Chúa Giêsu cùng các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia, tình cờ sóng gió nổi lên dữ dội HP41
Chúa Giêsu cùng các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia, tình cờ sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ lo sợ quýnh cả lên, trong khi đó Chúa Giêsu bình tĩnh ngủ trong khoang thuyền coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các ông phải đánh thức Ngài dậy và xin cứu giúp. Ngài trách các ông sao nhát thế, kém lòng tin như vậy ! Sau cùng Ngài cũng lấy uy quyền truyền cho sóng gió phải yên lặng. Sau sự kiện này, các môn đệ ngạc nhiên và đặt câu hỏi Ngài là ai mà sóng gió phải vâng lời Ngài ? Ta nhận thấy, các môn đệ tuy còn ít lòng tin vì chưa nhận ra con người thật của Chúa, nhưng cũng đã biết chạy đến Chúa cầu cứu khi gặp gian nan nguy hiểm. Đây là bài học cho chúng ta mỗi khi gặp gian nan thử thách, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài giúp đỡ. Trong cuộc đời chúng ta, không thiếu gì những gian nan thử thách, không thiếu gì những đau khổ. Chúa vẫn thương chúng ta, nhưng vẫn để chúng ta gặp gian nan thử thách để giúp chúng ta trưởng thành hơn và giúp chúng ta biết tin cậy vào Chúa. Trong cuộc sống hôn nhân cũng không thiếu gì những sóng gió, nhưng chúng ta phải biết rằng xem ra Chúa đang ở xa chúng ta, đang ngủ đấy, nhưng Ngài vẫn theo dõi cuộc chiến đấu của chúng ta, và khi nào chúng ta không còn dựa vào sức mạnh của mình mà chỉ biết trông cậy vào Chúa, lúc đó Chúa mới ra tay.
II. BÃO TỐ CUỘC ĐỜI. Trong cuộc sống con nguời ở trần gian này, người độc thân cũng như người có gia đình, trong cuộc sống cá nhân cũng như trong gia đình và ngoài xã hội, chúng ta như những những con thuyền đang lênh đên trên biển cả trần gian, những cuộc bão tố có thể nổi lên trong mọi lãnh vực kinh tế, xã hội, đời sống vật chất cũng như tình thần, không ai có thể trốn tránh được.
1. Bão tố trong đời sống thường ngày. Trong cuộc sống thường ngày của mọi người, không ai có thể tránh được những gian nan khốn khó, những cuộc thử thách cam go. Chúa bảo ông Phêrô:” Ma qủi nó sàng con như sàng gạo”. Chúa cũng bảo chúng ta phải cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ. Khỏi sa chước cám dỗ không có nghĩa là không bị cám dỗ, không bị thử thách nhưng có nghĩa là# chúng ta hãy xin Chúa đừng để ta thua chước cám dỗ. Gian nan thử thách là điều cần vì nhờ đó mới biết ai trung thành với Chúa , vì người ta thường nói : Có cứng mới đứng đầu gió
2. Bão tố trong cuộc sống hôn nhân. Già đình nào mà không gặp khó khăn ? Những khó khặn, những cơn thử thách có thể xây ra bởi nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan như: - Tội nguyện tổ. - Vấn đề kinh tế. - Vấn đề xã hội. - Vấn đề tâm lý... Ngay sự khác biệt tâm lý cũng có thể gây ra mối bất hòa bùng nổ hoặc ngấm ngầm. Những sự bất hoà trong đời sống hôn nhân không thể bị triệt tiêu nhất là khi hai người luôn phải sống với nhau và hay có những bất đồng ý kiến trong cuộc sống gia đình. Nếu không biết dung hòa những khác biệt ấy, vợ chồng sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Ta có thể ví gia đình là một con thuyền lênh đênh trên biển đời, không thiếu gì những phong ba bão tố làm chìm con thuyền. Muốn cho con thuyền khỏi bị chìm, cần có sự cộng tác của vợ chồng trong việc chèo chống cùng với sự giúp đỡ của Chúa.
III. BA CUỘC KHỦNG HOẢNG. Trong đời sống gia đình, mỗi người gặp khó khăn về một phương diện, không ai giống ai, nhưng có 3 cuộc thử thách mà ta gọi là 3 cuộc khủng hoảng mà mọi người phải trải qua. Dĩ nhiên, đây chỉ là 3 cuộc khủng hoảng nói chung chứ nhiều người không phải gặp khó khăn trong 3 cuộc khủng hoảng này.
1. Khủng hoảng vỡ mộng. Năm bảy tháng hay một năm sau khi cưới, người ta có cảm tưởng mình đã chọn lầm. Vì sao ? Vì những mơ mộng ban đầu đã bay dần, còn đâu những hình ảnh đẹp như “hoàng tử của lòng em”, hoặc như “nàng công chúa của anh”, vì hai con người thật đã bị lộ diện. Cái hay cái dở, cái tốt cái xấu đã bị phơi bầy ra. Vì ý thức mình phải ăn đời ở kiếp với một con người có nhiều khuyết điểm và giới hạn như thế ! Có lẽ còn nhiều lý do khác nữa thấy người ta thấy hối tiếc mà trước đây mình không ngờ hoặc chưa nghĩ tới.
2. Khủng hoảng nhàm chán. Năm bảy năm sau ngày thành hôn, hai vợ chồng thường rơi vào tình trạng nhàm chán. Có thể như đã khám phá ra hết rồi, hoặc không còn thấy sự khoái cảm trong việc chăn gối hoặc vì muốn tìm cảm giác mới lạ: Cam ngon quít ngọt đã từng, Thèm quả khế rụng trên rừng chưa ăn. hoặc vì gánh nặng gia đình: Gái có chồng như gông đeo cổ Trai có vợ như rợ buộc chân và nhiều lý do khác đưa đến cám dỗ ngoại tình. Nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine đã có kinh nghiệm khi ông nói: “Nơi bạn, tất cả đều tha thứ, bỏ qua, Nơi tình nhân, tất cả đều hài lòng, hoàn toàn. Nơi vợ chồng, tất cả đều nhàm chán mệt mỏi.
3. Khủng hoảng hồi xuân. Cơn khủng hoảng nhàm chán qua đi không được bao lâu, cơn khủng hoảng hồi xuân đã tới. Trong thời kỳ này, người chồng cũng như người vợ, nhất là người vợ thấy mình đã bước vào tuổi già rồi mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu, nên muốn sống vội sống cuồng: Chơi xuân kẻo hết xuân đi Cái già xồng xộc nó thì theo sau. Khủng hoảng hồi xuân này xẩy ra vào khoảng 40-45 tuổi, lúc hai người, cách riêng là ông, có mặc cảm là đời mình thất bại. Hai người trở nên lãng mạn, thích phiêu lưu tình cảm, cho rằng chỉ có mối tình mơ mộng mới có giá trị, mới đáng sống. Người ta có thể đi đến chỗ vất bỏ tất cả những gì đã dầy công xây dựng: ông đi yêu một người đẹp bằng tuổi con gái mình, và bà kết thân với một chàng trai tơ.
Nói như vậy không có nghĩa là mỗi gia đình đều phải trải qua 3 cuộc khủng hoảng. vì có những gia dình không phải không phải trải qua một cuộc khủng hoảng nào, hoặc chỉ qua một cuộc khủng hoảng thôi. Có những gia đình luôn bền vững và sống trong hạnh phúc.
Truyện: tài tử Galicopter Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất trong thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ông nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khoảng cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rocki người vợ đã chung sống với ông trong gần 30 năm như sau: “Rocki là người đàn bàn kỳ diệu. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là nàng đã biết ở bên cạnh tôi mỗi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến nàng. Nàng là một người vợ đích thực”. Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng: hạnh phúc gia dình chỉ có thể có được nếu hai vợ chồng cùng chung nhau xây dựng, chứ không riêng ai. Nhưng dầu sao người vợ cũng đóng vai trò quan trọng, người đóng vai chủ động. Sở dĩ tài tử Galicopter khen vợ mình như vậy là vì ông là con người hiểu biết, lại được một ngừời vợ biết yêu thương va biết# chiềú chồng. Nếu gia đình nào cũng như thế thì không sợ phải nhận lấy những tai hại gây ra do ba cuộc khủng hoảng đó. Để có một gia đình hạnh phúc, chúng ta hãy lắng nghe Đức Giáo hoàng Piô XII mô tả một gia đình Kitô hữu kiểu mẫu như sau: “Các bạn sẽ thấy mọi người trong gia đình ấy quan tâm chu toàn bổn phận của mình một cách hữu hiệu và ý thức. Mỗi người tìm cách làm vừa lòng mọi người. Mọi người đều tìm cách thực thi công bình, lòng thành thực, sự hiền lành, sự quên mình, với nụ cười trên môi và trong tâm hồn. Họ kiên nhẫn chịu đựng nhau, tha thứ cho nhau, và thể hiện sức mạnh trong giờ phút thử thách. Các bạn sẽ thấy các bậc cha mẹ giáo dục con cái trong yêu thương và rèn luyện các nhân đức. Trong một gia đình như thế, Thiên Chúa được tôn vinh và phục vụ một cách trung thành, tha nhân được đối xử một cách tử tế, Các bạn có thể tìm thấy một nơi nào đẹp đẽ và xây dựng hơn không”? Lm Giuse Đinh lập Liễm,
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Hãy nghe và suy niệm Lời Chúa:”Về lời ăn tiếng nói, có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt HP42
Hãy nghe và suy niệm Lời Chúa:”Về lời ăn tiếng nói, có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt đặt truyện là do lòng tà mà ra”(Mt 5,37).. Chúa dạy ta hãy tôn trọng sự thật, có thì nói có, không thì nói không, chẳng phải thề thốt gì cả. Nhưng con người yếu đuối hay thay lòng đổi dạ nên phải đặt ra thề nguyền để làm bảo chứng cho lòng trung thành như giao ước, khế ước , giao kèo, hôn ước. Chính dân Israel đã ký giao ước với Thiên Chúa ở núi Sinai, thế mà đã thay lòng đổi dạ, đã bao nhiêu lần bội ước: phản bội Chúa, nhưng Chúa vẫn thương ban ơn tha thứ. Do đó, chúng ta mới có Thánh kinh Cựu ước và Tân ước. II. THỀ NGUYỀN TRONG ĐỜI SỐNG. 1. Trong thực tế cuộc sống. Trong khi giao tiếp với nhau, người ta luôn thề nguyền bằng lời nói, bằng chữ viết hay bằng cử chỉ như véo tay... để nói lên lòng trung tín của người ta. Nếu không có lời thề nguyền như vậy, người ta thấy không yên tâm mặc dầu biết trước lời thề nguyền ấy có thể bị hủy bỏ do tự nguyện hay bị phản bội. Có xã hội nào mà không có thề nguyền ? Ngay trẻ con cũng có. 2. Lý do đưa đến thề nguyền. a) Bản tính con người. Con người đâu có phải là thần thánh, con người yếu đuối như cây sậy trước gió, hay sa ngã. Chính vì vậy mà nhà đại tư tưởng Blaise Pascal đã nói:”Con người không phải là thiên thần, cũng không phải là con vật, và ai muốn là thiên thần lại là con vật”. b) Trong công việc làm ăn. Trong công việc làm ăn buôn bán, người ta hay thiếu chữ “tín” nên không thiếu gì những công ty vỡ nợ, những hợp đồng bị bể tung, những con nợ ăn quịt, tình trạng “xù đẹp” là rất phổ biến. c) Trong đường tình. Người ta yêu nhau, chọn nhau làm vợ làm chồng, người ta thề nguyền với nhau trọn nghĩa sắt cầm nhưng không thiếu gì những cuộc tình giữa đường đứt gánh do phản bội. Họ coi lời thề nguyện như trò chơi, chẳng có giá trị gì. Thi sĩ Nhất Tuấn đã nói thẳng thừng không ái ngại: Thôi đừng kể chuyện ngày xưa, Bởi vì đoạn kết bài thơ có rồi. Giận hờn thì cũng đành thôi, Dại gì giữ mãi một lời thề suông. Trước khi kết hôn, ai không cảm thấy lo lắng cho tương lai ? Không biết người bạn đời của mình có chung thủy không ? Khi đã tìm được người yêu, muốn trao thân gửi phận cho họ, cô gái dặn dò người tình của mình một cách chân tình: Anh về em nắm cổ tay Em dặn câu này anh chớ có quên: Đôi ta đã trót lời nguyền Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng. (Ca dao) III. CÓ NÊN THỀ NGUYỀN KHÔNG ? Có một cô bé gửi cho anh Bồ câu một câu hỏi thế này:”Em có đọc một câu danh ngôn: “Những lời thề của ái tình không đến tại Thượng Đế”. Vậy chẳng lẽ tất cả mọi lời thề thốt trong tình yêu đều “gỉa dối” hết sao anh” ? Anh Bồ câu đã trả lời:”Không chỉ ở phương Tây, người Phương Đông cũng hay chế diễu sự thề thốt. Dân gian bảo: “Lời thề cá trê chui ống” cùng với ý nghĩa na ná như vậy. Ở đây ta không nên xét đến những lời thề giả dối, nghĩa là những lời thề mà người nói ra biết chắc là mình sẽ không bao giờ thực hiện. Đó là lời thề của những hạng người ưa “nuốt lời” hay còn gọi là “xù đẹp” ! Nhưng ngay cả những lời thề nghiêm túc và chân thành nhất cũng chỉ có ý nghĩa nêu bật quyết tâm của người thề trong lúc đó mà thôi. Thề thốt thì dễ, nhưng gìn giữ và thực hiện đúng đắn lời thề thì không phải ai cũng làm được trong đời sống, nhất là đời sống tình cảm, không ai có thể nói trước được điều gì. Vì vậy, chúng ta sống và chủ yếu là dựa vào niềm tin chứ không nên dựa vào sự bảo hiểm của bất cứ một lời thề thốt hay hứa hẹn ngọt ngào nào. (Anh Bồ Câu, Nói chuyện... Phượng Hồng, tr 22-23) Trong nghi thức Hôn phối, anh chị phải nói lên quyết tâm của mình, chọn nhau làm vợ làm chồng và còn phải thề hứa, thề một cách công khai và trịnh trọng trước mặt vị đại diện Giáo hội, trước mặt hai người làm chứng và cộng đồng dân Chúa lời cam kết của mình. Ví dụ: “Tôi Giuse Nguyễn văn Tèo nhận em Maria Nguyễn thị Tẽo làm vợ và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em...” Đây không phải là lời thề suông như thi sĩ Nhất Tuấn đã nói mà đây là một lời thề trọng thể có ý thức và có chất lượng. Lời thề này có tính cách vĩnh viễn mà không ai có thể tháo gỡ được như lời Chúa Giêsu đã nói:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp loài người không được phân ly”(Mt 19.6). KẾT LUẬN Xin Chúa cho chúng ta được giữ lòng chung thủy trong đời sống hôn nhân. Người ta đã khuyên răn và cảnh cáo mọi người về điểm nay: Nói lời phải giữ lấy lời, Đừng như con bướm đậu rồi lại bay. (Ca dao) Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người không bao giờ thất hứa, Người thực hiện tất cả những gì Người đã hứa. Theo gương Mẹ Maria mà bước đi trong hành trình đức tin như lời bà Elizabeth đã nói với Mẹ Maria trong lần viếng thăm người chị họ:”Phúc cho em là người đã tin rằng lời Chúa hứa sẽ được thực hiện”. Thánh Phaolô cũng nói với các tín hữu Côrintô về sự trung tín của Thiên Chúa:”Thiên Chúa là Đấng trung tín, nhờ Người anh em được kết hợp cùng Con Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,3). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát,
Đà lạt
Năm nay trúng mua cà phê, ai cũng vui mừng vì có của ăn của để. Nhờ được một số tiền tích trữ HP43
Năm nay trúng mua cà phê, ai cũng vui mừng vì có của ăn của để. Nhờ được một số tiền tích trữ, mọi người đang thi nhau xây nhà, nhà lầu, nhà trệt, nhà nào cũng phải khang trang đẹp mắt. Mỗi khi xây xong một ngôi nhà, trước khi đưa vào xử dụng, anh chị em thường mời tôi đến làm phép nhà mới và tổ chức ăn mừng tân gia. Bất cứ ai cũng phải có nhà để mà ở, nếu không chỉ là kẻ lang thang đầu đường xó chợ. Chắc ai trong chúng ta cũng đã có một lần nhờ bạn bè chở về nhà. Khi gần đến nhà, chúng ta sẽ lấy ngón tay chỉ căn nhà với mái nhà, với vách tường, với một vài chi tiết đặc biệt nào đó, và bảo: Đây là NHÀ TÔI. Đã nhiều lần chúng ta sung sướng cho bạn bè xem tranh ảnh gia đình mình, và bảo: Đây là NHÀ TÔI. Một vài anh chị em trong chúng ta khi gặp bạn bè, sung sướng giới thiệu vợ hay chồng mình cho bạn bè vào bảo: Đây là NHÀ TÔI. Không cần mái, cũng chẳng cần vách, chỉ cần có người yêu bên cạnh, mình đã có thể bảo: Đây là NHÀ TÔI. Với tất cả cái thâm thúy ấy, người Việt chúng ta dịch chữ CHURCH thành NHÀ THỜ. Đây là NHÀ nơi tôi, nơi chúng tôi THỜ phượng Thiên Chúa, tôn kính tổ tiên... Có lẽ không có cha mẹ Việt nam nào sáng sớm Chúa nhật thúc con cái dậy với câu: Dậy đi các con, dậy đi hiệp dâng Thánh lễ ??? Nhưng chỉ gỏn gọn một câu: Con ơi, dây đi NHÀ THỜ. II. HAI TIẾNG “NHÀ TÔI” PHONG PHÚ. Nghe tiếng NHÀ TÔI nó thân thương thế nào ấy. Nó có nghĩa đen và nghĩa bóng. Khi chủ nhà được hỏi: - Sao lại thích làm cửa kính mầu Toyota ? Người chủ trả lời: - Nhà tôi xây theo model Pháp, nên NHÀ TÔI thích làm như vậy. Cùng tiếng NHÀ TÔI mà có hai nghĩa: * Nhà xây bằng gạch hay làm băng gỗ, bằng tranh. * Bà vợ hay người chồng. III. CÁCH DÙNG CỦA NGƯỜI VIỆT. Người Việt thích dùng tiếng NHÀ TÔI để vợ chồng gọi nhau, rất gọn: - Ông có nhà không ? - Nhà tôi hôm nay đi họp. - Bà có nhà không ? - Nhà tôi vừa đi chợ. Người Việt ta không thích dùng chữ “chồng tôi hay vợ tôi” mà thích dùng chung một chữ NHÀ TÔI cho nó thân thương, cho nó gần gũi. Truyện: Nhà tôi Có một người tỏ ra hiểu biết đã cắt nghĩa chữ NHÀ cho một anh bạn: - Khi gọi NHÀ tức là đã am hiểu sâu sắc về một vấn đề gì đó, ví dụ “nhà sử học” tất nhiên phải am hiểu sử hơn một “nhà văn”. Một “nhà văn” phải am hiểu văn hơn “nhà toán học”, một nhà toán học phải am hiểu về toán hơn một “nhà nghệ thuật”... Anh bạn hỏi chọc sự thông thái của anh bạn kia bèn hỏi: - Vậy còn người nào cao ráo , đẹp đẽ và rất sạch sẽ thì gọi là “nhà gì” ? Anh bạn còn lúng túng chưa biết trả lời sao, thì anh bạn kia hỏi ngay: - Gọi là NHÀ VỆ SINH phải không ? Anh bạn kia !!! IV. HÔM NAY XÂY DỰ#NG NGÔI NHÀ. Hai anh chị hôm nay đến đây chính thức xây dựng ngôi nhà gia đình qua lời hứa hôn với nhau để từ nay có thể gọi nhau là NHÀ TÔI. Ngôi nhà này giờ đây được xây dựng và tức khắc được làm phép ngay. Xin Chúa chúc phúc cho ngôi nhà này, bảo vệ nó khỏi sự dữ, đổ tràn ơn phúc trên ngôi nhà này hầu nó được trở nên nhà của Thiên Chúa. Ngôi nhà này hôm nay đã hoàn thành, mọi người ăn mừng tân gia. Mọi người đều hoan hỉ chúc mừng. Do đó, anh chị hãy qúi trọng ngôi nhà này, hãy bảo dưỡng nó. Người ta xây nhà để ở, cho nên anh chị hãy ở mãi trong ngôi nhà này, đừng ra đường mà ở hay đi ở nhờ nhà người khác, kỳ lắm !!!
V. CƠN CÁM DỖ BÁN NHÀ. Có người chóng chán, không thích ở nhà cũ, muốn tìm ngôi nhà mới tiện nghi hơn, tốt hơn vì người ta thường đứng núi này trông núi nọ. Truyện: quảng cáo bán nhà. Có người kia làm chủ một ngôi nhà to lớn nằm ở ngoại ô thành phố. Ông ta nhất định bán cả nhà và đất để tìm nơi khác tốt đẹp hơn. Ông tìm một người chuyên môn buôn nhà đất đến để lượng giá và quảng cáo hộ. Sau khi đã quan sát kỹ lưỡng mọi chi tiết, chuyên viên thương mại đánh giá, viết ngay lời quảng cáo và đọc lại cho chủ nghe. Nghe qua một lần, chủ nhà xin chuyên viên đọc lại lần nữa: “Cần bán ngôi nhà rộng rãi , nhiều phòng, có vườn chung quanh, đẹp, nơi yên tĩnh, không bị ô nhiễm, nằm ngoại ô thành phố, thuận tiện đường giao thông, gần nhà trường, bệnh viện, nhà thờ...” Nghĩa là tất cả những điểm tốt, thuận lợi của ngôi nhà và vị trí đã được anh chuyên viên khéo léo đặt vào trong lời quảng cáo. Nghe xong lần thứ hai lời quảng cáo, nét mặt chủ nhà vui hẳn lên và quyết định:”Thôi, tôi không bán ngôi nhà này nữa, vì theo lời anh mô tả, đây là một ngôi nhà lý tưởng mà tôi hằng mong ước. Lời quảng cáo của anh đã thức tỉnh tôi”. Cái nhà là nhà của ta. Ta yêu qúi nó. Ta chăm sóc nó, ta bảo vệ nó. Nhưng nhiều khi ta cũng chán nó. Nếu Chúa và Hội thánh cho phép, có lẽ nhiều người dám bán cái “NHÀ TÔI để tậu nhà khác lắm, chỉ vì đứng núi này trong núi kia cao. Cơn cám dỗ này còn được chạy tội kiểu “cả vú lấp miệng em” để đổ lỗi cho người khác. Nhưng, nếu thành thật, chúng ta phải nhận rằng: những rạn nứt và đổ vỡ trong gia đình, phần lớn là do “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Đừng tưởng rằng cứ bỏ người bạn trăm năm mà đi xây dựng một tổ ấm khác sẽ tốt đẹp hơn. Kinh nghiệm cho hay: những người đã lỡ đi xây dựng tổ ấm khác, nhiều người nuối tiếc cái tổ ấm đầu tiên của mình vì rất thường xẩy ra trường hợp:”Chồng trước đánh đau, chồng sau mau đánh”. Hãy nghe lời trẻ em hát trong sinh hoạt thiếu nhi: Cái nhà là nhà của ta, Ông cố ông cha làm ra Cháu con hãy gìn giữ lấy Muôn năm với nước non nhà. KẾT LUẬN Muốn cho ngôi nhà này trở nên mát mẻ dễ chịu trong buổi trưa hè nóng bức, ta nên có cái máy điều hoà không khí. Mà cái máy đều hòa không khí ấy là cái gì ? Đó là người vợ. Người vợ được coi như bóng mát, của dịu dàng, của yêu thương. Nếu không thì nguy hại: “Ba đều đuổi đàn ông ra khỏi nhà: khói, nhà dột và một người đàn bà gây gỗ” (ĐGH Innocent III) Ngoài ra, ta không thể quên Mẹ Maria, Ngài được coi như Mẹ của mùa xuân tươi mát. Trong gia đình , có Mẹ, chắc chắn mọi người sẽ thấy vui tươi hạnh phúc. Lm Giuse Đinh lập Liễm|
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Theo truyền thuyết Hy lạp, đời sống của vợ chồng được mô tả như sau: trước kia người nam và HP44
Theo truyền thuyết Hy lạp, đời sống của vợ chồng được mô tả như sau: trước kia người nam và người nữ chỉ là một con người duy nhất, và trong con người ấy có sẵn hai yếu tố, hai bản chất nam và nữ. Như thế con người nguyên thủy chỉ có một thân thể, nhưng lại có hai cái “mặt” trên một cái đầu, và mỗi mặt nhìn về một hướng. Bởi đó, mặt này nhìn thấy những sự việc khác với mặt kia, nảy sinh ra những dự tính khác với cái nhìn của mặt kia. Nên có lúc trong con nguời đó nảy sinh ra những xung đột bên trong: chẳng hạn như nửa thân người này muốn thực hiện môt việc, muốn đi về một phía, trong khi đó nửa kia lại muốn làm việc khác, đi về hướng khác, rồi cuối cùng chẳng biết làm sao. Con người ấy bèn xin Thượng Đế cho tách mình làm hai, mỗi mặt đi với một nửa cơ thể, và từ đó có cuộc sống riêng. Sau thời gian hai “nửa thân thể” sống riêng, lại cảm thấy thiếu thốn, nhớ nhung, bèn đi tìm nhau để kết lại một, đó là sự lấy vợ lấy chồng. Hai nửa thân mình tìm thấy nhau rồi kết lại làm một (vì vốn chỉ là một). I. NAM NỮ HẤP DẪN NHAU. Không ai có thể chối cãi được nam nữ có tính hấp dẫn nhau, không ai có thể phủ nhận được tính âm dương hòa hợp giữa con người. Nếu ngày xưa, các cụ của ta chủ trương “nam nữ thọ thọ bất thân” là một điều rất khó. Tuy nhiên, khi sinh ra con người chưa có ngay tình yêu nam nữ mà phải chờ thời gian với sự phát triển tinh thần và thể xác con người. 1. Tuổi thơ: trẻ con thuờng chơi với nhau rất tự nhiên bất kể trai gái, chỉ biết sống nương tựa vào cha mẹ, bạn bè. Sống hoàn toàn vô tư, thoải mái. 2. Tuổi dậy thì: Thời kỳ này đứa trẻ thấy trong mình có sự thay đổi, cả thân xác, cả tinh thần. Chúng thích sống riêng tư, thầm lặng, hay buồn, và muốn có người bạn riêng để tâm sự. Tình yêu mới chớm nở nhẹ nhàng nhưng mông lung: Hôm nay trời lặng lên cao, Tôi buồn, không hiểu vì sao tôi buồn. 3. Tuổi trưởng thành: Tình yêu của chúng phát triển đến chỗ trưởng thành. Họ cần có người yêu để chia sẻ, để nương tựa, họ muốn có con để nối dõi tông đường. Họ muốn lập gia đình để đáp lại tiếng gọi của “hai nửa mình”. Vì thế, mới có Thánh lễ Hôn phối hôm nay. II. HAI NỬA MÌNH THÀNH MỘT. Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ. Sách Sáng thế còn ghi lại: “Đức Chúa phán:”Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá xứng với nó’ (St 2,18). Và Sách thánh kể tiếp:”Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người, và lắp thịt vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương đã rút từ con người ra , làm thành một người đàn bà và dẫn đến con người. Con người nói:”Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi, vì đã được rút ra từ đàn ông” (St 2,23). Người đàn ông này là Ađam và người đàn bà này là Evà. Thiên Chúa đã cho họ tác hợp với nhau để trở nên vợ chồng. Đây là một cuộc hôn nhân đầu tiên vô cùng tốt đẹp do chính Thiên Chúa đã tác hợp. Rồi con cháu ông bà sau này cứ thế mà làm. Chính vì vậy mà người nam và người nữ có tính hấp dẫn nhau. Cũng chính vì vậy mà “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt”(St 2,24). 1. Chúa Giêsu nhắc lại. Sau này, trong khi đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu cũng đề cập đến vấn đề hôn nhân và Ngài cũng trưng lại đoạn sách Sáng thế ở trên để nói về tính cách duy nhất của hôn nhân mà thánh Matthêu đã ghi lại:”Vì, thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”(Mt 19,5-6). 2. Hiệu quả của Bí tích Hôn phối. Thiên Chúa không bắt buộc người ta phải lập gia đình, Chúa không buộc người nam và người nữ phải liên kết với nhau thành một xương một thịt, con người được hoàn toàn tự do vì “có những người trở nên hoạn nhân vì Nước Trời”, nhưng khi đã liên kết với nhau qua bí tích hôn phối thì cả hai sẽ thành một xương một thịt. Và khi đã trở nên một xương một thịt thì không có quyền tháo gỡ như lời Chúa Giêsu đã phán:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Lúc này không còn phân biệt của vợ hay của chồng mà là của nhau, chúng chúng mình vì trong thân xác chồng đã có vợ, và trong thân xác vợ đã có chồng : Mình với ta tuy hai mà một Ta với mình tuy một mà hai. (Tàn Đà) III. HÃY CỦNG CỐ SỰ HIỆP NHẤT ẤY. Khi kết hôn, hai người đã hiệp nhất với nhau trong thân xác và tinh thần, nhưng hai cái “nửa mình” đó có khuynh hướng đối chọi nhau. Tuy đối chọi nhau nhưng không thể cắt đôi con người ra được hoặc cắt từ trên xuống hoặc cắt ngang. Nếu vợ chồng ly dị nhau, ta coi như họ đã cắt đôi con người họ để mỗi người chỉ còn có một nửa, mà đã là một nửa người thì lại thấy thiếu thốn như truyện ở trên. Hiểu được ý nghĩa đó, thi sĩ Winch gọi vợ mình là “HỠI NỬA MÌNH CỦA TÔI ƠI” ! Đúng thế, người vợ là nửa thân thể của chồng, và ngược lại, người chống là nửa thân thể của người vợ. Khi người yêu ra đi, khi cuộc hôn nhân “nửa đường đứt gánh”, người ta sẽ đau khổ biết bao. Hiểu được tính cách thê thảm của tình trạng này, thi sĩ Hàn mặc Tử đã phải thốt lên: Người đi, một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. (Hàn mặc Tử) Để kết luận, ta hãy đọc giáo huấn của công đồng Vatican II qua hiến chế về mục vụ: “Bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ không còn là hai nhưng là một xương một thịt (Mt 19,6) phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hiệp mật thiết trong con người và trong hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày một đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly” (MV số 48). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Trong thư thứ nhất gửi chi tín hữu Côrintô, thánh Phaolo ânhắc nhở họ về cách sống trong cộng HP45
Trong thư thứ nhất gửi chi tín hữu Côrintô, thánh Phaolo ânhắc nhở họ về cách sống trong cộng đoàn. Ai cũng biết cộng đoàn là một tập thể gồm nhiều người có thể khác quốc tịch, mầu da, ngôn ngữ, phong tục... Tuy nhiều nhưng tất cả chỉ làm nên một thân thể duy nhất là nhiệm thể Chúa Kitô. Để củng cố và phát triển cộng đoàn, Thiên Chúa đã ban nhiều đặc sủng cho nhiều người khác nhau. Có người được ơn giảng dạy, có người được lòng tin vững vàng, có người được ơn chữa bệnh, có người làm phép lạ, có người nói tiên tri, kẻ khác nói tiếng lạ... Nhưng chính Thần Khí duy nhất làm tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách nhằm củng cố cộng đoàn. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến vấn đề đoàn kết trong Hội thánh. Ngài đưa ra so sánh sự liên kết giữa các bộ phận với thân thể. Ngài nói:”Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy”(1Cr 12,12). Để từ đó, Ngài có thể nói:”Tất cả chúng ta gồm các thành phần khác nhau, nhưng đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể, một thân thể duy nhất”. Do đó, mọi bộ phận trong một thân thể đều cần thiết, không có một bộ phận nào dư, không có một bộ phận nào vô ích. Mỗi bộ phận có một nhiệm vụ riêng. Tất cả đều cần thiết để phục vụ cho lợi ích của thân thể. Hơn nữa, “Những bộ phận nào xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất, và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả”(1Cr 12,22-23). Vì thế, thánh Phaolô kết luận:”Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận”(1Cr 12,27). Cũng vậy, trong Hội thánh Chúa có nhiều thành phần: người Do thái và Hy lạp, tự do và nô lệ, mỗi người tùy theo ơn Chúa ban mà phục vụ Hội thánh. Trong mọi sự phải tránh lòng ghen tương. Mỗi thành phần đều có ơn gọi riêng. Mỗi thành phần có trách nhiệm phải xây dựng Hội thánh theo ơn gọi của mình. Trong mọi sinh hoạt, mọi người phải cố gắng tạo ra sự hòa hợp giữa các thành phần để cùng tạo nên sự đoàn kết làm nên một cộng đoàn tình thương như lời Thánh vịnh : Xinh thay là cảnh anh em Cùng nhau vui sống dịu êm một nhà. (Tv 132,1) II. CHUYỆN VỀ MỘT LY CÀ PHÊ. Ngày trước chúng ta chỉ có uống trà. Ngồi nói chuyện gẫu với nhau chung quanh ấm trà là qúi rồi. Bây giờ cà phê phát triển mạnh, nên đâu đâu cũng có cà phê, các quán cà phê mọc lên khắp nơi từ thành thị đến thôn quê. Ngày nay người ta không còn uống “cà phê kho” hay “cà phê vớ” nữa mà phải uống “cà phê phin”. Muốn uống cà phê phin cho ngon, ngoài việc phải có cà phê tốt, người ta còn phải chú trọng đến cách pha cà phê: trước hết phải trướt phin bằng nước nóng, rồi cho cà phê vào phin, ấn cà phê xuống bằng cái nắp cho chắc, rưới lên một chút nước sôi vừa phải, đợi mấy phút cho cà phê nở ra. Sau đó mới đổ nước vào cho phin nhỏ giọt. Phin phải rỏ xuống từng giọt mới ngon, nếu để cà phê chảy xuống như cái cống thì không ra gì. Người uống cà phê sành điệu , phải làm những thao tác như thế mới ngon. Thời nay, kinh tế phát triển mạnh, công việc bề bộn, người ta không còn thì giờ để thưởng thức những ly cà phê phin nữa vì thì giờ là vàng bạc mà. Thay vào đó, người ta chế ra thứ cà phê gói, cà phê hoà tan, cà phê uống liền như cà phê Trung nguyên nổi tiếng, Nestcafé, Vinacafé... Loại cà phê này uống liền, rất thuận tiện, tuy không ngon bằng ca phê phin nhưng chất lượng thì không kém. Người ta tặng tôi một hộp cà phê Trung nguyên, mà theo họ là ngon nhất. Tôi uống thử và thấy ngon thật. Ngoài bao bì có in hàng chữ “3 in 1” có nghĩa là 3 chất trong một gói. Vậy 3 là cái gì ? Đó là 3 chất pha trộn với nhau:bột tinh chất cà phê, đường và chất béo. Như vậy, trong mỗi một gói đều có 3 chất đó hoà tan trong nước theo một tỷ lệ hợp lý. III. CHUYỆN VỀ HOÀ HỢP GIA ĐÌNH. Tôi đang ngồi thưởng thức ly cà phê hoà tan thì nghe thấy tiếng ồn ào trong một gia đình ở gần nhà thờ. Đây là một gia đình trẻ mới có vợ chồng và một đứa con. Đúng là “3 in 1”: 3 người trong 1 gia đình. Có truyện gì xẩy ra ? Vợ chồng họ đang cãi nhau về việc làm ăn. Vợ thì muốn dùng số tiền đi buôn, chồng lại muốn dùng số tiền ấy mua mấy sào đất để canh tác. Hai người có hai cách giải quyết khác nhau, không bên nào chịu nhượng bộ, thế là phải to tiếng. Điều này làm cho tôi phải suy nghĩ: nếu gia đình nào cũng có “3 trong 1” như ly cà phê tôi đang uống thì êm đẹp biết mấy ! Tuy vẫn là “3 trong 1” đấy như tỷ lệ thế nào cho hợp lý ? Không lẽ ly cà phê chỉ có bột cà phê hoà tan , đắng như vậy uống làm sao được ? Nếu chỉ có đường thì uống đường thôi chứ đâu có uống cà phê ? Còn nếu chỉ có chất béo thôi thì uống làm sao được, ngán lắm ? Muốn có một ly cà phê ngon thì 3 chất đó phải hoà tan trong một tỷ lệ hợp lý: không có cái nào nhiều quá, không có cái nào ít quá, đắng quá hay ngọt quá cũng không tốt. Muốn cho gia đình được trong ấm ngoài êm, trên thuận dưới hoà thì phải có sự hoà hợp. Chìa khoá của hạnh phúc gia đình là sự nhịn nhục, nhường nhịn nhau. Trong gia đình không có kẻ thắng người thua mà chỉ san sẻ cho nhau theo phương châm:”Nhịn mày tốt tao”. Người ta ao ước lập được một gia đình hạnh phúc. Theo họ, nếu kiếm được một người vợ hiền và một người chồng khôn thì đã có hạnh phúc , nhưng như thế đã đủ chưa , hay còn phải có những điều kiện khác ? Làm trai lấy được vợ hiền, Như cầm đồng tiền mua được của ngon. Phận gái lấy được chồng khôn, Xem bằng cà vượt vũ môn hóa rồng. Nhưng như thế cũng chưa đủ, chưa chắc đã có hạnh phúc. Bí quyết để đi đến hạnh phúc là vợ chồng phải “xử tốt” với nhau. Người ta thường nói:”Có đi có lại mới toại lòng nhau”, nếu chồng biết xử tốt với vợ, thì ngược lại, vợ cũng phải xử tốt với chồng. Cả hai biết cư xử tốt với nhau thì gia đình sẽ hạnh phúc. Truyện: Xử tốt với nhau Ông FLAVÌERE, nguời đặc trách mục truyện Đồng quê của nhật báo “Ngôi sao” xuất bản tại thủ đô Manila (Philippines) có kể lại câu chuyện vui sau đây: Có anh nông dân kia đã lập gia đình hơn 10 năm nay, nhưng hầu như ngày nào cũng phải gặp cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Vợ chồng anh cứ cãi lộn với nhau hoài. Một hôm, quá buồn lòng, anh nông dân tìm đến một người bạn thân gần đó và xin anh ta góp ý kiến: - Làm thế nào để tôi không những ly dị được con mụ vợ ưa gây sự này mà còn làm cho mụ ta phải khổ tâm suốt đời. Người bạn của anh ta vấn kế: - Nếu anh quả tình muốn bỏ đi và muốn làm cho chị ta phải khổ tâm, thì bây giờ anh hãy về và cố gắng cư xử với chị ta như với bà hoàng hậu. Chừng đôi ba tháng sau đó anh sẽ bỏ đi và tôi dám chắc rằng chị ta sẽ phải đau khổ suốt đời, vì lúc đó không còn ai phục dịch chị ta như một bà hoàng nữa. Anh nông dân nghe lời, về nhà làm y như lời bạn khuyên. Anh đối xử rất tốt với vợ và bất cứ điều gì chị vợ muốn, anh ta đều mau mắn thực hiện, cứ như cô hầu đối với bà hoàng của mình. Thời gian qua đi, 2 tháng rồi 3 tháng. Người bạn của anh nông dân chờ mãi không thấy anh đến cho biết quyết định ra đi, liền đến tận nhà thăm hỏi và được anh ta trả lời: - Làm sao tôi có thể rời bỏ nàng được, bởi vì từ ngày tôi đối xử với nàng như với một bà hoàng, thì ngược lại, nàng cũng đối xử với tôi như với một ông vua ? Không, tôi không thể nào xa rời người bạn đời đã đối xử với tôi quá tốt như thế ! (Góp nhặt 4, tr 122) Để kết thúc, chúng ta hãy suy ngẫm lời thánh Phaolô gửi chi tín hữu Ephêsô về tình yêu đối với vợ chồng: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô thương yêu Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh... Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5, 25.28). Ngài cũng khuyên người vợ: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ như Đức Kitô là đầu của Hội thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh, thân thể của Người . Và như Hội thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy” (Ep 5, 21-24). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Sau khi đã được dựng nên người nam, Thiên HP46
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Sau khi đã được dựng nên người nam, Thiên Chúa thấy còn thiếu cái gì đó, nên mới phán:”Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ cho nó một trợ tá tương xứng với nó”(St 2,18). Thiên Chúa đã dựng nên người nữ và cho kết hợp với nhau. Kinh thánh còn nói:”Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt”(St 2,24). Từ đó xuất hiện một gia đình đầu tiên do Thiên Chúa tác hợp, đó là gia đình Ađam-Evà. Mục đích của hôn nhân gia đình là yêu thương nâng đỡ nhau và sinh sản con cái. Khi đã sinh con cái thì cha mẹ phải có trách nhiệm. Cha mẹ sẽ trở thành những mục tử như Chúa Giêsu đối với Hội thánh, như những vị lãnh đạo trong Giáo hội đối với con chiên. Nếu gia đình là Giáo hội tại gia thì cha mẹ cũng có bổn phận chăn dắt con chiên thuộc quyền mình, tức là phải nuôi nấng và dạy dỗ con cái. Đây là quyền lợi bất khả xâm phạm và một nhiệm vụ không ai có thể thay thế được. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu vai trò của người cha, người mẹ và con cái trong gia đình, đặc biệt là gia đình Việt nam xưa và nay. II. GIA ĐÌNH VIỆT NAM NGÀY XƯA. 1. Gia đình Việt nam nói chung. Từ xa xưa, khi tổ tiên loài người biết sống thành quần thể, gia đình đã xuất hiện. Và mỗi ngày, tổ chức đời sống gia đình lại được cải thiện hoàn hảo hơn. Cho đến nay, không một ai dám phủ nhận vai trò của gia đình trong cộng đồng xã hội. Đặc biệt là xã hội Việt nam, gia đình lại càng được xem là một nền tảng vững chắc. Và nếu như xã hội bắt đầu từ gia đình thì gia đình lại bắt đầu từ cá nhân. Mỗi cá nhân trong gia đình đóng một vai trò nhất định. Và mối tương quan của mỗi cá nhân trong gia đình thuộc về phạm trù đạo đức nên phần lớn đều bị chi phối của luân lý. Song nó cũng không hoàn toàn gói gọn trong phạm vi ấy. Pháp luật cũng được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Có thể nói Việt nam một thời đã có những định chế khắt khe qui định nghĩa vụ và quyền hạn của cha mẹ, con cái trong gia đình. Do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử nên người Việt nam xưa rất coi trọng chữ HIẾU. Và nghĩa vụ của con cháu trong gia đình cũng được đặt trên nền tảng ấy. Đối với người Việt nam xưa thì Hiếu là một đức tính làm đầu của con người, nhất làvới người nam nhi: Làm trai nết đủ trăm đường, Trước tiên điều hiếu, đạo thường xưa nay. 2. Người cha và chồng. Theo cổ luật Việt nam, người cha là chủ gia đình, là người có uy thế rất mạnh, ông có quyền định đoạt hết mọi việc liên quan tới mọi người trong nhà. Quyền đó gọi là “phụ quyền”. Phụ quyền rất rộng rãi còn được gọi là “quyền gia trưởng”. Trước hết, người gia trưởng có quyền sở hữu và quản lý tài sản của mình. Vợ con phải làm lụng cho gia đình chung, không ai được giữ lợi riêng (nếu ai giữ của riêng không được phép người gia trưởng, cổ luật ghép cho tội ăn cắp). Người gia trưởng còn có quyền hạn tuyệt đối đối với thân nhân trong gia đình. Họ có quyền bắt vợ con đi làm thuê hay đem đi bán. Nói khác đi, người gia trưởng theo cổ luật là người nắm quyền sinh sát trong tay, không khác gì một quân vương. 3. Người mẹ và vợ. Người mẹ trong gia đình cũng rất quan trọng. Luật Việt nam xưa cũng đã đặt người vợ ngang hàng với người chồng. Tuy nhiên, quyền hạn của người mẹ bao giờ cũng bị hạn chế hơn người cha. và quyền hạn của người đàn bà trong xã hội xưa còn bị hà khắc bởi tục lệ. Theo tác giả Phạm côn Sơn trong cuốn “Hôn lễ và nghi thức” thì... “Tục lệ đã biến người đàn bà trong gia đình thành một thứ vô dụng và hẹp hòi kiến thức”. Thực vậy, người phụ nữ theo cổ luật không có quyền giao thiệp rộng với thế giới bên ngoài. Người xưa còn cho rằng chỗ đứng của người đàn bà quanh năm chỉ là “cái bếp”. Cổ luật buộc người đàn bà không có quyền ghen khi người chồng ngoại tình hay có năm thê bảy thiếp. Người đàn bà cho rằng việc ấy là việc tự nhiên, không đặt thành vấn đề: Chồng giận thì vợ làm lành, Miệng cười chúm chím rằng anh giận gì ? Thưa anh, anh giận em chi ? Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho ! (Ca dao) Ngược lại, người đàn bà ngoại tình sẽ phải chịu những hình phạt vô cùng khắt khe như: bị cạo trọc đầu, bôi vôi và thả trôi sông. Luật lệ còn đặt ra “thất xuất” (bảy tội để đàn ông có thê bỏ vợ): Không con – Dâm dật – Không thờ cha mẹ chồng – Nhiều lời – Trộm cắp – Ghen tương – Có ác tật. 4. Con cái, cháu chắt. Bên cạnh cha mẹ, Cổ luật Việt nam cũng qui định nghĩa vụ pháp lý ràng buộc đối với con cháu trong gia đình. Theo đó, con cháu sống trong gia đình phải hoàn toàn tuân theo lệnh của ông bà, cha mẹ. Cho dù ông bà, cha mẹ có phạm lỗi gì, con cháu cũng không được phép kiện cáo, thậm chí phải che giấu tội phạm của ông bà, cha mẹ. Khi ông bà cha mẹ bị tội lưu đầy, con cháu phải đi theo để phục dịch. Nếu các bậc này bị tội “roi” hay “trượng” thì con cháu phải chịu thay. Cổ luật Việt nam nổi bật một điều: Luân lý và pháp luật lẫn lộn, đan chen nhau. Lẽ ra, đạo hiếu của con người thuộc luân lý nhưng nếu ai vi phạm thì sẽ bị trừng trị nghiêm khắc như một tội phạm hình sự. Thân thuộc càng gần thì hình phạt càng nặng. Một điều quan trọng nữa trong nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ là phải tôn trọng thời cư tang. Trong thời kỳ này, con cháu không được ăn mặc lòe loẹt, tiệc tùng vui chơi, không được gả chồng cưới vợ. Tuy nhiên về việc cưới hỏi, cổ luật cũng nới cho một giải pháp là “Cưới chạy tang”. III. GIA ĐÌNH VIỆT NAM NGÀY NAY Nhìn chung, gia đình ngày nay đã đổi mới nhiều, những luật lệ cổ hủ ngày xưa dần dần bị đẩy lui. Quyền hạn của người cha người chồng đã bị giảm bớt và vai trò cũng như quyền hạn của người đàn bà được nâng cao để họ được ngang hàng với đàn ông. Ngày nay, tuy người cha vẫn là cột trụ gia đình, nhưng những quyền hạn như một người gia trưởng xưa không còn nữa. Thay vào đó, người cha phải có trách nhiệm thương yêu và giáo dục con cái nên người. Pháp luật hiện hành cũng không cho phép cha mẹ có những hành vi đối xử ngược đãi con cái. Trong tông huấn “Đời sống gia đình”, Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô 2 nói:”Tình yêu thương đối với người vợ đã trở thành mẹ, và tình yêu thương đối với con cái là con đường tự nhiên đưa người nam đến chỗ hiểu biết và thể hiện việc làm cha của mình”(Số 25). Còn đối với phụ nữ, những tục lệ ràng buộc người phụ nữ xưa, đến nay đã bị xem là quá khắc nghiệt. Cùng với sự phát triển của xã hội, địa vị người phụ nữ đã được đưa lên ngang hàng với nam giới về mọi mặt. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô trong tông huấn “Đời sống gia đình” cũng nói:”Trong viễn tượng ấy, Thượng hội đồng Giám mục đã dành một sự chú ý đặc biệt cho người phụ nữ, cho các quyền lợi và vai trò của họ trong gia đình cũng như ngoài xã hội... Về phụ nữ, trước hết cần phải ghi nhận rằng, phẩm giá và trách nhiệm của họ bình đẳng với phẩm giá và trách nhiệm của người nam”(Số 22). KẾT LUẬN. Để kết luận, chúng ta hãy suy niệm một đoạn thư thánh Phaolô gủi cho tín hữi Êphêsô: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người vợ hãy phục tùng chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh... Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh. Mầu nhiêm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng”(Ep 5,21-23. 25-33). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã ca tụng tình yêu của Thiên Chúa đối với loài HP47
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã ca tụng tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong việc quên đi chức vị Một Thiên Chúa cao sang tuyệt đối, trở thành phàm nhân hèn hạ. Thiên Chúa là Đấng cao sang tuyệt đối mà con người thì quá thấp hèn #. Giữa Thiên Chúa và loài người có một khoảng cách vô cùng lớn lao. Nhưng Thiên Chúa muốn rút ngắn khoảng cách ấy lại và rút ngắn khoảng cách ấy lại đến nỗi hạ mình xuống chia sẻ thân phận với con người, trở nên con người như mọi người. Sự chia sẻ thân phận ấy đã được thánh Phaolô mô tả như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa., nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Con người đã phạm tội, mất mọi quyền lợi, mất quyền làm con Chúa, mất phúc thiên đàng, nên Thiên Chúa xuống thế cứu chuộc chúng ta bằng cái chết trên thập giá. Thiên Chúa muốn trở nên con người để cứu vớt con người. Ngài muốn chia sẻ thân phận đau thương của chúng ta. Ngài xuống thế làm người để nâng chúng ta lên làm Thiên Chúa. Vì thế, trong phần tự ngôn của Phúc âm thứ tư, thánh Gioan tông đồ đã nói:”Ngôi lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến.. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười. Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định trở về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân đi tới chỗ vũng nước đó rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để từ chối. Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc. (Trích ở Internet “Con đường nên thánh”) Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân. Đấng thánh thiện vô cùng lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân. Đấng xóa tội trần gian lại hòa mình trong đoàn người tội lỗi. Đấng thanh sạch vô biên lại chịu dìm mình trong dòng sông “sám hối”. Đấng sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần lại xin chịu phép rửa của Gioan. Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người. Chính thái độ tự hủy tột cùng của Đấng Cứu thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta. Chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hoá thân làm kiếp phàm nhân. Thiên Chúa sống kiếp phàm nhân là để thông cảm với con người:Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người. Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi. Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phéplạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người. Ngày nay, chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi hiệp thông thân mật với Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một “Tình Yêu Chia Sẻ”. II. CHIA SẺ TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN. Thiên Chúa đã đến chia sẻ với kiếp sống con người chúng ta “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ”. Mọi người phải theo gương Chúa mà phục vụ nhau, chia sẻ với nhau trong cuộc sống, nhất là trong cuộc sống hôn nhân vì “Họ không còn là hai, nhưng là một xương một thịt” (Mt 19,6). Vợ chồng cần chiasẻ với nhau về hai phương diện: tình cảm và vật chất. 1. Về phương diện tình cảm. Thomas Merton nói: “No man is an island”: không ai là một hòn đảo. Đúng vậy, không ai trong chúng ta muốn trở thành một hòn đảo trơ trơ trong một quần đảo Indonesia gồm 13.000 hòn đảo. Nếu các nhà triết học kinh viện định nghĩa “ Homo est animal rationale”: người là một con vật có lý tính, thì ngày nay các nhà xã hội học lại định nghĩa:”Homo est animal sociale”: người là một con vật có xã hội tính. Con người không những có lý trí mà còn có tình cảm, có nhu cầu phải thông cảm với nhau, có tương quan với nhau về nhiều phương diện. Dân gian Việt nam chúng ta có câu tục ngữ mà ai cũng quen biết: “Một con ngựa đau cả tầu chê cỏ” Ngày nay, có những em học sinh cắt nghĩa câu tục ngữ này rất hay, rất khoa học và hợp với hoàn cảnh hiện tại. Các em cắt nghĩa là: Khi thấy một con ngựa bị đau thì tất cả các con khác không dám ăn cỏ vì sợ trúng độc, vì ngày nay người ta phun thuộc sâu nhiếu lắm !!! Câu tục ngữ này có ý nói: Một con ngựa bị đau ốm không ăn được cỏ thì cả tầu ngựa (cái máng để chứa thóc, cỏ cho cả chuồng ngựa ăn) đều chê cỏ không ăn. Ý nói loài vật có tình đồng loại, thấy một con đau thì cả đàn đều thương. Nếu con vật còn biết thông cảm với nhau như vậy mà con người lại không biết thông cảm với nhau sao ? Chúng ta cùng sống trong xã hội, chúng ta thích sống trong cộng đoàn vì chúng ta có nhu cầu chia sẻ, nhu cầu trao đổi tình cảm. Khi nói sống thì không thể nói “sống” trống không mà luôn phải nói “Sống với” hay “sống cùng”. Sống với, sống cùng là là nói lên đời sống cộng đoàn trong đó có nhiều người, và như vậy không ai là người lẻ loi. Khi chúng được niềm vui thì chúng ta muốn có người để chia sẻ niềm vui ấy, khi buồn thì chúng ta cũng muốn có người để chia sẻ nỗi buồn đó. Người ta thường nói: Niềm vui mà được chia sẻ thì niềm vui tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì sẽ giảm đi một nửa”. Chúng ta tưởng chỉ có con người mới biết thông cảm sao ? Theo các nhà khoa học và theo kinh nghiệm thì con vật cũng biết thông cảm với người và qua thí nghịem mới đây người ta cho biết cây cỏ củng biết thông cảm với người. Trong đời sống gia đình, nhu cầu chia sẻ rất cần thiết. Nếu không người ta sẽ dễ bị thấy mình cô đơn, lẻ loi, lạc lõng. Người đàn bà sợ cô đơn lắm ! Có lẽ vì sợ cô đơn mà họ nói nhiều. Nhiều người chồng vô tâm, chỉ nghĩ đến việc khác, không hỏi thăm vợ được một câu trong suốt một ngày. Kinh nghiệm cho hay: “Đối với người đàn bà, những sự săn sóc nhỏ nhặt rất quan trọng” (Barbey d’Aurevilly) “Những lời dịu ngọt có hiệu lực đối với người đàn bà hơn là những món nữ trang lặng lẽ” (Berbère) 2. Về phương diện vật chất. Thông thường người đàn ông làm ra tiền của, người đàn bà lại có khuynh huớng làm nội tướng, thiên về quản lý. Có nhiều người đàn ông không chịu làm việc, chỉ biết nhậu nhẹt tối ngày, để cho vợ con nheo nhóc. Có những ông chồng trở nên “Ông Trùm Sò”, keo kiệt với vợ con, nắm hết tiền của, vợ con muốn gì thì phải ngửa tay ra xin từng đồng, giống như xin của bố thí. Lúc đó, người vợ chỉ như đứa con ở trong nhà, không có một quyền hành gì. Nhưng cũng có những ông chồng sống đúng vai trò của mình , ông ý thức mình là “Gia trưởng”, đóng đúng vai trò của thánh Giuse trong gia đình Thánh gia, luôn săn sóc vợ con. Ông giống như một giám đốc một công ty, điều hành mọi việc một cách tổng quát, còn người vợ thì được coi như một quản lý phụ tá cho ông, lo mọi việc trong nội bộ. Lúc đó, người vợ được đóng vai “Nội tướng” dễ thương. Truyện: thương vợ thương con. Một vị quận công nước Anh tổ chức tiệc tùng khoản đãi các sĩ quan cấp dưới. Trong bữa tiệc ông khoe với khách mời chiếc bật lửa tuyệt đẹp mà nữ hoàng mới tặng ông. Chiếc bật lửa được chuyển đi cho mọi người xem. Cuối tiệc, quận công mời khách hút thuốc, nhưng mới khám phá ra chiếc bật lửa đã biến đâu mất, tìm khắp nơi mà cũng không thấy. Người ta đề nghị từng sĩ quan phải móc hết mọi vật ở trong túi ra. Ai cũng làm theo, chỉ có một ông sĩ quan già, nghèo nàn, quần áo rách nát không chịu thi hành. Mọi người cho là vị sĩ quan này đã ăn cắp. Vài tuần sau, quận công lại mở tiệc và trong bữa tiệc này ông mới khám phá ra là cái bật lửa đang ở trong túi áo của mình. Ông vội đến xin lỗi người sĩ quan bị nghi là ăn cắp. Vị sĩ quan nghèo này trả lời:”Hẳn ngài đã thấy được căn nhà của tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã bị thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi...” Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Thế giới này là một đại trường kịch mà mỗi người phải đóng một vai. Không vai nào đáng kính HP48
Thế giới này là một đại trường kịch mà mỗi người phải đóng một vai. Không vai nào đáng kính trọng, không vai nào đáng khinh chê. Vai nào cũng tốt, vai nào cũng cần bởi vì vở kịch phải có nhiều vai, có thể là ông vua, có thể là thằng bồi, vai nào cũng quan trọng. miễn là ai đóng vai nào thì phải đóng cho đúng vai đó: vai vua phải đóng cho thật nghiêm chỉnh, đừng đóng như thằng hề, ngược lại, thằng hề không được vai nghiêm nghị như ông vua... nếu thế vở kịch sẽ trở nên rất dở. Gia đình cũng là một vở kịch nhỏ, mỗi thành phần phải đóng cho đúng vai của mình, nếu không, vở kịch chỉ là trò hề đáng cho người ta chê cười. Để nói lên vai trò của các thành phần trong gia đình, chúng ta hãy nghe một đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Êphêsô: I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA. Thưa anh em, Anh em hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ. Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy phục tùng chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh, thân thể của Người. Và như Hội thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người” (Ep 5, 2a-21.28-30). Thánh Phaolô nói:”Hỡi những người vợ, hãy tùng phục chồng mình như tùng phục Chúa vậy”. Tại sao ngài lại nói như thế ? Bởi vì khi vợ chồng hoà hợp với nhau, thì con cái họ sẽ được giáo dục tử tế, mọi việc trong nhà đâu ra đó ; hàng xóm, bạn bè và thân quyến đều được hưởng lây danh thơm tiếng tốt của họ. Nhưng nếu họ không hòa hợp với nhau, thì mọi sự đều bị đảo ngược lại và rất dễ đi đến chỗ hỗn loạn. Cũng tương tự như các tướng lãnh trong quân đội, khi họ hoà thuận với nhau, thì các cấp dưới họ đều qui thuận họ, và quân đội sẽ hùng mạnh ; còn trái lại, nếu họ chia rẽ nhau thì mọi sự đều xẩy ra ngược lại. Vì thế, thánh Phaolô mới nói:”Hỡi những người vợ, hãy tùng phục chồng như ỳung phục Chúa”. Đáp lại, nếu người vợ phải tùng phục chồng thế nào thì người chồng cũng phải yêu thương vợ như vậy. Các bạn có mong vợ mình tùng phục mình như Giáo hội tùng phục Đức Kitô không ? Nếu thế, bạn hãy lo lắng chăm sóc cho nàng cũng như Đức Kitô đã chăm sóc lo lắng cho Giáo hội vậy. Thật thế, các bạn ai cũng muốn vợ mình phục tùng mình: nếu mà được vợ phục tùng, thì dẫu cho phải hiến dâng cả đời mình cho nàng, cho dẫu thân xác bạn có bị xé ra thành ngàn mảnh, hay cho dẫu bạn phải chịu bất kỳ hình khổ nào, bạn cũng sẵn sàng chấp nhận hết. Chúng ta hãy coi đây là trật tự nền tảng của gia đình: chồng là đầu, còn vợ là thân mình. Người vợ hãy kính nể chồâng mình. Người vợ có quyền ở hàng thứ hai. Vì thế, nàng không nên đòi hỏi được bình đẳng về quyền hành với chồng, vì nàng là thân, nên ở bên dưới đầu. Chàng cũng không nên coi nàng như một người bề dưới, bởi vì nàng là thân thể. Nếu cái đầu coi thường thân mình, thì chính nó cũng sẽ bị diệt vong. Người chồng pải yêu thương vợ mình có thể phục tùng mình, vì tình yêu là đối trọng phải có nơi người chồng để có sự tùng phục nơi người vợ. Bù lại, cái đầu hoàn toàn lo lắng cho toàn thân, và coi tất cả, mọi chi thể là chính mình. Cái đầu không bao giờ coi cái thân như một cái gì khác với nó. Không có một sự hiệp nhất nào tốt hơn sự hiệp nhất đó. (R. Martin, Husbands. Wives, Parents, Children, Foundation for the Christian Family) Theo đó, Thiên Chúa đã thiết lập gia đình, có tổ chức hẳn hoi để mưu cầu hạnh phúc cho nhau, nếu mỗi thành viên trong gia đình sống theo lời khuyên của thánh Phaolô mà chúng tôi vừa quảng diễn ở trên thì gia đình đó sẽ có hạnh phúc. Hay nói cách khác, mỗi người với tư cách là một thành phần trong cộng đồng đó phải đóng đúng vai trò của mình . II. GIA ĐÌNH LÀ SÂN KHẤU. 1. Nhu cầu xem kịch. Ngày nay nhu cầu giải trí là một đòi hỏi không thể thiếu trong một xã hội đầy cạnh tranh và lo âu. Ai cũng muốn xem kịch để giải trí. Có các loại kịch: hài kịch, bi kịch và bi hài kịch. Thông thường ai cũng muốn xem hài kịch để mua vui giải trí, chỉ trừ những người bi quan khó tính. Nhiều người còn muốn xem hài kịch để chữa bệnh nữa. Cải lương Việt nam hay diễn bi kịch, có những cảnh thương tâm làm cho các bà các cô khóc xụt xùi. Tuy vậy, trong cảnh buồn rơi lệ, người ta vẫn cho xuất hiện một thằng hề để chọc cười thiên hạ. Đối với người Tây phương họ cho là một sự mâu thuẫn: tại sao trong cảnh buồn lại có pha mầu sắc vui tươi như vậy ? Tôi cũng không hiểu tại sao vậy ! Có lẽ người ta cho xen vào để giảm bớt tính cách bi đát buồn thảm của câu chuyện chăng ? 2. Các diễn viên. a) Thế giới là một đại trường kịch. Mỗi người trong thế giới này có một vai trò. Mỗi người là một diễn viên. Có vai quan trọng, có vai tầm thường ít được người ta chú ý đến. Dù đóng vai nào, quan trọng hay tầm thường, mỗi người phải đóng cho đúng vai của mình: vua phải có tác phong ông vua, thằng hề phải có tác phong đặc biệt của thằng hề. Không phải cứ đóng vai vua chúa mà được người ta hoan hô tán thưởng, nhiều khi thằng hề lại được người ta khen ngợi hơn. Vì thế đóng vai nào không quan trọng mà đóng cho đúng mới là điều cần phải quan tâm. Truyện: Đóng vai Giuđa Khi xưa, lúc Đức Cha Nguyễn bá Tòng có cho diễn tuồng thương khó ở chủng viện Sài gòn. Hay hay dở, cứ nhìn vào trong rạp không còn một chỗ trống thì biết. Trong số các vai tuồng, ông Jacques Đức ở Mỹ tho làm Chúa Giêsu, ông biện Chức ở Tân định làm thánh Phệrô, còn tay Giuđa về tay... ông Cúc ở Tha la. Vai Giuđa hay quá xá, đến nỗi có một bà lão ở tỉnh xa miền Hậu giang lên Sài gòn xem tuồng, thấy bộ tịch Giuđa nào là tham lam, phản bội, xảo quyệt... bà ghét quá, không nói, bà đứng dậy lủi thủi lên phía sân khấu (vì bà ngồi hạng bét) sẵn trong tay cầm cái “ngoáy trầu” bà quăng ngay cho Giuđa một cái bảng mặt. Rồi bà rủa thầm:”Tao cho mày phun máu đầu ra cho biết tay ! Đồ... thằng nộp Chúa, đứa bán Thầy”. May ông Cúc nhanh mắt né khỏi... và Đức Cha Tòng phải xuống “can thiệp” và “an ủi” bà lão. Nhắc cho bà nhớ lại đây chẳng qua chỉ là diễn tuồng chớ không phải Giuđa...thật đâu ! (Kể theo báo Thẳng tiến 1968) b) Đời sống gia đình là một màn kịch. Kịch bản lúc ban đầu chỉ có hai nhân vật, có hai diễn viên, sau này mỗi ngày một thêm vai. Mỗi thành viên trong gia đình đều là diễn viên. Các vai diễn đều phải qua những màn hài kịch, bi kịch bởi vì cuộc sống gia đình lúc nào cũng có vui có buồn, cũng như trời có lúc mưa lúc nắng, đôi lúc cũng có sóng gió bão táp nhưng rồi như người ta nói:”Bĩ cực thái lai”, sau cơn mưa thì trời lại sáng. Muốn cho gia đình sống yên vui hạnh phúc, mỗi người phải đóng đúng và khéo léo vai trò của mình, theo như đường hướng giáo dục của Đức Khổng Tử: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” nghĩa là sống vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha và con sống đúng với địa vị làm con. Sống không đúng vai trò của mình thì sẽ làm cho gia đình trở nên bất hạnh và xã hội trở nên hỗn loạn Truyện: kịch...kịch. Một chú bé tối hôm trước hỏi bố là một nhà soạn kịch: - Bố ơi, kịch là gì, hả bố ? À, - Ông bố giải thích: - Kịch là người ta diễn cho người khác xem... có nhân vật... có mâu thuẫn, mà mâu thuẫn càng gay gắt, có khi phải xô xát, cãi cọ, đập phá... thì kịch càng hấp dẫn. Sáng hôm sau, vợ chồng nhà viết kịch to tiếng... Ông chồng liệng cả bát đĩa ra sân. Thằng con ở đâu chạy về, reo ầm lên: - Ơ, các bạn ơi, bố mẹ tớ đang diễn kịch, lại đây mà xem, hay lắm cơ ! Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật và trao cho con người làm chủ. Trong việc tạo dựng vũ HP49
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật và trao cho con người làm chủ. Trong việc tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ phán một lời là mọi sự liền có. Nhưng khi dựng nên con người, Thiên Chúa còn suy nghĩ đắn đo rồi mới quyết định dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài (x. St 1,26-27). Tuy thế, Thiên Chúa không dựng nên ngay một con người hoàn hảo như các thiên thần ; Ngài ban cho con người có hồn có xác, có tự do để tự hoàn thiện bản thân mình. Như vậy, con người chưa được hoàn hảo, còn đang trên đường hoàn thành, còn phải được cải thiện từng bước cho nên giống hình ảnh của Chúa. Trong thư gửi cho tín hữu Colossê, thánh Phaolô tông đồ khuyên phải ăn ở hiền lành nhịn nhục và tha thứ cho nhau vì con người còn có nhiều lỗi lầm không thể tránh được. Ngài khuyên:”Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,13). II. CON NGƯỜI BẤT TOÀN. Tại sao phải tha thứ cho nhau ? Vì có sự va chạm làm mất lòng nhau. Điều đó chứng tỏ rằng con người có nhiều lỗi lầm, khuyết điểm, mà đã có nhiều khuyết điểm như thế thì làm sao hoàn hảo được ? Qua kinh nghiệm đó, cổ nhân đã nói:”Nhân vô thập toàn”. Nhà đại tư tưởng Blaise Pascal cũng nói theo chiều hướng đó:”Con người vốn không là thiên thần, cũng không là thú vật ; và tai hại thay khi có kẻ chỉ muốn là thiên thần, lại có kẻ chỉ muốn làm thú vật”. Đức Khổng Tử nói:”Vi nhân nan”: làm người khó lắm. Làm người mà sống như con vật thì dễ, nhưng sống cho xứng với con người “linh ư vạn vật” thì không dễ. Trong cuộc sống chung, Đức Khổng Tử chủ trương: “Hoà nhi bất đồng” nghĩa là chỉ có sự hoà hợp bổ túc cho nhau chứ không bao giờ có sự đồng nhất giữa vợ chồng. Truyện: chọn cây thông. Lễ Giáng sinh sắp tới, đôi tình nhân Lan và Điệp đến một vườn ươm thông để mua một cây về trang hoàng cho hang đá. Lan đi hết chỗ này đến chỗ nọ, dìu Điệp đi theo, để chọn một cây thông nào đẹp đẽ và cân đối như trong thiệp Giáng sinh. Trời đã tối, gió rít từng cơn giá buốt mà Lan vẫn chưa tìm được một cây thông nào vừa ý. Điệp níu tay lan, khẽ nói: - Lan ạ, hay mình về mua một cây thông giả ! Cây thông giả rất cân đối, hình thể, mầu sắc, độ cao... kiểu nào cũng có, và lại rất giống những cây thông trong thiệp Giáng sinh em rất thích.
III. HÃY CHỌN CON NGƯỜI THẬT. Nếu bạn muốn tìm cây thông thật hoàn hảo, đúng tiêu chuẩn thiệp Giáng sinh, xin bạn đừng đến giữa rừng thông sống, nhưng hãy tìm mua cây thông giả. Nhưng nếu bạn muốn một cây thông sống, một cây thông thật, thì xin bạn vui lòng chấp nhận cái đẹp không thể hoàn hảo của nó. Nếu bạn muốn người yêu mình phải hoàn toàn, thật hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn của mình, phải yêu mình như cách mình thích, phải đối xử với mình như cách mình muốn, phải mừng sinh nhật mình theo cách mình ưa, thì có lẽ bạn nên theo lời khuyên của Điệp mà mua một con người giả, để “yêu bạn”, nói đúng hơn, để bạn yêu chính mình qua con người giả ấy. Nhưng nếu bạn muốn yêu một con người SỐNG, một người THẬT, thì xin bạn hãy chấp nhận người yêu như chính họ, với tất cả nét đẹp, lẫn những bất toàn. Hãy sung sướng tiếp nhận cách tỏ tình của người yêu, cho dẫu cách ấy đối với bạn trông như lạnh lùng ! Hãy vui nhận món quà người yêu trao tặng mà không chê bai ! Hãy quên mình để cho người yêu mình SỐNG THẬT con người của họ ! Để rồi bạn có thể sung sướng ngâm nga: “I love you just the way you are” ! Truyện: Người cầu toàn. Theo một truyện cổ của người Hồi giáo thì Natrusdin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi được hỏi vì lý do tại sao ông không bao giờ lập gia đình. Natrusdin đã giải thích như sau: “Suốt cả tuổi thanh niên tôi đã dành trọn thời giờ để tìm kiếm một người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đô của Ai cập tôi đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh với đôi mắt đen như hạt oliu. Đẹp và thông minh nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu hiền chút nào. Tôi đành bỏ Cairô để đi Batđa, thủ đô của Irắc để may ra tìm đưdợc một người đàn bà lý tưởng tôi hằng mơ ước. Tại đây tôi đã tìm thấy một người đàn bà hoàn toàn như tôi mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh và cũng có tấm lòng quảnh đại nữa, nhưng chỉ có một điều là hai chúng tôi không bao giờ đồng quan điểm với nhau về bất cứ điều gì. Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác, người được điều này, người thiếu điều kia. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được người đàn bà lý tưởng cho cuộc đời. Thế rồi một hôm tôi gặp được nàng, người đàn bà cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức tính tôi hằng mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa quảng đại tử tế, nàng đúng là người đàn bà toàn hảo. Thế nhưng cuối cùng tôi đành phải quyết tâm ở độc thân suốt đời. Các bạn có biết tại sao không ? Nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông hoàn hảo và tôi đã được nàng chấm như một người đàn ông còn quá nhiều thiếu sót”. Người đàn ông suốt đời độc thân trong câu chuyện trên đây đã quên một trong những qui luật cơ bản nhất của cuộc sống, đó là luật thích nghi . Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta thì chính chúng ta phải là người thích nghi với người khác và cuộc sống. Người đàn ông trong câu chuyện đã tìm được người đàn bà lý tưởng, nhưng chỉ tiếc rằng ông chưa biết trở thành người đàn ông lý tưởng để có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà ấy. Tâm lý thông thường của con người là thích đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính mình. Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này thế nọ với chúng ta, nhưng chúng ta quên rằng chúng ta chưa làm những gì người khác cũng trông chờ nơi chúng ta. Đức Giêsu đã đề ra cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc để xử sự trong cuộc sống:”Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi, thì ngươi cũng đừng làm điều đó cho người khác”. Nếu chúng ta không muốn ai đối xử bất công với chúng ta thì chúng ta cũng hãy sống công bình. Nếu chúng ta không muốn ai cư xủ hẹp hòi ích kỷ với chúng ta, thì chúng ta hãy sống quảng đại độ luợng. Nếu chúng ta không muốn người khác cau có với chúng ta, thì chúng ta hãy luôn mang bộ mặt của vui tươi phấn khởi đến với người khác. KẾT LUẬN Đức Kitô luôn yêu thương và chấp nhận chúng ta. Ngay cả khi chúng ta chưa biết xin lỗi, Ngài đã chết cho chúng ta rồi {Rm 5,10). Cho dầu con người đã tự ý phạm tội, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người “just the way we are”. Ngài vẫn đi tìm chúng ta trong cơn gió nhẹ chiều hôm, tha thiết tìm gọi “Con ơi, con đâu rồi” (St 3,8-9). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Thánh Gioan tông đồ khẳng định:”Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Thiên Chúa là nguồn tình HP50
Thánh Gioan tông đồ khẳng định:”Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Thiên Chúa là nguồn tình yêu, là tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn. Vì yêu thương mà Ngài đã san sẻ tình yêu cho chúng ta dể chúng ta yêu Ngài và yêu nhau. Vì thế, mọi tình yêu phải qui hướng về Ngài là cùng đích, là hạnh phúc tuyệt đối. Bản tính của tình yêu là muốn thông ban sự tốt lành của mình cho người khác. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài: mọi thụ tạo đều là dấu chỉ tình thương của Chúa. Trong mọi tạo vật được dựng nên, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự liền có, nhưng khi tạo dựng con người, Ngài muốn chọn cho con người một mô hình đặc biệt, đó là dựng nên con người giống hình ảnh Ngài {x. St 1,27). Như thế, con người được dựng nên với một cấp độ cao để con người có thể nói được là “nhân linh ư vạn vật”. Ngài đã dựng nên con người có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau để từ đó họ chỉ còn là một thân mình tức là chỉ còn một xương một thịt (Mc 10,66-8). Việc họ phối hợp với nhau cũng năm trong thánh ý của Thiên Chúa , là một việc thánh thiêng. Dựa vào đó, Hội thánh dạy rằng Thiên Chúa muốn cho họ thương yêu nhau thắm thiết để nâng đỡ nhau trong cuộc sống và sinh sản con cái để làm cho Hội thánh được thêm phong phú. II.TÌNH YÊU KẾT HỢP. Tình yêu luôn đòi kết hợp thân xác và tinh thần. Con vật thương nhau thì chỉ biết kết hợp thân xác, còn con người có lý trí không những đòi hỏi kết hợp thể xác như con vật, nhưng còn hơn nữa là muốn kết hợp tinh thần nữa. Vì thế, người ta cảm thấy nhớ nhung khi phải xa nhau và mừ#ng vui khi được gần nhau như các em thiếu nhi thường hát:”Cả nhà ta cùng yêu thương nhau, xa là nhớ gần nhau là mừng”. Vợ chồng đã thương yêu nhau là muốn kết hợp với nhau cả thể xac lẫn tinh thần, nghĩa là muốn kết hợp với nhau thành một “THÂN MÌNH”. Tuy là một thân mình nhưng vẫn còn là một thân và một mình, mỗi thân mỗi mình lại có những sắc thái riêng, những đặc tính riêng biệt mà người kia không có, đôi lúc còn trái ngược nhau là khác, nhưng vẫn có thể hòa hợp với nhau được như chanh với đường. Tuy chanh và đường có những đặc tính khác biệt và trái ngược nhau như “chua” với “ngọt”, nhưng chính chất chua và ngọt ấy lại có thể hòa hợp với nhau làm nên một ly nước chanh ngon miệng. Tuy vợ chồng là một thân mình nhưng chồng vẫn là chồng, vợ vẫn là vợ, mỗi người vẫn giữ được những sắc thái riêng, không ai có quyền và cũng không có thể triệt tiêu được những khác biệt của người kia, chỉ có một cách là hòa hợp với nhau như một ly nước chanh hay một ly cà phê ban sáng. Đúng như lời Đức Khổng Tử nói “HOÀ nhi bất ĐỒNG”: chỉ có hoà hợp với nhau chứ không có đồng nhất Hiểu như thế nên khi cầm lấy tấm hình chụp của mình lên xem, thisĩ Tàn Đà Nguyễn khắc Hiếu mỉm cười ngâm câu thơ rất quen thuộc mà ai cũng biết: Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai. (Tản Đà) Theo tư tưởng đó, thi sĩ Huy Cận, trong bài “Yêu nhau nhớ mấy cho vừa” có viết: Lòng ta một khối, ơi tình Chạm đâu cũng vọng nỗi mình với ta. Trong mình đã có ta trong Trong ta mình lại nấu nung bồn chồn. (Huy Cận) Qua hai câu thơ của hai thi sĩ, ta thấy vợ chồng coi nhau như của nhau, trong vợ đã có yếu tố của chồng và trong chồng đã có yêu tố của vợ. Do đó, hai người gọi nhau là “mình ơi”. Cũng vì đã kết hợp với nhau làm thên một thân mình nên hai người luôn mốn kết hợp với nhau cà thể xác cả tinh thần. Chuyện kể: Anh kia gõ cửa nhà. Có tiếng hỏi: - Ai đấy ? Anh ta đáp: - Anh đây. Cửa nhà không mở. Anh ta gõ tiếp. Tiếng vọng ra hỏi: - Ai đấy ? Anh ta đáp: - Mình đây. Cửa liền mở ra. III. VỢ CHỒNG KÊT HỢP. Thánh lễ Hôn phối chúng ta đang cử hành đây chỉ về sự “giao ước” tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa Chúa Kitô và Hội thánh (x. Ep 5,32), giữa cô dâu và chú rể. Khi chú rể và cô dâu rước Mình Máu thánh Chúa thì không những các con hiệp nhất với Chúa mà còn phải hiệp nhất với nhau trong giao ước tình yêu này. Trong cuộc sống hôn nhân, chúng con hãy cố gắng thực hiện lời thánh Phaolô khuyên như tính hữu Ephêsô mà chúng con vừa đọc trong bài đọc một vùa xong: “Chồng phải yêu vợ như chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ ; trái lại, người ta nuôi nấng và săn sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và săn sóc Hội thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người”(Ep 5,28-30). Khi các con đã kết hợp với nhau thành vợ chồng, thành một xương một thịt thì chỉ còn là một thân mình. Không ai có thể tách thân mình ra được. Cũng thế, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp rồi thì loài người không thể phân ly (x. Mt 19,6) và như thế, ly dị là một điều không được phép Trong đời sống chung, mỗi người có một tính tình riêng do giáo dục, giới tính, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục địa phương... mang lại, do đó dễ xẩy ra những va chạm hoặc lớn hoặc nhỏ, không thể tránh được. Muốn cho đời sống chung trở nên tốt đẹp, dễ chịu thì còn một cách là phải chịu đựng lẫn nhau, bổ túc cho nhau để làm nên một hòa điệu chung. Trong đời sống gia đình, nhiều khi chỉ có đôi vợ chồng hoặc với một vài đứa con, những sự va chạm xích mích cũng không thể tránh được. Trong sự chung sống hằng ngày, những sự bất hòa ngấm ngầm hay bất hòa bùng nổ, không thể tránh được những sự va chạm, không thể tránh được những lúc “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, bởi vì: Sống mỗi người một nết, Chết mỗi người một tật. Nếu thi sĩ Xuân Diệu nói: Nắng mưa là bệnh của trời thì ta cũng có thể nói: Cá trong lờ đỏ lơ con mắt, Cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô, Đời vợ chồng sớm nắng chiều mưa. (Ca dao) “Sớm nắng chiều mưa” có nghĩa là đời vợ chồng có lúc vui lúc buồn, lúc thịnh vượng lúc gian nan, lúc khỏe mạnh lúc ốm đau. Trong mọi hoàn cảnh vợ chồng phải luôn khăng khít với nhau để cả hai trở nên một: của chồng là của vợ và của vợ là của chồng. Vợ chồng phải như hình với bóng không thể tách lìa nhau.
Truyện: Bà Lư Thị Phòng-huyền-Linh, danh nho đời Đường, có vợ là Lư Thị rất đẹp, nhưng phải tính cực kỳ ghen tuông. Lúc còn hàn vi, Phòng Huyền Linh một hôm bệnh gần chết bảo Lư Thị: - Tôi chắc không thể nào sống được, mình còn trẻ không nên ở vậy, nếu tái giá nên ở với người chồng sau cho đàng hoành tử tế. Nghe nói, Lư Thị nức nở khóc đoạn vào phòng riêng, khoét một mắt bỏ đi cố ý tỏ cho chồng biết “trăm năm thể chẳng ôm cầm thuyền ai”. Không bao lâu, Phòng Huyền Linh khỏi bệnh. Sau khi ông thi đỗ, làm quan đến Tể tướng. Phong lưu, phú qúi, ông càng yêu mến kính trọng Lư Thị, nên không lấy thêm một tỳ thiếp nào nữa, trong khi các quan văn võ không ai không ba bốn năm phòng. Vì thế, người ta cho ông là sợ vợ. Tiếng đồn ấy đến tai vua Thái Tôn. Vua cho mời Lư Thị vào bảo: - Theo phép thường, các quan to vẫn có tỳ thiếp, quan tể tướng nay tuổi đã cao, Trẫm muốn ban cho một người đẹp, ý nhà ngươi thế nào ? Lư Thị nhất quyết không nghe, Thái Tôn nổi giận mắng: - Nhà ngươi không ghen thì sống, còn ghen thì phải chết ! Mắng rồi, Thái Tôn thét lính đem ra một chén rượu giả làm chén thuốc độc, phán: - Nếu chịu thì thôi, còn không phải uống chén thuốc độc này. Lư Thị không ngần ngại, cầm chén thuốc độc uống một hơi hết liền. Thái Tôn thấy vậy , lắc đầu nói: - Đàn bà như thế này thì trẫm cũng phải sợ, huống nữa quan tể tướng Huyền Linh. (Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 248-249). Thương chồng mà thương đến nỗi dám khoét cả một con mắt để tỏ lòng chung thủy thật là thương hết chỗ nói. Lư Thị đã làm một việc can đảm phi thường, trên đời hiếm có những người như vậy. Còn cái ghen của bà cũng là đáng sợ. Nhưng dù sao chúng ta thấy rằng Phòng Huyền Linh đã có một bà vợ hết sức chung thủy, có một không hai, nên ông chẳng những yêu mà còn phải kính nể Lư Thị nữa là khác. Trong cảnh sống gia đình, vợ chồng phải có quyết tâm gắn bó với nhau những khi gặp cảnh “sớm nắng chiều mưa” thực hiện lời Chúa đã dạy:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp thì loài người không thể phân ly” Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Đà lạt
Sách Nho có chữ:”Tào khang chi thê bất khả hạ đường”: Người vợ tấm mắn chẳng nên hất hủi HP51
Sách Nho có chữ:”Tào khang chi thê bất khả hạ đường”: Người vợ tấm mắn chẳng nên hất hủi xuống bậc hèn” (Tống Hoằng). “Thủy chung” có nghĩa là đầu và cuối. Việc gì cũng phải có đầu và cuối: hễ đầu xuôi thì đuôi lọt. Khởi đầu, Thiên Chúa tạo dựng nên con người, cho họ kết hợp với nhau thành một xương một thịt và dặn họ:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8). Nếu “Thủy” nơi Thiên Chúa là như vậy, còn “Chung” nơi loài người thì làm sao ? I. TRÍCH DẪN LỜI CHÚA. 1. Bài sách Sáng thế: 2,21-24. Bộ Kinh thánh bắt đầu bằng cuốn Sáng thế ký, và sách Sáng thế lại mở đầu bằng trình thuật tạo dựng vũ trụ vật chất và con người. Hai trường hợp sáng tạo được kể, có những chi tiết khác nhau. Tuy chẳng mấy ai tin theo nghĩa đen những chi tiết này, nhưng sự khác biệt chắc chắn có ý nghĩa. Khi tạo dựng vũ trụ vật chất, Thiên Chúa chỉ phán:”Hãy có...” thì liền có ; và muốn nó tiếp tục sinh ra nhiều thì phán:”Hãy sinh sôi nảy nở...” Sinh sôi nảy nở thế nào không được diễn tả rõ ràng, nhưng khi tạo dựng con người, Thiên Chúa tỏ ra thận trọng hơn:”Nào Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Còn để bảo tồn và phát triển, Thiên Chúa không chỉ phán:”Hãy sinh sôi...” mà còn “đạo diễn” một màn đầy ấn tượng: Ngài đã lấy xương sườn Ađam đang ngủ làm nên người nư õ(Evà), để rồi khi thức dậy, Ađam hớn hở reo lên:”Đây chính là thịt và xương tôi !... Bởi đó, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xương một thịt”(St 2,21-24). 2. Bài Tin mừng: Mc 10,6-9 ; Mt 5,27-32. Ai cũng biết, Đức Giêsu đến không phải để phá bỏ lề luật Cựu ước, mà là để kiện toàn. Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe thuật truyện Chúa Giêsu trình bầy quan điểm của Ngài về luật ly dị và đa thê của thời Môsê. Ngài cho rằng Môsê đã cho phép điều đó vì “sự cứng lòng của người Do thái” (Mt 19,8), nên cần phải loại bỏ. Bởi chính lúc khời đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam, có nữ, vì thế người đàn ông đã lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy “sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,6-9 ; St 2,24). II.VỢ CHỒNG PHẢI TRUNG THÀNH. Người đàn bà trong lễ giáo Khổng Mạnh phải tuyệt đối chung thủy, phải tuyệt đối trung thành với chồng mình. Họ phải giữ cái đạo “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử. Nghĩa là: người con gái ở nhà thì theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Chữ “chung thủy” của người xưa thật đáng ca tụng, nhưng tôi thấy nó rất thiên lệch và không công bằng. Lễ giáo của Khổng Mạnh đã áp đặt chặt chẽ trên người đàn bà, trong khi đó thì người đàn ông lại được thả lỏng: Trai thì năm thê bảy thiếp, trong khi đó thì: Gái chính chuyên chỉ có một chồng. và nếu có một vợ một chồng thì theo sự diễn tả một cách châm biếm, đó là: Nhất phu nhất phụ, Mỗi mụ mỗi nơi. Còn thời nay thì sao ? Đối với xã hội Tây phương thì chữ “chung thủy” thời nay đã biến mất. Người ta thay vợ đổi chồng như thay áo. Có nơi số đôi hôn phối ly dị đến 50%, thậm chí có nơi đến gần 70%. Cái hôn ước không còn giá trị nữa. Chính vì thế mà gia đình bị lung lay tận nền tảng , tận gốc rễ để rồi đi đến chỗ đổ vỡ chỉ vì những lý do không đâu. Còn ở Việt nam thì sao ? Truyện: trên chuyến xe đò. Có một lần trên chuyến xe đò đi Sàigòn, tôi được nghe mẩu tâm sự vụn giữa mấy bà mấy cô với nhau. Bà thì than rằng ông chồng của mình bê bối. Bà thì bực tức thấy ông nhà đèo bòng mà chẳng làm gì được. Nói ra thì xấu thiếp hổ chàng, còn để vậy thì ấm ức trong lòng. Sau cùng, có một bà kết luận: chỉ có mấy bà Công giáo là sướng. Đạo của họ cấm chỉ việc lang bang. Dù sao chăng nữa, thì họ cũng vẫn một lòng một dạ với nhau. Nghe mẩu tâm sự ấy, tôi cũng thấy mừng vì từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, sự chung thủy, một vợ một chồng vốn dĩ đã là nét son của hôn nhân Công giáo. Ai cũng biết hôn nhân Công giáo là một khế ước song phương được ký kết giữa hai người. Hôn ước của đạo Công giáo có hai đặc tính là đơn nhất và vĩnh viễn. Không ai có thể hủy bỏ hôn ước khi cả hai người còn sống. Nếu chúng ta đòi buộc người bạn đời phải tuyệt đối trung thành với mình, thì chúng ta cũng phải có bổn phận phải tuyệt đối trung thành với người bạn đời như thế. Chúng ta không thể nào chấp nhận những chia sẻ vụng trộm của người bạn đời thì chúng ta cũng không được chia sẻ tình yêu một cách thầm lén cho kẻ khác không phải là người bạn đời của mình. Nếu như hành vi thầm lén vụng trộm của chúng ta bị đổ bể, bởi vì “đi đêm có ngày gặp ma”... thì lúc bấy giờ chắc chắn dư luận sẽ không buông tha chúng ta và gia đình ta chắc chắn sẽ gặp nhiều sóng gió. Tuy nhiên, xưa cũng như nay không thiếu gì những gương cao đẹp về sự trung thành của vợ chồng trong những gian nan thử thách. Truyện: gương sáng của Án Tử. Án Tử, người nước Tề, nổi tiếng là một người thanh liêm. Xuất thân từ một gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh buôn tảo bán tần để mình ăn học. Đỗ đạt làm quan, Án Tử không bao giờ quên được ơn ấy của vợ. Cuộc sống đầy cạm bẫy, ông vẫn một lòng trung thành với vợ. Một hôm vua Cảnh Công đến thăm ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà đã già xuất hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử vừa giới thiệu người đàn bà đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt. Ông đề nghị với Án Tử: - Ôi, vợ khanh trông vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao ? Án Tử trả lời một cách dứt khoát, không chút do dự: - Nội tử của tôi nay thật già và xấu. Nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay, kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc còn trẻ cốt để nhờ cậy lúc tuổi già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi cũng như tôi đã từng nhận sự giúp đỡ của nội tử tôi. Nay, bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi phải mang tiếng ăn ở bội bạc với nội tử tôi. Nói xong, Án Tử lạy hai lạy, xin từ chối không lấy con gái của nhà vua. (Lẽ sống, tr 302). KẾT LUẬN Sau hết, anh chị hãy hiểu và ý thức lời hứa hôn mà anh chị sắp đọc lên cũng như lúc xỏ nhẫn để anh chị phải trung thành với nhau qua mọi cảnh huống của cuộc sống: khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại, khi mạnh khỏe cũng như lúc yếu đau, để yêu thương, để nâng đỡ và để cùng dìu nhau bước đi trong cuộc sống: “Hãy nhận lấy chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của nhau”: Nói lời hãy giữ lấy lời, Đừng như con bướm đậu rồi lại bay. (Ca dao) Anh hãy suy nghĩ và cố thực hiện được câu nói đầy ý nghĩa của Tốâng Hoằng “Tào khang chi thê bất khả hạ đường”. Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Lc 22, 14-20 . 1Cr 11, 23-27. Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu muốn ăn lễ Vượt qua với các môn đệ lần cuối cùng, Ngài nói:”Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15). Chúa Giêsu theo mọi lễ nghi phong tục Do thái, nhưng trong bữa ăn này, ngoài nghi lễ bình thường, Người làm một việc lạ lùng chưa từng nghe, chưa từng thấy và không thể tượng được: Ngài lập Bí tích Thánh Thể. Thánh Luca thuật lại: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói:”Đây là Minh Thầy, hiến tế vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói:”Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì các con”(Lc 22,119-20).
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, yêu đến tận cùng như Ngài đã nói trước:”Không có tình yêu HP52
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, yêu đến tận cùng như Ngài đã nói trước:”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”(Ga 15,13). Thân phận chúng ta là những người tội lỗi phải hư đi đời đời, nhưng vì yêu thương Người đã hy sinh đổ máu mình ra trên cây thập giá để rửa sạch tội lỗi chúng ta, chuộc lại chúng ta làm con Chúa và được thừa hưởng Nước Trời. Người lại còn muốn ở lại với chúng ta cho đến ngày tận thế nên đã biến mình máu Người làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Đây là một tình yêu cao vời không gì có thể sánh ví được. Tình yêu của Chúa không dừng lại ở mức độ ban ơn cho chúng ta , nhưng tình yêu ấy thúc đẩy Người hiến tế cả con người mình để đem hạnh phúc cho con người, như Người đã nói:”Đây là mình Thầy, hiến tế vì các con”, nên chúng ta phải gọi tình yêu này là Tình yêu hiến tế. II. NHÌN VÀO ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN. 1. Hôn nhân và tình yêu. Tình yêu là nền tảng của hôn nhân. Hôn nhân không có tình yêu thì không bền vững, giống như một ngôi nhà được xây trên cát. Vì thế người ta mới nói:”Hôn nhân không tình yêu là một ngày thiếu rạng đông”(Alphonse Karr). Chính tình yêu đã nối kết hai người lại nên một để làm thành một gia đình:”Họ không còn là hai nhưng là một xương một thịt”(Mc 10,8). Tình yêu và hôn nhân phải liên kết với nhau, không thể chia lìa như hình với bóng. Công đồng Vatican II định nghĩa rằng:”Tình yêu là một hành vi nhân linh của con người, đến với con người bằng một tình cảm tự ý, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người” (Gaudium et spes, số 49). Nói thế, công đồng xác định rằng tình yêu là hành vi con người. Hành vi ấy có khả năng đem lại hạnh phúc nhờ chính sự tự do của mỗi người trong đời sống tình cảm của mình. Nói khác đi, tình yêu là một hành vi nhân linh vì nó cho con người có khả năng làm người đúng nghĩa. 2. Tình yêu hiến tế. Chúng phải công nhân rằng tình yêu nối kết hai người lại với nhau, kết hợp với nhau để làm thành gia đình. Nhưng tình yêu ấy là tình yêu nào ? Thưa, đó là “Tình yêu hiến tế”. Nhìn vào Chúa Giêsu, ta thấy Ngài đã có tình yêu ấy đối với chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta một cách vô vị lợi, tình yêu ấy phải được gọi là Tình yêu hiến tế. Chính vì vậy, Ngài đã hiến tế thân mình bằng cách chịu chết trên cây thập tự để cứu chuộc chúng ta và còn biến mình máu Ngài làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Trong cuộc sống hôn nhân cũng vậy, vợ chồng phải yêu thương nhau bằng một tình yêu hiến tế, nghĩa là vợ chồng biết hy sinh cho nhau, quên đi bản thân mình để mưu cầu hạnh phúc cho bạn mình. Một tình yêu thiếu hy sinh chưa hẳn là tình yêu thật mà chỉ là một tình cảm nhất thời chóng qua. Tình cảm thì không bền vững, nó có thể trồi sụt, dễ dàng biến mất. Và khi tình cảm đó biến mất thì gia đình cũng sẽ tan vỡ. Tình yêu hiến tế làm cho vợ chồng càng khắn khít với nhau, dám hiến thân cho nhau, quên đi những quyền lợi của mình để chỉ nghĩ đến hạnh phúc người yêu: Sông hồ một giải con con Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo. Yêu nhau sinh tử cũng liều, Thương nhau lặn suối qua đèo có nhau. (Ca dao)
3. Hôn nhân và tử đạo. Có một danh nhân nói:”Tôi luôn khâm phục những vị anh hùng, kẻ anh hùng nhất là người dám LẬP GIA ĐÌNH”. Câu nói này có vẻ cường điệu quá chăng ? Vậy hễ lập gia đình là trở thành anh hùng cả sao ? Tuy nhiên, câu nói trên đứng về một phương diện nào đó cũng có ý nghĩa của nó, vì những người đi lập gia đình không thể nắm vững được tương lai như thế nào, không thể đo lường được con đường phía trước với đầy gian nan, bất trắc có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Nhất là từ khởi điểm là con số không mà hai người dám tuyên hứa sẽ gắn bó với nhau suốt đời để tạo lập tương lai sự nghiệp... Mặt khác, nhìn vào thực tế, có rất nhiều gia đình rơi vào những hoành cảnh rất éo le, bi đát hoặc do chính mình tạo ra hoặc do hoàn cảnh gây nên. Những ai sống trong hoàn cảnh đó mà vẫn trung thành với đời sống hôn nhân thì họ xứng đáng được gọi là anh hùng, anh hùng không tên tuổi, đáng mọi người khâm phục. Nếu ta gọi họ là những “Anh hùng tử đạo” thì điều đó có quá đáng không ? Có lẽ không quá đáng ! Phụng vụ Chính thống giáo nói lên khía cạnh ấy qua nghi thức “đội vương miện” trong thánh lễ hôn phối. Trong nghi lễ đó, mỗi người (chồng và vợ) nhận một Vương miện. Mũ miện trong Giáo hội Chính thống là dấu chỉ của sự vinh quang, vương quyền của Thần Khí và cũng là dấu chỉ của việc tử đạo luôn đi kèm. Khi người nam và người nữ được liên kết với nhau qua bí tích mà Linh mục ban cho họ, nghi thức này đến nhắc nhở cho họ rằng mỗi người phục vụ sự thánh thiện của người kia, và đời họ phải tự dâng hiến, tự trao ban. Linh mục dọc trong khi đội mũ miện lên đầu người chồng sắp cưới:”Tôi tớ của Thiên Chúa ông X nhận nữ tỳ của Thiên Chúa Y làm mũ miện, nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Linh mục cũng đọc trong khi đội mũ miện lên đầu người vợ sắp cưới:”Nữ tỳ của Thiên Chúa Y nhận tôi tớ X của Thiên Chúa làm mũ miện, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi người nhận mũ miện nhân danh người kia, với ý nghĩa là mỗi người sẽ là triều thiên tử đạo của người kia và không được tách sự đau khổ với vinh quang. Sau đó đôi vợ chồng đầu đội mũ miện theo sau Linh mục, đi vòng quanh sách Tin mừng ba lần để chỉ là từ nay cuộc sống chung của họ sẽ đặt Đức Kitô và Tin mừng của Ngài làm trung tâm. Đôi tân hôn uống cùng một chén của cuộc sống chung và cộng đoàn hát:”Ôi ! Lạy các thánh Tử đạo, những vị đã chiến đấu anh dũng mà nay đã được đội mũ triều thiên trên trời, xin cầu Thiên Chúa đến cứu linh hồn chúng tôi”. Đôi vợ chồng bây giờ đã trở thành một “Giáo hội vi mô” theo lời thánh Gioan Kim khẩu, được dành riêng để biểu lộ – cũng như Thánh Thể – “mối tình quá lớn” của Thiên Chúa cứu nhân độ thế. Chúng ta khó lòng hiểu được những lời trên đây vì chúng ta sợ khổ và tệ hơn nữa, chúng ta sợ mất mạng khi hiến dâng không dè xẻn. Vậy mà Đức Giêsu đã báo trước:”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn mình”(Ga 15,13) Và nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng rằng điều khiến họ “hy sinh” nhiều nhất vì yêu lại là điều đem lại cho họ niềm vui lớn nhất và sự triển nở hoàn toàn nhất. (G. Blaquìere, Dám sống tình yêu, tr 94-95) Hôn nhân là một nhu cầu cần thiết của con người mà đã đi vào đời sống hôn nhân là phải đau khổ giống như hoa hồng thì phải có gai. Mà nếu không lập gia đình thì cũng khổ vì người ta cảm thấy cuộc đời luôn trống vắng, luôn thiếu nhu cầu tình cảm để chia sẻ: Tròng trành như nón không quai Như thuyền không lái, như ai không chồng. Gái có chồng như gông đeo cổ, Trai không vợ như phản gỗ long đinh. (Ca dao) Có một thanh niên hỏi nhà hiền triết Socrate rằng: - Thưa thầy, con có nên lấy vợ không ? Nhà hiền triết trả lời: - Dù muốn hay không, đàng nào anh cũng sẽ hối hận. Nhà hiền triết trông thấy trước cái thế giằng co của những người chuẩn bị lập gia đình: lập gia đình thì khổ mà không lập gia đình thì cũng khổ, điều đó làm cho người ta tiến thoái lưỡng nan. Tuy thế, tuyệt đại đa số con người đều lập gia đình giống như trường hợp hai anh chị đây, chỉ có một số người có ơn gọi đặc biệt vì Nước Trời mới sống độc thân. Vậy chỉ còn có một cách là cứ lập gia đình và sẵn sàng chịu mọi rủi ro, chấp nhận hiện trạng của gia đình và phấn đấu tìm mọi cách làm thăng tiến gia đình qua sự cầu nguyện và năng chịu các phép Bí tích. Lúc đó, hạnh phúc nằm sẽ ở trong tầm tay bạn. Dầu sao đi nữa, chúng ta phải theo nguyên tắc này:”Per crucem ad lucem”: qua thập giá tiến tới vinh quang vì lửa thử vàng gian nan thử đức, không ai có thể ngồi mát ăn bát vàng...
Truyện vui minh hoạ Người kia chết, linh hồn được lên thiên đàng. Khi đến cửa thiên đàng, gặp thánh Phêrô đang gác cửa. Ngài chặn lại hỏi: - Anh đã qua lửa luyện ngục chưa ? Anh ta đáp lại: - Thưa chưa. Nhưng con là người đã có vợ ! Thánh Phêrô cười bảo: - Thôi được, vào đi. Lm Giuse Đinh lập Liễm,
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Vui buồn trong đời vợ chồng I. HUẤN DỤ CỦA THÁNH PHAOlÔ.
Chúng ta biết gia đình là nền tảng của Hội thánh và cũng là nền tảng của xã hội. Nền có vững HP53
Chúng ta biết gia đình là nền tảng của Hội thánh và cũng là nền tảng của xã hội. Nền có vững, ngôi nhà mới có thể đứng vững được. Ý thức được điều đó, thánh Phaolô đã khuyên nhủ những gia đình Kitô giáo đầu tiên phải sống thế nào cho đẹp lòng Chúa và có hạnh phúc. Ngài đã khuyên các tín hữu Colossê bằng những lời này: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫb nại. Hãy chịu đựng và tha thứ chi nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Những lời khuyên làm nổi bật sắc thái thánh thiện và tốt đẹp của gia đình Kitô giáo. Ngài còn ví tình yêu vợ chồng với tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chúa Kitô yêu Hội thánh thế nào thì Hội thánh cũng phải đáp lại bằng tình yêu ấy. Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ như tình yêu của Chúa Giêsu đối với Hội thánh. Đáp lại, người vợ cũng phải yêu chồng như mối tình của Hội thánh đối với Chúa Kitô. II. THỰC TẾ NHƯ THẾ NÀO ? Tuy thế, không phải lúc nào gia đình cũng êm ấm, trên thuận dưới hòa, êm lặng như mặt nước hồ thu. Mặt hồ đôi lúc cũng gợn sóng. Trời cũng có khi mưa khi nắng, có khi âm u , có khi quang đãng, đôi lúc nổi giông tố nữa như những cơn bão mùa hè vừa qua. Đấy là bệnh của trời, con người đôi lúc cũng có bệnh, cho nên người ta nói: Nắng mưa là bệnh của trời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. (Ca dao) Chồng yêu vợ thật, nhưng cũng không thể tránh được những va chạm nhỏ nhặt thường ngày. Tương tư là bệnh của chàng . Đúng ! Lúc mới yêu, nhất là lúc tương tư thì chàng coi nàng như một “nữ hoàng”, chiều chuộng, săn sóc tỉ mỉ, không dám làm mất lòng nàng. Đáp lại, nàng gọi chàng là “hoàng tử của lòng em”, nàng coi chàng là một mẫu người lý tưởng đáng ước mơ, cái gì của chàng cũng tốt, cũng đẹp, cũng hay. Nhưng sống với nhau một thời gian, “nằm trong chăn mới biết chăn có rận” (tục ngữ), qua những chung đụng hằng ngày, hình ảnh “nữ hoàng, nàng tiên hay hoàng tử của lòng em” không còn nữa mà thay vào đó là hình ảnh đen tối “con đĩ kia” hay “thằng qủi này”. Qua những va chạm hằng ngày, tình yêu thuở ban đầu không còn nữa, những xích mới nảy ra, tuy nhỏ mọn nhưng quan trọng, nếu không biết kiềm chế sẽ đi đến đổ vỡ. Theo nhận xét của tác giả Hồng Ngọc trong báo Kiến thức gia đình, nhiều cặp trai gái thích hào nhoáng bên ngoài, mà khi “ván đã đóng thuyền” rồi, thì ở nhiều cặp vợ chồng các vụ xung đột thường xẩy ra. Nguyên nhân chủ chốt của vấn nạn này không ngoài việc họ có quan niệm không đúng về gia đình. Ở đây có 3 vấn đề cần quan tâm: 1. Họ chưa ý thức được hôn nhân là một khởi điểm cho một tương lai lâu dài với nhiều bất trắc khó lường. Họ nghĩ nhầm rằng mở ra cánh cửa hôn nhân là đã bước vào cõi thiên đường. 2. Họ quên mất rằng, sau hôn nhân rất cần đến sự chiếm hữu lấy tình yêu bằng cách cần phải cố gắng để người bạn đời của mình yêu thích mình hơn, qúi trọng mình hơn nữa. 3. Khi giáp mặt với sự nhiêu khê trắc trở, với thực tế phũ phành của đời sống, trong gia đạo, họ giải quyết một cách đơn giản và tai hại bằng cách tìm niềm vui và sự bình an ở bên ngoài cánh cửa gia đình. (Hồng Ngọc, Kiến thức gia đình, số 59, tr 60) III. GIẢI QUYẾT THẾ NÀO ? Tôi xin đưa ra một ví dụ: “bát phở”. Ai trong chúng ta cũng đã từng ăn phở, đã có chút ít kinh nghiệm về một bát phở ngon. Một bát phở thơm ngon không chỉ do nước giùng, bánh phở, mấy miếng thịt bò hay gà, mà còn phải có đủ hành tỏi, nước mắm, hồ tiêu, lá húng, lá ngò, chanh và ớt... Nhờ những gia vị lỉnh kỉnh đó mà người ăn mới khoái khẩu, mới thấy mùi vị thơm ngon của bát phở, đặc biệt là vị chua của chanh, vị cay của ớt. Nhiều người khi cắn miếng ớt vào miệng cay chảy nước mắt, toát mồ hôi, nhưng nếu thiếu ớt lại không chịu được. Dường như ăn phở mà thiếu ớt, thiếu lá thơm, thì không còn cái thú của phở nữa. Chưa hết ! Bát phở còn phải nóng, hơi bốc ngùn ngụt, ăn vào là chảy cả mồ hôi mồ kê ra, chảy cả nước mắt nước mũi ra...thế mới là bát phở thơm ngon. Nói theo quan điểm triết học, thì trong cay đắng vẫn có ngọt bùi ; hoặc ngược lại, trong ngọt bùi vẫn có cay đắng. Và trong cái cay chua hay đắng đót của cuộc đời, vẫn tiềm tàng những yếu tố của hạnh phúc. Cuộc sống hôn nhân cũng như bát phở. Hương vị thơm ngon của nó là do những gia vị của cuộc đời vui, buồn, cay, đắng và mặn nồng. (Trần mỹ Duyệt, Bí quyết của Hạnh phúc hôn nhân, tr 116) Cuộc đời là như thế, có tránh cũng không được, chỉ còn cách duy nhất, cho nó một ý nghĩa cao đẹp. Chúng ta hãy bắt chước những đồng bào ở vùng đồng bằng sông Cửu long, năm nào cũng bị lũ lụt tàn phá vì ở vào vùng trũng, không thể tránh được. Cực khổ. Nhưng chịu vậy sao ? Người ta có một giải pháp rất hay là “sống chung với lũ”. Francois Mauriac nói:”Thiên Chúa đã đến kết hôn với đau khổ của con người để trao cho nó một ý nghĩa đồng thời với một giá trị”. Chấp nhận những đau khổ của cuộc đời là cần thiết và có ích. P. Charles cũng nói:”Từ khi Đức Kitô đến, chúng ta được giải thoát không phải là khỏi chịu đau khổ, nhưng khỏi chịu đau khổ một cách vô ích”. KẾT LUẬN Chúng ta chưa đạt tới hạnh phúc trong gia đình mà còn đang trên cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Được đến đâu hay đến đó, như người ta thường nói:”Được hoa mừng hoa, được nụ mừng nụ”. Hạnh phúc được đến đâu cũng hãy cảm tạ Chúa, hãy bằng lòng với hoàn cảnh của mình, đừng “đứng núi nọ trông núi kia cao”. Hãy thực hiện câu nói của người xưa: Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc, Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thởi nhàn Nghĩa là: Biết đủ, coi là đủ; đợi đủ bao giờ mới đủ, Biết nhàn, coi là nhàn; đợi nhàn bao giờ mới nhàn. Chúng ta hãy trông cậy Chúa vì Ngài không bỏ ai biết trông cậy vào Ngài:”Hãy xin thì sẽ được”. Ta hãy cầu xin cho mọi người và cách riêng cho đôi tân hôn biết chấp nhận mọi “lỉnh kỉnh” của cuộc đời và mặc cho nó một ý nghĩa cao qúi. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Trong cuộc sống hằng ngày, ai mà không có lo âu ? Lo âu là tình trạnh bất an trong tâm hồn trước HP54
Trong cuộc sống hằng ngày, ai mà không có lo âu ? Lo âu là tình trạnh bất an trong tâm hồn trước những sự việc xẩy ra không hợp với ý mình. Cuộc sống rất phức tạp, có nhiều thứ lo sợ: lo sợ về đời sống vật chất, lo sợ về đời sống tinh thần, lo sợ trong hiện tại, lo sợ cho tương lai. Sợ hãi lo âu nào cũng có chung một đặc tính: đó là dấu chỉ của sự yếu đuối, sự bất lực của con người. Thấy mình không đủ khả năng đương đầu với khó khăn nên mới lo sợ. Sự sợ hãi làm dang dở cuộc đời: “Lo bạc đầu, sầu bạc tóc”. Người ta nói đời buồn nhiều hơn vui. Thời gian của một đời người dường như lo âu nhiều hơn thong thả. Bao nhiêu lo lắng trong một ngày. Khi một đứatrẻ được sinh ra thì người ta nói là: cất tiếng khóc chào đời. Không thấy một đứa trẻ nào cười mà chỉ có khóc ? Nếu nó không khóc thì người ta phải đánh cho nó khóc lên một tiếng. Có lẽ vì thế mà thi sĩ Cao bá Quát mới nói: Vừa sinh ra sao đà khóc chóe, Đời có vui sao chẳng cười khì ? Tư tưởng đó cũng được thi sĩ Nguyễn gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc họa theo: Thảo nào khi mới chôn nhau, Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra. II. LO ÂU TRONG TIN MỪNG. Chúa Giêsu biết con người gặp nhiều lo âu trong cuộc sống nên mỗi khi con người gặp phải lo âu sợ hãi, Ngài lại khuyên:”Đừng sợ”. Chúng ta thấy Kinh thánh lặp đi lặp lại hai chữ này tới 365 lần, đủ cho mỗi ngày một câu. 1. Trước hoang mang: Tâm trạng nào đã xẩy đến cho Đức Maria trong ngày Truyền tin ? Một người thiếu nữ không chồng mang thai. Làm sao cắt nghĩa điều đó cho xã hội ? Cô sẽ bị ném đá chết. Còn tai tiếng cho dòng họ thì sao ? Trước nỗi hoang mang lo sợ ấy, thiên thần đã nói với Maria rằng:”Đừng sợ” (Lc 1,30). 2. Trước khó khăn: Biết Maria mang thai, thánh Giuse không có câu trả lời. Những ngày đó thánh Giuse phải xao xuyến vô cùng đến độ Ngài” định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Nếu bỏ Maria, Giuse trốn đi đâu ? Làm sao giữ kín mãi chuyện Maria mang thai ? Nếu lộ ra, những gì sẽ xẩy đến ? Giuse phải làm chứng thế nào trước công hội ? Trước khó khăn như thế, sứ thần bảo:”Giuse, đừng sợ” (Mt 1,20). 3. Trước tuyệt vọng: Tin Mừng thuật về nỗi tuyệt vọng của các môn đệ như sau:”Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước” (Mc 4,37). Trong kinh hoàng ấy, ai dám mong sống sót ? Thế mà Chúa Giêsu bảo:”Đừng sợ” (Mc 4,40 ; Mt 8,26). 4. Trước đau đớn: Người con gái ông trưởng hội đường sắp chết, ông phải thân hành bỏ nhà đi tìm Đức Giêsu, hy vọng Ngài cứu nó. Người ta khóc lóc kêu la. Con ông đã chết . Người ta nói với ông rằng không còn cách nào cứu vãn nữa. Trong cảnh đau đớn ấy, Chúa bảo ông:”Đừng sợ” (Mc 5,36). Ngoài ra chúng ta còn thấy rất nhiều trường hợp hai chữ “Đừng sợ” còn được dùng rất nhiều để khuyên bảo con người hãy tin tưởng vào Chúa để bớt sợ hãi đi: * Thiên thần nói với mục đồng: Đừng sợ. * Khi các môn đệ thấy bóng Chúa đi trên mặt biển, các ông kinh hoàng, Chúa bảo:”Đừng sợ”. * Bà Maria Madalena hoang mang trước mộ bia, Chúa bảo bà:”Đừng sợ” Sự sợ hãi ám ảnh mọi người, đâu cũng có sợ hãi. Sự sợ hãi làm cuộc sống thành sống mà không sống thực. Đức Kitô không muốn tôi sống trong lo âu khổ sở như thế. Ngài bảo:”Đừng sợ”. III. LO ÂU VÀ TƯƠNG LAI. Ta thấy sự sợ hãi và lo âu gắn liền với tương lai. Khi Chúa nói về nỗi lo lắng, Chúa cũng đề cập tới tương lai. Vậy tương lai và lo âu có những liên hệ nhu thế nào ? Suy nghĩ về lo sợ, ta thấy sợ hãi và lo âu gắn liền với tương lai. Lo người không chung thủy, lo tình yêu đau khổ, lo con cái không thành danh, lo công ăn việc làm, lo thất bại, lo người ta hiểu lầm. Tất cả mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai. Khả năng suy nghĩ về ngày mai kéo nỗi lo tới. Tương lai là điều chưa có thật nên những gì ta lo lắng cũng là lo lắng cái chưa có thật. * Thí dụ: Tôi lo lắng không biết ngày mai gặp người ấy, họ nghĩ gì về tôi, không biết ngày mai tôi phải trả lời ra sao cho một vấn đề. Những đau khổ ấy chưa xẩy tới nên nó chưa phải là điều có thật. Tuy nhiên, cuộc sống tôi lúc này khốn khổ vì lo âu, điều khốn khổ đó lại là sự thật trong hiện tại. * Thí dụ khác: Bạn đau khổ, lo mười năm nữa hôn nhân con cái mình có hạnh phúc hay không . Lúc này bạn đang đau khổ, còn chuyệbn hôn nhân kia có đau khổ hay không thì năm mười năm nữa mới xẩy ra. Như thế, ta lấy cái đau khổ thật để sống trong lo âu về một đau khổ chưa có thật. (Nguyễn tầm Thường, Cô đơn và sự tụ do, tr 131) IV. PHẢN ỨNG TRƯỚC ÂU LO. Lo âu cũng như bó dây leo trên đường đi, một là nó cuộn chân ta, giữ chân lại, hai là ta dẫm trên nó mà đi. Không còn cách nào khác. Cho nên ta phải đương đầu với lo âu và sợ hãi, không để cho nó chi phối đời ta: Chớ thấy sóng cả mà lo, Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng. (Ca dao) Nếu tôi hỏi đôi bạn trẻ: các con có nỗi lo âu gì cho tương lai không ? Chắc chắn các con sẽ trả lời: Có chứ ! Nếu tôi hỏi tiếp: Nỗi lo lắng nhất hôm nay là gì ? Chắc chắn các con sẽ trả lời: đó là hạnh phúc gia đình. Đúng, khi lập gia đình thì ai cũng muốn tìm đến hạnh phúc, hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc này ở trong tầm tay, nhưng nó cũng có thể vuột xa cánh tay của chúng ta. Hôm nay, Chúa cũng thông cảm với nỗi lo lắng của chúng con. Chúng con hãy bình tình và tin tưởng vì Chúa đã nói:”Các con đừng sợ, vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy” (Mt 6,34) Chúa Giêsu cho biết:”Không có Thấy các con không thể làm chi được” (Ga 15,5) vì chúng ta yếu đuối. Nhưng Ngài lại nói thêm:”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt 11,9) với lòng tin tưởng vào lời Chúa phán ta có thể nói như thánh Phaolô:”Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13). KẾT LUẬN. Nỗi lo âu trước nhất của đôi bạn trẻ trước đây là: Một mình lo bảy lo ba Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên. (Ca dao). Nỗi lo ấy hôm nay đã được giải tỏa, không còn lo già hết duyên nữa. Công việc chính lúc này và trong tương lai là lo sao cho có hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng vào lời Chúa: Đừng sợ. Hãy cậy nhờ Chúa: Hãy xin thì sẽ được. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
__________________________________ Tiêu chuẩn để lựa chọn I. LỜI CHÚA. Hãy đọc và suy niệm Lời Chúa: Mt 7,21-27.
Chúa Giêsu đã nói “Ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời Thầy” (x. Ga 15,10). Nghe và hiểu biết lời HP55
Chúa Giêsu đã nói “Ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời Thầy” (x. Ga 15,10). Nghe và hiểu biết lời Ngài cũng chưa đủ, còn phải đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Chúa Giêsu ví người nghe và thực hành Lời Chúa như người khôn ngoan xây nhà trên nền đá vững chắc, gió táp mưa sa cũng không làm cho ngôi nhà lay chuyển vì nhà được xây trên nền vững chắc. Trái lại, nghe lời Chúa mà không đem ra thực hành thì giống như người ngu chỉ xây nhà trên cát, nếu có mưa sao bão táp, nuớc ùa vào sẽ làm cho ngôi nhà bị đổ. Người đời ai cũng có kinh nghiệm về việc xây nhà: ngôi nhà càng cao nền càng phải vững chắc. Báo chí đã đưa tin là biết bao ngôi nhà tự nhiên bị đổ xuống đè chết nhiều người. Nguyên nhân từ đâu ? Người ta đều kết luận là nền không vững chắc vì bất cứ lý do nào. Khi kết hôn, người ta cũng dùng cụm từ quen thuộc: Xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình cũng như xây dựng một ngôi nhà cần phải có nền tảng vững chắc. Vậy nền tảng ấy là gì ? II. CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG. 1. Xây dựng nhà cửa. Ngày nay, kinh tế phát triển, nhà cửa đang được mộc lên như nấm, rất đa dạng. Có những vùng sình lầy đã trở thành những dẫy nhà cao tầng kiên cố và khang trang. Khi xây nhà người ta phải để ý đến nền móng, làm sao cho vững chắc. Nền móng yếu sẽ làm cho ngôi nhà bị nghiêng hoặc bị đổ. Báo chí cho biết có những ngôi nhà 5, 7 tầng lầu bị nghiêng ở bên Thái lan, và siêu thị hay cửa hàng tổng hợp 4 tầng bên Nam hàn bị sập, đã chôn vùi hơn 400 người. 2. Xây dựng gia đình. Khi xây dựng gia đình, người ta cũng phải để ý đến nền móng của nó. Tòa nhà hôn nhân phải được xây dựng trên nền móng vững chắc hay yếu ơt ? Hay nói khác đi, khi chọn người bạn trăm năm thì phải chọn theo tiêu chuẩn nào ? a) Trên nền không vững chắc. Người ta được tự do chọn người bạn trăm năm, không ai có quyền ép buộc nhưng họ phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy. Nếu họ chỉ chọn bạn trăm năm dựa theo tiền tài, chức quyền, tài năng, sắc dục... thì họ xây tòa nhà hôn nhân trên cát vì những thứ ấy không vững chắc. Nếu những thứ ấy biến đi, liệu tòa nhà hôn nhân có thể đứng vững được không ? Hoặc ai có thể cứu vãn cho ngôi nhàtrong tình thế nguy hiểm ấy ? Phải biết trước nhân tình thế thái: những lời thề hứa với nhau trong ngày thành hôn không bảo đảm cho họ một tương lai vững chắc. Khi xẩy ra một sự cố, khi những tính toán ban đầu không được thực hiện thì người ta có thể thẳng thừng mà nói với nhau như thế này: Bây giờ tiền hết gạo không, Anh ơi, ở lại mà trông lấy hòm. Bao giờ tiền có gạo còn, Thì tôi trở lại trông hòm cho anh (Ca dao) Ông Meilman cũng nói: “Ái tình là một chứng bệnh có 3 giai đoạn: khát khao, chiếm đoạt và chê chán”. b) Trên nền vững chắc. Khi kết hôn, ta cũng theo gương cậu Tobia và cô Sara để chọn người yêu. Trước một biến cố quan trọng của một đời người như vậy, hai cô cậu đã làm gì ? Kinh thánh còn ghi rõ: hai cô cậu đã sốt sắng dâng lời cầu nguyện: Giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết rằng không phải vì mê sắc dục mà con nhận em con đây làm vợ, nhưng chỉ vì muốn có một dòng dõi để nhờ đó danh Chúa được chúc tụng đến muôn thuở muôn đời” (Ttb 8,9). Cô Sara cũng nói: “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, xin thương xót chúng con, và cho vợ chồng chúng con cùng nhau sống an lành cho đến tuổi già” (Tb 8,10). Kết hôn là một chuyện dễ và rất nhanh chóng, nhưng sống trong cuộc đời hôn nhân mới là khó vì nó không kéo dài trong năm ba tháng mà phải kéo dài suốt cả cuộc đời cho đến khi một trong hai người không còn nữa. Trong thời gian sống chung đó, có biết bao biến cố xẩy ra, vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại. Có những sự việc xẩy ra hoàn toàn không theo ý muốn. Những cơn sóng gió nổi lên làm chao đảo con thuyền hôn nhân đang dật dờ trên biển trần gian. Như vậy, muốn xây dựng hôn nhân trên nền móng vững chắc thì cần phải có: * Đời sống đạo đức: Chính đời sống đạo đức là một bảo đảm cho đời sống hôn nhân , vì nhờ đó, vợ chồng biết yêu thương nhau, nhường nhịn nhau, yêu nhau chín bổ làm mười. Những khi khó khăn họ biết chạy đến Chúa kêu xin Người cứu chữa để họ giải quyết mọi việc một cách êm thắm. Do đó, người đời mới có câu tục ngữ rất chính xác và đầy kinh nghiệm: Cái nết đánh chết cái đẹp. Ông Feuerzinger cũng nói: “Chẳng có gì ghê tởm bằng người đàn bà nhan săc mà không có đức hạnh”. * Tính tình tốt: Người đời cũng có nhiều kinh nghiệm về cuộc sống hôn nhân: Hạnh phúc hôn nhân dựa trên cái gì ? Người ta không bảo là phải dựa trên tiền tài, danh vọng hay chức quyền mà phải dựa trên một con người có tình tình tốt lành, như câu ca dao dưới đây chứng minh: Chẳng tham ruộng cả ao sâu, Tham vì anh tú rậm râu mà hiền. (Ca dao) Hoàng đế Napoléon đệ nhất cũng nói: “Một người đàn bà đẹp làm thỏa mắt, Một người đàn bà tốt làm đẹp lòng: Một đàng là một thứ trang sức, Một đàng là một kho tàng”. Vậy người khôn ngoan xây nhà thì phải xây trên cái gì đây: họ nên chọn đồ trang sức hay kho tàng ? KẾT LUẬN. Muốn chọn người bạn trăm năm phải theo tiêu chuẩn: đứng về phương diện tôn giáo , chọn được một người có đời sống đạo đức thì tốt nhất, vì với ơn Chúa, đời sống của họ có thể bảo đảm cho hạnh phúc hôn nhân, hay ít ra phải chọn một người có một tính tình tốt lành như người đời hằng mong ước. Tốt nhất nên chọn người nào biết thi hành lời Chúa: “Anh em là muối cho đời” (Mt 5,13) “Anh em là anh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Gần nửa đêm 15.04.1912, chiếc tầu Titanic của hãng White Star (Anh quốc), một con tầu tối HP56
Gần nửa đêm 15.04.1912, chiếc tầu Titanic của hãng White Star (Anh quốc), một con tầu tối tân, sang trọng và vĩ đại nhất thế giới thời đó, trong chuyến du hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, đã va phải băng sơn và chìm sâu 4000 mét dưới lòng đại dương. Tầu Titanic chứa 1524 hành khách và một thủy thủ đoàn gồm 700 người. Khi tai nạn xẩy ra, người ta khẩn cấp hạ các thuyền cấp cứu xuống và chỉ dành ưu tiên cho đàn bà và con trẻ, bất cứ một người đàn ông nào tranh giành sẽ bị bắn bỏ. Người ta không quên nhắc tới một bà chủ tiệm buôn lớn ở New York luôn đứng nép bên chồng, bà nhường quyền ưu tiên cho các chị em khác. Khi tới lượt bà, bà không muốn chia lìa chồng trong lúc nguy cấp này, dù ông luôn đẩy bà tới. “Sống chết có nhau”. đó là châm ngôn của bà. Vì số thuyền cứu hộ chỉ đủ chỗ cho 700 người, cặp vợ chồng này đã chung phận với số còn lại (1500) cùng chết chìm với con tầu sau 4 giờ hấp hối. I. MỘT XƯƠNG MỘT THỊT. Sở dĩ người đàn bà này luôn khăng khít với chồng, sống chết có nhau vì bà đã nhớ tới lời Chúa đã phán trong sách Sáng thế: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai nhưng chỉ là một xương một thịt” (St 10,6-8). II. BÊN NHAU. Qua câu chuyện trên, ta phân biệt: không được cố ý chết theo nhau vì Chúa mới là chủ mạng sống, không ai được tự ý hủy hoại mạng sống mình , nhưng sẵn sàng hy sinh vì nhau, sẵn sàng chấp nhận những hiểm nguy, kể cả cái chết xẩy đến ngoài ý muốn, thì đó là tình yêu lớn lao và cao cả như Chúa dạy: Không có tình yêu nào lớn hơn là tình yêu của kẻ dám thí mạng sống vì người mình yêu: (Ga 15,16). Chúng ta cũng đã có gương thánh Maximianô Kolbê. Trong trại tập trung của Đức quốc xã, mười tù nhân phải chết thay cho một tù nhân khác đã vượt ngục. Trong số mười tù nhân này phải đem đi xử bắn, có một trung úy trẻ tuổi khóc lóc thảm thiết vì nhớ đến số phận người vợ trẻ và mấy đức con thân yêu đã khóc lóc nức nở. Trước cảnh tượng thương tâm đó, cha Maximilianô Kolbê đã xin chết thay cho anh trung úy này. Ngai đã chết thay cho người khác. Ngày này Hội thánh đã đặt ngài trên bàn thờ cho chúng ta chiêm ngắm đức hy sinh của Ngài. Lời Chúa ở trên đã được thực hiện triệt để nơi thánh nhân. III. MỌI NƠI MỌI LÚC. Chia sẻ với nhau những lúc thịnh vượng mạnh khỏe thì rất dễ, nhưng chia sẻ khi bĩ cực, khi tàn phế thì rất khó, nhất là lâu ngày lâu tháng hoặc chẳng còn hy vọng thoát khỏi cảnh bi đát, thì phải có một ý chí kiên cường mới có thể trung thành yêu thương phục vụ nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, ta đã được chứng kiến những cảnh gia đình tàn tật, chồng hoặc vợ kiên trì nuôi sống nhau, nâng đỡ nhau, trung thành với nhau cho đến hơi thở cuối cùng. Nhưng cũng không thiếu những cảnh trớ trêu của nhân tình thế thái, người ta nói mỉa mai: Khi vui thì vỗ tay vào, Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai ? (Ca dao)
IV. PHẢI ĐỀ PHÒNG. Đôi bạn trẻ lấy nhau thì chỉ nghĩ đến vẻ đẹp, vẻ hấp dẫn của đời hôn nhân, chỉ nghĩ đến bông hoa hồng đầy hương sắc mà ít khi nghĩ đến những chiếc gai nhọn sẵn sàng đâm vào tay vì hoa hồng nào mà chẳng có gai ? Các bạn trẻ nghĩ thế nào về câu nói của nhà hiền triết Hy lạp, ông Socccrates: ‘Những thanh niên đi tìm hôn nhân có khác nào những con cá đậu trước đầu lờ... Tất cả đều hăm hở mà chui vào, trong khi đó không biết bao nhiêu kẻ đang vẫy vùng một cách tuyệt vọng để thoát ra”? Ca dao Việt nam cũng có một câu tương tự như thế chứng tỏ tư tưởng của Đông Tây đều gặp nhau trên phương diện này: Cá trong lờ đỏ lơ con mắt, Cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô, Đời vợ chồng sớm nắng chiều mưa. (Ca dao). Có khi nào các bạn nghĩ đến những trắc trở trong gia đình, những cảnh éo le khó giải quyết, khi xẩy ra cảnh “Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” không, để rồi bị cám dỗ giải quyết một cách dại dột, đáng trách: Xin chia tay ! và nếu là mãi mãi Thêm một lần, xin mãi mãi chia tay. (Huy Thông)
V. HẠ QUYẾT TÂM. Phải nhắc đi nhắc lại lời hứa khi cử hành bí tích hôn phối:”Và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoỏe, để yêu thương và tôn trọnh nhau suốt đời mình”. Phải coi vợ chồng như hình với bóng, không bao giờ được chia lìa nhau bất cứ vì lý do gì: Đi đâu cho thiếp đi cùng, Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam. (Ca dao) Trong đời hôn nhân, cần phải có tình yêu vì “Hôn nhân không có tình yêu là một ngày thiếu rạng đông” (Alphhonse Karr), nhưng tình yêu cũng phải trả bằng giá đắt:”Tình yêu đòi hỏi ở chúng ta nhiều chịu đựng gian lao và thử thách” (Thomas Champion). KẾT LUẬN. Lý tưởng thì rất đẹp, nhưng sống theo lý tưởng không luôn dễ. Do đó, ta cần có sự trợ lực của Chúa qua bí tích Hôn nhân mà đôi bạn trẻ đã sốt sắng chuẩn bị kỹ lưỡng ; đồng thời phải sống bí tích này qua cuộc sống chung và qua lời cầu nguyện chung, riêng trong gia đình hằng ngày. “Ai tin tưởng vào Chúa sẽ không hề thất vọng” (Tv 24,3). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
I. CON NGƯỜI PHẢI LỰA CHỌN. Chúng ta đọc: Lc 6,12-19 ; Mt 10,1-4 ; Mc 3,13-19.
Trong việc kết hôn, ngày xưa ta thường được nghe câu: cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Cha mẹ HP57
Trong việc kết hôn, ngày xưa ta thường được nghe câu: cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Cha mẹ có quyền định đoạt số phận cho con cái, mọi người chỉ việc vâng theo. Ngày nay, trên nguyên tắc không còn sự quyết định độc đoán của cha mẹ nữa, mà con cái có quyền tìm hiểu, lựa chọn và quyết định lấy vận mệnh của mình. Trong cuộc sống, mỗi người có ơn gọi và có quyền đáp trả hay từ chối ơn gọi ấy. Đó là điều làm cho nhiều người phải thao thức, băn khoăn, lo lắng trước quyết định ấy. . Tổ tông Adong Evà được quyền tự do vâng lời hay phản lại Chúa trong việc ăn trái cấm. . Đức Maria có quyền tự do chấp nhận hay từ chối lời mời gọi làm Mẹ Đấng Cứu thế. . Các người chài lưới có quyền theo Chúa Giêsu làm tông đồ hay từ chối lời mời gọi ấy. . Đức Giêsu có quyền ưng thuận hay từ chối uống chén đắng mà Cha Ngài trao cho. II. LỰA CHỌN TRONG HÔN NHÂN. Hôn nhân không phải là kết quả của một sự ngẫu nhiên, của các năng lực vô ý thức mà là kết quả của một sự lựa chọn sáng suốt và đầy ưu tư.. Lựa chọn có hai yếu tố đi liền nhau: lựa và chọn. Lựa mới là phân ra từng loại, từng cái một để so sánh. Còn chọn mới là quyết định nhận hay không nhận, nhận cái này hay cái kia, hay chọn một trong nhiều cái. Ví dụ: Ở chọn nơi, chơi chọn bạn. hoặc: Chê thằng một chai, lấy thằng hai lọ. Sống là lựa chọn mà lựa chọn trong hôn nhân là một điều vô cùng hệ trọng vì nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời của mình, hôn nhân luôn bền chặt, không thể thay đổi như thay áo “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Việc lựa chọn này do mình quyết định lấy, không ai có thể thay thế được. Vậy trước khi kết hôn phải quyết định xem mình lựa chọn cuộc sống độc thân hay cuộc sống gia đình, lấy người này hay người khác. Sự quyết định này không thể đảo ngược được. Người Việt nam ta đưa ra một số câu tục ngữ để khuyên đôi trai gái phải lựa chọn trước khi kết hôn: . Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống. . Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi. . Mua heo chọn nái, mua gái lựa dòng. . Mua thịt thì chọn miếng mông, Lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi. . Đừng tham da trắng tóc dài, Đến khi nhỡ bữa chẳng mài mà ăn. Hay một câu danh ngôn: “Kén vợ bằng tai hơn bằng mắt” (Cervantes) “Biết bao nhiêu đàn ông chỉ yêu cái má lún đồng tiền mà dại dột cưới nguyên một cô gái” (S. Leacock) III. ĐẶC TÍNH CỦA SỰ LỰA CHỌN. 1. Tự do. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Ngài không bắt buộc ai phải lập gia đình, hay bắt sống độc thân, đi tu hay sống ngoài đời. Chúa chỉ mời gọi và ta có quyền tự do đáp trả: nhận hay từ chối như trường hợp của Đức Maria nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu thế, hay Chúa Giêsu vâng theo ý Chúa Cha để nhận chén đắng. Đặc biệt trong hôn nhân, sự tự do là điều kiện tất yếu, thiếu nó thì hôn nhân sẽ không thành sự. Vì thế, trước khi cử hành bí tích hôn phối, Linh mục đã hỏi đôi bạn trẻ trước mặt cộng đoàn - Anh X và chị Y, anh chị sắp kết hôn với nhau, anh chị có thực sự tự do, hay là bị ép buộc? Cô dâu chú rể lần luợt trả lời: - Thưa, thật sự tự do. 2. Lo lắng. Quyết định đi đến hôn nhân là quyết định dứt khoát cho một sự lựa chọn. Mà lựa chọn thì trước hết có nghĩa là chấp nhận. Chúng ta phải chấp nhận người bạn đời với tất cả sở trường và sở đoản. Bởi vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những khuyết điểm của mình. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy được người yêu lý tưởng, đủ mọi tiêu chuẩn mà chúng ta đưa ra trên cõi đời này. Vì thế, ai cũng lo: Thân em như giếng bên đàng, Người khôn rửa mặt, người quàng rửa chân. hoặc: Lênh đênh một chiếc thuyền tình, Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu. Truyện vui: Sao anh không cưới ? Tử Lý Lắc tâm sự với một người bạn: - Tôi đã nguyện với lòng chỉ cưới vợ khi gặp người thiếu nữ lý tưởng. - Anh chưa tìm ra à ? - May quá, tôi đã gặp được người ấy. - Ô, sao anh không cưới liền tay đi ? - Cưới gì ? Cô ta cũng đang tìm một người đàn ông lý tưởng mà người đó lại không giống tôi, nên cô ta từ chối. (Giai phẩm EM). 3. Liều. Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà lựa chọn là liều lĩnh vì không bao giờ ta nắm được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai có thể dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không phải vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn để suy nghĩ, cân nhắc như ta có thể rồi, ta có quyền bước tới. Có những định hướng lựa chọn cho cả cuộc đời. Sự liều lĩnh lại còn lớn hơn. Chọn một nghề nghiệp nhiều khi cũng rất quan trọng nhưng người ta có thể thay đổi mà không ảnh hưởng sâu xa tới đời sống. Còn chọn một người bạn trăm năm thì gần như là chọn chính đời sống của mình. Đó là những chọn lựa căn bản, sẽ chi phối những chọn lựa riêng rẽ khác về sau. 4. Đau khổ. a) Chọn lựa là từ bỏ. Chọn lựa còn có nghĩa là từ bỏ. Từ bỏ bao giờ cũng gây đau khổ. Chúng ta phải từ bỏ những cuộc giao du, những cuộc gặp gỡ hay những cuộc tiếp xúc khả dĩ làm sứt mẻ, rạn vỡ tình yêu của chúng ta. Đó là trong hiện tại, còn trong dĩ vãng thì làm sao ? Chúng ta cũng phải từ bỏ những hình ảnh, những kỷ niệm của một ngày xưa, cho dù đó là một ngày xưa “hoàng thị”, một ngày xưa đằm thắm, với những rạo rực của môt thuở mới lớn, với những mộng mơ của những cuộc tình đầu. Nếu chúng ta cứ để cho dĩ vãng ám ảnh, và nhất là nếu chúng ta cứ luôn so sánh hiện tại với dĩ vãng, thì chắc chắn tình yêu của chúng ta sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Và biết đâu, đó cũng là một cách chúng ta ngoại tình trong tư tưởng rồi vậy. b) Chọn lựa có thể sai lầm. Ai dám nói mình chọn lựa đúng, chắc chắn 100% ? Chọn lựa nào cũng có thể sai lầm. Có cái lầm lớn, có cái lầm nhỏ. Có cái lầm có thể sửa đổi được ví dụ nghề nghiệp, Có cái lầm không thể sửa đổi được, ví dụ: kết hôn. Ta phải gánh chịu mọi hậu quả tốt hay xấu của sự lựa chọn này. Vì thế ông Frankin nói: “Trước khi kết hôn hãy mở mắt ra, “Sau khi kết hôn, hãy nhắm mắt lại”. (B Franklin) KẾT LUẬN. Tương lai nằm trong tay Chúa và trong quyết chí của chúng ta. Có một câu danh ngôn khá quen thuộc: “Trước khi ra trận thì cầu nguyện một lần, trước khi vượt biển thì cầu nguyện hai lần, còn trước khi lập gia đình thì phải cầu nguyện ba lần”. Cầu nguyện để xin ơn Chúa nâng đỡ, để được an tâm và có quyết định sáng suốt, để có sức mạnh vượt thắng những cám dỗ về những “sự cố” có thể xẩy ra ở giai đoạn tiền hôn nhân. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Trong lễ nghi hôn phối, hai người đã tự nguyện chọn nhau làm vợ làm chồng và hứa sẽ giữ HP58
Trong lễ nghi hôn phối, hai người đã tự nguyện chọn nhau làm vợ làm chồng và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời mình. Tuy đã hứa với nhau một cách danh dự trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh, nhưng lời hứa ấy còn phải được thử thách trong đời sống hôn nhân, chỉ những ai bền đỗ đến cùng mới được hạnh phúc. Sở dĩ như vậy là vì vợ chồng vốn rất khác biệt nhau về nhiều mặt: cơ bản nhất là giới tính, sau là về tính cách, tính tình, sở thích, kỳ vọng, thói quen, lối sống, nền tảng giáo dục, học vấn, nghề nghiệp... Bản thân mỗi con người là một cá thể đặc thù, một tiểu vũ trụ (miccro-cosmos), một thế giới nhân cách riêng hẳn. Nay phải hòa hợp lại trong cùng một môi trường sống, cùng chia sẻ hoàn cảnh, trách nhiệm chung, cùng ăn đời ở kiếp để đồng cam cộng khổ với nhau trong đời sống hôn nhân gia đình. Quá trình sống chung đó rất dễ dàng xẩy ra những bất đồng, xung đột và mâu thuẫn. Một khi mối bất hoà không được giải quyết rốt ráo, thỏa đáng, tất sẽ ddẫn đến ly biệt !... II. THỬ THÁCH TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN. Tại sao trong đời sống hôn nhân chưa được bao lâu mà nửa đường đã rã gánh ? Có nhiều gia đình đã đi đến chỗ tan vỡ ? Có nhiều lý do, hôm nay chúng ta chỉ đưa ra hai lý do 1. Kết hôn quá sớm, quá vội. Ngày xưa, các cụ ta có tục tảo hôn, con cái còn nhỏ mà đã cho kết hôn, thậm chí những đứa trẻ mới có năm ba tuổi đã kết hôn rồi. Việc kết hôn này là do cha mẹ hai bên hoàn toàn quyết định, con cái phải vâng theo, không được ý kiến theo phương châm “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, vì thế mới có cảnh trớ trêu cười ra nước mắt: Bồng bồng cõng chồng đi chơi, Đến ngay chỗ lội đánh rơi mất chồng. (Ca dao) Ngày nay, xã hội tiến bộ hơn, những hủ tục ấy không còn nữa, đã bị đẩy lùi vào quá khứ rồi, nhưng việc kết hôn vội vàng vẫn còn phổ biến. Nhiều lúc hai anh chị gặp nhau thấy có một điểm gì hấp dẫn là yêu nhau ngay, yêu nhau say đắm, đôi khi nổ ra một tiếng sét ái tình làm cho họ choáng váng, không cần tìm hiểu nhau, muốn kết hôn với nhau ngay, một vài trường hợp xẩy ra là họ mới quen biết nhau có một tuần là đã tổ chức đám cưới ngay. Đôi khi đôi bạn trẻ còn quá trẻ, chưa đến tuổi trưởng thành, chưa hiểu biết gì về đời sống đôi bạn, khi gặp khó khăn trong gia đình, họ đành đi đến chỗ “tan đàn xẻ nghé” Khi mới quen nhau, người ta chưa tìm ra dược cái sở trường sở đoản, cái tốt cái xấu của nhau, chỉ suy nghĩ một chiều: mọi cái là tốt hết, nhưng khi nhìn vào thực tế thì thất vọng. Đúng như người ta nói:”Người ta lấy nhau vì những đức tính mà người ta không có, rồi người ta cũng bỏ nhau vì những nết xấu mà người ta không có”. Nằm trong chăn mới biết là chăn có rận, khi nhận ra nết xấu của nhau, người ta bắt đầu khinh nhau, coi nhau không ra cái gì cả: Ngày xưa, em coi anh như giàn thiên lý Bây giờ, em coi anh như khỉ leo cây . 2. Chưa thấy trước những khó khăn. Có những chuyện xem ra là nhỏ nhặt trong gia đình, nhưng thực sự lại không nhỏ, nó cũng giống như những lỗ nhỏ có thể làm đắm thuyền hay hạt cát có thể làm đau bàn chân. Các bạn trẻ chưa có kinh nghiệm thì chưa nhìn ra những cái đó. Luật sư Edward Kaufman, trong cuốn “Làm sao giữ tình yêu của chồng” đã viết:”Nghiên cứu các hồ sơ ly dị, tôi thấy rõ rằng có những bất hoà bề ngoài tưởng như không đáng kể, những sự xung đột rất nhỏ, cơ hồ không thấy được, nếu xẩy ra thường, thành một thứ bệnh kinh niên, như những giọt nước rỉ ở vòi nước xuống, thì có thể làm nền tảng của hôn nhân sụp đổ... có những chuyện hiểu lầm nhau nho nhỏ có thể làm cho thần kinh của hai vợ chồng suy mòn đi, như bị trúng lạnh sơ sài, không chịu chữa ngay, có thể thành ra sưng phổi”. Trong gia đình, những chuyện bất đồng nhỏ, vụn vặt giữa hai vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, hoặc giữa cánh nam giới (bố-con trai) và cánh nữ giới (mẹ-con gái) có thể xẩy ra thường ngày như cơm bữa. Xét một cách tổng quát, đó là chuyện thường tình, bới vì “Chén bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng” (Tục ngữ). Nhưng trong nhiều gia đình và trong nhiều tình huống đặc biệt, chuyện nhỏ lại không “nhỏ” chút nào. Biết vậy, nên có người đã khuyên:”Bí quyết lớn nhất làm cho các cuộc hôn nhân thành công là coi tất cả các tai hoạ là chuyện nhỏ và không bao giờ biến chuyện nhỏ thành tai hoạ” (Harold Nichlson). * Khi yêu, lúc ghét: Đôi bạn trẻ phải hiểu rằng tình yêu không thể lúc nào cũng ở vào cao điểm, có lúc xuống đáy. Những lúc tình yêu xuống đến đáy thì người ta sẽ ra sao ? Đây là kinh nghiệm cay đắng của các chị: Còn duyên anh cưới ba heo, Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi. (Ca dao) * Đời sống lên xuống: Có những anh chị, ở những tình yêu dâng cao tột đỉnh, nghĩ rằng đời sống lứa đôi ắt phải luôn ngập tràn hạnh phúc. Nhưng khi bước vào đời hôn nhân, thấy cuộc sống thực tế đã không điểm tô toàn mầu hồng như ước mơ thuở ban đầu, thì sinh chán nản và nhen nhúm tư tưởng “nửa đường đứt gánh”: Anh đi đường anh, Tôi đi đường tôi, Tình nghĩa đôi ta có thế thôi (Thế Lữ) * Mộ hình ảnh đẹp. Cuộc sống của con người, đặc biệt của lứa đôi, phải nói là giống hệt như biển cả. Biển bình minh, ôi nên thơ biết mấy ! Một mầu xanh biếc và phẳng lặng như tờ, ánh dương như tận đáy vươn lên, rực rỡ biết bao ! Đó là thơi kỳ trăng mật và những ngày sau lễ cưới. Nhưng rồi trưa đến hay lúc chiều về, mặt biển ọp ẹp nổi sóng đưa theo những “rác rến từ đâu” vào bờ. Đó là những bất đồng hay bực bội nho nhỏ vào những tháng, những năm sau tuần trăng mật ! Chưa hết, một ngày nào đó bỗng giông tố nổi lên, sóng bạc đầu dâng cao, nhận chìm thuyền bè, gây tan hoang chết chóc...! Đó là lúc vợ chồng giận hờn, chửi bới, đánh đập nhau sứt trán bể đầu... Nhưng qua bão tố trời lại thanh quang. Biển lại bình minh, rồi lại trưa đến, chiều về: chỉ cầu mong sao đừng bão tố nữa. Đấy là một cuộc sống đời thường ! Một cuộc sống đời thường thì phải có bình minh tươi đẹp, phải có trưa, có chiều sóng vỗ và có khi có thể có cả sóng bạc đầu. Vì thế, anh chị phải nhìn nhận ra thực tế của đời sống hôn nhân, không ai có thể tránh được, chỉ có một con đường duy nhất là sẵn sàng chấp nhận thực tế và đón nhận hậu quả dù tốt hay xấu. Truyện: Socrate và đệ tử. Một đệ tử của ông Socrate hỏi: - Thưa thầy, con có nên lấy vợ không ? Ông đã trả lời: - Dù làm thế nào con cũng hối hận. Ý ông muốn nói rằng: dù lấy vợ hay không lấy vợ, cách nào cũng có cái bất tiện của nó. Lấy vợ cũng khổ mà không lấy vợ cũng kẹt. Cũng trong tư tưởng này mà ông Socrate nói:”Những thanh niên đi tìm hôn nhân có khác nào những con cá đậu trước đầu lờ... Tất cả đều hăm hở mà chui vào, trong khi đó không biết bao nhiêu kẻ đang vùng vẫy một cách tuyệt vọng để thoát ra”. Vì thế, người ta mới ví von một cách hài hước: Hôn nhân là chiếc lồng son, Người ngoài muốn nhập, người trong muốn chuồn.. KẾT LUẬN Phải có những cái nhìn thực tế trước những khó khăn của đời sống hôn nhân để khỏi bị chao đảo, hụt hẫng trước thực tế phũ phàng. Hãy làm mới lại tình yêu thuở ban đầu như người ta nói: Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng Và hãy kết hôn lại mỗi ngày. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
I. DÂY HÔN PHỐI. Xin đọc: St 2,18-24 và Mc 10,6-9) Thiên Chúa phán:”Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18).
Thiên Chúa cũng tạo nên một người nữ và trao cho con người. Và con người nói: ”Phen này, đây HP59
Thiên Chúa cũng tạo nên một người nữ và trao cho con người. Và con người nói: ”Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là đàn bà vì đã được rút từ đàn ông ra”. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,23-24). Đây là cuộc hôn phối đầu tiên giữa Ađam và Evà, một cuộc hôn phối tốt đẹp, hoàn hảo và hợp với ý Chúa. Chúa muốn cho họ yêu thương và khăng khít với nhau để cả hai thành một tinh thần, một thể xác. Đức Giêsu cũng nói về vấn đề này:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9). Cuộc hôn nhân đầu tiên và kiểu mẫu đẹp như thế, nhưng những cuộc hôn nhân sau này của con cháu ông bà có được như thế không hay đã bị lệch lạc, rồi đi đến sự tan vỡ ? II. KẺ THÙ CỦA HÔN PHỐI: NHÀM CHÁN. 1. Ba cuộc khủng hoảng. Trong cuộc sống hôn nhân, người ta thường gặp một trong ba cuộc khủng hoảng sau đây, nếu tránh được thì đó là ơn Chúa ban cách riêng. Người ta tạm chia thành ba thời kỳ: a) Khủng hoảng vỡ mộng. b) Khủng hoảng nhàm chán. c) Khủng hoảng hồi xuân. Có người đặt ra câu hỏi: “Cuộc sống gia đình có buồn tẻ nhàm chán không”? Câu trả lời sẽ khác nhau: - Người chưa có gia đình: không. - Người đã có gia đình: có. Có lẽ người đã có gia đình có lý hơn vì họ đã có kinh nghiệm như Thi sĩ Nguễn Du đã nói: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. 2. Thủ phạm của hạnh phúc hôn nhân. Trong đời sống hôn nhân, bất cứ cuộc chia ly nào cũng phải có ba thủ phạm nhúng tay vào a) Người đàn ông. b) Người đàn bà. c) Sự nhàm chán. Có những lý do đưa đến việc gia đình ta vỡ như lý do kinh thế, xã hội hoặc tâm lý, đạo đức. Có một nguyên nhân khác xem ra có vẻ “chìm” nhưng lại rất “nổi”, đã từng gây sóng gió trong nhiều cặp vợ chồng. Đó là sự NHÀM CHÁN, nhạt nhẽo và cũ kỹ trong mối tình vốn trước đó đã một thời tươi thắm nồng nàn và đầy quyến rũ ! Ta thử nghe lời bộc bạch của một thành viên trong một buổi sinh hoạt các gia đình trẻ thuộc Câu lạc bộ Gia đình hạnh phúc quận Tân bình, TPHCM. Bà kể rằng gia đình bà suýt nữa phải “tan đàn xẻ nghé” chỉ vì sau khi có con, bà đã dồn hết tình thương và sự quan tâm tới con, mà bỏ bê chăm sóc tới bản thân mình và ít quan tâm tới chồng. Khi thấy hình như chồng bà hướng sự chú ý sang một người phụ nữ khác, bà mới giật mình tỉnh ngộ. Theo bà này, muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình thì cả hai vợ chồng đều phải biết “làm mới” mối quan hệ của họ trong cuộc sống chung bằng việc quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. (Theo An Khánh, báo NLĐ ngày 28.12.2002) Khi một trong hai người không còn “quyến rũ” nhau nữa thì việc gì đến sẽ phải đến. Từ thái dộ xa cách, lạnh nhạt đến nhàm chán, bực bội (nhiều khi chỉ là những lý do rất tầm thường) , rồi tiếp sau, đó là sự ngờ vực, nghi kỵ “chuyện bồ bịch ngoại tình” này nọ. Lúc bấy giờ vấn đề ly hôn chỉ là vấn đề của thời gian mà thôi. Chúng ta lại có một chứng từ khác. Khi đặt câu hỏi:”Cuộc sống hôn nhân có buồn tẻ không” ? Các cô cậu sinh viên, học sinh... trong Câu lạc bộ tiền hôn nhân quận 5, tròn mắt:”Ơ, sao lại buồn tẻ, còn gì sung sướng bằng luôn được sống bên cạnh người mình yêu”. Thế nhưng các ông chồng, bà vợ hay lui tới các trung tâm tư vấn, lại than: ”Ngày nào cũng đi làm về, trò chuyện vài câu, lặp lại các thói quen sinh hoạt hằng ngày, 1001 ngày yêu đương, sẽ đem lại 1000 ngày bớt mới mẻ hơn so với ngày đầu . Một ngày như mọi ngày” – cũ mèm. Tôi đặt câu hỏi khác:”Bạn hiểu thế nào về gia đình” ? Những người độc thân đang yêu rất phấn khởi trả lời:”Đó là nơi thăng hoa tình yêu, là chốn thư giãn, nghỉ ngơi”. Còn những “con chim trong lồng” lại hót:”Gia đình là nơi sinh con cái, lo toan và giải quyết xung đột”. Những người có kinh nghiệm sống đều cho rằng câu trả lời sau thực tế hơn nhiều. (Trường Sơn, Kiến thức gia đình, số 105, tr 18-19) Người ta nói:”Tình yêu bị chết đi do sự nhàm chán vì người yêu bị chôn vùi bởi sự lãng quên” . Không nhàm chán sao được khi mà lúc nào cũng phải tiếp xúc với con người ấy, với tính tình ấy, với cách xử sự ấy và cuộc sống dần dần trở nên như cái máy. Có lẽ vì vậy mà ông Chamfort có lý khi ông nói:”Hôn nhân là mồ chôn tình yêu”. 3. Đổi mới cuộc sống hôn nhân. Ta có thể ví hôn nhân như chiếc đàn guitare. Tôi thấy lúc đầu lễ, các chú ca đoàn lên dây đàn trước khi chơi. Nếu có ai hỏi tại sao lần nào cũng phải làm như vậy ? Các chú sẽ trả lời: Cây đàn để lâu đã xuống dây, phải lên dây cho căng thì chơi mới đúng cung. Nếu không lên dây cho đúng, người ta sẽ gọi là cây đàn ngang cung, ai nghe được ? Gia đình cũng thế. Vợ chồng ở với nhau riết rồi cũng có lúc cảm thấy nhàm chán, không ai có thể thoát được. Đây là kinh nghiệm của nhà thơ ngụ ngôn Pháp, ông Lafontaine khi ông nói: Nơi bạn, tất cả đều tha thứ, bỏ qua. Nơi tình nhân, tất cả đều hài lòng, hoàn hảo. Nơi vợ chồng, tất cả đều nhàm chán, mệt mỏi. Vì thế, yêu cũng là một nghệ thuật mà đã là một nghệ thuật thì cần phải trau dồi mãi để cho nó luôn vui tươi hấp dẫn. III. BIỆN PHÁP GIẢI TỎA NHÀM CHÁN. 1. Giải pháp tự nhiên. Người ta đưa ra một số biện pháp để giải toả sự nhàm chán, đại khái như: a) Cãi nhau ! Đây không phải là giải pháp vì nó không giảm bớt nhàm chán mà chỉ tạo thêm căng thẳng, đấy chỉ là hậu quả của sự nhàm chán. b) Làm lại cuộc trăng mật, vợ chồng tạm gác mọi công việc, dành một thời gian để hai vợ chồng ở bên nhau, làm mới lại mối tình xưa. c) Đi du lịch cũng là dịp thư giãn, vợ chồng cũng có dịp ở gần nhau, chuyện trò thân mật hơn lúc ở nhà nhờ bầu khí thay đổi. 2. Giải pháp siêu nhiên. Chúa Giêsu phán:”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt 7,7 ; Lc 11,9). Nếu chúng ta chỉ xin Chúa ban cho gia đình chúng ta được vui tươi, đầm ấm, lẽ nào Chúa lại không nhận lời ? KẾT LUẬN. Hãy cố gắng làm cho gia đình trở nên vui tươi phấn khởi bằng những giải pháp tự nhiên và siêu nhiên, hãy cố gắng đổi mới tình yêu vợ chồng. Chúa đòichúng ta phải cố gắng không ngừng, chúng ta cứ làm rồi Chúa ban ơn trợ lực, chứ Chúa không hành động một mình. Chúng ta hãy suy niệm lời phát biểu của thánh Augustinô:”Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng muốn cứu con thì cần có con cộng tác”. Cứ nỗ lực rồi cậy trông. Tương lai sẽ tươi sáng. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn để nói về sự cao qúi của Nước Trời. Nếu ai may mắn mà tìm được HP60
Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn để nói về sự cao qúi của Nước Trời. Nếu ai may mắn mà tìm được một kho báu trong thửa ruộng thì chắc chắn người ấy sẽ về nhà bán hết những gì mình có để mua cho bằng được thửa ruộng ấy vì kho báu còn được chôn giấu trong đó. Hoặc một thương gia nào đó tình cờ kiếm được một viên ngọc qúi thì ông ta cũng sẵn sàng về nhà bán hết những gì mình có để mua cho bằng được viên ngọc qúi ấy. Cũng thế, Nước Trời là một kho báu cực kỳ qúi giá, nếu ai tìm được cũng sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình, để chiếm hữu được kho báu ấy. Đứng vế phương diện hôn nhân, ta cũng có thể coi hạnh phúc gia đình là một kho báu mà ai cũng mong ước. Có ai lập gia đình mà lại không mong đạt tới hạnh phúc sao ? Muốn hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng có dám hy sinh tất cả để chiếm hữu được hạnh phúc ấy chăng, thì cái đó lại còn tùy ở mỗi người. Thành công hay thất bại còn tùy ở mỗi người vì như văn hào Honoré de Balzac thì “Hôn nhân là đường đưa ta tới thiên đàng hay địa ngục”. II. HAI LOẠI KHO BÁU. 1. Kho báu vật chất (nghĩa đen): người ta coi kho báu vật chất là những thứ mà giác quan có thể thấy được như sắc đẹp, của cải , hoặc không thấy được như tài năng, chức quyền, danh vọng. 2. Kho báu tinh thần (nghĩa bóng): Kho báu tinh thần là những cái vô hình chỉ có thể cảm nghiệm được như hạnh phúc gia đình. * Kinh nghiệm cho hay: ai cũng muốn đạt tới hạnh phúc ấy nhưng rất khó khăn. “Hôn nhân là một cuộc sổ số” (Ben Jonson) “Hôn nhân là một cái bao trong đó có 99 con rắn và một con lươn. Ai có thể thọc tay vào”? (Ngạn ngữ Ả rập) * Kho báu là vợ hay chồng ? Gia đình là một kho báu, nếu là kho báu thì ai nỡ đánh mất ? Nhưng vấn đề đặt ra là kho báu ấy chủ yếu là do chồng hay vợ làm nên và phải bảo trì nó ? Chúng ta phải công nhận rằng kho báu ấy do cả vợ lẫn chồng chứ không riêng ai: “Trong gia đình cả chồng lẫn vợ, đều phải biết phục thiện và thông cảm lẫn nhau. Khi người đàn ông có điều lỗi, chớ tránh né trước lời trách móc của vợ, mà phải công khai nhận lỗi; người đàn bà khi có chuyện làm trái, phải thành thực xin lỗi cùng chồng. Con người không ai toàn mỹ, chuyện vợ chồng cũng thế mà thôi. Biết phục thiện và tha thứ cho nhau, thì gia đình càng ngày càng trở nên đầm ấm; ngược lại, càng ngoan cố bao nhiêu, gia đình càng dễ dàng tan vỡ bấy nhiêu (Bà Gina Lombroso). Như bà Gina Lombroso nói, kho báu ấy là cả hai vợ chồng cùng phải tạo lập, khi hai người sống hoà hợp với nhau, khi trong gia đình không còn mâu thuẫn nào đáng kể nũa. Như vậy, theo ý kiến chung thì người ta cho kho báu chủ yếu là do người vợ.
III. NGƯỜI VỢ LÀ KHO BÁU CỦA CHỒNG. 1. Kho báu vật chất: Kho báu này gồm sắc đẹp, tiền của.... Nhưng kinh nghiệm cho hay: kho báu này dễ bị mai một, dễ mất. Người ta còn nói chơi rằng:”Vợ đẹp càng tổ đau lưng”. Tuy nói thế, nhưng trong thực tế, không có kho báu vật chất ấy thì nhiều cô gái ở một số nơi chỉ “chổng mông mà gào”! Truyện: Thiếu của hồi môn. Tổng giáo phận Kirantrum ở bang Kêrêla (Ấn độ) đang giúp đỡ 500 thiếu nữ nghèo không có phương tiện kết hôn. Linh mục Cat-cu-ta-lin, người phát ngôn của tổng giáo phận cho biết nhiều thiếu nữ nghèo không thể kết hôn được vì cha mẹ họ quá nghèo không có của hồi môn cho con. Của hồi môn này gồm tiền bạc, nữ trang, và các đồ vật khác mà nhà trai đòi hỏi như một điều kiện để cưới hỏi. Cha mẹ của thiếu nữ làm đơn xin với một ủy ban của giáo phận đặc trách về vấn đề này và mỗi thiếu nữ sẽ được nhận áo cưới, nhẫn cưới và một số tiền để trong ngân hàng là 5000 rupi (190 USD) làm của hồi môn. (Công giáo và dân tộc, số 910, th 6/1993, tr 16) 2. Kho báu tinh thần. Chúng ta có thể xem quan niệm của người đời nghĩ thế nào cũng như lời dạy trong Thánh kinh ra làm sao: * Theo quan niệm người đời: Ông Démophile nói:”Hãy tin chắc rằng kho tàng qúi báu nhất là những kho tàng chất chứa trong tâm hồn bạn” Ông André Chenirer cũng nói:”Khi còn là tình nhân người đàn ông thích người đàn bà lả lơi và đẹp, vì lơi lả đàn ông mới dễ chiếm được và có đẹp người đàn ông mới thích. Nhưng khi lấy vợ, người đàn ông muốn người vợ phải đoan trang và không nên đẹp lắm – vì đoan trang mới hạnh phúc và không đẹp lắm mới bền vững gia đình mà không ngại bị phản bội vì kẻ khác”. Truyện: Cái nết đánh chế cái đẹp. Tiến sĩ đời Tống là Hứa Doãn, văn chương rất hay, chính sự rất giỏi, nhưng vợ là Nguyễn Thị về phần nhan sắc rất tầm thường. Tục truyền, khi vợ chồng mới thành hôn, Hứa Doãn thấy vợ không đẹp, muốn lập tức bỏ đi thẳng, bèn hỏi Nguyễn Thị rằng: - Đàn bà có bốn đức công, dung, ngôn, hạnh, nàng được mấy đức ? Nguyễn Thị biết ý chồng, đáp ngay: - Thiếp đây chỉ kém về dung thôi. Rồi hỏi chồng: - Kẻ sĩ có trăm nết, dám hỏi chàng đây được mấy nết ? Hứa Doãn đáp: - Ta có đủ cả trăm nết. Nguyễn Thị cười đáp: - Trăm nết. đức là đầu, chàng là người hiếu sắc mà thiếu đức, như vậy mà đủ cả trăm nết ư Hứa Doãn nghe nói, có vẻ thẹn và không dám bỏ đi. Từ đó vợ chồng thương yêu nhau, kính trọng nhau suốt đời. Hứa Doãn sau khi đỗ làm quan, đến nhận nơi nào cũng được dân mến phục là do một phần ở vợ. (Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, Sống mới, 1971, tr 252) Và ông Thái Bạch cũng có lời bàn: Thói thường đàn ông ai cũng thích vợ đẹp, đàn bà ai cũng thích chồng giỏi. Nhưng cái đẹp, cái giỏi, mỗi cái cũng đều có hai phần, đẹp về mặt không bằng đẹp về nết, phần giỏi làm lợi cho cá nhân không bằng làm lợi cho số đông. Trong hai cái đẹp và cái giỏi, như vợ chồng Hứa Doãn trên đây đều chiếm được những phần quan trọng và căn bản, mà điều đáng khen trước nhất là Nguyễn Thị. Nếu Nguyễn Thị không nhanh trí khôn thì cái cuộc “trăm năm vuông tròn” của hai người đã đổ vỡ ngay từ đêm mới giao duyên hợp cẩn. Tuy nhiên, nếu người chồng chẳng phải kẻ biết phục thiện như Hức Doãn thì chưa chắc lời nói của Nguyễn Thị đã lọt vào tai được.. Do đó, vợ chồng này mới có sự yêu thương nhau, kính mến nhau suốt đời, và sau mới được lòng người dân mến phục. * Theo quan niệm Thánh kinh: Chúng ta thấy Thánh kinh cũng ca tụng những người vợ đức hạnh: “Người vợ đức hạnh là phúc lộc Thiên Chúa ban cho người chồng” (Cn 18,22) “Người vợ đức hạnh là mũ triều thiên cho chồng” (Cn 12,4) “Người vợ không trau dồi mình bằng những vật trang sức bên ngoài (1Tit 2,9; 1Ph 3,3) mà trau dồi bằng đức hạnh” (x. 1Pr 3,1-4) Truyện: Của hồi môn. Người ta kể: trong ngày đưa dâu, ông bố vợ trao cho con rể một phong bì hơi cộm. Về nhà mở ra, chỉ thấy một tờ giấy và một số tiền gói gọn bên trong. Tờ giấy viết: * Vợ hiền lành, đáng giá 5 triệu * Vợ chịu khó làm ăn 2 triệu * Vợ biết hy sinh, tha thứ , nhẫn nại2 triệu * Vợ sống đạo đức 3 triệu * Tiền mặt 1 triệu Tổng cộng: 10 triệu cho con làm của hồi môn. Anh con rể không mấy hào hứng. Nhưng năm năm sau, anh tâm sự với bố vợ: ”Con cảm ơn bố đã cho con một kho tàng lớn. Nếu cho tiền nhiều thì nay chắc đã xài hết, nhưng vợ con là một kho báu còn mãi”. Trong cuốn Minh đạo gia huấn của Trình Hạo có một câu danh ngôn rất hay: Hiền thê gia bảo Hiền thần quốc trân Nghĩa là: Vợ hiền là của báu trong nhà, Tôi hiền là vật báu của quốc gia. 3. Người chồng phải bảo vệ kho báu ấy. Muốn cho kho báu ấy được bền vững, người chồng phải - Thương yêu vợ (St 24,67 ; Ep 5,25,28,33 ; Cl 3,19) - Trung thành với vợ (Cn 5,18-20) - Đối đãi với vợ như chính mình (St 2,33 ; Mal 2,15 ; Mt 19,5-6 ; Ep 5,28) - Tình yêu bền chặt như giữa Chúa Kitô và Hội thánh (Ep 5,32) KẾT LUẬN Để kết thúc bài chia sẻ, mời bạn đọc câu chuyện này để biết gia đình có phải là một kho báu đáng mong ước không ? Truyện: Gia đình là một kho báu Ông Georges đã 70 tuổi, không lập gia đình. Ông vốn là một thủy thủ, cả cuộc đời lênh đênh trên biểc cả. Ông không có nhà riêng. Cháu trai ông tên là BILL rất thương bác Georges nên đã mời bác về sống với Bill, với vợ và 5 con của Bill. Đó là sự giúp đỡ lẫn nhau: bác Georges có nhà ở, còn gia đình của Bill có dịp làm những chuyến viễn du tưởng tượng vòng quanh thế giới mỗi khi lắng nghe bác Geoges kể lại kinh nghiệm của mình. Đôi khi Bill cảm thấy nhàm chán và bất mãn với cuộc sống gia đình. Được rảo quanh thế giới không lo lắng, thảnh thơi vui sướng biết bao. Và Bill đã bầy tỏ nỗi lòng cho bác. Một chiều kia, bác Georges nhắc đến một nơi xa xăm. Bác có đánh dấu trên bản đồ một kho tàng chôn giấu. Bill ghi nhớ điều đó, nên sau khi bác Georges chết vài năm, Bill coi lại đồ đạc của bác và tìm thấy một bao thơ đề tên Bill, trong đó có tấm bản đồ. Tim đập mạnh, tay run run, Bill cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng chàng cũng xác định được địa điểm: đó là căn nhà của chàng, nơi mà chàng đang đứng ! Bác Georges đã trối lại cho chàng một kho báu là ý thức rằng nhà của chàng, gia đình riêng của chàng là kho báu. (Góp nhặt 4, tr 109-110). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Hãy hợp tác với mọi người I. TRIỂN KHAI LỜI CHÚA. 1. Tin Mừng (Ga 15,9-12)
Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài đã dạy dỗ các ông nhiều điều, nhưng còn một điều quan HP61
Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài đã dạy dỗ các ông nhiều điều, nhưng còn một điều quan trọng nhất phải để đến giây phút cuối cùng của đời mình: trong bữa ăn tối từ giã các môn đệ, trong tình thân mật của Thầy trò, Đức Giêsu mới khuyên các môn đệ thân yêu của Ngài:”Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15-12). Nếu Đức Giêsu khuyên anh em phải thương yêu nhau thì trong đời sống gia đình, vợ chồng càng phải thương yêu nhau vì họ đã trở nên một xương một thịt” (Mt 10,8). 2. Thư của thánh Phaolô (Cl 3,12-17). Thánh Phaolô rất chú trọng tới mục vụ đời sống gia đình, đặc biệt trong các thư gửi cho tín hữu Êphêsô và Côlôssê. Trong bài đọc hôm nay, thánh Phalô khuyên các tín hữu bằng những lời này:”Anh chị em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em phải có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo “(Cl 3,12-14). Nếu thực hiện được lời thánh Phaolô ở trên, ta thấy đã có đức bác ái giữa mọi người, làm cho cuộc sống thêm dễ dàng vì đã có sự giao lưu, sự hợp tác, sự chia sẻ với nhau. Nếu ngược lại, họ sẽ mắc phải chứng bệnh của thời đại, đó là bệnh STRESS (trầm cảm, ưu uất) II. NÓI VỀ BỆNH STRESS. 1. Nguyên nhân của bệnh Stess. a) Bệnh Stress là gì ? Là một bệnh hoàn toàn tâm lý. Theo bác sĩ Alfred Adler, nhà trị bệnh thần kinh trứ danh, cho biết: bệnh stress tựa như một thói oán hờn dai giẳng, muốn được người chung quanh thương hại, săn sóc tới mình. Người ưu uất (stress) nhiều khi chán đời, muốn tự tử. Họ thường không hài lòng và trách móc mọi người. Họ là con người ích kỷ, chỉ muốn mọi người chú ý săn sóc mình: nếu không được thì bất mãn và dễ bị bệnh stress. b) Tình hình hiện nay. Cuộc đời là cõi vô thường, nhưng con người vốn tham, thân, si, suốt đời lao tâm khổ tứ vì tranh danh đoạt lợi, tác hại đến sức khỏe tâm thần. Theo thống kê, 15 triệu người Đức, tức 1/6 dân số 80 triệu thuờng xuyên bị căng thẳng thần kinh (stress). Ở Việt nam một cuộc nghiên cứu của công ty Diana cho thấy 72,2% nữ công nhân các khu chế xuất Linh trung và khu công nghệp Tân bình thường xuyên bị stress, vì áp lực công việc và khó khăn tiền bạc (báo Tuổi trẻ, 1.4.2004, trích trong Công giáo và dân tộc số 1452/2004, tr 13). c) Một nguyên nhân khác: người ta cũng cho biết có bệnh Trầm cảm mùa đông. Theo đó, rối loạn thời vụ, tên tắt SAD, là một hình thức trầm cảm ảnh hưởng đến một số người trong mùa đông, nguyên nhân đích thực không rõ là gì, nhưng các nhà nghiên cứu nghĩ rằng sự thay đổi về ánh sáng mặt trời là một thành tố quan trọng. Bà Luann Hughes là một trường hợp điển hình – vào mùa đông, bà thay quần áo cho các con lúc mặt trời chưa lên. Tắm rửa, ăn sáng và uống cà phê trời vẫn chưa sáng. Tình trạng thiếu ánh sáng mặt trời ấy làm cho bà Hughes cảm thấy buồn phiền và bực bội với con cái. Dùng thuốc không thấy công hiệu và bà Hughes thử dùng ánh sáng giả khoảng nửa giờ buổi sáng. Bà được bác sĩ bảo rằng ánh sáng mặt trời ở bên ngoài có ảnh hưởng với nhiều thứ trong cơ thể người, như là cường độ của hormone có khả năng làm thay đổi trạng thái tinh thần. Bác sĩ Michael Terman, giám đốc chương trình trầm cảm mùa đông, và viện tâm lý tiểu bang New York cho biết 80% trường hợp xử dụng liệu pháp ánh sáng có kết quả. Ánh sáng nhân tạo gần giống ánh sáng mặt trời tỏ ra có công dụng với bà Hughes (lấy từ Internet). 2. Phương pháp chữa trị. a) Cách giảm stress độc đáo. Một dịch vụ mới tên Stopstress, tận dụng một bãi phế liệu ở Madrid, Tây ban nha, đã thu hút nhiều người bị stress. Khách hàng đến đó, được phát một cây búa, áo khóac, mũ, kính bảo hộ và được cho nghe nhạc rock nặng. Họ được quyền đập phá đồ đạc từ xe hơi, máy vi tính đến điện thoại di động. Mỗi xuất 2 giờ nhưng không có người nào ở lại quá 30 phút, vì cách thức giảm stress độc đáo này khiến họ giải tỏa những u uất của mình. Nhiều người mang cả ảnh của ông chủ của họ đến để đập phá. (Theo BBC, Làng cười số 9 /2004, tr 13) b) Phương pháp hữu hiệu. Muốn cho hết bệnh, cũng theo bác sĩ Alfred Adler, thì khuyên họ cố gắng mỗi ngày làm# vui lòng một người khác, vì suốt ngày họ chỉ biết nghĩ đến họ, bắt người khác phải làm hài lòng mình. Bác sĩ Adler còn nói tiếp:”Tôi biết rằng bệnh của họ chỉ do không chịu hợp tác với người khác, nên tôi muốn họ nhận lấy điều ấy là cần. Khi nào họ bằng lòng hợp tác với mọi người thì họ sẽ hết bệnh. Bổn phận quan trọng nhất của bất cứ một người theo tôn giáo nào cũng là THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THỂ THƯƠNG THÂN... Người nào ích kỷ không chịu nghĩ đến người khác, sẽ gặp những nỗi khó khăn nhất trong đời, và làm hại xã hội nhiều nhất”. (x. Đỗ đình Tiệm, Lương thực hôm nay, t.1 , tr 116). c) Một chứng tá. Anh Giuse Dương trường Sơn , một người tân tòng, đã tâm sự về vấn đề này: Ban đầu, mỗi lần đến lớp, tôi cảm thấy sự khó chịu lại đến với mình, nhưng cảm giác đó từ từ qua đi cho đến một hôm tôi không còn cảm thấy khó chịu nữa ; song tôi lại bối rối ray rứt trước những việc xung quanh mà lâu nay mình không lưu tâm hay để ý đến: những con người đau khổ, những mất mát hạnh phúc, những đau đớn, sự đói nghèo, những con người kém may mắn hơn tôi nhiều... Tại sao tôi lại vô tâm ích kỷ, hay quá độc ác...? Không, chỉ vì tôi không bao giờ suy nghĩ, quan tâm đến những điều đó. Những lời Cha nói, cha kể chỉ là những câu chuyện, những con người chung quanh tôi. Tôi đã thấy, đã gặp rất nhiều, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến và lưu tâm đến họ. Tại sao bây giờ những câu chuyện đó, những con người đó đang được tôi lưu tâm và làm tôi suy nghĩ rất nhiều đến bản thân mình ? Và tại sao trước kia tôi quá thờ ơ đến mọi người xung quanh như vậy ? Hôm nay đã là ngày thứ tư của tuần tĩnh tâm. Tôi đã nhận ra rằng người ta chưa bao giờ dành thời gian để suy nghĩ, để cảm nhận lại những việc đã và đang xẩy ra chung quanh tôi. (Lấy từ Internet) 3. Tôn giáo là cần thiết. Tôn giáo nào cũng dạy các tín đồ phải có lòng bác ái, thương người. Đặc biệt Đức Giêsu còn nâng giới răn thương người lên gần ngang hàng với giới răn thứ nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa. Cốt tủy của đạo công giáo cũng chỉ là mến Chúa yêu người. Nếu đã biết yêu thương người khác như chính mình thì làm sao có thể bất mãn với mọi người, không chịu hợp tác với ai ? Nếu Chúa đã dạy ta phải thương yêu hết mọi người, kể cả kẻ thù, thì trong đời sống gia đình thì vợ chồng càng phải yêu thương nhau mật thiết hơn, khăng khít hơn vì Chúa đã nói:”Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt” (Mc 10,8) Mình với ta tuy hai mà một (Tản Đà) Do đó, vợ chồng có thể gọi nhau là MÌNH ƠI hay như giáo sư Winch gọi là “hỡi nửa mình của ta ơi” ! Khi cả hai đã nên một, thì phải cố gắng sống hoà thuận với nhau, cố gắng làm hài lòng nhau, đừng bao giờ bất mãn với nhau kẻo rồi lại rơi vào trong tình trạng bị stress. Truyện khôi hài Cha sở dâng lễ cầu nguyện cho các gia đình, đặc biệt cho giới gia trưởng. Cuối lễ cha bảo các ông chồng ở lại cho ngài gặp. Cha sở nói: - Nếu ai chưa hài lòng với vợ mình thì đứng lên coi ! Mọi người đều nhất tề đứng dậy ; duy chỉ có một anh chàng ngồi yên. Cha sở đến gần nói: - Khá lắm, cha ngợi khen con là người biết sống hài lòng với vợ. Con là người duy nhất mà cha gặp, hiếm có người như con. Nhưng cha hỏi con: làm thế nào mà con sống được như vậy ? Anh ta thưa: - Chả nói giấu gì cha, tuần qua vợ con nó đánh con què chân ! KẾT LUẬN Trong gia đình không thể tránh được những cảnh va chạm. Trời còn có khi mưa khi nắng, huống lọ là con người bá nhân bá tính ! Hãy yêu thương nhau, bỏ qua đi tất cả những sự dị biệt để tạo thành một cuộc sống hài hoà. Hãy suy niệm và cầu nguyện theo kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Chúng ta vừa được nghe đoạn sách trích trong sách Tôbia nói về việc kết hôn giữa Tôbia và Sara HP62
Chúng ta vừa được nghe đoạn sách trích trong sách Tôbia nói về việc kết hôn giữa Tôbia và Sara. Tôbia từ xa đã đến xin người chú là ông Ra-gu-ên cho được cưới Sara làm vợ. Ra-gu-ên còn luỡng lự chưa biết quyết định ra sao thì thiên sứ hiện đến nói với ông: “Ông đừng ngại gả con gái cho cậu này, vì cô ấy phải làm vợ cậu này, là người kính sợ Thiên Chúa; chính vì thế mà người khác không lấy được cô ấy” (Tb 7,10). Hiểu được ý của Thiên Chúa, ông cầm lấy tay phải của con gái, đặt vào tay phải cậu Tôbia và nói:”Xin Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Gia-cóp ở với các con. Xin Người phối hợp các con, và đổ tràn đầy phúc lành của Người xuống trên các con” (Tb 7,15). Sara có duyên vì được cùng với Tôbia nên duyên vợ chồng trong khi không bao giờ Sara dám nghĩ tới điều đó. Theo người ta nói: đó là duyên phận đã được Trời xếp đặt. Duyên phận đã trở nên duyên thắm chỉ hồng do việc hai người cùng sốt sắng cầu nguyện trước giờ hợp cẩn . “Tối hôm cưới, cậu Tobia nói với cô Sara:”Chúng ta là con cháu các thánh và chúng ta không thể kết hôn với nhau như những người dân ngoại không biết Thiên Chúa”. Vậy cả hai người đứng dậy, cùng nhau khẩn khoản cầu xin cho được an lành” (Tb 8,5). II. CẦN CÓ DUYÊN. 1. Duyên cần thiết. Ai cũng muốn mình có duyên. Ai cũng muốn được khen ngợi là có duyên và biết bao người, nhất là các cô gái, đau khổ vì thấy mình không có duyên: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. (Ca dao) Đối với người nữ, duyên là cái gì rất quan trọng, nó liên can đến cả cuộc sống, nó có thể chi phối cả cuộc đời mình, bởi vì: Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. (Ca dao). 2. Duyên là gì ? Theo Hoàng Phê trong cuốn tự điển Tiếng Việt thì chữ duyên có nhiều nghĩa: - Phần cho là Trời định dành cho mỗi người về khả năng quan hệ tình cảm hòa hợp, gắn bó nào đó trong cuộc đời. - “Duyên” còn có nghĩa là sự hài hòa của một số nét tế nhị đáng yêu ở con người, tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn tự nhiên. III. TẬP LÀM DUYÊN. 1. Có thể luyện tập được. Nếu duyên có nghĩa là duyên phận, duyên số do Trời định thì khỏi cần bàn vì Trời đã định cả, khó thay dđổi: Rõ ràng giấy trắng mực đen, Duyên ai phận nấy chớ ghen mà gầy. (Ca dao) Còn Duyên theo nghĩa thứ hai thì rõ ràng chúng ta có thể đạt được, nếu muốn. Chúng ta có thể tạo ra sự hài hòa, những nét tế nhị, đáng yêu cho... chính mình, bằng cách rèn luyện để có thể hấp dẫn một cách tự nhiên. Tại sao các cô bán hàng phải tập cười cho thật tươi ? Các cô xướng ngôn trên Tivi cũng cười thật tươi, thật duyên ? Tại sao các cô gái nhà giầu phải tập đi lại cho uyển chuyển dịu dàng ? Tại sao người ta phải tập sống cho thanh lịch ? Đó là vì người ta muốn có cái duyên để hấp dẫn người khác. Nếu Trời không cho mình được cái sắc diện chim sa cá lặn hoặc không được dễ coi mấy thì đừng lo, cái duyên có thể có nơi mọi nguời, kể cả trong những người có vẻ xấu xí, duyên đó là duyên thầm: Người xấu duyên lặn vào trong, Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài. (Ca dao) Sau các cuộc điều tra, nghiên cứu và thử nghiệm, các nhà tâm lý học đã nêu ra những phương cách để rèn luyện trở thành người “ăn nói mặn mà có duyên”: a) Bạn hãy ít nói: Chim khôn hót tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. b) Hãy đôn đốc người khác nói. c) Tránh cãi cọ. d) Tốt hơn hết hãy nói về những điều mà người đối diện thích. e) Hãy làm cho cuộc gặp gỡ trở nên vui vẻ bằng cách khôi hài hóa câu chuyện. g) Hãy... rút lui. (Đỗ Quyên, Kiến thức gia đình, số 173, tr 62) Theo nhận xét của các nhà nghiên cứu, ngoài cái duyên trời phú cho, chúng ta có thể tạo ra cái duyên do chính sự luyện tập công phu, mỗi ngày một ít, làm thế nào để có thể trở nên con người khả ái, dễ thương. Cái duyên này không phải chỉ dành cho phụ nữ mà cần cho cả phái nam, bởi vì ai là người không muốn cho mình trở nên con người hấp dẫn ? Không phải chỉ tập luyện và giữ cái Duyên cho đến khi cưới mà sau khi thành hôn vẫn còn cần thiết. Phải luôn tập cho mình có cái duyên để làm đẹp lòng mọi người, nhất là cho người chồng. Nếu người vợ trở nên vô duyên thì rất nguy hiểm cho đời sống lức đôi: Còn duyên anh cưới ba heo, Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi. (Ca dao) 2. Nét duyên thầm kín. Khi đến gần một người thánh thiện, ta thấy từ nơi họ toát ra một cái gì hấp dẫn, đạo đức, cao quí làm ta phải mến phục. Cái gì đó là sự thánh thiện toát ra từ con người họ, làm cho mọi người phải mến phục. Và nếu nói theo kiểu bình dân thì gọi đó là cái “Duyên ngầm” hay Duyên thánh. Truyện: trước vậy, sau khác Thời trước giải phóng có một sư huynh La san rất giỏi môn địa dư, dạy học rất hấp dẫn. Có một nữ sinh viên thầm yêu và cám dỗ thầy xuất tu để xin cưới. Thầy đồng ý xuất tu. Nhưng khi đến hỏi cưới, cô ấy từ chối. Sư huynh hỏi cho biết lý do.Cô cho biết: - Khi thầy còn mặc áo dòng, em thấy thầy hấp dẫn lắm, em yêu. Bầy giờ thầy cởi áo dòng ra, mặc áo đời, em thấy không hấp dẫn nữa. Cô sinh viên nói như thế là có ý nói: lúc này thầy đã đánh mất cái duyên thầm, hay cái duyên thánh thiêng rồi, do đó không còn hấp dẫn nữa. Vợ chồng cũng thế, khi cố gắng sống cuộc đời lành thánh thì tự nhiên trong người toát ra một cái gì đó cao qúi làm cho người kia phải mến phục và muốn sống khăng khít với nhau. Muốn được như thế, anh chị hãy thực hiện lời thánh Phaolô tông đồ: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu dđựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia” (Cl 3,12-13). Và thánh Phêrô tông đồ cũng khuyên: “Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa ; nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thùy mị, hiền hòa: đó chính là điều qúi giá trước mặt Thiên Chúa “ (1Pr 3,3-4). KẾT LUẬN Thiên Chúa không bao giờ từ chối những cố gắng của con người. Tục ngữ Pháp nói:”Aide-toi, le ciel t’aidera”: Anh hãy tự giúp mình đi rồi Trời sẽ giúp cho. Trong mọi công việc Chúa đòi sự cộng tác của ta. Hãy cố gắng tập cho có cái Duyên thánh thiêng. Chính mình phải cố gắng và Chúa sẽ bổ túc cho qua lời cầu nguyện của ta:”Hày xin thì sẽ được”:.. Xin mọi người cùng sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ để cầu cho đôi bạn trẻ hôm nay thực hiện được giấc mơ hằng mong đợi: Ước ao duyên thắm chỉ hồng, Để cho thục nữ sánh cùng trượng phu. (Ca dao) Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Đọc Thánh kinh Cựu ước, chúng ta thường hay gặp chữ GIAO ƯỚC. Thiên Chúa đãõ ký kết HP63
Đọc Thánh kinh Cựu ước, chúng ta thường hay gặp chữ GIAO ƯỚC. Thiên Chúa đãõ ký kết với dân riêng của Ngài là dân tộc Do thái một giao ước trọng đại tại núi Sinai qua trung gian ông Môse , và sau cùng đã ký kết với loài người một Giao ước mới và vĩnh viễn qua cái chết của Con yêu dấu của Ngài. Sách Xuất hành còn ghi lại Giao ước được ký kết giữa Thiên Chúa và dân riêng của Ngài: Khi dân Do thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai cập qua Biển Đỏ ráo chân, tại núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết với dân Chúa một Giao ước trọng thể qua trung gian ông Môse. Tại chân núi, ông Môse đã đọc cho dân chúng những điều luật mà Thiên Chúa muốn cho dân Ngài phải thi hành. Ông dâng các hy tế, đổ một ít máu trên bàn thờ và rẩy máu trên dân để đánh dấu sự hiệp nhất nối kết Giavê và Israel. Bấy giờ dân long trọng cam kết tuân giữ các điều khoản ccủa Giao ước (Xac 24, 3-8). Trong nghi lễ này, máu giao ước giữ một vai trò chính yếu. Nhưng qua thời gian, dân Chúa đã phá vỡ Giao ước ấy để đi theo các thần của dân ngoại. Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn kêu gọi dân Chúa hãy trở lại với Ngài qua lời giảng dạy của các ngôn sứ. Sau cùng, Thiên Chúa muốn ký với dân một Giao ước mới có tính cách trường cửu bằng cách cho Con yêu dấu của Ngài phải đổ máu ra và qua cái chết trên Thập giá để chuộc tội cho nhân loại và đem con người trở lại làm con Chúa. Qua việc ký kết hai Giao ước ấy, ta thấy Giao ước đều được ký bằng máu: máu của chiên bò trong Giao ước Sinai và máu của Đức Kitô trên thập giá. Chính Đức Giêsu trong bữa Tiệc ly cũng nói đến máu Giao ước này:”Các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Ta, máu giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội” (Mt 19,28). Giao ước được ký bằng máu. Máu tượng trưng cho sự hy sinh, đau khổ. Vì thế, ai chấp nhận ký giao ước là phải chấp nhận hy sinh, có lúc phải hy sinh cả mạng sống mình. II. KÝ KẾT HÔN ƯỚC. Trong đời sống xã hội, con người liên kết với nhau qua các hiệp ước, các khế ước, các giao kèo hàm chứa những quyền lợi và bổn phận thường có tính cách hỗ tương. Những thỏa thuận giữa phe nhóm hay cá nhân bình đẳng muốn tương trợ nhau. Muốn cho giao ước có giá trị tinh thần cao, nhiều khi người ta chích máu mình ra để ký kết với nhau. Có khi người ta pha máu vào rượu để cả hai bên cùng uống và để gọi là “uống máu ăn thề” khiến cho giao ước ấy có giá trị bền vững không gì có thể làm tan vỡ được, kể cả cái chết. Trong đời sống hôn nhân hai người nam và nữ ký kết với nhau một giao ước song phương bình đẳng để trở thành vợ chồng theo pháp lý thì được gọi là HÔN ƯỚC. Đối với xã hội, hôn ước này có tính cách lâu dài nhưng không vĩnh viễn, người ta có thể tiêu hủy được khi có sự đồng ý của đôi bên. Nhưng trái lại, hôn ước Công giáo có tính cách vĩnh viễn, không ai có thể pha hủy được vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Hôn nhân Công giáo không chỉ là hôn nhân tự nhiên mà còn là một bí tích: bí tích hôn nhân do chính Đức Giêsu đã thiết lập. Trong đời sống hằng ngày, trong việc sinh hoạt, trong việc làm ăn người ta thường ký với nhau nhiều khế ước, nhiều giao kèo. Trên bình diện quốc gia người ta ký với nhau nhiều hiệp ước nhằm giúp đỡ nhau hoặc bênh vực nhau hoặc bảo vệ quyền lợi của nhau.. Trên nguyên tắc, đôi bên phải thi hành những điều đã cam kết, bên nào vi phạm sẽ bị phạt. Nhưng trong thực tế người ta đã phá vỡ hiệp ước rất nhiều. Trong cuốn Le retour de Jésus Christ, tiến sĩ René Pache cho biết: từ năm 1500 trước Chúa Giáng sinh cho đến năm 1860 đời ta, tính có tới 8000 hiệp ước hoà bình . Tuy mọi hiệp ưpớc đều có giá trị vĩnh viễn, nhưng trên thực tế, hiệu quả của mỗi hiệp ước trung bình không quá 2 năm. Chỉ trong 19 năm, giữa hai thế chiến (1920-1939) tính đã có đến 4568 hiệp ước hoà bình. Nguyên 11 tháng trước đệ nhị thế chiến, đã có tới 211 hiệp ước rồi. III. HÔN ƯỚC TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY. Hai anh chị hôm nay và mấy phút nữa sẽ ký kết hôn ước trước mặt đại diệnHội thánh và cộng đoàn giáo xứ. Anh chị sẽ đọc lời tuyện thệ: nhận nhau làm vợ , làm chồng và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày sướt đời mình. Anh chị có ý muốn thề hứa trung thành với nhau mãi mãi hay một thời gian thôi ? Anh chị có coi hôn ước chỉ là tờ giao kèo tạm thời để rồi tùy hoàn cảnh “hay thì ở, dở thì đi” không ? Theo tình hình chung trên thế giới, việc ly dị xẩy ra như cơm bữa, có tới 50% số gia đình phải chia tay nhau ; riêng tại Việt nam chúng ta, con số lên tới 30%. Người ta coi nhẹ hôn uớc, khi muốn người ta có thể tự phá hủy và dám nói với nhau một cách trâng tráo: Thôi đừng nhắc chuyện ngày xưa, Bởi vì đoạn kết bài thơ có rồi. Giận hờn thì cũng đành thôi, Dại gì giữ mãi một lời thề xuông. (Nhất Tuấn) Hôm nay anh chị thề nguyền với nhau không phải là một lời thề xuông như thi sĩ Nhất Tuấn nói, mà là một lời thề nguyền long trọng, có chất lượng được nói lên trước sự chứng kiến của hai họ và cộng đoàn giáo xứ. Anh chị phải nói lên với tất cả ý thức trách nhiệm. Tổ chức lễ cưới thì dễ, đọc lên lời thề nguyền càng dễ hơn, còn việc thi hành hôn uớc mới khó.. Sống thế nào cho gia đình được hạnh phúc thì càng khó. Biết bao khó khăn đang đón chờ. Có khi chính việc tổ chức đám cưới vượt quá sức của mình lại là nguyên nhân của gia đình tan vỡ. Truyện: đám cưới của Maradona Tốn phí cả triệu Mỹ kim: - Thuê chiếc Boing 107 từ Ý về Brasil hết 500.000 mỹ kim. - Tranh ảnh từ Ý về để trang trí hết 100.000 mỹ kim. - Riêng cô dâu phải có 8 người trang điểm, làm việc suốt một tuần, với 11 giờ mỗi ngày. (Góp nhặt 4, tr 250). Đáng lẽ hôm nay anh chị phải chích máu ra để ký hôn ước, máu này sẽ nói lên sự hy sinh và ràng buộc nhau như trong truyện Kết nghĩa vườn đào. Hai anh chị hãy nhìn nhau và nhắc nhở nhau bằng câu khyên nhủ của người đời Nói lời phải giữ lấy lời, Đừng như con bướm đậu rồi lại bay (Ca dao) Hãy thực hiện lời thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Êphêsô:”Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thư cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Ep 3, 12-13). Nguyên tắc bất hủ trong đời sống vợ chồng là theo nguyên tắc của Đức Khổng Tử đã vạch ra:”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Hoặc nói một cách tích cực hơn: “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”, mình muốn thế nào thì hãy làm cho người ta như vậy. Vợ chồng hãy cố gắng xử tốt với nhau , nếu chồng xử tốt với vợ thì làm sao vợ lại xử xấu với chồng được. Ngược lại, nếu vợ tha thiết yêu chồng, săn sóc chồng, trung thành với chồng thì làm sao chồng có thể bỏ được. Truyện: xử tốt với vợ Một anh chàng muốn ly dị vợ vì vợ khó tính, mà còn muốn làm cho vợ khổ nữa. Một người bạn bầy kế: hãy xử tốt với nàng như một bà hoàng hậu, sau hai, ba tháng sẽ bỏ, chắc nàng sẽ đau khổ. Nhưng sau thời hạn mà không thấy đến báo tin kết quả. Anh bạn đến thăm hỏi cho biết sự việc thì anh kia trả lời: - Làm sao tôi có thể bỏ nàng được, bởi vì từ ngày tôi đối xử với nàng như một bà hoàng, thì ngược lại, nàng đối xử với tôi như một ông vua. (Góp nhaạ¨t 4, tr 122) KẾT LUẬN Hãy yêu thì sẽ được yêu lại. Hãy cho thì sẽ được cho lại. Hãy xử tốt với người thì người sẽ xử tốt lại bởi vì có cho đi thì mới mong được nhận lại chứ. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô khuyên tín hữu Philipphê:”Anh em hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2b-4). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt.
Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em HP64
1. ”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13). 2. “Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa, hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 33, 114-15). II. XÍCH MÍCH TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH. 1. Sự kiện. Người ta nói: bá nhân bá tính, không ai giống ai vì tính tình khác nhau về nhiềáu phương diện nên mới có sự va chạm. xích mích, xung đột và chiến tranh. Sở dĩ có chiến tranh là vì có sự xích mích giữa hai nuớc đi đến cao điểm mà không giàn hòa được. Sở dĩ có cãi cọ hoặc xung đột giữa hàng xóm láng giềng cũng vì có sự xích mích mà không thu xếp cho êm thắm được. Trong gia đình tuy ít người, chỉ có vợ chồng và con cái mà cũng không thể tránh được những xích mích xẩy ra hằng ngày đưa đếùn cãi cọ hoặc ẩu đả. 2. Lý do. Theo giáo lý nhà Phật, có ba nết xấu làm hư hỏng con người, đó là tham, sân, si. Tham vì ích kỷ Sân vì tự ái Si vì ngu muội. Trong ba nết xấu nói trên thì SÂN là khó diệt hơn cả. Bởi vì tự ái là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói:”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi chết”. Các nhà tâm lý học, các nhà đạo đức học xưa và nay đều đồng ý rằng tính tự ái là cội rễ các cảnh đoạn trường trong thiên hạ. Trong giáo ly đạo Công giáo, nó đứng hàng đầu trong các nết xấu vì kiêu ngạo và tự ái là chị em sinh đôi chống lại khiêm nhường. Trong gia đình, nếu vợ chồng không nhất trí với nhau về bất cứ vấn đề gì là có sự xích mích ngấm ngầm hay bùng nổ. Ta thử đưa ra một thí dụ về con cóc. Con cóc chỉ là một con vật và con con cóc chỉ là con cóc không hơn không kém, nhưng người ta lại có ý kiến khác nhau về con cóc, có hai chủ trương về con cóc. Một đàng thì quá quí trọng con cóc, cho rằng: Con cóc là cậu ông trời, Ai mà đánh nó thì trời đánh cho. Đàng khác thì chống lại ký kiên trên và cho rằng: Con cóc là cậu thầy nho, Ai mà đánh nó Trời cho quan tiền. (Ca dao) 3. Hậu quả. Vậy hai ý kiến trên, hai chủ trương trái ngược nhau ấy, bên nào đúng, bên nào sai ? Thực ra, chẳng bên nào đúng, cũng chẳng bên nào sai vì con cóc làm gì dám làm cậu ông Trời hay là cậu thầy nho, mà con cóc chỉ là con cóc. Nếu bên nào cũng cho mình là đúng, người khác sai và không biết giữ gìn miệng lưỡi và thái độ cho đúng đắn thì sẽ sinh ra xích mích , cãi cọ. Nếu không biết nhịn nhau thì có thể có những hành động không thể chấp nhận được. Người ta kể rằng trong một buổi họp Liên hiệp quốc, vì tức giận quá, thủ tướng Krouchef của Liên xô đã tụt giầy ra đập xuống bàn vì không nén được cơn giận... III. PHƯƠNG THẾ CHỮA TRỊ. . Trong đời sống xã hội và cách riêng trong đời sống gia đình, không ai có thể nắm trọn vẹn được chân lý. Mỗi người chỉ nắm được một phần của chân lý nên không thể bắt được người khác phải hoàn toàn theo ý mình. Tốt nhất là hãy tỏ ra khiêm nhường, nhường nhịn nhau, thuận hòa thì sẽ không còn tranh chấp, mà đã hoà rồi thì không còn kẻ thắng người thua . Lúc đó người ta có thể nói một cách thoải mái rằng: Ai nhất thì tôi thứ nhì, Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba. (Ca dao) Truyện vui: đóng cửa bảo nhau. Bố mẹ hay tin đôi vợ chồng trẻ cãi nhau, nên đến khuyên giải: - Bố mẹ đã dặn các con là phải ăn ở thuận hoà. Nếu có truyện gì trái ý thì đóng cửa bảo nhau, chứ sao lại để cho hàng xóm biết ? - Dạ... xin lỗi bố mẹ. Tại vì lúc đó không ai chịu ra... đóng cửa ạ. KẾT LUẬN Muốn cho gia đình được trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, hãy suy niệm Lời Chúa và quyết tâm đưa vào cuộc sống hằng ngày: Thư thánh Phaolô: Cl 3, 12-13 và Rm 12, 16-18. Tin Mừng: Lc 22,26. Hãy đọc và suy niệm kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi: Để trở nên dụng cụ bình an. Khi thứ tha thì được tha thứ, Khi cho đi là lúc được nhận lãnh, Lúc quên mình đi là lúc tìm lại bản thân... Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
(Giảng lễ Hôn phối) Lm Trần Đình I. Một vài hình ảnh về hôn nhân
Hôn nhân như chuyến tàu lửa: người xuống ga này, kẻ xuống ga kia, có người hăm hở bước lên HP65:
a/ Hôn nhân như chuyến tàu lửa: người xuống ga này, kẻ xuống ga kia, có người hăm hở bước lên và cũng vội vã bước xuống. b/ Hôn nhân cũng giống như cuộc chinh phục đỉnh núi: Có những người leo được tới đỉnh. Cũng không thiếu những kẻ bỏ cuộc, cho dầu ban đầu hăm hở lắm. c/ Hôn nhân cũng như trận golf: Có những cầu thủ chiến thắng oanh liệt. Cũng có những kẻ mới thua một hiệp đã nản chí đầu hàng. d/ Hôn nhân như con ngọc trai, động vật có hai mảnh vỏ gắn liền nhau. Có những cuộc tình thành đạt như ngọc trai hai mảnh. Và cũng có những cuộc tình dang dở, như vỏ ngọc phơi trên bãi biển. Nghĩa là hôn nhân dễ mang dáng dấp của sự mong manh. Vì thế, ta cần phải biết xây dựng nó. II. Xây dựng một gia đình kitô giáo phải tựa trên những gì ? 1. Hạnh phúc Trong hôn nhân, người ta thường cầu chúc cho nhau “trăm năm hạnh phúc”. Lời cầu nguyện cho đôi tân hôn trong nghi thức hôn phối là: “Ước chi họ được hưởng trọn vẹn hạnh phúc lứa đôi”. Mà hạnh phúc là cái phải xây dựng mỗi ngày: “Hạnh phúc như ngọc trong đá, không đến với ai đi qua hững hờ. Hạnh phúc như mật trong hoa, không có cho ai không nhọc nhằn tìm kiếm”. (Phim “ngọc trong đá”). 2. Chung thuỷ Chung là cuối, thuỷ là đầu. Chung thuỷ là biết ăn ở có trước có sau, tiền hậu bất nhất. Nếu khác đi, ta gọi là tráo trở. Sự chung thuỷ được thể hiện cách cụ thể là: “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ”. Không vì hoàn cảnh đổi thay mà lòng ta thay đổi. 3. Yêu thương và kính trọng “Sông Thương, sông Cả, sông Đào, Ba con sông ấy đổ vào sông Thương”. Nước ba con sông được hợp lại nơi “sông Thương”. Tình yêu thì chụm lại, đồng qui ở một điểm. Không có tình yêu như hai đường thẳng song song. Tình yêu là “giây liên kết mọi sự toàn thiện”. Thánh Phaolô dạy như thế. “Yêu thương và kính trọng” phải luôn đi liền với nhau. Thiếu sự kính trọng, không thể nói đến yêu thương được. Người xưa dạy vợ chồng phải biết “tương kính như tân”, kính trọng nhau như khách. Không nên, vì đã quá quen thuộc, gần gũi nhau mà vợ chồng thôi đối xử với nhau thiếu kính trọng. 4. Nhẫn nhục Đi vào đời hôn nhân, người ta phải mang ba chiếc nhẫn: nhẫn đính hôn, nhẫn kết hôn và nhẫn nhục. Là bởi vì “nhân vô thập toàn”. Con người là sai lầm. 5. Sống đạo hạnh Thông thường, người ta xây dựng hôn nhân dựa trên 7 chữ “đ”: đẹp, đô (đô la), dream, đôm (tiếng Nga có nghĩa là nhà ở mặt tiền), động (điện thoại di động), đỏ (cán bộ), đại (đại học). Nếu chỉ có thế thì sẽ dẫn đến chữ “đ” thứ 8 là “đổ”. Phải xây dựng gia đình kitô giáo tựa trên hai chữ “đ” khác là “đạo đức”. Hai chữ “đ” này là điều mà người ta ta có khuynh hướng khinh thường hoặc thiếu quan tâm. Nhất là đối với đời sống đạo. Kẻ xây dựng gia đình tựa trên đạo đức, được Chúa gọi là “xây nhà trên đá”, khác đi sẽ là “xây nhà trên cát”, nghĩa là xây trên những gì mong manh, tuy chúng cũng có giá trị nào đó. Mấy lời vắn tắt tôi xin thưa với Quý Ông Bà anh chị em, đặc biệt muốn gởi lại cho hai anh chị trong ngày trọng đại này.
Chúa Giêsu cũng giống như các hiền triết hoặc các vị sáng lập tôn giáo đều có một số môn đệ HP66
Chúa Giêsu cũng giống như các hiền triết hoặc các vị sáng lập tôn giáo đều có một số môn đệ để truyền bá triết thuyết hoặc giáo lý của mình.. Theo truyền thống đó, Chúa Giêsu chọn cho mình mười hai tông đồ và bảy mươi hai môn đệ. Ngài sai họ đi đến các thành thị và làng mạc để rao giảng Tin Mừng, dọn chỗ cho Chúa đến sau. Ngài khuyên bảo các ông:”Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng Thầy đã chọn anh em, và cắt củ anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái” (Ga 15, 15-16). Hoa trái mà các môn đệ thu hoạch được trong công cuộc rao giảng Tin Mừng là đem về cho Chúa nhiều linh hồn. Ý định của Thiên Chúa là muốn cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Irênê đã nói:”Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống” , sống đây được hiểu là sự sống đời đời. Chúa Giêsu cũng nói:”Ta đến để họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). II. HOA TRÁI TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN. Ai cũng mong trồng cây để có ngày thu lượm được hoa trái: Có cấy có trông, có trồng có ăn. Trồng cây là một kế hoạch kinh tế cần thiết và hữu ích cho đời sống. Vì thế Tôn Tử đã nói: Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, Thập niên chi kế mạc như thụ mộc, Bách niên chi kế mạc như thụ nhân. Cái kế hoạch cho mười năm không gì bằng trồng cây. Có thứ cây trồng để lấy hoa: hoa hồng, hoa cúc, hoa huệ... để ngắm; có thứ hoa để lấy hương vị: hoa lài, hoa sói, hoa sen... Có thứ cây để lấy gỗ: gỗ lim, gỗ sao, gỗ cẩm lai.... Phần lớn người ta trồng cây để lấy trái: cà phê, tiêu, mãng cầu, sầu riêng, thanh long... Khi trồng cây, ai cũng mong thu hoạch được hoa trái, nhất là được những mùa bội thu. Chúa sai chúng ta đi vào đời, cách riêng là vào đời sống hôn nhân, chắc chắn Ngài mong chúng ta phải đem về hoa trái: hạt được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm. Hoa trái của đời sống hôn nhân là gì nếu không phải là “gia đình hạnh phúc” ? Gia đình này phải được mô phỏng theo hình ảnh giữa Chúa Giêsu và Hội thánh. III. NHỮNG YẾU TỐ CỦA GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC. Muốn tạo lập được một gia đình hạnh phúc, chúng ta phải trả bằng một giá đắt nghĩa là phải thực hiện được một số điều kiện. Ở đây ta chỉ đề cập tới ba điều kiện hay ba yếu tố làm nên gia đình hạnh phúc theo quan niệm Kitô giáo. 1. Yêu thương. Yêu thương là nền tảng của hôn nhân, chính tình yêu là chất keo nối kết hai người lại với nhau, bởi vì: “Ái tình khiến quả tim thành một “ (H. Spencer). và “Hôn nhân không tình yêu là ngày thiếu rạng đông” (Alphonse Karr). Tình yêu ấy không phải là tình yêu vị kỷ(eros) chỉ biết dùng người yêu làm bàn đạp gây lợi ich cho mình, mà phải yêu bằng tình yêu vị tha (agape), tình yêu dâng hiến, tất cả vì người yêu: Yêu nhau chữ Vị là vì, Chữ Dục là muốn, chữ Tùy là theo. (ca dao) Tình yêu này phải là tình yêu chân thành, trong sáng theo gương Chúa Giêsu như lời thư thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Êphêsô:”Anh em hãy sống trong tình bác ái như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến tế” (Ep 5,2a). Tình yêu ấy luôn gặp khó khăn, trắc trở nhưng phải cố gaaá¨ng vượt qua “ “Con đường tình yêu chân thật lúc nào cũng đầy gai góc chập chùng” (W. Shakespeare) 2. Hy sinh. Không có tình yêu chân thật nào mà không kèm theo những hy sinh, đau khổ, bởi vì: “Tình yêu sống được nhờ đau khổ, sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết mòn” (Bà De Girardin) Có lẽ vĩ thế mà một thi sĩ đã nói: Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, Đời mất vui khi vẹn câu thề. (Hồ Dzếnh) Tình yêu ở trần gian này không bao giờ được trọn vẹn, còn dang dở, chỉ có tình yêu ấy trên thiên đàng, khi chúng ta chỉ còn biết yêu Chúa mà thôi. Chúng ta hãy đọc và suy nghĩ để rút ra bài học cho bản thân: -“Yêu tức là đã ký kết với đau khổ” (Bà De Conin) - Yêu là đau khổ đấy, mà không yêu là chết” (Hyppolyte Taine). - “Tình hỏi đòi hỏi ở chúng ta nhiều chcịu đựng, gian lao và thử thách” {T. Champion) - Tình yêu chỉ đẹp là những mối tình kết thúc trong đau khổ. Mối tình không đau khổ là mối tình giả tạo” (Ronsard). Nếu vợ chồng thương yêu nhau thật thì phải quên mình, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để đem hạnh phúc lại cho nhau: Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, Thất bát sông cũng lội, Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua. (ca dao) 3. Nhẫn nhục. Khônh có gia đình nào luôn được thuận buồm xuôi gió, không có tình yêu nào mà không có chông gai bởi vì “bá nhân bá tính” không ai giống ai như người ta nói: Sống mỗi người một nết, Chết mỗi người một tật Tính tình con người khác nhau do giới tính, do môi trường, do xã hội. Không có cách nào giải quyết ngoài cách phải dung hoà, nhường nhịn nhau, nhất là nhẫn nhục chịu đựng trong niềm tin yêu theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã phán:”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Yêu thương thì phải nhẫn nhục chịu đựng. . Đã yêu thì phải NHẪN, . Đã nhẫn thì phải NHỤC. Nều phân tích chữ NHẪN, ta thấy Nhẫn là một từ chữ Hán gồm có hai bộ: - Bộ ..... (tâm) - Bộ ..... (đao) Cái đao đâm vào tâm (lòng) thì chắc chắn phải đau. Nhẫn nhục chịu đựng thì chắc chắn phải đau khổ, nhưng “yêu là đau khổ” mà ! Vì thế, văn hào Hipolyte Taine mới nói: Người ta tìm hiểu nhau trong ba tuần, yêu nhau trong ba tháng, cãi nhau trong ba năm, chịu đựng nhau trong ba mươi năm để rồi con cái lại trở về với cái vòng luẩn quẩn ấy. Để kết luận, chúng ta hãy đọc và suy niệm lời thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Ephêsô:”Anh em đừ#ng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4, 29-32). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Chúa Giêsu trở về quê hương mình là Nazareth. Ngài vào hội đường ngày sabat và đứng lên đọc HP67
Chúa Giêsu trở về quê hương mình là Nazareth. Ngài vào hội đường ngày sabat và đứng lên đọc Sách Thánh. Ngài đã đọc và cắt nghĩa Sách Thánh một cách rành mạch làm cho mọi người phải ngạc nhiên: không biết bởi đâu ông Giêsu được khôn ngoan như vậy. Tuy thế, họ vẫn không tin phục Ngài vì Ngài là người đồng hương với họ, cha Ngài chỉ là bác thợ mộc và mẹ Ngài là bà nội trợ Maria. Họ nói thầm với nhau câu ngạn ngữ:”Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem sao”. Trước sự cứng lòng và đầy thành kiên của họ, Chúa Giêsu phải nói:”Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 16-24). II. THÀNH KIẾN TRONG CUỘC SỐNG. 1. Thành kiến là gì? Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được. Ví dụ: con nhà nghèo kém thông minh hơn con nhà giầu. Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì thành kiến tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. 2. Một căn bệnh khó chữa. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài ; nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá trị thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng: Không ưa thì dưa có dòi. III. THÀNH KIẾN TRONG ĐỜI HÔN NHÂN. 1. Thời kỳ mới quen nhau. Trong thời gian tìm hiểu nhau, người ta hay bị sai lầm về những đức tính tốt đẹp của người kia vì lúc đó ai cũng tỏ ra mình là con người hoàn hảo, kèm với tình yêu. Vì thế: “Thường thường người ta yêu nhau về những đức tính mà người ta không có ; thế rồi, người ta lại xa nhau về những tính xấu mà người ta không có” (Daniel Stern) Do đó: “Trước khi lấy vợ hãy cố mở mắt ra; sau khi lấy vợ rồi nên cố nhắm mắt lại” (Franklin). 2. Thời kỳ chung sống. a) Thời kỳ đầu: những ngày đầu của cuộc hôn nhân, tình yêu còn cao đẹp, người ta sống lạc quan tin tưởng vào tương lai, nhưng sống với nhau một thời gian, lúc đó tình yêu không còn đằm thắm, người ta mới khám phá ra con người thực của nhau với đầy tình xấu. Bắt đầu thời gian thử thách ! b) Sau bảy, tám năm: Sau một thời gian dài, càng ngày người ta càng khám phá ra con người thật của nhau vì không thể che giấu nổi tính tình của từng người nữa: cái kim giấu kín trong túi áo cũng sẽ bị lộ ra: “Tình yêu thì đui mù nhưng Hôn nhân trao trả ánh sáng cho nó: (Lichtenberg). Lúc này tình yêu đã giảm sút, những mối bất hoà ngấm ngầm hay bùng nổ cứ tiếp tục diễn ra, những sự va chạm xẩy ra như cơm bữa; người ta mới đánh giá lại con người của nhau. Thường người ta hay phóng đại những nết xấu của nhau khi người ta bắt đầu có thành kiến về người phối ngẫu của mình. Ngày mới quen nhau, người ta kính phục nhau bao nhiêu thì lúc này lại càng khinh dể bấy nhiêu, coi nhau chẳng ra cái gì cả , hai tình trạng trước sau trái ngược hẳn nhau một trời một vực. Lúc ấy người ta mới nói: Xem tướng ngó dạng anh hào Suy ra nét ở khác nào tiểu nhân. (ca dao) 3. Hãy hoàn thiện con người mình. Hãy sửa đổi con người mình để cho người bạn đời thấy mình là người dễ thương, đáng phục để cứu vãn lấy tình yêu thuở ban đầu. Truyện: thánh Gioan Bocô. Khi ở Lille, một hôm người ta đem lên cho cha Gioan Boscô một cái bánh bông lan tuyệt ngon. Trước mặt ngài có hai bà thuộc loại Veronica ngồi quan sát rất chăm chú. Một bà nói nhỏ vào tai bà kia: - Cha Boscô là một vị thánh sống. Rồi xem, tôi cam đoan ngài chỉ ăn chút xíu gọi là thôi. Không ngờ thánh nhân thính tai lắm, nghe lọt được. Ngài liền cầm dao lên chém một miếng to tướng và phùng má ăn một cách khoái trá vô cùng. Thấy sự việc bất ngờ như vậy, bà thứ hai lại thầm thì vào tai bà kia (nhưng thánh nhân cũng nghe rõ được như lần trước): - Bà hãy xem: thánh là thế đó. Ngài muốn ăn như vậy là chủ ý trình làng rằng mình không phải là thánh như người ta tưởng. Ôi, khiêm nhường thay... (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 341-342) Chúng ta hãy yêu nhau, hãy nghĩ tốt về nhau. Đừng bao giờ có thành kiến về nhau vì thành kiến chẳng giúp ích gì mà chỉ đưa đến đổ vỡ. Hãy yêu nhau nhiều vì tình yêu có thể hóa giải được tất cả như thánh Augustinô đã nói:”Ama et fac quod vis”: cứ yêu đi rồi làm gì thì làm, bởi vì với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Đúng vậy: Yêu nhau quả ấu cũng tròn, Ghét nhau quả bồ hòn cũng méo. (Tục ngữ) Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt.
Thánh Gioan tông đồ nói:”Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 15,3). Ngài là yêu thương nên đã dựng HP68
Thánh Gioan tông đồ nói:”Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 15,3). Ngài là yêu thương nên đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, lại còn ban cho con người một trái tim biết yêu thương để yêu Ngài và yêu tha nhân. Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu, tình yêu tuyệt đối và Ngài đã san sẻ cho con người để họ biết yêu nhau. Chính vì thế mà trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ:”Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Đây không chỉ là lời khuyên nhưng là một điều luật mà đã là luật thì buộc phải tuân giữ, không giữ thì có tội. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói trong t6ng huấn về gia đình: Tình yêu là ơn gọi cơ bản và bẩm sinh của con người. Trong thông điệp “Đấng cứu chuộc con người” Đức Gioan Phaolô II cũng nói: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ mãi mãi không hiểu được chính mình, và cuộc đời sẽ mất ý nghĩa nếu con người không đón nhận được mạc khải về Tình yêu, nếu con người không gặp được tình yêu, nếu con người không thử nghiệm tình yêu, nếu con người không biết tình yêu thánh của mình, nếu con người không dự phần một cách mạnh mẽ vào tình yêu”. Sống ở đời ai mà không yêu vì không yêu là chết. Cuộc sống phải có tình yêu như không khí cần cho việc hô hấp. Nhưng theo Chúa Giêsu thì chúng ta phải yêu nhau như thế nào ? Hãy theo nguyên tắc này: hãy yêu thương nhau “như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). II. HAI LOẠI TÌNH YÊU. Yêu thương thì có trăm nghìn đường yêu nhưng chung qui vè hai loại: tình yêu vị kỷ và tình yêu xả kỷ hay vị tha. 1. Tình yêu vị kỷ. Theo chữ Nho chữ vị là vì và kỷ là mình, là cái tôi. Vậy người yêu thương bằng tình yêu vị kỷ là chỉ yêu mọi cái vì mình, hướng mọi cái vào mình và phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình. Thứ tình yêu này là yêu mình qua người khác, dùng người khác để phục vụ cho chính mình, làm thoỏa mãn sự thèm khát dục tình của mình để rồi khi đã thỏa mãn hay không được như ý thì đẩy đi, thì ly dị theo nguyên tắc “Hay thì ở, dở thì đi”. Thứ tình yêu ấy không bao giờ là chân chính và không đem lại hạnh phúc cho ai, ngay cả cho chính mình, như anh chàng Narcisse trong huyền thoại Hy lạp, không hề biết yêu ai, chỉ yêu chính hình ảnh của anh in dưới dòng sông, nên anh ta không bao giờ biết đối thoại, vì có chấp nhận ai đâu để mà đối thoại, mà chia sẻ với mình ! Cuối cùng con người có tình yêu vị kỷ ấy đã chỉ nghe “tiếng vọng” của chính mình, và chết đi trong đơn độc. Vì thế, ta có thể nói: kẻ ích kỷ là kẻ yêu mình trước hết và trên hết. Người khác, với hắn, chỉ là thứ yếu, là bàn đạp. Hắn là loại tầm gửi của xã hội, là con mọt của mọi người. Ballanche đã nói:”Ích kỷ là thứ ma cà rồng, nuôi sống mình bằng máu thịt sinh vật khác”. Tôi yêu anh vạn, Tôi mến anh nghìn, Anh có ăn thuốc đưa tiền tôi mua. (ca dao) 2. Tình yêu xả kỷ hay vị tha. Xả là buông tha ra hay là bỏ đi. Xả kỷ là bỏ mình, là quên mình đi, là xa lạ với mình để chú ý đến người khác, để tìm hạnh phúc cho người khác. Ai có tình yêu này là người chỉ biết cho đi mà không cần đòi lại như kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi đã nêu lên. Tình yêu cao qúi này khiến cho kẻ mang nó sẵn sàng hy sinh tất cả để tạo hạnh phúc cho người yêu. Đó là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài muốn chúng ta, những con người tầm thường hèn yếu – kẻ hôn thê bất xứng của Ngài – được hạnh phúc, đến nỗi Ngài đã chết cho tình yêu, hiến mạng sống vì người yêu như trong thư gửi cho tính hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói:”Ngài, phận là phận của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải dành cho được chức vị đồng hàng với Thiên Chúa, song Ngài đã hủy mình ra không là lãnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta đem thân đội lốt người phàm” (Pl 2,6-7). Yêu nhau bất luận giầu nghèo, Dù cho lên ải xuống đèo cũng cam. (ca dao)
III. TÌNH YÊU VỢ CHỒNG. Mọi người phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã dạy (x. Ga 15,12), vợ chồng còn phải yêu nhau một cách đặc biệt vì cả hai đã trở nên một (x. St 2,24). Vợ chồng phải yêu thương nhau bằng tình yêu xả kỷ, bằng cách quên mình đi để chỉ tìm hạnh phúc cho nhau. Yêu là dâng hiến, dâng hiến cả con người cho nhau vì cho thì hơn nhận. Có cho đi thì mới làm cho mình càng thêm phong phú; còn co cụm lại nơi chính mình thì càng làm cho mình nghèo đi . Truyện: hai biển hồ Palestine có tới hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêùa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Xung quanh hồ này là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi. Nhà cửa cũng mọc lên rất nhiều xung quanh biển hồ này... Chúa Giêsu đã gặp gỡ với những môn đệ đầu tiên của Ngài tại đây và Ngài cũng đã nhiều lần đi thuyền xuyên qua biển hồ này. Biển hồ thứ hai tại Palestina là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi cá không sống nổi mà người cũng có thể trở thành bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên khiến không ai muốn sống gần đó. Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ Galiléa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galiléa nhận lãnh để rồi chia sẻ cho những hồ nhỏ khác, nhờ đó nước của nó luôn trong sạch và mang lại sức sống cho cây cỏ, muông thú cũng như con người. Biển Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho nó, do đó nước của nó trở nên mặn chát và hôi thối. (Lẽ sống, 1991, tr 66. Như vậy, tình yêu vợ chồng phải là tình yêu dâng hiến, tận hiến cho nhau, càng tận hiến cho nhau thì càng trở nên phong phú. Người ta thường nói:”Có đi có lại mới toại lòng nhau” hoặc “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại” kia mà ! Khi lập gia đình, ai cũng muốn cho mình được hạnh phúc. Hạnh phúc này không có ngay trong ngày thành hôn mà vợ chồng phải nỗ lực tạo dựng , bởi vì hạnh phúc không phải là cái gì tiền chế có sẵn đấy để Chúa ban cho ngay hay cha mẹ tặng cho con cái. Chúng ta có thể nói: hôn nhân chỉ là chiếc hộp rỗng, phải bỏ gì vào trong đó thì mới hy vọng có thể lấy ra, nếu không bỏ vào thì lấy ra được cái gì. Ai cũng muốn biến gia đình thành một tổ ấm. Hay nói mạnh hơn nữa: ai cũng muốn gia đình mình trở thành thiên đàng, nơi đó mọi thành viên trong gia đình được hưởng một đời sống hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, nhiều khi người tha không biến gia đình thành thiên đàng mà lại biến thành hỏa ngục ! Vì thế, nhà văn hào Honoré de Balzac nói có lý:”Hôn nhân là con đường đưa ta tới thiên đường hoặc hỏa ngục”. Truyện: Bữa ăn Thiên đàng và Hỏa ngục. Một ký giả kia được phép xuống hỏa ngục và lên thiên đàng để làm một bản phóng sự về đời sống nhân dân tại đó. Sau một cuộc hành trình gay go, ký giả trên lọt được vào địa ngục đúng vào giờ ăn. Nhìn vào bàn ăn, anh ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy chưng bầy toàn những sơn hào hải vị đang bốc khói hương ngào ngạt làm anh ta không khỏi nuốt nước bọt. Nhưng lúc các kiều dân địa ngục tiến vào phòng ăn, chàng ta lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy họ ốm o gầy còm, chỉ còn da bọc xương, vài người đi không muốn nổi. Sự kinh ngạc tan biến khi chàng phóng viên chứng kiến họ dùng bữa. Vì muỗng nĩa rất dài buộc dính vào đôi tay không cho phép họ đưa thức ăn vào miệng, nên dù họ có cố gắng thế nào đi nữa, thức ăn chỉ đổ tháo ra đầy bàn hay rơi tung tóe xuống mặt đất. Tệ hại hơn là cảnh họ tranh giành nhau: vài người dùng muỗng nĩa để thay vì đưa thứcù ăn vào miệng, lại biến chúng thành những khí giới đập đánh nhau. Thật là một bãi chiến trường. Khi chuông báo giờ ăn đã mãn, họ buồn phiền rời phòng ăn, dạ dầy vẫn trống rỗng. Quá sợ hãi, chàng ký giả lập tức từ giã địa ngục để tiến tục lên phóng sự trên thiên đàng. Đến nơi cũng đúng vào giờ cơm. Bàn ăn cũng chưng bầy những thức ăn ngon miệng. Quan sát nhân dân, chàng ta thhấy ai nấy đều phương phi, khỏa mạnh, tuy đôi tay họ cũng được gắn chặt những muỗng nĩa rất dài. Có khác là thay vì họ cố gắng đưa thức ăn vào miệng mình, họ lại dùng muỗng nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn lại vang lên những giọng nói cười vui, thỏa mãn. Kết thúc bài phóng sự tường trình về những điều mắt thấy tai nghe, chàng ký giả viết: Ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng. (Lẽ sống, 1991, tr 146) Thiên Chúa muốn con người biến tất cả thành thiên đàng, không muốn sự hiện hữu của hỏa ngục để giam phạt con người. Nhưng con người phải có lòng yêu thương đối với tha nhân, phải bỏ bớt cái tôi ích kỷ để lo hạnh phúc cho người khác thì mới có thể biến mọi cái thành thiên đàng được. Con người có quyền tự do vào thiên đàng hay địa ngục, không bị ai ép buộc. Cũng thế, nếu vợ chồng muốn biến gia đình mình thành thiên đàng tại thế thì cần phải có tình yêu dâng hiến, biết quên mình đi để lo hạnh phúc cho nhau. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Đà lạt.
Đàng sau cánh cửa Hôn nhân I. LỜI CHÚA: Ga 10,1-10.
Chúa Giêsu khẳng định rằng:”Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên” (Ga 10,11) HP69
Chúa Giêsu khẳng định rằng:”Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên” (Ga 10,11), Ngài là Đấng dẫn dắt các linh hồn. Ngài lại còn khẳng định:”Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đến trước đều là trộm cướp và chiên đã không nghe chúng. Ta là của, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứcu rỗi” (Ga 10,8-9). Chúa đòi chúng ta phải nhận Chúa là chủ chăn và phải qua Chúa thì mới có phần rỗi cũng như ai muốn vào chuồng chiên thì phải qua cửa. Trong bài Tin Mừng hôm nay khi nghe Chúa Giêsu khẳng định Ngài là cửa chuồng chiên tôi lại liên tưởng đến cánh cửa hôn nhân và tôi muốn các bạn trẻ cũng phải bước qua cánh cửa hôn nhân để xem đàng sau cánh cửa hôn nhân đó có gì... II. CÁNH CỬA HÔN NHÂN. 1. Cửa thì cần thiết. Bất cứ ai làm nhà cũng phải làm cửa. Nếu xét từ ngoài vào trong ta có: cửa ngõ, cử ra vào nhà, cửa sổ, cửa buồng, cửa tủ. Các loại cửa đó có thể bằng tre lá, bằng gỗ, bằng nhôm, bằng sắt , bằng kính hay là bằng gì chăng nữa... mục đích của cửa là để mở ra hay đóng lại: - Mở ra cho ke #ở ngoài vào trong hay ở trong ra ngoài. - Đóng lại để ngăn cản cả trong lẫn ngoài: nội bất xuất, ngoại bất nhập. Cửa mở ra hay đóng lại là tùy nhu cầu, xử dụng cho hợp lý. 2. Phải vào qua cửa. Hôn nhân được ví như một ngôi nhà. Nhà phải có cửa để ra vào. Trước khi bước vào đời hôn nhân, người ta phải bước vào đàng sau cánh cửa để xem bên trong ngôi nhà đó thế nào rồi mới quyết định có nên ở trong nhà đó hay không. Kinh nghiệm cho hay nhiều người chỉ mới bước tới ngưỡng cửa hôn nhân, chỉ thấy cái cánh cửa đẹp mà chưa biết đàng sau cánh cửa hôn nhân đó thế nào, chưa nhìn thấy những cái bất tiện trong ngôi nhà đó. Vì thế sau khi đã bước vào đời sống hôn nhân đôi bạn trẻ mới bỡ ngỡ, bàng hoàng, thất vọng, hối tiếc rồi nảy sinh ra tư tưởng: Đồng tiền chiếc đũa chia ly, Thiếp đi lối thiếp, chàng đi đường chàng. (Ca dao) 3. Quan sát bên trong. Ngày xưa, trai gái lấy nhau là do gia đình chọn, bởi thế tình yêu có thể đến với họ sau hôn nhân, vì đã xẫy ra nhiều trường hợp trong ngày lễ cưới mà chưa biết mặt nhau. Còn ngày nay, thế hệ trẻ tiến lên, có tri thức hoặc trình độ học vấn cao, họ lấy nhau sau một cuộc tình. Chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Nhiều đôi bạn trẻ chỉ tìm cách thu hút nhau bằng những cái vẻ hào nhoáng bên ngoài, chỉ có tính cách bì phu, họ quên bẵng một điều quan trọng, một điều cốt lõi, một điều làm nên nền tảng vững chắc cho gia đình mai sau là những tình cảm thắm đượm thánh thiêng và những phẩm chất quan trọng là lý tưởng vươn lên trong tương lai của đối tượng bằng một nhân cách đáng trọng: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. (Ca dao) Nói khác đi, đôi bạn phải có tư cách đứng đắn và một đời sống đạo đức theo lời Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em là muối cho đời” (Mt 5,13) “Anh em là ánh sáng choi trần gian” (Mt 5,14”. 4. Lưu ý trong việc quan sát. Chính sự ưa thích vẻ hào nhoáng bên ngoài mà “khi ván đã đóng thuyền” rồi, thì ở nhiều cặp vợ chồng các vụ xung đột thường hay xẩy ra. nguyên nhân chủ chốt của vấn đề này không ngoài việc họ có quan niệm không đúng đắn về gia đình. Ở đây có ba vấn đề đáng quan tâm: * Thứ nhất , họ chưa ý thứa được hôn nhân là một khởi điểm cho một tương lai lâu dài với nhiều bất trắc khó lường. Họ tưởng lầm rằng mở ra cánh cửa hôn nhân là đã bước chân vào cõi “thiên đường” mà họ không ngờ rằng:”Hôn nhân là con đường dẫn ta tới thiên đường hay địa ngục” (Honoré de Balzac). * Thứ hai, họ quên mất rằng sau hôn nhân rất cần đến sự chiếm hữu lấy tình yêu bằng cách cần phải cố gắng để người bạn đời của mình yêu thích mình hơn, quí trọng mình hơn nữa. * Thứ ba, khi giáp mặt với sự nhiêu khê trắc trở, với thực tế phũ phàng của cuộc sống, trong gia đạo, họ giải quyết một cách đơn giản và tai hại bằng cách tìm niềm vui và sự bình an ở bên ngoài cánh cửa gia đình. Theo số liệu của một số nhà nghiên cứu phương Tây, các cặp vợ chồng ở tuổi 30-40 trong các gia đình có mâu thuẫn thường đi đến một kết thúc thoạt nhìn tưởng êm đẹp nhưng thực chất là một tấm bi kịch. Phân tích sâu xa vấn đề ở độ tuổi này, người ta thấy rằng sự trục trặc trong quan hệ vợ chồng diễn ra như sau: người bạn đời được lựa chọn theo những phẩm chất tuy tốt đẹp nhưng lại không đủ để xây dựng một đời sống gia đình hài hoà. Điều nữa, lẽ ra họ phải thích ứng một cách hợp lý những điều kiện khách quan mới của đời sống lứa đôi, họ lại chỉ dựa vào những phẩm chất “hoa hòe hoa sói” hồi thời mới yêu nhau. Thêm một nhầm lẫn tai hại nữa là suy nghĩ của họ khi mất nhau. Họ “quyết” rằng khi mất nhau, họ chẳng “mất “ gì cả, thậm chí có khi họ lại “được” hơn, khi xây dựng cuộc sống mới với người khác ! Họ thường tự an ủi và khích lệ mình một cách mù quáng rằng chung quanh họ còn có những người khác hiểu họ, yêu quí họ hơn người bạn đời đáng ghét ở cạnh họ nhiều chục năm nay ! Ngóc ngách của mâu thuẫn gia đình là do không hiểu nhau từ thuở ban đầu, bởi những huyễn tưởng của tuổi trẻ. Để cứu vãn tương lai u tối này, một nhà tâm lý học phương Tây đưa ra lời khuyên như sau: “Trước hết, bạn hãy hoàn thiện bản thân mình thành con người lý tưởng sẽ là thỏi nam châm khiến người bạn đời trở nên người lý tưởng như vậy. Chiến thắng người bạn đời bằng những thủ thuật ma mãnh chẳng hề tạo thêm hạnh phúc cho gia đình. Trái lại, đó là tiền đề cho sự tan vỡ tất yếu không sớm thì muộn”. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Cưới xin là việc rất thịnh hành trong xã hội. Người ta mời khách đến dự tiệc cưới tùy theo hoàn HP70
Cưới xin là việc rất thịnh hành trong xã hội. Người ta mời khách đến dự tiệc cưới tùy theo hoàn cảnh của mọi người giầu nghèo sang hèn. Càng giầu có, càng chức quyền cao thì đám cưới càng lớn, càng đông người. Thánh Gioan cho chúng ta biết Đức Giêsu và các môn đệ Người được mời đến dự tiệc cưới ở Cana, cả Mẹ Người cũng được mời đi dự. Có lẽ tiệc cưới này là người bà con của Mẹ Maria. Chỗ họ hàng nên Đức Maria phục dịch ở dưới bếp và biết hết những việc gì xẩy ra: Họ hết rượu rồi. Đối với người Do thái, rượu là một thức uống quan trọng trong bữa tiệc, thiếu rượu là một sự nhục nhã đối với gia chủ. Cảm thấy sự lo lắng của chủ nên Mẹ Maria đã nhờ Chúa Giêsu can thiệp. Chúa Giêsu chiều theo ý Mẹ mà làm cho nước hóa thành rượu mặc dầu giờ của Ngài chưa tới. Như vậy, Mẹ Maria đã nhận được thiệp hồng để đến ăn cưới chúc mừng cho cô dâu chú rể. Nếu gia chủ không gửi thiệp mời Mẹ Maria thì hôm ấy gia chủ bị thiệt thòi lớn. II. TẤM THIỆP. 1. Ý nghĩa của tấm thiệp. Bất cứ tấm thiệp nào cũng có mục đích loan báo tin vui hay tin buồn, tùy theo thiệp hồng hay thiệp tang. Gửi thiệp là muốn cho người khác chia vui sẻ buồn với mình:”Vui cùng người vui, khóc cùng người khóc” (Rm 12,14). 2. Các loại thiệp. Có hai loại thiệp: * Thiệp tang: báo tin có người chết, mong người khác chia sẻ nỗi buồn với mình. * Thiệp hồng: báo tin vui ngày cưới, mong người khác chung vui với mình. Thiệp hồng luơn luôn báo tin vui. Màu hồng nói lên vui tươi phấn khởi. Thiệp hồng làm cho cả người nhận lẫn người gửi đều vui tươi. Đó là ý nghĩa của thiệp hồng. 3. Tâm tình của người gửi. Người gửi thiệp có những tâm tình khác nhau, tùy theo tâm trạng họ mang trong lòng. a) Màu hồng của thiệp: Có người gửi thiệp với tâm tình vui tươi phấn khởi như ngày Tết vì đây là khúc quặt của cuộc đời, một ngày đáng ghi nhớ. Một tương lai sán lạn đang mở ra trước mắt, một gia đình ấm cúng đang chờ đợi họ. b) Màu xám của thiệp: Có người lên xe hoa mà phải mang tâm trạng man mác buồn. Họ biết rằng lên xe hoa là phải bỏ lại cả một bến bờ, có một phần nào nuối tiếc tuổi xuân ; hoặc phải rời bỏ người tình cũ vì đã lỡ bước sang ngang. Họ phải có một lựa chọn dứt khoát: người này thì phải bỏ người kia: Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. (Hàn Mặc Tử) c) Màu đen của thiệp: Có người phải lên xe hoa một cách miễn cưỡng vì họ phải chung sống với người mà họ không yêu. Đối với họ sống cũng gần như chết. Tấm thiệp đối với họ không còn là màu hồng nữa mà đã chuyển sang màu đen. Xe hoa rực rỡ đối với họ đã trở thành chiếc xe tang. Không thiếu gì những cảnh con cái bị cha mẹ ép uổng, phải kết hôn với người mà mình không yêu, đi ngược lại với lời người xưa: Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên (Tục ngữ) * Có người bị bán đứng cho người ta vì cha mẹ tham tiền, tham của: Đường đi những lách cùng lau, Cha mẹ tham giầu, ép uổng duyên con. Duyên sao cắc cớ hỡi duyên, Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai. (Ca dao) * Có người bị ép duyên vì cha mẹ sống cảnh phong kiến nhằm “môn đăng hộ đối”. * Có người bị ép duyên vì cha mẹ hai bên đã trót hứa với nhau. Đúng như Thomas Champion đã nói:”Hôn nhân không tình yêu là ngày không có rạng đông” hoặc như E. Moore nói: “Đời mà không có tình yêu chân thật thì như bãi sa mạc cô liêu” . III. HÃY GIỮ LẤY MÀU HỒNG. Tấm thiệp không thay đổi, sau bao năm tháng, tên hai người in trên đó vẫn cứ bên nhau. Có đôi hôn nhân ngày gửi thiệp, tên viết bên nhau, mà giờ đây mỗi người một cuối đường xa cách. Tiếng pháo nổ trong ngày cưới thật vui, nhưng cũng có bài ca buồn về xác pháo bay. Tấm thiệp không thay đổi nhưng người sang bên sông có thể đổi thay. Làm sao để đường theo chồng cứ hạnh phúc. Làm sao để người gửi thiệp lúc nào cũng như tấm thiệp cưới màu hồng, tên cứ bên nhau và tình yêu cứ bên tình yêu mãi mãi. Nếu để giữ cho tình yêu lúc nào cũng là tin vui như tấm thiệp có là chuyện gian nan thì cũng chẳng phải là điều khó hiểu. Hai ngàn năm trước, câu chuyện tiệc cưới Cana cho thấy tiệc chưa xong, khách chưa về đã có chuyện gian nan rồi:”Họ thiếu rượu” (Ga 2,3). Chuyện khó khăn trong hôn nhân đã xẩy đến ngay khi ngày cưới chưa qua. Tuy đôi tân hôn là trung tâm của ngày cưới, nhưng Phúc âm lại không nói gì về đôi tân hôn cả. Phúc âm nói về sự thiếu thốn của đôi tân hôn. Mẹ Maria đã có mặt trong ngày cưới ở Cana, như vậy là Mẹ cũng đã nhận được thiệp cưới. Chính nhờ tấm thiệp này mà ngày cưới hôm ấy xẩy ra một biến cố rất lớn. Nếu người gửi thiệp không gửi thiệp cho Mẹ Maria thì đám cưới hôm đó sẽ ra sao ? Nếu ăn cưới mà không có đủ rượu thì nó tẻ nhạt biết mấy ! Mẹ Maria được mời như một người khách, nhưng Mẹ đã không đến dự tiệc như một người khách mà như người giúp việc. Làm sao Mẹ biết họ thiếu rượu nếu Mẹ không quan sát ? Chắc Mẹ đã nghe tiếng xầm xì. Mẹ thấy nỗi lo âu của những người chạy việc. Mẹ tế nhị quá. Mẹ để ý đến những chuyện chung quanh ngày cưới của đôi bạn trẻ. Mẹ thương người. Mẹ biết tiệc cưới mà thiếu rượu là một kỷ niệm buồn trong ngày hôn nhân. Mẹ muốn tình yêu của họ được trọn vẹn. Không ai yêu cầu Mẹ giúp, Mẹ đã đến như một người tình nguyện. Hạnh phúc cho đôi tân hôn nào có những người khách như Mẹ Maria. Và cũng đẹp đẽ biết bao nếu khách được mời cũng đến tiệc cưới với tâm tình như của Mẹ. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt 2004
Thánh Phaolô khuyên tín hữu Philipphê cần có lòng thương cảm, một ý hướng và đồng tâm nhất HP71
Thánh Phaolô khuyên tín hữu Philipphê cần có lòng thương cảm, một ý hướng và đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi công việc. Nếu mọi người biết bỏ ý riêng, bỏ tư lợi mà nhắm lợi ích cho người khác thì cuộc sống của cộng đàn sẽ trôi chảy và thu được nhiều lợi ích. Chúng ta hãy nghe lời ngài khuyên dạy: “Anh em hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2b-4). II. TÍNH CHUYỆN VUÔNG TRÒN. 1. Câu chuyện vuông tròn. Người Việt nam quan niệm trời tròn đất vuông. Vuông tròn hòa hợp thì mọi sự sẽ trôi chảy. Vì thế, từ thời vua Hùng Vương người ta đã làm bánh dầy theo hình tròn và bánh chưng theo hình vuông. Trong các lễ hội, cưới xin hay Tết nhất, người ta thường dùng bánh dầy và bánh chưng, có lẽ tượng trưng cho sự hoà hợp giữa trời và đất, giữa âm với dương hầu đem lại hạnh phúc cho con người. Trong việc kiến thiết các ngôi nhà, nhất là đình chùa, ta thấy có mái cong. Tại sao lại có đường cong ? Đường cong là sự kết hợp hài hòa giữa đường thẳng và vòng tròn. Vì thế, đường cong diễn tả tâm hồn người Việt nam rất uyển chuyển, nhịp nhàng và hài hòa. Mái cong không phải là nét đặc trưng của Trung quốc như nhiều người tưởng mà là nét riêng của Việt nam vì mái cong có lẽ đã xuất hiện từ thời Hùng Vương cách đây bốn ngàn năm, còn mái cong ở Trung quốc mới xuất hiện từ đời Đường vào thế kỷ thứ bảy sau công nguyên. 2. Vợ chồng hòa hợp. Không phải vô tình mà người Việt nam gọi việc cưới xin là chuyện vuông tròn, vì việc kết hợp hài hòa giữa vuông và tròn nói lên sự kết hợp giữa âm và dương, giữa nam và nữ để cho họ “không còn là hai nữa mà đã trở nên một xương một thịt” (Mt 19,6 ; Mc 10,8). Chúng ta tạm coi vợ là tròn, chồng là vuông. Vuông và tròn là hai hình thể khác biệt nhau, nhưng nếu cho hình tròn vào trong hình vuông, hoặc hình vuông vào trong hình trò thì lại trở nên một hình vuông tròn hay tròn vuông rất hài hòa. không có gì đối chọi nhau. Cũng thế, vợ chồng là hai cá thể khác biệt nhau về sinh lý và tâm lý như âm với dương, nhưng nếu âm dương kết hợp với nhau thì rất hài hòa, bổ túc cho nhau. Trong cuộc sống hằng ngày vợ chồng có đời sống tâm lý rất khác nhau, có khi là đối chọi nhau như trong khóa giáo lý hôn nhân chúng tôi đã đưa ra năm định luật về sự khác biệt tâm lý như luật ưu tiên, luật phân cách, luật chi tiết, luật bất đồng cảm, luật thính giác. Vậy trước sự khác biệt tâm lý của nhau, vợ chồng phải xử trí ra sao ? Ta hãy dùng lời khuyên của Đức Khổng Tử:”Hòa nhi bất đồng”, nghĩa là vợ chồng chỉ có thể hòa hợp lại với nhau, trong khi đó vợ vẫn giữ được đặc tính của vợ, chồng vẫn giữ được đặc tính của chồng, không bao giờ vợ chồng có thể trở nên đồng nhất đuợc. Biết trước được như vậy, anh chị em thanh niên cần phải tìm hiểu nhau trước khi đi đến quyết định kết hôn: Trăm năm tính chuyện vuông tròn, Phải dò cho hết ngọn ngành lạch sông. (Ca dao) Hãy nhớ lời thánh Phaolô khuyên bảo:”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì trách móc người kia” (Cl 3,12-13). Chịu đựng và tha thứ cho nhau là chìa khóa của sự thành công trong đời sống gia đình. Người phụ nữ Việt nam có đặc tính ấy khi có sự căng thẳng giữa vợ chồng: Chồng giận thì vợ làm lành, Miệng cười hớn hở rằng: Anh giận gì ? (Ca dao) Trong cuộc sống gia đình không thể nào tránh được cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, bởi vì trời có lúc mưa lúc nắng, mặt hồ thu phẳng lặng đôi lúc cũng gợn sóng. Thỉnh thoảng vợ chồng lại có sự va chạm nhưng phải chịu đựng để rồi mọi sự sẽ qua đi vì sau cơn mưa thì trời lại sáng, có đâu âm u mãi ! Truyện mưa nắng trong gia đình luôn luôn xẩy ra nhưng không sao, đó chỉ là gian đoạn đổi bầu khi gia đình thôi, nó cũng có cái hay của nó như người Việt nam ta thường nói về thời tiết:”Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa”. Truyện vui Một người diễn thuyết rất hùng biện, giọng nói của diễn giả rất cao, ở điểm cao nhất của bài diễn thuyết, ông ta nói: - Người mà nhượng bộ khi họ thấy mình sai là một kẻ khôn ngoan. Trái lại, kẻ nhượng bộ khi họ có lý là... - Người đã có vợ. Một thính già hay pha trò ngắt lời ông ta. KẾT LUẬN Hãy thực hiện lời Chúa dạy:”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Nếu biết thực hành lời Chúa trong gia đình thì chắc chắn vợ chồng sẽ tránh được những sự va chạm đáng tiếc, bất cứ cái gì gai góc vợ chồng cũng cố gắng vo cho tròn, gia đình đó đã trở nên thiên đàng rồi. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em HP72
1.” Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc. Thật thế, ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; người ấy phải làm lành lánh dữ, tìm kiếm và theo đuổi bình an, vì Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu xin, nhưng Người ngoảnh mặt đi, không nhìn kẻ làm điều ác” (1Pr 3, 8-12). 2. Ai biết giữ miệng là người khôn ngoan, Ai lắm điều hay nói, thật đáng ghét” (Hc 20,5). 3. Đánh một roi chỉ để lại vết lằn, Đập một lời thì vỡ cả xương, Số người chết vì gươm đâm Không bằng số người chết vì lưỡi chém” (Hc 28,17-18) 4.”Phải giữ mồn giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa, Hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hòa” (Tv 33, 14-15) 5. Sách Thánh dạy chúng ta phải giữ gìn miệng lưỡi, không nên phê phán người khác vì con người chỉ biết theo cái vỏ bề ngoài, còn Thiên Chúa mới biết rõ tâm can con người:”Duy một mình Thiên Chúa là nhìn thấy đáy tâm hồn. Người thiên hạ chỉ xem ngoài bộ mặt” (Sm 16,7 ; x. Ga 8, 12-30). II. ĐỪNG TRANH LUẬN VÔ ÍCH. Con người có khuynh hướng tự nhiên là thích tranh luận, cái gì không hợp với mình liền bị phê phán, cho người khác là sai và cho sự hiểu biết của mình mới là đúng đắn, mới là mẫu mực cho mọi sự; nhưng thực ra sự hiểu biết của mình thì hạn hẹp chỉ như “ếch ngồi đáy giếng”, tại sao lại bắt mọi người phải suy nghĩ như mình.
Truyện vui: Ba bảy hăm mấy ? Ngày xưa, tại một vùng quê có hai người cãi nhau về một chuyện rất không đâu. Ông Ất bảo:”Ba bảy hai mươi mốt”. Ông Giáp thì bảo:”Ba bảy hai mươi hai”. Chuyện vô lý đến đứa trẻ con cũng không nghe được, mà khiến hai người cãi nhau đi đến chỗ đánh nhau. Lý trưởng dàn xếp không được, phải giải hai người đến gặp ông Chánh Tổng. Sau khi nghe Ất, Giáp trình bầy đầu đuôi sự việc, Chánh Tổng hắng giọng ra oai, phán: - Giáp ! Anh bảo “ba bảy hai mươi hai” là sai, nghe chưa ? Còn anh Ất, anh đã biết “ba bảy hai mưoi mốt” là đúng thì việc gì anh phải cãi nữa cho tốân hơi, lại còn mang tiếng cố chấp hơn cả người cố chấp nữa. Điều lý thú của câu chuyện không phải vì họ cãi nhau về một kiến thức quá ư đơn giản mà ở lời phán của viên Chánh tổng. Câu chuyện nhắc chúng ta mỗi khi nói chuyện (hoặc tranh luận) cần biết mình đang nói với ai và nói để làm gì. Từ bấy đến nay, những chuyện đại loại như vậy nhân dân ta thường nói:”Liệu có được ba bảy hăm mốt ngày” ? hoặc “Chẳng biết Ất Giáp gì cả”. (Đỗ viết Lăng, báo Làng Cười, số 18(32), 2004, tr 8) 1. Lý do thích tranh cãi. Chúng ta thích tranh cãi với nhau và muốn đòi phần thắng về mình. Tại sao lại thích tranh cãi như thế ? Có nhiều lý do, nhưng chúng ta chỉ thu hẹp lại trong ba lý do mà chúng ta cho là chính yếu. a) Lòng tự ái: Tự ái là yêu chính mình. Ai mà không yêu mình ? Yêu mình phải chiếm vị trí ưu tiên, sau đó mới đến ngưới khác. Vì thế, khi thấy người khác nói điều gì không hợp với suy nghĩ hay sở thích của mình thì liền phê phán, ví dụ như anh chàng Giáp nói:”Ba bảy hai mươi hai” thì tự nhiên anh Ất cảm thấy khó chịu và phải phê phán ngay, cho là vô lý cho dù việc đó chắng mắc mớ gì đến mình. b) Tính vị kỷ: Bất cứ ai cũng muốn tôn vinh mình, tất cả mọi người phải qui về mình, phải phục vụ mình, phục vụ cho cái TÔI của mình, cho cái mà nhà tư tửong Blaise Pascal cho là “Le MOI est haissable” (cái tôi đáng ghét), nhưng là cái TÔI của người khác đáng ghét, còn cái tôi của mình thì muôn vàn qúi yêu. Ngay từ nhỏ, đứa trẻ đã coi mình như trung tâm của vũ trụ, thích cái gì là đòi cho bằng được. không được thì khóc. Cái khuynh hướng vị kỷ ấy mỗi ngày một lớn dần lên đến nỗi người ta tự cho mình là “cái rốn của vũ trụ”. c) Tính kiêu ngạo: Tính kiêu ngạo đã xuất hiện rất sớm nơi trần gian này: thiên thần Lucifer và đồng bọn kiêu ngạo không vâng phục Thiên Chúa, đã bị đẩy xuống hỏa ngục làm ma quỉ. Ađam Evà muốn có sự hiểu biết bằng Thiên Chúa nên đã ăn trái cấm và đã bị luận phạt (x. St 3,1-7). Trong bảy mối tội đầu, kiêu ngạo là tội đứng hàng đầu, vì kiêu ngạo nên con người dễ phạm những tội khác. Thiên Chúa lên án tội kiêu ngạo vì khi phạm tội kiêu ngạo là con người đã vô tình hay hữu ý muốn bằng Thiên Chúa. Đức Maria đã thấm nhuần chân lý này khi Ngài cất tiếng ca tụng Thiên Chúa trong kinh Ngợi khen:”Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1,51). 2. Tranh cãi trong gia đình. Trong một gia đình chỉ có vợ chồng và mấy đứa con mà nhiều có những cuộc tranh cãi quyết liệt làm điếc tai hàng xóm, có khi đi đến chỗ ẩu đả nhau vì những chuyện không đâu, không đáng để cho người ta lưu tâm. Tại sao vậy ? Đó là do tính hiếu thắng của con người mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Người ta thích tranh cãi về những việc không đâu và trong khi tranh cãi thì luôn luôn muốn phần thắng về phía mình. Những cuộc tranh cãi đó hoàn toàn vô ích và chỉ ở trong cái vòng luẩn quẩn, chẳng giải quyết được việc gì như: Ba bà đi bán lợn sề, Bán đi chẳng đực chạy về lon ton. Ba bà đi bán lợn con, Bán di chẳng được lon ton chạy về, (Ca dao) Sáu ba này đi bán lợn sề hay lợn con đều bị thất bại, bán chẳng ai mua, các bà phải hớt hả chạy về, chạy về lon ton hay lon ton chạy về, đều giống nhau cả, chẳng giải quyết được việc gì, thất bại vẫn là thất bại. Trong cuộc sống gia đình ta thấy giữa vợ chồng thường có những cuộc tranh luận không đâu về bất cứ một vấn đề gì, mà ai cũng muốn phần thắng về mình . Khi đã tranh luận như thế thì chẳng ai nghe ai. Đúng là “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Nếu biết nhường nhịn nhau đi thì cuộc tranh luận sẽ kết thúc êm xuôi, nếu không nó sẽ trở nên một cuộc cãi vã gây cấn và nếu không giữ được bình tĩnh rhì sẽ xẩy ra cuộc chiến “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” làm cho bầu khí gia đình mất vui tươi, nhiều khi làm cho bầu khí gia đình trở nên lặng lẽ và ảm đạm như bãi tha ma. Thực sự, trong mọi công việc không ai đạt tới chân lý toàn vẹn mà chỉ tiến tới một góc cạnh của chân lý bởi vì lý trí con người là hữu hạn. Nếu biết sự hiểu biết của mình bị hạn chế, tại sao lại cho mình như thông hiểu tất cả mà không dành cho người khác một góc hiểu biết của họ ? Để nói lên sự hiểu biết của con người bị hạn chế và phiến diện, ta hãy nghe câu chuyện ba người tranh cãi nhau về một con kỳ nhông. Truyện: Con kỳ nhông đổi mầu. Một hôm có mấy người đứng bên lề đường tranh luận cùng nhau. Người thứ nhất nói: - Tôi vừa đứng dưới gốc cây đằng kia thấy rõ ràng một con vật quái lạ, mình đỏ như lửa. Người thứ hai cãi lại: - Tôi cũng trông thấy con vật ấy, nhưng rõ ràng là nó xanh như tầu lá. Một người thứ ba đi ngang qua cũng nhào vô cho ý kiến: - Không, không. Tôi cũng đã trông thấy con vật ấy tận mắt. Nó chẳng đỏ cũng chẳng xanh: rõ ràng là nó vàng như nghệ. Rồi những người đi đường xúm lại , càng lâu càng đông. Mỗi người đều quả quyết trông thấy con quái vật kia rõ ràng, nhưng mỗi người nhận xét mỗi khác. Không ai chịu ai. Không ai nhường ai. Cuộc cãi vã càng lâu càng thêm huyên náo, thêm hung hăng dữ rợn. Ai cũng cho mình là đúng, vì ai cũng được mục kích tận mắt cả. Họ hoa tay múa chân, sắp ăn thua nhau trong một trận thư hùng: giải quyết bằng võ lực là thượng sách. Giữa lúc nguy cấp, bỗng có một người đằng xa chạy tới can ngăn: - Thôi, thôi, các anh đừng cãi nhau nữa. Chính tôi đây là người sống dưới gốc cây kia lâu ngày và nhận định được sự biến đổi của con vật kỳ lạ kia. Nó gọi là con kỳ nhông, thay màu đổi sắc luôn luôn. Khi thì đỏ, khi thì vàng, khi thì xanh, khi tím... Có lúc lại thấy nó chẳng có màu sắc gì cả, trông giống hệt như vỏ cây. (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1991, tr 235-237) Đức Khổng Tử đã khuyên ta từ lâu: “Đa văn khuyết nghi, đa kiến khuyết đãi: tai cần nghe cho nhiều, nhưng điều gì còn nghi ngờ thì gác lại, chớ nên nói. Điều gì chắc chắn mới nên nói, mà nói thì phải nói cho thận trọng, như vậy sẽ tránh được nhiều oán trách. Mắt cần phải thấy cho rộng, nhưng việc gì còn bấp bênh thì hãy bỏ đi, đừng liều lĩnh. Việc gì đích xác mới nên làm, và phải làm cho dè dặt, như vậy ít hối hận”. Sự hiểu biết của con người thật hạn hẹp, chỉ là hạt cát trong sa mạc mênh mông. Không bao giờ con người có thể nắm được toàn vẹn chân lý, mà chỉ đạt tới một góc cạnh của chân lý. Sự hiễu biết của con người rất phiến diện, giống như cái nhìn của những ông thầy bói mù sờ voi: thấy một bộ phận của con voi thì tưởng con voi là như vậy, và chỉ như vậy không thể khác, vì thế không chịu nhận sự hiểu biết của người khác. Trong đời sống gia đình cũng thế, mỗi người có một cái nhìn khác nhau về sự vật, mỗi người nhìn về một khía cạnh. Sự vật không phải là chỉ một khía cạnh mà là tổng hợp các khía cạnh để làm nên sự vật, để sự vật phải là nó chứ không phải chỉ là như người ta nhìn. Muốn tránh được những cuộc cãi vã không cần thiết như truyện con Kỳ nhông, vợ chồng hãy nhường nhịn nhau, coi trọng nhau, đừng bảo thủ thì đời sống sẽ vui tươi, thuận hoà. Trong cách đối nhân xử thế, nhất là trong đời sống gia đình, hãy hành động theo tiêu chuẩn này: Ai nhất thì tôi thứ nhì, Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba. (Ca dao) KẾT LUẬN Để tránh những cuộc cãi vã vô ích trong gia đình, để cho bầu khí gia đình lúc nào cũng yên vui đầm ấm, không gì bằng đem lời Chúa sau đây ra suy niệm và thực hành trong đời sống vợ chồng: “Đàn ông trầm lặng sống với đàn bà lắm điều chẳng khác chi đdôi chân cụ già phải leo lên đồi cát” (Hc 25,20). “Lòng mến không giả hình giả bộ... biết coi trọng người khác hơn mình” (Rm 12,9-10). “Anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn, biết chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ. đại lượng. Hãy chịu đựng lẫn nhau, tha thứ cho nhau nếu ai có gì trách móc người kia” (Cl 3,12). Sau cùng hãy suy niệm và hát lên Kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi để cầu nguyện cho gia đình và coi như Kim chỉ nam cho cuộc sống: chính lúc quên mình là lúc tìm lại bản thân . Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt.
Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em HP73
1. “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lũ dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành”. (Lc 6,47-49 ; Mt 7,24-27). 2. “Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). II. TẢN MẠN VỀ NGÔI NHÀ. 1. Ngôi nhà và gia đình. Ngày nay kinh tế đang phát triển mạnh, người ta làm ăn khấm khá hơn, có của ăn của để, có của tích lũy nên người ta đua nhau làm nhà vì “có an cư thì mới lập nghiệp”. Ngày nay xây dựng được một ngôi nhà thì dễ vì có sẵn vật liệu, nhưng ngày xưa thì rất khó, muốn làm một ngôi nhà thì phải tích trữ, chuẩn bị trong nhiêu năm. Vì thế người ta mới nói: Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà, Trong ba việc ấy thật là khó thay. (Ca dao) Việc xây dựng “Mái ấm gia đình” cũng quan trọng và khó khăn như xây dựng một ngôi nhà vì nhiều khi người ta đã xây nhà ngay trên mặt đất (x. Lc 6, 49), nên việc xây dựng một gia đình còn quan trọng hơn nhiều. Muốn xây dựng một gia đình Kitô giáo theo một mô hình mà Hội thánh đã chỉ vẽ ra qua các văn kiện của Tòa thánh, qua giáo huấn của giáo quyền, cần phải tìm học trước một cách sâu rộng trước khi lập gia đình vì đó là cẩm nang cần thiết cho các Kitô hữu. 2. Sự sắp xếp hài hòa. Không phải xây nhà thế nào cũng được nhưng cũng phải theo nguyên tắc của việc thiết kế, một căn nhà phải được bố trí thế nào cho hợp tình hợp lý để tạo nên vẻ đẹp hài hòa và tiện dụng, không để cho người ta dị nghị, chê cười ví dụ xây dựng một ngôi nhà mà để cho khói bếp bốc lên nhà trên làm cho mọi người nghẹt thở. Căn nhà cũng phải theo hướng mặt trời, hướng gió cho thuận lợi, nhất là ở ngoài Bắc với khí hậu khắc nghiệt, mùa hè thì nóng như thêu như đốt, mùa đông thì lạnh như cắt da cắt thịt, nên người ta mới truyền lại cho người khác kinh nghiệm khi xây nhà, cho bất cứ loại nhà nào: Lấy vợ đàn bà, Làm nhà hướng nam. Một kinh nghiệm làm nhà: làm nhà quay hướng nam để mùa hè hứng gió nam mát, mùa đông tránh được gió bắc lạnh. Lấy vợ thì dĩ nhiên là lấy vợ đàn bà, làm nhà thì dĩ nhiên thì phải làm trông về phía nam. Nhưng câu “Lấy vợ đàn bà” là người ta có ý khuyên: lấy vợ thì lấy người thật hiền hòa, nhu mì, duyên dáng vì có người đàn bà lại có tướng và tính tình như đàn ông (x. Hc 25,16). Vì thế, trước khi kết hôn phải nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng theo những nguyên tắc đã được học trong lớp giáo ly hôn nhân. Phải suy nghĩ đắn đo trước khi đi đến quyết định. Khi đã thành lập được một gia đình thì người ta phải cố gắng sống theo sự sắp xếp bình thường để mọi thành phần làm việc theo phận vụ của mình. 3. Sự phân công hợp lý. Công việc xây nhà cần có nhiều nguời, mỗi người một việc tùy khả năng chuyên môn, không pải ai cũng có thể làm được công việc của người khác. Xây dựng một gia đình là công việc của mọi thành phần trong gia đình. Lúc đầu chỉ có hai vợ chồng xây dựng nên nhưng mới có một ngôi nhà được bài trí đơn sơ, việc trang thí nội thất còn phải được tiếp tục. Như vậy có nghĩa là, khi kết hôn, người ta chưa có hạnh phúc ngay vì hạnh phúc không phải là cái gì tiền chế, Thiên Chúa không ban cho ngay, nhưng là một thứ hạnh phúc do hai người tạo nên. Đây là công việc chính yếu của vợ chồng, nhưng cũng cần phải có sự tham gia của con cái . Người ta nói: Đàn ông dựng nhà, Đàn bà xây tổ ấm. Xây dựng một ngôi nhà thì dễ nhưng muốn biến ngôi nhà này thành một tổ ấm thì rất khó. Nếu người ta nói “Đàn bà xây tổ ấm” là có ý nói lên sự quan trọng của người vợ trong việc tạo lập hạnh phúc cho gia đình. Không phải người chồng không quan trọng nhưng nhấn mạnh đến vai trò của người vợ vì người vợ thường được gọi là “nội tướng”. Hay chúng ta có thể ví gia đình là một xí nghiệp mà người chồng làm giám đốc, còn người vợ làm quản lý. Vai trò người quản lý rất quan trọng vì người giám đốc chỉ điều khiển tổng quát, còn người quản lý điều khiển nội bộ, phải quán xuyến mọi việc cũng như người nội tướng trong gia đình vậy. Nếu người giám đốc kiếm được một người quản lý giỏi và trung thành thì xí nghiệp phát triển mạnh, ngược lại, nếu người giám đốc dùng phải một tên quản lý tồi và bất trung thì xí nghiệp đó có thể đi đến chỗõ phá sản.. Người đàn bà phải là người quản lý giỏi và trung thành trong việc xây dựng gia đình (x. Cn 31,10-31). Vì thế người ta nói: Vào trong bếp biết nết đàn bà. Vào biếp thì biết người đàn bà có trung hậu đảm đang hay không vì nếu bếp ráp sạch sẽ, ngăn nắp thì biết đây là người vợ biết lo cho gia đình (x. Hc 26,16); ngược lại, bếp núc mất rật tự, lộn xộn, bẩn thỉu thì hiểu ngay là người vợ ít quan tâm tới gia đình. Do vậy người ta có thể nói:”hạnh phúc” gia đình phần lớn là do người vợ tạo ra. Ta hãy nghe một số danh nhân ca tụng các bà: “Nếu anh tìm thấy một gia đình hạnh phúc, anh nên tin rằng ở đó có một nguời đàn bà biết quên mình” (René Bazin). “Bí quyết hạnh phúc của đàn bà là tìm cái vui trong bổn phận” (Anton Tchekhov). “Công lao của người đàn bà là tề gia nột trợ, làm thế nào cho chồng được vui sướng” (Joseph de Maistre). 4. Ngôi nhà cần được có người ở. Mục đích xây dựng ngôi nhà là để ở, xây dựng một ngôi nhà rồi bỏ hoang là cả một sự vô lý. Nếu vì một lý do nào đó mà ngôi nhà bị bỏ trống không có người ở thì thật là hoang phí và cảnh vật trở nên tiêu điều, gây cho người ta có cảm giác sợ hãi. Truyện: Hai ngôi nhà ở đèo Đà lạt. Nếu chúng ta đi từ Kim phát lên Đà lạt, khi lên gần hết dốc, ta sẽ thấy ở bên tay phải có một ngôi nhà lầu bỏ trống. Đi thêm 100 mét nữa ta sẽ thấy phía bên trái có một căn nhà trệt bỏ hoang, tuy bên ngoài chưa đến nỗi hoang tàn, nhưng người ta cho biết là hiện không có ai ở. Tôi tò mò hỏi hành khách xem có sự gì xẩy ra thì người ta cho biết: nghe tin là ở trong có sự cố. Ban đêm có những hiện tượng khác thường, có người ban đêm ngủ trên giường mà sáng thức dậy thì thấy mình đang nằm ở dưới đất... Đây là hình ảnh một gia đình bị tan hoang, đang sống trong hoàn cảnh bi đát “Chồng ăn chả, vợ ăn nem”, để lại một đống đổ nát, để lại một đàn con nheo nhóc, không có ai chăm sóc bởi vì hai người đã thẳng thừng nói với nhau: Anh đi đường anh, Tôi đi đường tôi, Tình nghĩa đôi ta có thế thôi, (Thế Lữ) Giá trị của một ngôi nhà chính là được con người cư nghụ. Một mái nhà tranh nhưng đầy tiếng cười tiếng khóc của trẻ thơ vẫn đầm ấm hơn một dinh thự bỏ trống. Chúng ta có thể xác quyết rằng sự sinh sống, sự hiện diện, sự cư ngụ của con người trong căn nhà đã gìn giữ và bảo trì nó khỏi hư nát. Nhưng một khi con người bỏ đi, căn nhà sẽ trở nên tồi tàn. Sức mạnh, vẻ đẹp, sự linh động, sự tồn tại của ngôi nhà chính là được cư ngụ. Cũng giống như thế, đời sống của gia đình phải là một ngôi nhà được cư trú, được chiếm đoạt. Nhưng cư trú ở đây không có nghĩa là chất chứa những vật dụng lỉnh kỉnh. Sự đầm ấm của một ngôi nhà còn tùy thuộc ở sự sắp xếp, sự bài trí. Ngôi nhà càng lộn xộn, càng dơ bẩn, thì càng chật chội, càng nóng bức. Đời sống của gia đình có thể là một căn nhà đầy ắp, nhưng lại thiếu trật tự, thiếu ngăn nắp, thiếu sự hiện hữu linh động và những điều kiện tinh thần để bảo trì căn nhà đời sống của chúng ta. Ngôi nhà gia đình của chúng ta có thể là cao ốc với biết bao những tầng lầu của lo lắng, đau buồn, bận bịu và sợ hãi. Chúng ta chất chứa cho đời sống chúng ta đầy ắp, nhưng những chất chứa ấy chỉ làm cho ngôi nhà của chúng ta ra buồn thảm, nhơ bẩn. (Lẽ sống, 1991, tr 439-440) 4. Ngôi nhà phải ấm cúng. Ai cũng muốn có một “Mái ấm gia đình”. Căn nhà dù sang trọng mấy đi nữa cũng chỉ là căn nhà lạnh lẽo, hoang dại nếu không thổi vào đó hơi thở của tình yêu (x. St 2,7). Trong một căn nhà mà không có tình yêu thì đấy thật là một bãi tha ma lạnh lẽo vì nó lặng lẽ, không vang lên tiếng cười tiếng nói của người lớn cũng như tiếng khóc của trẻ thơ. Trong một căn nhà đơn sơ mà vợ chồng và con cái chung sống với nhau trên thuận dưới hoà, trong ấm ngoài êm thì vợ chồng đã biến ngôi nhà ấy thành một “Mái ấm gia đình” rồi, mọi sự đã được thỏa mãn, mọi người đã được hạnh phúc không cần mơ ước gì thêm: Yêu nhau chẳng quản chiếu giường, Mộ#t tầu lá chưối che sương cũng tình. (Ca dao) KẾT LUẬN Chúng ta hãy cầu chúc cho mọi người và cách riêng đôi tân hôn hôm nay được đầy ơn Chúa để xây dựng một “Mái ấm gia đình” theo như lời chào của Linh mục khi làm phép ngôi nhà mới: Anh chị em thân mến, Chúng ta hãy sốt sắng dâng lời nguyện lên Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra bởi Đức Trinh nữ Maria và ở cùng chúng ta. Xin Người đoái thương đến ở trong nhà này và hiện diện chúc phúc cho nhà này, xin Người ở đây với anh chị em, nuôi dưỡng tình bác ái và chia vui sẻ buồn với anh chị em. Còn anh chị em, hãy theo lời dạy và gương lành của Chúa Kitô: hãy làm cho nhà này thành nơi chan chứa tình bác ái, để từ nay hương thơm tốt lành của Chúa Kitô được lan tỏa ra khắp nơi. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Đà lạt.
25-8-2004
Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi HP74
1. Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). 2. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-14). II. ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG CẦN THIẾT. 1. Nơi con người. Khuynh hướng chung của con người là muốn có đời sống cộng đồng vì con người không những cần đến người khác để có cơm ăn áo mặc, , quần áo để mặc, nhà của để ở mà còn cần đến người khác để trao đổi tâm tình, để thỏa mãn nhu cầu tình cảm vì như Thomas Merton đã nói:”Không ai là một hòn đảo” (No man is an island). Ngày xưa triết gia Aristote định nghĩa homo est animal rationale: người là một con vật có lý trí, người ta chỉ chú ý đến yếu tố tinh thần để tìm ra sự khác biệt giữa con người và con vật. Ngày nay lại có# khuynh hướng đối nghịch lại, một số nhà xã hội học lại định nghĩa: Homo est animal sociale: người là con vật có xã hội tính. Định nghĩa như vậy là quá chú trọng đến xã hội tính mà coi nhẹ lý tính. Nhưng dù sao cũng nói lên rằng con người cần đến người khác để chia sẻ (x. Rm 12,15), để liên hệ có trước có sau: Người ta có cố có ông, Như cây có cội như sông có nguồn. (Ca dao) Nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, Giám mục Bossuet, xác nhận tư tưởng trên khi Ngài nói:”Chẳng có một người nào mà chẳng có tương quan với người khác”. 2. Nơi con vật. Không những chỉ có con người mới có nhu cầu sống cộng đồng mà cả giống vật cũng có nhu cầu ấy. Có những loài vật sống tập thể còn sống chặt chẽ hơn cả loài người, ví dụ đời sống của loài kiến, loài ong... Mọi thành phần trong cộng đồng ấy ra sức làm việc để phục vụ cho cộng đồng của mình theo sự phân công của cấp trên. Nếu giống vật còn cần đến đời sống cộng đồng thì con người tại sao không ? 3. Những khó khăn phát sinh. Người là con vật có lý tính và tự do, nên con người muốn hành động theo ý muốn riêng tư của mình. Mỗi người lại có những tính tình khác nhau, không ai giống ai vì bá nhân bá tính, như người ta hay nói chơi, nhưng lại có ý nghĩa: A di Đà Phật, mỗi người mỗi tật, Nam mô Bồ tát, mỗi người mỗi khác. Mỗi cá nhân phải sống trong tập thể thì tự do của cá nhân sẽ bị hạn chế giữa cá nhân này với cá nhân kia, giữa cá nhân với tập thể; do đó mới có sự xích mích, va chạm. III. ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG. 1. Cuộc sống phức tạp. Đây là một tập thể nhỏ, chỉ có vợ chồng với mấy đứa con, vậy mà cuộc sống chung lại trở nên rất phức tạp. Nếu không phức tạp thì tại sao người ta lại ra tòa xin ly dị nhiều như ngày nay ? Phải công nhận rằng cuộc sống trong gia đình nhỏ bé đó không thể nào tránh được hết những cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” vì mỗi người có tự do, có sở thích riêng đôi khi đối kháng nhau. Vợ chồng phải chấp nhận thực tế phũ phàng đó và phải tìm phương thế giải quyết những mâu thuẫn ấy, bằng không chiến tranh hoặc lớn hoặc nhỏ sẽ xẩy ra trong gia đình và cuộc chiến nào mà không để lại những hoang tàn đổ nát. 2. Phương thế làm cho đời sống hòa hợp. Cuộc sống vợ chồng không thể tránh được những va chạm xích mích, không thể tránh được những sự bất hoà ngấm ngầm hay bùng nổ., cách hay nhất vợ chồng có thể giải quyết được đó là CHỊU ĐỰNG. Chịu đựng đây không phải là sự dồn nén tiêu cực, nếu quá mức sẽ tức nước vỡ bờ, mà là một sự chịu đựng tích cực với ý nghĩa là cố nhịn để mọi sự sẽ qua đi một cách tốt đẹp bởi vì bĩ cực thái lai, sau cơn mưa thì trời lại sáng. Chịu đựng đây không phải là sự đầu hàng nhục nhã nhưng là một chiến thuật “lùi một bước để tiến ba bước”. Đây là học thuyết của Lão Tử: Thắng nhân giả, hữu lực, tự thắng giả, cường. Nhu thắng cang, nhược thắng cường. Thắng người là có sức, thắng mình là mạnh, nhu nhược lại thắng cương cường. Trong phép đấu tranh có hai cách: dùng cường cường chế cương cường, hoặc dùng nhu nhược chế cương cường. Phép cương chế cương là một phương pháp thô sơ tạm bợ, chỉ dùng trong những trường hợp bất đắc dĩ thôi vì một khi đã dùng cường lực chế trị cường lực rồi, dù cường lực của đối phương tan rã vẫn còn lưu lại cái thù oán đến mực mùi rồi. Trong phép võ JUDO của Nhật đã có nguyên tắc “nhượng bộ để chiến thắng” (céder pour vaincre). Nhận xét ở đời, ta thấy biết bao cái mềm thì còn tồn tại mà cái cứng rắn thì mất ! Cái đòn gánh không bao giờ cứng quá mà phải mềm một chút mới dễ gánh và không bị gẫy. Cái lò xo có sức chcịu đựng được sự dồn ép mà không gẫy, khi hết sự dồn ép thì lại giãn ra như thường. Văn Vương Trung nói:”Lửa bốc lên cao, nước chảy xuống thác, thế mà bao giờ lửa cũng thua nước”. Người ta sợ lửa hơn sợ nước, thế mà chết cháy ít, chết đuối vẫn nhiều. Nước mát, lửa nóng, thế mà lửa vẫn sợ nước vì người ta đã lấy nước trị lửa trong các đám cháy. Vì thế đức tính hiền lành và nhẫn nhục chịu đựng được người dời ca tụng: Chữ nhẫn là chữ tương vàng, Ai mà nhẫn được thì càng cống lâu. Tại sao người ta đã ly thân hay còn tệ hơn nữa là ly dị ? Đó là vì vợ chồng không nhịn nhục chịu đựng được những nết xấu của nhau, không bao giờ nghĩ đến những ích lợi của sự chịu đựng như người ta nói:”MỘT SỰ NHỊN LÀ CHÍN SỰ LÀNH”(tục ngữ): Có nghĩa là nhịn được một việc thì chín việc khác được yên lành. Nếu không nhịn được một việc, thì việc đó sẽ sinh ra nhiều việc lôi thôi. Chín sự lành là nhiều sự lành chứ không nhất thiết là phải chín sự. Đại ý câu tục ngữ này là khuyên người ta nên nhịn nhục để khỏi sinh chuyện lôi thôi khác. 3. Đũa đã thành đôi. Khi người nam và người nữ chấp nhận nhau trong đời sống hôn nhân, họ đã chính thức thành vợ chồng; và từ đó, theo như lời Chúa nói “Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt” (Mc 10,8), và Chúa còn dạy thêm “Sự gì Chúa đã kết hợp loài người không được phép phân ly”(Mc 10,9) . Theo như lời Chúa dạy từ nay vợ chồng không được lôi nhau ra tòa, không được xẩy ra cảnh: Đồng tiền chiếc đũa chia ly, Thiếp đi theo thiếp, chàng đi đường chàng. (Ca dao) Vì thế, từ nay họ phải sống với nhau như đũa có đôi, thân xác của chồng là của vợ, và thân xác của vợ cũng là của chồng vì họ đã trở nên một xương một thịt để từ nay trở đi họ có thể gọi nhau là “mình ơi”. Về vấn đề này, thánh Phaolô nói rất có lý:”Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình (Ep 5,28b-29). Truyện vui: Anh cũng là của tôi. Hai vợ chồng cãi nhau, chồng tức quá hét lên: - Cô cút đi, mang theo tất cả những gì là của cô ! Vợ vừa khóc vừa thu xếp quần áo, và lấy một chiếc bao tải lớn úp vào người chồng bảo: - Anh chui vào đây! Chồng hoảng quá bảo: - Cô làm gì vậy ? Vợ thẳng giọng nói: - Anh cũng là của tôi, chui vào ngay ! Để kết luận, chúng ta hãy suy niệm một đoạn thơ của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ. Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh ... Người chồng phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ# là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ, trái lại người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thề Người” (Ep 5,2a,25,28-30). Đấy là lời thánh Phaolô khuyên người chồng hãy yêu thương vợ như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh Nhưng ngược lại, Ngài cũng khuyên người vợ phải yêu thương chồng như Hội thánh phải yêu mến Đức Kitô và trung thành với Ngài. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Đà lạt.
Yêu là trao ban I. LỜI CHÚA: Ga 3,16-17; 1Cr 13,7.
Trong việc Ngôi Hai xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, tình yêu của Thiên Chúa Cha HP75
Trong việc Ngôi Hai xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại đã được thánh Gioan tông đồ mô tả lại trong Phúc âm: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngừoi xuống thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,16-17). Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Người đã làm mọi sự cho nhân loại, Người không tiếc gì với chúng ta đến nỗi đã trao ban cà Con Một của Người để cứu chuộc thế gian. Do đó, ta có thể nói như nhiều người thường nghĩ: “Yêu là trao ban, là dâng hiến”. II. TÌNH YÊU LÀ GÌ ? 1. Không định nghĩa được. Cho tới nay chưa ai định nghĩa được tình yêu một cách thỏa đáng. Càng nói càng khó hiểu vì nó chỉ có thể để cảm nghiệm, chứ không phải để nói: Yêu là khó nói cho xuôi, Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh, (Hồ Dzếnh) 2. Thánh Gioan tông đồ. Ngài chỉ có thể nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16). 3. Thánh Phaolô tông đồ. Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Ngài nói:”Yêu là CHO tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7) 4. Một số bạn trẻ. Các bạn trẻ định nghĩa tình yêu về nhiều phương diện, nhưng có một câu định nghĩa mà nhiều bạn rất thích:”Yêu là DÂNG HIẾN”. III. YÊU LÀ DÂNG HIẾN. 1. Trong văn chương Việt nam. Tư tưởng này rất quen thuộc và đã có trong nền văn chương Việt nam mà hầu như ai cũng đã thuộc lòng hay ít ra đã được nghe: Yêu nhau cởi áo cho nhau, Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay. (Ca dao) hoặc: Yêu nhau xé lụa may quần Ghét nhau kể nợ kể nần nhau ra. (Ca dao) 2. Phải chăng một cuộc trao đổi ? Tình yêu không bao giờ được so đo tính toán hơn thiệt mà chỉ nhằm hạnh phúc cho người mình yêu. Vì thế, tình yêu không phải là một cuộc trao đổi có tính toán sòng phẳng, mà là một sự chia sẻ vô vị lợi; hay nói đúng hơn, là một sự trao tặng, một sự dâng hiến: “Tình yêu đích thực sở dĩ nhận được là nhờ nơi dấu hiệu không bao giờ sai lầm này: nó dâng tặng mà không bao giờ mong nhận được cái gì cả”. (Roger Godel) 3. Giá trị của quà tặng. Món quà trao tặng càng có giá trị khi nó động chạm đến thân mình, trường hợp bà góa trong Phúc âm chỉ bỏ vào hòm tiền có ¼ xu đã chúng minh điều đó: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”. (Chân phước Têrêsa Calcutta) Truyện: cách hiến dâng. Chuyện kể rằng: ông kia có nuôi một con chó, một con gà và một con heo. Con chó nói:”Mỗi sáng tao sẽ kêu gâu gâu để đánh thức ông chủ dậy”. Con gà nói:”Còn tao sẽ đẻ hai quả trứng và làm ốp-la cho ông chủ”. Con heo nói:”Còn tao, tao sẽ nướng thịt ba rọi cho ông chủ ăn”. Qua câu chuyện đó chúng ta thấy: con chó kêu gâu gâu, nó hiến dâng bằng tiếng kêu ; con gà để trứng, nó dâng hiến một phần của nó ; con heo nướng thịt ba rọi: nó sẽ chết vì nó hiến dâng tất cả. Dâng hiến bằng lời nói, bằng một phần mình, hay bằng tất cả con người là ba cách trong nhiều cách dâng hiến. Mức hiến dâng tột độ vẫn là dám chết vì yêu như Chúa Giêsu đã dạy và đã làm:”Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13). 4. Vợ chồng phải biết trao tặng. Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu vị tha, mà tình yêu vị tha là cho đi không lấy lại. Tình yêu cao qúi này khiến kẻ mang nó sẵn sàng hy sinh tất cả để tạo hạnh phúc cho người yêu. Tuy nhiên hạnh phúc hôn nhân không phải là mục đích ta tìm kiếm, mà là kết quả của quá trình sống. Nó còn là đường đi, là cách sống dâng hiến và hy sinh cho nhau, hạnh phúc sẽ tìm đến ta. Biết trao tặng là biết chia sẻ với nhau như Alain nói:
I. LỜI CHÚA: Mt 5,13-37. Hãy nghe và suy niệm Lời Chúa:”Về lời ăn tiếng nói, có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt đặt truyện là do lòng tà mà ra”(Mt 5,37)..
Chúa dạy ta hãy tôn trọng sự thật, có thì nói có, không thì nói không, chẳng phải thề thốt gì HP76
Chúa dạy ta hãy tôn trọng sự thật, có thì nói có, không thì nói không, chẳng phải thề thốt gì cả. Nhưng con người yếu đuối hay thay lòng đổi dạ nên phải đặt ra thề nguyền để làm bảo chứng cho lòng trung thành như giao ước, khế ước , giao kèo, hôn ước. Chính dân Israel đã ký giao ước với Thiên Chúa ở núi Sinai, thế mà đã thay lòng đổi dạ, đã bao nhiêu lần bội ước: phản bội Chúa, nhưng Chúa vẫn thương ban ơn tha thứ. Do đó, chúng ta mới có Thánh kinh Cựu ước và Tân ước. II. THỀ NGUYỀN TRONG ĐỜI SỐNG. 1. Trong thực tế cuộc sống. Trong khi giao tiếp với nhau, người ta luôn thề nguyền bằng lời nói, bằng chữ viết hay bằng cử chỉ như véo tay... để nói lên lòng trung tín của người ta. Nếu không có lời thề nguyền như vậy, người ta thấy không yên tâm mặc dầu biết trước lời thề nguyền ấy có thể bị hủy bỏ do tự nguyện hay bị phản bội. Có xã hội nào mà không có thề nguyền ? Ngay trẻ con cũng có. 2. Lý do đưa đến thề nguyền. a) Bản tính con người. Con người đâu có phải là thần thánh, con người yếu đuối như cây sậy trước gió, hay sa ngã. Chính vì vậy mà nhà đại tư tưởng Blaise Pascal đã nói:”Con người không phải là thiên thần, cũng không phải là con vật, và ai muốn là thiên thần lại là con vật”. b) Trong công việc làm ăn. Trong công việc làm ăn buôn bán, người ta hay thiếu chữ “tín” nên không thiếu gì những công ty vỡ nợ, những hợp đồng bị bể tung, những con nợ ăn quịt, tình trạng “xù đẹp” là rất phổ biến. c) Trong đường tình. Người ta yêu nhau, chọn nhau làm vợ làm chồng, người ta thề nguyền với nhau trọn nghĩa sắt cầm nhưng không thiếu gì những cuộc tình giữa đường đứt gánh do phản bội. Họ coi lời thề nguyện như trò chơi, chẳng có giá trị gì. Thi sĩ Nhất Tuấn đã nói thẳng thừng không ái ngại: Thôi đừng kể chuyện ngày xưa, Bởi vì đoạn kết bài thơ có rồi. Giận hờn thì cũng đành thôi, Dại gì giữ mãi một lời thề suông. Trước khi kết hôn, ai không cảm thấy lo lắng cho tương lai ? Không biết người bạn đời của mình có chung thủy không ? Khi đã tìm được người yêu, muốn trao thân gửi phận cho họ, cô gái dặn dò người tình của mình một cách chân tình: Anh về em nắm cổ tay Em dặn câu này anh chớ có quên: Đôi ta đã trót lời nguyền Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng. (Ca dao) III. CÓ NÊN THỀ NGUYỀN KHÔNG ? Có một cô bé gửi cho anh Bồ câu một câu hỏi thế này:”Em có đọc một câu danh ngôn: “Những lời thề của ái tình không đến tại Thượng Đế”. Vậy chẳng lẽ tất cả mọi lời thề thốt trong tình yêu đều “gỉa dối” hết sao anh” ? Anh Bồ câu đã trả lời:”Không chỉ ở phương Tây, người Phương Đông cũng hay chế diễu sự thề thốt. Dân gian bảo: “Lời thề cá trê chui ống” cùng với ý nghĩa na ná như vậy. Ở đây ta không nên xét đến những lời thề giả dối, nghĩa là những lời thề mà người nói ra biết chắc là mình sẽ không bao giờ thực hiện. Đó là lời thề của những hạng người ưa “nuốt lời” hay còn gọi là “xù đẹp” ! Nhưng ngay cả những lời thề nghiêm túc và chân thành nhất cũng chỉ có ý nghĩa nêu bật quyết tâm của người thề trong lúc đó mà thôi. Thề thốt thì dễ, nhưng gìn giữ và thực hiện đúng đắn lời thề thì không phải ai cũng làm được trong đời sống, nhất là đời sống tình cảm, không ai có thể nói trước được điều gì. Vì vậy, chúng ta sống và chủ yếu là dựa vào niềm tin chứ không nên dựa vào sự bảo hiểm của bất cứ một lời thề thốt hay hứa hẹn ngọt ngào nào. (Anh Bồ Câu, Nói chuyện... Phượng Hồng, tr 22-23) Trong nghi thức Hôn phối, anh chị phải nói lên quyết tâm của mình, chọn nhau làm vợ làm chồng và còn phải thề hứa, thề một cách công khai và trịnh trọng trước mặt vị đại diện Giáo hội, trước mặt hai người làm chứng và cộng đồng dân Chúa lời cam kết của mình. Ví dụ: “Tôi Giuse Nguyễn văn Tèo nhận em Maria Nguyễn thị Tẽo làm vợ và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em...” Đây không phải là lời thề suông như thi sĩ Nhất Tuấn đã nói mà đây là một lời thề trọng thể có ý thức và có chất lượng. Lời thề này có tính cách vĩnh viễn mà không ai có thể tháo gỡ được như lời Chúa Giêsu đã nói:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp loài người không được phân ly”(Mt 19.6). KẾT LUẬN Xin Chúa cho chúng ta được giữ lòng chung thủy trong đời sống hôn nhân. Người ta đã khuyên răn và cảnh cáo mọi người về điểm nay: Nói lời phải giữ lấy lời, Đừng như con bướm đậu rồi lại bay. (Ca dao) Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người không bao giờ thất hứa, Người thực hiện tất cả những gì Người đã hứa. Theo gương Mẹ Maria mà bước đi trong hành trình đức tin như lời bà Elizabeth đã nói với Mẹ Maria trong lần viếng thăm người chị họ:”Phúc cho em là người đã tin rằng lời Chúa hứa sẽ được thực hiện”. Thánh Phaolô cũng nói với các tín hữu Côrintô về sự trung tín của Thiên Chúa:”Thiên Chúa là Đấng trung tín, nhờ Người anh em được kết hợp cùng Con Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,3). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Kinh Thánh cho biết: sau khi đã dựng nên vũ trụ vạn vật thì Thiên Chúa dựng nên con người và HP77
Kinh Thánh cho biết: sau khi đã dựng nên vũ trụ vạn vật thì Thiên Chúa dựng nên con người và trao cho con người quản lý tất cả. Nhưng Thiên Chúa nhận thấy con người ở một mình không tốt nên đã quyết định tạo dựng cho nó một người trợ tá tương xứng với nó {x. St 2,18). Con người đầu tiên đó là Adam. Thiên Chúa đã rút một cái xuơng sườn của Adam ra, lắp thịt thế vào. Chính từ cái xương sườn rút ra của Adam, làm thành một người nữ là bà Evà, và Ngài đã dẫn bà này đến với ông (x. St 2,21-22). Thiên Chúa đã trao bà Evà cho ông Ađam để họ trở nên một đôi vợ chồng đầu tiên của nhân loại. Sau này, con cháu của ông bà cứ theo gương ấy mà cưới vợ gả chồng cho con cháu sinh sản ra cho đầy mặt đất. Và Thiên Chúa chúc phúc cho đôi hôn phối đầu tiên cũng như của con cháu sau này. II. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG. Kinh Thánh nói:”Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Cả hai sẽ trở nên một xương một thịt nghĩa là chỉ còn có một người, nhưng như ông Mencken nói:”Khi một người đàn ông và một người đàn bà lấy nhau, họ chỉ con là một người, cái khó đầu tiên là quyết định người nào”. Trong con người này vừa có vợ, vừa có chồng, mỗi người chỉ có một nửa . Vì thế chồng mới gọi vợ là MÌNH ƠI , và vợ cũng gọi chồng là mình ơi. Thi sĩ Hàn mặc Tử đã nhận ra thực tại này nên mới nói: Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hôn tôi bỗng dại khờ. Ta đã biết trong con người này, mỗi người chỉ còn có một nửa, nhưng trớ trêu thay, nửa nào cũng muốn chiếm phần chủ động, muốn điều khiển tất cả, do đó mới có sự cạnh tranh, tranh chấp và đưa đến sự bất hoà. Người ta thường nói: bá nhân bá tính, mỗi người có một tính tình riêng, một sở thích riêng, một ước vọng riêng... và ai cũng muốn người khác phải phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình. Không được như thế thì người ta bất mãn. Nếu không biết nhường nhịn nhau, không biết dung hoà thì có thể đưa đến chiến tranh ngay trong gia đình. Trên thế giới lúc nào cũng có chiến tranh, không ở nơi này thì nơi khác, không lớn thì nhỏ. Chiến tranh có thể là chiến tranh nóng hay chiến tranh lạnh. Chiến tranh lớn là chiến tranh bùng nổ giữa hai phe với đủ thứ vũ khí giết người, gây chết chóc, đổ vỡ, gây thiệt hại đáng kể về người và của. Còn chiến tranh lạnh là một cuộc chiến âm thầm, căng thẳng, lạnh lùng, đầy hận thù, người ta tìm đủ mọi cách làm hại nhau nhưng không ra mặt. Trong gia đình cũng có chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh. Trong cuộc sống hằng ngày, làm sao vợ chồng có thể tránh được những sự va chạm, những bất hòa ? Bất hòa có thể là ngấm ngầm hoặc bùng nổ. Bất hoà ngấm ngầm là thời kỳ chiến tranh lạnh, vợ chồng gầm gừ nhau, ăn miếng trả miếng, ít trao đổi chia sẻ cho nhau, bầu khí gia đình trở nên lạnh lẽo nhưng lại căng thẳng khẩn trương. Nếu hai người không chịu được nhau nữa thì sự bất hoà bùng nổ thành chiến tranh nóng: vợ chồng có thể cãi cọ nhau rùm beng, đập phá và có thể đánh đấm nhau. Ông bà tổ tiên chúng ta đã có kinh nghiệm về cảnh sống gia đình nên đã để lại những lời khuyên rất có ý nghĩa và đầy kinh nghiệm trong ca dao tục ngữ, như : Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê. (Ca dao) Trong một xã hội theo phụ hệ thì vai trò của người đàn ông rất lớn đến nỗi người ta bắt mọi người phải theo chủ trương cứng rắn này là “Phu xướng phụ tùy”, người chồng nói ra thì người vợ phải nghe, nếu không nghe thì sẽ có biện pháp mạnh như: Chồng giận thì vợ phải lùi, Chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng. (Ca dao) Những lời khuyên bắt buộc trên đây rất có giá trị trong xã hội ta ngày xưa. Nếu người vợ nào theo đúng được lời khuyên ấy thì được thiên hạ ca tụng là “người vợ hiền”. Nhưng quan niệm ấy không còn phù hợp cho xã hội ta ngày nay nữa. Chủ trương “Phu xướng phụ tùy” đã trở nên lỗi thời trong xã hội ta và nhất là của Tây phương ngày nay vì không còn cái quan niệm cũ rích là “Nam trọng nữ khinh” nữa, vì nam nữ được bình quyền, người vợ cũng được bình đẳng với chồng, có quyền lợi như chồng. Trong lời chúc hôn của lễ Hôn phối, Hội thánh cũng chủ trương là người chồng phải yêu thương và kính trọng người vợ để người vợ được bình đẳng với mình: ”Xin cho anh biết trọn niềm tin tưởng nơi chị, nhìn nhận chị là NGƯỜI BẠN BÌNH ĐẲNG, vã cùng được thùa hưởng sự sống là một hồng ân Chúa ban. Xin cho anh biết luôn luôn kính trọng và yêu thương chị như Đức Kitô yêu thương Hội thánh”. Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh... Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng”(Ep 5,25.33). Trong đời sống hằng ngày ta thấy có những người biết thương yêu nhường nhịn vợ như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ như tấm gương sau đây: Truyện: Bảng kết tội nhau Tạp chí Reader’s Digest số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng một chuyện ngắn, nhưng đầy ý nghĩa về gia đình: Đôi vợ chồng đã nhiều lần cãi nhau và lần này, đang lúc hai người cãi nhau hăng say thì người chồng đề nghị với vợ:”Này, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Mỗi người hãy lấy giấy viết ra tất cả những lỗi lầm, những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau”. Người vợ đồng ý. Người chồng cầm lấy tờ giấy, nhìn người vợ và cúi mặt xuống viết một câu. Người vợ thấy chồng mình bắt đầu viết, liền hối hả viết liên hồi, dường như có ý tranh với chồng để kể ra nhiều tật xấu hơn. Người chồng chỉ viết một câu rồi dừng lại nhìn vợ. Sau vài phút, trang giấy của người vợ đầy những dòng chữ kể ra tật xấu của người chồng và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết nhiều hơn. Đến lúc không còn gì để viết nữa, họ trao cho nhau bảng kể tội của nhau. Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng nét mặt người vợ bỗng đổi vì xúc động. Bà vội vã đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng và có thái độ làm hòa ngay. Trong tờ giấy của người chồng bà chỉ đọc được có một câu duy nhất: ANH YÊU EM. (R. Veritas, Lẽ sống, tr 280) III. HOÀ GIẢI TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH. Ở trên chúng ta đã nói: nếu vợ chồng không biết nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ trở nên bãi chiến trường đầy máu lửa. Sau cuộc chiến thì sẽ có hư hỏng, đổ nát, thiệt hại mà có khi không thể có gì bù đắp lại: tình yêu vơi nhạt đi hoặc hôn nhân bị tan vỡ. Kinh nghiệm cho hay: trên thế giới có biết bao cuộc chiến, nhưng hầu hết được kết thúc bằng thuơng thuyết, bằng hoà đàm. Hai bên phải ngồi lại với nhau, cùng thảo luận, đưa ra những yêu sách và cùng nhau giải quyết, có khi cuộc hoà đàm phải kéo dài trong nhiều năm. Trong cuộc chiến gia đình cũng vậy, vợ chồng phải hoà giải với nhau bằng cách ngồi lại để tìm hiểu nhau, tìm ra đâu là sự thật, chia sẻ tâm tình với nhau, và phải luôn luôn nắm giữ nguyên tắc này: Tránh voi chẳng xấu mặt nào (tục ngữ) Vợ chồng nhường nhịn nhau thì chẳng ai cười vì người ta thường nghĩ “nhịn mày tốt tao”, trái lại nó còn là bông hoa tươi thắm phô sắc cho thiên hạ coi. Người ta nói: nhịn nhục ! Đúng vậy, đã nhịn thì phải nhục, mà đón nhận cái nhục có ý thức nghĩa là để cho gia dình được êm ấm thì ai dám khinh ? Theo tôi nghĩ, cuộc hoà giải giữa vợ chồng để chấm dứt chiến tranh nên được diễn ra trong giờ kinh tối. Lúc này công việc đã được tạm ổn, trong bầu khí yên tĩnh, vợ chồng cùng con cái quây quần bên nhau dâng lên Chúa và Đức Mẹ những lời cầu nguyện sốt sắng, xin các Ngài phù hộ để vợ chồng được thương yêu nhau, bỏ đi tất cả những xích mích, va chạm trong cuộc sống hằng ngày, chắc chắn các Ngài sẽ hoà giải cho vợ chồng Vợ chồng hãy cầu nguyện trong tin tưởng, vì Chúa đã phán:”Ở đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện nhân danh Ta thì Ta sẽ ở giữa”. Chúa hiện diện đặc biệt trong gia đình và đặc biệt giữa vợ chồng đang cầu nguyện thì chắc chắn cuộc hoà giải sẽ thành công, dựa vào lời Chúa hứa:”Hãy xin thì sẽ được”. Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa. Ngài là người Cha nhân lành luôn thương yêu HP78
Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa. Ngài là người Cha nhân lành luôn thương yêu, săn sóc và giúp đỡ con cái. Có người cha nào mà không thương con cái mình, không lo cho con cái những điều cần thiết, nhất là khi nó xin những điều cần thiết cho bản thân nó. Thiên Chúa là Cha nhân lành quan phòng lo lắng cho con cái, cung cấp nững điều cần thiết cho con cái nhất là khi nó xin những ơn gì thích hợp. Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy vững lòng tin vào Thiên Chúa khi cầu nguyện:”Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ được mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 12,7-8). Nhưng muốn cho lời cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận, chúng ta phải có lòng quảng đại với anh em mình. Chúng ta cư xử với anh em thế nào thì Chúa cũng xử lại như vậy. Và đây là khuôn vàng thước ngọc cho lời cầu xin của chúng ta do Chúa Giêsu đã dạy:”Vậy tất cả những gì chúng con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con cũng hãy làm cho người ta, vì Luật của Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó “(Mt, 12,12). Lập gia đình là một việc rất quan trọng, đây la khúc quặt của cuộc đời, nó liên quan đến cả cuộc sống. Ai không lo lắng trước công việc quan trọng này ? Chúng ta vui sướng vì có Chúa cùng lo với ta vì Chúa bảo:”Cứ xin thì sẽ được”. Vì vậy chúng ta phải cầu xin Chúa rất nhiều trong công việc này, như người ta nói “ Hãy cầu nguyện một lần trước khi lên đường, Hãy cầu nguyện hai lần trước khi ra khơi, Hãy cầu nguyện ba lần trước khi lập gia đình. Chúng ta muốn có ngay một gia đình hạnh phúc, nhưng Chúa có ban ngay cho không ? Chắc chắn không bao giờ có ! Chúa chỉ ban cho ta mọi phương tiện cần thiết để thành lập gia đình hạnh phuc thôi, còn xây dựng thế nào là do chúng ta quyết định. Chúng ta có thể ví gia đình như một ngôi nhà, Chúa chỉ ban cho ta mọi vật liệu cần thiết, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng ta xây dựng, còn ngôi nhà đẹp xấu thế nào thì tùy nơi hai vợ chồng. Trong việc xây dựng mái ấm gia đình, không phải mọi việc đều trôi chảy vì mỗi người mỗi tính, không ai giống ai nên việc xây dựng s4 không tránh được những sự khó khăn. Không ai là con người hoàn hảo, không ai có thể làm hài lòng được mọi người, không thể tìm đâu được con người hoàn toàn theo ý mình. Nên mỗi người phải tập bỏ ý riêng để cho việc xây dựng gia đình được dễ dàng và chắc chắn sẽ tiến tơi hạnh phúc theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:”Tất cả những gì chúng con muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Mt 12,12).. II. NHÂN VÔ THẬP TOÀN. 1. Ai là người hoàn hảo ? Không ai dám xưng mình là người hoàn hảo, bởi vì ai cũng có tội, ai cũng có lỗi hay ít ra một khuyết điểm nào đó, hoặc lớn hoặc nhỏ. Đã là có khuyết điểm thì không thể là người hoàn hảo được, chỉ duy Thiên Chúa mới là Đấng hoàn hảo. Thánh Gioan tông đồ đã xác minh điều đó:”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở trong họ “(1Ga 1,10). Ông Elbert Hubbard nói thẳng thắn rằng:”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt quá thời gian ấy”. 2. Ai hoàn hảo làm vừa lòng mọi người ? Chúng ta không thể tìm thấy trong xã hội một mẫu người nào hoàn thiện để có thể làm vừa lòng mọi người. Chính Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, một khuôn mẫu tuyệt vời cho mọi người bắt chước, thế mà người ta còn kết án đủ thứ tội và sau cùng đóng đinh vào thập giá. Con người chúng ta, theo tư tưởng của Blaise Pascal, yếu đuối như cây sậy trước gió, ai dám cho mình là hoàn thiện ? Người Việt nam chúng ta đã có kinh nghiệm này: không bao giờ người ta hài lòng với một mẫu người nào, vì bá nhân bá tính, mỗi người thích một cái, mỗi người đánh giá một cách. Kinh nghiệm này đã được gói ghém trong câu ca dao quen thuộc: Ở sao cho vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn, Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra. (Ca dao) 3. Tìm đâu ra một người hoàn hảo ? Mọi người và cách riêng đôi trai gái muốn lập gia đình, ai cũng muốn cho mình chọn được một người bạn đời hoàn hảo. Nhưng kiếm đâu ra con nguời đó ? Nếu may ra kiếm được một người xem ra tương đối là một con nguời lý tưởng chứ chưa dám nói là con người hoàn hảo, thì về phía mình, mình đã trở nên người lý tưởng đối với người mà mình đang tìm kiếm chưa ? Truyện: đi tìm con người hoàn hảo. Theo một cổ truyện của người Hồi giáo, thi Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi được hỏi lý do tại sao không bao giờ lập gia đình. Nasruddin đã giải thích như sau:”Suốt cả tuổi thanh niên, tôi đã dành trọn thời giờ để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đô của Ai cập, tôi đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, với đôi mắt đen ngời như hạt oliu. Đẹp và thông minh, nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu dàng chút nào. Tôi đành bỏ Cairo để đến Baghdad, thủ đô Irắc, để may tìm ra người đàn bà lý tưởng tôi hằng mơ ước. Tại đây, tôi đã tìm được một người đàn bà hoàn hảo như tôi mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh và cũng có lòng quảng đại nữa. Nhưng chỉ có điều là làm sao chúng tôi không bao giờ có đồng quan điểm với nhau về bất cứ điều gì. Hết người đàn bà này đến người đàn b# khác: người được điều này, người thiếu điều kia. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được người lý tưởng cho cuộc đời. Thế rồi, một hôm tôi gặp được nàng, người đàn bà cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức tính mà tôi hằng mong ước, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa quảng đại tử tế, nàng đúng là người đàn bà hoàn hảo. Nhưng cuối cùng, tôi đành phải quyết ở độc thân suốt đời. Các bạn có biết tại sao không ? Nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông hoàn hảo. Và tôi đã được nàng chấm như một người đàn ông còn quá nhiều thiếu sót. Chàng Nasruddin suốt đời sống độc thân trong câu truyện trên đây đã quên một trong những định luật căn bản nhất của cuộc sống, đó là “Định luật thích nghi”. Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với ta, thì chính chúng ta phải là người sống thích nghi với người khác và cuộc sống. Người đàn ông trong câu truyện đã tìm được người đàn bà lý tưởng, nhưng chỉ tiếc rằng ông chưa biết trở nên người đàn ông lý tưởng để có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà ấy. 4. Giải pháp khả thi. Khó mà thay đổi được lòng người vì nó ở ngoài mình, mình không thể điều khiển được nó, chi bằng hãy thay đổi chính mình cho phù hợp với người khác. Thay đổi con người của mình là phải biết thích nghi với hoàn cảnh, với người khác theo phương châm mà Chúa Giêsu đã đề ra:”Sự gì con không muốn người làm cho mình thì đừng làm cho người ta”(Mt ) Phương châm mà Chúa Giêsu đã đề ra cũng giống phương châm mà Đức Khổng Tử đã dạy các môn sinh của ông:”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: cái gì mình không muốn thì dừng làm cho người ta. Hay Đức Khổng Tử còn nói một câu khác có tinh cách tích cực hơn: “Kỷ dục lập nhi lập nhân ; kỷ dục đạt nhi đạt nhân” nghĩa là mình muốn làm gì hay được gì thì cũng muốn như vậy cho người ta. Khi kết hôn, ai cũng muốn chọn cho mình một người bạn đời thật hoàn hảo, nhưng trong thực tế, kiếm đâu ra người hoàn hảo như lòng mong ước ? Chỉ còn một cách là kiếm được người mình cho là tương đối tốt lành, rồi sau đó, hãy bằng lòng với hoàn cảnh của mình, cố gắng ép mình vào khuôn khổ chung, dung hòa tư tưởng và việc làm của mình với người khác, đặc biệt là với vợ chồng, để tạo nên một mẫu số chung là sự hòa hợp trong đời sống gia đình. Nhiều khi vợ chồng đứng núi nọ trông núi kia , nhưng khi va vào thực tế thì mới thấy cái nhìn của mình sai lạc và tiếc rẻ cho tình trạng trước kia của mình. Đúng là: Tránh thằng một chai, Gặp thằng hai lọ. Hãy suy niệm lại lời thánh Phalô tông đồ gửi cho tín hữu Cô-lô-xê:”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy CHỊU ĐỰNG và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13). Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt
Khi suy niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta thấy chỉ có một Thiên Chúa và Thiên Chúa có Ba HP79
Khi suy niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta thấy chỉ có một Thiên Chúa và Thiên Chúa có Ba Ngôi vị riêng biệt là Cha và Con và Thánh Thần. Ba Ngôi có cùng một bản tính, uy quyền ngang nhau nhưng cả Ba Ngôi chỉ có một đời sống duy nhất là đời sống Thiên Chúa. Công việc của mỗi Ngôi vị khác nhau nhưng đều qui về một Thiên Chúa duy nhất. Đây là hình ảnh tuyệt đẹp và hoàn hảo nhất của đời sống chung và là mẫu gương cho đời sống cộng đoàn. Thánh Kinh Cượu ước cũng ca tụng đời sống cộng đoàn khi mọi người xum họp lại trong tình yêu thương hòa hợp theo mẫu gương Chúa Ba Ngôi: Xinh thay là cảnh anh em Cùng nhau vui sống dịu êm một nhà. (Tv 133, 1) Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài phải sống hòa hợp, nhường nhịn nhau để làm nên một cộng đoàn hòa điệu nhịp nhàng tràn đầy yêu thương. Ngài khuyên mọi người hãy học đòi bắt chước Ngài mà sống hoà hợp với nhau khi Ngài nói:”Hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chúa Giêsu đôi lúc phải có thái độ và những lời nói cứng rắn trước sự cứng lòng của người Luật sĩ và Biệt phái, nhưng Ngài luôn tỏ ra hiền hậu và dễ thương đối với mọi người, nhất là đối với những người tôi lỗi. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy có biết bao việc làm chứùng tỏ Ngài hiền hậu dễ thương như thế nào. Vì thế, trong cộng đoàn lớn và trong cộng đoàn nhỏ là gia đình sự hiền lành và khiêm nhường phải được thực hiện để làm cho đời sống chung trở nên nhẹ nhàng, êm ái, đầy yêu thương và hạnh phúc. Qua đó, chúng ta muốn nói riêng về sự hòa hợp trong đời sống gia đình. II. VƯỜN HOA MUÔN SẮC. 1. Đời sống chung. a) Mỗi người một nết. Thomas Merton đã lấy nhan đề cho tập sách suy niệm của mình là “Không ai là một hòn đảo” (No man is an island). Con người sinh ra hoàn toàn yếu đuối, không biết gì, phải nhờ người ta nuôi dưỡng, giáo hoá để trở nên con người trưởng thành. Con người sinh ra không phải là một hữu thể kiện toàn ngay, nhưng nói như Minkoski, nó “hình thành cùng thế giới”. Con người phải tiến triển từng bậc nhờ xã hội, nghĩa là xã hội giúp cho con người hoàn thiện con người của mình về cả mọi phương diện. Mỗi người là một hữu thể biệt lập. Mỗi người có lý trí, tự do và cá tính. Mỗi người là một nhân vị phải được tôn trọng. Vì thế có sự khác biệt giữa người này với người khác. và sự khác biệt ấy phải được tôn trọng. Người ta nói không sai: Sống mỗi người một nết, Chết mỗi người một tật. Bệnh mỗi người một chứng, Thuốc mỗi người một thang. b) Hình ảnh một vườn hoa. Chúng ta đã có dịp đi tham quan thành phố Đà lạt, một thành phố được mệnh danh là “Thành phố Hoa”. Đà lạt là một thành phố có nhiều quang cảnh đẹp , thơ mộng và hấp dẫn. Khi dạo quanh bờ hồ trung tâm thành phố là hồ Hồ xuân Hương, du khách không thể quên tham quan vường hoa thành phố. Vườn hoa này được coi nhừ là vườn hoa miền ôn đới vì khí hậu lạnh thích hơp cho việc trồng hoa. Trong vườn có đủ mọi thứ hoa, muôn mầu, muôn hương làm nên một hoà điệu đẹp mắt. Hoa cảnh thật đa dạng, nhưng không phải mọi người đều thích một thứ hoa. Mỗi người thích một loại hoa, hoặc cùng thích một loại hoa như hoa hồng nhưng lại thích mầu sắc khác nhau. Nhìn vào vườn hoa, ta thấy nó đa dạng và chính sự đa dạng này làm nên vẻ đẹp phong phú cho vườn hoa. Nếu cả vườn chỉ có một loại hoa hay chỉ có một mầu sắc thì vườn hoa ấy trở nên nghèo nàn, không hấp dẫn, dễ nhàm chán. c) Mỗi người một sở thích. Sở thích của mỗi người cũng khác nhau. Người thích hoa này, người thích hoa kia, không ai có quyền ép người ta phải thích loại hoa mà mình ưa thích, tuy hoa nào cũng đẹp. Vì thế người ta mới nói “nhân tâm tùy sở thích”. Khí hậu Đà lạt rất thích hợp cho việc trồng hoa hồng. Mầu sắc hoa hồng đa dạng nhu mầu hồng, cam, trắng, đỏ, vàng , nghe tin có cả mầu xanh và một số hoa lai tạo thành nhiều mầu.. Còn hương vị thì ngào ngạt lại đậm đà.. Hoa hồng tượng trưng cho tình yêu cho nên những người yêu thường tặng cho nhau những bông hoa hồng tươi thắm để nói lên tình yêu của hai người, đặc biệt là ngày Valentine’s day. Người ta phải biết sở thích của người yêu mà tặng cho họ đúng mầu săc mà họ ưa thích. d) Ai thích hoa Bán hạ ? Ai cung thích hoa, nhưng chắc không ai thích một thứ hoa mà người ta gọi là hoa Bán hạ. Nó thuộc loại khoai môn nhưng không ăn được, chỉ dành nấu cám cho heo vì nó cực kỳ ngứa. Hoa của nó không đẹp, mà hương của nó thì ôi thôi, thối hơn cứt vào ban đêm. Nếu ai thích loại hoa này thì thật lạ đời ! Cũng gọi là hoa, nhưng không phải loại hoa nào cũng được người ta ưa chuộng. Do đó suy ra: không ai thích con người ương ngạnh, hay gây gỗ, làm ô nhiễm môi trường. 2. Đời sống gia đình. Không hiểu làm sao anh chị thấy nhau là thương nhau thắm thiết: hoặc tình yêu phát triển dần hay bị cú sét ái tình đánh vào hai người làm cho hai người chao đảo choáng váng và vội vàng xúc tiến việc kết hôn. Có khi hai người ở những hoàn cảnh khác nhau như về địa dư, dân tộc, tôn giáo, giáo dục, phong tuc, tính tình, khuynh hướng, sở thích... Nếu hai người ở trong hai điều kiện khác nhau thì làm sao có thể trở nên đồng nhất được: Không bao giờ người chồng trở nên giống người vợ hoàn tòan, và ngược lại không bao giờ có mẫu người vợ hoàn toàn giống như người chồng muốn. Mỗi người là một nhân vị đặc thù có tự do và cá tính. Mỗi người có quyền sống theo sở thích và khuynh hướng của mình, mỗi người phải được tôn trọng. Đúng như Đức Khổng Tử đã dạy:”HOÀ NHI BẤT ĐỒNG” nghĩa là chỉ có sự hòa HOÀ HỢP chứ không bao giờ có sự ĐỒNG NHẤT giữa vợ chồng. Vì thế, trong đời sống hôn nhân mỗi người phải từ bỏ ý riêng để tạo nên đời sống hoà hợp. Không bao giờ có sự đồng nhất giữa vợ chồng, mà chỉ có sự hoà hợp. Nhờ sự hòa hợp vợ chồng này mà gia đình càng thêm phong phú, càng tạo nên bầu khí yêu thương, càng dễ dàng dẫn tới hạnh phúc. Sự hòa hợp vợ chồng giống như vườn hoa muôn sắc hấp dẫn người xem. Có một câu truyện vui nói về đời sống của một đôi bạn trẻ giữa Lan và Điệp: bị đè nén bởi biết bao điều phiền muộn. Lan đến gặp một vị linh mục và xin được một lời khuyên. Cô hỏi vị linh mục: - Thưa cha, con sẽ làm gì bây giờ ? Chồng con chỉ suốt ngày bài bạc, lại thêm tính đèo bồng hết cô này đến cô khác. Hắn còn đánh đập và hành hạ con cũng như chẳng bao giờ tìm đến nhà thờ nữa. Vị linh mục khuyên: - Chị hãy chịu đựng và cầu nguyện cho anh hằng ngày. Một tuần sau, Lan vui vẻ tìm đến vị linh mục và thưa: - Thưa cha, chồng con đã cắt đứt quan hệ với cô gái mà anh đang đeo đuổi. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục bài bạc và đánh đập con nữa, cũng không chịu đến nhà thờ. Vị linh mục trả lời: - Chị hãy tiếp tục cầu nguyện cho chồng chị và mỗi ngày đọc thêm ba kinh Kính mừng để cầu nguyện cho anh. Lan ra về và tuần sau trở lại tìm linh mục với gương mặt thật hạnh phúc. Cô kể lại cho vị linh mục một cách vui sướng như sau: - Thưa cha, chồng con đã bỏ cờ bạc và hơn nữa đã trở nên đáng yêu, lo lắng cho con thật nhiều, nhưng vẫn chưa chịu đến nhà thờ. Vị linh mục khuyên Lan hãy tiếp tục kiên nhẫn và từ nay mỗi ngày đọc thêm năm kinh Kính mừng để cầu nguyện cho chồng. Sau hai tuần, Lan trở lại thăm vị linh mục và thưa với ngài: - Thưa cha, bây giờ chồng con đi lễ trở lại và cùng với con đọc kinh Mân côi mỗi ngày. Vị linh mục chúc mừng Lan và nhắn nhủ: - Từ nay chị hãy cố cầu nguyện cho chính mình để chị có thể xứng đáng với người chồng đáng yêu của chị hiện nay. Lan trả lời: - Thưa cha, tự con là thánh thiện rồi. Chồng con thì cần cầu nguyện, con sẽ đọc mỗi ngày mười kinh để cầu nguyện cho chồng con để trở nên giống con. Một tuần sau Lan trở lại với vị linh mục trong khi khóc lóc tức tưởi và kể rằng: - Thưa cha, chồng con đã bỏ con. Vị linh mục ngạc nhiên hỏi lại: - Cái gì ? Chồng chị đã bỏ chị đi theo người đàn bà khác à ? Lan trả lời: - Thưa cha, không phải vậy. Anh đã trở thành một nhà khổ tu vì anh nói là anh muốn cống hiến cuộc đời còn lại của anh để cầu nguyện. (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 371) Nếu chúng ta muốn người yêu chúng ta phải sống, phải yêu, phải thánh thiện, phải suy nghĩ, phải hành xử và thực hiện tất cả những gì theo đúng như khuôn mẫu mà chúng ta đưa ra, và chẳng khác nào chúng ta làm cho họ bị vong thân, đánh mất chính mình. Cô Lan trên đây trước hết muốn cho chồng mình trở nên một con người tốt. Ước mong đó là rất chính đáng. Nhưng rồi điều đáng tiếc ở đây là cô muốn chồng cô phải trở thành một mẫu người sống tốt như cô mong ước, tức là theo một khuôn mẫu mà cô đưa ra. Đó là một thái độ sai lầm chúng ta nên tránh. Trong đời sống hôn nhân, vợ chồng hãy cố gắng thực hiện lời thánh Phaolô khuyên bảo tín hữu Cô-lô-xê:”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, NHÂN HẬU, khiêm nhu, HIỀN HOÀ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em nếu người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt.
Con người của chúng ta chỉ là tạo vật, được dựng nên bởi bùn đất, nhưng được Thiên Chúa nhận HP80
Con người của chúng ta chỉ là tạo vật, được dựng nên bởi bùn đất, nhưng được Thiên Chúa nhận làm con. Đã là con thì phải yêu mến và vâng lời cha với tình con thảo vì người cha luôn săn sóc con cái. Do đó, con người có gì mà dám tự hào với Thiên Chúa là Cha sinh thành của mình. Sách Tin Mừng kể: có hai người lên đền thờ cầu nguyện: người Biệt phái thì kể công với Chúa: không tham lam, bất chính, ngoại tình... ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng cúng một phần mười thu nhập. Còn người thu thuế chỉ biết cúi đầu thương xót mình là kẻ có tội (x. Lc 18, 10-14). Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết hạ mình trước mặt Chúa mà chỉ coi mình như người đầy tớ vô dụng đã làm những việc mình phải làm thôi. Chúa trao cho ta những gì thì cứ việc làm cho đầy đủ như một người giúp việc trung thành. Theo như Chúa nói thì người chủ không phải trả ơn cho người ấy (x. Lc 17 – 10). Thiên Chúa đặt chúng ta mỗi người vào một hoàn cảnh. Có người sống độc thân, có người lập gia đình. Có người sống trong nghề nghiệp này, có người sống trong môi trường kia. Tất cả là do Chúa sắp đặt và mọi sự sắp đặt của Thiên Chúa đều có lợi cho ta. Hãy sống trong sự sắp đặt của Chúa và hãy cố hoàn thành bổn phận của mình trong môi trường hiện tại, nếu thi hành đúng như thế thì sẽ được hạnh phúc. Nhưng theo khuynh hướng tự nhiên của con người chúng ta, không mấy ai hài lòng với số phận mình, họ luôn băn khoăn khắc khoải về số phận mình, họ luôn ao ước được như người khác. Trong khi đó nhiều người khác lại đang ao ước được hưởng số phận của họ mà không được. Đúng là:”Được voi đòi tiên”. Như vậy cuộc đời của họ không bao giờ đạt tới hạnh phúc.. Tuy là người đầy tớ vô dụng, nhưng người đầy tớ đó cũng được hưởng niềm vui khi hoàn thành công việc đã được chủ giao cho. Vui với nhiệm vụ của mình thì đó là hạnh phúc rồi. Hạnh phúc của mỗi người mỗi khác, mức độ khác nhau nhưng ai cũng được hưởng hạnh phúc tràn đầy khi đã thi hành trọn thánh ý Chúa ví như nước đổ vào các ly to nhỏ đủ cỡ, nhưng ly nào cũng đầy, cũng chỉ có thể chứa được đến miệng thôi. II. BẰNG LÒNG VỚI SỐ PHẬN MÌNH. Con người ai cũng muốn vươn lên, vươn lên đến đỉnh cao như tục ngữ Anh nói:”My place is in the top”: chỗ của tôi phải ở trên chóp đỉnh. Con người phải vươn lên, vươn lên đến chỗ hoàn thiện, không thể sống tầm thường, sống tà tà trên ngọn cỏ, cuộc sống mà triết gia Jean Paul Sartre gọi là “cuộc sống đáng nôn mửa”. Nhưng con người chúng ta lại không chú trọng tới sự vươn lên của tinh thần mà chỉ chú trọng tới vật chất nghĩa là phải làm cho mình có một đời sống sung túc. lắm tiền nhiều của, muốn ngồi lên đầu lên cổ thiên hạ. Thực hiện được điều đó thật là khó, mà nếu không thực hiện được thì lại tỏ ra bất mãn, hờn đời. Tâm lý chung của con người là không hài lòng với điều mình đang có mà còn ao ước những cái gì xa hơn ngoài tầm tay của mình. Vì thế, nhà học giả Trung hoa, ông Lâm ngữ Đường trong cuốn Sống đẹp có nói:”Thế giới ngày nay giống như một quán cơm. Ai ăn món nào thì gọi món ấy. Nhưng ai cũng nghĩ rằng món của người bên cạnh gọi thì ngon hơn món của mình”. Đúng là: Xưa nay thế thái nhân tình, Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. (Ca dao) Truyện: Hãy bằng lòng với nghề đục đá. Có một người thợ đục đá luôn than thân trách phận vì anh cảm thấy cuộc đời của một người thự đục đá như anh thật là buồn tẻ và bất hạnh. Một ngày nọ, khi anh đang đục đá, thì có một vị vua đi qua với đoàn tùy tùng rất sang trọng. Ông thưa với Chúa: - Lạy Chúa, xin cho con trở thành một vị vua bởi con đã quá mệt mỏi với công việc đục đá này, con thích là một ông vua hơn là một người thợ đục đá. Lập tức, ông được trở thành một vị vua. Khi đã lên ngôi, một lần vi hành thăm thần dân, thấy trời nắng chói chang nóng nực quá, vua liền thưa với Chúa: - Chúa ơi, con cảm thấy mặt trời còn quyền thế hơn cả ông vua và con muốn làm mặt trời. Lập tức, nhà vua được biến thành mặt trời. Khi đã là mặt trời, ông cảm thấy rất vui vì ánh sáng từ mặt trời chiếu soi vạn vật khắp mọi nơi. Một buổi sáng nọ, một đám mây che khuất mặt trời. Ông mặt trời bực bội va #nghĩ rằng có lẽ làm đám mây thì hay hơn, vì đám mây còn có thể che khuất được mặt trời. Ông liền thưa với Chúa: - Chúa ơi, con muốn trở thành đám mây. Và đột nhiên ông trở thành đám mây. Sau đó, đám mây làm mưa và gây nên một trận lũ lụt. Đám mây nghĩ: “Ta lấy làm hãnh diện và sung sướng khi làm thành một đám mây, vì lúc này sức mạnh của ta thật vô song”. Nhưng rồi ông nhận thấy một hòn đá lớn đã ngăn cản được dòng nuớc lũ và lại năn nỉ với Chúa: - Thưa Chúa, con cảm thấy tảng đá kia còn vĩ đại hơn cả dòng thác lũ, vì thế nó đã cản được dòng nước lũ đang cuốn đi biết bao vạn vật trên mặt đất này, rồi ông cũng được trở thành một tảng đá to như ông mong ước. Một ngày nọ, một người thợ đục đá đã đến đục đẽo và chia cục đá của ông thành nhiều mảnh. Và ông lại xin Chúa cho mình trở thành người thợ đục đá. Bây giờ, ông thấy rất hạnh phúc vì làm một người thợ đục đá thì vĩ đại và quyền thế hơn mọi sự. Thế là ông lại trở thành một người thợ đục đá như ban đầu. (R. Veritas. Mạch nước trường sinh, tr 2257-258) Theo nhận xét của ông Lâm ngữ Đường, con người thời nay cũng như thời xưa, hay sống với thái dộ mà người ta gọi là “đứng núi nọ trông núi kia hay đứng núi nọ đọ núi kia” nghĩa là thái độ không bằng lòng, không an tâm với công việc, hoàn cảnh hoặc tình duyên hiện có mà mơ tưởng đến cái khác tốt hơn (Vũ Dung, Thành ngữ, tục ngữ Việt nam, tr 308). Thái độ này rất tai hại vì nó luôn làm cho ta cảm thấy bồn chồn, lo lắng, không bao giờ được bình an và cũng khó đón nhận những thành công của người khác. Người có thái đdộ này sẽ luôn bị dằn vặt và đau khổ vì những giới hạn của mình. Họ luôn tưởng tượng và ao ước những điều vô thực. Và khi không đạt được thì họ bất mãn với cuộc sống, trách cứ Thiên Chúa và anh chị em. Phàn nàn và bất an là căn bệnh thường xuyên của những người sống trong tâm trạng đó. Trong cuộc sống gia đình cũng thế, không mấy người hài lòng về đời sống của mình. Họ luôn coi gia đình của người khác hạnh phúc hơn. Nếu gia đình không có hạnh phúc thì vợ chồng đổ lỗi cho nhau, không ai chịu trách nhiệm về mình, hay ít ra chịu trách nhiệm chung như người ta thường nói: Tại anh tại ả, tại cả hai bên. Vì sống theo quan niệm như vậy nên người ta có khuynh hướng muốn LY DỊ để hy vọng có một cuộc sống dễ dàng hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng đứng núi này trông núi nọ cao, khi đi vào thực tế thì mới vỡ lẽ ra: cuộc sống mới chẳng khả quan hơn, đôi lúc còn bi đát hơn làm cho họ thất vọng. Càng thất vọng càng đi vào ngõ bí, càng đi vào ngõ bí càng làm càn, có thể đi đến chỗ tư tử. Lúc đó họ mới nhớ lại lời cảnh cáo của người đời đầy kinh nghiệm: Tránh anh đánh đau, gặp anh mau đánh. hay Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dứa. Có người lại theo quan niệm “bắt cá hai tay”. Họ sống trong gia đình nhưng vẫn còn liên hệ với người khác giới để khi cần sẽ có nơi nương tựa. Do đó, cuộc sống gia đình không còn mặn mà, dễ sinh ra cãi cọ, dễ đi đến xung đột, dễ đi đến chia ly: Thôi đừng bắt cá hai tay, Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn. (ca dao) KẾT LUẬN Hãy ý thức rằng Chúa đặt# chúng ta vào trong hoàn cảnh nào thì Ngài luôn ban ơn trợ giúp để chúng ta có thể hoành thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp; không bao giờ Ngài bắt chúng ta làm việc gì ngoài sức chúng ta vì “Nemo tenetur ad impossibile”. Chúa không hành động một mình, Ngài đòi chúng ta phải cộng tác như thánh Augustinô nói trong cuốn Les Confessions:”Chúa dựng nên con không cần có con cộng tác, nhưng Chúa không thể cứu chuộc con, nếu không có con cộng tác”. Hãy bằng lòng với số phận của mình và cố gắng làm cho tốt hơn như người ta nói: Được hoa mừng hoa, được nụ mừng nụ. Ngoài ra hãy cầu nguyện, xin Chúa giúp đỡ để đôi bạn có thể xây dựng được một gia đình hạnh phúc cậy nhờ vào quyền năng vô biên của Chúa, không có gì ngoài tầm tay của Ngài:”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37). Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt.