**** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính, tại một bệnh viện.
Ông đi từ phòng này tới phòng khác, khích lệ và cảm thông với những bệnh nhân.
Ông đến cạnh một anh lính trẻ đang hấp hối và hỏi: "Này bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn ?"
Anh nhìn lên và diễn tả điều ao ước: "Ngài có thể viết thư cho mẹ tôi, giúp tôi được không ?"
Ông đồng ý: "Tôi sẽ viết" và yêu cầu lấy giấy bút. Ông ngồi cạnh giường và viết những gì anh đọc cho.
Viết xong, ông quay lại nói: "Tôi sẽ gởi thư này ngay sau khi rời khỏi văn phòng.
Và bây giờ, còn điều gì khác tôi có thể làm không ?"
Anh ngước nhìn, ngập ngừng, và cuối cùng buộc miệng: "Ngài có thể ở lại với tôi ? Tôi muốn ngài nắm tay tôi".
Ông nắm tay anh, cho đến khi anh chết vài giờ sau đó.
*****
Trong truyện, người bệnh dám đòi điều kiện với viên tổng thống. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm, không dám mở miệng xin Đức Giêsu, mà chỉ lén "sờ vào áo của Người thôi".
Còn ông Giaia thì đỡ hơn, không phải e dè như người đàn bà bị băng huyết.
Vì băng huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Mà người Do thái không chỉ thấy nó dơ về mặt thể lý, mà còn coi nó là một thứ ô uế về luân lý.
Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, bởi chạm tới ai, thì người ấy kể như bị lây ô uế đó.
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu, vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Nên bà định im lặng rờ vào gấu áo của Đức Giêsu thôi.
Dù vậy cũng là phạm luật thánh, là có tội. Đúng thật là khó xử.
Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng.
Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông, thì ông được tin con gái đã chết.
Cả hai mới bắt đầu nhen nhúm hy vọng thì lề luật khắc khe đó như ngăn cản sự sống của hai con người khốn khổ này.
Nhưng cuối cùng thì rào cảng đó đã bị phá bỏ, nhờ tình yêu Đức Giêsu và đức tin của người bệnh.
1. Tình yêu với người bất hạnh
Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng cho tất cả mọi người, nhưng Ngài đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật.
Đôi lúc. chúng ta cám thấy thất vọng, vì cảm nhận như bị Chúa bỏ rơi, có thể đó là những lúc chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu Chúa, chứ ơn Ngài luôn đổ tràn và tình thương Người không bao giờ chấm dứt.
Cũng tương tự như người đàn bà bị loạn huyết và ông Giai-rô hôm nay, chắc chắn khi Đức Giêsu chưa chữa lành bệnh, thì họ vẫn chưa thấy được tình Chúa yêu.
Họ đã gặp được Chúa, mà họ vẫn còn chưa hoàn toàn tin, bằng chứng là những người xung quanh "chế nhạo Người", mà ông Giai-rô là chủ nhà, mà lại không có một lời biện minh, vì ông ta chưa cảm nhận đủ tình yêu, mà Thiên Chúa dành cho gia đình ông, nên ông không đủ can đảm để làm chứng.
*****
Có câu chuyện kể rằng: Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút, xem có dám giết ông không.
5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra.
Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa.
Chợt một bà già hỏi:
- Này ông, ông có đứa con nào không ?
- Ồ, sao bà lại hỏi thế ?
- Nếu một đứa con cầm con dao đưa cho anh, bảo anh giết nó, anh có làm không ?
- Không, tôi thương chúng lắm.
- Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.
Cuối cùng, chúng ta nhận ra rằng: Tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta, luôn bao la, nhưng phần nhận lại được bao nhiêu, là tùy ở mỗi người.
2. Đức tin
Người được biệt danh là "cha của những kẻ tin" là Abraham, khi đã lớn tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa: Ông đưa con lên núi sát tế và lòng thì đau như cắt, mà vẫn tin rằng Chúa, sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo.
Ông vẫn tin và quả thực: Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
Và mẫu gương thứ hai là Phêrô, khi tin, ông dám bước đi trên mặt nước biển,
Nhưng khi bắt đầu hoài nghi, thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Khi có đức tin, thì con người sẽ được múc lấy nguồn năng lực từ Đức Giêsu, như chính người đàn bà bị bệnh hôm nay.
Chính nhờ đức, mà bà đã được nhận nguồn năng lực từ Đức Giêsu
"Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra".
Thì ngày hôm nay, đức tin chính là điều kiện cần và đủ, để chúng ta được sống và sống dồi dào, vì chính Đức Giêsu đã khẳng định:
"Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ" .
Lạy Chúa, Xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, và biết chạy đến với Chúa, để xin Ngài chữa con lành chứng bệnh phần hồn và phần xác . Amen
Gioan Vianney! Người ta gọi ngài là kẻ dốt thần học, không học nổi tiếng Latinh.
Nhưng rồi cả nước Pháp đã phải nghiêng mình trước một "kẻ dốt" làm rung chuyển những tâm hồn nguội lạnh, đưa bao người trở về với Thiên Chúa.
Không bài giảng hùng hồn, không viết những cuốn sách dày, ngài chỉ âm thầm "thiêu cháy mình" trong tòa giải tội, cùng lối sống hy sinh kham khổ.
Gioan Vianney! Trong nhà xứ nhỏ nơi làng Ars, ngài đã sống như một chiếc đèn dầu: Cạn dần đi để soi tỏa sáng.
Dù bị hiểu lầm, chê bai hay bị ma quỷ hành hạ... ngài vẫn không ngã quỵ.
Cha đã từng trốn chạy khỏi xứ Ars, nhưng cuối cùng, ngài đã quyết chọn ở lại. Ngài ở lại để yêu, để đón lấy từng linh hồn tan tác như một người cha nhân hậu.
Gioan Vianney! Cha không có nhiều sức khỏe, nhưng ngài lại giàu sức mạnh.
Sức mạnh ấy không đến từ khả năng hay trí lực, nhưng hoàn toàn đến từ tình yêu của một tôi tớ trung tính với Thiên Chúa.
Cha Vianney đã sống một đời như hạt lúa vùi sâu trong lòng đất, mục nát đi và đã nảy mầm, để chuyển trao ơn sủng của Thiên Chúa cho muôn người.
Kỷ niệm 100 năm ngày tuyên thánh cho Ngài 31/05/1925 - 31/05/2025.
Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh.
Điều đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong bóng tối để đào bới, với hy vọng phá đổ tượng đài ấy.
Trong lúc anh này đang cố gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng dưng đổ nhào xuống trên đầu anh và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.
Đó là một câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu đã từng thâm nhập vào tâm hồn nhiều người.
*****
Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn Tin mừng hôm nay (Mc 6, 1-6):
Nhiều người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh trưởng, đã tỏ ra bực bội, tức tối, vì Ngài được tôn kính và ca tụng, do những lời Ngài nói và những việc lạ lùng Ngài làm.
Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài, không muốn tin vào Ngài, không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào ở chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Thèm khát và ghen tị thì rất gần gũi nhau…
Thèm khát thì liên hệ tới cái người khác có.
Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người khác được.
Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu sang hơn tôi, có nhà cao cửa rộng hơn tôi…
Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được tôn trọng và được kính nể hơn tôi...
Chúng ta cần phải lưu ý: Nếu chỉ mơ ước có được một cái gì đó, mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát.
Mơ ước đó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn phiền, bất mãn và khốn khổ.
Chúa đã qui định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của chúng ta:
- Điều răn thứ chín quy định: Chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ mười: Chớ tham của người.
Và như thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép. Hầu hết các tội lỗi đều do sự ham muốn này gây nên, chẳng hạn: Vì ham muốn tài sản của người khác, mà mới nảy sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian…
Sự ghen tị cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và những hành động mờ ám khác nữa.
Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem cái chết cho Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài.
Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị:
- Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không?
- Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không?
Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta cũng hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, chỉ có yêu thương mới xoá bỏ được hận thù, xoá bỏ được thành kiến, xin cho chúng con biết nhìn anh em bằng cặp mắt tôn trọng, chấp nhận sự khác biệt nơi họ, xoá tan những thành kiến, để ngày ngày chúng con càng gần nhau và gần Chúa hơn. Amen
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau:
Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, nên đã sai một ông tiên xuống để quan sát.
Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông, mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ.
- Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh, đe dọa để xua đuổi.
Ông lão sợ hãi vội chạy đi.
- Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ, nhưng chẳng cho gì.
Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh.
- Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào.
Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô.
Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không ? Nếu không tôi chết mất”.
Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi.
Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”.
Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn.
Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên, chưa biết thỏ định làm gì, thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy.
Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ.
Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày.
Ông lão về trời, tường trình lại mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới.
Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề.
Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
*****
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực.
Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ:
Sói và cáo rất ân hận, vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên, thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.
Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay (Mc 6, 1-6), cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế.
Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ, mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu đã không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế:
Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm, khi ta bịt mắt, không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc ; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt, quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối.
Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần, nhiều cách, qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua các lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta.
Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở ta nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi, như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ: Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen, giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở, yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng, qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức, để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”. Câu chuyện đại khái như sau:
Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa.
Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối, đúng là tâm địa gian manh….
Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa….
*****
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người.
Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề.
Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng, chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực.
Thiên kiến là mắt kính mầu: Vì đeo kính mầu, nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính.
- Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. - Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng….
Hồng, xanh, là ở mắt kính, chứ không ở sự vật.
Vì thế, phán đoán của người có thiên kiến, thường không chính xác.
Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác.
Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi.
Tục ngữ có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.
Con ếch ngồi dưới đáy giếng, chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế.
Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi, cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình.
Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn.
Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật.
Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật.
Chỉ những người thiếu khiêm tốn, mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.
Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại.
Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.
*****
Nếu trong đời sống xã hội, thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém.
Người dân làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu (Mc 6, 1-6).
Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người.
Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin.
Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc.
Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc, rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ.
Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành, khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế, mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin.
Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Và không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa.
Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế.
Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc.
Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời, rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại.
Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với Chúa.
Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn.
Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường, để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa.
Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời, đem lại hạnh phúc cho ta.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tỉnh thức để nhận ra Chúa và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.
Rồi Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này lại xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát.
Thế là mọi người nhanh miệng, vội vàng bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếpthôi, cho một vị tiền nhiệm của ngài, vị Giáo Hoàng có tầm cỡ.
Nhưng nào có ngờ đâu, con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi này lại thu hút mọi người.
Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXIII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
*****
Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”
Thế mà con người làng Nagiarét này là Đấng Cứu Thế, môn dân trông đợi.
Tin Mừng hôm nay (Mc 6, 1-6). kể lại:
Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài.
Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ.
Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.
Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ!
Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình, cho đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”.
Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã, chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa.
Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài,
Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa.
Cuộc chống đối này lên đến tột độ, khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ.
Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu, như thái độ chung của loài người.
Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”:
- “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”.
- “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”.
Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu:
“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11).
Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: Dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.
Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai?
Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta.
Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ, đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng.
Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”.
Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội.
Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác.
Chúng ta làm như thế: Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta.
Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.
*****
Tin Mừng hôm nay (Mc 6, 1-6) mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô.
Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét, hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu?
Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến.
Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người, nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét.
Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền, mà ở trong con người nghèo hèn.
Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.
Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài, để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu.
Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngài đã nói thay Thiên Chúa, để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ.
Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa.
Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa, được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này, mà chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa đã đến thế gian mặc lấy thân phận yếu hèn như chúng con, sống cuộc đời đạm bạc và lam lũ kiếp người, để chia sẻ cuộc đời khốn khó của chúng con và cuối cùng đã dùng cái chết để mang lại ơn tha tội và cứu rỗi cho chúng con.
Xin cho chúng con được biết nhìn ra Chúa trong thân phận kiếp người ấy, để không ngừng yêu mến, quý trọng và nhìn ra những giá trị cao quý nơi anh em đồng loại. Amen.
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm 1913, có tài làm thơ, ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ, rồi gửi tới tòa báo, do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập, để xin đăng.
Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ, mà quẳng ngay vào sọt rác, vì cho rằng, con mình còn nhỏ dại, thì biết gì thi ca.
Khi biết rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ đó và lại gửi tới tòa báo lần nữa, nhưng lần này, anh không ký tên thật của mình nữa, mà lấy một bút hiệu khác.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay lên báo, mà không hề hay biết, đó là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
*****
Đúng là: "Bụt nhà không thiêng",
hay nói như Chúa Giê-su:
"Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
Ngay cả Chúa Giê-su cũng phải chịu cùng một số phận đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi, nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều người bệnh tật và nhờ những phép lạ Người làm.
Thế nhưng, khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau:
"Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người" (Mc 6,3)
Bấy giờ Chúa Giê-su nêu lên một nhận định có phần chua xót: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi."
Thế là Chúa Giê-su chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giê-su theo lớp vỏ bên ngoài, dân làng Na-da-rét đã đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ.
Việc đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người đã chứng tỏ cho thấy, dân thành Na-da-rét đề cao giá trị vật chất, mà xem nhẹ giá trị tinh thần.
*****
Có giai thoại kể rằng: Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ miếng giấy ghi giá bán của những mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng giấy ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những món hàng quý báu. Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng, còn những món hàng rẻ mạt, thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần.
Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng, nên đã mua lầm một cách tai hại (ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “mắm muối cho bữa ăn hằng ngày”)
*****
Ngày nay, các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm, mà rời xa những giá trị tinh thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần, nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần, nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần, nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải, mà người đó sở hữu, chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người, không hệ tại những gì người ta sở hữu, nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"
Nguyện xin Chúa Giê-su giúp chúng ta, đừng theo vết dân thành Na-da-rét ngày xưa, đánh giá con người theo hình tướng bên ngoài, nhưng biết tôn trọng con người, vì phẩm chất cao quý của họ và vì họ là chi thể của Chúa Giê-su và là hiện thân của Thiên Chúa.
Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống mỗi ngày của chúng con, để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con sống sung mãn ơn Chúa mọi giây, mọi phút.
Xin cho chúng con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người. Amen.
Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy, để phụng dưỡng cha mẹ.
Một hôm, ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề, đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến để tầm sư học đạo.
Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật
Dương phủ hỏi:
Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng:
Ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.
Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông.
Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật, mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà.
*****
Đúng như cha ông ta vẫn nói: “Tu đâu cho bằng tu nhà – Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
Thế nhưng, theo thói đời thì vẫn là:
- “Bụt nhà không thiêng”
hay
- “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”.
Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp, mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta.
Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng, với những con người đang sống vì chúng ta.
Có nhiều người: Ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà thì lại gắt gỏng, chửi chồng, đánh con, hay đánh vợ, chửi con.
Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã. Thế mà, người trong gia đình lại suốt ngày cau có, phàn nàn.
Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm, nhưng lại tàn bạo, thô thiển, với gia đình, dòng tộc.
Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân, họ hàng.
Họ chính là những người dại khờ, mà cha ông ta bảo rằng:
“khôn nhà dại chợ”,
hay
“làm phúc nơi nao, để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu (Mc 6, 1-6):
Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ.
Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến, nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu.
- Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa.
- Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa.
- Dù rằng họ đã nghe, nhất là đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm, để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ, bệnh tật và khỏi cái chết đã định.
Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu, con của bác thợ mộc thành Nagiarét.
Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù.
Nhưng, tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu.
Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Đã thế, họ còn có lời nói, những cử chỉ bất kính.
Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ, với một lời thật xót xa:
“Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua, cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu.
Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau.
Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan, sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực:
Vì
“Yêu ai thì nói quá ưa, Ghét ai nói thiếu, nói thừa như không”.
Người tốt hay xấu, tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta.
- Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt.
- Có người ở nhà được coi là vô tích sự, nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn.
- Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta?
Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên, thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau?
Tại sao chúng ta không có cái nhìn cái tốt về nhau, để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương, chỉ dẫn đến đau buồn và thất vọng?
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con đủ khôn ngoan, để nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại, để chúng con đón nhận nhau trong yêu thương.
Và nhất là biết đối xử tốt với nhau, khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa.. . vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu, mà nay đã không còn nữa. Amen
“Nếu đuợc chọn giữa tài tiên tri và óc khôn ngoan, tôi sẽ không ngần ngại chọn khôn ngoan, vì tôi không thể chịu đựng đuợc gánh nặng của sự tiên tri”.
Mà quả thật như vậy: Nếu biết trước những việc tốt xấu có thật sẽ xảy đến và nếu phải gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh, thì quả thật, ơn tiên tri kia là một gánh nặng khôn cùng.
Tôi linh cảm đuợc gánh nặng ngàn cân kia vào những ngày đầu vào tu học.
Hình ảnh về một linh mục “siêu nhân” trong tuổi ấu thơ và ngay cả lúc còn trai trẻ đã vội vàng tan biến trong tôi, như khói như mây, khi gẫm suy bài viết rất thâm sâu của Cha Giáo Tập Michael Buckley, thuộc Dòng Tên ở Hoa Kỳ, với tựa đề “Are you weak enough to be a priest?”
Vị tiên tri thời đại, nếu có thể mạnh dạn gọi như thế, trong một Thánh Lễ truyền chức, thì lại nhắn nhủ các ứng viên rằng:
Câu hỏi cần thiết nhất và duy nhất họ phải thành thật tự hỏi lòng mình là “bạn có đủ yếu đuối để là Linh Mục không?”
Yếu đuối không thôi cũng chưa đuợc!
Điều kiện ắt có và đủ để trở thành môn đệ Chúa Kitô là cần hội đủ yếu đuối.
Không cần một ngoại hình tốt. Cũng chẳng phải một đài trán cao. Cần đủ yếu đuối.
Lời khuyên thật chân thành của một linh mục đàn anh, dày dạn kinh nghiệm đạo đời này, phải là hành trang cho những thế hệ chủ chiên mai hậu.
Không như những nghành nghề khác, thiên chức linh mục đòi hỏi phải sống cùng, sống với những yếu đuối của tha nhân, như lời Solomon ben Meir ha-Levi:
“Nếu bạn muốn cứu một người ra khỏi vũng bùn nhơ hôi thối, đừng một phút giây nào nghĩ rằng bạn chỉ cần đứng trên đất cao và đưa tay cho người kia nắm với.
Chính bạn phải nhảy vào vũng bùn nhơ hôi thối kia và bằngvòng tay rắn chắc của bạn, ôm chặt người ấy và tự kéo cả hai lên bờ cao ánh sáng.”
Hoặc nói như thánh Phaolô: “Với những người yếu đuối, tôi đã nên yếu đuối, để đem lợi ích cho những người yếu đuối” (1Cor 9.22).
*****
Một Mẹ Bề Trên Dòng Biển Đức đã chia sẻ cùng các tân tập sinh là một nữ tu cần phải dùng sức mạnh tinh thần mình, để đạt đến những điều hoàn thiện, nhưng cũng không nên ngại ngùng sợ sệt và thậm chí che giấu những hạn hẹp yếu đuối của mình.
Và điều nguy hiểm tệ hại nhất cho đời sống cộng đồng, là tìm đủ mọi lý do, để bênh vực, chống chế, cho những thiếu sót của mình, vì đó là dấu hiệu của một nội tâm còn rất bề ngoài, non yếu.
Và cách duy nhất biểu lộ trung trực tình yêu Chúa Kitô, là công khai chân thành nhìn nhận những yếu hèn của mình, là những yếu hèn có thật và cố gắng vượt qua, cố gắng lướt thắng mỗi ngày.
Không ai biết đuợc “cái dằm đâm vào thịt” của Phaolô là gì, nhưng điều cần lưu tâm suy nghĩ, là thánh nhân chẳng những không che giấu, mà trái lại, tự hào “vui thoả về những yếu hèn”kia.
Hơn ai hết, Phaolô biết rằng ngay chính Đức Kitô cũng bị khinh bỉ, ruồng rẫy, về lý lịch nguồn gốc gia phả Người.
Và cũng hơn ai hết, Phaolô đã hiểu rằng trong giây phút cô đơn yếu đuối tuyệt vọng nhất trong vườn Cây Dầu và trên cây thập tự, cũng chính là lúc Người đạt đến tột đỉnh toàn thiện vinh quang.
Lạy Chúa, xin thánh hoá cuộc sống chúng con mỗi ngày, để chúng con luôn biết cảm tạ tri ân Chúa, vì Chúa đã ban cho chúng con sống sung mãn ơn Chúa, mọi giây, mọi phút.
Xin cho chúng con trở nên những nhân chứng tình yêu đích thực của Chúa trước mặt mọi người. Amen.
Lời Bàn: “Vạch phân chia tốt xấu xuyên thâu qua trái tim mỗi người. Và có lòng dạ nào lại nỡ đâm nát chính trái tim mình?” Alexander Solzhenitsyn.
Bán đại hạ giá "on sale" đã trở thành như một kiểu sống của xã hội tiêu thụ.
Mở báo hằng ngày, sau khi lướt qua những mục tin tức giật gân, nóng bỏng, thì hầu như ai cũng lật tới những trang quảng cáo, bán đại hạ giá, in mầu sắc rất đẹp và hấp dẫn, với kỹ thuật cao.
Từ các loại quần áo, giầy dép, cho đến đồ ăn, thức uống, máy móc, đồ dùng… thôi thì không thiếu một loại nào, mà không "on sale".
Đang cần mua một bộ bàn ghế cho phòng khách, mình tìm ngay được chỗ bán đồ thật ngon, bộ bàn ghế bằng gỗ, quí giá, mọi khi tới 4 ngàn tiền Mỹ, mà tuần này, nhân dịp lễ Độc Lập, bán đại hạ giá chỉ có hai ngàn rưởi thôi. Thế là có lợi và "save" được tới một ngàn rưởi. Dịp may hiếm có, bỏ qua rất uổng.
Thấy thế, một anh bạn liền chen vào, lời bàn rất ngang tai, nhưng cũng rất hữu lý:
Không mua gì là lợi và "save" nhất.
Khốn nỗi, các quảng cáo thôi thúc, kích động thế kia, làm sao cưỡng lại được?!
Nhà người quen mới mua một bộ bàn ghế cho phòng khách đẹp lắm, với giá phải chăng mà.
Sự đua chen, là một đòi buộc căng thẳng, dường như có sức mạnh phi thường.
Nhiều khi đồ cũ vẫn còn ngon lành, sài được, nhưng cái sức ép, bắt phải chạy theo thời trang, nên cũng phải sắm thêm để thay đổi. Thế là mình răm rắp tuân theo một thứ lệnh vô hình. Rồi sau đó “đi cầy” tối mặt mà trả nợ.
*****
Kiểu sống: Bỏ đồ cũ sắm đồ mới, không ngờ lại ăn sâu vào máu trong mọi lãnh vực.
Ông bà cụ rất có thể bị xếp vào loại đồ cũ, không còn ăn nhập bao nhiêu, nên cũng trở nên một thứ đồ đáng phế thải.
Ngay cả chuyện cưới vợ lấy chồng, ngày nay cũng bị ảnh hưởng cái lối suy nghĩ này.
Tiểu bang Louisiana là một trong những tiểu bang đầu tiên thi hành đạo luật cưới thật và cưới chơi.
Sau ngày 15 tháng 8 năm 1997, các cặp ra tòa xin giấy phép cưới có thể chọn xin cưới thật hay cưới chơi.
Vì thấy tình trạng li dị nhiều quá, bởi cái đầu óc cưới nhau theo hứng.
Cưới thật là cưới một người trung thành cho đến chết dù bất cứ gì xảy ra, gọi là "covenant marriage".
Còn cưới chơi là cưới theo kiểu "on sale", còn hợp thời và hợp nhau, thì còn dùng được, mà nếu đã cũ, hay không thích nữa, thì có quyền thảy đi, để tậu đồ mới, vừa lợi, vừa tiến bộ.
Trước kia, mỗi lần ra tòa li dị, thì phải trưng bằng chứng một bên có lỗi, luật mới bây giờ cho phép bỏ nhau, mà nay không cần nêu bằng chứng như vậy nữa. Không thích và không hợp nữa là dẹp thôi. Để đi tìm đồ "on sale"!
*****
Hội Thánh Anh Giáo ở Louisiana lên tiếng ngay: Chỉ chấp thuận cho cưới trong nhà thờ, những cặp nào xin phép cưới thật, còn muốn cưới chơi thì đi chỗ khác chơi.
Chắc chắc giáo quyền Công giáo cũng sẽ lên tiếng về chuyện lẩm cẩm, mà có thật này. Đúng là thời đảo lộn luân lý.
Tìm về, nhận ra giá trị của những gì xem ra tầm thường, đã có sẵn trong cuộc sống, trong tầm tay, là một trong những thời điểm của con người ngày nay.
Sau khi đua đòi, chạy theo những ảo vọng và những vật lộn hơn thua trầy da tróc vảy, con người thấy quá căng và mệt mỏi, muốn tìm về với những gì thật giản đơn trong cuộc sống thường ngày.
*****
Khi Chúa Giêsu xuất hiện mở Đạo, thì nhiều người thán phục bước theo, vì những phép lạ và Tin Vui, có sức thay đổi cả một đời người.
Nhưng khi trở về quê nhà là Na-gia-rét, thì dân làng bửu môi mai mỉa:
Ông đó là cái thá gì, chúng tôi biết quá mà, cũng là dân tầm thường như mình thôi, chứ có gì mà phải bày đặt.
Thấy thế, Chúa Giêsu nói thẳng vào tâm trạng và lối suy nghĩ của họ:
"Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mác-Cô 6: 4).
Đúng là quen quá hóa nhàm, đứng núi nọ trông núi kia cao.
Người Anh có câu ngạn ngữ cũng gần tương tự:
Bờ cỏ bên kia xanh hơn bên này.
Đứng xa thì thấy ngon lành vậy, mà đến gần thì cũng lơ thơ xờ xạc, nhiều khi còn tệ hơn.
Vậy mà nhiều người vẫn mơ màng ảo tưởng!
Lối suy nghĩ thành nếp sống ấn sâu vào máu máu này, đang hành hạ con người ngày nay, biến thành những tên nô lệ, phải tuân theo những thứ lệnh vô hình, bắt phải rướn mình đua đòi bon chen, khiến luôn bị căng và mệt!
*****
Ngày 12 tháng 7 là ngày giỗ một vị thánh nữ duy nhất của Hội Thánh Việt Nam là thánh Lê Thị Thành, người đã biến cuộc sống gia đình xem ra tầm thường hằng ngày, thành thiên đàng hạnh phúc.
Chính những bí mật tìm lại hạnh phúc theo gia đạo Việt, qua gương sống của Thánh Lê Thị Thành, mà Hội Thánh muốn giới thiệu cho thế giới.
Qua tông thư “Đệ Tam Thiên Nhiên Sắp Đến” Đức Gioan Phaolô II đã đề cao:
“Giáo Hội của đệ nhất thiên niên đã khai sinh trong máu của các vị tử đạo: máu tử đạo là hạt giống sinh tín hữu” (Tertuliano)... Trong thế kỷ chúng ta, các vị tử đạo xuất hiện lại: thường là những kẻ âm thầm, họ như những “chiến sĩ vô danh” cho đại nghĩa Chúa.
Bằng mọi cách có thể, đừng nên làm mất đi chứng tá của họ trong Giáo Hội. Như hội nghị hồng y đoàn đã gợi lên, các Giáo Hội địa phương phải làm mọi cách để gương lành của những kẻ đã chịu tử đạo khỏi rơi vào quên lãng; nên cố gắng thu thập các tài liệu cần thiết trong ý hướng này...”
“Trong viễn tượng hướng về đệ tam thiên niên, tòa thánh sẽ ghi vào trang sử tử đạo của Giáo Hội hoàn vũ, lưu ý nhiều đến sự thánh thiện của những người, ngay ở thời đại chúng ta, đã hoàn thành đời mình trong chân lý của chúa Kitô. Một cách hết sức đặc biệt, cần ghi nhận sự anh dũng của các nhân đức nơi những người nam, nữ, đã thực hiện ơn gọi làm người Kitô trong cuộc sống hôn nhân: Trong xác tín rằng, nhiều hoa trái thánh thiện nảy sinh trong bậc sống này, chúng tôi thấy cần phải tìm ra những phương cách thích hợp nhất, để đề cao và nêu lên cho toàn thể Giáo Hội làm mẫu mực và khích lệ những người chồng người vợ Kitô giáo” (trang 40-42).
Trong những rối loạn về gia đình hiện nay, bao nhiêu khảo cứu về phương pháp tâm lý, sinh lý, xã hội học, cũng chẳng làm gì hơn…
Vậy mà Mẹ Lê Thị Thành lại có thể cung ứng một đường lối rất hiệu nghiệm, mà thật đơn giản. Mẹ biết cách pha chế những gì xem ra nhàm chán, quen thuộc hằng ngày, rồi để lửa Trời biến những miếng thịt hay cá tanh thành những món ăn ngon. Con tim Mẹ mới là ngón tay thần, để lửa tình Chúa biến đổi tất cả.
Bằng sức mạnh của cầu nguyện, của thánh lễ, của những bổn phận săn sóc con cái, với cả thương yêu. Phép lạ là đây. Gia đình êm ấm là đây. Kìa, Mẹ thấy Chúa đang hiện ra ngay trong nhà mình, chứ không bị áp đặt chạy theo những ảo ảnh do xã hội làm căng thẳng xâu xé gia đình.
Ví như Chúa chẳng xây nhà, Thợ nề vất vả cũng là luống công; Thành kia mà Chúa không phòng giữ, Uổng công người trấn thủ canh đêm. (Thánh Vịnh 127)
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân nước Anh là Will Crooks.
Ông ta được sinh ra trong một gia đình rất nghèo. Ký ức đầu tiên của ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa sau.
Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là 5 hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ.
Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã Luân đôn.
Nhiều người rất bất mãn, khi Will Crooks thành chủ tịch Polar.
Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông: “Người ta bầu Crooks làm chủ tịch à, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”.
Một người trong đám đông, chính là Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nazaret khinh dể Chúa Giêsu, chỉ vì Ngài là một thợ mộc. Vì khi Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi sự miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời với tất cả những công việc tầm thường nhất. Những may rủi về gia thế, giầu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng với nhân cách cả.
Chúng ta cần cảnh giác đối với sự đánh giá một người, căn cứ vào vẻ bề ngoài, vào những cái tạm thời, nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
Sự kiện Chúa Giêsu là con trai bà Maria, con bác thợ mộc Giuse, làm cho mọi người không mấy chú ý đến…. Chúa chết chỉ lúc được 33 tuổi, nhưng Ngài đã không lìa bỏ Nazaret trước năm 30 tuổi (Lc. 3,23). Trong suốt thời gian còn ở gia đình, Chúa Giêsu tận tuỵ với công việc, ngay cả trong những việc nhỏ nhặt. Là con bác thợ mộc, Chúa Giêsu bị người ta xem thường.
Từ ngữ bác thợ mộc là tekton. Tekton là thợ làm đồ gỗ, nó còn có nghĩa là người làm nghề làm thủ công.
Đời xưa và cả ngày nay, thợ mộc có thể làm cho bạn bất cứ việc gì, từ việc xây cất nhà, đóng khung cửa, làm tủ, giường, bàn ghế, cho đến cả việc đóng chuồng gà, chuồng bò v.v.
Thế nên, người làng Nazaret khinh dể Chúa Giêsu, vì Ngài là một công nhân, một thường dân.
Hôm nay Chúa Giêsu trở về quê hương xứ sở (Mc 6, 1-6), không phải vì lý do riêng tư là thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc ngày trước. Ngài trở về cùng với các môn đệ của mình, với tư cách là một Rabi.
Chúa Giêsu là Thầy dậy dỗ, đến nỗi các Rabi Do Thái phải rất kinh ngạc.
Chúa đã làm các phép lạ: Dẹp yên bão tố, chữa lành bệnh nhân, cả những chứng bệnh bất trị, xua đuổi quỉ ám v.v.
Những phép lạ này làm sửng sốt mọi người và danh tiếng Ngài đồn ra khắp mọi nơi….
Thế mà, Chúa Giêsu lại bị xem thường tại quê nhà, chỉ vì “bụt nhà không thiêng”, đến nỗi Chúa không làm phép là nào tại đó và chỉ chữa lành một vài bệnh nhân mà thôi.
Chúa Giêsu bị đồng hương coi rẻ, vì những hình thức bên ngoài có vẻ tầm thường, bởi lòng người “quen quá hoá nhàm” hay “gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Hơn nữa, nhiều người Do Thái thời đó còn quan niệm: Đấng Cứu Thế giáng trần với xa mã lộng lẫy, đánh đông dẹp bắc, thống trị địa cầu bằng sức mạnh quân sự và quyền lực của đế quốc, và cho đến nay, nhiều người Do Thái vẫn còn đang chờ đợi Đấng Cứu Thế theo quan niệm của họ!
*****
Ngày nay, Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Ngài còn hiện diện khắp nơi trên thế gian.
Ngài ngự trị trong bí tích Thánh Thể, nhưng dưới hình thức bánh miến và rượu nho, chúng ta có dễ nhận ra dung nhan khả ái của Ngài không?
Các vị đại diện Chúa, mà ta vẫn gọi là “Chúa Kitô thứ II”, danh xưng đó có phù hợp với niềm tin nơi tâm hồn của mình không?
Nhất là những vị đại diện Chúa lại là bà con, họ hàng, bạn hữu, đồng hương của chính chúng ta…
Chúa Giêsu còn ẩn mình trong mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội, mà không phân biệt chủng tộc, mầu da, giầu nghèo, học thức v.v. Chúng ta có nhận ra Chúa nơi tâm hồn tha nhân không?
Hay chỉ thấy bằng con mắt giác cảm: Nhìn nhận qua dáng vẻ béo mập, gầy còm, cao thấp, trắng đen, đẹp xấu v.v.
Ước gì chúng ta có đôi mắt tinh ròng sáng suốt nhận ra chân lý, vẻ đẹp tinh thần giữa muôn hình thức của nếp sống trần gian.
Đối với bản thân, chúng ta cũng phải biết nhận ra Đức Kitô trong tâm hồn mình, nhất là khi hiệp lễ, đừng có mặc cảm vì sự tầm thường bên ngoài, mà không nhận ra những ơn thánh Chúa luôn ban xuống cho ta.
Những dáng vẻ hay tài năng bên ngoài sẽ qua đi hết, cuộc sống quan trọng ở chỗ là làm sao chiếm hữu được nước Thiên Đàng, mà mọi người đều có khả năng lãnh nhận.
Công việc hằng ngày chỉ là tạm bợ, hành trình nội tâm tiến về quê trời, mới có giá trị lâu dài vĩnh cửu.
*****
Sau hết, chúng ta xin Chúa cho mình được Đức Tin mạnh mẽ, để tuyên xưng danh Chúa như thánh Phêrô:
“Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt. 16,16).
Bây giờ, chúng ta không được sống gần bên Chúa như các tông đồ xưa kia, mà chỉ ngắm nhìn Ngài dưới hình bánh hình rượu.
Nhưng điều đó đâu có hề gì, vì như thánh Tôma đã nói:
“Giác quan không giúp được gì cả, và thị giác, xúc giác, vị giác cũng lầm”. Chỉ có đức tin mới làm cho ta nhận biết Thiên Chúa và tin vào lời Đức Kitô tuyên bố: “Đây là mình Ta…. Đây là máu Ta….”
Không những thế, ước gì Đức tin của ta còn phải đi đến chỗ thực hành cao hơn, như các thánh tông đồ đã bỏ cha mẹ, vợ con và mọi sự ở đời này, để nối gót sự nghiệp cứu độ của Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn thấy được giá trị và uy quyền của Chúa Giêsu và tin vào Giáo Hội là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
Mặc dù thấy Giáo Hội ở trong hoàn cảnh nào đi nữa, mặc dù thấy hiện thân của Chúa trên trần gian là các vị linh mục có xuất thân từ đâu, thân thế và sự nghiệp ra sao, đời sống của các vị có thế nào đi nữa, chúng con vẫn một lòng tin yêu và sống trọn tình đạo nghĩa của người Kitô hữu.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tỉnh thức, để có thể nhận ra Chúa và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con, dù dưới với dáng vẻ, dù dưới bất cứ hình thức nào. Amen.
"Con có nhiều mộng ước, từ khi bị mù con phải bỏ tất cả...
Nhưng bất hạnh lại biến thành hồng phúc...
Trước đó, con sống không có Thiên Chúa, giờ đây, nhờ đau khổ, con học biết Ngài, con tìm thấy Ngài, và con không thể sống không có Ngài...
Trước đó, niềm vui của con chợt đến, chợt đi, và không bao giờ con tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của hạnh phúc.
Giờ đây, niềm hạnh phúc của con trờ nên mãnh liệt, tràn đầy, sâu kín và thường xuyên...
Lòng con rực sáng.
Hay nói đúng hơn, Chúa Giêsu rực sáng trong lòng con, mối hiệp thông giữa con và Thiên Chúa, trở nên mãnh liệt...
Chúa cất mất nơi con vài hạnh phúc tạm bợ, để ban cho con chính Ngài...
Trước đó, có nhiều lúc con ngồi yên, không biết phải làm gì, nhưng giờ đây, con dùng thời gian đó để cầu nguyện...
Và khi con mở lòng ra, không qui về mình, mà qui về chính Thiên Chúa, Chúa có thể xuất hiện.
Lòng con cảm nghiệm cách mãnh liệt. Chúa đang có mặt...
Khi con đặt mọi sự trong tay Chúa, con cảm thấy gánh nặng biến mất...
Khi cầu nguyện, con yêu mến Ngài và bày tỏ cùng Ngài mọi sự...
Căn phòng nhỏ bé của con đã biến thành nhà nguyện, để con sống thân mật với Chúa và Mẹ Maria, và con cầu nguyện cho mọi người... Con nhìn mọi người cách khác, và con yêu mến tất cả..." (*)
*****
Đau khổ là một phần quan trọng trong hành trình làm người tiến đến gặp gỡ Chúa và chuyển biến tâm hồn con người thành con Chúa...
Đau khổ không bao giờ do Thiên Chúa. Chúa là Tình Yêu. Sau khi tạo dựng vũ trụ và con người, Chúa phán: "Rất tốt đẹp"...
Nhưng ma quỷ đã đến gieo cỏ lùng vào vũ trụ và vào lòng người, và con người có tự do chọn lựa Thiên Chúa hay không...
Nhưng Chúa dùng đau khổ, biến thành hồng ân, để con người tiến đến một niềm hạnh phúc đích thực và sâu sa hơn...
Niềm đau khổ sau cùng là sự chết, đã trở thành đôi cánh nhiệm mầu, để con người bay vào Thiên Đàng...
Đứng trước đau khổ con người có nhiều cách nhìn: sợ hãi, chạy trốn, hoặc phản ứng, hoặc biến thành cơ hội để nên thánh...
Thánh Faustina viết:
"Giữa những gian truân và nghịch cảnh cam go nhất, tôi không đánh mất bình an nội tâm hoặc sự quân bình bên ngoài, tôi im lặng và cầu nguyện. Sự nhẫn nại sẽ đem lại sức mạnh cho linh hồn..."
Mỗi đau khổ xảy đến là một cơ hội ta chạy đến Cha đầy lòng thương xót và khôn ngoan, Ngài sẽ dạy ta yêu mến đau khổ.
Ta sẽ nhìn đau khổ như Đức Giêsu Con yêu dấu của Ngài, như các thánh... Thánh Ignatius thành Antioch đã vui sướng trong cuộc tử đạo của Ngài: "Tôi nghe lời Chúa vang vọng, như dòng nước hằng sống chảy tràn trong hồn tôi: 'Hãy đến hưởng niềm vui của Cha người'."
Đời sống là một hành trình về nhà Cha.
Khi gặp đau khổ, hay trong tuổi già, là lúc cần quay hướng sống về đời vĩnh cữu: Con người được tạo dựng để sống không phải để chết. Và sự sống tràn đầy là sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Hãy phó thác mọi sự và sự sống sau cùng trong tay Ngài, và để Ngài giúp ta thánh hoá đau khổ và trong hành trình cuối cùng về nhà Cha...
Lời bàn: Thánh Phaolô được Chúa ban cho nhiều tài năng, được thấy nhiều điềm thiêng dấu lạ, nhưng ông đã phải chịu nhiều đau khổ. Ông đã xin Chúa cất đi những đau khổ, nhưng Chúa phán: "Ơn của Ta đã đủ cho con, vì sức mạnh của Ta biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối". Và Phaolô đã tâm sự: "Giờ đây tôi cảm thấy vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô..."
---------------- (*) Tóm tắt và phỏng theo bài dịch "Đức Tin Của Một Thiếu Nữ Mù" của Sr. Minh Nguyệt, TTDM số 314, tháng 2- 2004
Kho tàng chuỵện cổ tích Trung Hoa có kể lại câu chuyện sau đây:
Có một anh chàng tên là Dương Bố, lúc ra khỏi nhà để đi thăm bạn bè, thì mặc bộ đồ trắng, nhưng dọc đường, chẳng may gặp cơn mưa to, áo quần bị ướt đẫm, anh ta phải ghé vào nhà người quen, mượn tạm được một bộ đồ đen mặc đỡ.
Khi trời hết mưa, anh ta trở về nhà, thì bị con chó bông trong nhà anh ta, nhảy bổ ra, sủa ầm ĩ, xông tới muốn đớp anh ta, vì coi anh ta như một người xa lạ, khiến anh ta nổi xung đùng đùng, bèn vớ lấy cây gậy toan đập chết con chó. May nhờ có người anh ruột từ trong nhà nghe thấy, chạy vội ra khuyên can, Dương Bố mới dừng tay, không rượt theo để đập chết con chó nữa.
*****
Dương Bố nổi giận với con chó, đó là một điều nông nổi chẳng nên làm, vì nó là loài vật đâu có trí khôn, làm sao nó biết phân biệt người nhà với khách lạ, khi anh ta đang mặc bộ đồ mầu trắng, sau đó lại đổi ra mầu đen. Nó là con vật, chỉ có thể phân biệt được người này với kẻ kia, qua cách phục sức của họ bên ngoài: Người ra đi, mặc bộ đồ trắng là người quen, còn người trở về đổi bộ đồ đen chắc là người lạ, chỉ có thế thôi.
Còn loài người chúng ta mới đáng kết tội. Bởi lẽ, chúng ta là loài có trí khôn, biết suy nghĩ, biết phân biệt phải trái, điều lành điều dữ, điều thiện điều ác, điều chính điều tà...
Thế nhưng, thường thường người ta cũng chỉ biết đánh giá trị kẻ khác, theo dáng vẻ bên ngoài của họ, y như con chó, không nhận ra chủ nó, khi ông thay bộ đồ trắng ra bộ đồ đen. Đó mới chính là điều đáng trách, khiến chúng ta phải suy nghĩ.
*****
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 6, 1-6), chúng ta nghe biết những người đồng hương với Chúa, mặc dầu rất sửng sốt khi nghe Chúa giảng dạy những lời khôn ngoan, chứng kiến biết bao việc lạ lùng Chúa đã thực hiện; nhưng với tâm trí kiêu căng tự phụ, thấy ai hơn mình thì ghen tương:
“Bởi đâu ông ta làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?”
Đúng như người ta nói: "Trâu cọc, ghét trâu ăn".
Lại thêm cái óc yên trí: "Bụt nhà không thiêng".
Nên họ đã dám mỉa mai, xúc phạm tới Chúa khi nói: "Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?"
Khi tường thuật lại sự kiện này, Thánh Sử Marcô đã phải kết luận rằng: "Họ đã vấp phạm vì Người", để nói lên cái thực trạng cố chấp của họ.
Chúa Kitô đã thấu tỏ tâm tư của họ, nên Ngài đã công khai vạch trần cái tâm trạng chai đá, cứng lòng tin của họ, bằng lời quả quyết:
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình, họ hàng mình".
*****
Thông thường, trong đời sống hằng ngày của con người thời nay, cũng như người Do Thái thời Chúa Kitô, người ta thường mắc phải cái tật xấu này, là hay xét đoán tha nhân theo trí óc hẹp hòi, nông cạn của mình như lời Chúa đã nói:
"Người ta chỉ xét đoán theo diện mạo bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấu suốt tận tâm can con người".
Hơn nữa, người ta lại còn bị cái ác cảm, yên trí về địa vị, dòng tộc, gia cảnh của người khác, để coi thường, để dèm pha, để hạ giá và coi khinh tha nhân.
Mặc dầu đôi khi, không thể phủ nhận được những điều hay, điều tốt nơi những việc làm của tha nhân, thì họ lại tìm cách cắt nghĩa khác theo ý nghĩ vạy vò của họ, để mặc cho những việc làm của tha nhân, một hình thức không mấy tốt đẹp.
Chẳng hạn, khi thấy người này làm việc thiện giúp đỡ những người nghèo túng, thiếu thốn, thì lại mỉa mai, cho họ là người khoe khoang.
Khi thấy kẻ khác được thành công, được may mắn, thì lại chụp mũ cho là do mánh khóe, mưu mô, mà được như thế...
Những trường hợp tương tự như vậy, chúng ta thường thấy nơi xã hội loài người chúng ta ngày nay.
Thật là bất công, khi thấy kẻ khác hơn mình, được danh giá địa vị hơn mình, được thành công may mắn hơn mình, đã không chung vui, chia sẻ, chúc mừng,… lại còn ghen tương, dèm pha, hạ giá, mỉa mai, bêu xấu và mặc cho họ một chủ ý bất lương.
*****
Dân Do Thái đã từng được nghe những lời giáo huấn khôn ngoan, những giáo lý cao siêu, phát ra từ môi miệng Chúa Kitô, giúp con người đạt được hạnh phúc, làm cho xã hội được lành mạnh, khiến người ta biết sống tương thân tương ái, hòa thuận thương yêu nhau, đến làm cho họ phải sửng sốt bỡ ngỡ.
Thế rồi, họ còn được chứng kiến bao nhiêu phép lạ Chúa làm, để tỏ lòng thương yêu họ, làm cho bánh hóa nhiều nuôi sống họ lúc bị đói lả; chữa lành bao nhiêu người ốm đau bệnh tật, phục sinh kẻ đã chết, khu trừ ma quỉ...
Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện tỏ lòng yêu thương dân tộc, tỏ quyền năng cao cả của một Thiên Chúa, để cứu dân tộc Ngài tuyển chọn khỏi ách nô lệ Ai Cập...
Nhưng họ vốn cứng lòng tin, vốn ương nghạnh, chống đối, không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông.
Chính vì lòng kiêu căng, cố chấp, mà họ đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, bởi cuộc sống khiêm nhu, tầm thường, nghèo nàn của Chúa, đã không hợp với nhãn quan lầm lạc của họ.
Vì theo quan niệm tự mãn, tự cao, tự đại, vinh sang, oai hùng của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, cần phải có một Chúa Cứu Thế uy hùng, quyền năng cao cả, đến thống trị, trên Ngai Hoàng Đế Israel, làm bá chủ Thế giới.
Chính vì cái nhãn quan hẹp hòi nông cạn và quan niệm kiêu căng đó, mà họ đã chẳng khác gì như "Con chó", không nhận ra chủ, không nhận ra Chúa và bao nhiêu ơn phúc Chúa dành cho họ, là dân Ngài đã tuyển chọn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sự khiêm nhường và tình yêu của Chúa, để chúng con biết yêu thương mọi người, yêu cả những người thù ghét mình.
Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên dữ dội tại nước Su-đăng, thuộc Phi Châu.
Một sinh viên Công giáo da đen, tên là Taban, đã bỏ nhà, chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn.
Trong thời gian ở đây, Taban đã được nhận vào chủng viện. Và sau 7 năm tu học, anh đã được thụ phong Linh Mục.
Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Taban quyết định trở lại quê nhà, để thi hành sứ mệnh linh mục của mình.
Cha được Bề Trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka.
Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha, như chính ngài đã thuật lại sự kiện ấy như sau:
"Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói: "Này anh bạn da đen kia ! Anh nói cái gì vậy ? Anh mà là Linh mục ư ? Thật là khó tin !".
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một Linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các Linh mục thừa sai da trắng đến chăm sóc và chia sẻ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men.
Còn bây giờ, cha Taban lại là một người da đen, nghèo khó, giống như họ, nên chẳng có gì để phân phát, như các linh mục da trắng kia.
Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Taban bắt đầu canh tân phụng vụ Thánh lễ theo đường hướng mới của Công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau:
"Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ, thay vì bằng tiếng La tinh. Chắc ông ta không rành tiếng La tinh, nên mới làm như vậy ! Không biết ông ta là Linh mục thật hay giả ?".
Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả để phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị, khinh dể, cuối cùng cha Taban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
*****
- Câu chuyện về Linh mục Taban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giê-su bị dân làng Na-da-rét không tin Người là Đấng Thiên Sai, cho dù rất thán phục tài giảng đạo và quyền năng chữa bệnh của Người.
Lý do họ vấp phạm, là vì gia thế hèn kém của Người.
Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? (x Mc 6,2-3).
Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) luôn thù ghét Ki-tô giáo và nhiều lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau:
"Giê-su Đấng sáng lập của các người chỉ là một gã thợ mộc, dốt nát, bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường !
Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bẻ, phải vất vả kiếm sống, bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !"
Đức Giê-su phán: "Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi !".
Ngày nay, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên, khi bị người đời chống đối, do chúng ta không chấp nhận phá thai, ly dị, hay khi ta chống lại những bất công, mà các phụ nữ và trẻ em đang phải chịu đựng.
Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên, khi có những Ki-tô hữu phản đối chúng ta, vì chúng ta khác họ về chủng tộc, tiếng nói, quốc gia hay về tình trạng kinh tế.
Cuối cùng, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên, nếu đôi khi ta bị những người thân ruột thịt chống lại ta, vì chúng ta đã tin Đức Giê-su, như Người đã báo trước:
"Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai và con trai chống lại cha, Mẹ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ; Mẹ chồng chống lại nàng dâu và nàng dâu chống lại mẹ chồng" (Lc 12,53).
Trong mọi trường hợp, chúng ta cần vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Người sẽ không để chúng ta phải chịu đựng quá sức chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chấp nhận thất bại, trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng.
Nhiều lần, chúng con cũng đành phải chấp nhận thất bại, khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh...
Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn, chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường sống và rao giảng Tin Mừng.
Xin cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui, lúc buồn, khi thành công được người lắng nghe, cũng như lúc bị từ chối xua đuổi.
Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng: Thất bại là mẹ thành công, và chính Chúa xưa kia cũng đã từng chịu thất bại, trước sự cứng tin của người đồng hương. Amen.
Bà Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết:
Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con, trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê.
Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn cho bé trai này bú sữa của chúng.
Bà Delia kể tiếp:
"Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này, khi bé nhảy xuống biển hòng thoát thân.”
Vì lâu ngày ở chung với chó, nên em không biết nói tiếng người, mà chỉ biết gầm gừ như chó.
Vì em cũng chẳng biết tên của mình, nên báo chí gọi em là bé Chó. (Nguồn: ABC nEWS, Santiago, June 19, 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu lương thực tinh thần, như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Tuy có hình hài con người, nhưng em lại mang tính cách của loài chó hoang.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ rằng:
Nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác, mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.
Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu (Mt 4,4).
*****
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả khó nhọc, các Tông đồ tụ họp quanh Chúa Giê-su và kể cho Ngài biết thành quả các ông vừa đạt được.
Bấy giờ đám đông dân chúng tuôn đến đông đúc, kẻ tới người lui tấp nập, khiến các môn đệ không còn giờ nghỉ ngơi và ăn uống.
Chạnh lòng thương các Tông đồ vất vả nhiều mà chẳng được nghỉ ngơi, Chúa Giêsu bảo các ngài hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng, để nghỉ ngơi đôi chút.
Kế đó, Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền tìm chỗ nghỉ ngơi.
Đoàn dân chúng đoán biết địa điểm, mà Chúa Giêsu và các môn đệ sẽ tới, nên họ vội vã chạy đến nơi ấy trước Chúa Giêsu.
Thế là khi vừa bước lên bờ, Chúa Giêsu lại gặp đông đảo những người, mà Ngài mới từ giã họ để lánh qua đây.
Trước đám đông dân chúng đổ xô đến với mình, như đoàn chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót họ và ban cho họ thứ lương thực thiêng liêng tối cần thiết, là những lời dạy dỗ khôn ngoan (Mc 6,34).
*****
Hôm nay, chúng ta không phải vất vả tìm kiếm Chúa Giê-su để được đón nhận Lời khôn ngoan của Ngài, như đám đông người Dothái được thuật lại trên đây, vì chúng ta có Lời Chúa ở bên cạnh chúng ta, có Chúa Giêsu là hiện thân của sự Khôn ngoan đang sống giữa chúng ta.
Vấn đề quan trọng, là chúng ta có mở tâm hồn ra để đón nhận, có bỏ công sức để khai thác “kho tàng” vô giá này hay không.
Khai thác kho tàng trong tầm tay
Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp, mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại, nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ, chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới.
Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực, từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.
Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa.
Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn ngoan, luôn ở cùng chúng ta.
Nhưng tiếc thay, chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Muốn bắt được cá lớn, người ta phải dong buồm ra khơi, vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ.
Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu, đầy gian nan hiểm trở…
Vậy muốn tìm được “kho báu”, chúng ta phải chấp nhận dành thời giờ. để tìm kiếm và khám phá Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức, để tìm kiếm và khai thác “kho báu” trong Tin mừng của Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng, được hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày, và được hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Amen.
Thánh Augustinô đã kể lại câu chuyện về tấm lòng quảng đại xảy ra lúc ngài đang sống tại Milanô, nước Ý như sau:
Ngày kia, một người nghèo lượm được cái ví, trong đó có 200 đồng tiền vàng.
Vì là người ngay thẳng, nên ông muốn trả cái ví cho người đã đánh rơi, nhưng không biết tìm đâu ra chủ cái ví tiền.
Ông ta liền viết một tấm bảng treo trước cửa nhà, mời ai mất ví đến nhận lại. Đọc được tấm bảng, người mất ví tìm đến xin nhận lại của đánh rơi.
Sau khi tra hỏi kỹ lưỡng, người nghèo kia trả lại cái ví cho chủ nó.
Người mất ví cám ơn rối rít và ngỏ ý tặng cho người nghèo kia 20 đồng vàng, tức 1/10 số tiền trong ví.
Nhưng người nghèo nhất quyết không nhận món tiền ấy.
Người mất ví liền xin ông ta nhận 10 đồng, nhưng ông cũng không nhận.
Cuối cùng, người mất ví nài nỉ ông ta nhận cho 5 đồng, người nghèo kia vẫn một mực từ chối.
Khổ tâm, vì không thể biểu lộ được lòng biết ơn của mình, nên người mất của bèn ném cái ví xuống đất và nói:
“Bởi vì ông không chịu nhận đồng nào, nên tôi tuyên bố: Tôi không hề mất chiếc ví này”.
Nghe thế, người nghèo kia đành nhận món quà, nhưng ngay lập tức, ông đem số tiền chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông.
Quả là một câu chuyện thật đẹp về tấm lòng quảng đại !
Cả hai nhân vật trong câu chuyện đều không chịu thua lòng quảng đại của nhau.
Lòng quảng đại luôn làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa và đáng sống.
Tuy nhiên, với bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, lòng quảng đại còn góp phần làm nên cả một phép lạ ! (Ga 6, 1-15).
Vì thế, ta có thể gọi “phép lạ hóa bánh ra nhiều” chính là phép lạ của lòng quảng đại.
- Trước hết, đó là tấm lòng quảng đại của Chúa Giêsu:
Ngài đã chạnh lòng thương xót đám đông dân chúng bơ vơ, lạc lõng, như đàn chiên không có chủ chăn.
Chúa đã nhìn thấy sự đói khát của họ. Không những họ đói khát tinh thần, tức đói khát lời Chúa, nhưng họ còn đói khát thể lý, tức đói khát cơm bánh.
Với cái đói tinh thần của dân chúng, Chúa Giêsu đã ban cho họ lời Hằng Sống. Và với tấm lòng quảng đại thật sâu sắc, Chúa còn nhận ra họ đang lê bước trong cái đói của thể xác.
Cái đói tâm linh là rất quan trọng, nhưng cái đói thể xác cũng quan trọng không kém, vì “có thực mới vực được đạo”.
Vì thế, Chúa Giêsu đã thể hiện lòng quảng đại trước sự bất lực của các môn đệ và mọi người.
Như tông đồ Philipphê đã thưa với Chúa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Với quyền năng, Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5.000 người ăn no nê, từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé. Sau đó còn dư 12 thúng đầy bánh vụn.
Chúa Giêsu thực hiện phép lạ này không phải do dân chúng cầu xin hay bởi các môn đệ đề nghị, nhưng là hoàn toàn tự nguyện do lòng quảng đại của Ngài.
- Thứ đến, ta kể đếntấm lòng quảng đại của cậu bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Có người cho rằng: Cậu là một em bé bán hàng rong. Nhưng có người lại cho rằng: cậu bé đã cố gắng đi theo Chúa để nghe lời Chúa và 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ kia chính là phần ăn cậu mang theo.
Nhưng dù là của ai, cậu bé cũng đã quảng đại dâng cho Chúa tất cả những gì quý nhất lúc đó, để Chúa thực hiện phép lạ.
Dĩ nhiên, lúc ấy có thể nhiều người khác cũng có phần ăn của mình như thế, nhưng họ đã hẹp hòi giấu đi, để hưởng dùng một mình.
Đó chính là nguyên nhân gây nên thảm cảnh nghèo đói của nhân loại hiện nay. Thế giới đang cần những trái tim tuy nhỏ bé, nhưng đầy quảng đại, như trái tim của cậu bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá.
- Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người
Có người cho rằng: Phép lạ hóa bánh ra nhiều trong sách Tin Mừng không có thật.
Sở dĩ có hiện tượng mọi người có đủ bánh và cá ăn no nê hôm ấy vì có tác động tâm lý từ việc làm của cậu bé.
Cậu bé đã quảng đại chia sẻ phần ăn của mình cho người bên cạnh. Hành động ấy đã thúc đẩy những người khác cũng lấy phần ăn của mình, mà chia cho người khác. Vì vậy mọi người có đủ bánh và cá để ăn, thậm chí còn dư thừa nữa.
Nhưng đó là lập luận của những người chỉ đề cao ý nghĩa của sự chia sẻ cách thực dụng.
Thật ra, mọi người lúc ấy đều nhận ra sự thiếu thốn và đói khát của dân chúng khi đi theo Chúa.
Hơn nữa, cả bốn Tin Mừng đều thuật lại phép lạ này với nhiều chi tiết.
Tuy là phép lạ thật sự, nhưng phép lạ ấy không phải được Chúa làm từ không mà có.
Phép lạ ấy được Chúa thực hiện với sự cộng tác của con người.
Dĩ nhiên, Chúa có thể làm phép lạ từ không nên có.
Nhưng Chúa muốn có phần đóng góp của con người.
Năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Chính phần đóng góp nhỏ nhoi đó đã làm nên phép lạ kỳ diệu.
Chúa Giêsu cũng có thể thực hiện phép lạ một mình, không cần sự giúp đỡ của người khác.
Nhưng Chúa lại nhờ bàn tay cộng tác của các môn đệ, để phân phát bánh và cá cho dân chúng, rồi dân chúng lại truyền tay cho nhau.
Ngài muốn con người cộng tác với Ngài và với nhau để làm nên phép lạ lớn lao đó.
Được cộng tác với Thiên Chúa, chính là một hồng ân cao cả, mà Thiên Chúa dành cho con người.
Nhất là Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong công trình cứu rỗi của mỗi người. Như lời thánh Augustinô:
“Khi tạo dựng chúng ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Khi Chúa Giêsu nhìn thấy đám đông dân chúng đến với Ngài trong cơn đói khát, Ngài đã thốt lên: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?”.
Có lẽ đó cũng là một vấn nạn lớn lao được đặt ra cho chúng ta hôm nay, khi chúng ta đang đối diện với một thực trạng xã hội hiện thời: Vẫn còn nhiều người nghèo đói trên thế giới: Đói cơm bánh, đói văn hóa, đói tình thương, đói nhân phẩm con người,… Tất cả đang chờ đợi một phép lạ và phép lạ thì chờ đợi lòng quảng đại của chúng ta.
Ngày xưa, ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ để 20 chiếc bánh lúa mạch hóa ra nhiều cho 100 người ăn no nê (Bài đọc I). Nhưng sau đó, con người vẫn đói.
Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người ăn no nê. Nhưng sau đó, mọi người vẫn đói.
Ngày hôm nay, trên bàn thờ mỗi ngày, phép lạ lớn lao vẫn tái diễn, khi Chúa bẻ tấm bánh đời mình, để trao hiến cho nhân loại.
Với lương thực thần linh là chính Thánh Thể Ngài, nhân loại sẽ no thỏa mãi mãi, không còn đói khát nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi để cũng biết bẻ tấm bánh đời mình, chia sẻ cho tha nhân. Càng được bẻ ra, tấm bánh tình yêu càng được nhân lên thật nhiều cho mọi người.
Năm 1999, giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”.
Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân, không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. Số tiền thưởng của họ là 980.000 đôla cũng được dành cho những người bất hạnh trên toàn trái đất.
Phép lạ “bánh hóa nhiều” chỉ có thể tiếp diễn và kéo dài trong thế giới, nếu vẫn còn có những trái tim “không biên giới” như thế.
Ta hãy xin Chúa ban cho con người biết chia sẻ cho nhau những tấm bánh cuộc đời, để tình yêu thương được nhân rộng khắp nơi.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa, vì lòng nhân hậu của Chúa dành cho chúng con, và đặc biệt vì lương thực dồi dào trên bàn thánh.
Xin cho chúng con biết sử dụng quà tặng của Chúa, sao cho những người khác cũng biết lòng nhân hậu của Chúa và cảm tạ Chúa như chúng con. Amen.
Trận động đất kinh hoàng khoảng 8.9 Ritcher, xảy ra tại Nhật Bản, vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Và tiếp theo sau là những cơn sóng thần đã quét sạch những làng ven biển.
Ngày hôm sau, tại Fukushima, cách nhà máy điện nguyên tử khoảng 25 km, một cảnh sát Nhật, gốc Việt, gặp cháu bé 9 tuổi, học lớp 3, đang đứng cuối cùng hàng người rồng rắn, để chờ phát chẩn. Em mất cả cha lẫn mẹ trong thiên tai.
Thấy em co ro trong chiếc áo thun, quần đùi, anh cảnh sát thương tình cởi áo khoác, trùm lên em.
Vô tình, làm rơi gói lương khô, khầu phần ăn tối của anh. Nhặt lên, anh đưa cho bé:
"Con ăn đi. Đợi tới phiên của con chắc là hết thức ăn. Đây là khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói."
Tưởng em bé sẽ ngấu nghiến ăn ngay, nhưng nào ngờ, em ôm gói lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm, và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng.
Ngạc nhiên vô cùng, anh cảnh sát hỏi em, tại sao con không ăn, mà lại đem bỏ vào đó.
Em trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".
Câu chuyện thật cảm động của cháu bé Nhật Bản 9 tuổi, gợi lại hình ảnh chú bé trong Tin Mừng hôm nay: Có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá khô, sẵn sàng hiến dâng cho Chúa Giêsu.
Trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, có ba thái độ khác nhau trước yêu cầu của Chúa Giêsu, muốn cho dân chúng được ăn.
1. Thái độ thoái thác
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?"… Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút." (Ga 6, 5, 7)
Tông đồ Philipphê chân thành thưa với Chúa như vậy, không có gì sai trái, mà trái lại còn quá chính xác, rất thực tế, rất thuyết phục.
Nhưng vô tình biểu lộ một thái độ có vẻ như buông xuôi, tránh né, thoái thác trách nhiệm với cộng đoàn.
Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa: “Mua bánh ở đâu?” thì ông đáp lại bằng một câu phủ định khá tiêu cực. Một cách từ chối mệnh lệnh rất khéo léo.
2. Thái độ hoài nghi
Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."(Ga 6, 8-9).
Tông đồ Anrê có vẻ tích cực hơn, gần gũi hơn với cộng đoàn, mới phát hiện một em bé có mang theo 5 chiếc bánh và 2 con cá.
Tuy ông cũng thành thật, cũng suy luận rất thực tế, nhưng lại bộc lộ thái độ có vẻ hoài nghi, thiếu tin cậy vào quyền năng Chúa.
Ông cũng không chịu giải quyết thấu đáo đề nghị của Chúa. Mặc dù thừa hiểu Chúa muốn gì, nhưng cũng như Tông đồ Philipphê, ông đã chọn cách đối đáp bằng một câu khẳng định ẩn ý nghi hoặc.
3. Thái độ dâng hiến.
Tương tự cậu bé Nhật Bản nói trên, em bé trai ở đây có thái độ rất hồn nhiên, nhân hậu, phó dâng và tín thác hoàn toàn.
Em bé đã mau mắn dâng hiến món quà mọn của mình cho Chúa. Dù em nghèo, chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu để làm của ăn đi đường, em vẫn chân thành dâng lên Chúa hết tất cả, không mảy may tính toán, hay giữ lại chút nào cho riêng mình.
Chính từ tấm lòng trong sáng, phó thác, tin cậy, nhân từ, cùng tinh thần hợp tác chặt chẽ này, mà Chúa Giêsu đã vui vẻ đón nhận bánh và cá, để đáp ứng lại gấp vạn lần.
“Con trẻ không giữ gì riêng, ai cho gì nó cũng giao cho cha mẹ. Con hãy phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, con sẽ được an toàn hạnh phúc.” (ĐHV, số 731)
Trong tâm tình đó, Đức Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã dâng lên Chúa món quà nhỏ mọn, 13 năm ngục tù, với tự truyện vắn tắt “Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá,” chan hòa tình yêu và hy vọng.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn trẻ thơ, luôn phó thác trông cậy vào Chúa, không so đo hơn thiệt, không tránh né tránh nhiệm, để con tìm thấy Chúa trong mọi người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con sống đơn sơ, hồn nhiên, biết dâng lên Chúa tất cả những gì mình có, dù nhỏ mọn, bất xứng, để được Chúa thánh hóa cuộc đời con. Amen.
Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng nhờ chuyên cần làm việc, nên đã trở nên giàu có.
Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh và cảm thấy sức khỏe mình đã yếu nhiều, nên ông muốn trao phó cơ nghiệp lại cho người con nào thông minh nhất.
Thế là ông cho gọi ba người con đến, trao cho mỗi người hai ngàn đồng bạc và bảo họ phải đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng của ông.
Người anh cả nghĩ rằng đấy chỉ là một công việc dễ dàng, nên anh đã ra chợ và mua về một bó rơm rất lớn.
Người con thứ suy nghĩ kỹ hơn một tí, nên đã mua về một bao lông vịt.
Còn người con thứ ba, nghĩ mãi, nghĩ hoài, mà vẫn chưa biết phải làm gì với hai ngàn đồng bạc cầm trong tay.
Bỗng một ý nghĩ vụt sáng trong đầu óc, thế là anh vội chạy ra tiệm tạp hóa, mua một cây nến và một hộp quẹt.
Ngày hôm sau, cả ba anh đem đến trước giường bệnh của người cha.
- Anh con cả hì hục vác vào một bó rơm, nhưng rơm không đủ phủ kín một góc nhà.
- Anh con thứ khoan khoái xách giỏ lông vịt, nhưng lông vịt cũng chỉ phủ được phần nào của căn phòng mà thôi.
- Giữa lúc người cha đang thất vọng, thì anh con út bước vào. Trong chớp nhoáng, anh đánh diêm, thắp nến và căn phòng phủ đầy ánh sáng.
Người cha mỉm cười, đắc ý, về sự thông minh của anh con út và ông đã trao cho anh ta phần lớn gia tài của mình.
*****
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 6, 24-35) và chúng ta thấy: Chúa Giêsu cũng muốn trao phó sự nghiệp của mình cho các môn đệ và Ngài không muốn nó bị tiêu tan.
Trọn sự nghiệp ấy phải được lãnh hội, phải được đón nhận và phải được khai thác đúng mức.
Thực vậy, sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa. Lợi dụng vào đó, Ngài đã giới thiệu với họ một thứ của ăn thiêng liêng, nuôi sống linh hồn, đó là mình máu Thánh Ngài, như lời Ngài xác quyết: Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống…
Thế nhưng, dân chúng và cả các môn đệ lại cho là chướng tai gai mắt, không thể nào chấp nhận được, cho nên họ đã rời bỏ Chúa.
Trước tình cảnh ấy, Chúa Giêsu đã quay lại và hỏi các tông đồ: Còn các con, các con có muốn bỏ Ta mà đi hay không?
Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã tuyên xứng:
“Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống”.
Lời tuyên xưng của Phêrô đã giúp chúng ta vượt lên trên những vấn đề thường ngày, như cơm bánh, như sinh kế, như công việc làm ăn, đồng thời đưa chúng ta lên cao, để nhìn rõ bản thân, mọi người và mọi sự, theo quan điểm của Chúa, hầu thấy được rằng: Vạn vật tất cả đều do bởi Chúa.
Trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy: Rơm và lông vịt không thể lấp đầy căn phòng, nhưng ánh sáng của cây nến, do người con út thắp lên, đã chiếm lĩnh toàn bộ căn phòng.
Cũng vậy, với tấm bánh từ trời xuống là chính thịt máu Chúa, tự hiến cho loài người, thì cả nhân loại được tràn ngập tình yêu mến và lòng xót thương của Chúa. Bởi vì, chỉ nhờ ánh sáng đó, mà con người mới thực sự được hạnh phúc.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn: “Trả được thù rồi”.
Ngày qua tháng lại, thấm thoắt mười mấy năm, cô gái đã có chồng con. Một hôm, có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà nhận ra đó là kẻ chặt ngón tay mình, vội vàng trở vào nhà bảo đầy tớ đem sữa bánh ra cho ăn.
Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt hai ngón ra cho hắn xem và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi”.
Tên ăn mày xúc động khóc ngất.
Riêng bà kia, vì đã trở lại đạo nên hiểu rằng:
“Nếu kẻ thù mình đói, hãy cho nó ăn, khát hãy cho nó uống...” (Rm 12,20) .
Hai cách trả thù: Cách của người ngoại giáo và cách của người công giáo (Trích “Phúc”).
*****
Trong nỗ lực đưa nhân loại đến với đức ái trọn hảo, Chúa Giêsu đã dạy con người phải biết tha thứ không ngừng cho nhau, qua con số tha thứ bảy mươi lần bảy tức là luôn tha thứ.
Chính Ngài là tấm gương sống động, khi cất lời xin Cha tha thứ cho những kẻ thi hành án tử với Ngài (x. Lc 23,34).
Tấm gương tha thứ ngay lúc họ gây cho Ngài đau khổ nhất, phản chiếu khuôn mặt nhân từ như Ngài kêu gọi: “Phải có lòng nhân từ” (Lc 6:36).
Hơn nữa, tha thứ là điều kiện để chính mình được thứ tha, như Ngài dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con nhưng chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Sách Huấn Ca nhấn mạnh kẻ thù hận là người không có lòng yêu thương và không đáng được tha tội: “Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (Hc 28,4-5).
Cho nên, sách Huấn Ca đã dạy trước: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Chính vì lẽ đó Chúa Giêsu kêu mời mọi người:
“Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ... Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:36-37).
Tha thứ, khuyến khích người được thứ tha trở về với con đường chính lộ và nảy sinh tình yêu, khi sống trong vòng tay nhân ái, đó là động lực để họ dấn thân trong yêu thương: Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít (x. Lc 7,47b).
Sống tha thứ là giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến.
Tha thứ làm thêm cho cuộc sống tâm linh: tiến tới đức ái trọn hảo theo gương Chúa Kitô, cũng làm cho cuộc sống thêm nhân văn: Sức khỏe được bảo vệ.
Tuy nhiên, con đường dẫn đến thứ tha cũng đầy gian nan, dù chỉ nói một lời tha thứ.
Mỗi chúng ta đã từng cảm nghiệm: Để đến và hòa giải được, quả thật không đơn giản, nhất là những ai gây tổn thất nặng về tinh thần và thể xác.
Tha thứ luôn đòi hỏi vừa có sự nỗ lực cố gắng nơi con người, vừa cần trợ giúp ân sủng đến từ Thiên Chúa, Đấng tỏa sáng gương mặt bao dung, yêu thương, chậm giận và giàu lòng xót thương.
Con sẽ cố gắng tha thứ, xin cho con được ân sủng thứ tha của Thiên Chúa ở trong con, để con có thể can đảm tha thứ cho anh em.
Lạy Cha .… xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy".
Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: Đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ.
Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này được đưa ra, nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật.
Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận:
Những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu, mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người (Mt 22, 34-40).
Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người.
Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa, mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người, mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật.
Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu.
Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: Họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết;
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân.
Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa.
Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: Người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; Yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn.
Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.
*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).
*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...
*** Và bạn cũng có thể chép đường link trên: https://... gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.
---------------------------------
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (12 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
11. Những câu chuyện biến hình – Sách 11
12. Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban – Sách 12
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (23 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12
13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
19. Cách hành xử của Chúa luôn là bất ngờ - Sách 19
20. Năm Thánh - Ất Tỵ 2025 - Sách 20
21. Đừng hành động đang khi nóng giận - Sách 21
22. Chuyện chưa từng kể về Giáo Hoàng Lê-ô XIV - Sách 22 23. Lòng Thương Xót Chúa đã thắng - Sách 23
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (34 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
31. Các Con đã Bỏ Quên Mẹ trong Luyện Ngục – Sách 31
32. Đừng lân la, đùa giỡn hay thách thức ma quỉ – Sách 32
33. Một đức tin đích thực, cần phải được tôi luyện trong đau khổ – Sách 33
34. Phép lạ của lòng quảng đại – Sách 34
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (7 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6
7. Tinh hoa và những lời nói sau hết của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Phần I)– Sách 7.