“Nó sẽ gọi tên là Gioan”. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel. Đó là lời Chúa.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã được nghe câu chuyện ngụ ngôn của Lafontiane về con ếch: 24/6-51
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã được nghe câu chuyện ngụ ngôn của Lafontiane về con ếch và con bò. Câu chuyện ngụ ngôn ấy đại khái như thế này:
Ngày kia con ếch nhìn thấy một con bò thật to lớn và vĩ đại, thật cực kỳ và hết ý. Thế là con ếch liền mong sao cho mình cũng được to lớn và vĩ đại, cực kỳ và hết ý như vậy.
Từ tư tưởng biến thành hành động, từ ước muốn đi tới việc làm, con ếch bắt đầu uống nước cho bụng mình được phình to. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài, nhưng vẫn chưa to được bằng con bò. Nó lại tiếp tục uống. Và rồi một tiếng nổ vang lên. Bụng nó vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu cõi lòng, ai cũng muốn được người khác để ý tới và lên tiếng ca tụng. Ai cũng muốn nâng mình lên chứ chẳng ai lại thích hạ mình xuống. Ai cũng ươm mơ giấc mộng của Adong Evà, đó là được trở nên bằng Thiên Chúa.
Có một câu danh ngôn đã xác quyết như sau:
- Tham vọng của các nhà chính trị là được để lại một vài dòng về mình trong lịch sử.
Nếu so sánh với Gioan Tiền hô, chúng ta thấy thái độ của chúng ta hoàn toàn trái ngược với thái độ của thánh nhân, bởi vì lập trường của thánh nhân đó là: Ngài cần phải lớn lên còn mình phải nhỏ đi.
Trong khi đó, chúng ta lại dồn mọi nỗi lực, mọi cố gắng vào việc làm cho bản thân mình được to lớn, được vĩ đại, được cực kỳ, được hết ý, còn Thiên Chúa thì bị nhỏ đi, bị cho ra rìa và bị đứng bên lề cuộc đời của chúng ta.
Thánh Gioan Tiền hô đã nói và đã làm. Trước hết, để Thiên Chúa được lớn lên trong tâm hồn mình, thì như Tin mừng đã ghi lại: ngay từ thời niên thiếu, thánh nhân đã vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng, để có đủ thời gian và thinh lặng cần thiết hầu kiết hiệp với Thiên Chúa.
Một khi đã có Thiên Chúa ở trong lòng, thánh nhân còn đem Ngài đến cho người khác và muốn cho Ngài cũng được lớn lên trong tâm hồn của họ.
Chính vì thế, thánh nhân đã xuất hiện bên bờ sông Giócđan, rao giảng việc sám hối ăn năn, chỉ bảo cho dân chúng biết những sai lỗi và khuyết điểm của họ, để họ cố gắng uốn nắn sửa đổi, nhờ đó cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, cũng như nhờ đó dọn đường đón mừng Đấng Cứu Thế.
Và khi Đức Kitô đi ngang qua, thánh nhân đã long trọng giới thiệu Ngài cho đám đông:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.
Mặc dù đã qui tụ được nhiều môn đệ và đông đảo dân chúng, thánh nhân cũng đã sẵn sàng để cho họ bước theo Đức Kitô, không hề ngăn cản, không hề buồn phiền, không hề tức tối.
Và khi Đức Kitô bắt đầu rao giảng Tin mừng, thì vai trò của thánh nhân thực sự nhỏ đi, bản thân của thánh nhân thực sự chìm vào kiếp sống tù dày và tăm tối, để rồi cuối cùng đã kết thúc bằng một cái chết đau đớn.
Còn chúng ta thì sao?
- Là người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận phải có Chúa trong tâm hồn và phải mang Chúa đến cho người khác.
- Là người Kitô hữu, chúng ta phải trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như trong cuộc đời người khác. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để Đức Kitô thực sự lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như thực sự lớn lên trong tâm hồn những người chung quanh?
Mỗi người sinh ra, đều được cha mẹ đặt cho một tên gọi. Trong Kinh Thánh, tên gọi các nhân vật: 24/6-52
Mỗi người sinh ra, đều được cha mẹ đặt cho một tên gọi. Trong Kinh Thánh, tên gọi các nhân vật lớn thường rất giàu ý nghĩa, tên gọi ấy có khi phản ánh tình trạng của tập thể gia đình, hoặc phản ánh tình trạng của chính cá nhân đương sự, hoặc nói lên số phận hay hoạt động của người mang tên. Thế nên, cùng với tên gọi là hàm ý một dự phóng cho tương lại, có khi chỉ một ước vọng, đôi khi gợi lên tình cảm lúc sinh ra hoặc tương lai mà cha mẹ thấy được, và thường khi là cả một sứ mạng, sứ mạng đó nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn thực hiện giữa dân Người. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một ví dụ, khi sinh ra được cha mẹ đặt tên theo lời Sứ thần đã loan báo. Danh xưng Gioan có nghĩa là Thiên Chúa biểu lộ tình thương.
Mừng lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng là dịp đi từ tên gọi ấy, để mỗi người nhận ra hướng đi của tình thương Thiên Chúa, tình thương ấy bước xuống đời sống nhân loại, để rồi một khi con người nhận ra tình thương của Đấng đã yêu thương mình.
1. Tình thương Thiên Chúa bước xuống với con người. Nhìn vào lịch sử cứu độ, nhiều lần trong lịch sử, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Người qua những kỳ công sáng tạo hay những chiến tích lẫy lừng. Và hôm nay, Tin Mừng cho Chúng ta thấy tình thương ấy đã đi vào số phận đời thường của một con người để biến đổi họ nên dấu chỉ lạ thường cho ơn Cứu độ.
Tình thương ấy đã bước xuống nỗi sầu khổ của một gia đình, để biến nỗi tủi nhục ở đó trở thành niềm vui. Chính dấu ấn tình thương ấy đã biến đổi lòng dạ son sẻ của Elisabét thành tấm lòng hoan hỷ nhảy mừng của thai nhi ở tháng thứ sáu. Để rồi, cũng chính tình thương Thiên Chúa đã biến đổi gia đình Dacaria héo hon từ lâu, bổng trở nên rộn rã kẻ ra người vào với tiếng cười, lời chúc mừng ngày con trẻ cắt bì và đặt tên là Gioan, tên gọi ấy là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa.
Thế nhưng, tình thương Thiên Chúa không dừng lại, không chỉ bước xuống nơi gia đình Dacaria sầu khổ, mà còn đi xuống, xuống với một dân tộc và với toàn thể nhân loại. Có lẽ trong suốt thời gian câm lặng, ông Dacaria đã hiểu và khám phá ra được tình thương của Thiên Chúa muốn thực hiện nơi dân tộc của mình. Vì thế, khi người ta hỏi ông đặt tên cho con trẻ là gì, ông ra hiệu người ta mang bảng để ông viết, tên nó là Gioan. Khi ấy lưỡi ông mở ra và chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người". Như thế, chính trong tên gọi Gioan, tên gọi tình thương, cho ta thấy Thiên Chúa đã bước xuống với dân tộc và với toàn thể nhân loại.
2. Tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Thế nên, mừng ngày sinh nhật của Gioan Tẩy Giả hôm nay, không chỉ nhắc lại một khía cạnh quá khứ, mà còn là một lời mời gọi cho các thế hệ tương lai. Đây là dịp để mỗi Kitô hữu nhận ra mình đang sống trong tình thương của Thiên Chúa. Nhìn lại cuộc đời của mổi chúng ta, mỗi người từ khi hình thành dù mới ở dạng của một mầm sống, tất cả là ân huệ tình thương của Thiên Chúa.
Vả lại, trong ơn gọi làm người, mầm sống ấy có một vận mệnh, một sứ mạng dù không ai biết trước tương lai nó thế nào. Thế nhưng, nó cần được tôn trọng để sinh và sống trong những điều kiện phù hợp với phẩm giá con người. Do đó, bóp nghẹt một sự sống tự nhiên của một mầm sống đang hình thành là đi ngược lại với tình thương của Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, trong đời sống làm con Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận sự sống siêu nhiên từ Thiên Chúa và cả sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người. Sự sống đó cần được bộc lộ ra trong cả cuộc đời; thế nên, sự sồng ấy cần phải được kính trọng và kiện toàn hơn nữa. Nếu ta từ chối, hay bóp nghẹt sự sống siêu nhiên là ta đi ngược lại tình thương của Thiên Chúa.
3. Hãy vun trồng tình thương Thiên Chúa nơi gia đình. Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Đồng thời trang Tin Mừng hôm nay còn cho thấy khung cảnh gia đình đầm ấm, nơi đó mọi tương quan được thể hiện cách tích cực. Tương quan vợ chồng là một tình yêu chung thủy của hai ông là Dacaria và Elisabét, dù nhiều năm son sẻ vẫn trung tín sắt son. Tương quan cha mẹ con cái là một tình yêu biết trách nhiệm, để rồi, từ nơi đây sẽ tỏa ra môi trường lân cận, xóm giềng. Nên ở đó lộ ra một thông điệp về đời sống gia đình.
Gia đình như chúng ta vẫn thường nói là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, nơi đó con người được sinh ra và lớn lên. Gia đình là một cộng đoàn, nơi đó mọi phần tử yêu thương tận hiến cho nhau. Gia đình là một trường học, nơi đó nhân cách được phát triển tự nhiên và lành mạnh nhất. Gia đình là nền tảng của xã hội, là nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ, và gia đình tín hữu còn là một Giáo hội thu nhỏ, khi biết sống những giá trị Tin mừng, qua việc thường xuyên chu toàn những nhiệm vụ bổn phận bậc sống của mình.
Thế nên, tìm lại ý nghĩa đời sống gia đình, chúng ta hiểu rằng đó không chỉ là một định chế xây dựng xã hội loài người, mà còn là một cộng đoàn mang lấy ơn gọi trong sứ mạng vui trồng tình thương Thiên Chúa.
Nhận ra giá trị của sự sống và gia đình nhân ngày lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng chính là lúc mỗi Kitô hữu nhận ra sứ mạng của chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Một sứ mạng bảo vệ và phát triển sự sống có trách nhiệm. Một sứ mạng biết thể hiện tình thươmg của Thiên Chúa bằng sự trung tín trong đời sống gia đình...Đồng thời xây dựng một tình thương huynh đệ trong khu phố, nơi công sở, để mọi người luôn nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trong ngôn ngữ phụng vụ, chữ sinh nhật có hai nghĩa trái ngược nhau. Dùng để nói về Chúa Giêsu: 24/6-53
Trong ngôn ngữ phụng vụ, chữ sinh nhật có hai nghĩa trái ngược nhau. Dùng để nói về Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Gioan Tẩy giả, sinh nhật chỉ ngày các Ngài chào đời, tức là sinh ra ở trần gian. Còn khi nói về mọi thánh khác, sinh nhật lại là ngày các ngài ra khỏi đời này và sinh ra ở trên trời. Có sự phân biệt như vậy cũng là điều dễ hiểu. Vì có gì đáng mừng khi sinh ra trong tội lỗi; chính lúc chết đi cho thế gian mới là sinh ra cho sự sống muôn đời. Hết mọi thánh sinh ra ở đời đều mắc tội Ađam; nên ngày chào đời của các ngài không có gì đáng mừng. Ngược lại khi các ngài chết thánh thiện mới là lúc thật sự sinh ra cho hạnh phúc trường cửu và chúng ta phải vui mừng. Hội Thánh mừng ngày các ngài sinh ra ở thiên đàng chứ không tôn kính ngày các ngài sinh ra ở trần gian. Ngược lại, vì không dính bén nguyên tội hay vì được khỏi nguyên tội trước khi sinh ra, Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả là ba vị duy nhất được mừng ngày sinh ra ở đời, nên ngày đản sinh của các ngài là ngày đáng mừng vì nó tô đẹp cho thế giới và đem hân hoan cứu độ đến cho loài người. Nhất là khi chúng ta nghĩ đến vai trò đặc biệt của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả trong mầu nhiệm cứu thế. Ngày các Ngài sinh ra đem hạnh phúc đến cho chúng ta nên chúng ta phải hân hoan.
Nhưng tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy đi". Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.
Những điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu.
Ba bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm theo sứ mạng.
A. Ơn gọi tiền định
Chúng ta đã biết truyện Gioan nên khi nghe đọc những câu: "Chúa đã gọi tôi từ dạ mẹ... Người đã nhắc đến tên tôi... Người nắn tôi từ dạ mẹ nên tôi tớ của Người...", chúng ta thấy dường như Isaia đã báo trước về việc sứ thần loan tin cho Zacarya biết ông bà sẽ có con và phải đặt tên con trẻ là Gioan; và con trẻ ấy khi còn ở trong dạ mẹ đã được ơn Chúa viếng thăm qua lời chào của Đức Maria; và đã được khỏi tội Ađam cùng trở nên tiên tri của Chúa. Chính Zacarya trong ngày sinh nhật của hài nhi đã được tháo gỡ miệng lưỡi để có thể nói được, cũng đã chúc tụng Gioan là tiên tri của Đấng Tối cao để làm cho Yacob và Israel trở lại với Chúa và để trở nên ánh sáng cho các dân tộc. Tức là Zacarya cũng đã lấy lại nhiều lời trong bài sách Isaia hôm nay để nói về Gioan.
Tuy nhiên chúng ta vẫn không được coi lời sấm của Isaia đã nhằm nói đến Gioan. Người ta có thể áp dụng những lời đó vào Gioan; nhưng Gioan không phải là đối tượng của những lời ấy. Và việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của những lời này còn làm tăng giá trị Gioan hơn nữa.
Thật vậy, đoạn tiên tri hôm nay nằm trong Isaia II (gồm các chương 40-55), là những lời của Chúa nói với Israel và nói về Israel Dân Chúa lúc được đưa ra khỏi cảnh lưu đày Babylon (năm 538). Chúa phán: mặc dầu Israel thất tín, Chúa vẫn trung thành với lời hứa. Người sẽ gửi đến một người Tôi tớ. Đoạn sách hôm nay nói đến ơn gọi của Người Tôi tớ đó. Nó là một trong bốn đoạn Isaia mà người ta quen gọi là bốn khúc ca về Người Tôi tớ. Và chúng ta biết chẳng ai trong lịch sử đã thể hiện những lời sấm về Người Tôi tớ này bằng chính Đức Giêsu Cứu thế. Chính Người sẽ là Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa đến hy sinh cứu độ Dân Người. Do đó, lời sách Isaia hôm nay chủ yếu muốn nói về Đức Giêsu Kitô. Chỉ có Người mới thật là Vị Tiên tri của Đấng Tối cao sẽ làm cho Israel quay đầu về với Thiên Chúa; và Người sẽ là ánh sáng đích thực cho các dân tộc.
Nhưng Người đã được tất cả Cựu Ước chuẩn bị. Thành ra Người Tôi tớ đích thực cũng đã được nhiều người tôi tớ đi trước loan báo. Gioan là tiền hô của Đức Giêsu Kitô Cứu thế.
Người đáng được áp dụng những sấm ngôn kia. Và chúng ta đã thấy việc áp dụng này rất may mắn vì lời sách Isaia hôm nay quả thực có thể gợi lên nhiều sự kiện trong cuộc đời của Gioan: từ việc người được chọn từ trong lòng mẹ, đến việc được kêu tên từ ngày ấy và việc được chỉ định làm tiên tri.
Tuy nhiên, chính Isaia cũng đã không "dựng đứng" lên một hình ảnh về Người Tôi tớ từ hư vô, tức là không dựa vào các yếu tố đã có sẵn. Không, có thể nói ông đã dùng tất cả phần sách Cựu Ước có trước ông để xây dựng hình ảnh Người Tôi tớ này. Ông dùng những Lời Chúa nói về Israel và Yêrusalem tản mác trong tất cả các sách Cựu Ước để vẽ ra khuôn mặt Người Tôi tớ. Bởi vì Người Tôi tớ đầu tiên của Thiên Chúa chính là Israel Dân Người. Người đã gọi Israel từ trong dạ mẹ, đã đặt tên cho nó, đã săn sóc nó như mũi tên quý báu mà người chiến sĩ cẩn thận giữ gìn trong bao. Người dùng Israel để tỏ hiện vinh quang của Người. Người nhờ thánh điện Yêrusalem để quy tụ nhà Yacob. Người tỏa sáng vinh quang trên Dân Người để nó trở thành ánh sáng cho các dân tộc. Nói đúng ra, khi viết đoạn sách hôm nay, "Isaia" chỉ muốn nói đến Yêrusalem và Israel sắp được cứu độ để ra khỏi cảnh lưu đày, vì ơn gọi tiền định, để rồi nó sẽ chiếu tỏa ơn cứu độ của Chúa cho muôn dân. Có như vậy chúng ta mới hiểu được câu 4 ám chỉ đến thân phận lưu đày kiệt quệ... Và có như vậy chúng ta mới dễ được an ủi: bởi vì điều đã viết về Dân Chúa nói chung cũng có thể hiểu được về từng người con Chúa nói riêng, cho dù điều đó chỉ thể hiện hoàn toàn nơi Đức Giêsu Cứu thế là Dân Chúa đích thực và là Con Một Thiên Chúa. Và dĩ nhiên điều ấy áp dụng cho các thánh nhân sẽ đúng hơn khi áp dụng cho chúng ta. Nhưng chúng ta không được coi mình như đứng ở ngoài. Những lời nói về ơn gọi tiền định của Gioan cũng phải được hiểu về chúng ta để chúng ta tham dự hơn vào sự vui mừng trong ngày người đản sinh hôm nay. B. Sinh Nhật Gioan Tin Mừng theo thánh Luca viết rằng hôm Gioan chào đời, bà con láng giềng đã đến chung vui với ông bà Zacarya. Cả hai người đã già mà nay có con lại không đáng mừng sao? Lẽ ra chính hôm ấy người ta phải đặt tên ngay cho con trẻ (Kn 4,1; 21,3...). Nhưng từ thời sau Lưu đày, người ta bắt chước phong tục Hylạp để việc đó lại sau. Và như vậy cũng tôn vinh ngày làm lễ cắt bì hơn, cử hành 8 ngày sau sinh nhật.
Đó là ngày đánh dấu việc con trẻ từ nay thuộc Dân Chúa. Bạn hữu thân thích đến đông hơn. Người ta muốn gọi con trẻ bằng tên của cha nó để tôn trọng ông. Vì theo tục lệ, lẽ ra phải lấy tên của ông nội mà đặt cho đứa bé. Nhưng Zacarya cũng đã "lão rồi"; và nay ông mới có con; nên để ông vui, người ta muốn gọi đứa bé là Zacarya. Thế nhưng mẹ nó không chịu. Người ta nói thế nào bà cũng không nghe. Người ta phải nại đến cha nó. Nhưng ông lại câm. Phải lấy bút giấy cho ông. Ông viết: hãy đặt tên nó là Gioan. Thật là lạ lùng! Không ai bảo ai mà cả cha lẫn mẹ đều muốn gọi nó là Gioan, một tên không có trong họ hàng thân thuộc. Gioan có nghĩa là Chúa chạnh thương, Chúa đoái nhìn, Chúa muốn cứu độ. Cái tên thật hay, nhưng ai bảo hai ông bà biết mà chọn? Người ta chưa kịp hết ngạc nhiên thì Zacarya đã bật miệng hát lên bài ca chúc tụng. Phải chăng 9 tháng câm đã cho ông thời gian suy nghĩ về lòng Chúa nhân ái, chạnh thương, muốn nhìn lại Israel để ra tay cứu độ như lời đã hứa cùng tổ phụ Abraham và cho đến muôn đời?
Thánh Luca đã tỏ ra lỗi lạc trong bài tường thuật hôm nay. Người không chú ý đến ngày sinh nhật của Gioan. Người mời chúng ta tham dự nghi lễ cắt bì, tức là nghi thức tiến dâng hài nhi lên làm con Chúa. Nói đúng hơn, người chỉ nhắc đến tên lễ nghi này để đưa mắt chúng ta hướng về Chúa để thấy Chúa đang đoái nhìn, chiếu cố, chạnh thương và muốn cứu độ Dân Người. Thánh Luca dùng mọi yếu tố có thể tìm thấy để làm nổi bật tên Gioan khiến người ta thấy rõ Chúa đang thể hiện Lời hứa cho Israel và các dân tộc. Đó không phải là tên của ông nội đứa bé, cũng chẳng phải là tên của ai trong họ hàng thân thuộc. Làm sao cả cha lẫn mẹ không đồng ý trước mà lại nói ra cùng một tên? Và tên này chỉ có thể bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa đoái thương hai ông bà cũng như hài nhi và toàn dân.
Nếu được phép tìm hiểu thêm nữa, chúng ta hãy để ý: ở đây, chính uy quyền của người cha giải quyết vấn đề đặt tên cho con trẻ; còn trong trường hợp Hài nhi sẽ sinh ra ở Bêlem, chính Đức Maria là người trước hết có nghĩa vụ phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu. Phải chăng Gioan dù sao cũng còn là con cái của xác thịt nên thuộc quyền cha; còn Cha của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên quyền đặt tên cho Người tùy ở Đức Mẹ Đồng trinh?
Dù sao, hôm nay Giáo Hội rất vui mừng vì được Gioan, tức là được ơn Chúa chạnh thương, đoái nhìn, muốn cứu độ Dân Người. Chính người Dothái thời Gioan đã nghĩ như vậy, nên họ nóng lòng chờ đợi xem Chúa sẽ ra tay thế nào nơi hài nhi mới sinh.
C. Hành động của Gioan
Cũng một tác giả sách Tin Mừng thứ ba đã viết về Gioan như hôm nay chúng ta nghe đọc trong sách Công vụ các Tông đồ. Ông để cho Phaolô nói với những người kính giới Thiên Chúa và đang chờ đợi Lời cứu thoát. Dù không sống ở đất Dothái, nhưng họ chia sẻ mọi tâm tình tôn giáo của đồng bào nơi cố hương. Sống giữa dân ngoại và trong nền văn hóa Hylạp, những người Dothái "thiên cư" (diaspora) đang nghe Phaolô giảng trong hội đường vào ngày sabbat. Họ đã nghe biết về Gioan và đang chờ các hậu quả của việc người xuất hiện. Người đã rao giảng phép rửa thống hối. Nhưng nghe đâu người đã bị bắt và bị giết vì đã khẳng khái lên án tội loạn luân của vua Hêrôđê. Người là Đấng thánh chắc rồi. Các môn đệ của người đang hoạt động. Không biết rồi sẽ ra sao. Nay Phaolô đến cho họ biết: khi vận nghiệp gần mãn, Gioan đã nói: "Các người tưởng tôi là gì, thì không phải tôi đâu. Nhưng này đang đứng sau tôi, Đấng tôi không đáng cởi dép chân Người". Rồi Phaolô tiếp tục nói với người ta về Đức Giêsu. Người đã làm công việc của Gioan, vì tựu trung hoạt động của Gioan cũng là giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế là tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Phép rửa mà Gioan đã làm, tuy quan trọng vì từ đó đã khiến người được mệnh danh là Tẩy giả, cũng chỉ nhằm mục đích giúp chúng ta thống hối tội lỗi để đón nhận Đức Giêsu Kitô. Gioan đúng thật là tôi tớ, khiêm tốn và chăm chỉ làm việc để tôn vinh Chủ mình. Ông không lợi dụng lòng phấn khởi lầm tưởng của người ta khi họ muốn coi ông như cứu thế. Ông công nhận không đáng cởi giầy cho Đấng ấy, tức là không đáng làm môn đệ của Người.
Chính vì Gioan đóng đúng vai trò của vị tiền hô mà ngày nay hơn hết mọi vị thánh, người còn sống động trong sinh hoạt của Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng cử hành mầu nhiệm cứu độ, nên luôn luôn nhắc đến Gioan. Hội Thánh mừng sinh nhật của người để biết hừng đông ơn cứu thế đã nổi lên ở chân trời trong đời sống của Dân Chúa. Hội Thánh nghe tiếng người trong mùa vọng Phụng vụ để thanh tẩy tâm hồn và đời sống hầu chuẩn bị ngày Chúa đến. Hội Thánh kính nhớ sự chết của người để được báo tin về cuộc tử nạn cứu thế của Đức Kitô. Thánh Gioan là tiên tri được sai đi trước mặt Đức Giêsu Cứu thế thì người còn sống mãi trong tâm tư của Hội Thánh đang đi đón Đức Kitô trở lại. Có thể nói Hội Thánh phải gặp thánh Gioan trước, tức là phải thanh tẩy, chuẩn bị nên Dân tốt lành hầu đón nhận ơn Chúa đến viếng thăm. Và như vậy thiết tưởng đã đủ để nói lên điều này, là cho đến ngày Đức Giêsu Kitô trở lại, chúng ta phải nghe lời Gioan giảng, phải thi hành việc người truyền, phải hành động và trở nên như người.
Chúng ta hãy làm công việc này nhờ những bài Kinh Thánh hôm nay đã nói về thánh Gioan. Chúng ta luôn nhớ ơn gọi tiền định; chúng ta luôn suy ngày được hiến dâng cho Chúa và nhận tên là Kitô hữu, một danh hiệu nói lên tình thương cứu độ của Chúa. Nhất là chúng ta bắt chước thánh Gioan có đời sống thanh tẩy tội lỗi và luôn khiêm tốn giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế cho mọi người.
Giờ đây chính Chúa sẽ đến gặp chúng ta trong thánh lễ. Chúng ta hãy có lòng thống hối như muốn cúi xuống cởi giầy cho Người... Chúng ta sẽ được Người nâng lên như có lần Người đã tôn vinh thánh Gioan trước mặt mọi người: Thầy bảo thật trong muôn vàn con cái mà đàn bà sinh ra không ai quý trọng hơn Gioan, nhưng kẻ bé nhất trong Nước Trời còn hơn ông. Vì Gioan chỉ là vị tiền hô, còn chúng ta từ nay là bạn hữu, là Kitô hữu. Ước gì chúng ta hiểu như vậy để từ nay sống xứng đáng hơn với danh hiệu này. Và như thế, chúng ta sẽ tôn vinh Chúa, sẽ tiếp tục làm công việc của thánh Gioan là giới thiệu Chúa cho mọi người.
Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót: 24/6-54
Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót!
1.- Ngữ cảnh
Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu. Nhưng ngài là tác giả duy nhất đề cập đến thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả. Phần tường thuật về Thời thơ ấu có hai cánh:
- Cánh các lời loan báo (1,5-56), - Cánh các cuộc chào đời (1,57-2,52).
Truyện Gioan chào đời được đặt song song với biến cố Đức Giêsu giáng sinh.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan chào đời (1,57-58); 2) Gioan được cắt bì và đặt tên (1,59-66); 3) Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (1,80). 3.- Vài điểm chú giải
- Nghe biết (58): Khi biết mình có thai, bà Êlisabét đã ẩn mình (x. 1,24), nên láng giềng và những bà con khác (trừ Đức Maria) không biết gì về tình trạng của bà, cho đến khi đứa bé chào đời.
- cắt bì (59): Theo St 17,11, cắt bì là ghi "dấu giao ước" cho cậu bé trai. Thường người cha sẽ cắt bì cho con (x. St 21,4).
- lấy tên cha ... mà đặt tên cho em (59): Theo bản văn Lc, em bé được đặt tên khi cắt bì. Tuy nhiên, người Do Thái Paléttina có thói quen đặt tên con ngay vào lúc chào đời (x. St 4,1; 21,3; 25,25-26), và thường do người mẹ (St 29,31-30,24; 1 Sm 1,20), đôi khi do người cha (x. St 16,15; Xh 2,22) (xem R. de Vaux). Do đó, có những nhà chú giải nghĩ rằng tác giả Lc đã đưa vào đây một cách thực hành của người Hy Lạp, bởi vì tại Hy Lạp cổ thời, người ta thường đặt tên cho con vào ngày thứ bảy hoặc thứ mười sau khi sinh.
- Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả (61): Tuy nhiên, "Gioan" đã từng là tên của các thành viên dòng họ tư tế thời hậu Lưu đày (x. Nkm 12,13.42; 1 Mcb 2,1-2).
- bàn tay Chúa (66): Đây là một kiểu nói như nhân của Cựu Ước (x. 1 Sb 28,19; 4,10) nhằm diễn tả rằng Thiên Chúa uy quyền che chở và hướng dẫn Gioan. Thế nhưng Ngài vẫn không tránh cho Gioan khỏi tù và khỏi chết bởi tay Hêrôđê Antipa (x. Lc 3,20; 9,8).
- lớn lên (80): Đây là một điệp khúc của tác giả Lc (x. 2,40.52). Câu văn được phỏng theo Tl 13,24-25 và 1 Sm 2,26.
- sống trong hoang địa (80): Dựa vào đây, các chuyên viên đề ra giả thuyết là Gioan đã qua thời trai trẻ tại cộng đoàn Êxêni tại Qumran. Đây là giả thuyết không bảo vệ được và cũng không phi bác được.
4.- Ý nghĩa bản văn
* Gioan chào đời (57-58) Đoạn tường thuật ngắn ngủi này kể lại cuộc chào đời của Gioan và niềm vui do biến cố này đưa lại. Tác giả Lc kể lại truyện này với hai sắc thái. Trước tiên, biến cố cho thấy lòng từ bi thương xót của Đức Chúa đối với dân Ngài khi cất khỏi bà Êlisabét nỗi ô nhục son sẻ. Truyện cũng nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi thương xót ra khi chơi chữ trên tên "Gioan". Ân huệ mà Ngài tỏ ra như thế không chỉ nhằm chiếu cố đến bà Êlisabét mà còn chiếu cố đến dân Ngài là Israel như một toàn thể. Đứa bé này, sinh ra từ những cha mẹ son sẻ, trở thành nguồn đưa lại niềm vui cho láng giềng và bà con thân thích, như sứ thần đã tiên báo.
* Gioan được cắt bì và đặt tên (59-66)
Đứa trẻ sinh ra được tám ngày thì phải làm phép cắt bì (x. Lv 12,3). Khi được cắt bì, em bé được ghi "dấu giao ước" (St 17,11) và được tháp nhập vào Israel (Gs 5,2-9). Từ nay, em được chia sẻ cách phúc lành Thiên Chúa hứa cho dân Ngài (Gs 5,6-7), nên có thể cử hành lễ Vượt Qua với họ (Xh 12,44-49). Cắt bì cũng có nghĩa là buộc phải tuân giữ Luật Môsê. Còn về việc đăt tên, đối với người Do Thái, cái tên rất quan trọng, vì nói lên tương lai của em bé. Có nhiều truyện trong Cựu Ước giải thích ý nghĩa của các tên: "Isaác", trong tiếng Híp-ri, có nghĩa là "sẽ cười / sẽ mỉm cười" và yếu tố "mỉm cười" này thường xảy ra: Sara mỉm cười trong lều; Isaác cười với Ítmaên. Tên "Giacóp" báo điềm gở là "sẽ hất cẳng", và sau này ông đã "hất cẳng" Exau. Khi Giacóp đã bỏ tính lọc lừa và trở nên đàng hoàng, Thiên Chúa đã cho ông một tên mới là "Israel", như một dấu chuẩn nhận và đón tiếp. Cũng thế, sau này Đức Giêsu đã cho Simôn một tên mới là "Phêrô", để dùng ông làm đá tảng xây dựng Hội Thánh.
Bà Êlisabét không đồng ý cho người ta lấy tên Dacaria mà đặt cho em bé, dù đây là tập tục; bà yêu cầu đặt là "Gioan". Người ta mới hỏi ý kiến ông Dacaria, lúc này vẫn bị câm. Ông "đã xin một tấm bảng nhỏ và viết" tên Gioan (1,63). Hai ông bà đang tỏ ra vâng lời sứ thần khi chọn một tên cho đứa con, bất chấp truyền thống của dòng họ. Sứ thần đã bảo tên bé là Gioan, thì bây giờ phải đặt tên bé là Gioan! Đây cũng là cách tác giả Lc cho thấy các lời ngôn sứ được hoàn tất: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện.
Tên "Gioan", Yơhô[k]anan (hoặc: Yô[k]hanan), có nghĩa là "Đức Chúa (ya = yhwh) đã tỏ lòng ưu ái (khanan = charis)" (x. 1,13). Tên này tạo thêm một đường nối giữa hai gia đình, vì nhắc lại lời sứ thần chào Maria, "bà được đẹp lòng (charis) Thiên Chúa" (1,30). Tên "Gioan" như thế có hiểu rằng Israel là đối tượng được Thiên Chúa đặc biệt chiếu cố, và Ngài có một sự quan tâm đặc biệt đến cũng như có một chương trình đặc biệt cho. Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (80)
Sau khi chấm dứt bài Benedictus (chúng ta không đọc), tác giả Lc kết thúc hoạt cảnh bằng một ghi nhận nói rằng cậu bé ngày càng lớn lên mọi mặt, và báo trước việc Gioan vào sống trong hoang địa (3,2), chờ ngày "ra mắt dân Israel".
+ Kết luận
Khi đặt bản văn này vào ngữ cảnh, ta thấy rõ ý hướng của Tin Mừng Lc. Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu được so sánh và đạt đối nhau, nhưng sự cao trọng của Đức Giêsu được nêu bật trong từng chi tiết. Rõ ràng Đức Maria cao trọng hơn ông Dacaria, và con của Đức Maria vô cùng cao trọng hơn con của ông Dacaria. Cốt lõi đầu tiên là thời thơ ấu của Đức Giêsu, và rõ hơn, là truyện Truyền Tin. Rất có thể câu truyện về thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả chỉ là một phần mở do tác giả Lc sáng tác ra để vị Tiền hô giới thiệu Đấng Mêsia.
Chương 1-2 Lc có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đn 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Ml 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài Benedictus và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo, được viết theo ngôn ngữ Kinh Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót! Bởi vì bà Êlisabét, mẹ của Gioan, bị hiếm muộn (x. Lc 1,7.36) và hoàn toàn nhưng-không - do ân sủng - mà bà đã được Chúa ban cho ơn phi thường là cưu mang một người con trong lúc tuổi già (x. Lc 1,36). "Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà". Nhưng đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
2. Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
3. Chúng ta suy niệm về thánh Gioan dựa theo ý kiến của một vài vị thánh. Trước tiên, ta có ý kiến của linh mục Origiênê (Các bài giảng về Tin Mừng Luca, số 4,4-6): "Phần tôi, tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Gioan đang được hoàn tất trong thế giới cho tới nay. Người nào được nhắm cho tin vào Đức Kitô Giêsu, thì trước đó tinh thần và sức mạnh của Gioan phải đến trong tâm hồn người ấy để "chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa" (Lc 1,17) và trong những nơi lồi lõm của con tim, "khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng" (Lc 3,5). Không phải chỉ vào thời đó các "khúc quanh co, mới phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, mới phải san cho bằng", nhưng hôm nay cũng còn như thế. Tinh thần và sức mạnh của Gioan đi trước việc Chúa Cứu thế hiển ngự".
4. Thánh Ephrem đã dạy (Bài thánh ca được gán cho thánh Ephrem [khoảng 306-373]: "Chính là ngài, thánh Gioan, mà chúng con nhìn nhận như là một Môsê mới, bởi vì ngài đã thấy Thiên Chúa, không phải trong dạng biểu tượng, nhưng hoàn toàn rõ ràng. Chính ngài mà chúng con coi như là một Giôsuê mới: ngài không đi từ bờ này sang bờ bên kia của sông Giođan, nhưng, với nước sông Giođan, ngài đã đưa người ta đi từ thế giới này sang thế giới khác... Chính ngài là Samuen mới đã không xức dầu cho Đavít, nhưng đã ban phép rửa cho con Đavít. Chính Ngài là Đavít mới, đã không bị vua Saun xấu xa bách hại, nhưng đã bị Hêrôđê giết chết. Chính ngài là Êlia mới, được nuôi dưỡng trong hoang địa không phải bằng bánh một con quạ mang đến , nhưng bằng châu chấu và mật ong do Thiên Chúa ban cho. Chính ngài là Isaia mới đã không nói: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và sinh con" (7,14), nhưng đã công bố trước mặt mọi người: "Này đây bà đã sinh ra Con Chiên Thiên Chúa, Đấng mang tội trần gian" (Ga 1,29)...
"Lạy thánh Gioan, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài thật có phúc, vì ngài đã đặt tay trên Chủ của ngài, ngài đã nắm lấy trong tay ngọn lửa có ánh sáng làm các thiên thần phải run sợ! Là ngôi sao mai, ngài cho thế gian thấy Buổi Ban mai chân thật ; là bình minh tươi vui, ngài đã cho thấy ngày vinh quang; là ngọn đèn cháy sáng, ngài đã chỉ cho thấy Ánh sáng có một không hai! Là sứ giả mang ơn hòa giải của Chúa Cha, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã được cử đến trước mặt ngài để loan báo cho Dacaria về ngài, như là một hoa quả vượt quá sự chờ đợi của ông... Là người cao trọng nhất trong số các con cái loài người (Mt 11,11), ngài đến đón trước Đấng Emmanuel, ngài đón trước Đấng vượt quá mọi thọ tạo; là con đầu lòng của bà Êlisabét, ngài đi trước Trưởng Tử của toàn thể thọ tạo!"
5. Mỗi người có ơn gọi của mình. Gioan có ơn gọi của riêng ông, ơn gọi không mấy thông thường. Cũng như mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi, Gioan đã chuẩn bị trong lòng sứ mạng được ký thác cho ông. Ông chuẩn bị bằng đời sống ẩn dật. Đó chính là đời sống của ông với Thần Khí Đức Chúa. Đó chính là điều bí mật của ông. Phải chăng đây là một sự mô phỏng, khá mờ nhạt, của sự chuẩn bị của Đức Maria hầu đón tiếp Đức Chúa đến với Bà vào ngày Truyền tin? Bởi vì Đức Maria cũng đã nhận một tên mới do Thiên Chúa ban: thiên thần Gabriel đã gọi Bà bằng cái tên "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28).
"Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan".
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông: 24/6-55
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương, đang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ thiên thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy thì hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.
Nhưng thiên thần nói với ông rằng: "Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc con trẻ sinh ra. Vì trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men; sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Êlia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị sẵn sàng".
Suy Niệm:
Trong ngôn ngữ phụng vụ, chữ sinh nhật có hai nghĩa trái ngược nhau. Dùng để nói về Chúa Yêsu, Đức Mẹ và thánh Yoan Tẩy giả, sinh nhật chỉ ngày các Ngài chào đời, tức là sinh ra ở trần gian. Còn khi nói về mọi thánh khác, sinh nhật lại là ngày các ngài ra khỏi đời này và sinh ra ở trên trời. Có sự phân biệt như vậy cũng là điều dễ hiểu. Vì có gì đáng mừng khi sinh ra trong tội lỗi; chính lúc chết đi cho thế gian mới là sinh ra cho sự sống muôn đời. Hết mọi thánh sinh ra ở đời đều mắc tội Ađam; nên ngày chào đời của các ngài không có gì đáng mừng. Ngược lại khi các ngài chết thánh thiện mới là lúc thật sự sinh ra cho hạnh phúc trường cửu và chúng ta phải vui mừng. Hội Thánh mừng ngày các ngài sinh ra ở thiên đàng chứ không tôn kính ngày các ngài sinh ra ở trần gian. Ngược lại, vì không dính bén nguyên tội hay vì được khỏi nguyên tội trước khi sinh ra, Chúa Yêsu, Đức Maria và thánh Yoan Tẩy giả là ba vị duy nhất được mừng ngày sinh ra ở đời, nên ngày đản sinh của các ngài là ngày đáng mừng vì nó tô đẹp cho thế giới và đem hân hoan cứu độ đến cho loài người. Nhất là khi chúng ta nghĩ đến vai trò đặc biệt của Chúa Yêsu, Đức Maria và thánh Yoan Tẩy giả trong mầu nhiệm cứu thế. Ngày các Ngài sinh ra đem hạnh phúc đến cho chúng ta nên chúng ta phải hân hoan.
Nhưng tại sao lại mừng sinh nhật thánh Yoan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Yêsu, Đức Maria, thánh Yoan đều là dân nghèo về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối với Yoan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người. Người đã nói về Đức Yêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy đi". Vậy lúc Đức Yêsu tiến lên phải là lúc Yoan lui xuống. Đức Yêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Yoan vào ngày mặt trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.
Những điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Yoan Tẩy giả trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Yêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức Yêsu.
Ba bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của Yoan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm theo sứ mạng.
A. Ơn Gọi Tiền Định
Chúng ta đã biết truyện Yoan nên khi nghe đọc những câu: "Chúa đã gọi tôi từ dạ mẹ... Người đã nhắc đến tên tôi... Người nắn tôi từ dạ mẹ nên tôi tớ của Người...", chúng ta thấy dường như Isaia đã báo trước về việc sứ thần loan tin cho Zacarya biết ông bà sẽ có con và phải đặt tên con trẻ là Yoan; và con trẻ ấy khi còn ở trong dạ mẹ đã được ơn Chúa viếng thăm qua lời chào của Đức Maria; và đã được khỏi tội Ađam cùng trở nên tiên tri của Chúa. Chính Zacarya trong ngày sinh nhật của hài nhi đã được tháo gỡ miệng lưỡi để có thể nói được, cũng đã chúc tụng Yoan là tiên tri của Đấng Tối cao để làm cho Yacob và Israel trở lại với Chúa và để trở nên ánh sáng cho các dân tộc. Tức là Zacarya cũng đã lấy lại nhiều lời trong bài sách Isaia hôm nay để nói về Yoan.
Tuy nhiên chúng ta vẫn không được coi lời sấm của Isaia đã nhằm nói đến Yoan. Người ta có thể áp dụng những lời đó vào Yoan; nhưng Yoan không phải là đối tượng của những lời ấy. Và việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của những lời này còn làm tăng giá trị Yoan hơn nữa.
Thật vậy, đoạn tiên tri hôm nay nằm trong Isaia II (gồm các chương 40-55), là những lời của Chúa nói với Israel và nói về Israel Dân Chúa lúc được đưa ra khỏi cảnh lưu đày Babylon (năm 538). Chúa phán: mặc dầu Israel thất tín, Chúa vẫn trung thành với lời hứa. Người sẽ gửi đến một người Tôi tớ. Đoạn sách hôm nay nói đến ơn gọi của Người Tôi tớ đó. Nó là một trong bốn đoạn Isaia mà người ta quen gọi là bốn khúc ca về Người Tôi tớ. Và chúng ta biết chẳng ai trong lịch sử đã thể hiện những lời sấm về Người Tôi tớ này bằng chính Đức Yêsu Cứu thế. Chính Người sẽ là Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa đến hy sinh cứu độ Dân Người. Do đó, lời sách Isaia hôm nay chủ yếu muốn nói về Đức Yêsu Kitô. Chỉ có Người mới thật là Vị Tiên tri của Đấng Tối cao sẽ làm cho Israel quay đầu về với Thiên Chúa; và Người sẽ là ánh sáng đích thực cho các dân tộc.
Nhưng Người đã được tất cả Cựu Ước chuẩn bị. Thành ra Người Tôi tớ đích thực cũng đã được nhiều người tôi tớ đi trước loan báo. Yoan là tiền hô của Đức Yêsu Kitô Cứu thế.
Người đáng được áp dụng những sấm ngôn kia. Và chúng ta đã thấy việc áp dụng này rất may mắn vì lời sách Isaia hôm nay quả thực có thể gợi lên nhiều sự kiện trong cuộc đời của Yoan: từ việc người được chọn từ trong lòng mẹ, đến việc được kêu tên từ ngày ấy và việc được chỉ định làm tiên tri.
Tuy nhiên, chính Isaia cũng đã không "dựng đứng" lên một hình ảnh về Người Tôi tớ từ hư vô, tức là không dựa vào các yếu tố đã có sẵn. Không, có thể nói ông đã dùng tất cả phần sách Cựu Ước có trước ông để xây dựng hình ảnh Người Tôi tớ này. Ông dùng những Lời Chúa nói về Israel và Yêrusalem tản mác trong tất cả các sách Cựu Ước để vẽ ra khuôn mặt Người Tôi tớ. Bởi vì Người Tôi tớ đầu tiên của Thiên Chúa chính là Israel Dân Người. Người đã gọi Israel từ trong dạ mẹ, đã đặt tên cho nó, đã săn sóc nó như mũi tên quý báu mà người chiến sĩ cẩn thận giữ gìn trong bao. Người dùng Israel để tỏ hiện vinh quang của Người. Người nhờ thánh điện Yêrusalem để quy tụ nhà Yacob. Người tỏa sáng vinh quang trên Dân Người để nó trở thành ánh sáng cho các dân tộc. Nói đúng ra, khi viết đoạn sách hôm nay, "Isaia" chỉ muốn nói đến Yêrusalem và Israel sắp được cứu độ để ra khỏi cảnh lưu đày, vì ơn gọi tiền định, để rồi nó sẽ chiếu tỏa ơn cứu độ của Chúa cho muôn dân. Có như vậy chúng ta mới hiểu được câu 4 ám chỉ đến thân phận lưu đày kiệt quệ... Và có như vậy chúng ta mới dễ được an ủi: bởi vì điều đã viết về Dân Chúa nói chung cũng có thể hiểu được về từng người con Chúa nói riêng, cho dù điều đó chỉ thể hiện hoàn toàn nơi Đức Yêsu Cứu thế là Dân Chúa đích thực và là Con Một Thiên Chúa. Và dĩ nhiên điều ấy áp dụng cho các thánh nhân sẽ đúng hơn khi áp dụng cho chúng ta. Nhưng chúng ta không được coi mình như đứng ở ngoài. Những lời nói về ơn gọi tiền định của Yoan cũng phải được hiểu về chúng ta để chúng ta tham dự hơn vào sự vui mừng trong ngày người đản sinh hôm nay.
B. Sinh Nhật Yoan
Tin Mừng theo thánh Luca viết rằng hôm Yoan chào đời, bà con láng giềng đã đến chung vui với ông bà Zacarya. Cả hai người đã già mà nay có con lại không đáng mừng sao? Lẽ ra chính hôm ấy người ta phải đặt tên ngay cho con trẻ (Kn 4,1; 21,3...). Nhưng từ thời sau Lưu đày, người ta bắt chước phong tục Hylạp để việc đó lại sau. Và như vậy cũng tôn vinh ngày làm lễ cắt bì hơn, cử hành 8 ngày sau sinh nhật.
Đó là ngày đánh dấu việc con trẻ từ nay thuộc Dân Chúa. Bạn hữu thân thích đến đông hơn. Người ta muốn gọi con trẻ bằng tên của cha nó để tôn trọng ông. Vì theo tục lệ, lẽ ra phải lấy tên của ông nội mà đặt cho đứa bé. Nhưng Zacarya cũng đã "lão rồi"; và nay ông mới có con; nên để ông vui, người ta muốn gọi đứa bé là Zacarya. Thế nhưng mẹ nó không chịu. Người ta nói thế nào bà cũng không nghe. Người ta phải nại đến cha nó. Nhưng ông lại câm. Phải lấy bút giấy cho ông. Ông viết: hãy đặt tên nó là Yoan. Thật là lạ lùng! Không ai bảo ai mà cả cha lẫn mẹ đều muốn gọi nó là Yoan, một tên không có trong họ hàng thân thuộc. Yoan có nghĩa là Chúa chạnh thương, Chúa đoái nhìn, Chúa muốn cứu độ. Cái tên thật hay, nhưng ai bảo hai ông bà biết mà chọn? Người ta chưa kịp hết ngạc nhiên thì Zacarya đã bật miệng hát lên bài ca chúc tụng. Phải chăng 9 tháng câm đã cho ông thời gian suy nghĩ về lòng Chúa nhân ái, chạnh thương, muốn nhìn lại Israel để ra tay cứu độ như lời đã hứa cùng tổ phụ Abraham và cho đến muôn đời?
Thánh Luca đã tỏ ra lỗi lạc trong bài tường thuật hôm nay. Người không chú ý đến ngày sinh nhật của Yoan. Người mời chúng ta tham dự nghi lễ cắt bì, tức là nghi thức tiến dâng hài nhi lên làm con Chúa. Nói đúng hơn, người chỉ nhắc đến tên lễ nghi này để đưa mắt chúng ta hướng về Chúa để thấy Chúa đang đoái nhìn, chiếu cố, chạnh thương và muốn cứu độ Dân Người. Thánh Luca dùng mọi yếu tố có thể tìm thấy để làm nổi bật tên Yoan khiến người ta thấy rõ Chúa đang thể hiện Lời hứa cho Israel và các dân tộc. Đó không phải là tên của ông nội đứa bé, cũng chẳng phải là tên của ai trong họ hàng thân thuộc. Làm sao cả cha lẫn mẹ không đồng ý trước mà lại nói ra cùng một tên? Và tên này chỉ có thể bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa đoái thương hai ông bà cũng như hài nhi và toàn dân.
Nếu được phép tìm hiểu thêm nữa, chúng ta hãy để ý: ở đây, chính uy quyền của người cha giải quyết vấn đề đặt tên cho con trẻ; còn trong trường hợp Hài nhi sẽ sinh ra ở Bêlem, chính Đức Maria là người trước hết có nghĩa vụ phải đặt tên cho con trẻ là Yêsu. Phải chăng Yoan dù sao cũng còn là con cái của xác thịt nên thuộc quyền cha; còn Cha của Đức Yêsu là Thiên Chúa, nên quyền đặt tên cho Người tùy ở Đức Mẹ Đồng trinh? Dù sao, hôm nay Giáo Hội rất vui mừng vì được Yoan, tức là được ơn Chúa chạnh thương, đoái nhìn, muốn cứu độ Dân Người. Chính người Dothái thời Yoan đã nghĩ như vậy, nên họ nóng lòng chờ đợi xem Chúa sẽ ra tay thế nào nơi hài nhi mới sinh.
C. Hành Động Của Yoan Cũng một tác giả sách Tin Mừng thứ ba đã viết về Yoan như hôm nay chúng ta nghe đọc trong sách Công vụ các Tông đồ. Ông để cho Phaolô nói với những người kính giới Thiên Chúa và đang chờ đợi Lời cứu thoát. Dù không sống ở đất Dothái, nhưng họ chia sẻ mọi tâm tình tôn giáo của đồng bào nơi cố hương. Sống giữa dân ngoại và trong nền văn hóa Hylạp, những người Dothái "thiên cư" (diaspora) đang nghe Phaolô giảng trong hội đường vào ngày sabbat. Họ đã nghe biết về Yoan và đang chờ các hậu quả của việc người xuất hiện. Người đã rao giảng phép rửa thống hối. Nhưng nghe đâu người đã bị bắt và bị giết vì đã khẳng khái lên án tội loạn luân của vua Hêrôđê. Người là Đấng thánh chắc rồi. Các môn đệ của người đang hoạt động. Không biết rồi sẽ ra sao. Nay Phaolô đến cho họ biết: khi vận nghiệp gần mãn, Yoan đã nói: "Các người tưởng tôi là gì, thì không phải tôi đâu. Nhưng này đang đứng sau tôi, Đấng tôi không đáng cởi dép chân Người". Rồi Phaolô tiếp tục nói với người ta về Đức Yêsu. Người đã làm công việc của Yoan, vì tựu trung hoạt động của Yoan cũng là giới thiệu Đức Yêsu Cứu thế là tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Phép rửa mà Yoan đã làm, tuy quan trọng vì từ đó đã khiến người được mệnh danh là Tẩy giả, cũng chỉ nhằm mục đích giúp chúng ta thống hối tội lỗi để đón nhận Đức Yêsu Kitô. Yoan đúng thật là tôi tớ, khiêm tốn và chăm chỉ làm việc để tôn vinh Chủ mình. Ông không lợi dụng lòng phấn khởi lầm tưởng của người ta khi họ muốn coi ông như cứu thế. Ông công nhận không đáng cởi giầy cho Đấng ấy, tức là không đáng làm môn đệ của Người.
Chính vì Yoan đóng đúng vai trò của vị tiền hô mà ngày nay hơn hết mọi vị thánh, người còn sống động trong sinh hoạt của Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng cử hành mầu nhiệm cứu độ, nên luôn luôn nhắc đến Yoan. Hội Thánh mừng sinh nhật của người để biết hừng đông ơn cứu thế đã nổi lên ở chân trời trong đời sống của Dân Chúa. Hội Thánh nghe tiếng người trong mùa vọng Phụng vụ để thanh tẩy tâm hồn và đời sống hầu chuẩn bị ngày Chúa đến. Hội Thánh kính nhớ sự chết của người để được báo tin về cuộc tử nạn cứu thế của Đức Kitô. Thánh Yoan là tiên tri được sai đi trước mặt Đức Yêsu Cứu thế thì người còn sống mãi trong tâm tư của Hội Thánh đang đi đón Đức Kitô trở lại. Có thể nói Hội Thánh phải gặp thánh Yoan trước, tức là phải thanh tẩy, chuẩn bị nên Dân tốt lành hầu đón nhận ơn Chúa đến viếng thăm. Và như vậy thiết tưởng đã đủ để nói lên điều này, là cho đến ngày Đức Yêsu Kitô trở lại, chúng ta phải nghe lời Yoan giảng, phải thi hành việc người truyền, phải hành động và trở nên như người.
Chúng ta hãy làm công việc này nhờ những bài Kinh Thánh hôm nay đã nói về thánh Yoan. Chúng ta luôn nhớ ơn gọi tiền định; chúng ta luôn suy ngày được hiến dâng cho Chúa và nhận tên là Kitô hữu, một danh hiệu nói lên tình thương cứu độ của Chúa. Nhất là chúng ta bắt chước thánh Yoan có đời sống thanh tẩy tội lỗi và luôn khiêm tốn giới thiệu Đức Yêsu Cứu thế cho mọi người.
Giờ đây chính Chúa sẽ đến gặp chúng ta trong thánh lễ. Chúng ta hãy có lòng thống hối như muốn cúi xuống cởi giầy cho Người... Chúng ta sẽ được Người nâng lên như có lần Người đã tôn vinh thánh Yoan trước mặt mọi người: Thầy bảo thật trong muôn vàn con cái mà đàn bà sinh ra không ai quý trọng hơn Yoan, nhưng kẻ bé nhất trong Nước Trời còn hơn ông. Vì Yoan chỉ là vị tiền hô, còn chúng ta từ nay là bạn hữu, là Kitô hữu. Ước gì chúng ta hiểu như vậy để từ nay sống xứng đáng hơn với danh hiệu này. Và như thế, chúng ta sẽ tôn vinh Chúa, sẽ tiếp tục làm công việc của thánh Yoan là giới thiệu Chúa cho mọi người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình: 24/6-56
Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu. Nhưng ngài là tác giả duy nhất đề cập đến thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả.
Phần tường thuật về Thời thơ ấu có hai cánh:
- Cánh các lời loan báo (1,5-56), - Cánh các cuộc chào đời (1,57–2,52).
Truyện Gioan chào đời được đặt song song với biến cố Đức Giêsu giáng sinh.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan chào đời (1,57-58); 2) Gioan được cắt bì và đặt tên (1,59-66); 3) Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (1,80). 3.- Vài điểm chú giải
- Nghe biết (58): Khi biết mình có thai, bà Êlisabét đã ẩn mình (x. 1,24), nên láng giềng và những bà con khác (trừ Đức Maria) không biết gì về tình trạng của bà, cho đến khi đứa bé chào đời.
- cắt bì (59): Theo St 17,11, cắt bì là ghi “dấu giao ước” cho cậu bé trai. Thường người cha sẽ cắt bì cho con (x. St 21,4).
- lấy tên cha … mà đặt tên cho em (59): Theo bản văn Lc, em bé được đặt tên khi cắt bì. Tuy nhiên, người Do Thái Paléttina có thói quen đặt tên con ngay vào lúc chào đời (x. St 4,1; 21,3; 25,25-26), và thường do người mẹ (St 29,31–30,24; 1 Sm 1,20), đôi khi do người cha (x. St 16,15; Xh 2,22) (xem R. de Vaux). Do đó, có những nhà chú giải nghĩ rằng tác giả Lc đã đưa vào đây một cách thực hành của người Hy Lạp, bởi vì tại Hy Lạp cổ thời, người ta thường đặt tên cho con vào ngày thứ bảy hoặc thứ mười sau khi sinh.
- Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả (61): Tuy nhiên, “Gioan” đã từng là tên của các thành viên dòng họ tư tế thời hậu Lưu đày (x. Nkm 12,13.42; 1 Mcb 2,1-2).
- bàn tay Chúa (66): Đây là một kiểu nói như nhân của Cựu Ước (x. 1 Sb 28,19; 4,10) nhằm diễn tả rằng Thiên Chúa uy quyền che chở và hướng dẫn Gioan. Thế nhưng Ngài vẫn không tránh cho Gioan khỏi tù và khỏi chết bởi tay Hêrôđê Antipa (x. Lc 3,20; 9,8).
- lớn lên (80): Đây là một điệp khúc của tác giả Lc (x. 2,40.52). Câu văn được phỏng theo Tl 13,24-25 và 1 Sm 2,26.
- sống trong hoang địa (80): Dựa vào đây, các chuyên viên đề ra giả thuyết là Gioan đã qua thời trai trẻ tại cộng đoàn Êxêni tại Qumran. Đây là giả thuyết không bảo vệ được và cũng không phi bác được.
4.- Ý nghĩa bản văn
* Gioan chào đời (57-58)
Đoạn tường thuật ngắn ngủi này kể lại cuộc chào đời của Gioan và niềm vui do biến cố này đưa lại. Tác giả Lc kể lại truyện này với hai sắc thái. Trước tiên, biến cố cho thấy lòng từ bi thương xót của Đức Chúa đối với dân Ngài khi cất khỏi bà Êlisabét nỗi ô nhục son sẻ. Truyện cũng nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi thương xót ra khi chơi chữ trên tên “Gioan”. Ân huệ mà Ngài tỏ ra như thế không chỉ nhằm chiếu cố đến bà Êlisabét mà còn chiếu cố đến dân Ngài là Israel như một toàn thể. Đứa bé này, sinh ra từ những cha mẹ son sẻ, trở thành nguồn đưa lại niềm vui cho láng giềng và bà con thân thích, như sứ thần đã tiên báo.
* Gioan được cắt bì và đặt tên (59-66)
Đứa trẻ sinh ra được tám ngày thì phải làm phép cắt bì (x. Lv 12,3). Khi được cắt bì, em bé được ghi “dấu giao ước” (St 17,11) và được tháp nhập vào Israel (Gs 5,2-9). Từ nay, em được chia sẻ cách phúc lành Thiên Chúa hứa cho dân Ngài (Gs 5,6-7), nên có thể cử hành lễ Vượt Qua với họ (Xh 12,44-49). Cắt bì cũng có nghĩa là buộc phải tuân giữ Luật Môsê. Còn về việc đăt tên, đối với người Do Thái, cái tên rất quan trọng, vì nói lên tương lai của em bé. Có nhiều truyện trong Cựu Ước giải thích ý nghĩa của các tên: “Isaác”, trong tiếng Híp-ri, có nghĩa là “sẽ cười / sẽ mỉm cười” và yếu tố “mỉm cười” này thường xảy ra: Sara mỉm cười trong lều; Isaác cười với Ítmaên. Tên “Giacóp” báo điềm gở là “sẽ hất cẳng”, và sau này ông đã “hất cẳng” Exau. Khi Giacóp đã bỏ tính lọc lừa và trở nên đàng hoàng, Thiên Chúa đã cho ông một tên mới là “Israel”, như một dấu chuẩn nhận và đón tiếp. Cũng thế, sau này Đức Giêsu đã cho Simôn một tên mới là “Phêrô”, để dùng ông làm đá tảng xây dựng Hội Thánh.
Bà Êlisabét không đồng ý cho người ta lấy tên Dacaria mà đặt cho em bé, dù đây là tập tục; bà yêu cầu đặt là “Gioan”. Người ta mới hỏi ý kiến ông Dacaria, lúc này vẫn bị câm. Ông “đã xin một tấm bảng nhỏ và viết” tên Gioan (1,63). Hai ông bà đang tỏ ra vâng lời sứ thần khi chọn một tên cho đứa con, bất chấp truyền thống của dòng họ. Sứ thần đã bảo tên bé là Gioan, thì bây giờ phải đặt tên bé là Gioan! Đây cũng là cách tác giả Lc cho thấy các lời ngôn sứ được hoàn tất: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện.
Tên “Gioan”, Yơhô[k]anan (hoặc: Yô[k]hanan), có nghĩa là “Đức Chúa (ya = yhwh) đã tỏ lòng ưu ái (khanan = charis)” (x. 1,13). Tên này tạo thêm một đường nối giữa hai gia đình, vì nhắc lại lời sứ thần chào Maria, “bà được đẹp lòng (charis) Thiên Chúa” (1,30). Tên “Gioan” như thế có hiểu rằng Israel là đối tượng được Thiên Chúa đặc biệt chiếu cố, và Ngài có một sự quan tâm đặc biệt đến cũng như có một chương trình đặc biệt cho.
* Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (80)
Sau khi chấm dứt bài Benedictus (chúng ta không đọc), tác giả Lc kết thúc hoạt cảnh bằng một ghi nhận nói rằng cậu bé ngày càng lớn lên mọi mặt, và báo trước việc Gioan vào sống trong hoang địa (3,2), chờ ngày “ra mắt dân Israel”.
+ Kết luận
Khi đặt bản văn này vào ngữ cảnh, ta thấy rõ ý hướng của Tin Mừng Lc. Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu được so sánh và đạt đối nhau, nhưng sự cao trọng của Đức Giêsu được nêu bật trong từng chi tiết. Rõ ràng Đức Maria cao trọng hơn ông Dacaria, và con của Đức Maria vô cùng cao trọng hơn con của ông Dacaria. Cốt lõi đầu tiên là thời thơ ấu của Đức Giêsu, và rõ hơn, là truyện Truyền Tin. Rất có thể câu truyện về thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả chỉ là một phần mở do tác giả Lc sáng tác ra để vị Tiền hô giới thiệu Đấng Mêsia.
Chương 1–2 Lc có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đn 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Ml 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài Benedictus và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo, được viết theo ngôn ngữ Kinh Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót! Bởi vì bà Êlisabét, mẹ của Gioan, bị hiếm muộn (x. Lc 1,7.36) và hoàn toàn nhưng-không – do ân sủng – mà bà đã được Chúa ban cho ơn phi thường là cưu mang một người con trong lúc tuổi già (x. Lc 1,36). “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà”. Nhưng đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ !
2. Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
3. Chúng ta suy niệm về thánh Gioan dựa theo ý kiến của một vài vị thánh. Trước tiên, ta có ý kiến của linh mục Origiênê (Các bài giảng về Tin Mừng Luca, số 4,4-6): “Phần tôi, tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Gioan đang được hoàn tất trong thế giới cho tới nay. Người nào được nhắm cho tin vào Đức Kitô Giêsu, thì trước đó tinh thần và sức mạnh của Gioan phải đến trong tâm hồn người ấy để “chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17) và trong những nơi lồi lõm của con tim, “khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng” (Lc 3,5). Không phải chỉ vào thời đó các “khúc quanh co, mới phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, mới phải san cho bằng”, nhưng hôm nay cũng còn như thế. Tinh thần và sức mạnh của Gioan đi trước việc Chúa Cứu thế hiển ngự”.
4. Thánh Ephrem đã dạy (Bài thánh ca được gán cho thánh Ephrem [khoảng 306-373]: “Chính là ngài, thánh Gioan, mà chúng con nhìn nhận như là một Môsê mới, bởi vì ngài đã thấy Thiên Chúa, không phải trong dạng biểu tượng, nhưng hoàn toàn rõ ràng. Chính ngài mà chúng con coi như là một Giôsuê mới: ngài không đi từ bờ này sang bờ bên kia của sông Giođan, nhưng, với nước sông Giođan, ngài đã đưa người ta đi từ thế giới này sang thế giới khác… Chính ngài là Samuen mới đã không xức dầu cho Đavít, nhưng đã ban phép rửa cho con Đavít. Chính Ngài là Đavít mới, đã không bị vua Saun xấu xa bách hại, nhưng đã bị Hêrôđê giết chết. Chính ngài là Êlia mới, được nuôi dưỡng trong hoang địa không phải bằng bánh một con quạ mang đến , nhưng bằng châu chấu và mật ong do Thiên Chúa ban cho. Chính ngài là Isaia mới đã không nói: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và sinh con” (7,14), nhưng đã công bố trước mặt mọi người: “Này đây bà đã sinh ra Con Chiên Thiên Chúa, Đấng mang tội trần gian” (Ga 1,29)…
“Lạy thánh Gioan, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài thật có phúc, vì ngài đã đặt tay trên Chủ của ngài, ngài đã nắm lấy trong tay ngọn lửa có ánh sáng làm các thiên thần phải run sợ! Là ngôi sao mai, ngài cho thế gian thấy Buổi Ban mai chân thật ; là bình minh tươi vui, ngài đã cho thấy ngày vinh quang; là ngọn đèn cháy sáng, ngài đã chỉ cho thấy Ánh sáng có một không hai! Là sứ giả mang ơn hòa giải của Chúa Cha, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã được cử đến trước mặt ngài để loan báo cho Dacaria về ngài, như là một hoa quả vượt quá sự chờ đợi của ông… Là người cao trọng nhất trong số các con cái loài người (Mt 11,11), ngài đến đón trước Đấng Emmanuel, ngài đón trước Đấng vượt quá mọi thọ tạo; là con đầu lòng của bà Êlisabét, ngài đi trước Trưởng Tử của toàn thể thọ tạo!”
5. Mỗi người có ơn gọi của mình. Gioan có ơn gọi của riêng ông, ơn gọi không mấy thông thường. Cũng như mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi, Gioan đã chuẩn bị trong lòng sứ mạng được ký thác cho ông. Ông chuẩn bị bằng đời sống ẩn dật. Đó chính là đời sống của ông với Thần Khí Đức Chúa. Đó chính là điều bí mật của ông. Phải chăng đây là một sự mô phỏng, khá mờ nhạt, của sự chuẩn bị của Đức Maria hầu đón tiếp Đức Chúa đến với Bà vào ngày Truyền tin? Bởi vì Đức Maria cũng đã nhận một tên mới do Thiên Chúa ban: thiên thần Gabriel đã gọi Bà bằng cái tên “Đấng đầy ân sủng” (Lc 1,28).
Lễ sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 1:57-66,80)
Trong phong tục Việt Nam, lễ thôi nôi của một đứa trẻ báo trước một phần tương lai của nó. Người ta: 24/6-57
Trong phong tục Việt Nam, lễ thôi nôi của một đứa trẻ báo trước một phần tương lai của nó. Người ta để trước mặt nó một số đồ vật biểu trưng nghề nghiệp. Đứa trẻ cầm lên đồ vật nào thì đó là tương lai của nó, thí dụ nhặt lấy cây viết là đứa bé sau này có thể là một nhà giáo hoặc văn sĩ… Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, tương lai của em bé Gio-an không tùy thuộc vào sự tình cờ. Mọi người thắc mắc về tương lai của em và đều có cùng một câu trả lời: “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Cuộc đời và sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả nằm trong “bàn tay Chúa”. Điều này ông Da-ca-ri-a, cha của em, đã được biết khi sứ thần hiện ra với ông trong Đền Thờ. Ngài nói với ông: “Em sẽ được đầy tràn Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lu-ca 1:17). Đúng như vậy, khi còn là một bào thai, thánh Gio-an đã được đầy Thánh Thần; bằng chứng là ngài đã nhận được niềm vui, một hồng ân đặc biệt của Thánh Thần (Ga-lát 5:22). Niềm vui đã giúp cho một thai nhi biết “nhảy mừng” trong lòng mẹ khi được gặp “Thân Mẫu của Chúa tôi”. Lúc thi hành sứ mệnh rao giảng thống hối, thánh Gio-an đã thu hút được “mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem đến với ngài” (Mác-cô 1:5). Vốn sẵn có lòng nhiệt thành bốc lửa và tinh thần thẳng thắn của ngôn sứ Ê-li-a, thánh Gio-an đã kêu gọi mọi người hãy hòa giải với nhau và hòa giải với Thiên Chúa. Cũng chính vì lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa nên ngài đã phải thiệt thân dưới tay vua Hê-rô-đê (Thánh Vịnh 69:10; Mát-thêu 14:3-12).
Tuy nhiên điểm nổi bật và quan trọng nhất trong sứ mệnh của thánh Gio-an, đó là “chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. Ngài không chuẩn bị cho một dân tộc thoát ách đô hộ của Rô-ma, nhưng là cho một dân tộc thoát xiềng xích tội lỗi và sự chết nhờ cái chết của Đấng Cứu Độ. Ngài không chuẩn bị khí giới binh đao để lật đổ bạo quyền, nhưng chuẩn bị tâm hồn dân chúng bằng việc kêu gọi người ta sám hối, thay đổi lối sống và não trạng để đón nhận Tin Mừng Chúa Ki-tô cũng như đời sống mới trong Thánh Thần. Việc chuẩn bị này, ngoài sức mạnh của Thánh Thần, cũng đòi hỏi nơi Gio-an một ý chí sắt đá, cho nên “cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh”. Vững mạnh để đương đầu với khó khăn của hoang địa, với thái độ ngoan cố của các nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái, và cuối cùng với ngục tù cũng như cái chết hy sinh. Nói tóm lại, cuộc đời và sứ mệnh của thánh Gio-an Tẩy Giả bắt đầu từ việc ông Da-ca-ri-a thi hành việc tế lễ trong Đền Thờ và kết thúc bằng cái chết làm chứng cho lời giảng về sám hối. Tất cả là để cho người ta thấy Đấng Cứu Độ và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Sống sứ điệp Tin Mừng Ít khi chúng ta thấy lễ kính một vị thánh thay thế phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật như hôm nay. Như vậy đủ biết Giáo Hội nhìn nhận tầm quan trọng của thánh Gio-an Tẩy Giả trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Có nhiều gợi ý giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời và sứ mệnh của thánh Gio-an Tẩy Giả để tự hỏi về cuộc đời và sứ mệnh của mỗi người chúng ta. Tên của Gio-an đã được ấn định trước khi ngài là một bào thai trong lòng mẹ. Tên mỗi người chúng ta cũng đã được viết trong lòng bàn tay Thiên Chúa (I-sai-a 49:16). Cũng như thánh Gio-an, chúng ta nhận được Thánh Thần, nhận được sự phù trợ của Thiên Chúa suốt cuộc đời, được Người trao cho một sứ mệnh đặc biệt là giúp cho Chúa Ki-tô “nổi bật lên” (Gio-an 3:30) trong tâm hồn những người chúng ta gặp gỡ.
Chúng ta đã có câu trả lời cho thắc mắc của dân chúng Giê-ru-sa-lem về em bé Gio-an: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và chúng ta cũng phải thắc mắc về chính mình: Còn tôi, tôi sẽ ra thế nào đây?
Sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả Biết noi gương thánh Gio-an làm chứng cho Chúa bằng các việc làm cụ thể.
1. TIN MỪNG: Lc 1,57-66.80:
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. (59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an. (61) Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng có ai có tên như vậy cả”. (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. (63) Ong xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”. Ai nấy đều rất bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi của ông lại mở ra. Ong nói được và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. (80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào mặc khải diệu kỳ của cái tên Gio-an khi làm lễ cắt bì và đặt: 24/6-58
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào mặc khải diệu kỳ của cái tên Gio-an khi làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ. Bà con láng giềng tụ tập trong ngày này đã được chứng kiến sự lạ lùng ấy. Rồi việc ông Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm khiến cho mọi người có mặt đều bở ngỡ và đặt dấu hỏi về sứ mệnh của con trẻ sau này. Sau đó Gio-an đã vào sống trong hoang địa cho đến khi thi hành sứ mệnh tiền hô giúp dân Do thái nhận biết Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu thành Na-da-rét.
3. CHÚ THÍCH: - C. 57-59: +Láng giềng và thân thích đều chia vui với bà:Bài tường thuật tập trung vào việc mặc khải diệu kỳ của tên Gioan và biến cố cắt bì đặt tên. Bà con láng giềng tụ tập lại trong sự chia sẻ niềm vui với đôi vợ chồng già. Nhờ đó tiếng đồn sự lạ về con trẻ lại càng lan rộng. + Khi con trẻ được tám ngày: Tám ngày là thời gian Luật định để làm phép cắt bì (x. St 17,12; Lv 12,3; Pl 3,5). + Và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em: Người ta ít khi lấy tên cha mà thường lấy tên ông nội mà đặt cho cháu. Ở đây người ta lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho con, có thể do ông Da-ca-ri-a đã cao niên.
- C. 62-63: +Ong xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”: Dù hai ông bà đã đã không hội ý trước đặt tên cho con là gì, vì ông vừa bị câm và bị điếc trước đó. Nhưng hai ông bà lại thống nhất cùng chọn tên Gio-an mà đặt cho con, như sứ thần đã truyền cho Da-ca-ri-a khi truyền tin cho ông trong Đền thờ (x. Lc 1,13). + Ai nấy đều rất bỡ ngỡ: Phải chăng sự thống nhất ý kiến về việc đặt tên cho con cái tên không quen thuộc của hai ông bà chính là một dấu lạ khiến mọi người ngạc nhiên.
- C. 65-66: + Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ: Trong Kinh Thánh, chữ “tâm” hay “lòng” chỉ nơi phát xuất ra tư tưởng, tình cảm, hoài niệm, quyết định và ước muốn của con người Giống như Đức Maria “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2,19), nghĩa là để tâm tìm hiểu ý nghĩa của lời sấm hay sự việc xảy ra. + Có bàn tay Chúa phù hộ em: Kiểu nói “bàn tay Chúa” mô phỏng Cựu ước, cho thấy Thiên Chúa bảo vệ những ai tin cậy vào Người, mà Gioan là một trong số những người đó (x. Tv 80,18; 139,5).
4. CÂU HỎI: 1) Gio-an Tẩy Giả liên hệ họ hàng thế nào với Đức Giêsu? 2) Tại sao láng giềng bà con lại phải đến nhà thăm hỏi chia vui khi nghe tin bà Ê-li-sa-bét sinh con? 3) Phép cắt bì là gì? Được cử hành thế nào? 4) Tại sao hai ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét lại thống nhất ý kiến đặt tên cho con trai là Gio-an?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN: CUỘC ĐỜI VỊ TIỀN HÔ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ
Gioan là vị tiền hô của Chúa Giêsu (x. Mt 3,3), là con của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Cả hai ông bà thuộc dòng tộc tư tế. Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan là anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan cư ngụ tại miền núi xứ Giu-đê (x. Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã vào trong sa mạc sống đời tu hành nhiệm nhặt. Đến năm thứ 15 thời hoàng đế Ti-bê-riô, Gioan bắt đầu xuất hiện tại vùng ven sông Gio-đan miền Giu-đê rao giảng và làm phép rửa sám hối (x. Lc 3,1). Phép rửa của ông là nghi thức thống hối kèm theo sự xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gioan công nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người là “chiên Thiên Chúa” với hai môn đệ (Ga 1,35). Có lần Đức Giêsu gọi Gioan là Ngôn sứ Ê-li-a khác, là người lớn nhất thời Cựu ước, là sứ giả đi trước dọn đường cho Người (x. Mt 11,9-19; Lc 7,24-30).
Cuộc đời của Gioan kết thúc với cái chết bị chém đầu trong nhà ngục, do ông đã can đảm lên tiếng ngăn cản vua Hê-rô-đê không được lấy chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê làm vợ, nên bị Hêrôđê bắt giam và cuối cùng đã bị bà này thù ghét hãm hại (x. Lc 9,7-9).
3. SUY NIỆM: CHU TOÀN SỨ VỤ TIỀN HÔ NOI GƯƠNG THÁNH GIO-AN:
1) Đức Giêsu đã nói về sứ vụ của Gioan Tẩy Giả như sau: “Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến" (Lc 7,24-27). Như vậy, Gioan chính là vị ngôn sứ, được Thiên Chúa sai đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên Sai Với sứ vụ đó, thánh Gioan đã trở nên một nhân vật lớn nhất trong lịch sử cứu độ như Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả…” (Mt 11,11).
2) Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cần học tập những gì nơi thánh Gio-an ?
+ Gương khiêm tốn: Khiêm hạ trong cách ăn nói như: Nói năng nhỏ nhẹ, tôn trọng tha nhân, năng khen các ưu điểm để khích lệ hơn là phê phán chỉ trích những ai hơn mình. Tránh tự cao nhưng luôn làm mọi việc để tôn vinh Thiên Chúa như thánh Gio-an làm với Đức Giêsu: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).
+ Gương khó nghèo: Tránh đua đòi mua sắm quần này áo nọ, nhưng luôn sống đơn sơ khó nghèo trong cách ăn ở noi gương thánh Gio-an: “mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và uống mật ong rừng” (x. Mc 1,6-8).
+ Gương vâng phục: Luôn bỏ ý riêng để vâng phục ý Chúa, noi gương thánh Gio-an xưa đã vâng lời Đức Giêsu khi làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan (x. Mt 3,13-15).
+ Gương trung tín: Luôn chu tòan sứ vụ tiền hô giúp người đời tin nhận Đức Giêsu, noi gương thánh Gio-an xưa đã giới thiệu và khích lệ hai môn đồ ưu tú bỏ mình để theo làm môn đệ Đức Giêsu (x. Ga 1,35-37).
+ Gương trung thực: Luôn trung thực nhìn nhận khuyết điểm của mình và tu sửa, noi gương thánh Gio-an xưa đã tự nhận mình chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: ”Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” như lời ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm. Gio-an thừa nhận phép rửa của ông chỉ giúp người ta sám hối, còn Đấng đến sau ông lại quyền thế hơn ông, mà ông không đáng xách dép cho Người. Đấng ấy sẽ “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11; Ga 1,20-27).
+ Can đảm: Luôn can đảm làm chứng cho Chúa noi gương thánh Gio-an đã can đảm lên tiếng can ngăn vua Hê-rô-đê không được lấy chị dâu là bà Hê-rô-đi-a làm vợ mình (x. Mt 14,3-4; Lc 3,7-9). Cũng vì thế mà ngài đã bị vua Hê-rô-đê giết hại.
4. THẢO LUẬN: 1) Thánh Gioan Tẩy Giả đã nêu gương sống thế nào để chu toàn sứ vụ tiền hô của Đức Giêsu? 2) Mỗi người chúng ta hôm nay cần phải làm gì cụ thể để sống khiêm hạ noi gương thánh Gio-an?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU, Xin cho chúng con hôm nay biết noi gương thánh Gio-an làm chứng cho Chúa bằng các việc làm cụ thể: không khoe khoang thành tích ưu điểm của mình, sống đơn giản điều độ trong cách ăn mặc, tránh chè chén say sưa, can đảm bệnh vực những người thân yếu thế cô, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt vì danh Chúa. Xin cho chúng con trở thành những người tiền hô hầu giúp người đời nhận biết và tin yêu Chúa noi gương thánh Gio-an.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan, nhưng với tư cách ngôn sứ, Kitô hữu: 24/6-59
Không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan, nhưng với tư cách ngôn sứ, Kitô hữu chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12). Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6).
Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
1. Sinh nhật kỳ diệu
Thánh Luca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gioan: “Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc 1,14).
a. Dacaria bị câm: Thân phụ của Gioan bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông đang dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình (Lc 1,5-23).
b. Khỏi Tội Nguyên tổ Bà Isave có thai được 6 tháng, Đức Maria đã đến viếng thăm; vừa nghe lời của Đức Maria chào thì thai nhi Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ (Lc 1,41) và được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,15). Hồng ân này được Giáo hội hiểu là Gioan đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Maria cả nhân loại không ai có được.
c. Son sẻ mà có con Hai ông bà Dacaria và Isave là người công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng họ lại không con, vì Bà Isave là người hiếm muộn, cả hai đều đã cao niên (Lc 1,6- 7).
Vậy mà Bà đã sinh con: “Bà sinh hạ một con trai,nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,57-58). Trong Cựu ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy. Bà Sara mẹ Isaac (St 11,30; 21,1-7). Bà Rebecca mẹ của Esau và Giacop (St 25,21-26). Bà Rakhel mẹ của Giuse (St 29,21; 30,22-24). Bà Anna mẹ của Samuel (1 Sm 1,2-20).
d. Tên Gioan và hết câm
Gioan sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Dacaria nhưng bà mẹ lên tiếng: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả. Khi Dacaria viết tên Gioan trên tấm bảng, thì miệng lưỡi ông được mở ra, ông hết câm và nói lại được như trước kia (Lc 1,59-65).
Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gioan vì “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em” (Lc 1,66).
Sinh nhật Gioan kỳ diệu cũng đúng thôi vì Gioan sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
2. Ơn Gọi kỳ diệu
a Ngôn sứ Isaia loan báo
“Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,3- 5; Mc 1,3; Lc 3,4-6; Mt 3,3). Isaia đã giới thiệu về Gioan như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.
b. Ngôn sứ Malakia tiên báo
“Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con,người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu” (Ml 3,1-24; Mt 1,10; Lc 1,17; 7,27). Lời Ngôn sứ Malakia nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gioan như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
c. Sứ Thần Truyền Tin xác nhận
Sứ Thần của Chúa hiện ra với Dacaria, đứng bên phải hương án, xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gioan Tẩy Giả “Sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17).
d. Thân phụ Dacaria
Dưới tác động của Thánh Thần, Dacaria đã hát lên bài ca chúc tụng “Benedictus” về ơn gọi của người con trai mình: “Hài Nhi hỡi, con sẽ đi trước mặt Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên” (Lc 1,76-77).
e. Gioan khẳng định
Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và một người Do thái về việc thanh tẩy, tại Enon, gần Salem thuộc miền Giuđê, chính Gioan đã xác nhận ơn gọi của mình: “Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài” (Ga 3,28).
Gioan sinh ra thật kỳ diệu, hai ông bà Giacaria quá đỗi vui mừng hạnh phúc. Bao ước mơ xưa nay thành hiện thực. Con trai sẽ là người nối dõi tông đường lo cho tuổi già của cha mẹ. Con trai sẽ là người nối nghiệp cha làm tư tế. Nhưng mọi dự tính như đều biến thành mây khói khi Gioan nghe theo tiếng gọi từ trời cao đi làm nhiệm vụ Ngôn sứ. Một nhiệm vụ rất nguy hiểm. Gioan vào hoang địa sống một mình với Thiên Chúa để chuẩn bị cho sứ vụ.
Qua sinh nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gioan, Thiên Chúa đã đặt Gioan làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt, đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương, bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than, Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân. Qua mọi thời, những Ngôn sứ chân chính luôn thao thức với vận mạng Dân tộc. Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay. Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu từ trong ngục. Đụng chạm đến những hôn quân bạo chúa thì chỉ chuốc lấy họa vào thân. Thế nhưng, lương tâm ngay chính, Gioan đã khẳng khái nói lên những lời cần phải nói cho dù phải trả giá bằng chính mạng sống mình. Sứ mạng Ngôn sứ thời nào cũng phải trả giá khi dám nói sự thật, khi dám đấu tranh cho công lý và dân chủ.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành, bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả” (Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống. Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế. Đức Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 15,18-19).
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Người Kitô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách ngôn sứ chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu. Với tư cách là Tẩy Giả, chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đoa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống. Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gioan: Chúa phải lớn lên, còn tôi phải lu mờ đi. Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Bài đọc 1 trong thánh lễ Vọng nói về ơn gọi của của ngôn sứ Giêrêmia. Ơn gọi này hoàn toàn: 24/6-60
Bài đọc 1 trong thánh lễ Vọng nói về ơn gọi của của ngôn sứ Giêrêmia. Ơn gọi này hoàn toàn có trước Ngài: cái nhìn ưu ái của Thiên Chúa bao trùm Giêrêmia khi Ngài chưa hiện hữu. Thiên Chúa đã dành riêng ông cho Ngài, để đặt ông làm ngôn sứ của chư dân (c.5), công bố Lời của Thiên Chúa cho Israel và cho mọi dân tộc.
Một vị ngôn sứ không được đón nhận: sự kiện ông sẽ phải chiến đấu chống lại mọi người đã được ghi sẵn trong ơn gọi của ông. Vua, quan, tư tế, dân chúng, không ai đón nhận sứ điệp của Giêrêmia vì ông loan báo sự thất bại của các kế sách của con người để tự cứu mình khỏi quyền lực đe dọa của Babylon. Để có thể đứng vững, chỉ có một sự an ủi duy nhất, sự hiện diện của Thiên Chúa: ‘Ta ở với ngươi’ (c.8 &19).
Ta thấy sự đối nghịch giữa tính phổ quát của ngôn sứ vụ và sự kiện vị ngôn sứ không được đón nhận ngay cả dân của mình. Quả là lạ lùng vị Thiên Chúa, Đấng một đàng sai đến trần gian, đàng khác lại nhận thức sự từ chối của dân Israel.
Nên biết điều này là dự tính của Thiên Chúa tiến triển trong lịch sử không phải nhờ sự thành công theo kiểu thế gian của người được sai đi, nhưng lại trong chính sự thất bại. Người được sai đi sẽ thành công, nhưng chỉ nhờ qua việc hiến dâng chính bản thân mình cách nhưng không và hoàn toàn tin tưởng.
Phụng vụ mời gọi ta tiếp cận cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả (lễ vọng): tràn đầy Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ’ (Lc 1,15). Được hiến thánh để cảm nhận và tỏ ra ngay trong dạ mẹ những dấu chỉ của sự thân tình vừa mới phát sinh (x. Lc 1,44), được mời gọi như Giêrêmia để chuẩn bị đường cho Chúa bằng cách hủy diệt và tái thiết bằng lời sứ ngôn (x. Lc 3,5) và số phận phải trả bằng giá máu cho lòng trung thành với sứ vụ của mình (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-29; Lc 3,19-20 ).
Lời Thiên Chúa vẫn được thực hiện: qua các thế kỷ Giêrêmia sẽ trở thành hình ảnh tiên báo về niềm tin của Israel; và cũng sẽ trở thành thầy dạy các dân tộc mà trong Đức Kitô họ sẽ đón nhận Thiên Chúa của Israel như Thiên Chúa của họ, và là ánh sáng cho mọi người thiện tâm. Như vậy, Giêrêmia thật sự là ngôn sứ của chư dân, không phải do những lời ‘sấm ngôn về các dân tộc’ làm thành phần cuối của sách ngôn sứ (c.46-52).
Chúng ta có thể và cần phải dựa trên lời của Chúa, để Lời được loan báo, được thực hiện cách chắc chắn. Tuy nhiên, được thực hiện theo cách thức của thiên Chúa chứ không theo cách của chúng ta. Điều làm cho Nước Thiên Chúa tiến triển trong lịch sử không phải là những thành công của chúng ta (cũng không phải của Giáo Hội), mà là niềm tin rằng ‘trông cậy mặc dầu không còn gì để trông cậy’ (Rm 4,18 ) và tình yêu tự hiến hoàn toàn không chút tính toán. Tác giả bài viết: Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định: 24/6-61
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
“Đứa Trẻ này rồi sẽ thế nào đây?”
Câu chuyện minh họa: Còn nhớ lần đầu tiên vào thăm mấy người bạn ở Long Khánh (Xuân Lộc), tôi được họ dẫn đi tham quan vườn sầu riêng. Đứng giữa vườn sầu riêng mênh mông, ngước nhìn lên những thân cây sầu riêng cao lớn đang đeo những chùm trái to tướng và đầy gai nhọn, tôi thốt lên với nhóm bạn:
- Trái sầu riêng này mà lỡ rụng xuống trúng đầu ai thì chắc là người đó... chết tươi ăn năn tội chẳng kịp quá!
Mấy đứa bạn nhìn tôi cười và giải thích thế này:
- Bạn đừng lo! Khi dựng nên cây sầu riêng, Thiên Chúa đã tính toán kỹ rồi. Ngài trao cho nó sứ mạng dâng tặng vị ngọt thơm cho đời. Còn việc rụng, Ngài chỉ cho phép trái của nó được rụng vào ban đêm thôi, nếu rụng ban ngày thì chắc gì ông bà Adam - Eva còn sống mà sinh ra con cháu tụi mình bây giờ!
Câu trả lời dí dỏm này khiến tôi suy nghĩ: Dựng nên một cây ăn trái mà Chúa còn tính toán lợi hại kỹ như vậy, thì khi dựng nên con người, chắc chắn là Chúa phải có chương trình hẳn hoi!
Kính thưa cộng đoàn!
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, người Công Giáo chúng ta tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta vào cuộc sống, Ngài đã có ý định và chương trình cho từng người. Đây không phải là một kế hoạch để áp đặt, nhưng là một sứ mạng để mỗi người hoàn thành trong tự do và trách nhiệm, hầu được vui hưởng hạnh phúc. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một minh chứng điển hình.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Vì ý thức sứ mạng cao cả này, Gioan đã can đảm chu toàn để làm chứng cho Ánh Sáng và Sự Thật, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phần chúng ta, khi cho chúng ta được hiện diện trên cõi đời này, Thiên Chúa đặt hết niềm tin và sự kỳ vọng nơi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn ngắm cuộc đời và cách sống của Gioan để noi theo trong việc thi hành sứ mạng của mình giữa cuộc sống hàng ngày.
- Thứ nhất là tinh thần can đảm: Thánh Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến bằng cách chuẩn bị tâm hồn mọi người cho xứng hợp để tin nhận Người. Trong hành trình rao giảng, Gioan đã không ngần ngại, không sợ sệt khi lên tiếng phản đối sự sai trái của kẻ cầm quyền lúc bấy giờ là vua Hêrôđê, dù biết rằng mình phải chuốc lấy những hậu quả khôn lường, thậm chí bị chém đầu.
Là những Gioan Tẩy Giả của thời đại hôm nay, chúng ta có bổn phận góp phần làm cho xã hội được phát triển, cuộc sống con người được thăng tiến, phẩm giá con người được tôn trọng, công bình và bác ái được thể hiện; chúng ta có trách nhiệm cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống, làm giảm bớt sự hận thù, chia rẽ, bạo lực và chà đạp nhân phẩm, ngay trong môi trường mình đang sống. - Thứ hai là sự khiêm tốn: Khi thi hành sứ mạng, thánh Gioan được mọi người rất kính nể, đến nỗi người ta cứ lầm tưởng Gioan là Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, Gioan không lợi dụng sự tin tưởng của họ để mạo danh. Ngược lại, Gioan khiêm tốn bộc bạch với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Người”.
Phần chúng ta, vừa can đảm thực thi sứ mạng của người Công Giáo trong cuộc sống, nhưng chúng ta cũng cần phải khiêm tốn nhìn nhận mình là “đầy tớ vô dụng”, được Chúa sai đi làm công việc của Chúa. Nhờ đó, chúng ta vừa tránh được tính khoe khoang tự mãn với những thành quả đạt được, vừa luôn phấn đấu để hoàn thiện con người của mình, hầu chu toàn sứ mạng được tốt hơn.
Lạy Chúa, cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như của mỗi người chúng con đều do bàn tay Chúa can thiệp, đưa dẫn và sai đi. Xin Chúa cho chúng con nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực của Chúa giữa dòng đời, để những người chung quanh nhìn cách sống của chúng con mà tin vào Chúa. Amen.
Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ: 24/6-62
1. Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ đó là đi trước dọn đường. Trách nhiệm đó rất cao cả. Chính Thiên Chúa đã gọi Ngài, đã chọn Ngài, đã thánh hóa Ngài, đã sai Ngài, đã trao trách nhiệm cho Ngài. Mục đích để cứu nguy phần rỗi.
Gioan Baotixita vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng Ngài nói: “Tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Cứu Thế” (Ga 1,27).
2. Với lời trên đây, Gioan Baotixita muốn nói lên sự khó nghèo của Ngài. Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết Chúa thì vô cùng cao sang, còn mình thì hết sức hèn hạ. Ngài cảm nhận mình không xứng đáng được Chúa chọn. Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình sẽ phải giới thiệu một Đấng Cứu Thế yêu thương hết mực khiêm tốn. Hình ảnh đó khó được dân chúng chấp nhận. Chính Ngài cũng chẳng hiểu nổi. Ngài cảm nhận mình không có khả năng giới thiệu Đấng Cứu Thế như vậy.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình được sai đến với một xã hội tội lỗi cứng lòng. Mà Ngài thì không có chức tước địa vị, không có tiền bạc, không có hậu thuẫn. Ngài cảm nhận mình không có cơ may dọn đường cho Chúa.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình phải nói nhân danh Đấng thiêng liêng vô hình. Mà Ngài chỉ như là tiếng kêu trong sa mạc. Ngài cảm nhận mình không có tài đức.
Sự khó nghèo, mà Gioan Baotixita cảm nghiệm về mình, thực là sâu thẳm. Ngài nhận mình bất xứng khó nghèo, thế mà lại được Chúa yêu thương. Nên Ngài cảm tạ Chúa với tất cả lòng khiêm tốn.
Tuy nhiên, Chúa cho Ngài biết chính vì Ngài nghèo khó, nên Chúa đã chọn Ngài. Chúa dạy Ngài hãy thi hành ơn gọi một cách đơn giản, như một người nghèo khó.
3. Thi hành ơn gọi một cách đơn giản là đi vào những gì căn bản một cách đơn sơ.
Thực vậy, thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc giới thiệu con đường phần rỗi linh hồn. Ngài giới thiệu bằng chính cuộc sống của Ngài. Một cuộc sống nhấn mạnh đến căn bản tu đức dựa trên Lời Chúa. Ngài sống cầu nguyện, nghèo khó, khổ hạnh, gần gũi với mọi người, vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đối với Ngài, dọn đường là bỏ tội lỗi. Ngài cho biết tội là làm sai luật Chúa, nhất là trong lãnh vực công bình bác ái đối với tha nhân. Phải bỏ đường tội bằng sám hối và sửa lại nếp sống. Nếu không, sẽ bị Chúa phạt. Hình phạt nặng nhất là mất linh hồn, phải sa hỏa ngục đời đời. Ngài nói về cơn thịnh nộ của Chúa (x. Lc 3,7). Ngài đưa ra hình ảnh cây xấu bị chặt đi và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Những gì Ngài nói về tội, thì rất căn bản và dễ hiểu. Đối với Thánh Gioan, biết sợ Chúa phạt là khởi đầu tốt cho việc bỏ đàng tội lỗi.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Ngài nhấn mạnh đến việc phải tin cậy vào Chúa Giêsu, để được cứu khỏi tội. Nói thế là rất căn bản và dễ hiểu.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong niềm tin. Ngài biết mình chẳng là gì, chẳng đáng gì. Ngài không bám vào điểm tựa nào nơi trần thế. Ngài chỉ cậy tin vào lòng Chúa xót thương mà thôi. Ngài vững tin vào sức mạnh ân sủng của Chúa. Vững tin như thế là rất đơn sơ mà cũng rất căn bản.
4. Tóm lại, đơn giản của Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.
Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
5. Hôm nay, sứ điệp cứu nguy phần rỗi đang được Chúa gởi vào tình hình Việt Nam bằng nhiều cách. Vấn đề cần đặt ra là người ta có đón nhận sứ điệp đó hay không? Địa chỉ, mà câu hỏi quan trọng về sứ điệp cần gởi tới, không phải là người ta chung chung, mà là mỗi người con Chúa, nhất là mỗi người có trách nhiệm dẫn dắt cộng đoàn.
Có thể nói như Thánh Gioan Tiền Hô và như Đức Mẹ ở Fatima là: Tai họa khủng khiếp cho phần rỗi sẽ đổ xuống, nếu không sám hối, nếu không trở về với Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót ban ơn cho chúng con biết đón nhận sứ điệp cứu nguy phần rỗi. Bởi vì phần rỗi của chúng con rất dễ bị lâm nguy. Cũng xin Chúa xót thương nâng đỡ những người được Chúa sai đi rao giảng sứ điệp cứu nguy phần rỗi tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì trách nhiệm của họ rất nặng nề rất khó khăn, rất khẩn cấp.
Có nhiều người cho rằng người ta sinh ra ở đời là “bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa: 24/6-63
Có nhiều người cho rằng người ta sinh ra ở đời là “bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo chúng ta thì không tin như vậy nhưng tin rằng, không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném ta vào đời, nhưng chính tình yêu của Chúa “gọi” ta vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả mà chúng ta mừng kính hôm nay là một thí dụ tiêu biểu và rõ ràng.
Thật vậy, qua tường thuật của Kinh thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được Isaia tuyên sấm: “Hỡi các đảo hãy nghe đây, hỡi các dân tộc hãy chú ý: Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, Người đã làm cho miệng tôi nên như lưỡi gươm sắc bén, đã làm cho tôi nên như mũi tên nhọn”. Trở nên gươm sắc, trở nên tên nhọn, không phải để bắn, để giết, nhưng là trở nên khí cụ tuyệt hảo của Thiên Chúa, để loan truyền ơn huệ cứu độ, để đem ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi dân tộc.
Chính vì sứ mệnh cao cả đó mà Thiên Chúa đã thêu dệt đời Gioan bằng những nét hết sức lạ lùng đến tưởng như là huyền thoại: Lạ lùng từ khi được cưu mang. Lạ lùng trong cách sống. Lạ lùng vì ngay từ trong dạ mẹ ông đã reo lên khi Chúa đến viếng thăm. Lạ lùng đến nỗi cha ông là Giacaria đã không tin rằng mình sẽ làm cha vào tuổi bóng đã ngả về chiều. Thế nhưng, sự thực đã đến, hai ông bà đã sinh hạ Gioan. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ thương, ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” vì đứa trẻ nầy không giống như những đứa trẻ khác, ở nơi bé có một cái gì lạ lùng: bé sẽ nên cao trọng, sẽ làm lớn, sẽ là người cải tạo xã hội, “Vì quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Và đúng như vậy, để hoàn thành lời tiên báo, Gioan đã chuẩn bị bằng một đời niên thiếu thật anh hùng: Gioan đã từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong hoang địa khô cằn để sống đời cầu nguyện, hy sinh khắc khổ để cho tinh thần được mạnh mẽ và khi thời giờ đã điểm, Gioan đã xuất hiện rao giảng nước Thiên Chúa, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Gioan đã hoàn thành sứ mệnh đó một cách khiêm tốn và thanh thoát, không tìm danh lợi địa vị, ông được người đời ca tụng nhưng ông đã từ khước tất cả danh vọng chỉ nhận mình là tiếng kêu nơi hoang địa, là người dọn đường: “Tôi không phải là Đấng Cứu thế, Đấng ấy đến sau và tôi không đáng cởi dây giày cho Người”. Gioan đã hoàn thành sứ mệnh làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách can đảm: ông không ngần ngại quở trách Biệt phái giả hình, ông không sợ thế lực tôn giáo, ông không sợ quyền lực của nhà vua: điều gì là thật thì ông nói, ông làm chứng; điều gì là sai quấy, ông bài trừ đả phá, dầu phải thiệt thòi, dầu phải hy sinh mạng sống và quả thực Gioan đã anh dũng chấp nhận cái chết mất đầu để bảo vệ giềng mối đạo đức cho tôn giáo và xã hội, khi can đảm đứng lên tố cáo hành vi loạn luân của vua Hêrôđê với người chị dâu là Hêrôđiađê.
Vì thế, mừng ngày sinh của thánh Gioan Tẩy giả hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về ngày tái sinh của mỗi người trong bí tích rửa tội. Nhờ Phép rửa, chúng ta trở nên ngôn sứ, người loan báo Tin mừng, và ngọn nến trao cho chúng ta trong ngày chịu bí tích rửa tội ấy biểu trưng cho ánh sáng chúng ta phải chiếu tỏa ra chung quanh, bởi thế dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu tỏa ánh sáng ấy. Thế nhưng, thi hành sứ mệnh ấy quả không phải là điều dễ dàng, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải biết quên mình từng ngày, từng phút. Để làm được việc này, chúng ta hãy noi gương thánh Gioan, hãy biết sống đời ẩn dật cầu nguyện, chay tịnh hy sinh, quên mình phục vụ. Nhất là biết thực hành câu châm ngôn sống của thánh Gioan: “ Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi”. Nhỏ đi trong ý riêng, trong dục vọng đam mê, trong ham muốn ganh tỵ, ham muốn bất chính, trong hận thù nhỏ nhen. Sống được như thế, chúng ta sẽ là ngọn đèn sáng như Gioan, có khả năng dẫn đưa những ai đang lần bước trong vũng tối đến được với nguồn sáng đích thực là Đức Kitô, là niềm vui cứu độ mà muôn người đang mong chờ. Nguyện xin Chúa nhận lời thánh Gioan cầu bầu, nâng đỡ giúp mỗi người chúng ta sống trọn vai trò làm đèn và làm người dọn đường cho Chúa giữa dòng đời hôm nay. Amen.
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" ( Lc 14, 11). I. Lời Chúa
II. Bài giảng
Các Thiếu Nhi thân mến!
Hôm nay chúng ta long trọng mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả. Trong ngày sinh nhật của thánh: 24/6-64
Hôm nay chúng ta long trọng mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả. Trong ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả chúng ta được nghe bài Tin Mừng kể lại việc thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra. Việc thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra là sự việc lạ lùng. Tại sao?
A.Vì cha mẹ của thánh Gioan Tẩy Giả sinh ra ngài khi đã lớn tuổi. B.Vì khi mẹ thánh Gioan Tẩy Giả mang thai ngài thì cha ngài bị câm. C.Vì khi ngài được sinh ra và sau khi ngài được đặt tên thì cha ngài nói được. D.Cả ba câu trên đều đúng.
Đúng rồi: cả ba câu trên đều đúng. Việc thánh Gioan Tẩy Giả sinh ra là sự việc lạ lùng vì cha mẹ của thánh Gioan Tẩy Giả đã lớn tuổi. Bình thường với tuổi đó, người ta không thể sanh nở được. Vậy mà bắng quyền năng của mình, Chúa đã cho ông bà có con. Đây là điều lạ lùng thứ nhất.
Thứ hai, khi mang thai thánh Gioan, cha của thánh Gioan bị câm. Bởi vì ông nghi ngờ Lời Chúa, nên Chúa để cho ông bị câm. Đây là sự lạ lùng thứ hai. Thứ ba, khi thánh Gioan được sinh ra, cha của ngài đặt tên cho ngài là Gioan. Tức thì cha của ngài nói được. Ông cất lên bài ca chúc tụng Chúa. Đây là sự lạ lùng thứ ba. Mọi người thấy sự việc thánh Gioan được sinh ra thật lạ lùng. Đúng là có bàn tay của Thiên Chúa ở với thánh Gioan. Thế là họ đoán rồi đây cậu bé này sẽ rất đặc biệt. Và mọi người đã đoán đúng. Thánh Gioan đã trở thành một con người đặc biệt: ngài rất giống Chúa Giêsu, ngài khiêm nhường và rất nhiệt tình trong việc giới thiệu Chúa cho người khác.
Thư nhất, thánh Gioan Tẩy Giả rất giống với Chúa Giêsu, cụ thể là ngài càng lớn càng mạnh mẽ. Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đã nói rất rõ về điều này: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen” (Lc 1, 80). Noi gương thánh Gioan, càng lớn chúng ta phải càng mạnh mẽ. Người mạnh mẽ là người thắng được thế lực của sự ác. Có một câu Lời Chúa nói về điều này Rm12, 21?
Đúng rồi: “Ðừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm12,21).
Khi chúng ta lấy thiện thắng ác, tốt thắng xấu, tình yêu thương thắng ích kỷ, trung thực thắng gian dối, siêng năng thắng lười biếng… chúng ta là người mạnh mẽ giống Chúa Giêsu, giống thánh Gioan.
Thứ hai, thánh Gioan Tẩy Giả rất khiêm nhường. Người ta thấy ngài làm phép rửa, họ hỏi ngài có phải là Đấng Kitô không, ngài trả lời: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16).
Ở đây chúng ta thấy thánh Gioan hạ mình- coi mình là người tôi tớ không đáng cởi quai dép cho Chúa. Noi gương ngài, chúng ta cũng phải hạ mình sống khiêm nhường, cụ thể là thấy ai thua kém, mình không coi thường. Ai hơn, mình không ghen tị. Bản thân mình phải luôn luôn thấy mình phải chưa hoàn hảo. Đó là hạ mình xuống. Có một câu Lời Chúa nói về điều này Lc 13, 24?
Đúng rồi: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11).
Thứ ba, chúng ta phải nhiệt tình giới thiệu Chúa cho người khác như thánh Gioan giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu Chúa cho mọi người hiệu quả nhất là kể lại cho mọi người nghe những gì Chúa làm cho mình. Có một câu Lời Chúa nói về điều này Lc8, 39?
Đúng rồi: "Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh". Anh ta ra đi, rao truyền cho cả thành biết mọi điều Ðức Giêsu đã làm cho anh” (Lc8, 39). Đây là Lời Chúa nói với anh chàng được Chúa trừ quỉ. Anh xin theo Chúa nhưng Chúa bảo anh là hãy vế kể lại việc Chúa làm cho. Giờ đây, Chúa cũng bảo mỗi người chúng ta hãy kể lại những việc Chúa làm cho mình. Mình xin Chúa cho thi đậu, Chúa cho thi đậu. Xin Chúa cho gia đình bình an, Chúa cho bình an. Xin Chúa giúp mình sửa được tính hư nết nết xấu, Chúa ban cho mình như lòng mong ước. Đó là mình đang giới thiệu Chúa cho mọi người theo gương thánh Gioan.
Xin Chúa cho tất cả thiếu nhi chúng ta noi gương thánh Gioan biết giới thiệu Chúa cho mọi người, khiêm nhường và mạnh mẽ trong việc diệt trừ tính hư nết xấu. Chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa chúc lành và cho hưởng hạnh phúc bên Chúa. III. Thuộc lòng Lời Chúa. “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11). IV. Cầu nguyện. Lạy Chúa Giêsu. Chúa mời gọi con nên giống Chúa. Thánh Gioan mà Giáo Hội mừng kính hôm nay có lối sống rất giống Chúa, cụ thể là ngài rất khiêm tốn. Xin cho con biét khiêm tốn như ngài, sẵn sàng xóa mình đi để Chúa nổi bật lên để qua con mà mọi người nhận biết Chúa.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: 24/6-65
A. Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ.” (Mt 11,11)
Vâng! Một con người đã được sinh ra trên trần thế.
Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ, trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ… đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Bỗng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ.” Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa Kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà già nua son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành thời của loan truyền ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày được tái sinh của mỗi người chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, Kitô hữu chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài tóm góm trong khẩu hiệu:
“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.” (Ga 3,30)
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều... Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là không ngừng khước từ, từ bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với Kitô hữu chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người
Sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả là loan báo Đức Ki-tô và dọn đường cho Ngài, chính vì thế mà: 24/6-66
Sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả là loan báo Đức Ki-tô và dọn đường cho Ngài, chính vì thế mà sau này, thánh Gioan nói với các môn đệ của mình: « Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi » (Ga 3, 30). Điều lạ lùng là, lòng ước ao này đã được thực hiện ngay từ lúc thánh Gioan được cưu mang và được sinh ra rồi. Thật vậy, trình thuật sinh ra của thánh Gioan, theo TM Luca, chính là để làm nổi bật lên sự sinh ra của Đức Giê-su.
Tất cả chúng ta đều biết, Gioan là ơn huệ TC ban, khởi đi từ cung lòng hiếm muộn và già cỗi của mẹ Elizabeth, như chính bố Zacharia thú nhận: « Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng cao niên » (Lc 1, 18) ; và chính sứ thần Gabriel loan báo cho Mẹ Maria: « Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng » (c. 36).
Đó là một tuyện tác của TC, nhưng với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của TC, bởi vì lúc khởi đầu, TC cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với TC, không có gì là không thể làm được. Chúng ta sống « trinh nguyên », chính là để cho TC làm phát sinh sự sống thần linh, bền vững và phong phú, bằng quyền năng sáng tạo của Ngài.
Ngoài ra, tên gọi « Gioan » nghĩa là « Thiên Chúa Thi Ân » ; trong khi tên gọi « Giê-su » nghĩa là « Thiên Chúa Cứu Độ », là Ơn Huệ của mọi ơn huệ, là Ơn Huệ mà mọi ân huệ khác hướng tới và chì là dấu chỉ, và là Ơn Huệ một lần cho tất cả. Như thế, thánh Gioan không chỉ loan báo Đức Giê-su bằng cuộc đời và cái chết của mình, nhưng còn bằng chính biến cố sinh ra và tên gọi nữa. Xin cho chúng ta cũng hướng về Đức Ki-tô như thánh Gioan, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, ngang tất cả những gì chúng ta là, được chất chứa trong tên gọi của chúng ta ; và xin cho Ngài nổi bật lên trong cuộc đời, ơn gọi và từng ngày sống của chúng ta.
Về chuyện ông Zacharia, cha của thánh Gioan, bị câm, nhưng ngay sau khi đặt tên cho con là « Gioan », thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Bởi vì, sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng TC có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth. « Không nói được », không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được.
Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, « TC Thi Ân », thì ông « lưỡi ông lại mở ra, ông nói được » và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng TC:
Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của bố Zacharia. Xin cho chúng ta tin tường và nhận ra ơn huệ TC ban, để có thể cất tiếng ngợi khen TC: « Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài ». Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là « người câm » vậy thôi !
Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng TC. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ TC ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Thánh Gioan là “dấu cộng” của Cựu ước và Tân ước, được gọi là Tiền hô (người dọn đường cho Chúa: 24/6-67
Thánh Gioan là “dấu cộng” của Cựu ước và Tân ước, được gọi là Tiền hô (người dọn đường cho Chúa Giêsu), là Tẩy giả (người làm phép rửa cho Chúa Giêsu), và là người rất… “bụi đời” – vì ông “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3,4). Thế nhưng “kẻ bụi đời” đó lại được mệnh danh là “ngôn sứ của Đấng tối cao” [Lc 1,76 – Thánh ca Chúc Tụng (Benedictus)] và “nên cao cả trước mặt Chúa” (Lc 1,15). Tuy vậy, ông Gioan vẫn khiêm hạ, nhận mình là người “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Lc 3,16).
Cuộc đời Thánh Gioan Tẩy giả có nhiều “điểm lạ”. Mẹ ông mang tiếng là son sẻ (ngày nay gọi là “vô sinh”), nhưng Thiên Chúa đã thương nhậm lời cầu xin và cho bà mang thai khi bà đã luống tuổi. Còn cha ông, vì không tin vợ mình mang thai nên bị câm cho đến khi bé Gioan chào đời và chịu phép cắt bì. Khi đó, mọi người cũng thấy lạ nên để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” (Lc 1,66).
Và rồi đứa trẻ ấy “càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc 1,80). Thánh Gioan Tẩy giả còn khiêm nhường hơn khi ông nói về Đức Giêsu: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30).
Bác Gioan nhà ta thật lạ. Gọi là “bác” cho thân thiện, đúng cấp bậc dòng họ, và cũng hợp với ngôn ngữ Việt Nam, vì ông là anh họ của Thầy Giêsu.
Cái gì cũng có nguyên nhân và hệ quả. Công minh và công bằng rạch ròi: Trời sinh một bậc kỳ tài là để dùng vào một sứ mệnh nào đó, nhưng trước khi trao sứ mệnh đó, trời bắt người đó phải trải qua trăm cay ngàn đắng.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng không ngoài quy luật đó. Cuối cùng, ông còn phải chết nhục nhã bằng cách bị chém đầu vì một vũ nữ lăng loàn trắc nết (x. Mt 14,3-11; Mc 6,17-19), chứ không được chết hiên ngang ngoài pháp trường như những vị tử đạo khác. Mà cũng tại ông vua nhu nhược Hêrôđê, vì mê gái, đã lỡ hứa cho cô gái đó bất cứ thứ gì, dù là nửa quốc gia. Khiếp thật! Thế nhưng cô ta không cần nửa đất nước mà chỉ khoái cái thủ cấp của Bác Gioan thôi.
Tuy nhiên, ông Gioan Tẩy giả vẫn được Đức Kitô đề cao: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11).
Lễ trọng mừng kính Gioan Tẩy giả, Giáo Hội đưa ra hình ảnh Thánh Gióp, một người chịu nhiều đau khổ và mất mát đến tột cùng. Giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38,8-10). Rồi Ngài cho ông biết: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38,11). Tự do cũng phải có giới hạn ngay trong sự tự do.
Tiếng sóng vỗ ngàn năm vẫn thế, chỉ mạnh và nhẹ khác nhau. Tiếng sóng có lúc da diết, có lúc êm đềm, có lúc lãng mạn, có lúc sôi nổi, và có lúc lại thét gào dữ dội. Khi biển lặng, sóng vỗ rì rào êm đềm thật thú vị; nhưng khi biển giận dữ, không ai biết sóng thần nổi lên lúc nào, có chạy cũng không kịp!
Thánh vịnh 107 nói: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Ngài thực hiện giữa dòng nước lũ” (Tv 107,23-24). Thiên Chúa không là người thích đùa dai, con người quá quắt nên Ngài mới ra tay uy lực, không phải để triệt hạ mà để tỉnh thức lương tâm con người: “Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn” (Tv 107,25). Lúc đó, “họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc” (Tv 107,26). Khủng khiếp quá, chịu gì nổi!
Nhưng “khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Ngài đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng” (Tv 107,28-29). Thiên Chúa “hay quên” lắm, thế nên Ngài không hề nhớ tới lỗi lầm người ta xúc phạm tới mình trước đó. Thật may cho chúng ta! Thấy vậy, “họ vui sướng, vì trời yên bể lặng, và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ” (Tv 107,30). Tuy nhiên, như người Việt có câu: “Bình thường chẳng nhớ đến tai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Có ai bị nóng tay mà không sờ vô trái tai? Con người là thế. Chúng ta là vậy. Bạc bẽo vô cùng. Thế nên tác giả thánh vịnh thốt lên: “Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107,31).
Sau khi ngã ngựa và được Chúa thức tỉnh, Thánh Phaolô phải nói ra: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14a). Ông giải thích: “Nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5,14b-15). Đó mới là cách sống ý nghĩa. Ý nghĩa vì không còn ích kỷ, không còn sống cho riêng mình nữa. Ông nói thêm: “Từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Ngài như vậy nữa” (2 Cr 5,16). Tại sao? Thánh Phaolô giải thích: “Ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5,17).
Thật vậy, tất cả chúng ta đều trở nên thụ tạo mới trong Đức Giêsu Kitô, vì chúng ta được tắm gội trong chính Máu và Nước tuôn trào ra từ Thánh Tâm Ngài, tức là chúng ta được hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Ngài. Biển tình của Chúa luôn vỗ sóng, chúng ta phải lắng nghe tiếng-sóng-mời-gọi-tha-thiết ấy để có thể mau mắn đáp lại. Chúng ta hãy noi gương Thánh Gioan Tẩy giả luôn lắng nghe và hành động theo Ý Chúa, luôn khiêm nhường và đề cao Chúa một cách tuyệt đối.
Thánh sử Mác-cô kể rằng, chiều hôm ấy, Đức Giêsu bảo các môn đệ cùng sang bên kia sông. Các ông chở Ngài đi, vì Ngài đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Ngài. Nhưng bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các ông thấy Sư phụ tỉnh rụi như không có chuyện gì, thế nên các ông vội đánh thức Ngài dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4,38).
Đức Giêsu thức dậy, vẫn điềm tĩnh. Nếu là chúng ta, chắc hẳn chúng ta bực mình và càu nhàu dữ lắm. Nhưng Ngài không nói gì, không hề trách các đệ tử. Rồi Ngài ngăm đe gió, và truyền cho biển:“Im đi! Câm đi!” (Mc 4,39). Lạ thay, gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Ngài bảo các ông:“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4,40). Ngài hỏi nhẹ nhàng mà các ông đau điếng. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4,41).
Con người yếu đuối và kém đức tin thế đó. Không thể nói “ngon”. Các môn đệ tận mắt chứng kiến Sư phụ làm nhiều phép lạ mà vẫn chưa đủ lòng tin, thậm chí còn hoang mang ngay khi ở bên Thầy mình. Thật vậy, “nói trước thì bước không qua”. Chúng ta cũng vậy, e rằng còn tệ hơn nữa kìa!
Xin Thánh Gioan Tẩy giả cầu thay nguyện giúp chúng ta biết dành cho Chúa vị trí ưu tiên số một.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con (Lc 17,5), xin dạy chúng con biết lắng nghe Tiếng-Sóng-Chúa và xin làm sóng lòng chúng con yên lặng dù biển đời vẫn động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Tôi đang vui sướng nhìn thấy hình ảnh sống động của thánh Gioan Tiền Hô nơi hai Đức Giáo Hoàng: 24/6-68
Tôi đang vui sướng nhìn thấy hình ảnh sống động của thánh Gioan Tiền Hô nơi hai Đức Giáo Hoàng hiện nay sống ở Vatican.
Đặc điểm của thánh Gioan Tiền Hô là dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đặc điểm ấy đang hiện lên rực sáng nơi Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thánh Cha Bênêđictô. Mỗi đấng dọn đường cho Chúa một cách riêng biệt.
2. Đức Phanxicô dọn đường cho Chúa bằng những việc cải cách. Cải cách lối sống, cải cách giáo triều, cải cách hàng giám mục. Cải cách của Ngài phải nói là rất rõ và rất mạnh. Ở đây, chỉ xin trích một ít dòng Ngài đã nói với Hội Đồng Giám Mục Ý khoá 65 năm ngoái: “Sống với Chúa là thước đo sự phục vụ Giáo Hội của chúng ta, nó diễn tả lòng sẵn sàng để vâng phục, để hạ mình và để tận hiến”... Chúng ta phải là dấu chỉ sự hiện diện của hành động Chúa phục sinh... Vì thế phải có một sự tỉnh thức thiêng liêng, thiếu nó, thì chủ chiên, trước hết là giám mục sẽ nguội lạnh, vô tâm, quên lãng và trở thành vô cảm, bị lôi cuốn theo viễn tượng chức quyền, tiền bạc và thoả hiệp với tinh thần thế tục. Những cái đó làm họ trở nên lười biếng, thành một thứ công chức, một nha lại của nhà nước, chỉ biết lo cho bản thân, cho tổ chức và các cơ cấu, thay vì lo cho lợi ích đích thực của dân Chúa... Xin cho Giáo Hội trở thành một Giáo Hội cầu nguyện và sám hối”.
Cải cách của Đức Phanxicô hiện đang tiếp diễn mạnh mẽ ở nhiều lãnh vực của Giáo Hội, Ngài đáng gọi là một Gioan Tiền Hô thế kỷ XXI.
3. Còn Đức Bênêđictô thì đang dọn đường cho Chúa bằng đời sống khiêm nhường, cầu nguyện và từ bỏ. Nhìn sự từ nhiệm của Ngài và đời sống cầu nguyện hiện nay của Ngài, tôi như được đọc lại lời thánh Phaolô xưa: “Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang trong mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự chết của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,7-11).
4. Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa, vì sự từ nhiệm của Đức Bênêđictô và đời sống ẩn dật hiện nay của Ngài đang đánh động lương tâm tôi rất nhiều. Từ đó, tôi nghĩ rằng: đánh động được lương tâm cũng là một cách dọn đường cho Chúa.
Tôi rất sợ một điều là lương tâm trở nên chai đá. Nhiều người cũng chia sẻ với tôi về nguy cơ “xơ cứng” của lương tâm đang có chiều hướng phát triển tại Việt Nam hiện nay. Vì thế, nhìn Đức Bênêđictô âm thầm cầu nguyện trong sự từ bỏ thẳm sâu, mà thấy lòng mình trở về nội tâm hơn, tôi cho Ngài chính là Đấng đang dọn đường cho Chúa một cách hữu hiệu.
5. Hai Đức Thánh Cha truyền sang tôi lửa mến Chúa là lửa xưa đã đốt lòng thánh Gioan Tiền Hô.
Để lửa này sẽ tồn tại và phát triển trong tôi, để dọn đường cho Chúa, tôi phải làm gì? Tôi xin Chúa Thánh Thần soi sáng và dẫn dắt tôi. Chúa Thánh Thần cho tôi biết là luôn luôn tôi nên coi mọi sự tôi có và làm mới chỉ là bước đầu. Tôi phải cầu nguyện và chiêm ngắm nhiều trước Chúa Giêsu, để Người trở thành thân mật với tôi, và tôi trở thành gần gũi với Người.
6. Thêm vào đó, tôi phải gặp Chúa Giêsu nơi những người khác, nhất là nơi những kẻ nghèo khó, bệnh tật, cô đơn. Những liên hệ trực tiếp với những người xung quanh, khi có Chúa trong tâm tình chân thành, cũng nảy sinh được nhiều sinh lực thiêng liêng, có sức dọn đường cho Chúa.
7. Nói gì thì nói, tôi phải khiêm tốn thú nhận rằng: Tôi được như hôm nay cũng là nhờ rất nhiều yếu tố giúp tôi sửa mình để đón Chúa. Những yếu tố đó thuộc nhiều loại, như cộng đoàn, các bí tích, những con người, những biến cố... Tôi xin hết lòng cảm tạ Chúa.
8. Nhưng với tư cách là giám mục, tôi nhận thức mình có bổn phận phải đề cao gương của các Đức Giáo Hoàng, những vị đã và đang sửa đường cho Chúa bằng nhiều cách. Tôi có cảm tưởng là hai Đức Giáo Hoàng hiện nay luôn rất cần cho Hội Thánh, và cũng sẽ rất cần cho nhau. Bởi vì tương lai sẽ có những thử thách lớn. 9. Lạy thánh Gioan Baotixita, xưa Ngài đã sửa đường cho Chúa, không phải chỉ bằng những lời giảng, mà còn bằng tất cả đời sống cầu nguyện, chiêm niệm, hãm mình, với biết bao nhọc nhằn đau khổ. Nay, cũng có nhiều người đang bước theo Ngài mà sửa đường cho Chúa trong những hoàn cảnh rất khó khăn. Xin Ngài thương cầu nguyện cách riêng cho họ. Long Xuyên, ngày 13.6.2014.
Ngày con sinh ra thời gian không tính bằng năm tháng, nhưng bằng những gì mà con đã làm được: 24/6-69
Ngày con sinh ra thời gian không tính bằng năm tháng, nhưng bằng những gì mà con đã làm được.
Ngày con sinh ra, mình trần thân trụi, so với bầu trời bao la, con không là chi, so với núi cao biển rộng, con đáng là gì. Nhưng từng hồng ân Chúa âm thầm rơi xuống trên con, rồi ngày qua ngày, tháng tiếp tháng, năm nối năm, vạn hồng ân ấy đã ghép nên cuộc đời. Con được muôn bàn tay yêu thương, chăm sóc, được bao người thân ấp ủ quí mến, lo cho con sống, dạy cho con khôn, gửi vào con nhiều ước mơ, cầu mong con nên người tài đức. Với thời gian, thể xác con lớn lên, trí óc con phát triển. Vòng xoay vòng, con lại có ngày kỷ niệm mừng sinh nhật trên đời.
Nhưng, ngày sinh của con có gì đáng vui!!!
Khi con đã nhận muôn vàn ơn Chúa, đã nhận biết bao điều của Giáo Hội và xã hội trao ban dưới mọi hình thức, để cuối cùng con chẳng làm được điều gì cho Chúa, cho đời! Con mắc nợ Chúa, mắc nợ mọi người, dù món nợ không ai đòi hỏi ở con, nhưng con đã không biết trả, lại còn không biết sống nên người
Ngày sinh của con có gì đáng nhớ!!!
Khi con không có lấy một ước mơ cao đẹp, không một ý nghĩ về tương lai, không có một lý tưởng để sống, và cuối cùng con bước ra cuộc đời này cũng rỗng tuếch như khi con bước vào trần gian, không có gì dâng Chúa
Ngày sinh của con có gì đáng mừng!!!
Khi con thừa biết đời người có là bao, mà vinh quang thật ngắn ngủi và thập giá cứ lê dài, thế nhưng con không can đảm biến thập giá thành vinh quang, biến tiếng khóc của con khi chào đời thành tiếng khóc của người khi con nằm xuống.
Ngày sinh của con có gì đáng nói!!!
Khi con chỉ ngồi chờ điều dễ, thoái lui điều khó, thích gặp người giàu, quyền thế, xa lánh kẻ nghèo, vô danh. Thích đời phục vụ hơn phục vụ đời. Thích ghi sổ vàng, khắc bia bạc hơn âm thầm chia sẻ, cho không.
Nếu con chỉ thích là kẻ sống nhanh, sống dễ, thì ngày con sinh cũng là ngày con chết.
Lạy Chúa! Xin cho con sống trọn vẹn 24 giờ trong một ngày. Xin cho con sống can trường 30 ngày trong một tháng. Xin cho con sống thật người 12 tháng trong một năm.
Để kỷ niệm ngày sinh của con là ngày đáng vui, đáng nhớ, đáng mừng và đáng nói. Bồ Câu Trắng (Lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả)
Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Đây là một lễ rất lâu đời xét: 24/6-70
Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Đây là một lễ rất lâu đời xét về mặt thời gian. Nếu như câu hỏi mà những người đương thời để bụng suy nghĩ "con trẻ này rồi sẽ nên thế nào?" Thì ngày nay người ta vẫn không ngừng đặt ra những câu hỏi, chẳng hạn như: Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể như thế?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6?
Lý do lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends (ngày mùng 1), ides (ngày 15) và nones (ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh hạ của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Isave chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói: "Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong dạ mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ sinh nhật của ngài."
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn sứ Isaia và Thánh vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: "Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người" (Is 49, 1-3). Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con... Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu" (Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Lời mời gọi bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ khi còn trong lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta: "Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy " (Tv 138, 16).
Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: "Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người" (Lc 1, 76).
Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa.
Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ chối hay lười biếng nhận lãnh bí tích, đi nghịch lại với lương tâm của mình, gây lâm nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường, khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu thuộc về một bản tính khác.
Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: "Isave vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời" (Lc 1, 13-14). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ XXI, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ này. Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Isave và ông Giacaria, đang chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thánh Gioan Baotixita là ai ? Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về ngài. 24/6-71
Thánh Gioan Baotixita là ai ?
Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về ngài. Phúc âm thánh Luca viết: “Khi những người ông Gioan sai đến đã ra về, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em đi xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? Hẳn là không ! Thế thì anh em đi xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Những kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung điện. Thế thì anh em đi xem gì ?
“Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó.
“Mà tôi nói cho anh em biết: Đây còn hơn ngôn sứ nữa ! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng:
“Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Lc 7,24-27). Theo lời Chúa Giêsu phán trên đây, thì thánh Gioan là vị ngôn sứ, được Chúa sai đi dọn đường cho Đấng Cứu thế. Với những tước vị đó và với những trọng trách đó, thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có một không hai trong Phúc âm. Lịch sử của ngài cũng minh chứng như vậy.
Tuy sao, con đường thiêng liêng ngài đã đi không thuộc riêng cho ngài. Nhưng nó là một kho tàng chung. Mỗi người có thể học được nơi ngài một bài học mà mình thấy cần.
Riêng đối với tôi, bài học mà ngài dạy tôi kỹ nhất để nên đạo đức, đó là biết dùng con đường thời gian của mình.
Con đường thời gian của thánh Gioan Baotixita chia thành ba giai đoạn: - Giai đoạn thứ nhất là thời gian ngài được Chúa đào tạo và tự đào tạo. - Giai đoạn thứ hai là thời gian ngài thi hành nhiệm vụ rao giảng. - Giai đoạn thứ ba là thời gian ngài hy sinh hiến tế, kết quả của giai đoạn rao giảng.
Thánh Gioan Baotixita đã biết dùng thời gian một cách khôn ngoan trong từng giai đoạn cuộc đời của ngài.
1/ Giai đoạn thứ nhất là thời gian đào tạo
Thánh Gioan Baotixita đã biết dùng thời gian để cho Chúa đào tạo và tự đào tạo mình. Đào tạo bằng lối sống khổ chế, chiêm niệm và vui hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên trong sa mạc yên tĩnh.
Lối sống đó lấp kín thời gian. Qua lối sống ấy, ngài lắng nghe ý Chúa. Tâm hồn ngài được Chúa kéo về hướng chân thiện mỹ. Qua nhiều ngày, lối sống đó trở thành thói quen.
Trong sa mạc, ngài đón nhận được các ơn của Chúa, nhưng rất có thể ngài cũng gặp các chước ma quỷ cám dỗ. Đây là dịp ngài thu lượm kinh nghiệm về những đấu tranh giữa thiện và ác. Muốn cho mình luôn thuộc về sức mạnh sự thiện và thắng vượt được thế lực sự ác, ngài phải tỉnh thức, cầu nguyện, cậy nhờ ơn Chúa. Mỗi thành công là một kinh nghiệm về sự phải từ bỏ tội lỗi, để trở về với Chúa. Thời gian đào tạo mình cho ngài thấy: Đào tạo là việc lâu dài. Không sách vở nào thay thế được kinh nghiệm bản thân. Không trường sở nào thay thế được thời gian tập luyện.
2/ Giai đoạn thứ hai là thời gian thi hành nhiệm vụ rao giảng
Trong giai đoạn này, thánh Gioan Baotixita đã rất tận dụng thời giờ cho nhiệm vụ của mình. Đề tài rao giảng đầu tiên được nêu lên rất rõ. Đó là sám hối, đền tội.
Về việc sám hối, ngài đòi hỏi phải chịu phép rửa và đền tội bằng những việc bác ái, chia sẻ công bằng. Ngài nói: “Ai có hai áo, thì hãy chia cho người khác. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11)… Với những người thu thuế, ngài bảo: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình” (Lc 3,13).
Tiếp liền với việc sám hối, thánh Gioan Baotixita chuyển sang đề tài đợi chờ Đấng Cứu thế. Đợi chờ bằng thái độ khiêm tốn hạ mình, và tôn vinh Đấng Cứu thế: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Lc 3,16).
Khi vừa thấy Chúa Giêsu đến từ đàng xa, Gioan Baotixita liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Ngài quả quyết như vậy, không phải bằng trực giác, mà bằng chứng cớ rõ ràng: Tai ngài đã nghe lời trên trời báo, và mắt ngài đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Kitô (x. Ga 1,31-34).
Ngài rao giảng với tư cách người làm chứng.
Ngài rao giảng với lửa thiêng từ nội tâm phát ra. Ngài làm chứng bằng chính đời sống đạo đức khác thường của ngài. Có thể nói: Lời giảng của ngài đã được chuẩn bị từ nhiều năm tháng kết hợp với Chúa.
3/ Giai đoạn thứ ba là thời gian hy sinh hiến tế, kết quả của việc rao giảng
Trong thời gian này, Gioan Baotixita nếm niềm vui do thành công và nỗi buồn khổ do thất bại. Phúc âm thánh Luca viết: “Nghe Gioan giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng công chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông” (Lc 7,29-30).
Bị giới đạo đức và thông luật trong đạo khước từ, Gioan Baotixita cảm thấy đau xót.
Cơn đau đớn càng tăng thêm, khi Gioan Baotixita bị vua Hêrôđê bắt bỏ tù. Cảnh đó xảy ra bất ngờ. Gioan Baotixita đón nhận với lòng phó thác. Thời gian này, Gioan Baotixita sống đời hiến tế. Sau cùng, ngài hy sinh mạng sống trong đớn đau xác hồn.
Trong suốt giai đoạn bị thử thách này, Gioan Baotixita dùng thời gian một cách khác. Đó là hết lòng tin cậy vào Chúa, hết lòng quảng đại chịu đau khổ vì Chúa.
Những suy nghĩ trên đây đưa tôi kết luận này: Thời giờ là vàng. Chúa đã trao cho thánh Gioan Baotixita một số vàng thời gian. Ngài đã dùng số vàng đó để sinh lời lãi. Lời lãi rất lớn, lời lãi rất quý, lời lãi rất nhiều cho Nước Trời.
Mỗi người chúng ta cũng đã nhận được thứ vàng quý là thời gian. Kẻ nhiều người ít. Chúa đợi chúng ta nộp cho Người số lời lãi phải có. Chúng ta đã sinh lời lãi thế nào ? Điều đó tùy ở sự chúng ta biết dùng thời gian của mình một cách thông minh, theo đúng định hướng hợp ý Chúa.
Thiết tưởng đây là gợi ý tốt, để chúng ta mừng lễ thánh Gioan Baotixita.
Hôm nay chúng ta kính sinh nhật thánh Gioan Baotixita, con của bà Elizabeth và tiên tri Zacharia, 24/6-72
Hôm nay chúng ta kính sinh nhật thánh Gioan Baotixita, con của bà Elizabeth và tiên tri Zacharia, đấng tiền hô, đấng đã làm phép rửa cho Chúa Kitô, đấng tử đạo đầu tiên khi Tin Mừng được rao giảng. Thánh Gioan Baotixita có hai ngày lễ kính trong lịch phụng vụ, ngày 24 tháng 6 là ngày sinh nhật và ngày 29 tháng 8 là ngày tử đạo.
Nhiệm vụ của thánh Gioan là sửa soạn loan báo Đấng Cứu Độ đến với nhân loại. Trên bờ sông Jordan, Gioan đã hoàn thành công việc loan báo cho các môn đệ của mình và cho toàn thể dân chúng Israel: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”
Cũng như các tiên tri trong Cựu Ước thời bị lưu đày, dân chúng gọi Gioan là tiên tri Isaia thứ hai, nhưng Gioan chỉ nói về mình là: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc, hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi..”
Gioan Baotixita là “ngọn đuốc được đốt lên cháy rực sáng” làm tan đi bóng đêm tối tăm, loan báo rạng đông, một Mặt Trời đang ló dạng, Đấng Cứu Độ nhân loại đã đến.
Thánh Gioan rút lui sống đời cầu nguyện trong sa mạc rất sớm, vùng sa mạc Judea bên bờ biển chết chờ ngày ra đi rao giảng kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối tội lỗi để đón nhận Đấng Cứu Độ.
Được Thánh Thần soi sáng Gioan làm chứng tá một cách rỏ ràng và hùng hồn Đấng Thiên Sai. Gioan đã là người làm chứng về Chúa Kitô, là đấng tử đạo đầu tiên. Chính trong tù Gioan đã chịu chết cùng một lý do như Chúa Giêsu truyền dạy: “Gioan khát khao sự công chính và yêu thương được lan tràn trong nhân loại.”
Ngày nay ở Âu châu còn tập tục “Đốt lửa Thánh Gioan”, đây là một tập tục của người ngoại giáo còn sót lại. Họ đốt lửa chào mừng mùa hè nắng ấm sau những ngày đông giá lạnh. Ngọn lửa của Thánh Gioan Baotixita là ngọn lửa bừng sáng và hy vọng. Khi nói vế Gioan Baotixita Chúa Giêsu đã hết lời ca ngợi: “ Gioan là một Elia mới!”.Gioan cháy hừng sáng như một ngọn đuốc, thiêu đốt tâm can tất cả mọi người thiên hạ!
—– Theo giáo lý kytô giáo dạy rằng: mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa an bài cho con người sinh ra trong cuộc đời và đặt định cho con người một sứ mạng để hoàn thành mà ta thường gọi là “ơn gọi”. Ngài không áp đặt con người theo một phận số đã định nhưng để cho con người hoàn thành sứ mạng trong tự do và đầy đủ trách nhiệm.
Hôm nay ngày sinh nhật thánh Joan Baotixita, vị tiền hô của Đấng cứu tinh nhân loại. Có thể nói sứ mạng và cuộc đời của Ngài là nét tiêu biểu cho cuộc đời của mỗi người chúng ta. Thánh JB được sinh ra là do sự can thiệp đầy yêu thương của Thiên Chúa. Bà Elizabet đã mang thai trong lúc tuổi già. Ông Giacaria vì muốn một dấu lạ để ông tin vào chuyện đó nên sứ thần đã để ông bị câm cho tới khi JB chào đời. Ơn gọi làm người của thánh nhân là trở thành ngôn sứ đi trước để mở đường cho Đấng cứu tinh. Điều đáng nói là về phần thánh nhân, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó, JB đã sống trọn vẹn cho sứ mạng đó, dù rằng phải trải qua tù đầy và cái chết đẫm máu.
Ngay khi nhận biết sứ mạng của mình là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, JB đã rút lui vào trong hoang địa, sống khắc khổ, xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian để sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Ông dọn đường cho Đấng cứu thế, bằng việc mời gọi mọi người sám hối ăn năn vì thời gian đã hết, Nước Thiên Chúa đã gần. Khi xong phận vụ của mình là kẻ dọn đường để “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi”, JB đã rút lui vào trong bóng tối. Cuối đời, JB cũng lãnh nhận phúc tử đạo như bao phận số đã định cho cuộc đời của các tiên tri.
Mỗi người chúng ta sinh ra trong cuộc đời cũng có một sứ mạng để hoàn thành theo ý định của Thiên Chúa. Cách chung, sứ mạng đó nằm trong ơn gọi làm người của mình. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, có khả năng hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa. Con người phải sống theo lương tâm ngay thẳng để sống đúng phẩm giá làm người và hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn. Ngoài ra Thiên Chúa cũng để cho mỗi người một hoàn cảnh, một địa vị, một khả năng như phương thế để con người sống đúng ơn gọi làm người của mình. Như vậy, giá trị của đời người không hệ tại ở địa vị, hoàn cảnh, hay khả năng mà hệ tại ở việc con người biết nỗ lực hoàn thiện cuộc đời mình cho xứng với phẩm giá làm người.
Chính điều đó đã giúp cho thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người biết quý trọng nhân cách, quý trọng tình người hơn là những danh lợi thú trần gian. Dù rằng, sống giữa một trào lưu hưởng thụ, nhiều người đã can đảm từ khước những đam mê thấp hèn để sống cao thượng theo phẩm giá làm người. Dù rằng, sống giữa một xã hội đầy ích kỷ, luôn đề cao cá nhân, nhiều người vẫn âm thầm lặng lẽ sống hết mình phục vụ tha nhân.
Vâng thế giới hôm nay vẫn còn đẹp, vì vẫn còn đó những tấm lòng biết sống cho tha nhân, biết vì lợi ích của tha nhân mà quên đi những niềm vui bất chính. Thế giới hôm nay vẫn còn đẹp, vì vẫn còn đó những con người không vì tiền mà bán rẻ lương tâm, không vì quyền mà sống luồn cúi, thấp hèn, không vì những ham muốn xác thịt mà bôi nhọ thanh danh. Thế giới hôm nay, vẫn còn đẹp, vì vẫn còn đó những con người biết hoàn thiện mình theo chân thiện mỹ mà Thiên Chúa đã an bài.
Đó cũng chính là sứ mạng tối hậu và khẩn cấp mà Chúa đang chờ đợi chúng ta hoàn thành trong thời đại hôm nay. Là người kytô hữu, chúng ta không thể sống thiếu trách nhiệm về cuộc sống của mình và của tha nhân. Chúng ta không thể vì những danh lợi thú trần gian để đánh mất phẩm giá và lương tri của một con người. Chúng ta càng không thể để cho những khuynh hướng xấu làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá con người “giống hình ảnh Thiên Chúa” nơi chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng phải là những chứng nhân về chân thiện mỹ, về nét đẹp cao quý của con người, và nhất là về ơn gọi của người kytô hữu là phải quy hướng về Thiên Chúa, sống cho Thiên Chúa và vì Thiên Chúa. Chúng ta phải hô to cho cả thế giới này thấy rằng: ngoài đời sống vật chất con người còn có sự sống thần linh, sự sống tương giao với Thiên Chúa. Con người phải tôn thờ và sống theo lề luật mà Thiên Chúa đã an bài. Sống theo ý định của Thiên Chúa, con người mới tìm được hạnh phúc và an bình đích thực trong cuộc sống hôm nay và đạt được cứu cánh hạnh phúc đời sau
Trong Phúc Âm thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã khen “Trong những kẻ sinh bởi người nữ không một24/6-73
Trong Phúc Âm thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã khen “Trong những kẻ sinh bởi người nữ không một người nào lớn hơn Gioan Baotixita”. Qủa thật, Gioan Baotixita là vị thánh cao trọng với nhiều nét khác thường.
Gioan Baotixita được thụ thai bởi sự can thiệp của Thiên Chúa. Ông Zacarya và bà Êlisabet đều đã cao tuổi.Theo lẽ thường ông bà không thể có con ở độ tuổi đó nhưng Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel đã cho Zacarya biết ông bà được Thiên Chúa giáng phúc cho bà Êlizabet mang thai ở tuổi gìa.
Tên Gioan cũng được chính Thiên sứ đặt cho khi nói với ông Zacarya“vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một người con và ngươi sẽ đặt tên nó là Gioan”. Ông Zacarya đã không thể nói được sau khi được Thiên sứ báo cho biết bà Êlizabet đã mang thai và truyền cho ông phải đặt tên con là Gioan. Tám ngày sau khi bà Êlisabet sinh con, người thân và láng giềng đến làm phép cắt bì và đặt tên cho con trẻ. Họ muốn lấy tên cha là Zacarya mà đặt nhưng bà Êlisabet nói muốn đặt tên con là Gioan. Mọi người nói trong dòng họ không có ai mang tên đó cả và họ muốn hỏi ý kiến Zacarya về việc đặt tên cho con trai. Ông Zacaria đã viết trên miếng giấy tỏ cho mọi người biết ông muốn đặt tên cho con trai là Gioan. Và thật lạ lùng ngay khi đó ông đã nói được, không còn bị câm nữa.
Gioan Baotixita đã được đầy ơn Chúa Thánh Thần ngay khi còn ở trong bụng mẹ.Trong kinh ông thánh Gioan Baotixita có viết “Khi còn trong lòng mẹ (Gioan Baotixita) đã đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần và được khỏi tội tổ tông truyền…”. (Truyện Thánh Gioan Baotixita- LM Mai Ngọc Sơn). Nói theo linh mục Ngô Tôn Huấn, Gioan Baotixita mắc tội tổ tông trong 6 tháng, nghĩa là thời gian ở trong bụng mẹ từ khi bà Êlizabet thụ thai cho đến khi Đức Maria đang mang thai Đức Giêsu đến thăm và Gioan Baotixita đã nhảy mừng trong lòng bà Êlisabet.
Gioan Baotixita có cuộc sống khác thường. Ông thoát ly cuộc sống bình thường để sống âm thầm trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông ăn chay hãm mình, cầu nguyện và đắm mình trong suy niệm trước khi xuất hiện công khai để thi hành sứ mạng của mình.
Sứ mạng của Gioan Baotixita là dọn đường cho Chúa Giêsu vì thế ông còn được gọi là Gioan Tiền hô. Ông kêu gọi dân chúng “Anh em hãy cải thiện đời sống, vì nước Thiên Chúa đã gần đến”. Rất đông dân chúng kéo đến nghe ông rao giảng, chịu phép rửa và tin theo ông. Nhưng khác hẳn với người đời thường hay đề cao mình, Gioan Baotixita đã rất khiêm nhường vội vàng minh xác “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giầy Người” . Ông tự nhận “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy sửa đường cho ngay thẳng, để Đức Chúa đi”
Gioan Baotixita cũng được gọi là Gioan Tẩy gỉa vì ông đã đứng ra làm phép rửa cho dân chúng và kêu gọi họ sám hối. Gioan Baotixita đã có vinh dự rửa tội cho Đức Giêsu trên sông Giodan. Ở điểm này người Kitô hữu cần phải phân biệt rõ ràng, không nên lầm lẫn giữa phép rửa của Gioan Baotixita và Bí tích Rửa tôi do Đức Giêsu thiết lập. Phép rửa của Gioan chỉ có mục đính kêu gọi ăn năn, sám hối để đón Đấng Cứu Thế. Phép rửa do Đức Giêsu thiết lập là phép rửa để được ơn tái sinh và ơn cứu độ.
Thật vậy “Phép rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều đó:’Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước để anh em được sám hối. Nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa’(Mt 3,11).
“Phép rửa của Gioan bằng nước chỉ là nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Còn phép rửa của Đức Giêsu được Gioan mô tả là bằng lửa và trong Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Đức Giêsu là một bí tích tuôn tràn Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngòai, còn thực sự ta được rửa bằng lửa. Lửa ở đây ám chỉ sức mạnh của Chúa Thánh Thần biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và đáng được hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Nước Trời. Vì thế, phép rửa tội của chúng ta có mục đích xóa tội tổ tông và các tội riêng, ban ân sủng siêu nhiên, đời sống ơn thánh, làm cho ta trở nên con Thiên Chúa, làm công dân Nước Trời và thành viên của Hội thánh”.
“Bí tích rửa tội mang lại cho chúng ta một hiệu quả vô cùng cao quí, đó là sự tái sinh. Mỗi Kitô hữu là một người đã được tái sinh, nghĩa là chúng ta đã sinh ra lần thứ nhất với sự sống tự nhiên do cha mẹ, lần thứ hai với sự sống siêu nhiên do bí tích rửa tội. Nói rõ hơn, mỗi người chúng ta sinh ra hai lần: lần thứ nhất do cha mẹ, các ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Lần thứ hai do Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, Ngài ban cho chúng ta sự sống siêu nhiên” (Trích Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Gioan Baotixita là người can đảm khac thường. Trong vai trò ngôn sứ Ông đã thắng thắn phê phán việc vua Hêrôđê lấy chị dâu là bà Hêrôđia làm vợ dầu biết rằng việc can ngăn sẽ có hậu qủa thảm khốc như thế nào. Ông đã bị chém đầu vì sự trả thù hèn hạ của người đàn bà lăng loàn Hêrôđia, chấm dứt vai trò ngôn sứ của Ông.
Khác với các thánh, trong lịch Phụng vụ của Giáo Hội, Gioan Baotixita được mừng ngày sinh và kỷ niệm ngày tử. Lễ sinh nhật thánh Gioan Baotixita là ngày 24/6 và ngày ông bị chém đầu là ngày 29/8.
Mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Baotixita chúng ta học hỏi ở thánh nhân về sự trung tín, một lòng với sứ vụ, khiêm nhường nhưng ngay thẳng, dũng cảm và không sợ cường quyền. Xã hội ngày nay rất cần những người như Gioan Baotixita. Lại Thế Lãng
Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng. Ngày vui ấy thường đi với quà, 24/6-74
Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng. Ngày vui ấy thường đi với quà, tiệc mừng và những lời cầu chúc. Thật ra mừng sinh nhật có thể là một hành vi mang nhiều tính tôn giáo. Tôi nhớ đến ngày tôi được sinh ra, một sinh linh bé nhỏ chào đời, mang hình ảnh của Thiên Chúa, mang khuôn mặt của Đức Giêsu. Ngày ấy quan trọng và đáng nhớ ngay cả đối với chính Thiên Chúa. Dù thế giới có hơn 6,7 tỷ người thì một hài nhi mới sinh cũng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa. Thiên Chúa có những ước mơ và dự tính riêng về từng con người. Chẳng ai chào đời một cách tình cờ và ngẫu nhiên. Mỗi người đều cần cho kế hoạch lớn của Thiên Chúa. Mừng sinh nhật một cách nghiêm túc lại trở thành một lễ tạ ơn. Tạ ơn Chúa đã cho tôi được làm người ở đời. Bất chấp những khổ đau vấp ngã, những thất bại đắng cay, tôi vẫn xin được yêu mảnh đời Chúa dệt cho tôi. Hôm nay Giáo Hội mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả. Chỉ có Đức Giêsu và Mẹ Maria mới được mừng ngày sinh trong phụng vụ. Điều đó cho thấy sinh nhật của Gioan là biến cố có ảnh hưởng lớn. Bài Tin Mừng hôm nay nói vắn gọn về chuyện sinh hạ và cắt bì Gioan, nhưng kể dài hơn về chuyện đặt tên cho em. Chúng ta có thể cảm được niềm vui lớn lao của người mẹ là bà Êlisabét. Niềm vui này đã bắt đầu từ khi bà có thai Gioan. Chẳng biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bà đã cao niên lại không sinh con. Hiếm muộn thời xưa thường bị coi là do người vợ. Đó là một sự sỉ nhục (St 30, 23) và là một hình phạt của Chúa (2 Sm 6, 23). Nhưng bà Êlisabét lại là người công chính thuộc dòng tư tế Aharon, “sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Bà đã sống với nỗi đau này trong nhiều năm, sau bao lần chờ đợi và thất vọng. Khi biết mình có thai trong lúc tuổi già, bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước người đời (Lc 1,25). Ngày sinh của Gioan là ngày vui đặc biệt cho bà, người làm mẹ lần đầu. Niềm vui ấy còn được nhân lên vì bà sinh một cậu con trai. Láng giềng, thân thích đến chung vui với bà vì bà được Chúa thương. Chúng ta không rõ bởi đâu mà Êlisabét đòi phải đặt tên cho con mình là Gioan. Chỉ biết bà đã phản ứng quyết liệt chuyện đặt tên con là Dacaria. Nhưng quyết định của người cha mới là quan trọng, vì người cha thường là người có quyền đặt tên cho con, qua đó nhìn nhận người con ấy là của mình (x. Mt 1, 21). Ông Dacaria chẳng những bị câm, lại còn điếc nữa, nên người ta phải làm hiệu để hỏi ý ông. Khi ông viết trên bảng tên “Gioan” thì mọi người chưng hửng. Chính lúc ấy một phép lạ xảy ra: ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa. Gioan là tên mà sứ thần đã dặn ông lúc dâng hương trong Đền thờ. Gioan (Yôkhanan) có nghĩa là ĐỨC CHÚA thi ân. Gioan thật là một ơn của Chúa và sẽ đóng một vai trò trong lịch sử cứu độ. Chúng ta để ý đến vai trò của bà con láng giềng trong bài Tin Mừng này. Họ đến chung vui, can thiệp ít nhiều vào chuyện đặt tên đứa trẻ. Họ bỡ ngỡ với cái tên Gioan, và kinh sợ khi ông Dacaria nói lại được. Việc sinh hạ Gioan quả đã được vây bọc bởi nhiều chuyện lạ lùng. Tiếng vang không chỉ nơi láng giềng thân thích, mà còn được loan truyền khắp vùng đồi núi xứ Giuđê (c. 65). “Rồi đây đứa trẻ này sẽ ra thế nào?” Đó là câu hỏi mà ai cũng để tâm suy nghĩ sau khi nghe câu chuyện. Hẳn là em này sẽ có một định mệnh và ơn gọi đặc biệt. Có thể sau đó mọi sự lại lắng xuống, còn cậu Gioan thì vẫn lớn lên, tinh thần vững mạnh. Cậu không lập gia đình và sống trong hoang địa, chờ ngày đến với Ítraen. Mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta thấy được sự khiêm tốn của Thiên Chúa. Để giới thiệu Con của Người là Đức Giêsu cho dân Ítraen, Thiên Chúa cần đến Gioan, một người dọn đường. “Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối” (Cv 13, 24). Và Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc sinh hạ của con người này. “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (Is 49,1). Hình ảnh người Tôi Trung trên đây trong Isaia khá hợp với Gioan. “Người là đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người Tôi Trung đem nhà Giacóp về cho Người…” (Is 49,5). Hóa ra việc Thiên Chúa chọn, gọi và giao sứ mạng đã diễn ra ngay từ con người chỉ mới là phôi thai trong lòng mẹ. Điều này đúng với Gioan: “Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít raen về với Đức Chúa… và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1, 15-17). Gioan đã được gọi để làm ngôn sứ cho dân tộc của ngài, giúp cho dân Ítraen đón nhận Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông. Ơn gọi ấy đã làm cho ông hiện hữu ở trên đời. Cuộc sinh hạ của Gioan được coi là kỳ lạ. Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng. Khi rửa tội một em bé mới sinh, chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao? Đâu là định mệnh tương lai của em? Đâu là con đường riêng mà Chúa muốn em đi? Chúng ta chỉ mong bàn tay Chúa ở với em (Lc 1, 66). Những thai nhi, những hài nhi, những trẻ thơ hôm nay ở quanh ta cũng được hiện hữu và được trao một sứ mạng. Mừng sinh nhật một vị thánh, chúng ta thêm trân trọng sự sống nơi các em, và thấy mình có bổn phận nâng đỡ để các em đi con đường Chúa muốn và trở thành những người đưa dân tộc Việt Nam đến với Chúa.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Ngoài Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, nghĩa là lễ Chúa Giáng Sinh, trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, 24/6-75
Ngoài Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, nghĩa là lễ Chúa Giáng Sinh, trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, chỉ có hai ngày lễ mừng sinh nhật: sinh nhật của Đức Maria (ngày 8/9) và sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả (ngày 24/6). Chúng ta có thể hỏi: tại sao cùng với Giáo Hội chúng ta chỉ mừng lễ sinh nhật của Đức Maria và của thánh Gioan mà thôi, chứ không mừng sinh nhật của các vị thánh khác?
Đó là bởi vì, sự sinh ra của Đức Maria và của thánh Gioan có liên quan đặc biệt đến sự sinh ra của Đức Giêsu: Đức Maria được Thiên Chúa chuẩn bị cách đặc biệt, ngay trong lòng mẹ, để sau này cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế; còn sự sinh ra của thánh Gioan nhắc nhớ cách Thiên Chúa hành động trong lịch sử cứu độ, và cách hành động này sẽ trở nên viên mãn nơi Đức Kitô, ngay từ biến cố Giáng Sinh của Người.
1. Thánh Gio-an và lịch sử cứu độ
Như chúng ta đều biết, theo lời kể của thánh Lu-ca, thánh Gioan là ơn huệ Thiên Chúa ban, khởi đi từ cung lòng hiếm muộn và già cỗi của mẹ Elizabeth, như chính ông Zacharia thú nhận: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng cao niên” (Lc 1, 18); và chính sứ thần Gabriel loan báo cho Mẹ Maria: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng” (c. 36).
Sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, đó là vì “Chúa đã rộng lòng thương xót bà” (c. 58). Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với bà Elizabeth nhắc nhớ lòng thương xót của Thiên Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ: Thiên Chúa làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người vẫn chưa xuất hiện và ở những hoàn cảnh mà con người hoàn toàn bất lực. Thật vậy, trong công trình sáng tạo, từ mặt đất trinh nguyên, Thiên Chúa làm trào vọt ra sự sống, sự sống phong nhiêu của muôn loài muôn vật, và nhất là sự sống của con người, được hình thành theo hình ảnh của Thiên Chúa; và trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn làm trào vọt ra sự sống ở nơi không còn hi vọng gì: đó là cung lòng đã chết của tổ phụ Abraham và bà Sara, đó là biến cố Xuất Hành: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người” (Tv 77, 20), đó là sự sống, ngang qua ơn huệ lương thực, Chúa ban cho Israel trong hành trình trong sa mạc, đó là sự khai sinh ra vương quốc khởi từ những xung đột chết chóc, đó là niềm hi vọng, được nuôi dưỡng bằng lời ca tụng, khi không còn gì để hi vọng: “Tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề…”. Và Đức Kitô sẽ đến để lấp đầy niềm hi vọng này. Bà Elizabeth vừa già cỗi và và hiếm muộn, không thể sinh con, là hình ảnh nói lên chính tình cảnh bi đát của Israen, của nhân loại và của từng người chúng ta, bất lực trong việc xây dựng sự sống của chúng ta trong hiệp nhất và tình yêu, và vì thế để cho bầu khí chết chóc làn tràn và để cho Sự Dữ ngự trị. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với bà Elizabeth, khi cho bà cưu mang và sinh con, người con mang tên Gioan, nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”, thì chắc chắn, Thiên Chúa cũng đã và đang thương xót nhân loại chúng ta, Hội Dòng và cộng đoàn chúng ta, gia đình chúng ta và từng người chúng ta.
2. Thánh Gioan và Đức Kitô
Sự sống của thánh Gioan là một tuyệt tác của Thiên Chúa, diễn tả quyền năng ban sự sống của Người; nhưng Đức Giêsu, sinh bởi Đức Maria, là tuyệt tác còn lớn hơn và là tuyệt tác duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, trong ngày sinh nhật của thánh Gioan và nhất là của Đức Giêsu, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Trong đời sống dâng hiến, các nam nữ tu sĩ được mời gọi sống “trinh nguyên” (trinh nguyên, tiên vàn không phải thể lý, nhưng là một con tim ước ao sống bởi và sống cho một Thiên Chúa), chính là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh, bền vững và phong phú, bằng quyền năng sáng tạo của Ngài.
Ngoài ra, tên gọi “Gioan” nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”; trong khi tên gọi “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”, là Ơn Huệ của mọi ơn huệ, là Ơn Huệ mà mọi ân huệ khác hướng tới và chỉ là dấu chỉ, và là Ơn Huệ một lần cho tất cả. Như thế, thánh Gioan không chỉ loan báo Đức Giêsu bằng cuộc đời và cái chết của mình, nhưng còn bằng chính biến cố sinh ra và tên gọi nữa.
Xin cho chúng ta cũng hướng về Đức Kitô như thánh Gioan, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, ngang tất cả những gì chúng ta là, được chất chứa trong “tên gọi” của chúng ta; và xin cho Người nổi bật lên trong cuộc đời, ơn gọi và từng ngày sống của chúng ta.
3. “Chúc tụng Đức Chúa…” Về chuyện ông Zacharia, cha của thánh Gioan, bị câm, nhưng ngay sau khi đặt tên cho con là “Gioan”, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Bởi vì, sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth.
“Không nói được”, không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được. Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, “Thiên Chúa Thi Ân”, thì ông “lưỡi ông lại mở ra, ông nói được” và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa: Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Zacharia, bố của thánh Gio-an. Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”. Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là “người câm” vậy thôi!
Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, được bày tỏ cho chúng ta một cách thật hữu hình, có thể nhìn thấy được, đó là Thánh Tâm của Chúa bị đâm thâu.
“Lạy Thiên Chúa, là Cha của chúng con, xin thương xót chúng con, để chúng con đón nhận và xây dựng sự sống của chúng con như ân huệ và theo ơn gọi Chúa ban, bằng cách gắn bó mật thiết và nên một với Đức Giêsu Kitô, Con của Cha, từ lúc chúng con sinh ra cho đến lúc chúng lìa bỏ cuộc đời này, theo gương thánh Gioan Baotixita. Amen”.
Tháng sáu, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, Giáo Hội đã chọn 24/6-76
Tháng sáu, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, Giáo Hội đã chọn ngày 24/6 hằng năm, để mừng kính một trong những biến cố quan trọng trong công cuộc cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Đó là lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân đã được Thiên Chúa sắp đặt sinh ra trước Chúa Giêsu 6 tháng để trở thành người dọn đường và giới thiệu cho dân Do Thái hình ảnh và vai trò của Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Quả thật, trong muôn vàn vị thánh được Giáo Hội tôn phong, mừng kính theo niên lịch phụng vụ. Như ta đã biết, ngoại trừ Đức Kitô và Mẹ Maria, chưa có thánh nhân nào có lễ mừng sinh nhật như thánh Gioan Tẩy Giả. Vì sao thế? Xin thưa rằng:
Thứ 1: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, được khởi đi từ chương trình và LTX vô biên của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Sau khi ông Adong và bà Eva nghe lời dụ dỗ đường mật của con rắn, hiện thân của quyền lực sự dữ lỗi nghịch cùng Thiên Chúa, từ sự lỗi nghịch ông Adong và bà Eva đã đánh mất đi mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, đánh mất sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là đấng từ tâm, nhân hậu, Ngài không bỏ mặc con người do chính Ngài tác dựng, qua lời Ngài đã phán với con rắn: “ Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy” (St.3,16). Thánh Gioan Tẩy Giả, một trong những thành viên sáng giá nhất, thuộc dòng giống người đàn bà là Đức Trinh Nữ Maria.
Thứ 2: Gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét luôn sống trong sự tủi hổ với người cùng thời. Vì tuy đã cao niên, nhưng hai ông bà không có lấy một mụn con để “nối dõi tông đường”. Hai ông bà đã chuyên chăm cầu nguyện và luôn tín thác tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét, là niềm vui cho hai ông bà trong lúc tuổi già, và cho toàn nhân loại như lời truyền tin của Sứ Thần: “ Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc.1,13-14). Là dấu chỉ Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và lắng nghe lời cầu nguyện, như lời bộc bạch của bà Êlisabét: “ Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi khổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc.1,25). Đây là bài học quý giá cho nhân loại nói chung và cho người Kitô hữu nói riêng, trong đời sống cầu nguyện, đời sống tín thác vào tình thương của Thiên Chúa.
Thứ 3: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, ứng với lời tiên báo của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia về thánh Nhân: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi …” (Is. 49,1), và qua lời tiên tri của chính phụ thân ngài: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên” (Lc.1, 76-77). Đây là dấu chỉ Thiên Chúa quan phòng, hoạch định chương trình cho mỗi cá nhân con người theo Thánh Ý của Ngài.
Thứ 4: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Thiên Chúa dần tỏ lộ cho nhân loại mầu nhiệm “Chúa Ba Ngôi” và mầu nhiệm “Nhập Thể và nhập Thế” của Đức Kitô qua bài ca “Chúc Tụng” (Benedittus) của phụ thân ngài là ông Dacaria: “Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần liền nói tiên tri rằng: Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần vua Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta…Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta…” (Lc.1,67-79).
Thứ 5: Sự hiện diện và đời sống khởi đầu của thánh Gioan Tẩy Giả như trình thuật của Tin Mừng của thánh sử Luca: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen” (Lc.1,80). Đây là hành trang giúp cho thánh Nhân chu toàn sứ vụ mà Thiên Chúa đã chọn và mời gọi trong đời sống chứng nhân, đời sống dọn đường, mở lối cho Đấng Cứu Thế. Đời sống của thánh Nhân đã được chính Đức Kitô giới thiệu: “Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em xem gì? Một người mặc gấm vóc lục là ư?.... Thế thì anh em xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này ta sẽ sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho con đến” (Mt.11,7-10).
Trong ngày cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioa Tẩy Giả. Ta cùng hiệp lòng dâng lời cảm tạ, tri ân Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi con người nhân loại cộng tác vào công cuộc sáng tạo và cứu độ của Ngài. Với truyền thống “ uống nước nhớ nguồn ”, ta tri ân thánh Dacaria và Êlisabét, các ngài đã hiến dâng cho Thiên Chúa người con duy nhất, niềm vui duy nhất, để chương trình của Thiên Chúa được thành sự. Đặc biệt, ta tri ân Thánh Gioan Tẩy Giả đã hy sinh và dành trọn cuộc đời trai trẻ của mình cho Thiên Chúa trong sứ vụ giới thiệu Chúa cho mọi người, hiến thân bảo vệ “luân thường, đạo lý”, bảo vệ sự thật, chấp nhận gian khó, hiểm nguy, không chùng bước trước những áp đặt của quyền lực sự dữ…. Ta cũng xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Nhân giúp ta:
- Giữa một thời đại đầy những cạm bẫy, cám dỗ; đầy những lạc thuyết chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội; đầy những thử thách, lo âu, buồn phiền do bệnh tật, đói nghèo, nợ nần, thất nghiệp, bất hòa, chia rẽ… Ta luôn biết noi gương song thân của thánh Gioan Tẩy Giả trong đời sống cầu nguyện, để nhờ ơn Chúa giúp, ta có sức mạnh lướt thắng và vượt qua.
- Là những bậc làm cha, làm mẹ. Ta biết noi gương song thân của Thánh Gioan Tẩy Giả trong nhiệm vụ hướng dẫn, giáo dục con cái theo đường lối của Thiên Chúa và Giáo Hội, hy sinh và hướng ý cho con cái hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đặc biệt luôn quan tâm và nhắc nhở con cái biết dùng thời sức khỏe, tài trí cộng tác vào những hoạt động, sinh hoạt của cộng đoàn, giáo xứ và Gióa Hội.
- Trong hoàn cảnh luôn khát khao, ước mong, chờ đợi hoa trái của tình yêu đôi lứa là những đứa con để trở thành cầu nối, để “ nối dõi tông đường”. Ta biết noi gương bà thánh Êlisabét luôn tín thác vào Chúa trong đời sống kiên nhẫn cầu nguyện. - Ta đang sống trong một xã hội ồn ào, náo động, giữa một xã hội luôn chạy theo chủ nghĩa“ hưởng thụ, hiện sinh và vô thần”. Ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả lui vào hoang địa trong chay tịnh và cầu nguyện. Để trong cõi thinh lặng, gặp được Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, bình an và hạnh phúc. Nhất là ta nhận ra được lời mời gọi của Thiên Chúa.
- Hiện nay rất nhiều người chưa nhận biết, khước từ và chối bỏ Thiên Chúa. Ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả hy sinh, hiến thân, để trở thành những ngôn sứ, chứng nhân giới thiệu Chúa cho mọi người qua đời sống thường nhật bằng yêu thương, tha thứ, cảm thông và sẻ chia…
- Giữa một xã hội luôn nói sai sự thật, sống sai sự thật, khước từ và bưng bít sự thật, từ trong chính mái ấm gia đình trở đi. Ta noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả luôn sống và nói sự thật, mạnh dạn là chứng cho sự thật…
- Giữa một thời đại đạo đức, nhân bản bị xem thường, tệ nạn xã hội lan tràn, đưa đến việc tước đoạt mạng sống của nhau một cách dã man, nạn phá thai lan tràn, nhiều người coi việc phá thai là mối lợi, là sự tự do, là thành tích, để cân bằng dân số…Qua sự hiện diện của Thánh Gioa Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Ta nhận thức và ý thức sự sống là do Thiên Chúa an bài sắp đặt, là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Từ đó ta mạnh dạn lên tiếng, hành động một cách cụ thể, để bảo vệ sự sống của con người, nhất là các thai nhi.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa! Trong ngày mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã yêu thương, an bài và sắp đặt ngài như một quà tặng và là tấm gương cho con và mọi người. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Nhân, xin Chúa ban cho các chị em đang khao khát được làm mẹ được thỏa lòng ước mong, xin cho các cháu bé đã và sắp sinh ra được tràn đầy sức mạnh và tình yêu của Chúa. Xin Chúa cho con biết noi gương Thánh Nhân luôn hy sinh, khiêm nhường và hăng say trong sứ vụ loan báo tin Mừng mà Chúa đã yêu thương ban tặng và mời gọi. Amen.
Mỗi người chúng ta có cảm nghiệm khi gia đình, người thân của chúng ta có một trẻ thơ chào đời. 24/6-77
Mỗi người chúng ta có cảm nghiệm khi gia đình, người thân của chúng ta có một trẻ thơ chào đời. Tiếng khóc oe oe của trẻ bao giờ cũng đem lại niềm vui lớn nhất định cho những ai có liên quan, dù đôi khi có thể niềm vui chen lẫn nỗi xót xa.
Được sinh ra, được cất tiếng khóc chào đời phải chăng đó là ân huệ lớn lao, và con người chào đón, nhận lãnh ân huệ này với tất cả sự trân trọng, nâng niu và lòng biết ơn. Chính vì lẽ đó, để kỷ niệm ngày sinh của mình, người thời nay thường thiết tiệc. Những bữa tiệc to có, nhỏ có, đơn sơ có, long trọng đình đám có... với mục đích ghi dấu ngày hồng phúc mình được hiện diện trong trần gian, được cái phúc làm người và với người Kitô hữu là được làm con Chúa.
Hôm nay, hết sức đặc biệt, Giáo hội mừng kính Trọng thể lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Ta có thể nói đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
Qua Trang Tin mừng hôm nay, ta cảm nhận được niềm vui lớn lao của gia đình Giacaria và láng giềng thân thích (c.58) – Bởi vì không những một trẻ thơ đã sinh ra cho một gia đình hiếm muộn mà còn vì có biết bao sự kiện lạ lùng đã xảy ra được đồn đại trong sự hạ sinh này. Và “Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? "Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” (c.66).
Được sinh ra trong một gia đình danh giá, nhưng ta đã biết, Gioan không ham sống trong nhung gấm lụa là mà từ rất sớm “ngài đã chọn hoang địa làm nơi dung thân cho tới ngày ra mắt toàn dân Israel” (c.80) để dọn đường cho Đấng Cứu Thế - Đức Giêsu Kitô.
Vị thế cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Như Gioan, mỗi người trong chúng ta được sinh ra cũng có một sứ mạng. Sứ mạng đó được Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta qua những khả năng được phú bẩm và biết bao ân huệ. Sứ mạng đó được hoàn thành, kiện toàn nhờ biết bao những nâng niu, chăm sóc, vun đắp, xây dựng và yêu thương – Đó là sứ mạng dọn đường cho Đức Kitô ngự trị trong lòng con người, sứ mạng xây dựng nước Chúa – cho Vương Quốc của Cha được hiển trị, qua việc xây dựng làm cho thế giới ngày càng thêm đẹp, vũ trụ ngày càng thêm xinh, tình người mỗi ngày lan tỏa, con người ngày thêm hạnh phúc…
Gioan đã được sinh ra là con người bình thường như chúng ta. Nhưng “cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” – Tinh thần vững mạnh bởi Gioan đã được hưởng một nền giáo dục chân chính trong một gia đình biết kính sợ Thiên Chúa, biết lấy “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118) được chứng minh qua thân thế cũng như qua bài ca “chúc tụng” của Giacaria. Nhờ đó, Gioan đã hoàn thành sứ vụ là “tiếng hô trong sa mạc mời gọi con người dọn đường cho Đấng Cứu Thế.”
Và vì vậy, trong sứ vụ cộng tác với Đấng Cứu Thế để cứu độ trần gian, gia đình Kitô hữu phải là chiếc nôi, là môi trường cho con cái được lớn lên bằng đời sống yêu mến, kính sợ, tôn thờ Thiên Chúa và tâm tình yêu thương, hiếu thảo, kính trên nhường dưới chan hòa với mọi người; mỗi Kitô hữu cần được dưỡng nuôi bằng Lời Chúa, bằng ân sủng của ngài qua các bí tích và đời sống Giáo hội; ngoài ra họ còn cần được huấn luyện giáo dục để phát triển những khả năng, năng khiếu phú bẩm để trở thành những con người hữu ích, có khả năng phục vụ và làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp theo ý Thiên Chúa. Có như thế thì việc mừng sinh nhật của chúng ta mới thật ý nghĩa, vì con người đã được sinh ra ấy thực sự đã là quà tặng cho mỗi người trong cuộc sống.
Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào? Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người chúng ta cũng sống tâm tình cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi chúng ta vào cuộc sống này, để cùng chung chia trách nhiệm dựng xây thế giới con người tươi đẹp. Chúng ta cũng xét lại thái độ sống của mình đối với sứ mạng Chúa trao để sống tích cực hơn trong sứ mạng ấy, hầu sau này xứng đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng với Thiên Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả. Xin cho mỗi người chúng ta biết và sống sao trở nên chứng nhân của Lời, sẵn sàng đón nhận mọi gian nan thử thách cho Lời được tỏa sáng trong thế giới hôm nay và ngự trị mãi trong tâm hồn con người.
Trong niên lịch Phụng vụ, nếu không nói đến ngày lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, thì chỉ có hai 24/6-78
Trong niên lịch Phụng vụ, nếu không nói đến ngày lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, thì chỉ có hai đấng được nhắc đến ngày sinh của mình: một là Mẹ Maria, được mừng sinh nhật vào ngày 8/9, và người thứ hai là thánh Gioan Tiền Hô được toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể ngày sinh nhật của ngài vào ngày hôm nay.
Tuy nhiên, không phải chỉ có Mẹ Maria và thánh Gioan mới có ngày sinh nhật, nhưng tất cả mỗi người trong chúng ta đây, ai cũng có một ngày sinh. Chúng ta đã được sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ và sự quan phòng của Thiên Chúa. Việc chúng ta xuất hiện trên cõi đời này không phải là một sự ngẫu nhiên, nhưng cũng giống như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa gọi vào đời và giao cho một nhiệm vụ phải chu toàn.
Do đó, nhân ngày lễ Sinh nhật của thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta cùng suy nghĩ về hai điểm: bổn phận của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, và ơn gọi của mỗi người kitô hữu.
1. Bổn phận giáo dục con cái của cha mẹ:
Điều đầu tiên mà các bậc làm cha mẹ là giúp cho con cái mình can đảm sống theo hướng dẫn của Lời Chúa, cho dù điều đó có đi ngược lại với thói quen của mình, đòi hỏi chúng ta một sự cố gắng hy sinh. Chúng ta phải can đảm sống đúng với giáo huấn của Chúa trong mọi việc lớn nhỏ.
Các bậc cha mẹ cần giáo dục cho con cái một lương tâm ngay thẳng, để rồi trong bất cứ hoàn cảnh nào, gặp bất cứ điều gì, cho dù là một việc nhỏ và có được sự ủng hộ của nhiều người, nhưng nếu không đúng với Lời Chúa thì chúng ta vẫn không làm.
Tất cả những điều trên, các bậc phụ huynh chỉ có thể làm được không phải bằng lời nói mà bằng chính đời sống gương mẫu của cha mẹ. Chúng ta có thể học được bài học này từ cha mẹ của thánh Gioan Tiền Hô. Tin mừng thuật lại, khi con trẻ đã được tám ngày, bà con đến để chúc mừng và “cắt bì cho con trẻ, và họ đã lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được tên nó là Gioan”. Cả ông Giacaria, dù không nói được, nhưng cũng đã ra hiệu đồng ý như vậy. Cả hai ông bà đã đặt tên con trẻ theo như ý của Thiên Chúa, chứ không phải theo phong tục tập quán hay ý riêng mình.
Sống đúng theo ý Chúa, chu toàn mọi bổn phận của mình, đó chính là lúc chúng ta đang sống trọn vẹn ơn gọi của người kitô hữu.
2. Ơn gọi của người kitô hữu
Trong nghi thức diễn giải sau khi đã được rửa tội, người đỡ đầu thay mặt cho em nhỏ đã nhận cây nến sáng được thắp lên từ cây nến Phục Sinh của Chúa Kitô, để rồi từ đây, theo dòng thời gian, em nhỏ này phải dùng chính cuộc sống của mình để chiếu toả ánh sáng Tin mừng của Chúa Kitô Phục Sinh cho mọi người. Trong bài đọc một, trích từ sách ngôn sứ Isaia nhắc lại lời của Giavê Thiên Chúa nói về người tôi tớ của Người rằng: “Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; nầy đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc”. Như thế, nhiệm vụ của mỗi người kitô hữu là phải trở nên ánh sáng để dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta phải chiếu giãi ánh sáng của yêu thương và tha thứ vào trong thế giới đang đầy dẫy những hận thù, ganh tỵ. Thông thường, chúng ta vẫn thường thích để người khác đến với mình, khen ngợi mình, nhưng đây không phải là mục đích cuối cùng của người kitô hữu. Một người kitô hữu chân chính phải luôn ý thức mình chỉ là người dọn đường để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Chúng ta phải hãm dẹp cái tôi ích kỷ, phải dùng chính cuộc sống tự hạ, khiêm tốn của mình để dẫn đưa mọi người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng ta là dẫn đưa con người đến gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, chứ không phải dừng lại ở nơi chúng ta.
Về điều này, thánh Gioan Tiền Hô mà chúng ta mừng kính hôm nay là một mẫu guơng hết sức sống động cho chúng ta. Lúc ấy, sau khi bắt đầu cuộc rao giảng của mình, toàn dân đã kéo nhau đến với thánh nhân rất đông. Nhiều người trong số họ, kể cả Chúa Giêsu cũng đã bước vào dòng sông Giođan để được ngài thanh tẩy. Danh tiếng của ngài đã vang dội khắp nơi. Mọi người đều coi ngài là một vị ngôn sứ đến từ Thiên Chúa. Thậm chí, họ còn lầm tưởng thánh nhân chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã báo trước. Lúc đó, thánh nhân chỉ cần im lặng thôi là có thể tận hưởng bao vinh dự dân chúng dành cho ngài. Thế nhưng, thánh nhân đã không làm như vậy. Ngài ý thức rõ vai trò của mình. Mình chỉ là người dọn đường, chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã can đảm nói lên sự thật: “Tôi không phải là người anh chị em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi, mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Đây quả là bài học hữu ích cho mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống thường ngày, nhiều khi chỉ vì để chứng tỏ mình, để biện hộ cho mình, chúng ta thường ngụy biện để che đậy lỗi lầm, lôi kéo mọi người về phe mình để chống đối người khác. Và chính những điều đó đã gây ra biết bao hiềm khích, chia rẽ trong cộng đoàn.
Bài học thánh Gioan để lại là mỗi người phải tự xoá mình, để cho Chúa lớn lên. Nhờ đó cộng đoàn được hiệp nhất. Thiên Chúa được tôn vinh. Hay nói theo cách nói của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một, nhiệm vụ của người kitô hữu, đó là “đem Giacob về cho Người, và quy tụ Israel chung quanh Người” chứ không phải quy tụ mọi người chung quanh chúng ta. Chính vì sống như vậy, thánh Gioan đã được “vinh hiển trước mặt Chúa” và đã nhận được phần thưởng muôn đời “ở nơi Thiên Chúa”.
Thánh Gioan đã sinh ra trong niềm vui của cha mẹ và mọi người, thánh nhân đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để rồi lúc ra đi, thánh nhân đã để lại một mẫu gương khiêm nhường, thánh thiện cho muôn đời. Phần mình, mỗi người chúng ta đã có một ngày được sinh ra. Trong ngày đó, chúng ta khóc, còn mọi người cười vui. Vậy thì giờ đây, chúng ta hãy sống thế nào để khi Chúa gọi chúng ta về, chúng ta có thể hân hoan mỉm cười, còn mọi người phải khóc vì thương, vì nhớ chúng ta. Amen.
Giáo Hội thường mừng lễ các thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên 24/6-79
Giáo Hội thường mừng lễ các thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên Chúa Tình Yêu, ngày sinh nhật trên thiên quốc.
Đối với thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo hội mừng kính cả ngày ngài sinh ra và cả ngày ngài tử đạo. Ngày qua đời mừng ở bậc lễ nhớ. Ngày sinh nhật với bậc lễ trọng.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12). Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6). Như vậy trong hàng ngũ các thánh, chỉ có thánh Gioan được vinh dự lớn nhất là được mừng ngày chào đời của mình. Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt lễ mừng Sinh nhật Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Gioan ra đời là niềm hạnh phúc cho cha mẹ, người thân và láng giềng. Một niềm vui quá lớn vì ông bà son sẻ. Mọi người đến chúc mừng người mẹ sinh con lúc tuổi già mà được “mẹ tròn con vuông”. Ai cũng trầm trồ khen bé trai thật dễ thương thật đáng yêu. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Ông Bà Giacaria mong chờ con trai nối dõi tông đường và sẽ như cha, làm tư tế. Gioan có đủ điều kiện để tiến thân, giàu có, vinh dự thuộc giai cấp thượng lưu. Nhưng Gioan lại nghe tiếng gọi từ trời cao đi làm Ngôn sứ. Gioan vào hoang địa sống một mình. Cuộc sống khắc khổ, đơn sơ, nghèo nàn.
Từ đó, Gioan trở thành Ngôn sứ với đời sống cao đẹp và đã chết hào hùng.
1. Cuộc sống cao đẹp
Gioan sống đẹp trong cương vị sứ giả: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17), và là người tiên phong: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).
Sống đẹp vì Gioan đã từ bỏ đời sống giàu sang uy thế của gia đình, đi vào trong sa mạc hoang vắng sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện thánh ý Ngài.
Sống đẹp vì Gioan có một số môn đệ, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã giới thiệu cho họ (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Sống đẹp vì Gioan đã thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, nhưng Gioan chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài (Ga 1, 27).
Gioan sống đẹp vì đã luôn tâm niệm rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3, 30).
2. Cái chết hào hùng Cái chết của Gioan đau thương mà rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu. Người theo Đạo Hồi giáo Islam rất sùng kính Thánh Gioan ở giáo đường bên Syria. Theo tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden có phần mộ chôn đầu của Gioan. Người Hồi giáo Syria gọi ngài bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với những người Hồi giáo tại đó.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói về ông: “ Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Chúa Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết, bởi lẽ: “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15,18 - 19 ).
3. Hồng ân ngày sinh nhật Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò Ngôn sứ, dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người nhớ đến ngày sinh nhật của mình. Ngày đó, cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc mừng vui. Ai cũng cười tươi nhìn trẻ thơ, ai cũng muốn bồng ẵm chúc lành và đặt nhiều hy vọng nơi con trẻ. Rồi mỗi người được cha mẹ đặt tên, được đưa đến Nhà thờ để nhận phép thanh tẩy với một tên Thánh và trở nên con của Thiên Chúa.Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.
Ngày nay, nhiều gia đình có truyền thống kỷ niệm và mừng ngày sinh nhật của các thành viên trong gia đình. Đó là một việc làm thật ý nghĩa và nhiều niềm vui. Bởi vì, đã sinh ra trong đời, dù ở cảnh ngộ nào, ai cũng được Đấng Tạo Hóa ban tặng chức phận quý giá, đó là làm người. Qua mạc khải Kinh thánh và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Như vậy, mỗi người trong nhân loại đều được mời gọi theo một hướng đi nhất định để hoàn tất một định mệnh tươi đẹp và một cuộc sống cao cả.
Là Kitô hữu, chúng ta vui mừng tạ ơn và hy vọng về ơn gọi, định mệnh, hướng đi của mình.Thánh Gioan là một mẫu gương tuyệt vời, sống cao đẹp và chết hào hùng.
Lễ Trọng Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả là một lễ lâu đời từ Thế Kỷ thứ bốn. Câu hỏi "Con trẻ này rồi sẽ 24/6-80
Lễ Trọng Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả là một lễ lâu đời từ Thế Kỷ thứ bốn. Câu hỏi "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào?" được những người đương để bụng suy nghĩ, ngày hôm nay, con trẻ này vẫn còn nhiều câu hỏi, cụ thể như: Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể làm vậy?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6?
Lý do tại sao lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends( ngày mùng 1), ides(ngày 15) và nones(ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Elizabeth chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói: Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên nước Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo Hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong bụng mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo Hội cử hành lễ sinh nhật của ngài.
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn Sứ Isaia và Thánh Vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: "Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người." (Is 49, 1-3) Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con...Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. (Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta: "Con mới là bao thai, mắt Ngài đã thấy." (Tv 138,16)
Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: "Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người." (Lc 1, 76)
Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa. Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ chối hay biếng nhác nhận lãnh bí tích đi nghịch lại lương tâm của mình, gây lâm nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường, khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo Hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu thuộc về một bản tính khác.
Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: " Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời" (Lk 1:13-14). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ 21, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ này.
Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Elizabeth và ông Giacaria, đang chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen.
Trong lịch Phụng Vụ, ngoài Chúa Giêsu và Đức Maria, thì chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được Giáo Hội 24/6-81
Trong lịch Phụng Vụ, ngoài Chúa Giêsu và Đức Maria, thì chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật; và đây là một vinh dự vô cùng to lớn mà Giáo Hội dành cho ngài.
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh, Lễ Sinh nhật sẽ rơi vào tháng 6, cụ thể 24/6. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin, người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày tái sinh trên trời.” Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời,: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giêsu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giêsu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Riêng thánh Gioan Tẩy Giả có 2 ngày Lễ kính trong năm:
+ Ngày 24/6: Mừng Sinh nhật Gioan Tẩy Giả. + Ngày 29/8: Lễ kính Gioan Tầy Giả bị chém đầu.
Khi nhắc tới Thánh Gioan Tẩy Giả là nhắc tới “người dọn đường”: Dọn đường cho chính Chúa, dọn đường cho các tâm hồn đến với Chúa và dọn đường cho Chúa đến với các tâm hồn. Và ngài đã chu toàn sứ mạng này cho đến chết.
Nhìn về cuộc đời thánh Gioan, với con mắt phàm trần, có thể nói rằng, ngài đã thất bại, một thất bại chua chát, một cuộc đời kết thúc không có hậu. Thế nhưng với cái nhìn đức tin và theo chương trình và ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa thì đây là một kết thúc quá mỹ mãn.
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên “theo hình ảnh của Thiên Chúa”, “có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa” và “chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa”. Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: “Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu.
Theo gương Gioan, ta hãy sống gắn chặt với sứ mạng của Chúa Giêsu, để làm cho sự kiện chào đời của mình trở thành thực sự là “hồng ân sự sống”. Amen. LƯỚT QUA CÁC BÀI ĐỌC:
Các Bài Đọc trong ngày Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy sự sắp xếp nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc sửa soạn cho nhân loại một Người Tôi Trung để chuộc tội và mang lại ơn cứu độ cho con người.
TRONG BÀI ĐỌC I Trích sách Tiên tri Isaia, Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung Thiên Chúa, tiên tri Isaia tường thuật việc Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại một Người Tôi Trung và trao cho Ngài một sứ vụ gồm hai phần: mang vinh quang cho dân tộc Israel và trở nên ánh sáng cứu độ cho các dân tộc.
TRONG BÀI ĐỌC II Trích sách Tông đồ Công vụ, Sách CVTĐ tường thuật một phần Bài Giảng của Phaolô tại Antiokia, Pisidia. Phaolô muốn cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đã được tường thuật bởi các tiên-tri và Thánh Vịnh: Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một Đấng Cứu Độ từ giòng dõi Vua David, và ông Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị, làm chứng, và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô để lãnh nhận ơn cứu độ.
TRONG BÀI TIN MỪNG theo thánh Luca, thánh-sử Luca tường thuật những biến cố lạ lùng xảy ra chung quanh việc chào đời của Gioan Tẩy Giả. Tất cả những biến cố này chỉ cho thấy Thiên Chúa đã dùng ông để đi tiên phong dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô, và Gioan đã dùng cả cuộc đời ông để chu toàn sứ vụ và làm chứng cho Đức Kitô.
ĐI VÀO BÀI TIN MỪNG:
“KHI ĐẾN NGÀY SINH, BÀ ÊLISABETH SINH HẠ MỘT CON TRAI”
Vâng, mọi sự diễn ra đúng như lời Sứ thần Gabrien đã truyền tin. Kế hoạch của Thiên Chúa phải được thực hiện vì Giờ cứu độ đã đến. Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa như một dòng chảy, nó phải được liên tục, không một lực nào có thể cản được. Luca viết: “Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai”.
Gioan là Vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, ông phải đi trước Đấng Cứu Thế, đi trước về nhiều mặt: đi trước sự kiện truyền tin, mang thai và hạ sinh. Trên thực tế, ngày Gioan sinh ra cách ngày sinh của Hài nhi Giêsu 06 tháng.
“LÁNG GIỀNG BÀ CON NGHE BIẾT CHÚA ĐÃ TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO ĐỐI VỚI BÀ LIỀN ĐẾN CHÚC MỪNG BÀ”.
“Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà” có nghĩa, người ta không bao nghĩ đến việc bà Êlisabth có thai trong lúc tuổi già và lại sinh đẻ mẹ tròn con vuông, vì ai cũng nghĩ số phận của bà đã được an bài, không còn hy vọng gì nữa. Người ta thương hại bà, chứ không dám chì chiết, vì 02 ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì. Luca viết: “Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì.” (Lc 1, 5-6).
Như vậy việc bà Êlisabeth có thai và sinh con, đó là hồng ân Chúa ban. Ta hãy để ý cụm từ “TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO”, Luca muốn nhấn mạnh, không phải là Thiên Chúa thương, mà là quá thương. Vâng từ “lớn lao” muốn nói đến một hồng ân vĩ đại, nó đã vượt qua mọi giới hạn và tuôn đổ xuống cho một con người, giải tỏa tất cả mọi bế tắc vẫn tồn đọng bấy lâu.
“Láng giềng và thân thích liền đến chúc mừng bà”. Đứng trước hồng ân vĩ đại này, mọi người, vâng tất cả mọi người (láng giềng + thân thích) đều đến chia vui, chia vui có nghĩa họ cũng muốn vui với niềm vui của bà, như thánh Phaolô đã viết trong thư Rôma: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.” (Rm 12, 15). Niềm vui của bà Êlisabeth đã lan tỏa cho mọi người, để ai cũng cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa ban cho mình.
“NGÀY THỨ TÁM, NGƯỜI TA ĐẾN LÀM PHÉP CẮT BÌ CHO CON TRẺ, VÀ HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ..”
PHÉP CẮT BÌ TRONG ĐẠO DO THÁI
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
“Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì”. Khi Gioan được 08 ngày, họ (những người thi hành phận sự) đến để cắt bì cho con trẻ theo luật định.
“HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ”.
Tại sao những người làm việc cắt bì này lại có quyền làm việc đặt tên cho em? Quyền đặt tên phải thuộc về người cha, ông Dacaria. Họ muốn qua mặt ông Dacaria sao? thưa: Không phải vậy, vì ông Dacaria lúc này đang bị câm không nói được, họ muốn làm luôn việc này và lấy tên cha đặt cho con là điều hết sức bình thường. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp qua người mẹ. Cho dù người cha vì khiếm khuyết không thực hiện được việc đặt tên, thì còn người mẹ.
“NHƯNG BÀ MẸ ĐÁP LẠI RẰNG: “KHÔNG ĐƯỢC, NÓ SẼ GỌI TÊN LÀ GIOAN.”
Bà Êlisabeth đã am tường sự kiện ông Dacaria được Sứ thần truyền tin và những gì Sứ thần đã nói với ông, nên bà phải làm theo lời Sứ thần truyền, bà lên tiếng không đồng ý việc này. “nó sẽ gọi tên là Gioan”, có nghĩa mặc dù bà chỉ là phụ nữ, không có quyền đặt tên cho con khi người cha còn sống, nhưng bà có quyền lên tiếng phản đối trong việc này và đòi phải đặt tên là Gioan.
“HỌ BẢO BÀ RẰNG: “KHÔNG AI TRONG HỌ HÀNG BÀ CÓ TÊN ĐÓ”.” RỒI HỌ LÀM HIỆU HỎI NGƯỜI CHA, XEM ÔNG MUỐN ĐẶT TÊN CHO EM BÉ LÀ GÌ.”
Cái tên Gioan, nghĩa là “Chúa thương”. Luca thật sâu sắc khi viết: “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy”, không ngờ cái tên Gioan lại nói lên tình thương của Thiên Chúa đã dành cho bà Êlisabeth, thật là sự trùng hợp có ý nghĩa.
Nhưng cái tên Gioan lại gây bất ngờ cho những người đang có mặt, nếu không lấy tên cha thì chí ít cũng phải lấy tên ai đó trong dòng họ, đàng này, cái tên Gioan rất xa lạ. Bây giờ tất cả sẽ do người cha quyết định, nhưng vì ông bị câm (có lẽ ông Dacaria cũng bị điếc luôn, vì thường câm đi với điếc) nên họ ra hiệu hỏi ông Dacaria.
“ÔNG XIN MỘT TẤM BẢNG VÀ VIẾT: “TÊN NÓ LÀ GIOAN”. VÀ MỌI NGƯỜI ĐỀU BỠ NGỠ.”
“Tên cháu là Gioan”, đó là quyết định cuối cùng và là quyết định của người cha. Ông đã đặt tên cho hài nhi đúng theo tên mà Sứ thần đã truyền cho ông. Như vậy, hài nhi Gioan là người Chúa thương.
Tên Gioan còn mang thêm một ý nghĩa nữa: Tên John (hay Gioan), là chữ viết tắt của tiếng kép Do-thái “Jeho-hannah;” có nghĩa “quà tặng của Jehovah,” hay “hồng ân Thiên Chúa.” Cả hai, ông Dacaria và bà Elisabeth, đều muốn đặt tên con như thế, vì ông bà biết đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ.
TÊN LÀ NGƯỜI.
Tùy vào ước vọng cha mẹ muốn cho con ra sao, trở thành gì, hay kỷ niệm biến cố gì; họ sẽ đặt tên con như thế. Ngày xưa, người ta thường chọn tên cho con với cái tên khó nghe, vì họ quan niệm sai lầm và mê tín, tên càng xấu bao nhiêu thì thần thánh càng chê bấy nhiêu nên được sống lâu. Vấn đề có được sống lâu hay không, điều đó không thể khẳng định, nhưng rõ ràng nó có tác hại về mặt tâm lý, người ta sẽ không tự tin cho đủ khi bước vào đời sống xã hội với một cái tên khó nghe như vậy.
Ngày nay, người ta chú trọng việc đặt tên. Phần tên họ: thường có sự lắp ghép giữa họ cha và họ mẹ, còn tên gọi, người ta có khuynh hướng chọn tên nói lên: nhân nghĩa lễ trí tín, nói lên cái đẹp, hoặc hướng tới sự thành công. Dù là tên xấu hay tên đẹp, nguyên việc đặt tên, nó đã nói lên quyền của cha mẹ trên con cái. Đây là một trong những điều mà NGƯỜI CON KHÔNG CÓ QUYỀN CHỌN LỰA, cho dù xã hội có đề cao sự tự do đến đâu. Sau này người ta có thể chọn thêm cái tên khác cho mình, ví dụ bút hiệu, nickname (trên facebook) … nhưng cái tên cha mẹ đặt vẫn luôn đi với mình cho đến hết cuộc đời này, không ai có quyền thay đổi và cơ chế xã hội sẽ bảo vệ quyền hợp pháp của cha mẹ.
“AI NẤY ĐỀU BỠ NGỠ. NGAY LÚC ẤY, MIỆNG LƯỠI ÔNG LẠI MỞ RA, ÔNG NÓI ĐƯỢC, VÀ CHÚC TỤNG THIÊN CHÚA.”
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được”. Những người đang hiện diện muốn biết lý do ông Dacaria đặt tên con trẻ là Gioan, thì một sự lạ đã xảy ra trước mắt họ, ông Dacaria đã nói được. Ai nấy đều kinh ngạc..
Luca muốn lặp lại lời Sứ thần Gabrien đã nói với ông trong lúc truyền tin: “Sứ thần đáp: “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” (Lc 1, 19-20)
“Cho đến ngày các điều ấy xảy ra”, đó là ngày hài nhi được sinh ra và lúc Dacaria đặt tên cho con trẻ là Gioan. Như vậy, thời gian ấn định cho hình phạt của Sứ thần đã kết thúc.
“Và chúc tụng Thiên Chúa.” Khi ông Dacaria nói được, việc đầu tiên ông làm là chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải khoe khoang với mọi người. Luca không nói Dacaria đã chúc tụng những gì, nhưng ai cũng hiểu được: ông chúc tụng Thiên Chúa vì đã thương ông bà quá bội, Ngài đã ban cho 02 ông bà một người con trong lúc tuổi già, cất đi sự tủi nhục của họ, đàng khác đứa con này là sẽ là vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Ông nhớ lại lời Sứ thần đã nói với ông: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” (Lc 1, 15-17).
Chúng ta cũng gặp nhiều ơn Chúa ban cho mình, ơn Chúa ban không thể nào kể hết, nhưng có bao giờ ta nhận ra chưa? Ơn Chúa rất nhiều và chúng đan xen vào nhau đến nỗi ta khó lòng nhận ra chúng. Chúa đâu có hiện ra để nói cho ta biết ơn này ơn nọ mà ta đã nhận. Chính vì Chúa không nói, nên Ta cứ nghĩ mình gặp may mắn. May mắn làm sao được, khi nó xảy ra quá trùng hợp và rất kịp lúc, phải có bàn tay vô hình nào đó nhúng vào. Nếu đời ta cứ cắt nghĩa là do may mắn, thì ta không thể tiến lên được trên đàng nhân đức, con người của ta cứ ì ạch, ẫu trĩ.
Có bao giờ ta biết chúc tụng Chúa chưa? Mà cứ ngửa tay xin hết ơn này đến ơn khác, cứ y như Chúa có bổn phận phải ban ơn cho ta. Ta hãy nhắm mắt lại để lắng đọng tâm tư mình, ta bất chợt nhớ lại những sự kiện xảy ra mà ta không thể nào cắt nghĩa được, cứ y như có bàn tay ai đó can thiệp vào đời ta vậy. Ta hãy học nơi ông Dacaria bài học hôm nay: “miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.”
“LÁNG GIỀNG AI NẤY ĐỀU KINH SỢ. VÀ CÁC SỰ VIỆC ẤY ĐƯỢC ĐỒN RA KHẮP MIỀN NÚI GIU-ĐÊ. AI NGHE CŨNG ĐỂ TÂM SUY NGHĨ VÀ TỰ HỎI: “ĐỨA TRẺ NÀY RỒI RA SẼ THẾ NÀO ĐÂY?” VÀ QUẢ THẬT, CÓ BÀN TAY CHÚA PHÙ HỘ EM.”
“Láng giềng ai nấy đều kinh sợ”, vâng họ sợ vì chung quanh việc hài nhi Gioan sinh ra có quá nhiều sự lạ, liên kết nhau cách tuần tự, sự lạ này nối tiếp sự lạ kia. Trước hết là ông Dacaria bị câm khi từ Đền thờ bước ra khi xong việc tế tự. Không ai biết điều gì đã xảy ra vì ông bị câm (có lẽ cũng bị điếc luôn, vì câm và điếc là 02 bệnh phải đi với nhau do 02 dây thần kinh liên quan đến nhau). Thứ đến là việc bà Êlisabeth có thai trong lúc tuổi già. Thứ ba là việc đặt tên không theo truyền thống và cuối cùng ông Dacaria nói được sau khi đặt tên cho con là Gioan. Họ kinh sợ vì những sự lạ ấy không thể nào giải thích được.
Thử hỏi rằng có ai giải thích được việc Chúa làm chưa? Trước những sự lạ, hay còn gọi là phép lạ ta chỉ còn biết chiêm ngưỡng, chúc tụng, không giải thích. Vì khi giải thích, ta đã đưa mình vào chỗ kiêu ngạo và lố bịch. Ta chỉ còn biết kinh ngạc như những người trong nhà ông Dacaria hôm nay.
“Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê.” Nhà ông Dacari ở miền núi Giuđêa, nơi có Thành thánh Giêrusalem và Đền thờ Giêrusalem. Chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn, và các phái lãnh đạo Do Thái: Kinh sư, Pharisêu sẽ để tâm đến.
“Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.” Vâng đã có nhiều sự lạ xảy ra cho hài nhi Gioan, nó cho phép người ta đặt dấu hỏi về tương lai của em. Chắc chắn em không thể là người bình thường được. Luca nhấn mạnh: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”, như vậy bàn tay Thiên Chúa sẽ dẫn dắt Gioan đi đúng hướng mà Thiên Chúa đã định. Tiền hô cho Đấng Cứu Thế.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng. Khi Rửa tội một em bé mới sinh, chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao? Đâu là định mệnh tương lai của em?… Tất cả những câu hỏi đó đang nằm ở phía trước mà với thời gian sẽ lần lượt bóc trần thánh ý Chúa dành cho mỗi người.
Nhưng với Gioan Tảy Giả người ta đã thấy được phần nào trong ngày Sinh nhật này rồi, vì thế Luca viết: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Câu chuyện ngày Gioan chào đời bắt đầu bằng niềm vui của láng giềng và kết thúc bằng một dấu hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Dễ hiểu niềm vui này: vui vì một con người được sinh ra, hơn thế nữa, vui vì em bé này là đứa con của lòng dạ son sẻ. Và còn một niềm vui nữa mà láng giềng chỉ mới cảm nhận lờ mờ: Em bé này có một sứ mạng gắn liền với Đấng Mê-si-a, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Thế nhưng nếu như biết trước được rằng Gioan sẽ kết thúc cuộc đời bằng những ngày tăm tối và cái chết bi thảm trong tù ngục, thì liệu niềm vui chào đời này có trở thành vô duyên, hụt hẫng không? Câu hỏi “đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây” đưa chúng ta đến chỗ cảm nghiệm đầy đủ ý nghĩa của niềm vui trong toàn bộ đời sống và sứ mạng của Gioan: đó là sinh ra để thi hành sứ mạng ngôn sứ dọn đường cho Đức Kitô và chết đi cũng là để hoàn thành sứ mạng ấy.
Những người đang hiện diện hôm nay, sẽ đáp ứng mau lẹ lời kêu gọi của Gioan trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3, 4-6). Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con chỉ biết sống và chết cho Chúa, vì đó là cách tốt nhất để con sống đời con. Amen.
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1, 64).
Đời sống con người là một cuộc liên lỉ tìm kiếm sự thiện và quy hướng về sự thiện. Ai cũng muốn sự tốt lành 24/6-82
Đời sống con người là một cuộc liên lỉ tìm kiếm sự thiện và quy hướng về sự thiện. Ai cũng muốn sự tốt lành và bình an trong đời. Mong ước đó luôn thôi thúc con người sống một đời tốt lành. Đối với người Kitô hữu, quy hướng về sự thiện là hướng về Thiên Chúa, Đấng là Sự Thiện Tuyệt đối, bằng một đời sống công chính và thánh thiện theo đường lối của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một mẫu gương về đời sống công chính của ông Dacaria và bà Elisabeth.
Hai ông bà được Tin mừng thánh Luca nhắc đến như những người có đời sống công chính vì đã “sống đúng theo mọi giới răn và mệnh lệnh của Thiên Chúa, không ai chê trách được điều gì”(Lc 1, 6). Trong Cựu ước, người công chính là người luôn chu toàn luật Chúa và làm việc bác ái, là người sống đời phó thác, tin yêu dù cho những khó khăn thử thách có làm cho chao đảo. Suốt cuộc đời phải chịu nỗi tủi hổ vì son sẻ, cùng những ánh mắt dèm pha của người đời, hai ông bà vẫn luôn trung thành tuân giữ luật Chúa và không xao lãng việc phụng thờ Thiên Chúa. Ngay cả khi phải đối diện với những truyền thống khắt khe của người đời, hai ông bà luôn lấy sự trung thành với luật Chúa làm kim chỉ nam cho mình. Kết quả như chúng ta được biết: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho hai ông bà, khi Ngài ban cho bà Elisabeth được thụ thai và hạ sinh thánh Gioan Tẩy Giả.
Là những người Kitô hữu, sống đời công chính phải là mục tiêu hàng đầu mà chúng ta hướng tới. Chỉ khi sống kiên trì trong đức tin vào Đức Kitô, chúng ta mới trở nên những người công chính và được sống trong bình an của Người (x.Rm 5, 1). Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô khi chết cho tội và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới. Tất cả là do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Chính vì thế, ơn công chính hoá đòi buộc nơi chúng ta sự tự do đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, qua việc tuân giữ những điều Chúa Giêsu đã dạy, hết lòng tôn thờ Thiên Chúa và yêu mến tha nhân, chu toàn tốt bổn phận của một Kitô hữu và bổn phận của công dân trần thế. Nếu chúng ta một lòng trung thành tuân giữ điều Chúa dạy, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui và bình an. Đó chính là phần gia nghiệp Chúa hứa ban cho những ai sống công chính trước Thánh nhan Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã chết và đã phục sinh để chúng con được sống một đời sống mới. Xin ban thêm sức mạnh giúp chúng con luôn kiên tâm tuân giữ lời Chúa chỉ dạy, để đời sống chúng con được nên công chính mỗi ngày, hầu xứng đáng lãnh nhận phần thưởng cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con trên thiên quốc. Amen.
Theo lời Chúa Giêsu, ông Gioan là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ 24/6-83
Theo lời Chúa Giêsu, ông Gioan là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
LỊCH SỬ
Lễ kính thánh Gioan Tẩy Giả có từ thế kỷ thứ V, và được đặt vào ngày 24/6, 6 tháng trước lễ Giáng Sinh. Thánh Gioan là vị Thánh được đạc biệt mừng kính vào ngày sinh nhựt thực sự của mình. Toàn thể các Thánh khác đều được mừng vào ngày tứ trần, tức là ngày sinh nhựt trên nước trời.
Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối.
Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan. Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến.
Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
CHIA SẺ VÀ SUY NIỆM
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Khi cậu bé Gioan Tẩy Giả chào đời, người ta cũng đã hỏi tương tự: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” ( Lc 1, 66 ). Với câu hỏi ấy chúng ta đã có câu trả lời. Cậu bé Gioan càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-el. Gioan đã đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái khi nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Thánh Gioan Tông Đồ đã tóm tắt cuộc sống của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Dưới cái nhìn của con người, như có lần Chúa Giêsu đã khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị Ngôn Sứ được xem là cao cả nhất trong lịch sử Ít-ra-el ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị nào trước ngài đã quy tụ được… Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và chấp nhận bị chém đầu.
Gioan nhỏ lại trong cái chết, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong mầu nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về cái chết của Chúa Giêsu… Nhưng cũng trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa… Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào việc mạc khải diệu kỳ của tên Gioan và biến cố cắt bì đặt tên, hơn là biến cố chào đời của ông Gioan Tẩy Giả. “Yôhannan” ( Gioan ) có nghĩa là: “Đức Chúa tỏ lòng nhân hậu”; “Đức Chúa tỏ lòng xót thương”; “Đức Chúa ban ơn”. Ngang qua cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng từ bi nhân hậu và giàu lòng xót thương. Thiên Chúa đã, đang và sẽ thi thố quyền năng của Ngài cho mọi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều được cha mẹ đặt tên, khi đặt tên cho con cái cha mẹ nào cũng muốn qua cái tên ấy con cái mình được dễ nuôi, khi lớn lên có cuộc sống thành đạt. Ngày chúng ta chịu phép Rửa Tội, chúng ta lại có một tên mới, gọi là tên Thánh. Khi chọn một vị Thánh làm bổn mạng là ta muốn vị Thánh ấy cầu bầu và che chở chúng ta và chúng ta noi gương bắt chước vị Thánh ấy trên đường nhân đức để nên Thánh.
- Vậy sự hiện diện của chúng ta đã thực sự là “niềm vui và hy vọng” cho chính mình và cho người khác hay chưa?
- Con cái có là niềm vui và hy vọng cho bố mẹ hay không?
- Bố mẹ có là niềm vui và hy vọng cho con cái hay không? Hay là bố mẹ vẫn còn ích kỷ chỉ biết lo cho chính mình, vẫn biện minh cho những hành động sai trái và tội lỗi của mình, sống buông thả theo rượu chè, cờ bạc, ngoại tình và hưởng thủ và nhất là nạo phá thai, tức là nhẫn tâm giết con của mình khi chúng mới được hình thành trong dạ mẹ. Vợ chồng ly dị để con cái bơ vơ. Ai là vợ là chồng đã biết mang lại niềm vui và hy vọng cho người bạn đời của mình chưa? Hay là vợ chồng trở thành gánh nặng cho nhau, bạo hành trong gia đình, lừa dối và phản bội nhau, không còn thuỷ chung.
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta có tên Thánh, nhưng thực sự cuộc sống của chúng ta đã soi lấy tấm gương vị Thánh bổn mạng của mình hay chưa. Hay nói cách khác cuộc sống của chúng ta đã nói lên được rằng: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, Thiên Chúa tỏ lòng xót thương và Thiên Chúa ban ơn hay chưa? Để rồi mỗi người chúng ta cũng là món quà để trao ban cho người khác và nhất là chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, ngõ hầu chúng ta là hiện thân của lòng nhân hậu, lòng xót thương của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là “tôi phải nhỏ lại để Ngài được lớn lên”. Chúng ta có nhỏ đi trong khiêm tốn để tránh được cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chính mình, chúng ta có chấp nhận teo tóp lại tất cả những ham muốn ganh tỵ bất chính của chính mình, chúng ta có mong muốn vỡ vụn tan biến tất cả những hận thù nhỏ nhen của chính mình, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Chúng ta cầu nguyện sao cho bản thân và cho mọi người được luôn là cầu nối giữa Thiên Chúa với con người, là cầu nối giữa con người với nhau, như một bài hát đã diễn tả: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô nẩy sinh tình đệ huynh”. ------------------------------
Chúng ta vừa được nghe những bài đọc lời Chúa. Những bài đọc đó xác tín về ơn gọi của vị ngôn sứ. 24/6-84
Chúng ta vừa được nghe những bài đọc lời Chúa. Những bài đọc đó xác tín về ơn gọi của vị ngôn sứ. Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Isaia. Qua bài đọc này, chúng ta bắt gặp cảm nhận cũng như kinh nghiệm về ơn gọi của Isaia. Isaia đã xác tín: Đức Chúa gọi tôi, từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời. Ơn gọi không phải là sự bất chợt nhưng là một sự xác tín sâu xa. Thiên Chúa đã chọn gọi vị ngôn sứ của Người, Thiên Chúa đã thánh hiến vị ngôn sứ bằng chính than hồng để ngôn sứ ra đi loan báo lời của Đức Chúa.
Chắc hẳn khi phụng vụ chọn lựa bài đọc này, muốn chúng ta nhìn về ơn gọi của vị tiền hô Gioan. Thánh Gioan cũng được chọn lựa ngay từ khi còn trong lòng mẹ để trở nên một đấng đi trước dọn lối cho Đấng Mesia. Thánh Gioan cũng xác tín vào ơn gọi của mình, để suốt cuộc đời của mình, Gioan đã trở nên tiếng hô loan báo Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã khắc họa hình ảnh của một vị ngôn sứ thật sống động trong lời nói và đặc biệt trong đời sống của mình. Ông đã giới thiệu Chúa Giêsu trong con người của mình. Qua cảm nhận về ơn gọi của Isaia, cảm nhận về ơn gọi của Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để xác tín về ơn gọi của mỗi chúng ta trở thành nhân chứng của Lời. Để lời giảng của chúng ta có sức biến đổi, có sức diễn tả về Chúa cho anh chị em của mình. Xưa kia Isaia đã chuẩn bị những con đường cho Đức Chúa đến với dân. Hãy dọn con đường trong hoang địa, những con đường ấy dẫn Chúa đến với dân tộc lưu đầy.
Và rồi nếu ta đọc Tin Mừng Luca, ta cũng sẽ bắt gặp những lời như vậy được diễn tả cho Gioan. Trong hoang địa, có tiếng hô hay có tiếng người hô trong hoang địa hãy dọn con đường cho Đức Chúa. Thánh Gioan đã dọn con đường để giới thiệu Chúa Giêsu: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngày hôm nay, chúng ta giới thiệu về Chúa như thế nào cho anh chị em của chúng ta? Làm sao ta có thể như Isaia, đem Chúa đến cho một dân tộc lưu đầy? Ngày hôm nay, chúng ta được mời gọi đến với anh chị em không phải trong hoàn cảnh lưu đầy về địa lý, mà có thể đang lưu đày trong những hoàn cảnh khác nhau: đang thiếu thốn tình thương, đang thiếu thốn sự công chính, đang thiếu thốn sự nhận biết Thiên Chúa. Đó phải là những biên cương mà ngôn sứ cần loan báo. Cũng như thánh Gioan đã chấp nhận trở nhận trở nên nhỏ bé, đã khiêm tốn:không đáng cởi dây dép cho Đấng Cứu Thế. Chính sự khiếm tốn ấy đã giúp Gioan hạ mình để cho Chúa được lớn lên. Khi giới thiệu Chúa cho anh chị em của mình, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi mỗi ngày trở nên khí cụ sống động đẻ loan báo nước Chúa cho anh chị em. Xin Chúa củng cố lời giảng của mỗi người chúng ta bằng những chứng từ sống động. Amen.
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Đoạn Tin mừng chúng ta 24/6-85
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe tường thuật lại biến cố Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra. Biến cố này không chỉ là niềm vui cho ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, mà còn là niềm vui cho cả dòng tộc và làng xóm láng giềng xung quanh. Thánh sử Luca cho ta biết, khi Gioan được sinh ra,“láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà” (Lc 1,58). Đoạn Tin mừng hôm nay cũng kể lại việc đặt tên cho con trẻ sau biến cố Gioan được sinh ra tám ngày. Đây cũng là một việc lạ lùng và thể hiện sự quan tâm của ông bà và anh em họ hàng. Thánh Luca kể lại: “Họ lấy tên Da-ca-ri-a của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan. Họ bảo bà rằng: Không ai trong họ hàng bà có tên đó. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: Tên nó là Gioan. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó” (Lc 1,59-66). Sau đó, Thánh Luca tóm gọn cuộc sống ẩn dật của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu kết của đoạn Tin mừng: “Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel” (Lc 1, 80).
Cả hai biến cố trên đây (ngày sinh và ngày đặt tên) và việc “con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng” cho chúng ta thấy niềm vui mừng và sự quan tâm săn sóc không chỉ của vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét mà còn là niềm vui và sự quan tâm của cả dòng tộc, của láng giềng đối với sự chào đời và lớn lên của trẻ Gioan. Vậy, thử hỏi phải chăng con trẻ nào cũng được đón chào và quan tâm như thế không? Chắc chắn là không! Thời nào cũng vậy, chúng ta có thể thấy được điều này xuyên qua ba thái độ sau:
Thái độ vui mừng và đón nhận đầy tinh thần trách nhiệm: Mới đây có một đôi vợ chồng trẻ nói với tôi: Chúng con đã cưới nhau được mấy năm rồi mà chưa có “dấu hiệu” gì cả. Xin cha cầu nguyện cho vợ chồng con sớm có em bé. Ước mong của đôi vợ chồng trẻ trên đây cũng là mong ước của rất nhiều cặp vợ chồng khác. Khi mới cưới nhau họ mong muốn sớm có em bé. Vì thế, họ vui mừng khi biết có em bé đã hình thành trong lòng mẹ. Nhất là khi việc đó đến với những cặp vợ chồng hiếm muộn. Chính bà Ê-li-sa-bét, khi biết mình có thai đã vui mừng thốt lên rằng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25). Tâm trạng của các bậc làm cha mẹ lúc này là: Họ vui mừng chờ đợi ngày em bé chào đời. Họ lo lắng làm thế nào để đứa trẻ chào đời được khỏe mạnh. Cũng vì thế, nên họ tạo mọi điều kiện cho đứa trẻ được lớn lên trong môi trường tốt nhất. Khi đứa trẻ được sinh ra, họ cho đứa trẻ được ăn uống điều độ. Họ giáo dục đứa trẻ một cách toàn diện: nhân bản, tri thức và đạo đức. Họ giúp đứa trẻ vui chơi lành mạnh. Nhờ thế, đứa trẻ lớn lên trở thành người tốt, có ích cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội.
Thái độ vô trách nhiệm hoặc dửng dưng: Rất nhiều bậc cha mẹ thiếu trách nhiệm trong việc chuẩn bị cho đứa trẻ trước khi sinh ra. Vô trách nhiệm khi đứa trẻ được chào đời. Họ không sẵn sàng đón nhận đứa trẻ chào đời. Họ không quan tâm giáo dục đứa trẻ nên người. Họ không làm gương sáng. Thậm chí, họ còn làm gương mù gương xấu, đó là lối sống bất hòa, ly thân, ly dị…Để lại hậu quả là: có những đứa trẻ không được chào đời; có những đứa trẻ không được giáo dục về đời sống nhân bản, tri thức và đạo đức; có những đứa đứa trẻ phải trở thành bụi đời, bị băng hoại bởi môi trường xấu; có những đứa trẻ trở thành nạn nhân của sự lạm dụng: lạm dụng tính dục; lạm dụng sức lao động; lạm dụng để làm những điều bất chính. Cuối cùng, chúng trở nên ghánh nặng cho gia đình, Giáo hội và xã hội.
Thái độ khước từ sự sống: Nhiều cặp vợ chồng muốn hạn chế việc sinh con cái. Họ muốn theo chủ trương của xã hội là sinh 1 đến 2 con. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do trên hết là vì họ ích kỷ không muốn hy sinh. Vì thế, khi vỡ kế hoặch, họ quyết định phá thai. Ngoài ra, có những trường hợp phá thai vì hậu quả của những quan hệ bất chính. Theo thống kê của WHO mỗi năm trên thế giới có khoảng 46 triệu phụ nữ phải nạo phá thai, chỉ có 27 triệu ca nạo phá thai hợp pháp và số còn lại là 19 triệu ca bất hợp pháp. Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ nạo phá thai đứng đầu Đông Nam Á và xếp thứ 5 trên Thế giới. Bình quân mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, chủ yếu là ở độ tuổi từ 15 - 19, trong đó 60% - 70% là học sinh, sinh viên (Nguồn: internet). Thái độ của những người trên đây là thái độ từ chối sự sống. Thái độ của những người này cướp đi quyền sinh tử của Thượng Đế.
Thái độ của chúng ta thì sao? Giáo hội luôn mời gọi mọi người kitô hữu, nhất là những bậc làm cha mẹ phải biết tôn trọng sự sống ngay từ khi mới hình thành trong lòng mẹ. Không được phép phá thai dưới bất cứ hình thức nào. Vì phá thai là giết người và đó là một tội ác. Giáo luật dạy: “Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết” (Đ. 1398). Không chỉ tôn trọng sự sống ngay khi còn ở trong lòng mẹ, mà còn cần phải có trách nhiệm bảo vệ các trẻ em vị thành niên. Phải quan tâm giáo dục chúng nên người, không để chúng rơi vào các tệ nạn xã hội. Không để chúng bị lạm dụng tính dục, sức lao động hay bị lợi dụng để làm những điều bất chính. Thư chung của HĐGM Việt Nam năm 2013 dạy rằng: “Gia đình là cộng đoàn phục vụ sự sống, được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng Sống. Vợ chồng Kitô hữu yêu thương nhau bằng một tình yêu mở ra với sự sống, tôn trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai, cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách nhiệm, giáo dục con cái nên người tốt và nên con cái Chúa. Gia đình phải là ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của mình”(x. số 6).
Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ.” Chúng ta có thể biến hóa câu nói trên thành: “Mỗi đứa trẻ sinh ra có thể là Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh mục, thầy dòng, bà Sr…của Giáo hội hay trở thành người kitô hữu tốt, một công dân tốt.” Khi có cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng như thế, chắc hẳn ai cũng biết tôn trọng sự sống, biết bảo vệ và quan tâm săn sóc các trẻ em. Vì mỗi đứa con sinh ra không đơn giản chỉ là kết quả của tình yêu “tự nhiên”, nhưng là hoa trái, là món quà, và là tặng phẩm mà Thiên Chúa đã thương ban cho chúng ta trong đức tin. Mỗi đứa trẻ còn được Thiên Chúa giao phó cho một sứ mạng tương tự như trẻ Gioan mà chúng ta mừng sinh nhật hôm nay. Ước mong rằng, các bậc cha mẹ luôn biết tôn trọng sự sống của con cái ngay từ khi bắt đầu hình thành trong lòng mẹ. Đồng thời, tất cả các trẻ em ra đời được sự quan tâm và bảo vệ của mọi người.
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tôn trọng sự sống, quan tâm bảo vệ các trẻ em và giúp chúng nên người. Amen.
Chúa Giêsu đã gọi thánh Gioan Tẩy Giả là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến 24/6-86
Chúa Giêsu đã gọi thánh Gioan Tẩy Giả là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối: “Tôi nói cho anh em biết, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7:28).
Thánh Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria (tư tế Do Thái) và bà Êlisabet. Hai ông bà không có con cái dù đã cao niên và quá tuổi sinh con. Thế nhưng Thiên Chúa đã ra tay uy quyền và thương ban cho hai ông bà một người con trai, là chính Gioan. Trong phiên trực của ông Dacaria ở Đền thờ Giêrusalem, thì Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã hiện ra với ông và thông báo rằng vợ chồng ông sẽ sinh con trai, tên con trẻ đó sẽ là Gioan. Ông không tin sứ điệp của Sứ thần Gabriel là sự thật, thế nên ông bị câm cho tới khi Gioan ra đời (Lc 1:5-25). Lúc đó, mọi người trong gia tộc muốn đặt tên cho con trẻ theo tên cha, nhưng ông Dacaria xin tấm bảng và ghi: “Tên cháu là Gioan” (Lc 1:63). Ai cũng thấy lạ. Rồi ông nói được như trước. Mọi người lại càng kinh ngạc hơn. Ông Dacaria liền dâng lời chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca Chúc tụng (Benedictus), nói về thiên chức tiên tri, sứ giả và tiên phong của con trẻ Gioan (Lc 1:67-79).
Thời gian đầu của cuộc đời rao giảng, thánh Gioan sống khổ hạnh trong hoang địa, sau đó ngài bắt đầu rao giảng Nước Trời và kêu gọi mọi người canh tân đời sống. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu đến qua việc làm phép rửa bằng nước để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, còn Đấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Ngài tự nhận mình không đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ngài, là chính Đức Giêsu. Đồng thời ngài cũng đã tỏ thái độ của mình đối với Chúa Giêsu khi nói rằng: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3:30).
Sự cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Khi còn ở trong tù, thánh nhân đã sai một số môn đệ đến hỏi xem Chúa Giêsu có phải là Đấng Thiên Sai hay không. Và ngài đã nhận được câu trả lời rằng Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Không chỉ vậy, chính thánh Gioan cũng đã thông phần đau khổ với Đức Giêsu khi ngài bị chém đầu vì sự trả thù của Hêrôđia.
Thánh Gioan sinh trước Chúa Giêsu khoảng 6 tháng, nên lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào ngày 24-6, trước lễ Giáng sinh đúng 6 tháng. Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong số ít các thánh được Giáo Hội mừng sinh nhật; không chỉ vậy, ngài còn được Giáo Hội nhớ giỗ vào ngày 29-8 hàng năm.
Lạy Thánh Gio-an Tẩy Giả, xin ban cho chúng con lòng can đảm để chỉ biết nói lên sự thật và làm chứng cho sự thật và sống theo sự thật. Xin ban cho chúng con cũng biết nhỏ lại với sự yếu hèn và tội lỗi của mình, để Chúa được lớn lên trong chúng con mỗi ngày. Cũng như xin ban cho chúng con tâm hồn và sức sống của các vị ngôn sứ để chúng con biết làm chứng về Chúa trong cuộc đời chúng con.
Trước lễ Chúa Giáng Sinh 6 tháng, tức ngày hôm nay, cả Giáo Hội hân hoan mừng kính sinh nhật vị 24/6-87
Trước lễ Chúa Giáng Sinh 6 tháng, tức ngày hôm nay, cả Giáo Hội hân hoan mừng kính sinh nhật vị thánh đặc biệt có tên là Gioan Tẩy Giả. Đây là điều ngoại lệ trong phụng vụ Giáo Hội, bởi lẽ, không có một vị thánh nào được mừng sinh nhật ngoại trừ Mẹ Maria và Đức Giêsu. Các vị thánh khác thường được mừng kính ngày sinh nhật của các ngài trên trời, tức là ngày mất. Sự kiện đặc biệt này cho thấy điều cao trọng nơi con trẻ có tên là Gioan. Bởi vì, chính con người, ơn gọi và sứ vụ của Gioan gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu Thế, hay nói cách khác, sứ vụ ngôn sứ của ngài nối liền giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chính vì điều này mà Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ sinh nhật của ngài hôm nay.
Dấu gạch nối giữa Gioan và Đức Giêsu
Mang trong mình sứ vụ tiền hô, nên Gioan đã trở thành người loan tin, chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sứ vụ của ông gắn liền với sứ vụ Đức Giêsu. Vì thế, Gioan đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho nhân loại về Đức Giêsu, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là nội dung Tin Mừng. Gioan là tiếng hô trong hoang địa, còn Đức Giêsu chính là Đấng hiện diện như những gì đã loan báo. Gioan chuẩn bị lòng dân nhớ lại lời hứa bằng việc nhắc cho biết những điều đã được tiên báo về Đấng Mêsia, Đức Giêsu đến đã làm cho những lời tiên trưng về Ngài được ứng nghiệm. Gioan kêu gọi sống công bằng bác ái, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực hiện rõ nét tình thương của Thiên Chúa trên dân của Ngài. Gioan làm phép rửa thống hối và kêu gọi người ta ăn năn, Đức Giêsu đến, Ngài ban ơn tha thứ và cứu chuộc hết mọi người bằng chính máu của Ngài đổ ra trên thập giá.
Tắt một lời, nếu Gioan là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là con đường. Nếu Gioan là tiếng hô trong hoang địa, thì Đức Giêsu chính là nội dung tiếng hô đó.
Như vậy, cuộc đời và sứ vụ của Gioan gắn liền với con người và sứ vụ Đấng Cứu Thế. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi việc truyền tin cho Đức Maria và bà Êlisabét đều chung một sứ thần Gabriel; Gioan và Đức Giêsu là anh em họ hàng với nhau. Cả hai được sinh ra bởi những người phụ nữ rất đặc biệt đã được tiền định. Được đặt tên ngay khi mới truyền tin: Gioan, nghĩa là Tiền Hô; Giêsu nghĩa là Cứu Thế. Gioan chịu tử đạo vì sứ vụ làm chứng cho sự thật, công bằng. Đức Giêsu cũng chết vì lẽ công chính và sự thật để cứu chuộc nhân loại.
Tuy hai cuộc đời gắn liền với nhau, nhưng Gioan luôn ý thức mình chỉ là vai phụ trong một thước phim vĩ đại. Khi đã hoàn tất sứ vụ, ông đã khiêm nhường lui vào hậu trường để cho nhân vật chính xuất hiện.
Gioan là con người khiêm nhường Chính vì sự khiêm nhường của Gioan đã làm cho ngài trở thành vĩ đại, bởi lẽ, nhân đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức. Nếu cuộc đời và sứ của Gioan luôn gắn liền với cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu, thì đức tính khiêm nhường cũng luôn theo sát Gioan an như hình với bóng . Chính vì điều này, mà mỗi khi nói về Gioan, người ta không thể không nhắc đến sự khiêm nhường nơi ông.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể như:
Sau khi đã hoàn tất việc loan báo, Gioan đã: “Để Chúa lớn lên, còn ông nhỏ lại”; bởi vì ông luôn ý thức: “Tôi chỉ là tiếng hô…”.
Hay khi uy tín của ông nổi lên như cồn, nhiều người đã thầm nghĩ đây phải là Đấng Cứu Thế mà bấy lâu dân đang mong ngóng đợi chờ… Lẽ ra ông phải tự hào và khẳng định thân thế, vai trò của mình một cách “hoành tráng!”. Không! Với ông, điều này không thuộc bản chất, vì thế Gioan đã tìm dịp thuận tiện để hướng sự kính trọng của dân về Đức Giêsu, vì thế, khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông đã nói cho các môn đệ của mình về Đức Giêsu rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian….Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài” (Ga 1,15).
Cũng chính vì sự khiêm nhường thẳm sâu, nên Gioan đã không sử dụng uy tín của mình để phục vụ hay đứng về điều bất chính, vì thế, ngài đã sống một cuộc đời ngay thẳng, cương trực, không chấp nhận nhu nhược trước tội lỗi cho dù có được trọng thưởng tiền bạc và chức quyền. Vì thế, Gioan đã chấp nhận chết dưới lưỡi gươm của Hêrôđê khi dám đứng lên phản đối hành vi bất chính của vị vua này. Với tất cả những ưu điểm ấy, nên Gioan đáng được Đức Giêsu trọng thưởng khi nói: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11). Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về bổn phận ngôn sứ của mình đã lãnh nhận ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Ngày ấy, chúng ta được mời gọi trở nên Ánh Sáng cho mọi người, tức là chiếu dọi Ánh Sáng của Đức Kitô cho anh chị em chúng ta.
Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều được mời gọi trở nên sứ giả cho Đức Kitô.
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
Bên cạnh đó, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên sứ giả Tin Mừng trong sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, sứ vụ bị phá hoại.
Mỗi người cần thuộc nằm lòng và đem ra áp dụng trong cuộc sống câu nói và lựa chọn của Gioan khi xưa: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Hơn nữa, Giáo Hội cũng nhắc lại cho chúng ta sứ điệp mà Gioan đã loan báo, đó là: sám hối. Hành vi sám hối là động thái cho mọi người mọi nơi. Không sám hối thì không được cứu độ.
Cuối cùng, noi gương Gioan, chúng ta không có con đường nào khác để trở nên chứng nhân cho Chúa thực sự nếu không sống sự thật. Bởi vì Tin Mừng và con người Đức Giêsu chính là sự thật toàn vẹn. Nếu không sống sự thật, chúng ta loan báo lệch lạc sứ vụ Tin Mừng nếu không muốn nói là phản bội sứ vụ. Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ý thức được vai trò quan trọng của mỗi người khi được Chúa cho xuất hiện trên trần gian này. Xin cũng ban cho mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận trong lòng mến và khiêm nhường như Gioan khi xưa. Amen.
Khi nhắc đến thánh Gioan Tẩy Giả, có thể điều đọng lại nơi tâm trí chúng ta là tâm tình của Mùa 24/6-88
Khi nhắc đến thánh Gioan Tẩy Giả, có thể điều đọng lại nơi tâm trí chúng ta là tâm tình của Mùa Vọng với tiếng kêu đầy chất vấn trong hoang địa và cuộc tử đạo hào hùng của một con người luôn đứng về phía chân lý.
*** Kính thưa cộng đoàn
Hai hình ảnh nhưng cùng một hướng đi và có cùng một điểm xuất phát. “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Is 1,5). Chúng ta đang muốn nói đến ngày sinh của Gioan Tẩy Giả, với bậc Lễ trọng mà hàng năm Giáo hội cử hành, bên cạnh lễ sinh nhật của Chúa Giêsu và Mẹ Maira.
Thưa cộng đoàn,
Không phải ngẫu nhiên mà Giáo hội lại cử hành trọng thể lễ sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả. Bởi lẽ chính biến cố này đem lại cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta muôn hồng phúc phát xuất từ Thiên Chúa. Thánh nhân là vị ngôn sứ cuối cùng, đúng hơn là ngôn sứ “gạch nối” giữa Cựu ước và Tân ước, là người trực tiếp chỉ cho muôn dân nhận biết Đấng là Chiên Thiên Chúa (x Ga 1,29), để ai tin sẽ được cứu độ. Hơn nữa, Thánh nhân gợi lại trong mỗi một kitô hữu chúng ta điểm xuất phát và hướng đi của cuộc đời mình. Cả ba bài đọc trong thánh lễ hôm nay như là sợi chỉ xuyên suốt, không những cùng hướng về ơn gọi của Gioan mà còn xuyên suốt từ thời của Ngài đến thời đại chúng ta hôm nay. Bài đọc thứ nhất nói về ánh sáng của người tôi tớ Thiên Chúa. Bài đọc thứ hai cho ta thấy hình ảnh của một ngôn sứ. Và bài Tin Mừng, thi vị hơn, gần gũi hơn, khi nhắc đến cái Tên. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đặt tên cho ai thì cuộc đời người đó gắn liền với một sứ mạng cao cả. Gioan là cái tên được Thiên Chúa đặt cho đứa trẻ được sinh ra trong một hoàn cảnh đặc biệt khi cha mẹ đã cao niên, tức ông Giacaria và bà Êlisabet. Từ đó một vị ngôn sứ cao cả xuất hiện, một ngọn đèn luôn tỏa sáng.
Trong sách tiên tri Amốt có lời chép:
“Sư tử đã gầm lên: ai mà không sợ hãi
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (Am 3,8)
Chúa đã đặt tên cho Gioan, cũng có nghĩa là Chúa mời gọi, Chúa đã phán. Và Gioan đã mở lời. Tiếng nói của Gioan không chỉ là tiếng nói của lương tâm cá nhân mà còn là tiếng nói của chính Thiên Chúa. Tiếng đó có thể kêu to như tiếng kêu trong hoang địa (x Lc 3, 4-5), nhưng cũng có thể âm thầm đi sâu, chạm thấu vào lòng người như cái ngày bên dòng sông Giođan (x Lc 3, 10-18). Tiếng đó có thể được mọi người kính trọng (x Mc 6, 17- 20; 11,32) mà cũng có thể đụng chạm đến sự ganh ghét, thù oán của người khác. Nhưng dẫu trong hoàn cảnh nào, tiếng đó phải được định hướng bởi một tiếng nói của ơn gọi, của cái tên: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Đúng vậy, cũng như tiếng kêu, ngọn đèn mang tên Gioan không bao giờ tắt nhưng chiếu sáng mãi mãi dù xung quanh tiềm ẩn nhiều bóng tối, dù còn đó những ngọn gió muốn thổi tung tất cả từ tứ phía. Ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa cho nhân loại nhưng vẫn luôn hạ mình trước quyền năng Thiên Chúa: “Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Con người và tiếng nói của Gioan trong ngày mừng sinh nhật cách trọng thể hôm nay, đã vang vọng và đụng chạm đến mọi thời của nhân loại, đến cuộc sống của từng người chúng ta hôm nay. Cũng như Gioan, ai trong chúng ta cũng đều có một điểm xuất phát với cái tên, và theo đó là một ơn gọi và một đích nhắm để bước đi. Cái tên không hẳn theo nghĩa đen như mong muốn của cha mẹ nhưng tên mỗi người được Thiên Chúa khắc ghi, gắn liền với con người độc đáo, với ơn gọi, từ trước khi được thành hình trong dạ mẹ, trước khi chúng ta chào đời. Điều quý giá nơi con người không hệ tại ở cái họ CÓ, cái họ LÀM mà chính yếu nơi cái họ LÀ. Chúng ta là ánh sáng, là phát ngôn của Thiên Chúa. Ánh sáng của chúng ta không phải là ánh sáng nhân tạo, do chính ta hay ai đó làm ra nhưng là ánh sáng phát xuất từ Thiên Chúa chân thật. Tính cách ngôn sứ nơi chúng ta không là sự tùy hứng, không lập lờ nước đôi theo kiểu gió hướng nào ngả về hướng đó, cũng càng không phải là cái cớ để trục lợi nhưng được gắn liền với công lý. Có như thế tên của chúng ta được tinh tuyền từ khởi sự cho đến hoàn thành và mãi mãi được khắc ghi trong tình yêu của Thiên Chúa. Dẫu cho “tôi đã vất vả mất công vô cớ, tôi đã phí sức vô ích; nhưng công lý của tôi ở nơi Chúa, và phần thưởng của tôi ở nơi Thiên Chúa”. (Is 49, 3)
Hôm nay mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Bài Phúc Âm nói cho biết ngày thứ 8, làm lễ cắt bì 24/6-89
Hôm nay mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Bài Phúc Âm nói cho biết ngày thứ 8, làm lễ cắt bì và bà con lối xóm bàn định đặt tên cho em. Tên tuổi có gì quan trọng không? William Shakespear hỏi, nếu chúng ta gọi hoa hồng bằng một tên khác, hương hoa hồng có thay đổi không? Có lẽ nhiều người như Shakespear nghĩ rằng nội dung mới quan trọng chứ hình thức hay danh hiệu có gì quan trọng. Ngày nay nhất là tại Âu Mỹ, tên tuổi ít quan trọng và đôi khi chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tên Bill hay tên Donald hay tên gì khác có gì khác biệt đâu. Quả thực, tên tiếng Tây thì rất ít ý nghĩa. Người ta bảo xưa Tây đâu có tên họ đâu. Đến khi nhà nước đòi phải có tên họ, thì đa số chọn ngay nghề nghiệp làm tên họ cho tiện lợi. Baker chỉ vì ông tổ nướng bánh mì, Farmer chỉ vì ông tổ làm nghề nông, Smith chỉ vì ông tổ làm các ổ khóa, Taylor có ông tổ làm thợ may. Muốn may quần áo thì cứ việc đến với ông Taylor là có ngay.
Tên tiếng Việt đôi khi còn có một ý nghĩa nào đó. Tôi nhớ hồi nhỏ có anh bạn mang họ Phạm. Anh ta thắc mắc tại sao lại họ Phạm bởi vì khi mang họ phạm tên càng hay, càng tốt đẹp lại càng xấu. Trung Thành là điều tốt nhưng Phạm Trung Thành là điều xấu rồi. Phạm chỉ có phạm tội trọng là nổi tiếng thôi …
Tên trong Thánh Kinh thường mang nhiều ý nghĩa hơn. Chúa nhấn mạnh con của ông Zacaria và bà Elizabeth phải được gọi là Gioan vì một lý do tốt lành dù điều này không đúng theo truyền thống gia đình, dù trong họ hàng chẳng có ai lấy tên Gioan đi nữa. “Gioan,” theo tiếng Do Thái Yohanan (hay y’hohanan), có nghĩa là “Đức Chúa khoan dung” “Thiên Chúa thương xót.” Gioan Tẩy Giả là Tiên Tri cuối cùng của Cựu Ước và theo một nghĩa ông tóm tắt trong mình mọi ơn lành Chúa dành cho dân riêng Do Thái. Mọi sự Chúa làm trong Cựu Ước hướng về Người mà Gioan làm tiền hô là Đức Giêsu. Gioan được thụ thai cách lạ và sinh ra là bước cuối cùng tiên báo Đức Kitô trong việc sửa dọn cho sứ mạng Cứu thế của Đức Kitô. Gioan với ý nghĩa cái tên là Chúa xót thương để loan báo Đấng Messia quả là hợp lý. Con trẻ Gioan là một biểu lộ lòng Chúa thương xót, cách riêng cho ông bà Zacharia và Elizabeth, vì Chúa đã cất đi sự tủi nhục cho người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Ngay Việt Nam cũng có câu: “Cây khô không có lộc – Người độc không có con” hay” Cây khô không có trái – gái độc không có con.” Gioan xuất hiện để làm tiền hô dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến với dân Ngài, một niềm vui mà đã bao ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chẳng hồ nghi, những người có mặt bữa đó đều biết nghĩa chữ Gioan hay Yohanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Tuy nhiên thực tế, họ không nhìn ra lòng Chúa thương xót trong biến cố nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ bị ràng buộc bởi những suy nghĩ trần tục, của các thói đời, của tập quán cổ xưa: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”. Chúng ta có nhìn ra lòng Chúa xót thương trong thực tại của cuộc sống không? Một niềm vui nho nhỏ, một chuyện buồn vô lý nhưng Chúa chất vào đấy nhiều ý nghĩa của lòng Chúa xót thương. Lạy Chúa xin giúp con nhìn ra lòng Chúa xót thương trong biến cố nho nhỏ của đời con hôm nay. ------------------------------
Thánh Gioan được sinh ra trong ơn thánh với sứ mạng loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa 24/6-90
Sứ điệp: Thánh Gioan được sinh ra trong ơn thánh với sứ mạng loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu cũng được sinh ra trong ơn thánh để trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, cả Giáo Hội mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, con cũng nghĩ đến sứ mạng con đã lãnh nhận từ ngày con được rửa tội, được trở nên một người con trong Giáo Hội, được vinh dự thông phần vào sứ mạng của Giáo Hội. Con chính là dấu chỉ của tình yêu Chúa.
Thánh Gioan đã thực hiện sứ mạng tiền hồ với những sự kiện phi thường khiến mọi người xung quanh kinh ngạc, thán phục, khiến dư luận xôn xao lan rộng. Đời con chẳng có những sự kiện phi thường. Cứ xét bề ngoài thì con cũng giống như những anh em không công giáo, chẳng có gì trổi vượt. Nhưng chính Chúa đã xếp đặt điều đó. Con vẫn là dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa mọi người. Tình yêu Chúa luôn hiện diện khắp nơi và đang hiện diện trong chính thân phận nhỏ bé của con.
Đôi khi con lãng quên vai trò chứng nhân của mình, và khi ấy con chỉ là một dấu chỉ lu mờ của tình Chúa. Mọi người không nhận ra dấu ấn của Chúa trong cách sống của con. Khi thiếu lòng nhân ái, là lúc dấu chỉ tình yêu bị xóa nhòa. Khi con sa ngã trong tội, là lúc dấu chỉ tình yêu tắt ngấm. Bản thân con vốn yếu đuối, con để mất liên lạc với Chúa nên không thể là dấu chỉ về Chúa.
Xin Chúa giúp con luôn ý thức vai trò chứng nhân của mình. Con đã được sinh ra trong ơn thánh, được mang tên thánh, ước gì tên thánh con nhận chính là tên gọi cho cả cuộc sống của con. Amen.
Ghi nhớ: “Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan”.
Vai trò của thánh Gioan Baotixita là dọn tâm hồn dân chúng chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế: 24/6-91
Vai trò của thánh Gioan Baotixita là dọn tâm hồn dân chúng chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế. Vì thế, nội dung của sứ mạng mà thánh Gioan lãnh nhận gần giống Chúa Kitô: Kêu gọi mọi người nhìn nhận tội lỗi của mình và ăn năn sám hối. Chính thánh Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang địa. Qua đó, thánh nhân muốn nhấn mạnh rằng, hoang địa là tâm hồn con người còn thiếu vắng Thiên Chúa. Lời kêu gọi sám hối là tiếng kêu trong hoang địa đòi con người phải cải tạo hoang địa lòng mình cho phù hợp với ơn cứu độ đang đến. Là tiếng kêu dọn đường cho Chúa để Chúa thể hiện tình thương đối với nhân loại, Chúa đã biến cuộc đời thánh Gioan, kể từ lúc thành thai đến khi qua đời, là cả một chuỗi những biến cố lạ thường, thể hiện huyền nhiệm Tình Thương của Chúa, một Tình Thương bền bỉ gắn chặt với vận mệnh của mỗi con người, một Tình Thương đã biến con người chỉ là thụ tạo, trở thành quà tặng mà Thiên Chúa tự dành cho mình.
Suy niệm Tin Mừng liên quan đến ngày lễ Sinh Nhật thánh Gioan Baotixita (Lc 1, 5-58), tôi nhận ra một sự tương đồng hết sức lớn lao với một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước kể lại việc vua Đavid cung nghinh và nhảy múa trước Hòm Bia giao ước, để tỏ lòng thần phục, kính thờ Thiên Chúa (2Sm 6, 9-15). Cuộc hạ sinh thánh Gioan và ơn gọi mà thánh Gioan nhận lãnh đã nhiều lần được Cựu Ước báo trước. 2 Sm 6, 9-15 là một trong những bản văn Cựu Ước cho thấy hình bóng về ý nghĩa lớn lao bên trong cuộc hạ sinh này. Ý nghĩa đó chính là Tình Thương của Chúa vẫn không ngừng hiện diện giữa dân Chúa.
Đúng hơn, khi ghi lại trình thuật về việc hạ sinh của thánh Gioan Baotixita, thánh Luca như cố tình cho thấy sự gần gũi, sự tương đồng giữa Cựu và Tân Ước. Với trình thuật về cuộc hạ sinh của thánh Gioan, thánh Luca như muốn nói rằng, con người và ơn gọi của Gioan Baotixita không chỉ là giao thời giữa Cựu và Tân Ước, mà còn là và nhất là: Gioan Baotixita một khi có mặt trong Tân Ước, đã bước ra từ Cựu Ước. Trong đó, cuộc hạ sinh của con người đầy nhiệm lạ này, không chỉ nói lên tình thương của Chúa dành cho riêng cá nhân thánh Gioan, mà còn cho thấy, cuộc hạ sinh và chính con người của thánh Gioan càng nhiệm lạ bao nhiêu, thì Tình Thương của Chúa vốn bền bỉ hiện diện giữa dân Chúa càng diệu kỳ, càng lớn lao bấy nhiêu, lớn không cùng.
Sách Samuel quyển II cho biết: “Vua Đavid nói: ‘Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?’ Vua Đavid không muốn đưa Hòm Bia Đức Chúa về với mình trong thành vua Đavid, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ôvết Êđôm… Hòm Bia Đức Chúa ở nhà Ôvết Êđôm, người thành Gát ba tháng… Ông Đavid liền đi rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ôvết Êđôm lên thành vua Đavid trong niềm hân hoan. Khi những người khiêngHòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đavid quấn êphốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa. Vua Đavid và toàn thể nhà Israel rước Hòm Bia Đức Chúa lên giữa tiếng hò reo và tiếng tù và…” (2 Sm 6, 9-15).
Hòm chứa hai tấm Bia giao ước là hình ảnh báo trước Đức Maria mang Chúa Giêsu trong lòng dạ mình.
Lần đầu tiên, Hòm chứa Bia giao ước long trọng vào thành của Đavid. Đức Maria mang thai Chúa đi đến nhà bà Isave. Lần đầu tiên, kể từ khi Chúa nhập thể làm người, Hòm Bia giao ước mới là chính Đức Maria và chính Chúa Giêsu đã viếng thăm một gia đình thánh thiện.
Đavid và dân chúng đã vui mừng khi cung nghinh hòm bia. Bà Isave và người con mà bà đang cưu mang cũng vui mừng trước Đức Maria.
Chính Đavid đã nhảy nhót để diễn tả niềm vui được Hòm Bia viếng thăm. Gioan Baotixita cũng nhảy mừng trong lòng mẹ, khi gặp gỡ Đức Maria, người Mẹ của Thiên Chúa đang mang Thiên Chúa trong lòng dạ.
Dân Israel đã “hò reo” trong khi rước Hòm Bia. Cũng vậy, bà Isave “kêu lớn tiếng”.
Cũng như Hòm Bia ở nhà ông Ôvết Êđôm trong ba tháng, Đức Maria cũng lưu lại nhà ông Giacaria và bà Isave trong ba tháng.
Câu nói của bà Isave: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”, phải chăng cũng là họa lại lời Đavid: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được”.
Thánh Luca đã tài tình khi lồng ghép hình ảnh của Cựu Ước vào Tân Ước. Sự gặp gỡ thiết thân hết sức của Cựu và Tân Ước, đã cho thấy lịch sử cứu độ, lịch sử mà nơi đó hành động Tình Thương của Thiên Chúa vẫn chảy mãi, chảy mãi chẳng những chưa từng “nghẻn mạch”, chưa từng “tạm nghỉ” một chút nào, mà còn tiếp tục chảy đến vô cùng, chảy không ngừng.
Hóa ra, thánh Luca cố tình làm tương đồng giữa câu chuyện sinh hạ của Gioan Baotixita với câu chuyện cung nghinh Hòm Bia của Đavid, không chỉ làm nổi lên tính so sánh như một thể loại văn chương. Nhưng ẩn sâu trong dụng ý của thánh Luca, câu chuyện hạ sinh ấy là một bài trường ca về một Tình Thương có một không hai trong lịch sử loài người. Một bài trường ca bất tận. Một Tình Thương nhiệm lạ gắn chặt Thiên Chúa với loài người không ngơi nghỉ. Tình Thương quá đỗi ấy đã làm thành một dòng lịch sử nâng cao thân phận trần thế của loài thụ tạo mỏng dòn, phải chết trở thành con Thiên Chúa. Tình Thương ấy không còn là hình bóng, nhưng đã hiện thực. Thay vì vật thể, thì nay là một Con Người. Thay vì Bia giao ước thì nay là chính Chúa Trời làm người. Như vậy, Tình Thương chảy từ Cựu Ước, càng chảy càng phát triển. Sang Tân Ước, Tình Thương ấy phát triển đến không ngờ. Bởi ơn cứu độ của lời hứa khi xưa, nay đã là chính Đấng Cứu Độ toàn năng.
Suy nghĩ như thế, ta càng khám phá ra rằng, khi miêu tả từng chi tiết câu chuyện hạ sinh của thánh Gioan Baotixita, thánh Luca đã hoan hỷ đặt tất cả nội tâm của mình sống trong đó. Vì thế, thái độ vui mừng của gia đình Giacaria – Isave vì được Chúa Trời buổi đầu làm người viếng thăn cũng là niềm mừng vui khôn tả của Luca. Bởi hôm nay, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Cú nhảy của thánh Gioan trong lòng bà Isave cũng là cú nhảy của Luca. Bởi hôm nay, dân Chúa cũng được hân hoan nhảy mừng vì sức sống mới, sức sống vĩnh cửu trong ơn cứu chuộc. Tiếng kêu trong ơn Chúa Thánh Thần vừa thản thốt, vừa lạ thường, vừa vui sướng của bà Isave cũng là tiếng kêu trong Thánh Thần của Luca. Bởi hôm nay dân Chúa đã được xức dầu Thánh Thần để cất mãi bài hoan ca chúc tụng Thiên Chúa. Lời ca tụng Thiên Chúa sẽ trung thành thực hiện những gì Người đã phán (Lc 1, 45) xuất trên môi bà Isave cũng chính là tiếng kêu bật thốt của Luca. Bởi hôm nay tất cả những gì Chúa hứa đã nên hiện thực và hoàn hảo… Thánh Luca đã khám phá và nói với chúng ta nơi từng con chữ trong trình thuật hạ sinh của thánh Gioan về một Tình Thương bền bỉ có một không hai, Thiên Chúa đã không ngừng trung thành dành cho trần thế.
Nói cách khác, nơi trình thuật hạ sinh của thánh Gioan đặt trong tương quan với trình thuật Cựu Ước, ta thấy được Tình Thương của Chúa là một Tình Thương vượt mọi thác ghềnh, vượt trên tội lỗi của loài người. Tình Thương ấy đã dàn trải trong Cựu Ước thì nay lại cứ lớn mênh mông nơi Tân Ước. Cứ mãi vươn tới, vươn tới, bền bỉ gắn chặt với vận mệnh của trần thế, để trần thế dù vong thân đến đâu, vẫn còn đó một điểm tựa vững chắc mà quay về. Bởi thế, thái độ vui mừng, hay cú nhảy, hay tiếng kêu sung sướng trong Thánh Thần, hay lời ca tụng Thiên Chúa trung thành với lời hứa… nơi trình thuật hạ sinh của thánh Gioan, cũng là của chính nội tâm thánh Luca, lại chính là sự diễn tả trung thực nỗi vui mừng của mỗi chúng ta, của Hội Thánh hôm nay, vì được tận hưởng một Tình Thương bền bỉ mà Thiên Chúa đã thực hiện mỗi lúc một lên cao từ hình bóng đến hiện thực, từ vật thể đến Con Người, từ bia đá đến chính Con Thiên Chúa.
Tình Thương của Chúa là ân huệ lớn lao cho trần gian. Dân Chúa xưa trong Cựu Ước đã vui mừng đón nhận Tình Thương ấy. Đức Mẹ đã trân trọng đón nhận Tình Thương mà Chúa đặc biệt dành cho Mẹ. Gia đình ông bà Giacaria – Isave đã sung sướng vì Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita chấp nhận sứ vụ của Tình Thương nhiệm lạ trở thành người Tiền Hô Đấng Cứu Thế. Thánh Luca bày tỏ lời sung sướng của nội tâm vì nhận ra Tình Thương của Chúa luôn trải dài và bền bỉ. Ngày nay, tất cả chúng ta hãy đắm mình trong Tình Thương của Chúa bằng đời sống chăm chỉ cầu nguyện như thánh Gioan kết hợp với Chúa bằng con đường sa mạc nội tâm. Ta hãy thanh luyện tâm hồn thường xuyên để xứng đáng với Tình Thương. Ta hãy làm trọn sứ vụ dọn đường cho Tình Thương của Chúa đi vào nẻo đường nhân loại bằng chính đời sống chứng tá của ta. Rất nhiều phương thế để chúng ta đắm mình trong Tình Thương của Chúa. Mỗi người chúng ta đều cần lắm sự đắm mình trong Tình Thương của Chúa, để mãi mãi Tình Thương ấy dìu đưa ta trên hành trình cuộc đời. Cuối hành trình ấy, lại chính nhờ Tình Thương, chúng ta tiến về cùng Chúa trong bình an.
Vua Đavid đã nhảy mừng. Thánh Gioan Baotixita cũng nhảy mừng. Những cú nhảy của tình yêu đáp trả Tình Yêu. Ngày nay, ta đắm mình trong Tình Thương của Chúa, cũng có nghĩa là ta nhảy mừng đón nhận Tình Thương Chúa dành cho ta. Những cú nhảy như thế rất cần để ta càng ngày càng đi về phía Chúa, càng trở nên một với Chúa. Đó là những cú nhảy đón nhận và sống với Tình Thương của Chúa. Tất cả đều là những cú nhảy hoan ca Tình Thương.
Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về Ngài. Phúc Âm thánh Luca viết: "Khi những: 24/6-92
Câu trả lời đúng nhất là lời Chúa Giêsu nói về Ngài. Phúc Âm thánh Luca viết: "Khi những người ông Gioan sai đến đã ra về, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Những kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung điện. Thế thì anh em đi xem gì?
"Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó.
"Mà tôi nói cho anh em biết: Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng:
"Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến" (Lc 7,24-27).
Theo lời Chúa Giêsu phán trên đây, thì thánh Gioan là vị ngôn sứ, được Chúa sai đi dọn đường cho Đấng Cứu thế.
Với những tước vị đó và với những trọng trách đó, thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có một không hai trong Phúc Âm. Lịch sử của Ngài cũng minh chứng như vậy.
Tuy sao, con đường thiêng liêng Ngài đã đi không thuộc riêng cho Ngài. Nhưng nó là một kho tàng chung. Mỗi người có thể học được nơi Ngài một bài học mà mình thấy cần.
Riêng đối với tôi, bài học mà Ngài dạy tôi kỹ nhất để nên đạo đức, đó là biết dùng con đường thời gian của mình.
Con đường thời gian của thánh Gioan Baotixita chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là thời gian Ngài được Chúa đào tạo và tự đào tạo.
Giai đoạn thứ hai là thời gian Ngài thi hành nhiệm vụ rao giảng.
Giai đoạn thứ ba là thời gian Ngài hy sinh hiến tế, kết quả của giai đoạn rao giảng.
Thánh Gioan đã biết dùng thời gian một cách khôn ngoan trong từng giai đoạn cuộc đời của Ngài.
1/ Giai đoạn thứ nhất là thời gian đào tạo
Thánh Gioan Baotixita đã biết dùng thời gian để cho Chúa đào tạo và tự đào tạo mình. Đào tạo bằng lối sống khổ chế, chiêm niệm và vui hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên trong sa mạc yên tĩnh.
Lối sống đó lấp kín thời gian. Qua lối sống ấy, Ngài lắng nghe ý Chúa. Tâm hồn Ngài được Chúa kéo về hướng chân thiện mỹ. Qua nhiều ngày, lối sống đó trở thành thói quen.
Trong sa mạc, Ngài đón nhận được các ơn của Chúa, nhưng rất có thể Ngài cũng gặp các chước ma quỷ cám dỗ. Đây là dịp Ngài thu lượm kinh nghiệm về những đấu tranh giữa thiện và ác. Muốn cho mình luôn thuộc về sức mạnh sự thiện và thắng vượt được thế lực sự ác, Ngài phải tỉnh thức, cầu nguyện, cậy nhờ ơn Chúa. Mỗi thành công là một kinh nghiệm về sự phải từ bỏ tội lỗi, để trở về với Chúa.
Thời gian đào tạo mình cho Ngài thấy: Đào tạo là việc lâu dài. Không sách vở nào thay thế được kinh nghiệm bản thân. Không trường sở nào thay thế được thời gian tập luyện.
2/ Giai đoạn thứ hai là thời gian thánh Gioan Baotixita thi hành nhiệm vụ rao giảng
Trong giai đoạn này, thánh Gioan Baotixita đã rất tận dụng thời giờ cho nhiệm vụ của mình. Đề tài rao giảng đầu tiên được nêu lên rất rõ. Đó là sám hối, đền tội.
Về việc sám hối, Ngài đòi phải chịu phép rửa và đền tội bằng những việc bác ái, chia sẻ công bằng. Ngài nói: "Ai có hai áo, thì hãy chia cho người khác. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy" (Lc 3,11) ... Với những người thu thuế, Ngài bảo: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình" (Lc 3,13).
Tiếp liền với việc sám hối, thánh Gioan Baotixita chuyển sang đề tài đợi chờ Đấng Cứu thế. Đợi chờ bằng thái độ khiêm tốn hạ mình, và tôn vinh Đấng Cứu thế: "Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Lc 3,16).
Khi vừa thấy Chúa Giêsu đến từ đàng xa, Gioan Baotixita liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Ngài quả quyết như vậy, không phải bằng trực giác, mà bằng chứng cớ rõ ràng: Tai Ngài đã nghe lời trên trời báo, và mắt Ngài đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Kitô (x. Ga 1,31-34).
Ngài rao giảng với tư cách người làm chứng.
Ngài rao giảng với lửa thiêng từ nội tâm phát ra. Ngài làm chứng bằng chính đời sống đạo đức khác thường của Ngài. Có thể nói: Lời giảng của Ngài đã được chuẩn bị từ nhiều năm tháng kết hợp với Chúa.
3/ Giai đoạn thứ ba là thời gian hy sinh hiến tế, kết quả của việc rao giảng
Trong thời gian này, Gioan Baotixita nếm niềm vui do thành công và nỗi buồn khổ do thất bại. Phúc Âm thánh Luca viết: "Nghe Gioan giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng công chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông" (Lc 7,29-30). Bị giới đạo đức và thông luật trong đạo khước từ, Gioan Baotixita cảm thấy đau xót. Cơn đau đớn càng tăng thêm, khi Gioan Baotixita bị vua Hêrôđê bắt bỏ tù. Cảnh đó xảy ra bất ngờ. Gioan Baotixita đón nhận với lòng phó thác. Thời gian này, Gioan Baotixita sống đời hiến tế. Sau cùng, Ngài hy sinh mạng sống trong đớn đau xác hồn. Trong suốt giai đoạn bị thử thách này, Gioan Baotixita dùng thời gian một cách khác. Đó là hết lòng tin cậy vào Chúa, hết lòng quảng đại chịu đau khổ vì Chúa.
Những suy nghĩ trên đây đưa tôi kết luận này: Thời giờ là vàng. Chúa đã trao cho thánh Gioan Baotixita một số vàng thời gian. Ngài đã dùng số vàng đó để sinh lời lãi. Lời lãi rất lớn, lời lãi rất quý, lời lãi rất nhiều cho Nước Trời.
Mỗi người chúng ta cũng đã nhận được thứ vàng quý là thời gian. Kẻ nhiều người ít. Chúa đợi chúng ta nộp cho Người số lời lãi phải có. Chúng ta đã sinh lời lãi thế nào? Điều đó tuỳ ở sự chúng ta biết dùng thời gian của mình một cách thông minh, theo đúng định hướng hợp ý Chúa.
Thiết tưởng đây là gợi ý tốt, để chúng ta mừng lễ thánh Gioan Baotixita.
Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của 24/6-93
Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.
Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì ? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không ? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không ? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết : “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến danh, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa trao cho.
Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì cho cậu: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.
Phải đặt tên cháu là Gioan: khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn đặt tên con là Gioan. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài ; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.
“Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.
Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.
Is 49,1-6: 1b Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. 2 Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, đã giấu tôi dưới bàn tay của Người.
Cv 13,22-26: 24 Để dọn đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. 25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người. TIN MỪNG: Lc 1,57-66.80
Gioan Tẩy Giả ra đời và chịu phép cắt bì
57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.
59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: Không, phải đặt tên cháu là Gio-an. 61 Họ bảo bà: Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả. 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: Tên cháu là Gio-an. Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.
80 Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
1. Giữa việc rao giảng và làm chứng, việc nào khó hơn, cần thiết hơn, đòi hỏi phải dấn thân và hy sinh nhiều hơn? Người Ki-tô hữu thường quan tâm hơn đến việc nào? Có cần sửa đổi gì trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta?
2. Nhân loại hiện nay - nhất là người nghèo, người chịu áp bức - mong Giáo Hội rao giảng chân lý cho họ, hay muốn Giáo Hội làm chứng cho chân lý mình rao giảng, cho công lý và tình thương để biến đổi thế giới nên tốt đẹp hơn? Trước mắt họ cần cái nào hơn?
3. Nhờ đâu các ngôn sứ của Thiên Chúa dám mạnh dạn làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương, bất chấp thiệt thòi nguy hiểm?
Suy tư gợi ý
1. Gio-an Tẩy giả, một ngôn sứ dám làm chứng cho công lý
Gio-an Tẩy Giả là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương: một đằng bị đế quốc: 24/6-94
Gio-an Tẩy Giả là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương: một đằng bị đế quốc Rô-ma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân muốn nổi loạn, đằng khác vị vua cai trị, Hê-rô-đê, là một hôn quân bạo Chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gio-an lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, mong nhà vua trở về với đường ngay nẻo chính. Vì thế, ông đã bị nhà vua hãm hại (xem Mt 14,3-12; Mc 6:17-29).
Là Ki-tô hữu, chúng ta đều có chức năng ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Nhưng đa số chúng ta có khuynh hướng chỉ muốn là ngôn sứ của chân lý, chứ không phải của công lý và tình thương. Chúng ta thường chỉ muốn rao giảng, tuyên xưng chân lý, nhất là những chân lý vô thưởng vô phạt, không đụng chạm đến ai, sa#n sàng kết án những đồng đạo nào có tư tưởng khác với những gì chúng ta cho là chân lý. Nhưng chúng ta lại không muốn hoặc không dám làm chứng cho những điều mình nói, nhất là làm chứng cho công lý và tình thương. Điều ấy cũng dễ hiểu, vì rao giảng xuông thì dễ dàng, không đòi hỏi phải hy sinh và dấn thân cho bằng làm chứng. Chẳng hạn, rao giảng rằng tình yêu là cao cả, là tuyệt vời, là quí giá, và mọi người phải yêu thương nhau, thì chẳng mất mát hay phải hy sinh gì nhiều. Nhưng chứng tỏ điều mình rao giảng ấy là xác thực, là chân lý, bằng chính đời sống của mình, thì phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi và hy sinh, có khi phải hy sinh cả nồi cơm, sự ổn định hay bình an của cuộc sống, thậm chí đôi khi cả mạng sống nữa.
Khổ một nỗi là hiện nay, tinh thần khoa học thực nghiệm của người thời đại đòi hỏi mọi phát biểu đều phải được chứng minh bằng hành động, bằng thực tế thì mới tạo được niềm tin. Thật vậy, làm sao tin được một người quảng cáo thứ thuốc nào đó là tuyệt vời nhất, hữu hiệu nhất, tiết kiệm nhất, nhưng khi bị bệnh thì người ấy lại dùng một loại thuốc khác hẳn? Cũng vậy, ai mà tin được một người rao giảng rằng tình yêu là quí giá hơn tất cả, rằng cần thiết phải yêu thương nhau, nhưng chính người ấy lại đối xử với mọi người chẳng tình nghĩa chút nào? Nếu chính người rao giảng về tình yêu lại coi tình yêu không quí bằng những quyền lợi nhỏ nhoi, và sa#n sàng hy sinh tình nghĩa chứ không để bị mất quyền lợi, thì lời rao giảng ấy ai mà dám tin? Rất nhiều nơi trong Giáo Hội, việc loan báo Tin Mừng bị thất bại vì chúng ta chỉ biết rao giảng mà không dám làm chứng bằng đời sống cho điều mình rao giảng.
2. Do đâu mà người ngôn sứ lại dám làm chứng, bất chấp.?
Người Ki-tô hữu không những phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giê-su, mà còn cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu của Thiên Chúa nữa. Mà muốn làm chứng thì phải dám chấp nhận thiệt thòi, mất mát, nguy hiểm. Làm ngôn sứ mà lại muốn được an toàn và bảo toàn đủ mọi mặt những gì mình đang có, không muốn hy sinh hay mất mát điều gì, thì như thế chỉ có thể là ngôn sứ kiểng (dùng làm cảnh) mà thôi.
Nhưng chúng ta ai cũng cảm thấy mình yếu đuối, thì lấy can đảm hay dũng khí ở đâu để làm chứng? Các ngôn sứ nổi tiếng xưa có cảm thấy mình yếu đuối như chúng ta không? Điều gì khiến họ dám? Chúng ta hãy trở lại bài Tin Mừng hôm nay.
a. Tin vào quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa
Sức mạnh và lòng can đảm của người ngôn sứ hệ tại niềm tin vào quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy hai vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét đều đã lớn tuổi đến nỗi không ai nghĩ được rằng họ còn có thể sinh con nữa, thế mà quyền năng Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1,37). Vả lại, Ngài luôn luôn quan phòng, không chuyện gì xảy ra ngoài thánh ý của Ngài: Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ (Lc 12,7), Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu! (Lc 21:17-18).
Tuy nhiên, dù tin cậy nơi Chúa tới mức độ nào, người ngôn sứ vẫn luôn luôn có những nỗ lực riêng của mình, trong mọi trường hợp, vẫn luôn luôn cố gắng hết sức mình, và hành động với tất cả sự khôn ngoan mà Chúa ban cho mình, chứ không ỷ lại vào quyền năng Chúa. Trong đời thường, người ngôn sứ vẫn luôn tập luyện bản thân, làm quen với gian khổ, để khi phải sống trong khó khăn, tâm hồn người ngôn sứ vẫn không hề nao núng. Gio-an Tẩy giả đã tập sống kham khổ trong sa mạc ngay từ nhỏ. Còn Phao-lô thì: Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết (Pl 4,13).
b. Tin vào sự khôn ngoan và hợp lý của Thiên Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: cứ theo sự hợp lý bình thường của con người, thì con ông Da-ca-ri-a cũng phải tên là Da-ca-ri-a (là tên của mọi người trong dòng họ) mới đúng. Nhưng Thiên Chúa lại yêu cầu ông đặt tên cho con là Gio-an. Tại sao lại như thế thì lúc ấy chẳng ai hiểu được. Nhưng chắc chắn Thiên Chúa có lý của Ngài. Điều hợp lý đối với Thiên Chúa không hẳn đã là hợp lý đối với con người. Vì thế, đối với người tin yêu Thiên Chúa, thì vâng lời Ngài luôn luôn là khôn ngoan hơn là làm theo ý mình. Da-ca-ri-a đã làm theo ý Chúa chứ không phải ý mình khiến mọi sự rốt cuộc đều tốt đẹp.
Khi làm mọi công việc, người ngôn sứ luôn nghĩ rằng mình chỉ là công cụ mà Thiên Chúa dùng để làm công việc của Ngài chứ không phải của mình. Mình làm ngôn sứ cho Ngài chứ không phải cho mình. Thiên Chúa luôn luôn là chủ, nên mọi việc mình làm cho Ngài đều phải theo thánh ý của Ngài, chứ không phải theo ý riêng của mình. Vì thế, người ngôn sứ luôn an tâm khi thấy mình đã hành động đúng với ý Chúa, được biểu hiện qua tiếng lương tâm và sự khôn ngoan Thiên Chúa ban cho mình, đồng thời qua những dấu chỉ thời đại (những sự kiện đã và đang xảy ra). Nếu chúng ta làm theo ý Chúa thì Ngài sẽ chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc chúng ta làm. Và hậu quả xảy ra thế nào đều là do thánh ý của Ngài, người ngôn sứ không cần phải bận tâm hay thắc mắc.
c. Có bàn tay Thiên Chúa trong cuộc đời ta
Thấy sự việc lạ lùng đối với trẻ Gio-an, ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. Người ngôn sứ khi làm công việc của Chúa chứ không phải của mình, thì luôn luôn có bàn tay Thiên Chúa ở với mình, phù hộ và hướng dẫn cuộc đời mình. Chỉ khi nào mình bắt đầu làm theo ý riêng mình, và làm vì mục đích của mình chứ không phải của Chúa khiến ta từ chối sự hướng dẫn của Chúa, thì ta mới bắt đầu mất đi sự khôn ngoan và phù trợ của Thiên Chúa. Gương của vua Sao-lê ngày xưa rất rõ nét về vấn đề này (xem 1 Sm 15,24-28).
Niềm tin có bàn tay Thiên Chúa ở với mình là một trong những động lực mạnh nhất khiến các ngôn sứ - mặc dù bản tính có thể rất nhút nhát - vẫn dám làm những việc mà ngay cả người có bản tính can đảm tự nhiên vẫn không dám làm, miễn là việc đó là việc của Chúa, là việc mà lương tâm mình đòi buộc phải làm.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con biết can đảm như Gio-an, dám sống ngay chính và dám làm chứng cho Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương giữa lòng thế giới đảo điên hôm nay. Xin giúp con biết tin cậy vào quyền năng vô biên và sự quan phòng đầy khôn ngoan của Chúa, để con luôn an tâm và mạnh dạn khi thi hành chức vụ ngôn sứ mà Chúa đã trao cho con, cũng như đã trao cho bất kỳ người Ki-tô hữu nào khi họ lãnh nhận phép Rửa. Amen. (JK)
Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này 24/6-95
Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này hoặc thế kia, nhưng Chúa lại chọn một cách khác, không theo lẽ thường nhưng theo ý định nhiệm mầu của Người. Ngài đảo lộn mọi toan tính lập trình cho dẫu hợp lý và quy mô đến đâu đi nữa của con người.
Việc thụ thai và hạ sinh Gio-an mà bài Tin mừng vừa tường thuật một phần cũng nằm trong cái chương trình nhiệm lạ đó, khiến “ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào?” Và bài Tin mừng cũng cho chúng ta câu trả lời” “Quả thật, có bàn tay Thiên Chúa ở với em”.
Quả thật, người ngôn sứ khi làm công việc của Chúa, thì luôn luôn có bàn tay Thiên Chúa ở với mình. Chỉ khi nào người ta bắt đầu làm theo ý riêng mình, và làm vì mục đích của mình chứ không phải của Chúa, khiến ta từ chối sự hướng dẫn của Chúa, thì ta mới bắt đầu mất đi sự khôn ngoan và phù trợ của Thiên Chúa. Gương của vua Sao-lê ngày xưa rất rõ nét về vấn đề này (xem 1Sm 15,24-28).
Niềm tin có bàn tay Thiên Chúa ở với mình là một trong những động lực mạnh nhất khiến các ngôn sứ, mặc dù bản tính có thể nhút nhát, vẫn dám làm những việc mà ngay cả những người có bản tính can đảm tự nhiên vẫn không dám làm, miễn là việc đó là việc của Chúa, là việc mà lương tâm mình đòi buộc phải làm.
Mừng lễ Sinh nhật thánh Gio-an Tẩy giả hôm nay mỗi người chúng ta có suy nghĩ gì? Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết mừng Sinh nhật thánh Gio-an Tẩy giả chung chung hời hợt rồi thôi? Giáo Hội muốn gửi cho chúng ta thông điệp nào đây, khi mà một Năm Phụng vụ chỉ có ba lễ mừng Sinh Nhật của ba người?
Chúng ta hãy dừng lại ở xác quyết “Có bàn tay Chúa phù hộ” để mỗi người tự đặt ra cho mình một câu hỏi: “Ấy vậy, bản thân tôi có bàn tay Chúa phù hộ tôi không?”; “Về phần mình, tôi sẽ đáp trả thế nào đây khi đã xác quyết mình luôn được bàn tay Chúa phù hộ?”
Cũng cần phải nói rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ có ý đầu tư trước mắt để sẽ trục lợi về lâu về dài, một vốn bốn lời. Nhưng tất cả chỉ do lòng yêu thương: Người tuyển chọn, rồi không ngừng phù hộ gìn giữ để chúng ta cứ thế mà tăng trưởng, đi cho đúng tuyến, sống cho đúng đạo, để rồi mỗi chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gio-an đã sống vai trò ngôn sứ và làm chứng cho chân lý một cách triệt để đến mức hy sinh cả mạng sống, để rồi chính Đức Giê-su đã phải khẳng định về ông: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan” (Lc 7,28).
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gio-an, nhưng với tư cách là “Tẩy Giả”, những “chuyên viên tẩy sách vết bẩn” của ngày hôm nay, chúng ta được gọi để góp một chút bột giặt “tình yêu và tha thứ” làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi của vụ lợi, ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh… Và như thế là giúp mở đường cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán bằng những cơn mưa ƠN CỨU ĐỘ.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống như Gio-an, dám sống ngay chính và dám làm chứng cho Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương giữa lòng thế giới đảo điên hôm nay. Amen
Nếu có ai đã từng đến đất nước Philippines, hẳn sẽ thấy điều đặc biệt trong ngày mừng sinh nhật 24/6-96
Nếu có ai đã từng đến đất nước Philippines, hẳn sẽ thấy điều đặc biệt trong ngày mừng sinh nhật. Tại đất nước này, ngày sinh nhật là một ngày trọng đại. Vì thế, dù nghèo hay giàu, họ đều tổ chức rất trang trọng. Trong dịp mừng đó, điều ấn tượng nhất có lẽ không phải là tiệc to hay nhỏ, đông người hay ít người, nhưng điều làm cho người tham dự cảm động và nhận ra giá trị cao quý của ngày sinh nhật, đó là: người mừng sinh nhật hôm đó, hiện diện giữa đám đông, mọi người đứng chung quanh và giơ hai tay hướng về nhân vật mừng sinh nhật kèm theo lời kinh nguyện để xin Chúa chúc lành cho đương sự. Thật cảm động và ý nghĩa!
Hôm nay, chúng ta mừng kính trọng thể lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, Mẹ Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hiểu được tầm quan trọng của Gioan Tẩy Giả trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; đồng thời, cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương vị Tiền Hô vĩ đại của Chúa để là chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống thường ngày của mình, ngõ hầu sống xứng đáng sự hiện diện cao quý của mỗi người trên trần gian.
1. Sự xuất hiện của Gioan là một điều vĩ đại
Con người được hiện hữu trên trần gian này là một mầu nhiệm lớn lao mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại. Hiểu được giá trị của mình và sống giá trị ấy bằng những lựa chọn tốt là một hồng ân.
Vì thế, chúng ta tin nhận chắc chắn rằng: sự xuất hiện của mỗi người trên trái đất này không phải là một sự tình cờ, ngẫu nhiên. Không! Mỗi người sinh ra đều mang đậm dấu ấn yêu thương của Thiên Chúa từ đời đời. Người đã có cả một kế hoạch đầy yêu thương riêng biệt cho chúng ta. Tác giả sách Isaia đã thốt lên: “Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49, 1-2). Vua thánh Đavít cũng đã cảm nghiệm sâu xa về sự hiện diện của mình trong chương trình của Thiên Chúa, nên ngài đã viết: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con… Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu” (Tv 139, 13).
Như vậy, trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi người đều mang trong mình một sứ vụ. Thánh Gioan Tẩy Giả chính là một trong những người đó.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, và sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho ông về việc bà Êlisabet vợ ông sẽ mang thai trong lúc tuổi đã xế chiều. Hơn nữa, sứ thần còn truyền cho ông phải đặt tên cho con trẻ là Gioan. Tiếp ngay sau đó, sứ thần đã báo cho ông biết sứ vụ của người con mà ông và người vợ son sẻ cao niên sẽ sinh ra. Sứ thần nói về Con Trẻ là người: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17). Điều này cũng đã được Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy ông Dacaria, để ông nói tiên tri về con của mình rằng: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).
Như vậy, sự xuất hiện của Gioan là một hồng ân kỳ diệu mà Thiên Chúa đã tỏ hiện lòng thương xót của Người cho cha mẹ Gioan cũng như cho họ hàng dòng tộc. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, nhưng tình thương ấy được trải dài và lưu truyền cho muôn ngàn thế hệ khi Gioan thi hành sứ vụ ngôn sứ của Đấng Tối Cao trong vai trò là Tiền Hô.
2. Thực thi sứ vụ trong tinh thần khiêm nhường
Quả thật, Gioan đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa, vì ngài đã trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sau thời gian sống ẩn dật trong rừng vắng, Gioan đã ra đi và thi hành sứ vụ. Ngài đã trở thành tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi hố sâu phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, đường quanh co phải uốn cho ngay… (x. Lc 3, 4-6).
Như vậy, Gioan nắm một vai trò trực tiếp có một không hai là dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, khi ông công khai xuất hiện trước toàn dân và làm phép rửa, dân chúng đã tưởng là Đấng Cứu Thế! Lúc đó, nhiều người đã đến để thăm dò, chất vấn xem ông có phải là Đấng Kitô mà bao ngôn sứ đã loan báo, nay xuất hiện hay không? Khi đặt vấn đề ấy với ông, ông hoàn toàn phủ nhận và không những thế, Gioan còn đề cao Đấng Cứu Thế khi nói: “Có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dép cho Ngài” (x. Lc 3, 16). Ngài cũng nói rõ vai trò của mình là người dọn đường, vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến thì: “Ngài phải lớn lên còn tôi, tôi phải nhỏ đi” (x. Ga 3, 30). Khi uy tín của ông lên đến đỉnh điểm, có nhiều môn đệ đi theo, lẽ ra, lúc này, ông phải tự hào và hãnh diện cũng như củng cố uy tín…! Không! Khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông sẵn sàng chỉ về phía Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của mình, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29).
Quả thật, Gioan là một người khiêm tốn. Điều này được chứng minh qua thân thế của ông như sau: sinh ra trong một gia đình có truyền thống Tư Tế, thượng lưu, Gioan có quyền được hưởng một cuộc sống sung túc và trưởng giả. Thế nhưng, cuộc đời của ông lại âm thầm và gắn liền với sa mạc. Thức ăn của ông là châu chấu và uống mật ong rừng. Ông sống nghèo đến độ lấy da thú làm áo che thân. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã ân thưởng cho Gioan xứng với vai trò của ông, nên Ngài đã khen ngợi, công nhận Gioan là người vĩ đại khi nói: “Anh em vào sa mạc để xem gì? Một cây lau phất phơ trước gió ư?… Anh em xem thấy gì? Một vị ngôn sứ? Đúng thế, tôi nói cho anh em biết, trong con cái của người phụ nữ, không ai lớn hơn Gioan” (x. Lc 7, 28).
Cuối cùng, cuộc đời của Gioan được kết thúc bằng cái chết trong ngục tù. Tuy nhiên, tưởng chừng như âm thầm chốn lao tù tối tăm! Nhưng không, cái chết của ngài đã được muôn đời ca ngợi vì vẻ cao quý hào hùng của bậc vĩ nhân.
3. Sứ điệp ngày lễ
Mừng lễ sinh nhật thánh Gioan hôm nay, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra ý nghĩa về sự hiện diện của mình trong trần gian. Hãy biết đặt ra cho mình câu hỏi: tôi sinh ra trên trần gian này để làm gì? Sự hiện hữu của tôi có đem lại lợi ích gì cho Thiên Chúa và anh chị em đồng loại không?
Khi đặt ra cho mình những câu hỏi như thế, hẳn chúng ta sẽ thấy được sứ mệnh của mỗi người trong trần gian này.
Vậy, nếu sứ mệnh của Gioan là: dọn đường cho Đấng Cứu Thế bằng việc ăn chay, hãm mình và kêu gọi lòng dân sám hối quay về với Thiên Chúa, thì sứ mệnh của chúng ta sẽ là gì nếu không phải chính mình thi hành tinh thần sám hối và dạy người ta biết ăn năn để trở về nẻo chính đường ngay?
Tuy nhiên, muốn sám hối để quay trở về với Chúa, chúng ta phải noi gương Gioan Tẩy Giả, đó là sống khiêm nhường thẳm sâu.
Cuối cùng, khi đã khiêm nhường và sám hối, chúng ta nhớ lại sứ vụ mà mỗi người đã được trao trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Sứ vụ ấy là trở thành ngôn sứ và chứng nhân cho Đức Giêsu giữa cuộc sống hôm nay.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã cho thánh Gioan Tẩy Giả xuất hiện trên trần gian. Ngài chính là mẫu gương cho chúng con về việc thi hành sứ vụ. Xin cho chúng con biết quý trọng sự hiện hữu của mình và biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả để sống đời chứng nhân cách nhiệt thành và anh dũng. Amen.
Ðôi vợ chồng trẻ hằng chục năm nay, mỗi khi đi đến Thánh đường hay nơi hành hương nào cũng: 24/6-97
Ðôi vợ chồng trẻ hằng chục năm nay, mỗi khi đi đến Thánh đường hay nơi hành hương nào cũng đều dắt tay nhau đến tòa Ðức Mẹ Maria, tòa các Thánh đốt nến khấn nguyện.
Họ làm việc đạo đức này không chỉ vì thói quen đức tin tốt lành đã được dậy bảo. Nhưng còn với tâm tình cầu xin khấn nguyện cho có con. Vì từ ngày họ thành hôn lập gia đình với nhau đã hơn 15 năm trời rồi mà vẫn chưa có con.
Họ buồn. Nhưng không để mình mất lòng trông cậy hy vọng vào một „phép lạ“. Vì thế họ hằng trung thành đốt nến cầu xin khấn nguyện cho ước muốn đạo đức và thấm nhuộm tình người này của họ.
Và sau cùng họ đã được nhậm lời: gia đình nay mai sắp có tiếng cười khóc của trẻ thơ!
Còn nỗi vui mừng biết ơn nào chan chứa hơn nữa!
1. Gia đình ông bà thầy cả Gia-ca-ria
Gia đình thầy cả Gia-ca-ria ngày xưa cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự: lập gia đình với nhau đã luống tuổi mà không có con nối dõi tông đường. Ông bà hằng khấn nguyện cùng Thiên Chúa về ước muốn này.
Thiên Thần Chúa hiện đến báo tin: Chúa đã nhậm lời cầu xin khấn nguyện. Gia đình sắp có con, mà lại là con trai!
Hai ông bà vui mừng sung sướng hạnh phúc. Bao ước mơ xưa nay giờ sắp thành hiện thực. Người con không chỉ mang lại sự vui mừng hạnh phúc. Nhưng còn là ân đức giúp giải thoát ông bà thoát khỏi sự hổ nhục, mà xã hội con người thường nghĩ bình phẩm về một gia đình đơn độc không con.
Và có lẽ Ông Gia-ca-ria cũng nuôi niềm hy vọng: cậu con sẽ là người nối tiếp việc của bố làm thầy tư tế lo việc hương khói, tế lễ Thiên Chúa thay cho toàn dân trong đền thánh Chúa trời! Một việc làm thánh thiêng đạo đức. Vì theo tục lệ ngày xưa, các thầy cả tư tế không phải là người được tuyển chọn kêu gọi như ngày nay, nhưng là theo nguồn gốc gia đình cha truyền con nối.
Người con trai trong xã hội thời xưa còn là bảo hiểm cho tuổi gìa của cha mẹ nữa. Ðiều này đã và cũng vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong những xã hội sống về nông nghiệp, đời sống chưa phát triển đến mức văn minh kỹ nghệ như bên Âu Châu hay Mỹ châu.
Cũng theo phong tục bên vùng Trung đông tên dòng họ rất quan trọng. Vì thế chính ra người con trai ông Gia-ca-ria phải lấy tên cha mình là Gia-ca-ria. Nhưng Thiên Thần Chúa đã nói cho ông hay: phải đặt tên con trẻ là Gioan.
Ông bà đã trung thành khấn nguyện cùng Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa ban ân đức cho có con, ông bà vui mừng chấp nhận chương trình Thiên Chúa sắp đặt như lời Thiên Thần bảo. Và Ông đã vui mừng nói lên tâm tình: Benedictus Dominus Deus – Chúc tụng Thiên Chúa!
2. Giấc mơ bị hủy diệt
Những điều Ông Bà Gia-ca-ria mong chờ về cậu cả Gioan như người nối dõi tông đường lo cho tuổi gìa của mình, như sẽ thành thầy cả tư tế… đều biến thành mây khói hết.
Thay vì theo chân cha mình làm thầy cả tư tế thay cho toàn dân dâng hương khói, tế lễ đền tội trong đền thánh Chúa trời. Một nhiệm vụ thánh thiêng được kính trọng.
Gioan lại nghe theo tiếng gọi từ Trời cao đi làm nhiệm vụ Ngôn sứ cho Thiên Chúa. Một nhiệm vụ rất nguy hiểm. Ðược kính trọng thì ít, nhưng bị coi thưòng, chê bai bình phẩm nghi ngờ nhiều hơn. Và nhiều vị Ngôn sứ trước đó cũng đã phải đem chính mạng sống mình ra làm chứng cho sự thật, cho Lời Chúa!
Thay vì ở nhà nuôi dưỡng cha mẹ già. Ðó là kỳ vọng của hai ông bà Gia-ca-ria.
Gioan lại bỏ cha mẹ vào sống một mình trong hoang địa sa mạc. Nơi đó ông sống một cuộc sống hoàn toàn khắc khổ, đơn sơ nghèo nàn, tĩnh tâm chỉ một mình với Thiên Chúa thôi. Một con người, một đời sống khác thường, chỉ biết tìm về cội nguồn trứơc hết và sau hết của mình! Hay đó là một sửa soạn cho một sứ mạng cao cả khác!
Gioan là một người con khấn nguyện của gia đình Gia-ca-ria. Một người con lẽ ra đem lại danh gía vinh dự cho gia đình. Và ông có đủ điều kiện để tiến thân, do nền tảng cha mẹ gia đình đã có sẵn.
Nhưng Gioan lại trở thành như người xa lạ với cha mẹ mình. Ông sống xa nhà, xa cha mẹ, không màng đến con đường tiến thân danh vọng. Việc của cha mẹ, có Thiên Chúa lo liệu cho. Ông âm thầm nhất quyết đi làm nhiệm vụ Thiên Chúa muốn ông làm.
Gioan đã chỉ chú ý đến giấc mơ của Thiên Chúa thôi, mà không màng đến giấc mơ của cha mẹ mình!
3. Vị Ngôn sứ xa lạ
Thông thường các vị Thánh là những người chiếu tỏa không chỉ lòng đạo đức, nhưng còn sự gần gũi qua lòng từ bi nhân ái đầy tình yêu.
Nhưng nơi Thánh Gioan Tiền hô không như thế.
Thánh Gioan tiền hô có cuộc sống, và cả lời ông nói rất cứng cỏi chát chúa gây khó chịu cho con người.
Ðời sống ông trải qua trong hoang địa sa mạc, như trong Kinh Thánh thuật lại, bây giờ nào có ai có thể tưởng tượng ra nổi. Mọi người phải lắc đầu: cuộc sống sao mà tự làm khổ cực mình đến thế! Nào có ai bắt đâu! Thánh gì mà sống quá khắt khe có vẻ qúa khích như vậy!
Rồi Lời ông giảng cũng là những lời kêu gọi ăn năn sám hối, những lời răn đe: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy! Các anh hãy sinh hoa qủa để chứng tỏ lòng sám hối… cái riù đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh hoa qủa tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa… Ðấng đến sau tôi sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và trong lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bó ném vào lửa không hề tắt mà đốt đi” ( Mt 3, 1-12).
Những lời giảng như thế thật khó chịu, khó nghe. Và ngày nay có còn vị đạo sĩ thầy tu nào dám giảng những lời như Thánh Gioan tiền hô không?
Ngôn sứ Gioan tiền hô là vị Ngôn sứ gây và gặp chống đối. Ông không nể vì kiêng cữ ai. Những vị luật sĩ thông thái luật đạo phái Pha-ri-sêo và những vị có nhiều ảnh hưởng trong xã hội thời đó như Sa-đu-sêo, những thầy cả tư tế thời đó, tất cả đều bị ông cảnh cáo nặng lời. Ông gọi họ là loài “rắn độc”.
Chưa hết, nhà vua Hê-rô-đê ông cũng thẳng thừng nặng lời cảnh cáo. Vì vua muốn chiếm lấy người vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Sự va chạm đó đã đưa đến cho Ngôn sứ Gioan ngục tù và bị chém đầu.
Có lẽ thời bây giờ rất khó có thể có một Ngôn sứ như Gioan tiền hô nữa? Và nếu có vị Ngôn sứ như thế, liệu ông còn có chỗ đứng trong lòng xã hội không?
Giáo hội Công giáo hằng năm không chỉ kính nhớ ngày ông chịu chết, mà còn kính cả ngày sinh nhật của Ông nữa. Trong Giáo hội chỉ có bà ngày lễ mừng sinh nhật thôi: ngày mừng sinh nhật Chúa Giêsu 25.12., ngày mừng sinh nhật Ðức Mẹ Maria 8.9 và mừng sinh nhật Thánh Ngôn sứ Gioan tiền hô 24.06.
Ngày mừng sinh nhật Thánh Gioan tiền hô 24.06 theo thời tiết là ngày bản lề. Thời tiết bên các xứ có bốn mùa thay đổi rõ rệt phân biệt, ngày này là ngày dài nhất trong năm. Mặt trời chiếu sáng nhiều giờ xuống địa cầu.
Và cũng từ ngày này ngày sáng bắt đầu ít đi, bóng đêm dần dần dài ra. Ánh sáng mặt trời ngắn dần lại, chuyển sang mùa Thu và mùa Ðông, với cao điểm đêm dài nhất trong năm là đêm 24 sang 25 tháng 12 ngày mừng sinh nhật Chúa Giêsu.
Ngôn sứ Gioan tiền hô đi trước dọn đường cho Chúa Giêsu đến trong trần gian, mang ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối trần gian.
Người theo Ðạo Hồi giáo - Islam - sùng kính Thánh Gioan tiền hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan tiền hô.
Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001 đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo thứ hai đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó.
Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự thật, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới thời nay người ta vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp đã nói và nghĩ sự chân thật về Thiên Chúa của Ông.
4. Một ảnh hưởng trái ngược
Dù là một người xa lạ từ cung cách sống ăn mặc, cho tới lời giảng dậy thẳng thắn cứng cỏi đe loi, gây khó chịu. Nhưng Vị ngôn sứ xa lạ Gioan lại có hấp lực thu hút con người cách lạ thường.
Theo như Kinh Thánh thuật lại không chỉ người tín hữu bình dân tò mò hay vì lòng đạo đức tuốn đến nghe Ông giảng và xin chịu phép Rửa, mà ngay cả những bậc vị vọng thông luật đạo đời và các thầy cả tư tế nữa cũng đến với Ông.
Nhà vua Herode dù khó chịu vì lời cảnh cáo ngăn đe của Ngôn sứ Gioan. Nhưng vẫn kính trọng nể vì Thánh nhân. Ông không dám làm hại Thánh nhân, chỉ cho tống ngục, lại còn kín đáo đến nghe giảng vấn kế tâm sự. Vua Herode biết Ngôn sứ Gioan là người chính trực một đấng Thánh của Thiên Chúa.
Ngôn sứ Gioan tiền hô là người có đời sống căn bản triệt để, như Kinh Thánh thuật lại, tin tưởng hoàn toàn vô điều kiện vào Thiên Chúa. Tất cả từ nơi Ngài và trở về với Ngài.
Có lẽ cũng vì thế, từ nơi thánh nhân chiếu tỏa ra ngọn lửa tình yêu mến Chúa cháy rực. Chính tình yêu đó đã thôi thúc Ông không chấp nhận một thỏa hiệp nhượng bộ nào trong cung cách lối sống và lời giảng dậy. Trái lại ngọn lửa tình yêu đó đã mang đến cho Ông lòng hăng say phấn khởi chấp nhận bất cứ sự gì xảy đến. Và như thế Ông đã đạt được tự do sâu thẳm tận trong tâm hồn, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu nào.
Ngôn sứ Gioan tiền hô đã sống với lòng xác tín về tầm cỡ to lớn: Ngài (Chúa Giêsu) phải lớn lên. Còn tôi phải nhỏ bé yếu đi. (GA 3,30).
Ước gì lòng ích kỷ nhỏ nhen nơi con người chúng ta cũng càng ngày bé nhỏ yếu đi. Nhường chỗ cho Chúa Giêsu, Ðấng là lòng nhân ái tình yêu thương ngày càng to lớn lên trong tâm hồn cuộc sống!
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12).Sinh Nhật: 24/6-98
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12).Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6).
Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
1. Sinh nhật kỳ diệu
Thánh Luca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gioan “Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc 1,14).
a. Dacaria bị câm: Thân phụ của Gioan bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông đang dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình (Lc 1,5- 23)
b. Khỏi Tội Nguyên tổ: Bà Isave có thai được 6 tháng, Đức Maria đã đến viếng thăm, vừa nghe lời của Đức Maria chào thì thai nhi Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ (Lc 1,41) và được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,15).Hồng An này được Giáo hội hiểu là Gioan đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Maria cả nhân loại không ai có được.
c. Son sẻ mà có con: Hai ông bà Dacaria và Isave là người công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng họ lại không con, vì Bà Isave là người hiếm hoi, cả hai đều đã cao niên (Lc 1,6- 7).
Vậy mà Bà đã sinh con “Bà sinh hạ một con trai,nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy,láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,57 – 58). Trong Cưụ ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy. Bà Sara mẹ Isaac (St 11,30;21,1- 7). Bà Rebecca mẹ của Esau và Giacop (St 25,21- 26). Bà Rakhel mẹ của Giuse ( St 29,21; 30,22- 24). Bà Anna mẹ của Samuel (1 Sm 1,2- 20).
d. Tên Gioan và hết câm: Gioan sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Dacaria nhưng bà mẹ lên tiếng “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả.Khi Dacaria viết tên Gioan trên tấm bảng, thì miệng lưỡi ông được mở ra,ông hết câm và nói lại được như trước kia (Lc 1,59- 65).
Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gioan vì “Quả thật,có bàn tay Chúa phù hộ em” (Lc 1,66).
Sinh nhật Gioan kỳ diệu cũng đúng thôi vì Gioan sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
2. Ơn Gọi kỳ diệu
a Ngôn sứ Isaia loan báo: "Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Ngài đi.Mọi thung lũng phải lấp cho đầy,mọi núi đồi phải bạt cho thấp,khúc quanh co phải uốn cho ngay,đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,3- 5; Mc 1,3; Lc 3,4-6; Mt 3,3). Isaia đã giới thiệu về Gioan như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.
b. Ngôn sứ Malakia tiên báo: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con,người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu” (Ml 3,1- 24; Mt 1,10; Lc 1,17;7,27).Lời Ngôn sứ Malakia nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gioan như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
c. Sứ Thần Truyền Tin xác nhận: Sứ Thần của Chúa hiện ra với Dacaria,đứng bên phải hương án,xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gioan Tẩy Giả “Sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc1,17).
e. Thân phụ Dacaria: Dưới tác động của Thánh Thần, Dacaria đã hát lên bài ca chúc tụng "Benedictus” về ơn gọi của người con trai mình “Hài Nhi hỡi,con sẽ đi trước mặt Chúa,mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên” (Lc 1,76- 77).
f. Gioan khẳng định: Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và một người Do thái về việc thanh tẩy, tại Enon,gần Salem thuộc miền Giuđê, chính Gioan đã xác nhận ơn gọi của mình: “Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài” (Ga 3,28).
Qua sinh nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gioan,Thiên Chúa đã đặt Gioan làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
\Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả” (Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Đức Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi, cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 15,18 - 19)
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa.Gioan đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Người Kitô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách ngôn sứ chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu.Với tư cách là Tẩy Giả,chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đoa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cụôc sống.Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gioan: Ngài phải lớn lên,còn tôi phải lu mờ đi.
“Người cần phải được nâng cao, còn tôi thì cần phải hạ xuống” (Gioan 3:30).
“Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi, vì người có trước tôi. tôi không đáng cởi quai dép của ngài” (Gioan 1:15,27).
Gioan Tẩy Giả, ngoài mối liên hệ gia đình với Chúa Giêsu, còn là vị tiền hô với sứ mạng dọn: 24/6-99
Gioan Tẩy Giả, ngoài mối liên hệ gia đình với Chúa Giêsu, còn là vị tiền hô với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Vì vậy, mặc dù là vai trên theo dòng họ, nhưng ông vẫn giữ thái độ rất khiêm tốn và nhỏ bé trước mặt Chúa Giêsu. Ông luôn luôn muốn được chìm đi, và hạ thấp để Chúa Giêsu được nổi lên và được mọi người hiểu biết, yêu mến, và kính phúc. Hai câu nói trên đã chứng tỏ được điều ông muốn làm, nhưng nhất là cái chết của ông mới thực sự là một chứng tích hùng hồn về thái độ khiêm hạ mà ông muốn dành để yêu mến, và tôn kính người em họ của mình, nhưng cũng chính là Chúa và là Đấng Cứu Chuộc của mình.
Ông đã nhẩy mừng ngay khi còn trong lòng mẹ trước cái phúc được Chúa đến viếng thăm trong biến cố Mẹ Maria đến thăm thân mẫu của ông. Mẹ ông đã làm chứng điều này khi nói: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm? Vì tai tôi vừa nghe lời người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Luca 1:43-44).
Gioan đã khẳng định về vai trò ngôn sứ của mình. Ông thật sự chỉ muốn Chúa được nhận biết, dù cho sự nhận biết ấy có làm ông bị thua thiệt và lu mờ. Vai trò ngôn sứ của ông đã kết thúc bằng cái chết. Và qua cái chết ấy, ông đã chấp nhận thua Chúa Giêsu một cái đầu. Đầu ông đã bị chặt vì muốn làm chứng cho Tin Mừng và vì Tin Mừng. Ông đã thẳng thắn trách cứ việc làm sai trái của vua Hêrôđê và điều này làm phật lòng vua. Mặc dù kính trọng Gioan như một ngôn sứ cao trọng, nhưng Hêrôđê vẫn giết ông: “Ông đã hạ lệnh chém đầu Gioan trong ngục” (Mat 14:9).
Thua Chúa cái đầu:
Cái đầu là tượng trưng cho sự sống. Cái đầu cũng là tượng trưng cho danh dự, cho thể diện, và cho toàn thể con người. Còn thì còn sống, nhưng ở một phương diện khác, sống mà mất sĩ diện, mà thua thiệt thì dù có sống mà tâm hồn như đã chết. Gioan đã bị chém đầu vì Tin Mừng mà ông đang giới thiệu. Ông vừa bị mất mạng vừa bị mất hết sĩ diện vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng Cứu Độ của ngài. Thật ra, ông không rao giảng Tin Mừng, vì đã có Chúa Giêsu làm việc này, nhưng vì ông là người đi trước để dọn đường cho Chúa, và là người chỉ cho người khác biết về Chúa, nên cái chết của ông cũng là cái chết cho Tin Mừng và vì Tin Mừng. Ông đã nhân danh sự thật của Tin Mừng để cảnh cáo vua Hêrôđê, và vì thế mà ông đã bị chém đầu.
Khi hy sinh cho Chúa cái đầu, Gioan đã dâng tặng ngài tất cả sự kính trọng, yêu mến, và thiết tha. Ông đã yêu, đã mến, và đã thiết tha với Chúa và với Tin Mừng của ngài cho đến chết. Ông đã làm chứng tất cả những gì ông đã nói và đã làm nhân danh Đấng Cứu Thế.
Ông có thể làm khác, và có thể không cần phải chết như thế. Cũng như Chúa Giêsu cũng đã có thể làm khác mà không cần phải chết trong khi vẫn rao giảng Tin Mừng. Nhưng cả Chúa và Gioan đã chấp nhận cái chết. Gioan chết để Chúa được nhận biết. Chúa chết để đem ơn cứu độ cho nhân loại.
Trong những cuộc chạy đua vào các chiếc ghế quyền lực, ít có ai nhường nhau dù chỉ là một lá phiếu. Trong những cuộc tranh luận về bất cứ đề tài gì, ít thấy người nào nhường đối phương mình dù chỉ là một lý luận rất nhỏ mọn. Trong những cuộc cãi vã thường ngày, người ta cũng tìm cách ăn thua đủ, và khi cùng đường bí lối, thì cãi chày, cãi cối. Đó là những hình thức ăn thua của con người. Phần Gioan từ lúc ra rao giảng và thực hiện phép rửa thống hối, ông đã hơn hẳn Chúa Giêsu, và đã chinh phục được rất nhiều người. Chính Chúa Giêsu cũng đến để chịu phép rửa từ tay ông. Nhưng ông vẫn nhường Chúa, vẫn tìm dịp để làm cho Chúa được nhận biết.
Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn:
“Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi, vì người có trước tôi. Tôi không đáng cởi quai dép của ngài” (Gioan 1:15,27).
Phải là chính miệng Gioan nói ra mới đáng chúng ta khâm phục và kính trọng đức tin và đức khiêm nhường của ông. Trong khi Con Thiên Chúa cúi mình lãnh phép rửa của ông, thì ông vẫn một mực khiêm tốn chỉ nhận cho mình vai trò tiền hô, tức là đi trước dọn đường. Hơn thế nữa, ông còn cho rằng mình không đáng cởi quai dép cho ngài.
Một sự khiêm tốn đến từ sự thật, mà sự thật ấy là Gioan chỉ được trao cho sứ mạng làm tiếng kêu, làm kẻ đi trước, và làm kẻ dọn đường. Giả thử, nếu muốn thì ông cũng có thể lấp lửng để cho thiên hạ lầm tưởng về mình như nhiều người đã từng lầm tưởng: “Ông có phải là Đấng Cứu Thế không? Hãy nói cho chúng tôi biết ông là ai, để chúng tôi về nói lại với những người đã sai chúng tôi. Ông nói ông là ai?” (Gioan 1:20,22). Không những không lợi dụng cơ hội để tiếm danh, Gioan còn thẳng thắn nhận mình chỉ là một kẻ dọn đường, hơn thế nữa, là một kẻ dọn đường tầm thường đến nỗi: “Không đáng cởi quai dép của ngài” (Gioan 1:27).
Khi các môn đệ của ông ghen tương vì thấy Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của ngài và được nhiều người biết đến. Ông đã vui mừng nói với những kẻ theo mình: “Chính các ngươi làm chứng những gì ta đã nói rằng: “Ta không phải là Đấng Cứu Thế; Ta chỉ được sai đi trước ngài mà thôi” (Gioan 3;28).
Người cần được lớn lên:
“Người cần phải được nâng cao, còn tôi thì cần phải hạ xuống” (Gioan 3:30). Đó là lý do ông tình nguyện nhường Chúa. Do đức tin và lòng yêu mến, ông đã làm tất cả những gì mà ông có thể làm cho Đấng đã khiến ông nhẩy mừng trong lòng mẹ ở lần đầu gặp gỡ.
Gioan nhẩy mừng vì ông đã nhận ra Đấng Thiên Sai. Nhờ ngài mà ơn cứu độ được thực hiện. Nhờ ngài mà con người mới được phục hồi quyền làm con Thiên Chúa. Sự nhận thức này đã khiến ông sốt sắng rao giảng và thực hành phép rửa thống hối.
Nếu Chúa Giêsu không phải là Đấng Thiên Sai, có lẽ ông cũng chẳng cần phải nhường nhịn, phải hy sinh chính mạng sống mình. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu xuất hiện và đến với ông để xin chịu phép rửa, ông đã nói với ngài: “Phải chăng tôi cần được ngài rửa cho, tại sao ngài lại đến với tôi” (Mat 3:14). Rõ ràng Gioan muốn Chúa Giêsu được nổi nang, và hơn ông để sứ mạng cứu chuộc của ngài được thực hiện.
Gioan nhỏ đi để Chúa được lớn lên. Rất nhiều lần và trong nhiều hình thức chúng ta đã làm ngược lại những gì Gioan đã làm, và chính vì thế mà Thiên Chúa đã không được nhận biết. Và thay vì người khác khám phá ra Chúa, nhìn nhận Tin Mừng Cứu Độ của Chúa lại bị cái đầu của chúng ta cản trở, và làm cho nhiều người không còn nhận ra Chúa nữa.
Trồi mình lên. Muốn mình được nổi nang. Đó là căn bệnh của Nguyên Tổ để lại cho mọi người, cho con cháu. Ngay từ xa xưa, lúc mới tạo thành vũ trụ, con người cũng đã phải đối diện với cám dỗ này. Từ đó, tội lỗi đã lọt vào thế gian. Để thế gian được cứu rỗi, Thiên Chúa cần được nhận biết, được lên cao. Và Gioan đã làm công việc này. Ông đã biết mình có thể dễ bị chứng cứng đầu và muốn trổi vượt, nên đã bằng lòng hy sinh cái đầu của mình.
Là Kitô hữu, mỗi khi nghi đến Chúa và muốn làm vinh danh ngài, có bao giờ chúng ta nghĩ và dám làm như Gioan Tiền Hô đã làm là chấp nhận nhường Chúa một cái đầu không? Hoặc nếu cần sẵn sàng dâng Chúa cái đầu của mình không? Gioan Tẩy Giả đã thua Chúa một cái đầu, nhưng cũng chính vì thế mà ông đã được Chúa khen thưởng: “Ta nói thật với các ngươi trong những người do người nữ sinh ra không ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả” (Mat 11:11).
Bạn có muốn bắt chước Gioan nhường Chúa cái đầu không? Hoặc bạn có dám như Gioan tặng Chúa cái đầu của mình không? Bởi vì “Người cần phải được nâng cao, còn tôi thì cần phải hạ xuống” (Gioan 3:30).
Trong lịch sử Do Thái – Ki tô giáo có lẽ không nhân vật nào nổi bật cho bằng Gio-an Tẩy Giả: 24/6-100
Trong lịch sử Do Thái – Ki tô giáo có lẽ không nhân vật nào nổi bật cho bằng Gio-an Tẩy Giả. Và trong Lịch Phụng Vụ Các Chư Thánh của Giáo hội Công giáo, có lẽ không có gương mặt nào có sức lôi cuốn cho bằng Gio-an Tiền Hô. Thật vậy Gio-an Tẩy Giả (còn được gọi là Gio-an Tiền Hô) được sinh ra, lớn lên, hoạt động và kết liễu cuộc đời một cách rất đặc biệt. Có thể nói Gio-an được sinh ra và giáo dục cho một sứ mạng cao cả: đó là làm chứng và dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Chúng ta hãy tìm hiểu các bài Sách Thánh để hiểu biết, yêu mến và noi gương Thánh Gio-an nhiều hơn trong đời sống hằng ngày của mình.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Is 49,1-6: Bài ca thứ hai về người Tôi Trung.
1 Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: ĐỨC CHÚA đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. 2 Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người. 3 Người đã phán cùng tôi: "Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang." 4 Phần tôi, tôi đã nói: "Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì." Nhưng sự thật, đã có ĐỨC CHÚA minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng. 5 Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi. 6 Người phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”.
(2) Bài đọc 2: Cv 13, 22-26: Ông Phao-lô giảng cho người Do Thái.
22 Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. 23 Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su. 24 Để dọn đường cho Đức Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. 25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: "Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người.
26 "Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta".
57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. 59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: "Không, phải đặt tên cháu là Gio-an." 61 Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả." 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gio-an." Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? " Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.
80 Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Is 49,1-6) là bài ca thứ 2 về Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Người Tôi Trung chẳng là ai khác mà là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu Người Tôi Trung là dân Ít-ra-en, là Gio-an Tẩy Giả, là mỗi Ki-tô hữu chúng ta.
Qua đoạn Sách Is 49,1-6 chúng ta thấy cách Thiên Chúa đối xử với người Tôi Trung của Người như thế nào. Có thể nói là Thiên Chúa hết lòng tin tưởng và yêu thương đối với Người Tôi Trung vì thế mà Thiên Chúa mới giao trọng trách và vinh dự lớn lao cho người ấy: “Này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Người Tôi Trung là chính Chúa Ki-tô, nhưng cũng là Gio-an Tẩy Giả và mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.
(2) Bài đọc 2 (Cv 13, 22-26) là bài giảng của Thánh Phao-lô cho những người Do Thái đồng hương của ngài, trong đó Thánh Phao-lô nhắc đến hai nhân vật quan trọng là vua Đa-vít và Gio-an Tẩy Giả. Vua Đa-vít là tổ tiên của Chúa Cứu Thế. Gio-an Tẩy Giả là người dọn đường và giới thiệu Chúa Cứu Thế cho dân Ít-ra-en.
Trong đoạn Cv 13, 22-26 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su Ki-tô vừa là Thiên Chúa, vừa là người thuộc dòng dõi Đa-vít. Người là Đấng mà các Ngôn sứ đã loan báo, dân chúng đang mong chờ và Gio-an đến dọn đường. Người cao trọng hơn Gio-an bội phần: “Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”. (3) Bài Tin Mừng (Lc 1,57-66.80) là bài tường thuật của Lu-ca về câu truyện cậu bé Gio-an sinh ra, chịu phép cắt bì và lớn lên như thế nào. Không chỉ cha mẹ cậu bé chăm sóc cho con của mình mà chính Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm lo cho cậu bé một cách đặc biệt: từ việc đậu thai cho đến việc đặt tên, cho đến môi trường sống trong và ngoài gia đình (hoang địa) để Gio-an được chuẩn bị một cách chu đáo nhất cho sứ mạng làm chứng và dọn đường cho Đấng Mê-si-a.
Qua Bài Phúc Âm Lc 1,57- 66,80 chúng ta hình bóng của Thiên Chúa mà Gia-ca-ri-a và các Thánh thời Cựu Ước tôn thờ và chúc tụng: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đa-vít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước; Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta”.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được tìm thấy trong hai câu Thánh Kinh này: "Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” và “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Thiết nghĩ Sống Sứ Điệp Lời Chúa của Lễ Sinh Nhật Gio-an Tẩy Giả là sống theo lối sống của chính Gio-an Tẩy Giả. Cụ thể là:
Rèn luyện cho có một tinh thần vững mạnh, dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thánh Thần;
Tự nguyện khước từ tiện nghi vật chất, danh vọng, chức quyền và của cải trần gian để tâm hồn được nhẹ nhàng thanh thoát cho sứ mạng làm chứng và giới thiệu Chúa Giê-su cho người thời nay;
Sống khiêm tốn và quy hướng về Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng mình có sứ mạng làm chứng và giới thiệu cho anh em đồng bào.
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
1. Lạy Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng đã ban cho Gio-an Tẩy Giả ơn gọi và sứ mạng dọn đường cho Con Một Chúa đến với dân Ít-ra-en ngày xưa. Chúa cũng ban cho chúng con ơn gọi sứ mạng dọn đường cho Con Một Chúa đến với đồng bào Việt Nam của chúng con ngày hôm nay. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn dũng cảm làm chứng và giới thiệu Con Một Chúa cho những người chúng con gặp hằng ngày. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
2 Lạy Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng đã cho Gio-an Tẩy Giả được sống trong một khung cảnh gia đình ấm êm và trong hoang địa khắc khổ, thích hợp cho việc rèn luyện nhân cách và ơn gọi. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn biết chọn lựa và tìm kiếm những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển đời sống tâm linh và làm chứng của chúng con. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
3 Lạy Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng đã ban cho Gio-an Tẩy Giả một tấm lòng khiêm nhường, tôn trọng chân lý, ý thức khoảng cách giữa ngài và Đấng Mê-si-a mà ngài loan báo và dọn đường. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con một tâm hồn khiêm nhu, chân thật, luôn ý thức về sự thấp hèn của mình trước mặt Chúa và trước sứ vụ làm chứng cho Con Một Chúa.