Chỉ có Thiên Chúa là Đấng tối cao và là Cha duy nhất theo đúng nghĩa.
Khi nghe đọc đoạn Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay, nhiều người thấy khó hiểu. Bởi lẽ, sau TN31-A101
Khi nghe đọc đoạn Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay, nhiều người thấy khó hiểu. Bởi lẽ, sau khi nghe lời Chúa Giêsu: “Anh em đừng gọi ai dưới đất là thầy, là cha và là người chỉ đạo”, chúng ta vẫn tiếp tục gọi các linh mục là “cha”. Một số vị linh mục cũng cảm thấy lúng túng trong việc giải thích những lời giáo huấn này của Chúa. Vậy phải hiểu những lời này thế nào?
Thông thường trong cuộc sống, danh xưng nói nên chức vụ hay bổn phận của một người nào đó (cha, thày, giám đốc, hiệu trưởng…). Danh xưng cũng cho thấy mối tương quan giữa người gọi và người được gọi (ông, bà, chú bác, cô, dì…). Trong truyền thống Giáo Hội từ rất xa xưa, giáo dân gọi các linh mục là “cha”. Danh xưng này nói nên sự tôn trọng của người tín hữu đối với các linh mục như những người cha thiêng liêng, đồng thời cũng diễn tả sứ mạng mà các vị này đảm trách. Tuy vậy, danh xưng “cha” không quy hướng về chính bản thân của vị linh mục. Khái niệm này vừa nói lên thiên chức cao cả của linh mục, vừa nhắc nhở linh mục phải trở nên hình ảnh của Thiên Chúa là Cha theo đúng nghĩa, là Cha duy nhất và là Cha trên trời. Nói cách khác, trong cuộc sống và trong hoạt động mục vụ, linh mục phải phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là đấng vô hình, con người không thể tiếp xúc, nhưng qua sự thánh thiện của một linh mục, người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa và cảm nhận sự tốt lành của Ngài. Vì vậy, có tác giả đã gọi danh xưng “cha” của các linh mục là danh xưng mang tính “dấu chỉ”, hay danh xưng “bí tích”. Nếu hiểu như thế, thì người cha người mẹ cũng là những người phản ánh hình ảnh của Cha trên trời. Họ có bổn phận thay quyền Thiên Chúa để nuôi dưỡng, giáo dục những đứa trẻ mình sinh ra. Những danh xưng là “cha”, là “thày”, là “mẹ”, là “người chỉ đạo”, là “bề trên” không phải là một tước hiệu danh dự cho bằng bổn phận. Đó là những danh xưng mang quy hướng về Thiên Chúa, “Đấng là nguồn mạch mọi danh phận làm cha trên trời dưới đất” (Ep 3,14). Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh tới một chủ đề chính: Chỉ có Thiên Chúa là Đấng tối cao và là Cha duy nhất theo đúng nghĩa. Mọi người phải tuân phục lệnh truyền của Ngài mà đi theo con đường ngay thẳng. Nếu chú tâm tuân giữ lời dạy của Chúa, họ sẽ được hạnh phúc. Các tư tế và các ngôn sứ (trong thời Cựu ước) và các vị lãnh đạo (trong Giáo Hội hôm nay) phải lưu tâm đến việc tôn vinh Chúa, chứ không phải tôn vinh cá nhân mình. Những ai đi trệch đường sẽ chuốc lấy tai họa. Những ai hay vì nể mà vi phạm lề luật phải gánh chịu những tai ương. Giáo huấn này dựa trên uy quyền độc nhất của Thiên Chúa. Ngài là Cha duy nhất và là chủ lịch sử (Bài đọc I). Như thế, các tư tế, ngôn sứ và những người lãnh đạo không được che lấp hình ảnh Thiên Chúa bằng con người của mình. Mọi hoạt động phải giúp tín hữu quy hướng về Chúa, gặp gỡ Ngài để hưởng niềm vui và hạnh phúc. Thánh Phaolô, trong thư gửi giáo dân thành Thêxanôlica, đã nói về những nỗ lực của bản thân trong khi thi hành sứ vụ tông đồ. Ngài không muốn trở thành gánh nặng cho người khác. Hơn thế, ngài luôn đối xử hiền hòa dịu dàng như cha mẹ ấp ủ con thơ. Quả thật, đời sống của ngài đã phản ánh sự tốt lành của Thiên Chúa, Đấng là Cha của mọi người, luôn thể hiện tình thương mến vô bờ với người đau khổ bất hạnh. Chúa Giêsu đã khẳng định: chỉ có Chúa là Cha duy nhất và chỉ có bản thân Người (Đấng Kitô) là Thày dạy duy nhất. Người cũng lên án những người chỉ muốn làm cha mà không muốn phục vụ. Đó là những kinh sư và biệt phái. Họ muốn thay thế Thiên Chúa để nhận những lời tôn vinh của con người. Họ nói về Thiên Chúa, nhưng con người đầy tham vọng của họ đã che khuất hình ảnh của Chúa, nên người khác chỉ nhìn thấy họ mà chẳng thấy Chúa đâu. Lời kết luận của Chúa đã nói lên thân phận của những ai sống kiêu ngạo: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (c 12). Cuộc sống xung quanh chúng ta đã nhiều lần chứng minh điều đó. Khiêm tốn nhận ra mình còn nhiều thiếu sót, để từ đó, thành tâm sám hối. Đó chính là điều kiện cần thiết để chúng ta trở nên những người con của Thiên Chúa, Đấng là Cha duy nhất luôn yêu thương và gìn giữ chúng ta.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXI Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ TN31-A102
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXI Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: chỉ nhờ Chúa ban ơn, chúng ta mới có thể thờ phượng Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta tiến thẳng về Quê Trời, mà không bị vấp ngã trên đường.
Thiên Chúa là Cha yêu thương, có giận thì cũng chỉ giận trong giây lát, sửa phạt xong, lại cho hòa giải với Người. Ngay lúc sửa dạy, thì chúng ta chẳng vui thú gì, nhưng, nếu chúng ta để cho Người thanh luyện, thì chúng ta sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bài đọc một của giờ Kinh Sách, được trích từ sách Macabê quyển I, cho thấy: Thiên Chúa sửa phạt Dân của Người bằng cách để mặc cho vua Antiôkhô cướp phá Đền Thờ, vơ vét hết bạc, vàng, các vật dụng quý giá, lấy cả các kho tàng đã được cất giấu khiến: Tang tóc bao trùm khắp cõi Ítraen. Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Malakhi cũng có cùng tâm tình như thế khi cảnh báo cho Dân Chúa biết: Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta, thì Ta sẽ khiến các ngươi mắc tai họa, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai họa… Tất cả chúng ta chẳng có cùng một cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? Thế mà sao chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta?
Dân Chúa thường hay bất trung, phá hủy giao ước, nhưng, Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương, luôn kiên nhẫn chờ đợi con cái quay trở về, cho nên, vịnh gia qua Thánh Vịnh 130 của bài Đáp Ca hôm nay, đã bày tỏ tâm tình đơn sơ phó thác của đứa con thơ tìm nương ẩn nơi Thiên Chúa, bởi vì, ngoài Người ra, không có nơi nào khác để cho chúng ta nương tựa: Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa, Ítraen ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách, được trích từ Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vaticanô II cho thấy: Thiên Chúa là Đấng vĩ đại quyền năng, nắm giữ vương quyền, địa vị tối cao, vượt trên tất cả, vì thế, Hiến Chế khẳng định: Hòa bình trên trần gian chính là hình ảnh và kết quả của sự bình an xuất phát từ Chúa Cha, do Đức Kitô đem đến. Quả thế, chính Con Thiên Chúa nhập thể, Thủ Lãnh hòa bình, đã dùng thập giá mà hòa giải mọi người với Thiên Chúa, Người đã làm cho mọi người lại được hợp nhất trong một dân tộc, một thân thể duy nhất. Do đó, chúng ta không thể cậy dựa vào ai, hay thế lực nào khác, để xây dựng hòa bình, ngoài một mình Người, là Hoàng Tử Bình An.
Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúng ta chỉ có một Cha là Cha trên trời; chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô. Thật vậy, chúng ta chỉ có một Cha, chỉ có một Thầy. Điều này thánh Phaolô là người hiểu rõ hơn ai hết, cho nên, trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh nhân đã tạ ơn Chúa, vì các tín hữu Thêxalônica đã đón nhận lời các Tông Đồ rao giảng không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Cũng vậy, thánh nhân đã noi theo tình phụ tử của Thiên Chúa mà đối xử với các tín hữu: chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ, sẵn sàng hiến cho các tín hữu, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống mình nữa.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã trách các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy, bởi vì, họ nói mà không làm; còn Đức Giêsu thì làm trước khi nói: Ai muốn làm đầu thì hầu thiên hạ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã chấp nhận đi vào con đường nhập thể: tự hủy, hóa mình ra không: Thầy ở giữa anh em như một người tôi tớ. Đức Giêsu đã chấp nhận rời khỏi chỗ ngồi vinh dự của một vì Thiên Chúa, cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, như người đầy tớ rửa chân cho chủ mình. Đức Giêsu đến không phải được hầu hạ, nhưng, để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Do đó, ngoài Đức Kitô, không có vị thầy nào có thể dạy dỗ cho chúng ta, mà vả như có, thì người thầy ấy cũng phải theo sát và phải bắt chước để trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Chí Thánh trong khó nghèo và vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Tóm lại, chúng ta chỉ có một Cha là Cha trên trời, cho nên, chúng ta phải hiếu thảo với Người, mà muốn thờ phượng Người cho phải đạo, chúng ta phải cậy nhờ ân sủng của Người và tìm nương ẩn nơi Người: như con thơ trong lòng mẹ hiền. Chúng ta chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô, Người là đường, là sự thật, và là sự sống, cho nên, chúng ta phải theo sự hướng dẫn của Người, để chúng ta có thể tiến thẳng tới Quê Trời, mà không bị vấp ngã.
Có một so sánh vui như sau: Cả thế giới đều phải kiêng nể người Mỹ vì người Mỹ đã nói là TN31-A103
Có một so sánh vui như sau: Cả thế giới đều phải kiêng nể người Mỹ vì người Mỹ đã nói là làm. Nhưng người Mỹ lại sợ người Nhật vì người Nhật làm rồi mới nói. Người Nhật lại sợ Trung Quốc vì Trung Quốc không nói mà làm. Người Trung Quốc lại sợ Việt Nam vì Việt Nam nói một đằng làm một nẻo…
Dẫu rằng cha ông ta vẫn dạy con cháu rằng: “Nói chín thì nên làm mười. Nói mười làm chín kẻ cười người chê”. Thế nhưng, “nói nhiều, làm ít” đang là một căn bệnh khá phổ biến trong xã hội chúng ta. Từ quan lớn đến quan bé đều hứa nhiều mà làm chẳng bao nhiêu. Ngay trong gia đình cũng thiếu đi gương sáng khi lời nói không nhất quán với việc làm. Ngoài xã hội người ta dễ dàng thất tín, thất hứa khi cái lợi chẳng còn, thì người ta sẵn sàng “nói một đàng làm một nẻo” để tìm an toàn cho bản thân.
Tin mừng hôm nay, Chúa quở trách người Pha-ri-sêu nói mà không làm. Giữa lời nói và hành động thì luôn mâu thuẫn. Họ đọc kinh nhưng không có lòng mến Chúa mà chỉ để phô trương. Họ thích được chào hỏi nhưng lại thiếu lòng khiêm cung. Họ sống giả hình. Họ sống hai mặt. Họ hô hào làm việc nhân nghĩa nhưng bản thân thì chẳng buồn động ngón tay. Vì thế, Chúa Giê-su đã không ngần ngại vạch trần lối sống giả hình ấy. Người nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Người giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy”.
Xã hội hôm nay cũng có rất nhiều người mang dáng dấp của những người biệt phái. Cũng háo danh, cũng khoa trương. Làm ít nói nhiều, đôi khi chẳng làm nhưng vẫn thích kể công. Ở nơi này nơi kia ta vẫn thấy có người thích được làm ông này bà kia nhưng không để phục vụ cộng đoàn mà chỉ lấy tiếng khen ở đời. Có những cộng đoàn thích khoa trương bằng lễ hội linh đình nhưng lại bỏ rơi người nghèo, người bất hạnh. Có những người nói rất hay, lên kế hoạch rất giỏi nhưng chẳng bao giờ thực thi lời mình đã nói, đôi khi còn sống ngược lại những lời mình rao giảng. Có lẽ chúng ta cần phải lắng nghe lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nhắc nhở: “Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói”. và Đức Thánh Cha Phanxico cũng nói: “Mục tử tốt lành là người đến với những người bị loại bỏ hất hủi, là người có lòng thương xót và không xấu hổ khi đụng chạm đến các thân thể bị thương tích. Ngược lại, những người theo chủ nghĩa giáo sĩ trị thì luôn tìm cách tiếp cận với quyền lực hoặc là tiền bạc. Họ chỉ nghĩ đến việc leo lên nắm quyền cao hơn, nghĩ đến làm bạn với quyền lực và thỏa hiệp với mọi thứ hoặc nghĩ đến túi tiền của họ (bài giảng Thánh lễ 30/10 tại nhà nguyện thánh Marta).
Vâng, đời sống của người ky-tô cần phải thể hiện đức tin của mình qua hành động. Hành động bác ái yêu thương tha nhân. Hành động tìm vinh danh Chúa chứ không phải làm để lấy tiếng khen, tiếng thơm để đời. Hành động vì lòng mến Chúa và cứu rỗi các linh hồn chứ không đơn thuần là việc bác ái làm qua loa, chiếu lệ.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy Người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, “làm lớn” theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu thương.
Ước gì người ky-tô hữu chúng ta đang sống trong một xã hội có rất nhiều người nói một đàng làm một nẻo chúng ta hãy sống chứng nhân bằng hành động và lời nói luôn đi đôi với nhau. Xin cho niềm tin của chúng ta luôn được xây dựng bằng lòng mến nồng nàn, bằng đức tin kiên vững để nhờ đó chúng ta luôn tìm vinh danh Chúa trong từng lời nói việc làm của mình. Amen.
Bệnh khoe khoang lúc mào cũng có và thường biểu hiện nói hay mà không làm được. Theo phân TN31-A104
tích, nói mà không làm có ba trường hợp: Khoe khoang – Tự ái thiếu tự chủ – Chủ quan. Còn Chúa Giêsu đưa ra trường hợp của những người Pharisêu và biệt phái, hàng kì mục, việc họ nói mà không làm chủ ý để tố cáo người khác để tôn mình lên.
Khoe khoang:
Người khoe khoang thường hay phô trương thành tích của mình hoặc có khi chẳng phải của riêng mình lập được. Khoe khoang là một căn bệnh để thuyết phục người khác tin vào khả năng của mình; nhưng thực chất, người khác cũng biết rằng họ có tật hay khoe khoang chứ chẳng làm được việc gì. Chúa Giêsu cũng thấy ở nơi những người kinh sư và biệt phái có căn bệnh này, nên Thánh Phaolô cũng khuyên bảo: “Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Th 3,10-12).
Tự ái, thiếu tự chủ.
Tính bốc đồng hay trong lúc mất kiểm soát bản thân, người ta cũng thường lên tiếng dạy đời như mình đã từng trải hoặc vỗ ngực ta đây hứa hẹn nhiều việc, cuối cùng không làm gì được. Khoe khoang, vỗ ngực, một ngày nào đó người ta cũng nhận ra một điều “thùng rỗng kêu to”. Không biết lúc đó sẽ ra sao khi mọi người đều biết điều mình nói mà làm không tới đâu. Cẩn thận trong lời nói và lời hứa bao giờ cũng hơn. Đó là hành vi biết mình làm được gì và cố gắng làm được gì trong khả năng để tạo niềm tin tưởng nơi người khác. Chúa bảo: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? 17Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” (Mt 7, 16 – 17)
Chủ quan
Tính chủ quan đôi khi thiếu xem xét, cân nhắc khi bắt tay vào việc, để rồi không đi tới đâu. Người ta thường chê bai “đầu voi đuôi chuột” của những người làm ít nói nhiều hiệu quả không tới đâu. Chúa dạy bảo cần cân nhắc trước khi làm việc gì: “ “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc” (Lc 14, 28 – 29).
Lỗi người biệt phái.
Chất gánh nặng trên người khác, đó là hành vi xét nét người khác theo tiêu chuẩn của mình mà không quan tâm đến lề luật quan trọng: “Yêu thương như Chúa yêu thương”. Đôi khi lên án người khác để minh chứng mình vô tội hoặc vô can trong sự lỗi của người anh chị em. Trong đời sống cũng như trong lời cầu nguyện cũng thường hay như: “Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” (Lc 18, 11 – 12). So sánh hơn người khác về mặt này mặt kia, nói như ngày nay “dìm hàng” để tôn mình lên, một điều chẳng hay tý nào, nhất là trong môi trường kinh doanh là giết hại lẫn nhau, cuối cùng chẳng ai thắng mà chỉ thua.
Kết lại Chúa dạy hãy lấy yêu thương mà phục vụ lẫn nhau như chính Chúa đã yêu thương và phó mình vì tình yêu, “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” (Mt 23, 11 – 12).
Chú ốc sên đang bò mon men ở góc tường. Một bàn tay nhẹ đụng vào nó. Nó liền thu mình vào TN31-A105
Chú ốc sên đang bò mon men ở góc tường. Một bàn tay nhẹ đụng vào nó. Nó liền thu mình vào trong cái vỏ và đứng im, ai muốn bắt hay làm gì nó tùy ý. Trông nó có vẻ hoàn toàn bất lực. Nhưng khi không có gì đụng vào, nó lại bò tiếp. Vậy là, cái vỏ trên mình nó là cái phao ẩn nấp mỗi khi gặp nguy hiểm. Còn những người Pharisêu thì sao?
Đứng trước việc làm của nhóm Pharisêu, Chúa Giêsu nói cho dân chúng hay rằng “Các Kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Họ nói mà không làm. Họ bó gánh nặng mà chất lên vai người ta. Họ cốt làm mọi việc để thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, muốn được người ta chào hỏi và gọi là thầy (Mt 23,1-7). Thế ra, họ ẩn nấp trong cái ghế quyền lực. Vậy chiếc ghế ấy mang lại những gì cho họ? Nhìn vẻ bề ngoài, họ được hưởng sự sung sướng là ăn ngon mặc đẹp, được người khác kính trọng và muốn nói hay làm gì tùy ý. Nhưng bên trong là một sự giả hình. Bởi lẽ đó, Chúa Giêsu đã nói cho dân chúng nghe nhằm đánh thức trước thái độ việc làm của các Kinh sư và Pharisêu. Họ là những người khôn thật. Họ dùng cái khôn đó đem lại lợi ích cho chính họ và đặt mình làm trung tâm. Như vậy, cái khôn của họ là sự ích kỷ và chỉ vun vén cho mình mà thôi. Còn cái khôn của Chúa là sự “khôn ngoan”. Khôn ngoan trong yêu thương.
Yêu thương là thế nào? Có rất nhiều định nghĩa về yêu thương. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy một cái nhìn khác về yêu thương. Yêu thương mọi người là xem mọi người như chính mình. Đừng để cho ai gọi mình là thầy, là người lãnh đạo hay là cha. Chúng ta chỉ có một thầy, một cha, một người lãnh đạo là Thiên Chúa (Mt 23,8-10). Vậy trong cuộc sống, chúng ta gọi những người dạy mình học là thầy, là cô; những người cấp trên là tổ trưởng hay giám đốc; bề trên là Dì Tổng, Dì giáo hay các linh mục là cha thì sao? Chẳng lẽ bấy lâu nay chúng ta sống trái với lời Chúa. Không, điều Chúa muốn nói ở đây là cái bên trong của mỗi người. Những cách gọi như vậy là để tỏ lòng kính trọng và biết ơn những người đã giúp mình, được thể hiện qua sự giao tiếp ứng xử hằng ngày, nhằm tạo nên một xã hội có trật tự, chứ không phải dùng chức quyền để biến người khác thành nô lệ. Đối với những người có chức lớn, được người khác tôn trọng thì hãy tránh xa những hành động theo lối của các kinh sư và Pharisêu, mà khiêm tốn phục vụ anh em mình. Chớ tôn mình lên để rồi bị hạ xuống (Mt 23,12).
Có đàn ong đang hăng say làm tổ, cô ong chúa bay đến: – Các anh ơi, cho em làm với. – Chào cô công chúa, cô về đi, việc này để chúng tôi làm. – Không, tôi muốn giúp các anh một chút, vì trời đã sắp tối. Và tôi cũng là loài ong mà. – Vậy cám ơn cô công chúa nhiều lắm.
Rồi cô lao mình vào làm như những chú ong khác. Đó là loài ong, còn chúng ta thì sao?
Anh em nào phải người xa Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân Yêu nhau như thể tay chân Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng đánh thức chúng con và bảo vệ chúng con khi gặp sóng gió. Chúng con chỉ xin Chúa hãy tiếp tục gia tăng tình anh em nơi mỗi người chúng con. Amen.
Chiều nhá nhem. Bước chân lững thững đi về con hẻm nhỏ, ta mệt nhoài nhưng vẫn cố lết đi TN31-A106
Chiều nhá nhem. Bước chân lững thững đi về con hẻm nhỏ, ta mệt nhoài nhưng vẫn cố lết đi. Mùi thức ăn hấp dẫn từ mấy quán cơm bé tẹo lùa vào mũi, cái bụng đói meo réo gọi. Ta đã về đến nhà.
Suốt một ngày vất vả lao vào dòng đời để mưu sinh, thân xác ta mệt nhoài và tâm hồn ta dường như cũng không còn chỗ cho Chúa. Ta chỉ kịp thốt lên: “Lạy Chúa, con mệt quá!”
Thế nhưng, người tông đồ của Thầy Giêsu hăng say phục vụ với một niềm vui khôn tả, đó là được cùng Thầy Giêsu đến với muôn người. Tâm hồn hăng say, nhiệt huyết. Ở đâu cũng có chút tình gửi lại để nhớ để thương và để cầu nguyện với Chúa. Rồi một ngày, Thầy Giêsu lại sai ta đến với một vùng đất mới với những con người cần được yêu thương. Người tông đồ bịn rịn chia tay vùng đất thân quen, chia tay những tấm lòng đã một thời gắn bó. Ra đi để gửi trao yêu thương, gửi lại miền đất thân quen chút tình thương nhớ và quyết đem tình yêu đến những mảnh đời khác nữa. Để rồi, ngọn lửa yêu thương mà Thầy Giêsu đã thắp lên trong tâm hồn người tông đồ mãi bừng cháy. Lửa của Thầy cứ thế lan truyền, chiếu sáng và sưởi ấm bao tâm hồn còn đang lạnh lẽo, u sầu.
Sau một thời gian hăng say phục vụ, đến một ngày, Thầy mời gọi ta lui vào nơi hoang vắng, tìm một chốn để thầy trò tâm sự. Ngồi bên Thầy, ta nhìn ngắm khuôn mặt khả ái và đầy bao dung của Thầy. Giọng Thầy ấp áp và thu hút tâm hồn ta. Ở bên Thầy, ta hạnh phúc quá nên chẳng biết nói gì trong giây phút ấy. Thầy ân cần hỏi thăm: “Này con! Suốt thời gian qua con đã làm những gì?” Thế rồi, ta thao thao kể cho Thầy nghe những kỳ tích ta đạt được, những gì ta đã gầy dựng. Giọng ta hào hứng và pha lẫn với niềm tự hào. Thầy vẫn lắng nghe ta. Thầy không tỏ ra mất kiên nhẫn chút nào. Thầy lại hỏi thêm “Thế con có chuyện gì buồn muốn chia sẻ với Thầy không?” Chuyện vui thì nhiều mà chuyện buồn cũng không ít, đời tông đồ mà. Thế là, ta kể một chặp, có lúc giọng thủ thỉ, tỉ tê, có lúc giọt nước mắt chực rơi xuống, tiếng thút thít của một người đang rất xúc động. Thầy lắng nghe hết. Thật ra, từ lúc vào gặp Thầy, ta chẳng thể nào ở yên, muốn kể hết những điều đã xảy đến với ta cho Thầy nghe. Kể công hết rồi ta lại kể đến những chuyện buồn phải than thở. Bấy giờ, bỗng nhiên một câu hỏi cứ vang dội trong tâm hồn ta: “Trong bấy nhiêu điều con kể, đâu là tình yêu con đã cho đi?” Câu hỏi của Thầy khiến ta ngạc nhiên quá. Có phải Thầy vừa hỏi con về tình yêu không? Có phải đến lúc này Thầy mới thật sự lên tiếng? Nhìn lại những gì ta đã cống hiến, ta xấu hổ cúi mặt xuống. Dường như những gì ta làm cũng chỉ vì muốn được người khác công nhận, muốn khẳng định năng lực bản thân. Ta như người Pharisêu nghêu ngao luật Chúa cho thiên hạ thấy, dạy người ta phải sống thế này thế nọ. Có khi nào, ta đã lạc đường rồi chăng? Sáng ngày thức dậy, ta lại bắt đầu sứ vụ. Lòng ta không khỏi băn khoăn về tình yêu ta đã cho đi.
Đi qua xóm nhỏ, ta tình cờ bắt gặp một người mẹ đã tắm rửa cho đứa con bị tật nguyền. Chị múc nước và tắm cho đứa con. Nhìn cử chị đầy nhẹ nhàng, nâng niu và cẩn thận của chị, cách chị âu yếm nhìn con, ta tự hỏi lòng mình: “Phải chăng đây thật là tình yêu?”
Tâm hồn ta ghi lại hình ảnh đẹp đẽ ấy. Chiều về, lúc cầu nguyện, Lời Chúa nhắn nhủ ta “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” (Mt 23, 11-12). Ta để cho Lời thầy chất vấn ta về thái độ ta có khi phục vụ. Quả thật, có những khi ta đã đặt mình làm trung tâm, mọi việc ta làm bắt đầu có sự dính bén của thói tìm tiếng tăm. Nhiều khi ta cũng yêu đó nhưng tình yêu ta chẳng được tinh tuyền như lời Thầy dạy. Ta lặng nghe bên tai như có tiếng nước chảy. Đó là tiếng nước được đổ vào chiếc thau. Trước mắt ta là một căn phòng nhỏ, ấm cúng. Mười hai người học trò đang lần lượt được Thầy cúi xuống rửa chân cho. Thầy nâng niu từng bàn chân lấm bụi đường. Có những bước chân đã trung thành sát cánh bên Thầy, những bước chân vẫn đi trên con đường của riêng mình. Có kẻ rồi đây sẽ chối Thầy và cũng có nhiều kẻ nhát đảm bỏ chạy thoát thân, có kẻ đã bán Thầy để đổi lấy mấy đồng tiền lẻ. Thầy biết các môn đệ sẽ lầm đường, lạc lối, sẽ yếu đuối. Thầy vừa rửa chân cho họ với cử chỉ yêu thương nhất, dù người học trò không xứng đáng nhưng Thầy vẫn yêu. Ta như người khách lạ trong số các học trò của Thầy. Đang băn khoăn không biết mình có mặt ở đây để làm gì thì đột nhiên Thầy đã bưng chậu nước tiến lại và cúi xuống dưới chân ta. Ta bàng hoàng lùi lại nhưng Thầy nhìn ta đầy âu yếm. “Thầy ơi! Con đâu xứng được Thầy rửa chân.” Nói rồi ta bưng mặt khóc. “Thầy biết điều đó nhưng điều quan trọng là Thầy yêu con như con là, dù con dễ thương hay bất trị. Con phải được Thầy rửa để được chung phần với Thầy.” Giọng Thầy ấm áp và ân cần biết bao. Ta đã để Thầy rửa đôi chân ta, rửa cả tâm hồn ta để nhờ sức mạnh của Thầy, con sẽ tiến bước với một tình yêu mới được đong đầy trong một quả tim mới, một quả tim bằng thịt biết yêu thương.
Lạy Chúa! Làm người phục vụ không khó nhưng để trở thành người tông đồ của Chúa mang trong mình tinh thần phục vụ của Chúa Kitô thì tự sức con, con không thể làm được. Chỉ trong Chúa, con mới có thể học biết và yêu mến con đường phục vụ của Thầy: phục vụ vì yêu thương, và hiến mình bằng một tình yêu cho đi đến cùng. Xin Chúa dạy con kiên nhẫn theo sát dấu chân Thầy để con không lạc lối. Xin tình yêu Chúa là sức mạnh thúc đẩy con mỗi ngày dấn thân trên cánh đồng sứ vụ. Amen.
Ngày 19/05/1997 ông Kofi Anan, tổng thư ký Liên hiệp quốc lúc bấy giờ, đã gửi đi một bản cáo TN31-A107
Ngày 19/05/1997 ông Kofi Anan, tổng thư ký Liên hiệp quốc lúc bấy giờ, đã gửi đi một bản cáo phó đến các quốc gia thành viên của tổ chức với nội dung ‘Một người giàu quyền lực nhất thế giới vừa mới vĩnh viễn ra đi rời bỏ chúng ta’. Nhưng người giàu quyền lực đó là ai? Thưa, đó chỉ là một phụ nữ nhỏ bé, yếu ớt, đã 87 tuổi đời, và gia sản chẳng có một xu dính túi. Người giàu quyền lực ấy cho dầu đã phải ngửa tay xin từng chiếc giường cũ của những người nhà giàu, để giúp những thân phận sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ, nhưng đã được cả thế giới nể trọng. Người phụ nữ giầu quyền lực ấy chính là Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta.
Mẹ thánh được mọi người mến phục không bằng sức mạnh của vũ khí hay bom đạn, cũng không phải bằng đô-la hay dầu hỏa. Sự cuốn hút và uy tín Mẹ tạo ra chỉ với một phương thế duy nhất, đó là trải rộng tình yêu thương cho đến vô tận, ngang qua lối sống khiêm tốn và phục vụ.
Khiêm tốn để phục vụ chính là sứ điệp nòng cốt Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. “Trong anh em, ai làm lớn hơn cả, phải trở nên tôi tớ phục vụ mọi người. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23,12).
Gương mù nơi các vị lãnh đạo tôn giáo
Giáo huấn Chúa Giêsu nói tới hôm nay trước hết nhằm đả kích thái độ tự tôn và trịch thượng nơi các đầu mục Do Thái giáo thời bấy giờ. Họ là những kinh sư và nhóm biệt phái, những bậc ‘phụ mẫu chi dân’ nắm trọn quyền hành trong sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu bắn thẳng vào lối sống giả hình của họ, những con người bề ngoài cứ hay lên mặt dạy đời, nhưng trong tâm hồn thì hoàn toàn rỗng tuếch. Trong bài đọc 1, tiên tri Malaki cũng nặng lời khiển trách các tư tế với những lời lẽ răn đe khá cứng cỏi : “Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh ta, ta sẽ khiến các ngươi mắc tai họa. Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên con đường luật dạy’ (Mal 1, 4-8). Cũng vậy trong bài Tin Mừng, Chúa không những kết án sự kiêu căng nơi các lãnh đạo tôn giáo, nhưng còn khuyên bảo dân chúng rằng ‘Những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, nhưng những việc họ làm thì đừng có khuôn rập theo, vì họ nói mà không làm’ (Mt 23,3).
Chúa kết án sự giả dối
Sự giả dối nơi các đầu mục Do Thái giáo là điều Chúa kinh tởm nhất. Họ đánh lừa được người khác với dáng vẻ đạo đức oai phong bề ngoài, như đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài (c 5), nhưng không thể nào đánh lừa nổi Thiên Chúa, là Đấng thấu biết mọi sự ẩn kín bên trong tâm hồn. Những người biệt phái thời xưa xét bề ngoài không thể chê trách. Họ ăn chay tự nguyện còn hơn những gì đòi buộc. Họ đóng góp vào hội đường và đền thờ rất nhiều bằng những đồng tiền dư thừa của họ, và gom tất cả những việc ấy lại như một cuốn sổ chấm công để khoe khoang. “Lạy Chúa, con không như bao người khác: Trộm cắp, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con (Lc 18,11-12). Chúa đã vạch mặt sự giả dối nơi họ và nói một cách thẳng thừng : ‘Họ giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì sơn phết, nhưng bên trong đầy những thối tha”. Nhiều khi trong lối sống hằng ngày, chúng ta cũng rơi vào sự giả dối và chuộng hình thức giống như thế. Chúng ta vẫn thường tổ chức các buổi lễ rất hoành tráng bề ngoài với những cuộc rước sách linh đình, nào kèn nào trống, nào cờ xí bay rập trời.., nhưng trong nội bộ lại có nhiều hiềm khích, chia sẻ hoặc nghi kỵ lẫn nhau. Tình trạng này khá phổ biến nơi các giáo xứ tại Việt Nam, và chúng ta cần phải nhìn lại cách sống đạo mà Chúa nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay. Một vị Giám mục bên Hoa Kỳ đã nhận xét : “Người Việt Nam rất thông minh và giỏi giang. Họ làm việc cá nhân rất hiệu quả, nhưng khi làm việc chung lại hay chia bè chia phái vì ai cũng muốn cho mình là nhất”. Lời nhận xét đó cũng tương hợp với những lời kết án Chúa nói hôm nay khi nhắm vào các đầu mục tôn giáo thời xưa.
Chúa kết án sự kiêu ngạo và hay khoe khoang
Tội mà Chúa ghét nhất, đó là sự kiêu ngạo. “Họ ưa ngồi chỗ nhất trong hội đường, thích được chào bái nơi đường phố” (c, 6,7). Kiêu ngạo là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, khiến con người đánh mất đặc phúc ban đầu và phải nếm trải sự chết. Kiêu ngạo là đưa cái tôi to đùng của mình làm chuẩn mẫu để đánh giá người khác, mà quên mất điều Chúa đã nói : ‘Không có Ta, chúng con không làm được gì”. Kiêu ngạo khiến chúng ta chỉ nhìn thấy cái rác nơi mắt cận nhân mà không thấy được cái đà to đùng nơi con mắt của mình. Con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ và chỉ khi chúng ta xuôi tay nhắm mắt nằm xuống, cái tôi đó mới biến mất hoàn toàn. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở tất cả mọi người, đặc biệt các ‘đấng các bậc’ trong Hội thánh để chúng ta luôn biết thực hành sự khiếm tốn. “Ai trong các ngươi làm lớn, phải làm đầy tớ phục vụ mọi người. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c, 11.12).
Tại kỳ họp Thượng Hội đồng Giám mục Á Châu năm 1992 tại Philippines, vài Giám mục Việt Nam đã rất ngạc nhiên và phần nào bị sốc khi được phân về các tổ để thảo luận. Vị tổ trưởng không phải là một Giám mục hay một linh mục, nhưng chỉ là một gíao dân bình thường, song có chuyên môn và kinh nghiệm dày dạn. Điều này xem ra hơi đặc biệt. Một giáo dân đứng ra làm tổ trưởng, còn các tổ viên lại là các Giám mục hay các linh mục. Đối với não trạng ‘giáo sỹ trị’ (clericalism) rất phổ biến tại Việt Nam, chúng ta thấy rất khó chấp nhận, nhưng điều đó lại rất bình thường trong các xã hội ở Tây Phương. Tại nhiều đại học, giáo sư đứng lớp chỉ là một giáo dân thậm chí là một nữ gỉang viên, còn sinh viên ngồi phía dưới để thụ giáo không thiếu gì các linh mục hay tu sĩ.
Kết luận
Thời xưa ở chợ Bến Thành Sài Gòn, có một người phong hủi đi ăn xin. Anh này rất dữ tợn. Không vừa ý ai là anh ta nhào tới để cắn. Bảo vệ cũng chịu thua. Riết dần ai cũng sợ và không dám đến gần. Thấy vậy cảnh sát khu vực báo cho trạm da liễu gần đó. Nhận được tin, có một phụ nữ đến tận nơi và nhận ra anh hành khất là một trại viên thuộc trại phong Bến Sắn. Người đàn bà nhẹ nhàng đến nắm tay anh ta và nói nhỏ nhẹ “Ôi, sao con lại ở đây, thôi lên xe về với dì đi con”. Người thanh niên xưa nay vốn hung hãn bỗng trở nên hiền lành như một chú chiên non. Anh ta ngoan ngoãn làm theo những gì người phụ nữ truyền khiến. Mọi người thấy vậy bảo nhau “Người đàn bà ấy là ai mà lại khuất phục được trái tim của một tên côn đồ hung hãn đến như vậy ?”. Thưa, đó là nữ tu Phạm Thị Ngọc Loan, người đàn bà được các trại viên rất quý mến và gọi bằng cái tên rất thân thương ‘Dì Hai Bến Sắn’. Người phụ nữ yếu ớt này đã biến cả những trái tim sỏi đá nhờ vào một chiêu thức duy nhất, đó là yêu thương trong khiêm tốn và phục vụ. Chúng ta nhớ lại lời giáo huấn của thánh Phaolô : ‘Anh em hãy mặc lấy đức khiêm nhu, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho những ai sống khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa để Người cất nhắc anh em khi tới thời Người viếng thăm’ (1 P 5, 5-6).
Các thầy thông luật ngồi trên, Có quyền dậy dỗ, khuyên nên nghe lời. Hãy làm, tuân giữ lời TN31-A108
Các thầy thông luật ngồi trên, Có quyền dậy dỗ, khuyên nên nghe lời. Hãy làm, tuân giữ lời mời, Đừng theo tật xấu, có nơi các thầy. Không làm mà nói rất hay, Chất vai gánh nặng, đắng cay muộn phiền. Phô trương công đức triền miên, Thẻ kinh nới rộng, may viền khoe khoang. Dành phần chỗ nhất huênh hoang. Bái chào nơi phố, huy hoàng giả danh. Xưng hô kính trọng đã dành, Giả hình rỗng tuếch, thực hành thì không. Danh ‘thầy’ thích gọi đám đông, Anh em chung sống, mặn nồng có nhau. Một Thầy chỉ đạo trước sau, Giê-su chí ái, hãy mau phụng thờ. Ai người quyền thế bây giờ, Là người phục vụ, cậy nhờ đỡ nâng. Khiêm nhu tự hạ xin vâng, Tập tành nhân đức, phó dâng đổi đời.
Chúa Giêsu đã vạch trần sự giả hình của những người Biệt Phái. Nhóm người Biệt Phái được coi như những bậc thầy trong tôn giáo. Họ thay mặt Chúa lãnh đạo, hướng dẫn và dạy bảo dân chúng. Họ đặt ra nhiều thứ luật lệ và chất gánh nặng lên vai người khác. Họ nói mà không làm và chỉ dạy mà không giữ. Lời nói của họ không đi đôi với việc làm.
Chúng ta cảm thấy Lời Chúa như đang nói với chính chúng ta. Biết rằng vì bản tính yếu đuối, chúng ta thấy có sự cách biệt không ít giữa lý tưởng và cuộc sống thực tế. Giữa lời giảng dạy, khuyên bảo và cuộc sống thực còn cách xa. Sự cách biệt này đươc gọi là giả hình. Mỗi người chúng ta đều sống giả hình trong mức độ nào đó. Thánh Phaolô nói rằng sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ, tôi không muốn, tôi lại làm.
Không ai trong chúng ta có thể tự nhiên là người hoàn hảo. Bản tính yếu đuối lầm lạc chính là cơ hội giúp chúng ta vươn lên. Điều Chúa trách cứ không phải là sự yếu đuối, nhưng là thái độ cố chấp và mù quáng. Cố tình từ chối tình trạng bất toàn của mình để sửa đổi.
Đôi khi chúng ta nghe rằng có vài người rời bỏ Giáo Hội, cộng đoàn hay nhóm hội. Họ nghĩ rằng các giám mục, linh mục đã không thực hành điều họ dạy. Điều này có phần đúng. Những việc giữ đạo và sống đạo cần thiết giúp chúng ta nên hoàn thiện mỗi ngày. Chúng ta cũng biết rằng là con người, trong chức vụ nào cũng thế, cần phải cố gắng không ngừng để hoàn thiện chính mình. Lời khuyên sống đạo vẫn có giá trị cho cuộc sống mỗi người. Các giám mục , linh mục là dụng cụ Chúa dùng. Họ cũng có những yếu đuối cần khắc phục. Không ai quá xấu như chúng ta tưởng.
Chỉ có Chúa là thầy dạy hoàn hảo. Còn tất cả chúng ta là anh em với nhau. Chúng ta cần có nhau để sống bác ái trong tình người. Qua các ơn gọi, Chúa trao cho mỗi người một trách nhiệm. Sự hiện diện của Chúa qua các bề trên như giám mục, linh mục, cha mẹ, thầy cô, những người lãnh đạo… Chúng ta cùng thông cảm với những yếu đuối của họ. Họ cũng là những con người bất toàn như chúng ta. Đây là những con người cần được chữa lành, soi sáng và nâng đỡ.
Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXI/TN-A – Mt 23, 1-12) trình thuật Lời Đức Ki-tô lên án “Các TN31-A109
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXI/TN-A – Mt 23, 1-12) trình thuật Lời Đức Ki-tô lên án “Các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình”. Cứ tưởng thời Đức Giê-su mới có đám kinh sư, tư tế Pha-ri-sêu giả hình, bị Người lên tiếng khiển trách; thực không ngờ đám người này đã có từ thời Cưu Ước (“ĐỨC CHÚA các đạo binh phán với các ngươi là những tư tế khinh thường danh Ta…” – Ml 1, 6; “Nhưng các ngươi, các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã huỷ hoại giao ước với Lê-vi. – Đức Chúa các đạo binh phán: Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì khi áp dụng luật.” – Ml 2, 8). Cho đến thời đại ngày nay thì đám người giả hình không còn giới hạn vào một giai cấp nào nữa, mà nhan nhản khắp nơi. Vì thế, nên mới có câu nói: “Ngày nay những người Pha-ri-sêu không còn, nhưng lối sống Pha-ri-sêu thì lại đầy rẫy.”
Giả hình ư? Kẻ viết bài này vẫn chưa quên câu chuyện một quan đầu ngành giáo dục Việt Nam cho biết ở VN (thời điểm 2.011) có hơn 8.000 bằng tiến sĩ, thì có tới 5.500 bằng giả (phải nói là bằng thật, nhưng chất lượng dỏm mới đúng, vì đây là những bằng cấp có chữ ký và con dấu của người có chức có quyền thực sự, nhưng do chạy chọt, mua bán mà có, chớ chẳng học hành, thi cử gì cả). Ấy là chưa kể 2.500 bằng kia (8.000 – 5.500 = 2.500) thì nó “thật” tới cỡ nào? “Thật” tới cỡ “học sinh học lớp 6 mà vẫn chưa biết đọc, biết viết; học tới lớp 12 mà bài toán 4 chia cho 2 (4:2) không biết được mấy lần!!!” chăng? Tới năm nay (2.017) thì con số bằng tiến sĩ đã lên tới 30.000 bằng, vậy thì số bằng giả là bao nhiêu? Ôi chao! Nói đến chạy chọt, mua bán là nói đến tham nhũng, mà tham nhũng ở VN hiện nay đã là quốc nạn, khó mà bài trừ. Không những đại gia tham nhũng là những người cầm cân nảy mực cỡ bự không với tới được, mà còn có chuyện muốn thoát khỏi tội tham nhũng (còn được khen thưởng thanh liêm nữa là khác) thì phải biết hối lộ những quan đầu ngành chống tham nhũng. Mà những quan tham cỡ bự thì lại thường hay có cái miệng lớn tiếng hô hào chống tham nhũng mạnh hơn ai hết. Hệt những anh chàng sợ ma lúc nào cũng vỗ ngực xưng mình là không sợ ma, nhưng gặp cảnh trớ trêu thì cắm đầu chạy vắt giò lên cổ ngay! Muốn tham nhũng thì cách hay nhất (chắc ăn như bắp) là khoác lên người bộ áo “chống tham nhũng”. Thế đấy!
Mặc áo “chống tham nhũng” để tham nhũng ư? Vâng, quả thực “cái áo không làm nên thầy tu”. Mà kể cả những thầy tu chính hiệu con nai vàng (danh chính ngôn thuận mặc “áo thầy tu” đàng hoàng) cũng chưa chắc đã là thầy tu với phẩm chất đích thực của người tu hành (chân tu). Cái vẻ bề ngoài nhiều khi phản ảnh trung thực cái cốt bên trong, nhưng cũng chẳng thiếu cái vẻ bề ngoài trái ngược với cái cốt bên trong. Hiện tượng phản ánh bản chất, nhưng nhiều khi hiện tượng lại đối kháng với bản chất, cũng là lẽ thường tình. Nhìn chung, những loại trái cây (như cam, quít…) khi chưa chín thì vỏ màu xanh, khi chín thì vỏ đổi thành màu vàng hoặc đỏ. Nhưng ngày nay có những loại cam chín rồi, ăn được rồi, mà vỏ vẫn màu xanh, hoặc như dưa hấu khi còn xanh hay lúc đã chín vỏ vẫn màu xanh, nhưng ruột thì có khác (còn xanh thì ruột màu trắng, khi chín thì ruột màu đỏ).
Với những loại trái cây ấy, nếu không thực nghịêm bằng cách bổ ra, thì không phân định được trái đã chín hay còn xanh, mà nếu ai đi mua trái cây cũng đòi bổ ra thì người bán… “bó tay chấm.com”! Cũng có thể dùng tay vỗ vào vỏ hoặc quan sát kỹ cuống trái cây, nhưng đó lại phải là người từng trải, có kinh nghiệm mới biết được. Trái cây mà còn như vậy, huống chi là con người. “Xanh vỏ đỏ lòng” là vậy đó; chẳng khác chi những chuyện ngụ ngôn: “Cái thùng không” (thùng rỗng kêu to), “bông lúa lép”, “tốt mã giẻ cùi”, hoặc những câu ca dao tục ngữ VN: “Giẻ cùi tốt mã dài lông, Bên ngoài hào nhoáng bên trong ra gì!”, “Trông em anh ngỡ sao mai, Biết rằng trong có như ngoài hay không?”, “Thoạt trông ngỡ tượng tô vàng, Nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa”.
Nói như thế để thấy được “cái áo không làm nên thầy tu”, nhưng thầy tu giả thì lại rất cần có cái áo đó. Thật giả khôn phân, trắng đen khó lường! Đời mà! Giả hình ư? Quái! Sao chẳng thấy ai ham trở thành những kẻ nghèo nàn, hèn mọn trong xã hội, mà chỉ toàn thấy mê những thầy tu, bàc sĩ, kỹ sư, giám đốc hoặc những đại gia giàu sụ… mà thôi. Hoá cho nên cũng chẳng lạ lùng gì khi thấy những kinh sư, ngôn sứ giả hình “họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23, 5-7). Và vì thế, nên “tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” Tại sao lại thế? Ấy cũng bởi vì “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Làm cho ra vẻ ta đây, để mọi người nhìn thấy, chớ không phải làm cho công việc đạt hiệu quả tốt.
Chính điều này đã nói lên những cao vọng của con người thường đưa đến tội đầu tiên trong 7 mối tội đầu: Kiêu ngạo. Vì thế nên ngay sau khi lên án bọn kinh sư Pha-ri-sêu giả hình, Đức Ki-tô dạy các môn đệ phải biết sống khiêm nhường (Mt 23, 8-12). Thời nay, chỉ toàn thấy những cao nhân mồm loa mép giải hô hào thiên hạ sống khiêm nhường, còn bản thân mình thì… hãy đợi đấy! Hô hào thiên hạ thì cao giọng lắm, nhưng chỉ cần thấy ai bằng mình thôi (chớ đừng nói là hơn) đã vội vàng dèm pha, đố kỵ, cố hạ bệ cho bằng được. Kẻ viết bài này vì làm trong Ban Phục vụ Huynh đoàn Đa minh Giáo phận Saigon (trước đây gọi là Huấn đức, nay gọi là Phụ trách Học tập), được tham dự nhiều cuộc bầu cử tại các Huynh đoàn, nên không ít lần được nghe kể (thậm chí còn được “thực mục sở thị” nữa) về những Pha-ri-sêu-thời-đại.
Ở một Huynh đoàn nọ, vị Đoàn trưởng đã ngoại bát tuần (83 tuổi rồi), làm Đoàn trưởng qua 3 nhiệm kỳ, nay lại muốn làm thêm nhiệm kỳ nữa (trong khi đó Luật Sống Huynh đoàn lai quy định một đoàn viên chỉ được làm Đoàn trưởng tối đa là 2 nhiệm kỳ, nếu muốn làm thêm thì cũng chỉ được xin lưu nhiêm thêm một nhiệm kỳ nữa mà thôi). Khổ một nỗi, cha chính xứ (là linh hướng của Huynh đoàn ấy) lại dạy thế này: “Ông ấy đang làm Phó trương là đang làm quan, phải để ông ấy làm Đoàn trưởng, chứ không thể xuống làm ‘lính’ được. Tôi đã yêu cầu cha Đặc trách Huynh đoàn Giáo phận Saigon cho ông ấy được lưu nhiệm.” Như vậy cũng có nghĩa làm Đoàn trưởng là “làm quan”, cón tất cả chỉ là đơ-dem-cùi-bắp (deuxième classe = binh nhì = lính bét) hết trơn! Chính ngay Cha Đặc trách Huynh đoàn Giáo phận cũng ngán ngẩm lắc đầu, le lưỡi: “Tôi dù biết rõ là sai luật (lưu nhiệm đến 4 nhiệm kỳ) nhưng cha chính xứ đã can thiệp thì tôi cũng đành bó tay!” Ô hô! Ai tai!
Đến như Cha Đặc trách còn bó tay thì Ban phục vụ Huynh đoàn Giáo phận là cái thá gì mà không ”botay.chấm.com”. Thật hết biết! Chẳng hiểu là do vô tình (hay cố ý?) mà đã quên đi Lời dạy của Đức Ki-tô: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo (làm “quan” đấy!), vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” (Mt 23, 8-12). Ôi chao! Vẫn nghĩ cái bả vinh hoa quyền thế ngoài xã hội có một ma lực hấp dẫn con người đến mê mẩn; dè đâu trong một tôn giáo, mà vẫn còn quan niệm ”lính và quan” như thế! Dù sao thì cũng vẫn chỉ là “C’est la vie!” Đời mà! Đến như Đức Giê-su Thiên Chúa còn bị ma quỷ đem cái bả vinh hoa quyền thế ra cám dỗ (Mt 4, 1-11), huống chi loài người!
Với câu chuyện “lính và quan” nêu trên, kẻ hèn này không kềm được tính nói thẳng, đã viết một bức thư tâm huyết gửi ban Phục vụ Huynh đoàn ấy, trong đó có đoạn: “Đề nghị quý Ban Phục vụ phải bỏ ngay quan niệm “lính và quan”. Ngay ở thời phong kiến, đã có câu tục ngữ: “quan nhất thời, dân vạn đai” (làm quan chỉ có một thời, còn làm dân thì muôn đời) và Đức Vạn thế sư biểu (“Thầy dạy muôn đời” Khổng Tử) cũng dạy: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi” (Dân là quý nhất, vua thì nhẹ hơn, rồi thứ đến mới là quốc gia). Chúng ta làm trong ban Phục vụ, thì phải luôn tâm niệm trong ý thức quan điểm chủ đạo của Ki-tô Giáo, đặc biệt là trong Dòng Đa Minh (có một vị Tổ phụ đã từng bán cả gia tài của mình là bộ sách Chú giải Tin Mừng để lấy tiền cứu đói người nghèo khổ, ngài tuyên bố: “Tôi không thể sống trên những tấm da chết đang khi những người ở chung quanh tôi chết đói”. Trước khi về cõi vĩnh hằng, Cha thánh còn trối trăng: “Anh em yêu dấu, gia sản cha để lại cho anh em là: Hãy sống bác ái, khiêm tốn và khó nghèo tự nguyện”).
Xin thưa với quý ban Phục vụ về ý nghĩa của chữ “phục vụ“: Theo từ nguyên thì “phục vụ“ (服務) là quỳ xuống làm việc (“phục” là phủ phục, là quỳ xuống, cúi xuống, nằm phục; “vụ” là công việc), như xưa Đức Giê-su, Người là Thiên Chúa, là Vua Vũ trụ, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Chính Người đã dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” (Mt 23, 8-12); “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20, 28); “Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.” (Lc 22, 26). Mong rằng quý ban Phục vụ hiểu cho nỗi khổ tâm của tôi khi phải đề cập đến vấn đề này.”
Cuối cùng, trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, người Ki-tô hữu nên hiểu rằng: Phẩm giá con người không ở nơi quyền cao chức trọng với mũ áo hào nhoáng, xe cộ xênh xang, nhà cửa hoành tráng, tiền của dư đầy. Tất cả những thứ đó chỉ là cái vỏ bên ngoài, hư ảo, chóng qua. Giá trị đích thực của con người là ở nơi “tính vốn lành” (người mới sinh tính vốn lành – “Nhân chi sơ, tính bản thiện” – Nho giáo), là ở nơi “lương tâm” (lòng lành) như “Giáo lý Hội Thánh Công Giáo” (điều 1776) khẳng định: “Tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người… Quả thật con người có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá con người… lương tâm là tâm điểm sâu lắng nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ (GS 16)”.
Vấn đề đặt ra là phải biết mỗi con người sinh ra đều giống với hình ảnh Thiên Chúa. Với Ki-tô hữu thì còn hơn thế, vì còn được mang danh hiệu của Thiên Chúa và còn được nhận làm bạn Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa (Ki-tô hữu). Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa đã đóng ấn trên mỗi con người Ki-tô hữu, được tham dự vào ngôi vị “Vương giả – Tư tế – Ngôn sứ” tức là đã được cùng làm vua với Vua Vũ Trụ; như vậy thì còn ham tranh bá đồ vương với những chức “quan” như thế làm chi? Không tranh quyền đoạt lợi bằng ngón võ ”giả hình”, mà hãy sống đúng vị trí, giá trị của người giáo dân. Ðiều cần thiết là khi thi hành sứ vụ tông đồ, người Ki-tô hữu phải theo chỉ thị của Chúa đã ban trong bài Tin Mừng hôm nay. Cần phải hạ mình xuống, không được tìm vinh dự cho mình, nhưng phải lưu tâm làm vinh danh Thiên Chúa. Không được đưa mình lên trên người khác, nhưng phải trở nên tôi tớ phục vụ mọi người. Ước được như vậy. Amen.
Lòng con chẳng dám tự cao…. Thưa quý vị, thưa các bạn, theo con biết chắc có lẽ thánh nữ Teresa TN31-A110
“Lòng con chẳng dám tự cao. Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi ! Vì chỉ duy một mình Chúa mà thôi Chúa chính là Đấng hồn tôi tôn thờ ” .
Vâng, đó là Lời Thánh Vịnh 130 . 1, 2 ,3
Thưa quý vị, thưa các bạn, theo con biết chắc có lẽ thánh nữ Teresa Hài Đồng Giêsu, đã cảm nghiệm sâu sắc và thấm đẫm lời Thánh Vịnh nầy. Và, như vậy chị nên thánh cũng nhờ câu Thánh Vịnh nầy chăng!? Vì, “ Tôi cố giữ tâm hồn. Không xao xuyến bồn chồn. Khác chi một đứa bé. Ngồi trong lòng mẹ luôn. Đứa bé sống làm sao. Hồn tôi cũng như vậy. Bây giờ và cho đến đời đời. Hồn tôi trông cậy chỉ duy một mình Chúa. ” ( Tv 130 , 2-3)
Vâng, vì Lời của Thánh Vịnh 130, quả thật nhẹ nhàng và thanh thoát như vậy, nên thánh nữ Teresa Hài Đồng thật nhẹ nhàng, bay bổng, để chị có thể trở thành một vị thánh “ NHỎ ” như vậy trong lòng Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 130 là đoạn Thánh Vịnh ngắn nhất, nhưng nói về sự khiêm nhường cách đầy đủ nhất.
Vâng, tất cả mọi hình thức đều qua đi, nghĩa là đều giả trá, chỉ duy có một mình Thiên Chúa mới tựa “ núi đá” vững bền cho chúng ta tựa nương.
Tin Mừng hôm nay, ( Mt 23, 1 -12) Chúa Giêsu cho chúng ta chân lý đó.
Theo đó, Lời Chúa hôm nay có thể có hai ý chính:
Thứ nhất : Chúa Giêsu lên án những người biệt phái Phariseu ( câu 2 – 7) Thứ hai : Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng theo cách giả hình của họ. ( câu 8 -12) Chúng ta thấy , phần thứ nhất và phần thứ hai “tương phản” nhau rõ rệt, phần thứ nhất, Chúa Giêsu chỉ rõ những hành vi “tự đắc” của những “ráp-bi” Dothai, họ thích khoe khoang, và mang tính cao ngạo, đức tính nầy hình như không chỉ riêng những” ráp -bi” Dothai, mà dường như là nhân tính phàm nhân khi hấp thụ một “dạo đức” xã hội. Từ đó, chúng ta thấy con người nhân thế khi có của, có tiền, có địa vị xã hội, hoặc học thức thường xem thường đồng loại của mình.
Chẳng thế mà trong nhiều xã hội , sau Công Nguyên trở đi, thường phân biệt giai cấp, từ đó, nạn cộng sản nổi lên, đầu tiên ở Nga. Người ta muốn đánh đổ Sa Hoàng, tức Nga Hoàng, là triều đại phong kiến của Nước Nga, rồi từ Châu Âu. Sau đó lan sang các nước Châu Á, rồi đến việt Nam. Tình trạng nầy, trước năm 1945, tại Việt Nam không phải không có, tâm tính của người giàu có , quan lại Bắc Việt phong kiến, cùng với sự lạc hậu của Đất Nước chưa phát triển, người nghèo, giới lao động, người làm thuê, thợ thuyền, nhất là ở vùng nông thôn Bắc Việt, giới chủ cả cộng với giới quan lại cũng tạo nên cho người nông thôn Bắc Việt một thời gian cơ cực thật khắc nghiệt.
Từ đó, cộng sản xuất hiện dưới vỏ bọc là “cách mạng” , là “ giải phóng” khỏi nô dịch áp bức. Nhưng , thực chất chín năm sau, 1954, một số lượng lớn gần hai triệu đồng bào Bắc Việt phải dư cư, tìm đường sống nơi Miền Nam.
Đọc lại lích sử Miền Bắc, chúng ta thấy “nhân tính” nơi những người có tiền, có quyền đều có tính “tự cao”, “tự đại”, cá tính người Miền Bắc Việt Nam, nếu không có Đức Tin Công giáo, thì thường là “kẻ cả” chứ chẳng chơi.
Vâng, chúng ta thấy, Lời Chúa Giêsu không phải chỉ lên án những thái độ, hành động, cử chỉ, tâm tính của người Pharisieu, mà còn là “LỜI HẰNG SỐNG” , bởi vì Lời Chúa không bị giới hạn theo không gian và thời gian, mà là LỜI CHÂN LÝ.
Tâm tính “pharisieu” không chỉ ở những người Biệt Phái, mà là ở con người nhân thế mọi thời đại. Kể cả người nghèo và người giàu, người lao động bình dân hay tri thức. Trong cá tính con người đều có tính “Biệt phái”, dù là Quốc Gia nào, dân tộc nào, chúng ta đừng tường chỉ có dân tộc Dothai. Ngay cả người Kitô Hữu ngày nay vẫn có “tâm tính Pharisieu”.
Ví vậy, người bước theo Đức Kitô- Giêsu là người phải tự hạ, nghĩa là “loai bỏ” tâm tính Pharisiêu” ra khỏi tính cánh của chúng ta. Như thế, chúng ta mời bước theo Đức Kitô trên mọi nẻo đường đời.
Phần thứ hai : Khiêm tốn tự hạ Thánh Martin de Poress, là vị thánh khiêm nhường, bởi vì câu Lời Chúa ( Mt 23, 12) là câu Lời Cháu, mà thánh nhân đã sống triệt để. “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống “.
Vâng, câu Lời Chúa nầy là “ câu triết lỳ sống của đời người Kitô hữu”, nhưng tiếc thay , nhân thế chưa áp dụng đủ. Người nghèo, hay giàu, nhưng là người Bắc Việt, dù là người công giáo, họ vẫn chưa sống triệt để câu Lời Chúa trên. Điều nầy, cá nhân con đã từng gặp, từng biết , từng có kinh nghiệm. Mong sao, người Công giáo Việt Nam, nhất là Miền Bắc, cố gắng thực thi câu Lời Chúa hôm nay. Mong thay !
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại, nên Người đã tự hạ mình, vâng Lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập giá. Xin cho những ai xưng mình là Kitô Hữu, biết nhận ra chân lý tình yêu là chính Chúa mà noi theo hầu mưu ích cho chính bản thận họ và làm vinh danh Chúa, là sự tự hạ và được tôn vinh. Amen.
Phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ là nội dung chính của bài Tin mừng Chúa nhật XXXI quanh TN31-A111
Phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ là nội dung chính của bài Tin mừng Chúa nhật XXXI quanh năm hôm nay: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 12).
Đức Giêsu cảnh giác dân chúng và các môn đệ trước những gương xấu, thái độ giả hình, ngôn hành bất nhất, nói một đàng làm một nẻo của các luật sĩ và biệt phái. Họ là những người thông hiểu Kinh thánh, luật Torah của Mosê. Họ có bổn phận dạy dỗ dân chúng, giải thích luật cho mọi người. Họ “ngồi trên tòa Môsê”, nghĩa là thầy dạy muôn dân. Hãy nghe những gì họ nói và đừng noi theo hành vi, lối sống của họ vì “họ nói mà không làm. Họ dạy những điều hay lẽ phải, nhưng họ không thực hành”.Lời nói và việc làm của họ không đi đôi với nhau. Hơn nữa, các luật sĩ, biệt phái thường hay kiêu căng tự mãn, ham chức quyền, địa vị danh vọng, thích ngồi chỗ nhất ở nơi công cộng, thích khoe khoang công đức trước mọi người: “Nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo”, thích mọi người gọi là thầy. Họ bất công đối với anh em “buộc bó nặng trên vai người ta”. Nói tóm lại là các luật sĩ và biệt phái là những người giả nhân giả nghĩa“khẩu Phật tâm xà” “khẩu mật phúc kiếm” “khẩu tâm bất nhất” “miệng Nam Mô Bồ Tát, giấu giáo mác sau lưng” “miệng Nam Mô, bụng dao găm”.
Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta: quyền bính, chức vụ, địa vị, tài năng là để phục vụ. Càng làm lớn càng phải phục vụ mọi người. Chỉ có hành động phục vụ trong yêu thương, trong khiêm hạ, xã hội, gia đình mới tồn tại trong sự an bình và hạnh phúc.
Đức Giêsu đã làm gương một cách cụ thể và ấn tượng khi Ngài rửa chân cho các tông đồ trong bữa tiệc ly:
“Vậy, nếu Thầy là Chúa, mà Thầy còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15).
Chính Đức Giêsu đã khẳng định với các tông đồ: “Thầy đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ, và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người”.
Câu nói của K. Marx về câu hỏi của người con gái: “Hạnh phúc là gì?” “Hạnh phúc chính là phục vụ”. Hạnh phúc là kết quả của những hành vi đạo đức trong gia đình và xã hội. Cha mẹ đem lại hạnh phúc cho con cái, cho gia đình. Khi cha mẹ trở nên tôi tớ của mọi thành viên trong gia đình và con cái cũng phải trở nên tôi tớ của cha mẹ qua việc nhiệt tình phục vụ.
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu quá nhiều bất ổn, đời sống đạo đức xuống cấp… bởi vì các nhà lãnh đạo dân: thượng tế, biệt phái, luật sĩ đều là những người tham quyền cố vị, ham danh lợi, địa vị, bất công, không có tinh thần phục vụ nhân dân, thiếu thiện tâm, ích kỷ, kiêu căng, chỉ lo cho mình mà không quan tâm tới lợi ích của nhân dân. Đúng như người xưa đã nói: “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”.
Qua lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta phải biết phục vụ tha nhân trong yêu thương và khiêm hạ để đem lại an vui, hạnh phúc cho mọi người, càng làm lớn trong xã hội phải nhiệt tình phục vụ anh em, trở nên tôi tớ của mọi người noi gương Đức Giêsu: “Đến để phục vụ và hiến thân làm giá cứu chuộc muôn người”. Như thế hạnh phúc chính là phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ.
Bất nhất dùng để diễn tả trái nghịch giữa lời nói và việc làm, hôm trước tuyên bố thế này, hôm TN31-A112
Bất nhất dùng để diễn tả trái nghịch giữa lời nói và việc làm, hôm trước tuyên bố thế này, hôm sau hành động ngược với điều đã tuyên bố. Tự mâu thuẫn, trước sau không hài hoà. Mâu thuẫn trong giáo dục là điều đại kị bởi mâu thuẫn làm mất lòng tin và một khi không còn lòng tin thì việc giáo dục bị ảnh hưởng nặng nề. Bất nhất trong lời nói và hành động không thể viện lí do sai lầm hay bất toàn của con người. Lời nói trái với hành động là việc làm có chủ tâm, có dụng í, cố í hành động ngược điều mình nói để đạt được điều muốn đạt. Dùng lời ngon ngọt, dụ dỗ người khác vào tròng để thủ lợi. Lợi dụng lòng tin, lạm dụng tình bạn, lòng yêu nước mong đạt âm mưu, tìm lợi cho cá nhân hay phe nhóm là hành động bất nhân. Dù biện hộ hay đến đâu cũng là che đậy gian trá, mất đạo đức, phong cách của con người.
Đức Kitô lên tiếng kịch liệt đả kích nhóm Biệt Phái và nhóm lãnh đạo Đền Thờ khi những người này dậy một điều nhưng thực hành một nẻo. Đức Kitô tố cáo họ chất những gánh nặng lên vai, lên cổ người khác còn chính họ lại không thực hiện những điều đó. Họ tìm cách chạy trốn trách nhiệm bằng cách tạo ra những luật lệ cho người khác còn họ thì không bị ràng buộc bởi luật lệ đó. Họ có khả năng làm cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn nhưng họ không làm điều đó trái lại còn làm cho cuộc sống thêm phức tạp với luật lệ bọ ban hành. Những luật lệ khắt khe này không hề giúp người ta sống tốt hơn, đạo đức hơn hay yêu tha nhân hơn mà chỉ có mục đích là tăng lợi ích cho nhà lãnh đạo. Đức Kitô tố cáo bởi họ thiếu chân thành trong đường lối lãnh đạo, gian trá, lường gạt kẻ dưới quyền mong tìm ích lợi riêng cho phe nhóm. Họ lợi dụng lòng tin của đám đông và lợi dụng danh nghĩa Chúa để làm điều sai trái. Họ mặc những chiếc áo rộng lớn và buộc người khác chào hỏi nơi công cộng và được ca tụng trước đám đông. Ăn trên, ngồi trên được hầu hạ cách đặc biệt như thế chính họ tách rời khỏi đám đông, tự phong cho mình vào hàng lãnh đạo, giai cấp cao trong xã hội và phải được trọng vọng. Từ địa vị đó họ tạo ra những luật lệ có lợi cho giai cấp trưởng giả, cao sang mà toàn dân phải phục tùng. Họ lí luận giỏi, nghe rất hợp tình, hợp lí và từ đó mọi người đều phải tục tùng. Lí luận hợp lí, mạch lạc không phải luôn đúng, hợp giáo huấn của Đức Kitô. Dù không đúng với giáo huấn của Đức Kitô nhưng con người cũng không còn cách nào tốt hơn để phản bác nên đành chấp nhận lí luận hợp lí nhất làm mẫu mực sống.
Được đám đông ca tụng cách tự nhiên là điều tốt và đáng hãnh diện nhưng nếu tìm cách che đậy hoặc cố tình tạo nên hào quang cho người khác ca tụng là điều không xứng đáng. Đức Kitô cho biết được đám đông nhận biết và yêu mến chính là âm thầm, khiêm nhường làm việc bác ái, từ thiện, hành động yêu thương tha thứ, cảm thông phát xuất từ trong tâm khảm con người là điều Đức Kitô kêu gọi các Kitô hữu sống và thực hành. Giáo huấn của Ngài chính là hướng lương tâm con người về đàng lành, hướng hành động con người về điều thiện và hướng cách suy nghĩ của con người về đường đạo đức. Ngài tóm gọn giáo huấn đó qua câu: Kẻ lớn trong các ngươi phải phục vụ các anh chị em khác.
Không ai tránh khỏi lầm lỗi nhưng lầm lỗi thường là do thiếu cẩn trọng hoặc do thiếu sót của con người nhưng cố tình sai phạm là việc làm có chủ trương, cố í mà không thể viện vào lầm lỗi bình thường. Sai trái giúp ta nhận rõ căn tính mình hơn và nếu thành tâm học hỏi người đó học cầu tiến từ sai lầm của mình. Trong khi cố tình sai trái hay che đậy và chạy tội, tự biện hộ nên không học được gì lại làm mất tư cách chính mình.
Khuyến khích đám đông làm những điều các Biệt Phái dậy nhưng đừng bắt chước lối sống của họ. Đức Kitô phân biệt rõ ràng giữa lầm lỗi và con người là hai điều khác nhau. Người ta hay coi lỗi của người khác là con người đó và từ đó từ chối cộng tác với người đó. Đức Kitô phân biệt con người không phải là lỗi họ làm mà lỗi chỉ là một phần trong lối sống, cách hành xử hay suy nghĩ của người đó.
Chính trường Việt Nam trong thời gian qua có hàng loạt cán bộ cấp cao bị đem ra xử lý. Điển TN31-A113
Chính trường Việt Nam trong thời gian qua có hàng loạt cán bộ cấp cao bị đem ra xử lý. Điển hình nhất là hai người đứng đầu của hai thành phố lớn : Bí thư Tp. HCM và Bí thư Tp. Đà Nẵng. Một vị bị tố cáo sai phạm trong quản lý, còn vị lãnh đạo trẻ của Đà Nẵng bị cáo buộc nhiều sai phạm nghiêm trọng như: lời nói không đúng với việc làm, gian dối, sử dụng bằng cấp giả, tuyên bố không dung tha tình trạng tham nhũng, nhưng chính ông lại nhận quà biếu là nhà cửa, xe sang từ các doanh nghiệp. Cuối cùng, vị lãnh đạo trẻ này đã bị cách chức một cách nhục nhã gần như trở về dân thường.
Tình trạng ngôn hành bất nhất, lạm dụng chức quyền, sống thiếu gương mẫu thường xảy ra nơi những người có trách nhiệm, có chức quyền. Ngày xưa trong xã hội Do Thái, các luật sĩ và Pharisiêu là tầng lớp lãnh đạo, có uy tín trong dân, họ có trách nhiệm giải thích luật Mose và giảng dạy cho dân chúng. Tuy nhiên, những người này đã chỉ lo tìm kiếm lợi lộc hơn là giảng dạy và dẫn dắt dân chúng, tìm kiếm vinh dự bên ngoài hơn là lo chu toàn trách nhiệm. Lối sống của các luật sĩ và biệt phái hoàn toàn trái ngược với những gì họ lớn tiếng giảng dạy hoặc bắt bẻ người khác. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai cảnh báo dân chúng và cũng chỉ cho tầng lớp lãnh đạo này thấy lối sống hình thức giả dối của họ.
Chúa Giêsu cảnh báo dân chúng: Các luật sĩ và biệt phái ngồi trên tòa mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn các việc họ làm thì đừng làm theo. Chúa Giêsu không dạy dân chúng tẩy chay phản đối các nhà lãnh đạo này. Chúa khuyến khích dân chúng nghe và làm theo lời giảng dạy của các nhà lãnh đạo, vì họ đang thi hành nhiệm vụ được trao nhân danh Thiên Chúa, nhưng đừng học theo lối sống của các vị lãnh đạo. Những người này sống thiếu gương mẫu, họ dạy người khác phải làm, nhưng bản thân họ không làm; họ đưa ra điều luật phải giữ, nhưng họ không giữ, đời sống và hành động của họ không đi đôi với nhau. Đời sống của các luật sĩ và biệt phái còn trở thành gương xấu cho cộng đoàn. Họ sống hình thức bên ngoài, chăm lo cho mũ áo cân đai hơn là chăm lo đời sống đạo đức bản thân. Việc đạo đức của họ chỉ còn là hình thức vô hồn và là phương tiện tìm lợi kinh tế hoặc chỉ còn là quần áo bên ngoài xúng xính để mong người khác chào hỏi kính bái.
Qua miệng tiên tri Malakhi, Thiên Chúa đã cảnh báo các nhà lãnh đạo Do Thái. Chúa muốn họ phải trở về đúng con người và nhiệm vụ đã lãnh nhận, đó là làm cho danh Chúa được mọi người nhận biết và kính tôn. Chúa đòi họ phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc làm vinh danh Chúa và hướng dẫn dân Ngài. Tuy nhiên, các luật sĩ và tư tế thời Cựu ước cũng đã đi trệch đường và họ còn dẫn dân đi sai đường Chúa muốn. Vì thế, Thiên Chúa đã cảnh cáo họ, nếu họ không điều chỉnh lại lối sống của mình, Thiên Chúa sẽ loại trừ họ. Việc tuân theo giới răn, huấn lệnh của Chúa là đòi buộc chung cho tất cả mọi người và lời mời gọi sống thánh thiện cũng là lời mời gọi chung cho hết mọi người, không trừ một ai.
Có lẽ các luật sĩ, tư tế và biệt phái trong dân Israel từ thời Cựu ước đến thời Chúa Giêsu đều mắc chung sai lầm, đó là lối sống giả hình, hình thức, nói một đàng, làm một nẻo. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi dân mới cách chung và các nhà lãnh đạo của dân mới phải dám ra khỏi nếp cũ để sống một tinh thần mới, đó là tinh thần yêu thương, phục vụ trong khiêm tốn.
Chúa không chấp nhận những người được Chúa trao nhiệm vụ dẫn dắt dân Chúa lại sống ngược lại cách sống của Chúa. Chúa không chấp nhận thái độ kiêu căng hống hách, cậy quyền cậy của nơi các môn đệ của Chúa. Trái lại, Chúa muốn: Anh em đừng để người ta gọi mình là thầy, vì anh em chỉ có một Thầy. Đừng gọi ai dưới đất là cha, vì anh em chỉ có một Cha. Đừng gọi ai là người chỉ đạo, vì anh em chỉ có một người chỉ đạo là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn sẽ là người phục vụ. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Dạy như thế, Chúa Giêsu muốn những người có trách nhiệm phải sống tinh thần khiêm tốn phục vụ như Chúa, tìm kiếm Chúa và tìm kiếm ích lợi cho anh em chứ không tìm ích riêng cho mình. Người lãnh đạo theo tinh thần của Chúa, đem giáo lý Tin Mừng của Chúa cho anh em, là người phục vụ anh chị em chứ không phải là người lên mặt cha chú hoặc làm thầy đời thiên hạ.
Các tông đồ đầu tiên đã thấm nhuần bài học Chúa dạy, đã chấp nhận mọi khó khăn thử thách, không tìm kiếm lợi lộc, nhưng suốt cuộc đời miệt mài phục vụ cho Tin Mừng và cho những người Chúa trao cho các ông. Thánh Phaolô đã nói lên tâm tình của ông khi sống với cộng đoàn Thessalonica. Mặc dù là một tông đồ có uy thế, một nhà giảng thuyết uyên bác, một nhà lãnh đạo tài giỏi, nhưng thánh Phaolô đã chia sẻ: Thưa anh em, khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử dịu dàng chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi yêu quý anh em đến độ sẵn sàng hiến cho anh em Tin Mừng và cả mạng sống của chúng tôi nữa. Đêm ngày chúng tôi vẫn phải làm việc vất vả để không trở nên gánh nặng cho anh em.
Lời Chúa dạy về thái độ khiêm tốn phục vụ và tấm gương của Phaolô là bài học cho tất cả chúng ta, cách riêng cho những người có trách nhiệm đối với người khác, như các nhà lãnh đạo, các chủ chăn, các bậc cha mẹ. Các vị trí lãnh đạo xã hội ngày nay dường như đều phải chạy chọt, phải mua bằng tiền. Vì thế, khi ngồi vào vị trí lãnh đạo, họ tranh thủ gỡ vốn, vơ vét tham nhũng làm giàu cho bản thân và gia đình. Vì vậy mà bên cạnh dáng vẻ oai phong của vị lãnh đạo lại là lối sống lem luốc, bẩn thỉu.
Lời Chúa hôm nay thực sự là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở các chủ chăn, là những người được trao phó nhiệm vụ dẫn dắt dân Chúa, phải sống sao cho đúng Tin Mừng và phục vụ dân Chúa bằng tình yêu thương. Chúng ta không phủ nhận và đôi khi còn chứng kiến nhiều gương xấu và bóng tối trong đời sống của các linh mục. Các linh mục được mời gọi phải sống thánh, thánh hóa bản thân và thánh hóa dân Chúa, nhưng chúng ta vẫn thấy sự bê bối gương xấu nơi các linh mục. Chúng ta cũng không khó để tìm ra những sai lỗi nơi các linh mục: sự kiêu căng, nóng nảy, sự lười biếng, ù lì, sự tự do thái quá… Họ cũng bị cám dỗ chạy theo thói đời, tìm của cải, hưởng thụ và nhiều những thói xấu khác. Trong khi đó, Chúa đòi hỏi các linh mục phải tận tụy hy sinh phục vụ như một người cha; ân cần điềm đạm và kiên nhẫn như một người mẹ; nghiêm nghị, công minh như một người thầy và chân thành, gần gũi như một người bạn.
Trong phạm vi gia đình, các bậc cha mẹ không chỉ là những người sinh thành và nuôi dưỡng giáo dục con cái, mà còn là những nhà lãnh đạo, những người thầy dẫn dắt con cháu trên con đường đức tin. Một cách thế giáo dục hiệu quả nhất cho con cháu là giáo dục bằng gương sáng. Lời nói mau qua, gương lành lôi kéo. Chỉ có gương sáng mới dễ dàng tác động đến con cháu và người khác. Vì thế, các bậc cha mẹ đừng bao giờ để mình trở thành gương xấu cho con cái, trái lại, cần phải nêu gương đời sống đạo đức cách cụ thể bằng việc siêng năng đến với Chúa, với Thánh lễ và các giờ kinh. Cần sống làm sao để cho con cháu thấy ông bà cha mẹ thực sự là những người biết tin thác vào Chúa.
Chúng ta cầu nguyên cho các nhà lãnh đạo xã hội, để họ biết dùng quyền bính mà phục vụ dân nước, đem lại cuộc sống an vui và hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho các vị chủ chăn, các ngài cũng là những con người dễ bị xiêu té bởi sự cuốn hút của thế gian, danh lợi. Xin cho các ngài ngày càng nên giống Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, dám cúi xuống để phục vụ trong sự khiêm tốn theo gương thầy Giêsu. Chúng ta cũng cầu nguyện cho các bậc cha mẹ nên gương sáng đời sống đạo đức cho con cháu, dẫn dắt và dạy dỗ con cháu sống theo giáo huấn của Chúa và Tin Mừng. Amen.
Chân thành, nguyên ngữ Latinh là: Sincerus, a, um.
Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có TN31-A114
Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng. Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này ghép lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.
Tình thương giữa con người với nhau cần phải sinecera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.
Ngày xưa, Nữ Hoàng Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói thì nhiều mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần sự giả hình của các Kinh sư, Pharisiêu.
– Giả hình: vì họ nói mà không làm
– Thích thống trị: Vì họ bó những gãnh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không buồn động động ngón tay vào.
– Thích khoe khoang: Vì họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
– Thích hám danh: Vì họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi nơi cộng cộng, được thiên hạ gọi là Rápbi.
Nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, xét mình ai cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít…
Những người Pharisiêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ dân chúng về cách sống đạo. Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy trong lối sống đạo của họ có những biểu hiện lệch lạc, giả hình làm hoen ố đạo thật. Nhân đó, Người đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống đạo:
– Chỉ dẫn 1: Lời nói đi đôi với việc làm:
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn như giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực tại. Nói thì dễ nhưng làm thì khó nên người ta để rơi vào thói nói nhiều, làm ít hoặc chỉ nói suông mà không làm hoặc còn tệ hơn khi việc làm mâu thuẫn với lời nói như người Pharisiêu “ nói mà không làm”. Trong những trường hợp ấy, nói về Đạo trở thành phản chứng làm cho người nghe khó chấp nhận Đạo.
Khi phê phán thái độ của người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta đừng nói nhiều nhưng hãy làm. Chính việc làm minh chứng Đạo thật, việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Người ta thích câu tục ngữ “Đừng nghe những gì người ta nói mà hãy nhìn kỹ những gì người ta làm“.
– Chỉ dẫn 2: Hãy làm một cách khiêm tốn.
Người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Đeo rồi sợ người khác không nhìn thấy, họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pharisiêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
Khi phê phán người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ hãy thực hành đạo trong kín đáo: Khi làm việc lành phúc đức, anh em chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm (Mt 6,3). Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo.(Mt 6,6) (x. Chia sẻ Tin Mừng năm A, ĐGM Giuse Ngô Quang Kiệt).
Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến chân thực dẫn đến thái độ khiêm tốn, biết kính trọng ngươi khác, biết luôn phục vụ anh em.
Lời chỉ dẫn trên đây của Đức Giêsu giúp chúng ta sống chân thành và khiêm tốn. Người chân thành khiêm tốn chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ làm. Người chân thành khiêm tốn không nói láo, không giả hình, không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình, không chỉ trích.
Ứng xử trong các mối quan hệ phải chân thành. Còn gì thất vọng cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái nhưng thực tế lại giả tạo, xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt niềm nở sau lưng nói hành nói xấu, gièm pha. Lối sống của Pharisiêu vẫn còn nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau.
Kinh nghiệm cho thấy một người không chân thành thì khó được tín nhiệm “một lần bất tín, vạn sự bất tin”.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Malakhi trách mắng nghiêm khắc những tư tế Do Thái làm việc cẩu thả, biếng nhác và giả dối trong khi thi hành tác vụ của mình. Sau khi đi lưu đày về, đền thờ đã được tái thiết, nền phụng tự đã được thiết lập lại, nhưng sự nhiệt thành của những ngày đầu tiên đã bị biến mất. Nhiều tư tế không còn lưu tâm đến trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc tôn vinh danh Chúa, làm gương mù gương xấu khiến cho nhiều người đi sai đường lối Chúa và hủy bỏ giao ước. Họ không còn được dân chúng tín nhiệm vì họ không chân thành trong sứ vụ hàng ngày của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc lại với giáo đoàn Thessalonica tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến mà ngài đã ân cần dành cho họ, như một người mẹ dành cho con cái mình. Ngài đã giảng dạy lời Chúa cho họ; họ đã đền đáp ngài cũng tràn đầy tình yêu. Thánh Phaolô sống chân thành với cộng đoàn, ngài đã không ngần ngại và vui mừng được trao ban cho họ chính cả mạng sống của mình. Đáp lại, mọi người đã sống trung thành với Lời Chúa. Lời Chúa đã phát huy tác dụng nơi cộng đoàn này, đã sinh hoa trái tốt đẹp nơi cuộc sống của mỗi người.
Thư Mục vụ tháng 10 năm 2017 của ĐGM Giáo phận Long xuyên, nói đến “Tin Mừng về sự Tín Nhiệm”.
Xã hội ngày nay, cụ thể tại Việt Nam, đang bị khủng hoảng về sự tín nhiệm. Cuộc khủng hoảng này đang tàn phá các tương quan trong mọi lãnh vực nhân sinh, tương quan trong gia đình giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái, anh chị em với nhau; tương quan trong gia tộc giữa thế hệ cha ông và con cháu; tương quan trong trường học giữa thầy và trò, giữa bạn học với nhau; tương quan trong bệnh viện giữa lương y và bệnh nhân; tương quan tại hàng quán giữa người bán và kẻ mua; tương quan trong các xí nghiệp nhà máy giữa những người thuộc giai cấp làm chủ và giai cấp công nhân; tương quan trong các công sở giữa những người hành sử quyền bính và dân chúng. Sự khủng hoàng này cũng có những dấu hiệu đang hiện diện trong các cộng đoàn Kitô hữu của giáo phận. Biểu hiện của sự khủng hoảng tín nhiệm này là thái độ nghi ngờ lẫn nhau và đối phó ngay cả với những người thân. Kết quả là sự cô đơn và ích kỷ, bất hạnh và thất vọng đến tuyệt vọng. Kết quả nữa là một cộng đồng bất an, bất ổn và nỗi loạn…
Giáo phận được mời gọi lần chuỗi Mân Côi để suy tư, cầu nguyện, và xin ơn biến đổi, với nền tu đức đi ra ngoại biên để loan báo Tin Mừng, Tin Mừng về một cộng đoàn như gia đình của Thiên Chúa, trong đó mọi người bày tỏ yêu thương và tín nhiệm…
Giáo phận xin đặt trọn niềm tín thác vào Chúa, và sống tín nhiệm lẫn nhau, theo gương Mẹ Fatima để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Tin Mừng về sự tín nhiệm. (x.giaophanlongxuyen.org).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống “Tin Mừng tín nhiệm”, sống chân thành với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa. Tư tưởng đi đôi với lời nói. Lời nói đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói, việc làm đều phải diễn tả sự trung thực và chân thành. Như bông hoa thật đẹp đầy màu sắc toả hương thơm, những người chân thành khiêm nhường toả hương thơm qua việc làm. Những điều mà các vị ngôn sứ vĩ đại đã nói ra thường hay bị lãng quên, nhưng những hành động mà các vị Thánh nhân, anh hùng thực hiện luôn được hậu thế ghi nhớ mãi. Hãy soi đời mình vào tấm gương Chúa Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp chân thành.
Đã là người, ai cũng muốn tôn mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị của TN31-A115
Đã là người, ai cũng muốn tôn mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị của mình.
Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng đó để thôi thúc chúng ta vươn lên, “trở nên người trưởng thành, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13). Chính Chúa Giê-su cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao nhất: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
Như thế, khát mong trở nên con người hoàn hảo là một khát vọng rất tự nhiên và chính đáng.
Nhưng làm sao để nâng cao giá trị của mình?
Những phương thức sai lầm Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giê-su muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài, cốt để cho người ta thấy; họ “đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy” (Mt 23, 5-7).
Các môn đệ Chúa Giê-su cũng đôi lần tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47).
Rồi một bữa nọ, tưởng rằng mai đây Chúa Giê-su sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê đến nài xin Chúa Giê-su cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Ngài trong tương lai. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình với Gioan và Gia-cô-bê, có lẽ vì hai anh em nầy toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ đang ngấp nghé (Mc 10, 35-41).
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
Phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy…” là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nầy mang lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacobê lầm tưởng, nhưng giá trị con người tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của họ.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội khẳng định: “Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi những gì người ta có, mà tuỳ thuộc vào phẩm chất mỗi người”.
Biệt thự của ta, vàng bạc của ta, chức vụ lớn lao của ta… không làm cho ta có giá hơn những người khác. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Về vấn đề này, Chúa Giê-su dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ người khác như người tôi tớ. Ngài nói: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mc 10, 43. Mt 23,11).
Lời Chúa dạy nghe thật ngược đời, rất khó chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời mẹ Tê-rê-xa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ đã hiến đời mình làm tôi tớ phục vụ những con người cùng khổ nhất trên thế gian này nên mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng và yêu mến nhất thế giới.
Năm 1996, Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ phong tặng mẹ danh hiệu “Công dân danh dự” của nước này. Mẹ là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu này.
Ngày 10 tháng 2 năm 1979, mẹ được nhận giải Nobel hòa bình vì sự nghiệp dấn thân phục vụ những người cùng khốn.
Ngày 5-9-1997, mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, mẹ được Giáo hội nâng lên hàng chân phước chỉ 6 năm sau ngày qua đời!
Và ngày 4 tháng 9 năm 2016, mẹ được Đức thánh Cha Phan-xi-cô tuyên thánh để được các tín hữu kính nhớ muôn đời.
Như thế, cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giê-su là xác đáng.
Lay Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con đừng tìm cách tôn mình lên bằng những đồ trang sức mắc tiền hay bằng tài sản quý giá, nhưng biết làm gia tăng giá trị đời mình bằng đời sống dấn thân phục vụ những người nghèo thiếu, đau khổ chung quanh như lời Chúa dạy. Nhờ đó, chúng con trở nên người có phẩm giá cao hơn và được đẹp lòng Chúa hơn.
Tin Mừng Thánh Matthêu chuơng 23, câu 1 đến câu 12 Chúa cho các môn đệ và người Do Thái TN31-A116
Tin Mừng Thánh Matthêu chuơng 23, câu 1 đến câu 12 Chúa cho các môn đệ và người Do Thái hiểu rõ về những Kinh sư và Pharisiêu giả hình, những người tự coi là thông luật, là đạo đức hơn người khác, thuộc vào tầng lớp lãnh đạo. Nhiều người trong số họ có trình độ cao, có ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị, xã hội và tôn giáo đối với người Do Thái lúc bấy giờ. Họ được phép rao giảng trong các hội đường, nắm quyền phán xét, phân xử, giải thích luật lệ khi có xảy ra tranh chấp trong dân. Tuy vậy, do sống dưới sự đô hộ của người La Mã nên họ cũng dựa vào đó để đưa ra những lề luật khắc nghiệt, vừa để lấy lòng hoàng đế La Mã, vừa để thống trị cộng đồng dân mình. Chính những người này đã tìm cách gài bẫy Đức Giêsu, hay giả là người đến học hỏi nơi Chúa để tìm cách loại bỏ ảnh hưởng của Người đối với dân chúng. Đức Giêsu biết rõ những con người này, họ nói mà không làm, họ chất những gánh nặng lề luật lên vai những đồng đạo nhưng“không buồn động ngón tay vào” (Mt 23;4) . Họ rao giảng những điều trong Kinh Thánh, nói những điều rất hay, khuyên bảo dân chúng tuân giữ lề luật của Môi Sen, nhưng thực tế cuộc sống của họ đi ngược lại những điều họ nói. Chúa Giêsu đã mạnh dạn vạch ra những điều sai trái, dối trá đồng thời nhắn nhủ các môn đệ và dân chúng hãy làm, hãy giữnhững điều họ nói (về Giáo lý-Kinh Thánh ), nhưng không làm theo những việc họ làm, vì họ chỉ nói mà không làm.
Những Pharisiêu thời đại hôm nay không thiếu, cả trong đạo cũng như ngoài đời. Điều Chúa đưa ra hơn 2000 năm trước đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Biết bao vị xúng xính trong những bộ áo quyền quí, sử dụng những phương tiện hiện đại để tỏ ra mình hơn người khác. Họ được tập thể, cộng đồng trao cho một trách nhiệm nào đó trong giáo hội, xã hội đã thể hiện hai mặt của một cuộc đời. Một mặt thì tỏ ra tốt lành, thân thiện, khuyên bảo người khác làm lành lánh dữ. Mặt khác bản thân lại có một cuộc sống tha hóa, thậm chí âm mưu hãm hại người, hầu mưu cầu lợi ích cho mình, củng cố vị trí của mình .
Chúa còn nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ đối với những người được trao phó trách nhiệm cao trong tập thể, trong xã hội. Không thể có thái độ “cha chú “ như những người Pharisiêu khi hành xử công việc. Quyền lực Chúa trao ban là để nâng đỡ, hướng dẫn người khác hầu giúp nhau thăng tiến vươn lên, hầu đạt tới sự hoàn thiện vì “ tất cả đều là anh em với nhau”(Mt 23,9) . Không thể lợi dụng quyền lực để áp đặt, cưỡng bức người khác phục vụ cho mình hay cho lợi ích nhóm. Càng không phải để mê hoặc người khác.
Lạy Chúa,
Trong cuộc sống mỗi ngày, và cả trong đời sống đạo, con cũng đã có lúc thể hiện mình là những kinh sư, những người Pharisiêu ngày xưa: nói mà không làm, nói hay nhưng làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Là bậc làm cha mẹ trong gia đình, bao lần con khuyên dạy con cái nên làm điều này tránh điều kia, nhưng con không làm theo điều con tin, không thực hiện điều con nói. Trong quan hệ vợ chồng, thái độ gia trưởng “chồng chúa, vợ tôi” vẫn thể hiện mỗi ngày. Trong quan hệ xã hội, con vẫn lớn tiếng phê phán thói xấu của người khác, mà không hề thấy “chân mình thì lấm bê bê”, chỉ “Thấy dằm trong mắt người khác” vẫn lên tiếng dạy đời, coi khinh những người thấp kém hơn con về trình độ, về vật chất, về địa vị.
Xin Chúa giúp con biết sửa đổi cách sống của mình, để mỗi ngày trở nên trọn lành hơn, như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Xin cho con biết học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, hầu mọi người nhận biết con là môn đệ Người.AMEN.
Cha ông chúng ta nhắc nhớ con cháu: ăn có nhai, nói có nghĩ, đúng là các ngài đã nhìn thấy trước TN31-A117
chất lượng cuộc sống, tuỳ thuộc tính hợp lý giữa chất xám và thời gian đầu tư. Nếu nói giỏi nhưng khi vào việc thì hỏng trước hư sau, có khác gì thùng rỗng kêu to ? Nếu làm biếng, làm qua quýt, mà miệng thì luôn than thở: việc như lông lươn, làm sao thiên hạ lại không phát hiện ra bạn đang giấu đầu hở đuôi ? Ăn uống lịch sự, cư xử có văn hoá, sống có tình có nghĩa, người như thế đi đến đâu mà chẳng được mộ mến. Lời nói chính xác, việc làm đúng chuẩn, đâu phải là loại người máy, người mẫu, đúng hơn đó là những Kiô hữu có tình yêu Chúa trong hành trình cuộc đời này.
Hai hình ảnh đối nghịch nhau được Chúa Giêsu xây dựng hôm nay: kiêu căng tự mãn và khiêm tốn mực thước, đó là các luật sĩ biệt phái, đó là Đấng từ trời đến và những ai thực sự là môn đệ của Ngài. Cụ thể thì không ai thích người “chảnh”, “khinh khỉnh” nhìn anh chị em mình bằng nửa con mắt ; không ai muốn mình bị xếp vào loại khờ khạo ngu dốt, trong khi Chúa Giêsu cần chúng ta xa điều xấu, làm điều tốt. Để xây dựng con người đẹp toàn diện, Chúa Giêsu không “úp mở” việc tốt xấu: “những gì các luật sĩ biệt phái nói, dạy, các người hãy nghe, hãy giữ và thực hành, nhưng đừng bắt chước các hành vi của họ”. Chúa Giêsu không thoả hiệp, im lặng, nhưng bình tĩnh chỉ dạy các môn đệ đừng học theo lối sống giả nhân giả nghĩa.
Lời nói phải đi đôi với việc làm, một lần bất tín là vạn lần không tin, đâu phải đó là những ý tưởng mới lạ, khó hiểu, phải chăng quyền bính khiến con người đang ngộ nhận về thân phận của mình ? Con người thường mâu thuẫn với bản thân, biết có danh có phận là để phục vụ, nhưng khi có địa vị chức quyền lại muốn được bổng lộc, muốn được người ta cung phụng, hầu hạ. Chúng ta biết nói, biết khuyên người khác đừng tự mãn kiêu căng, nhưng cách cư xử của chúng ta lại thiếu tình huynh đệ, vắng bóng sự khiêm tốn, chẳng có chút gì gọi là bình đẳng yêu thương. Chúng ta nói hay, bình luận giỏi về những khiếm khuyết của anh chị em mình, nhưng chúng ta rất khó nhìn biết tâm hồn mình dơ bẩn, tâm địa đầy mưu mô tội lỗi !
Cuộc sống cho chúng ta rất nhiều kinh nghiệm: thật thà hay gặp oan trái, thẳng thắn hay bị hãm hại, và thông thái dễ bị lừa gạt. Tuy thật thà, thẳng thắn, trung thực, chưa thể làm nên một xã hội toàn diện, nhưng đã chứng minh được cho hậu thế hiểu thế nào là tốt danh hơn lành áo. Trung thực và khiêm tốn có phải là kết quả của những lời nói việc làm phát xuất từ trái tim trĩu nặng yêu thương, tâm trí người ta sẽ không bị cản trở bởi một mớ lý thuyết, nhưng sẽ tự tin bước những bước yêu thương. Nói thật, sống thật, bao giờ cũng khó hơn nói khoác lác, nói vu vơ, làm việc nghiêm túc, biết thực hiện những nghĩa cử bác ái đệ huynh, thường bắt nguồn từ truyền thống đạo đức gia đình.
Người xưa có câu: tiếng lành đồn xa, tiếng xấu đồn ba ngày đàng. Thực hư, tốt xấu, đều do lời nói việc làm của ta để lại, gương sáng hay gương mù, hậu thế sẽ phán xét, cho dù ta có khéo léo che đậy hoặc tìm cách biện minh cho việc làm của mình. Người giả dối, giả lòng, thường dễ dãi với chính mình, nhưng lại khắt khe, khó chịu với người khác ; người sống thật, biết thực hành việc bác ái, không thể không có ganh ghét, hận thù. Để sống trung thực với chính mình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, đó cũng là bước khởi đầu để thể hiện lòng thống hối, nhìn biết tất cả đều là anh chị em với nhau, có cùng Một Cha trên trời. Khiêm tốn cũng là việc làm thiết thực, hầu nhận ra tâm hồn đầy tội lỗi bất xứng của mình, dễ dàng hơn trong quảng đại yêu thương và tha thứ.
Người đời tán dương kẻ dám nói dám làm, ngôn hành bất nhất, Chúa Giêsu không chủ trương phê phán bình luận đúng sai, tốt xấu, Ngài kêu gọi hãy khiêm tốn, lắng nghe, để biết nói thật, sống sự thật. Không ai lớn khôn, trưởng thành mà thiếu vắng tình yêu, công sức, đầu tư của cha mẹ, không ai tự khắc phục sửa chữa được tính ích kỷ, tự mãn kiêu căng nơi bản thân, nếu không có môi trường gia đình xã hội. Không ai có thể tự làm cho đời sống tâm linh của mình nên mạnh mẽ, cũng chẳng ai tự tẩy rửa được linh hồn mình nên tinh trắng, nếu thiếu lòng sám hối và tình yêu thương của Chúa Giêsu. Không ai có đủ lòng khiêm tốn để dám nhận mọi người là thầy dạy, là bề trên của mình, nếu chưa thấm nhuần bài học của Đức Giêsu, cúi mình rửa chân cho các học trò. Xin Đức Giêsu, Đấng là Chúa, là Thầy, là Anh Cả, tiếp tục đồng hành, giúp chúng con biết lắng nghe, đón nhận nhau và sống tinh thần phục vu yêu thương như Chúa đã yêu. Amen.
Người ta thường nói : “Bệnh sĩ chết trước bệnh tim”. Bệnh tim khiến người ta chết bất cứ lúc TN31-A118
Người ta thường nói : “Bệnh sĩ chết trước bệnh tim”. Bệnh tim khiến người ta chết bất cứ lúc nào, nhưng bệnh “sĩ diện” còn khiến người ta chết nhanh hơn, bởi chỉ vì cái tôi quá lớn mà người ta mất tất cả, dù là mạng sống. Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ cũng như mỗi người chúng ta : “Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 12).
Lẽ thường trong xã hội, những ai có quyền, có tiền thì được người khác nịnh nọt, hầu hạ. Điều đó là bình thường. Nhưng thực sự những điều đó là “bình thường” không ? Bởi, con người không được tôn trọng như phẩm giá mà mỗi người đáng được hưởng. Họ phân xử nhau bằng cấp bậc trên-dưới, chủ-tớ.
Những kinh sư và người Pharisêu là những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái, họ biết Kinh Thánh và am hiểu về luật – luật mà dân Do Thái đã nhận từ ông Môsê như là luật Thiên Chúa ban – để chỉ giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người. Nhưng họ đã biến luật thành những gánh nặng nề phải tuân giữ, mà họ chỉ ngồi trên cao để chỉ trỏ, để được người khác kính trọng, còn chính họ chẳng tuân giữ những điều luật ấy. Họ chỉ dò xét, bắt lỗi người khác, mà chẳng có sự thông cảm và bao dung.
Đó chỉ là những ràng buộc của con người dành cho nhau. Còn Thầy Giêsu, thầy đã giải thoát con người bằng tình yêu thương trong sự tự hạ. Thật vậy, Người là Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã sinh xuống trần gian làm người, sống với con người, cùng chia sẻ thân phận mỏng giòn, yếu đuối của con người. Thiên Chúa đã tự hạ để nâng con người lên địa vị cao hơn, sang trọng hơn, đó là làm con cái của Thiên Chúa. Chúng ta không quên hình ảnh Thầy đã cúi xuống rửa chân cho từng môn đệ trong bữa Tiệc Ly, dù có những môn đệ phản Thầy. Công việc rửa chân là công việc của người nô lệ, nhưng chính Thầy đã làm. Còn gì hơn để diễn tả tình yêu thương của Thầy Giêsu dành cho các môn đệ và cho mỗi người. Hơn thế nữa, Thầy Giêsu đã chẳng một lời trách móc, kêu than khi người ta sỉ vả, nhục mạ, và chết nhục nhã trên cây thập tự. Người vẫn xin Cha tha thứ cho họ, Người còn biện hộ cho kẻ hại mình rằng vì họ không biết việc độc ác họ đã làm.
Con người ai cũng có lúc sai, ai cũng có những điều chưa biết, nên cần khiêm tốn để đón nhận và sửa đổi. Khi tự hạ, chính là lúc chúng ta mang niềm vui, sự bình an đến cho chính bản thân và tha nhân trong tình yêu thương.
Ở làng kia, một gia đình có người chồng suốt ngày say rượu. Khi say, ông phá tất cả đồ đạc trong nhà, mắng hết người này đến người kia. Nhiều lúc, ông còn sang cả nhà hàng xóm để quậy phá. Nhưng sáng hôm sau, ông nói : Ông chẳng nhớ gì hết, thế là ông được trốn tội. Sau mỗi lần ông say như thế, người vợ luôn là người đi xin lỗi hàng xóm về những gì ông đã gây ra. Thật vậy, nhờ sự khiêm tốn, sự hạ mình chịu “mất mặt” của người vợ, gia đình bớt được nhiều mâu thuẫn, tình làng xóm cũng trở nên khăng khít hơn. Tự hạ chẳng phải là chịu thua, đầu hàng đối phương, nhưng đó chính là tình yêu bao dung của con người với nhau. Thật vậy, người ta thường kính trọng những người khiếm tốn, biết nhường nhịn, bao dung, biết lắng nghe, chứ người ta chẳng mấy thiện cảm với những người sĩ diện, thích khoe mình nhưng thực chất lại chẳng có. Hằng ngày, chúng ta hãy tập sự khiêm hạ. Nhờ đó, con người sẽ sống trong sự yêu thương với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con bài học “tự hạ” dù trong bất cứ công việc, hoàn cảnh nào, để chúng con được sống thật với chính mình. Chúng con sẽ mạnh mẽ, tự tin đến với tha nhân. Đặc biệt, chúng con sẽ chẳng chần chừ, ngại ngùng khi đến cùng Chúa để được Người yêu thương cứu độ. Amen.
Tin Mừng hôm nay đề cập đến thái độ các môn đệ phải có đối với Thiên Chúa và tha nhân. Phải tránh thói đạo đức giả của các đầu mục Do thái vì “nói mà không làm”, “chỉ biết bó nặng chất lên vai người khác” và “làm mọi việc để tìm tiếng khen” nơi người đời. Các môn đệ phải tránh kiêu ngạo khi đòi làm thầy, làm cha và làm người chỉ đạo đang khi chỉ có một ông Thầy tối cao là Đức Giê-su, một Cha chung là Thiên Chúa và một vị Mục Tử duy nhất là Đức Ki-tô.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2:
+ Các kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ, là những thầy dạy về Luật pháp của Mô-sê. Đa số kinh sư là thành viên của phái Pha-ri-sêu và có ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo và chính trị của dân Do thái. Tại Giê-ru-sa-lem, các kinh sư chiếm 1/3 số ghế trong Thượng Hội Đồng Do Thái. Tại các địa phương như thị trấn, làng xã, họ rất có uy tín đối với dân chúng và thường được mời làm quan tòa xét xử các vụ tranh chấp. + Các người Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một phái tôn giáo mà thành viên là những người Do thái nhiệt thành và đạo đức. Họ tách biệt khỏi dân chúng do cách ăn mặc và xử sự. Họ rất tôn trọng Thánh Kinh và các truyền thống của cha ông. Có khi coi trọng truyền thống hơn cả Thánh Kinh như đòi dân chúng phải tuân giữ các tục lệ của cha ông về ngày hưu lễ Sa-bát rất chi li. Nhiều người trong phái Pha-ri-sêu có học vị kinh sư hay luật sĩ. Người Pha-ri-sêu thường mắc phải các thói như giả hình, kiêu căng, ganh tị… đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x Mt 23,1-22), nên họ rất căm hận và tìm cách giết hại Người. + Ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy: Toà của Mô-sê ngày xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Còn thời Chúa Giêsu, tòa Mô-sê tức là bục giảng được kê trong hội đường. Các kinh sư thường ngồi trên bục mà giảng dạy Luật Mô-sê vào ngày Sa-bát.
– C 3-4:
+ Những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ: Đức Giê-su dạy dân chúng phải vâng nghe và tuân giữ những lời giảng dạy của các kinh sư và Pha-ri-sêu, vì họ đang nắm giữ quyền hành phát xuất từ Thiên Chúa (x Ga 19,11). Tuy nhiên dân chúng không được nghe theo những suy nghĩ hẹp hòi (x. Mt 9,3-4) những kiểu giải thích Luật sai lạc vụ lợi (x. Mt 15,1-20), nhất là phải tránh thứ men gian tà đạo đức giả của các kinh sư và Pha-ri-sêu (x. Mt 16, 6). + Nhưng đừng theo hành động của họ: Đừng bắt chước các gương xấu của các Biệt phái và kinh sư. Vì lời nói của họ thường không đi đôi với việc làm. Họ thường “nói mà không làm” hay “nói một đàng làm một nẻo !”. + họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta: “Bó nặng” hay cái “ách”, thường được Đức Giê-su và các Tông đồ dùng để ám chỉ 613 điều khoản trong Luật và những lề thói truyền thống mà dân Do Thái phải tuân giữ giống như Lề Luật (x. Cv 15,10). Điều này gợi lên hình ảnh một người nô lệ phải vác những gánh nặng trên vai (x. Gl 5,1), trái với “gánh nhẹ nhàng” mà Đức Giê-su hứa ban cho các môn đệ (x. Mt 11,30). Ở đây “gánh nặng” ám chỉ lối giải thích Luật của các kinh sư Do Thái vừa chi tiết vụn vặt, lại vừa nghiêm khắc và khó giữ được trọn vẹn. Điều này đè nặng trên lương tâm của dân Do Thái, giống như cái “ách nặng” được chủ buộc vào cổ trâu bò để bắt chúng cày bừa kéo xe. + Nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào: Đức Giê-su tố cáo sự ích kỷ và thiếu lòng thương xót của các kinh sư khi buộc dân chúng tuân giữ Luật trong từng chi tiết, đang khi chính họ lại không thực hành.
– C 5-7:
+ Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy: Đây là thói háo danh của các kinh sư và người Pha-ri-sêu. + Đeo những hộp kinh thật lớn: Hộp kinh chứa thẻ kinh. Thẻ kinh là mảnh da mỏng trên đó viết 4 đoạn Kinh Thánh quan trọng là Đnl 6,4-9; 11,13-21; Xh 13, 3-10; 13,11-16. Thẻ kinh này được chứa trong hộp bằng gỗ nhỏ xíu mà người Do Thái thường cột vào tay và trán mỗi khi đọc kinh cầu nguyện, để nhắc họ nhớ và tuân giữ (x. Xh 13,9). + Mang những tua áo thật dài: Các kinh sư và người Pha-ri-sêu thường may áo có tua dài nhằm phô trương. Thói háo danh khiến họ muốn được biệt đãi ở mọi nơi. + Ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Người Do thái thường xếp chỗ ngồi trong các đám tiệc hay trong hội đường theo tuổi tác, chức vụ và tài năng. Tuổi tác và chức vụ là điều dễ dàng nhận ra, còn tài trí khôn ngoan thì khó mà nhận biết. Các kinh sư và Pha-ri-sêu thường tỏ ra có tài trí hơn người và tranh dành nhau ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và hội đường. + Ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Họ tự coi mình là bề trên nên muốn được người khác cúi chào ở nơi công cộng. + Ưa được người ta gọi mình là “ráp-bi”: “ráp-bi” là tước hiệu dân chúng thường dùng khi thưa chuyện với các tiến sĩ Luật. Các môn đệ cũng thường gọi Đức Giê-su như thế (x. Mt 26,25.49; Ga 20,16).
– C 8-10:
+ Đừng để ai gọi mình là “ráp bi”: Đức Giê-su không đả phá các chức vụ xã hội hay phẩm trật trong Hội Thánh. Nhưng Người muốn các môn đệ đừng tự cao khi đòi người khác phải gọi mình là “ráp bi” nghĩa là “Thầy”. Do đó câu này có thể dịch như sau: “Anh em đừng ham làm thầy thiên hạ” (x. Gc 3,1). + Vì anh em chỉ có một Thầy: Người duy nhất xứng đáng làm “Thầy” không ai khác hơn là Đức Giê-su (x. Ga 13,13-14). Còn tất cả mọi người đều là môn đệ và anh em với nhau. + Đừng gọi ai dưới đất là cha: Đức Giê-su không đả phá cách xưng hô cha con trong gia đình, vì chính Người đã từng dạy người ta phải hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15,4-6; 19,19). Người cũng không chống lại thói quen trong Thánh Kinh: đồ đệ nhận sư phụ làm cha tinh thần như ngôn sứ Ê-li-sa gọi ngôn sứ Ê-li-a là “Cha ơi !” (x. 2 V 2,12). Thánh Phao-lô cũng ví mình như người cha trong Đức Ki-tô mà nhờ Tin Mừng ngài đã sinh ra các tín hữu (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19; Plm 10), và đã cư xử với họ như cha với con (x. 1 Tx 2,11). + Chỉ có một Cha là Cha trên trời: Cha trên trời ám chỉ Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha theo bản tính. Do đó, khi ai được người khác gọi là cha thì phải ý thức mình là cha theo nghĩa được tham phần vào tước hiệu của Thiên Chúa Cha. + Đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo: người lãnh đạo được hiểu là mục tử và thủ lãnh cộng đoàn. Chỉ mình Đức Giê-su mới là Mục Tử duy nhất vì Người đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10, 11). Còn các mục tử khác như linh mục, mục sư… chỉ được tham phần vào chức vụ lãnh đạo tối cao của Đức Giê-su mà thôi.
– C 11-12:
+ Người làm lớn hơn phải là người phục vụ: Đức Giê-su nhắn nhủ các môn đệ phải có lòng khiêm nhường, tự hạ và tôn trọng kẻ khác. Họ không được tranh giành nhau địa vị (x. Mt 20,21-28), nhưng phải phục vụ nhau (x. Mt 20,28; Ga 13,14). + Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống: Đức Giê-su không cấm các môn đệ chu tòan bổn phận dạy bảo các tín hữu (x Mt 28,20). Nhưng Người đòi các ông thi hành quyền lãnh đạo trong tinh thần khiêm hạ phục vụ (x. 1 Pr 4,10-11). + Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Ai càng phục vụ thì càng có địa vị cao trong cộng đoàn (x. Mt 25,34-36), xứng đáng được “sự sống muôn đời” (x. Mt 25,46).
CÂU HỎI:
1) Các kinh sư và người Pha-ri-sêu là những ai ? Khác nhau thế nào ? 2) Ngồi trên tòa ông Mô-sê nghĩa là gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm hãy giữ. Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3).
CÂU CHUYỆN:
1). BÀI HỌC NHỚ ĐỜI
Trong một làng kia, có một ông thầy đồ. Ông nghĩ mình là người hay chữ nên hay khinh thường dân làng. Một hôm, thầy đồ leo lên một chiếc đò để qua bên kia sông ăn giỗ. Hôm ấy đang mùa nước lũ, nên dòng sông chảy xiết. Khi bác lái đò chèo thuyền ra tới giữa dòng, thì thầy lên tiếng hỏi: “Này ông lái đò, ông có biết chữ “nhất một, nhị hai” không ? Bác lái đò đáp: “Thưa không”. Thầy đồ nói: “Thế là ông đã đi đứt phân nửa cuộc đời rồi đó !” Bấy giờ thuyền gặp chỗ nước chảy mạnh, một khúc cây đụng phải thuyền làm nó chao đảo mạnh rồi lật úp, hất cả hai người xuống sông. Cũng may, bác lái đò đã kịp thời nắm được cánh tay ông thầy đồ, trước khi ông bị nước cuốn đi. Bác lái đò vừa bơi vừa hỏi thầy đồ: “Thưa thầy, thầy không biết bơi sao ?” Thầy hổn hển đáp lại: “Không, không”. Bác lái đò liền nói: “Thế là thầy đã đi đứt cả cuộc đời rồi đó !”. Nói xong, bác ta tiếp tục dìu thầy vào bờ. Hôm ấy thầy đồ bị một phen hú vía và uống no thứ nước sông nhơ bẩn. Từ ngày ấy, thầy đồ ít nói hẳn và không bao giờ còn dám tỏ ra khinh thường những người ít học nữa.
2). MỘT VỊ ĐẠO SĨ GIẢ HIỆU:
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới bắt cá. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì đã bị người giàu phát hiện phải chạy trốn. Người này cho gia nhân bao vây hồ rộng mênh mông để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi nhưng vẫn không tìm thấy bóng dáng của tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo đã lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y như một nhà đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Ngày hôm sau, tiếng đồn về một vị đạo sĩ đang ngồi tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ đang vang đi khắp vùng. Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây cạnh hồ để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Chẳng mấy chốc mà đồ cúng được đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ. Bấy giờ nhà tu hành đã nhủ thầm rằng: Thà ta cứ đánh lừa bà con để sống thoải mái, còn hơn phải đi đánh cá vất vả mà chẳng bắt được gì. Nghĩ thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai nhà tu hành đắc đạo: ngày đêm ông tụng niệm và nhận được các đồ ăn dân làng mang tới dâng cúng.
GƯƠNG KHIÊM HẠ NGHÈO KHÓ CỦA MỘT GIÁM MỤC: Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi quyết nghị của Công Đồng giống như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Lời Chúa: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp cho người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá người ta vứt bỏ để nấu ăn. Nhiều người không tán đồng hành động của vị giám mục. Họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho ra Giám mục”. Nguyên là một thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng để sống xứng đáng với họ”.
LỐI SỐNG BÁC ÁI CÓ GIÁ TRỊ THUYẾT PHỤC HƠN VẠN BÀI GIẢNG: Một hôm thánh Phanxicô rủ một thầy dòng đi theo mình như sau: “Chiều nay thầy trò mình sẽ cùng đi ra ngoài giảng đạo nhé”. Sau một buổi chiều đi rảo chung quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai thầy trò quay trở về tu viện. Khi về tới nhà, thánh nhân liền ngồi xuống ghế và nói: “Tạ ơn Chúa”, rồi tiếp tục giữ im lặng. Thầy dòng đi theo ngài liền hỏi: “Thưa thầy, thầy nói mình đi ra ngoài giảng đạo, mà thực tế con đâu thấy cha giảng gì cho ai đâu ?” thánh nhân mìm cười trả lời: “Chính cách đi đứng tử tế, nói năng chào hỏi những người gặp ngoài đường, cách cư xử bác ái chân thành và ân cần giúp đỡ tha nhân của thầy trò chúng ta đã là một bài giảng hùng hồn, và có sức lay động lòng người rồi đó con”.
Việt Nam có câu: Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo”. Nghĩa là rao giảng bằng lời nói mới chỉ giống như hương thơm thoảng qua, còn gương sáng bác ái mới làm cho người đời thán phục và tin vào lời chúng ta rao giảng.
KHÔNG ĐƯỢC BÁNG BỔ CHÚA QUA ĐỜI SỐNG BẤT TOÀN CỦA MÌNH Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn khinh ghét tất cả những hình ảnh mà ông đã cho xâm trên thân mình.
Ngày kia, trong một cố gắng muốn cải thiện mối quan hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng trần của mình. Trở về nhà, ông hãnh diện giơ lưng ra cho vợ xem và hỏi: “Bà có biết ai đây hay không?”. Rồi không đợi cho bà vợ trả lời, ông liền nói: “Chúa đấy”.
Thế nhưng, khi nhìn thấy hình xăm trên lưng của chồng, bà vợ đùng đùng nổi giận và quát lớn:
“Thật là báng bổ. Chúa nào mà lại ở trên cái lưng trần bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông !”
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông khiến ông phải chạy trốn ra ngoài.
Sau trận đòn ấy, ông đến ngồi dưới một gốc cây và tấm tức khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn đau của bà vợ, mà vì ông nhận ra rằng mình không có cách nào để làm vui lòng vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
SUY NIỆM: 1) PHÂN BIỆT HOA THẬT VỚI HOA GIẢ:
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Shaba nghe biết về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, muốn thử xem sự khôn ngoan của vua Salomon thực hư ra sao, bà liền gửi tặng nhà vua hai bó hoa giống y như nhau, một bó gồm những bông hoa thật và một bó gồm toàn hoa giả. Bấy giờ vua Sa-lô-mon liền truyền cho lính gác mở cửa sổ, cho hàng đàn ong bướm quanh vùng có thể bay vào trong phòng. Các chú ong và các nàng bướm kia liền đậu vào những bông hoa thật để hút nhụy.
Các bông hoa giả có sắc đẹp nhưng lại thiếu mùi hương, có hình ảnh nhưng lại không sự sống.
Cũng vậy, những kẻ đạo đức giả nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hoặc “họ chỉ nói mà không làm”. Họ mền yếu với bản thân nhưng lại quá nghiêm khắc với thuộc hạ.
2) PHẢI TRÁNH LỐI SỐNG ĐẠO ĐỨC GIẢ:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã quở trách lối sống giả hình của các Kinh sư và Pharisiêu như sau:
– Họ nói mà không làm
– Họ bó những gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ không động ngón tay vào.
– Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ trông thấy và khen ngợi.
– Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi công cộng, và được người ta xưng hô là Thầy (Rápbi).
Có lẽ khi nghe Đức Giêsu quỏ trách như trên, ai trong chúng ta cũng ít nhiều cảm thấy xấu hổ vì nhận ra hình ảnh con người thật của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng thích khoa trương; Nếu không hay kể công thì cũng muốn được khen gợi; Nếu không ích kỷ thì cũng nói nhiều làm ít…
3) PHẢI TRÁNH THÓI TỰ CAO TỰ ĐẠI:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng dạy chúng ta phải tránh thói muốn làm cha làm thầy thiên hạ của người Pha-ri-sêu qua : “Đừng để ai gọi mình là thầy, là người lãnh đạo, vì chỉ có một Thầy, một người lãnh đạo tối cao là chính Người. Người cũng dạy chúng ta đừng gọi ai dưới đất này là cha, vì chỉ có một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa mà thôi”. Thế mà ở trường, các học sinh đều gọi người dạy mình là thầy cô giáo, các tín hữu gọi các tu sĩ là thầy tu hay sư huynh. Rồi trong gia đình, chúng ta cũng gọi đấng sinh thành ra mình là cha mẹ, tín hữu gọi các linh mục tái sinh mình trong phép rửa tội là cha, gọi giám mục là đức cha, đức giáo hoàng là đức thánh cha, và gọi nhiều vị là Giáo phụ, Thượng phụ, Viện phụ… vậy phải chăng các tín hữu chúng ta đã làm sai lời Chúa dạy ?
Thực ra, chắc một điều là Đức Giê-su không phá bỏ cơ cấu của Hội Thánh. Người cũng không muốn loại bỏ mọi phẩm trật và quyền hành là những điều kiện cần để duy trì cộng đoàn. Do đó, ngay từ thời sơ khai, Hội thánh đã không hiểu câu Lời Chúa nói trên theo nghĩa đen, thánh Phao-lô luôn ý thức mình là cha của các tín hữu và gọi họ là con (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19). Trong Hội Thánh cũng có những chức vụ như thầy dạy (x. Cv 13,1), lãnh đạo (x. Cv 15,22).
Như vậy, qua câu này, Đức Giê-su chỉ muốn dạy chúng ta: hãy nhớ rằng mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về cho vinh quang Thiên Chúa. Nếu có ai đang làm thầy dạy người khác, làm người lãnh đạo cộng đoàn, là do họ đã được Đức Giê-su chia sẻ quyền làm Thầy và làm lãnh đạo của Người. Nếu cha mẹ được con cái gọi là cha mẹ, là do họ đã được tham phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Nên dù chúng ta đang giữ bất cứ vai trò lãnh đạo nào trong Hội Thánh, chúng ta cũng cần có tinh thần khiêm hạ như lời hôm nay: “Còn tất cả đều là anh em với nhau, là con một Cha trên trời” (Mt 23,8).
4) MÔN ĐỆ CỦA CHÚA PHẢI TRÁNH ĐIỀU GÌ VÀ PHẢI LÀM GÌ ?
Qua bài Tin mừng này Chúa muốn dạy ta học tập nơi Người mấy điều sau:
+ Lời nói phải đi đôi với việc làm: Đức Giê-su không cấm các kinh sư giảng dạy Lời Chúa, cũng không cấm người Pha-ri-sêu giữ Luật Mô-sê. Vì nếu họ không giảng dạy thì làm sao dân chúng có thể nghe, hiểu và yêu mến Lời Chúa, như người ta thường nói: “Vô tri bất mộ”. Nếu họ không tuân giữ Luật Mô-sê thì họ đâu còn giữ đạo của Thiên Chúa. Điều Đức Giê-su muốn các mục tử của Người là phải tránh “nói mà không làm”, “tránh đốc thúc người ta làm còn mình chỉ khoanh tay đứng nhìn”. Chúng ta cần thực hành lời Đức Giám Mục chủ lễ phong chức linh mục nhắn nhủ các tân chức như sau: “Con hãy TIN điều con đọc. DẠY điều con tin và THI HÀNH điều con dạy”.
+ Tránh thói đạo đức giả hình bề ngoài: Đức Giê-su đã nêu rõ các thói xấu của các kinh sư và người Pha-ri-sêu cần tránh là: “Làm mọi việc cố ý cho người ta thấy”. Nên nhớ rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương!”: nếu mình thật sự đạo đức thì tự nhiên người khác sẽ biết, mà không cần phải nói ra, phải phô trương công đức trước mặt người đời để cho người ta khen. Chỉ những ai không có thực trong lòng, mới tìm cách phô trương ra bề ngoài như người ta thường nói: “Thùng rỗng kêu to” và “Dốt hay nói chữ”.
+ Tránh thái độ tự cao tự mãn: Đức Giê-su cũng kêu gọi các tín hữu phải tránh thái độ của các kinh sư và người Pha-ri-sêu như : “Ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”, tránh khinh dể những ai thua kém mình. Nên học nơi Đức Giê-su sự “hiền lành và khiêm nhường” trong lòng : “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Phải tránh thói tự cao vì : “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
THẢO LUẬN:
1) Thánh Phao-lô nói: “Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Ki-tô”. Người còn kể ra trăm ngàn nỗi đau khổ ngài đã phải chịu như bị đánh đòi, bị đắm tàu, đói khát, rét mướt, trần trụi… Như vậy phải chăng Phao-lô là một con người phô trương tự mãn ? 2) Ngày nay chúng ta có nên gọi các người dạy học là “thày, cô”, gọi hai đấng sinh thành là “bố, mẹ”, gọi linh mục sinh ra các tín hữu trong phép rửa tội là “cha” hay không ? 3) Trong một bữa tiệc đông quan khách, một người địa vị cao nhất được chủ tiệc mời ngồi vào bàn tiệc danh dự thì có nên tự ý đến ngồi tại bàn cuối để tỏ ra mình khiêm nhường không ? Tại sao ?
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ vì sợ kẻ khác thấy rõ sự thật về mình. Chúng con muốn giữ uy tín cho mình, dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối. Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang những mặt nạ là làm những việc đạo đức bề ngoài để che giấu sự trống rỗng trong tâm hồn. Có khi môi miệng chúng con đang đọc kinh, mà lòng chúng con lại ở xa Chúa. Chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình về những ưu điểm mà thực ra chúng con không có, mà chỉ là sản phẩm do sự tưởng tượng. Xin giúp chúng con biết cởi bỏ mọi thứ mặt nạ đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa người khác, đánh lừa Chúa, và đánh lừa ngay cả bản thân mình.
– LẠY CHÚA. Nhiều lần chúng con đã tranh giành địa vị với người khác. Chúng con bực tức khi thấy ai đó nhiều ưu điểm hơn chúng con, tài giỏi và thành công hơn chúng con. Chúng con hay dèm pha nói hành kẻ vắng mặt mà chúng con không ưa nhằm hạ uy tín của họ. Chúng con thường hay khoe khoang phóng đại những thành tích của chúng con. Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa: luôn sống khiêm hạ và vị tha bác ái. Xin đừng để chúng con rơi vào các thói hư của các kinh sư và người Pha-ri-sêu, đã bị Chúa khiển trách là giả hình, ích kỷ và kiêu căng. Xin cho chúng con luôn biết quan tâm phục vụ tha nhân noi gương Chúa và Mẹ Ma-ri-a xưa
Với nhiều quốc gia trên thế giới, việc xin từ chức của các quan chức, lãnh đạo là điều rất bình TN31-A120
1. Với nhiều quốc gia trên thế giới, việc xin từ chức của các quan chức, lãnh đạo là điều rất bình thường. Có một số lý do để các quan chức, lãnh đạo trên thế giới xin từ chức như: Bị cáo buộc tham nhũng, tự thấy năng lực hạn chế, tự thấy có lỗi với dân chúng vì sự vụ nào đó; do cấp dưới sai phạm hay thậm chí do phát ngôn “lỡ lời”… Từ chức vì thế được xem là một hành vi, một cách ứng xử có văn hóa vốn đã trở thành thói quen, nếp nghĩ của con người ở những quốc gia văn minh, tiến bộ mà chúng ta hay gọi là “văn hóa từ chức”. Gần đây nhất, Bộ trưởng Quốc phòng Anh, ông Michael Fallon đã viết thư cho Thủ tướng Theresa May vào ngày 01/11/2017 để xin từ chức vì: “Nhiều cáo buộc xuất hiện liên quan đến các nghị sĩ trong những ngày qua, bao gồm cả hành vi của tôi trước đây. Hầu hết cáo buộc đều sai nhưng tôi thừa nhận trong quá khứ tôi đã ở dưới chuẩn được đặt ra cho các lực lượng vũ trang mà tôi đại diện”.Hành vi mà ông gọi là “dưới chuẩn được đặt ra cho các lực lượng vũ trang” là hành vi sờ đầu gối của nữ MC truyền hình cách đây 15 năm. Ngoài Bộ trưởng Quốc phòng Anh còn rất nhiều những nguyên thủ quốc gia và các quan chức cấp cao trên thế giới từ chức. Điều đó cho thấy đòi hỏi về tư cách và trách nhiệm của người lãnh đạo là rất quan trọng.
2. Đoạn sách Malakhi được trích trong bài đọc thứ nhất nằm trong phần cáo tội các tư tế về hai điều: trước hết vì họ dâng những con vật tàn tật để làm lễ tế; thứ hai vì họ lơ là và bất trung trong sứ mạng được giao phó. Đoạn chúng ta vừa nghe đọc là lời cáo tội các tư tế vì họ đã lơ là và bất trung: “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy” (Ml 2, 8b). Rõ ràng Thiên Chúa rất chú trọng đến trách nhiệm của những người lãnh đạo trong việc dẫn dắt dân Ngài.
Đoạn Tin Mừng Mt 23, 1-12 của Chúa Nhật 31 Thường Niên A nằm trong bối cảnh Đức Giêsu quở trách thói giả hình của các kinh sư và người Pharisêu. Đức Giêsu nhìn nhận họ là những chuyên viên về Luật, là những người kế thừa ông Môsê. Ngài khuyên dân chúng nghe theo họ khi họ giảng dạy những đạo lý chân truyền của ông Môsê. Nhưng những gì là cá nhân của họ Ngài lại chỉ trích mạnh mẽ và căn dặn dân chúng phải đề phòng lối sống của họ, vì nó mâu thuẫn với giáo lý họ dạy: “Vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 3b). Cái tệ hại của các kinh sư và người Pharisêu là thay vì đưa người khác đến với Chúa, họ lại làm để người ta chú ý đến mình: “nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo”; thay vì giúp người khác nhận ra Thiên Chúa trong thái độ yêu thương phục vụ, thì họ lại muốn người khác nhìn nhận và quy phục mình như một vì Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay là một lời cảnh tỉnh dành cho những người có trách nhiệm lãnh đạo.
3. Trước hết là những mục tử của Chúa. Rõ ràng bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng nhắm đến những người lãnh đạo dân Chúa. Từ thời Cựu ước đã có những mục tử xấu, những mục tử chỉ lo nuôi mình chứ không nuôi chiên, cho thấy cái gì họ thích và cái gì họ lơ là: “Đức Chúa là Chúa thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của ta tán loạn và biến thành mồi cho mọi dã thú. Vì thế hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta, Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên của Ta. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta….” (Ed.34,1-10).
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh trong bài giảng Thánh lễ sáng30.10.2017 tại nhà nguyện thánh Marta, dựa trên đoạn tin mừng theo thánh Luca chương 13, thuật lại sự kiện Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị còng lưngsuốt 18 năm trời: “Mục tử tốt lành là người đến với những người bị loại bỏ hất hủi, là người có lòng thương xót và không xấu hổ khi đụng chạm đến các thân thể bị thương tích. Ngược lại, những người theo chủ nghĩa giáo sĩ trị thì luôn tìm cách tiếp cận với quyền lực hoặc là tiền bạc”.
Đó là một lời cảnh tỉnh cho các mục tử của Chúa.
4. Trách nhiệm của người lãnh đạo còn là trách nhiệm của những người cha, người mẹ trong gia đình; người đứng đầu các tập thể, hoặc đoàn thể… Chúng ta phải tránh lơ là và bất trung trong sứ mạng mà chúng ta được giao phó. Như lời quở trách trong sách Malakhi: “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy” (Ml 2, 8b). Có nhiều cha mẹ trong gia đình “đã đi trệch đường”, chính vì thế đã làm cho gia đình và con cái phải “lảo đảo trên đường Luật dạy”. Họ trệch đường trong việc thờ phượng Chúa nên họ đã chỉ cho con cái mình những giá trị thấp hèn hơn là những giá trị cao cả. Họ đam mê cờ bạc, rượu chè, hút chích, dâm đãng… nên đã chỉ cho con cái mình những giá trị chóng qua hơn là những giá trị vững bền.
Trong dịp lễ cầu cho Các Linh Hồn ngày 02.11 tại Đất Thánh, tôi thấy có nhiều người bỏ nhà thờ lâu năm vì nhiều lý do khác nhau cũng đến tham dự. Chắc chắn một điều vì họ nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân của mình đã qua đời và muốn cầu nguyện để những người đó sớm được lên Thiên Đàng, được hạnh phúc ở đời sau. Tôi ước gì họ biết nghĩ đến số phận mai sau của mình để ngay bây giờ tránh “đi trệch đường”, vì chắc chắn “nay người, mai ta”.
5. Lời Thánh vịnh 130 trong bài Đáp ca hôm nay mời gọi tất cả chúng ta phải biết khiêm tốn để nhìn nhận những “trệch đường” trong bổn phận của mình: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi”; để xin Chúa: “Lạy Chúa xin gìn giữ linh hồn con trong bình an của Ngài”. Nếu nhận ra được những sai lỗi để quay trở lại sống đúng với tinh thần phục vụ của Đức Kitô thì chắc chắn Chúa sẽ cho chúng ta được tiếp tục cộng tác trong sứ mạng của Ngài để làm cho Nước Chúa trị đến. Còn nếu không nhận ra hoặc nếu nhận ra mà cố tình đi “trệch hướng” thì Chúa sẽ đòi trách nhiệm về sự lãnh đạo của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, xin gìn giữ linh hồn con trong bình an của Ngài.
Lãnh đạo, chỉ đạo là những hạn từ chúng ta thường xuyên được nghe từ miệng những vị đang TN31-A121
Lãnh đạo, chỉ đạo là những hạn từ chúng ta thường xuyên được nghe từ miệng những vị đang nắm chức cao quyền lớn ngoài xã hội. Những con đường của hệ thống giao thông hay những con đường phát triển kinh tế, văn hóa xã hội…thì dĩ nhiên cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều người. Tuy nhiên trong niềm tin Kitô giáo thì con đường về trời, nghĩa là con đường để có hạnh phúc vĩnh cửu thì chỉ có một người lãnh đạo, chỉ đạo duy nhất là Đức Kitô, vì chính Người đã khẳng định: “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6); “anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô” (Mt 23,11).
Sự thường người ta ai cũng thích được làm thầy thiên hạ, không mặt này thì mặt kia, không lãnh vực này thì lãnh vực nọ. Thế nhưng muốn làm thầy để dẫn thiên hạ đến hạnh phúc vĩnh cửu thì quả là to gan, vì chỉ có người từ trời mà xuống thì mới có thể biết rõ và biết đúng con đường về trời (x.Ga 3,10-13). Dưới ánh sáng lời mạc khải, thì mọi xác phàm, dù là bậc hiền giả, bậc thánh nhân hay người sáng lập tôn giáo thảy đều chỉ thấy con đường về trời cách lờ mờ như thấy qua tấm gương đồng (x.1Cor 13,12).
Chúa Kitô là Đấng từ trời mà xuống và chỉ mình Người mới có thể chỉ lối dẫn đưa nhân loại chúng ta về trời đến đích. Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Tuy nhiên khi chọn gọi nhóm Mười Hai Tông Đồ và các môn đệ thì Người muốn có nhiều người cộng tác trong việc dẫn đưa tha nhân đến hạnh phúc đích thực. Dù được vinh dự cộng tác với Đấng đã từ trời mà xuống thì những người được gọi là “lãnh đạo” trong đời sống tâm linh vẫn còn đó nhiều hạn chế và bất cập, thậm chí có thể sai lầm.
Chúa Kitô đã từng vạch rõ những lầm lạc của nhiều vị lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ. Sai một li đi một dặm là điều hiển nhiên ứng với những người trong vai vế hướng dẫn quần chúng. Một trong những nguyên nhân lớn làm phát sinh sự lầm lạc đó là lòng kiêu hãnh, cao ngạo, tự tôn. Sự tự tôn, kiêu ngạo thường được khoác lớp áo lộng lẫy bên ngoài hầu che đậy những bất cập, thiếu sót. Người kiêu ngạo, tự tôn khi giữ vị trí cao, vai trò lớn thì hay vẽ vời nhiều sự để “long trọng hóa” bản thân mình. Chúa Kitô đã vạch rõ tình trạng này của nhiều kinh sư và biệt phái thời của Người bằng những lời xem ra thật gay gắt, có khi thì với đám đông dân chúng và có khi trực tiếp với những người này.
Một hệ quả khó lường của sự tự tôn, tự kiêu đó là dễ phạm sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng cho chính bản thân và cho tha nhân, nếu người tự kiêu, tự tôn đang giữ vị trí cao, đang nắm vai trò lớn trong xã hội hoặc trong tập thể tôn giáo. Sai lầm là thân phận con người, một chuyện thường tình dễ thứ tha. Nhưng việc khắc phục hậu quả là một vấn đề nan giải, nhất là khi hậu quả ấy lại di hại lâu dài cho đám đông dân chúng, đặc biệt những người yếu hèn, thấp cổ, bé phận.
Là người lãnh đạo, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự sai lầm của mình và tha nhân cũng không khó để nhận rõ điều này, nếu hậu quả là nhãn tiền. Chuyện mù dẫn mù, cả hai lăn cù xuống hố thì có thể xảy ra, nhưng chỉ là biến cố nhất thời và không kéo dài lâu. Cái tai hại hơn cả đó là cái sự “quáng gà” của những người đang trong vai vế hướng dẫn kẻ khác. Biết một cách phiếm diện, biết một chiều, biết chưa rõ mà những tưởng rằng mình đã biết đủ đầy, biết rõ toàn diện thì bản thân không dễ nhận ra sai lầm của mình và tha nhân nhiều khi cũng khó phát hiện.
Một sự hiểu biết bất cập cộng thêm sư tự tôn thì hậu quả thật khó lường. Theo thiển ý thì mãi vẫn cần có những điềm lạ như Giona, như vua quan thành Ninivê, như nữ hoàng phương Nam ngày nào.
Cần có nhiều Giona mạnh dạn nói lời chân lý không chỉ cho dân chúng mà còn cho cả những người đang nắm quyền cao chức trọng ngoài xã hội cũng như trong các tập thể tôn giáo. Sự thật thì chói tai. Nói lời sự thật thì dễ chuốc lấy hiểm họa. Chúa Kitô đã tuyên bố với dân chúng xưa rằng Người còn hơn cả Giona và Người khẳng khái trước mặt Philatô rằng Người bỏ trời đến thế gian này là để làm chứng cho sự thật (x.Ga 18,37).
Cần có nhiều điềm lạ như vua quan thành Ninivê đó là những vị đang nắm quyền bính cao, đang giữ các vai vị lớn biết khiêm nhu đón nhận lời chân lý, bất kể lời ấy phát xuất từ đâu. Và cũng rất cần có nhiều điềm lạ như nữ hoàng Phương Nam đó là biết khiêm nhu học hỏi sự khôn ngoan nơi cả những người đồng vai, ngang vị với mình.
Sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x.Ga 8,32). Sự thật sẽ đưa chúng ta trở về đúng vị thế của mình. Không ai tự tạo nên chính mình. Sự hiện hữu của chúng ta là một quà tặng, một ân ban từ Thiên Chúa. Đón nhận sự thật này thì không một ai có thể lên mặt tự hào về một vài thành công, dù cho hiển hách, không một ai có thể vổ ngực tự cao về danh phận này hay chức vị kia. Người khiêm nhu thì luôn ở trong sự thật và dù không thể tránh sai lầm ở điều này hay ở mặt kia nhưng chắc chắn sẽ tránh được những sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng cho bản thân và tha nhân.
Lịch sử cho thấy đã có những dòng nước mắt kiểu ăn năn sám hối của nhiều vị lãnh đạo ngoài xã hội, đã có những động thái sám hối và lời xin lỗi của nhiều đấng bậc trong Giáo hội. Dù thực tâm hay chỉ là kế sách mị dân thì chúng xem ra đáng trân trọng. Tuy nhiên vấn đề hệ trọng là khắc phục hậu quả như thế nào đây. Và lịch sử cũng cho thấy là chưa mấy cân xứng. Chính vì thế việc chọn lựa người lãnh đạo là việc mà mọi người, nhất là các nhân sĩ, những người có chút tâm và chút tài phải dấn thân đi đầu hướng dẫn đám đông quần chúng. “Mạnh ở tướng chứ mạnh gì quân”. Kinh nghiệm của cha ông chúng ta vẫn còn đó giá trị.
Có một câu chuyện vui được kể như sau. Một bà đến nói với linh mục chánh xứ: “Thưa cha con TN31-A122
Có một câu chuyện vui được kể như sau. Một bà đến nói với linh mục chánh xứ: “Thưa cha con khổ quá, tại vì đã lâu lắm rồi, nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết phải khuyên nhà con như thế nào nữa.” Cha xứ hỏi: “Vậy ông có nói lý do tại sao ông bỏ không đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?” Bà trả lời: “Thưa cha, chồng con gàn, cứng đầu và ngang bướng, nhưng ông ấy nói cũng có lý, nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng: “Tôi thấy nhiều người giả hình siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ, gia nhập hội đoàn này, nhóm nọ, nhưng chẳng có tinh thần công bằng, đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ xem lễ, đọc kinh, làm nọ làm kia, nhưng về nhà thì sống bê bối, chửi đánh vợ, ra xã hội và tới công sở thì tham lam, gian dối, hẹp hòi, ích kỷ và kiêu căng. Lời nói không đi đôi với việc làm. Nhiều người còn phê bình, chỉ trích, nói hành nói xấu người khác, chê bai, nói xấu cả cha xứ. Họ sợ xấu hổ, không dám làm chứng cho đức tin, cho đạo của mình. Đi lễ, đi nhà thờ, đọc kinh mà sống như thế thì vô ích, càng thêm tội. Đến nhà thờ chỉ thấy toàn là những người giả hình, vậy thì đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!”
Nghe như thế, cha xứ nói với bà: “Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì. Nhưng bà về nói với ông như thế này: ‘Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!’”
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi tin chắc rằng không ai trong chúng ta có thiện cảm với những người giả hình, lời nói không đi đôi với việc làm. Chúng ta càng không ưu thích những người thường chỉ trích, nói xấu hay vu khống cho người khác những điều không có thật, những điều xấu. Bên ngoài họ có vẻ đạo đức, tự cao, tự đại, nhưng lại không có đời sống hiệp nhất, công bằng, ngay thẳng, không có tấm lòng hy sinh, phục vụ, nhất là bác ái và quảng đại. Đó cũng là lý do tại sao trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa thẳng thắng lên án gắt gao những người biệt phái và luật sĩ, những người có đời sống giả hình và tự cao. Họ tự cho mình là đạo đức dạy dân chúng về cách sống đạo. Thế nhưng Chúa đã nhìn thấy những sai lầm trong đời sống đạo của họ, làm hoen ố, mất ý nghĩa và làm cho người khác coi thường đạo. Nhân đó, Chúa đã đưa ra mấy bài học cần thiết, thiết thực cho những người tin yêu Chúa, cho tất cả chúng ta hôm nay, để sống đạo, không phải để theo đạo mà thôi.
Bài học thứ nhất Chúa muốn dạy chúng ta là đừng nói, hãy làm. Chúng ta biết có một khoảng cách rất lớn giữa lời nói và việc làm, giữa lý thuyết và thực hành, giữa ước mơ và hiện thực hay giữa lý tưởng với thực tại. Và chúng ta cũng biết nói thì dễ nhưng làm thì khó, vì vậy người ta dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hay chỉ nói suông mà không làm, hay còn tệ hơn, xấu hơn là việc làm mẫu thuẫn, nghịch với lời nói. Chúng ta thấy có những người phê bình, chỉ trích, nói xấu người khác khi họ vắng mặt thì dễ, nhưng sống hiệp nhất, hy sinh, chân thành yêu thương và quảng đại thì khó hay không làm.
Khi lên án gắt gao những người biệt phái và luật sĩ, Chúa muốn dạy chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy làm, thể hiện tình hiệp nhất, hy sinh, yêu thương và quảng đại bằng những việc làm, hành động cụ thể. Chính những việc làm này minh chứng đạo thật, và mới có sức thúc đẩy cũng như thuyết phục người khác. Đạo lý hay Lời Chúa dù có hay, có đẹp, có ý nghĩa và có ơn sủng đến đâu nếu không thực hiện thì cũng vô ích.
Bài học thứ hai mà Chúa muốn dạy chúng ta là hãy làm một cách khiêm tốn. Thực ra, những người Biệt phái không phải là những người không làm. Họ là những người có sống, có làm. Nhưng họ làm gì cũng muốn phô trương mình đạo đức, kiếm danh lợi hay muốn được khen thưởng, vinh danh, hay muốn cho người khác biết họ giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương, tự cao dễ biến thành tự phụ và kiêu căng, không tôn trọng và coi thường người khác.
Khi lên án gắt gao những người Biệt phái và luật sĩ, Chúa muốn dạy chúng ta sống đạo, thực hành Lời Chúa trong sự khiêm nhường và kín đáo. Khiêm nhường và kín đáo làm việc đạo đức, hy sinh, bác ái và quảng đại là những dấu chỉ lòng yêu mến Chúa chân thực. Lòng yêu mến Chúa chân thực sẽ dẫn chúng ta đến thái độ khiêm nhường biết kính trọng người khác, biết thông cảm và tha thứ, biết hy sinh phục vụ anh chị em và biết quảng đại xây dựng tình yêu thương hiệp nhất, cùng nhau xây dựng Nước Chúa.
Bài học thứ ba mà Chúa muốn dạy chúng ta là hãy làm đúng vị trí. Người Ki-tô hữu hay người đạo đức chân thực sẽ luôn sống dưới ánh mắt của Chúa, nhờ đó nhận thức được vị trí của mình trước mặt Chúa và anh chị em. Người đó biết rõ những gì mình có trong tay là do ơn lành Chúa ban, và cũng hiểu rõ quyền năng phát xuất từ Chúa. Dù được Chúa đặt làm cha, làm thầy dạy, làm người dẫn đầu hay làm bậc cha mẹ, tôi vẫn là con cái của Chúa, tôi đại diện Chúa làm và chu toàn những công việc Chúa trao ban. Trước mặt Chúa, tôi chỉ là người anh chị em với mọi người. Vì lãnh nhận trách nhiệm từ Chúa, nên tôi chỉ là người phục vụ, phải cố gắng chu toàn, làm tốt nhiệm vụ làm cha, làm thầy dạy, làm người hướng dẫn, làm cha mẹ, làm công việc đạo đức, bác ái hay phục vụ. Sống đúng với vị trí của mình giữa lòng cộng đoàn anh chị em cùng một đức tin và thờ phương một Chúa, tôi càng yêu mến Lời Chúa và càng biết khiêm tốn hy sinh, phục vụ và quảng đại hơn.
Qua những bài học Chúa dạy chúng ta hôm nay, xin cho chúng ta biết lắng nghe và nhất là sống Lời Chúa dạy, biết sống yêu thương, hy sinh phục vụ, bác ái và quảng đại noi gương Chúa, để những việc chúng ta làm đẹp lòng Chúa và mang lại những ơn lành hồn xác cho chúng ta.