“Nó sẽ gọi tên là Gioan”. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel. Đó là lời Chúa.
Việc lạ lùng của Gioan Tẩy Giả đã được đánh dấu ngay từ lúc cha mẹ của Gioan đặt tên cho: 24/6-1
Việc lạ lùng của Gioan Tẩy Giả đã được đánh dấu ngay từ lúc cha mẹ của Gioan đặt tên cho ông. Thường dân Do Thái tên của người cha, tên của họ hàng nội phải được đặt tên cho đứa bé mới sinh ra. Ở đây, cái huyền diệu, linh thánh đã xẩy ra ngay lúc cắt bì cho con trẻ.Lúc cắt bì cũng là lúc đặt tên cho đứa bé. Mọi người cứ tưởng lấy tên cha Giacaria đặt tên cho bé, nhưng bà Êlisabét lên tiếng:” Không, phải đặt tên cháu là Gioan “ ( Lc 1, 60 ). Đây là cái tên do chính Thiên thần đã báo trước cho Giacaria biết ông và vợ ông sẽ sinh được một cháu trai dù hai ông bà đã luống tuổi, cao niên không thể nào sinh con nếu không có bàn tay Thiên Chúa can thiệp…
CON TRẺ GIOAN TẨY GIẢ LÀ VỊ NGÔN SỨ DUY NHẤT CHỈ CHO NHÂN LỌAI THẤY ĐẤNG CỨU THẾ:
Mở đầu Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan viết:” Có một người Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng cho ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”( Ga 1, 6-7 ). Địa vị và vai trò của Gioan Tẩy Giả rất quan trọng và lớn lao trong hàng ngũ các ngôn sứ của lịch sử dân Chúa. Bởi vì việc mang thai con trong lúc tuổi già củavợ chồng ông Giacaria và Eâlisabét đã nói lên việc kỳ diệu của Thiên Chúa nơi con trẻ Gioan. Tên con trẻ trong ngôn ngữ Do Thái là “ Jehohanan “. Chữ này có nghĩa “ Thiên Chúa là ân sủng “. Vì con trẻ là hồng ân nhưng không,cao vời Thiên Chúa dành cho Gioan Tẩy Giả, cho toàn dân và cho ông bà Giacaria, nên ai nấy đều bỡ ngỡ ( Lc 1, 63 ). Sau khi đứa trẻ được đặt tên, Giacaria dâng lên Thiên Chúa một lời ngợi khen tuyệt vời, Ông đã dâng con ông cho Thiên Chúa và nói: “ Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên”( Lc 1, 76-77 ). Tới tuổi trưởng thành, khôn lớn Gioan Tẩy Giả từ giã gia đình đi vào hoang địa, đi vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện, chuẩn bị sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tin Mừng thuật lại, đời sống của Gioan Tẩy Giả rất khổ hạnh: “ Thức ăn của Người là châu chấu và mật ong rừng”. Tuy thân xác khổ hạnh, nhưng tinh thần của Người tràn đầy niềm vui . Do đó, Gioan Tẩy Giả quả thực nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa.
SỨ MẠNG DỌN ĐƯỜNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ:
Mình Gioan được đặc ân dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả đã trình bầy và giới thiệu Chúa Cứu Thế như là hồng ân cao quí tuyệt vời Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho nhân lọai, cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa là chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa tội gian trần. Tin Mừng viết:” Năm thứ mười lăm dưới triều Hòang Đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít…có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong hoang địa …rao giảng,kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội và sửa sọan cho ngày Đấng Cứu Thế tới “( Lc 3, 1-6 ). Mọi người dân Do Thái tuôn đến để nghe Gioan rao giảng và tin vào Người nhưng Gioan đã vội minh xác:” Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giầy Người “( Lc 3, 16 ). Chính Chúa Giêsu cũng tới xin Gioan làm phép rửa cho mình. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa Giêsu và chỉ cho các môn đệ của mình biết Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã đề cao vai trò cứu thế của Chúa:” Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”( Ga 3, 30 ). Thánh Gioan Tẩy Giả đã thi hành sứ mạng dọn đường rất nghiêm ngặt và công minh. Ngài không sợ thế gian, nên Ngài đã quở trách nặng lời Hêrôđê vì vua đã lấy vợ em mình. Ngài đã bị tống giam vào ngục và bị chém đầu vì một lời hứa khờ dại của vua Hêrôđê.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an. Người hằng sống và hiển trị muôn đời ( Lời nguyện nhập lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả ).
Giữa việc rao giảng và làm chứng, việc nào khó hơn, cần thiết hơn, đòi hỏi: 24/6-2
Câu hỏi gợi ý:
1. Giữa việc rao giảng và làm chứng, việc nào khó hơn, cần thiết hơn, đòi hỏi phải dấn thân và hy sinh nhiều hơn? Người Ki-tô hữu thường quan tâm hơn đến việc nào? Có cần sửa đổi gì trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta?
2. Nhân loại hiện nay – nhất là người nghèo, người chịu áp bức – mong Giáo Hội rao giảng chân lý cho họ, hay muốn Giáo Hội làm chứng cho chân lý mình rao giảng, cho công lý và tình thương để biến đổi thế giới nên tốt đẹp hơn? Trước mắt họ cần cái nào hơn?
3. Nhờ đâu các ngôn sứ của Thiên Chúa dám mạnh dạn làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương, bất chấp thiệt thòi nguy hiểm?
Suy tư gợi ý:
Gio-an Tẩy giả, một ngôn sứ dám làm chứng cho công lý Gio-an Tẩy Giả là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương: một đằng bị đế quốc Rô-ma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân muốn nổi loạn, đằng khác vị vua cai trị, Hê-rô-đê, là một hôn quân bạo Chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gio-an lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, mong nhà vua trở về với đường ngay nẻo chính. Vì thế, ông đã bị nhà vua hãm hại (xem Mt 14,3-12; Mc 6:17-29).
1. Là Ki-tô hữu, chúng ta đều có chức năng ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Nhưng đa số chúng ta có khuynh hướng chỉ muốn là ngôn sứ của chân lý, chứ không phải của công lý và tình thương. Chúng ta thường chỉ muốn rao giảng, tuyên xưng chân lý, nhất là những chân lý vô thưởng vô phạt, không đụng chạm đến ai, sẵn sàng kết án những đồng đạo nào có tư tưởng khác với những gì chúng ta cho là chân lý. Nhưng chúng ta lại không muốn hoặc không dám làm chứng cho những điều mình nói, nhất là làm chứng cho công lý và tình thương. Điều ấy cũng dễ hiểu, vì rao giảng xuông thì dễ dàng, không đòi hỏi phải hy sinh và dấn thân cho bằng làm chứng. Chẳng hạn, rao giảng rằng tình yêu là cao cả, là tuyệt vời, là quí giá, và mọi người phải yêu thương nhau, thì chẳng mất mát hay phải hy sinh gì nhiều. Nhưng chứng tỏ điều mình rao giảng ấy là xác thực, là chân lý, bằng chính đời sống của mình, thì phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi và hy sinh, có khi phải hy sinh cả «nồi cơm», sự ổn định hay bình an của cuộc sống, thậm chí đôi khi cả mạng sống nữa.
2. Khổ một nỗi là hiện nay, tinh thần khoa học thực nghiệm của người thời đại đòi hỏi mọi phát biểu đều phải được chứng minh bằng hành động, bằng thực tế thì mới tạo được niềm tin. Thật vậy, làm sao tin được một người quảng cáo thứ thuốc nào đó là tuyệt vời nhất, hữu hiệu nhất, tiết kiệm nhất, nhưng khi bị bệnh thì người ấy lại dùng một loại thuốc khác hẳn? Cũng vậy, ai mà tin được một người rao giảng rằng tình yêu là quí giá hơn tất cả, rằng cần thiết phải yêu thương nhau, nhưng chính người ấy lại đối xử với mọi người chẳng tình nghĩa chút nào? Nếu chính người rao giảng về tình yêu lại coi tình yêu không quí bằng những quyền lợi nhỏ nhoi, và sẵn sàng hy sinh tình nghĩa chứ không để bị mất quyền lợi, thì lời rao giảng ấy ai mà dám tin? Rất nhiều nơi trong Giáo Hội, việc loan báo Tin Mừng bị thất bại vì chúng ta chỉ biết rao giảng mà không dám làm chứng bằng đời sống cho điều mình rao giảng.
Do đâu mà người ngôn sứ lại dám làm chứng, bất chấp…?
Người Ki-tô hữu không những phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giê-su, mà còn cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu của Thiên Chúa nữa. Mà muốn làm chứng thì phải dám chấp nhận thiệt thòi, mất mát, nguy hiểm. Làm ngôn sứ mà lại muốn được an toàn và bảo toàn đủ mọi mặt những gì mình đang có, không muốn hy sinh hay mất mát điều gì, thì như thế chỉ có thể là «ngôn sứ kiểng» (dùng làm cảnh) mà thôi.
Nhưng chúng ta ai cũng cảm thấy mình yếu đuối, thì lấy can đảm hay dũng khí ở đâu để làm chứng? Các ngôn sứ nổi tiếng xưa có cảm thấy mình yếu đuối như chúng ta không? Điều gì khiến họ «dám»? Chúng ta hãy trở lại bài Tin Mừng hôm nay.
a. Tin vào quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa
b. Sức mạnh và lòng can đảm của người ngôn sứ hệ tại niềm tin vào quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy hai vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét đều đã lớn tuổi đến nỗi không ai nghĩ được rằng họ còn có thể sinh con nữa, thế mà quyền năng Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Vì «đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được» (Lc 1,37). Vả lại, Ngài luôn luôn quan phòng, không chuyện gì xảy ra ngoài thánh ý của Ngài: «Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ» (Lc 12,7), «Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu!» (Lc 21:17-18).
Tuy nhiên, dù tin cậy nơi Chúa tới mức độ nào, người ngôn sứ vẫn luôn luôn có những nỗ lực riêng của mình, trong mọi trường hợp, vẫn luôn luôn cố gắng hết sức mình, và hành động với tất cả sự khôn ngoan mà Chúa ban cho mình, chứ không ỷ lại vào quyền năng Chúa. Trong đời thường, người ngôn sứ vẫn luôn tập luyện bản thân, làm quen với gian khổ, để khi phải sống trong khó khăn, tâm hồn người ngôn sứ vẫn không hề nao núng. Gio-an Tẩy giả đã tập sống kham khổ trong sa mạc ngay từ nhỏ. Còn Phao-lô thì: «Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết» (Pl 4,13).
b. Tin vào sự khôn ngoan và hợp lý của Thiên Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: cứ theo sự hợp lý bình thường của con người, thì con ông Da-ca-ri-a cũng phải tên là Da-ca-ri-a (là tên của mọi người trong dòng họ) mới đúng. Nhưng Thiên Chúa lại yêu cầu ông đặt tên cho con là Gio-an. Tại sao lại như thế thì lúc ấy chẳng ai hiểu được. Nhưng chắc chắn Thiên Chúa có lý của Ngài. Điều hợp lý đối với Thiên Chúa không hẳn đã là hợp lý đối với con người. Vì thế, đối với người tin yêu Thiên Chúa, thì vâng lời Ngài luôn luôn là khôn ngoan hơn là làm theo ý mình. Da-ca-ri-a đã làm theo ý Chúa chứ không phải ý mình khiến mọi sự rốt cuộc đều tốt đẹp.
Khi làm mọi công việc, người ngôn sứ luôn nghĩ rằng mình chỉ là công cụ mà Thiên Chúa dùng để làm công việc của Ngài chứ không phải của mình. Mình làm ngôn sứ cho Ngài chứ không phải cho mình. Thiên Chúa luôn luôn là chủ, nên mọi việc mình làm cho Ngài đều phải theo thánh ý của Ngài, chứ không phải theo ý riêng của mình. Vì thế, người ngôn sứ luôn an tâm khi thấy mình đã hành động đúng với ý Chúa, được biểu hiện qua tiếng lương tâm và sự khôn ngoan Thiên Chúa ban cho mình, đồng thời qua những dấu chỉ thời đại (những sự kiện đã và đang xảy ra). Nếu chúng ta làm theo ý Chúa thì Ngài sẽ chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc chúng ta làm. Và hậu quả xảy ra thế nào đều là do thánh ý của Ngài, người ngôn sứ không cần phải bận tâm hay thắc mắc.
c. Có bàn tay Thiên Chúa trong cuộc đời ta
Thấy sự việc lạ lùng đối với trẻ Gio-an, «ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em». Người ngôn sứ khi làm công việc của Chúa chứ không phải của mình, thì luôn luôn có bàn tay Thiên Chúa ở với mình, phù hộ và hướng dẫn cuộc đời mình. Chỉ khi nào mình bắt đầu làm theo ý riêng mình, và làm vì mục đích của mình chứ không phải của Chúa khiến ta từ chối sự hướng dẫn của Chúa, thì ta mới bắt đầu mất đi sự khôn ngoan và phù trợ của Thiên Chúa. Gương của vua Sao-lê ngày xưa rất rõ nét về vấn đề này (xem 1 Sm 15,24-28).
Niềm tin có bàn tay Thiên Chúa ở với mình là một trong những động lực mạnh nhất khiến các ngôn sứ – mặc dù bản tính có thể rất nhút nhát – vẫn dám làm những việc mà ngay cả người có bản tính can đảm tự nhiên vẫn không dám làm, miễn là việc đó là việc của Chúa, là việc mà lương tâm mình đòi buộc phải làm.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con biết can đảm như Gio-an, dám sống ngay chính và dám làm chứng cho Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương giữa lòng thế giới đảo điên hôm nay. Xin giúp con biết tin cậy vào quyền năng vô biên và sự quan phòng đầy khôn ngoan của Chúa, để con luôn an tâm và mạnh dạn khi thi hành chức vụ ngôn sứ mà Chúa đã trao cho con, cũng như đã trao cho bất kỳ người Ki-tô hữu nào khi họ lãnh nhận phép Rửa. Amen.
Cách đây đã lâu, tôi có quen với một đôi vợ chồng trẻ. Thuở mới yêu nhau và cả: 24/6-3
Cách đây đã lâu, tôi có quen với một đôi vợ chồng trẻ. Thuở mới yêu nhau và cả trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc hôn nhân, họ đã gặp phải nhiều bất trắc từ phía gia đình cũng như họ hàng của đôi bên. Nhưng dần dần, họ đã thắng vượt được những khó khăn để cùng nhau xây dựng một mái ấm.
Ngày tháng trôi qua và họ đang mong đợi đứa con đầu lòng chào đời. Người vợ thì ngồi may những chiếc áo nhỏ. Thỉnh thoảng họ lại nhìn nhau và mỉm cười hạnh phúc. Rồi khi chở chị vợ vào nhà thương, anh chồng đã khắc khoải lo âu, đứng ngồi không yên cho tới lúc mẹ tròn con vuông. Bấy giờ, anh chồng đã chạy như bay về nhà và sang báo tin cho tôi:
- Rồi, mọi sự đều tốt đẹp.
Nhìn nét mặt rạng rỡ của anh chị trong ngày cháu bé được rửa tội, tôi đã nghĩ ngay tới lời Chúa:
- Người đàn bà khi sinh nở thì lo buồn và đau đớn, nhưng sau đó thì hân hoan vui mừng vì đã đem lại cho đời một người con.
Đứa con chính là niềm hạnh phúc của đôi vợ chồng. Một gia đình, dù đầy đủ mọi tiện nghi vật chất mà thiếu vắng tiếng cười của trẻ thơ, thì vẫn mang một bàu khí tẻ nhạt làm sao ấy. Đứa con sẽ tô đậm cho tình yêu vợ chồng và sẽ là sợi dây nối kết hai người lại với nhau.
Tôi biết có một cặp vợ chồng mà trong đời sống thường ngày, thỉnh thoảng họ cũng bất đồng và cãi vã, nhưng khi đứa con của họ bị đau, họ liền xích lại gần nhau hơn vì cùng lo một nỗi lo, để rồi có những buổi tối cả hai cùng xách đèn đi bắt những con cóc đem về làm thuốc cho con. Theo tôi, đó là một hình ảnh thật đẹp và thật cảm động.
Sau khi sinh con rồi, người ta bắt đầu lo lắng cho tương lai của cháu bé và tự hỏi:
- Lớn lên nó sẽ làm gì ?
Người ta đi chấm lá số tử vi cho nó. Hay theo một tục lệ cổ xưa, đó là trong dịp ăn thôi nôi, hay ăn đầy năm, người ta đặt trước mặt cháu bé một số những vật dụng, chẳng hạn như đối với cháu trai thi bút nghiên, sách vở, cung tên…Rồi người ta sẽ dựa vào những cái cháu bé chọn mà tiên đoán tương lai hậu vận. Đó chỉ là những việc làm nhảm nhí và không được chính xác. Tuy nhiên, đã là cha mẹ, thì ai cũng mong muốn cho con cái mìnnh một tương lai tươi sáng.
Từ những sự kiện trên, chúng ta đi vào trường hợp của Gioan tiền hô. Trước hết, việc chào đời cả Gioan đã đem lại một niềm vui lớn cho gia đình.
Thực vậy, như chúng ta đã biết: Giacaria và Isave đều đã cao niên và son sẻ. Đối với người Do thái, sự son sẻ là dấu bị Thiên Chúa chúc dữ. Như thế, chắc hẳn hai ông bà đã đau khổ nhiều vì những lời đàm tiếu của bà con lối xóm.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vốn thường chọn những người hèn mọn và đau khổ ấy để làm những việc kỳ diệu, như trường hợp của bà mẹ tiên tri Samuel hay của Đức Maria…
Và lời cầu xin của hai ông bà đã được Thiên Chúa chấp nhận. Ngày Gioan mở mắt chào đời phải là một ngày vui mừng và trọng đại cho hai ông bà.
Rồi người ta đã thắc mắc về tương lai của đứa bé, nhất là khi nhận ra những sự việc lạ lùng: nào là biến cố ông Giacaria bị câm từ lúc dâng hương trong đền thờ, nào là biến cố ông Giacaria bỗng nói được và đặt tên cho con trẻ là Gioan… Từ đó, họ bắt đầu bàn tán:
- Con trẻ này rồi sẽ nên như thế nào vì bàn tay Chúa luôn ở với nó ?
Thiên Chúa đã dành cho Gioan một con đường, một ơn gọi, một sứ mạng, đó là làm tiền hô, đi trước để dọn đường và chuẩn bị mọi tâm hồn đón nhận Đấng Cứu thế. Và Gioan đã mau mắn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Phúc âm đã ghi lại:
- Gioan đã ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel. Đó cũng chính là điểm chúng ta cần phải suy nghĩ và bắt chước.
Thực vậy, từ ngàn xưa Chúa đã yêu thương và gọi tên chúng ta. Ngài đã chuẩn bị mọi sự để chúng ta chào đời. Và trong những năm tháng ấu thơ, chúng ta đã là niềm vui cho gia đình. Chắc hẳn nhiều lần người mẹ đã nhìn và dệt nên cho chúng ta một tương lai huy hoàng.
Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là những ước mơ người mẹ đã thầm mong, nhưng là ơn gọi, là con đường, là sứ mạng Chúa muốn dành cho mỗi người chúng ta.
Chắc hẳn Chúa không gọi tất cả chúng ta để làm linh mục, tu sĩ hay nắm giữ một chức vụ then chốt nào đó, nhưng ơn gọi căn bản Chúa dành cho tất cả chúng ta, đó là ơn gọi nên thánh, ơn gọi trở thành Kitô hữu, trở thành con cái Chúa. Và hơn thế nữa, trở thành những vị tiền hô đem Chúa đến trong tâm hồn mình, cũng như trong tâm hồn những người chung quanh.
Muốn được như vậy, chúng ta phải mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa,bằng cách sống trọn vẹn lý tưởng của người Kitô hữu, nghĩa là phải làm sao để thực sự có Chúa trong tâm hồn bằng một nếp sống đạo đức và thánh thiện.
Một khi đã có Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đem Chúa đến cho người khác bằng những hành động bác ái và yêu thương, bởi vì chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có.
Ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy là vị: 24/6-4
Ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật thật của mình, ngày sinh ra trong trần thế ; các đấng thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24.6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Theo tường trình của Phúc Âm thánh Luca, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước ; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối. Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan. Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến. Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14). (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
Tường thuật Gioan Tẩy giả sinh ra nhấn mạnh đặc biệt vào việc đặt tên: 24/6-5
A. Hạt giống...
Tường thuật Gioan Tẩy giả sinh ra nhấn mạnh đặc biệt vào việc đặt tên:
- Đây là một cái tên đặc biệt (c 61: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”)
- Nhưng lại được cả bà Êlisabét và ông Dacaria nhất trí mặc dù trước đó Dacaria bị câm không nói chuyện được với vợ.
- Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương” và là tên do thiên thần bảo phải đặt (Lc 1,13). Như thế, Gioan tẩy giả là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ trong bụng mẹ, để trở thành ngôn sứ loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
B. ... nẩy mầm.
1. Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.
Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì ? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không ? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không ? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết: “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến “danh”, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa giao cho đời mình.
2. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi.
Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
3. “Khi con trẻ được 8 ngày, họ đến làm phép cắt bì (cho cậu)”: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo Hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo Hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.
4. Cô bé nói với anh trai: nhân ngày sinh nhật ba, em se tặng ba đôi dép. Người anh nói: “Nhưng em lấy tiền đâu mà mua ?” Cô bé tròn mắt nhìn anh nói : “Ba cho em tiền mà !” Người anh lặng thinh nghĩ: ba cậu muốn có quà tặng trong ngày sinh nhật. Và vì yêu con gái, ông muốn nhận quà tặng từ tay đứa con yêu quí. Chúng ta cũng chẳng có gì là của riêng mình để dâng cho Chúa. (Góp nhặt)
5. “Phải đặt tên cháu là Gioan” (Lc 1,60b)
Khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn “đặt tên con là Gioan”. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài ; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.
Lạy Chúa, xin cho con lòng tin vững mạnh, để con có thể nhận ra sự can thiệp của Chúa trong đời con (Hosanna)
6. “Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.
Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.
Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc: 24/6-6
Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc đà. Một hình ảnh nổi bật được nhà điêu khắc Rôbin tạc về Gioan là vị Tiền Hô ! Một người đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ: xông pha làm chấn động như một lực sĩ vô địch chạy nước rút. Một hình ảnh cường tráng, nhưng dịu dàng. Một đời sống ngắn ngủi, vì bạo lực đã kết thúc đời Ngài. Nhưng Ngài coi bình thường, một đời sống không khoan nhượng !
Đàng khác Ngài rất khiêm nhường, cảm thương mọi người, được kính trọng đồng thời bị ghét bỏ ! người ta không lạ gì khi nghe Ngài tuyên bố: “Tôi không đáng cởi dép cho Người !”
Gioan hẳn đã biết Đức Giê-su, người anh em bà con mình, là Thiên Chúa là tổ phụ Abraham, Isaác và Israel, mà Ngài được gặp hằng ngày trong kinh nguyện và trong lời rao giảng ? Gioan không phải là Thánh tử đạo (Người ta không xử tử ông vì đức tin), Ngài không phải là chứng nhân của Thiên Chúa, chỉ là tiếng kêu trong Samạc...
Vì đó là người nhập cuộc hành trình trên con đường trong Samạc. Con người sống ngoại lệ.
Từ rất sớm, Gioan phải kham khổ, vì do sinh ra khác thường, bởi cha mẹ già cả, mang một tên không theo dòng họ. Ông bố bị câm, được nói như trước. Tất cả những thứ đó đè trên vai đứa trẻ, đứa thanh niên. Tiểu sử đó đã lan ra khắp xứ ngay sau khi đứa trẻ ra đời, nó phải chịu cái nhìn tò mò của mọi người, của bạn bè, chắc chắn nó đã chế nhạo ông bạn ngây thơ của chúng. Câu cuối của đoạn Tin Mừng này nói lên sự đau khổ lớn lao của Gioan: “Cậu bé càng lớn lên tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel !”
Trong hoang địa...
Đó là một người được chiếu cố ! không phải để trở nên ngôn sứ, không phải do Thiên Chúa lạm dụng, nhưng vì đồng hương từ chối cậu, cậu không được quyền sống như người khác ! Họ muốn cậu phải trung thành với ơn gọi mình, họ không biết thánh ý Thiên Chúa, nhưng đẩy cậu đi vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa....
Trong suốt tháng 5 1998, dân chúng Mỹ lên cơn sốt nặng, ai nấy túa ra đường: 24/6-7
Trong suốt tháng 5 1998, dân chúng Mỹ lên cơn sốt nặng, ai nấy túa ra đường xếp hàng dài dài đi mua vé số, từ ông giám đốc đến cô thư ký, từ chị tiếp bàn đến anh đổ rác, ai cũng mong mình trúng độc đắc "phao bò" (powerball) 195 triệu Mỹ Kim. Số tiền "phao bò" kỳ này lên cao chưa từng có.
Nhưng rồi chỉ có một người trúng. Đó là một ông già đã về hưu ở bang Wisconsin. Theo thể lệ thì người trúng phải lãnh dần trong 20 năm, mỗi năm được gần 10 triệu. Ông này thấy mình đã gần đất xa trời nên xin lãnh một lần cho chắc ăn. Mà lãnh ngay một lần như vậy chỉ được 104 triệu cũng mãn nguyện quá rồi. Trừ thuế rất ư kỹ lưỡng đi, ông cầm nhẹ cái ngân phiếu 57 triệu về nhà ung dung nhưng hồi hộp quá chừng. Mong ông đừng mất ăn mất ngủ hay bị ngưng tim mà chết! Và nhiều người nuốt nước miếng tiếc rẻ: giá mình được số may mắn của ông già này thì cuộc đời sẽ sung sướng biết bao!
ĐƯỢC TẶNG 49 TRIỆU
Cách đây 5 năm tôi được tặng một cái tách uống cà phê thật quí. Tôi bèn úp mở nói với nhiều người rằng tôi trúng số. Tin giật gân, hấp dẫn lắm chứ. Nhưng dò hỏi mãi thì biết rằng trên cái tách này có hình một bức tranh mà bức gốc đã được bán với giá mắc tiền nhất trong lịch sử hội họa là 49 triệu tiền Mỹ. Đó là bức Hoa Cầu vồng (Irises) của họa sĩ Vincent Van Gogh đã được nhà tỷ phú Paul Getty mua về để trong bảo tàng viện Paul Getty ở Malibu, Cali.
Việc đấu giá bức tranh Hoa Cầu Vòng xẩy ra vào tháng 11 năm 1988, chỉ mấy tháng trước biến cố phong thánh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nói lên một thời điểm, một khuynh hướng thời đại, tìm ra được nét trân quí qua những gì vẫn coi là tầm thường và bình lặng hằng ngày. Nhìn bức tranh trên thì nhiều người cũng thấy thường thôi. Có gì đặc sắc đâu, ai chả vẽ được! Nhưng người bán cũng như người mua là Paul Getty không khùng điên phí tiền đâu. Nhiều người đã khám phá ra đường hướng của Van Gogh, gọi là đường hướng biểu hiện. Cái nhìn và cái thấy của Van Gogh nằm ở điểm là cuộc đời giầu sang lắm, sức sống sung mãn đã hiển hiện nằm sẵn trong vạn vật, chứ đâu phải những hăm hở kiếm tìm mệt nhọc của loài người như hiện nay. Chỉ cần dừng chân ngắm nhìn: một cọng cỏ, một bông hoa, một cái cầu, một cái ghế, ngôi nhà đang ở, xem ra tầm thường và nhàm chán, bỗng khám phá ra những lạ lùng. Vì một cành lá cũng đang biểu hiện sức sống của cả vũ trụ. Mà vũ trụ thì giàu có, tại sao lại cứ phải sống nghèo nàn ăn mày ăn xin những đồ viện trợ phế thải cuộc đời. Cái nhìn này cần thiết cho con người ngày nay biết bao trong lúc chuyển mình bước vào ngàn năm mới. Một trăm năm vật vã, một ngàn năm hăm hở kiếm tìm, mà vẫn không thảnh thơi bằng con cá tung tăng dưới dòng nước, không nhởn nhơ sung sướng bằng con chim trên cành cây, không mặc đẹp bằng một bông hoa. Chắc là Vincent Van Gogh đã vẽ bức tranh Hoa Cầu Vồng hay Hoa Hướng Dương dưới ánh sáng rọi chiếu của đoạn Tin Vui:
"Hãy xem chim trời: chúng không gieo không gặt, không thu lúa vào kho; thế mà Cha của anh em ở trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em chẳng đáng quí hơn chúng sao? Trong anh em có ai lo lắng nhiều mà kéo dài sinh mạng ra thêm được một gang sao? Lại lo chi chuyện áo mặc. Hãy xem hoa dại mọc ngoài cánh đồng. Chúng nó có lao tác đâu, có xe sợi đâu? Thế mà, Thầy bảo thực anh em, ngay đến Salomon trong bộ đại trào cũng không lộng lẫy bằng một những bông hoa ấy". (Mt 6:25-29).
PHÚT RUNG ĐỘNG SỬNG SỐT
Mà thực vậy. Những phút kinh ngạc sảng khoái nhất thường lại đến vào những khoảnh khắc bất ngờ, qua những chuyện xem ra thật tầm thường.
Ở cái thời mà máy chụp còn rất sơ khai tại Việt Nam, một hôm đi xem triển lãm ảnh ở Hà Nội, nhà ảnh Nguyễn Cao Đàm kể lại cảm nghiệm bắt đầu mê chụp hình do một chuyện thật tình cờ: "Có một tác phẩm làm tôi rung động đến sửng sốt, đó lá tác phẩm chụp mấy chiếc lá súng sau cơn mưa của Phạm Ngọc Chấn. Những giọt nước trái sáng, sao mà long lanh đến thế... Tác phẩm làm tôi rung động mãnh liệt. Tôi thấy đó là tôi, với hết nghĩa của nó. Mà có gì đâu, chỉ vài cál lá súng và vài giọt nước... Làng tôi là vùng nhiều nước, lá súng có rất nhiều, mà sao lâu nay tôi không để ý đến. Mà vùng quê tôi còn nhiều thứ đẹp nữa... Tôi bắt đầu cầm máy. Nói về đề tài sáng tác: quanh nhà chúng ta, quanh ngõ chúng ta, quanh làng chúng ta, quanh đất nước chúng ta, đâu đâu cũng là một kho đề tài vô tận. Và người ảnh đeo máy lên vai".
Cũng mấy bông súng tầm thường mà sao nhà ảnh Trần Cao Lĩnh đã lột được linh hồn "Việt Nam Quê Hương Muôn Thuở" qua bức hình "Chiếc Cầu Ao". Một cô gái quê đang ngồi ở cầu ao nhúng chân xuống ao súng, chạm vào nước mát, chạm vào sức sống rất Việt Nam, như kiểu
Chiều chiều ra đứng bờ ao Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Nhà ảnh Trần Cao Lĩnh đã làm cho người xem xúc động, không rời mắt được, vì nhìn được chính mình trong đó. Ông đã bơm được chất sinh động vào cảnh tĩnh là vì ông "biết lột vỏ ngoài tầm thường để thấy rõ được giá trị bên trong của hình ảnh" như lời ông nói về "động tĩnh trong ảnh".
TIN VUI ĐẤU GIÁ TRÚNG
Khám phá ra được như vậy thì cuộc sống trở nên giầu có sung túc biết bao. Ngay ở vườn đàng sau và ngay trong nhà mình đã có nhiều triệu rồi, cả một kho tàng quí giá đang chờ được khám phá. Người mua bức tranh Hoa Hướng Dương hay Hoa Cầu Vồng của Van Gogh chỉ muốn nhắn gửi con người mệt mỏi và nghèo túng hôm nay: bạn đã trúng số, bạn đang quá giàu có rồi. Chỉ cần bừng mở con mắt: nguồn phú túc đang hiển hiện trước mặt mà Chúa Trời Đất đang tuôn đổ xuống như dòng thác trong cái thấy của thi hào Tagore. Chỉ cần mở tâm ra mà lãnh nhận. Hàn Mặc Tử trong một phút xuất thần cũng thấy vậy:
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi Cây bằng gấm và lòng sông toàn ngọc.
Suốt mấy năm từ ngày được tặng cái tách có bức Hoa Cầu Vồng, tôi vẫn thường dùng để uống cà phê mỗi sáng, với tâm tình đơn sơ: tôi đang uống vào cả dòng ân sủng, đang nhận lãnh 49 triệu mỗi ngày... bỏ qua rất uổng.
Ngày 19 tháng 6 năm 1998 là dịp kỷ niệm 10 năm tôn phong các thánh Việt. Khi tôn phong như vậy, hội thánh không chỉ nhằm vào việc đổ máu tử đạo là một hành động quyết liệt làm chứng đức tin, mà còn nhằm giới thiệu cả một đạo sống đáp ứng thời đại, vẫn gọi là đường tu đức, tức là lối nhìn và lối sống khám phá ra nét giầu có và hạnh phúc giản đơn trong cuộc sống thường ngày. Sở dĩ đường tu đức các Thánh Việt chưa được khai triển nhiều, có thể vì mẫu sống bị giết chết vì đạo xem ra xa vời tầm tay của đại chúng ít ai có được diễm phúc ấy. Chính vì thế, con đường cận nhân tình gần gũi với cuộc sống thường ngày cần phải được mở lối, như Nẻo Bước Dũng Lạc, như Đường Nở Hoa Lê Thị Thành...
Khi học hỏi về các thánh Ta, nhiều người thắc mắc tại sao ít thấy các ngài làm phép lạ hay chẳng để lại tài liệu sách vở dẫn lối tu đức gì cả như các thánh Tây. Nhưng nhìn kỹ hơn thì mọi người sẽ kinh ngạc thấy rằng đã có quá nhiều phép lạ. Được sinh ra và hiện hữu trên mặt đất là tự nó đã là một phép lạ. Nhận ra rằng mỗi phút giây được hít thở, được nhìn thấy, được cử động đi lại, tất cả đều là những phép lạ. Điều quan trọng không phải là làm thêm phép lạ, mà là con mắt nhìn bỗng nhận ra đã có quá nhiều phép lạ, khám phá ra cuộc đời là một cuốn sách tu đức đang mở ra trước mắt, như Đức Mẹ Maria: "Chúa đã làm cho tôi biết bao phép lạ, danh Người là thánh" (Luca 1:49). Đa số các thánh Ta đều là giáo dân, sống trong cuộc sống bình lặng thường ngày, vậy mà cả hội thánh hoàn cầu đã công nhận và giới thiệu cho thế giới một con đường nên thánh, một mẫu sống đạt đức thật giản đơn và gần gũi, và đúng là phép lạ trúng số khi bước vào thời điểm 2000.
Điều cốt lõi của đường tu đức Việt là cái nhìn và cái thấy, vẫn được gọi là con mắt đức tin. Thấy được Chúa trời đất quyền năng và giầu có là cha của mình thì còn phép lạ nào lớn hơn được? Và mình đang được tham dự vào gia tài nước Trời như vậy thì còn phép lạ nào sánh bằng? Như thánh Phêrô đã nhìn và đã thấy: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa" (Luca 9:20), đang khi nhiều người chỉ nhìn thấy Chúa như một người tầm thường hay cũng cho Chúa ngang sức với một tiên tri nào đó thôi. Duy mình thánh Phêrô đấu giá trúng, và đã trúng số thật. Đấy là con mắt biết nhìn và thấy được.
PHÚT CẢM NHẬN
Trên đường ra pháp trường ở Châu Đốc, thánh Lê Văn Phụng thật cảm động gặp lại các con cháu của mình. Không biết nói gì hơn, Ngài liền gỡ thánh giá đang đeo mà khoác vào cổ người cháu gái tên là An-na Nhiên mà dặn dò:
"Cháu hãy nhận lấy kỷ vật của ông. Đây là tượng Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tượng này quí hơn vàng bạc bội phần. Cháu hãy luôn mang trên cổ, và trung thành cầu nguyện sớm chiều cháu nhé".
Một kinh đọc kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có câu "Các Thánh Tử Đạo là ân huệ Chúa ban cho Hội Thánh Việt Nam, vì thế chúng con dâng lời cảm tạ và ca tụng Chúa". Ân huệ này chả lẽ không bằng 49 triệu Mỹ kim? Chính vì nhận ra gia tài giầu có này mà thánh Lê Văn Phụng cũng như Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã muốn quyết liệt trối lại cho con cháu bằng bất cứ giá nào, và hội thánh đã công nhận và chuyển đạt cho thế giới. Chả lẽ mình cứ sống nghèo khổ mãi sao?
Sáng sớm ngày 27 tháng 7 năm 1940, ông Surihara tuổi 40, là đại sứ Nhật Bản: 24/6-8
Sáng sớm ngày 27 tháng 7 năm 1940, ông Surihara tuổi 40, là đại sứ Nhật Bản tại cộng hòa Li-tu-a-nia, giật mình thức giấc bởi tiếng ồn ào của đám đông tới tấp đến trước tòa đại sứ. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy dân chúng gồm cả mấy ngàn người ùn ùn kéo tới như trong một cảnh tị nạn.
Quả thật, người giúp việc đến thưa: "Đó là những người tị nạn Do Thái. Họ đến xin đại sứ cứu sống họ."
Kể từ tháng 9 năm 1939, đoàn quân của Đức Quốc Xã đã xâm chiếm lãnh thổ Ba Lan và nhà độc tài Hít-le (Adolf Hitler 1889-1945) đã ra lệnh khủng bố và tiêu diệt toàn bộ người Do Thái.
Đại sứ Surihara lên tiếng hỏi dân chúng muốn gì. Một luật sư tên là Giorac thay mặt đám đông trình bày với Đại sứ về số phận thảm thương của người Do Thái. Riêng gia đình luật sư Giorac đã bị quân Đức Quốc Xã giết chết hoàn toàn, chỉ còn một mình ông sống sót!
Để tránh nạn diệt chủng, người Do Thái chạy từ Balan sang tị nạn tại cộng hòa Li-tu-a-nia. Nhưng giờ đây chiến tranh đã lan tràn tới cộng hòa nhỏ bé này, nên đoàn người Do Thái lại phải lên đường chạy trốn. Lộ trình duy nhất để cứu sống họ là lộ trình xuyên qua lãnh thổ Liên Xô. Nhưng người Nga sẽ không cho phép người Do Thái nhập cảnh nếu họ không đưọc một nước thứ ba tiếp nhận. Tất cả đại sứ quán tại Li-tu-a-nia đều đóng cửa, không muốn giúp đỡ người Do Thái tị nạn.
Đại sứ Surihara nói với đoàn người tị nạn Do Thái rằng: "Tôi sẵn sàng cứu giúp quí vị, nhưng tôi phải hỏi ý kiến của Tôkyô trước đã."
Nghe Đại sứ Surihara trả lời, ông Giorac thực sự lo lắng. Vào giai đoạn hiện tại, tức là vào năm 1940, nhiều quốc gia không mấy thiện cảm với dân tộc Do Thái; riêng Nhật Bản còn tỏ ý đồ muốn liên kết với Đức Quốc Xã.
Đại sứ Surihara liền đánh điện về Bộ Ngoại Giao Tôkyô. Ông xin phép ký các chiếu khán chuyển tiếp ngay tức khắc cho lớp người Do Thái chạy tị nạn. Tôkyô trả lời rằng "Ông không được ký chiếu khán chuyển tiếp cho những người không được một quốc gia thứ ba tiếp nhận."
Hay là bậc anh hùng?
Đêm hôm đó, Đại sứ Surihara không thể nào ngủ được. Ông nói với vợ: "Anh phải làm một cái gì đó để cứu giúp những người tị nạn Do Thái đáng thương này." Vợ ông là bàLujico cũng là người công giáo tốt, hoàn toàn hiệp nhất với chồng: "Vâng chúng ta có bổn phận cứu giúp người Do Thái."
Đại sứ Surihara còn liên lạc với Tôkyô thêm hai lần nữa, nhưng lần nào cũng bị Bộ Ngoại Giao từ chối lời ông yêu cầu. Ông nói với vợ: "Nếu anh bất tuân lệnh chính phủ thì có nghĩa là con đường sự nghiệp của anh tiêu tan. Nhưng anh quyết định bất tuân. Nếu anh vâng lệnh chính phủ thì điều đó có nghĩa là anh không vâng lệnh Thiên Chúa. Anh đã chọn theo tiếng nói lương tâm để vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục loài người." BàLujico vợ ông trả lời: "Vâng, chúng ta phải cứu sống càng nhiều người Do Thái càng tốt."
Quyết định rồi, Đại sứ Surihara đứng trước cửa đại sứ quán tuyên bố với đám đông người Do Thái: "Tôi sẽ ký chiếu khán chuyển tiếp cho tất cả những ai xin."
Đoàn người Do Thái tị nạn từ yên lặng ngỡ ngàng chuyển sang cử chỉ hò reo vui sướng. Nhiều người không cầm được nước mắt vì cảm động trước lời tuyên bố của Đại sứ Surihara .
Sáng hôm đó ngày 1 tháng 8, 1940, Đại sứ Surihara bắt đầu ký chiếu khán cho đoàn người tị nạn Do Thái chuyển tiếp sang Nhật. Ông làm việc bất kể ngày đêm. Trong vòng một tháng ông đã ký 3500 chiếu khán. Nhiều người nhận được chiếu khán Nhật Bản nói "Chúng tôi sẽ không bao giờ quên ơn Đại sứ Suriharà."
Quả thật năm 1967, chính quyền Israel đã tổ chức lễ tưởng thưởng vị anh hùng Nhật Bản đã cứu sống nhiều người Do Thái thời thế chiến thứ hai. Vào dịp đó, ông Igo nhà vật lý học, nói về Đại sứ Surihara rằng: "Người can đảm là người làm điều khó làm trong khi vị anh hùng làm điều xem ra không thể nào làm được. Vị anh hùng hành động ngay cả khi ông biết mình không được bất cứ một lợi lộc nào."
Còn ông Giorac khi ấy là Bộ trưởng bộ tôn giáo, thì nói: "Đại sứ Surihara quả thực là vị Đại sứ của Thiên Chúa."
Đại Sứ của Thiên Chúa theo nghĩa tuyệt đối
Với bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca cũng hé mở cho thấy Đức Giêsu ý thức mình là ai, vượt trên tất cả những điều người ta có thể nghĩ về Người. Người không chỉ là một con người can đảm. Người cũng không phải chỉ là một bậc anh hùng. Nhưng Người là Đại Sứ của Thiên Chúa theo nghĩa tuyệt đối. Tức là Người Con của Thiên Chúa (Lc 1,35), được cưu mang do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35), sinh ra là Đấng Cứu Độ (Lc 2,11). Do đó Người mới có quyền đòi hỏi mọi người phải từ bỏ chính mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người (Lc 9,32). Người được Thiên Chúa phái đến không chỉ để cứu sống một số người nhưng là để cứu sống toàn thể nhân loại một cách vĩnh viễn.
Thánh Luca đã khéo đặt màn tuyên tín của tông đồ Phêrô đại diện nhóm Mười Hai ở đỉnh cao của sách Tin Mừng Luca về Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đặt bối cảnh cho màn tuyên tín này bằng việc Người cầu nguyện một mình (c.18) cho thấy tầm quan trọng của nó.
c.20: Với lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận Thầy Giêsu là "Đức Kitô của Thiên Chúa" như ngôn sứ Simêon đã tuyên xưng (Lc 2,26), cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng mà Thiên Chúa phái đến để thực hiện kế hoạch cứu độ.
c.21: Cho thấy Đức Giêsu dứt khoát không muốn người ta lầm tưởng Người được Thiên Chúa sai đến để giải phóng Israel theo hướng chính trị.
Cứu nhân độ thế qua sự chết và sống lại
c.22: Ngược lại, Người thực hiện công trình cứu nhân độ thế bằng chính con đường đau khổ, chết và sống lại của Người. Người kết hợp nơi bản thân cả hai hình ảnh: hình ảnh của Con Người đến giữa mây trời theo lời ngôn sứ Đa-ni-en 7,13-14 và hình ảnh Người Tôi Tớ chịu đau khổ để đền tội cho dân, theo như ngôn sứ Isaia 40-45.
cc.23-24: Điều được Luca nhấn mạnh là mọi người. Mọi người đều được kêu gọi bước theo Đức Giêsu và việc đó có nghĩa là CHỌN con đường khổ nạn chính Người đã chọn (c.22). Nhưng con đường ấy lại chính là con đường đưa tới vinh quang khi Người bước vào trong vinh quang của Người, của Chúa CHA cùng với các thánh thiên thần (c.26).
Một cách đơn giản mọi người đều có thể dự phần vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu bằng cách từ bỏ mình hàng ngày. Bình thường việc từ bỏ đó không phải là một hy sinh lớn lao, tuy vẫn là con đường đưa nhiều người Kitô tới cái chết tử đạo như bài Tin Mừng hôm nay có thể đã ám chỉ (c.24).
Người môn đệ nào chấp nhận con đường đau khổ và gian nan thử thách hầu phục vụ Danh Chúa (1C 15, 31; 2C 4,10-11), người đó xem ra mất tất cả mọi sự (c.24). Nhưng dưới cái nhìn đức tin, người đó sẽ cứu chính mạng sống mình vì mạng sống của người ấy sẽ được đưa vào vinh quang Thiên Chúa trong ngày chung thẩm (c.26).
Ai là người môn đệ Đức Giêsu cũng đều phải sống mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy Chí Thánh, như lời thánh Phaolô nói: "Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong sự chết của Người sao?" (1C 6,3).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Theo ý bạn, khi cấp chiếu khán cho 3500 người Do Thái tị nạn nhập cảnh Nhật Bản, Đại sứ Surihara đã tỏ ra là một người can đảm? Đã tỏ ra là một bậc anh hùng? Đã thực sự hành động với tư cách là vị Đại sứ của Thiên Chúa? Đã thực sự sống Tin Mừng hôm nay bằng cách vác thập giá mình hàng ngày để bước theo Chúa Giêsu? Hay bạn có ý kiến nào khác?
2. Bạn nghĩ việc bạn từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Chúa Giêsu, việc đó khi nào là chuyện bình thường và khi nào trở nên gay cấn như một cuộc tử đạo?
Ngoài Đức Maria ra chỉ có một vị thánh được Giáo Hội trọng kính ngày sinh: 24/6-9
Ngoài Đức Maria ra chỉ có một vị thánh được Giáo Hội trọng kính ngày sinh nhật. Vị thánh này chính là Gioan Tẩy Giả. Ngày sinh nhật của ngài có thể nói là ngày đầu tiên của mùa hè. Từ đây ngày ngắn dần, màn đêm kéo dài thêm. Ngược lại, ngày sinh nhật của Đức Giêsu có thể nói là ngày đầu tiên của mùa đông: đêm ngắn dần, ngày dài thêm. Hình ảnh này biểu trương cho mối tương quan đặc biệt giữa thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Ông chính là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Ông đã tự nhìn nhận rằng: Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại. Một nghệ thuật sống không dễ gì bắt chước.
Thánh Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Trong bài đọc I chúng ta đã nghe nói về cuộc đời của một tiên tri, làm sao ông có thể tự nhận diện mình là ai và đâu là sứ mạng của mình. Ông đã được Thiên Chúa kêu gọi. Cả cuộc đời sẽ hoàn toàn tận hiến cho sứ mạng được trao phó cho mình. Thiên Chúa giới thiệu ông như người tôi tớ. Tuy vậy, ông không phải là người đầy tớ chỉ biết làm theo ý chủ, nhưng còn là người hoàn toàn đặt tin tưởng nơi chủ mình. Kinh nghiệm của ông cũng rất khiêm tốn: Tôi đã vất vả mất công vô cớ, tôi đã phí sức vô ích! Nhưng lòng tin của ông không hề nao núng.
Theo gương Ngài, một Linh mục đã cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Giêsu Kitô, con biết rằng, điều quan trọng không phải là con thành đạt, được mọi người ca tụng, công việc của con gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp. Điều quan trọng duy nhất chính là: con không phải là kẻ cản mũi kỳ đà, làm ngăn trở đường Chúa, con chỉ là khí cụ Chúa dùng. Không phải con dẫn dắt người khác đến với con, nhưng là đến với Chúa. Lạy Chúa Giêsu Kitô, hãy gìn giữ con trước ảo tưởng, chính con phải cứu độ trần gian. Đừng bao giờ để con quên rằng, Chúa đã cứu thế giới từ lâu. Con sẽ không thất vọng cùng đường, khi con hao mòn kiệt sức, không làm trọn bổn phận Chúa trao. Con chỉ là cửa sổ, Chúa chính là ánh sáng, ..."
Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa không phải là danh giá, thành tích, mà là thái độ sống. Gioan Tẩy Giả là một bằng chứng sống động, hùng hồn nhất. Từ trong dạ mẹ, ông đã được Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn làm tiền hô, kêu gọi mọi người thống hối ăn năn, dọn đường cho Chúa. Lời rao giảng của ông có thể tóm tắt trong một câu: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Trước mặt người đời ông là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành, bị những kẻ gian ác cứng lòng tin ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù, nhưng Đức Giêsu đã nói về ông như sau: "Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả" (Mt 11,11).
Tất cả mọi người đều được mời gọi cộng tác vào công trình cứu độ. Giống như Gioan Tẩy Giả, chúng ta được mời gọi làm chứng tá của Thiên Chúa trước mặt thế gian, mời gọi dẫn đường chỉ lối cho người khác đến cùng Đức Giêsu, và qua Người đến cùng Chúa Cha. Qua phép Rửa tội chúng ta trở thành con người mới, trở thành ánh sáng cho người khác. Công cuộc truyền bá đức tin là nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu. Con cái phải được cha mẹ nuôi dưỡng giáo dục cẩn thận, cần phải lớn lên trong đức tin để có thể khám phá và tự lập đi con đường dành cho mình. Ngược lại, ảnh hưởng của cha mẹ trên con cái phải mỗi ngày một giảm đi. Đây cũng là một nghệ thuật sống. Người phải lớn lên trong tôi, trong gia đình, trong công việc, trong mọi hoàn cảnh; còn tôi phải nhỏ lại. Đó chính là thái độ sống mà thánh Gioan Tẩy Giả đã sống và nêu gương cho chúng ta.
Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người..
* Cv 13,22-26:
Để dọn đường cho Đức Giêsu, Oâng Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gioan đã tuyên bố: "Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người".
* TIN MỪNG: Lc 1,57-66.80:
Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói:" Không, phải đặt tên cháu là Gioan". Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả." Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Oâng xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan." Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự kiện ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen.
NGẪM:
* Câu hỏi gợi ý:
Gioan có vai trò gì trong Chương Trình Cứu Độ của Đức Giêsu, của Thiên Chúa?: 24/6-10
1. Gioan có vai trò gì trong Chương Trình Cứu Độ của Đức Giêsu, của Thiên Chúa?
2. Ngày nay Thiên Chúa có cần những Gioan Tiền Hô không?
3. Mỗi thành viên, mỗi gia đình đóng vai trò Gioan Tiền Hô của mình như thế nào?
* Suy tư gợi ý:
1. Vai trò của Gioan trong Chương Trình Cứu Độ của Đức Giêsu và của Thiên Chúa
Gioan có vai trò rất quan trọng trong Chương Trình Cứu Độ của Đức Giêsu và của Thiên Chúa: Vai trò đó là loan báo và dọn đường cho Đức Giêsu đến; là chuẩn bị lòng người đón rước Đức Giêsu. Đón rước Đức Giêsu, chính là đón nhận quà tặng của Thiên Chúa (Xem Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, chương 2), là thực thi Kế hoạch Cứu Rỗi của Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan được gọi là Tiền Hô tức người báo trước. Để thực thi trách nhiệm Tiền Hô của mình, Gioan giảng dạy và làm phép Rửa cho những ai sám hối ăn năn trở lại quay về với đường chính nẻo ngay là sống theo luật lệ của Thiên Chúa để xứng đáng đón nhận Ơn Cứu Độ do Đức Giêsu đem đến. Do đó mà Gioan còn được gọi bằng một danh xưng khác là Gioan Tẩy Gỉa.
2. Ngày nay Thiên Chúa vẫn cần có những Gioan Tiền Hô
Sau khi chết Đức Giêsu đã phục sinh và hiện diện trong Giáo Hội và thế giới. Nhưng vấn đề là mỗi người, mỗi cộng đoàn có biết nhận ra sự hiện diện của Người mà tiếp rước mà đón nhận hay không. Vì thế vẫn cần có những con người chỉ đường hướng dẫn thế nhân và xã hội. Mặt khác để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, lòng con người phải được chuẩn bị sửa sang, dẹp bỏ trăm bề ngổn ngang. Đó cũng là công việc của những người ngày nay đóng vai tiền hô, tẩy gỉa nhu Gioan. Vai trò này trở thành cấp bách vì như Tông Huấn "Giáo Hội tại Châu Á" nhận định: ngày nay người ta muốn xây dựng thế giới không có Thiên Chúa. Mặt khác đứng trước một hiện tượng xem ra như trái nghịch và khó hiểu là Đức Giêsu, Đấng Sáng Lập Kitô Giáo là người Châu Á nhưng lại vẫn là gương mặt xa lạ đối với phần đại đa số người châu Á. Những người này "có khuynh hướng coi Đức Giêsu, một người sinh ra trên mảnh đất châu Á, là một người Tây Phương hơn là Á Châu" !!! (Xem Tông
Huấn Giáo Hội tại Châu Á số 20).
3. Mỗi thành viên, mỗi gia đình đóng vai trò Gioan Tiền Hô của mình bằng cách sống đầy đủ Linh Đạo.
Ai nấy chúng ta đều biết: Tương Thân Tương Aùi - Thánh Hóa Lao Động - Thăng Tiến Xã Hội.
* Tương Thân Tương Aùi: là sống yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ giữa anh chị em thành viên với nhau (và với tha nhân) tựa như cùng thuộc về một gia đình. Nếu nhờ chứng tá yêu thương của các Kitô hữu đầu tiên mà "Thiên Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ" (Cv 2,47) thì cũng chỉ nhờ vào đời sống Tương Thân Tương Aùi của chúng ta mà Thiên Chúa dùng biến mỗi thành viên và mỗi Gia Đình thành công cụ thực hiện Kế Hoạch của Người.
* Thánh Hoá Lao Động: là chu toàn những công việc (trí óc hoặc chân tay) thuộc phận sự mình với tinh thần Kitô giáo. Ý nghĩa Kitô giáo của Lao Động là con người được cộng tác với Thiên Chúa Sáng Tạo để xây dựng một thế giới có tính nhân bản, nhằm phục vụ hạnh phúc đích thực ở đời này và đời sau của loài người và của từng con người và làm vinh danh Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa Toàn Năng và Yêu Thương! Ngoài công việc lao động riêng của từng cá nhân, mỗi gia thường có một dự án kinh tế ở mức độ nhỏ (đôi khi rất nhỏ) là có ý để các thành viên ý thức hơn về ý nghĩa cao cả của Lao Động. Chúng ta có thể khẳng định "Lao Động là Vinh Quang" nếu như chúng ta biết thánh hóa Lao Động tức biết dùng Lao Động để tôi luyện chúng ta thành "thánh"!
* Thăng Tiến Xã Hội: là làm cho cộng đồng và xã hội của con người, nhất là của người nghèo, mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn: yêu thương, công bằng hơn; bình an, giầu sang, văn minh, tiến bộ hơn trong mọi lãnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, môi sinh, tôn giáo và tâm linh. Thăng Tiến Xã Hội là một chiều kích càng ngày càng được nhấn mạnh trong đời sống Kitô hữu ngày nay. Không là gì khác mà chính là sứ mạng làm muối, làm men, làm ánh sáng mà Đức Giêsu đã nói đến nhiều lần trong Phúc Âm.
Muốn sống Tuơng Thân Tương Aùi, Thánh Hóa Lao Động và Thăng Tiến Xã Hội thì điều kiện tiên quyết là chúng ta phải biết sống TỪ BỎ, HY SINH, KHIÊM NHƯỜNG, BÉ NHỎ như Gioan, để Đức Giêsu có thể đến, có thể lớn lên trong các tâm hồn, kể cả chính trong tâm hồn chúng ta. Nếu hạt lúa không chết đi, thì...; Nhưng nếu nó chết đi thì..
NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cám tạ ơn Cha vì Cha đã mời gọi chúng con làm sứ gỉa của Con Cha và vì Cha đã cho chúng con một mẫu gương là Thánh Gioan Tiền Hô & Tẩy Gỉa để chúng con biết cách dọn đường cho Con Cha là Đức Giêsu đến với con người ngày hôm nay.
Chúng con xin Cha ban Thánh Thần của Cha cho chúng con để chúng con có đủ sức mạnh Sống Tương Thân Tương Ái, biết Thánh Hóa Lao Động và phục vụ sự Thăng Tiến Xã .
Nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Con Cha, Chúa chúng con, và nhờ công nghiệp của Thánh Giuse Thợ, của Thánh Giooan Tiền Hô, của Chân Phước An-dôn Khôi Bình.Amen!!!
Cho đến hôm nay, tôi vẫn nhớ dòng sông Giôđan trên đất thánh. Quãng sông: 24/6-11
Cho đến hôm nay, tôi vẫn nhớ dòng sông Giôđan trên đất thánh. Quãng sông tôi thấy không lớn lắm. Hai bên bờ là những bãi cỏ và những bụi lau. Người hướng dẫn khách hành hương chỉ quãng sông này mà nói với tôi: Chính tại con sông này và chính tại khúc sông này, thánh Gioan Baotixita đã làm phép rửa cho dân chúng. Và cũng chính tại đây, thánh Gioan Baotixita đã gặp Chúa Giêsu lần đầu tiên, đã giới thiệu Ngài với dân chúng, và đã làm phép rửa cho Ngài theo lời Ngài yêu cầu.
Những hình ảnh lịch sử trên con sông lịch sử ấy gợi ý cho tôi nhìn thánh Gioan Baotixita bằng một nét vắn gọn: Tôi nhìn Ngài như con người của ranh giới. Thánh Gioan Baotixita là con người của ranh giới. Gọi như thế có nghĩa gì?
1.- Thánh Gioan Baotixita là con người của ranh giới: Trước hết có nghĩa: Ngài là nơi gặp gỡ giữa hai ranh giới đạo cũ và đạo mới.
Thánh Gioan Baotixita được sinh ra trong đạo cũ, có những quan niệm tôn giáo nhiệm nhặt. Đọc lại những lời giảng ban đầu của thánh Gioan Baotixita còn ghi lại trong Phúc Âm, ta thấy Gioan Baotixita là con người khe khắt. Kẻ có tội đến xin thanh tẩy, Ngài giáo dục họ bằng những lời trách mắng đe loi khá nặng. Ngài nói: “Nòi rắn độc, ai mách cho các ngươi trốn cuộc thịnh nộ sắp đến. Kìa lưỡi rìu đã đặt sẵn ngay gốc cây rồi. Cây nào không quả sẽ bị chặt ngay mà quăng vào lửa. Người đến sau tôi sẽ thanh tẩy các ngươi bằng Thánh Thần và lửa. Cái rê lúa sẵn trong tay, Ngài sẽ rê sạch lúa. Lúa tốt thì thu vào lẫm. Lúa lép thì cho vô lửa để mà đốt đi”.
Với những lời đó, thánh Gioan Baotixita muốn vẽ ra một hình ảnh nào đó của Đấng Cứu Thế đến sau Ngài, một Đấng Cứu Thế nghiêm khắc đến để kết án, đến để luận phạt.
Khi Gioan Baotixita nghe tin Chúa xuất hiện với thái độ hiền hậu, không kết án, không luận phạt, không nghiêm khắc, thì Gioan Baotixita thực sự hoang mang thắc mắc. Gioan liền cho hai môn đệ mình đến với Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác”. Chúa Giêsu nói với hai môn đệ hãy trở về thưa lại với Gioan rằng: “Kẻ mù được sáng, kẻ què được đi, kẻ phong cùi được khỏi bệnh, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại và kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Phúc cho người nào không vấp phạm vì tôi”.
Với những lời đó, Chúa Giêsu đã trả lời Gioan một cách tế nhị, để Gioan thấy Đấng Cứu Thế không đến để luận phạt, mà chỉ để tha thứ và ban ơn. Mong Gioan đừng vì thế mà buồn. Thật sự, Gioan Baotixita đã không buồn, không vấp phạm, Ngài đã đón nhận sự thực. Ngài thuộc thế hệ cũ, nhưng Ngài không bảo thủ, không cố chấp, không khép kín. Ngài đã có những chuyển biến nội tâm quan trọng, nên khi gặp Chúa Giêsu, Gioan giới thiệu với quan niệm đổi mới: “Đây Chiên Thiên Chúa đây Đấng xóa tội trần gian”. Có nghĩa: Đây là Đấng Cứu Thế hiền lành như con chiên, không đến để kết án, nhưng đến để xóa tội trần gian. Gioan đã từ ranh giới đạo cũ, bước sang ranh giới đạo mới, giới thiệu đạo mới nhưng với uy tín của nền đạo cũ. Gioan Baotixita là con người của ranh giới.
2.- Gioan Baotixita là con người của ranh giới còn có nghĩa là: Ngài dứt khoát sống trong ranh giới địa vị chức năng của mình.
Ngài biết mình được sinh ra do đặc ân của Thiên Chúa. Ngài biết tên Gioan Ngài mang cũng phát xuất từ một biến cố bởi trời. Ngài biết mình được thánh hóa nhờ sự Đức Mẹ đến viếng thăm. Ngài biết mình có sứ mạng làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Ngài dứt khoát trong phạm vi ranh giới đó.
Có hai sức ép muốn bảo Ngài ra khỏi ranh giới đó. Trước hết là sức ép của quần chúng ái mộ. Họ muốn tôn vinh Ngài còn hơn là vị tiên tri. Nhưng Ngài cương quyết xác định một cách khiêm tốn: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Tôi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế”. Ngược lại, lại có sức ép của nhà cầm quyền. Họ muốn Gioan từ bỏ chức năng rao giảng những điều đạo đức không vừa ý họ. Nhưng Gioan khiêm tốn xác định một cách cương quyết: “Tôi phải san phẳng đường đi, để đón Chúa đến”.
Gioan không bước lên quá ranh giới địa vị, cũng không lùi xuống quá ranh giới chức năng. Gioan là con người của ranh giới.
3.- Gioan Baotixita là con người của ranh giới, còn có nghĩa sau chót là Ngài can đảm bênh vực ranh giới đạo đức mà không được quyền xúc phạm.
Hồi đó, đạo đời có nhiều lạm dụng. Gioan can đảm cảnh cáo những lạm dụng đó. Với những người thu thuế lạm dụng, Ngài bảo họ chớ đòi gì quá mức đã định. Với binh lính lạm dụng, Ngài bảo họ đừng khảo của người ta, đừng vu oan kiếm lợi. Vua Hêrôđê lạm dụng, Ngài bảo Vua: Nhà Vua không được phép cướp vợ người khác. Với những người chức sắc tôn giáo lạm dụng, Ngài bảo họ: Đừng bảo mình là con cái Abraham mà tự tôn.
Bảo vệ ranh giới là điều khó tránh được đụng độ. Vì thế, Gioan Baotixita đã bị bắt và sau cùng đã bị nhà vua ra lệnh chém đầu. Chém được đầu Gioan Baotixita nhưng không chém được tinh thần bất khuất của Gioan Baotixita. Vì thế, qua gần 2000 năm, Gioan Baotixita đã trở thành con người sáng chói của lịch sử. Anh chị em thân mến,
Tôi vừa giới thiệu chân dung của thánh Gioan Baotixita như một người của ranh giới:
- Bởi vì Ngài là nơi gặp gỡ giữa hai ranh giới đạo cũ và đạo mới.
- Bởi vì Ngài dứt khoát sống trong ranh giới địa vị chức năng của Ngài.
- Bởi vì ngài can đảm bênh vực ranh giới đạo đức, không ai được quyền vượt qua. Đời mỗi người đều bị chi phối bởi những ranh giới vô hình. Giữ được những ranh giới vô hình ấy là nên người, là nên thánh. Tôn trọng những ranh giới vô hình ấy là có bình an, là có hiệp nhất.
Xin Chúa nhân lành, nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ và thánh Gioan Baotixita giúp chúng ta luôn biết tôn trọng những ranh giới vô hình chi phối đời ta. Amen.
Như chúng ta đã biết, thánh Gioan Baotixita quen được gọi là Gioan tiền hô: 24/6-12
(Viết lại C1)
Như chúng ta đã biết, thánh Gioan Baotixita quen được gọi là Gioan tiền hô. Nói cách khác dễ hiểu hơn, Gioan Baotixita, hay Gioan tiền hô là người loan tin. Phúc Âm lễ hôm nay cho ta thấy Gioan là người chính Chúa đã chọn để loan tin. Loan tin là sứ mạng của Ngài.
Cái tin mà Gioan loan đi, là tin Chúa Cứu Thế đang đến. Chúa Cứu Thế có nhiều đặc điểm. Nhưng khi giới thiệu Chúa Cứu Thế, Gioan đã chỉ nhấn mạnh đến một đặc điểm mà thôi. Đặc điểm đó là sự khiêm nhường. Gioan chỉ vào Chúa Giêsu mà nói: “Đây là con chiên của Thiên Chúa. Đây là người gánh tội trần gian”.
Chúa Cứu Thế khiêm nhường như con chiên, Chúa Cứu Thế khiêm nhường dưới hình thức một kẻ mang nặng tội lỗi loài người trên vai, Ngài đang đến. Ai muốn gặp Ngài, thì phải làm sao? Gioan loan tin: Muốn gặp Chúa Cứu Thế khiêm nhường thì phải khiêm nhường, tức là hãy nhận biết lỗi lầm của mình, hãy ăn năn sám hối, hãy sửa mình lại.
Cách Gioan loan tin, cũng là khiêm nhường. Gioan quyết liệt từ chối mình không phải là Chúa Cứu Thế, không phải là tiên tri Êlia. Gioan cũng hề làm phép lạ. Người sống rất đơn sơ, nghèo khó. Ngài nhận mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc. Như ta biết trong sa mạc có những tiếng kêu như tiếng gió thổi, tiếng chim kêu, tiếng mưa rơi. Tất cả tiếng kêu đó, đều rất tầm thường rất tự nhiên, không đóng khung trong một khuôn khổ nào, không bị kẹt do một phạm vi nào. Cũng thế, cách mà Gioan dùng để loan tin về Chúa, cũng rất uyển chuyển, rất bình thường, cũng rất tự nhiên, cũng rất thanh thản, không gò bó vào một khuôn khổ nào, không câu nệ vào một hình thức nào. Ngài nói rất ít. Nhưng chính bản thân Ngài là một tiếng nói loan tin, một tiếng nói âm thầm. nhẹ nhàng thanh thản, nhưng đầy ơn Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em,
Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về thánh Gioan Baotixita. Từ những suy nghĩ đó, tôi nhìn thấy hai yêu cầu đặt ra cho chúng tôi.
Yêu cầu thứ nhất là chúng ta phải lắng nghe những loan tin của Chúa trong lịch sử hôm nay. Theo tôi, thì cái tin mà Chúa đang dùng nhiều người nhiều cách để loan báo hiện nay, vẫn là tin Chúa Cứu Thế đang đến với từng tâm hồn thiện chí. Chúa Cứu Thế rất khiêm nhường. Ai muốn gặp được Ngài, thì phải khiêm nhường. Tôi có cảm tưởng là rất nhiều người chúng ta trong Giáo Hội rất thiếu đức khiêm nhường, rất nhiều người trong chúng ta trong Giáo Hội hầu như không bao giờ chú ý đến đức khiêm nhường, đang khi khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức. Nếu chúng ta và Hội Thánh chúng ta không tự ý và tự sức sống thực sự khiêm nhường, thì chính Chúa sẽ tự động uốn nắn chúng ta và Hội Thánh chúng ta nên khiêm nhường, bằng cách có thể làm đau đớn. Không thể khác được. Bởi vì có khiêm nhường, thì ta và Giáo Hội ta mới có thể là dụng cụ cứu rỗi.
Yêu cầu thứ hai là chúng ta phải loan tin về Chúa cứu độ trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi quan niệm rằng: Chia sẻ Tin Mừng cứu độ là bổn phận tất nhiên của mọi con cái Chúa. Nhưng nói thế, tôi không cố ý khuyên anh chị em lôi kéo ai theo đạo chúng ta. Tôi cũng không tán thành việc chia sẻ Tin Mừng cứu độ bằng những cách phô trương, nặng hình thức bề ngoài. Tôi nghĩ là Chúa muốn chúng ta hay là những Gioan Baotixita loan tin Chúa Cứu Thế khiêm nhường một cách khiêm nhường, bằng những cách khiêm nhường. Đó là bằng chính cuộc sống của mình, một cuộc sống lương thiện sống khiêm tốn, sống kết hợp với Chúa và đoàn kết với đồng bào, sống chan hòa tình người, sống phục vụ Tổ Quốc trong những khả năng khiêm tốn của mình.
Tôi thân ái cầu chúc anh chị em đạt được hai yêu cầu đó. Tôi cũng thành khẩn anh chị em cầu nguyện cho tôi biết thực hiện hai yêu cầu đó bằng tất cả những gì là tự nhiên và siêu nhiên mà Chúa thương ban cho chức vụ của tôi. Nguyện xin tinh thần thánh Gioan Baotixita luôn sống động mạnh mẽ trong mỗi người chúng ta. Amen.
Chuyện thánh Gioan Baotixita có thể chia thành ba tập: Tập một là thời gian: 24/6-13
Chuyện thánh Gioan Baotixita có thể chia thành ba tập:
Tập một là thời gian từ đời tổ tiên, ông bà, cha mẹ Gioan cho đến ngày Gioan được sinh chào đời. Thời gian này khá dài. Các chi tiết trong thời gian này đều do Chúa sắp sếp. Thí dụ sự Thiên Thần hiện ra báo tin cho ông Giacaria về đứa con muộn màng của ông. Sự ông bị câm từ ngày đó. Sự Đức Mẹ đến thăm bà Isave, làm cho thai trong dạ Isave nhảy mừng. Sự bà Isave sinh con trai đặt tên là Gioan. Sự ông Giacaria hết câm và nói tiên tri về Gioan. Tất cả những chi tiết trên đây đều thuộc về chuyện Gioan. Nhưng không hề do Gioan tự chọn, mà hoàn toàn do Chúa quyết định. Như vậy tập một này là do Chúa viết ra.
Tập hai là từ ngày Gioan sinh ra cho đến ngày Gioan qua đời. Thời gian này rất vắn, khoảng vài chục năm. Trong thời gian này có nhiều việc Gioan tự chọn. Nhưng xét cho cùng thì các tự chọn ấy của Gioan cũng nằm trong sự hướng dẫn quyền phép của Thiên Chúa. Bởi vì ngay trước khi Gioan được thụ thai trong lòng bà Isave, Thiên Thần đã báo trước cho ông Giacaria biết Gioan sẽ đầy Chúa Thánh Thần, sẽ có cái nhìn và sức mạnh của Đấng tiên tri, sẽ đi trước Chúa, để dọn đường cho Người. Những ơn đặt biệt đó, tất nhiên sẽ hướng dẫn Gioan biết nói đúng sự thực, vào đúng thời điểm cần nói, và biết làm đúng việc lành vào đúng thời điểm nên làm. Lựa chọn của Gioan là lựa chọn có tự do. Nhưng sự tự do ấy đã được hướng dẫn bởi ơn khôn ngoan quyền năng Thiên Chúa. Như vậy, có thể nói tập hai này cũng được viết do bàn tay Thiên Chúa.
Tập ba là thời gian từ khi Gioan qua đời cho đến bây giờ và mãi mãi sau này. Trong thời gian này, các lời giảng và việc lành của Gioan như những hạt giống tốt không ngừng sinh sôi nẩy nở. Vinh quang của Gioan cũng không ngừng phát triển. Bản thân của Gioan trên trời không ngừng hưởng hạnh phúc vô biên bất diệt. Như vậy, tập ba này không do Gioan quyết định. Tất cả đều do Chúa chủ động.
Khi suy nghĩ như trên, tôi thấy rằng: Việc quan trọng cần làm trong ngày thánh lễ Gioan là cảm tạ Chúa và ca tụng Chúa vì những sự lạ lùng Chúa đã làm nơi Gioan.
Một sự lạ lùng rất đáng chú ý nơi thánh Gioan là một người tay không đã trở thành một dụng cụ của Chúa, đầy sức mạnh thiêng liêng, lôi cuốn biết bao tâm hồn trở về dân lành. Gioan không có của cải, tiền bạc, cũng không có địa vị, cũng không làm phép lạ. Cũng không giảng điều gì cao siêu. Ngài cũng không màu mè, không sơn phết gì cho bản thân mình. Ngài chỉ chấp nhận và sống trần trụi sự thực về mình và về sứ mệnh của mình. Sự thực đó rất là khiêm tốn, đơn sơ và rõ rệt. Khiêm tốn như tiếng kêu trong sa mạc. Đơn sơ như kẻ dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Rõ rệt như việc ăn năn sám hối và tin vào Đức Kitô.
Thế rồi, khi Đức Kitô xuất hiện, thì Ngài kêu mời mọi người tập trung niềm tin vào Đức Kitô. Còn Ngài thì tự ý lu mờ đi. Thánh Gioan quả là người làm chứng. Ngài làm chứng rằng: Bản thân Ngài chẳng có gì. Chẳng là gì cả. Và Ngài làm chứng rằng: Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng xóa tội trần gian. Cái đẹp và cái mạnh của thánh Gioan là ở sự Ngài chân thành làm chứng về hai sự thực đó. Theo tôi thấy thì làm chứng sự thực về Đức Kitô là điều tuy khó, nhưng không khó cho bằng làm chứng sự thực về mình, mới dám làm chứng cho sự thực ấy.
Tôi nghĩ rằng: Để truyền giáo cho người thời nay, thánh Gioan Baotixita vẫn là tấm gương giá trị. Các cộng đoàn Hội Thánh nói chung và từng người truyền giáo nói riêng cần phải can đảm và khiêm tốn nhận sự thực về bản thân mình, và cần phải mạnh dạn tập trung vào Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Lạy Đức Kitô là Đấng thánh Gioan đã giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian, xin Chúa thương xóa tội cho con, cho Hội Thánh của con, cho tất cả nhân loại của con. Amen.
Cách đây đúng một năm, ngày 24/6/1992, tôi đang ở Rôma. Ngày 24/06: 24/6-14
Cách đây đúng một năm, ngày 24/6/1992, tôi đang ở Rôma.
Ngày 24/06 năm rồi, đối với tôi là một ngày không thể nào quên. Bởi vì trong ngày ấy, tôi đã học được nhiều điều tốt lành, giúp tôi biết cách dọn đường cho Chúa theo gương thánh Gioan Baotixita. Hôm nay tôi xin chia sẻ vắn tắt với anh chị em.
Điều tốt lành thứ nhất tôi học được trong ngày ấy, đó là tinh thần cầu nguyện.
Thực vậy, sáng hôm ấy, lễ bổn mạng của tôi, tôi được hân hạnh đồng tế với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tại nhà nguyện riêng của Ngài. Ngài đứng giữa, tôi đứng cạnh Ngài bên tay mặt. Nhìn Ngài cầu nguyện trong thánh lễ, tôi có cảm tưởng Ngài gặp gỡ chính Đức Kitô: Từ kinh Cáo Mình đọc đầu thánh lễ, cho đến phép lành ban cuối lễ, Ngài luôn tỏ mình ra như một vị thượng tế đầy khiêm tốn. Đồng thời cũng tỏ mình ra như một của lễ đầy đớn đau. Hình ảnh Đức Thánh Cha cầu nguyện với tôi trong lễ bổn mạng hôm ấy, gợi cho tôi nhớ hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô trong sa mạc: Một mình với Chúa, chỉ Chúa với mình trơ trọi, hoặc hoàn toàn lắng nghe tiếng Chúa, tập trung vào sự đón nhận tâm tình của Chúa.
Sự kiện trên đây nhắc nhở tôi rằng: Dọn đường cho Chúa đến, là phải biết coi trọng sự cầu nguyện, coi sự cầu nguyện như bầu không khí để thở, như ánh sáng để nhìn, như lương thực để nuôi sống mình. Đấy là điều thứ nhất tôi học được trong ngày lễ mừng thánh Gioan năm ngoái.
Điều tốt lành thứ hai tôi học được hôm ấy, đó là tinh thần đối thoại bác ái.
Hôm đó cũng là ngày diễn ra cuộc đàm phán giữa phái đoàn Toà Thánh và phái đoàn nhà nước Việt Nam lần đầu tiên ở Vatican. Tôi có mặt trong ngày ấy.
Một chi tiết đã kéo chú ý của tôi rất nhiều, đó là: Trong thời gian đàm phán, Toà Thánh đã mời phái đoàn Việt Nam đến thăm một số cơ quan từ thiện Công Giáo, và chứng kiến tận mắt những việc lành Hội Thánh đã dành cho kẻ nghèo túng.
Sự kiện trên đây gợi ý cho tôi cách rao giảng Tin Mừng của thượng tế Giacaria, thân phụ thánh Gioan Tiền Hô, mà Phúc Âm hôm nay nhắc tới. Ông rao giảng Tin Mừng, không phải bằng cách đưa ra các lý lẽ, nhưng bằng cách đối thoại viết ra trên giấy sự Chúa đã soi cho mình, và nhất là bằng cách giới thiệu hài nhi Gioan, là một công trình của ân huệ Thiên Chúa cứu độ.
Tôi nghĩ rằng: Kẻ dọn đường cho Đức Kitô trong thế giới hôm nay, cũng phải có tinh thần đối thoại, nhất là bằng cách giới thiệu những việc bác ái cụ thể, để thuyết phục, để chia sẻ, để giúp cho mọi người nhận ra Tin Mừng cứu độ. Đấy cũng là một bài học mà tôi thiết tưởng rất cần cho tôi trong cương vị dọn đường cho Chúa đến.
Điều tốt lành thứ ba tôi học được trong ngày hôm ấy, đó là: Tinh thần khiêm tốn thượng võ.
Theo chương trình đã dự định trước, tôi sẽ bỏ Rôma để về Paris ngay chiều 24.06. Chuyến bay dự báo khởi sự từ 4 giờ chiều. Nhưng gần đến giờ bay xảy ra một sự cố tại sân bay, thông báo khẩn cấp báo rằng: Chuyến bay Paris bị hoãn lại đến 7 giờ tối. Đó là một sự rủi ro bất ngờ, làm xáo trộn tất cả các chương trình của tôi tại Paris. Hơn thế nữa, gần đến giờ bay 7 giờ, lại một thông báo khẩn cấp báo lên, chuyến bay về Paris sẽ hoãn lại tới 9 giờ đêm, tôi lại cảm thấy bơ vơ. Khi máy bay của tôi tới Paris, thì đã gần nửa đêm. Các phòng đợi vắng lặng. Những người đến đón tôi đã trở về hết. Tôi lại quên số điện thoại nhà tôi trọ. Tôi đành gọi một xe nhỏ, anh tài xế lại không biết đường đi. Phố tôi trọ là một phố nhỏ chưa in trên bản đồ thành phố Paris. Nhưng biết làm sao? Đành phải mạo hiểm. Một mình trong xe, với một người tài xế lạ lẫm, trên một quãng đường dài trên 60 cây số, để tìm căn nhà mình muốn tới.
Trong chuyến đi đêm ấy, trên máy bay cũng như trên xe, tôi cảm thấy rất bơ vơ, rất cô đơn, rất yếu đuối, rất bất lực, rất bé nhỏ. Và sự kiện ấy gợi lại cho tôi nhớ tới lời thánh Phaolô nói trong bài Thánh Thư hôm nay về Gioan rằng: Cuối chuyến đi của Ngài, Gioan chủ trương mình phải bé nhỏ lại để Đức Kitô lớn lên. Và tôi suy nghĩ rằng: Kẻ dọn đường cho Đức Kitô cũng phải luôn luôn sẵn sàng đón nhận sự Chúa thanh luyện mình bằng sự cô đơn, bằng những thánh giá, bằng những rủi ro, bằng những yếu đuối.
Nhưng chính trong thời gian thanh luyện ấy, tinh thần phó thác và khiêm tốn sẽ được phát triển nhiều hơn.
Anh chị em thân mến.
Sở dĩ hôm nay tôi chia sẻ những điều tôi đã học ngày 24/6 năm rồi tại Vatican, là vì tôi nghĩ rằng: Tất cả anh chị em đều là Gioan Baotixita, có bổn phận dọn đường cho Chúa đến. Gioan là những cá nhân, Gioan là những cộng đoàn, những tập thể.
Chúng ta dọn đường cho Chúa, nhưng thực ra, chính Chúa dọn đường cho chính chúng ta, như chúng ta đã thấy Chúa dọn đường cho Gioan Baotixita, và như kinh nghiệm tôi vừa kể với anh chị em: Chính Chúa dọn đường cho tôi.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là hãy biết đi vào đúng con đường Chúa chọn cho mình. Chúa đang đưa chúng ta vào con đường cầu nguyện, Chúa đang đưa chúng ta vào con đường khiêm tốn, cậy trông, phó thác. Chúng ta đi vào đó là chúng ta dọn đường cho Chúa, và chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội cho ta, Đấng đền tội cho ta, Đấng tha tội cho ta. Amen.
Ba bài sách thánh trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Thánh Gioan: 24/6-15
Ba bài sách thánh trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Thánh Gioan Baotixita là người được Chúa chọn ngay từ trong lòng mẹ.
Ngài không làm phép lạ nào. Nhưng sự sinh ra của Ngài chính là một phép lạ. Và trong cuộc sống của Ngài, những cái nhìn của Ngài cũng giống như phép lạ.
Thực vậy, đang khi mọi người lúc đó, kể cả những vị lãnh đạo tôn giáo, có vẻ an tâm với khuôn khổ nếp sống đạo của mình, thì Ngài nhìn thấy cần thiết phải có sự thay đổi từ bên trong đến bên ngoài. Và đang khi mọi người lúc đó cho rằng sự thay đổi nếp sống tôn giáo sẽ thực hiện được nhờ sự thay đổi chế độ chính trị, thì Ngài nhìn thấy sự thay đổi nếp sống đạo chỉ có thể thực hiện được bằng việc ăn năn sám hối của mỗi người. Và đang khi mọi người lúc đó sống bên cạnh Chúa Giêsu mà vẫn đợi chờ Đấng Cứu Thế, thì Ngài nhìn thấy Đức Giêsu Kitô chính là Đấng Cứu Thế, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian. Và đang khi mọi người lúc đó quan trọng hoá địa vị và các việc đạo đức của mình, thì Ngài nhìn thấy bản thân mình chẳng là gì, chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, không xứng đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.
Tất cả những cái nhìn trên đây đều mang tính chất tiên tri, và đều mang một vẻ đẹp thiêng liêng, đó là sự khiêm tốn, một sự khiêm tốn phát xuất từ một tâm hồn thinh lặng luôn chú tâm lắng nghe Lời Chúa, một sự khiêm tốn dấn thân rất cần cho mọi phát triển đời sống thiêng liêng của cá nhân và của cộng đoàn, một sự khiêm tốn quên mình luôn luôn là dấu chỉ của những người được Chúa chọn để dọn đường cho Chúa.
Thánh Gioan Baotixita đã được Chúa chọn để dọn đường cho Chúa Cứu Thế, và Ngài đã tích cực cộng tác với ơn Chúa gọi. Tin vào ơn gọi, Ngài luôn đi về phía trước, bất chấp các cản trở, và không cần biết kết quả trước mắt xảy ra cho mình.
Mọi người chúng ta đều được chia sẻ ơn gọi của thánh Gioan Baotixita, kẻ cách này, kẻ cách khác. Trong ơn gọi đó, chúng ta cũng hãy chia sẻ những cái nhìn của Ngài. Nhất là chúng ta cần bắt chước sự khiêm tốn quên mình và dấn thân của Ngài. Thánh Gioan Baotixita là một mẫu gương đẹp. Không phải để chúng ta sao chép, nhưng để chúng ta bắt chước tinh thần của Ngài, với những sáng kiến do Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta. Hội Thánh Việt Nam hôm nay đang cần những người như thế. Chính Chúa đang ước mong mỗi người chúng ta sẽ là một người như thế. Amen.
Thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu: 24/6-16
Thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu. Ngài được Thiên Chúa chọn một cách đặc biệt. Sứ mệnh của ngài là báo tin cho dân Chúa biết Đấng Cứu thế đang đến. Bổn phận của ngài còn là dọn đường cho Đấng Cứu thế. Đó là những công việc không dễ dàng. Thánh Gioan Baotixita đã thực hiện những công việc khó khăn đó cách nào? Thưa tất nhiên bằng những lời loan báo. Nhưng những lời loan báo ấy được kèm theo nhân cách đạo đức, lối sống đạo đức, việc làm đạo đức của ngài.
Đạo đức nơi Gioan Baotixita được nhận thấy ở nhiều nét, đặc biệt ở những điểm sau đây.
Trước hết là lòng khiêm tốn. Đang khi dân chúng ca tụng ngài như một vị tiên tri cao cả, thì ngài lại xưng mình là kẻ hèn hạ, không đáng cởi dây giầy cho Đấng Cứu thế sẽ đến sau ngài (x.Mt 3,11). Đang khi nhiều người tung hô ngài như một vị có bản lãnh dám đứng ra cải cách đạo, thì ngài lại tự nhận mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc (x. Ga 1,23).
Cùng với lòng khiêm tốn, đạo đức của Gioan Baotixita chú trọng đến cái tâm. Ngài tập trung việc dọn đường cho Chúa Cứu thế vào sự ăn năn sám hối, rèn luyện lương tâm (x.Lc 3,3). Phải thành tâm thống hối. Phải thực tâm mến Chúa yêu người. Cái tâm phải ngay thẳng, phải trong sáng. Toà án lương tâm nơi mỗi người phải được xây dựng và kiểm tra bởi động lực và mục tiêu chân lý đạo đức.
Từ cái tâm tốt, Gioan Baotixita dấn thân lo cho con người bằng những hành vi phục vụ và những ứng xử xót thương. Ngài khuyên những ai dư ăn dư mặc hãy chia sẻ cho những kẻ thiếu thốn (x.Lc 3,10). Ngài khuyên đừng hà hiếp, đừng vu vạ cáo gian (x.Lc 3,14). Ngài cảnh giác thói quen phô trương cậy mình là con cháu Abraham nhưng trên thực tế lại không đem lại cho đồng bào mình hoa thơm trái tốt thiêng liêng nào (x.Mt 3,7-10). Đạo đức là xót thương con người, là phục vụ con người bằng những việc làm cứu độ cụ thể, đó cũng là một dấu chỉ đúng đắn để nhận ra chính Đức Kitô. Có lần Đức Kitô đã nhắn cho Gioan Baotixita biết tiêu chuẩn đó (x.Mt 11,2).
Để việc phục vụ con người đáp ứng được đúng nhu cầu, nhất là những nhu cầu thiêng liêng, đạo đức, thánh Gioan Baotixita đã nêu cao việc tu thân, sống chay tịnh và chiêm niệm, thường xuyên phấn đấu với chính mình và những khuynh hướng hưởng thụ, an nhàn, như lời Đức Kitô đã khẳng định: Muốn vào Nước Trời, phải có nhiều cố gắng, phải thực sự phấn đấu từ bỏ chính mình (x.Mt 11,12).
Sau cùng, nét đạo đức nổi bật nhất của thánh Gioan Baotixita là đề cao Đức Kitô. Chỉ Đức Kitô là Đấng Cứu thế. Và khi tuyên xưng chân lý đó, Gioan Baotixita đã tự tìm cách để mình mờ nhạt đi. Ngài chủ trương ngài cần phải hạ thấp xuống, và Đức Kitô cần phải được nâng lên cao (x. Ga 3,30).
Trên đây là một thoáng nhìn về hình ảnh vị tiền hô Đấng Cứu thế. Ngài được dân chúng thời đó tin mến, bởi vì ngài rất đạo đức. Ngài dấn thân, nhưng lại rất tu thân. Ngài để ý đến đạo lý, nhưng nhấn mạnh hơn đến đạo đức. Ngài quan tâm đến việc phát triển cuộc sống con người, nhưng chú trọng hơn đến việc phát triển những giá trị thiêng liêng của con người.
Xưa, vị đọn đường cho Đấng Cứu thế đã sống và làm như vậy, còn nay thì sao?
Nay, Chúa vẫn dùng những kẻ dọn đường. Tất nhiên những kẻ dọn đường thời nay nên có thêm những cái nhìn mới, như biết nhìn xa tới tương lai, biết nhìn rộng ra thế giới, biết nhìn sâu vào dân tộc, biết nhìn đúng vào nhu cầu hiện đại hoá. Nhưng cái nhìn cần thiết nhất vẫn là cái nhìn gắn bó với các giá trị thiêng liêng. Nhìn thường xuyên vào các giá trị ấy, cố gắng tìm kiếm những giá trị ấy, sống thực sự với những giá trị ấy, làm chứng cho những giá trị ấy. Những việc đó sẽ làm nên chiều kích đạo đức của kẻ dọn đường cho Đức Kitô. Nhờ chiều kích thiêng liêng đó, kẻ dọn đường cho Đức Kitô sẽ có thể gây được niềm tin nơi người thời nay. Thiết tưởng những ai có chiều kích thiêng liêng đó sẽ có thể làm được những việc coi như không sao làm được.
Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin cùng anh chị em cảm tạ Chúa nhân lành vì những ơn Chúa đã ban cho thánh Gioan Baotixita.
Chúng ta cũng cầu xin Chúa giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, biết vâng ý Chúa, để biết dọn đường cho Đức Kitô một cách hữu hiệu tại Quê hương Việt Nam hôm nay.
Chúng ta đang trong thời kỳ chuẩn bị mừng năm 2000. Năm đó được gọi là: 24/6-17
Chúng ta đang trong thời kỳ chuẩn bị mừng năm 2000. Năm đó được gọi là năm thánh, bởi vì đây là một kỷ niệm lớn nhắc lại biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người.
Theo tôi, kỷ niệm Chúa giáng sinh không thể tách rời khỏi kỷ niệm sinh nhật thánh Gioan Baotixita. Bởi vì thánh Gioan Baotixita là vị tiên tri được Chúa chọn để dọn đường cho Chúa cứu thế đến.
Thánh Gioan Baotixita đã thực hiện sứ mạng được trao thế nào? Đó là vấn đề tôi xin vắn tắt chia sẻ hôm nay. Phúc Âm cho thấy: Ngài đã dọn đường cho Chúa bằng 4 việc căn bản sau đây:
Việc thứ nhất là việc Ngài nêu cao nếp sống tu thân. Ngài vào nơi hoang địa, sống một mình trong cảnh cực kỳ khó nghèo. Ngày đêm cầu nguyện chiêm niệm và tự lập mưu sinh. Việc tu thân khắc kỷ của Ngài nói lên ý chí của Ngài phấn đấu với chính mình, với thói xấu thế gian và với ma quỷ, để tập tành rèn luyện sống triệt để lý tưởng thánh thiện.
Việc thứ hai là việc Ngài rao giảng sự thống hối. Trong tiếp xúc riêng tư cũng như khi nói chuyện trước đám đông, thánh Gioan Baotixita thường hay đề cập tới việc ăn năn sám hối. Đối với Ngài, ăn năn sám hối là đổi mới tấm lòng, đổi mới nếp sống, đổi mới những cái nhìn, đổi mới những thao thức. Sao cho lương thiện hơn, sao cho công bình hơn, sao cho bác ái hơn, sao cho hợp thánh ý Chúa hơn.
Việc thứ ba là việc Ngài chỉ cho thấy Đấng cứu thế đã đến. Khi Đức Kitô đi giữa đám đông đến với Gioan để xin chịu phép Rửa, Gioan đã chỉ vào Đức Kitô mà giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,36). Rồi Gioan làm chứng rằng: Đức Kitô được Chúa Cha trọn vẹn yêu mến, và được đầy ơn Chúa Thánh Thần. Gioan phải trở nên bé nhỏ, và Đức Kitô phải được đề cao.
Việc thứ tư là việc Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống, để bênh vực sự thực, đổi mới cơ chế tội lỗi. Ngài đã cảnh cáo tội ác của vua Hêrôđê, và vì thế Ngài đã bị vua ra lệnh bắt giam và bị chém đầu.
Nhìn qua 4 việc trên đây của thánh Gioan Baotixita, chúng ta thấy Ngài thực sự được Chúa Thánh Thần soi dẫn trong sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế. Tất cả 4 việc đó và từng việc một đều làm chứng về ơn thánh cứu độ. Tất cả 4 việc đó và từng việc một đều qui hướng về sự đổi mới con người và xã hội, đồng thời cũng chỉ cho thấy đâu là ý nghĩa cao đẹp của đời sống con người. Thiết tưởng 4 việc trên đây của thánh Gioan Baotixita cũng là những gợi ý tốt, để chúng ta chuẩn bị mừng Năm thánh 2000 một cách có ý nghĩa.
Hiện nay, trong chương trình chuẩn bị mừng Năm thánh 2000, người ta thường hay nhắc tới những qui tụ lớn, những cử hành lớn, những cuộc hành hương lớn. Các chương trình như thế cũng hữu ích, nhưng không thể thay thế được những việc mà thánh Gioan Baotixita xưa đã thực hiện, để dọn đường cho Chúa cứu thế đến.
Tất nhiên chúng ta không nên bắt chước theo kiểu rập khuôn hình thức bề ngoài, nhưng chúng ta cần bắt chước theo tinh thần nội dung bên trong. Nói chung tinh thần nội dung bên trong là sống ơn Chúa gọi mình một cách trung tín.
Ơn gọi của chúng ta thường rất đơn sơ, nhưng đồng thời cũng rất phức tạp. Đơn sơ, bởi vì ơn gọi ví như hạt giống tốt Chúa gieo vào lòng ta. Phức tạp, bởi vì lòng ta thường hay thay đổi. Có lúc lòng ta cứng cỏi như đất pha nhiều đá sỏi, có lúc lòng ta rắc rối như những bụi gai. Vì thế hạt giống ơn gọi không phát triển được.
Hôm nay, trong thánh lễ này, chúng ta cầu nguyện cho mình và cho cộng đoàn chúng ta được sống tốt ơn gọi của mình. Để theo gương thánh Gioan Baotixita, chúng ta dọn đường cho Chúa Cứu thế bằng những việc lành bé nhỏ, bằng cuộc đời phục vụ khiêm cung, bằng sự luôn cố gắng đổi mới cuộc đời và góp phần đổi mới xã hội, quê hương chúng ta.
Trong thánh lễ, trước phần chia sẻ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, vị chủ tế: 24/6-18
Trong thánh lễ, trước phần chia sẻ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, vị chủ tế cầm Mình Thánh, giơ lên và nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”.
Những lời trên đây diễn tả một niềm tin, một tâm tình tuyên xưng. Người đầu tiên đã nói những lời đó là thánh Gioan Baotixita. Ngài nói mấy lời ấy để giới thiệu Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa hằng sống và cũng chính là Thiên Chúa làm người.
Những lời này nói lên một chân lý rất khác với não trạng tôn giáo thời đó. Thời đó, qua những gì được nghe, được học về Chúa, người ta thường chỉ hiểu Chúa như một vua cao sang, một chúa quyền năng, một đấng thống trị, một thẩm phán thưởng phạt. Đó là chân lý phải tin. Từ chân lý này phát xuất ra hình ảnh đạo Chúa mang chiều hướng chinh phục, chiến thắng, quyền lực, đối kháng, loại trừ.
Nay, Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với một hình ảnh rất mới: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Chiên là hình ảnh hiền lành, khiêm nhường. Hơn thế nữa, Chiên Thiên Chúa còn tự nguyện hy sinh gánh tội nhân loại, tự nguyện hy sinh chịu chết thay cho nhân loại, tự nguyện mang mọi khổ đau của nhân loại, như một hiến lễ tình yêu.
Chiên Thiên Chúa là biểu tượng tình yêu, đầy cảm thương, đầy hy sinh, từ bỏ chính mình, để cứu độ nhân loại.
Ngay sau đó, Đức Kitô đã đến, đã sống và đã chết đúng như Gioan Baotixita đã giới thiệu trước. Chính vì vậy, Đức Kitô đã trở nên Tin Mừng. Tôi nhìn Ngài là Tin Mừng yêu thương tôi. Tôi tin Ngài là Tin Mừng cứu độ tôi. Tôi đón nhận Ngài là Tin Mừng đem lại hạnh phúc cho tôi.
Để cho Đức Kitô là Tin Mừng đích thực được đề cao, thánh Gioan Baotixita đã chủ ý tự hạ, “Tôi phải bé nhỏ lại, để Đức Kitô được nâng lên”. Đó là chủ trương của Gioan Baotixita. Và Ngài đã sống đúng với chủ trương mình đã chọn.
Hôm nay, lễ thánh Gioan Baotixita, chúng ta đối chiếu Giáo hội chúng ta, cộng đoàn chúng ta và chính bản thân chúng ta với thánh Gioan Baotixita. Khi đới chiếu, tôi thấy có nhiều điều đáng mừng, đáng tạ ơn Chúa, và cũng có nhiều điều đáng lo ngại, đáng ăn năn sám hối.
Điều đáng mừng nhất là có nhiều nơi, nhiều người đã và đang đề cao Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ. Họ đề cao bằng rao giảng đức ái, bằng chính nếp sống cảm thông hy sinh chia sẻ, bằng cả cái chết như một lễ tế của mình.
Điều đáng lo ngại nhất là có nhiều người, nhiều nơi vẫn chỉ tuyên nhận bề ngoài hình thức Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ, nhưng trong lòng và thực tế đời sống vẫn đi tìm những tin mừng cứu độ ở quyền chức, tiền của, danh vọng và thú vui ích kỷ phù du.
Xin Chúa thương ban cho Hội thánh chúng ta, họ đạo chúng ta, chính bản thân chúng ta được ơn trở về với Tin Mừng đích thực. Amen.
Bài Tin Mừng Chúa nhựt hôm nay (MV2-A) nêu gương một người đã tích: 24/6-19
Bài Tin Mừng Chúa nhựt hôm nay (MV2-A) nêu gương một người đã tích cực chờ đợi Chúa, đó là Gioan Tẩy giả:
- Ông sống trong hoang địa với một lối sống giản dị và thanh đạm.
- Ông tích cực dọn đường cho Chúa bằng lời rao giảng kêu gọi sám hối.
- Ông nôn nóng mau được thấy ngày Chúa đến, nên đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu.
Chính vì thế, ông đã được Chúa Giêsu hết lời khen ngợi: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan tẩy giả”. Tuy nhiên Ngài nói thêm là những người sống vào thời Tân Ước còn “cao trọng” – nghĩa là có phúc – hơn Gioan.
Ngày xưa Đấng Cứu Độ cần có Gioan dọn đường, thì ngày nay cũng vẫn thế. Việc này ngày nay được gọi là “Tiền phúc âm hóa”. Việc “tiền phúc âm hóa” tạo những điều kiện thuận lợi cho mãnh đất, để khi hạt giống phúc âm gieo xuống thì mọc lên ngay. Vậy tôi sẽ làm công việc tiền phúc âm hóa này cho những ai ? Và làm bằng cách nào ?
Gioan tẩy giả đã tự dọn con đường lòng mình bằng cuộc sống trong sa mạc, nghĩa là trong một khung cảnh thinh lặng. Tôi cũng chỉ có thể gặp Chúa và nghe được tiếng gọi của Ngài nếu tôi biết đi vào “sa mạc” bằng tĩnh tâm, cầu nguyện và không để mình bị xáo trộn bởi những lo lắng sự đời.
Gioan đã tỏ lòng xám hối bằng lối sống giản dị và thanh đạm. Nhờ vậy mà ông có được sức mạnh chống lại những cám dỗ nơi mình và sự dữ nơi người khác, cho dù phải tù đày, hy sinh tính mạng. Trước những cám dỗ thật hấp dẫn và thử thách đầy phức tạp trong hoàn cảnh xã hội hôm nay, chúng ta càng cần có cuộc sống giản dị và thanh đạm để không bị cuốn hút vào cuộc sống văn minh hưởng thụ cách ích kỷ đầy cạm bẫy này.
Gioan Tẩy Giả đã sai môn đệ tới gặp gỡ Chúa, nhờ đó họ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và đi theo Ngài. Chẳng những tôi phải dọn đường cho Chúa đến với bản thân tôi, mà cũng phải dọn con đường cho Chúa đến với anh chị em tôi bằng cách giúp cho họ gặp gỡ được Đức Kitô qua Lời Chúa, qua phụng vụ Bí tích, qua những biến cố trong cuộc sống, và nhất là qua đời sống yêu thương phục vụ tha nhân của tôi. Tôi có quan tâm đến điều này không ? Và tôi đã làm được những gì rồi ?
Trong Năm Phụng Vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Sinh Nhật của Đức GS: 24/6-20
Trong Năm Phụng Vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Sinh Nhật của Đức Giê-su ( 25.12 ), Sinh Nhật của Đức Ma-ri-a ( 8. 9 ) và Sinh Nhật của Gio-an Tẩy Giả ( 24. 6 ). Cuộc đời và sứ mạng của Gio-an gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giê-su nên Giáo Hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh Nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch Phụng Vụ. Gio-an được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
1. SINH NHẬT KỲ DIỆU
Thánh Lu-ca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gio-an “Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” ( Lc 1, 14 ). Dacaria bị câm:
Thân phụ của Gio-an bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông đang dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình ( Lc 1, 5 – 23 ) Khỏi Tội Nguyên tổ
Bà Ê-li-sa-bét có thai được 6 tháng, Đức Ma-ri-a đã đến viếng thăm, vừa nghe lời của Đức Ma-ri-a chào thì thai nhi Gio-an đã nhảy mừng trong dạ mẹ ( Lc 1, 41 ) và được đầy tràn Thánh Thần ( Lc 1, 15 ). Hồng Ân này được Giáo Hội hiểu là Gio-an đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Ma-ri-a cả nhân loại không ai có được.
Son sẻ mà có con
Hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét là người công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng họ lại không con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi, cả hai đều đã cao niên ( Lc 1, 6 – 7 ).
Vậy mà bà đã sinh con “Bà sinh hạ một con trai, nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” ( Lc 1, 57 – 58 ).
Trong Cựu Ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy. Bà Sa-ra mẹ I-xa-ác ( St 11, 30; 21, 1 – 7 ). Bà Rê-bê-ca, mẹ của Ê-sau và Gia-cóp ( St 25, 21 – 26 ). Bà Ra-khen mẹ của Giu-se ( St 29, 21; 30, 22 – 24 ). Bà An-na mẹ của Sa-mu-en ( 1 Sm 1, 2 – 20 )
Tên Gio-an và hết câm
Gio-an sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Da-ca-ri-a nhưng bà mẹ lên tiếng “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả. Khi Da-ca-ri-a viết tên Gio-an trên tấm bảng, thì miệng lưỡi ông được mở ra, ông hết câm và nói lại được như trước kia ( Lc 1, 59 – 65 ).
Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gio-an vì “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em” ( Lc 1, 66 ).
Sinh nhật Gio-an kỳ diệu cũng đúng thôi, vì Gio-an sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
2. ƠN GỌI KỲ DIỆU
Ngôn sứ I-sai-a loan báo “Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Is 40, 3 – 5; Mc 1, 3; Lc 3, 4 – 6; Mt 3, 3 ). I-sai-a đã giới thiệu về Gio-an như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.
Ngôn sứ Ma-la-ki-a tiên báo
“Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu” ( Ml 3, 1 – 24; Mt 1, 10; Lc 1, 17; 7, 27 ). Lời Ngôn sứ Ma-la-ki-a nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gio-an như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
Sứ Thần Truyền Tin xác nhận
Sứ Thần của Chúa hiện ra với Da-ca-ri-a, đứng bên phải hương án, xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gio-an Tẩy Giả “sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” ( Lc 1, 17 ).
Thân phụ Dacaria
Dưới tác động của Thánh Thần, Da-ca-ri-a đã hát lên bài ca chúc tụng ”Benedictus” về ơn gọi của người con trai mình: “Hài Nhi hỡi, con sẽ đi trước mặt Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên” ( Lc 1, 76 – 77 ).
Gio-an khẳng định
Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gio-an và một người Do-thái về việc thanh tẩy, tại Ê-non, gần Sa-lem thuộc miền Giu-đê, chính Gio-an đã xác nhận ơn gọi của mình: “Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài” ( Ga 3, 28 ). Qua Sinh Nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gio-an, Thiên Chúa đã đặt Gio-an làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương, bị đế quốc Rô-ma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than, Gio-an cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hê-rô-đê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hê-rô-đi-a-đê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gio-an lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay. Vì thế Gio-an đã bị vua chém đầu.
Trước mặt người đời, Gio-an là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành, bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Thế nhưng Đức Giê-su đã nói về ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng một ai cao trọng hơn Gio-an Tẩy giả” ( Lc 7, 28 ). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống. Thái độ sống của Gio-an là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế. Đức Giê-su, vị Ngôn Sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi, cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15, 18 – 19 )
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa. Gio-an đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý. Người Ki-tô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gio-an hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách Ngôn Sư, chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu. Với tư cách là Tẩy Giả, chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đoa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến. Cuộc đời Gio-an Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống. Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gio-an: Ngài phải lớn lên, còn tôi phải lu mờ đi. Lm. Giu-se NGUYỄN HỮU AN, Giáo Phận Phan Thiết
Mầng lễ thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo Hội muốn dành cho Ngài một đặc: 24/6-21
Mầng lễ thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo Hội muốn dành cho Ngài một đặc ân cao quí và chỉ mình Ngài mới có vinh dự dọn đường cho Chúa đến . Trong ngày lễ hôm nay , chúng ta thử tìm hiểu cuộc đời của Gioan Tẩy Giả và vai trò của Ngài trong Lịch sử cứu độ nhân loại.
I. GIOAN BAOTIXITA, NGƯỜI LÀ AI ?
Đọc Tin Mừng, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì Gioan Baotixita đã được Thiên Chúa chọn lựa một cách đặc biệt:
Việc thụ thai của bà Élisabét cũng hoàn toàn do Thiên Chúa xót thương. Tin Mừng thuật lại rằng Giacaria và Élisabét đã già, hai ông bà mang tiếng là son sẻ. Tớiphiên Giacaria dâng hương đền thờ, dân chúng chờ đợi hoài không thấy Ông ra, nên họ rất đỗi ngạc nhiên. Số là Giacaria dâng hương thờ kính Thiên Chúa nơi Đền thánh, sứ thần Gabrien hiện ra, báo tin vui cho ông:" Vợ ông sẽ thụ thai vàsinh con trai ". Giacaria bán tín bán nghi, vợ ông đã già và ông cũng đã cao niên,và vì lòng cứng tin của Ông, Thiên Chúa đã phạt Ông câm cho tới khi sự việc xẩyra ( Lc 1,20 ).Việc truyền tin cho Giacaria đã nói lên tính cách quan trọng của vấn đề Thiên Chúa sẽ thực hiện là Thiên Chúa tuyển chọn Gioan Baotixita.
Thánh sử Gioan ngay trang mở đầu Tin Mừng thứ tư đã viết:" Có một Người đượcThiên Chúa sai đến, Người đó tên là Gioan, Ông đến để làm chứng cho Ánh Sáng"( Ga 1, 6 ). Gioan đã được dọn trước để minh chứng cho Sự Sáng: Đức Giêsu Kitô.
Nên cuộc đời của Ngài mang một ý nghĩa cao vời: Ngài sinh ra được Thiên Chúagìn giữ và bao bọc. Lúc còn trong bụng Mẹ, Gioan Baotixita đã được tiếp xúc vớiơn cứu rỗi, Ngài đã vui mầng , hân hoan nhảy nhót trong bụng Mẹ. Ngay cái tên của Ngài cũng do chính thần sứ đặt cho Ngài, chứ không do cha mẹ hay người họ hàng thân thích định liệu trước. Gioan Baotixita, tên Thiên Chúa tuyển chọn và khắc ghi để Chính Ngài làm chứng cho Ánh Sáng, Sự Thật và Sự Sống.
Được Thiên Chúa chọn lựa và cất nhắc, Gioan Baotixita càng lớn, càng khôn ngoan trước nhân loại và đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài đã bỏ gia đình, vào sa mạc sống đời cầu nguyện, hãm mình và ăn chay. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng . Quần áo của Ngài là da thú rừng ( Lc 1, 80 ).Ngài đã sống mật thiết với Chúa Giêsu trong lòng tin và phó thác tuyệt đối nơi bàn tay nhân từ của Chúa cứu thế .Ngài đã dọn đường cho Chúa, kêu gọi thống hối và lãnh nhận phép rửa. Nhiều người đã tuôn đến nghe lời Ngài giảng dậy, tin theo và xin Ngài ban phép rửa tội.Ngài minh xác:" Tôi không phải là Đấng cứu thế , Ngài nói sẽ một Đấng đến sau và Ngài không xứng đáng cởi giây giầy của Người " ( Lc 3, 16 ). Chính Chúa Giêsu đã tới sông Giorđan, nơi Gioan làm phép rửa và xin Ngài ban phép thanh tẩy cho mình. Gioan đã nhận ra Chúa Cứu Thế và chỉ cho các môn đệ của Ngài
Biết Đấng Cứu Thế. Sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Gioan Baotixita rất tốt đẹp nghiêm chỉnh và tích cực . Ngài đã tố cáo mọi bất công, kêu gọi sám hối ăn năn và quở trách vua Hêrôđê đã chiếm vợ của em mình. Sứ mạng dọn đường của Gioan Baotixita được chấm dứt bằng việc Ngài bị tống ngục và bị chặt đầu để minh chứng cho Sự Thật: Đức Giêsu Kitô .
II. VAI TRÒ CỦA GIOAN BAOTIXITA TRONG LỊCH SỬ CỨU RỖI NHÂN LOẠI:
Được tuyển chọn để giữ vai trò tiền hô, dọn đường cho Chúa đến, Gioan Baotixita đã được vinh dự hơn hết mọi trẻ trong trần gian vì ngay khi còn trong cung lòng bà Élisabét, Gioan Baotixita đã được hân hạnh đón nhận ơn cứu độ đầu tiên. Hiểu được ý định của Thiên Chúa, Gioan Baotixita đã nắm vai trò của mình cách vững chắc và hoàn toàn theo ý của Chúa. Trong lịch sử cứu rỗi, Thiên Chúa đã chọn nhiều ngôn sứ để dọn đường cho Con Ngài là Chúa Giêsu đến cứu chuộc. Gioan Baotixita được đặc ân lớn lao hơn mọi ngôn sứ là ban phép thanh tẩy cho Chúa Giêsu và hân hạnh giới thiệu với các môn đệ Đấng Cứu Thế . Gioan đã hoàn tất sứ mạng của mình bằng việc đổ máu để minh chứng cho Sự Thật và Tình Yêu của Thiên Chúa.
Vai trò của Gioan Baotixita trong lịch sử cứu rỗi là vai trò nối liền Cựu Ước với Tân Ước. Gioan tới để rao giảng phép rửa bằng nước và Đức Giêsu Kitô tới để hoàn tất bí tích rửa tội bằng chính Mình Máu và Thánh Thần ( Lc 3, 16 ). Sự hoàn tất của Chúa Giêsu càng làm nổi bật bộ mặt yêu thương của Gioan, vị tiền hô trung kiên của Chúa, xứng đáng với lời ca Alléluia:" Hỡi con trẻ, con sẽ được gọi Là tiên tri của Đấng tối cao: Con sẽ đi trước mặt Chúa để dọn đường cho Người " ( Lc 1, 76 ).
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rõ vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, Vị tiền hô của Thiên Chúa .
Xin Chúa giúp chúng ta biết nhỏ đi với những tính hư tật xấu của mình và để Chúa lớn mãi trong ta:" Người phải lớn lên, còn Tôi phải nhỏ lại ".
Xin cho chúng ta được trung kiên như thánh Gioan Tẩy Giả để làm chứng cho Sự Thật, Tình Yêu và Công lý .
Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông ........ Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật 24/6-22
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”( Ga 1, 6-7; Lc 1, 17 ). Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.
TRUYỀN TIN CHO DACARIA LÀ MỘT SỰ LẠ LÙNG:
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết. Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Elisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên ( Lc 1, 5-7 ). Thánh Luca kể tiếp:Ữ Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ Ẫ( Lc 1, 8-9 ). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10 ). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria, đứng bên phải hương án ( Lc 1, 11 ). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông ( Lc 1,12 ) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông:Ữ Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ong cầu xin: bà Elisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan" ( Lc 1, 13) và Ẫ Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đờiỮ( Lc 1, 14-15 ).
Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ ( Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả ).
NGÀI PHẢI LỚN LÊN, CÒN TÔI PHẢI NHỎ LẠI:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói:Ữ Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa "( Lc 3, 16 ).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:Ữ Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại Ẫ. Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng: Ữ... Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôiỮ ( Ga 1, 15 ). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái: xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ LÀM GƯƠNG CHO TA:
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không ? Thánh Gioan đã viết:Ữ Sự thật sẽ giải phóng con người Ẫ. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta ? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá ? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an.( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả ).
Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ; trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn: 24/6-23
A. Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ; trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ…đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Nhưng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
“Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy”.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ” (Mt 11,11)
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo ấy mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày tái sinh của chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài góm tọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” .
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già An Đo như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “ Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
C. Gioan còn có tước hiệu là Tẩy Giả. Ngài đã kêu gọi mọi người sám hối và làm phép rửa sám hối cho những kẻ thật lòng ăn năn.
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gio-an Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán đang cần đến những cơn mưa tình thương và Ơn Cứu Độ của Chúa.
Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt tay.
Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối rối trả lời:
- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết luận:
- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.
Xin nhắc lại ở nơi đây một lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói lời này để kết thúc một dụ ngôn nổi tiếng của Chúa. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu: “Anh hãy đi và làm như thế” Chúng ta hãy đi và làm như thế. Amen.
Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh: 24/6-24
Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời" của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.
Con người của một sứ mạng
Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là "bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính tình Yêu của Chúa "gọi" họ vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng đớ là một "ơn gọi". Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là tiêu biểu vả rõ ràng.
Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv..Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạlùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nới hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ "dọn đường". Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ "dọn đường” và "làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.
Gioan và Hêrôdê
Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.
Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.
Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta.
Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên "theo hình ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa" và "chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).
Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố...
Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta. Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?
Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo. Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo "ơn gọi" và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.
Phải thú thật là Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện... “ngược đời”. Cứ sự thường: 24/6-25
Phải thú thật là Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện... “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này hoặc thế kia, nhưng Chúa lại chọn một cách khác, hoàn toàn theo ý định nhiệm màu của Người. Người đảo lộn mọi toan tính lập trình cho dẫu hợp lý và quy mô đến đâu đi nữa của trần gian. Như trong một trò chơi cút bắt, Người vuột thoát khỏi vòng vây của con người chỉ những mong chộp lấy Người để huy động” Người theo ý muốn ích kỷ của mình.
Chúng ta cứ xem cách thức Thiên Chúa chọn Đức Ma-ri-a để làm thân mẫu của Đức Giê-su Nhập Thể. Chỉ là một thôn nữ nghèo, vậy thôi ! Đến nỗi Đức Ma-ri-a phải thốt lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...” Sao lại không chọn một mệnh phụ, một bà hoàng, một phu nhân tổng thống, một nữ viện sĩ Hàn Lâm, hay một siêu người mẫu ? Vậy là tiêu chuẩn của Chúa trổi vượt mọi lượng giá tầm thường, thấp lè tè sát đất của con người.
Lại đến chuyện vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-da-bét. Dẫu ông cụ là một tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, dẫu bà cụ cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron ( x. Lc 1, 5 ), nghĩa là cũng môn đăng hộ đối đấy chứ, nhưng đã đáng là gì đâu giữa một dân tộc Ít-ra-en chẳng thiếu gì kẻ vênh vang con ông cháu cha, em vua chị chúa ? Lại còn thêm hiếm hoi son sẻ, gần đất xa trời rồi mà chẳng được một mụn con nối dõi tông đường ! Vậy mà Thiên Chúa lại can thiệp để một Gio-an Tẩy Giả vĩ đại sẽ được chào đời, “sẽ đi trước mặt Chúa, ...để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. ( Lc 1, 17 ) Đến phiên bà cụ Ê-li-da-bét tự nhủ lòng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” ( Lc 1, 25 ).
Rồi sau này, tới phiên Đức Giê-su, Người cũng sẽ có đường lối tuyển chọn “ngược đời” y như thế. Hóa ra Thiên Chúa chỉ muốn “chấm” những con người hiền lành, khiêm tốn, có tấm lòng chất phác mộc mạc, có một nỗi khao khát cháy bỏng, một ngong ngóng chờ đợi khôn nguôi hướng về Đấng Mê-si-a.
Trước sự kiện em bé Gio-an Tẩy Giả chào đời, rồi ông Da-ca-ria mở miệng nói được mà chúc tụng Thiên Chúa, hàng xóm láng giềng và dân chúng khắp miền núi Giu-đê, ai cũng phải “kinh sợ”, “để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Còn tác giả sách Tin Mừng Lu-ca thì kết gọn một câu: “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em !” ( Lc 1, 68 )
Đối với chúng ta hôm nay thì sao nhỉ ? Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gio-an Tẩy Giả chung chung hời hợt như vậy rồi xong chuyện hay sao ? Giáo Hội muốn gửi cho chúng ta thông điệp nào đây, khi mà một năm Phụng Vụ chỉ có 3 Lễ mừng Sinh Nhật của 3 người ?
Với Đức Giê-su thì đương nhiên phải mừng trọng thể tưng bừng bằng cả một mùa Noel rồi.
Với Đức Ma-ri-a vào ngày 8.9 hằng năm cũng không lạ.
Nhưng với Gio-an Tẩy Giả thì đáng cho chúng ta lắng lòng suy niệm.
Trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ xin đề nghị dừng lại ở xác quyết “Có bàn tay Chúa phù hộ” để tự mỗi người tự đặt ra cho mình một câu hỏi: “Ấy vậy, bản thân tôi, có bàn tay Chúa phù hộ đời tôi hay không ?” Hỏi là đã có sẵn trả lời được rồi đó...
Lại một câu hỏi khác không thể không được đặt ra tiếp: “Về phần mình, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào đây khi đã xác quyết mình luôn được bàn tay Chúa hộ phù ?” Cần phải nói ngay rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ có ý đồ đầu tư trước mắt để sẽ trục lợi về lâu về dài, một vốn mà bốn lời. Tất cả chỉ là do lòng yêu thương: Người tuyển chọn, rồi không ngừng hộ phù gìn giữ để chúng ta cứ thế mà tăng trưởng, đi cho đúng tuyến, sống cho đúng đạo.
Mọi sự đã rõ, được sinh ra và lớn lên trong bàn tay hộ phù của Thiên Chúa, chúng ta cứ nghiệm xem: sau này Gio-an Tẩy Giả sống vai trò Ngôn Sứ và chết vì Chân Lý như thế nào, để rồi chính Đức Giê-su đã phải khẳng định về ông anh họ của mình là: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an...” ( x. Lc 7, 28 ).
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gio-an Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán bằng những cơn mưa Ơn Cứu Độ.
Mà thôi, khoan hãy nói đến chuyện lớn lao cả thể mà chỉ cần nghiệm sinh về sự Quan Phòng của Thiên Chúa đối với những con người bé nhỏ nghèo hèn ngay trước mắt chúng ta đây cũng đã quá đủ.
Đã nhiều lần, ngồi trước computer, nhận về cho GOSPELNET những E-Mails từ khắp mọi nơi muốn chia sẻ trợ giúp bằng cả tấm lòng, scan những tấm ảnh chụp những em bé bị tim bẩm sinh, những em bé bị bại liệt, những học sinh nghèo ở nông thôn... và gõ lên bàn phím những giòng chữ thông tin về những thai nhi vừa được giành lại cho sự sống..., tự nhiên thấy thấm thía vô cùng, rằng: “Có bàn tay Chúa phù hộ !”
Mọi người ngạc nhiên và sợ hãi mà nói: Thằng nhỏ ....... - Đặc ân thứ nhất, là Thiên Chúa cho Gioan sinh.: 24/6-26
Mọi người ngạc nhiên và sợ hãi mà nói:
Thằng nhỏ này rồi sẽ ra sao, vì bàn tay Thiên Chúa ở cùng nó.
Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, nghĩa là Thiên Chúa đã ban nhiều đặc ân cho Gioan:
- Đặc ân thứ nhất, là Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một người bà già, bà Elisabeth, mà bà già này lại mắc bệnh từ tuổi thanh xuân, đến nỗi chính ông Giacaria cũng không thể tin được là bà Elisabeth sẽ sinh con, nên ông đã bị Thiên Chúa phạt cho mắc bệnh câm.
- Đặc ân thứ hai: là chính Thiên Chúa đã đặt tên cho Gioan, mà thiên thần Gabriel đã phán với ông Giacaria tại bàn thờ dâng hương trong đền thánh Giêrusalem. Nhưng họ hàng lại nói với bà Elisabeth rằng: trong họ, có ai tên như thế đâu ?
- Đặc ân thứ ba: đến khi Gioan sinh ra, đã được khỏi tội tổ tông ba tháng rồi. Vì thánh Ambrosiô giám mục thành Milan đã nói: các thánh khác chỉ được mừng lễ, sau khi đã lập nhiều công phúc ở thế gian mà về trời. Còn thánh Gioan lại được mừng lễ sinh nhật như Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.
Vậy khi ban những đặc ân trên, Thiên Chúa cũng đòi Gioan phải đến đáp bằng cách chu toàn những nhiệm vụ Chúa đã trao phó
1. Nhiệm vụ thứ nhất là tiền hô, là người đi trước, loan báo cho dân chúng biết Chúa cứu thế sắp đến. Mà thực thế mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng nuí Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây da, lương thực là châu chấu nướng, chấm với mật rừng, tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Giodanô, nên hội đồng cộng tọa của người Do thái đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là đấng Kitô không ?
Thày tu hành Gioan trả lời: tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Rồi hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: đây là đấng cất tội thiên hạ, người này là con Thiên Chúa (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ bỏ thày mà theo Chúa Giêsu. Đó là Anrê và Gioan
Hôm nay mừng kính sinh nhật thánh Gioan, Chúa cũng muốn ta trở nên tiền hô cho Chúa: rao giảng Chúa Giêsu cho người khác, đem Chúa Giêsu cho người khác, và đem người khác đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là mục đích đời ta, Chúa Giêsu cũng là mục đích của người khác. Còn tôi chỉ là người môi giới, là phương tiện Chúa dùng, để đem người khác đến với Chúa chứ không phải đem người ta đến với tôi mà quên Chúa, cũng không phải đem người ta đến với tôi mà xa Chúa.
2. Nhiệm vụ thứ hai Chúa cậy nhờ Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho Chúa. Vậy theo Tin mừng thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mạng mạng dọn đàng cho Chúa cứu thế đến: là bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, uốn thẳng đường quanh co, nghĩa là Gioan dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái,
Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn độc, bò quanh co, không thể thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Với những người có lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, dùng việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội lỗi.
Với bọn thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, mà chỉ cần giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm hỗ.
Với quân nhân, Gioan kêu họ đừng hà hiếp bóc lột ai, đừng dọa nạt ai, nhưng phải bằng lòng về số lương của mình.
Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa tỏ lòng khiêm tốn ăn năn để được ơn tha thứ, được thấy ơn cứu độ.
Bởi thế, khi thấy Gioan làm phép rửa, những người biệt phái đã đến hỏi: Nếu không phải là đức Kitô, tại sao ông lại làm phép rửa? Thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy sẽ rửa các ông bằng nước và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Thiên Chúa cũng muốn tôi trở nên những tẩy giả. Vậy những người đến với tôi, tôi có làm cho họ trở nên trong sạch hơn không ? Tôi có làm cho họ tới gần Chúa hơn không ? Hay tôi lại làm cho họ dơ bẩn hơn, mà không đáng đến gần Chúa.
3. Nhiệm vụ thứ ba, Chúa cậy nhờ Gioan là làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi Gioan nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.
Thánh Augustinô tiến sĩ, giám mục giáo phận Hippon còn thể tư tưởng này: Gioan phải thấp bé đi, là vui lòng chịu Herođê chặt đầu, để bắt chước Chúa Giêsu được lớn lên, là bị treo trên thánh giá. Còn tôi, tôi có sẵn sàng chịu nhục mạ để Chúa được vinh danh không? Tôi có sẵn sàng chịu tử đạo thiêng liêng bằng thiếu thốn về thể xác, bị hiểu lầm về phương diện tinh thần, để bắt chước Chúa đã được lớn lên bằng treo trên thập giá không ?
Kết
Thằng nhỏ này sẽ ra thế nào, vì có bàn tay Thiên Chúa ở với nó. Lạy Chúa bàn tay Chúa đã ban đặc ân cho thánh Gioan tiền hô, thì bàn tay Chúa cũng đã nâng đỡ đời sống hy sinh của Gioan. Xin bàn tay Chúa cũng nâng đỡ chúng con như thế, vì xác thịt chúng con yếu đuối nặng nề.
1. "Thiên Chúa đa gọi tôi từ bụng mẹ, từ thân xác mẹ tôi, Người đa đặt tên cho tôi” (Is 49:1).
Hôm nay chúng ta mừng kính le sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia: 24/6-27
Hôm nay chúng ta mừng kính le sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia rất thích hợp để dien tả nhân vật trọng đại này của Thánh kinh, người là một gạch nối giưa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngu các vị đại tiên tri và số nhưng người công chính thi Gioan “Phép Rửa” đa được sự quan phòng Thiên Chúa đặt để đi trước Đấng Thiên Sai (Messiah) hầu sửa soạn con đường trước cho Ngài bằng cách giảng dậy và làm chứng nhân cho cuộc sống của Đức Kitô.
Trong tất cả các thánh nhân, chỉ riêng có thánh Gioan Tẩy Giả mới được Lich Phụng Vụ của Giáo Hội mừng ngày sinh nhật mà thôi. Chúng ta nghe từ Sách Thánh, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi Tôi Tớ của Ngài “từ trong bụng mẹ”. Lời xác nhận này trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cung có thể áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nư, Đấng khác sinh ra bởi một bà lao hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đa chỉ điểm cho thấy Đấng se mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.
2. "Từ trong bụng mẹ Ngài đa kêu gọi tôi" (Thánh vinh đáp ca)
Hôm nay chúng ta có thể dùng câu của Thánh Vịnh này áp dụng vào chính chúng ta. Thiên Chúa biết và yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta mở mắt chào đời để chiêm ngắm kỳ công của thọ tạo. Khi sinh ra con người nhận được một tên gọi trần gian. Nhưng ngay trước đó, moi người đa có một tên thần thánh: tên mà Thiên Chúa Cha biết và yêu thương họ từ thuở đời đời cho đến muôn thuở. Điều này đúng cho hết mọi người, không trừ ai cả. Không ai là người vô danh trước nhan Thiên Chúa! Tất cả đều có giá tri binh đẳng trước mắt Ngài: tất cả đều khác nhau, nhưng tất cả binh đẳng, và tất cả đều được gọi là con cái của Thiên Chúa.
"Tên con trẻ là Gioan" (Lk 1:63). Trước sự bơ ngơ và kinh ngạc của người thân và láng giềng, ông Zechariah xác nhận đây là tên con trai của ông ta, khi ông viết tên đó lên chiếc bảng nhỏ. Chính Thiên Chúa, qua trung gian thiên thần đa ban tên đó cho Gioan và tên đó theo nguyên nghĩa Do thái có nghĩa là: “Thiên Chúa có lòng từ tâm”. Thiên Chúa tốt lành với mọi người: Ngài muốn họ được sống; Ngài muốn họ được cứu chuộc. Thiên Chúa tốt với dân của Ngài: muốn họ trở nên sự chúc phúc cho toàn thể các quốc gia địa cầu. Thiên Chúa thương yêu nhân từ với nhân loại: Ngài hướng dan con cái Ngài trên con đường hành hương về đất hứa nơi mà hòa bình và công chính se thống trị. Tất cả nhưng điều này đều chứa trong tên của Gioan! Anh chi em thân mến, thánh Gioan Tẩy Gỉa là một ‘người đưa tin’, một sứ giả, một người đi trước dọn đường: Người được sai đến để sửa soạn đường cho Đấng Kitô. Nhân vật Gioan Tẩy Gỉa se nói thế nào cho chúng ta tại đây, ở Kyiv này, ngay chính lúc khởi đầu của cuộc hành hương của tôi tới quê hương anh chi em? Đây lại không phải là do đường lối Chúa Quan Phòng mà nhân vật Gioan này nói với chúng ta đúng vào thời điểm hôm nay tại Kyiv này sao?
3. Chính Tại Kyiv mà phép Thanh Tẩy cho người Nga đa khởi điểm. Từ nơi này mà đời sống đức tin Kitô giáo đa bắt đầu lan tràn, Phúc Am đa được mang đến cho mảnh đất của Rus cổ xưa. Thế rồi nhưng lanh thổ của Đông Au và sau này qua vùng Urals, trong các lanh thổ của Châu Á. Trong một nghĩa nào đó, thi chính Kyiv đa đóng vai trò là “người tiền hô của Thiên Chúa” giưa nhiều dân tộc để rồi Phúc Am được tuyên giảng và phát xuất từ nơi đây.
Thánh Volodymyr và nhưng cư dân của nòi giống ‘Rus’ đa được rửa tội bởi các nhà truyền giáo từ thành Constantinople, một trung tâm vĩ đại nhất của thế giới Thiên Chúc giáo thuộc Đông phương thuở đó. Do vậy mà Giáo Hội mới khai sinh đa đi sâu và được sự che chở trong đức tin và văn hóa của Giáo Hội truyền thống Byzantine. Đó là thời kỳ cuối của thiên niên kỷ thứ nhất. Đang khi sống theo hai truyền thống khác nhau, Giáo Hội Constantinople và Giáo Hội Roma thời đó còn hiệp thông trọn vẹn. Như tôi đa viết trong tông thư “Đi vào thế giới” (Euntes in Mundum) rằng: "chúng ta phải cùng nhau cám tạ Thiên Chúa vi sự kiện này, mà hôm nay nó là một điềm báo tốt và là một hy vọng. Thiên Chúa đa muốn rằng Giáo Hội Mẹ, được hiệp nhất cách hưu hinh, cần chào đón vào lòng của Giáo hội người con mới sinh ra trên dòng bờ sông Dnieper đây, dù rằng Giáo Hội đa rất sung túc vi bao gồm rất nhiều quốc gia và dân tộc khắp nơi, và trong lúc mà sự lan rộng của cánh đồng tuyền giáo đang mở rộng tại Tây phương và Đông phương”. (No. 4).
Khi chúng ta cử hành Tiệc Thánh Thể hôm nay theo nghi thức truyền thống Roma, nếu chúng ta nhớ lại cái giây phút thật sâu đậm mà trước đây nó đa liên kết trước truyền thống Byzantine, nên chúng ta cử hành thánh le với lòng tri ân. Chúng ta hiện đang cử hành thánh le nhớ tới cùng một phép rửa, mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, điều này se giúp chúng ta tái tạo trinh trạng thông công trước đây, khi đó dù có khác biệt truyền thống nhưng đa không là cản trở cho sự hiệp nhất đức tin và đời sống giáo hội.
4. Bí tích Rửa Tội đa xẩy ra tại Kyiv, đa khai mào lịch sử một ngàn năm Kitô giáo tại các lanh thổ mà ngày nay là quốc gia Ukraine và trong toàn vùng này. Hôm nay, có được ân huệ đi đến nơi lich sử này, tư tưởng của tôi đi ngược dòng về quá khứ hơn 10 thế kỷ, trong đó món quà mà Phép Rửa tiên khởi van còn tuôn chảy trên các thế hệ nối tiếp nhau, và trên con trai con gái nhưng người con của Đất Nước này. Thực là một cuộc sống tinh thần, phụng vụ và cuộc sống giáo hội cứ tiếp tục cuồn cuộn tuôn chảy biết bao! Nó đa hòa trộn từ nhưng nền văn hóa và truyền thống tín ngương khác biệt mà thành nên. Di sản sáng ngời này ngày nay đa được ký thác cho quí vi, các anh chi em thân yêu của Đất Nước này. Trong nhưng ngày tôi thăm viếng quí quốc, tôi cùng quí vi cầu nguyện cho thế hệ riêng của qúi vi hôm nay, từ khởi đầu của thiên niên kỷ mới này, quí vi se chứng tỏ xứng đáng với nhưng truyền thống vĩ đại của quá khứ.
Từ Thành Tri nôi sinh của đức tin Kitô giáo cho Ukraine và cho toàn vùng, tôi chúc mừng và với lòng quí yêu tôi ôm ấp mọi người đang sống trong giải đất này. Một cách đặc biệt tôi chào mừng các đức hồng y Marian Jaworski và Lubomyr Husar, cùng với đức giám mục quí yêu của Kyiv-Zhytomyr là đức cha Jan Purwiski, các huynh đệ đáng kính thuộc Hội Đồng Giám mục Ukrainia và Thượng Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukrainia. Tôi chào mừng hàng giáo sĩ, các nam nư tu sĩ và giáo dân thuộc các Giáo Hội đa trải qua nhiều thách đố và nay khải hoàn; với một lòng can trường họ đa có thể nêu cao ánh sáng đức tin ngay cả trong nhương giờ phút đen tối của bách hại.
5. Hơi toàn thể Dân Chúa, anh chi em là nhưng người có đức tin, hy vọng và tinh yêu đối với mảnh đất Ukraine, anh chi em hay một lần nưa hay hân hoan làm sống lại món quà Phúc Am mà anh chi em đa nhận lanh từ một ngàn năm trước đây! Hôm nay hay nhin vào thánh Gioan Tẩy Gỉa, một mau gương trung thành kiên quyết đối với Chúa và Lề Luật của Ngài. Thánh Gioan đa sửa soạn con đường cho Đức Kitô bằng chứng tá lời nói và đời sống của ngài. Hay bắt chước ngài với một lòng quảng đại tin tưởng và vâng phục.
Trên hết thánh Gioan là mau mục đức tin. Theo gương của vi đại tiên tri Elia, hầu có thể lắng nghe lời của Đấng ban sự sống, Ngài đa từ bỏ tất cả mọi sự và rút lui vào hoang đia, từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi vang vọng là sửa soạn đường cho Thiên Chúa (xem Mt 3:3).
Ngài là mậu guơng khiem cung, bởi vi đối với nhưng ai coi ngài không nhưng chỉ là một vi Tiên tri mà còn là Đấng Thiên Sai (Messiah), ngài đa trả lời họ rằng: “Các bạn nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Ngài. Không, Đấng mà đến sau tôi, ngay cả việc cởi giây giầy cho Ngài tôi cung không xứng đáng” (TĐCV 13:25).
Ngài là mậu gương chính trực và can đảm trong việc bảo vệ sự thật, và sẵn sàng trả giá bằng chính con người minh, ngay dù bi tù tội và chính cái chết của minh.
Hơi mảnh đất Ukraine, thấm máu đào của các vi tử đạo, cám tạ các vi vi mau gương trung thành đối với Phúc Am mà quí vi đa dâng hiến cho các Kitô hưu khắp nơi trên hoàn cầu! Đa có biết bao nhiêu người con yêu của Đất Nước này đa tiến đi trên con đường hoàn toàn trung thành với Chúa Kitô; nhiều người còn kiên quyết dầu phải hy sinh đến tận cùng. Ước chi chứng tá của họ là mau gương và là sự htôi thúc cho các Kitô hưu của thiên niêm kỷ thứ ba.
6. Trong trường đào luyện của Chúa Kitô, theo chân thánh Gioan Tẩy Gỉa, các vi thánh nhân và các thánh Tử đạo của quốc gia này, ước chi cả anh chi em yêu qúi nưa, cung có can trường đủ mà luôn luôn đặt ưu tiên cho các giá tri tinh thần trong cuộc sống.
Các hiền huynh giám mục, các linh mục, nam nư tu sĩ, quí hiền huynh là nhưng người đa từng hành trinh trung thành cùng với dân chúng ở đây và sẵn sàng trả bất cứ giá hy sinh nào, quí hiền huynh đa nâng đơ họ trong nhưng giờ phút đen tối nhất của cơn hai hùng Cộng sản, tôi cám ơn qúi hiền huynh, xin quí hiền huynh tiếp tục làm c hứng nhân nhiệt tinh cho Đức Kitô và là nhưng mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người trong quê hương quí yêu Ukraine.
Các bạn trẻ thân mến, hay can trường và tự do! Đừng để lòng các bạn bi nhưng hinh ảnh hỏa mù của một hạnh phúc de dàng chiếm mất. Hau đi theo con đường của Đức Kitô: Chắc chắn là Người đòi hỏi nơi bạn nhiều, thế nhưng cung chỉ có Người là người duy nhất có thể giúp bạn cho bạn ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và thỏa man ước nguyện sự binh an của con tim.
Hoi các bậc làm cha mẹ thân mến, hay sửa soạn đường nẻo của Thiên Chúa cho con cái. Hay nuôi chúng lớn lên với tinh yêu, và là nhưng tấm gương tốt bằng cách sống theo nhưng nguyên tắc mà chính quí vi dậy con cái minh. Quí vi là nhưng bậc thầy và là lanh đạo của xa hội, hay đào sâu thêm sự dấn thân hầu khích lệ sự phát triển hoàn toàn về con người nhân bản, khích lệ nơi giới trẻ ý nghĩa sâu sắc về công lý và tinh liên kết đối với nhưng người kém may mắn trong cuộc sống.
Ước chi từng người và tất cả là “ánh sáng của muôn dân” (Is 49:6)!
7. Hơi thành Kyiv, ước chi thành này là "ánh sáng cho Ukraine".
Vi từ đây mà các vi truyền bá Phúc Am qua các thế kỷ đả là nhưng “Gioan Tẩy Gỉa” cho các dân tộc sống trong các mảnh đất nơi đây. Có biết bao các vi đó, như thánh Gioan, đa chiụ khổ để làm chứng cho sự thật, và với máu đào của họ đa trở thành hạt giống cúc các Kitô hưu mới. Ước chi các thế hệ tương lai không bao giờ thiếu các nam thanh nư tú nối tiếp truyền thống hào hùng theo gương các tiền nhân vinh quang của anh chi em.
Xin Đức Trinh Nư rất thánh, Quan Thầy của Ukraine, Mẹ luôn luôn hướng dan con cái trên đường lư hanh trần thế. Xin Mẹ tiếp tục để mắt đoái nhin đoàn con Mẹ. Xin giúp họ đừng bao giờ quên “tên”, cái danh xưng tinh thần mà họ đa nhận được trong Bí tích Rửa Tội. Xin giúp họ biết vui mừng luôn mai trong an huệ vô giá là nhưng người theo chân Chúa Kitô (Jn 3:29). Uớc gi Mẹ là người dan lối cho từng người một. Oi, Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con! + Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gi hấp dẫn cả. Y phục: 24/6-28
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gi hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống thi khổ cực. Cách sống thi khắc khổ. Cho ở thì thô sơ. Lúc thì ở rừng rú, lúc thì ở sa mạc, nay đây mai đó.
Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.
Điều đó chứng tỏ nhưng vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá tri con người. Thước đo giá tri con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh nhưng chân thiện mỹ vĩnh hằng.
Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.
Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu, để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp thực sâu, để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.
Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân, mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vịi, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.
Khi phong hoá bi suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ, nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.
Vì thế, đối với tôi,
Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.
Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “ “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “ “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài... Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29-34).
Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.
Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.
Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.
Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “ “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.
Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.
Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.
Ngài là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi: 24/6-29
Ngài là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Cả hai không ngừng cầu khẩn xin Chúa ban cho một người con nối dõi tông đường. Nhận thấy lòng đạo đức của họ, Chúa dủ lòng thương sai sứ thần đến báo: "Này Dacaria ! đừng sợ, Chúa đã nghe lời khẩn nguyện của ngươi. Vợ người sẽ sinh một con trai và người sẽ đặt tên là Gioan . . ."
Dacaria hoài nghi, vì thế Chúa để ông bị câm trong suốt 9 tháng trời, cho đến ngày đặt tên cho Gioan. Gioan lớn lên và được giáo dục trong bầu không khí đạo đức. Đến năm thứ 5 đời hoàng đế Tibêriô, tức năm 28 sau công nguyên, có tiếng Chúa gọi Gioan trong hoang địa, tức vùng đồi núi Giuđê Gioan sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thất dây da. Cuộc đời Gioan thật gương mẫu.
Có lần Chúa Giêsu đã công khai nói với dân Do thái: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả".
Gioan đã làm gì ?
Ngài đi khắp vùng sông Giođan rao giảng và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Lời nói và nếp sống khổ hạnh của ngài đã lay chuyển cả những tâm hồn cứng cỏi nhất. Họ đã đến với ngài thật đông đảo để được nghe giảng dạy và được nhận phép rửa. Có người đã lầm tưởng ngài là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái hằng mong đợi, nhưng ngài khiêm tốn trả lời: "Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước, sẽ có một Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa.
Thánh Gioan đã chết thế nào ?
Trong khi ngài dang rao giảng sám hối thì một vụ tai liếng đã xảy ra tại cung điện Hêrôdê Antipa. Nhà vua đã cưới con gái của Arêta phương nam làm hoàng hậu. Thế nhưng, trong một chuyến đi Rôma, ghé thăm người em cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-lip-phê, nhà vua lại say mê sắc đẹp của Hêrôdia, người em dâu và tìm cách chiếm đoạt. Hêrôđia có một người con riêng là Salômê có tài múa hát. Câu chuyện tới tai vị Tẩy giả. Với tất cả lòng cương nghị của một người công chính, Gioan cảnh cáo Hêrôđê: "Nhà vua không được cướp vợ em mình” Câu nói đó đã khiến Hêrôđê phải giam Gioan vào ngục. Nhưng Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà. Bà lìm cách đế giết Gioan. Chính vì thế, trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, lợi dụng khi nhà vua đã ngà ngà say, bà xúi Salômê xin chiếc đầu của Gioan.
Thế là Gioan đã phải chết. Câu hỏi chia sẻ: Anh chỉ em nghĩ gì về câu tin Mừng: "Cậu bé (Gioan) càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh ? Số phận của Gio-an là số phận của các ngôn sứ, vì giảng dạy điều ngay chính mà phải chịu thiệt đến thân. Nhưng "Phúc cho ai phải chịu đau khổ vì sự công chính . Xin chia sẻ.
Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền: 24/6-30
1. Thưa anh chị em,
Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền hô của Gioan, đã được Giáo hội nhắc đến trong kinh tiền tụng II của mùa vọng, bằng vài tư tưởng sau đây:
“Gio-an là đấng tiền hô, Loan tin về Chúa Kitô giáng trần, Chúa khi truyền đạo xuất thân, Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài”
“Gioan là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người, Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi, Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta Vậy mà kẻ đứng gần xa Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
Mà thực thế, mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng núi Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây đang, lương thực là châh chấu nướng, châm với mật rừng tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Gior-đa-nô, nên hội đồng công tọa của người Do thái, đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là Đấng Kitô không ? Thày tu hành trả lời:
“Tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ nạng dọn đàng cho Chúa Kitô đến“.
Nhưng người biệt phái cũng hỏi: “Nếu không phải là đấng Kitô, tại sao ông làm phép rửa ? thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi một tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Gioan 1,19). Hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: “đây là chiên Thiên Chúa, đây là đấng cất tội thiên hạ”. “Người này là con Thiên Chúa” (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ đã xin phép bỏ thày là Gioan để đi theo Chúa Giêsu (Gioan 1,37) . Vậy đọc lại những câu phúc âm trên đây, chúng ta thấy thánh Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô mà Thiên Chúa đã trao phó:
“Gioan là đấng tiền hô, Loan tin về Chúa Kitô giáng trần, Chúa khi truyền đạo xuất thân, Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài. Gio-an là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người. Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi, Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta” Vậy mà kẻ đứng gần xa, Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
2. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan còn phải thi hành sứ mệnh tẩy giả nữa:
“Gio-an cũng được gọi là tẩy giả, Vì Ngài đã lấy nước sông Gio-dan, Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian, Những con người, đã thành tâm thống hối” Vậy Gioan, đã biến người có tội, Trở nên người công chính có đức nhân, Biết mến Chúa bác ái với nhân dân, Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Vậy theo Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế. Vậy
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả, Vì Ngài đã lấy nước sông Gior-dan Để rửasạch, tội lỗi của dân gian Những con người, đã thành tâm thống hối, Vậy Gioan, đã biến người có tội, Trở nên người công chính có đức nhân, Biết mến Chúa, bác ái với nhân dân, Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Kết
Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa. Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
Lời nguyện giáo dân
Thưa anh chị em, hôm nay dạy chúng ta tôn kính thánh Gioan tiền hô và tẩy giả của Chúa, Giáo hội có ý khuyên chúng ta biết trở nên tông đồ đem các linh hồn về cho Chúa.
1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa, và Chúa cứu thế đã đến trong thế gian.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng dự thánh lễ chủ nhật, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa và Chúa cứu thế đã đến chiụ tội loài người.
3. Xin Chúa cho chúng ta biết dâng lên Chúa những mồ hôi nước mắt của chúng ta khi lao động mà đền tội, để trở nên tẩy giả cầu cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng chiụ phép giải tội, để trở nên tẩy giả làm cho tâm hồn ta nên trong sạch để cầu nguyện cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa trong ngày lễ hôm nay, Chúa đã đặt thánh Gioan tiền hô và tẩy giả làm gương mẫu cho chúng con bắt chước. Xin Chúa cho chúng con biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, biết vui lòng lao động nuôi sống gia đình, biết giữ luật xưng tội rước Chúa mùa phục sinh để trở nên Gioan tiền hô.
Nhân ngày sinh của Gioan Tiền hô, tôi muốn chia sẻ một điểm nổi bật trong cuộc sống của thánh: 24/6-31
Nhân ngày sinh của Gioan Tiền hô, tôi muốn chia sẻ một điểm nổi bật trong cuộc sống của thánh nhân, đó là Gioan Tiền hô đã nói và đã làm.
Thực vậy, với phong trào đổi mới tại Việt Nam, người ta thấy trên báo chí xuất hiện những bài viết ký tên NVL. Người ta bảo đó là của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Nhưng đồng thời, người ta cũng suy diễn ba chữ viết tắt ấy là nói và làm, chứ không phải là nói và lờ hay nghe và lỉnh. Việc làm mới thực sự là quan trọng, hơn hẳn những lời nói suông bội phần.
Nhìn vào cuộc sống của Gioan tiền hô, chúng ta thấy lời nói của thánh nhân luôn đi đôi với việc làm. Thánh nhân luôn làm những điều mình nói, thực thi những điều mình dạy. Lời nói và việc làm của Gioan tiền hô luôn đi đôi với nhau, luôn ăn khớp với nhau, chứ không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, đúng như người xưa đã bảo:
- Ngôn hành hợp nhất.
Đồng thời, thánh nhân còn luôn chịu trách nhiệm về những điều mình đã nói, cho dù có phải chết.
Thực vậy, trên bờ sông Giócđan, thánh nhân đã rao giảng một cuộc sống khắc khổ, để sám hối ăn năn, hầu dọn đường đón mừng Chúa đến. Và chính bản thân thánh nhân cũng đã sống khắc khổ và sám hối ăn năn như vậy.
Phúc âm đã ghi lại: thánh nhân vào trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Chính vì thế, thánh nhân đã nhận ra Đấng Cứu Thế và giới thiệu Ngài cho mọi người.
Vai trò của thánh nhân là vai trò của một sứ giả, của một tiền hô chuẩn bị tâm hồn mọi người đón nhận Đấng Cứu thế và khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, thánh nhân đã không ngần ngại tuyên bố:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian…Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi…tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Kể từ tuyên bố ấy, thánh nhân đã chìm vào quên lãng, chìm vào bóng tối và để cho chính những môn đệ thân tín của mình bước theo Chúa Giêsu.
Thánh nhân cũng đã mạnh dạn tố giác tội lỗi của Hêrôđê. Chính vì những lời nói thẳng thắn ấy, thánh nhân đã bị tống ngục và đã bị chém đầu.
Còn với chúng ta thì sao ?
Kinh nghiệm cho thấy:
- Nói thì dễ mà làm thì lại khó.
- Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Chúng ta nói xong rồi lờ đi, hay nghe xong rồi lỉnh mất, chẳng đoái hoài chi đến những gì mình đã nói hay đã nghe, như tục ngữ đã diễn tả:
- Trăm voi không được một bát nước xáo.
Chẳng hạn mỗi khi giáo xứ có dịp bàu ban hành giáo, chúng ta nói thì rất hay, nào là người ấy phải thế nọ thế kia. Thế nhưng, khi phiên họp được triệu tập để đề bạt những ứng cử viên, thì chúng ta lại tính chuyện lờ, chuyện lỉnh, chuyện lặn.
Và khi phên họp kết thúc, một người nhiều thiện chí, nhưng hơi thiếu khả năng về mặt này mặt khác, được đề cử, thì chúng ta lại vội vã khua môi múa mỏ, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ. Quả thực, chúng ta đáng được người đời diễn tả:
- Trùm khu, trùm giáp thì chúng ta không dám, chứ trùm chăn, trùm mền thì chúng ta lại ăn đứt thiên hạ.
Hãy ra tay xây dựng bằng hành động, chứ đừng chỉ xây dựng bằng nước bọt, có nghĩa là hãy biểu lộ thiện chí của chúng ta bằng những việc làm cụ thể, nhờ đó lời nói và việc làm của chúng ta luôn đi đôi với nhau, như lời thánh Giacôbê tông đồ đã xác quyết:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Hay như thánh Gioan tông đồ cũng đã viết:
- Anh hãy chỉ cho tôi một tình yêu không việc làm. Còn tôi, tôi sẽ dùng những việc làm để chỉ cho anh thấy một tình yêu đậm đà thắm thiết như thế nào.
Ngôn hành phải hợp nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm, chứ không phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nói một đằng làm quàng một nẻo. Thậm chí nói một chuyện, nhưng làm lại là chuyện khác. Nhiều khi còn làm ngược lại những điều mình đã nói. Nói vậy mà không phải vậy đâu.
Căn cứ vào những việc làm cụ thể ấy, người ta sẽ nhận biết thiện chí của chúng ta, cũng như đáng giá chúng ta có phải là những sứ giả, những tiền hô đích thực của Chúa hay không ?
Ai trong chúng ta cũng có một ngày sinh và một ngày tử, một ngày đánh dấu sự hiện diện trên: 24/6-32
Ai trong chúng ta cũng có một ngày sinh và một ngày tử, một ngày đánh dấu sự hiện diện trên cõi đời và một ngày đánh dấu việc từ giã cõi đời để đi vào vĩnh cửu. Ngoài Đức Ma-ri-a, trong hàng Chư Thánh, chỉ có Gio-an Tẩy Giả được Giáo Hội kính nhớ cả ngày chào đời lẫn ngày về Trời. Ngày tử còn được người Công Giáo gọi là “sinh nhật trên Trời”. Thật vậy, Thánh Gio-an Tẩy Giả được trở nên cao trọng, vì được Thiên Chúa tuyển chọn, trao sứ mạng và được “Thiên Chúa ở cùng”.
1. Thiên Chúa tuyển chọn:
Trong bài đọc thứ nhất, trích “bài ca thứ hai của Người Tôi Trung” của Ngôn Sứ I-sai-a nói lên vai trò của Người Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ đầu: ”Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ; lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc tên tôi” ( Is 49, 1 ). “Giờ đây Chúa lại lên tiếng, Người nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, để tôi trở thành người tôi trung” ( Is 49, 5 ). Điều này cũng phù hợp với Gio-an Tẩy Giả. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ lòng mẹ, được Thiên Chúa chúc phúc khi Mẹ Ma-ri-a mang Chúa Giê-su đến thăm bà Ê-li-sa-bét. Gio-an Tẩy Giả đã nhảy mừng trong lòng mẹ vì được ân phúc lớn lao này.
Thánh Vịnh 138 cũng diễn tả thật thâm thúy khi nói rằng Thiên Chúa biết rõ con người từ khi tấm hình hài được thêu dệt trong dạ mẫu thân, đến mọi tư tưởng, lời nói, việc làm trong đời sống, Ngài biết cả rồi. Hạnh phúc cho những ai sống trong đường lối Chúa. Những ai đã được Thiên Chúa kêu gọi, tuyển chọn thì không thể trốn tránh hay thoái thác được. Giô-na đã kinh nghiệm trong chuyện này, dù ông có chạy trốn nơi đâu cũng không thoát khỏi bàn tay Thiên Chúa. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người để thấy rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa cần thiết nhưng không thể thiếu sự cộng tác của con người.
2. Thiên Chúa trao sứ mạng:
Thiên Chúa kêu gọi, tuyển chọn ai cũng là để trao một sứ mạng. Thánh Gio-an được trao một sứ mạng: Đó là dọn đường cho Chúa ngự đến, bằng cách rao giảng, kêu gọi toàn dân chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối. Việc Chúa Giê-su ngự đến là một biến cố quan trọng, độc nhất vô nhị và mang lại Ơn Cứu Đô cho con người. Vì thế người chuẩn bị dọn đường càng có ý nghĩa và nhiệm vụ lớn lao. Cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo để mang lại lại hiệu quả cao nhất. Và khi đã hoàn thành sứ mạng là “Đấng Tiền Hô”, Thánh Gio-an đã biết rút lui đúng lúc nhường chỗ cho Đức Ki-tô; “Ngài phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại”.
3. Thiên Chúa ở cùng:
Một điểm không thể không nói đến nơi Gio-an Tẩy Giả là: được Thiên Chúa ở cùng. Tin mừng Thánh Lu-ca đã ghi lại ngày Gio-an Tẩy Giả ra đời, ngày chịu Phép Cắt Bì và đặt tên, những việc lạ lùng xảy ra cho ông Da-ca-ri-a, ông bị câm nay đã nói được và cất lời ca ngợi Thiên Chúa... tất cả những sự việc đó làm cho người ta tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ như thế nào? Quả thật có bàn tay Thiên Chúa hộ phù em” ( Lc 1, 66 ).
Được “Thiên Chúa ở cùng” là dấu hiệu của sự bình an, ân sủng và hạnh phúc. An sủng của Thiên Chúa thì vô biên, ban cho tất cả mọi người, nhất là khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, là đã có Thiên Chúa “ở cùng”. Nhưng về phía chúng ta, giới hạn chính là ở khả năng của chúng ta, chúng ta có thể làm cho ơn Chúa nơi chúng ta ra vô hiệu.
Thánh Phao-lô có lý khi nói rằng: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định... Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi, những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” ( Rm 8, 28 . 30 ).
Thánh Gio-an Tẩy Giả đã được Thiên Chúa Tuyển chọn, trao sứ mạng và được Thiên Chúa ở cùng. Ông đã chạy hết chặng đường của mình và hoàn thành sứ mạng góp phần vào công trình Cứu Độ của Thiên Chúa. Noi gương Thánh Gio-an Tẩy Giả, chúng ta cũng hãy hoàn thành sứ mạng của mình trong ân nghĩa Thiên Chúa, làm cho “cái tôi” của mình ngày càng nhỏ đi, để sức mạnh của Chúa ngày càng lớn lên trong Giáo Hội và nơi mỗi người anh chị em của chúng ta.
Lm. LÊ KHẮC LÂM, OFM, Giáo xứ Đất Sét, Giáo Phận Nha Trang
Ông Zacharia là thày tư tế thuộc ban Abia, và bạn ông là bà Elizabeth thuộc dòng dõi ông Aaron. Cả: 24/6-33
Ông Zacharia là thày tư tế thuộc ban Abia, và bạn ông là bà Elizabeth thuộc dòng dõi ông Aaron. Cả hai là người nhân đức trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người, nhưng ông bà không có con, vì bà Elizabeth son sẻ và đã cao niên. Vậy lần kia, khi thày tư tế Zacharia vào nơi Thánh dâng hương, còn toàn thể dân đông đúc cầu nguyện ở ngoài thì sứ thần Chúa hiện ra, đứng bên phải bàn thờ “hương”, nói với thày rằng:
- Zacharia đừng sợ, vì điều ông xin đã được Thiên Chúa nhận lời, Elizabeth bạn ông sẽ sinh con trai, và ông sẽ đặt tên cho nó là Gioan. Nó sẽ làm cho ông và nhiều người được hân hoan. Nó sẽ được tôn trọng trước mặt Chúa, được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và dẫn dắt nhiều con cái Israel trở về cùng Thiên Chúa.
Zacharia thưa với sứ thần rằng:
- Ai làm cho tôi chắc dạ về điều ấy, vì tôi đã già, bạn tôi lại cao niên ? Sứ thần đáp:
- Ta là Gabriel, hằng đứng trước tôn nhan Thiên Chúa, Ngài sai ta đưa tin mừng ấy cho ông. Nhưng vì ông không tin lời Ta, nên giờ đây, ông sẽ bị câm, cho đến khi các điều ấy được thực hiện.
Mà thực thế, cách ít hôm, bà Elizabeth mang thai đã nói rằng: Thiên Chúa đoái thương cất sự khổ nhục cho tôi trước mặt người đời. Thế rồi, tới ngày mãn nguyệt bà Elizabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng đến chung vui với bà. Tới ngày thứ tám người ta đến cắt bì cho con trẻ, và lấy tên cha là Zacharia mà đặt cho nó. Nhưng bà Elizabeth bảo: không được, phải gọi tên nó là Gioan. Người ta bảo bà rằng: trong họ có tên ai như thế đâu ? Rồi người ta làm hiệu hỏi cha con trẻ. Ông Zacharia liền viết vào bảng rằng: tên nó là Gioan. Lập tức miệng luỡi ông được mở ra, liền nói lên và ngợi khen Chúa. mọi người đều ngạc nhiên và sợ hãi mà nói rằng: thằng nhỏ này rồi sẽ ra sao, vì tay Chúa ở cùng nó.
1. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền hô của Gioan, đã được Giáo hội nhắc đến trong kinh tiền tụng II của mùa vọng, bằng vài tư tưởng sau đây:
“Gio-an là đấng tiền hô, Loan tin về Chúa Kitô giáng trần, Chúa khi truyền đạo xuất thân, Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài”
“Gioan là tiếng dẻo dai, “Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người, Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi, Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta Vậy mà kẻ đứng gần xa Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
Mà thực thế, mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng núi Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây đang, lương thực là châh chấu nướng, châm với mật rừng tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Gior-đa-nô, nên hội đồng công tọa của người Do thái, đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là Đấng Kitô không ? Thày tu hành trả lời:
“Tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ nạng dọn đàng cho Chúa Kitô đến“.
Nhưng người biệt phái cũng hỏi: “Nếu không phải là đấng Kitô, tại sao ông làm phép rửa ? thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi một tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Gioan 1,19). Hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: “đây là chiên Thiên Chúa, đây là đấng cất tội thiên hạ”. “Người này là con Thiên Chúa” (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ đã xin phép bỏ thày là Gioan để đi theo Chúa Giêsu (Gioan 1,37) . Vậy đọc lại những câu phúc âm trên đây, chúng ta thấy thánh Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô mà Thiên Chúa đã trao phó:
“Gioan là đấng tiền hô, Loan tin về Chúa Kitô giáng trần, Chúa khi truyền đạo xuất thân, Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài. Gio-an là tiếng dẻo dai,
“Tiếng kêu” thánh thót lọt tai mọi người. Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi, Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta” Vậy mà kẻ đứng gần xa, Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
2. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan còn phải thi hành sứ mệnh tẩy giả nữa:
“Gio-an cũng được gọi là tẩy giả, Vì Ngài đã lấy nước sông Gio-dan, Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian, Những con người, đã thành tâm thống hối” Vậy Gioan, đã biến người có tội, Trở nên người công chính có đức nhân, Biết mến Chúa bác ái với nhân dân, Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Vậy theo Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế. Vậy
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả, Vì Ngài đã lấy nước sông Gior-dan Để rửasạch, tội lỗi của dân gian Những con người, đã thành tâm thống hối, Vậy Gioan, đã biến người có tội, Trở nên người công chính có đức nhân, Biết mến Chúa, bác ái với nhân dân, Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Kết
Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa. Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa. Lời nguyện giáo dân
Thưa anh chị em, hôm nay dạy chúng ta tôn kính thánh Gioan tiền hô và tẩy giả của Chúa, Giáo hội có ý khuyên chúng ta biết trở nên tông đồ đem các linh hồn về cho Chúa.
1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa, và Chúa cứu thế đã đến trong thế gian.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng dự thánh lễ chủ nhật, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa và Chúa cứu thế đã đến chiụ tội loài người.
3. Xin Chúa cho chúng ta biết dâng lên Chúa những mồ hôi nước mắt của chúng ta khi lao động mà đền tội, để trở nên tẩy giả cầu cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng chiụ phép giải tội, nhất là mùa phục sinh, để trở nên tẩy giả làm cho tâm hồn ta nên trong sạch để cầu nguyện cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
5. Xin Chúa, Đức Mẹ và thánh cả Giuse
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa trong ngày lễ hôm nay, Chúa đã đặt thánh Gioan tiền hô và tẩy giả làm gương mẫu cho chúng con bắt chước. Xin Chúa cho chúng con biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, biết vui lòng lao động nuôi sống gia đình, biết giữ luật xưng tội rước Chúa mùa phục sinh để trở nên Gioan tiền hô ngoại giáo về với Chúa. Nhờ đức Kitô…
Để giúp chúng ta hiểu Tin Mừng thấu đáo hơn, các thánh sử thường sử dụng một bối cảnh cốt làm: 24/6-34
Để giúp chúng ta hiểu Tin Mừng thấu đáo hơn, các thánh sử thường sử dụng một bối cảnh cốt làm nổi bật lên khuôn mặt những nhân vật các ngài muốn trình bày. Thánh sử Lu-ca có cách thức riêng của ngài, đó là dùng bối cảnh lịch sử nhân loại để giúp chúng ta dễ dàng nhận biết Đức Giê-su Na-da-rét và sứ mệnh cứu thế của Người. Nhưng đặc biệt hơn, thánh Lu-ca đã cho chúng ta một loạt bài tường thuật song song về thời thơ ấu giữa Chúa Giê-su và ông Gio-an Tẩy Giả, nhằm mục đích giúp chúng ta khi hiểu về cuộc đời của Gio-an thì chúng ta sẽ tìm gặp những nét tương tự nơi cuộc đời Chúa Giê-su, nhưng trong một chiều kích hoàn hảo và siêu việt của Con Thiên Chúa.
Vậy ông Gio-an Tẩy Giả là ai? Qua những trình thuật của Lu-ca, ông Gio-an Tẩy Giả quả thực là một người hết sức đặc biệt. Trước hết ông được mô tả như một nghệ sĩ phụ diễn chuẩn bị cho tài tử chính xuất hiện. Nhưng vai trò của ông không phải chỉ có thế mà thôi, trái lại vô cùng quan trọng, vì ông là cái gạch nối sống động giữa Cựu Ước với Tân Ước, ông là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước và đầu tiên của Tân Ước. Với bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ I-sai-a, Phụng vụ Lời Chúa muốn chúng ta nhận thức xuất xứ và sứ mệnh của ông Gio-an. Ông được Thiên Chúa "triệu gọi ngay từ trong lòng mẹ," được tuyển chọn và chuẩn bị để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ ấy đòi hỏi những khả năng phi thường, thí dụ "miệng lưỡi giống như gươm sắc bén giấu ẩn dưới bàn tay của Thiên Chúa," hoặc "như mũi tên nhọn trong ống tên của Thiên Chúa." Chẳng lạ gì sau khi ông sinh ra, dân chúng Giu-đê đều thắc mắc tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" và nhất là sau này, khi thi hành sứ vụ rao giảng chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến, ông đã làm cho bất cứ ai đến nghe ông giảng đều phải tự hỏi "Tôi phải làm gì?", vì những lời giảng kêu gọi thống hối của ông chẳng khác gì như gươm sắc bén hoặc mũi tên nhọn đâm thẳng vào tâm hồn người nghe. Vì những khả năng phi thường ấy, có nhiều người nghĩ ông chính là Đấng Mê-si-a.
Cha của ông là ông Da-ca-ri-a, được thiên sứ cho biết phải đặt tên cho con trẻ là Gio-an, đúng như ngôn sứ I-sai-a đã viết trước kia: "Lúc tôi chưa chào đời, Thiên Chúa đã nhắc đến tên tôi." Việc đặt tên cho Gio-an đã có sự can thiệp của Thiên Chúa. Trước hết bà mẹ đã không hỏi ý chồng bà và bà muốn đặt tên cho con là Gio-an, chứ không phải Da-ca-ri-a như họ hàng thường làm. Đến ông Da-ca-ri-a, khi được hỏi ý kiến, ông đã cùng một ý như bà và củng cố ý muốn của bà. Như vậy, cả hai đều làm theo ý định của Thiên Chúa mạc khải qua sứ thần Gáp-ri-en.
Nói đến sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả, thánh Phao-lô đã tóm tắt lại trong một vài câu nhưng hết sức đầy đủ, khi ngài giảng cho dân chúng tại An-ti-ô-khi-a. Ngài nói: "Để dọn đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người." Sứ mệnh của ông vỏn vẹn chỉ có thế, nhưng ông đã chu toàn đến độ dân chúng tưởng ông là chính Đấng Cứu Thế.
Từ sau cuộc canh tân Phụng vụ do Công Đồng Vatican II, Giáo Hội đã muốn chúng ta chú ý nhiều hơn đến những mầu nhiệm của Chúa Giê-su, Giáng Sinh và Phục Sinh. Vì cuộc đời và sứ mệnh của ông Gio-an Tẩy Giả đã gắn liền với cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giê-su, cho nên chúng ta thấy Giáo Hội có lý do để sắp đặt việc mừng kính sinh nhật vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã dấn thân cho Đức Ki-tô qua việc ngài rao giảng thống hối và chuẩn bị tâm hồn dân chúng đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa là Đức Ki-tô. Ngài không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng đem tất cả cuộc sống mình để làm chứng cho sự công chính mà Đức Ki-tô sắp rao giảng. Ngài chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, chứ không muốn làm nịnh thần của vua Hê-rô-đê để được "mặc gấm vóc lụa là". Cuối cùng, ngài đã bị bắt bớ, giam cầm và chịu hy sinh cả mạng sống để chu toàn sứ mệnh. Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế, đã nhận định về con người Gio-an và sứ mệnh của ông qua những lời lẽ chắc chắn. Chúa nói: "Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an." (Lc 7:28).
Lễ trọng mừng sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả là một lễ rất đặc biệt, vì trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, ngoài lễ trọng Sinh Nhật của Chúa Giê-su và Đức Me Maria, thì đây là lễ trọng sinh nhật duy nhất được mừng kính. Qua việc mừng kính này, Giáo Hội muốn thấy điều gì nơi chúng ta? Chúng ta tất cả được kêu gọi làm môn đệ Chúa Ki-tô, làm những diễn viên phụ trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa để chuẩn bị cho nhân vật chính là Đức Ki-tô xuất hiện. Mừng kính sinh nhật của thánh Gio-an Tẩy Giả là dịp để chúng ta nhắc nhớ lại sứ mệnh của mình: chuẩn bị cho Chúa đến với anh chị em. Chúng ta theo gương của thánh Gio-an, lấy lý tưởng của ngài làm lý tưởng của chúng ta, đó là "Đức Ki-tô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi." Lý tưởng ấy sẽ được thể hiện, nếu chúng ta biết mặc lấy những tâm tình của Chúa Ki-tô, được biến đổi nên giống Chúa Ki-tô, cho đến khi chúng ta có thể nói được như thánh Phao-lô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa Ki-tô sống trong tôi." A-men.
Đặc ân thứ nhất Thiên Chúa ban cho Gioan là gì ? Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một bà già: 24/6-35
1. Đặc ân thứ nhất Thiên Chúa ban cho Gioan là gì ?
Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một bà già, bà Elisabeth, mà bà này lại mắc bệnh son sẻ từ tuổi thanh xuân, đến nỗi ông Giacaria cũng không thể tin được là vợ mình sẽ sinh con, nên ông đã bị Thiên Chúa phạt cho mắc bệnh câm.
2. Đặc ân thứ hai Thiên Chúa ban cho Gioan là gì ?
Là chính Thiên Chúa đã đặt tên cho Gioan mà thiên thần Gabriel đã phán với ông Giacaria tại bàn thờ dâng hương trong đền thánh Giêrusalem: “Elisabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”
3. Đặc ân thứ ba Thiên Chúa ban cho Gioan là gì ? Là khi Gioan sinh ra, đã được khỏi tội tổ tông ba tháng rồi.
4. Nhiệm vụ thứ nhất của Gioan là gì ?
Là tiền hô, là người đi trước loan báo cho dân chúng biết Chúa cứu thế sắp tới. Nên gọi Ngài là Gioan tiền hô.
5. Nhiệm vụ thứ hai của Gioan là gì ?
Là Chúa cậy nhờ Gioan là tẩy giả tức là người rửa tội, Ngài có sứ mạng dọn đàng cho Chúa cứu thế đến, dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Nên gọi Ngài là Gioan tẩy giả.
6. Nhiệm vụ thứ ba của Gioan là gì ?
Là Chúa cậy nhờ Gioan, là làm cho mình nhỏ bé lại để cho Chúa lớn, cao hơn. khi Ngài nói: “tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên”.
7. Thánh Gioan tiền hô để gương gì cho ta ? Chúng ta phải trở nên tiền hô cho Chúa bằng cách rao giảng Chúa Giêsu cho người khác và đem người khác đến với Chúa Giêsu qua đời sống đức tin hàng ngày.
8. Noi gương thánh Gioan ta phải làm gì ? Ta phải nêu gương sáng bằng thực thi bác ái, hầu giúp nhiều người gần Chúa và trở về cùng Chúa.
9. Thánh Gioan còn dạy ta điều gì ? - Chúng ta sẵn sàng chiụ nhục nhã để Chúa được vinh danh. - Ta phải dọn mình để đón Chúa qua việc rước lễ. 10. Qua lễ sinh nhật thánh Gioan hôm nay, ta xin Chúa điều gì ?
Bàn tay Chúa đã nâng đỡ đời sống hy sinh của thánh Gioan, xin Chúa cũng nâng đỡ chúng con như thế vì xác thịt chúng con yếu đuối nặng nề.
Một lần kia giữa lúc giảng dạy cho dân chúng, Chúa Giêsu công khai nói về ông như thế này: “Ta: 24/6-36
Một lần kia giữa lúc giảng dạy cho dân chúng, Chúa Giêsu công khai nói về ông như thế này: “Ta bảo thật anh em, trong những kẻ do người nữ sinh ra, không ai cao trọng bằng Gioan Tẩy Giả”.
Tại sao Chúa ca ngợi Gioan đến như thế?
- Vì sứ mệnh và cuộc đời cao cả của ông.
A. Ong có một sứ mệnh đặc biệt: Dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
-Các sự kiện liên quan đến việc ông sinh ra chúng tỏ tất cả là do sự xếp đặt của Thiên Chúa. Bàn tay của Chúa đã luôn ở với ông.
*Cha mẹ ông già. *Ngay từ trong bụng mẹ: nhảy... *Ngày ông được sinh ra mọi người *Không hiểu rồi con trẻ sẽ ra sao vì quả thực bàn tay của Chúa ở với bà.
-Thời gian trôi qua, cậu thiếu niên đã được trả lời: ông xuất hiện như chính Chúa đi xác nhận sứ điệp của ông.
Cây lim, cây sến “các người vào sa mạc đi xem gì?” Xem cây sậy bị lung lay trong gió ư?
Các ngươi đi để xem gì?
Một người ăn mặc mịn màng ư! Ta bảo thật những kẻ ăn mặc xa hoa và sống vui thú...họ ở trong cung điện các vua chúa. Vậy các ngươi xem gì? Một tiên tri ư?
Phải! Ta bảo cho các ngươi hay: Ong là một tiên tri và còn hơn một tiên tri nữa vì ông mà có lời Kinh Thánh chép rằng: “Ta sai Thần Khí của Ta đi trước để dọn đường cho con”.
- Phần ông, ông cũng ý thức được sứ mệnh đặc biệt của mình.
Một hôm:----- ----chính và xem người là ai. Ong đã nói thẳng: ông không phải là một tiên tri, không phải là Elia.....: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Hãy san phẳng đường lối cho Chúa đi”. Như Isaia đã nói.
B.Và ông đã sống với sứ mạng của ông như thế nào? Quả thực Chúa đã không lầm khi chọn ông.
*Ong đã dám hy sinh cho sứ mệnh:
-Dòng dõi tư tế có thể --> cuộc sống an nhàn.
-Vì ông hy sinh tất cả: tự chọn một cuộc sống nhiều năm kham khổ: ăn, ở, đi, mặc.
Trước C.N đến ông siêu thoát tất cả
*Ong can đảm thi hành sứ mạng của mình:
Ong không kiêng nể một ai:
-Với mọi người hãy ăn năn sám hối vì nước trời đã gần đến.
-Nhóm Biệt phái và Sađốc: Hỡi nòi rắn độc...đừng có tưởng mình là con cháu Abraham...cái rìu để sẵn vào gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị diệt và quăng vào lửa.
-Với Hêrôđê:
*Với những người thu thuế: “chớ đòi gì quá mức cần đòi”
*Với lính : “đừng xác nhiều- chơ vu khống cho ai và hãy bằng lòng với lương bổng của mình.
*Với nhiều người để có một cuộc sống tốt : “AI có hai áo phải chia cho người không có-kẻ có của ăn như vậy”. Cụ thể -Đức Giêsu rửa sai đó Sau khi sự ->hoàn tất
*Ong can đảm rút lui vào bóng tối khi Chúa xuất hiện:
-Chúa xuất hiện
Các môn đệ của người...
“Người cần phải lơn lên, tôi cần phải nhỏ đi”
5/28 ông bị tống ngục
3/24 ->ông bị Hêrôđê Herođia-Salômê Thánh Hêrômimô thuật lại Thế là kết thúc một cuộc đời chết. :Theo Đức Thánh Cha, các con của Ngài đã chết....còn con vẫn sống trên thực tế, chính con mới là người đã chết –còn các con của Đức Giêsu vẫn sống. Tinh thần của người chết vẫn sống...sống trong ký ức của người sống.
Hôm sau vào một buổi tối tháng 3 năm 29 tại machironte người ta tưng bừng náo nhiệt tổ chức mừng vạn thọ cho vua Hêrôđê.
->Vào lúc bữa tiệc đã gần kết thúc, trong cơn đảo điên vì hơi men, lại bị kích động thêm bởi những vũ điệu cuồng loạn, xác thịt, khiêu gợi, tình tứ, quyến rũ của Salômê, đứa con của Hêrôđiađê vợ của người anh là vua Philippe mà Hêrôđê đã cướp đem về làm vợ mình...Hêrôđê đã buông ra những lời rất ngọt ngào: “Này Salômê con, con muốn xin gì chăng?...cô bé dừng lại, vân vê tà áo, mỉm cười duyên dáng khiến nhà vua khoái chí...và dù sự việc chẳng đến nỗi quá quan trọng nhưng nhà vua đã thề hễ cô xin gì dù là cả lửa nước, ông cũng sẽ ban cho...-> Cô bé chưa dám quyết định ngay, cô vào hỏi mẹ-và Hêrôđiađê là con người quỷ quyệt. Cơ hội ngàn năm một thuở đã tới. Bà quyết phài tận dụng để trả thù cho kẻ đã dám công khai xỉ nhục bà. Bà nói với con xin ngay cái đầu của Gioan- lập tức cô ra nói với vua: “—xin cha ban cho con ngay tại đây trên cái mâm này đầu của Gioan Tẩy Giả”
Phúc Am Mt 14,9-12 ghi
Nhà vua lấy làm buồn nhưng vì đã lỡ thề, lại thề trước khách dự tiệc nên truyền lệnh cho lính vào ngục lấy đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm đen trao cho cô và cô đem đến cho mẹ. Thánh Hêrôminô ghi lại một truyền thuyết khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrôđiađê đã lấy dao cạy miệng Ngài ra rồi dùng dao đâm thấu lưỡi của vị Thánh-
Và các môn đệ đến lấy thi hài của Ngài đem đi chôn- rồi đi báo cho Đức Giêsu.
Và thế là kết thúc cuộc đời của một vị tiên tri và để kết thúc bài suy niệm hôm nay tôi xin được ghi lại và gửi đến lời kết của một cuốn phim-Missio: sứ mạng
"Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa"( Ga 1, 6-7 ; Lc 1, 17).
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế: 24/6-37
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Eâlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên ( Lc 1, 5-7 ). Thánh Luca kể tiếp:" Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ "( Lc 1, 8-9 ). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10 ). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria,đứng bên phải hương án ( Lc 1, 11 ). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông ( Lc 1,12 ) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông:" Này Oâng Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Oâng cầu xin: bà Eâlisabét, vợ Oâng sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Oâng phải đặt tên cho con là Gioan( Lc 1, 13) và " Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời"( Lc 1, 14-15 ). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ ( Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả ).
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói:" Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa ( Lc 3, 16 ).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:" Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ". Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng:"...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi"( Ga 1, 15 ). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái:xin gì Oâng cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không ? Thánh Gioan đã viết:" Sự thật sẽ giải phóng con người ". Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta ? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá ? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta. Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả ).
“Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước." Ông Gio-an còn làm chứng: "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn."
***
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Gioan tẩy giả đã làm chứng về bản thân mình (3 không 2 phải).: 24/6-38
Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Gioan tẩy giả đã làm chứng về bản thân mình (3 không 2 phải). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan làm chứng về Đức Giêsu. Ta cũng có thể tóm tắt lời chứng của Gioan về Đức Giêsu thành 2 điểm:
1. Đức Giêsu là Con Chiên của Thiên Chúa: Kiểu nói “Chiên của Thiên Chúa” có thể mang 3 nghĩa quy chiếu về 3 nơi trong Cựu Ước:
. Con chiên trong Is 53,7 (“như con chiên bị lôi đến lò sát sinh”): Đức Giêsu chính là Người Tôi Tớ mà Is tiên báo bằng hình ảnh con chiên hiền lành chịu chết vì tội muôn dân. . Con chiên trong Khải huyền 5,6 14,10 17,14 đã từng bị sát tế và được nâng lên: Đức Giêsu đã chịu chết nhưng đã sống lại và chiến thắng tội lỗi.
. Con chiên vượt qua trong Ga 19,14 (Đức Giêsu bị giết vào đúng lúc người ta giết chiên để ăn tiệc vượt qua): Đức Giêsu chính là Con chiên vượt qua dùng cái chết của mình để thực hiện cuộc giải phóng nhân loại.
2. Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Kiểu nói “Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn” cũng mang âm hưởng Is 42,1 nói về Người Tôi Tớ.
B.... nẩy mầm.
1. Có người so sánh một cách thi vị rằng Linh mục và tu sĩ là những chiếc đò đưa khách sang sông. Con thuyền phải đưa khách sang sông chứ không giữ khách lại mãi trong thuyền, vì nếu thế thì nó không phải là chiếc đò nữa.
2. Trong đạo do thái người ta cần có những con chiên gánh tội. Khi người ta có tội, người ta đem một con chiên đến Đền thờ, đặt tay trên đầu nó, tỏ ý trút hết tội của mình xuống nó, rồi giết chết nó hoặc đuổi nó vào sa mạc. Kể như nó đã mang hết tội của người ta và chịu phạt tội thay cho người ta. Chúa Giêsu đã tình nguyện làm con chiên gánh tội trần gian. Ngài cũng muốn các kitô hữu làm con chiên gánh tội thay cho những người của thời đại mình.
3. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Để gánh tội tôi, Người đã bước lên cây thập giá đẫm máu. Cuộc chiến chống tội lỗi luôn cam go. - Cuộc chiến đấu chống tội lỗi trong con người tôi hẳn cũng phải theo con đường của Chúa: nhiều lần vác thập giá, nhiều lần chịu đổ mồ hôi sôi nước mắt, chịu chết lên chết xuống với con người cũ… Lạy Chúa xin cho con được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ ngay bản thân con.
4. “Gioan làm chứng về Đức Giêsu: Tôi đã thấy nên xin chứng thực Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34)
Nhiều người hỏi tôi: “Chúa có thật không ? Nếu có thì Người ở đâu ? Có gì minh chứng cho sự hiện hữu ấy ?” Tôi chẳng thuyết phục được ai, nhưng luôn tin rằng có Thiên Chúa. Quả thực tôi chưa hề thấy Chúa bằng con mắt xác thịt, nhưng được Người cho thấy bằng con mắt đức tin. Gioan đã được nhìn tận mắt, nhưng để khám phá Đức Giêsu là Đấng phải đến và để làm chứng cho Người, ông phải được Thánh Thần soi dẫn. Cũng thế, to chẳng bao giờ có thể thấy và làm chứng cho Chúa nếu như Người không trợ giúp.
Lạy Chúa, xin mở mắt cho con được thấy xa hơn những dòng chữ viết về Ngài trong Thánh Kinh, để con gặp được một Thiên Chúa sống động. Xin mở mắt cho con được thấy những hành vi âm thầm nhưng kỳ diệu của Chúa trên đời con, để con biết rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. (Epphata)
“Hôm sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa." Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?" Người bảo họ: "Đến mà xem." Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: "Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha" (tức là Phê-rô). ***
A. Hạt giống...
Tin Mừng thứ tư trình bày ơn gọi như một cuộc hành trình qua nhiều giai đoạn:1- Trước hết được: 24/6-39
Tin Mừng thứ tư trình bày ơn gọi như một cuộc hành trình qua nhiều giai đoạn:
1- Trước hết được giới thiệu cho biết Chúa (câu 36) 2- Tiếp đó là “đi theo” Chúa (câu 37) 3- Tìm đến tận “địa chỉ” của Chúa (câu 38) 4- “Lưu lại” với Chúa (câu 39) 5- Rồi tới phiên mình, giới thiệu cho người khác nữa được biết Chúa (các câu 40-42)
B.... nẩy mầm.
1. Hình như cuộc hành trình của chúng ta chỉ mới đi được 2 giai đoạn đầu. 2. Để thuyết phục các môn đệ, Chúa Giêsu không nói nhiều, Ngài mời họ “Đến mà xem”. Phải đến tận nơi Chúa ở, phải xem thật rõ con người của Ngài thì mới có thể trung thành đi theo Ngài.
3. “Hai ông lưu lại với Ngài ngày hôm ấy”: Có những việc diễn ra một lần nhưng ảnh hưởng đến suốt đời, chẳng hạn như một cuộc tĩnh tâm sốt sắng, một cuộc linh thao nghiêm túc, hoặc một giờ cầu nguyện thực sự kết hợp với Chúa.
4. “Đức Giêsu quay lại thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” Người bảo họ: “Đến mà xem” (Ga 1,38-39)
Sáng thứ hai vừa qua, một đoàn tiếp thị đã đến xưởng tôi làm việc để quảng cáo cho dầu gội đầu Pantene, với những kiểu cách hết sức sinh động hấp dẫn. Đặc biệt, còn tặng cho mỗi người một món quà lưu niệm. Nhờ quảng cáo, to được biết nhiều cái mới, cái hay, cái lạ. Nhưng quảng cáo cũng chi phối khi tôi phải lựa chọn.
Chúa Giêsu của tôi thì khác. Ngài mời gọi tôi theo Ngài, nhưng chỉ bảo “Đến mà xem”. Ngài không quảng cáo ồn ào, cũng không phô trương để mê hoặc tôi, vì Ngài muốn tôi theo Ngài với chọn lựa tự do.
Lạy Chúa, xin ban cho con, như hai người môn đệ hôm nào, biết “đến và ở lại với Ngài”, vì chỉ nơi Chúa con mới tìm được hạnh phúc đích thực. (Epphata)
“Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Ki-tô." Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?" Ông Gio-an trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa”.
****
A. Hạt giống...
Gioan tẩy giả có một lối sống đặc biệt (x. Mt 3,4), một lời rao giảng đặc biệt (x. Mt 3,2) và một: 24/6-40
Gioan tẩy giả có một lối sống đặc biệt (x. Mt 3,4), một lời rao giảng đặc biệt (x. Mt 3,2) và một cách thanh tẩy đặc biệt (x. Mt 3,6-12: thời đó cũng có nhiều nhóm làm thanh tẩy, nhưng thanh tẩy của Gioan có những điểm khác là: a/ không chỉ thanh tẩy cho 1 số người muốn gia nhập nhóm mình nhưng cho mọi người ; b/ không cần làm đi làm lại nhiều lần như những nhóm kia. Như thế thanh tẩy của Gioan có nghĩa là bày tỏ lòng sám hối để dọn lòng lãnh nhận thanh tẩy của Đấng Messia trong Thánh Linh và lửa). Do đó nhiều người thắc mắc không hiểu ông là ai. Họ đến hỏi ông. Nhân dịp này Gioan làm chứng về bản thân mình. Ta có thể tóm tắt lời chứng này trong công thức 3 không 2 phải
- Ông không phải là Messia: Nhiều người tưởng Gioan là Messia. Ông đoán được ý nghĩ đó nên phủ nhận trước.
- không phải là Êlia: Theo Ml 3,1.23-24 thì Êlia là kẻ dọn đường cho Messia. Nếu Gioan không phải là Messia thì ít ra ông cũng là Êlia chứ, vì cách ăn mặc của Gioan rất giống với Êlia (x. 2V 1,8 ss Mt 3,4). Gioan khẳng định ông cũng không phải là Êlia.
- cũng không phải là Vị Ngôn Sứ: Theo Đnl 18,18, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện Vị Ngôn Sứ giống như Môsê. Đó không phải là bất kỳ ngôn sứ nào mà là Vị Ngôn Sứ tiêu biểu (Le Prophète). Dựa vào câu Đnl trên. dân do thái vào thế kỳ I trước công nguyên rất khao khát mong chờ Vị Ngôn Sứ ấy đến sau một thời gian dài đã im tiếng ngôn sứ. Gioan cũng bảo rằng ông không phải là Vị ngôn sứ.
* mà là tiếng hô của Lời và là kẻ dọn đường cho Đấng Messia: Gioan trích Is 40,3 để nói rằng ông chỉ là “Tiếng người hô trong sa mạc”, nghĩa là người dọn đường cho Đấng Messia thôi.
Những người biệt phái mới thắc mắc: Nếu Gioan không phải là Messia, Êlia hay Vị Ngôn Sứ thì tại sao ông làm phép rửa ? Sở dĩ họ hỏi vậy là vì phép rửa của Gioan có những điểm đặc biệt hơn của những nhóm thanh tẩy thời đó (đã giải thích ở c 19 trên). Gioan đáp ông chỉ thanh tẩy bằng nước. Theo một tài liệu tìm thấy ở Qumrân, gọi là “ Manuel de discipline” thì khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ thanh tẩy bằng Thánh Linh. Gioan cũng ám chỉ điều đó ở phía sau (c 33) “Hễ thấy Thánh Linh ngự xuống và đậu lại trên ai thì đó là người thanh tẩy bằng Thánh Linh”. Vì thế, câu trả lời của Gioan chắc ai cũng hiểu: ông chỉ làm một lễ nghi thanh tẩy có tính chuẩn bị và tạm thời thôi chứ không phải là sự thanh tẩy cánh chung và messia. Nói cách khác, ông không phải là Messia.
B.... nẩy mầm.
1. Vào một đêm trăng, Thích Ca ngồi giữa các đệ tử. Ngài lấy ngón tay chỉ mặt trăng và nói: “Kia là mặt trăng. Cứ ngó theo ngón tay ta thì thấy, nhưng đừng tưởng ngón tay của Ta là mặt trăng”. Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến một cuộc đối thoại tương tự giữa Gioan Tẩy giả và những biệt phái... Họ đặt ra 3 hình ảnh về Gioan: Ông có phải là Đức Kitô không ? Ông có phải là Êlia không ? Ông có phải là tiên tri không ? Gioan cho mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc “Hãy dọn đường Chúa”. Gioan đã làm chứng cho Chúa trong sự khiêm tốn. Người kitô hữu cũng phải làm chứng cho Chúa về nhiều phương diện: không những giơ ngón tay chỉ Chúa Giêsu cho người khác mà còn phải là chứng nhân bằng chính cuộc sống nữa” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Gioan Tẩy giả có một lối sống thu hút nên nhiều người đến với ngài. Nhưng ngài không giữ họ lại cho mình mà dẫn họ tới Chúa. Vậy mà nhiều người làm ngược hẳn lại: đã không dẫn người ta đến với Chúa mà còn ngăn cản hoặc giữ lại cho riêng mình. Người làm chứng cho Chúa đúng nghĩa phải có thể nói như Gioan “Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi”.
3. Gioan Tẩy Giả đã ‘nói tiếng không’ về bản thân mình, để ‘nói tiếng có’ về CG. “Tôi không phải là…” ‘Có Đấng… đến sau tôi…” - Xin Chúa cứ lớn dần trong con để con ngày càng nhỏ bé trong tay Chúa.
4. Ông Gioan trả lời: Có một vị ở giữa các ông mà các ông không hay biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27) Đậy đại học, tôi chuẩn bị vào thành phố. Bạn bè kéo đến chúc mừng, tôi chỉ mỉm cười nghĩ thầm: “Một lời chúc muộn màng, vì mình đã biết chắc trước khi thi kìa !”
Tôi là thế đó: kiêu căng và tự phụ. Tôi chưa bao giờ chịu khuất phục một ai trong lớp, suốt 12 năm học. Và bây giờ cũng thế, thành công như đốt thêm lửa kiêu ngạo trong tôi. Tôi tự cho phép mình bỏ qua mọi ý kiến và suy nghĩ của bạn bè, thậm chí cả những lời Chúa dạy nữa. Tôi quyết định lấy mọi việc và tự hào vì luôn có thể giải quyết mọi vấn đề bằng chính suy tư của mình.
Dần dà tôi trở thành kẻ cô đơn vì bị bạn bè xa lánh, đúng hơn chính tôi đã xa lánh họ. Lòng tự mãn khiến tôi nên thiển cận, hẹp hòi, chỉ nghĩ đến mình mà không biết đến ai, kể cả Thiên Chúa nữa.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng mình chỉ là hạt cát giữa sa mạc mênh mông, là giọt nước góp nên biển cả, một con người nhỏ bé trong vũ trụ bao la, để thấy Chúa muôn trùng cao cả. (Epphata)
Thánh Gioan sinh ra tại Herbon, vào cùng một năm Chúa cứu thế ra đời. Cha Ngài, ông Giacaria: 24/6-41
Thánh Gioan sinh ra tại Herbon, vào cùng một năm Chúa cứu thế ra đời. Cha Ngài, ông Giacaria và mẹ Ngài là Isave đều là những người công chính, thánh thiện, tuân giữ nghiêm ngặt luật Chúa không thể chê trách được. Dầu tuổi cao nhưng họ lại không có con. Một ngày kia khi Giacaria thi hành phận vụ tại đền thờ, một thiên tthần đã hiện ra và nói với ông:
- “Giacaria, đừng sợ, vì lời khấn nguyện của ngươi đã được nhậm, và Isave, vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một người con, và người sẽ đặt tên cho nó là GIOAN. Nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa, từ trong lòng mẹ sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc 1,13-17).
Nhưng Giacaria ngạc nhiên và nghi ngờ nói với thiên thần: - “Sự ấy làm sao tôi biết được. Vì tôi đã già rồi và vợ tôi cũng đã cao niên” (Lc 1,18)
Đáp lại, thiên thần nói với ông:
“Ta là Gabriel, kể chầu hầu trước mặt Thiên Chúa, Ta đã được sai đến với ngươi và đem Tin Mừng này cho ngươi. Và này ngươi sẽ phải làm thinh không thể nói được nữa, cho đến ngày các điều ấy xảy ra vì lẽ ngươi đã không tin những lời của Ta, những lời đến thời đến buổi sẽ nên trọn” (Lc 1,19-20)
Ra khỏi đền thờ, Giacaria bị câm. Còn Isave , bà im lặng với niểm vui vì sẽ có con. Sáu tháng sau, Thiên thần lại hiện đến Đức trinh Nữ tại Nazareth, mang theo một sứ mệnh cao cả hơn nhiều. Đức Maria được chọn làm mẹ sinh ra Đấng cứu thế. Dịp này, Ngài cũng được báo cho biết về việc thụ thai của Isave trong lúc tuổi già, Ngài vội vã lên đường thăm viếng người chị em diễm phúc của mình. Cuộc gặp gỡ đã ảnh hưởng tới con trẻ. Khi Đức Trinh Nữ vừa mới mở lời chào thì con trẻ trong lòng Isave nhảy mừng và đã được đức tin hóa bởi sự hiện diện của Thiên Chúa mà Đức Trinh Nữ cao cả vừa mang thai. Isave cảm biết sự kiện và ơn thánh thanh tẩy trong con trẻ cũng được khai sáng bà mẹ. Bà đã biết mầu nhiệm nhập thể và được Thánh Linh thần hứng, bà đã kêu lên:
- “Trong nữ giới có Người là diễm phúc và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng người. Và bởi đâu với được thế này là Mẹ Chúa tôi đến với tôi ?” (Lc 1,42-43).
Maria đã lưu lại với Isave chừng ba tháng. Hết thời thai nghén, Isave sinh con. Láng giềng và thân thích nghe biết Chúa đã xử rất nhân hậu với bà thì đều chung vui với bà. Ngày thứ tám gia đình họp lại để làm phép cắt bì cho con trẻ. Mọi người đều gọi con trẻ là Giacaria. Nhưng Isave nói với họ:
- “Không, tên nó là GIOAN”.
Họ nói với bà:
- Nào có ai trong thân thích bà mang tên đó đâu ? Người ta ra dấu hỏi người cha đứa trẻ xem ông muốn đặt tên gì. Lấy một tấm bảng ông viết:
- “GIOAN là tên nó”. Mọi người kinh ngạc nói với nhau:
- Con trẻ này rồi sẽ ra sao ?
Còn Giacari, ông hết bị câm và mở miệng xướng bài ca chúc tụng Chúa, trong đó ông nói tiên tri về sứ mệnh con trẻ và việc Chúa sắp đến. Lời ca này được Giáo hội lập lại mỗi ngày vào giờ kinh sáng.
Thánh kinh ghi nhận rằng: Gioan lớn dần, tinh thần dũng mạnh và ở trong hoang điạ cho đến ngày thi hành sứ vụ. Khi ấy, ông đi khắp vùng quanh sông Giodan rao giảng sám hối và thực hiện phép rửa Thanh tẩy (Lc 3). Bởi vậy Ngài cũng được gọi là GIOAN TẨY GIẢ.
Con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không chỉ gây kinh ngạc cho bà con thân thuộc của: 24/6-42
Con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không chỉ gây kinh ngạc cho bà con thân thuộc của Ngài lúc sinh thời, mà ngay giữa thời đại chúng ta, con người và sứ điệp ấy vẫn là một thắc mắc thật khó hiểu. Lời Chúa trong thánh lễ là một giải thích cho những ai muốn có một trả lời trọn vẹn: " Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó."
Thường tình mỗi con người được nhận biết qua gia thế, dòng tộc và xã hội của họ. Và vì thế mỗi người mang theo với cuộc sống tên tuổi của giòng họ mình. Điều mà họ hàng đã muốn khi lấy tên Giacaria mà đặt cho con trẻ. Nhưng Elisabeth bảo phải đặt tên cho con trẻ là Gioan, và người ta phản đối "Không ai trong họ hàng bà có tên đó".
Vào thời đại văn minh ngày nay, cho dầu con người đã được giải phóng rất sớm khỏi những ràng buộc gia đình, nhưng trong lý lịch của mỗi người vẫn còn đó những liên hệ gia đình mà xã hội phải quan tâm. Dẫu sao ít nhiều cái quan niệm "Con vua thì lại làm vua, con nhà kẻ khó bắt cua cả ngày" vẫn là một định luật xã hội nhiều khắt khe. Sự bức phá của cá nhân thật họa hiếm.
Và cho dù ngày nay, người trẻ có nhiều cơ hội thay đổi vận mạng gia đình, nhưng cũng không thoát ra khỏi cái tình cảnh mà cha ông ta thường nói "Miệng kẻ sang có gang có thép, đồ kẻ khó vừa nhọ vừa thâm". Vận mệnh con người vẫn bị đóng khung trong những quan niệm nhân sinh của thời đại mình.
Con người và sứ điệp của Gioan khẳng định về một nhân sinh quan hoàn toàn mới mẻ. Cũng như Isaia, Gioan đã muốn nhìn con người trong nguồn cội của nó "Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng Mẹ". Mỗi một con người là một tương quan đặc hữu với Thiên Chúa mình. Thậm chí, phủ nhận mối tương quan hữu cơ ấy con người sẽ "vất vả mất công vô cớ," và "đã phí sức vô ích". Tuy nhiên điều mà con người và sứ điệp của Gioan muốn dãi bày như là trọng tâm của nhân sinh quan mới mẻ này là "Con là ánh sáng các dân tộc..." "là ơn cứu độ cho đến tận bờ cõi trái đất". Mối tương quan đặc hữu với Thiên Chúa đặt con người trong mối tương quan không thể tách lìa với mỗi tha nhân trong tình thương xót của Thiên Chúa. Người ta không thể hiểu Gioan nếu không nhìn ông trong 2 chiều kích này.
Gioan đã sống và rao giảng sứ điệp ấy một cách quyết liệt không lùi bước trước mọi thách đố, kể cả phải hy sinh sự sống. Tin Mừng Luca kết luận "con trẻ...ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel", một kết luận mang sắc thái Thần Học về cuộc sống con người: đúng như Isaia nói "Ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta sẽ được vinh hiển nơi ngươi". Mỗi con người mang nơi mình "vinh quang" của Chúa như là sự sống thâm sâu tuôn trào trong lòng họ, và họ phải phục vụ vinh quang ấy giữa dân tộc mình, để muôn dân nhận ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa.
Trong câu trả lời cho mọi thắc mắc, Gioan đã nói thay Đức Kitô, nói thay cho mỗi người tin "Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng", ông chỉ muốn xác nhận cái chân lý về con người trong Đức Kitô "Chúa là Đấng đã tác tạo tôi thành tôi tớ Người".
Khi sinh một đứa con, việc đặt tên quả thực là quan trọng đối với nhiều bậc cha mẹ, nhất là khi ho: 24/6-43
Khi sinh một đứa con, việc đặt tên quả thực là quan trọng đối với nhiều bậc cha mẹ, nhất là khi họ có đứa con đầu lòng. Tường thuật Tin Mừng hôm nay cho ta một khung cảnh khác thường khi gia đình ông Da-ca-ri-a và họ hàng cử hành nghi thức đặt tên cho em nhỏ mới sinh. Tên của em là Gio-an, một cái tên không phải của cha em, cũng không phải của người nào trong họ hàng, nhưng là tên do sứ thần đã cho ông biết trong cuộc truyền tin tại Đền Thờ. Vậy sự can thiệp của Chúa trong nghi thức đặt tên này chắc chắn mang một ý nghĩa đặc biệt, không riêng đối với gia đình họ hàng của ông Da-ca-ri-a, nhưng còn đối với toàn thể nhân loại trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
1) Đặt tên hoặc đổi tên thường mang ý nghĩa một sứ mệnh
Nhiều lần trong Kinh Thánh đã có việc đặt tên hoặc đổi tên theo lệnh của Thiên Chúa. Tên của ông Áp-ram được đổi thành Áp-ra-ham, nghĩa là “cha của vô số dân tộc” (St 17:5). Nhận cái tên mới, ông Áp-ra-ham hoàn toàn tín thác nơi sự an bài của Thiên Chúa và đã trở thành tổ phụ của dân được Người tuyển chọn. Trong Tân Ước, Chúa Giê-su đổi tên ông Si-mon thành Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, để “trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16:18).
Sau khi con trai của ông bà Da-ca-ri-a sinh ra được tám ngày, người ta tổ chức lễ đặt tên cho em. Bà con lối xóm đến tham dự và chia vui với gia đình. Họ đề nghị lấy tên ông Da-ca-ri-a mà đặt cho em, theo tập tục hoặc để nói lên ý nghĩa tiếp nối dòng dõi. Nhưng Thiên Chúa đã có kế hoạch riêng và em bé này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch ấy. Vai trò của em được gói ghém trong cái tên do sứ thần truyền cho ông Da-ca-ri-a phải đặt cho em, đó là Gio-an, nghĩa là “Chúa ban ơn”.
Vậy thì Gio-an sẽ làm gì cho kế hoạch “Chúa ban ơn”? Trong cuộc truyền tin cho ông Da-ca-ri-a, sứ thần nói về những điều Gio-an sẽ làm sau này: “Ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Em sẽ đi trước mặt Người, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Ê-li-a, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1:15-17). Chúa ban ơn. Nhưng làm sao để những người nhận lãnh ơn biết đường mà đến với Đấng ban ơn? Làm sao giúp đỡ họ có được tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận ơn Chúa? Tóm lại, sứ mệnh của ông Gio-an là chuẩn bị cho kế hoạch “Chúa ban ơn” được thực hiện và thu hoạch thành quả tốt đẹp.
2) “Chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”
Chúa Giê-su là “ân sủng tràn đầy” (Ga 1:14c) được Chúa Cha ban cho nhân loại trong kế hoạch cứu độ của Người. Chuẩn bị cho nhân loại sẵn sàng đón nhận “ân sủng tràn đầy” này chính là sứ mệnh của Gio-an. Công việc chuẩn bị đã được sứ thần nói cho ông Da-ca-ri-a biết.
Trước hết Thiên Chúa tuyển chọn Gio-an ngay từ trong lòng mẹ. Thai nhi “đã đầy Thánh Thần” nên nhảy mừng lúc được gặp gỡ Đấng Mê-si-a khi Mẹ Ma-ri-a đến viếng thăm vợ ông là bà Ê-li-sa-bét. Cũng như Chúa Giê-su luôn luôn đầy tràn Thánh Thần từ khi được thụ thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, qua suốt sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho tới lúc “trao ban Thần Khí” trên thập giá, thì thánh Gio-an cũng được “đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Ê-li-a” từ lúc được thụ thai cho đến khi bị chém đầu theo lệnh của bạo chúa Hê-rốt. Tiếp đến, công việc của Gio-an là công việc của một ngôn sứ thời Tân Ước cũng giống như công việc của các ngôn sứ thời Cựu Ước. Ông là gạch nối giữa Cựu Ước với Tân Ước, để “làm cho lòng cha ông quay về với con cháu”. Ông thi hành công việc cốt lõi của một ngôn sứ, đó là “làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay”.
Thực thế, cả đời ông là để nói cho mọi người biết thời Cựu Ước đã mãn và một “trời mới đất mới” đang mở ra trước mặt nhân loại. Một giao ước mới sắp được Thiên Chúa khai mở và ký kết bằng máu của “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29-30). Giao Ước Mới mang giá trị trổi vượt trên Cựu Ước bội phần là vì sự cao trọng của Chúa Giê-su, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Ông Gio-an không mặc cảm thấp kém trước Đấng Mê-si-a, trái lại ông hãnh diện và thẳng thắn cho mọi người biết rằng Chúa Giê-su mới đích thực là cao trọng. Ông nói:“Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi vì có trước tôi... Tôi xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Con Thiên Chúa)” (Ga 1:29.34). Hơn nữa, sự trổi vượt của Tân Ước sẽ được chính Chúa Giê-su khẳng định sau này. “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7:28).
Là một ngôn sứ, ông Gio-an rao giảng về việc sám hối và mời gọi người ta nhận phép rửa như một dấu chỉ biểu lộ lòng sám hối đích thực. Các sách Tin Mừng nhất lãm đồng loạt ghi lại việc ông Gio-an rao giảng sự sám hối và thi hành sứ vụ chuẩn bị đường Chúa đến (Mt 3:1-12; Mc 1:1-8 và Lc 3:1-18). Ông không vị nể ai. Nếu cần phải khiển trách, ông sẵn sàng làm công việc đó, cho dù có thể nguy hiểm đến mạng sống. Mà đúng thế, chỉ vì khiển trách tiểu vương Hê-rô-đê, ông Gio-an đã bị nhà vua bỏ tù và bị chém đầu (Lc 3:19-20; Mc 6:17-29).
3) Tinh thần Gio-an: Chúa Giê-su phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi
Ông Gio-an ý thức chỗ đứng của mình: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người” (Ga 3:28). Khuôn mặt Gio-an đâu phải là lu mờ gì. Bao nhiêu người đã đến với ông. Có nhiều người còn muốn tôn ông làm Đấng Ki-tô nữa. Cả đến nhà vua, tuy bắt ông bỏ tù nhưng cũng vẫn một lòng kính nể ông. Nếu là người háo danh, chắc ông đã nắm bắt cơ hội để tạo cho mình một chỗ đứng và uy tín to lớn trước mặt dân chúng. Nhưng tuyệt nhiên ông chỉ nhận mình là “tiếng kêu trong hoang địa”, hoặc nói một cách bình dân hơn, “không đáng cúi xuống cởi quai dép” cho Chúa Giê-su. Chẳng những vậy, ông còn ví mình như người phù rể, cảm thấy “vui mừng hớn hở” vì được nghe tiếng nói của chú rể nữa (Ga 3:29).
Tinh thần Gio-an có thể được áp dụng cho mọi người. Những người lãnh trách nhiệm mục vụ như linh mục tu sĩ, hoặc những người làm việc tông đồ hay phục vụ cộng đoàn cần phải để “việc làm sáng danh Chúa” lên trên mọi quyền lợi của mình. Là những chứng nhân của Chúa Ki-tô, Ki-tô hữu hãy làm sao cho hình ảnh Chúa nổi bật để người ta thấy được Chúa rõ ràng, chứ không phải để người ta thấy họ là những người đạo đức. Trong tiến trình Ki-tô hóa, ta phải làm sao chết đi con người tội lỗi của ta, để sự sống của Chúa Ki-tô được phát triển và đầy tràn nơi ta.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Dân chúng miền núi Giu-đê hỏi nhau về em bé Gio-an: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật có bàn tay Chúa phù hộ em. Có khi nào tôi lấy câu hỏi đó áp dụng cho chính mình không? Tôi sẽ trở thành một Ki-tô hữu tốt?
Sứ mệnh của ông Gio-an cũng phải là sứ mệnh của mọi người. Vậy tôi có giúp cho người khác biết Chúa và theo Chúa không? Nếu có, tôi đã làm gì?
Chúa Giê-su có được “nổi bật lên” qua lối sống của tôi không? Hay ngược lại, tôi đã làm cho Người bị lu mờ đi?
Cầu nguyện
“Lạy Cha chí thánh, chúng con ca ngợi những kỳ công Cha đã thực hiện nơi thánh Gio-an Tiền Hô. Cha đã thánh hiến người và cho người được vinh dự giữa các người thế. Chưa sinh ra, người đả nhảy mừng khi Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Lúc chào đời, người đã đem lại nhiều niềm vui. Người là vị ngôn sứ duy nhất chỉ cho dân chúng nhận ra Đức Ki-tô là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian...
Xin Cha rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn chúng con bước vào con đường cứu độ và bình an. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.” (Lời tiền tụng và lời nguyện nhập lễ).
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy: 24/6-44
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể vào 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin
(Forerunner/Herald), người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là "ngày tái sinh trên trời." Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời, vào Chúa nhật như Chúa nhật tuần nầy vì cuộc đời Thánh Gioan gắn liền với cuộc đời Ngôi Hai Thiên Chúa: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giesu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giesu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lk. 1:5 & 1:26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá;
Chúa Giêsu cần Gioan loan báo trước khi đến như Thánh Gioan cần cha là Zachariah khỏi câm để xác nhận tên và nhiệm vụ Chúa giao phó cho mình (Lk. 1:64); Đức Mẹ cần thăm viếng bà Elizabeth để hài nhi Gioan giới thiệu hài nhi Giesu trong cung lòng các bà mẹ được chúc phúc.
Cuộc đời tiền hô và làm chứng của T. Gioan được tóm gọn lại trong 3 điểm:
1) Một Ngôn sứ đã làm phép rửa, rao giảng và giới thiệu Chúa Kitô đến với mọi người.
Sau khi xong nhiệm vụ giới thiệu, Ông tránh sang một bên để Chúa trực tiếp liên hệ với người ta.
2) Khiêm nhường nhưng cương quyết:
theo Phúc âm thuật lại sau khi làm phép rửa cho Chúa Giesu tại sông Jordan, chính mắt Ông đã thấy Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Con và nghe trên trời có tiếng phán: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài." (Mk. 1:9) Ông giới thiệu đến toàn dân: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian....Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài." (Jn. 1:15) Lần kia khi đứng với hai môn đệ thì bắt gặp Chúa Giesu đi qua, Ông chỉ cho môn đệ: "Đây chính là Đấng Messiah-Thiên sai." Sau đó hai môn đệ đã bỏ Ông và theo làm môn đệ Chúa Giesu (Jn. 1:35). Lần khác Ông tuyên bố: "Chúa Kitô phải được nâng lên, còn tôi phải hạ xuống." (Jn. 3:30) Ông cương quyết nhất định không nhượng bộ hành động trái luân lý và luật Chúa của vua Hêrođê dù việc đó dẫn đến cái chết (Lk. 3:19).
3) Tính cách nhân bản rất người của Gioan:
Sinh ra bởi một cặp vợ chồng rất già là một sự lạ; Cha bị câm suốt thời gian mẹ mang thai cũng lạ; Nhảy mừng trong lòng khi được hài nhi Giesu trong cung lòng Đức Mẹ tới thăm càng lạ hơn; Lớn lên được tràn đầy Chúa Thánh Thần khi chứng kiến biến cố rửa tội ở sông Jordan với Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không vì thế mà Gioan không có những thao thức, trăn trở về đức tin, về tâm linh theo Thánh ý Chúa. Một hôm lúc đang bị giam trong tù chỉ vì dám nói lên sự thật đã chỉ trích Vua Herode cướp vợ của anh mình, sống với chị dâu tên Herodia, Gioan đã phái môn đệ đến hỏi Chúa Giesu: "Thưa Thầy, Thầy chúng tôi muốn biết Thầy có phải là Đức Kitô Đấng đến để cứu nhân loại hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác?" Chúa Giesu đáp: "Yes! Hãy về nói cho Gioan biết những điều mà các con thấy: người mù được thấy, người què được đi, người cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng..." (Lk. 7:19) Suy nghĩ về cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta tìm được 3 ý niệm để cùng nhau suy nghĩ trong những ngày tới:
1/ Sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải nói sự thật và cương quyết sống sự thật, cho dù điều đó đôi khi làm chúng ta thiệt thòi, đau khổ hoặc dẫn đến cái chết như Gioan. Thánh Gioan chỉ vì nói lên sự thật, cố gắng giúp đỡ cho vua Hêrôđê tốt hơn, nhưng hậu quả dẫn đến cái chết tức tưởi trong tù vì bị bà Herodia chị dâu sống bất hợp pháp với Herođe hãm hại.
2/ Là Kitô hữu chúng ta phải sống khiêm nhường: "Chúa phải lớn lên trong ta và cái tôi trong ta phải hạ xuống." Sau khi giới thiệu Chúa cho người ta rồi thì đừng có nhận làm "tổng đại lý" của Chúa mà hỏng việc Chúa! Bổn phận chúng ta gieo còn Chúa cho ai gặt tuỳ Chúa, đừng thắc mắc, cũng đừng kể công mà mất phúc.
3/ Trong đời sống đức tin đôi lúc chúng ta có thể đặt câu hỏi nhưng đừng ngã lòng mất lòng trông cậy nơi Chúa. Phó thác không có nghĩa là gặp cái gì cũng tin, hoặc gặp cái gì cũng đòi phải được chứng minh. Đức tin và Đời sống người Kitô hữu là một bí nhiệm mà chỉ có Tình thương và lòng trông cậy vào Lời Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả mới giải đáp được.
Xin Thánh Gioan Tiền Hô giúp Kitô Hữu chúng con dám can đảm Tin và cương quyết Làm Chứng cho Chúa cho dù nơi trần thế chúng con chưa thấy được Chúa tỏ tường. Amen.
Gioan Tiền hô là người của Thiên Chúa. Ông đã được sinh ra một cách lạ lùng từ một người mẹ thuộc: 24/6-45
Gioan Tiền hô là người của Thiên Chúa. Ông đã được sinh ra một cách lạ lùng từ một người mẹ thuộc hàng son sẻ và đã cao niên. Son sẻ là một nỗi, tủi nhục đối với người phụ nữ Do Thái vào thời bấy giờ. Bởi vậy, bà Êlisabéth khi biết mình mang thai đã thốt lên:
- Chúa đã làm cho tôi như thế, vào thời Ngài cất nỗi khổ nhục của tôi giữa người đời. Bởi vì lòng dạ không mang thai là một lòng dạ đã chết. Nhưng chính nơi những cái chết ấy mà Thiên Chúa thi thố quyền năng của Ngài.
Lịch sử cũng cho thấy từ những người đàn bà hiếm muộn, Thiên Chúa đã cho trỗi dậy những khuôn mặt lỗi lạc.
Tư tưởng và đường nẻo của Thiên Chúa thì khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Chẳng hạn từ cung lòng Đức Trinh nữ Maria, vị cứu tinh muôn dân mong đợi sẽ ra đời. Và từ cái chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm nảy sinh sự sống mới. Công trình cứu chuộc hoàn toàn là một sáng kiến của Thiên Chúa xuất phát từ tình thương bao la của Ngài.
Ông Giacaria, cha của Gioan Tiền hô, trong lúc hứng khởi vì được chứng kiến những việc lạ lùng Thiên Chúa làm khi khởi đầu thời cứu độ, đã nói về vai trò của Gioan trong bài ca chúc tụng:
- Con sẽ là tiên tri của Đấng Tối cao. Con sẽ loan báo việc Thiên Chúa và dọn đường cho Ngài.
Dọn đường để chào đón một nhân vật quan trọng là một hình ảnh quen thuộc. Đường sá thì ghồ ghề khó đi, dân làng được huy động để san bằng những chỗ lồi lõm. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ đi trên những con đường xứ Palestine, mà Ngài còn muốn đến với cõi lòng của mỗi người. Và như thế, công việc dọn đường của Gioan có nghĩa là rao giảng sự hoán cải trong dân để được tha thứ: lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh hoa kết trái thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa.
Tin mừng đã mô tả Gioan như một vị tiên tri. Ông được xức dầu một cách thiêng liêng ngay từ trong lòng mẹ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Ông được đầy tràn Thánh Thần và có được những đặc điểm của một vị tiên tri. Và như các vị tiên tri khác, ông có nhiệm vụ rao giảng sự sám hối ăn năn. Và theo cái nhìn của Chúa Giêsu, ông còn hơn cả vị tiên tri nữa, bởi vì ông là sứ giả của Thiên Chúa:
- Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt ngươi. Và Chúa Giêsu còn lớn tiếng khẳng định:
- Trong những kẻ bởi người nữ, thì không có ai lớn hơn Gioan. Nhưng người nhỏ hơn trong nước Thiên Chúa, lại lớn hơn ông.
Điều đó có nghĩa là Gioan thuộc về giai đoạn chuẩn bị và trong giai đoạn chuẩn bị này, thì ông là người lớn hơn cả. Nhưng người đến sau ông, tức là Đức Kitô Con Thiên Chúa làm người, vị cứu tinh của thời buổi sau hết, lại lớn hơn ông. Cái lớn lao của ông là cái lớn lao của công việc chuẩn bị, dẫn người ta đến với Đức Kitô, vì thế khi Đức Kitô bắt đầu xuất hiện trước công chúng để rao giảng Tin mừng, thì lập tức ông lui vào bóng tối vì vai trò của ông đã hoàn tất như lời ông đã nói:
Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Còn chúng ta thì sao? Mỗi người chúng ta cũng phải là một Gioan Tiền hô giữa lòng cuộc đời, nghĩa là chúng ta cũng phải dẫn đưa mọi người đến tìm gặp Chúa. Bởi đó, với một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ là những tiền hô, giới thiệu khuôn mặt đích thật của Đức kitô cho những người chung quanh chúng ta.
Suy nghĩ về thánh Gioan Tiền Hô, tôi nhận thấy Ngài có một chỗ đứng quan trọng, một vị trí đặc: 24/6-46
Suy nghĩ về thánh Gioan Tiền Hô, tôi nhận thấy Ngài có một chỗ đứng quan trọng, một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh cũng như trong phụng vụ. Trước hết là trong Kinh Thánh.
Thực vậy, không có một vị thán nào mà cuộc đời được Kinh Thánh diễn tả một cách đầy đủ cho bằng thánh Gioan Tiền Hô. Kinh Thánh đã kể lại từ việc ông Giacaria dâng hương trong đền thờ đến việc bà Isave thụ thai. Từ việc Đức Maria tới thăm viếng đến việc bà Isave sinh nở. Từ ngày mở mắt chào đời với những sự việc kỳ diệu của Chúa, đến những năm tháng xuất hiện công khai với một cuộc sống khắc khổ. Từ những lời rao giảng gắt gao cho đến lúc bị tống nục và cái chết anh dũng dưới lưỡi gươm của Hêrôđê. Ngài là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, nhưng đồng thời lại là một vị thánh lớn của Tân Ước. Ngài chính là một nhịp cầu thông cảm nối liền Cựu Ước với Tân Ước, đến nỗi Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ngợi khen: "Trong số những kẻ được sinh ra bởi người nữ, không có ai cao trọng hơn Gioan".
Tiếp đến là trong phụng vụ.
Đối với tất cả các thánh, chúng ta thường mừng kính vào ngày chết, tức là ngày các ngài được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được bước vào quê hương Nước Trời. Ngoài Chúa Giêsu, thì Giáo Hội chỉ mừng kính ngày sinh của Mẹ Maria và thánh Gioan Tiền Hô mà thôi. Bởi vì tất cả chúng ta, dù là các thánh thì khi mở mắt chào đời, cũng đã mang lấy dấu vết nhơ bẩn của tội nguyên tổ, cũng đã sống trong một tình trạng thù địch với Thiên Chúa. Trong khi đó thì Mẹ Maria được đặc ân vô nhiễm, còn thánh Gioan thì được tẩy sạch nhờ sự thăm viếng của Mẹ Maria, khi còn là một thai nhi trong lòng bà thánh Isave.
Như thế Gioan Tiền Hô đã là thánh kể từ khi lọt lòng mẹ, kể từ khi bắt đầu cuộc sống trần thế. Sở dĩ như vậy vì Chúa muốn cho Gioan được chuẩn bị để báo trước sự xuất hiện của Ngài.
Đúng thế vai trò của Gioan là vai trò của người tiền hô, chuẩn bị cõi lòng mọi người đón nhận Đấng cứu thế, vai trò của người đi trước dọn đường Chúa đến. Nếu Đức Kitô là mặt trời rực sáng thì Gioan Tiền Hô là hừng đông và một khi mặt trời đã xuất hiện ngày mới khởi đầu thì hừng đông không còn nữa. Ý thức được vai trò của mình nên Gioan đã xác quyết với đám đông: "Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi".
Với chúng ta cũng vậy ngay từ khi chúng ta mở mắt chào đời, Thiên Chúa cũng đã nhìn chúng ta bằng một ánh mắt trìu mến, và nhất là Ngài đã dành cho chúng ta một ơn gọi, ơn gọi ấy là trở nên như những vị tiền hô, chuẩn bị và dọn đường Chúa đến trong tâm hồn những người chung quanh. Thế nhưng chúng ta đã thực sự là những vị tiền hô của Chúa hay là bằng một đời sống bê tha và tội lỗi, gian tham và thù oán, chúng ta đã nhẫn tâm dập tắt ngọn lửa nhỏ bé của những tâm hồn thiện chí, đang muốn tìm gặp Chúa.
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng: 24/6-47
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.
Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: "Để thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".
Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là Goan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được... Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu... Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa... Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Đức Kitô trong chúng ta?
Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay tập trung vào lễ nghi cắt bì và đặt tên con trẻ Gioan. Khi được chứng kiến: 24/6-48
Bài Tin mừng hôm nay tập trung vào lễ nghi cắt bì và đặt tên con trẻ Gioan. Khi được chứng kiến những sự lạ lùng, nhất là sự kiện Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm, mọi người đều bỡ ngỡ và thắc mắc về sứ mệnh của em nhỏ sau này. Về sau Gioan đã vào sống trong hoang địa cho đến trước khi Đức Giêsu ra giảng đạo, Gioan đã đến vùng sông Gio-đan thi hành sứ mệnh tiền sứ để giúp dân Ít-ra-en chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu sắp đến.
2. CHÚ THÍCH: PHÉP CẮT BÌ TRONG ĐẠO DO THÁI
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (x Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (x Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (x Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (x Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Ki-tô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (x Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Ki-tô là đủ (x Gl 5,6).
3. CÂU HỎI:
1- Tại sao bà Êlisabét không đồng ý đặt tên cho con trẻ là Da-ca-ri-a mà là Gioan? 2- Hãy cho biết những sự lạ nào đã xảy ra trong nghi lễ cắt bì và đặt tên của Gioan Tẩy giả? 3- Cắt bì là gì? Những ai được chịu phép cắt bì? Phép cắt bì nhằm mục đích gì ? 4- Tại sao ngày nay khi theo đạo công giáo, lương dân không còn phải chịu phép cắt bì trước khi chịu phép rửa tội để gia nhập vào Hội thánh?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: "Đức Ki-tô phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM: CUỘC ĐỜI CỦA GIOAN TIỀN SỨ
Gioan là vị Tiền hô của Chúa Giêsu (x.Mt 3,3). Gioan là con của ông Da-ca-ri-a và bà Êlisabét. Cả hai thuộc dòng tộc tư tế. Bà Êlisabét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan là anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan sống ở miền núi xứ Giu-đê (x Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã sống cuộc đời ẩn tu khổ hạnh trong sa mạc. Đến năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêria, Gioan mới xuất hiện tại vùng hoang địa miền Giuđê cạnh sông Giođan để rao giảng và làm phép rửa sám hối cầu ơn tha tội (x.Mt 3,1). Phép rửa của ông là một nghi thức thống hối kèm theo việc xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gioan đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người với các môn đệ: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,29). Có lần đức Giêsu gọi Gioan là Ê-li-a khác, là người lớn nhất trong Cựu ước, là tiên tri loan báo Nước Trời (x.Mt 11,2 -19; Lc 7,18-33).
Cuộc đời của Gioan kết thúc bằng hình khổ bị chém đầu trong nhà tù, do ông can đảm bênh vực cho công lý, dám lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được lấy bà chị dâu Hêrôđiađê làm vợ. Do đó ông đã bị tống giam vào ngục và sau đó còn bị giết hại (x. Lc 9,7-9).
3. THẢO LUẬN: Chúng ta cần làm gì để noi gương các nhân đức của Gioan như: khiêm nhường (x Ga 3,30), khó nghèo (x Mc 1,6-8), vâng phục (x Mt 3,13-15), trung tín (x Ga 1,35-37), thật thà (x Ga 1,20-23), dũng cảm (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9).
IV. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊSU. Thánh Gioan đã thực hiện sứ mệnh tiền hô kèm theo những dấu lạ, khiến mọi người phải bỡ ngỡ thán phục. Đời con chẳng có những dấu lạ như thánh Gioan. Cũng như bao người khác, Chúa muốn con trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. Xin cho con trở thành dấu chỉ để người đời nhận biết Chúa, qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân và khiêm nhường phục vụ, nhất là phục vụ những người nghèo đói noi gương Chúa xưa.
- LẠY CHÚA. Thánh Gioan Tẩy giả đã nêu gương khiêm tốn và làm chứng cho Chúa. Làm chứng trong cuộc sống hôm nay chính là: Tự làm mình lu mờ đi bằng việc ít nói về mình, không khoe khoang thành tích của mình, để Chúa được lớn lên nơi tha nhân. Làm chứng cho Chúa hôm nay cũng là: sống điều độ chừng mực, tránh thói tiêu xài xa hoa lãng phí và sự chè chén say sưa. Làm chứng cho Chúa hôm nay còn là chỉ đường giúp nhiều người nhận biết và theo làm môn đệ của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống đơn sơ khó nghèo, can đảm làm chứng cho sự thật và không bao giờ chịu lùi bước trước những khó khăn trở ngại gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng...
Một người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu đêm: 24/6-49
Một người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn không sót một con! Niềm vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia đình.
Một niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời. Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em" (Lc 1,66).
Thế rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng. Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực hiện ý Người.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, thì người cũng không ngần ngại giới thiệu họ đến với Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giê-su, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giê-su.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: "Chúa Giê-su phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Đời sống cao đẹp của thánh Gioan đã được Chúa Giê-su nhìn nhận: "Trong các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan" (Mt 11, 11).
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng. Thời bấy giờ không ai dám đả động đến hành vi loạn luân của vua Hê-rô-đê với người chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê. Chỉ mình Gioan dám đứng lên tố cáo tội lỗi nhà vua cho dù phải lãnh lấy án chết. Gioan anh dũng chấp nhận chết để bảo vệ giềng mối đạo đức cho tôn giáo và xã hội. Đó là cái chết đẹp vô cùng.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy nhớ lại ngày sinh nhật của chúng ta. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất đời. Ngày ấy, cha mẹ, ông bà, cô bác đều mừng vui vì ta được sinh ra đời. Ai cũng muốn nhìn ta, ai cũng mỉm cười với ta, ai cũng muốn bồng ẵm ta... và ai cũng đặt nơi ta một niềm hy vọng: "Trẻ nầy rồi sẽ nên như thế nào?" Cha mẹ và bà con hy vọng ta sẽ có tương lai xán lạn, hy vọng ta sẽ đem lại danh giá cho gia đình và họ hàng. Nhưng mãi cho đến hôm nay, chúng ta đã đáp ứng được niềm hy vọng đó chưa?
Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta sống sao cho đẹp như Gioan để không làm cho gia đình họ hàng thất vọng đồng thời để dọn đường cho Chúa đến với mọi người.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp ta chết sao cho đẹp, để lại tiếng thơm cho đời như thánh Gioan.
Thế nào là một người cao trọng? Để đánh giá sự cao trọng của bản thân, chúng ta thường có ba cách: 24/6-50
Thế nào là một người cao trọng? Để đánh giá sự cao trọng của bản thân, chúng ta thường có ba cách:
Cách thứ nhất là bằng cặp mắt của mình Nghĩa là dựa trên những suy nghĩ và nhận định của chính con người chúng ta. Cách thức này thường không mấy xác thực, bởi vì cái nhìn của chúng ta thường chủ quan, chúng ta thường đưa ra 1001 lý do để biện minh cho những sai lỗi của chúng ta. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với những người chung quanh, vì tự thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng có một chút khuynh hướng kiêu căng, muốn được ca tụng, muốn được để ý tới. Đánh giá bản thân bằng chính cặp mắt của mình là cân đo bằng một loại thước bị thiếu hụt, không chính xác...
Cách thứ hai là bằng cặp mắt của người khác Nghĩa là dựa trên dư luận, dựa trên những phán đoán của những người chung quanh. Cách thức này cũng thường không đem đến sự thật, vì dư luận là dư luận. Cùng một sự kiện mà mỗi người nhìn một cách thức tùy theo cảm tình của mình:
- Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Chính vì thế mà dư luận thường thổi phồng và bóp méo, không mấy khi được thống nhất:
- Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.
Cách thứ ba là bằng cách nhìn của Chúa
Đây mới là một cách thức vừa cần thiết vừa trung thực nhất. Vậy thì ai là người cao trọng dưới mắt Chúa. Tôi xin thưa, đó là người khiêm nhường không chút kiêu căng.
Sự khiêm nhường ấy được biểu lộ trước hết là trong tư tưởng, nhận đúng thân phận của mình chỉ là tôi tá của Chúa. Đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý bởi vì nhiều khi sự khiêm nhường của chúng ta chỉ là một thứ khiêm nhường giả hiệu, che lấp thói kiêu căng của chúng ta.
Tiếp đến là biểu lộ qua lời nói. Không đề cao bản thân, bởi vì chúng ta chỉ là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa, sở dĩ chúng ta làm được việc nọ việc kia, tất cả đều do ơn lành của Chúa.
Sau cùng, biểu lộ qua việc làm. Sẵn sàng chấp nhận những hy sinh gian khổ, những địa vị thấp kém, miễn sao phục vụ Chúa và anh em. Khiêm nhường như thế chính là mẹ của các nhân đức, chính là cội nguồn thánh thiện.
Với những tiêu chuẩn kể trên thánh Gioan Baotixita quả thực là một người khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù không làm được việc chi vĩ đại, nhưng Gioan đã được Chúa Giêsu khen tặng:
- Trong số những người nam không có ai cao trọng hơn Gioan. Sở dĩ như vậy là vì Gioan đã sống tâm tình khiêm nhường. Mặc dù được mọi người ngưỡng mộ, ông đã hạ mình xuống và nói:
- Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.
Ông đã làm mọi việc để cho Chúa được nhận biết và tôn vinh. Ông đã để cho các môn đệ thân yêu bước theo Chúa Giêsu và đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông:
- Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian. Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi.
Thân phận của ông chỉ là thân phận của một tiếng kêu trong sa mạc. Gioan càng khiêm nhường thì lại càng được Chúa mến yêu như lời Mẹ Maria đã nói: Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao mọi người phận nhỏ.