dàng rung nhịp và đưa tay ra trợ giúp cho anh chị em đang cần đến sự giúp đỡ của mình. Những người thực sự có trái tim chạnh thương, sẽ làm các việc bác ái chia sẻ một cách hết sức tự nhiên, không tính toán, không nghĩ gì khác, đến độ khi được khen thưởng, họ ngỡ ngàng thưa với Chúa: Có bao giờ tôi làm như Chúa đã kể ra đâu? Nhưng Thiên Chúa là Vua Công Bình, Ngài không không bao giờ quên một việc tốt, việc yêu thương bác ái, dù nhỏ bé, mà một người đã làm cho anh em mình.
Cũng vậy, nhửng kẻ bị loại trừ là những người đóng cửa lòng mình lại, để trái tim mình bị khô cứng không còn chạnh thương, không còn xúc động trước nỗi đau khổ của anh chị em. Họ bị Thiên Chúa quở trách, loại trừ, vì họ đã không mở rộng vòng tay, mở rộng lòng với anh em, đã làm ngơ trước những nhu cầu của họ. Những người có trái tim hẹp hòi, có lòng chai cứng với anh em như thế sẽ không phù hợp với Nước Trời là nơi đầy ắp tình yêu thương. Những người này chỉ thích hợp với những nơi đầy hẹp hòi và ích kỉ là hỏa ngục mà thôi.
Thưa quý OBACE, tôn vinh Chúa là Vua Tình Yêu, Vua Công Bình, chúng ta được mời gọi để sống xứng đáng là dân của Ngài, tức là những người biết sống yêu thương; đồng thời tôn Ngài làm Chúa, làm Vua và làm chủ cuộc đời chúng ta. Các bậc làm cha mẹ hãy để cho Vua Giêsu là chủ và điều khiển gia đình của mình. Ngài sẽ điều khiển mọi thành viên biết sống theo tình yêu và biết chạnh thương quan tâm đến nhau, bằng việc làm yêu thương cụ thể. Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua Công Bình, chúng ta được mời gọi sống theo sự công bình của Chúa, gạt bỏ khỏi gia đình tất cả sự gian dối, gại bỏ khỏi công việc làm ăn những gì mờ ám, quanh co. Nhất là hãy để Chúa thực sự làm chủ điều khiển mọi hành vi, lời nói và việc làm của gia đình.
Nhiều bạn trẻ ngày nay bị cuốn hút bởi các thần tượng là những người giàu có, thành đạt, thậm chí tôn những người này làm vua của mình. Các bạn đừng quên rằng: Chỉ có Vua Giêsu mới thực sự là lý tưởng, là gương mẫu cho chúng ta. Ngài không hứa hẹn cho chúng ta một cuộc sống giàu sang vật chất, nhưng chắc chắn Ngài có thể giúp chúng ta trở thành giàu có trong tâm hồn, giàu lòng yêu thương trắc ẩn, giàu sự nhân ái bao dung. Hãy để Ngài làm vua, làm chủ cuộc đời chúng ta, Vua Giêsu sẽ chăm sóc chúng ta bằng tình thương mục tử của Ngài và sẽ ban tặng chúng ta trái tim yêu thương của Ngài. Amen.
Mỗi lần nghe bài hát “Chuyện ngày cuối năm” của nhạc sĩ Song Ngọc, trong tôi đều dâng trào TN 34-ABC471
Mỗi lần nghe bài hát “Chuyện ngày cuối năm” của nhạc sĩ Song Ngọc, trong tôi đều dâng trào cảm xúc: “Cuối năm ngồi tính lại sổ đời, ba trăm ngày vui đã qua mất rồi. Đời mình lại tay trắng tay, công danh thì chưa được thấy, năm tháng dài vẫn còn bôn ba”. Đó là tình cảm rất thực của một con người khi nhìn lại một năm đã qua.
Chúa Nhật 34 Thường niên là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, cũng là dịp để chúng ta nói “chuyện ngày cuối năm”; là dịp để “ngồi tính lại sổ đời”, nhưng không phải là chuyện “công danh, nợ duyên một năm lỡ rồi”, mà là chuyện “khi Con Người đến trong vinh quang” (Mt 25, 31).
“Con Người” là nhân vật huyền bí trong các sách Khải Huyền của người Do Thái. Hôm nay “Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người” để xét xử “các dân thiên hạ”, một đặc quyền thuộc về Thiên Chúa. Con Người đó cũng chính là Mục Tử được tiên tri Êdêkien nói đến trong bài đọc thứ nhất, Người sẽ “thân hành kiểm điểm đàn chiên” ( Ed 3411b); “Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê”( Mt 25, 32 b). Đó chính là vương quyền của Thiên Chúa đã trao ban cho Đức Kitô, vào thời kỳ viên mãn, nghĩa là ngày tận thế. Người được trình bày như “Đức Vua” xét xử công minh… Tất cả những điều đó được thể hiện rõ trong dụ ngôn về ngày phán xét.
Dụ ngôn này để trả lời cho câu hỏi đâu là người môn đệ chân chính được đặt ra ở phần đầu của Tin Mừng Matthêu: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa’ là được vào nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Như vậy người môn đệ chân chính của Đức Kitô là người “thi hành ý muốn của Cha Thầy”, mà ý muốn đó được thể hiện rõ trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe: “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
Như vậy Đức Giêsu đã làm nỗi bật điều mà Người cho là bản chất của “sách các ngôn sứ và Lề Luật”, là lòng yêu thương. Nó không chỉ dành riêng cho người Do Thái thời bấy giờ, mà Đức Giêsu còn muốn mở rộng và trở thành ánh sáng cho muôn dân, để từ đây tiêu chuẩn duy nhất để được vào Nước Chúa không phải là những gì làm cho chính Chúa, mà là làm cho “những kẻ bé mọn”.
Ánh sáng lời Chúa ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ cho thấy vương quyền của Đức Kitô dành cho những “kẻ bé mọn”. Vì lẽ đó mà Đức Thánh Cha Phanxicô chọn Chúa Nhật 33 Thường Niên, trước lễ Chúa Giêsu Kitô là Vua làm ngày thế giới người nghèo, vì họ chính là vương quyền của Đức Kitô, những gì làm cho họ là làm cho chính Chúa.
Từ đó chúng ta ý thức đến mọi hành động của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, vì những gì chúng ta “làm cho một trong những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa”. Ở đây không chỉ là việc làm phúc bố thí, lo cho người nghèo, nhưng là sự ảnh hưởng từ cuộc sống của chúng ta trên kẻ khác, nhất là những người Chúa đã trao phó cho chúng ta: Linh mục đối với giáo dân, cha mẹ đối với con cái, thầy cô giáo đối với các em học sinh, người lớn đối với trẻ nhỏ, người Công Giáo với anh chị em tôn giáo bạn…
Trong 3 năm Giáo hội đặc biệt quan tâm đến các gia đình, đời sống và sự giáo dục của cha mẹ chính là việc “làm cho những kẻ bé mọn”, là những đứa con của họ. Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trong giới trẻ ngày càng nhiều và nghiêm trọng; đành rằng có nhiều yếu tố gây nên tội ác, nhưng trước hết phải kể đến cách giáo dục trong gia đình. Sau khi thi hành án tử với Nguyễn Hải Dương, có một bài báo đã “tưởng tượng” ra bức thư cuối cùng của Nguyễn Hải Dương gởi cho người mẹ, nhưng chủ yếu là để cho những bậc phụ huynh ý thức về cách giáo dục con cái. Trong lá thư này, “tử tù” đã trách móc mẹ mình quá nuông chiều anh ta ngay từ nhỏ, muốn gì được nấy, nên anh ta đã phạm tội. Xin được trích đoạn cuối của lá thư tưởng tượng này: “Năm con 35 tuổi, khi con biết mẹ đã không còn đồng nào trong người, con đã đi cướp của giết người. Khi con nghe thấy họ tuyên án tử hình, mẹ đã khóc và trách ông trời không công bằng, vất vả cả đời vì con, vậy mà cuối cùng lại ra nông nỗi này. Cuối cùng con đã biết, mẹ đã vì yêu con mà hết lần này đến lần khác cướp đoạt đi cơ hội trưởng thành của con, hết lần này đến lần khác bóp chết đi năng lực sinh tồn của con, lấy đi trách nhiệm đối với cuộc đời của chính con. Hóa ra cho đến lúc cận kề cái chết, con vẫn chưa trưởng thành. Mẹ đã dùng phương pháp sai lầm và vất vả cả đời vì con cái, để đổi lấy sự đau khổ cho cả 2 thế hệ. Hóa ra giáo dục con cái không có cơ hội để lặp lại lần thứ 2, hóa ra, mẹ đã tự tay đưa con lên đoạn đầu đài… Mẹ hãy bảo trọng! Ngày mai con phải đi rồi. Hy vọng ở một thế giới khác, con có thể học được cách có trách nhiệm với chính mình, tự mình tìm được hạnh phúc cho chính mình…”
Và mỗi người trong mỗi hành động của chúng ta đều có ảnh hưởng trên người khác. Nếu hành động tốt, dù không ai biết cũng góp phần làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp. Ngược lại, nếu hành động xấu thì dù thầm kín cũng sẽ làm mất đi vẻ đẹp cho cuộc đời.
Đức Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ bé mọn. Vì vậy hãy nhận ra vẻ đẹp của Ngài nơi mọi người, nhất là những người nghèo khổ, thấp kém nhất. Khi nhận thức được phục vụ con người là phục vụ Thiên Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ cố gắng hết sức để làm những điều tốt đẹp cho nhau. Chính lúc đó vương quyền của Đức Kitô sẽ được tỏa rạng, vì sức mạnh của Thiên Chúa chính là tình yêu.
Để kết thúc, xin được chia sẻ 10 quyết tâm của Đức Thánh Cha Phanxicô trong năm mới 2016 như là những gợi ý để chúng ta bắt đẩu bước vào năm phụng vụ mới 2018:
Không nói xấu người khác Không bỏ phần ăn dư thừa của mình Dành thời gian cho người khác Chọn những món rẻ tiền hơn Đích thân thăm viếng người nghèo Không lên án người khác Làm bạn với những ai bất đồng với chúng ta Thực hiện cam kết : ví dụ như đời sống Hôn Nhân Cần có thói quen kêu cầu Thiên Chúa Là ngừoi kitôhữu vui tươi. Lạy Chúa, xin cho vương quyền của Chúa tỏa rạng trong chính đời sống chúng con qua cách sống yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con luôn tâm niệm “Hãy làm mọi sự vì Đức Ái” (!Cr 16, 14)
“Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê”(x.Mt 25,32).
Người sẽ cho CHIÊN đứng bên phải và cho DÊ đứng bên trái. Bấy giờ Đức Vua phán với cùng TN 34-ABC472
Người sẽ cho CHIÊN đứng bên phải và cho DÊ đứng bên trái. Bấy giờ Đức Vua phán với cùng người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”(x.Mt 25,33-34).
Đức Vua đó là ai ? Đó là Con Người. Con Người đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. Vì Chúa nói: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các Thiên Sứ theo hầu. Bấy giờ Người ngự trên ngai của Người”(x.Mt 25,31). Đức Giê-su Ki-tô là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân nước, là Vua mọi tâm hồn con người. Ngài là Vua nhưng không thống trị mà nhân lành như người Mục Tử. Ngài yêu thương tất cả mọi người cũng như thương xót mọi vật. Nhưng ai sẽ được hưởng tình yêu thương và lòng thương xót của Ngài ? Đó là những CON CHIÊN.
Những CON CHIÊN này đã làm gì ? Họ đã giúp đỡ người khác: đói thì cho ăn; khát thì cho uống; thấy ai mình trần thì cho mặc; ai đau yếu thì đến thăm; ai ở tù thì đến hỏi han. Thế nhưng cho người ta ăn, cho người ta uống, cho người ta mặc, đi thăm viếng hay an ủi người ta thì có liên quan gì đến Chúa? Có chứ. Đức Vua Giê-su đã nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”(x.Mt 25,40).
Có làm thì có thưởng. Đức Vua Giê-su nói với những CON CHIÊN này: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. Ta làm ở đời này, thì ta được Chúa thưởng ở đời sau. Làm một chút mà được hưởng sự sống muôn đời thì dại gì mà không làm. Ta hãy suy nghĩ, xem coi mình đã làm được gì chưa ? Nếu chưa thì phải bắt tay vào làm ngay hôm nay. Nếu làm ít thì phải làm cho nhiều; làm càng nhiều càng tốt. Càng làm nhiều thì phần thưởng càng lớn. Cùng vào thiên đàng như nhau nhưng phần thưởng không như nhau ạ. Điều này hợp với đức công bằng của Chúa.
Bởi đó ta đừng lo lắng hay thắc mắc khi nghe dụ ngôn Người làm vườn nho (x. Mt 20,1-16). Ta thấy người làm từ sáng sớm cũng được “một đồng”, mà người làm có một tiếng đồ hồ cũng lãnh được “một đồng”. “Một đồng” đó chính là được vào thiên đàng, nhưng phần thưởng không như nhau được. Người làm nhiều sẽ được phần thưởng khác với người làm ít chứ. Chúa là Đấng CÔNG BẰNG VÔ CÙNG mà, đâu có xử ép ta được. Cho nên ta phải cố gắng làm càng nhiều bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.
Ta mà lười không làm thì coi chừng hãy nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Quân bị nguyền rủa, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các tay sai của nó”(x.Mt 25,41). Đó gọi là cái chết thứ hai. Cái chết thứ nhất là cái chết tự nhiên của thân xác. Cái chết thứ hai là cái “chết” của linh hồn. Nói “CHẾT” mà lại không chết, vì linh hồn không bao giờ chết. “Cái chết thứ hai” nghĩa là linh hồn phải vào chốn cực hình muôn đời. Không chết mới khốn khổ khốn nạn. Thà là chết đi cho xong !
Có hai cái CHẾT thì Cũng có hai cuộc PHỤC SINH. Cuộc phục sinh thứ nhất là ta biết hoán cải ngay ở đời này, ngay từ bây giờ. Bởi đó mà ta phải lo bỏ làm việc xấu, để lo làm việc tốt, việc lành và giúp đỡ người khác. Cuộc phục sinh thứ hai là linh hồn ta được vào thiên đàng sau khi chết và đến ngày tận thế thì cả hồn lẫn xác – cái xác đã được phục sinh – vào thiên đàng hưởng hạnh phúc mãi mãi.
Nói vậy thì ta chỉ lo cho người khác, còn bản thân ta thì sao ? Đương nhiên ta cũng phải lo cho ta nữa chứ. Ta phải lo cho ta trước khi lo cho người khác đấy chứ. Ta cũng phải cho thân xác ta ăn, cho nó uống, cho nó mặc. Ta lo cho linh hồn của ta được tràn đầy ơn Chúa qua việc cầu nguyện, dâng lễ và làm những việc lành.
Ta phải lo cho ta sao cho DÊ trở thành CHIÊN. CON CHIÊN thì chất phát, hiền lành; dễ thương, dễ mến. CON DÊ thì không có hung hăng, dữ dằn gì hay đáng ghét chi. Nhưng tại sao Đức Vua Giê-su lại để DÊ bên trái? DÊ ở đây ta phải hiểu là “động từ” chứ không phải “danh từ”. Nghĩa là những ai hung hăng, dữ dằn, ghen ghét, ganh tị; làm hại, làm điều xấu, điều ác cho người khác.
Chúa đặt Chiên bên phải và Dê bên trái, đó chỉ là sự tách biệt thôi. Chứ không nhất thiết CON DÊ phải ở bên trái. Là CON DÊ mà không “DÊ”, thì đâu có vấn đề gì. Là Chiên mà “DÊ” thì cũng đứng bên trái à. Cái quan trọng là “DÊ” hay không “DÊ” và “DÊ” thế nào ? “DÊ” ở đây là động từ.
Người ta có nói đến những “dê xồm”, những “yêu râu xanh” hay những kẻ “quấy rối tình dục”, họ dùng mọi thủ đoạn xấu xa để lừa gạt hay cưỡng bức người khác để thỏa mãn thú tính của mình. Họ thấy “người nữ” là “cầm lòng không đậu”, thấy đói, không cho ăn; thấy khát không cho uống; cứ để mình trần, không cho mặc, hãm hại và làm nhục người ta, trên thân xác cũng như trên tinh thần. Họ làm khổ cả cuộc đời người khác. Những kẻ này không ai thích, không ai ưa và họ đáng nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Quân bị nguyền rủa, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các tay sai của nó”.
Ai có tính “dê” đó hãy bỏ đi, đừng làm nữa. Có “dê” thì cũng phải “dê” cho thánh thiện. “Dê” sao cho người ta mê; dê sao cho người ta chết mê chết mệt. Cái DÊ đó là ra sức giúp đỡ người khác và yêu thương với tấm lòng chân tình và chân thành. Như siêng năng làm việc; chăm chỉ học hành; kiên trì tập luyện. Thể xác thì cường tráng; sự hiểu biết thì sâu rộng; cử xử hòa nhã, đúng mực; không chỉ “ga-lăng”, làm để lấy lòng người đẹp mà còn chân thật và chân tình. Không cần phải nói nhiều mà cần phải làm nhiều việc tốt, việc lành. Dê sao cho người ta cười, người ta khoái thì OK. Họ đáng được nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Có “sở khanh” thì cũng phải “sở khanh của Chúa”. “Sở khanh” theo nghĩa thường, nghĩa đen là những tay đẹp trai, đem cái mã đẹp trai, tiền của, nói ngon, nói ngọt đi lừa các cô gái, để rồi hại đời biết bao cô gái nhẹ dạ, làm cho người ta phải khốn khổ khốn nạn suốt đời. Những tên sở khanh này cũng sẽ được nghe lời phán của Đức Vua Giê-su: “Quân bị nguyền rủa, đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỉ và các tay sai của nó”.
Còn “sở khanh của Chúa” là những người đi giúp đỡ các cô, các bà, ai muốn đi tu thì giúp cho đi tu; tu cho đắc đạo. Ai muốn có công ăn việc làm thì giới thiệu; ai muốn có một gia đình hạnh phúc thì góp ý, tư vấn, không nhận thù lao hay quà cáp gì hết. Ngay cả sự cám ơn cũng không màng, có cũng được mà không có cũng được. Có khi còn bị “gậy ông lại đập lưng ông” nữa cũng cam chịu. Giúp đỡ cho người ta nhiều, khi đạt được rồi thì quay lại nói xấu, vu khống, cũng cam lòng. Miễn sao các cô, các bà được thành công, được hạnh phúc là được. Họ đáng được nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Không những các chàng sở khanh, những chàng “dê xồm” mà những nàng chanh chua, những nàng có tâm địa xấu xa và gian ác, những “bà-la-sát”, cũng phải bỏ, cũng phải hoán cải để nên người tốt, người lành; để nên những CON CHIÊN hiền lành, ngoan đạo.
Vậy dù ta có là ai Nam hay Nữ, ta hãy biết hoán cải ngay ở đời này, biết bỏ đi những tính hư tật xấu; biết biến đổi từ người xấu sang người tốt; từ người gian ác nên người tốt lành; Từ DÊ nên CHIÊN; từ “yêu râu xanh” nên “xanh-râu-yêu”, nghĩa là làm mọi việc vì yêu; từ tên Họ Sở (khanh) sang người Họ“Giúp”(đỡ), để ta hưởng được tình yêu và lòng thương xót của Đức Vua Giê-su. Ta sẽ được đứng bên phải và được nghe lời Đức Vua Giê-su phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. Hạnh phúc biết bao phải không bạn !!!!.
----------------------------------
----------------------------------
TN 34-ABC473: Chúa Kitô, Vua tình yêu
--Lm. Minh Vận, CRM
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm thấy Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta tổ TN 34-ABC473
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm thấy Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta tổ chức một buổi lễ thật vĩ đại và long trọng khánh thành pho tượng Chúa Kitô Vua khổng lồ: Tượng cao 30 mét, đầu dài 3 mét 75, hai tay giang ra từ phải qua trái 30 mét, dựng trên một trái núi cao 700 mét. Buổi lễ diễn ra rất tưng bừng náo nhiệt. Pho tượng sừng sững, oai nghiêm và nhân từ, tỏa ra muôn ánh hòa quang sáng ngời bởi muôn ngàn ánh điện lung linh diệu huyền, khiến du khách thập phương ngưỡng mộ, ca ngợi và lòng tràn đầy hoan hỉ tôn phụng Vương Quyền Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Vua trên muôn Vua, Vua mọi tâm hồn.
I. NHỮNG HÌNH THỨC TÔN NHẬN CHÚA LÀ VUA
Khi thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội có mục đích nói lên cho nhân loại biết Vương Quyền cao cả của Chúa Kitô; mọi loài trên trời dưới đất và trong hỏa ngục đều phải hết lòng tôn thờ, sùng mộ, phụng sự và mến yêu Chúa. Không những phải tôn nhận Chúa là Chủ Tể vạn vật, là Chúa muôn loài, là Vua vũ trụ mà còn phải tôn nhận Chúa là Vua các dân tộc, các quốc gia, mọi gia đình và mọi tâm hồn... Cũng cùng quan niệm đó, các giáo phái ngoài Công Giáo cũng đều chân nhận và suy tôn Chúa Kitô là Vua. Các dân tộc dù không tôn thờ Thiên Chúa cũng phải tôn nhận Ngài là Chủ Tể dưới hình thức này hay hình thức khác. Chúng ta thấy những hình thức tôn nhận Chúa Kitô là Vua vũ trụ, diễn ra khắp thế giới, nơi mọi quốc gia, mọi dân tộc, nhất là xã hội nơi chúng ta đang sống. Những hình thức đó được kể tới như niên lịch Công Giáo năm 2000, đánh dấu biến cố lịch sử vô cùng quan trọng, Chúa Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Rồi, toàn bộ Thánh Kinh từ Cựu Ước tới Tân Ước đã chứng minh về Ngài. Ngày nay, dù muốn hay không tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ đều phải công nhận. Khắp đó đây trên thế giới, các Thánh Đường mọc lên như nấm, rải rác khắp hang cùng ngõ hẽm, đâu đâu người ta cũng thấy Thánh Đường, nhất là nơi xứ sở chúng ta đang sống, chỗ nào cũng Church, Church, cỡ to cỡ nhỏ, ngay một ngã tư, cũng có thể thấy 3 hoặc 4 Thánh Đường. Có những Thánh Đường được kiến trúc thật nguy nga đồ sộ, tân kỳ, lộng lẫy, tốn phí những ngân khoản khổng lồ. Ngoài ra, còn có những trung tâm hành hương, tổ chức những buổi lễ thật long trọng hấp dẫn, những cuộc cung nghinh biểu dương Đức Tin thật trọng thể, những giờ đền tạ tôn thờ Thánh Thể, sùng kính Thánh Tâm Chúa thật sốt sắng tha thiết. Chưa hết, ngoài ra, còn có các buổi hội thảo thuyết trình; những trường dạy Thánh Kinh, giáo lý; các cuộc giảng thuyết trình diễn trên télévision; sách Thánh Kinh được xuất bản cỡ lớn cỡ nhỏ với đủ mọi thứ ngôn ngữ, có cả loại hình ảnh lộng lẫy màu sắc tuyệt đẹp, với số lượng vô kể, không có một thứ sách nào trên thế giới sánh kịp.
Pho tượng khổng lồ Chúa Kitô Vua với cuộc lễ linh đình trên kia; biết bao hình thức chúng ta vừa đề cập tới, phải chăng đủ chứng minh lòng tôn sùng, kính mến loài người dâng lên, để tôn nhận Vương Quyền của Chúa Kitô, suy phục quyền bính của Ngài cách xứng đáng? Nếu chỉ căn cứ ở những dấu hiệu bề ngoài đó, hoặc nếu chúng ta là những du khách từ khắp nơi tới du lịch tại Hiệp Chủng Quốc này, hẳn chúng ta tất cả đều phải tấm tắc ca ngợi dân tộc Hoa Kỳ là một dân tộc rất sùng đạo, có thể nói vượt xa hơn mọi dân tộc khác.
II. NHỮNG ĐIỀU PHẢN NGHỊCH ĐÁNG SỢ
Chính Chúa Kitô đã phải than phiền: "Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng xa cách Ta!" Chỗ khác, Chúa phán với những người Pharisiêu: "Không phải kẻ nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, mà được vào Nước Trời; trái lại, chỉ có kẻ tuân giữ lời Ta truyền dạy mới được vào Nước Trời!" Rồi với thiếu phụ Samaria Chúa phán: "Đã đến lúc, người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong chân lý, công bình và bác ái". Chúa còn xác quyết: "Kẻ yêu kính Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy".
Qua các lời Chúa phán trên đây, chúng ta hãy để cho lòng lắng dịu xuống, suy tư hồi tưởng; rồi tự thâm tâm chúng ta tự trả lời câu hỏi: "Loài người nói chung và riêng bản thân chúng ta là con cái Chúa, chúng ta đã thực sự tôn nhận, suy phục và sống xứng đáng với lòng tôn sùng Chúa Kitô là Vua chúng ta chưa? Nhân loại đã sẵn sàng đón nhận và thực thi giáo huấn của Chúa chưa? Giáo huấn của Chúa đã thực sự thấm nhập vào luật lệ các quốc gia, điều khiển nền luân lý các dân tộc, chi phối các sinh hoạt xã hội, chính trị, tôn giáo của loài người chưa? Hay chỉ có những hình thức sùng đạo, mang một nhãn hiệu phô trương thương mại và kiêu căng? Nếu quả thực, không đến nỗi đáng trách, thì hỏi Chúa Kitô đã một phần nào được hài lòng với chúng ta là con cái Chúa chưa?"
Chúa Phán: "Yêu Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy". Giới luật Chúa truyền dạy loài người phải tuân giữ đã được ghi trong kho tàng Thánh Kinh, qua quyền giáo huấn của Giáo Hội, hoặc âm thầm nhắn nhủ trong lương tâm chân chính của mỗi người. Chúng ta đã sẵn sàng đón nhận và ngoan ngoãn sống theo những lời Chúa giáo huấn được bày tỏ trong các nguồn mạch đó chưa?
Đây là kết quả do một cuộc phỏng vấn sau dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thăm viếng Hoa Kỳ vừa qua, sẽ cho chúng ta thấy cái nhìn trung thực về lòng sùng mộ Vương Quyền Chúa Kitô và tuân giữ giáo huấn của Ngài thế nào?
Có thể nói hết mọi người, không riêng gì người Công Giáo mà hầu hết anh em trong các giáo phái và các tôn giáo ngoài Kitô Giáo, ai ai cũng đều nhiệt tâm đón tiếp Đức Thánh Cha với niềm kính yêu, xứng với chức vị cao cả là Đấng Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Thế nhưng, thực sự lại có một điều rất mâu thuẫn là nhiều người bất đồng ý kiến với ngài, trong những vấn đề liên quan đến giáo lý, luân lý và truyền thống chính đáng của Giáo Hội, cũng như của các dân tộc. Những điều bất đồng ý kiến đó được xoay quanh các về các vấn đề, như luật cấm ly dị, cấm đồng tính luyến ái, cấm phá thai, cấm phụ nữ làm Linh Mục, cấm tái hôn bất hợp pháp và nhiều vấn đề khác tương tự trong lãnh vực luân lý và xã hội.
Người ta đả kích Đức Giáo Hoàng và cho ngài là người độc tài, là người thủ cựu, kỳ thị nam nữ... Căn cứ vào những bất đồng ý với các lời giáo huấn của Đức Thánh Cha và những truyền thống lành mạnh của Giáo Hội qua cuộc phỏng vấn trên đây, hoặc căn cứ vào thực trạng của đời sống xã hội, nhất là nơi dân tộc chúng ta đang sống và chịu ảnh hưởng, chúng ta phải nhận định rằng: Những hình thức tôn nhận Vương Quyền Chúa Kitô trên kia mới chỉ là cái mã tốt đẹp bên ngoài, còn phần nội tâm chính yếu thì người ta đã bỏ qua. Nhiều đạo luật của các quốc gia không những bỏ qua mà còn phản lại tinh thần Chúa, chống lại giáo huấn của Giáo Hội như: Đạo luật cho phép ly dị, cho phép phá thai, tài trợ những phí khoản khổng lồ để phá thai... Thật đúng như lời Chúa: "Không biết khi Con Người đến có còn thấy Đức Tin trên mặt đất nữa không?" (Lc 18:8)
III. CHÚNG TA LÀM GÌ CHO XỨNG HỢP
Thánh Kinh đã định nghĩa rất xác thực: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Bản tính của Chúa là Tình Yêu. Chúa là Vua Tình Yêu, là Chúa nhưng là Chúa Hòa Bình, là Cha nhưng là Cha Nhân Từ: Chủ thuyết của Chúa là công bình, bác ái, quốc sách chinh phục các linh hồn là lòng nhân từ, là tình thương xót. Nghệ thuật quản trị của Chúa là Tình Yêu. Chúa cũng muốn nhân loại phải tôn nhận Chúa, suy phục Vương Quyền Ngài bằng tình yêu, bằng sự hiến dâng chính tình yêu, lòng yêu mến lên Ngài, như lời Ngài đã phán với Thánh Nữ Magarita Maria: "Con hãy dâng trái tim con cho Cha". Tất cả những hình thức bên ngoài để tôn vinh Chúa sẽ không có giá trị gì, nếu nhân loại không tuân giữ luật Ngài truyền, không suy phục và sống theo tinh thần Tin Mừng và giáo huấn của Ngài nơi luật của Giáo Hội, quyền giáo huấn của Đức Thánh Cha, là Đấng kế vị Thánh Phêrô và Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Tất cả vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật trên trời dưới thế đều thuộc quyền Ngài, đều do Ngài tác thành, đều ở trong quyền toàn năng bảo tồn và quan phòng an bài của Ngài... Điều Chúa khát khao là tình yêu, chúng ta chỉ có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng cách hiến dâng trái tim, sự thuần phục của chúng ta cho Chúa và sống theo tinh thần của Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy đáp lại lòng yêu thương của Chúa bằng cách thực thi các giáo huấn của Ngài, sống theo tinh thần Ngài, để đời sống chúng ta được họa theo mẫu gương đời sống thánh thiện của Chúa, tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài.
Đồng thời, chúng ta hãy nỗ lực làm tông đồ mở rộng Vương Quốc Yêu Thương của Chúa, cổ võ tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài đến với mọi người, để mọi người biết yêu thương, nhân từ bác ái tha thứ cho nhau, hầu làm cho nhân loại được trở nên anh chị em một nhà, con một Cha Chung trên trời.
------------------------------
TN 34-ABC474: “VỊ THẨM PHÁN NHÂN TỪ”
Quyền lực là một cám dỗ ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho người ta nhiều TN 34-ABC474
Quyền lực là một cám dỗ ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho người ta nhiều bổng lộc, giúp họ vinh thân phì gia. Vì quyền lực, người ta sẵn sàng chém giết nhau, làm cho cuộc sống xáo trộn và huynh đệ tương tàn. Trong xã hội Việt Nam của chúng ta, những tham vọng quyền lực đã và đang làm nghèo đất nước và gây bức xúc cho người dân. Nhiều người tìm cách đút lót hối lộ để được có chức tước trong guồng máy lãnh đạo của nhà nước. Trong bối cảnh này, việc tôn vinh Đức Giê-su với tước hiệu “Vua” dễ làm cho người đương thời hiểu sai về sứ vụ của Người. Thực ra, chính Chúa đã nói với quan Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Đức Giê-su là Vua vũ trụ, nhưng là vị Vua đến để phục vụ con người và đem cho họ sự sống, niềm vui và hạnh phúc. Là Thiên Chúa quyền năng, Đức Giê-su cũng là vị thẩm phán nhân từ và công minh. Người sẽ xét xử nhân loại về hành vi và đời sống của họ, vào lúc tận cùng của thời gian. Là Vua Tình yêu, Người cổ võ con người yêu thương nhau, yêu người khác như chính mình, và sẵn sàng tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình, thậm chí còn cầu nguyện cho họ nữa. Như vậy, vương quốc của Chúa Giê-su không phải là biển rộng sông dài như những vương quốc trần thế, nhưng là vương quốc hiện diện trong trái tim con người.
Vị thẩm phán tối cao này không chỉ xuất hiện vào thời tận thế, nhưng Người luôn đồng hành với con người trong hành trình dương thế. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên để diễn tả sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với Dân riêng Ngài đã chọn. Những chi tiết được nêu giúp chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của một người mẹ, luôn hiểu thấu tình trạng của mỗi người con trong những đứa con của mình. Chúa Giê-su đến trần gian thực hiện những gì Cựu ước đã loan báo. Người tuyên bố, Người là Mục tử nhân lành, đến trần gian để đem cho con người tình thương Thiên Chúa. Người chăm sóc các tội nhân, chữa lành những người bệnh, giúp những người bị gạt ra bên lề trở lại hòa nhập cuộc sống xã hội. Không một con chiên nào bị quên lãng hay bỏ rơi, dù là những con chiên bệnh tật còm cõi. Không một tội nhân nào bị loại trừ, dù họ tội lỗi đến đâu chăng nữa. Người mục tử còn cất công lặn lội đi tìm những con chiên bị lạc. Ông vui niềm vui của đoàn chiên, ưu tư trăn trở khi thấy lợi ích của đàn chiên bị đe dọa. Chúa Giê-su đã thể hiện vương quyền của người như một mục tử, với tất cả những đức tính diễn tả trên đây. Người đã thể hiện điều đó trong suốt cuộc sống dương thế. Dù có một số người Do Thái không chấp nhận Người và đã lên án tử cho Người, nhưng trong các lời tố cáo trước nhà cầm quyền, không hề có lời tố cáo nào liên quan đến nhân cách và đời sống của Người. Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Giê-su đã chứng minh những lời giảng dạy bằng chính bản thân. Chúa cũng khẳng định: Người không đến trần gian để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu rỗi con người. Trọn vẹn cuộc sống và nhất là cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh điều đó. Chúa chấp nhận sự chết để cho con người được sống. Người chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc. Đó là vương quyền đích thực của Người. Vương quyền này, hoàn toàn khác với vương quyền thế gian.
Một cách đặc biệt, vương quyền của Đức Giê-su thể hiện qua cuộc phán xét cuối cùng, hay còn gọi là phán xét chung. Đó là ngày tận thế, khi vũ trụ này sẽ qua đi, nhường chỗ cho trời mới đất mới. Lúc đó, hậu vận tương lai của mỗi người cũng được quyết định. Thánh Mát-thêu là tác giả duy nhất trong bốn tác giả Phúc âm, ghi lại bài giảng của Chúa Giê-su về ngày phán xét, với những chi tiết cụ thể và dễ hiểu. Hình ảnh cuộc phán xét chung cũng là câu trả lời cho biết bao vấn nạn được đặt ra về sự công bằng, về lối sống thánh hiện hoặc gian ác, về sự sống bên kia sự chết. Vị Vua của ngày phán xét chung là vị thẩm phán nhân từ nhưng cũng rất công minh. Người sẽ dựa vào thái độ của mỗi người đối với người nghèo mà quyết định tương lai hậu vận của họ. Hai mươi thế kỷ sau, chúng ta hôm nay cũng không khỏi ngỡ ngàng trước lời tuyên bố của vị thẩm phán: “Mỗi khi LÀM hay KHÔNG LÀM điều này điều kia để giúp đỡ những người bé mọn, nghèo khổ, cô đơn khốn cùng, là các ngươi LÀM hay KHÔNG LÀM cho chính Ta”. Quá ngạc nhiên! Thì ra Chúa đồng hóa mình với những người đáng thương bị gạt ra bên lề cuộc sống. Ai giúp người nghèo là giúp Chúa. Ai bỏ rơi người nghèo là bỏ rơi Chúa. Trong ngày phán xét chung, không thấy vị Vua đề cập tới những chức tước, địa vị đạo đời của chúng ta hoặc những công kia việc nọ chúng ta đã làm khi sinh thời, nhưng Người nhấn mạnh đến cách chúng ta đối xử với anh chị em mình. Đến ngày phán xét chung, chỉ có Đức Ái là đáng kể, và là lý do để chúng ta được Chúa khoan dung. Thánh Phao-lô đã viết: “Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Đức Mến tồn tại muôn đời” (1Cr 13,13).
Người tín hữu sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Họ là công dân của vương quốc vĩnh cửu. Vương quốc ấy đã được Đức Giê-su khai mở và đang hiện diện trên thế gian như “vương quốc của Tình yêu, vương quốc của Sự thật và Sự sống”. Vương quốc ấy sẽ tỏ hiện hoàn toàn khi mọi sự được đặt dưới chân Chúa Giê-su là Vua muôn loài (Bài đọc II). Khi nỗ lực cộng tác với Chúa và thực thi giáo huấn của Người, là chúng ta góp phần làm cho vương quốc của Thiên Chúa từng bước hoàn thành trên thế gian. Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa cho vương quốc của Ngài trị đến, tức là xin cho vương quốc ấy được thực sự trọn vẹn trong cuộc sống của chúng ta, để rồi trần gian trở thành thiên đàng, con người sống với nhau trong tình yêu viên mãn.
Sống trên đời hôm nay, chúng ta đừng quên sẽ có ngày phải đứng trước tòa phán xét. Hình ảnh phán xét không làm chúng ta lo sợ hoang mang. Trái lại, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, luôn thận trọng từng bước đi trong đời, để không phải hổ thẹn, và nhất là không bị kết án trầm luân trước vị Thẩm phán nhân từ và công minh là Chúa Giê-su, là Vua và là Đấng Cứu độ chúng ta.
+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
--------------------------------
TN 34-ABC475: TÌNH YÊU PHÁN XỬ CHÚNG TA
Cách đây nhiều năm, chính quyền thủ đô nước Ý đã quyết định tặng mẹ Têrêxa Calcutta, vị tông TN 34-ABC475
Cách đây nhiều năm, chính quyền thủ đô nước Ý đã quyết định tặng mẹ Têrêxa Calcutta, vị tông đồ tình thương của thời đại, danh hiệu “Công dân danh dự thành phố Rô-ma” vì bao hoạt động cứu giúp kẻ nghèo thành phố của các nữ tu Dòng Thừa sai Bác ái do Mẹ sáng lập. Trong nghi lễ trao bằng chứng nhận, ông thị trưởng thành phố đại ý đã nói: “Chúng tôi xin hết lòng cảm ơn Mẹ và chị em vì công việc từ thiện vĩ đại và hữu hiệu đã thực hiện. Công việc của quý Dòng đã làm lợi cho thành phố Rô-ma mỗi năm 45 triệu đô-la, nghĩa là chúng tôi phải tốn một số tiền như thế mới đạt được hiệu quả cứu trợ mà chị em đang làm một cách miễn phí và với tất cả tấm lòng”. Đáp lại mẹ Têrêxa nói : “Ông thị trưởng cám ơn chúng tôi, nhưng chúng tôi thì phải cám ơn những người nghèo. Vì chính khi họ vui lòng nhận sự giúp đỡ của chúng tôi, họ đã cho chúng tôi trở thành hữu ích cho người khác và được nên con cái đích thực của Cha trên trời”. Nếu đúng như lời một danh ngôn: “Dưới đất, người có của giúp người nghèo khó. Trên trời, người nghèo khó giúp người có của”, thì Mẹ Têrêxa còn chưa nói đến 1 điểm : kẻ nghèo không chỉ tạo cho ta cơ hội nên tốt lành hữu ích mà còn có điều kiện để vào trong Vương quốc của tình yêu, như bài Tin Mừng hôm nay mặc khải.
1. Một tình yêu mang tính chất đơn sơ, cụ thể.
Trong đại diễn từ sau hết đây, “người thợ mộc nhỏ bé” làng Na-da-rét rốt cục bày tỏ ý thức kỳ lạ của mình về vai trò mình. Hôm nay, chúng ta có lời khẳng định mạnh mẽ nhất về thần tính Đức Giê-su theo nghĩa chặt. Trong vài ngày nữa, Người sẽ đi vào cuộc Khổ nạn (x. Mt 26,1-5) và trở thành “ông vua” bị nhạo báng, bị đội mão gai, bị giết chết như một tên nô lệ tầm thường. Nhưng Người biết mình là ai. Ngày nào đó Người “sẽ đến trong vinh quang để xét xử thế giới”, một đặc quyền mà Cựu Ước đã chỉ dành cho Đức Chúa (Gia-vê). Thành thử Đức Giê-su lấy lại ở đây danh hiệu “Con Người” mà Người đã không ngừng sử dụng để điểm xuyết diễn từ Thời cùng tận. Kể từ sách Đa-ni-en (7,13), “Con Người” là nhân vật bí ẩn, tự trời mà đến, được văn chương khải huyền Do-thái mô tả như Đại phán quan của Thời cùng tận.
Lúc đó, “các dân thiên hạ sẽ tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê”. Thỉnh thoảng ta nên nghĩ tới “Ngày” này, ngày mà ai cũng sẽ gặp. Lúc ấy, mọi chuyện dưới trần sẽ mặc những kích thước mới. Hãy xin Chúa giúp mình phán đoán mọi sự ngay từ bây giờ dưới quan điểm vĩnh cửu, phân biệt cái tầm phào với cái quan trọng. Ngày ấy, tôi cũng sẽ có mặt ở đó. Một đám đông lớn lao chen vai thích cánh chờ đợi cuộc Phán xử. Cũng sẽ có mặt tại đó những người tôi yêu, những người tôi biết, những người tôi đã mang trách nhiệm. Nhưng cũng có bao người khác nữa : Do-thái và phi Do-thái, Ki-tô hữu và phi Ki-tô hữu, kẻ tin và kẻ không tin, đạo hữu Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Vật linh giáo… các nhà thần nghiệm đã cầu nguyện suốt cuộc sống và những kẻ vô thần suốt cuộc sống đã không hề cầu nguyện… tất cả, trước nhan Đức Giê-su, Vua Mục tử, tước hiệu mà văn chương ngôn sứ thường vẫn gán cho Đức Chúa Gia-vê (x. Ed 34,11-22).
Trong vài ngày nữa, ông “Vua” ấy, “Con Thiên Chúa” ấy sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên, Người ý thức mình biết “dự tính Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa” : Người nói Thiên Chúa đã tạo dựng phàm nhân… để một ngày kia sẽ ban cho nó chính Vương quốc thần linh của Người làm gia sản. Nhưng đâu là tiêu chuẩn của cuộc phán xét ấy ? Việc lựa lọc dựa trên những quy tắc nào ? Thưa chính trên tình yêu, hoàn toàn trên tình yêu, mà chúng ta sẽ bị phán xét. Và là một tình yêu đơn sơ : cho ăn, cho uống, cho mặc, đón tiếp, thăm viếng, chăm nom. Như thế, các hành vi yêu thương khiêm tốn và chân thật nhất của chúng ta có một giá trị vô biên, một giá trị vĩnh cửu. Danh sách các cử chỉ tình yêu được kể ra này không có tính cách giới hạn. Đó chỉ là những ví dụ mà ta có thể kéo dài khi nhìn cuộc sống của mình. Con tôi khóc đêm, và tôi đã thức dậy để chăm sóc an ủi. Mẹ già của tôi không ngồi lên được nữa, và tôi đã nâng bà khỏi giường để đặt trên ghế. Láng giềng chúng ta cần bạn bè, và chúng ta đã lấy tình bằng hữu đối xử với họ. Trong Giáo xứ, Linh mục cần những ông cha bà mẹ làm giảng viên giáo lý, và tôi đã chấp nhận trách nhiệm chiếm nhiều thì giờ này. Đồng nghiệp của tôi cần được bênh vực chở che, và tôi đã nhận lấy những trách nhiệm nghiệp đoàn lẫn trách nhiệm chính trị… Một người bị sách nhiễu tù tội vì dám tố cáo cường quyền, bảo vệ công lý, đòi hỏi tự do, và tôi đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư hay viết một bài đăng mạng để đòi nhân quyền cho đương sự… Nhiều vùng trong nước đang bị lụt lội, và tôi đã tham gia vào các chiến dịch lạc quyên cứu đói…
Và Đức Vua phán : bản thân Người đã được hưởng những việc thiện ấy, khiến các chính nhân hết sức kinh ngạc. Sự ngạc nhiên này của những “người được cứu” là một trong những yếu tố kỳ dị của quang cảnh. Hình như không một ai trong những kẻ “được Cha chúc phúc” thật sự ý thức cái đã âm thầm diễn ra trong đời thường của mình : ý nghĩa cuối cùng của các hành vi họ chỉ được “mạc khải” cho họ vào giờ sau hết. Như thế, cuộc Chung thẩm này, mà chúng ta nghĩ rằng thuộc tương lai, còn lâu mới tới, thật ra là một biến cố thường trực : Ngày Phán xét chính là hôm nay ! Thiên Chúa sẽ chẳng phải “phán xét” con người, họ sẽ “tự phán xét” suốt đời họ. Thiên Chúa sẽ chẳng làm gì hơn là tỏ lộ cho họ thấy cái đã được “ẩn giấu” trong mỗi một ngày sống của họ ở trần gian. Cuộc sống vĩnh cửu đã khởi sự rồi. Nhưng cái gì được “ẩn giấu” cách vô thức thể ấy?
2. Một tình yêu có đối tượng cao cả khôn lường.
“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Cái được “tỏ lộ”, thành thử là một sự hiện diện không ngờ của Đức Giê-su ! Khi tất cả lịch sử kết thúc, Đức Giê-su sẽ chỉ nói về “mình” như thể trong muôn tỷ người nam nữ, chỉ duy “mình Người” đã hiện hữu, cách bao la và bí mật : “Ta từng đói… Ta từng khát… Ta từng ở tù… Ta từng ngụ cư… Ta từng đau yếu…”. Như thế, việc “đến” trong vinh quang, lần sau hết và cách chớp nhoáng của Người trên mây trời sẽ là bằng chứng cho một việc “đến” khác, kín đáo và che giấu, nhưng triền miên bất tận. Sự hiện diện huy hoàng của Người vào ngày Cánh chung sẽ rõ ràng và hiển nhiên cho thấy Người đã không ngừng đến và không ngừng hiện diện… trong mỗi một anh em đang cần đến ta.
“Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”. Lạy Chúa Giê-su, Mạc khải tình yêu của Chúa Cha, chính Chúa đã nói lên câu kinh khủng nầy. Con nghe rõ lắm, nhưng không thể loại bỏ cái gây phiền nhiễu cho con như vậy. Thật thế, Tin Mừng đâu phải là một ý thức hệ mơ hồ và tình cảm, song là một lời mời gọi có tính chất đòi hỏi hết sức. Từ chối yêu mến… đâu có giống mến yêu ! Ích kỷ ghen ghét không thể có chỗ bên Thiên Chúa tình yêu được. Giáo lý về hỏa ngục như thế đã không được Giáo hội phát minh song do chính miệng Đức Giê-su công bố. Nhưng phải hiểu giáo lý đó như thế này : Thiên Chúa quá cao cả trong tình yêu nên đã ban cho thiên thần và loài người một tự do đích thực, kể cả tự do nói “không” với Người ngay trước mặt Người. Dĩ nhiên Thiên Chúa đâu muốn có hỏa ngục. Vì nếu sự hiện hữu của một kẻ trầm luân duy nhất có thể khiến chúng ta công phẫn, thì đối với Thiên Chúa còn đáng công phẫn hơn nhiều. Giữa Hỏa ngục “có thể” và Hỏa ngục thật sự, Thiên Chúa luôn đứng với tất cả sức mạnh của Tình yêu Người, và đó là nơi dựng lên cây Thập giá của Đức Giê-su. Thiên Chúa đã làm tất cả để chẳng có ai trong cái nơi mà nhiều tạo vật tự do sẽ nói “không” với Người mãi mãi. “Thiên Chúa đã không sai Con đến trong thế gian để phán xét thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con ấy mà được cứu độ” (Ga 3,17). “Ta đến kêu gọi không phải người công chính nhưng là người tội lỗi” (Mt 9,13). “Chính khi chúng ta còn là tội nhân mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,9). “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4). Thành thử hỏa ngục, xét như việc tuyệt đối từ chối Tình yêu, bao giờ cũng chỉ hiện hữu từ một phía… phía của kẻ tự tạo nó cho mình. Nhưng chắc chắn Thiên Chúa không thể tự tay cộng tác vào sự lệch lạc ấy chút nào cả. Nếu ngày nào đó chỉ có một người ở trong nơi chối từ ấy, thì Thiên Chúa thấy mình như thể bị dí một dấu sắt nung đỏ, và ta đã đoán được, dấu sắt đó có hình thập giá !
Hai cảnh của cuộc Phán xét vậy là hoàn toàn tương đồng và đối nghịch : cái mà một bên đã làm thì bên kia bỏ quên. Mọi con người, có đạo hay không có đạo, biết Đức Giê-su hay không biết Đức Giê-su, sẽ bị phán xét trên cùng một tiêu chuẩn : không phải trên số lần cầu nguyện hay số buổi cử hành phụng vụ, nhưng trên tình yêu cụ thể đối với anh em. Thành ra tránh ác đâu có đủ. Còn phải hành thiện. Ai nấy đều bị phán xét ngay hôm nay bởi sự thiện mình không làm cho người cần. Vậy hôm nay, ai chờ tôi cái gì đó? mục lục.
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
--------------------------------
TN 34-ABC476: ĐỨC VUA TOÀN NĂNG
Con Chúa Chí Thánh Cùng Chí Ái. Đức Vua Toàn Năng Với Toàn Quyền. Chúa Giêsu không chỉ TN 34-ABC476
Con Chúa Chí Thánh Cùng Chí Ái. Đức Vua Toàn Năng Với Toàn Quyền.
Chúa Giêsu không chỉ là Vua của muôn loài mà còn là Đấng Toàn Năng và Toàn Quyền. Đức Vua ấy không tìm vinh danh cho mình mà lại tự hạ đến tận cùng vì yêu thương thần dân: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Tại sao? Câu trả lời được chính Chúa Giêsu xác định với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Hơn nữa, Ngài có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.” (Ga 5:22, 26-27)
Thật lạ lùng, Ngài là Vua của các vua, là Chúa của các chúa nhưng hoàn toàn trái ngược với vua chúa trần gian, vì Ngài là Vua-đa-không: KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai tòa, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng, KHÔNG nghi lễ, KHÔNG thiết triều,...
Thẩm phán hoặc quan tòa là người có toàn quyền xét xử. Tại một số quốc gia, quyền hạn của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội thẩm. Tòa án cũng có nhiều cấp khác nhau, cao nhất là tòa án tối cao. Đức Vua Giêsu có toàn quyền xét xử, chính Ngài đã minh định với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18) Vương Quốc của Ngài không thuộc về thế gian này, tức là thuộc về Cõi Trời, nơi mà phàm nhân không hề biết, không phải như cung trăng hoặc một nơi xa lạ nào đó mà thiên văn học phát hiện.
Xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Trong mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng.
Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, như người ta nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục.” (Lc 12:5; x. Mt 10:28) Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên nói với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Quyền xét xử của Philatô chỉ trong thời điểm đó, có quyền vì còn chức, chỉ tạm thời.
CÔNG BẰNG
Nhân ái và công bình là nền tảng vững chắc của cuộc sống. Trình thuật Mt 25:31-46, cho biết về cuộc tái lâm và cách xét xử của Chúa Giêsu – Thiên Vương Chí Thánh và Thẩm Phán Tối Thượng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh Chiên và Dê để ai cũng hiểu với thực tế đời thường. Chiên là động vật hiền, mỗi lần bị xén lông bị đau nhưng không hề phản ứng và có hình dáng “dễ thương,” còn dê là động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt.” Chiên là hình ảnh của Người Lành, dê là hình ảnh của Kẻ Dữ.
Chúa Giêsu tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, chấp nhận chịu chết để cứu độ nhân loại, vì thế Ngài cũng có toàn quyền xét xử, nhưng công minh và thương xót. Khi đến thế gian lần thứ hai, Ngài sẽ có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê: chiên đứng bên phải, dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han.” Những ai được Ngài nói như vậy thì thật hạnh phúc.
Họ ngạc nhiên khi nghe Chúa nói vậy vì họ chưa một lần thấy Ngài đói khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hoặc ngồi tù mà giúp đỡ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy.”
Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng.” Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy.”
Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bằng: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng VỐN SỐNG thế nào để sinh lời, (Mt 25:14-30) và thi hành ĐỨC ÁI đúng mức và đúng cách. (Mt 25:31-46) Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên.”
Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính,” thích đùa dai. Nhưng rất hiển nhiên là số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn làm ngơ, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách đen. Cứng lòng hay tự mãn?
Thực sự không dễ thấy Chúa nơi tha nhân, nhưng đó là điều Ngài đề cao: Mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là làm cho chính Chúa. Tha nhân là bất kỳ ai, lớn hay nhỏ, quen hay lạ – thậm chí là kẻ thù. Văn hào Victor Hugo có lối suy luận rất hay: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng Đế vay.” Một cách nhận định đầy “chất” Kitô giáo.
Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến QUYỀN LỢI, không mấy ai nói đến BỔN PHẬN.” Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban cho đủ thứ, nhưng chúng ta lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né cái khó. Chúng ta tự mâu thuẫn và không công bằng với Chúa. Rõ ràng Chúa Giêsu yêu thương đến cùng, (Ga 13:1) Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi người ta sám hối, chờ đợi người ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, cụ thể là đến với Bí tích Hòa Giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại con người cố chấp mà thôi!
THƯƠNG XÓT
Thật kinh dị khi vua chúa trần gian tự nhận là Thiên Tử, hét ra lửa, và nắm quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Đức Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để tìm cứu những gì đã mất, và Ngài khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29)
Ngay khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài vẫn đang hiện diện ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo! Nhưng chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.” (Ed 34:11-12)
Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ ai, đặc biệt là người nào càng bất hạnh thì càng được Ngài thương xót và chăm sóc nhiều hơn. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm kiếm cho được 1 con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh. (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7) Thật vậy, Ngài đã tuyên phán: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.” (Ed 34:15-17)
Nếu không là “hàng hiếm” thì cũng chẳng thấy mấy ông vua vì dân, vì nước, đích thân vi hành để biết dân tình ra sao. Chẳng mấy ai được như hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa. Ông là vị vua tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo,” liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!” Quan trên, quan dưới vô vàn – Ít quan thật tốt, nhiều quan tham tàn! Tuy ít nhưng có những người đáng nể phục là cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, và một số tổng thống của Hoa Kỳ, đó là sự thật mang tính lịch sử, không thể chối cãi.
Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có thực sự tìm chiên lạc, chiên yếu, chiên bệnh, hay chỉ thân với chiên béo? Có chức nên có quyền, họ đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm. Cả đời và đạo, cấp nào cũng đa dạng!
Dù muốn hay không thì cũng phải chân nhận ấn tượng với Đức cố GM Jean Cassaigne (1895-1973), người ta thường thân thương gọi ngài là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc K’Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. [*] Khi còn là giám mục của GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương thì không thể sống được vậy. Chỉ có thánh nhân mới có phong cách đó.
Cuộc sống thật nhiêu khê, biết nhiều thì khổ nhiều, thấy nhiều thì chán nhiều, nghe nhiều thì “nóng gáy” nhiều: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau.” (Gv 1:18) Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ,” nói ra thì người ta “không ưa.” Thẳng thắn sẽ “va chạm,” chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. Và người ta than: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu, (1 Ga 4:8 và 16) mà tình yêu là điều bất tử. Dù là điều được thiên phú cũng vẫn cần khổ luyện. Đức tin cũng vậy, phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng,” nhờ đó mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:4-5) Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Thế thì thật hạnh phúc quá, nhưng hạnh phúc đó không thể cứ tà tà mà có được.
VĨNH SINH
Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, nhưng là Hàn Vương chứ không là Phú Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Đức Vua sống như vậy thì thần dân không thể sống khác được. Vả lại, Ngài LÀ Vua của NGƯỜI SỐNG chứ KHÔNG LÀ Vua của KẺ CHẾT.
Dù bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần, (x. 1 Cr 15:25) và là Vua Hằng Sống. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” (1 Cr 15:20-24)
Là Đấng Hằng Hữu và Hằng Sống, nhưng Chúa Giêsu đã chịu đau khổ tột cùng, vì thế Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.” (1 Cr 15:25-27) Đức Kitô là Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28) Hoàn toàn hợp lý.
Thời quân chủ, vua có toàn quyền – cho sống thì được sống, bảo chết thì phải chết, phải tuân lệnh, bất tuân là bất trung. Chính cái chết minh chứng người tôi trung. Đã từng có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Còn nữa, người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có liên quan nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua, mà chỉ được tâu “cái bệ rồng” của vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ.” Ôi, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân!
Nhưng đối với Vua Giêsu, không sợ phạm húy, Ngài cho phép chúng ta cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài!” Nhưng không được kêu Ngài vô cớ! Vua Giêsu không hề được tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), nhưng chỉ vài ngày sau họ lật mặt ngay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá.” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15) Ngày nay chúng ta cũng vậy!
Trong thời gian công khai sứ vụ, Chúa Giêsu rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là Vua các vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài dạy: “Ai làm lớn phải phục vụ.” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) Ngài không cậy quyền, ỷ thế, nói và làm dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành đồng nhất, thậm chí Ngài LÀM NHIỀU HƠN NÓI. Còn chúng ta?
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đức Vua duy nhất của chúng con, xin dủ lòng thương xót chúng con. Lạy Thẩm Phán nhân hậu, xin tha tội chết cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. Amen.
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
--------------------------------
TN 34-ABC477: CHIÊN HAY DÊ, NGƯỜI LÀ AI?
Anh chị em thân mến,
Trong niềm hân hoan mừng Đại Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, vua vũ trụ chúng ta hướng về ngày sau TN 34-ABC477
Trong niềm hân hoan mừng Đại Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, vua vũ trụ chúng ta hướng về ngày sau cùng, ngày hiển thắng của Vua Giê-su, ngày mà muôn dân đầu phục và tôn thờ Người là vua của chúng ta. Trong ngày đó, mọi dân mọi nước đều đến để thờ lậy Chúa của nhân loại. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Còn ngay bây giờ, chúng ta nhớ đến bổn phận của chính mình, công dân của Nước Chúa. Chúng ta hãy ôn lại con đường dẫn Đức Ki-tô đến vương quyền. Con đường Người chọn hoàn toàn khác hẳn với kiểu cách quan quyền, óc thống trị của các vua chúa trần gian mà chúng ta đã được nghe đến.
Thật vậy, Đức Giê-su đến vương quyền không bằng sức mạnh của vũ lực hay gươm giáo; nhưng cốt yếu là yêu thương và phục vụ, cho dù phải trả bằng mạng sống, Đức Giê-su vẫn sẵn lòng. Người đã khai mở một đường lối cai trị mới, không bằng quyền hành nhưng bằng sự quan tâm, lo lắng, chăm sóc và hy sinh cho con dân trong vương quốc của Người, cách riêng cho những ai bị thương tích hay bị bỏ rơi.
Sau cùng, tình yêu của Đức Giê-su Ki-tô, Vua nhân ái được diễn tả qua việc hiến dâng trên Thập Giá. Đó chính là đích điểm con đường yêu thương và phục vụ mà Đức Giê-su đã loan báo trong các bài giảng của Người. Người không chỉ ban một học thuyết, cho dù học thuyết về tình yêu; nhưng Người đã khai mở con đường yêu thương, con đường mở ra và đón nhận mọi người, trong đó con người đến với nhau bằng lòng quảng đại, ơn tha thứ, quan tâm chăm sóc người nghèo, chữa lành bệnh tật cho kẻ bị đau ốm và kêu gọi những người tội lỗi ăn năn.
Con đường hay lối sống yêu thương này đã xuất phát từ kinh nghiệm mà Đức Giê-su đã trải nghiệm với Cha của Người, và bất cứ ai tin và sống theo Tin Mừng của Đức Giê-su đã rao giảng đều có một trải nghiệm giống như thế. Để có được tâm tình của Đức Giê-su, chúng ta cùng nhau nghe lại Lời Người dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây không phải là cảnh phán quyết sau cùng. Nhưng nội dung của trình thuật và những gì xẩy ra được mô tả như một lời cảnh báo. Hãy để cho Lời của Chúa hôm nay trở nên một cơ hội cho chúng ta thấy mình đang ở đâu?
Những lời chất vấn của Chúa hôm nay đã giúp tôi nhớ lại một kinh nghiệm mục vụ. Mời anh chị em theo dõi.
Cách đây vài năm, khi còn làm việc tại trung tâm Hoan Thiện, Keysborough. Vào một buổi sáng, tôi đã gặp một người. Anh ta kể về hoàn cảnh của anh, lý do nào anh đưa ra cũng xác đáng. Sau cùng anh xin tôi giúp anh ít tiền để làm lộ phí đi đường. Dựa trên kinh nghiệm của bản thân đã dậy cho tôi biết rằng, nếu tôi mủi lòng, đáp lại lời yêu cầu của anh thì sẽ có nhiều người khác đến để xin giúp đỡ… Sau cùng, tôi đành từ chối lời van xin của anh. Phần anh, đây có lẽ không phải là lần đầu tiên bị từ chối. Đã quá quen khi bị khước từ nên xem ra trông anh ra về rất thanh thản. Còn tôi, coi như xong một chuyện, trở về cuộc sống thường nhật.
Câu chuyện không chấm dứt như thế. Vài tuần sau, trong khi chào đón bà con đến tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật hàng tuần. Bỗng nhiên, tôi gặp lại anh. Bổn phận khiến chúng tôi khổng thể tránh mặt nhau. Tôi tiến đến chào và vui vẻ mời anh vào nhà nguyện để cùng dâng lễ với chúng tôi.
Tôi không biết sự thật về cuộc đời của anh, tôi cũng không tìm hiểu các lý do anh đưa ra có xác thực hay không. Có lẽ tôi cũng không cần biết các điều đó làm gì. Sự thật là qua hai lần gặp gỡ, anh đã cho tôi thấy sự thật của đời mình. Anh đã hiện diện như một cơ hội yêu cầu tôi phải đưa ra một sự lựa chọn, không phải là việc giúp đỡ hay không giúp đỡ. Đó là sự lựa chọn mang tính ‘con người’, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lòng nhân ái và tính ích kỷ.
Đấy, kinh nghiệm sống của tôi như thế. Căn cứ vào tiêu chuẩn phân loại của Đức Giê-su mà chúng ta vừa nghe thì làm sao tôi giải thích đây! Việc phân loại mình là chiên hay là dê quả thật không dễ dàng, không rõ ràng như trong bài Tin Mừng mà Đức Giê-su vừa nói. Thực tế, tôi là cả hai. Có những lúc tôi đã chia sẻ của ăn, thức uống cho người đói khát, thăm viếng những người đau ốm, an ủi những kẻ bị giam cầm, v.v… và lại có những lần khác tôi nhắm mắt làm ngơ khi nhìn thấy những người cùng chung hoàn cảnh nêu trên.
Kính thưa anh chị em,
Những diễn biến của ngày chung thẩm, ngày phán xét chung được diễn tả trong dụ ngôn quá đầy đủ. Trong ngày đó, Chúa sẽ không chất vấn về lòng sùng đạo qua việc đọc kinh và cầu nguyện bao nhiêu lần? Xưng tội bao nhiêu lần và xưng hết các tội trọng chưa? Rước lễ có theo ý ngay lành hay không? Đã hành hương đất Thánh hay có bị chia trí khi tham dự các nghi thức phụng vụ như Thánh Lễ hay không? Nhưng, trong ngày đó, Người sẽ hỏi chúng ta đã làm gì cho nhau?
Muốn có câu trả lời cho ngày đó, thì ngay bây giờ, trong mọi giây phút của cuộc sống; chúng ta cần để cho Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay chất vấn và chỉ có một việc duy nhất mà chúng ta cần thực hiện là nỗ lực làm cho trần gian này trở thành nơi chan chứa tình huynh đệ, nơi không còn chia rẽ, nơi mà những giọt lệ của đau thương sẽ nhường chỗ cho niềm vui và an bình, nơi mà người tốt và xấu có thể sống chung hòa bình. Quả thật, chúng ta không cần chờ đến ngày tận thế mới thấy Chúa. Và nếu chúng ta chờ cho đến ngày đó mới thấy Chúa thì đã quá trễ rồi! Nhất là làm sao chúng ta có thể nhận ra ai là Chúa, một khi trong cuộc sống chúng ta chưa hề gặp gỡ hay có một kinh nghiêm nào về Người! Trong khi đó, ngay bây giờ và trong lúc này, Chúa đang ở giữa chúng ta, đặc biệt nơi những người khốn khổ nhất.
Có một chi tiết trong bài Tin mừng khiến cho chúng ta ngạc nhiên là trong câu trả lời của cả hai nhóm đều không nói đến sự hiện diện của Chúa ở nơi những con người khốn khổ và bé mọn. Họ nói: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, Chúa khát mà cho uống, Chúa trần truồng mà cho áo mặc, Chúa đau yếu hay bị giam trong các nhà tù mà đến thăm rồi phục vụ Chúa đâu?” Những người trong hai nhóm tìm Chúa bằng con mắt nhân loại. Trong khi đó Chúa chỉ có thể nhận biết bằng niềm tin và lòng mến. Tuy nhiên giữa hai nhóm vẫn có sự khác biệt. Nhóm thuộc về phe chiên là những ai sống theo lương tâm và nhịp đập của con tim, biết rung cảm trước các nỗi khốn cùng của nhau; còn những ai thuộc về nhóm dê là những con người đã chôn cất trái tim và lòng thương xót của mình vào tủ kín rồi khóa lại.
Như vậy, một cách nào đó chúng ta nhận thấy ngoài việc để cho Lời Chúa tác động, con người, không phân biệt mầu da, niềm tin hay phái tính, tất cả cần sống với chất liệu và nhịp rung cảm của trái tim, để thực hiện lòng thương xót và quan tâm cho nhau trước. Thật ra, chính con tim nhậy cảm mà Chúa đã đặt vào trong thân xác tôi đã dậy cho tôi biết rằng: tha nhân và Chúa không hề tách biệt nhau.
Ngoài con tim nhậy cảm, con tim biết yêu thuong chúng ta còn được Lời Chúa huớng dẫn nữa. Cụ thể, Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã tỏ cho tôi biết rằng Chúa đã nên đồng hình đồng dạng với con người, đặc biệt những ai bé mọn: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Còn lời khẳng định nào rõ ràng hơn. Đức Giêsu đã xác định thật rõ ràng về sự liên hệ mật thiết giữa những người bé nhỏ, hèn mọn này với Người. Vì thế, những việc chúng ta làm cho nhau vì Chúa, hay vì đuợc khen thuởng rồi cũng bị phơi bày ra hết.
Như vậy, qua dụ ngôn này, Chúa nhắc nhở và hối thúc chúng ta cần xông xáo ra đi khỏi mình để chia sẻ và xoa dịu những nỗi đau của nhau. Đặc biệt thực hiện lòng thương xót nơi những nguời thiếu ăn, thiếu mặc, không cửa không nhà, đang bị tù đầy, v.v…
Thiếu ăn, thiếu mặc không hẳn là đói khát hay bị lạnh về phần xác, nhưng còn bao nhiêu người thiếu nụ cuời, không đựợc ủi an, tôn trọng.
Không chốn nương thân không hẳn là không có nhà để ở, nhưng vì con người ngày nay ích kỷ hơn, không dám mở lòng ra đón nhận nhau và đôi khi còn tạo ra những rào cản để nhốt và giam giữ nhau…
Một vài nét tiêu biểu như thế. Còn biết bao nhiêu điều cần làm, kể sao cho hết. Nhưng với ai có con tim nhậy cảm trước nỗi đau của tha nhân thì tự họ sẽ tìm ra các phương thuốc để giúp nhau. Và, đối với các kẻ tin, một lần nữa, với lời xác quyết rõ ràng của Chúa, chúng ta không còn vịn vào bất cứ một lý do nào để từ chối những người mà chúng ta gặp trong cuộc sống. Tất cả đều được quan tâm, không ai bị lọai trừ khỏi lòng mến của Thiên Chúa qua sự hiện diện của Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Người không chỉ hiện diện trong nhà thờ, hay tại những cuộc biểu dương tôn giáo; nhưng mãnh liệt và xác thực hơn cả là Người đang hiện diện trong đời sống của những người bé mọn và khốn cùng.
Như thế, chúng ta bắt đầu lại con đuờng sống đạo bằng một khởi điểm mới phù hợp với những thách đố của Tin Mừng, đó là trong Đức Giê-su Ki-tô, Vua yêu thương, chúng ta quyết tâm làm chứng cho nhân lọai nhận ra tình thương của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau mà Vua Giê-su đã làm gương. Amen!
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
-------------------------------
TN 34-ABC478: “Em trở về đây với Bướm Xuân
Cho tôi mơ ước một đôi lần.” (dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Hôm nay đây, Bướm Chúa của Mùa Xuân đã trở về với hình dạng của Đức Vua. Vua vũ trụ TN 34-ABC478
Hôm nay đây, Bướm Chúa của Mùa Xuân đã trở về với hình dạng của Đức Vua. Vua vũ trụ.Vua của mọi tâm hồn, như tình tự được thánh sử ghi nhanh ở trình thuật.
Trình thuật, nay thánh sử Mát-thêu ghi về đoạn cuối cuộc sống công khai của Đức Kitô, trước khi Ngài vào với nỗi thống khổ, và rồi sau đó, đã Phục Sinh, đểvực dậy hết muôn người.
Thánh Mát-thêu làm công việc ấy bằng cung cách của người kể dụ ngôn về ngày sau hết, có phán xét. Đọc trình thuật hôm nay, hẳn rằng người nghe lại liên tưởng đến dụ ngôn của những chiên con và dê hiền. Phụng vụ Hội thánh lại dùng trình thuật hôm nay để mừng kính Đức Kitô Vua, tức Vị Chánh Án vào ngày phán xét cuối cùng.
Nhìn vào ngôn ngữ mà người Công giáo thường sử dụng xưa nay, thì chữ “Vua” không là từ ngữ dễ nghe và dễ chấp nhận cho bằng danh xưng khác. Đã có lúc, danh xưng “Vua” của Đức Chúa được coi như một biểu ngữ nhằm nói lên các giá trị đạo đức hầu đối chọi với ý nghĩa rất chúa của các vua quan ở đời. Thời nay, người người thấy mình không dễ gì thấy được sự khác biệt giữa tính chất rất “vua” của tín hữu Đạo Chúa.
Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giêsu được gán tặng bằng nhiều danh xưng như Con Người, Chúa Chiên (tựa như vua Đavít), Đức Vua, Đức Chúa, Người Con ngự trên ngai vàng cùng Thiên Chúa Cha, vv… Bằng vào các danh xưng ấy, Đức Giêsu Kitô được con dân mọi người tôn kính như vị Chánh Án mọi dân tộc.
Và hôm nay, người đọc sẽ thấy Ngài sử dụng quyền tài phán của Chánh Án. Đó là lý do mà thánh sử coi Ngài là “Đức Kitô rất Vua”. Và, điều đó ăn khớp với mọi hiểu biết của chúng ta khi nghĩ về vị Vua của vũ trụ. Bởi, Ngài chính là vị Chánh Án có trọng trách phán xét tất cả những gì con người làm, hoặc không làm.
Kinh Tin Kính ở Công đồng Nicê nói: Ngài sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Cũng thế, các bản văn tuyên tín khác cũng có nói dân con mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình làm. Thánh Kinh của người Do Thái còn tỏ cho thấy “Ngày của Đức Chúa” là ngày mà vị Chánh án đứng lên để phán và xét.
Thêm vào đó, truyền thống giáo hội còn dạy con dân phân biệt việc phán xét vào ngày chung-cục cuộc đời của mỗi người với việc phán xét hết mọi người vào ngày thế tận. Nhưng, chẳng một ai, kể cả Đức Kitô, biết được thời điểm với nơi chốn xảy đến công cuộc phán xét chung cuộc ấy. Nên, việc này chỉ được kể bằng ngôn từ rất biểu trưng và thông thường rất dễ sợ.
Kể, bằng biểu trưng hay biểu tượng, là nói trước mọi việc trước khi việc ấy xảy đến. Và, trình thuật về sự việc này được giảng rao khắp nơi và khắp chốn, để người Do thái cũng như dân ngoại sẽ hồi hướng trở về. Cả Enoch lẫn Elijah cũng về lại. Ngày ấy sẽ là ngày Cánh Chung, 'Phản-Kitô' sẽ ngự trị một thời gian. Và, không gian vạn vật sẽ chuyển đổi đến rối mù, lửa từ trong/ngoài địa cầu sẽ bốc cháy. Và rồi, có tiếng loa kèn phát lên báo hiệu sự sống lại của muôn loài và khi ấy Con Người cũng sẽ xuất hiện giữa mây trời, rất bảng lảng.
Rồi, người người cứ như thể bảo nhau: ngày thế tận đã kề cận. Thế nhưng, lẽ thường tình của con người lại hay chống đối những chuyện như thế. Và, phần đông sẽ không tin rằng chuyện đó là sự thật như đinh đóng cột. Hay nhất là bảo: ta chẳng hiểu gì về việc ấy.
Chẳng hiểu, vì ngôn từ biểu tượng mà thánh Mát-thêu sử dụng chỉ để kể về một gặp gỡ rất riêng tư thân tình giữa Đức Kitô và mỗi một người, khi ta chết. Vào lúc ấy, Ngài muốn biết, không chỉ mỗi việc cuộc sống của ta ra thế nào, nhưng còn nhắn nhủ rằng ta đã làm gì cho lịch sử của con người, tức đóng góp được bao nhiêu cho nhân loại.
Lúc thánh Mátthêu viết lên trang sử này, lên giấy, ngài muốn tỏ bày lập trường để ta biết, là: mỗi người chúng ta cũng nên cải thiện lối hành xử của chính mình, ở đây. Bây giờ. Thánh nhân không mô tả những gì sắp đến cho bằng ngài muốn xác chứng những gì phải xảy ra, ngay bây giờ.
Thánh Mát-thêu diễn tả việc ấy qua ảnh hình và biểu tượng về chiên lành và dê hiền. Ở Do thái thời xưa, chiên lành chịu đựng cơn lạnh hay hơn dê hiền. Bởi thế nên, dê hiền cần được bảo vệ nhiều hơn. Bằng vào mầu sắc, chiên con thường mầu trắng. Còn, dê hiền lại là mầu đen. Ở dụ ngôn, chiên lành đứng bên phải, tức phía rất phải. Còn, dê hiền ở bên trái tức trái rõ đành rành. Đặc biệt hơn, bằng vào biểu tượng thánh sử viết, thì thú đàn ở phiá bên phải, vẫn phải lẽ. Còn dê hiền, là kẻ xấu nên mới trái. Thế nhưng, dưới tầm nhìn của Chúa, thú đàn dù có trái, vẫn rất phải.-
Công việc của Chánh án, là tách chiên khỏi dê theo tiêu chuẩn nào đó. Tiêu chuẩn đây, không là 10 điều giáo luật, vì khi bị phán xét không ai bị cật vấn điều đó. Nhưng tiêu chuẩn phán xét, là phán đoán và xét nét về 6 công tác từ thiện rất cổ điển về lòng thương xót mà người Do thái có thói quen gọi đó là hành xử đầy yêu thương.Cũng chỉ là: lo cho cái ăn, thức uống, đón tiếp mời chào, cho áo mặc, trông nom chăm sóc và viếng thăm đỡ đần. Vấn đề là, người người được hỏi có làm thế trong đời mình không?
Thật ra, đó còn là nội-qui cuộc sống cộng đoàn do thánh Mát-thêu đặt, ở Tin Mừng chương 18:
“Không được để con trẻ lạc lõng,
mất mát. Không được để thành viên cộng đoàn bị bỏ rơi, cô độc”.
Phán và xét, còn là hỏi: anh/chị có tuân giữ nội qui ấy không? Nếu có, anh/chị là chiên lành. Nếu không, anh/chị sẽ là dê hư.
Ở đây, thánh Mát-thêu và Đức Giêsu đặt tầm quan trọng vào nội qui giản đơn ấy cho cộng đoàn Kitô hữu thời tiên khởi. Để sau này, sẽ không có ai bị án phạt về những gì mình đã làm hoặc định làm; mà về những gì mình quên làm và không bao giờ chịu làm những việc như thế.
Người tốt lành không làm việc đó vì họ thấy người có nhu cầu như chính người anh, người chị của mình. Đức Giêsu nói: nếu người làm điều tốt lành ít là cho người anh, người chị ấy của mình, thì tức là làm cho Chúa. Họ là người thân của Chúa. Ta làm cho người của Chúa, chứ không phải cho người của ta. Thế nên, phán xét tích cực là phán và xét xem ta có mừng đón vào nhà mình, những người của Chúa, thuộc gia đình Ngài, vì họ nhìn ta như là người trong số họ.
Khi nói đến việc phán xét nói chung, ta bao gộp tất cả mọi người. Vậy thì, “nội qui của cộng đoàn” không chỉ là cho người Do thái hoặc cho cộng đoàn Mát-thêu thời tiên khởi hoặc những người thuộc giáo phái nào đó, thôi. Mà là, tất cả. Nội qui ấy, là để mọi người biết mà thực hiện. Nội qui được viết trong tâm khảm của mỗi người. Cho mọi văn hóa, sắc tộc. Mọi thời khắc của lịch sử nhân loại. Nội qui rất chung và sẽ có phán xét cũng rất chung như thế.
Chúa có cách để giáo huấn để họ hiểu rằng cuộc sống đích thực không cần lời nói, hoặc thể chế, dù thể chế ấy là Hội thánh. Chúa thiết lập trong ta bản năng riêng của mọi người. Cho mỗi người. Bản năng ấy, giúp ta mở lòng ra với người đang thiếu thốn, có nhu cầu. Dù ta là người thế nào đi nữa, Chúa cũng sẽ phán và xét chính ta, về tất cả điều đó. Phán và xét, xem ta có làm những việc giùm giúp như thế không. Chính đó là ý nghĩa của phán xét chung.
Chương 28 cuối Tin Mừng, thánh Mat-thêu viết: Đức Giêsu truyền lệnh cho nhóm người bé nhỏ của Ngài hãy ra đi mà trở nên đồ đệ của Ngài đến với muôn dân. Không cần biết họ thuộc sắc tộc nào. Có lý lịch ra sao. Họ từ đâu đến. Ngài dạy họ làm những việc như thế bằng cách quan sát xem họ có làm những điều Ngài dạy trong đời mình hay không; tức là: dạy họ sống biết giữ nội qui đề ra cho cộng đoàn của Ngài, như thánh Mát-thêu từng ghi lại. Nếu họ làm theo điều Ngài dạy, thì Ngài sẽ ở với họ suốt mọi ngày, cho đến ngày thế tận.
Đọc trình thuật hôm nay, có thể có người nghĩ là thánh Mát-thêu muốn tách chia chiên khỏi dê, để dễ bề phân biệt. Nhưng sự thật, đó không là phân và tách mà là đến với nhau như đàn trẻ lạc được tìm thấy. Là, ra đi mà tìm đến với họ. Ra đi, để ở giữa những người từng lỗi phạm nay bị bỏ rơi, quên lãng.
Ra đi, giang tay mà chào đón tất cả mọi người, đưa họ về với hòa giải và hòa hoãn. Thế đó, không là tách chia, phân biệt. Mà là, thuộc về nhau. Ở với nhau. Mà là, tất cả ràng buộc vào với nhau để tiến vào với cộng đoàn Nước Trời Hội thánh.
Trong tâm tình cảm kích những điều thánh sử ghi về Đức Kitô Vua, ta lại ngâm lên lời rằng:
“Em trở về đây để nắng hồng, Hồn xưa còn đẹp ý xưa không? Trăng tình chưa nguyện lời Hoa Bướm, Em chẳng về đây để ngỏ lòng.” (Đinh Hùng – Bướm Xuân) Là Bướm Xuân hay Bướm của Mùa Xuân, Ngài vẫn là Vua Vũ Trụ, nơi lòng người. Nay, Ngài trở về để Bướm và Xuân nên một. Một thân. Một mình. Thứ Mình rất thánh của Chúa Xuân. mục lục.
Lm. Kevin O’Shea, DCCT biên soạn Mai Tá lược dịch
-------------------------------
TN 34-ABC479: VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU CỦA VUA NHÂN LÀNH
Bài Tin Mừng hôm nay nói về ngày phán xét, ngày kết thúc lịch sử loài người và khởi đầu tình TN 34-ABC479
Bài Tin Mừng hôm nay nói về ngày phán xét, ngày kết thúc lịch sử loài người và khởi đầu tình trạng vĩnh cửu. Cuộc sống trần thế của mọi người sẽ chấm dứt và Thiên Chúa sẽ nói với từng người: “Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh” (Lc 16: 2), nghĩa là người ấy phải trả lẽ về những gì đã làm trên trần gian này.
Không nơi nào khác trong sách Tin mừng theo Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu lại nói ai sẽ lên Thiên đàng và ai sẽ xuống Hỏa ngục rõ ràng như trong chương 25 này. Mỗi người sẽ đi đến nhóm mình đã chọn. Những người có cuộc sống hướng về tình yêu và lòng thương xót sẽ đến với tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Những người loại trừ khỏi cuộc sống của họ “một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thiên Chúa” (Mt 25: 40) là tự loại mình ra khỏi vương quốc của Thiên Chúa, nơi mọi người đón nhận nhau trong yêu thương. Chúa Giêsu chia nhân loại thành hai nhóm: chiên và dê. Chiên “đứng bên phải Ngài”, được tuyên bố là “những kẻ Cha Ta chúc phúc”, và được mời “hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” để “hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25: 34, 46). Còn những con dê “ở bên trái Ngài”, bị tuyên bố là “quân bị nguyền rủa kia” và bị tuyên án “đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” để “chịu cực hình muôn kiếp” (Mt 25: 41, 46).
Chúng ta hãy dừng lại và tự hỏi bản thân, tôi muốn vào nhóm nào? Bây giờ, làm thế nào để chúng ta vào được nhóm các con chiên? Chúa Giêsu nói với chúng ta một cách chi tiết: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25: 35-36).
Chúa Giêsu đề cập đến những tình trạng xảy ra ở mọi nơi và mọi thời: người đói khát, người nhập cư và người không quần áo, bệnh tật và tù nhân. Ngài sử dụng những từ cụ thể hàng ngày: thức ăn, quần áo, đồ uống, sự chở che. Ngài không nói lý thuyết “yêu thương” nhưng khuyến khích những hành động cụ thể như cho đi, đón rước, thăm hỏi, chăm sóc. Điều quan trọng không phải là lời nói xuông mà là lòng trắc ẩn giúp đỡ người gặp khó khăn cách cụ thể.
Những người làm những việc như vậy sẽ được chọn vào nhóm các con chiên. Họ đã trở thành những người anh chị em tốt lành của nhau vì biết yêu thương đồng loại của mình. Họ đã giúp đỡ mọi người chung quanh, đặc biệt là những người nghèo, như Thiên Chúa mong đợi nơi những ai đáng được gọi là con cái Nước Trời. Ngược lại, nhóm các con dê đã để cho người đói phải đói. Họ không buồn để tâm cho người khát được uống nước. Họ phớt lờ những người khách lạ, hoàn toàn không tiếp rước, cũng chẳng quan tâm giúp đỡ tìm kiếm một chỗ cho họ tạm trú. Họ cũng mặc kệ những người trần truồng, rách rưới đang cần đến quần áo, không đến thăm người bệnh và cô đơn, và để nhiều người rũ tù mà không cần suy nghĩ đến.
Lời dạy này của Chúa Giêsu thật quan trọng khi Ngài nói ra vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Ngài, nên những lời này trở một thông điệp đầy sức nặng và cũng là lý do Giáo Hội chọn đoạn Tin mừng này để suy niệm vào những ngày cuối năm phụng vụ: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Ngài. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê” (Mt 25: 31-32). Đây là chuẩn mực để xét xem ai là “người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25: 46).
Chúng ta có thể chọn đứng bên phải hoặc bên trái của Ngài bằng cung cách sống của mình. Ở bên phải Chúa Giêsu có nghĩa là chúng ta đang tích cực chăm sóc người nghèo, người thiếu thốn, bệnh tật và cô đơn. Không làm những điều như vậy có nghĩa là chúng ta không chỉ không thật lòng theo Ngài mà còn làm ngược lại Ngài, vì chính Chúa khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Một trong những điều đáng ngạc nhiên là những những người công chính thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” (Mt 25: 37-39). Ngay cả những người bên trái cũng thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” (Mt 25: 44). Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa, dù chúng ta không thấy Ngài, và không làm những điều như vậy có nghĩa là chúng ta không thật lòng theo Chúa mà còn làm ngược lại với Ngài, vì chính Chúa khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Việc định đoạt cho mình chỗ đứng bên Chúa Kitô trong ngày phán xét tùy là thuộc vào thái độ sống hiện tại của mỗi người. Chúng ta được hưởng Nước Trời hay bị vào lửa đời đời chính là bởi chúng ta đã tiếp rước hay từ chối giúp đỡ Chúa Kitô hiện diện trong những người khốn cực, những người thân cận chung quanh mình.
Chúa Giêsu có một cách hiện diện khác ngoài cách hiện diện nơi các Bí tích được cử hành trong Phụng vụ Giáo hội, trong Lời Hằng Sống được giữ gìn, lưu truyền và giải thích bởi huấn quyền Giáo hội, mà còn ở nơi “một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây”, nghĩa là nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù… Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên lòng xót thương dành cho người bé nhỏ và nghèo khổ. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Nơi người nghèo, dễ bị tổn thương, chúng ta tìm thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng dù giàu có nhưng lại trở nên nghèo...trong sự yếu đuối của họ, một sức mạnh cứu độ hiện diện. Và nếu trong mắt thế gian họ chẳng có giá trị gì thì họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường lên thiên đàng. Họ là hộ chiếu đến thiên đàng của chúng ta…Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho ngày lễ trọng kính Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta là Vua vũ trụ, Đấng đã tự đồng hóa mình nơi những người bé nhỏ và nghèo khổ và là Đấng sẽ phán xử chúng ta bằng những việc làm của lòng xót thương” ((Bài giảng trong Thánh lễ cử hành Ngày Thế giới Người nghèo, Thành phố Vatican. Ngày 19 tháng 11 năm 2017). Trong sứ điệp cho Ngày Thế giới Người nghèo năm 2021, Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định: “Những ai không nhận ra người nghèo là phản bội giáo huấn của Chúa Giêsu và không thể là môn đệ của Chúa.”
Môn đệ của Chúa mở lòng mình ra để giúp đỡ những người cần giúp đỡ. Họ sống cuộc sống tập trung vào Chúa và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của người khác. Họ biết “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” nghĩa là họ yêu mến Ngài bằng tất cả mọi năng lực của con người đạo lý; để rồi tất cả mọi khía cạnh của tâm hồn, tình cảm, tư tưởng, ý chí, khát khao, đều được tình yêu này thấm nhập chi phối, trở thành động lực duy nhất của tất cả mọi hành động, của cả cuộc sống của họ. Chính điều này mới có thể làm cho tâm trí họ thấu hiểu và dẫn họ đến hành xử theo như Thánh Phaolô khuyên bảo: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật…cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13: 8-10). Yêu như chính mình là lật đổ rào cản ngăn cách tôi với bạn, lật đổ chủ nghĩa ích kỷ, là nguyên nhân của mọi chia rẽ. Người yêu thương theo cách này khao khát hạnh phúc của người lân cận như hạnh phúc của riêng mình và đóng góp vào hạnh phúc đó tùy theo sức lực của mình, như thể đó là hạnh phúc của chính mình. Đó là cách sống mà Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy sống, để được vào Vương quốc của Ngài, vì Vương quốc của Chúa là một vương quốc của tình yêu, như được nói trong bài đọc thứ nhất: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy…Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34: 11-12, 15-17).
Nơi trần gian, Chúa Giêsu đã biểu lộ một tình yêu vị tha, chân thật và đích thực. Ngài bị đánh đòn, chế nhạo, tra tấn và hành quyết để cứu độ chúng ta. Ngài chính là Vị Mục Tử Tốt Lành quan tâm đến đoàn chiên của mình và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đoàn chiên Ngài yêu mến. Đó chính là những gì Vị Vua Nhân Lành mong muốn chúng ta làm theo, chính là để chúng ta được dự phần vào Vương quyền của Ngài, là Vua Vũ trụ, khi muôn loài phải quy phục Ngài, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Thật vậy, Chúa Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài…Lúc muôn loài đã quy phục Chúa Kitô, thì chính Ngài, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Ngài; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15: 28).
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm thấy Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta tổ TN 34-ABC473
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm thấy Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta tổ chức một buổi lễ thật vĩ đại và long trọng khánh thành pho tượng Chúa Kitô Vua khổng lồ: Tượng cao 30 mét, đầu dài 3 mét 75, hai tay giang ra từ phải qua trái 30 mét, dựng trên một trái núi cao 700 mét. Buổi lễ diễn ra rất tưng bừng náo nhiệt. Pho tượng sừng sững, oai nghiêm và nhân từ, tỏa ra muôn ánh hòa quang sáng ngời bởi muôn ngàn ánh điện lung linh diệu huyền, khiến du khách thập phương ngưỡng mộ, ca ngợi và lòng tràn đầy hoan hỉ tôn phụng Vương Quyền Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Vua trên muôn Vua, Vua mọi tâm hồn.
I. NHỮNG HÌNH THỨC TÔN NHẬN CHÚA LÀ VUA
Khi thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội có mục đích nói lên cho nhân loại biết Vương Quyền cao cả của Chúa Kitô; mọi loài trên trời dưới đất và trong hỏa ngục đều phải hết lòng tôn thờ, sùng mộ, phụng sự và mến yêu Chúa. Không những phải tôn nhận Chúa là Chủ Tể vạn vật, là Chúa muôn loài, là Vua vũ trụ mà còn phải tôn nhận Chúa là Vua các dân tộc, các quốc gia, mọi gia đình và mọi tâm hồn... Cũng cùng quan niệm đó, các giáo phái ngoài Công Giáo cũng đều chân nhận và suy tôn Chúa Kitô là Vua. Các dân tộc dù không tôn thờ Thiên Chúa cũng phải tôn nhận Ngài là Chủ Tể dưới hình thức này hay hình thức khác. Chúng ta thấy những hình thức tôn nhận Chúa Kitô là Vua vũ trụ, diễn ra khắp thế giới, nơi mọi quốc gia, mọi dân tộc, nhất là xã hội nơi chúng ta đang sống.
Những hình thức đó được kể tới như niên lịch Công Giáo năm 2000, đánh dấu biến cố lịch sử vô cùng quan trọng, Chúa Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Rồi, toàn bộ Thánh Kinh từ Cựu Ước tới Tân Ước đã chứng minh về Ngài. Ngày nay, dù muốn hay không tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ đều phải công nhận. Khắp đó đây trên thế giới, các Thánh Đường mọc lên như nấm, rải rác khắp hang cùng ngõ hẽm, đâu đâu người ta cũng thấy Thánh Đường, nhất là nơi xứ sở chúng ta đang sống, chỗ nào cũng Church, Church, cỡ to cỡ nhỏ, ngay một ngã tư, cũng có thể thấy 3 hoặc 4 Thánh Đường. Có những Thánh Đường được kiến trúc thật nguy nga đồ sộ, tân kỳ, lộng lẫy, tốn phí những ngân khoản khổng lồ. Ngoài ra, còn có những trung tâm hành hương, tổ chức những buổi lễ thật long trọng hấp dẫn, những cuộc cung nghinh biểu dương Đức Tin thật trọng thể, những giờ đền tạ tôn thờ Thánh Thể, sùng kính Thánh Tâm Chúa thật sốt sắng tha thiết. Chưa hết, ngoài ra, còn có các buổi hội thảo thuyết trình; những trường dạy Thánh Kinh, giáo lý; các cuộc giảng thuyết trình diễn trên télévision; sách Thánh Kinh được xuất bản cỡ lớn cỡ nhỏ với đủ mọi thứ ngôn ngữ, có cả loại hình ảnh lộng lẫy màu sắc tuyệt đẹp, với số lượng vô kể, không có một thứ sách nào trên thế giới sánh kịp.
Pho tượng khổng lồ Chúa Kitô Vua với cuộc lễ linh đình trên kia; biết bao hình thức chúng ta vừa đề cập tới, phải chăng đủ chứng minh lòng tôn sùng, kính mến loài người dâng lên, để tôn nhận Vương Quyền của Chúa Kitô, suy phục quyền bính của Ngài cách xứng đáng? Nếu chỉ căn cứ ở những dấu hiệu bề ngoài đó, hoặc nếu chúng ta là những du khách từ khắp nơi tới du lịch tại Hiệp Chủng Quốc này, hẳn chúng ta tất cả đều phải tấm tắc ca ngợi dân tộc Hoa Kỳ là một dân tộc rất sùng đạo, có thể nói vượt xa hơn mọi dân tộc khác.
II. NHỮNG ĐIỀU PHẢN NGHỊCH ĐÁNG SỢ
Chính Chúa Kitô đã phải than phiền: "Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng xa cách Ta!" Chỗ khác, Chúa phán với những người Pharisiêu: "Không phải kẻ nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, mà được vào Nước Trời; trái lại, chỉ có kẻ tuân giữ lời Ta truyền dạy mới được vào Nước Trời!" Rồi với thiếu phụ Samaria Chúa phán: "Đã đến lúc, người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong chân lý, công bình và bác ái". Chúa còn xác quyết: "Kẻ yêu kính Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy".
Qua các lời Chúa phán trên đây, chúng ta hãy để cho lòng lắng dịu xuống, suy tư hồi tưởng; rồi tự thâm tâm chúng ta tự trả lời câu hỏi: "Loài người nói chung và riêng bản thân chúng ta là con cái Chúa, chúng ta đã thực sự tôn nhận, suy phục và sống xứng đáng với lòng tôn sùng Chúa Kitô là Vua chúng ta chưa? Nhân loại đã sẵn sàng đón nhận và thực thi giáo huấn của Chúa chưa? Giáo huấn của Chúa đã thực sự thấm nhập vào luật lệ các quốc gia, điều khiển nền luân lý các dân tộc, chi phối các sinh hoạt xã hội, chính trị, tôn giáo của loài người chưa? Hay chỉ có những hình thức sùng đạo, mang một nhãn hiệu phô trương thương mại và kiêu căng? Nếu quả thực, không đến nỗi đáng trách, thì hỏi Chúa Kitô đã một phần nào được hài lòng với chúng ta là con cái Chúa chưa?"
Chúa Phán: "Yêu Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy". Giới luật Chúa truyền dạy loài người phải tuân giữ đã được ghi trong kho tàng Thánh Kinh, qua quyền giáo huấn của Giáo Hội, hoặc âm thầm nhắn nhủ trong lương tâm chân chính của mỗi người. Chúng ta đã sẵn sàng đón nhận và ngoan ngoãn sống theo những lời Chúa giáo huấn được bày tỏ trong các nguồn mạch đó chưa?
Đây là kết quả do một cuộc phỏng vấn sau dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thăm viếng Hoa Kỳ vừa qua, sẽ cho chúng ta thấy cái nhìn trung thực về lòng sùng mộ Vương Quyền Chúa Kitô và tuân giữ giáo huấn của Ngài thế nào?
Có thể nói hết mọi người, không riêng gì người Công Giáo mà hầu hết anh em trong các giáo phái và các tôn giáo ngoài Kitô Giáo, ai ai cũng đều nhiệt tâm đón tiếp Đức Thánh Cha với niềm kính yêu, xứng với chức vị cao cả là Đấng Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Thế nhưng, thực sự lại có một điều rất mâu thuẫn là nhiều người bất đồng ý kiến với ngài, trong những vấn đề liên quan đến giáo lý, luân lý và truyền thống chính đáng của Giáo Hội, cũng như của các dân tộc. Những điều bất đồng ý kiến đó được xoay quanh các về các vấn đề, như luật cấm ly dị, cấm đồng tính luyến ái, cấm phá thai, cấm phụ nữ làm Linh Mục, cấm tái hôn bất hợp pháp và nhiều vấn đề khác tương tự trong lãnh vực luân lý và xã hội.
Người ta đả kích Đức Giáo Hoàng và cho ngài là người độc tài, là người thủ cựu, kỳ thị nam nữ... Căn cứ vào những bất đồng ý với các lời giáo huấn của Đức Thánh Cha và những truyền thống lành mạnh của Giáo Hội qua cuộc phỏng vấn trên đây, hoặc căn cứ vào thực trạng của đời sống xã hội, nhất là nơi dân tộc chúng ta đang sống và chịu ảnh hưởng, chúng ta phải nhận định rằng: Những hình thức tôn nhận Vương Quyền Chúa Kitô trên kia mới chỉ là cái mã tốt đẹp bên ngoài, còn phần nội tâm chính yếu thì người ta đã bỏ qua. Nhiều đạo luật của các quốc gia không những bỏ qua mà còn phản lại tinh thần Chúa, chống lại giáo huấn của Giáo Hội như: Đạo luật cho phép ly dị, cho phép phá thai, tài trợ những phí khoản khổng lồ để phá thai... Thật đúng như lời Chúa: "Không biết khi Con Người đến có còn thấy Đức Tin trên mặt đất nữa không?" (Lc 18:8)
III. CHÚNG TA LÀM GÌ CHO XỨNG HỢP
Thánh Kinh đã định nghĩa rất xác thực: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Bản tính của Chúa là Tình Yêu. Chúa là Vua Tình Yêu, là Chúa nhưng là Chúa Hòa Bình, là Cha nhưng là Cha Nhân Từ: Chủ thuyết của Chúa là công bình, bác ái, quốc sách chinh phục các linh hồn là lòng nhân từ, là tình thương xót. Nghệ thuật quản trị của Chúa là Tình Yêu. Chúa cũng muốn nhân loại phải tôn nhận Chúa, suy phục Vương Quyền Ngài bằng tình yêu, bằng sự hiến dâng chính tình yêu, lòng yêu mến lên Ngài, như lời Ngài đã phán với Thánh Nữ Magarita Maria: "Con hãy dâng trái tim con cho Cha". Tất cả những hình thức bên ngoài để tôn vinh Chúa sẽ không có giá trị gì, nếu nhân loại không tuân giữ luật Ngài truyền, không suy phục và sống theo tinh thần Tin Mừng và giáo huấn của Ngài nơi luật của Giáo Hội, quyền giáo huấn của Đức Thánh Cha, là Đấng kế vị Thánh Phêrô và Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Tất cả vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật trên trời dưới thế đều thuộc quyền Ngài, đều do Ngài tác thành, đều ở trong quyền toàn năng bảo tồn và quan phòng an bài của Ngài... Điều Chúa khát khao là tình yêu, chúng ta chỉ có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng cách hiến dâng trái tim, sự thuần phục của chúng ta cho Chúa và sống theo tinh thần của Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy đáp lại lòng yêu thương của Chúa bằng cách thực thi các giáo huấn của Ngài, sống theo tinh thần Ngài, để đời sống chúng ta được họa theo mẫu gương đời sống thánh thiện của Chúa, tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài.
Đồng thời, chúng ta hãy nỗ lực làm tông đồ mở rộng Vương Quốc Yêu Thương của Chúa, cổ võ tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài đến với mọi người, để mọi người biết yêu thương, nhân từ bác ái tha thứ cho nhau, hầu làm cho nhân loại được trở nên anh chị em một nhà, con một Cha Chung trên trời.
Quyền lực là một cám dỗ ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho người ta nhiều TN 34-ABC474
Quyền lực là một cám dỗ ghê gớm đối với con người ở mọi thời đại, vì nó đem cho người ta nhiều bổng lộc, giúp họ vinh thân phì gia. Vì quyền lực, người ta sẵn sàng chém giết nhau, làm cho cuộc sống xáo trộn và huynh đệ tương tàn. Trong xã hội Việt Nam của chúng ta, những tham vọng quyền lực đã và đang làm nghèo đất nước và gây bức xúc cho người dân. Nhiều người tìm cách đút lót hối lộ để được có chức tước trong guồng máy lãnh đạo của nhà nước. Trong bối cảnh này, việc tôn vinh Đức Giê-su với tước hiệu “Vua” dễ làm cho người đương thời hiểu sai về sứ vụ của Người. Thực ra, chính Chúa đã nói với quan Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Đức Giê-su là Vua vũ trụ, nhưng là vị Vua đến để phục vụ con người và đem cho họ sự sống, niềm vui và hạnh phúc. Là Thiên Chúa quyền năng, Đức Giê-su cũng là vị thẩm phán nhân từ và công minh. Người sẽ xét xử nhân loại về hành vi và đời sống của họ, vào lúc tận cùng của thời gian. Là Vua Tình yêu, Người cổ võ con người yêu thương nhau, yêu người khác như chính mình, và sẵn sàng tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình, thậm chí còn cầu nguyện cho họ nữa. Như vậy, vương quốc của Chúa Giê-su không phải là biển rộng sông dài như những vương quốc trần thế, nhưng là vương quốc hiện diện trong trái tim con người.
Vị thẩm phán tối cao này không chỉ xuất hiện vào thời tận thế, nhưng Người luôn đồng hành với con người trong hành trình dương thế. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên để diễn tả sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với Dân riêng Ngài đã chọn. Những chi tiết được nêu giúp chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của một người mẹ, luôn hiểu thấu tình trạng của mỗi người con trong những đứa con của mình. Chúa Giê-su đến trần gian thực hiện những gì Cựu ước đã loan báo. Người tuyên bố, Người là Mục tử nhân lành, đến trần gian để đem cho con người tình thương Thiên Chúa. Người chăm sóc các tội nhân, chữa lành những người bệnh, giúp những người bị gạt ra bên lề trở lại hòa nhập cuộc sống xã hội. Không một con chiên nào bị quên lãng hay bỏ rơi, dù là những con chiên bệnh tật còm cõi. Không một tội nhân nào bị loại trừ, dù họ tội lỗi đến đâu chăng nữa. Người mục tử còn cất công lặn lội đi tìm những con chiên bị lạc. Ông vui niềm vui của đoàn chiên, ưu tư trăn trở khi thấy lợi ích của đàn chiên bị đe dọa. Chúa Giê-su đã thể hiện vương quyền của người như một mục tử, với tất cả những đức tính diễn tả trên đây. Người đã thể hiện điều đó trong suốt cuộc sống dương thế. Dù có một số người Do Thái không chấp nhận Người và đã lên án tử cho Người, nhưng trong các lời tố cáo trước nhà cầm quyền, không hề có lời tố cáo nào liên quan đến nhân cách và đời sống của Người. Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Giê-su đã chứng minh những lời giảng dạy bằng chính bản thân. Chúa cũng khẳng định: Người không đến trần gian để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu rỗi con người. Trọn vẹn cuộc sống và nhất là cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh điều đó. Chúa chấp nhận sự chết để cho con người được sống. Người chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc. Đó là vương quyền đích thực của Người. Vương quyền này, hoàn toàn khác với vương quyền thế gian.
Một cách đặc biệt, vương quyền của Đức Giê-su thể hiện qua cuộc phán xét cuối cùng, hay còn gọi là phán xét chung. Đó là ngày tận thế, khi vũ trụ này sẽ qua đi, nhường chỗ cho trời mới đất mới. Lúc đó, hậu vận tương lai của mỗi người cũng được quyết định. Thánh Mát-thêu là tác giả duy nhất trong bốn tác giả Phúc âm, ghi lại bài giảng của Chúa Giê-su về ngày phán xét, với những chi tiết cụ thể và dễ hiểu. Hình ảnh cuộc phán xét chung cũng là câu trả lời cho biết bao vấn nạn được đặt ra về sự công bằng, về lối sống thánh hiện hoặc gian ác, về sự sống bên kia sự chết. Vị Vua của ngày phán xét chung là vị thẩm phán nhân từ nhưng cũng rất công minh. Người sẽ dựa vào thái độ của mỗi người đối với người nghèo mà quyết định tương lai hậu vận của họ. Hai mươi thế kỷ sau, chúng ta hôm nay cũng không khỏi ngỡ ngàng trước lời tuyên bố của vị thẩm phán: “Mỗi khi LÀM hay KHÔNG LÀM điều này điều kia để giúp đỡ những người bé mọn, nghèo khổ, cô đơn khốn cùng, là các ngươi LÀM hay KHÔNG LÀM cho chính Ta”. Quá ngạc nhiên! Thì ra Chúa đồng hóa mình với những người đáng thương bị gạt ra bên lề cuộc sống. Ai giúp người nghèo là giúp Chúa. Ai bỏ rơi người nghèo là bỏ rơi Chúa. Trong ngày phán xét chung, không thấy vị Vua đề cập tới những chức tước, địa vị đạo đời của chúng ta hoặc những công kia việc nọ chúng ta đã làm khi sinh thời, nhưng Người nhấn mạnh đến cách chúng ta đối xử với anh chị em mình. Đến ngày phán xét chung, chỉ có Đức Ái là đáng kể, và là lý do để chúng ta được Chúa khoan dung. Thánh Phao-lô đã viết: “Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Đức Mến tồn tại muôn đời” (1Cr 13,13).
Người tín hữu sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Họ là công dân của vương quốc vĩnh cửu. Vương quốc ấy đã được Đức Giê-su khai mở và đang hiện diện trên thế gian như “vương quốc của Tình yêu, vương quốc của Sự thật và Sự sống”. Vương quốc ấy sẽ tỏ hiện hoàn toàn khi mọi sự được đặt dưới chân Chúa Giê-su là Vua muôn loài (Bài đọc II). Khi nỗ lực cộng tác với Chúa và thực thi giáo huấn của Người, là chúng ta góp phần làm cho vương quốc của Thiên Chúa từng bước hoàn thành trên thế gian. Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa cho vương quốc của Ngài trị đến, tức là xin cho vương quốc ấy được thực sự trọn vẹn trong cuộc sống của chúng ta, để rồi trần gian trở thành thiên đàng, con người sống với nhau trong tình yêu viên mãn.
Sống trên đời hôm nay, chúng ta đừng quên sẽ có ngày phải đứng trước tòa phán xét. Hình ảnh phán xét không làm chúng ta lo sợ hoang mang. Trái lại, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, luôn thận trọng từng bước đi trong đời, để không phải hổ thẹn, và nhất là không bị kết án trầm luân trước vị Thẩm phán nhân từ và công minh là Chúa Giê-su, là Vua và là Đấng Cứu độ chúng ta.
Cách đây nhiều năm, chính quyền thủ đô nước Ý đã quyết định tặng mẹ Têrêxa Calcutta, vị tông TN 34-ABC475
Cách đây nhiều năm, chính quyền thủ đô nước Ý đã quyết định tặng mẹ Têrêxa Calcutta, vị tông đồ tình thương của thời đại, danh hiệu “Công dân danh dự thành phố Rô-ma” vì bao hoạt động cứu giúp kẻ nghèo thành phố của các nữ tu Dòng Thừa sai Bác ái do Mẹ sáng lập. Trong nghi lễ trao bằng chứng nhận, ông thị trưởng thành phố đại ý đã nói: “Chúng tôi xin hết lòng cảm ơn Mẹ và chị em vì công việc từ thiện vĩ đại và hữu hiệu đã thực hiện. Công việc của quý Dòng đã làm lợi cho thành phố Rô-ma mỗi năm 45 triệu đô-la, nghĩa là chúng tôi phải tốn một số tiền như thế mới đạt được hiệu quả cứu trợ mà chị em đang làm một cách miễn phí và với tất cả tấm lòng”. Đáp lại mẹ Têrêxa nói : “Ông thị trưởng cám ơn chúng tôi, nhưng chúng tôi thì phải cám ơn những người nghèo. Vì chính khi họ vui lòng nhận sự giúp đỡ của chúng tôi, họ đã cho chúng tôi trở thành hữu ích cho người khác và được nên con cái đích thực của Cha trên trời”. Nếu đúng như lời một danh ngôn: “Dưới đất, người có của giúp người nghèo khó. Trên trời, người nghèo khó giúp người có của”, thì Mẹ Têrêxa còn chưa nói đến 1 điểm : kẻ nghèo không chỉ tạo cho ta cơ hội nên tốt lành hữu ích mà còn có điều kiện để vào trong Vương quốc của tình yêu, như bài Tin Mừng hôm nay mặc khải.
1. Một tình yêu mang tính chất đơn sơ, cụ thể.
Trong đại diễn từ sau hết đây, “người thợ mộc nhỏ bé” làng Na-da-rét rốt cục bày tỏ ý thức kỳ lạ của mình về vai trò mình. Hôm nay, chúng ta có lời khẳng định mạnh mẽ nhất về thần tính Đức Giê-su theo nghĩa chặt. Trong vài ngày nữa, Người sẽ đi vào cuộc Khổ nạn (x. Mt 26,1-5) và trở thành “ông vua” bị nhạo báng, bị đội mão gai, bị giết chết như một tên nô lệ tầm thường. Nhưng Người biết mình là ai. Ngày nào đó Người “sẽ đến trong vinh quang để xét xử thế giới”, một đặc quyền mà Cựu Ước đã chỉ dành cho Đức Chúa (Gia-vê). Thành thử Đức Giê-su lấy lại ở đây danh hiệu “Con Người” mà Người đã không ngừng sử dụng để điểm xuyết diễn từ Thời cùng tận. Kể từ sách Đa-ni-en (7,13), “Con Người” là nhân vật bí ẩn, tự trời mà đến, được văn chương khải huyền Do-thái mô tả như Đại phán quan của Thời cùng tận.
Lúc đó, “các dân thiên hạ sẽ tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê”. Thỉnh thoảng ta nên nghĩ tới “Ngày” này, ngày mà ai cũng sẽ gặp. Lúc ấy, mọi chuyện dưới trần sẽ mặc những kích thước mới. Hãy xin Chúa giúp mình phán đoán mọi sự ngay từ bây giờ dưới quan điểm vĩnh cửu, phân biệt cái tầm phào với cái quan trọng. Ngày ấy, tôi cũng sẽ có mặt ở đó. Một đám đông lớn lao chen vai thích cánh chờ đợi cuộc Phán xử. Cũng sẽ có mặt tại đó những người tôi yêu, những người tôi biết, những người tôi đã mang trách nhiệm. Nhưng cũng có bao người khác nữa : Do-thái và phi Do-thái, Ki-tô hữu và phi Ki-tô hữu, kẻ tin và kẻ không tin, đạo hữu Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Vật linh giáo… các nhà thần nghiệm đã cầu nguyện suốt cuộc sống và những kẻ vô thần suốt cuộc sống đã không hề cầu nguyện… tất cả, trước nhan Đức Giê-su, Vua Mục tử, tước hiệu mà văn chương ngôn sứ thường vẫn gán cho Đức Chúa Gia-vê (x. Ed 34,11-22).
Trong vài ngày nữa, ông “Vua” ấy, “Con Thiên Chúa” ấy sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên, Người ý thức mình biết “dự tính Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa” : Người nói Thiên Chúa đã tạo dựng phàm nhân… để một ngày kia sẽ ban cho nó chính Vương quốc thần linh của Người làm gia sản. Nhưng đâu là tiêu chuẩn của cuộc phán xét ấy ? Việc lựa lọc dựa trên những quy tắc nào ? Thưa chính trên tình yêu, hoàn toàn trên tình yêu, mà chúng ta sẽ bị phán xét. Và là một tình yêu đơn sơ : cho ăn, cho uống, cho mặc, đón tiếp, thăm viếng, chăm nom. Như thế, các hành vi yêu thương khiêm tốn và chân thật nhất của chúng ta có một giá trị vô biên, một giá trị vĩnh cửu. Danh sách các cử chỉ tình yêu được kể ra này không có tính cách giới hạn. Đó chỉ là những ví dụ mà ta có thể kéo dài khi nhìn cuộc sống của mình. Con tôi khóc đêm, và tôi đã thức dậy để chăm sóc an ủi. Mẹ già của tôi không ngồi lên được nữa, và tôi đã nâng bà khỏi giường để đặt trên ghế. Láng giềng chúng ta cần bạn bè, và chúng ta đã lấy tình bằng hữu đối xử với họ. Trong Giáo xứ, Linh mục cần những ông cha bà mẹ làm giảng viên giáo lý, và tôi đã chấp nhận trách nhiệm chiếm nhiều thì giờ này. Đồng nghiệp của tôi cần được bênh vực chở che, và tôi đã nhận lấy những trách nhiệm nghiệp đoàn lẫn trách nhiệm chính trị… Một người bị sách nhiễu tù tội vì dám tố cáo cường quyền, bảo vệ công lý, đòi hỏi tự do, và tôi đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư hay viết một bài đăng mạng để đòi nhân quyền cho đương sự… Nhiều vùng trong nước đang bị lụt lội, và tôi đã tham gia vào các chiến dịch lạc quyên cứu đói…
Và Đức Vua phán : bản thân Người đã được hưởng những việc thiện ấy, khiến các chính nhân hết sức kinh ngạc. Sự ngạc nhiên này của những “người được cứu” là một trong những yếu tố kỳ dị của quang cảnh. Hình như không một ai trong những kẻ “được Cha chúc phúc” thật sự ý thức cái đã âm thầm diễn ra trong đời thường của mình : ý nghĩa cuối cùng của các hành vi họ chỉ được “mạc khải” cho họ vào giờ sau hết. Như thế, cuộc Chung thẩm này, mà chúng ta nghĩ rằng thuộc tương lai, còn lâu mới tới, thật ra là một biến cố thường trực : Ngày Phán xét chính là hôm nay ! Thiên Chúa sẽ chẳng phải “phán xét” con người, họ sẽ “tự phán xét” suốt đời họ. Thiên Chúa sẽ chẳng làm gì hơn là tỏ lộ cho họ thấy cái đã được “ẩn giấu” trong mỗi một ngày sống của họ ở trần gian. Cuộc sống vĩnh cửu đã khởi sự rồi. Nhưng cái gì được “ẩn giấu” cách vô thức thể ấy?
2. Một tình yêu có đối tượng cao cả khôn lường.
“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Cái được “tỏ lộ”, thành thử là một sự hiện diện không ngờ của Đức Giê-su ! Khi tất cả lịch sử kết thúc, Đức Giê-su sẽ chỉ nói về “mình” như thể trong muôn tỷ người nam nữ, chỉ duy “mình Người” đã hiện hữu, cách bao la và bí mật : “Ta từng đói… Ta từng khát… Ta từng ở tù… Ta từng ngụ cư… Ta từng đau yếu…”. Như thế, việc “đến” trong vinh quang, lần sau hết và cách chớp nhoáng của Người trên mây trời sẽ là bằng chứng cho một việc “đến” khác, kín đáo và che giấu, nhưng triền miên bất tận. Sự hiện diện huy hoàng của Người vào ngày Cánh chung sẽ rõ ràng và hiển nhiên cho thấy Người đã không ngừng đến và không ngừng hiện diện… trong mỗi một anh em đang cần đến ta.
“Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: ‘Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”. Lạy Chúa Giê-su, Mạc khải tình yêu của Chúa Cha, chính Chúa đã nói lên câu kinh khủng nầy. Con nghe rõ lắm, nhưng không thể loại bỏ cái gây phiền nhiễu cho con như vậy. Thật thế, Tin Mừng đâu phải là một ý thức hệ mơ hồ và tình cảm, song là một lời mời gọi có tính chất đòi hỏi hết sức. Từ chối yêu mến… đâu có giống mến yêu ! Ích kỷ ghen ghét không thể có chỗ bên Thiên Chúa tình yêu được. Giáo lý về hỏa ngục như thế đã không được Giáo hội phát minh song do chính miệng Đức Giê-su công bố. Nhưng phải hiểu giáo lý đó như thế này : Thiên Chúa quá cao cả trong tình yêu nên đã ban cho thiên thần và loài người một tự do đích thực, kể cả tự do nói “không” với Người ngay trước mặt Người. Dĩ nhiên Thiên Chúa đâu muốn có hỏa ngục. Vì nếu sự hiện hữu của một kẻ trầm luân duy nhất có thể khiến chúng ta công phẫn, thì đối với Thiên Chúa còn đáng công phẫn hơn nhiều. Giữa Hỏa ngục “có thể” và Hỏa ngục thật sự, Thiên Chúa luôn đứng với tất cả sức mạnh của Tình yêu Người, và đó là nơi dựng lên cây Thập giá của Đức Giê-su. Thiên Chúa đã làm tất cả để chẳng có ai trong cái nơi mà nhiều tạo vật tự do sẽ nói “không” với Người mãi mãi. “Thiên Chúa đã không sai Con đến trong thế gian để phán xét thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con ấy mà được cứu độ” (Ga 3,17). “Ta đến kêu gọi không phải người công chính nhưng là người tội lỗi” (Mt 9,13). “Chính khi chúng ta còn là tội nhân mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,9). “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4). Thành thử hỏa ngục, xét như việc tuyệt đối từ chối Tình yêu, bao giờ cũng chỉ hiện hữu từ một phía… phía của kẻ tự tạo nó cho mình. Nhưng chắc chắn Thiên Chúa không thể tự tay cộng tác vào sự lệch lạc ấy chút nào cả. Nếu ngày nào đó chỉ có một người ở trong nơi chối từ ấy, thì Thiên Chúa thấy mình như thể bị dí một dấu sắt nung đỏ, và ta đã đoán được, dấu sắt đó có hình thập giá !
Hai cảnh của cuộc Phán xét vậy là hoàn toàn tương đồng và đối nghịch : cái mà một bên đã làm thì bên kia bỏ quên. Mọi con người, có đạo hay không có đạo, biết Đức Giê-su hay không biết Đức Giê-su, sẽ bị phán xét trên cùng một tiêu chuẩn : không phải trên số lần cầu nguyện hay số buổi cử hành phụng vụ, nhưng trên tình yêu cụ thể đối với anh em. Thành ra tránh ác đâu có đủ. Còn phải hành thiện. Ai nấy đều bị phán xét ngay hôm nay bởi sự thiện mình không làm cho người cần. Vậy hôm nay, ai chờ tôi cái gì đó? mục lục.
Con Chúa Chí Thánh Cùng Chí Ái. Đức Vua Toàn Năng Với Toàn Quyền. Chúa Giêsu không chỉ TN 34-ABC476
Con Chúa Chí Thánh Cùng Chí Ái. Đức Vua Toàn Năng Với Toàn Quyền.
Chúa Giêsu không chỉ là Vua của muôn loài mà còn là Đấng Toàn Năng và Toàn Quyền. Đức Vua ấy không tìm vinh danh cho mình mà lại tự hạ đến tận cùng vì yêu thương thần dân: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Tại sao? Câu trả lời được chính Chúa Giêsu xác định với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Hơn nữa, Ngài có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.” (Ga 5:22, 26-27)
Thật lạ lùng, Ngài là Vua của các vua, là Chúa của các chúa nhưng hoàn toàn trái ngược với vua chúa trần gian, vì Ngài là Vua-đa-không: KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai tòa, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng, KHÔNG nghi lễ, KHÔNG thiết triều,...
Thẩm phán hoặc quan tòa là người có toàn quyền xét xử. Tại một số quốc gia, quyền hạn của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội thẩm. Tòa án cũng có nhiều cấp khác nhau, cao nhất là tòa án tối cao. Đức Vua Giêsu có toàn quyền xét xử, chính Ngài đã minh định với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18) Vương Quốc của Ngài không thuộc về thế gian này, tức là thuộc về Cõi Trời, nơi mà phàm nhân không hề biết, không phải như cung trăng hoặc một nơi xa lạ nào đó mà thiên văn học phát hiện.
Xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Trong mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng.
Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, như người ta nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục.” (Lc 12:5; x. Mt 10:28) Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên nói với Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Quyền xét xử của Philatô chỉ trong thời điểm đó, có quyền vì còn chức, chỉ tạm thời.
CÔNG BẰNG
Nhân ái và công bình là nền tảng vững chắc của cuộc sống. Trình thuật Mt 25:31-46, cho biết về cuộc tái lâm và cách xét xử của Chúa Giêsu – Thiên Vương Chí Thánh và Thẩm Phán Tối Thượng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh Chiên và Dê để ai cũng hiểu với thực tế đời thường. Chiên là động vật hiền, mỗi lần bị xén lông bị đau nhưng không hề phản ứng và có hình dáng “dễ thương,” còn dê là động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt.” Chiên là hình ảnh của Người Lành, dê là hình ảnh của Kẻ Dữ.
Chúa Giêsu tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, chấp nhận chịu chết để cứu độ nhân loại, vì thế Ngài cũng có toàn quyền xét xử, nhưng công minh và thương xót. Khi đến thế gian lần thứ hai, Ngài sẽ có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê: chiên đứng bên phải, dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han.” Những ai được Ngài nói như vậy thì thật hạnh phúc.
Họ ngạc nhiên khi nghe Chúa nói vậy vì họ chưa một lần thấy Ngài đói khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hoặc ngồi tù mà giúp đỡ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy.”
Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng.” Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy.”
Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bằng: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng VỐN SỐNG thế nào để sinh lời, (Mt 25:14-30) và thi hành ĐỨC ÁI đúng mức và đúng cách. (Mt 25:31-46) Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên.”
Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính,” thích đùa dai. Nhưng rất hiển nhiên là số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn làm ngơ, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách đen. Cứng lòng hay tự mãn?
Thực sự không dễ thấy Chúa nơi tha nhân, nhưng đó là điều Ngài đề cao: Mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là làm cho chính Chúa. Tha nhân là bất kỳ ai, lớn hay nhỏ, quen hay lạ – thậm chí là kẻ thù. Văn hào Victor Hugo có lối suy luận rất hay: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng Đế vay.” Một cách nhận định đầy “chất” Kitô giáo.
Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến QUYỀN LỢI, không mấy ai nói đến BỔN PHẬN.” Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban cho đủ thứ, nhưng chúng ta lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né cái khó. Chúng ta tự mâu thuẫn và không công bằng với Chúa. Rõ ràng Chúa Giêsu yêu thương đến cùng, (Ga 13:1) Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi người ta sám hối, chờ đợi người ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, cụ thể là đến với Bí tích Hòa Giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại con người cố chấp mà thôi!
THƯƠNG XÓT
Thật kinh dị khi vua chúa trần gian tự nhận là Thiên Tử, hét ra lửa, và nắm quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Đức Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để tìm cứu những gì đã mất, và Ngài khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29)
Ngay khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài vẫn đang hiện diện ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo! Nhưng chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.” (Ed 34:11-12)
Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ ai, đặc biệt là người nào càng bất hạnh thì càng được Ngài thương xót và chăm sóc nhiều hơn. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm kiếm cho được 1 con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh. (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7) Thật vậy, Ngài đã tuyên phán: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.” (Ed 34:15-17)
Nếu không là “hàng hiếm” thì cũng chẳng thấy mấy ông vua vì dân, vì nước, đích thân vi hành để biết dân tình ra sao. Chẳng mấy ai được như hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa. Ông là vị vua tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo,” liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!” Quan trên, quan dưới vô vàn – Ít quan thật tốt, nhiều quan tham tàn! Tuy ít nhưng có những người đáng nể phục là cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, và một số tổng thống của Hoa Kỳ, đó là sự thật mang tính lịch sử, không thể chối cãi.
Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có thực sự tìm chiên lạc, chiên yếu, chiên bệnh, hay chỉ thân với chiên béo? Có chức nên có quyền, họ đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm. Cả đời và đạo, cấp nào cũng đa dạng!
Dù muốn hay không thì cũng phải chân nhận ấn tượng với Đức cố GM Jean Cassaigne (1895-1973), người ta thường thân thương gọi ngài là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc K’Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. [*] Khi còn là giám mục của GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương thì không thể sống được vậy. Chỉ có thánh nhân mới có phong cách đó.
Cuộc sống thật nhiêu khê, biết nhiều thì khổ nhiều, thấy nhiều thì chán nhiều, nghe nhiều thì “nóng gáy” nhiều: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau.” (Gv 1:18) Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ,” nói ra thì người ta “không ưa.” Thẳng thắn sẽ “va chạm,” chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. Và người ta than: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu, (1 Ga 4:8 và 16) mà tình yêu là điều bất tử. Dù là điều được thiên phú cũng vẫn cần khổ luyện. Đức tin cũng vậy, phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng,” nhờ đó mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:4-5) Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Thế thì thật hạnh phúc quá, nhưng hạnh phúc đó không thể cứ tà tà mà có được.
VĨNH SINH
Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, nhưng là Hàn Vương chứ không là Phú Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Đức Vua sống như vậy thì thần dân không thể sống khác được. Vả lại, Ngài LÀ Vua của NGƯỜI SỐNG chứ KHÔNG LÀ Vua của KẺ CHẾT.
Dù bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần, (x. 1 Cr 15:25) và là Vua Hằng Sống. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” (1 Cr 15:20-24)
Là Đấng Hằng Hữu và Hằng Sống, nhưng Chúa Giêsu đã chịu đau khổ tột cùng, vì thế Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.” (1 Cr 15:25-27) Đức Kitô là Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28) Hoàn toàn hợp lý.
Thời quân chủ, vua có toàn quyền – cho sống thì được sống, bảo chết thì phải chết, phải tuân lệnh, bất tuân là bất trung. Chính cái chết minh chứng người tôi trung. Đã từng có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Còn nữa, người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có liên quan nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua, mà chỉ được tâu “cái bệ rồng” của vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ.” Ôi, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân!
Nhưng đối với Vua Giêsu, không sợ phạm húy, Ngài cho phép chúng ta cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài!” Nhưng không được kêu Ngài vô cớ! Vua Giêsu không hề được tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), nhưng chỉ vài ngày sau họ lật mặt ngay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá.” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15) Ngày nay chúng ta cũng vậy!
Trong thời gian công khai sứ vụ, Chúa Giêsu rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là Vua các vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài dạy: “Ai làm lớn phải phục vụ.” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) Ngài không cậy quyền, ỷ thế, nói và làm dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành đồng nhất, thậm chí Ngài LÀM NHIỀU HƠN NÓI. Còn chúng ta?
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đức Vua duy nhất của chúng con, xin dủ lòng thương xót chúng con. Lạy Thẩm Phán nhân hậu, xin tha tội chết cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. Amen.
Trong niềm hân hoan mừng Đại Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, vua vũ trụ chúng ta hướng về ngày sau TN 34-ABC477
Trong niềm hân hoan mừng Đại Lễ Chúa Giê-su Ki-tô, vua vũ trụ chúng ta hướng về ngày sau cùng, ngày hiển thắng của Vua Giê-su, ngày mà muôn dân đầu phục và tôn thờ Người là vua của chúng ta. Trong ngày đó, mọi dân mọi nước đều đến để thờ lậy Chúa của nhân loại. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Còn ngay bây giờ, chúng ta nhớ đến bổn phận của chính mình, công dân của Nước Chúa. Chúng ta hãy ôn lại con đường dẫn Đức Ki-tô đến vương quyền. Con đường Người chọn hoàn toàn khác hẳn với kiểu cách quan quyền, óc thống trị của các vua chúa trần gian mà chúng ta đã được nghe đến.
Thật vậy, Đức Giê-su đến vương quyền không bằng sức mạnh của vũ lực hay gươm giáo; nhưng cốt yếu là yêu thương và phục vụ, cho dù phải trả bằng mạng sống, Đức Giê-su vẫn sẵn lòng. Người đã khai mở một đường lối cai trị mới, không bằng quyền hành nhưng bằng sự quan tâm, lo lắng, chăm sóc và hy sinh cho con dân trong vương quốc của Người, cách riêng cho những ai bị thương tích hay bị bỏ rơi.
Sau cùng, tình yêu của Đức Giê-su Ki-tô, Vua nhân ái được diễn tả qua việc hiến dâng trên Thập Giá. Đó chính là đích điểm con đường yêu thương và phục vụ mà Đức Giê-su đã loan báo trong các bài giảng của Người. Người không chỉ ban một học thuyết, cho dù học thuyết về tình yêu; nhưng Người đã khai mở con đường yêu thương, con đường mở ra và đón nhận mọi người, trong đó con người đến với nhau bằng lòng quảng đại, ơn tha thứ, quan tâm chăm sóc người nghèo, chữa lành bệnh tật cho kẻ bị đau ốm và kêu gọi những người tội lỗi ăn năn.
Con đường hay lối sống yêu thương này đã xuất phát từ kinh nghiệm mà Đức Giê-su đã trải nghiệm với Cha của Người, và bất cứ ai tin và sống theo Tin Mừng của Đức Giê-su đã rao giảng đều có một trải nghiệm giống như thế. Để có được tâm tình của Đức Giê-su, chúng ta cùng nhau nghe lại Lời Người dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây không phải là cảnh phán quyết sau cùng. Nhưng nội dung của trình thuật và những gì xẩy ra được mô tả như một lời cảnh báo. Hãy để cho Lời của Chúa hôm nay trở nên một cơ hội cho chúng ta thấy mình đang ở đâu?
Những lời chất vấn của Chúa hôm nay đã giúp tôi nhớ lại một kinh nghiệm mục vụ. Mời anh chị em theo dõi.
Cách đây vài năm, khi còn làm việc tại trung tâm Hoan Thiện, Keysborough. Vào một buổi sáng, tôi đã gặp một người. Anh ta kể về hoàn cảnh của anh, lý do nào anh đưa ra cũng xác đáng. Sau cùng anh xin tôi giúp anh ít tiền để làm lộ phí đi đường. Dựa trên kinh nghiệm của bản thân đã dậy cho tôi biết rằng, nếu tôi mủi lòng, đáp lại lời yêu cầu của anh thì sẽ có nhiều người khác đến để xin giúp đỡ… Sau cùng, tôi đành từ chối lời van xin của anh. Phần anh, đây có lẽ không phải là lần đầu tiên bị từ chối. Đã quá quen khi bị khước từ nên xem ra trông anh ra về rất thanh thản. Còn tôi, coi như xong một chuyện, trở về cuộc sống thường nhật.
Câu chuyện không chấm dứt như thế. Vài tuần sau, trong khi chào đón bà con đến tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật hàng tuần. Bỗng nhiên, tôi gặp lại anh. Bổn phận khiến chúng tôi khổng thể tránh mặt nhau. Tôi tiến đến chào và vui vẻ mời anh vào nhà nguyện để cùng dâng lễ với chúng tôi.
Tôi không biết sự thật về cuộc đời của anh, tôi cũng không tìm hiểu các lý do anh đưa ra có xác thực hay không. Có lẽ tôi cũng không cần biết các điều đó làm gì. Sự thật là qua hai lần gặp gỡ, anh đã cho tôi thấy sự thật của đời mình. Anh đã hiện diện như một cơ hội yêu cầu tôi phải đưa ra một sự lựa chọn, không phải là việc giúp đỡ hay không giúp đỡ. Đó là sự lựa chọn mang tính ‘con người’, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lòng nhân ái và tính ích kỷ.
Đấy, kinh nghiệm sống của tôi như thế. Căn cứ vào tiêu chuẩn phân loại của Đức Giê-su mà chúng ta vừa nghe thì làm sao tôi giải thích đây! Việc phân loại mình là chiên hay là dê quả thật không dễ dàng, không rõ ràng như trong bài Tin Mừng mà Đức Giê-su vừa nói. Thực tế, tôi là cả hai. Có những lúc tôi đã chia sẻ của ăn, thức uống cho người đói khát, thăm viếng những người đau ốm, an ủi những kẻ bị giam cầm, v.v… và lại có những lần khác tôi nhắm mắt làm ngơ khi nhìn thấy những người cùng chung hoàn cảnh nêu trên.
Kính thưa anh chị em,
Những diễn biến của ngày chung thẩm, ngày phán xét chung được diễn tả trong dụ ngôn quá đầy đủ. Trong ngày đó, Chúa sẽ không chất vấn về lòng sùng đạo qua việc đọc kinh và cầu nguyện bao nhiêu lần? Xưng tội bao nhiêu lần và xưng hết các tội trọng chưa? Rước lễ có theo ý ngay lành hay không? Đã hành hương đất Thánh hay có bị chia trí khi tham dự các nghi thức phụng vụ như Thánh Lễ hay không? Nhưng, trong ngày đó, Người sẽ hỏi chúng ta đã làm gì cho nhau?
Muốn có câu trả lời cho ngày đó, thì ngay bây giờ, trong mọi giây phút của cuộc sống; chúng ta cần để cho Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay chất vấn và chỉ có một việc duy nhất mà chúng ta cần thực hiện là nỗ lực làm cho trần gian này trở thành nơi chan chứa tình huynh đệ, nơi không còn chia rẽ, nơi mà những giọt lệ của đau thương sẽ nhường chỗ cho niềm vui và an bình, nơi mà người tốt và xấu có thể sống chung hòa bình. Quả thật, chúng ta không cần chờ đến ngày tận thế mới thấy Chúa. Và nếu chúng ta chờ cho đến ngày đó mới thấy Chúa thì đã quá trễ rồi! Nhất là làm sao chúng ta có thể nhận ra ai là Chúa, một khi trong cuộc sống chúng ta chưa hề gặp gỡ hay có một kinh nghiêm nào về Người! Trong khi đó, ngay bây giờ và trong lúc này, Chúa đang ở giữa chúng ta, đặc biệt nơi những người khốn khổ nhất.
Có một chi tiết trong bài Tin mừng khiến cho chúng ta ngạc nhiên là trong câu trả lời của cả hai nhóm đều không nói đến sự hiện diện của Chúa ở nơi những con người khốn khổ và bé mọn. Họ nói: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, Chúa khát mà cho uống, Chúa trần truồng mà cho áo mặc, Chúa đau yếu hay bị giam trong các nhà tù mà đến thăm rồi phục vụ Chúa đâu?” Những người trong hai nhóm tìm Chúa bằng con mắt nhân loại. Trong khi đó Chúa chỉ có thể nhận biết bằng niềm tin và lòng mến. Tuy nhiên giữa hai nhóm vẫn có sự khác biệt. Nhóm thuộc về phe chiên là những ai sống theo lương tâm và nhịp đập của con tim, biết rung cảm trước các nỗi khốn cùng của nhau; còn những ai thuộc về nhóm dê là những con người đã chôn cất trái tim và lòng thương xót của mình vào tủ kín rồi khóa lại.
Như vậy, một cách nào đó chúng ta nhận thấy ngoài việc để cho Lời Chúa tác động, con người, không phân biệt mầu da, niềm tin hay phái tính, tất cả cần sống với chất liệu và nhịp rung cảm của trái tim, để thực hiện lòng thương xót và quan tâm cho nhau trước. Thật ra, chính con tim nhậy cảm mà Chúa đã đặt vào trong thân xác tôi đã dậy cho tôi biết rằng: tha nhân và Chúa không hề tách biệt nhau.
Ngoài con tim nhậy cảm, con tim biết yêu thuong chúng ta còn được Lời Chúa huớng dẫn nữa. Cụ thể, Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay đã tỏ cho tôi biết rằng Chúa đã nên đồng hình đồng dạng với con người, đặc biệt những ai bé mọn: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Còn lời khẳng định nào rõ ràng hơn. Đức Giêsu đã xác định thật rõ ràng về sự liên hệ mật thiết giữa những người bé nhỏ, hèn mọn này với Người. Vì thế, những việc chúng ta làm cho nhau vì Chúa, hay vì đuợc khen thuởng rồi cũng bị phơi bày ra hết.
Như vậy, qua dụ ngôn này, Chúa nhắc nhở và hối thúc chúng ta cần xông xáo ra đi khỏi mình để chia sẻ và xoa dịu những nỗi đau của nhau. Đặc biệt thực hiện lòng thương xót nơi những nguời thiếu ăn, thiếu mặc, không cửa không nhà, đang bị tù đầy, v.v…
Thiếu ăn, thiếu mặc không hẳn là đói khát hay bị lạnh về phần xác, nhưng còn bao nhiêu người thiếu nụ cuời, không đựợc ủi an, tôn trọng.
Không chốn nương thân không hẳn là không có nhà để ở, nhưng vì con người ngày nay ích kỷ hơn, không dám mở lòng ra đón nhận nhau và đôi khi còn tạo ra những rào cản để nhốt và giam giữ nhau…
Một vài nét tiêu biểu như thế. Còn biết bao nhiêu điều cần làm, kể sao cho hết. Nhưng với ai có con tim nhậy cảm trước nỗi đau của tha nhân thì tự họ sẽ tìm ra các phương thuốc để giúp nhau. Và, đối với các kẻ tin, một lần nữa, với lời xác quyết rõ ràng của Chúa, chúng ta không còn vịn vào bất cứ một lý do nào để từ chối những người mà chúng ta gặp trong cuộc sống. Tất cả đều được quan tâm, không ai bị lọai trừ khỏi lòng mến của Thiên Chúa qua sự hiện diện của Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Người không chỉ hiện diện trong nhà thờ, hay tại những cuộc biểu dương tôn giáo; nhưng mãnh liệt và xác thực hơn cả là Người đang hiện diện trong đời sống của những người bé mọn và khốn cùng.
Như thế, chúng ta bắt đầu lại con đuờng sống đạo bằng một khởi điểm mới phù hợp với những thách đố của Tin Mừng, đó là trong Đức Giê-su Ki-tô, Vua yêu thương, chúng ta quyết tâm làm chứng cho nhân lọai nhận ra tình thương của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau mà Vua Giê-su đã làm gương. Amen!
Cho tôi mơ ước một đôi lần.” (dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Hôm nay đây, Bướm Chúa của Mùa Xuân đã trở về với hình dạng của Đức Vua. Vua vũ trụ TN 34-ABC478
Hôm nay đây, Bướm Chúa của Mùa Xuân đã trở về với hình dạng của Đức Vua. Vua vũ trụ.Vua của mọi tâm hồn, như tình tự được thánh sử ghi nhanh ở trình thuật.
Trình thuật, nay thánh sử Mát-thêu ghi về đoạn cuối cuộc sống công khai của Đức Kitô, trước khi Ngài vào với nỗi thống khổ, và rồi sau đó, đã Phục Sinh, đểvực dậy hết muôn người.
Thánh Mát-thêu làm công việc ấy bằng cung cách của người kể dụ ngôn về ngày sau hết, có phán xét. Đọc trình thuật hôm nay, hẳn rằng người nghe lại liên tưởng đến dụ ngôn của những chiên con và dê hiền. Phụng vụ Hội thánh lại dùng trình thuật hôm nay để mừng kính Đức Kitô Vua, tức Vị Chánh Án vào ngày phán xét cuối cùng.
Nhìn vào ngôn ngữ mà người Công giáo thường sử dụng xưa nay, thì chữ “Vua” không là từ ngữ dễ nghe và dễ chấp nhận cho bằng danh xưng khác. Đã có lúc, danh xưng “Vua” của Đức Chúa được coi như một biểu ngữ nhằm nói lên các giá trị đạo đức hầu đối chọi với ý nghĩa rất chúa của các vua quan ở đời. Thời nay, người người thấy mình không dễ gì thấy được sự khác biệt giữa tính chất rất “vua” của tín hữu Đạo Chúa.
Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giêsu được gán tặng bằng nhiều danh xưng như Con Người, Chúa Chiên (tựa như vua Đavít), Đức Vua, Đức Chúa, Người Con ngự trên ngai vàng cùng Thiên Chúa Cha, vv… Bằng vào các danh xưng ấy, Đức Giêsu Kitô được con dân mọi người tôn kính như vị Chánh Án mọi dân tộc.
Và hôm nay, người đọc sẽ thấy Ngài sử dụng quyền tài phán của Chánh Án. Đó là lý do mà thánh sử coi Ngài là “Đức Kitô rất Vua”. Và, điều đó ăn khớp với mọi hiểu biết của chúng ta khi nghĩ về vị Vua của vũ trụ. Bởi, Ngài chính là vị Chánh Án có trọng trách phán xét tất cả những gì con người làm, hoặc không làm.
Kinh Tin Kính ở Công đồng Nicê nói: Ngài sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Cũng thế, các bản văn tuyên tín khác cũng có nói dân con mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình làm. Thánh Kinh của người Do Thái còn tỏ cho thấy “Ngày của Đức Chúa” là ngày mà vị Chánh án đứng lên để phán và xét.
Thêm vào đó, truyền thống giáo hội còn dạy con dân phân biệt việc phán xét vào ngày chung-cục cuộc đời của mỗi người với việc phán xét hết mọi người vào ngày thế tận. Nhưng, chẳng một ai, kể cả Đức Kitô, biết được thời điểm với nơi chốn xảy đến công cuộc phán xét chung cuộc ấy. Nên, việc này chỉ được kể bằng ngôn từ rất biểu trưng và thông thường rất dễ sợ.
Kể, bằng biểu trưng hay biểu tượng, là nói trước mọi việc trước khi việc ấy xảy đến. Và, trình thuật về sự việc này được giảng rao khắp nơi và khắp chốn, để người Do thái cũng như dân ngoại sẽ hồi hướng trở về. Cả Enoch lẫn Elijah cũng về lại. Ngày ấy sẽ là ngày Cánh Chung, 'Phản-Kitô' sẽ ngự trị một thời gian. Và, không gian vạn vật sẽ chuyển đổi đến rối mù, lửa từ trong/ngoài địa cầu sẽ bốc cháy. Và rồi, có tiếng loa kèn phát lên báo hiệu sự sống lại của muôn loài và khi ấy Con Người cũng sẽ xuất hiện giữa mây trời, rất bảng lảng.
Rồi, người người cứ như thể bảo nhau: ngày thế tận đã kề cận. Thế nhưng, lẽ thường tình của con người lại hay chống đối những chuyện như thế. Và, phần đông sẽ không tin rằng chuyện đó là sự thật như đinh đóng cột. Hay nhất là bảo: ta chẳng hiểu gì về việc ấy.
Chẳng hiểu, vì ngôn từ biểu tượng mà thánh Mát-thêu sử dụng chỉ để kể về một gặp gỡ rất riêng tư thân tình giữa Đức Kitô và mỗi một người, khi ta chết. Vào lúc ấy, Ngài muốn biết, không chỉ mỗi việc cuộc sống của ta ra thế nào, nhưng còn nhắn nhủ rằng ta đã làm gì cho lịch sử của con người, tức đóng góp được bao nhiêu cho nhân loại.
Lúc thánh Mátthêu viết lên trang sử này, lên giấy, ngài muốn tỏ bày lập trường để ta biết, là: mỗi người chúng ta cũng nên cải thiện lối hành xử của chính mình, ở đây. Bây giờ. Thánh nhân không mô tả những gì sắp đến cho bằng ngài muốn xác chứng những gì phải xảy ra, ngay bây giờ.
Thánh Mát-thêu diễn tả việc ấy qua ảnh hình và biểu tượng về chiên lành và dê hiền. Ở Do thái thời xưa, chiên lành chịu đựng cơn lạnh hay hơn dê hiền. Bởi thế nên, dê hiền cần được bảo vệ nhiều hơn. Bằng vào mầu sắc, chiên con thường mầu trắng. Còn, dê hiền lại là mầu đen. Ở dụ ngôn, chiên lành đứng bên phải, tức phía rất phải. Còn, dê hiền ở bên trái tức trái rõ đành rành. Đặc biệt hơn, bằng vào biểu tượng thánh sử viết, thì thú đàn ở phiá bên phải, vẫn phải lẽ. Còn dê hiền, là kẻ xấu nên mới trái. Thế nhưng, dưới tầm nhìn của Chúa, thú đàn dù có trái, vẫn rất phải.-
Công việc của Chánh án, là tách chiên khỏi dê theo tiêu chuẩn nào đó. Tiêu chuẩn đây, không là 10 điều giáo luật, vì khi bị phán xét không ai bị cật vấn điều đó. Nhưng tiêu chuẩn phán xét, là phán đoán và xét nét về 6 công tác từ thiện rất cổ điển về lòng thương xót mà người Do thái có thói quen gọi đó là hành xử đầy yêu thương.Cũng chỉ là: lo cho cái ăn, thức uống, đón tiếp mời chào, cho áo mặc, trông nom chăm sóc và viếng thăm đỡ đần. Vấn đề là, người người được hỏi có làm thế trong đời mình không?
Thật ra, đó còn là nội-qui cuộc sống cộng đoàn do thánh Mát-thêu đặt, ở Tin Mừng chương 18:
“Không được để con trẻ lạc lõng,
mất mát. Không được để thành viên cộng đoàn bị bỏ rơi, cô độc”.
Phán và xét, còn là hỏi: anh/chị có tuân giữ nội qui ấy không? Nếu có, anh/chị là chiên lành. Nếu không, anh/chị sẽ là dê hư.
Ở đây, thánh Mát-thêu và Đức Giêsu đặt tầm quan trọng vào nội qui giản đơn ấy cho cộng đoàn Kitô hữu thời tiên khởi. Để sau này, sẽ không có ai bị án phạt về những gì mình đã làm hoặc định làm; mà về những gì mình quên làm và không bao giờ chịu làm những việc như thế.
Người tốt lành không làm việc đó vì họ thấy người có nhu cầu như chính người anh, người chị của mình. Đức Giêsu nói: nếu người làm điều tốt lành ít là cho người anh, người chị ấy của mình, thì tức là làm cho Chúa. Họ là người thân của Chúa. Ta làm cho người của Chúa, chứ không phải cho người của ta. Thế nên, phán xét tích cực là phán và xét xem ta có mừng đón vào nhà mình, những người của Chúa, thuộc gia đình Ngài, vì họ nhìn ta như là người trong số họ.
Khi nói đến việc phán xét nói chung, ta bao gộp tất cả mọi người. Vậy thì, “nội qui của cộng đoàn” không chỉ là cho người Do thái hoặc cho cộng đoàn Mát-thêu thời tiên khởi hoặc những người thuộc giáo phái nào đó, thôi. Mà là, tất cả. Nội qui ấy, là để mọi người biết mà thực hiện. Nội qui được viết trong tâm khảm của mỗi người. Cho mọi văn hóa, sắc tộc. Mọi thời khắc của lịch sử nhân loại. Nội qui rất chung và sẽ có phán xét cũng rất chung như thế.
Chúa có cách để giáo huấn để họ hiểu rằng cuộc sống đích thực không cần lời nói, hoặc thể chế, dù thể chế ấy là Hội thánh. Chúa thiết lập trong ta bản năng riêng của mọi người. Cho mỗi người. Bản năng ấy, giúp ta mở lòng ra với người đang thiếu thốn, có nhu cầu. Dù ta là người thế nào đi nữa, Chúa cũng sẽ phán và xét chính ta, về tất cả điều đó. Phán và xét, xem ta có làm những việc giùm giúp như thế không. Chính đó là ý nghĩa của phán xét chung.
Chương 28 cuối Tin Mừng, thánh Mat-thêu viết: Đức Giêsu truyền lệnh cho nhóm người bé nhỏ của Ngài hãy ra đi mà trở nên đồ đệ của Ngài đến với muôn dân. Không cần biết họ thuộc sắc tộc nào. Có lý lịch ra sao. Họ từ đâu đến. Ngài dạy họ làm những việc như thế bằng cách quan sát xem họ có làm những điều Ngài dạy trong đời mình hay không; tức là: dạy họ sống biết giữ nội qui đề ra cho cộng đoàn của Ngài, như thánh Mát-thêu từng ghi lại. Nếu họ làm theo điều Ngài dạy, thì Ngài sẽ ở với họ suốt mọi ngày, cho đến ngày thế tận.
Đọc trình thuật hôm nay, có thể có người nghĩ là thánh Mát-thêu muốn tách chia chiên khỏi dê, để dễ bề phân biệt. Nhưng sự thật, đó không là phân và tách mà là đến với nhau như đàn trẻ lạc được tìm thấy. Là, ra đi mà tìm đến với họ. Ra đi, để ở giữa những người từng lỗi phạm nay bị bỏ rơi, quên lãng.
Ra đi, giang tay mà chào đón tất cả mọi người, đưa họ về với hòa giải và hòa hoãn. Thế đó, không là tách chia, phân biệt. Mà là, thuộc về nhau. Ở với nhau. Mà là, tất cả ràng buộc vào với nhau để tiến vào với cộng đoàn Nước Trời Hội thánh.
Trong tâm tình cảm kích những điều thánh sử ghi về Đức Kitô Vua, ta lại ngâm lên lời rằng:
“Em trở về đây để nắng hồng, Hồn xưa còn đẹp ý xưa không? Trăng tình chưa nguyện lời Hoa Bướm, Em chẳng về đây để ngỏ lòng.” (Đinh Hùng – Bướm Xuân) Là Bướm Xuân hay Bướm của Mùa Xuân, Ngài vẫn là Vua Vũ Trụ, nơi lòng người. Nay, Ngài trở về để Bướm và Xuân nên một. Một thân. Một mình. Thứ Mình rất thánh của Chúa Xuân. mục lục.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về ngày phán xét, ngày kết thúc lịch sử loài người và khởi đầu tình TN 34-ABC479
Bài Tin Mừng hôm nay nói về ngày phán xét, ngày kết thúc lịch sử loài người và khởi đầu tình trạng vĩnh cửu. Cuộc sống trần thế của mọi người sẽ chấm dứt và Thiên Chúa sẽ nói với từng người: “Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh” (Lc 16: 2), nghĩa là người ấy phải trả lẽ về những gì đã làm trên trần gian này.
Không nơi nào khác trong sách Tin mừng theo Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu lại nói ai sẽ lên Thiên đàng và ai sẽ xuống Hỏa ngục rõ ràng như trong chương 25 này. Mỗi người sẽ đi đến nhóm mình đã chọn. Những người có cuộc sống hướng về tình yêu và lòng thương xót sẽ đến với tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Những người loại trừ khỏi cuộc sống của họ “một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thiên Chúa” (Mt 25: 40) là tự loại mình ra khỏi vương quốc của Thiên Chúa, nơi mọi người đón nhận nhau trong yêu thương. Chúa Giêsu chia nhân loại thành hai nhóm: chiên và dê. Chiên “đứng bên phải Ngài”, được tuyên bố là “những kẻ Cha Ta chúc phúc”, và được mời “hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa” để “hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25: 34, 46). Còn những con dê “ở bên trái Ngài”, bị tuyên bố là “quân bị nguyền rủa kia” và bị tuyên án “đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” để “chịu cực hình muôn kiếp” (Mt 25: 41, 46).
Chúng ta hãy dừng lại và tự hỏi bản thân, tôi muốn vào nhóm nào? Bây giờ, làm thế nào để chúng ta vào được nhóm các con chiên? Chúa Giêsu nói với chúng ta một cách chi tiết: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25: 35-36).
Chúa Giêsu đề cập đến những tình trạng xảy ra ở mọi nơi và mọi thời: người đói khát, người nhập cư và người không quần áo, bệnh tật và tù nhân. Ngài sử dụng những từ cụ thể hàng ngày: thức ăn, quần áo, đồ uống, sự chở che. Ngài không nói lý thuyết “yêu thương” nhưng khuyến khích những hành động cụ thể như cho đi, đón rước, thăm hỏi, chăm sóc. Điều quan trọng không phải là lời nói xuông mà là lòng trắc ẩn giúp đỡ người gặp khó khăn cách cụ thể.
Những người làm những việc như vậy sẽ được chọn vào nhóm các con chiên. Họ đã trở thành những người anh chị em tốt lành của nhau vì biết yêu thương đồng loại của mình. Họ đã giúp đỡ mọi người chung quanh, đặc biệt là những người nghèo, như Thiên Chúa mong đợi nơi những ai đáng được gọi là con cái Nước Trời. Ngược lại, nhóm các con dê đã để cho người đói phải đói. Họ không buồn để tâm cho người khát được uống nước. Họ phớt lờ những người khách lạ, hoàn toàn không tiếp rước, cũng chẳng quan tâm giúp đỡ tìm kiếm một chỗ cho họ tạm trú. Họ cũng mặc kệ những người trần truồng, rách rưới đang cần đến quần áo, không đến thăm người bệnh và cô đơn, và để nhiều người rũ tù mà không cần suy nghĩ đến.
Lời dạy này của Chúa Giêsu thật quan trọng khi Ngài nói ra vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Ngài, nên những lời này trở một thông điệp đầy sức nặng và cũng là lý do Giáo Hội chọn đoạn Tin mừng này để suy niệm vào những ngày cuối năm phụng vụ: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Ngài. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê” (Mt 25: 31-32). Đây là chuẩn mực để xét xem ai là “người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25: 46).
Chúng ta có thể chọn đứng bên phải hoặc bên trái của Ngài bằng cung cách sống của mình. Ở bên phải Chúa Giêsu có nghĩa là chúng ta đang tích cực chăm sóc người nghèo, người thiếu thốn, bệnh tật và cô đơn. Không làm những điều như vậy có nghĩa là chúng ta không chỉ không thật lòng theo Ngài mà còn làm ngược lại Ngài, vì chính Chúa khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Một trong những điều đáng ngạc nhiên là những những người công chính thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” (Mt 25: 37-39). Ngay cả những người bên trái cũng thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” (Mt 25: 44). Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa, dù chúng ta không thấy Ngài, và không làm những điều như vậy có nghĩa là chúng ta không thật lòng theo Chúa mà còn làm ngược lại với Ngài, vì chính Chúa khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Việc định đoạt cho mình chỗ đứng bên Chúa Kitô trong ngày phán xét tùy là thuộc vào thái độ sống hiện tại của mỗi người. Chúng ta được hưởng Nước Trời hay bị vào lửa đời đời chính là bởi chúng ta đã tiếp rước hay từ chối giúp đỡ Chúa Kitô hiện diện trong những người khốn cực, những người thân cận chung quanh mình.
Chúa Giêsu có một cách hiện diện khác ngoài cách hiện diện nơi các Bí tích được cử hành trong Phụng vụ Giáo hội, trong Lời Hằng Sống được giữ gìn, lưu truyền và giải thích bởi huấn quyền Giáo hội, mà còn ở nơi “một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây”, nghĩa là nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù… Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên lòng xót thương dành cho người bé nhỏ và nghèo khổ. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Nơi người nghèo, dễ bị tổn thương, chúng ta tìm thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng dù giàu có nhưng lại trở nên nghèo...trong sự yếu đuối của họ, một sức mạnh cứu độ hiện diện. Và nếu trong mắt thế gian họ chẳng có giá trị gì thì họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường lên thiên đàng. Họ là hộ chiếu đến thiên đàng của chúng ta…Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho ngày lễ trọng kính Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta là Vua vũ trụ, Đấng đã tự đồng hóa mình nơi những người bé nhỏ và nghèo khổ và là Đấng sẽ phán xử chúng ta bằng những việc làm của lòng xót thương” ((Bài giảng trong Thánh lễ cử hành Ngày Thế giới Người nghèo, Thành phố Vatican. Ngày 19 tháng 11 năm 2017). Trong sứ điệp cho Ngày Thế giới Người nghèo năm 2021, Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định: “Những ai không nhận ra người nghèo là phản bội giáo huấn của Chúa Giêsu và không thể là môn đệ của Chúa.”
Môn đệ của Chúa mở lòng mình ra để giúp đỡ những người cần giúp đỡ. Họ sống cuộc sống tập trung vào Chúa và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của người khác. Họ biết “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” nghĩa là họ yêu mến Ngài bằng tất cả mọi năng lực của con người đạo lý; để rồi tất cả mọi khía cạnh của tâm hồn, tình cảm, tư tưởng, ý chí, khát khao, đều được tình yêu này thấm nhập chi phối, trở thành động lực duy nhất của tất cả mọi hành động, của cả cuộc sống của họ. Chính điều này mới có thể làm cho tâm trí họ thấu hiểu và dẫn họ đến hành xử theo như Thánh Phaolô khuyên bảo: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật…cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13: 8-10). Yêu như chính mình là lật đổ rào cản ngăn cách tôi với bạn, lật đổ chủ nghĩa ích kỷ, là nguyên nhân của mọi chia rẽ. Người yêu thương theo cách này khao khát hạnh phúc của người lân cận như hạnh phúc của riêng mình và đóng góp vào hạnh phúc đó tùy theo sức lực của mình, như thể đó là hạnh phúc của chính mình. Đó là cách sống mà Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy sống, để được vào Vương quốc của Ngài, vì Vương quốc của Chúa là một vương quốc của tình yêu, như được nói trong bài đọc thứ nhất: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy…Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34: 11-12, 15-17).
Nơi trần gian, Chúa Giêsu đã biểu lộ một tình yêu vị tha, chân thật và đích thực. Ngài bị đánh đòn, chế nhạo, tra tấn và hành quyết để cứu độ chúng ta. Ngài chính là Vị Mục Tử Tốt Lành quan tâm đến đoàn chiên của mình và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đoàn chiên Ngài yêu mến. Đó chính là những gì Vị Vua Nhân Lành mong muốn chúng ta làm theo, chính là để chúng ta được dự phần vào Vương quyền của Ngài, là Vua Vũ trụ, khi muôn loài phải quy phục Ngài, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Thật vậy, Chúa Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài…Lúc muôn loài đã quy phục Chúa Kitô, thì chính Ngài, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Ngài; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15: 28).