Đây không phải là những tư tưởng và lý luận để trình bày, chứng minh và thuyết minh, nhưng chỉ là cảm nghĩ cá nhân về những băn khoăn mà ai đã là người, và đã sống đời mình, thì cũng đều có lúc thấy xuất hiện trong trí khôn mình.
Các băn khoăn ấy có thể trôi đi như trăm nghìn bận bịu của trí khôn khác, nhưng cũng có thể khơi dậy trong lòng người những câu hỏi và những giải đáp chưa đến một đổi mới sâu xa trong đời sống.
Mục đích của những cảm nghĩ này không là giải đáp cho các băn khoăn ấy, vì chúng xuất hiện ở mỗi người dưới một hình thái riêng do hoàn cành văn hoá, xã hội, ơn gọi cá nhân, vị trí trong thời gian và không gian chi phối, nhưng là để khơi dậy các câu hỏi, và giúp tiếp cận một phần nào những giải đáp có thể được.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn mỗi chúng ta trước những thắc mắc cảm thấy, và tìm được giải đáp riêng cho thân phận là người của mình trước ơn gọi của Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên ta.
Tất cả những gì người ta theo đuổi, ước muốn, tất cả những vấn đề người ta đặt ra đều qui về Thượng Đế. Nhưng nhận biết Người cũng khó như không nhận biết Người/
Khi người ta theo đuổi một sợ, người ta không tìm sự ấy ở chính nó, nhưng ở “ước vọng’ người ta đặt vào nó, Vì thế khi có sự mình mong đợi. thường người ta không toại nguyện , người ta mong đợi tuyệt đối mà chỉ có trong tay tương đối.
Người ta tìm Thượng Đế trong tạo vật, người ta biến một tạo vật có kích thước hữu hạn thành một thực tại mơ hồ có kích thước cô hạn, Nhân loại, tình yêu, khoa học... đều có thể biến nên những thực tại tuyệt đối để chúng ta tôn thờ.
Khi người ta đẻ chọn được cho mình một thực tại đễ tôn thờ như trên. Nếu có ai can thiệp, bảo họ xác định lại cho rõ ràng thực tại họ tôn thờ, thường họ nổi giận. Thái độ ấy không đòi hỏi phải cố gắng suy nghĩ gì, lại cho họ có cảm tưởng rằng mình cao thượng, vì mình vô tư bênh vực những giá trị cao quý con người phải tôn trọng. Nhưng đó là khởi điểm của cuồng tín.
Cũng có người chấp nhận suy nghĩ để có một nền tảng cho sự mình tôn thờ. Nhưng người này cũng có thể có hai thái độ. Nếu theo lý thuyết họ chấp nhận có Thượng Đế, họ sẽ cố gắng lý luận để tìm ra một liên hệ thiết yếu giữa Thượng Đế với giá trị họ tôn thờ, rồi họ tuyệt đối hoá giá trị ấy: Ý dân là ý trời, đàn bà muốn là trời muốn...
Nếu theo lý thuyết họ không chấp nhận có Thượng Đế, họ sẽ cố gắng lý luận để biến giá trị họ tôn thờ nên tuyệt đối. Như vậy người ta chối Thượng Đế mà thật ra là không chối, vì Thượng Đế là tuyệt đối và chỉ là thế thôi. Khi chối Thượng Đế mà lại nhận có tuyệt đối, thì giống như người ta nói rằng: Không có Thượng Đế, nhưng có một Thượng Đế không phải là Thượng Đế.
Có người chối Thượng Đế vì họ đã nhận được những ý niệm sai lầm về Thượng Đế, nên họ đồng nhất Thượng Đế với những ý niệm trên, họ chối Thượng Đế vì muốn đi tìm sự thật.
Nhiều Kitô hữu nói rằng: Mình tin ở Thượng Đế thật, nhưng ý niệm họ có về Thượng Đế thật thô lỗ, sai lầm. Chính ý niệm này đã làm cho nhiều người không tin ngã lòng, không muốn tìm hiểu Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội Người nữa. Vì phủ nhận Thiên Chúa của một số Kitô hữu, họ đã phủ nhận Thiên Chúa thật. Và vì thế họ đã đi từ Thượng Đế giả này đến Thượng Đế giả khác.
Hình như có những người đã đồng hoá mình với tuyệt đối. Họ tuyệt đối hoá bất cứ cái gì là của họ: Mọi tư tưởng của họ đều là chân lý, mọi hành động của họ đều là sự thiện... Chính vì thế mà không thuyết phục được họ công nhận rằng người phản đối họ cũng không hoàn toàn sai, người hành động khác họ cũng không hoàn toàn xấu. Ai dễ có tuyệt đối như vậy, thường tự tin và kiêu hãnh, nếu tuyệt đối của họ sai lầm và bị người xung quanh phi bác thì họ liền lên án xã hội là hư đốn và mình đang sống trong bầu không khí bách hại.
Nếu cho rằng trên đời này chỉ có tương đối, chẳng có gì là tuyệt đối, thì đời sẽ tẻ nhạt, hết phấn khởi.
Chỉ có người biết đặt tuyệt đối nơi Thiên Chúa thì mới nhận biết tạo vật và chính mình là tương đối mà vẫn nhìn đời một cách phấn khởi.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể nói một cách tuyệt đối rằng: Mình là Thiên Chúa. Còn loài người khi họ nói: Mình là người, họ lại phải thêm: “Và chỉ là thế”. Thiên Chúa nói: “Ego sum qui sum”. Người ta nói: “Ego sum quod sum”.
Người theo thuyết hữu thần, phiếm thần hay vô thần đều tin có tuyệt đối, có khác chăng là ở chỗ người hữu thần đặt tuyệt đối trong tinh thần, người phiếm thần đặt tuyệt đối trong thiên nhiên, và người vô thần đặt tuyệt đối trong vật chất.
Người hữu thần nói: Các vật hữu hình qua đi và có giới hạn nên không phải là tuyệt đối, vì vậy tuyệt đối phải là tinh thần.
Người phiếm thần nói: Mọi vật hiện hữu đều có giá trị tự tại, vì thế đã là vật hiện hữu thì phải tuyệt đối. Như vậy mọi vật trong thiên nhiên đều tuyệt đối.
Người vô thần nói: Chỉ có những sự vật chất, nghĩa là những sự ta trông thấy được mới hiện hữu thật. Nhưng họ cũng phải có tuyệt đối để sống, nên họ đã tuyệt đối hoá vật chất.
Tuyệt đối và tương đối là hai dữ kiện, cả hai đều hiển nhiên, tuy rằng để biết chúng, phải qua những con đường suy luận khác nhau. Trí tuệ ta phải chấp nhận có tuyệt đối. Nếu có vật gì thì có tuyệt đối. Nếu có một vật, đó là tuyệt đối. Nếu có nhiều vật, một trong chúng phải là tuyệt đối. Một là có tuyệt đối hay là không có gì hết.
Tương đối không buộc phải có, vì thế ta không thể chứng minh rằng nó có nếu ta không nhìn thấy nó. Và khi ta biết tương đối không buộc phải có, ta không thể quả quyết rằng nó cò nếu ta không nhìn thấy nó. Và khi ta thấy nó, nó xuất hiện với những đặc tính chứng tỏ nó không phải là tuyệt đối.
Nếu ta coi nặng suy luận và coi thường kinh nghiệm, ta có thể phủ nhận tương đối, vì nếu có tuyệt đối, ta không thấy cần có tương đối: Nó không thêm gì cho tuyệt đối và không có giá trị tự tại. Vì thế phiếm thần là khuynh hướng của nhiều nhà Triết học.
Thượng Đế vừa giàu có vừa nghèo khó hơn hết mọi loài. Người là tất cả và cũng chẳng có gì. Người chỉ có thể ban chính mình và đó là điều người ta ít am tường giá trị vì họ thích những quà tặng bên ngoài hơn.
Người ta bị tạo vật lôi cuốn khi họ chưa có chúng, nhưng họ chỉ bị Thượng Đế lôi cuốn theo như mức độ họ đã có Người.
Tạo vật làm thất vọng những ai biết rõ nó quá, còn Thượng Đế chỉ làm thất vọng những ai không biết Người đủ thôi.
Anh đừng đòi hỏi ở một thứ rượu vừa sự nuôi dưỡng vừa sự say sưa. Chỉ có Thượng Đế mới ban cho anh được một thứ rượu như vậy.
Hai trục của tâm tình chủ quan nơi người Kitô hữu là ý thức sự tội và ý thức Thiên Chúa. Một mặt người ta cảm thấy sâu sắc sự rối loạn vẩn đục, giả trá; và mặt khác, họ lại bị thôi miên bởi sự trong sạch tinh tuyền. Hai tâm tình trên không được tách biệt nhau: Để đau đớn ê chề về sự thấp hèn của con người thì phải nhìn thấy sự thanh cao của Thiên Chúa, và để mòn mỏi ước mong sự thanh cao của Thiên Chúa thì phải ở trong tình trạng thấp hèn của con người.
Bao lâu người ta còn tiến bước và chưa gặp giới hạn cho sức mạnh, tình yêu và tự do của mình, thì người ta chưa hiểu thế nào là vô cùng và chưa biết gì về Thiên Chúa. Chỉ khi nào người ta chạm trán với giới hạn của chính mình thì người ta mới khám phá ra vô cùng. Thiên Chúa luôn ở bên kia hố sâu không thể vượt sang được.
Hình phạt nặng nhất của Thiên Chúa không phải là gởi đến những tai hoạ, tang tóc để ta không thể nghỉ yên trong tội lỗi. Đó còn là dấu chỉ lòng nhân từ của Người, muốn cảnh tỉnh ta để ta trở lại với Người. Hình phạt nặng nhất là để cho ta có dư dật của cải, vui sướng ở đời này và chỉ cất khỏi ta sự hiện diện sinh động của Người, vì ở trạng thái thấy con người có cảm giác mình chẳng còn thiếu thốn chi nên không nghĩ đến trở lại nữa.
Công lý của loài người chỉ có thể phạt ta bằng cách lấy của ta một vài sự hảo bề ngoài như gia tài, tự do... Công lý của Thiên Chúa có thể phạt ta bằng cách tách ta ra khỏi Người. Báo oán ghê sợ nhất của Người là lặng thinh, để cho ta quên Người và mất hết hương vị trên trời.
Thiên Chúa ở trong mỗi người chúng ta, là phản ảnh sự hư vô và giới hạn của chúng ta cho đến khi chúng ta trở thành phản ảnh trung thực sự trọn lành của của Người. “Estote perfecti”.
Sự khác biệt giữa một người Kitô hữu và một người “ngoại đạo” là người Kitô hữu ấy biết tên Thiên Chúa, còn người “ngoại đạo” không biết Thiên Chúa là ai. Biết tên mà không biết Người thì có hơn gì không biết Người là ai?
Đừng bao giờ quên rằng ta được dựng nên bởi không, nhưng cũng phải nhớ luôn rằng Thiên Chúa đã dựng nên ta. Chân lý trên giữ cho ta khỏi rơi vào ảo tưởng và chân lý dưới giữ cho ta khỏi thất vọng.
Vinh dự cao quý nhất của con người là đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhờ đó, chẳng bao giờ con người cảm thấy đồng nhất với chính mình và thoả mãn về mình. Họ chỉ là con người, nhưng họ không thoả mãn trong nhãn giới loài người, họ hằng mơ ước sự trọn lành của “Cha” ở trên trời.
Lý tưởng trên làm nên phẩm giá con người. Nhưng cũng có thể trở nên một đại hoạ cho họ. Thật vậy, những tà thuyết về con người với những thất vọng và những lời phạm thượng bởi đấy mà ra cũng bắt nguồn từ lý tưởng này.
Khi một người muốn nghỉ yên dưới bóng của chính mình là lúc hắn bị mất sự an nhàn. Thật vậy, dù hắn đem hết hơi sức ra mà đuổi bóng mình thì bao giờ cái bóng ấy cũng vẫn chạy ở đằng trước hắn.
Có tín ngưỡng hay không, con người cũng phải có một niềm tin để sống, vì khi con người không còn gì để hy vọng thì sống cũng như chết.
Người này đã huênh hoang, kể cho tôi nghe hạnh phúc thô tục của hắn. Nếu hắn chỉ lấy làm vui sướng thôi thì tôi còn hiểu được, nhưng hắn lại lấy làm hãnh diện thì thật tôi không còn hiểu gì nữa.
Khi tâm hồn người ta cô đơn tuyệt vọng, cái gì cũng có thể trở nên nơi nương tựa, kể cả sự đốn mạt và tội lỗi: Người hà tiện thu góp tiền bạc, người dâm dật mê đắm xác thịt. Những người này cảm thấy ớn lạnh và họ cần có cái gì để chui rúc. Nhưng họ đã lầm, họ ớn lạnh mà lại chui rúc vào những vật lạnh hơn mình. Chúng đã chẳng làm cho họ được ấm áp thì chớ, lại làm tiêu ma chút ấm áp còn lại của họ.
Le grelottant balse glace L’aveugle alme l’aveuglement... (Victor Hugo).
Anh muốn đón nhận hạnh phúc ư? Trước tiên anh phải ăn ở làm sao đáng được hạnh phúc đón nhận anh. Khi anh thánh thiện đủ thì hạnh phúc sẽ theo anh khắp nơi dù anh có ẩn náu trốn tránh ở đâu, nó cũng vẫn tìm thấy anh.
Ta nhận biết một tâm hồn cao thượng ở sự tế nhị của họ khi đón nhận những điều may mắn. Hầu như họ e lệ không dám đón nhận. Trái lại, kẻ tiểu nhân chẳng bao giờ ngượng ngập đón nhận những điều may mắn, họ nghĩ rằng họ có mọi quyền lợi.
Khi một người không còn những sự không gì thay thế được để mà yêu thì đã trở thành đốn mạt. Thật vậy, lúc ấy người ta giống như cái chai rỗng, đổi gì vào cũng được, miễn là đầy.
Nhiều người nghĩ rằng có tiền mua tiên cũng được. Họ cho rằng tiền có thể thay cho tất cả: Hạnh phúc, danh dự, tình yêu... Và lúc ấy tiền đã trở thành Thượng Đế của họ.
Con người chỉ có thể thoát khỏi quyền lực của những sự cao thượng nâng phẩm giá họ để rơi vào vòng áp bức của những sự đê tiện làm cho họ ra hèn hạ mà thôi.
Anh buồn phiền vì thấy người ta phải nô lệ cho nhiều sự ư? Xin anh hãy tìm hiểu họ đã từ chối làm tôi ai để rơi vào cảnh ấy? Họ không muốn vâng lời nên đã rơi vào vòng nô lệ.
Khiêm nhường là sống ở bên trên bản thân, dâng hiến cho thực tại siêu bản vị. Khiêm nhường là sống với sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa. Vì thế người khiêm nhượng không bị vây hãm trong cá nhân mình, nhưng rộng mở để đón nhận tình yêu.
Ít khi người ta nghĩ rằng mình độc đáo, họ thường phán đoán về mình trong lúc so sánh với người khác. Họ quên rằng mình được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và chỉ nên so sánh với Ngài. Phải đối diện với Thiên Chúa, người ta mới có khiêm nhường thật, còn đối diện với người khác, một là người ta ghen tỵ, hai là tự kiêu.
Người khiêm nhường không bối rối trước sự hèn kém tự nhiên của mình, cũng chẳng thổi phồng hay đánh bóng những sự ấy, vì họ không có ngẫu tượng ở trong lòng để bênh vực bằng một lớp sơn ảo tưởng chống lại sự tàn phá của sự thật.
Người ta có thể tránh được các nết xấu khác khi trốn về với bản thân, nhưng người ta chỉ có thể trốn tránh kiêu ngạo khi trốn vào Thiên Chúa.
Có ích kỷ và ích kỷ. Có người không muốn cho đi một sự gì và có người không biết phải cho ai tất cả. Người chưa tìm thấy đối tượng để dâng hiến tất cả chỉ có bề ngoài ích kỷ.
Người thánh thì hạnh phúc không làm cho kiêu căng à đau khổ không làm cho chai đá. Những người cần phải có hạnh phúc mới nên tốt và cần phải có khổ sở mới nghĩ đến Thiên Chúa thì chưa phải là người thánh.
Người ta không bao giờ ghét điều mình chẳng bao giờ có được, nhưng chỉ ghét điều mình đã được mà nay mình đánh mất không còn lấy lại được.
Có cởi mở và cởi mở, có người cởi mở để đón nhận tuyệt đối và có người cởi mở để đón nhận một cái gì mới. Với những người sau, điều họ theo đuổi quý vì nó chưa có. Do đó, họ đi hoài mà không tới đích. Người cởi mở để đón nhận tuyệt đối tìm ngay thấy mục đích của mình, nhưng không bao giờ chiếm đoạt được trọn vẹn đối tượng mình theo đuổi.
Có tai để nghe mọi tiếng nói không đủ, còn phải có tai để nghe mọi im lặng nữa: Đó mới là tuyệt đỉnh của công bằng và yêu thương.
Con người có khả năng bay bổng mà họ không hay, chỉ khi nào không còn một lối thoát nào trên mặt đất và họ phải chọn giữa chết hay bay bổng thì bản năng bay bổng mới thức tỉnh trong lòng họ. Để vào thiên đàng biết điều lành chưa đủ, Satan cũng biết rất thông thạo điều lành.
Chúng ta không có con đường trở về hư vô, địa ngục bít kín mọi nẻo rút lui. Vì thế chỉ còn có thiên đàng hay địa ngục.
Đặc tính của thời đại hay một cá nhân suy sụp là kéo dài một cơn hấp hối vô tận: Người ta sống để hấp hối.
Khi sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ còn minh bạch như trắng với đen, thì người ta còn lành mạnh. Nhưng khi lành dữ, sống chết không còn phân biệt rõ ràng và người ta cố ý lẫn lộn chúng, thì lúc đó người ta sống trong bệnh tật hấp hối.
Ma quỷ không có tham vọng phá huỷ, nhưng làm hư hỏng. Nó muốn đầu độc cho mất tính người đi chứ không làm cho chết, nó muốn tạo nên một giống người sống dở chết dở và cứ thế không cùng.
Để ngăn chặn sự suy đồi, phải có nhiều tài giỏi hơn là hướng dẫn trên đà tiến. Người ta chỉ đo lường được tài năng của một thầy thuốc khi ông trị nổi một căn bệnh vô phương cứu cấp.
Nếu lúa không tốt, thì dù cối xay có tốt cũng không làm cho gạo nên tốt được. Một người dù có thông minh đến mấy mà tâm hồn thấp hèn thì tác phẩm của họ cũng không lỗi lạc được, dù họ khéo diễn tả đến mấy đi chăng nữa.
Không gì trống rỗng cho bằng một tâm hồn ngổn ngang bề bộn. Để thấy rõ điều này, chỉ cần để ý đến đời sống bề trong của một số người đa đoan công việc.
Có người rất thông thạo về sinh lý và tâm lý con người, nhưng lại không biết định mệnh của con người là gì. Họ giống như người biết ràng mạch ổ khoá, nhưng không có chìa nên cũng vô ích.
Giây phút một người nghĩ mình là Thiên Chúa là giây phút hắn bắt đầu xuống dốc.
Hai người cùng thất bại trong một công cuộc. Người thứ nhất kết luận: Công cuộc này rất khó, cần phải sửa soạn kỹ hơn và không nên buộc mọi người phải làm tròn. Người thứ hai quả quyết: Công cuộc này không thể thực hiện được, đó là một công cuộc điên rồ, vô lý. Ai trong hai là người thực tế.
Anh muốn tiêu diệt trí khôn ư? Được lắm, nhưng anh sẽ dùng gì để tiêu diệt nó? Anh có tìm được một khí giới khác hay anh lại phải dùng chính nó?
Có những người chỉ bừng tỉnh trước cuộc sống khi bị rủi ro: Họ chỉ biết giá trị cuộc đời khi phải gần gũi với sự chết. Trong thái bình những người này sẽ có một đời sống kém cỏi.
Anh sợ lẫn gà với phượng hoàng. Những điều đáng lo ở anh là vì quá khôn ngoan nên anh chỉ nhìn thấy toàn gà, cả phượng hoàng cũng là gà.
Ở đời ít người không có lý tưởng. Nhưng họ có hai cách sống lý tưởng. Có người đem lý tưởng áp dụng vào đời sống mình, và như vậy lý tưởng luôn lên án thực chất của bản thân họ, đó là những thánh nhân. Người khác muốn lý tưởng thể hiện ở ngoài họ mà thôi, vì thế họ luôn nhân danh lý tưởng lên án người và xã hội xung quanh họ: Họ là những tiên tri giả.
Có những lý tưởng bắt nguồn từ đòi hỏi sâu xa của con người, nên ban sức mạnh cho kẻ tin theo và tồn tại qua các hưng vong của họ. Cũng có những lý tưởng chỉ có sức hấp dẫn nhờ óc tưởng tượng của con người, nó sẽ tàn lụi với sự phấn khởi nhất thời của họ.
Muốn tặng rượu, không ai lại chỉ có rượu, phải có chai đựng và ly để rót ra. Muốn huấn luyện người ta nên nhân đức, không ai lại chỉ có nhân đức mà không có quy luật, tín điều và tục lệ.
Ai hạ mình xuống thì sẽ được đưa lên, nhưng để hạ mình xuống thì phải ở trên cao. Chỉ có sự khiêm nhường khi có hơn kém, cao thấp giữa các giá trị. Trái lại nếu chỉ có cùng một mức độ không hơn không kém, thì chẳng còn ai có thể hạ xuống được, và như vậy khiêm nhường sẽ trở nên vô nghĩa.
Người ngồi đáy giếng thấy ánh sao chiếu trên nước giếng, có thể tưởng đáy giếng tạo nên các vì sao. Có người nhìn ngắm vũ trụ thấy phản ảnh Đấng sáng tạo lại lầm lẫn rằng vũ trụ là Thiên Chúa.
Chỉ có người hèn nhát mới run sợ trước chiến tranh, người can đảm gặp thấy bình an mọi nơi, cả trong chiến tranh.
Có hai con đường đưa đến bình an: Tiêu huỷ sự xung khắc hay đưa sự xung khắc ấy về nguồn gốc chung của nó.
Con đường thứ nhất đưa đến bình an nơi nghĩa địa, con đường thứ hai đưa đến bình an của tình thương.
Tin ở người tách xác ra khỏi hồn và thoá mạ xác, cũng đừng tin ở người tách hồn ra khỏi xác và nguyền rủa tinh thần. Tôi biết lắm, xác nặng nề dễ chìm trong khoái lạc vật chất, và tinh thần quá siêu thoát dễ rơi vào ảo tưởng. Nhưng anh nên bảo vệ với bất cứ giá nào, không mỏi mệt và đầy thận trọng, sự duy nhất của hồn xác anh. Đừng để cho một bên nào có hành động tách rời dù là để nghỉ ngơi một lát khi xác đã rã rời, hay là để bay bổng theo lý tưởng khi hồn đầy nhiệt khí. Xác tách khỏi linh hồn chỉ còn là một thây ma rữa thối, linh hồn tách khỏi xác chỉ còn là một cái vía vật vờ.
Nếu nhìn kỹ vào đời sống những kẻ thù của tinh thần và các giá trị luân lý, người ta thấy ngay rằng động lực chính làm cho họ nổi loạn không phải là bản năng về thể xác, nhưng là trí khôn họ... Thất vọng vì không có một con đường vươn lên cho tinh thần, họ quay về những sự vật chất để thoả mãn lòng thèm khát cai trị và hiểu biết của mình. Họ chơi lá bài thể xác vì thất bại tinh thần của mình.
Một trong những hoài bão cũ kỹ của con người là quên đi các lý tưởng, bổn phận... để sống theo nhịp đời sống cỏ cây: Các huyền thoại ca tụng đời sống thiên nhiên luôn gặp được nhiều người ngưỡng mộ. Nhưng người là người, muốn là con vật cũng không thành công như muốn là thiên thần.
Con người có hồn có xác, quá thiên vị một bên nào đều không tốt.
Mọi văn hoá đều có nền tảng ở một hình thức tu thân. Khi nền tu đức ấy hết sáng kiến, trở nên máy móc, hẹp hòi và là mục đích cho chính mình, thì không những không hướng dẫn được đời sống, mà còn trái ngược với đời sống, nên cũng làm tiêu hao tinh thần.
Những tục lệ quá câu nệ, những chủ trương luân lý quá nghiêm ngặt đến nỗi chà đạp những nhu cầu chính đáng của thể xác thì không những làm cạn mà còn biến đời sống nên xấu nữa. Sau đời sống bê bối của Rousseau, thấy ló rạng sự nghiêm khắc bất nhân của Calvin.
Không bao giờ tinh thần rơi vào nguy cơ làm nô lệ cho xác thịt bằng khi nó trở nên bạo chúa của xác thịt: Lúc ấy những chủ trương luân lý quá kiêu căng không còn đếm xỉa gì tới xác lại là chiêu bài cho những cuồng vọng thấp hèn nhất của thể xác.
Ai muốn dung hoà lý tưởng và đức tin với mọi khát vọng của con tim mình, một ngày kia sẽ khám phá ra rằng lý tưởng và đức tin không thể dung hoà với khát vọng của con tim mình trong mọi phương diện. Ngày ấy, anh ta sẽ phải chọn giữa những điều trí tuệ mình nhận biết và những điều con tim mình ấp ủ, giữa chân lý và chân lý của riêng mình, và anh sẽ chọn chân lý của riêng mình.
Người dạo phố trần truồng là người tự nhiên giả tạo nhất, bộc phát tính toán nhất.
Khi cấm đoán luân lý đi đôi với sự bất lực của người ta hay câu thúc vật lý thì người ta dễ dàng lầm lẫn sự vô luân với sự giải phóng con người. Đừng cấm ai làm điều họ không thể làm được, như thế họ sẽ tưởng rằng ta chế giễu họ, và sẽ ước ao làm điều cấm đoán.
Tuy xác và hồn kết hợp nên một người, nhưng chúng vẫn khác nhau. Phải luôn nhìn nhận sự khác biệt, nhưng phải tổng hợp không được phân chia. Nếu trọng xác quên hồn, hồn sẽ nhân danh xác mà xuất hiện trong các lý thuyết tôn thờ xác; nếu trọng hồn quên xác, xác sẽ xuất hiện dưới nhãn hiệu những lý thuyết có vẻ thật siêu thoát.
Tu thân không phải là diệt hay là bắt thể xác làm nô lệ, nhưng là chắp cánh tinh thần cho thể xác bay bổng và truyền sự ấm áp của thể xác cho tinh thần lạnh lùng.
“AGAPÉ” (đức ái) là tình yêu của Thiên Chúa nhập thể. Nó thâm nhập vào xác thịt và cảm tình con người không phải để đàn áp và bóp nghẹt nhưng để ban cho sự thanh cao trong sáng.
Tu thân không phải là tiêu diệt. Con đường của thánh đức chứa đầy đổ nát, nhưng là đổ nát của những sự giả trá. Sự thật chỉ xuất hiện khi giả trá không còn. Tự ái mù quáng là nguyên nhân mọi sai lầm của ta. Với nó hiến dâng có nghĩa là tiêu huỷ. Nhưng chỉ những ai mất đi mới cứu rỗi được sự sống mình. Dù ta có làm chủ được thân xác mà tự ái vẫn còn, thì ta cũng vẫn chưa thánh thiện. Các Thánh đều có ý chí cương quyết. Phải, nhưng họ chỉ chinh phục bản thân để hiến dâng được trọn vẹn hơn thôi. Ý chí của họ không quy về một bản ngã chật hẹp nhưng mở rộng trước tình yêu. Ngoài Chúa Kitô, không ai trong loài người đồng nhất được bổn phận với ước mơ. “Ngài đã tạo cho Con một thân xác, và đây Con đến để thi hành thánh ý Cha”.
Chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật, nhưng khi quả quyết, ai cũng nói như thể mình là sự thật, họ quên rằng họ chỉ có sự thật tương đối.
Phải, anh có những lý chứng rất mạnh, nhưng đối thủ không chờ lý chứng bằng tình người. Trước khi làm chứng rằng anh có lý, hãy chứng tỏ anh mến họ, sau đó lý chứng của anh sẽ bất khả kháng.
Anh an nghỉ trong chân lý ư? Tôi xin hỏi có phải vì có chân lý mà anh được an nghỉ hay vì muốn được an nghỉ mà anh tạo ra chân lý?
Sự thật càng sâu xa, cần thiết và có sức giải thoát lại càng phải công bố một cách khiêm nhược, nhún nhường. Sự thật ấy không là của ta, nó quá cao quý đối với ta, vì thế khi được mang cho kẻ khác, chính ta là kẻ hàm ân.
Anh biết được một sự thật, anh nâng niu nó, anh để riêng nó ra mà ngắm, mà nhìn, mà che chở... Ý tứ! Sự thật là một chi thể, mó phải kết hợp với toàn thể các sự thật như chi thể kết hợp với thân thể. Một chi thể tách rời khỏi thân thể là một chi thể chết, một sự thật tách rời khỏi các sự thật khác không còn là sự thật.
Anh vừa tỉnh giấc khỏi một cơn ảo mộng, lòng anh đau đớn nhưng sự dối trá đã tan biến. Anh mất một hạnh phúc, nhưng anh được sự thật. Có gì anh phải phàn nàn.
Có những người, ngay từ đời này, đã nhìn thấy sự thật và sai lầm, sự lành và sự dữ như trắng với đen. Nhưng như vậy là đốt giai đoạn nhìn cái nhìn của đời sau. Ở đời này lúa và cỏ lồng vực mọc chen nhau.
Sự thật giải thoát không nhận được nhờ lý trí nhưng nhờ đức tin.
Phúc cho kẻ không thấy mà tin. Vì thế Pascal đã viết: “Aimes et crois” (Hãy yêu và tin!).
Ở các Thánh có những lúc lòng họ đạt được sự vô tư và khách quan của tinh thần. Lúc ấy, người và biến cố sẽ làm cho họ vui hay buồn ở tự chúng chứ không phải vì liên hệ với họ. Cái gì tốt, cái gì thật, dù chẳng liên can gì đến định mệnh của họ cũng làm cho họ vui, vì những cái đó có là hay rồi, không cần họ phải có chúng. Bóng mát, dù chẳng che trên đầu họ, cũng vẫn là bóng mát giữa trưa mùa hạ.
Có lúc tri thức thay cho tình cảm. Người ta hiểu biết tha nhân đến nỗi cư xử với họ rất tế nhị và tha thứ, như thế người ta yêu họ vậy. Đó là lúc con người đạt đến trưởng thành thực sự.
Khả năng thu phục của chúng ta có hạn, nhưng khả năng đón nhận thì vô hạn. Vì thế, bao giờ trong tình yêu và hiểu biết, chúng ta cũng không thoả mãn.
Thường ta nóng nảy đi đến sự vật để chiếm đoạt, chứ ít khi ta kiên nhẫn chờ đợi chúng đến dâng hiến cho ta. Nhưng có sự để chiếm đoạt, và có sự phải đợi ban cho.
Ta không có quyền có sự thật, ta chỉ có quyền phụng sự sự thật mà thôi.
Nhiều người coi sự thật như một đồ trang trí và họ trở nên dối trá.
Thật với mình đòi sáng suốt và hy sinh, thật với người chỉ cần ích kỷ.
Người ta ghét nhau nhân danh sự thật, nhưng chẳng ai giết người vì sự thật, mà chỉ vì tư kỷ và kiêu căng.
Có người chết vì sự thật, nhưng chẳng ai giết người vì sự thật. Người ta chỉ làm chứng bằng đời sống của mình, không ai làm chứng bằng đời sống kẻ khác.
Một tình yêu chỉ dâng hiến cũng không nhân loại như một tình yêu chỉ chiếm đoạt. Lòng thương tinh ròng chỉ có nơi Thiên Chúa là Đấng sung mãn, chỉ nghĩ đến ban phát. Và nhu cầu thuần tuý chỉ gặp thấy nơi loài vật. Vì thế, để tình yêu có nhân tính, phải gồm vừa lòng thương vừa cầu nguyện.
Chỉ Thiên Chúa mới yêu chỉ vì thương, con người, để yêu chỉ vì thương, phải có ân sủng của Thiên Chúa giúp sức. Vì hế, “Đức Ái” là một ân sủng siêu nhiên nơi con người.
Tình yêu trở nên bạo tàn khi người ta đổi từ lòng thương đến thèm muốn.
Thiên Chúa sửa phạt ta vì lòng thương. Người muốn cho ta được hạnh phúc hơn. Còn kẻ uất ức làm hại ta vì ganh tỵ, họ mong cho ta cũng phải đau khổ như họ.
Ta làm khổ người khác nhiều hay ít tuỳ như ta cần đến họ nhiều hay ít. Tình yêu chỉ ngọt ngào khi ta biết quên mình.
Ta sẽ làm khổ người mình yêu khi nghĩ rằng họ tuyệt đối cần cho ta. Ta chỉ tuyệt đối cần có Thiên Chúa, và khi ta đã coi một người là Thiên Chúa của mình, thì ta sẽ oán hờn họ, vì đã không cho ta tất cả như Thiên Chúa.
Tình yêu không đo lường bằng hạnh phúc, hay đau khổ nó đem lại, nhưng bằng cái vui do những đau khổ và thất vọng ta phải chịu vì yêu.
Anh phải yêu thương hết mọi người, nhưng anh không có quyền đòi hỏi mọi người phải cho anh. Anh có thể có lòng thương mọi người, vì tình yêu dâng hiến bao giờ cũng thanh cao, dù đối tượng bất xứng đi chăng nữa. Nhưng anh không có quyền nhận bất cứ cái gì và bất cứ từ đâu. Tình yêu trở nên khốn nạn, khi ta yêu vì nhu cầu một người ta phải yêu vì lòng thương.
Ta có thể yêu một cách chân thành, không mệt mỏi, không cưỡng ép những người chẳng cho ta được gì, nhưng điều kiện là ta đã toại nguyện ở những chỗ khác. Những tu sĩ không toại nguyện trong tình yêu Chúa sẽ chẳng bao giờ có bác ái thật với tha nhân.
Nhiều người có thể yên ủi khi ta gặp tai hoạ, nhưng có mấy người cảm thông với ta.
Ở vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu biết rõ Người phải uống cạn chén đắng Cha Người đã trao, Người không cần yên ủi, Người chỉ cần thấu hiểu. Nhưng dầu vậy cũng chẳng được, chẳng môn đệ nào thấu hiểu Người cả.
Đêm tân hôn, người con gái thủ thỉ với người yêu:
“Em chỉ là thế thôi” và gã không tin. Trong ngày ruồng bỏ, người đàn bà rên rỉ: “tôi chỉ là thế thôi” và gã lại không tin. Khi tình yêu chớm nở, ta nhận được cả những sự người yêu không có. Khi tình yêu đã tàn, ta không nhận được ở họ cả những điều họ có. Trong tình yêu chẳng bao giờ ta bắt gặp người ta yêu.
Thức tỉnh của cuồng si là hận thù: Người mà hôm qua ta cho là tất cả thì hôm nay chỉ là con số không.
Lạy Chúa, con yêu Chúa trong mọi sự, và con yêu mọi sự trong Chúa. Chúa không xâm lấn, mà cũng chẳng che khuất trong trái tim con những sự trần gian. Trái lại Chúa nối kết con với thế gian. Tình yêu hoàn hảo không phải là tình yêu khép kín. Con yêu mến Chúa chân thành nên con không thể chỉ yêu một mình Chúa mà thôi.
Tình yêu nhân loại chỉ trong sáng và bền vững khi nó đưa đến hay nối tiếp tình yêu Thiên Chúa, nếu không, nó sẽ tầm thường và sẽ không tránh khỏi đưa đến thất vọng.
Trong tình yêu, chẳng bao giờ chỉ có hai người. Luôn luôn Thiên Chúa hiện diện trong họ để kết hợp họ hay giữa họ để phân chia họ.
Tôi không yêu người ấy, nếu họ không có những đức tính ấy. Nhưng tôi sẽ không yêu các đức tính ấy nếu không phải là của người ấy. Trong tình yêu cần có lý do, nhưng lý do không đủ, cần có một cảm thông giữa hai người yêu nhau để các lý do trên có một giá trị định đoạt. Tôi yêu anh vì anh cho tôi món quà này, nhưng tôi yêu món quà này vì là của anh.
Tôi chỉ phán đoán về việc anh làm theo như tình cảm tôi có về anh.
Mọi phán đoán về phẩm giá một người căn cứ vào bên ngoài đều bất công. Để công bằng, ta phải cảm thông với thực tại thâm sâu của họ, nghĩa là ta phải yêu họ. Nhưng vì tình yêu quá hiếm, nên Chúa Giêsu đã cấm không được phán đoán: Nolite judicare.
Muốn tránh ảo tưởng phải biết phân tích khách quan, nhưng để khỏi rơi vào thất vọng và bi quan, phải biết nhìn sự vật với con mắt yêu thương. Thà đừng thấy còn hơn thấy mà lạnh lùng.
Anh muốn khinh chê những sự tốt đẹp ư? Cứ đem nó ra mà phân tích thành các yếu tố cấu tạo nên nó. Anh muốn trọng kính những sự hèn hạ ư? Cứ nhìn nó trong một bối cảnh rộng rãi hơn, cứ đặt nó trong liên hệ với vũ trụ và Thiên Chúa.
Phân tích là thuốc độc giết chết tình yêu. Có cái nhìn khách quan về tình yêu là điềm báo tình yêu đã chết.
Ai cũng biết rằng người ta chỉ có thể đánh thức một người ngủ, chứ không thể đánh thức một thây ma. Nhưng người yêu không tin có thây ma, và họ nghĩ rằng mình có thể đánh thức mọi người.
Với người có thể làm cho sống lại, chết cũng chỉ là giấc ngủ. Nhưng với người bất lực không thể đánh thức nổi người ngủ, thì giấc ngủ cũng là sự chết. Vì thế người không thất vọng về ai mới thật là người thánh, còn người hoài nghi mọi người chỉ là tâm hồn khô héo.
Nếu anh thấy mình chẳng vó gì trong trắng và tươi đẹp để hiến dâng cho Thiên Chúa, thì anh cứ hiến dâng cho Người chính bản thân anh: Đó là của lễ cơ bản. Khi ta đã dâng cho Thiên Chúa sự nghèo hèn của ta, thì ta cũng đã dâng cho Người một cái gì. Người có tâm hồn nghèo khó được Thiên Chúa sủng ái là như vậy. Họ không dâng một vật sở hữu, nhưng dâng chính bản thân mình.
Sự kính mến Thiên Chúa thật không ở tại cảm thấy yêu mến Người bằng ở tại tận hiến cho Người: Sống cho tình yêu khác với sống tình yêu (hay sống nhờ tình yêu).
Anh nên biết rằng: Những tâm hồn đau đớn vì đã không yêu hay vì đã không đau đớn vì yêu sẽ làm Thiên Chúa thoả lòng, nếu họ để phát xuất từ sự nghèo nàn nội tâm của họ một lời kêu cầu với Người. Trước mặt Thiên Chúa chẳng có gì nghèo nàn.
Người ta có thể chấp nhận mình sẽ tàn phai, nhưng người ta chẳng bao giờ chấp nhận tình yêu tàn phai. Vì thế, để bảo tồn sự bền bỉ của tình yêu, người ta phải tin ở sự vĩnh cửu của bản vị. Không có tình yêu nếu không có bản vị.
Trong lúc có nhiều tâm hồn chỉ tìm bản thân trong tình yêu, cần phải có những tâm hồn tìm tình yêu chống lại bản thân.
Người này chờ ở anh một ân huệ, có lẽ anh chưa sẵn sàng để cho, nhưng biết đâu ở người ấy, mọi sự đều đã được chuẩn bị để nhận. Anh không có quyền để lỡ cơ hội.
Có hai loại người chẳng sợ chi ai: Đó là các Thánh và người thất vọng, các Thánh đã cho đi cả; còn người tất vọng chẳng còn gì để mất nữa.
Tình yêu Kitô giáo là tình yêu tinh thần, nhưng là một tình yêu nhập thể. Nó cúi xuống xác thịt và ngũ quan, không phải để áp đảo nhưng để tinh luyện.
Đau khổ là bạn đường của con người, nhưng chẳng bao giờ con người làm quen được với đau khổ.
Trong con người phối hợp tinh thần và mọi cấp bậc dòn mỏng của tạo vật, vì thế con người phải chịu đau khổ. Đau khổ như là hình phạt của sự hảo bất toàn, và như sự quẩn bách của người giàu có.
Một linh hồn tráng kiện trong một thân thể tráng kiện là điều hay, nhưng thông thường. Phải có một linh hồn tráng kiện trong một thân xác bệnh tật mới là điều anh hùng cao quý.
Thường ta nguyền rủa hoạn nạn và coi hạnh phúc là điều tất nhiên phải có, nhưng thế giới sẽ ra sao nếu người ta gặp được an vui ngay trong cảnh huống suy đồi, một thế giới mà ở đó ngã không đau thì sẽ không còn ai đứng vững nữa.
Với đau khổ người ta không có thể giẫm chân tại chỗ, người ta chỉ có thể tiến hay lùi. Đau khổ bắt buộc người ta phải lựa chọn giữa thiên đàng và địa ngục.
Nhiều lúc, ta tiến lên vì không còn lối đi xuống, ta vươn lên những thú vui cao quý vì những khoái lạc rẻ tiền đã quay lưng lại với ta.
Hoả thí kim, gian nan thí đức.
Không có khả năng chịu nhiều đau khổ thì cũng không có khả năng hưởng nhiều hạnh phúc, vì bất lực trước đau khổ cũng là bất lực trước cuộc sống.
Ai không dám chết thì không đáng sống.
Đứng trước ảo mộng và đau khổ, ai có gan chọn đau khổ là người có chí khí.
Thế nào là tâm hồn tôn giáo? Là nhìn như một ân huệ hạnh phúc người khác coi là quyền hưởng, nhưng nhất là nhìn như một ân huệ sư đau khổ người khác coi là một bất công.
Chúng ta không có lựa chọn giữa vui sướng và đau khổ, chúng ta chỉ có lựa chọn giữa đau khổ đón nhận của Thánh giá và đau khổ từ chối của địa ngục mà thôi.
Có lẽ ngày nay hơn bao giờ hết, người ta ước mơ một đời sống không đau khổ, nhưng đó là ước mơ hão huyền và hèn nhát, vì người ta chỉ tìm thấy hạnh phúc thật bên kia đau khổ thôi.
Người ta càng có thái độ chắt chiu về hạnh phúc, và càng đi tìm hạnh phúc trong sự thấp hèn, tội lỗi, thì người ta càng phải đón nhận những đau khổ nhục nhã, vô ích, giống như đau khổ địa ngục.
Người anh hùng dùng con đường đau khổ để làm chứng, kẻ tiểu nhân dùng đau khổ để kết tội.
Điều quan trọng không phải ở tại ta chịu đau khổ bởi ai, nhưng ở tại ta chịu khổ cho ai. Đau khổ của anh sẵn sàng làm cho anh trở nên một chứng nhân, một vị tuẫn giáo, và anh chỉ muốn làm một vật hy sinh.
Người đời mơ ước được phạm tội mà không phải chịu đau khổ, người Kitô hữu mơ ước khi đau khổ thì không phạm tội. Và người đời gọi đó là sự điên rồ của cây Thập giá.
Đau khổ chỉ thanh cao khi nó tự ngoài đến, còn khi nó tự ta mà đến thì phải e dè. Tự ta, ta chỉ tạo nên được địa ngục, còn thiên đàng thì ta phải nhờ ở Thiên Chúa ban cho.
Ở con người, có lẽ chỉ có đau đớn phần xác là thật và vô tội, còn đau đớn tâm hồn, nếu ta loại trừ dày vò của kiêu căng, giận hờn và ảo mộng, nếu ta loại trừ nuối tiếc không đâu về quá khứ và bồn chồn vô ích về tương lai, có lẽ không còn lại gì nữa.
Đau khổ thanh cao có thể rất lớn, nhưng chỉ có đau khổ thấp hèn mới không chịu nổi. Địa ngục là nơi chỉ có đau khổ thấp hèn.
Tai hoạ lớn nhất không phải là đau khổ, nhưng là trở nên chai đá. Đau khổ là dấu đầy hứa hẹn về hồng ân của Thiên Chúa, còn chai đá là dấu Người đã từ bỏ ta.
Người hay than phiền và tưởng mình đau khổ sẽ được loài người an ủi, nhưng người lặng thinh đón nhận đau khổ thật sẽ được Thiên Chúa an ủi.
Nên sẵn sàng chia sẻ mọi sự, trừ đau khổ. Có những tâm sự chỉ để lại trong tâm hồn anh, ngoài đau khổ anh tâm sự, sự hổ thẹn và sự vô ích vì đã thốt ra.
Tôi có thể làm cho anh đau đớn não nề, nhưng tôi không thể chia sẻ đau đớn của tôi cho anh. Bao giờ anh cũng chịu đau khổ khác với tôi.
Tên lý hình hung ác nhất cũng vẫn không san sẻ được một chút tủi nhục của hắn cho con mồi hèn yếu nhất. Có lẽ vì thế, mà hung ác của hắn trở nên kinh hồn.
Người khôn ngoan không phải là người bi quan, cũng chẳng phải là người ngây thơ lạc quan, nhưng là người lạc quan đã trả giá đắt lạc quan của mình.
Sự lành không ở trong đau khổ hay hạnh phúc, nhưng ở trong vui mừng vì đã chiến thắng được đau khổ.
Người Kitô hữu đón nhận đau khổ vì biết rằng ở đời này tình yêu chỉ vững chắc và thanh lọc trong đau khổ, nhưng họ không chịu đau khổ vì đau khổ. Họ đón nhận Thập giá như một phương tiện hiến dâng trong sáng và quyết liệt hơn.
Có vui sướng không tình yêu, nên đã có lời: “Phúc cho kẻ khóc lóc?”. Và cũng có đau khổ không tình yêu, nên đã có lời: “Đừng để tâm hồn anh buồn sầu?”.
Anh phàn nàn vì bóng sự chết đe doạ mình ư? Nhưng anh hãy nghĩ coi, ở đời này tình yêu không có sự chết sẽ ra sao? Chỉ có một điều xứng với tình yêu: Đó là yêu vật phải chết, chiến thắng độc nhất xứng đáng với tình yêu, đó là tiêu diệt sự chết. Tình yêu mạnh hơn sự chết là như vậy.
Lạy Chúa, có lẽ con sẽ phải từ bỏ tất cả để đến trước mặt Chúa với một linh hồn trần trụi trong ngày mai. Phúc cho những người đã biết từ bỏ trần gian. Phần con, trái đất ấm áp như lòng người mẹ và êm dịu như ve vuốt của bà. Giờ chết, con sẽ mang theo hồn trái đất gắn liền với hồn con tan nát... Và con sẽ dâng lên tình yêu của Chúa tất cả trong tay “Thần hoá” của Người.
Người ta thường nghĩ rằng phạm tội là không tuân giữ một lề luật cứng nhắc, một giới răn trừu tượng. Không, phạm tội là phung phí một cái gì sâu xa, giòn mỏng, trinh trắng. Những sự tội chúng ta làm tổn thương là những sự đầy sức sống, và nóng hổi tình yêu mà Thiên Chúa dựng nên để ban tặng cho ta. Khi ta sử dụng chúng không theo mục đích Thiên Chúa ấn định thì ta làm cho chúng hoen ố và hư đi.
Chỉ có những người xác tín rằng đời sống là cao quý, là thánh thì mới ý thức được sâu sắc về sự tội.
Cũng có người chống sự tội nhân danh sự sống, nhưng họ là những người coi sự sống như có thể sử dụng theo mọi cuồng vọng thấp hèn.
Với người không còn coi gì là cao quý nữa thì vợ cũng chẳng khác gì gái chơi.
Người hư hỏng hoặc chối không có sự dữ, hoặc nhìn thấy sự dữ ở mọi nơi. Họ chối sự dữ ở họ và nhìn thấy sự dữ ở kẻ khác. Như vậy ý thức sự tội có thể do sự thánh thiện của ta, mà cũng có thể do sự hư hỏng của ta nữa.
Những tên đại gian ác nghi ngờ mọi người và nhìn đâu cũng thấy tội. Chúng sợ tội ở kẻ khác nhưng không sợ tội ở bản thân. Chúng sợ tội vì hèn nhát chứ không phải vì cao thượng.
Cần phải phân biệt rõ ràng hai nguồn ý thức về sự tội: Sự nghèo nàn về đời sống làm cho người ta sợ sệt, bi quan, và sự phong phú của bản ngã khiến người ta tôn trọng mọi loài.
Có người, trong lý thuyết, tuyệt đối chối từ sự tội. Nhưng trong thực tế, lại đồng loã với sự tội. Luân lý tư bản là như vậy.
Luân lý Công giáo chối từ mọi đồng loã với sự tội (*Nếu một người nên cớ vấp phạm cho ngươi...*), nhưng không thất vọng về sự tội vì Thiên Chúa đã đến giải thoát người tội lỗi.
Sự tội đưa đến sự chết, chỉ có Đấng giải thoát khỏi sự chết mới biến đổi được sự tội. Tội Ađam chỉ trở nên “felix culpa” nhờ Chúa Kitô.
Làm điều xấu vì quá đau đớn còn có thể tha thứ, làm điều xấu vì đam mê còn có thể tỉnh ngộ, nhưng làm điều xấu vì suy tính thì con người đã sa đoạ.
Sự mù loà của người này mà anh cho là nguyên nhân các tội lỗi của hắn có lẽ chỉ là kết quả mà thôi.
Mù loà của tâm hồn thường có nguyên nhân ở tại cố tình chối từ ánh sáng. Thường người ta tội lỗi vì ngoan cố.
Nghĩ rằng mình không có trách nhiệm về các sai lầm và các việc xấu xa của mình là dấu người ta không còn cải đổi được nữa.
Người không vì những khó khăn cao thượng mà đi tìm giải khuây trong những thú vui thấp hèn sẽ không bao giờ phải buồn sầu.
Người anh hùng không những can đảm trước đau đớn và nguy hiểm đón chờ họ trên đường đời, nhưng cũng can đảm trước hư vô đón chờ ngay trong lòng họ.
Có sự độc dữ muốn giết người vô tội mới có sự tha thứ cho kẻ giết mình. Có tội lỗi gớm ghê mới làm nổi bật nhân đức phi thường.
Ta sẽ không biết ông Gióp tuân phục Thiên Chúa đến mức nào nếu không có các tai ương ông phải chịu.
Con đường đi đến Thiên Chúa do loài người vạch ra bao giờ cũng là con đường trực tiếp và chung cho mọi người, chỉ có Thiên Chúa mới hướng dẫn được những người đi vào các nẻo đường quanh co đến ơn cứu độ. Vì thế, nếu người ta nhấn mạnh trên các luật trừ thì sẽ làm cho luật pháp mất sức mạnh, chỉ có Đấng xét xử mới có quyền chuẩn chước.
Khi người ta giải thích và tha thứ tất cả vì hèn nhát và yếu đuối, thì sự tha thứ còn nguy hiểm hơn lỗi phạm. Nhưng có những tha thứ đại lượng và thanh cao biết mấy! Đó là trường hợp Chúa Kitô tha cho người nữ ngoại tình và người trộm lành. Tha thứ chỉ có giá trị khi ta không đồng loã với tội nhân.
Cảm thông với người tội lỗi là thương yêu mà không đồng loã với họ.
Đừng làm cho sự tha thứ của anh trở nên một khuyến khích trên đường tội.
Với tâm hồn cao thượng, tha thứ là hình phạt nặng nhất đánh đúng vào sự chiều theo tội lỗi, vì thế họ trở lại dứt khoát hơn. Sự tha thứ của Chúa gây trong tâm hồn người đàn bà ngoại tình và người trộm lành ý thức bén nhạy về tình trạng xấu xa của họ không xứng đáng được ơn huệ Chúa ban. Do đó, họ quyết tâm chừa cải để đền bù lại.
Đừng tin ở những người nhân danh tình yêu mà coi thường luật pháp. Khi công bằng đã tiêu tan thì tình yêu cũng chẳng còn.
Người công chính không còn luật lệ nữa, không phải vì họ không giữ luật lệ. Thánh Augustinô nghĩ theo hướng này khi ông viết: “Cứ yêu đi rồi sau muốn làm gì cũng được”.
Người thánh đức dứt khoát với tội lỗi, nhưng vẫn có thể nhìn vào tội lỗi mà không bỡ ngỡ, xao xuyến hay giận dữ. Họ cố gắng hết mình giữ sự trong trắng vẹn tuyền, nhưng cũng thương hại vô ngần những người xấu xa ô trọc.
Trước sự tội, các Thánh không có phản ứng tự vệ và báo thù cá nhân làm cho vẩn đục sự phẫn nộ của con người. Họ buồn mà không vấp phạm.
Hành động đầu tiên của toà án nhân loại là phân chia tội nhân với hậu quả của tội. Thiên Chúa xử khác: Người gắn liền tội nhân vào tội của họ: “Ngươi đã muốn được như vậy, ngươi sẽ chỉ có như vậy thôi”, “Ngươi đã chỉ muốn yêu một mình ngươi, ngươi sẽ đời đời chỉ yêu một mình ngươi thôi”.
Người ta được dựng nên bởi bùn, nên bao giờ họ cũng vẫn là bùn, nhưng điều quan trọng là họ phải luôn luôn mềm dẻo dưới ngón tay uốn nắn của Thiên Chúa.
Địa ngục là nơi tập trung những vật bằng bùn, nhưng cứng nhắc vì lửa đời đời không còn nhào nặn được nữa.
Người ta chỉ biết sự dữ nhờ sự lành nó làm tiêu tan, còn ở tự nó, nó không có thực chất, vì thế đừng hỏi bí quyết sự dữ ở sự dữ: Satan không biết tên thật của mình là gì!
Không tin là chấp nhập địa ngục. Sự dữ trong địa ngục chính là sự từ chối dứt khoát không hối tiếc và không giới hạn rằng tình yêu của Thiên Chúa có thể đổi sự dữ ra sự lành.
Không tin cũng vẫn là mê tín nếu ta cho mê tín là thờ ngẫu tượng, vì không tin ở tình yêu biến đổi sự dữ ra sự lành của Thiên Chúa, thì ta sẽ tin ở sự dữ bất biến, đời đời.
Để tin ở luật pháp, phải cảm thấy rằng sau luật pháp còn có quan toà. Để tin ở quan toà, phải cảm thấy rằng sau quan toà còn có một Đấng công minh thương xót.
Là người, ai cũng hướng về mình, để hướng về tha thể thì họ phải nhìn thấy ở tha thể một cái gì của họ còn sâu xa hơn chính họ.
Ai không yêu mình thì không còn có thể yêu gì khác được nữa và nếu họ nói họ yêu cái gì, thì đó chỉ là trá hình của sự chán ghét bản thân.
Không bao giờ Thiên Chúa giải thoát ta khỏi bản thân mình. Người chỉ giải thoát ta khỏi chán ghét và mệt mỏi vì bản thân mình mà thôi.
Người sa hoả ngục không mất một vật nào họ đã quý hơn Thiên Chúa, họ chỉ nhìn thấy sự hư không của các vật ấy thôi. Họ không ảo tưởng nữa, và đó là hình khổ của họ.
Địa ngục là nơi người ta quý mọi sự hơn Thiên Chúa, nhưng cũng là nơi người ta không còn trào trộn vật gì với Thiên Chúa được nữa. Vì thế mà địa ngục vừa là đỉnh cao vừa là chấm dứt mọi sai lầm.
Ở địa ngục, người ta không mất những gì người ta đã ao ước, người ta còn có thêm Thiên Chúa nữa. Nhưng hình khổ ở tại nhận biết những gì mình ao ước không là gì và Thiên Chúa là tất cả.
Địa ngục không phải là người khác, nhưng là chính mình, khi không yêu được vật đáng yêu và không ghét được vật đáng ghét. Ở địa ngục người ta không kính mến được Thiên Chúa và không ghét được tội lỗi.
Con người được dựng nên bởi hư vô, nhưng giống “hình ảnh” Thiên Chúa. Đấy là tấn bi kịch của họ. Họ quá kiêu căng để thú nhận họ là hư vô, và họ quá hèn nhát để đáp lời mời gọi trở nên tất cả. Vì thế, họ phải lừa dối, lừa dối bản thân và lừa dối người khác.
Che giấu những cái xấu xa ở mình có thể xem là dối trá, nhưng dối trá ấy còn có thể tha thứ. Có nhiều người dối trá ở những gì cao quý nhất của họ; họ cao quý nhờ dối trá, cái đó mới không tha thứ được:Họ đã bôi nhọ sự cao quý.
Che giấu chưa hẳn là dối trá vì đó mới là không muốn cho người ta biết mình thế nào thôi, người dối trá không những che giấu mà còn muốn tỏ ra mình có những điều mình không có.
Ở đời, có những người phải gọi là sự dối trá vì không còn danh từ nào để chỉ họ cả. Họ không đeo mặt nạ, họ không đóng kịch, họ lừa dối một cách tự nhiên, dễ dàng: Chân lý của họ là sự dối trá và sự dối trá của họ là chân lý. Ta không thể bảo họ là người tội lỗi vì người tội lỗi phải biết rằng mình chọn sự dữ trong lúc có thể chọn sự lành. Ta cũng không thể bảo họ là người giả hình vì người giả hình che giấu dưới một mặt nạ, còn họ chẳng có gì dưới mặt nạ cả.
Nếu lột trần một ông vua với một người thủ vai vua, chúng ta cũng vẫn thấy họ giống nhau: Ở thiết yếu, họ chẳng có gì khác nhau.
Người này có vẻ giả tạo, ngượng ngập trong vai trò hắn đóng. Đừng cười nhạo hắn, anh có thể làm hại cho hắn rất nhiều, có khi vai trò hắn đóng là chiếc cầu cuối cùng liên lạc với một thế giới lành thánh mà hắn mong ước có mặt. Hắn đã có điều lầm lẫn, nhưng hắn có thiện chí. Đừng làm tiêu tan đến cả thiện chí của hắn.
Một vai trò dù vay mượn giả tạo đến đâu, cũng vẫn đáp lại một nguyện ước thầm kín và sâu xa của người thủ nó. Vì thế, đừng tìm cách chứng minh vai trò của họ là giả tạo, nhưng hãy cho họ thấy bằng tình thương yêu và gương lành bộ mặt thực họ phải có đẹp đẽ hơn bộ mặt giả tạo của họ nhiều. Lúc ấy, họ sẽ tự cảm thấy chán ghét vai trò của họ và mặt nạ sẽ rơi xuống tự nhiên.
Vấp ngã không hệ trọng mấy, vì người ta vẫn có thể chỗi dậy và tiếp tục tiến đến mục đích. Có những người không vấp ngã bao giờ, nhưng chẳng bao giờ đi trúng đường. Vì thế, họ chẳng còn hy vọng gì.
Muốn có ảnh hưởng trên quần chúng, phải có uy tín. Nhưng để có uy tín, người ta phải giấu giếm những yếu hèn của mình, và phải đóng vai một người mô phạm. Vì theo thói thường, khi thấy một người có sự yếu hèn, người ta liền đồng hoá họ với sự yếu hèn của họ, và không còn ai tin lời họ nói nữa.
Chúa Kitô đã không gây uy tín: Người không thủ vai Thiên Chúa, nhưng Người cũng không giấu giếm mình là người. Vì thế, mà người ta không chấp nhận Người.
Lý do của uy tín nhiều lần thật mong manh. Một giọng nói sang sảng, một bộ áo trạng sư, một điệu bộ nhiệm nhặt... Tưởng tượng quần chúng dễ bị kích động bằng hình thức bề ngoài hơn thực chất.
Người lãnh đạo có thể yếu hèn, nhưng nếu họ yếu hèn, họ không có quyền ở đơn sơ, họ bó buộc phải gây uy tín, nghĩa là che giấu sự yếu hèn của họ, nếu không họ không còn lãnh đạo được ai nữa.
Người tông đồ tự nhiên có xu hướng biến thành nhà lãnh đạo, họ cũng muốn xây uy tín của mình trên dối trá. Họ quên rằng mình chỉ là chứng nhân, và chứng nhân cho sự thật.
Thảm kịch của các tông đồ ở tại họ được gọi để chữa bệnh cho người khác, chứ không phải cho mình, để phục vụ người khác, chứ không phải cho mình. Vì thế, mà người đời luôn trách móc họ như đã trách móc Chúa Kitô: “Ngươi là thầy thuốc thì hãy chữa ngươi trước đã”.
Đừng vì lý do thánh thiện mà muốn tinh thần thay cho thể xác: Hồn là hồn, xác là xác, hồn không thể thay xác được. Thí dụ như gặp một tu sĩ, ta cho rằng họ đã được gọi để kính mến Thiên Chúa, thì họ không còn được có một thụ cảm nhân loại nào nữa. Và nếu ta thấy ở họ một thụ cảm nào, ta sẽ vấp phạm và tự hỏi: Có lẽ nào một người đã tự chọn kính mến Thiên Chúa mà lại còn có thụ cảm ấy? Ta cho rằng tất cả đời họ phải kính mến Thiên Chúa. Đó là một cách nhìn sai lầm. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu Thiên Chúa, nó không có gì thay thế được: Không phải một người đã yêu thì không còn đói nữa. Vấn đề không phải là đã kính mến Thiên Chúa thì không đói nữa, nhưng là khi đói thì phải có thái độ nào cho phù hợp với lòng kính mến ấy. Chính các hy sinh để dung hoà ấy tiêu biểu lòng kính mến của họ.
Trong đời sống luân lý và tôn giáo, muốn cho các động lực cao quý thay thế cho các động lực thấp hèn là làm cho các động lực cao quý mất đi giá trị của nó để trở nên một bức màn giả tạo, khoả lấp đi những nhu cầu thấp hèn. Có người bị đĩ điếm mê hoặc mà cứ khăng khăng nói rằng mình muốn cứu vớt linh hồn người tội lỗi: Người ấy đã tự dối mình.
Để xuất hiện dưới bộ mặt thật của mình, người ta phải: một là trong sạch lắm, hai là đơn sơ lắm. Còn thông thường, chẳng ít thì nhiều ai cũng đeo mặt nạ.
Đời là một chuỗi nguy hiểm, ai không dám liều sẽ chẳng làm được gì.
Mỗi người đầu có những nguy hiểm do kiếp người và do sứ mệnh riêng của mình đem lại. Nhưng có nguy hiểm là để vượt qua. Đời người chỉ có ý nghĩa tuỳ như người ta có can đảm lướt thắng các nguy hiểm hay không.
Các vĩ nhân đều là những người đã vượt qua những nguy hiểm lớn.
Mọi nguy hiểm cân xứng với hạnh phúc trường sinh đều là sự đe doạ mất tất cả. Vì thế, đón nhận sự chết là đón nhận một nguy hiểm cân xứng với định mệnh siêu nhiên nên mọi người Kitô hữu đều phải chuẩn bị sẵn sàng.
Định mệnh của mỗi người tuỳ ở lòng tin của họ vào tình yêu hay sự chết: Người Kitô hữu chọn tin ở tình yêu và họ sẵn sàng chấp nhận sự chết vì tình yêu. Từ cái chết trên núi Sọ, nguy hiểm lớn nhất đã trở thành hy vọng lớn nhất, thất vọng của sự chết đem lại hy vọng sự sống lại.
Người khôn ngoan thật không phải là người tránh mọi nguy hiểm, nhưng là người dám vượt nguy hiểm để đạt tới đích.
Khi người ta chỉ quan tâm đến nguy hiểm và không nhìn xa hơn, thì người ta chỉ có một lo nghĩ là tránh nguy hiểm bằng mọi giá. Và thế là người ta rơi vào cố thủ trong các “bảo hiểm” cho đời sống. Nhưng đời sống chỉ trở nên phong phú khi ta sử dụng nó.
Muốn che chở mình quá đáng cũng là một cách huỷ hoại bản thân.
Người Kitô hữu chỉ tránh được nguy hiểm Thập giá để rơi vào địa ngục thôi.
Sống ở đời này, người ta không có quyền chọn giữa yên hàn và nguy hiểm. Nhưng giữa nguy hiểm mang lại hứa hẹn và nguy hiểm không lối thoát. Thật vậy, ở đời này, làm gì có đất bằng vững chãi, nếu chối không chịu trèo lên, thì nguy cơ rớt xuống lại càng tăng.
Khôn ngoan giả trá thay vào nguy hiểm của sự sống và tình yêu, nguy hiểm của ích kỷ và sự chết. “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ đánh mất”.
Ích kỷ là gì? Là tiết kiệm bản thân trong mọi hoàn cảnh. Người ích kỷ tiết kiệm bản thân vì muốn giữ cả cho mình. Nhưng cũng có người tiết kiệm bản thân vì muốn hiến mình trọn vẹn cho một lý tưởng. Họ tập trung để có sức mạnh hơn.
Dấu hiệu của một thời đại suy vi là nghĩ đến “bảo hiểm”, tất cả mọi sự đều tiên liệu, quy định, bảo đảm, không còn gì có thể xảy đến vì tình cờ, bất trắc: Người ta không còn có gì phải liều nữa.
Điều đáng trách không phải là quan phòng, nhưng là lo lắng chi li để được bảo đảm tuyệt đối khỏi mọi nguy hiểm. Khi người ta không còn tình cờ, nguy hiểm, thì người ta cũng đánh mất sự sáng suốt lựa chọn và sự kiên trì tranh đấu, người ta không còn bám sát lấy định mệnh để mà uốn nắn nó nữa.
Tình cờ, bất tất, nguy hiểm... đều thuộc trật tự sâu xa của tạo vật: Chúng có giá trị và sự phong phú riêng của chúng. Tiên liệu và chiến đấu là khôn ngoan. Nhưng đừng quá lo lắng, và biết tin cậy cũng là khôn ngoan vì tình cờ thuộc một trật tự vô hình hướng về mục đích tối hậu mọi sự tình cờ.
Phải không tin có Chúa quan phòng thì mới muốn bảo đảm cho mọi sự khôn ngoan trong đời sống mình.
Không có sự khôn ngoan nào nham hiểm hơn khôn ngoan trong sự dữ: Người ta phạm tội một cách sáng suốt, bình tĩnh và cân nhắc. Người ta giữ sự dữ để tận hưởng một cách khoái trá, nhưng người ta từ chối kết quả tai hại của nó.
Khi sự dữ không còn nguy hiểm nữa, thì cũng không còn cứu chuộc được nữa.
Khi tách sự dữ ra khỏi hình phạt là người ta đã xoá bỏ lý do hiện hữu của nó. Ở đời này, sự dữ là một pha trộn tội lỗi và lo âu, giữ lại tội lỗi và chối bỏ lo âu là muốn biến sự dữ nên thuần chất như trong địa ngục.
Nếu tránh nguy hiểm với mọi giá là một tai hoạ, xông pha nguy hiểm vì nguy hiểm cũng là một tai hoạ không kém.
Anh hùng là xông pha những nguy hiểm lớn để làm những việc lớn, còn xông pha nguy hiểm vì nguy hiểm chỉ là anh hùng không đối tượng.
Có những người từ chối những nguy hiểm lành mạnh và cần thiết, lại ưa thích những nguy hiểm giả trá và vô ích. Những người thích nguy hiểm phi thường không cần thiết, thường tỏ ra hèn nhát trước những nguy hiểm thông thường của cuộc đời.
Trong lúc tránh liều thân, người khôn ngoan giả hành động như Thiên Chúa là Đấng không cần phải có thêm gì. Trong lúc đâm đầu vào mọi nguy hiểm, người anh hùng giả cũng hành động như Thiên Chúa là Đấng không thể đánh mất gì. Nhưng loài người đâu có tuyệt đối, không thiếu thốn chi và chẳng có gì làm hại được.
Không có liều và hy sinh, đời người sẽ chẳng làm nên trò trống gì.
Khôn ngoan là biết chọn phải liều ở đâu. Chẳng ai có thể thành công ở mọi mặt, phải biết lựa chọn. Lựa chọn là dấu chỉ sự bất tất của định mệnh con người.
Vì ích kỷ, có người muốn bảo toàn bản thân với mọi giá, người khác lại muốn tự huỷ, nhưng đằng nào thì cũng đưa đến thất bại vì không dám liều lúc phải liều.
Con thuyền xông pha bão táp không phải vì bão táp, nhưng để đến bến bình yên. Trong trật tự tự nhiên cũng như siêu nhiên, nguy hiểm và bình yên như bóng với hình.
Cái liều của người Kitô hữu là đánh cuộc Thiên Chúa với tất cả những gì không phải là Thiên Chúa. Họ biết mình liều cái gì và liều cho ai. Họ nhìn thấy sau sự chết có Thiên Chúa. Họ có thể cảm thấy mình liều tất cả, nhưng họ biết mình chẳng liều gì.
Thờ phượng là sự kính mến của một người đối với nguồn gốc của mình.
Là tạo vật, con người bao giờ cũng cảm thấy mình bất tất, phải có nguồn gốc ngoài mình, nên tâm tình thờ phượng là xu hướng tự nhiên của họ. Sau khi loài người phạm tội, họ có thể thờ phượng mọi sự: Một người, một tạo vật trong thiên nhiên, một lý thuyết, một ảo tưởng... cái gì cũng có thể biến nên ngẫu tượng để họ tôn thờ.
Một là người ta tôn thờ Thiên Chúa, hai là người ta tôn thờ chính bản thân mình. Khi tôn thờ Thiên Chúa, người ta không cần phải che đậy. Nhưng khi tôn thờ chính mình, người ta biết mình làm điều sai quấy, nên phải che đậy dưới đủ thứ chiêu bài, kể cả chiêu bài tôn giáo.
Pharisêu có nghĩa là thờ mình dưới chiêu bài tôn giáo. Người Pharisêu làm mọi việc đạo đức, như hãm mình, đánh tội, bố thí, cầu kinh không phải để tôn vinh Thiên Chúa, nhưng để có lợi cho bản thân.
Thay vì phụng sự Thiên Chúa, thường con người muốn Thiên Chúa phụng sự bản thân họ. Người ta hy sinh vì nhu cầu, vì dục vọng, ít ai hy sinh vì Thiên Chúa. Nhưng nhiều lúc, khi hy sinh vì nhu cầu, dục vọng, người ta cũng nghĩ mình hy sinh vì Thiên Chúa.
Người ta quên Thiên Chúa trong nghệ thuật, chính trị, kinh tế... thì còn hiểu được, người ta quên Người ngay trong tôn giáo mới chính là điều quái gở.
******
Nhiều người nhục mạ tâm tình tôn giáo, nhưng người ta chỉ có thể có tâm tình tôn giáo khi biết vượt ra ngoài bản ngã chật hẹp của mình. Nhận biết mình là tạo vật của Thiên Chúa không phải là hèn nhát. Chỉ hèn nhát kẻ không dám nhìn sự thật về mình.
Nếu ta không tin có Thiên Chúa, ta không cần phải chối Người. Nhưng nếu ta tin có Người, thì dù có chối, ta cũng không làm cho Người biến mất. Trái lại, càng chối, ta càng cảm thấy Người hiện diện bên ta.
Người mê đắm tội lỗi muốn chối Thiên Chúa mà không được. Đó cũng vẫn còn là một ơn huệ của Thiên Chúa, vì người ta nhờ đó mà còn có thể ăn năn.
Không ai hoài hơi ghét cái không có, không ai ghét Thiên Chúa nếu thành thật tin không có Người. Không tin có Thiên Chúa không hề chi, không muốn tin có Thiên Chúa mới bi đát.
Một vật mà người ta yêu hay ghét chứ không thể dửng dưng chỉ có thể là vật người ta đã quen biết.
Thiên Chúa ở trong thâm tâm tôi hơn chính bản thân tôi. (Intimior in me quam meipsum). Chính vì thế, mà người ta chỉ có thể yêu hay ghét Người, chứ không có thể dửng dưng.
Ghét sự tốt lành là dấu người ta yêu sự xấu xa.
Lòng thù hận Thiên Chúa ở kẻ bạc ác cũng là một hình thức tôn thờ Người.
******
Khi tạo dựng vũ trụ, như nước vỡ bờ, Thiên Chúa đã đổ trào ra ngoài quyền năng khôn ngoan và tình yêu của Người. Nhưng vũ trụ diễn tả mà không ý thức, tôn vinh mà không thờ phượng.
Caeli enarrant gloriam Dei! Thật vậy, trời đất nhắc lại kỳ công của Thiên Chúa. Nhưng tiếng nói ấy dù rất hùng hồn, cũng vẫn chỉ là tiếng nói trong hoang vu nếu không có những tâm thức để đón nhận và đáp trả.
Loài người là tư tế của vũ trụ vì vinh quang của Thiên Chúa chiếu sáng trong vũ trụ phải có tâm thức của loài người để nhận biết, ngợi khen, kính mến và tôn thờ.
Vì là tư tế cho vũ trụ, loài người phải sử dụng vũ trụ để thờ phượng Thiên Chúa. Khi ta dùng vũ trụ vào những mục tiêu ích kỷ như danh vọng, giàu sang của cá nhân ta, ta sẽ làm sai chức vụ của mình, ta đã làm dụng vũ trụ.
Tôi Ađam trong vườn địa đàng là đã không muốn sử dụng tạo vật để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng cho ích lợi riêng tư của mình.
Chúa Kitô đã làm trái hẳn. “Ngôi Cha đã trao mọi sự trong tay Người” (Mt 11,27), nhưng Người đã vâng lời, vâng lời cho đến chết, chết trên Thập giá. Vì thế Người đã có thể nói: “Lạy Cha, Con đã tôn vinh Cha trên thế gian” (Ga 17,5). Người đã trở nên vị thượng tế giữa loài người.
Giáo Hội là nhiệm thể Chúa Kitô, tiếp nối vai trò tư tế của Người trên trần gian. Vì thế, mỗi người tín hữu đều có bổn phận thờ phượng Thiên Chúa thay cho trần gian.
Chúa Kitô đã thờ phượng Ngôi Cha bằng cả đời sống vâng lời của Người. Vì thế, để thờ phượng trong tinh thần và chân lý, ta cũng phải thờ phượng Thiên Chúa bằng đời sống ta.
“Việc gì của anh em, dù là lời nói hay việc làm, thì anh em cũng hãy làm nhân danh Chúa” (Cl 3,7).
Như trẻ nhỏ học chăm chỉ vừa làm cho mình tấn tới, vừa làm rạng rỡ cho cha mẹ mình. Người tín hữu khi chu toàn bổn phận làm người của mình, vừa làm cho bản thân mình phong phú, vừa làm sáng danh Thiên Chúa.
Mọi hành động, mọi tư tưởng và mọi ước vọng dù không phải là một sự thờ phượng công khai, thì cũng là một sự thờ phượng ngấm ngầm. Có điều nếu không phải là thờ phượng Thiên Chúa thì sẽ là thờ ngẫu tượng.
Ta có thể gặp Thiên Chúa trong mọi sự, cần phải biết gặp Người khi gặp chúng, tôn vinh Người khi sử dụng chúng, vì mục đích trước tiên cho ta và cho chúng ta là tôn vinh Thiên Chúa.
Ta phải yêu mến gia đình, bạn bè trong tình yêu Thiên Chúa, vì mọi tình yêu đều chỉ có một nguồn gồc ở Đấng là tình yêu.
Cầu xin là một hình thức thờ phượng, vì ta chỉ cầu xin khi ta thiếu thốn. và Đấng ta cầu xin quyền phép có thể ban cho ta những điều ta ước muốn. Như vậy, cầu xin là tôn vinh quyền phép và lòng nhân lành của Thiên Chúa.
Để cầu xin là một việc thờ phượng, thì phải tin cậy, và trước tiên xin cho được sự tin cậy ấy, sau mới xin Thiên Chúa ban cho những điều ta xin.
Cầu nguyện là điểm gặp nhau của hai nhu cầu, nhu cầu đón nhận ở loài người và nhu cầu ban phát ở Thiên Chúa. Nhu cầu đón nhận ở loài người vì ta chỉ là không, chẳng có gì, chẳng là gì nếu Thiên Chúa không ban cho ta. Nhu cầu ban phát ở Thiên Chúa vì Người là tất cả, có đủ mọi sự tốt lành và không có sự gì lành ở ngoài Người mà không do Người ban phát.
Thường lời cầu nguyện của ta không đắt lời vì ta muốn tách vũ trụ khỏi Thiên Chúa, để bắt nó làm tôi một mình ta, và tách đời sống ta khỏi quan phòng của Thiên Chúa để tự do định đoạt về mình. Nhưng cầu nguyện như vậy không còn là thờ phượng nữa.
Cầu xin thật ở tại cầu xin theo như thánh ý Thiên Chúa. Lời cầu xin ấy không trái nhưng hoà hợp với thánh ý Thiên Chúa: “Không theo ý Con, nhưng theo ý Cha”.
Có nhiều tín hữu xấu hổ không dám chìa tay xin ai bao giờ, mà hễ cầu nguyện là xin xở sự này sự kia.
Đã đành phải cầu xin, vì Chúa đã dạy: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7), nhưng đừng dùng cầu nguyện như một phương tiện an nhàn để được những sự ta phải vất vả mới có được, vì như vậy là trách nhiệm làm người.
Khi ta không được những điều ta xin, có lẽ không phải vì ta thiếu tin cậy hay cầu nguyện không nên, nhưng vì Chúa biết rõ hơn ta điều ích lợi cho ta.
Cầu nguyện không phải chỉ là đọc lên những công thức, nhưng còn là dấn thân theo đường lối của Thiên Chúa.
Theo thánh Augustinô: “Người biết cầu nguyện tốt, cũng biết sống tốt” vì biết đâu là sự lành thật và sẵn sàng theo đuổi. Cầu nguyện tốt là van xin Thiên Chúa đến giúp sức để ta làm theo thánh ý Người.
Đối tượng của lời cầu xin không phải là một chiếm hữu cá nhân, nhưng là Nước Thiên Chúa trị đến. Vì thế, người cầu xin nên không thể có đời sống chống lại Nước Thiên Chúa được.
“Chính người hát là sự ngợi khen cho bài hát, khi anh muốn hát lên lời ngợi khen Thiên Chúa, thì anh phải trở nên sự anh diễn tả. Anh sẽ là sự ngợi khen Thiên Chúa khi đời sống anh tốt lành” (Thánh Augustinô).
Trong đời ta, thờ phượng Thiên Chúa phần lớn ở tại âm thầm làm tròn bổn phận hằng ngày, nhưng đôi khi cũng cần phải có những việc phụng tự thuần tuý. Lý do là công việc hằng ngày của ta có một ý nghĩa trực tiếp xa lạ với sự thờ phượng. Vì thế, đôi khi phải có những việc không có ý nghĩa nào khác ngoài sự thờ phượng để nhắc nhở ta đến bổn phận căn bản ấy.
Những giây phút thờ phượng là những giây phút ta tạm gác đời sống trần gian để chỉ sống cho Thiên Chúa là Đấng mọi sự phải quy về như là nguồn gốc. Những giây phút ấy như của lễ đầu mùa, nhờ của lễ này, mọi gặt gái trong đời sống cũng sẽ quy về Thiên Chúa.
Để tình yêu tồn tại, nhiệt thành lo liệu cho người mình yêu chưa đủ, còn phải năng gặp gỡ, chuyện trò nữa.
Sự sống ban sự sống: Đó là một quy luật nội tại. Vì thế, trong bổn phận phải sống đời ta, đã ngầm chứa bổn phận phải làm sự lành.
Đời sống công giáo là một đời sống trong Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ có thể nói rằng: Ta sống trong Thiên Chúa khi hoạt động của ta hoà hợp với hoạt động nhân lành của Người mà thôi.
Kết hiệp với Thiên Chúa và có cái nhìn của Người khiến ta yêu mến mọi loài, muốn bảo tồn và làm phát triển mọi loài.
Tôi hiện hữu, và hiện hữu của tôi đã là “dấu chỉ” về Thiên Chúa, nhưng khi tôi hoạt động để cộng tác vào sự sáng tạo của Người, thì dấu chỉ ấy lại càng tăng thêm gấp bội.
Không phải người khắc khe thu tích, nhưng người bao giờ cũng sẵn sàng để cho mới là người giàu có thật.
Để làm việc lành, thì phải từ bỏ bản thân. Làm thế nào một người đầy tham vọng ích kỷ có thể chia sớt với tha nhân một cách rộng rãi thời gian, sức lực, tiền tài của mình được.
Người tốt không lệ thuộc vào mình và vào hoạt động của mình để được rảnh tay mà hy sinh vì lợi ích của mọi người.
Đừng ước ao có thể lo cho mình mọi sự, vì như vậy, ta sẽ mất đi biết bao tâm tình. Tình liên đới huynh đệ quý giá hơn sự tự túc.
Sự quẫn bách được tạo nên cho tình yêu như nhu cầu cá nhân cho nỗ lực, và chiến trận cho anh hùng.
Người ích kỷ lầm tưởng rằng mình làm chủ được bản thân và của cải mình khi không biết đến tha nhân, và không cho đi mất gì. Nhưng thật ra họ đã bỏ mất một sự cao quý là tình liên đới và trở nên khô héo. “Ai không biết thương người đi mót, thì không hưởng được mùa gặt” (thi sĩ Hafiz). * Phải tìm cách làm cho người ta “miễn dịch” hơn là tìm cách chữa người nhiễm dịch. Phải tìm cách trừ hoạ nạn hơn là tìm cách cứu vớt người mắc hoạn nạn.
Phải cứu giúp người nghèo đói, nhưng tranh đấu để không còn bất công xã hội nữa thì tốt hơn.
Với người đói, phải cho cơm bánh, nhưng người ta thường không đói nguyên có cơm bánh. Người thiếu cơm bánh thường chỉ vì họ thiếu nghị lực tinh thần. Với những người này cho họ cơm bánh không đủ, phải cải đổi họ.
Chỉ có sự thiện mới sáng tạo, sự dữ bao giờ cũng làm hao mòn và tàn lụi. Vì thế để có cải thiện thật, thì phải biến đổi lương tri trước hết.
Đôi khi cũng cần phải khuyên bảo, nhưng việc lành của ta có sức khuyến khích hùng hồn nhất.
Sự lành chẳng bao giờ cô lập và đơn phương: Tôi có phần vào sự lành của người khác, và họ có phần vào sự lành của tôi: “Ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối với họ” (2 Cr 11,29).
Khi làm sự lành, ta hoà hợp trí tuệ ta với quan phòng của Thiên Chúa và ý muốn ta với quyền năng của Người.
Tội là nguyên nhân đau khổ cho thế giới. Khi người ta tư tưởng sai lầm, ước ao ngang trái, đi theo con đường tà vạy, thì người ta làm cho thế giới tật người. Vì thế trở lại con đường lành là giúp cho thế giới lành mạnh.
Ai dám quả quyết rằng sự trung thành của thánh Gioan hữu ích cho các tông đồ hơn nước mắt của thánh Phêrô? Sự kiên trung của thánh Ignatiô tử đạo đem lại niềm tin cho các tín hữu hơn cuộc trở lại của thánh Augustinô?
Người lầm đường lạc lối trở về có thể giúp cho người khác kiên trì theo con đường của mình và cho người lầm đàng lạc lối hy vọng trở về.
Phải làm lấy đời sống ta chứ không phải ngửa tay xin ai được. Vì thế mà sống thì phải lao động. Nhờ có lao động ta mới biến môi trường quanh ta nên ích lợi cho ta.
Ta lao động khi ta dùng hoạt động mà in dấu tư tưởng ta vào thiên nhiên và đặt nỗ lực ta vào sự vật để có hiệu năng rộng rãi và lâu bền hơn, nhằm giúp ta thực hiện bản thân và đạt đến những mục đích chung của mọi người.
Khi quan niệm lao động như món hàng người ta có thể mau bán, đổi chác và cho thuê, người ta đã quên giá trị nhân bản là yếu tố làm cho lao động nên cao quý.
Lao động bao giờ cũng phải gắn liền với một tư tưởng và một mục đích nhân loại, với một linh hồn và một thể xác sống động muốn sống một đời sống tốt đẹp hơn, vì thế ta đừng phân chia những gì Thiên Chúa đã kết hợp.
Lao động đối đầu con người với thân phận của họ. Thân phận có, nhưng không bất biến. Người hèn nhát than van về thân phận mình còn người can đảm chiến đấu và biến đổi thân phận mình cho nên tốt đẹp hơn.
Lao động cao quý hơn đời sống con người, vì trước khi có lao động của nhân loại thì đã có lao động sáng tạo. Mặt khác, lao động nhằm phục vụ một công cuộc vượt quá định mệnh của cá nhân, tuy không đối lập với định mệnh ấy.
Với lao động, ta thêm cái gì còn thiếu vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, cũng như với đau khổ, “Ta thêm cái gì còn thiếu vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô” (Cl 1,24).
Nhờ lao động con người tự tạo và ảnh hưởng ra xung quanh mình, họ hoàn thiện hình ảnh Thiên Chúa nơi bản thân và in hình ảnh ấy vào sự vật xung quanh mình. Nếu lao động trở nên một ách nặng nề không thi vị, đó là vì họ đã quên ý nghĩa nói trên.
Con người như một bánh xe trong guồng máy xã hội, khi bánh xe ấy quay đều với luân chuyển chung của cả guồng máy, thì nó ở tình trạng hài hoà, trật tự. Cũng vậy, khi con người lao động theo nhịp độ của xã hội thì sẽ không cảm thấy lạc lõng, chán chường.
Lao động là một bổn phận, ai lao động ý thức hơn về bổn phận của mình. Họ thấy bình an và tin cậy ở đời sống.
Người quen làm tốt điều mình đang làm sẽ dễ dàng làm tròn những điều mình sẽ phải làm hơn.
Một công việc làm cách uể oải, tắc trách sẽ đem lại buồn chán; trái lại, một công việc theo đuổi cách chăn chỉ và bền chí sẽ đem lại niềm tự hào và vui sướng.
Khi tôi lao động, tôi tiếp nối công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, vì thế tôi phải lao động để hoàn thành thánh ý Thiên Chúa trên vũ trụ và trên bản thân tôi để thể hiện mục đích Người đã ấn định cho tôi, để cộng tác với mọi chi thể khác hầu đưa nhiệm thể Chúa Kitô đến tầm vóc trưởng thành.
Lao động của tôi chẳng bao giờ tầm thường hay hèn kém. Bao giờ nó cũng vẫn là đóng góp vào lao động của Thiên Chúa trên vũ trụ, vào lao động của Người Thiên Chúa từ Bêlem đến Thập giá, và lao động của các thánh. Nó đưa tôi vào mầu nhiệm “các thánh cùng thông công”, tham dự vào những nhọc nhằn chung để đạt tới những mục đích chung.
Đã lao động, bao giờ cũng có ích cho cả phần xác lẫn phần hồn, đời này và đời sau, miễn là ta có đức tin.
******
Trước khi hoạt động thì phải có chương trình. Phải lao động bằng trí tuệ trước khi lao động bằng chân tay.
Trước khi làm phải suy tính, khi làm, phải làm trước cái gì trước và sau cái gì sau, làm cho kỹ để khỏi phải làm lại và khỏi mất thời giờ vô ích.
Nguyện vọng thông thường là có cái gì thì phải có ở tình trạng hoàn hảo, vì thế đã làm cái gì, ta có nhiệm vụ phải làm cho thật hoàn hảo.
Quan tâm đến làm tốt mọi sự không những là dấu chỉ một tâm hồn công chính, mà còn giúp cho tâm hồn ấy nên công chính nữa.
Hãy yêu công việc âm thầm, khiêm nhược không ai để ý đến, không ai biết để cám ơn. Trong âm thầm, Thiên Chúa sẽ để ý và sẽ đền công cách xứng đáng.
“Khi làm việc gì, hãy để hết tâm hồn vào việc ấy như thể chỉ có việc ấy trong lúc này” (Eccl 19,1).
Công việc càng khẩn cấp, càng phải tỏ ra không hấp tấp, bình tĩnh và có phương pháp.
Không có gì làm hỏng việc hơn nao núng, mất bình tĩnh và vội vàng.
Phải biết trả cho mỗi giờ bổn phận của nó, và cho mỗi bổn phận giờ của nó.
Bắt đầu là hứa hẹn, hoàn thành mới là giữ lời hứa.
Kiên nhẫn theo đuổi tạo nên ý chí nơi con người.
Ngần ngại suy tính nên để cho lúc ban đầu, khi đã bắt tay vào việc đừng ngần ngại suy tính nữa vì ngần ngại suy tính có thể là khôn ngoan, nhưng cũng có thể là thiếu cương quyết.
Chỉ nên quyết định những việc có thể làm, và chỉ nên khởi công những việc có thể làm xong. Làm một việc quá sức mình cũng là một lỗi lầm như không làm một việc phải làm.
Phải coi mỗi kết quả trong công việc như một khởi điểm để phấn chấn hơn.
Thành công là một lệnh truyền phải tiếp tục, và thất bại là một lệnh truyền phải làm lại.
Một đời sống không kiên nhẫn theo đuổi công việc của mình giống như một cuộc hành trình không mục đích. * Trách vụ có vì con người, chứ không phải con người có vì trách vụ, vì thế phải luôn để trách vụ ở trước mặt, đừng để nó đun đẩy sau ta. Trách vụ càng vinh quang, càng đem lại lợi lộc vật chất, thì lại càng cần có tinh thần tự chủ. Người chỉ nghĩ đến công việc của mình là người lao động xấu, cũng như người chỉ nghĩ đến gia đình mình là người công dân xấu. “Công việc của tôi chỉ có một giờ, và nếu có kéo dài hơn thế, thì với tình yêu tôi cũng không cảm thấy nó kéo dài” (thánh Bernard).
Một đời sống trong trắng, luôn hướng về sự lành, dù không có gì hiển hách, cũng đáng giá hơn một đời sống ươn hèn, nhưng thỉnh thoảng lại rực lên một hành vi cao đẹp.
Đời người phần lớn bình lặng, không gió táp, không mưa sa, nhưng giá trị đời người ở tại dòng đời tươi sáng mát mẻ hơn ở tại chiến đấu gian lao.
Phần rỗi ta hình thành không phải chỉ trong các việc lớn, các biến cố khó khăn, nhưng mọi ngày trong mọi chi tiết của đời ta.
Nếu ta quen trung thành trong việc nhỏ, thì ta sẽ trung thành trong việc lớn.
Trong một đời thánh thiện, không có chi tiết dù nhỏ nhặt đến đâu lại không in dấu ân sủng, mọi sự đều bởi Chúa Thánh Thần mà đến và đều quy về Chúa Thánh Thần.
Mọi hành động dù to hay nhỏ trong đời ta cũng đều bắt nguồn từ một trạng thái tâm hồn đáng công hay đáng phạt. Chính vì thế, mà cũng một hành động đều có thể đáng công ở người này và đáng phạt ở người kia.
Có một chương trình của Thiên Chúa trong các biến cố xảy đến cho ta và quanh ta, phải làm thế nào để ý muốn của ta nên một với chương trình này. Sự đồng nhất này rất khó và chỉ thể hiện được một lần trong lịch sử nơi Chúa Kitô: “Ta hằng làm những gì đẹp lòng Người” (Ga 8,29). Vì thế mà đời sống Chúa Kitô là gương mẫu cho đời sống ta: “Không biết gì ngoài Chúa Giêsu và Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Bắt chước Chúa Kitô không có nghĩa là làm theo hành vi bên ngoài của Người, chép lại đời sống lịch sử của Người, vì nếu như vậy thì có nhiều điều ta không thể làm được, mà cũng không nên làm nữa. Nhưng ta phải sống đời ta theo như ý Thiên Chúa muốn, làm như Chúa Kitô nếu Ngài sống trong hoàn cảnh của ta, luôn luôn là con thảo đối với Ngôi Cha.
Giây phút hiện tại chỉ đến với tôi một lần và không bao giờ trở lại. Trong giây phút hiện tại, Thiên Chúa đã trao cho tôi hoàn thành một trọng trách Người không trao cho người khác. Vì thế, nếu tôi không hoàn thành thì đời đời sẽ có một lỗ trống trong chương trình của Người.
Cái gì phân biệt người tín hữu tốt với người tín hữu xấu không phải chỉ ở tại họ làm hay tránh một số hành động mà người kia không làm hay không tránh, nhưng nhất là ở tại tinh thần họ có khi làm hay tránh các hành động ấy. Khi tinh thần ấy không có ở một số hành động thì chắc chắn gì đã có trong các hành động khác.
Nếu một người chỉ công giáo ở đi lễ, đọc kinh, còn trong cách sống thì họ ăn ở như người ngoại, có gì bảo đảm rằng khi đi lễ, đọc kinh họ có tinh thần công giáo.
Trong đời người, chẳng có gì là những nhưng, việc gì thì cũng hoàn thành trong tinh thần nào và hướng về mục đích gì.
Trong vấn đề công tội, đừng nói rằng có những việc chẳng hề chi, việc gì cũng có một giá trị vĩnh cửu.
Ai thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, sẽ gặp Người ở khắp mọi nơi. Nhưng ai lẩn tránh Người, cũng sẽ gặp Người ở khắp mọi nơi.
******
Người thánh nhìn mọi sự trong Thiên Chúa và làm mọi sự theo tinh thần của Người.
Một tâm hồn quảng đại không quảng đại nhờ kích thước to lớn của các việc họ gặp, nhưng nhờ tâm hồn họ có một cái gì làm cho mọi sự nên to lớn nơi họ.
Đấng thánh nhìn thấy trong mọi sự một phản ảnh của Thiên Chúa, trong mọi việc một thánh ý của Người, và trong mọi bổn phận một mời gọi của Người.
Từ khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, mọi sự trần gian đều có một kích thước đời đời, nhận biết điều ấy đã là điều cao quý, nhưng phải sống theo nhận thức ấy mới làm cho ta đáng thưởng.
Hèn sang không ở tại sự vật, mà ở tại lòng người. Việc tốt mà làm với ý xấu cũng không nên tốt.
Làm việc phải làm, lúc phải làm là hành động khôn ngoan nhất.
Mỗi việc có thời của nó. Đừng chờ các việc lớn mà bỏ các việc nhỏ. Làm tốt các việc nhỏ sẽ sửa soạn cho ta làm tốt các việc lớp sắp xảy đến.
Như ánh sáng giúp ta nhìn rõ sự vật xung quanh để khi di chuyển ta không vấp váp và khi sử dụng ta không gây tai nạn cho mình. Ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa giúp ta nhìn rõ sự thật xung quanh ta, để khi tiến bước giữa muôn nghìn cạm bẫy, ta không sa ngã, và khi sử dụng của của đời này, ta không coi đó như là cùng đích.
Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ vũ trụ, để vũ trụ làm theo mục đích của con người, nhưng con người phải làm theo mục đích của Thiên Chúa ấn định cho họ. Vì thế, mà khi ta hy sinh mục đích của Thiên Chúa cho mục đích loài người và mục đích loài người cho mục đích của thiên nhiên, thì ta đã gây một xáo trộn rất lớn.
Mọi giây phút đều như nhau ở chỗ giây phút nào cũng mang lại cho ta một giá trị đời đời. Giây phút nào cũng được đánh giá theo sự phong phú của Thiên Chúa và sự phong phú của bản thân ta.
Mỗi giây phút đều đem lại cho ta sự ta đợi chờ, nhưng nếu ta lơ là với hiện tại và chỉ nghĩ đến tương lai, mỗi giây phút sẽ trôi qua với những sự nó có để cống hiến cho ta.
Mọi giây phút đều trôi qua, nhưng giá trị đời đời sẽ ở lại nếu ta biết giữ lấy nó.
Sự sống thật mà Thiên Chúa dành cho tôi ở trong tầm tay của tôi: Tôi chỉ cần phải tin và yêu là tôi có thể đương đầu với sự chết.
Cũng như muốn đạt đến linh hồn thì phải nhờ đến thể xác, muốn đạt đến vĩnh cửu, cũng phải nhờ đến thời gian.
Người anh hùng dù có chết yểu cũng sống hiên ngang, tích cực. Kẻ tiểu nhân dù tồn tại lâu dài cũng chỉ sống thoi thóp.
Phải có cái gì thuộc thời giờ mà không bị đo lường bởi thời giờ. Chính cái đó mới quan trọng cho ta.
Thời gian trôi từ biến cố này sang biến cố khác, nhưng nớóở đâu? Vì thời giờ mà có kỷ niệm và đợi chờ, nhưng thực chất nó là gì? Bản chất của đời sống mà thời giờ đo lường là gì? Đó là những câu hỏi cần phải đặt ra cho mỗi người.
Đời tôi chỉ có một lát, nhưng phải có nó thì trí tuệ và lòng muốn của tôi mới có thể ngụp lặn trong sự hảo bất diệt.
Đừng đánh mất thời giờ, kẻo mất luôn cả đời đời.
Thời giờ đã qua không bao giờ trở lại, nuối tiếc chẳng ích gì. Phải lo chuộc lại những gì đã mất trong hiện tại. Vì lúc nào thì Thiên Chúa cũng vẫn chờ đợi và gõ cửa để ban cho ta đời đời.
Còn thời giờ thì còn hy vọng. Chỉ tuyệt vọng những ai không còn thời giờ để mà chuộc lại lỗi lầm.
Phải dùng thời giờ làm phong phú thời giờ và phải dùng thời giờ để chuộc lại thời giờ. Chỉ nhằm những mục tiêu trên thì nhớ lại quá khứ và nghĩ đến tương lại mới đem lại hậu quả.
Lạy Chúa, xin hãy quản trị đời con, đừng để có giây phút lầm được lạc lối. Xin cho con luôn luôn đi theo con đường mà quan phòng khôn ngoan của Chúa đã chỉ vạch. Xin Chúa Thánh Thần thấm nhuần ân sủng vừa êm dịu, vừa mạnh mẽ của Người vào tư tưởng, con tim, quyết định và công việc của con để mọi sự trong đời con đều nằm trong thánh ý của Người.
Tiến triển là điều kiện tất yếu của đời sống. Không lớn nữa là dấu chỉ sinh vật sống đã bước về sự chết.
Thiên Chúa chỉ ban cho ta đời sống Người để cho ta làm lấy đời sống ta muốn.
“Anh em đã học biết bởi chúng tôi phải làm gì để đẹp lòng Thiên Chúa: Anh em hãy đi từ tiến bộ này đến tiến bộ khác” (1 Thes 4,11-3).
Được một hay mười nén bạc là tuỳ ở Chúa, nhưng ta phải làm lợi phần ta đã được; và lời càng lớn, phần thưởng càng to.
Ở đời này, không những ta có thể luyện lọc cho trong sạch hơn, mà ta còn có thể làm cho mình được thêm ân sủng. Đó là những điều các thánh trên trời không còn làm được nữa.
Đời sống luân lý của ta lệ thuộc vào những hoàn cảnh luôn thay đổi. Ta cũng thay đổi trong lúc thích nghi với các hoàn cảnh ấy. Nếu thay đổi không theo đà tiến triển, thì sẽ thụt lùi.
Trên sườn đồi, khe núi cũng như dưới đồng bằng, nước chỉ trong khi chảy, khi đọng nước sẽ làm nên ao tù.
Muốn tiến bộ phải kính mến Thiên Chúa, vì để tiến bộ ta phải biết hy sinh để theo đuổi lý tưởng và quên mình đi để ngụp lặn trong Đấng là nguồn mọi sự tốt lành.
Để có tiến bộ, thì phải khởi hành, và khởi hành từ vị trí thật của mình. Nếu có điều gì phải hối tiếc và sửa chữa trong quá khứ, thì phải làm ngay rồi lên đường. Thánh Phaolô nói: “Tôi quên đằng sau tôi, và tôi hướng về tương lai” (Pl 3,13).
Mỗi người có tiến bộ của mình, vì mỗi người có một ơn gọi, những khả năng và những ân sủng riêng. Để có tiến bộ thật, phải tìm hiểu ơn gọi của mình rồi kiên trì theo đuổi. Để đạt tới đích, thường có nhiều phương tiện; ở tự chúng, thật khó biết phương tiện nào hơn. Trong thực tế, phương tiện đưa đến thành công là phương tiện tốt. Nhưng phương tiện thành công ít lệ thuộc ở lựa chọn hơn ở cách áp dụng can trường và kiên nhẫn.
Có chuyển động chưa hẳn là có tiến bộ. Người ta có thể thụt lùi hay đi vòng quanh. Phải có một hướng đi đúng và phải luôn cố gắng tiến lên.
Mỗi mục đích đạt được đem lại cho ta một tiềm lực mới lớn hơn tiềm lực có trước. Càng hoạt động, ta càng có thêm kinh nghiệm và khả năng.
Đôi khi sự tiến bộ không nhận thấy bởi người xung quanh và bởi chính mình, nhưng tiến bộ nội tâm không tất yếu phải biểu lộ ra ngoài vì để biểu lộ ra ngoài, phải có cơ hội và cơ hội chưa đến. Điều quan trọng là ở nội tâm ta cảm thấy cách nhìn cao thượng và trong sạch hơn, ý chí vững chắc hơn và sự từ bỏ mình quảng đại hơn.
Phải nhìn những người hơn mình, nếu chỉ nhìn những người kém mình thì người ta chẳng bao giờ muốn nên tốt hơn và sẽ có lòng tự kiêu, thoả mãn về chính mình.
Không dám nhìn sự kém cỏi của mình là dấu chỉ một tâm hồn kém cỏi cứng lòng trong kém cỏi của mình.
******
Để tiến xa, phải biết đợi chờ và không đánh mất cơ hội.
Thành công chỉ có giá trị khi ta biết khai thác và biết khôn khéo bảo toàn.
Cây mọc nhanh quá, gỗ không bền.
Khi đã vượt qua một cản trở, người ta có thể vượt được cản thở thứ hai, nhưng có khi không vượt được cản trở thứ ba. Lúc ấy, biết chấp nhận sự kiện cũng cần như có can đảm để đương đầu.
Trong đời ta, dù luôn tiến bộ, cũng không bao giờ tới đích, nhưng khả năng tiến bộ không bao giờ thiếu, vì chính tiến bộ tạo nên khả năng.
Bệnh tật, già nua và sự chết là giới hạn của đời sống vật chất, nhưng tinh thần có thể biến những hoạn nạn ấy thành thử thách cho bản lĩnh của mình. Ta chỉ có bản lĩnh thật khi ta thắng bệnh tật, già nua và sự chết.
Thắng tuổi già, ga mới thắng được mòi mỏi của thời gian, phải thắng sự chết, ta mới thắng được thời gian. Và ta chỉ có vĩnh cửu khi thắng được thời gian.
Người hoạt động quá cũng như người không chịu hoạt động đều không biết sống.
Phải thích nghi hoạt động của ta với mục đích, phí sức khi không cần là huỷ hoại, không ra sức khi cần sẽ không thành công.
Quá nóng nảy cũng hại như lười biếng: Vì quá nóng nảy, người ta sẽ rối trí bôn chôn, có cử chỉ hỗn độn, có quyết định không thích hợp, do dự và tiến thoái vô trật tự.
Khi ta vượt quá khả năng của ta và của sự vật, chắc chắn thất bại sẽ đón chờ ta, vì không ai thắng được quan phòng của Thiên Chúa.
Việc của ta chỉ thành công khi đáp lại đòi hỏi của thực ế, hoặc nơi ta, hoặc nơi những người xung quanh ta.
Ai lượng sức mình quá lớn, sẽ tiêu hao nó. Ai không đếm xỉa đến hoàn cảnh của mình sẽ biến nó nên đối thủ.
Thường để thành công thì phải biết chờ cơ hội. Có những khó khăn hôm nay không vượt nổi, ngày mai không còn nữa. Có những biến đổi nơi ta và nơi sự vật làm cho sự việc dễ thành công hơn.
Biết không hoạt động khi lý trí khuyên không nên cũng vẫn là hoạt động, vì hoạt động là gì nếu không phải là một quyết định trở nên nguyên nhân cho sự lành hay sự dữ.
Nghỉ ngơi cũng ích lợi như hoạt động: Nó bồi dưỡng lại sức lực, nó sửa soạn cho hoạt động tương lai, nó gây quân bình và tin tưởng. Miễn là ta biết nghỉ ngơi khôn ngoan cũng như hành động khôn ngoan.
Chỉ khi nào ta vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tôn trọng các luật lệ của Người, quân bình mọi giá trị Người đặt vào tay ta, thì hoạt động của ta mới thực sự có hiệu nghiệm.
Tôi thái quá, đôi khi vì bồng bột thiếu cân nhắc, nhưng nhiều lần vì cậy mình, coi thường kẻ khác, và không tin cậy ở Thiên Chúa.
Biết ở trong quyền hạn của mình vừa là một tư cách của ta, vừa là một tôn trọng tha nhân. Thật vậy, ta phải biết đón nhận thân phận ta có và đừng gây xáo trộn vào công việc, nếp sống và bằng yên của người khác.
“Hơi người ít lòng tin, ngươi bối rối về điều chi?” Ngươi không biết rằng: Quan phòng của Thiên Chúa xếp đặt mọi sự để đưa đến phần rỗi của ngươi sao?
Chúa Kitô là Đấng Thiên Chúa đã trao cho mọi quyền thế trên trời và dưới đất. Ấy thế, mà ở trần gian, Người đã không vội vã, đã không đốt giai đoạn. Người đã sửa soạn 30 ăm trong âm thầm, thinh lặng và đã không nghĩ đến ra hoạt động sớm hơn. Người đã rao giảng Tin Mừng có ba năm và cũng chỉ làm những gì Ngôi Cha đã truyền dạy, không lấn vào công việc dành cho tông đồ mai sau. Người luôn tin tưởng rằng: Ngôi Cha sẽ hướng dẫn mọi sự và đưa đến thành công.
Tha nhân chẳng bao giờ lẻ loi. Họ là anh em của Chúa Kitô, và là con cái Thiên Chúa: Khinh khi họ, ta sẽ khinh khi Chúa Kitô và Thiên Chúa. Chính vì thế mà Chúa Kitô đã dạy: “Điều răn thứ hai cũng như điều răn thứ nhất”. Hai điều răn là một ta không thể phân chia được.
“Nếu ai nói rằng: Tôi kính mến Thiên Chúa và không thương yêu anh em mình, thì kẻ ấy là người nói dối” (1 Ga 4,20).
“Chớ gì chúng đoàn kết nên một... để thế gian biết rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,23).
Ở bên ngoài, xem ra tha nhân thật giới hạn, bất toàn. Nhưng muốn nhận định đúng tha nhân, ta phải nhìn họ như Chúa Kitô, ở định mệnh siêu nhiên của họ. Nhìn họ như vậy, ta vẫn có thể sáng suốt, nhưng bao giờ ta cũng lạc quan, vì ta biết rằng: Tuy con người bao giờ cũng vẫn là người, nhưng Chúa Thánh Thần ngự trong họ, và Người bao giờ cũng có thể làm được những việc lạ lùng hơn họ.
Người khiêm nhường, đức độ sẽ nhìn thấy ở tha nhân những giá trị mà người kiêu căng, ích kỷ không nhìn thấy.
Vị thánh nhìn ở kẻ khác những điều tốt đẹp và ở mình những điều thiếu sót.
Tự nhiên ta đã hướng về bản thân, nếu nhờ bác ái, ta hướng về tha nhân, thì đó là một điều đáng mong ước.
Đặt tha nhân trước bản thân trong tất cả những gì có thể chia sẻ, là đặt Thiên Chúa và những của không chia sẻ được lên trên hết.
Thay cho vì của ghét người thì ta hãy vì người ghét của, và thay cho ghét người lấy của thì ta hãy yêu của ít hơn yêu người.
Thường ta đánh giá tha nhân theo như họ có làm vui thích, ích lợi và danh giá cho ta hay không. Không mấy ai đánh giá họ ở tự do.
Đừng ngần ngại làm sự lành cho kẻ vô ơn, như vậy Thiên Chúa sẽ mắc nợ ta.
Sợ rằng người ta vô ơn là dấu chỉ ta không có tấm lòng quảng đại và tình yêu cao thượng.
Hãy yêu mến kẻ lành vì họ lành, và hãy yêu mến kẻ dữ để họ trở nên lành.
Người ta có thể yêu người khác vì biết họ, nhưng thường người ta yêu người khác vì đã hy sinh cho họ.
“Nhân loại làm nên bởi nhiều tâm hồn có định mệnh là yêu mến nhau” (Gratry, la connaaissance de l’âme, V, 3).
Ta phải thương yêu mọi người như mình, nhưng tình yêu ấy có thể có những cường độ và màu sắc khác nhau. Hiếu thảo với cha mẹ khác tình yêu vợ chồng và tình bằng hữu.
Thiên Chúa tạo nên con người tình nghĩa, nhưng để cho mỗi người hình thành, bảo tồn và làm cho phát triển tình nghĩa mình có theo khôn ngoan của riêng mình.
Ta chỉ gặp tình yêu khi biết cho, và ta chỉ giữ được tình yêu khi biết làm tròn phận sự và đề phòng cạm bẫy.
Người ích kỷ thường phàn nàn rằng mình bị phụ bạc, họ nói họ không có bạn, nhưng chính họ chẳng bao giờ nghĩ đến là bạn cho ai.
Ta chỉ có những người ta đã hiến thân cho, và ta chỉ hiến thân cho những người ta đã thuộc về họ.
Cái gì làm cho ta thu hút nhân tâm, đó là những hành động không chi li tính toán, không đòi hỏi ai báo đáp. Bạn hữu không phải là vấn đề mua chuộc, mà là vấn đề tự hiến.
Để có bạn hữu, đừng đòi ai phải yêu mình, nhưng hãy ăn ở làm sao để đáng được người ta yêu mến. Những tình nghĩa mặn nồng nhất là những tình nghĩa không hứa hẹn, không giải thích, không thề nguyền vì là chính đời sống của ta.
Không có thân mật thì không có bằng hữu, nhưng thân mật quá cũng hại cho tình bạn.
Trong tình bằng hữu, phải biết chịu đựng lẫn nhau nhưng cũng phải biết tránh những gì có thể gây phật ý và tan vỡ.
Cái gì nuôi sống tình bạn không phải lợi lộc, nhưng hy sinh.
Muốn cho tình bạn thêm thắm thiết thì phải trao tặng, phải cố gắng để có một hình thức trao tặng cả khi ta nhận, vì thường khi cho người ta vui hơn khi nhận.
Phải làm thế nào để trao tặng luôn luôn chỉ là một hành động đơn thuần để chứng tỏ tình yêu thôi. Đừng để cho ích kỷ hay tham lam xen vào. Không có gì tai hại hơn cảm giác bị lợi dụng nơi người nhận.
Mỗi người cho mọi người và Thiên Chúa cho tất cả, như vậy không có ai bị quên lãng và mọi người đều quảng đại.
******
Ở đời này, mọi tình nghĩa như tình máu mủ, tình vợ chồng, tình bằng hữu... chỉ là phương tiện. Không phải nó không có giá trị ở tự nó và bởi tự nó, nhưng nó chưa đạt đến hoàn thiện và còn phải nhằm vào cứu cánh.
Tình nghĩa cộng tác vào sự sáng tạo trời và đất, nó là “liều thuốc bất tử và trường sinh” (Eccl 6,16), nó ban cho mọi cá nhân, mọi tập thể và cả nhân loại những điều kiện cụ thể để phát triển.
Cái gì người tình nghĩa thật đem lại cho ta trước tiên là chính bản thân ta. Họ khởi động nơi ta bản vị thật của ta trong lúc khơi động chính bản vị của họ. Vì gặp gỡ đời sống họ đời sống ta trở nên phong phú hơn.
Nhờ người thân tình, ta thấy những điều mắt ta không trông thấy, ta nghe những điều tai ta không nghe thấy, và nhất là ta hiện diện với chính bản thân nhờ một người vừa thân với ta lại ở ngoài ta, nên yêu ta mà vẫn sáng suốt hơn ta.
Nếu người thân yêu quý nhân đức anh có, anh sẽ để ý đến nhân đức đó hơn và anh sẽ e ngại đánh mất nó.
“Sát mài giũa sắt, và bạn mài giữa tư tưởng của bạn mình” (Prov 27,17).
Người ta thường lầm nghĩ rằng: Người ta không có thể nói điều không biết và chia sẻ điều không có. Nhưng thật ra có thể nói lời không biết, và khi nói thì ta học biết; ta có thể chia sẻ điều không có, và trong lúc chia sẻ thì ta đón nhận.
Tình nghĩa phải căn cứ trên sự lành, và mỗi người đều có trách nhiệm về sự lành ấy.
Hành động xấu, dù có thoả thuận hay vì thương mến, cũng không còn là tình nghĩa nữa. Sự dữ đã làm mất sự thanh cao của liên hệ này rồi.
Đừng vì muốn đẹp lòng người thân mà bắt chước nết xấu của họ. Chia sẻ hành vi tội lỗi là trở nên đồng loã.
Ước gì bạn anh có thể nghe anh nói thật và nói thật với anh.
Một sự thật chua xót khó nói mà cũng khó nghe. Chỉ có con tim thật tình yêu mến mới có phép mầu làm cho ta nói mà không làm phật ý và nghe mà không giận dữ. Một chút ích kỷ hay tự kiêu ở bên này, và một chút nghi kỵ ở bên kia đủ làm đổ vỡ tất cả.
Cái gì hướng về mục đích xác định con đường tình yêu Thiên Chúa phải hướng dẫn mọi tình yêu nhân loại của ta. Hạnh phúc cao quý nhất là được cùng hưởng tôn nhan Thiên Chúa, một tình nghĩa chân chính phải đưa đến mục đích nói trên, vì thế phải giúp ta kính mến và làm tôi Thiên Chúa. Không có tình yêu thật khi không đưa đến tình yêu Thiên Chúa.
Tôi học nếm tình yêu Thiên Chúa trong tình bạn của anh, và tôi học nếm trong Thiên Chúa một hương vị thần linh trong tình bạn của anh.
“Người ta như những cái vò trôi trên nước, luôn cọ sát vào nhau” (Goethe? Entretiens aves Eckermann).
Ta khó chịu với người ta vì họ không ưa ta, không giúp đỡ ta, không cho ta cái họ có nhưng đôi khi ta khó chịu với họ chỉ vì họ không phải là ta.
Không chỉ có đụng chạm cá nhân, còn có đụng chạm tập thể nữa. Bạn của bạn ta và là bạn của ta, và kẻ thù của bạn ta là kẻ thù của ta.
Khi xung khắc xảy đến giữa người thương yêu nhau, thì hận thù lại càng cay đắng. Người ta thường nói: Yêu nhau lắm, cắn nhau đau.
Có người ghét người khác chỉ vì họ nghĩ rằng: Chắc người ấy có tâm tình với mình giống như tâm tình mình có với họ.
Ta được dựng nên để yêu thương, vì thế một xúc phạm làm cho ta mất tình yêu thương làm cho ta thù hận gấp đôi.
“Nếu anh em chỉ yêu người yêu anh em, thì anh em có làm gì hơn người ngoại không?”. “Hãy yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ bách hại và bỏ vạ cho anh em”.
Cho tiền bạn thì một người mất và một người được, nhưng cho tình yêu, thì cả người cho lẫn người nhận đều được.
Cho tình yêu mà dập tắt hận thù thì ta đã được gấp đôi.
Liên hệ giữa người với người căn cứ vào công bằng. “Răng đền rằng” đó là luật lệ loài người. Nhưng trong Phúc Âm, Chúa đã phán: “Nếu người ta vả má này, anh em hãy chìa má kia cho họ”. Vì thế mà lòng tha thứ tiêu biểu một lề luật ở trên loài người.
Kẻ thù có thể làm tôi đau khổ, nhưng nếu tôi biết tha thứ, hắn không có thể làm tôi nên giống hắn được.
Kẻ thù có thể điên cuồng, giận dữ. Nếu có lòng tha thứ, tôi vẫn bình tĩnh, không xao xuyến. Tôi đã thắng được ở bản thân tôi tính nóng giận, sự ghen ghét là như nọc độc len lỏi vào thiêu đốt hồn tôi.
Người hận thù tự mình cắn xé mình, cả cái vui làm hại được người cũng là một cái vui địa ngục. Nếu đáp lại bằng một hận thù như vậy thì ta cũng lại rơi vào tình trạng khốn khổ của kẻ thù ta.
Nếu làm sự dữ cho sự dữ thì sau dự dữ bao giờ cũng vẫn chỉ có sự dữ, phải có tha thứ mới đổi sự dữ nên sự lành.
******
“Ai ghét anh em mình là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,5) vì sự ghen ghét đã ngầm chứ ý muốn tiêu diệt rồi.
Tha nhân đã lỗi phạm đến ta, họ có lỗi nhưng nếu ta không tha thứ cho họ là ta bít lối, không cho họ hối cải.
Nếu tình yêu là nguồn sự sống và ghen ghét là nguồn sự chết, thì Thiên Chúa là tình yêu đã sáng tạo mọi sự cho có, và ghen ghét đã đem lại hoang tàn huỷ diệt.
Để yêu thương tha nhân, phải đi đến nguồn gốc của họ: Phải nhìn tha nhân trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong tha nhân.
Thương yêu kẻ thù không tốt hơn thương yêu bạn hữu, nhưng thương yêu bạn hữu có lý do tự nhiên, còn thương yêu kẻ thù không có lý do nếu không hướng về Thiên Chúa. Vì thế mà thương yêu kẻ thù không có lý do nếu không hướng về Thiên Chúa. Vì thế mà thương yêu kẻ thù thường được ngợi khen hơn thương yêu bạn hữu.
Nếu ta không muốn tha thứ cho người khác thì ta không có quyền chờ đợi người khác tha thứ cho ta.
Nguyên việc ta báo thù và tìm cách báo thù đã chứng tỏ ta là nô lệ sự dữ.
Khi ta thấy chiến thắng bản thân là khó, tại sao ta lại uất hận khi người ta lỗi phạm và lỗi phạm người ta ảnh hưởng đến ta? Uất hận như vậy là muốn người ta là anh hùng trong lúc mình cam phận là tôi đòi cho bản năng.
Ơn lành của Thiên Chúa không ban riêng cho mình ta, sự tha thứ của Người cũng không ban riêng cho mình ta. Ta được Người tha thứ thì ta phải chia sẻ sự tha thứ ấy với anh em ta.
Các thánh thường nói: Ai giữ cho mình của dư thừa là người ăn trộm, ta cũng có thể nói: Ai giữ riêng cho mình sự tha thứ của Thiên Chúa, là người sát nhân.
******
Ta phải chịu một nỗi bất công, việc bất công là do một người, nhưng biến cố là do Thiên Chúa. Phải vượt lên trên quan điểm loài người, và phải đạt đến chân lý vĩnh cửu, vì chỉ có chân lý này mới giải thoát chúng ta.
“Ông chẳng có quyền gì trên tôi, nếu ở trên không ban xuống cho ông!”. Lời của Chúa với Philatô có thể là câu trả lời của ta cho mọi thứ bạo tàn, áp bức đến với ta. Nhận biết nguyên nhân nền tảng của mọi tình yêu và xung khắc, của mọi hạnh phúc và đau khổ sẽ đem lại cho ta ánh sáng phá tan đêm tối của hận thù ghen ghét.
Cái gì làm ta ghét ở kẻ thù ta không phải là con người, nhưng giận hờn của hắn. Vì thế, phải chống lại giận hờn và khoan dung với con người. Nhưng chống lại giận hờn thì phải có phương thuốc thích hợp. Phải thắng bệnh tật bằng sức khoẻ và thắng giận hờn bằng tình yêu.
Nếu lỗi phạm chứ không phải việc làm ta khó chịu mới là sự thiệt hại thật thì ta phải thương kẻ thù hơn là ghét họ, vì sự giận hờn của họ mới thật là sự dữ.
Người nguyền rủa anh, chỉ nguyền rủa tư tưởng họ về anh, nghĩa là chính họ. Đừng để cho anh trở nên giống tư tưởng của họ về anh và hờn giận, vì như vậy là thua cuộc và để cho giận hờn của họ chuyển sang anh.
Một thử thách bao giờ cũng là một ân sủng. Theo đức tin, thử thách ấy là một cảnh giác về sự bất toàn của ta, một huấn luyện chịu đựng gian khổ, và một sự đền bù tội lỗi.
Hãy cố ăn ở tốt với người ta và đừng đòi người ta phải ăn ở tốt với mình, đòi như vậy có vẻ công bằng, nhưng đó là nguyên nhân cho nhiều tranh chấp.
Không đoàn kết với tha nhân là chia rẽ với Thiên Chúa. Vì thế, ta phải hy sinh mọi sự để có đoàn kết với tha nhân.
Tha thứ cho tha nhân khi ta thấy khó tha thứ là bắt chước Thiên Chúa đã tha thứ cho tội nhân, và từ chối đi theo kẻ thù trong hờn giận để làm đẹp lòng Người.
Ta không tạo nên thiên nhiên, nhưng ta tạo nên cho nó một ý nghĩa. Chính tình trạng tâm hồn người nhìn ngắm nó đã cho nó một ý nghĩa đúng hay sai.
Ta không tạo nên thiên nhiên, vì thế, khi cho nó một ý nghĩa, biết mục đích ta gán cho nó chưa đủ, mà còn phải tìm hiểu mục đích bí ẩn Đấng Tạo Hoá ấn định cho nó.
Cho đời sống tinh thần, thiên nhiên là một “dấu chỉ”. Vì là dấu chỉ nên ta có thể hiểu đúng mà cũng có thể hiểu sai. Hiểu đúng dấu chỉ đưa đến thực tại như khói đưa đến lửa. Hiểu sai, dấu chỉ trở nê ngăn cách vì ta lẫn lộn dấu chỉ với thực tại.
Caeli Enrrant gloriam Dei. Trăng sao không luôn đưa ta đến chiêm ngưỡng và ngợi khen Thiên Chúa, vì nó có thể biến thành ngẫu tượng cho ta tôn thờ.
Người ta có thể lẫn lộn trăng sao với thiên đàng và khi không thấy Thiên Chúa ở đó, người ta quả quyết rằng không có Thiên Chúa.
Không có ai chối không có thiên nhiên, nhưng nhiều người chối thiên nhiên có một nguyên nhân.
Lúc ban đầu, khi tạo dựng muôn loài, Chúa đã nhận định rằng chúng tốt. Sau này khi loài người thấy chúng quanh mình, trong mình đều tốt, thì sinh lòng tham lam, muốn giữ cả để hưởng cho mình, và không còn nghĩ gì xa xôi hơn nữa. Nhưng cảm phục thiên nhiên và hưởng dùng thiên nhiên mà không nghĩ xa hơn nữa là bội bạc và bất công.
Thiên Chúa ở trong ta, phải đi vào thâm tâm để gặp Người, Thiên Chúa ở trong tạo vật. Khi ngắm nhìn hiệu quả, phải biết khám phá ra nguyên nhân.
Nhà nghệ thuật nhìn thiên nhiên ở đường nét, màu sắc, người thực dụng ở ích lợi trực tiếp cho đời sống mình, nhà khoa học ở các định luật chi phối thiên nhiên và tâm hồn tôn giáo ở Đấng quyền năng đã tạo nên nó cho con người. Có tâm hồn tôn giáo, nhà nghệ thuật sẽ ngợi khen sự huy hoàng của Thiên Chúa, người thực dụng sẽ nhận biết sự nhân lành của Người và nhà khoa học sẽ thán phục trí thông minh vô biên của Người.
Thiên nhiên không chỉ báo điềm mà còn ban cho ta Thiên Chúa nữa vì mọi sự đều chỉ có Người, trong Người và bởi Người.
Trong Thiên Chúa như trong “một cái bản thể không bờ không bến”, mọi loài đều phải trầm vào để hiện hữu và giữ hữu thể mình cho khỏi hư vô.
Sự sống là một sức bộc phát chứng tỏ có một nguồn sinh lực, bản năng sinh vật chứng tỏ có một ý muốn bảo vệ những loài không biết tiên liệu, và quân bình kỳ lạ giữa sự sống và sự chết trong các chủng loại chứng tỏ một sự khôn ngoan còn đầy huyền bí, nhưng ta không thể phủ nhận được.
Thế gian là một và định mệnh cũng là một, nhưng định mệnh của cái toàn thể phức tạp gồm có vừa vật chất vừa tinh thần này, cái gì sẽ định phương hướng cho nó? Vật chất thì mỏng giòn, tinh thần thì bền vững, vật chất có cũng như không vì không biết mình có, tinh thần biết rằng mình có và trường tồn. Theo lẽ tự nhiên cái dưới phải lệ thuộc vào cái trên và vật chất phải tuân phục tinh thần.
Thiên nhiên cũng theo đuổi một công cuộc như tôi. Nhưng tôi làm trong tự do và ý thức, còn loài vật và cây cỏ làm mà không biết, trong tinh thần tôi cũng như trong vạn vật, mọi động lực đều chỉ có một hướng đi, hướng đi mà con người phải đạt đến trong đời sống luân lý của mình: hạnh phúc. Vũ trụ chỉ là môi trường linh hồn triển nở, tinh thần phát triển và con người đạt đến quê hương vĩnh cửu của mình.
Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ, tinh thần như bị tràn ngập, bao phủ bởi vật chất. Hoàn cảnh này càng làm cho tôi ý thức sự cao quý của tôi hơn vì định mệnh của tôi là sử dụng tất cả để vượt lên trên tất cả.
Thánh Phaolô viết: “Con người tinh thần phán xét mọi sự”. Thật vậy, nhờ Thần Khí soi sáng con người biết rằng mọi hoạt động của thiên nhiên dù thấp hèn vật chất đến đâu, cũng vẫn tuỳ thuộc vào một sức mạnh tinh thần. Cái nhà tổ chức là vũ trụ phải có một người cha điều khiển.
Thiên nhiên chỉ có vì tinh thần. Mục đích của nó là để tinh thần thi hành chức năng của mình mà được kiện toàn.
Từ bản thể thụ tạo đến bản thể đời đời; từ hiện tượng tối tăm đến định luật phổ quát, từ hoạt động của thiên nhiên đến nỗ lực của trí tuệ, từ vật chất đến tinh thần và từ trần gian đến thiên quốc: đó là sự tiến hoá mà Thiên Chúa muốn cho tạo vật thể hiện.
Những hệ tinh tú bao la như ngân hà, hay những hệ nguyên tử nhỏ bé li ti đều chi phối bởi những định luật vật lý như nhau và đều giữ cho quân bình trong vòng vận chuyển của chúng bởi những lực giằng co phức tạp như nhau. Sự vĩ đại của các hệ tinh tú làm cho trí tưởng tượng của ta ngỡ ngàng, nhưng thực ra cũng vẫn phải một khôn ngoan trí tuệ để nghĩ ra và điều khiển các đại và tiểu vũ trụ ấy. Trước mặt Đấng sáng tạo chẳng có vật nào to, vật nào nhỏ.
Dù to hay nhỏ, các vật trong vũ trụ đều in trí thông minh và quyền năng của Đấng sáng tạo trong bản chất và khả năng của chúng. Vì thế với người biết nhìn, thiên nhiên bao giờ cũng hoạt động để làm vinh danh Thiên Chúa.
Các thánh, khi làm sáng danh Thiên Chúa, nghĩ rằng đi vào một hợp tác chung của muôn loài. Chính vì thế mà, khi thánh Phanxicô gọi mặt trời, mặt trăng, lửa, nước, cây cỏ, hoa lá và các súc vật như anh chị em mình, thì đó không phải chỉ là một cách diễn tả theo thi tứ, mà còn có một ý nghĩa căn bản. Phải nhận ra ý nghĩa này thì thiên nhiên mới thật hữu ích cho ta.
Trong thiên nhiên bao giờ ta cũng cảm mến cái gì không phải là thiên nhiên như trong tình yêu bao giờ ta cũng đi tới vô biên bên kia đối tượng ta yêu. Mãnh lực thu hút bí nhiệm của thiên nhiên trên loài người là một mầu nhiệm ta đón nhận trong khoái trá, nhưng ta không hiểu được tường tận.
Trong thiên hiên, không phải chỉ có một cảnh tượng hay một sự ích lợi, chính Thiên Chúa hiện diện trong thiên nhiên đã làm cho nó nên ngọt ngào, thơm tho, vững chắc dưới chân ta, vui thoả cho lòng ta.
Thiên nhiên giống như những cổng chào đón một nhân vật lớn sau ngày đưa đón. Nó gợi lên người khách quý và sự huy hoàng khi ông đi qua.
Thiên nhiên là như những chữ đại tự mà ta không đọc được, nhưng gợi lên trong ta một tử tưởng thầm kín.
Cũng như cho lý trí Thiên Chúa là khôn ngoan, cho ý chí Người là thánh thiện và cho con tim Người là người cha, cho thiên nhiên, Thiên Chúa xuất hiện như nguyên nhân, quyền năng và sự tốt đẹp.
Nếu nguyên nhân tác thành của thiên nhiên là khôn ngoan và quyền năng, thì cứu cánh của thiên nhiên là tình yêu và sự thánh thiện.
Thiên nhiên được Thiên Chúa ban cho ta nhưng nó không là của ta, vì thế ta phải yêu mến nó và sử dụng nó một cách lành thánh, kính cẩn.
Biến cố trong đời sống con người cấu tạo bởi thiên nhiên và tha nhân. Ngày xưa, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển, phần lớn do thiên nhiên, ngày nay phần lớn do con người. Nhưng dù do thiên nhiên hay do con người, biến cố cũng thường được coi như gây nên bởi một quyền lực vô danh và có tính một định mệnh. Vì thế thường người ta đón tiếp biến cố như một số kiếp, một may rủi.
May rủi thường chỉ là một cái cớ để chối từ trách nhiệm và che đậy lỗi lầm.
Người ta thường đổ cho số phận những may rủi của cuộc đời, nhưng Thiên Chúa đã trao đời sống vào tay ta và truyền ta phải làm chủ lấy nó. Số phận ta trước hết là của ta.
Thời tiết có thể gây bất trắc cho mùa màng, nhưng người nhà nông chuyên cần và tính toán thì thường vẫn thành công hơn.
Thiên tài thường chỉ là hiệu quả của cần cù, siêng năng.
Trong trật tự của thế giới chúng ta, thành công thường chỉ đi theo nỗ lực và kiên gan. Nhiều khi ta đánh mất thời giờ, hoang phí ân huệ Thiên Chúa ban vì nghĩ rằng mình có thể gian lận với sự kiện, chờ may rủi, chớp thời cơ... Với thực tại đời đời, chẳng bao giờ gian lận được. Còn với công việc đời này, chẳng chóng thì chày, gian lận sẽ đưa đến thất bại.
Phần lớn sự dữ mà nhân loại phải chịu là do lỗi lầm của họ, và nếu sự dữ không chấm dứt, đó cũng vẫn là do lỗi lầm của họ.
Nếu đau khổ và sự chết là do tội nguyên tổ, tội loài người mỗi ngày một thêm trầm trọng tới một mức độ kinh hồn.
Có người nói: người ta không chết, nhưng họ đã giết nhau; người ta không phải đau khổ, nhưng họ đã làm đau khổ lẫn cho nhau. Lời ấy không biết có đúng hay không, dẫu sao nếu người ta không giết lẫn nhau à làm đau khổ cho nhau thì bộ mặt trái đất sẽ biến đổi rất nhiều.
Hành động nối bản thân hôm qua của tôi với hôm nay và ngày mai. Nếu hôm qua tôi đã chiếm được sự khôn ngoan thì hôm nay tôi hành động khôn ngoan và ngày mai tôi sẽ hưởng kết quả của hành động ấy.
Cách tốt nhất để có số hên với mình là bao giờ cũng cố gắng hướng về hạnh phúc các biến cố xảy đến, sống hoà nhã với mọi người, có những thói quen tốt lành và vâng giữ các giới răn của Chúa.
Thường hên xui chỉ đến với người đã đón mời nó.
Thường xui xẻo đến lúc ta không ngờ, nhưng không phải là ta đã không gây ra nó.
******
Dầu sao, đời sống con người, ở mỗi cá nhân, không thể tránh khỏi một phần ngẫu nhiên; như có người bị tai nạn dồn dập, có người bị hậu quả quá nặng nề cho một lỗi nhỏ nhặt, có người cố gắng rất nhiều mà kết quả thật hẩm hiu... Đó là vì ở phạm vi luân lý, các biến cố chỉ có một lệ thuộc lỏng lẻo với những điều thuộc vật chất. Sự kiện này cộng với sự thiếu đức Tin và thiếu suy nghĩ sâu xa đưa ta đến than trách định mệnh.
Ngày xưa, người ta cúi đầu trước định mệnh của thiên nhiên; ngày nay, người ta cúi đầu trước định mệnh của lịch sử, của Mammon,... người Kitô hữu tin ở quan phòng yêu thương của Thiên Chúa.
Trong vũ trụ, có nguyên nhân tất yếu nhưng cũng có nguyên nhân bất tất; và cả hai đều bởi Thiên Chúa mà có và lệ thuộc vào Người. Vì có nguyên nhân bất tất nên có ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên cũng lệ thuộc vào Thiên Chúa và vào trật tự khôn ngoan mà lòng thương yêu của Người đã ấn định. Đời sống ta không bị Thiên Chúa quên lãng cả trong những giây phút tối tăm như bị xui xẻo dồn dập xảy đến. Theo trật tự thiên nhiên, có khi đó là điều phải xảy đến theo những định luật chính xác, nhưng theo trật tự siêu nhiên, đó là thử thách cần thiết để tôi luyện ta nên con người trọn lành.
Trong lúc phán đoán, nhiều khi ta chỉ thấy một trật tự phần mảnh, giai đoạn. Kinh nghiệm quá ngắn và quá hẹp của ta không cho phép ta nhìn thấy toàn thể định mệnh của ta. Toàn thể thực tại không phải chỉ có những vật hữu hình, mà còn có những vật vô hình, toàn thể đời sống không phải chỉ có đời này mà còn có đời sau. Chỉ phán đoán theo thực tại hữu hình hay đời sống trần gian sẽ không bao hàm được cả vấn đề.
Ta không thể phán đoán gì về một vở kịch nếu ta chưa xem đoạn kết, ta không biết giá trị một cuộc thí nghiệm khoa học nếu ta chưa biết kết quả, cũng vậy để phán xét về một đời người, ta phải đợi đến ngày phán xét chung.
Sách Khôn Ngoan nói về người lành: “Công việc của họ theo họ”. Có thể ở đời này, vì trớ trêu của tình cờ, vì ghen tương của kẻ dữ, công phúc của họ không ai biết đến, nhưng chúng như ở tình trạng phản kháng, đòi công bằng, chúng sẽ theo họ để đòi minh oan cho họ mãi mãi.
Nếu căn cứ vào đạo lý của ân sủng, mọi việc lành đều thêm sức sống siêu nhiên, mọi việc dữ đều di hại hay giết chết đời sống ấy, nên mỗi việc lành dữ đều có thưởng công hay hình phạt trực tiếp rồi.
Ở đời này, người lành kẻ dữ đã mang thiên đàng hay hoả ngục với mình rồi. Nhưng ở đời này, thiên đàng hoả ngục chưa vĩnh cửu vì người lành còn có thể sa ngã và kẻ dữ hối cải. Dẫu sao lành dữ đã phân biệt, và cây nào thì đã mang trái mình đáng có rồi.
Biến cố xảy đến không phải để thưởng kẻ lành hay phạt kẻ dữ, nhưng để rèn luyện con người. Chúng thử thách người lành, cảnh cáo người dữ, nâng đỡ người yếu đuối, giúp người tiến lên đi xa hơn nữa. Chúng tạo nên chiến trường để người ta lộ diện ai là anh hùng, ai là hèn nhát. Nói tóm lại, biến cố vừa là thử thách, vừa là khuyến khích, nhưng chưa phải là thưởng công.
Nếu biến cố đem lại vui mừng, đó chưa phải là hạnh phúc, nhưng đó là điềm báo, để ta kiên gan chiến đấu, không ngã lòng trong người nghịch cảnh và mong chờ ngày hạnh phúc thật.
Trong phạm vi đạo đức, dù ta không biết rõ ràng thì cũng cảm thấy lờ mờ rằng thời gian, hoàn cảnh, sự sống và sự chết không làm lay chuyển được công đức của ta. Nó sẽ theo ta nguyên vẹn vào đời sau.
Trong phạm vi đạo đức, hiệu quả bao giờ cũng đến chậm để con người có thể thi hành tự do trước sự lành và sự dữ; nhưng phạm vị này tuyệt đối vì trong nó sự vật và sự kiện đều trung thành với chính mình dưới con mắt của Đấng mà bản tính là trung thành và nếu cần sẽ trung thành thay cho mọi sự.
Các tính chất của muôn loài, kể cả tự do, đều là một thánh ý của Thiên Chúa trong tạo vật, vì thế cuối cùng thánh ý Người thế nào cũng hoàn thành. Tất cả các vật hiện hữu đều vận chuyển t Thiên Chúa như trong một vô biên thênh thang không có gì cản trở hành động, nhưng vẫn bao bọc bởi lòng nhân từ và sự khôn ngoan của Người.
Ở tự mình, loài thụ tạo có thể sa ngã như vật nặng bao giờ cũng có thể rơi. Nhưng trong trật tự chung của muôn loài, không phải chỉ có loài thụ tạo, mà còn có Thiên Chúa, Người hoàn tất trật tự nơi còn hỗn độn, Người sửa lại nơi còn sai lỗi, Người làm vững chắc nơi đã trung thành. Người là chủ hoàn toàn độc lập, không hề thay đổi, hiện diện trước mọi loài, khi Người thẩm định lời cuối cùng về công cuộc của mình thì Người không thể sai lầm được.
Nếu tôi phán đoán định mệnh ở toàn diện của nó, không coi đời này như tất cả, nhưng như một phần, không coi sự chết như cùng tận, nhưng như một biến cố giữa các biến cố. Lúc ấy tôi sẽ thấy rằng biến cố là tôi trung thật là nghiêm túc của trật tự đạo đức, bao giờ nó cũng nâng đỡ sự lành, ngăn chặn sự dữ, chẳng có gì làm nó lỗi nhịp. Cả sự hỗn độn bên ngoài của nó cũng vẫn là một hoà điệu kỳ diệu. Nói tóm lại biến cố là hành động của Thiên Chúa nơi loài người để cảnh tỉnh, nâng đỡ, hướng dẫn, khuyến khích họ.
Chẳng có gì, kể cả hiệu quả của xui xẻo, lại có thể đến bởi vận xui, vì chẳng có gì đến trái với ta mà không bởi ta. Thật vậy, chẳng có vật này trái với vật kia, vì mọi vật đều do Thiên Chúa sáng tạo, Người không thể phản trái với chính mình.
Thiên Chúa ở trong con người và vũ trụ, Người trách nhiệm về con người và vũ trụ, Người có thể phản trái ở con người và vũ trụ được không? Vì thế, nếu ta hợp lực với Người thì sẽ không có gì thắng nổi định mệnh của ta. Trái lại, nếu ta hành động trái với Người, công việc của ta sẽ trở nên vô ích hay tai hại, vì không những ta làm trái với thánh ý Thiên Chúa mà còn cưỡng bức thiên nhiên.
Khi người ta phạm tội, họ đợi chờ một sự lành trực tiếp, ở đời này, nhưng sự lành ấy làm xáo trộn trật tự đạo đức và làm đình trệ hoặc làm biến mất những sự lành của trật tự này mà quan phòng của Thiên Chúa đã dành cho họ. Họ định dành lấy hạnh phúc ở một tổ chức đem lại hạnh phúc thật đấy, nhưng tổ chức này chỉ đem lại hạnh phúc theo một trật tự ngoài nó hiệu quả sẽ rất tai hại.
“Chẳng có gì có thể làm hại được tôi, tôi mang trong mình sự sai trái mà tôi tạo nên, và tôi chỉ đau đớn thực sự vì lỗi lầm của tôi mà thôi” (Thánh Bernado).
Khi ta hướng về Thiên Chúa như kim nam châm hướng về phương bắc thì ta sẽ hoà hợp với mọi quyền lực trong thế gian và các quyền lực ấy sẽ chỉ hành động để làm cho ta tiến tới kiện toàn, dù bằng cách này hay cách khác.
Các biến cố của trần gian làm nên một bản kịch do Thiên Chúa xếp đặt mà bố cục đã được tiên định là hạnh phúc của ta.
“Hỡi người ít lòng tin, người rối lòng về điều gì?”. Nếu một con chim sẻ không ngã từ mái nhà xuống khi không có phép của Cha trên trời chẳng lẽ khi ta phải khốn khó, lại không do thánh ý Người sao? Nhưng thánh ý Người là gì ngoài sự công bình và thương yêu?
Không phải những biến cố làm ta vui thoả giúp ta đắc lực hơn hết. Người tôi tớ nịnh bợ thường làm hại chủ mình hơn là làm ích.
Trong đời người, nhiều khi một hoạn nạn, một cơn bệnh, một thất bại, một giáng chức lại là lý do để ta đổi mới cuộc đời.
Định mệnh của ta chỉ có thể thực hiện với các yếu tố Thiên Chúa đã quan phòng cho ta, chứ không phải với các yếu tố mà Người không ban.
Hoàn cảnh không là gì, chỉ có con người mới là trọng. Thiên Chúa đã tạo nên hoàn cảnh cho con n giữa chứ không phải con người cho hoàn cảnh hay hoàn cảnh độc lập với con người.
“Người dữ làm một công việc giả dối, nhưng người gieo sự công chính chắc sẽ được trả công” (Prov. 11,18).
Vì phạm vi đạo đức là chính yếu, nên khi sự dữ đổi ra sự lành, hay trái lại thì các biến cố liên hệ cũng chịu một biến đổi như vậy. Sự kiện ở vật chất không thay đổi, nhưng ở phẩm chất và ý nghĩa không còn như xưa nữa. Sau khi thánh Augustinô trở lại, những yếu đuối, lầm lỡ quá khứ đã trở nên những yếu tố kích thích người kính mến và tạ ơn Thiên Chúa một cách nồng nàn hơn. Sự kiện vẫn là một, nhưng hiệu quả đã biến đổi, trước nó làm cho thánh nhân xa lìa Thiên Chúa, nay nó làm cho ông kết hợp mật thiết hơn với Người.
Khi tôi trở lại, Thiên Chúa lại cho luân chuyển đến tôi cái mạch sống của vũ trụ, tôi lại được cả tạo vật phục vụ, thật đúng như lời Chúa hứa: “Mọi sự đều là của người được chọn”.
“Cho những người kính mến Thiên Chúa, mọi sự đều quy về sự lành, kể cả tội lỗi”. Lòi này yên ủi biết bao cho người đã ăn năn thống hối”.
Các biến cố chỉ có để đưa ta đến Thiên Chúa. Nếu chúng tốt thì Thiên Chúa chúc phúc, nếu chúng xấu thì Thiên Chúa biến đổi. Chỉ cần ta có thiện chí.
Phán đoán về người khác thường chỉ căn cứ vào việc họ làm có lợi hay có hại cho ta mà thôi. Phán đoán hằng ngày của ta thường dựa trên tình cảm: người sung sướng lạc quan dễ có cái nhìn màu hồng về tha nhân, người đau khổ bi quan dễ đổ cay đắng của mình trên kẻ khác.
Người rủi ro đổ lỗi về sự rủi ro của mình trên kẻ khác, và khi không đổ được cho ai, thì đổ cho số mệnh, cho Thiên Chúa. Ít ai nghĩ đến xét mình.
Ai càng thân tín với ta, thì sự thù địch của họ càng làm cho ta cay đắng.
Người ta hỏi một trẻ em đang ăn trái táo: “Ai cho em trái táo này?”. Trẻ em đáp: “Không ai cả, gió thổi đến đây”. Và người ta thêm: “Nếu không ai cả, thì đó là Thiên Chúa”. Thiết tưởng thêm như vậy cũng vẫn chưa đủ nghĩa vì khi có một người cho, thì cũng vẫn còn là Thiên Chúa. Nhưng cách suy tưởng thông thường của người ta là như vậy. Khi đã có một ai cho, thì chính là kẻ ấy, người ta không nghĩ xa hơn nữa.
Người ta thường nói: thiên nhiên là bình phòng trước Thiên Chúa; nhưng con người còn là bình phong dày đặc hơn nữa.
Nghĩ rằng hành động của tha nhân có lợi hay có hai cho tôi chỉ bởi tha nhân chứ không liên hệ gì đến Thiên Chúa là sai. Thiên Chúa dùng các cá nhân cũng như các biến cố và sự vật để đưa con cái Người đến ơn cứu độ.
Tất cả mọi việc xảy đến cho tôi, dù từ đâu mà đến, chẳng bao giờ trực tiếp đến với tôi, không qua trung gian của Thiên Chúa. Thiên Chúa hướng theo lối của Người những gì ở phạm vi loài người là doạ nạt hay áp bức cho tôi. Không có gì đi ra ngoài chương trình nhân lành của Người được.
Tất cả những gì thuộc loài thụ tạo đều hoạt động trong tương đối và chóng qua, tuyệt đối và vĩnh viễn vượt khỏi tầm tay của chúng, nên sau cùng chỉ có Thiên Chúa và những kẻ về phe Người toàn thắng.
Rút cuộc thì mọi sự đều giải quyết giữa ta và Thiên Chúa. Định mệnh của mỗi người cũng chỉ giải quyết tuỳ ở thái độ của linh hồn mình có quy phục luật lệ hằng sống và có hướng về mục đích tối hậu hay không.
Ở trần gian này, chẳng có người nào cứu được hay làm hư đi linh hồn tôi nếu tôi không cộng tác với hắn.
Xin đừng nói đến kẻ thù, vì tôi không có. Bao lâu tôi còn là bạn của đời tôi, khi nó vẫn còn nguyên vẹn, trật tự của Thiên Chúa phân ra giữa tôi và sự dữ những quãng cách không gì vượt được, nên tôi ở ngoài tầm tay của tạo vật.
Nhìn tình hình ở chiều sâu nói trên, mọi tâm tình, mọi phán xét, mọi hành động của người có ảnh hưởng vào số phận tôi đều trở nên vô ích. Không những vô ích mà còn nguy hại cho người ấy nữa, vì theo khôn ngoan Phúc Âm: “Đừng phán xét để khỏi phải phán xét, đừng kết án để khỏi phải kết án” (Lc 6,37).
“Khi phán đoán kẻ khác, người ta mệt nhọc luống công, vì thường thì họ sai lầm và mắc nhiều lỗi phạm” (Gương Phúc 1,14).
Không phán đoán kẻ khác không có nghĩa là không suy nghĩ về hạnh kiểm của mình để ăn ở cho khôn ngoan.
Người khôn ngoan lo cho hoàn cảnh của mình và để người khác lo cho hoàn cảnh của họ. Người khôn ngoan kiểm điểm bản thân mình và để người khác kiểm điểm bản thân họ. Họ biết rằng uy quyền tối hậu ở phạm vi luân lý quy tụ vào một mình Thiên Chúa mà thôi.
Ai báo thù, chứng tỏ mình đã thua sự dữ, càng đi sâu vào báo thù, họ càng nô lệ cho sự dữ hơn.
Phán xét người ta cũng là một cách báo thù, nên cũng là điều xấu. Phán xét không nền tảng là một điều bất công, phán xét có nền tảng là một lạm quyền, và vì thế cũng là một điều bất công. Ở cả hai trường hợp, đều là thiếu khôn ngoan.
******
Người luôn phán đoán xấu về người ta, hay luôn bực tức về việc làm của họ sẽ nhanh chóng đi đến khinh bỉ mọi người và thốt ra những nhận định chua chát. Họ không phán đoán theo như Thiên Chúa nhưng theo tự ái cá nhân. Họ thiếu khách quan.
Trong ý nghĩ về tha nhân, khách quan chưa đủ, còn phải có thiện cảm nữa, vì ta đều là con cái Thiên Chúa và anh em với nhau.
Lịch sử cho thấy bất cứ ai cũng có thể sa ngã thảm thương và vươn lên kỳ diệu, vì thế, về vấn đề lành dữ, người ta sẽ không tin là một người làm được nếu không thấy tận mắt, cũng như, khi đã thấy tận mắt, người ta vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Nhưng điều quan trọng là luôn giữ được niềm tin ở hiện tượng vừa kỳ diệu, vừa đầy kinh ngạc là con người này.
Thánh nhân không biết khinh khi, vì đối với ông, mọi thực tại ở tự nó đều đáng quý, nhất là con người, là thực tại cao quý nhất. Cả những túng cực của họ cũng vẫn phô bày những đặc tính mà trí tuệ phải ngỡ ngàng. Các tác phẩm lớn của nhân loại như anh hùng ca Ấn Độ, thơ ca của Homère, bi kịch người Hy Lạp, tác phẩm của nhóm Khắc Kỷ, hài kịch về con người của Dantes, kịch của Shakespeare, Corneille, Racine... nhìn con người ở nhiều khía cạnh, và có những tư tưởng khác nhau; nhưng không bao giò nhạo báng và khinh khi, mà luôn luôn nhận định nghiêm chỉnh và mến thương về con người.
Kinh Thánh là một cuốn sách luân lý tả rất chân xác và một bình luận rất gay gắt về con người, nhưng chẳng bao giờ khinh khi và mất niềm tin ở họ. Tự hỏi về họ: Khi tôi nhìn trời là kỳ công của Người, mặt trăng và các tinh tú mà Người đã tạo nên, thì tôi kêu lên: “con người là gì để đáng Chúa nhớ đến, con người là gì để đáng Chúa chăm nom?”. Kinh Thánh lại tự trả lời: “Chúa đã dựng nên họ chỉ kém Thiên Thần một chút, Chúa đã ban cho họ vinh hiển và dang vọng, Chúa đã ban cho họ được quyền cai quản trên tác phẩm do tay Chúa làm nên”. Như vậy, không phải bầu trời bao la, trăng sao bát ngát được dựng nên vì chúng, nhưng vì con người và để con người quản trị.
Chúa Kitô đã quý yêu loài người đến bỏ trời xuống thế làm người để cứu chuộc họ. Người còn rao giảng một đạo lý mà giới răn kính mến Thiên Chúa và thương yêu loài người vẫn chỉ là một.
Vì có nết xấu, người ta mới chán ghét nết xấu ở người khác; vì có lòng kiêu căng, người ta mới không chịu nổi tính kiêu căng ở người khác. Phán đoán cay nghiệt của ta thường là phản ứng của những nết xấu của ta bị tổn thương vì đụng đầu với nết xấu của người khác.
Thói quen làm cho ta trở nên vô tình không còn nhìn nhận ra sự cao đẹp của tạo vật nữa: trước hừng đông huy hoàng, nhiều người vẫn lơ đễn ngáp dài. Thói quen trước những kỳ diệu của con người cũng làm nhụt nhận xét của ta và ta chỉ phán đoán về họ ở những tính tình nông cạn và sự kiện nhỏ nhen mà bỏ qua những gì thiết yếu, bền vững và vĩnh cửu.
Trước đám đông, một người luân lý tầm thường mà lại có đôi chút văn hoá không khỏi nhìn một cách kiêu căng như một đám người chất phác. Cái nhìn ấy trái hẳn cái nhìn của Chúa Kitô. Khi Người ra rao giảng và dân chúng đến với Người, Người nói về tám mối phúc thật. Đàm đông nghèo nàn, đói khát, bệnh tật, gồm những người được Cha Người sủng ái; họ là anh em với Người, có định mệnh chung hưởng đời sống thần linh của Người và vì họ Người sẽ hy sinh mạng sống mình.
Giữa lúc người Pharisêu nghĩ Mađalêna là người tội lỗi, thì trong thâm tâm người kỹ nữ, đã có một cải đổi huyền diệu làm cô trở nên đẹp lòng Thiên Chúa hơn người Pharisêu. Trong giây lát, tình yêu có thể xoá hết lỗi lầm.
Trong mọi người, đều tàng ẩn những khả thể to lớn, trong mọi người đều ngời lên những mục đích cao cả và trong mọi người nếu không có những chiến thắng luân lý thì ít ra cũng còn hy vọng cải đổi.
Đứng trước người tội lỗi, ta phải giúp đỡ bằng tình yêu và việc lành để họ đổi mới chứ không được có trong trí khôn một bản án vì định mệnh của họ vẫn còn mở rộng trong tương lai.
Một người chỉ đáng giá tuỳ ở những con đường họ có thể theo. Ơn gọi và khả năng theo đuổi ơn gọi ấy đã in trên trán họ một vinh dự không gì xoá tẩy được.
Thay vì bực gội vì những sự yếu hèn của loài người, ta phải ngắm nhìn sự nhẫn nại đợi chờ của Thiên Chúa. Người vĩnh cửu nên không vội vàng, và Người chờ thời gian thuận tiện và hoàn cảnh đổi mới để biến đổi lòng người.
Dù người ta có ra hư hốt, trong đáy lòng, vẫn có những giây phút họ cảm thấy yêu thương trong sạch là đáng quý đáng yêu.
Người này hôm qua còn hư hỏng, hôm nay đã ý thức trách nhiệm và sống cần mẫn chỉ vì hắn đã có con. Một biến cố nhiều lúc rất thông thường có thể biến đổi cả cuộc đời.
Thiên Chúa không báo cho ta biết trước ý định của Người, Người có những con đường bí ẩn để đưa mỗi người đến định mệnh của họ, và người mà ta khinh bỉ có thể là đối tượng sự tuyển chọn cho một công trình đặc biệt của ân sủng.
Mỗi linh hồn đều có tàng ẩn một sự phong phú ban từ Ngôi Hai làm người, từ Ngôi Cha sáng tạo đời đời và Ngôi Thánh Thần sẵn sàng đổi mới thế gian, vì phần rỗi của mỗi linh hồn đều được coi như cứu cánh của cuộc sáng tạo và cuộc cứu chuộc.
Mọi con người đều là người, mọi Kitô hữu đều thuộc nhiệm thể Chúa Kitô. Từ chối thân thiện với một người là từ chối thân thiện với loài người và từ chối thân thiện với một Kitô hữu là từ chối thân thiện với nhiệm thể Chúa Kitô.
Người lành nghĩ mình là tro bụi trước mặt Chúa, nên họ dễ đón nhận lời khuyên của Người là tôn trọng mọi người và không đoán xét kẻ khác.
Sự trọng kính kẻ khác mở rộng tâm hồn ta, đó là cư xử giống Thiên Chúa. Trái lại, sự khinh chê bao giờ cũng hạ thấp con người vì nó là kết quả của ích kỷ khô héo.
Đấng sáng tạo không đòi ta phải làm gì cho Người. Điều Người muốn là ta tồn tại, tiến triển và đạt đến mục đích tự nhiên và siêu nhiên Người đã ấn định cho ta. Làm như vậy, ta sẽ đạt được hạnh phúc cho ta và sẽ cộng tác vào hạnh phúc chung của cả nhân loại.
Ta là gì làm sao thật tình ta không biết? Điều Chúa muốn ở ta là phải hoạt động thế nào cho phù hợp với bản chất của mình.
Mọi cá thể đều phải làm theo đòi hỏi của giống nòi của mình trong lúc thích nghi với hoàn cảnh trong đó mình sống. Cá thể là sự nhập thể của giống nòi mình. Giống nòi chỉ tồn tại nhờ các cá thể và chỉ tiến triển tuỳ ở sự tiến triển của mỗi cá thể. Do đó nhân loại hưng vong là tuỳ ở sự hưng vong của các cá nhân. Không có một nhân loại trừu tượng, chỉ có tổng hợp các nhà nhân trong thời gian và không gian.
Biết nhìn thấy cái gì chính yếu giữa những điều phụ thuộc, cứu cánh thực sự, giữa những mục tiêu phần mảnh, đó là điều ta phải cố gắng làm trong đời sống. Nhưng ngay từ đầu, ta đã biết những điều ấy, vì ai lại không biết tự bên trong mình là gì, mình phải làm gì và mình phải trở nên gì?
Mọi người đều yêu bản thân ở những điều nó có và ở những điều nó còn thiếu, ở thực tại và lý tưởng của nó. Và vì lý tưởng có các định luật cho đời sống, nên người ấy yêu các định luật này vì muốn kiện toàn bản thân. Đó là lý do tại sao ta quả quyết có một luật lệ tự nhiên in trong lòng ta.
Muốn mà không có các điều kiện để đạt đến ý muốn là điên rồ. Bản tính con người không điên rồ, những điều nó muốn thì nó có thể hoàn thành, miễn là ta không cản trở.
Ai không muốn biết và để biết thì phải tìm các phương thế để biết? Ai không muốn có sức khoẻ, thi thố khả năng, có liên lạc tình cảm, có gia đình, xã hội, tôn giáo... và để đạt đến các mục tiêu ấy, thì phải có phương thế. Các phương thế đáp lại các nhu cầu ấy tạo nên ở ta những nhân đức. Thánh Tôma nói về các nhân đức: “chúng hoàn bị con người ta vì thoả mãn đúng (debito modo) các xu hướng tự nhiên của ta”.
******
Thiên Chúa xuống thế làm người đã biến đổi trái đất và con người. Nhờ có trật tự siêu nhiên Người đem đến, các tư tưởng, ước muốn và hoạt động của con người có một cái gì gần gũi hơn với Thiên Chúa.
Ơn thánh sủng biến ta nên con người mới mà quy luật đời sống là Chúa Thánh Thần. Như thánh Phaolô đã viết: “Anh em là chữ viết của Chúa Kitô, không phải viết bằng mực nhưng bởi Thánh Thần của Thiên Chúa hằng sống”.
Luật của Chúa Kitô không phải chỉ được giảng dạy trong Giáo Hội, mà còn được Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người chúng ta nhờ ơn soi sáng và thúc giục của Người. Chúa Thánh Thần không phải chỉ là ánh sáng lạnh lùng, không hiệu lực, Người vừa làm cho ta nhìn thấy đường phải đi, vừa khuyến khích ta đi vào con đường ấy.
Con người có nhân đức tự nhiên, nhưng cũng có nhân đức thiên phú và ơn của Chúa Thánh Thần: đó là nguồn gốc mọi ý nghĩa lành thánh và mọi hoạt động công phúc.
Ý muốn không làm nên anh hùng, người anh hùng sử dụng ý muốn một cách tự do theo quy luật của đời sống anh hùng. Ý muốn cũng không làm nên thánh nhân, người thánh sử dụng ý muốn một cách tự do theo thánh ý Thiên Chúa về đời sống của mình.
Sự thánh thiện là một lề luật vì là chân lý cho đời sống. Chính vì thế mà thánh Tôma đã gọi Chúa Kitô, Đấng thánh trên mọi người thánh, là “một thứ lề luật và một thứ công chính sống động” (Ip. Q.59, art.2. ad. 1m).
Chúa Thánh Thần nói và hành động trong Chúa Kitô à các thánh cho chân lý và sự lành cũng ngự trong lòng mọi người tín hữu. Nếu Người không có hiệu năng đầy đủ trong lòng ta, đó là vì linh hồn ta quá nặng nề không đón nhận được tất cả ơn huệ Người ban. Dẫu sao mọi người đều được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong đời sống luân lý hằng ngày và đôi khi nhận được những tia sáng kỳ diệu chứng tỏ Người hiện diện thật sự trong lòng họ.
Vũ trụ tiến về Thiên Chúa, các tạo vật vô tri vâng theo đặc tính (propriétés) của mình, các động vật thích ứng với bản năng của mình, loài người hành động theo lẽ phải à người tín hữu theo đức tin của mình.
Khi tôi đã nhận biết và quý mến sự lành thì tôi hướng về nó. Tiếng gọi bên trong làm cho tôi có cảm tưởng rằng Thiên Chúa trực tiếp hiện diện ở nội tâm tôi bởi chính Người và bởi Thần Khí Người. Khi tôi giũ bỏ được các ngăn cách giả tạo và những thực tại vô ích mà đạt đến bản thân tôi, thì tức khắc tôi thấy Thiên Chúa xuất hiện. Tôi cảm thấy liên kết với Người không những trong tinh thần mà còn cả trong bản thể của tôi nữa.
Tiếng nội tâm là chính tư tưởng Người, xu hướng nội tâm là chính thánh ý Người, tôi được bao bọc trong quyền năng của Đấng khởi sự và hoàn thành, ban phát và hứa hẹn, trồng cấy và gặt hái. Thiên Chúa gọi và khích lệ tôi, Thiên Chúa lôi cuốn và đợi chờ tôi. Tôi chỉ có và tồn tại bởi Người và trong Người.
Hành động trung thành với chính mình, tuân theo lề luật của đời sống, đó là cách tốt nhất để hoà hợp với mọi sự.
Định luật của vũ trụ và lề luật của Thiên Chúa hợp lại trong lòng ta để tạo nên lề luật cho đời sống ta. Lắng nghe vụ trụ và Thiên Chúa, hồi tâm lại, chinh phục bản thân theo lề luật đời sống ta, đó là cách bảo đảm nhất để đạt đến định mệnh của mình.
Bao giờ Thiên Chúa cũng đạt đến mục đích, những con đường Người vạch ra, những năng lực Người sử dụng không bao giờ sai lạc, lãng phí. Vì thế, là người, ta phải trung thành với bản thân, chấp nhận là tạo vật mà Thiên Chúa đã ban hình thái, đã định quy chế và sẽ ban, khi thời giờ đến, một kết thúc.
Xây dựng và đào tạo bản thân chính là trở lại với chính mình. Ta không ban cho ta được chính mình, ta chỉ có thể phục vụ nó mà thôi.
Ta chỉ lỗi phạm đến Thiên Chúa, đến người ta và đến sự vật khi ta lỗi phạm đến cái gì sâu xa nhất của bản thân.
“Hãy suy nghĩ và tỏ ra là những con người; hỡi người sai lỗi, hãy trở về bản thân và quy lại với lòng mình” (Is XLVI,8).
Tiếng nói của bản thân và tiếng nói của lương tri là như âm thanh và tiếng vọng.
******
Bản tính ta diễn tả và xác định trong ta ý muốn của Thiên Chúa, biết điều ấy để rồi tuân theo là sống đời ta. Nhưng sau khi loài người sa ngã, những sự phong phú bên trong thường ngủ yên, có một bản ngã phù du che lấp bản ngã thực thụ. Phải gạt bỏ bản ngã phù du để đạt đến bản tính chân thật và những hoài bão thực thụ của ta.
Thường ta ương lười, ngại sống đầy đủ, và bằng lòng với đời sống hời hợt. Chính vì thế mà ta không thích nhìn rõ vào bản thân và đặt hy vọng và giải trí. Điều ta linh ứng ở thâm tâm ta có một đòi hỏi vô cùng làm ta e sợ và không dám tiến xa hơn nữa.
Như đứa trẻ biếng nhác đọc ê a bài học mà không tìm hiểu ý nghĩa, ta lướt qua đời sống mà không nhận thấy sự thật sâu xa của nó. Ta trốn lánh bản thân để dễ trốn lánh Thiên Chúa.
“Tôi hớn hở đồng ý với luật của Thiên Chúa theo con người bên trong, nhưng tôi thấy một luật khác nơi chi thể mình tôi cự lại luật của lương tri tôi, và giam tù tôi trong luật sự tội ẩn nơi chi thể mình tôi” (Rom 7,22-23).
Con người là một con vật có trí khôn, nghĩa là một động vật có ánh sáng tinh thần le lói giữa những bộ phận thể xác. Họ bị chi phối bởi những động lực tất định mạnh mẽ, những xu hướng di truyền và ngẫu nhiên ghê sợ, nhưng tinh thần vẫn làm chủ và chỉ thua khi nó trở nên đồng lã.
Tinh thần chỉ thua vì lỗi mình. Chúa Thánh Thần chỉ không thành công vì sự phản bội của tinh thần. Con người có khả năng gây thất bại vì họ có quyền từ chối chiến thắng.
Thân thể muốn bay lên thì phải thắng trọng lượng, phải nhờ vào máy bay. Linh hồn muốn bay lên thì phải nhờ vào một sức mạnh đẩy lên vô tận không có gì chống lại được là Chúa Thánh Thần và các nhân đức Người làm nảy sinh trong lòng ta.
Bản năng siêu nhiên của các nhân đức và ơn Chúa Thánh Thần là một hướng lộ tinh thần vững vàng hơn suy luật của lý trí ta nhiều. Ta như nên một với Thiên Chúa ở bản năng của nhiên tính thực thụ của ta và ta cảm thấy như thánh Phaolô: “Không còn phải là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tôi có thể tư tưởng đúng và tiến bước ngay thẳng, dù các nguyên nhân sai lạc có nhiều đến đâu đi chăng nữa, miễn là lúc nào tôi cũng trung thành với tư tưởng của tôi, khi tư tưởng ấy cảm thông với tư tưởng của Thiên Chúa.
Lương tri là sứ ngôn của hạnh phúc, là chứng thực của ơn gọi. Sống hoà hợp với lương tri là sống trung thành với Thiên Chúa và ý định của Người về ta.
Đời người không bắt đầu bằng tự do, nhưng bằng bó buộc. Ta không được lựa chọn có sinh ra hay không, sinh ra bởi cha mẹ nào, quốc gia nào, chủng tộc nào, nam nay nữ...
Trẻ nhỏ là một mớ cảm giác và xu hướng điều khiển bởi những quy luật tất định của giống nòi.
Thèm khát tạo nên ta; sự thèm khát của cha mẹ ta đã đưa ta từ khả thể đến hiện hữu. Và sau khi đã sinh ra ta vì thèm khát, các ngài lại lưu lại cho ta sự thèm khát. Thèm khát là như bản thể của ta vì đời sống ta chỉ linh động vì thèm khát.
Ở đâu không còn thèm khát, nghĩa là không còn hướng về gì, không còn tìm kiếm gì, thì sống cũng như chết. Sự thèm khát là nguyên lý để tồn tại, hoạt động và tiến bộ.
Vật nào cũng có xu hướng riêng của mình: nước mát mẻ, lửa thiêu đốt, chiên cừu hiền lành, hùm beo dữ tợn, loài người lại còn có nhiều xu hướng hơn, vì thê mà họ cũng có nhiều nhu cầu hơn.
Thèm khát là dấu ta chưa hoàn hảo, nhưng cũng là dấu ta có khả năng chiếm được những gì ta còn thiếu.
Ta chưa có điều ta theo đuổi, nhưng điều ta tự nhiên theo đuổi chứng tỏ ta có thể chiếm hữu và sử dụng chúng. Chúng xác định ta là gì trước khi kiện toàn ta.
Thèm khát bảo tồn, hoạt động, biến đổi, làm cho tiến triển thế gian. Nó giống như tình yêu Thiên Chúa đối với chính mình, và nó nối tiếp tình yêu Thiên Chúa ban phát sự lành ra ngoài nhờ sáng tạo.
Sự thèm khát trong thiên nhiên là một diễn tả bất toàn của tình yêu Thiên Chúa, nó có tính thiết yếu vì nó đến từ Đấng mọi loài phải vâng phục, và vì nó đi về cùng đích không gì có thể tránh được.
Vật bất toàn hướng về vật vẹn toàn; sự lành gây thèm khát; người ta thích có sự lành, cố níu lấy nó, và kiện toàn bản thân nhờ ở nó.
******
Không có tự do tuyệt đối vì ý chí nơi con người cũng được xác định trong hoạt động của mình.
Ý chí có một xu hướng tự nhiên nền tảng không những tự do không có thể lay chuyển nổi mà còn là nguồn gốc của tự do nữa: đó là sự lành ở ý nghĩa phổ quát của nó hay sự đáng thèm khát. Người ta không có thể muốn điều mình không thèm khát cũng như người ta không nhìn thấy vật không có hình thể.
Để muốn, phải có hai động lực, lý do để muốn và đối tượng để lựa chọn cho ý muốn. Ý chí chỉ có thể thi hành khi có nhiều vật có lý do để muốn, và ý chí sẽ chọn vật mình yêu quý hơn hết. Khi ý chí có thể chọn vật mình yêu quý hơn hết thì có tự do.
Ai cũng muốn sự lành, nếu kết quả là sự dữ thì đó là một tai nạn người ta phải chịu cứu người ta không muốn. Ý muốn bao giờ cũng hướng về sự lành.
Có những trường hợp xem ra ta từ bỏ ý muốn vật ta yêu quý nhất, nhưng đó là lúc ta cảm thấy mãnh liệt hơn bao giờ hết sự lôi cuốn của vật nói trên. Phải yêu sự sống một cách điên rồ mới dám tự tử.
Động lực của mọi ý muốn nơi con người, là hạnh phúc, nghĩa là sự hoàn thiện, chung độ của đời sống. Người ta hướng về hạnh phúc một cách tự nhiên, không gò bó, như trí tuệ chấp nhận một sự thật hiển nhiên không thấy mình bị bó buộc vậy.
Chỉ có cưỡng ép khi áp lực đến từ ngoài ta, tự nhiên không bao giờ cưỡng ép vì nó ở trong ta, mà lại còn là ta nữa.
******
Nếu ta tự nhiên thèm khát hạnh phúc thì ta cũng tự nhiên thèm khát nguyên nhân và đối tượng của hạnh phúc.
Ta thèm khát đối tượng của hạnh phúc hơn là hạnh phúc vì hạnh phúc mới chỉ là một ý niệm trừu tượng, còn đối tượng mới là thực tại cụ thể.
Làm thế nào ta có được hạnh phúc hay tình trạng trong đó ta được hưởng mọi sự lành? Khi ta được tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự lành.
Tham dự không phải là một hiểu biết lạnh lùng về một thực tại trừu tượng, nhưng là gắn bó, kết hiệp với Đấng mà đặc tính là thoả mãn mọi thèm khát, đáp lại mọi kêu gọi và kết thúc mọi tìm tòi.
Gặp gỡ với Thiên Chúa là gặp gỡ nguồn gốc của ta, gặp gỡ Đấng thích hợp với ta mọi đàng, vì thế, gặp Người, mọi thèm khát đều tiêu tan, mọi ước vọng đều thoả mãn, ta tan biến trong Người mà không thấy mất mát, ta ngụp lặn trong Người mà vẫn hoàn toàn tự chủ.
Ở người có ơn thánh sủng, ý chí hướng về Thiên Chúa. Người trực tiếp thu hút ý chí cũng như mục đích thu hút ta vậy. Vì thế, ý chí của người tín hữu có hai động lực cùng thâm sâu trong lòng mình, và cùng mạnh mẽ đưa đẩy họ, đó là Thiên Chúa soi sáng nâng đỡ và Thiên Chúa như là mục đích đời ta.
******
Tự do, xuất phát từ tất yếu, lại đi về tất yếu. Thật vậy, nó có là để hướng về sự lành trọn hảo, và nếu nó trung thành với đường hướng ấy, thì nó thật là độc lập, không lệ thuộc vào một vật nào khác, vì ngoài sự lành trọn hảo, thì mọi sự đều tương đối, không đáng lưu tâm.
Chỉ có sự lành trọn hảo mới đáp lại đầy đủ ước vọng của ta, còn các sự lành khác không làm sao đem lại cho tâm hồn ta được sự no đầy, vì thế mà sự thèm khát triền miên của con người là nền tảng cho định mệnh của họ, vì định mệnh ấy là phải “nên trọn lành như Cha ở trên trời”.
Mọi vật đều hướng về sự lành cho mình, khoáng chất theo một xu hướng mù quáng, loài động vật biết và đi về sự lành nó thèm khát, nhưng không biết đó là sự lành vì nó không biết thế nào là mục đích, phương tiện và lý tưởng: nó mù quáng vâng theo bản năng. Trái lại, con người cũng có bản năng, nhưng còn có ý thức thẩm định về bản năng. Do đó, tuy con người có các xu hướng nhưng không máy móc theo một xu hướng nào ngoài xu hướng nền tảng về sự lành hoàn hảo.
Thiên nhiên có những định luật của nó, thể xác có những nhu cầu của nó, nhưng linh hồn vượt trên thiên nhiên và thể xác và có cho riêng mình trật tự luân lý. Nó phải hành động làm sao cho phù hợp với đòi hỏi luân lý của mình trong lúc thích ứng với xu hướng của thiên nhiên và thể xác của mình.
Từ khi loài người phạm tội, tự do không còn sáng suốt, nó vẫn hướng về sự lành trọn hảo, nhưng nó có thể sai lầm, thấy vật sáng đã cho là sự sáng, thật vật quý đã cho là sự giàu có, thấy sung sướng đã cho là hạnh phúc.
Cả khi tôi ảo tưởng, tôi cũng vẫn là chủ bản thân tôi, không có hoàn cảnh nào lôi cuốn được tôi trừ hoàn cảnh tôi tự tạo cho tôi. Như khi tôi coi một sự lành không xứng đáng với con người làm mục đích cho hoạt động của tôi, tôi đã tự tạo cho nó một nét quyến rũ để nó lừa dối tôi. “Tôi hăm hở chạy theo sự tôi không muốn” (Augustin).
Trong trường hợp mù quáng tội lỗi này, tôi vẫn biết rằng: “Được cả vũ trụ mà mất linh hồn thì có ích gì”, nhưng phán đoán của sự khôn ngoan trong tôi không còn hiệu nghiệm nữa, tôi cố ý ngoảnh mặt đi, một cách đau đớn khi tôi mới bước vào con đường tội lỗi, và một cách thản nhiên khi tôi đã cứng lòng. Tôi nhờ vào đam mê, dục vọng để tạo nên một múc đích như nghĩ rằng phải hưởng thụ, phải từng trải đời sống... tôi níu lấy những lý do này trong lúc lý do trên vẫn không phai nhạt trong tôi và tôi vẫn phải công nhận. Tôi nhắm mắt bước vào tội lỗi, tôi tự buộc vào cổ tôi hòn đá làm cho tôi đắm chìm.
Khi tôi đã tự do lựa chọn một điều làm hạnh phúc cho tôi, thì tôi theo đuổi nó, thiết yếu phải như thế vì đó là quy luật của mọi hành động có đầy đủ các điều kiện của mình. Tôi thấy trong tôi có một chi phối chặt chẽ giữa các động lực, tôi chỉ có tự do khơi động chúng, sau đó chúng không lệ thuộc ở tôi nữa và vâng theo những quy luật tất định của chúng.
Sau khi tôi đã tự do lựa chọn, các động lực trong tôi thay đổi hướng đi, cảnh vực quanh tôi cũng vì thế mà ra khác. Như một người đẩy tảng đá từ trên cao rơi xuống, tảng đá lăng xuống mỗi lúc một xa người đẩy và kéo theo trên đường của mình biết bao là sỏi đá khác nữa. Tôi đã quyết định, dây chuyền các hoạt động sẽ tiếp nối không cùng. Ôi, trách nhiệm thật là khủng khiếp!
* Chỉ có ở người ta mới có mâu thuẫn giữa lề luật và sự kiện, giữa việc xảy đến và việc phải xảy đến.
Trong thiên nhiên, đôi khi cũng có xáo trộn trật tự, nhưng các xáo trộn ấy không có nguyên nhân riêng, không có động lực nào hướng về xáo trộn hay dồn vào đó nỗ lực của mình. Thiên nhiên không gây xáo trộn mà chỉ đón nhận thôi.
Sự kiện không phải là lề luật, ta được ban tự do để sử dụng vì con người và những mục đích của con người, chứ không phải để sử dụng tuỳ hứng. Khi ta sử dụng tự do đúng như đòi hỏi của nó, ta là người tự do.
Một vật chỉ tự do khi vâng theo lề luật của bản tính mình. Trí tuệ chỉ tự do khi làm tròn vai trò của mình là nhìn biết sự thật.
Khi tôi không tuân theo lề luật, tôi tưởng tôi tự do, nhưng tôi đã rơi vào quyền lực hãm hại tôi. Lúc ấy không phải tôi tự do, nhưng các động lực chi phối vào tôi như đam mê, thể xác, di truyền, thời tiết... Tôi như bị hất ra ngoài môi trường của mình, không còn gì bao bọc, che chở để tránh tai nạn nữa.
Khi tôi vâng theo lề luật về bản thân tôi, là một phần của lề luật trên thiên nhiên mà Thiên Chúa đã ban cho vũ trụ, tôi được bao bọc bởi trật tự rộng lớn này và không cảm thấy nguy hiểm khi luân chuyển trong trật tự ấy.
Tự do của tôi có nguồn gốc ở tự do của Thiên Chúa, vì thế khi tự do của tôi thích nghi với thánh ý Thiên Chúa, thì không những Người giúp đỡ tôi, mà tôi còn cộng tác với Người, nên Người sẽ cho tôi chung hưởng quyền thống trị của Người. Chính vì thế mà thánh Phaolô viết: “Phụng sự Thiên Chúa là quản trị”, và Seneca: “Vâng lời Thiên Chúa là tự do”.
******
Như ta chỉ tự do thật khi ta vâng phục Thiên Chúa, các khả năng vật chất cũng chỉ có tự do thật nhờ vâng phục linh hồn. Bắt chúng quy phục chính là giải thoát chúng.
Các đam mê mù quáng, các nết xấu nặng nề cũng vẫn có những nhược điểm phải biết lợi dụng để bắt chúng quy phục tinh thần vì chúng không có một số kiếp khác với số kiếp con người, mà số kiếp con người chỉ có một là vươn lên trong đời sống tinh thần.
Sự sáng tạo cao quý nhất của con người là sáng tạo bản thân Nếu họ xem thường sự sáng tạo này, thì sự sáng tạo ở mọi lãnh vực khác cũng sẽ suy đồi. Ta chỉ ảnh hưởng trên vũ trụ khi ảnh hưởng trên bản thân và hoạt động của ta trên vũ trụ chỉ đem lại kết quả khi ta biết tổ chức bản thân.
Trong việc giải thoát bản thân, ban đầu ta phải cố gắng nhiều, nhưng với thời gian, ta tập được những thói quen tốt, chúng sẽ giúp ta chiến thắng dễ dàng hơn.
Thói quen làm điều lành đem lại cho ta như một cách sống, một nề nếp, một xu hướng, tuy mỏng giòn nhưng có thật, khiến ta thực hiện một cách vui vẻ, dễ dàng những điều kiện toàn bản thân ta.
Cũng như thân thể bột phát hoạt động trong những điều thiết yếu cho đời sống, linh hồn nhờ nhân đức cũng tiến tới hoạt động bột phát trong những điều thiết yếu cho sự lành. Tất yếu chuyển từ thân thể sang linh hồn và tự do chuyển từ linh hồn sang thân thể.
Một linh hồn nhân đức hướng về sự lành một cách thiết yếu mà vẫn tự do. Linh hồn ấy biết rằng bao giờ mình cũng vẫn còn nguy hiểm rời bỏ sự lành, vì thế người ấy tỉnh thức cầu nguyện xin Thiên Chúa ban cho sự trung kiên, nhưng linh hồn ấy vững chắc trong sự lành hơn những người khác.
Khi một xu hướng tuân phục lề luật luân lý thì lề luật luân lý trở nên một xu hướng.
Bản thân ta vừa có tự do vừa có bó buộc, vì thế mà tự do cũng có bó buộc, và bó buộc cũng có tự do. Ta phải làm việc lành, nhưng việc lành quen làm sẽ thể hiện như bởi tự mình, do một xu hướng tự nhiên.
******
Người nhân đức càng tiến xa, càng làm việc lành dễ dàng hơn và càng có nhiều công phúc; vì công phúc không đo lường bằng sự khó khăn phải vượt qua, nhưng bằng sự kết hiệp với Thiên Chúa nhiều hay ít; thói quen lành thánh làm cho ta gần gũi với Thiên Chúa hơn vì thánh ý Người hầu như đã trở nên ý muốn của ta.
Trong nết xấu cũng vậy, người càng cứng lòng trong tội lỗi, càng dễ phạm tội, nhưng tội lỗi của hắn không vì thế mà nhẹ hơn. Dầu sao, người tội lỗi có một yên ủi lớn, là khi đã ăn năn hối cải, thì thói quen xấu được coi như một tật nguyền, và vì thế, nếu hắn dễ phạm tội hơn người khác, hắn cũng dễ được tha thứ hơn, vì được coi như người tật nguyền, yếu đuối.
Thường người đã đi đường tội lỗi lâu ngày phải cố gắng nhiều và phải nhiều thời gian thì mới ra khỏi tình trạng thê thảm của mình. Nhưng khi họ đã hàn gắn được vết thương, thắng được các nết xấu, thì chúng lại trở nên một giá trị. Chúng như bó gai bít lối lùi lại của ta, và ta bó buộc phải tiến vì sợ lùi lại sẽ bị gai đâm.
Như người vắng mặt nhờ kỷ niệm, quá khứ nhờ tục truyền và tương lai nhờ lý tưởng, Thiên Chúa nhờ đức tin để nối kết với ta.
Nếu vô hình lưu ý loài người, đó là nhờ ở những ý tưởng, vì mọi hoạt động ý thức đều quy về ý tưởng.
Chân lý đức tin xuất hiện cho ý chí như những quy luật và cho lý trí như những yếu tố của khoa học đời đời mà ta phải học biết ở đời này trước khi xem thấy ở đời sau.
Đức tin gồm những ý tưởng của một thế giới khác muốn trở nên những ý tưởng cho thế giới này, những ý tưởng của Thiên Chúa muốn cho loài người thâm nhập ngay tự đời này.
Để có một hiểu biết siêu nhiên thì phải có một học hỏi siêu nhiên. Để đạt đến một mục đích Đức tin ở phương diện lý thuyết cho chúng ta biết thế giới siêu nhiên là gì và ở phương diện thực hành cho chúng ta biết phải xử sự thế nào trong thế giới ấy.
Trong đức tin, có đời này và đời sau, có người ta và Thiên Chúa. Đức tin cho ta biết liên hệ g đời này và đời sau, giữa loài người và Thiên Chúa. Với đức tin, ta được đón nhận ánh sáng siêu nhiên để nhận biết trong ta những khả thể mà đến nay ta không biết.
Đức tin không buộc ta phải từ bỏ sự gì ngoài sự sai lầm và sự dữ, nhưng nó làm nhụt ý thức những vật khả giác để ta ý thức sâu sắc hơn những vật vô hình, nó soi sáng để ta không lầm lẫn vật tất yếu với vật tương đối, vật bền vững với vật phù phiếm.
Đức tin mở rộng trước mắt ta những chân trời chưa từng biết như kính viễn vọng giúp ta khám phá những hệ tinh tú mới.
Đức tin đổi mới cái nhìn của ta về Thiên Chúa, về vũ trụ và về chính chúng ta. Nó làm cho ta có cái nhìn siêu việt của Thiên Chúa.
Lý trí chờ ở đức tin để giải thích những gì nó không giải thích nổi. Nhờ đức tin, lý trí hiểu biết sâu xa hơn mình có thể mà vẫn không đánh mất giá trị của mình.
Đức tin cho ta nhìn thấy thực tại siêu nhiên nội tại trong mọi sự, và mọi sự phải thấm nhuần theo mức đòi hỏi bởi bản tính mình.
Đức tin cũng giúp ta có cái nhìn chính xác hơn về tự nhiên vì siêu nhiên và tự nhiên đều thuộc về một con người, chúng nối tiếp, nâng đỡ nhau, nếu tự nhiên thiếu sót, sai lạc thì siêu nhiên cũng phải chịu thiệt thòi.
Trí tuệ loài người thắc mắc nhiều hơn giải đáp. Về các vấn đề trọng đại như Thiên Chúa, linh hồn, nguồn gốc và ý nghĩa đời sống, các nhà tư tưởng vẫn bất đồng ý kiến, trong lúc ấy nhân loại vẫn phải tiến bước. Nếu không có đức tin đem đến những giải đáp cần thiết, nhân loại sẽ phải chọn con đường nào?
******
Ta có thể nhận biết Thiên Chúa nhờ vũ trụ, và nhờ ngôn sứ. Nhìn vũ trụ, ta nhận biết có Đấng sáng tạo nên nó, đó là con đường tự nhiên của lý trí loài người. Con đường thứ hai nhờ sự soi sáng đặc biệt của Thiên Chúa trong lý trí của ngôn sứ. Dù ở trường hợp nào thì cũng có nền tảng ở thượng trí của Thiên Chúa, hoặc như sự soi sáng cho sứ ngôn, hoặc như nguyên lý sự thật cho lý trí.
Giữa chân lý khoa học và chân lý đức tin không thể có mâu thuẫn, vì cả hai đều bởi Thiên Chúa mà đến và Thiên Chúa không thể mâu thuẫn với chính mình. Nếu có mâu thuẫn, đó chỉ tại hoặc là mạc khải đã bị giải thích sai, hoặc là lý trí đã không theo đúng các nguyên lý của mình.
Tin là một hành vi tự do, vì thế phải là một hành vi khôn ngoan, nhưng khôn ngoan
chính là áp dụng lý trí vào đời sống, do đó, đức tin phải có phần cộng tác của lý trí.
Trước khi tin, lý trí phải cân nhắc lý do để tin và sau khi tin, lý trí phải giải thích, dung nạp và áp dụng những gì đức tin đem lại.
Khi chấp nhận đức tin, cần phải có suy nghĩ. Sự suy nghĩ này có thể không phải là những lý luận vững chắc về các lý do để tin, nhưng lẽ phải tự nhiên, hiểu biết nội tại trong ý thức luân lý, lý luận của người khác mà vì liên đới tin cậy ta đón nhận như của ta, lý luận của tập thể mà ta đã cảm thấy như của ta từ bên trong...
Chân lý phổ quát, vĩnh cửu, nên chỉ có một. Khi một đạo lý có tính phổ quát, thích ứng với mọi thời đại thì đó là dấu nó bởi Thiên Chúa mà ra. Người đã sáng tạo nên nó như các sự kiện nó diễn tả, và như các người đã tin ở nó, vì thế mà có một ăn nhịp tuyệt đối giữa các yếu tố trên.
Đạo lý Phúc Âm quá triệt lề luật của mọi vật và của mọi định mệnh. Đạo lý ấy nhìn vào mục đích khi nói đến phương tiện, và nhìn vào phương tiện khi nhớ đến mục đích. Đạo lý ấy quan tâm đến những gì ở trong con người và ở trong vũ trụ, vì thế tiếng của nó thấm vào tận đáy lòng ta, khi ta biết lắng nghe.
Đạo lý Phúc Âm đáp lại sự khôn ngoan thực tế và bản năng luân lý. Trước những câu hỏi: Lòng ta ước ao điều gì? Đời sống ta đòi hỏi những gì? Chúa Kitô có một giải đáp không thừa thãi, không thiếu sót, rất đầy đủ nhưng cũng rất hoà hợp, duy nhất. Chính vì thế mà Giáo Hội rất nghiêm nhặt bảo vệ sự vẹn toàn của đức tin. Một mắt xích hư hỏng đủ làm cho cả xích vô dụng.
*****
Cách đi đến đức tin thật là dị biệt, có người chỉ gặp thấy dễ dàng, người khác chỉ gặp thấy khó khăn và đau đớn. Có người trực tiếp đi đến đức tin như con ong bay thẳng tới vườn bông, người khác tìm kiếm suốt đời mà không bao giờ được gặp. Mỗi cách mỗi khác nhưng cách nào tốt thì tuỳ ở mỗi linh hồn, vì mỗi linh hồn có một ơn gọi và Chúa quan phòng có những bí nhiệm của Người.
Để đạt đến đức tin, ngoài ân sủng của Thiên Chúa, còn cần một số điều kiện luân lý: như sự thẳng thắn, lòng yêu mến chân lý, sự tự chủ được các đam mê, tình dục để luôn sáng suốt.
Còn ở đời này, ta chỉ biết Thiên Chúa qua dấu chỉ, mà dấu chỉ thì vừa có thể cho thấy vừa có thể che khuất Người. Vì thế để nhận biết Người, bao giờ cũng phải có ý hướng ngay thẳng và sự cố gắng. Sự không hiển nhiên về Thiên Chúa làm nên tự do của ta, vì nhờ đó ta có thể nhận biết hay từ chối Người.
Đức tin là một chiếm đoạt, làm sao ta có thể chiếm đoạt nếu ý thức không bừng dậy, ước vọng không nảy sinh và ta không cảm thấy cần có Thiên Chúa.
Người ta có thể nghiên cứu, tranh luận, nhưng có nhiều người tìm mà không muốn thấy. Lúc ấy sự cố gắng sẽ vô ích vì không phải là một cố gắng để đạt đến mục đích, người ta sẽ nhìn thấy nhiều lý do chống hơn các lý do phù.
Phải thi hành sự thật ta biết và phải yêu mến trước sự thật ta tìm kiếm thì ta mới đáng biết những điều ta chưa biết. Sự thật chỉ đến với người yêu mến nó, còn người không yêu mến nó, thì dù có thông minh, cũng trở nên tối tăm.
Để khám phá sự thật thì phải say mê nó và sẵn sàng đáp lại những đòi hỏi của nó.
Sự thật và sự thiện mọc trong cùng một loại đất, và rễ của chúng trao đổi lẫn cho nhau.
“Ôi sự thật, ta đã nghe thấy đằng sau ta tiếng gọi trở lại của ngươi, nhưng ta không nghe rõ vì linh hồn chưa được bình an của ta còn đầy tiếng động ồn ào” (Confessions 12,5).
Sự thật chỉ xuất hiện nơi ta khi ta ước ao đồng hoá vớ nó, nghĩa là phục tùng nó ở mọi phạm vi ta có thể như trí tuệ, tình cảm và hành động nữa.
Ta không biết mầu nhiệm đời sống thân mật của Thiên Chúa nếu ta không có mạc khải, ta cũng không có thể đến gần đời sống ấy nếu không có Thiên Chúa giơ tay nâng đỡ. Một hành động như vậy quá sức người phàm.
Đức tin ném ta vào một thế giới không còn những điều hiển nhiên và những chứng minh khúc chiết nữa, thế giới ấy không còn là thế giới hữu hình, nhưng vô hình, ở trên mọi khả năng tri giác của ta.
Trong đức tin vừa có nỗ lực của con người, vừa có ơn huệ của Thiên Chúa. Về phía con người, phải có một sự uỷ thác, trông cậy vô bờ bến vì đức tin, không có một bảo đảm loài người nào. Nhưng để sự uỷ thác, trông cậy ấy có nền tảng thì cần phải có về phía Thiên Chúa, ngoài mạc khải khách quan, một hành động nội tâm ở mỗi người để họ được vững lòng tin cậy.
Trong đức tin phải có hai điều kiện hỗ tương nhau: để Thiên Chúa tỏ cho con người biết mình thì con người phải dâng lòng mình cho Người trước, nhưng để lòng người có được can đảm giũ bỏ mọi hình thức quen thuộc của sự hiểu biết thì Thiên Chúa cũng phải nâng đỡ soi sáng ý thức con người trước.
Ta tin ở Thiên Chúa vì ta cảm thấy Người là Cha ta. Lý do để tin là tâm tình con cái tin cậy ở cha mình, đó là bản năng ta thuộc về một gióng nòi thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Vì thế mà uỷ thác vào mầu nhiệm là điều rất khó khăn cho kẻ kiêu căng thì lại rất tự nhiên cho con cái đức tin.
“Ai thuộc về Thiên Chúa thì nghe lời Người”. Điều kiện để hiểu biết Thiên Chúa không phải là khôn ngoan, trí tuệ, nhưng là thuộc về Người, và là con cái Người.
Đức tin có lý trí, tình cảm, tự do và ân sủng là cơ quan và có suy nghĩ, họ chỏi, canh giữ lòng mình, nhân đức và cầu nguyện là phương tiện.
******
Trí khôn ta phải đón nhận mọi sự thật, tuy có những sự thật vượt khả năng trí khôn. Đức tin trào trộn sự thật qua đi và sự thật vĩnh cửu, sự thật trần gian và sự thật đời đời, các đổi thay phức tạp của cuộc đời với hướng đi bất biến. Như vậy khi đón nhận đức tin, trí khôn không bị giảm sút mà lại trở nên phong phú hơn.
Cũng như tinh thần, tự do của tinh thần chỉ có vì sự thật. Nếu đức tin đem lại sự thật, nó làm cho tự do đạt mục đích của mình.
Ai tự do hơn giữa hai người, một được chỉ dẫn rõ ràng lộ trình và một không biết mình phải đi đâu?
Như sự đau đớn hành hạ cảm giác, và sự dữ câu thúc ý chí. Sự lầm lạc làm giảm giá trí khôn. Nhưng đức tin tránh cho ta những lầm lạc tai hại nhất, và cho ta biết những chân lý cao sâu nhất, nên không có thể làm giảm giá trí khôn ta được.
Đức tin và sự thông thái hỗ trợ nhau. Người tin thông tin sẽ tin sáng suốt hơn, người thông thái tin suyễn có những nguyên tắc vững vàng hơn trong khi nghiên cứu.
Cảm giác cho ta ý thức những sự đặc thù về thể xác, tư tưởng hướng dẫn ta trong những nhận thức tổng quát, đức tin giúp ta đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Khi ta khởi sự từ Thiên Chúa để tìm hiểu mọi sự, thì ta giống như người ở trên núi cao nhìn xuống chung quanh: cái nhìn của ta vừa bao la, rõ ràng vừa có tính duy nhất hơn.
Nhờ có đức tin, ta khởi điểm từ Đấng hiện hữu để đi đến các vật có hiện hữu, từ Lề luật tối cao đến cách áp dụng, từ cứu cánh tối hậu đến hướng đi của mọi loài, nói tóm lại, ta khởi điểm từ nguyên lý duy nhất đủ đê giải thích mọi sự.
Những tâm hồn chiêm niệm, những thánh tử đạo, những nhà truyền giáo đã gây thán phục của nhân loại trước tư tưởng cao siêu, sự can đảm bất khuất và hoạt động phi thường đều có một động lực là đức tin.
Tuy đức tin đòi ta nhiều từ bỏ và đẩy ta vào một cuộc phiêu lưu, nhưng không vì thế mà nó mất tính chất ngọt ngào cho đời sống, vì nó cho ta biết tình yêu và báo điềm về hạnh phúc.
Không có đức tin, đời sống sẽ tẻ nhạt vô nghĩa, và sự chết sẽ hãi hùng, thất vọng.
Với người có đức tin, đời sống là một sửa soạn và giờ chết là một chuyển tiếp đầy hy vọng.
Cái gì theo lý trí và đức tin tốt cho ta là sự lành. Nó có tính chất phổ quát.
Khi nói đến sự lành, ta nghĩ đến những sự thoả mãn được toàn diện định mệnh của con người, còn khi nói đến vui thích ta nghĩ đến một phản ứng khoái cảm riêng rẽ, đặc thù, chóng qua của một người.
Vui thích bột phát ở một điểm mà đời sống bỗng tăng thêm, nó ảnh hưởng đến một cơ năng và không quan tâm đến toàn diện. Một món ăn ngon có thể làm vui thích miệng lưỡi nhưng đem lại nguy hại cho sức khoẻ.
Vui thích không dựa vào lý trí hay đức tin, vì thế nó chỉ là một sức mạnh mù quáng ta phải luôn luôn điều khiển.
Chẳng có trạng thái tâm hồn nào là không trào trộn vui thích và chán ghét vì đời người lành dữ lẫn lộn. Ai cũng có thể yêu ghét, ước ao, trốn tránh, cậy trông, ngã lòng, sợ hãi, liều lĩnh, phấn chấn, chán nản, giận dữ, niềm nở...
Những điều xảy đến cho ta đều kết thúc bằng vui thích hay chán ghét.
“Đừng hỏi tôi tại sao tôi muốn sung sướng. Hãy hỏi Đấng đã dựng nên tôi” (Malebranche: Traité de l’amour de Dieu).
Hạnh phúc không phải là vui thích, nhưng kết thúc bằng vui thích. Vui thích là chung độ của mọi đắc thủ, mọi hoạt động, mọi tâm tình và mọi vươn lên của tâm hồn. Vui thích gắn liền với đời sống đến nỗi có nhiều triết gia tự đặt câu hỏi: đời sống có cho vui thích hay vui thích có cho đời sống?
Vui thích là một sự lành vì là triển nở của đời sống. Nó là đặc tính của loài có tâm tình cũng như hoạt động là đặc tính của loài hoạt động. Theo Spinoza, vui thích xảy đến khi người ta đi từ kém đến hơn trong hoàn hảo.
Để có vui thích, diễn tiến xảy ra như sau: trước hết ta biết một điều, ta cho là sự lành cho ta, tiếp đến vì giá trị và tính chất của nó, ta hoạt động để thủ đắc điều ấy, và khi đã được thì ta vui thích.
Mỗi vật đều có những chức vụ riêng, vì thế chúng có những vui thích riêng. Các vui thích ấy không những là hoàn tất, mà còn là khích thích của mỗi chức vụ. Khi việc học đem lại thú vui, thì ta học hành dễ dàng hơn.
Vui thích chỉ ngăn trở hoạt động khi nó không có liên hệ hay phản trái hoạt động. Khi nó không có liên hệ thì nó làm ta chia trí, và khi nó phản trái thì nó làm hư hỏng việc.
Khi vui thích theo chiều của hoạt động thì nó khích thích các khả năng, tập trung chú ý, gắn bó tâm hồn ta với hoạt động và gây một sinh hoạt tích cực hơn.
Khi ta yêu ai, vui thích vì mối tình ấy và sự vui thích ấy giữ cho ta trung thành trong tình bạn, công bình và thân ái trong xét đoán và đại lượng trong cư xử với người ấy.
Vui thích không phải là sự tăng triển đời sống, nó chỉ là một âm vang trong khả năng xúc cảm của ta. Vui thích học hành không phải là sự học hành, vui thích bố thí không phải là bố thí. Ta học và bố thí vì yêu chân lý và sự lành của kẻ khác chứ không phải vì thích thú bởi đó mà ra.
Vui thích gây thuận lợi cho đời sống, nhưng không phải là tất cả đời sống, mà cũng chẳng phải là yếu tố chính của đời sống vì yếu tố ấy là hoạt động theo lương tri. Nhưng vui thích là phản ảnh của hoạt động theo lương tri trong cảm xúc của ta nên cũng là sự tôn kính trước sự tốt đẹp của tạo vật Thiên Chúa đã dựng nên.
Vui thích có một giá trị luân lý rất lớn, đến nỗi thánh Tôma đã nói rằng: người ta có thể thẩm định về một người tuỳ theo phẩm chất của vui thích của họ. Có lẽ người ta biết rõ về một người nhờ sở thích của họ hơn là hoạt động, vì hoạt động có thể bị cưỡng ép, còn sở thích thì không ai cưỡng ép được.
Thiên Chúa là nguồn mạch mọi vui thích vì Người là giá trị và là sự lành tuyệt đối.
Các vui thích của ta qua đi, nhưng sự vui thích bất diệt, các vui thích của ta giòn mỏng, nhưng sự vui thích bền bỉ vì nó có liên hệ với sự lành mà bản tính là không có giới hạn ở giá trị và trong thời gian.
Nếu đối tượng gây vui thích biến đi thì vui thích cũng biến đi, đó là số phận những vật trần gian. Nhưng nếu đối tượng vui thích mà trường tồn thì vui thích trở nên hạnh phúc đời đời.
Vui thích lục súc nơi loài vật, ấu trĩ nơi trẻ thơ, trưởng thành nơi người lớn và thần thánh nơi Thiên Chúa. Vấn đề không phải là mạt sát vui thích, nhưng là lựa chọn vui thích hợp với bản tính của mình.
Không được rơi vào vui thích hèn hạ, nhưng phải biết hưởng vui thích cao quý, nếu không ta sẽ là người vô cảm.
******
Vui thích là một phản ảnh tâm lý của sự lành ta được; nó cấy thêm vào hoạt động và đời sống của ta, nên nó chỉ có giá trị bởi vì các giá trị này, còn ở tự nó, nó chẳng là gi... Vì thế, để thẩm định về giá trị của vui thích thì phải quy nó về thực tại là nguồn gốc của nó.
Để vui thích có giá trị cho một người, thì phải xứng đáng với họ, nghĩa là phải hợp với bản tính và định mệnh của họ.
Không ai thích cứ là trẻ thơ hoài dù người ấy có một tuổi thơ đầy hạnh phúc.
Giá trị của vui thích tuỳ thuộc ở giá trị của hoạt động và giá trị của hoạt động tuỳ thuộc ở đối tượng của nó. Vì thế giá trị của vui thích cũng có một tính chất như giá trị của hoạt động là phải thích hợp với luật lệ luân lý là đối tượng của mọi hành động của con người.
Nếu đối tượng hành động tốt, và hành động đem lại cho ta vui thích thì vui thích ấy tốt. Nếu trái lại, thì vui thích ấy lừa dối ta.
Khi ta tìm vui thích vì vui thích, thì ta đã có một hành động trái với tự nhiên. Lỗi phạm nặng nhẹ tuỳ ở đối tượng của hành động. Khi vì vui thích ta khinh thường đời sống, đảo lộn các giá trị và các chức vụ của nỏ, gây rối loạn cho bản thân hay xã hội cách trầm trọng, thì ta phạm tội nặng.
Vui thích trở nên tội lỗi khi nó chỉ gây khoái cảm cho một phần trong lúc nó gây thiệt hại cho toàn bản thân ta, và khi nó tạo một thiên đàng tạm bợ trong lúc nó tách ta khỏi định mệnh đời đời của ta.
Ai vì khoái cảm bắt một vật hay một người phải tách rời khỏi mục đích nó phải theo thì chống lại trật tự chung Thiên Chúa đã thiết lập.
Người chỉ nghĩ đến khoái cảm coi thường trật tự, vì thế phạm đến Thiên Chúa là chủ tạo vật, phạm đến bản thân là loài có lý trí, và phạm đến vũ trụ có mục đích riêng của bản tính mình.
Người chỉ nghĩ đến khoái cảm dùng mọi sự kể cả bản thân mình để gây một cảm giác chóng qua, một xúc động giây lát. Người ấy bám víu vào hư không, hy sinh vật thể, kể cả vật thể của bản thân mình để chuốc lấy một hiện tượng bên ngoài trôi đi.
Thiên Chúa ban khoái cảm để giúp đỡ nhân đức, để khuyến khích hành động và để đời sống có đà vươn lên, nhưng người tội lỗi đã đảo lộn tất cả, ở họ khoái cảm gây đổ nát và bách hại chính bản thân họ.
******
Vui thích gây thèm khát vui thích. Vui thích điều lành gây kích thích theo đuổi sự lành mỗi lúc một tăng.
“Những kẻ nếm vào Ta, sẽ còn khát mãi” (Eccl 24,29).
Thèm khát vui thích ích lợi cho người có vui thích tốt bao nhiêu thì có hại cho người có vui thích xấu bấy nhiêu. “Giới hạn của nhu cầu, đó là, điều tính tham lam không hề biết” (Augustin).
Dục vọng là một vòng lẩn quẩn: thèm khát, hưởng lạc, chán ngán, sôi động trở lại, lại chán ngán... cứ quanh đi quẩn lại như vậy.
Thói quen hưởng lạc trở nên như một nghiệp chước hầu như người ta không thể chống lại được.
Khoái cảm ở tự nó có một nguy hiểm mà người nhân đức phải đề phòng. Đã đành có những khoái cảm hợp lý và tốt lành, nhưng sau khi phạm tội, ta phải nhớ luôn rằng ta có xu hướng về sự dữ và những điều không được làm thường mang lại khoái cảm.
Khoái cảm là một tên phản bội, ban đầu nó tùng phục và hầu hạ, tiếp đó là bất phục tùng, và sau cùng nó làm hại.
Khi say mê khoái cảm, người ta sẽ mê đắm đời này, sợ hãi sự chết, lạnh lùng với hạnh phúc đời sau và trở nên nô lệ cho xác thịt.
Không có thể chối bỏ được khoái cảm, chỉ có thể giới hạn, canh phòng và giữ cho nó có điều độ nhờ ở một tự chủ sáng suốt. Cả khi khoái cảm tốt không có kiềm chế cũng sẽ kích thích lẫn nhau theo kiểu dây chuyền và tạo nên một lực mù quáng ghê sợ. Nhưng nếu thêm vào những khoái cảm tốt đáng nghi ngờ ấy những khoái cảm xấu, lúc đó kết quả sẽ thật tại hại!
******
Phương dượng chống lôi cuốn khoái cảm là cầu nguyện, hãm mình và làm việc. Cầu nguyện tách ta xa cảm giác, hãm mình làm nhẹ lôi cuốn thể xác, làm việc sử dụng sức mạnh của chúng theo một hướng đi hợp lý.
Khi tránh ở nhưng không, chiến đấu với yêu sách chiều chuộng của xác thịt, và với yếu hèn của con tim, ta sẽ đoạt được một bảo đảm tương đối, nhưng với ơn sủng, Chúa Thánh Thần sẽ giúp ta vững vàng.
“Thời giờ vắn vỏi, ai có vợ, hãy ở như không có, ai khóc như không khóc, ai vui như không vui, ai mua sắm như không có gì và ai dùng của đời này như không dùng, vì hình ảnh của đời này qua đi” (1 Cr 17,29-31).
Khi sử dụng khoái cảm được phép, phải có thái độ tự chủ luôn sẵn sàng từ bỏ nếu những sự lành tốt hơn nhay thiết yếu đòi buộc.
Thái độ của ta đối với tạo vật phải lệ thuộc vào thái độ của ta đối với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho ta biết những điều thuận, nghịch với Nước Thiên Chúa, và sẽ ban cho ta sức mạnh để vâng theo chỉ dẫn của Người.
“Ân sủng mà Chúa Thánh Thần ban xuống trong lòng ta có thể làm cho ta gặp thấy vui mừng ở những sự Người truyền hơn ở những điều Người từ chối” (Augustin, De Spiritu et littera, 1,1).
Khoái cảm gây nên trong một tâm hồn lành mạnh là một kháo cảm thư thái, bền vững, nở ra tự đáy lòng và trào lên như mạch nước hằng sống mà Chúa Giêsu đã hứa cho những người thiện tâm.
Để có khoái cảm tốt, phải biết từ bỏ khoái cảm xấu: để hưởng ngọt ngào của tình bạn, phải biết xua đuổi những đê mê của tư kỷ hẹp hòi.
Khi không giũ bỏ được những tính toán bần tiện, thì đừng mong nếm được tình nghĩa chân thành: khoái cảm của một vật đòi có vật ấy chứ không phải là một trá hình của vật ấy.
Ta sẽ không có thể nếm những ngọt ngào của sự lành nếu ta không biết quên mình đi trong khi thể hiện sự lành. “Người đi tìm ân huệ trên trời với một tình yêu không chân thành và một tinh thần nước đôi, sửa soạn một nơi nương thân cho mình không hướng về ân huệ ấy, chứng tỏ mình không xứng đáng được ân huệ ấy” (Thánh Phanxicô Salê).
Không hiến thân cho sự lành mà muốn hưởng vui sướng đi theo sự lành, đó là dối trá Thiên Chúa. Nhưng vì không ai dối trá được Thiên Chúa, nên đó là lừa dối chính bản thân.
Thiên Chúa trung thành, nhưng trong điều kiện chính ta cũng trung thành.
******
Với con người, vui thích thể xác quyến rũ hơn, tính thể chất làm nó dồn dập, hung hãn, khoái cảm nó cống hiến cũng dễ đón nhận hơn vì nó gắn liền với cơ cấu nhận thức của ta bắt đầu bằng cảm giác.
Thú vui tinh thần ta chỉ đón nhận theo như mức độ ta sống đời sống ấy nhiều hay ít. Không lựa chọn một điều mà ta chỉ có một kinh nghiệm xa vời là thường tình. Vì thế, để chọn thú vui tinh thần, ta phải biết nhìn toàn diện đời sống và đánh giá mọi sự theo những tiêu chuẩn đúng.
Đối tượng của tinh thần cao quý và phong phú hơn; tinh thần lại là một khả năng linh động, hiểu biết và gắn bó hơn với đối tượng của mình. Vì thế vui thích tinh thần bền bỉ, không dễ bị thời gian thay đổi và được người khôn ngoan ưa chuộng.
Những nhà chiêm niệm, những người hoạt động xã hội đón nhận được những thú vui thanh cao, khoái trá mà người chỉ biết hưởng những thú vui thể lý chẳng bao giờ biết đến. Nhưng để đạt tới đó, thì phải qua nhiều nỗ lực nhiệm nhặt. Thánh Têrêsa Cả phải trải qua mấy chục năm tập rèn trong khó khăn và thánh Phanxicô phải ôm lấy người phong cùi mà hôn với sự kính trọng như hôn chính Chúa.
Lúc hiện tại khó khăn biết đặt hy vọng vào tương lai, lúc không tìm thấy thú vui ở mình, biết làm cho thú vui kẻ khác trở nên của mình nhờ tình bạn và tình lứa đôi, lúc những thú vui nóng bỏng của tuổi trẻ xa dần, biết đón nhận an bình như sự lành cao quý nhất trần gian, và sau hết, biết chạy đến tình yêu Thiên Chúa là tình yêu duy nhất toại nguyện linh hồn ta: người như vậy đã đạt được chân lý cho đời mình là biết từ bỏ thú vui thấp hèn, theo đuổi thú vui cao thượng.
Khoái cảm làm ta nuối tiếc ước vọng. Thật vậy, khoái cảm nào có thể lấy đầy ước vọng trọn hảo của ta. “Chúa đã dựng nên tôi cho Chúa, nên tôi chỉ được nghỉ an trong Chúa”.
Nhiều người nói như thể kính mến Chúa và thương yêu bản thân xung khắc nhau, ai đã kính mến Chúa thì không còn có thể thương yêu bản thân được. Đây là một sai lầm, Thiên Chúa đã cho ta một bản thân, đó là ơn quý trọng nhất của Người đối với ta,, ta phải quý mến, gìn giữ lấy nó. Ta phải thương yêu nó.
Tình yêu có hai lý do: giá trị của đối tượng và sự gần gũi của đối tượng với ta. Bản thân cũng có giá trị như tha nhân vì cùng là con người và con cái Thiên Chúa, nhưng không có gì gần gũi với ta hơn bản thân; ta có thể kết hợp với kẻ khác nhưng bản thân là một với ta.
Thương yêu bản thân thì khác với ích kỷ thì khác. Phải chống lại ích kỷ vì ích kỷ làm hại cho bản thân.
Thương yêu có ba cách: theo tự nhiên, theo nết xấu va theo ân sủng. Yêu tự nhiên phải biết sử dụng, yêu sai lầm phải tránh xa và yêu theo ân sủng phải biết chiếm đoạt. Yêu bản thân cũng không ra ngoài ba cách ấy.
Muốn sự lành cho bản thân là điều hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người đã đặt nó trong ta như một bản năng sơ đẳng.
Ý muốn của ta hướng về sự lành, nó vượt ra ngoài bản thân ta, đạt đến sự lành không giới hạn là Thiên Chúa. Nhưng vì là ý muốn của ta, nên nó thèm khát sự lành cho ta. Nó là dấu chỉ định mệnh của ta cũng như bản năng sinh tồn là dấu chỉ mục đích của loài động vật.
Tôi, cũng như các tạo vật khác, đều muốn sự lành cho mình, vì đều hiện hữu. Tôi muốn sự lành của tôi theo như giống loại và bản ngã tôi vì tôi thuộc về giống loại và bản ngã ấy. Theo nghĩa này tôi phải là tôi.
Ta phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì Người là nguyên lý của mọi sự lành và của mọi sự gần gũi với các tạo vật khác, kể cả bản thân ta.
Yêu thương bản thân là nguồn gốc mọi yêu thương giữa loài người, vì nếu ta không yêu thương bản thân, thì ta không thể dâng hiến và yêu thương ai được. Ta chẳng thường nói: ta phải yêu thương tha nhân như mình hay sao?
Một tình yêu bản thân chính đòi phải ước ao cho mình sự lành cao quý nhất: đó là tình yêu Thiên Chúa. Ai sẵn sàng từ bỏ tình yêu Thiên Chúa không thể nói rằng mình yêu bản thân được.
Không thiết tha với sự lành cho bản thân có nghĩa là từ chối trách nhiệm, bẻ gẫy mọi động lực của hoạt động và sửa soạn một thất bại não nề cho cuộc sống.
Nếu nói rằng: mình có nhiệm vụ phải hoạt động, phải phát triển và phải cộng tác với quan phòng của Thiên Chúa trong những việc nhằm vào bản thân, mà lại nói rằng: không được yêu mến bản thân, thì ta mâu thuẫn với chính mình.
Khinh chê bản thân, không săn sóc đến nó cũng là từ chối làm vinh danh Thiên Chúa, mà là từ chối làm vinh danh Thiên Chúa ở cái gì thiết thân nhất của ta, vì Thiên Chúa đã ban cho mỗi người một bản thân để làm cho nó phát triển. Bản thân ấy không ai có thể lo thay cho ta được.
Không được vì mình chống lại mọi sự, nhưng phải vì mình nhìn mọi sự trong Thiên Chúa. Khi ta yêu mình trong tình yêu Thiên Chúa thì cũng yêu hết mọi người.
Để cộng tác đắc lực vớ người khác thì mỗi người đều phải biết trau dồi cá nhân để có thể cáng đáng được phần trách vụ của mình.
Nền tảng của nhân đức ở tại thể hiện bản thân, vì thế: sống đời mình, bảo tồn và phát triển bản thân, tìm hạnh phúc đều là nhân đức.
******
Trong thực tế, ai cũng yêu mình, nhưng mỗi người yêu mình một cách, tuỳ theo quan niệm mình có về bản thân. Quan niệm này có thể sai lạc, vì thế mà yêu mình cũng có thể sai lạc.
Quan niệm về con người rất phức tạp: với người lực sĩ, chỉ có bắp thịt và gân cốt, với nhà bác học, chỉ có suy luận trừu tượng và phương pháp, với người ham hố công danh, chỉ có thế lực và danh vọng,... là quan trọng. Với người khôn ngoan, điều quan trọng là điều hoà được các yếu tố nói trên theo như tiêu chuẩn của lý trí.
Nhiều người chỉ trọng những gì họ thấy bên ngoài và lơ là với bản vị, nhiều người bị ám ảnh bởi thế giới cảm xúc và coi nhẹ tư tưởng, nhiều người quá say mê tư tưởng và quên lãng lương tri. Nhưng định mệnh ta ở nơi ta, nó tuỳ thuộc vào lương tri mà luật thiên định hướng dẫn và phán đoán.
“Được của vũ trụ mà mất linh hồn thì có ích gì cho người ta” (Math 16,26).
Chỉ yêu mình cách chính đáng người biết giũ bỏ mọi trá hình và ảo mộng về mình và sống thật đời sống mình.
Yêu mình là muốn sự lành cho mình. Nhưng phải biết chọn sự lành chính, bỏ sự lành phụ, chọn sự lành tuyệt đối, bỏ sự lành tương đối, chọn sự lành bền bỉ, bỏ sự lành chóng qua.
Sau tội tổ tông, loài người thường bị đam mê hưởng lạc ích kỷ lôi cuốn, nên họ dễ dàng hy sinh sự lành thiết yếu khi thấy chúng không thuộc trực giác còn phải chờ đợi hay có hình ảnh đã phai mờ vì thời gian. Chính vì thế mà nhiều khi ta bỏ việc quan trọng cho đời sống vì một mời gọi của cảm xúc không đáng giá gì, ta hy sinh lợi ích lớn cho toàn thể vì một ích lợi cục bộ nhỏ nhặt chỉ tại nó đến trước và chiếm đoạt ý thức ta. Ta có một bản ngã thật, nhưng có biết bao bản ngã giả cấu tạo nên, bởi đam mê, nết xấu. Lý trí muốn duy nhất, nhưng đam mê, nết xấu phân tán đời ta. Sự phân hoá này là dấu chỉ một sự chết thiêng liêng mà tu đức gọi là “cái chết thứ hai”.
Theo tu đức, cái chết thứ hai có nguyên nhân là tự ái. Tự ái là tình yêu đáng lẽ phải bước về sự lành thì ta lại cô đọng lại nơi bản thân.
Nếu anh yêu bậy là anh ghét, nếu anh ghét trúng là anh yêu.
“Ai yêu điều bất chính là kẻ thù của linh hồn mình” (Ps 10,6).
Người sa ngã là người không còn được lý trí và ân sủng giữ trong đường lối mình phải đi nữa. Như ngôi sao không còn chuyển vận trong quỹ đạo của mình nữa, người ấy bị những thu hút tình cờ đưa không biết đến nơi đâu như một tinh lạc.
******
“Tôi đã sống xấu xa đời tôi, tôi đã là sự chết cho bản thân tôi. Vậy tôi không phải là sự sống cho chính bản thân tôi ư?” (St Augustin, Confess, 12,10). Khi dựng nên ta, Thiên Chúa muốn chiếm lại nơi ta những ân huệ Người đã ban, khi dâng biến bản thân ta cho Người, ta chiếm lại được bản thân trong Người. Vì thế, càng yêu mình thì ta càng phải biết cho đi. Hạt giống không mục nát thì không sinh nhiều bông trái. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ đánh mất, và ai đánh mất nó thì sẽ tìm thấy.
Thành công và thất bại là những điều rất dễ hiểu, vì đó là kinh nghiệm thường ngày trong đời sống. Một học trò đi thi đậu thì người ta nói: anh đã thành công. Và nếu anh thi trượt, người ta nói: anh đã thất bại.
- Thành công là đạt được mục đích mình theo đuổi, và thất bại là không đạt được mục đích ấy. Nhưng đó chỉ là theo khách quan. Còn theo chủ quan, đạt được mục đích mình theo đuổi chưa chắc đã là thành công, không đạt được mục đích mình theo đuổi chưa chắc đã là thất bại. Như trường hợp một đội banh quốc tế đấu với một đội banh địa phương không tên tuổi; sau một trận giao tranh nghiêng ngửa, đội banh quốc tế chỉ thắng mong manh với một bàn “sút” trực tiếp mười một mét. Như vậy, đội banh quốc tế thắng, nhưng không thành công trái lại đội banh địa phương thua mà đã cảm thấy thành công.
- Trong đời sống, mỗi cá nhân có mục đích riêng tư mà anh cho rằng anh có đủ khả năng để đạt đến ở một mức độ nào đó. Khi anh không đạt được mức độ ấy, thì anh cỏ cảm tưởng rằng: mình thất bại.
- Mức ước vọng và mức hiệu năng ở mỗi người mỗi khác, nên rất khó để nói đến một thành công hay thất bại chung cho mọi người được.
- Ngoài ra, còn phải phân biệt mức ước vọng và mức đợi chờ. Mức ước vọng xác định lý tưởng mình muốn đạt đến, và mức đợi chờ xác định mức thành công ta ước lượng rằng mình có thể đạt được, căn cứ vào các khả năng mình có thật sự hay trong tưởng tượng.
- Trong đời sống một người, hai mức trên có thể luôn thay đổi vị trí: mức ước vọng tăng với sự thành công và giảm với sự thất bại; người đã thắng, rất dễ thắng nữa và người đã thua, rất dễ thua nữa.
- Người có mức đợi chờ cao, nhưng mức ước vọng ôn hoà sẽ có đời sống dễ quân bình hơn người có mức đợi chờ thấp và mức ước vọng cao. Người có mức cao ở cả ước vọng và đợi chờ sẽ dễ lạc quan và thành công hơn người có mức ước vọng cao và mức đợi chờ thấp.
- Trong thực tế, không luôn xảy ra như trên, vì còn những yếu tố khác ảnh hưởng vào. Một ý chí mạnh thêm nghị lực trước khó khăn. Một người nhẹ dạ không biết thừa thắng xông lên, sẽ dễ ngủ quên trong chiến thắng.
- Thường người ta chỉ bắt tay vào việc khi hy vọng sẽ thành công, nhưng ảnh hưởng của kết quả đạt được không như nhau trong tâm lý của mọi người. Vì thế, ta cũng cần phải lưu ý đến lý do để hành động nữa: lý do ấy có thể là thành công khách quan của hành động, nhưng cũng có thể là một lý tưởng không lệ thuộc vào sự thành công ấy. Lý do của cô gái nhảy xuống dòng nước cứu người yêu đang vùng vẫy sắp chết đuối không phải là thành công, nhưng tình yêu.
- Có những hoàn cảnh người ta không cần hy vọng để bắt tay vào việc, và không cần thành công để hy vọng.
******
- Thất bại biểu lộ cho ta thấy cơ cấu con người còn phải hoàn thành và ước vọng sinh tồn của họ là một tiến triển. Nó cho họ chất liệu để suy nghĩ về thân phận đổi thay của mình, và về vai trò của tự do trong việc đổi thay ấy.
- Bản ngã đo giá trị hiện hữu của mình nhờ ở thành công hay thất bại của các tư tưởng mà mình tôn thờ, ở sự nghiệp mà mình bênh vực, và ở công việc mà mình dấn thân vào.
- Nhờ thất bại và thành công, ý thức quay về bản thân để hiểu biết sâu sát hơn về chính mình. Chúng là như phương tiện để tiếp cận với giá trị của mỗi cá nhân.
- Giá trị của mỗi cá nhân biểu lộ trong hành động của họ. Nhưng vì hành động chỉ là “dấu chỉ”, chúng vừa có thể diễn tả, vừa có thể che khuất. Do đó, con người luôn phải sửa chữa hành động của mình để đi từ thất bại đến thành công.
- Với người can đảm, thất bại là nguyên nhân để họ thích nghi với mục đích mình theo đuổi, hầu đạt đến thành công.
- Chỉ có ý thức về thất bại và thành công ở người gắn bó với thiên nhiên, nhưng được nâng đỡ bởi xác tín rằng: mình vượt trên thiên nhiên. Còn người chỉ biết gắn bó với thiên nhiên sẽ rơi vào định mệnh thuyết.
- Nhiều khi thất bại và thành công bất chấp thực tế, lịch sử và có lẽ cả tâm lý nữa, vì người ta có thể cảm nghiệm một thất bại đau đớn trong một thành công bên ngoài rực rỡ.
- Điều quan trọng trong hành động của con người là thể hiện được một cái gì. Phải bắt tay vào việc, tiếp tục dù gặp khó khăn và hoàn thành công việc. Biết hoàn thành cũng cần như biết bắt tay vào việc. Thành công và thất bại luôn có mặt trong sự hoàn thành công việc nói trên.
- Có người may mắn luôn thành công, không phải nếm thất bại bao giờ, họ sẽ không sẵn sàng để thay đổi và thích nghi với hoàn cảnh. Người này thường không sửa soạn để đón thất bại. Trái lại người đã kinh nghiệm thất bại sẽ có thể điều chỉnh sự thất bại của mình để giới hạn hậu quả, và thích ứng hoạt động cho hợp với hoàn cảnh.
- Sau hoạt động, người thành công thường cư xử như người chiến thắng, đó là thường tình, nhưng rất nguy hại: nó có thể đưa đến những hành động phô trương vô ích, nực cười và có hại. Mấy ông giám đốc sở, phòng huênh hoang, độc tài là điển hình cho trường hợp này.
- Thành công là chiến thắng các trở ngại và khó khăn ta phải gặp trong đời sống. Nhờ đó ta ý thức rõ hơn về chính mình và xây dựng dần dần cho mình một bản ngã.
- Nhờ thành công ước vọng không còn là hão huyền, nhưng trở nên sự thật và vòng đai thất bại lui dần trong đời ta, vì thế mà thành công rất tốt ở tự nó. Nhưng nó chỉ tốt cho người có nó nếu nó giúp họ nhìn rõ hơn thất bại. Thật vậy, cảm nghiệm thất bại chỉ đầy đủ khi không còn quãng cách giữa ý muốn và sự thể hiện, nghĩa là khi thành công, vì lúc ấy người ta mới nhận thấy mất nó là mất cái gì.
- Cách con người cảm nghiệm về thất bại xác định tương lại của họ. Có người chán nản, thất vọng hay nổi loạn, người khác có thêm hiểu biết để vượt qua các khó khăn.
- Phải phân biệt thành công và chiến thắng. Thành công là mức cao nhất để tự thể hiện trong một cảnh ngộ, còn chiến thắng chỉ là vượt được một khó khăn hay cản trở nào đó. Thành công có tính toàn diện, còn chiến thắng chỉ có tính cục bộ mà thôi.
- Thất bại mạc khải những đòi hỏi của đời sống mà chiến thắng huy hoàng nhất cũng không thoả mãn được. Don Juan đã chinh phục được nhiều phụ nữ có sắc, có tài, nhưng càng đi sâu vào chiến thắng, anh càng cảm thấy thất bại trong tình yêu.
- Nếu ta không để cho mình bị ám ảnh bởi chiến thắng, ta sẽ nhận biết điều mình đạt được nhờ chiến thắng chỉ là ngẫu nhiên sẽ qua đi, chưa phải là thiết yếu và vĩnh viễn.
- Thất bại giúp ta nhìn rõ hơn thân phận con người. Nó cho ta thấy: mục đích đạt được ở bên ngoài không phải là thước đo hoạt động, vật cụ thể không phải là thước đo hiện hữu, và hiện tượng không phải là thước đo đời sống. Nhờ có nhận biết này ta mới hiểu rõ rằng: sự hoàn chỉnh bản thân trong thời gian luôn ở bên kia các chiến thắng.
- Để đào tạo con người, xem ra thất bại có ích hơn thành công. Chỉ có con người biết dấn thân, dám có sáng kiến, dám làm dám chịu thì mới có dịp thất bại, còn người ù ì, đặt đâu ngồi đó, sẽ ít có cơ hội để mà thất bại.
******
- Con người có khả năng chấn chỉnh lại bản thân. Nguồn gốc của việc chấn chỉnh lại bản thân là thất bại. Khi luôn thành công ta không cần nghĩ đến chấn chỉnh lại, nhưng khi ta thất bại, ta cảm thấy ngượng ngập, lúng túng, không thoải mái và ta buộc phải thử thời vận để loại bỏ tình cảm bứt rứt nói trên.
- Thất bại xuất hiện trực tiếp như một sự dữ vì là dấu chỉ việc thiếu thích nghi, sự không kiện toàn, sự có giới hạn và sự đau đớn. Nhưng nó cũng là một sự lành cho đời sống vì nó là điều kiện để con người ý thức về thực trạng của mình mà tiến tới.
- Thất bại biểu lộ chính cơ cấu của bản ngã con người và ước vọng hiện hữu của họ. Ước vọng muốn tiến đến hiện hữu tuyệt đối, không pha trộn giới hạn, nhưng nó luôn đụng đầu với một bản ngã có pha trộn hiện hữu và vô hữu, trường tồn và ngẫu nhiên.
- Mọi nỗ lực suy tư và hành động của con người đều bắt nguồn từ nhận thức về trách vụ phải tiến tiến của mình và về thử thách của các ngăn trở chống lại sự tiến triển này mà vì yếu đối họ đã không chủ trị được.
- Thất bại thuộc ý muốn hơn thuộc hiểu biết. Đã đành ta không muốn rõ ràng một thất bại như là mục đích của hành động, nhưng với một mức độ ý thức nào đó, ta ước ao sự thất bại từ thâm tâm bản ngã của ta, vì ta cảm thấy mình không còn phải là mình ngày xưa nữa.
- Một đời sống cam tâm với thất bại là một đời sống ngừng tiến triển, ước muốn hiện hữu của nó như bị đẩy lui, bị từ chối. Ở một con người có trạng thái đó, thì bản thể của nó như bị nghi ngờ và chối bỏ. Vì thế, mọi thất bại, dù là bên ngoài, cũng vẫn là dấu chỉ của ý muốn vô hữu.
- Với những người có quả cảm và lý tưởng, thất bại là đòn bẩy để biến đổi và làm tốt hơn đời sống của mình. Nhưng trái lại, với những người yếu nhược, rụt rè, thất bại gây ngại ngẫm, lo sợ trước mọi công việc. Vì thế, thất bại có thể gây biến đổi và thích ứng với thời vận, nhưng cũng có thể gây lạc lõng, lo sợ và ươn lười.
- Có người vì biếng nhác, trượt một kỳ thi, đã thay đổi, vươn lên cao, và đạt được tối đa về hiểu biết. Nếu người ấy đỗ vớt, biết đâu sẽ chẳng an phận trong sự biếng nhác của mình.
- Mọi thất bại đều đưa đến một mất mát cho bản thân trong xã hội, kéo theo một hạ giá bản ngã trong chính thâm tâm mình. Vì thế để chấn chỉnh lại, phải bắt đầu từ xã hội, và thích nghi với khung cảnh xã hội trước vì đó là nguồn mạch những mặc cảm tự ti của bản ngã.
- Mọi thất bại đều mạc khải một ước vọng hiện hữu của bản ngã ta. Mọi người đều cảm thấy như có trong bản thân một quan toà không quen biết: họ nhận thấy trong mình có những tiêu chuẩn mà ý thức đôi khi có thể không nhớ rõ là gì nhưng vẫn nhận biết rằng mình phải tuân giữ.
- Trong những tiêu chuẩn trên, có cảm nghiệm sống động rằng mình có một ý nghĩa, mình được thế gian chờ đợi để làm một cái gì.
- Ai thì cũng cảm nghiệm thấy mình có một vai trò có ý nghĩa mà mình phải hoàn thành, nhưng chẳng ai diễn tả được trọn vẹn vai trò ấy trong thời và không gian.
- Thất bại rình rập hoạt động của họ như một giới hạn, một vô hữu ngay trong cố gắng hoàn thành của họ.
- Chính hữu thể của họ như bị phủ nhận và đặt vấn đề từ bên trong, vì thế họ luôn bị thúc đẩy từ những thể hiện đã có đến những thể hiện mới mẻ khác. Tình trạng quân bình và nghỉ ngơi chỉ là cái bóng đi trước mặt họ.
- Ý niệm về thành công và thất bại là như những mô hình và cơ cấu của thực tại. Thành công gắn liền với hình ảnh tiến lên và thất bại với hình ảnh đi xuống. Chẳng có gì cắt nghĩa được chúng, nhưng chúng cho mọi sự một ý nghĩa: đời người phải tiến lên, không được đi xuống.
******
- Thất bại có thể và phải làm xuất hiện một tự chủ về hiểu biết và luân lý. Khi ta đón lấy trách nhiệm về việc đã làm thay vì đổ lỗi cho kẻ khác, đó đã là một cách đối diện với thất bại để thắng vượt nó rồi.
- Hành động dừng lại và biến đổi khi gặp thất bại thuộc tự do của chủ thể. Hành động ấy nhằm vượt qua sự ngã lòng trong lúc thay đổi phương tiện hay mục đích. Đó đã là một cách đẩy lui thất bại rồi.
- Bình thường, ai cũng có thể và phải đối diện với thất bại, điều này khơi dậy và nuôi dưỡng nghị lực.
- Khi đối diện với thất bại, phải biết phân biệt phản ứng thất bại và phản ứng chống lại thất bại.
- Phản ứng thất bại không tuỳ thuộc ở hoàn cảnh bên ngoài, nhưng ở rối loạn tâm lý của chính chủ thể: thất bại với họ là một ý tưởng ám ảnh và một choáng váng làm cho họ không còn phản ứng được nữa, tự trói tay để chịu thất bại.
- Phản ứng chống thất bại là can đảm chấn chỉnh lại thua thiệt gây nên bởi thất bại. Có hai cách phản ứng, một là nghĩ rà một con người mới để đạt đến mục đích, hai là đem hết sức lực để hoàn thành một công việc khác thế lại. Với người có phản ứng chống thất bại, thất bại làm cho họ thêm tháo vát và nhẫn nại.
- Những thất bại dồn dập có thể biến người có phản ứng chống thất bại nên người có phản ứng thất bại nếu vì một lý do nào đó, người ấy cảm thấy mình bất lực để chấn chỉnh lại hoàn cảnh, sự mất khả năng đối đầu này làm cho người ta không còn tin tưởng ở chính mình nữa.
- Ta thường lầm lẫn tai nạn với sự xấu xa, đau khổ với hình phạt, thất bại với tội lỗi. Vì thế mà André Gide đã viết trong “Vụ kiện của Kafka”: “Anh phải nhận sai lầm của anh, như bảo mình rằng: tôi đã phạm tội; như vậy, tôi đã có lỗi”.
- Nhiều Kitô hữu nghĩ rằng: thất bại là dấu chỉ Thiên Chúa yêu mến, Thiên Chúa phạt kẻ người yêu. Ý tưởng này có thể là dấu chỉ một tinh thần siêu nhiên cao giúp ta kiên trì trong hoạn nạn. Nhưng nó cũng có thể đi đến những thái quá chứng tỏ một tâm lý bệnh hoạn muốn tự làm khổ mình (masochisme).
- Ý nghĩa của thất bại không gặp thấy trong sợ hãi hoặc ham hố thành công. Nó gặp thấy trong sự theo đuổi hoàn thành nhiệm vụ.
- Phải vượt qua các thất bại vì đó là phương tiện để đi đến thành công, nhưng luôn phải nhớ rằng thành công ở đời này chưa vĩnh viễn.
- Thành công rất quý cho đời sống vì nó giúp con người kiện toàn bản thân, nhưng ta luôn phải nhớ rằng: nó giúp ta kiện toàn bản thân, nhưng không phải là sự kiện toàn ấy.
Vui mừng là tin ở tương lai. Nó gắn liền với hy vọng rằng mình có thể đạt đến hạnh phúc cho bản thân.
- Ta đừng lẫn vui mừng với thích thú, vì thích thú chỉ có trong những hoạt động để chiếm hữu mà thích thú không phải là đối tượng. Vì thế để có thích thú thì phải có một thèm muốn mà nó không là đối tượng. Thích thú nảy sinh khi hành động thuận lợi và chiếm được điều mong ước.
- Gã hà tiện tham muốn được nhiều tiền. Đối tượng gã theo đuổi là tiền, nhưng trong lúc được nhiều tiền, thì gã cảm thấy thích thú. Đối tượng gã hà tiện theo đuổi không phải là thích thú, nhưng là tiền.
- Thích thú chỉ thoả mãn một tham muốn nhất thời, còn vui mừng nhằm thỏ mãn toàn thể con người. Chỉ có vui mừng khi ta vượt được thất bại, và tạo cho mình được một tiến bộ trong hiện hữu.
- Vui mừng là báo hiệu của sự thành công. Nhưng chỉ có thành công khí có sáng tạo, nghĩa là khi làm xuất hiện một thực tại mới mẻ. Bà mẹ vui mừng vì đã sinh ra đứa con, đã gây dựng cho nó nên người. Thương gia vui mừng vì công việc của mình thịnh đạt dưới sự lèo lái khôn khéo của mình.
- Vui mừng đến trong lòng ta như một phán xét, không phải về thực tại, nhưng về giá trị của đời sống ta, chỉ có vui mừng khi ta ước lượng mình đã thành công.
- Chỉ có thành công trong đời sống ta khi có sự sáng tạo. Sự sáng tạo này có thể xảy ra ở mọi người, trong mọi lúc, vì đó là sự sáng tạo bản thân bởi chính mình, sự trưởng thành của bản ngã lấy ít làm ra nhiều, và thêm lên luôn mãi. Nhờ sáng tạo của con người, tạo vật sẽ thêm phong phú.
- Hiện hữu và giá trị có quan hệ mật thiết với nhau. Vui mừng là dấu chỉ có phong phú trong hiện hữu, và có hoàn bị trong giá trị.
- Vui mừng xuất hiện nhờ hành động, nhưng cũng làm cho hành động xuất hiện và trở nên nhẹn nhàng.
- Vui mừng là một sức mạnh âm thầm giúp ta dễ thành công trong hành động.
- Vui mừng phát xuất từ những hành động trong đó ta được sử dụng tự do, hơn là từ những điều ta thụ hưởng.
- Vui mừng là cảm nghiệm ta đã dùng thì giờ nên. Nó là dấu chỉ không những thời gian không làm cho ta tàn tạ, nhưng còn củng cố cho hiện hữu ta thêm vững vàng hơn.
- Trong vui mừng có thể lộ dạng của hạnh phúc, nhưng có thì cũng chỉ là cảm nghiệm vắn vỏi trong chốc lát. Vui mừng ở đời này không bền bỉ được. - Quá cùng cực về vật chất, trí tuệ và tinh thần đều làm cho vui mừng không có được. - Khi tâm hồn vui mừng, người ta dễ có lòng trông cậy. - Khi người ta không còn một tia hy vọng nào, thì không thể vui mừng được nữa. Lúc ấy chỉ có tình yêu mới có thể giúp ta vượt khỏi thất vọng, vì chỉ có nó mới đem lại sức mạnh để đợi chờ.
Trong tranh đấu của đời sống, khi ta thất bại thì tiếng vọng vào chủ thể và cảm xúc là đau khổ.
- Con người phải đau khổ vì mọi điều họ ý thức đều có tính lưỡng diện. Thánh Phaolô nói về tình trạng này như sau: “Tôi làm điều tôi muốn, và muốn điều tôi không làm”. Trong tôi, luôn có hai ý muốn xung đột với nhau, nó làm cho lương tri của tôi luôn bị day dứt, chia sẻ.
- Nỗ lực đầu tiên để vượt qua đau khổ cho một người là chinh phục con người khác trong mình, để nó trở nên một người bạn hay ít nhất là một người mình có thể tâm sự.
- Hai ngàn năm trước Tây lịch, ở Ai Cập đã có người viết về: “Câu truyện của một người thất vọng với linh hồn mình” như sau: “Hôm nay, tôi sẽ nói với ai được! Tôi bị khốn cực dồn dập mà không có ai để tâm sự. Hôm nay sự chết ở trước mặt tôi như khi trời vén mây, như khi một người được khai sáng điều mình không biết”.
- Không phải chỉ có tác giả “Cung oán ngâm khúc” mới coi đời là bể khổ, ông Lavelle, một triết gia lạc quan, cũng phải công nhận: “Đau khổ là thiết yếu của cuộc đời và các nỗi đau đớn khác nhau chỉ là những cách và những hình thức khác nhau của đau khổ mà thôi”.
- Đau khổ là phải chấp nhận một điều mà mình cảm nghiệm sâu sắc rằng phải từ chối.
- Thân phận con người không tránh được đau khổ khi muốn sáng tạo, tiến triển và thương yêu.
- Trước khi cho ra đời một con người thì phải mang nặng, đẻ đau. Trước khi cho ra đời một công cuộc văn háo, xã hội thì phải tìm hiểu, suy nghĩ, làm việc, tạo điều kiện.
- Để tiến triển, con người luôn phải lội ngược dòng. Ngày nay ai cũng thấy rõ để trở nên một lực sĩ có hạng, người ta phải tập dượt, rèn luyện vất vả như thế nào?
- Tình yêu ngầm chứa hy sinh, quên mình. Từ anh thợ trẻ, đồng lương ít ỏi, phải nhịn quà sáng nhiều ngày để lấy tiền mua một kỷ niệm cho người yêu ngày sinh nhật của em đến người cha gia đình cặm cụi làm việc suốt ngày, đắng cay luồn cúi để khỏi mất việc, đề đã chịu đau khổ chỉ vì thương yêu.
- Để chứng tỏ sự hiện hữu của mình trong thế gian, con người luôn phải chiến đấu, trải qua gian nan, thử thách. Quan hệ giữa người với người bắt đầu không bằng tình bạn, nhưng bằng tranh chấp. Quan hệ giữa người với thiên nhiên là một cuộc giành giật không ngừng quyền chủ trị.
- Tinh thần không tác biệt với sức sống thể chất, nhưng nó chỉ là tinh thần khi từ chối sức sống ấy lúc phải từ chối.
- Hiền nhân quân tử thì cũng phải chấp nhận với Hồ Xuân Hương rằng: “Có đĩ thì mới có hiền”, nhưng muốn là hiền nhân thì không được sống dâm ô.
******
- Có hai loại đau khổ. Một thuộc phạm vi vật chất. Ở phạm vi này, theo lý thuyết, người ta có thể khắc phục được nhờ ở y khoa, khoa học, kỹ thuật. Nhưng trong thực tế, việc khắc phục không luôn dễ dàng. Y khoa vẫn tiến và người ta vẫn chết. Khoa học, kỹ thuật vẫn tiến, nhưng thiên tai vẫn cứ xảy ra. Một do hạnh phúc và đau khổ luôn pha trộn, xâm lấn vào nhau. Một tình yêu, dù đẹp nhất, cũng vẫn gây chờ mong, khắc khoải, lo âu, ghen bóng, ghen gió.
- Đau khổ đe doạ cuộc đời vật chất của ta. Trái lại, hạnh phúc đe doạ chính đời sống ta. Thiên đàng ở trần gian sẽ là một nơi nhạt nhẽo; chỉ có hạnh phúc, đời người sẽ là một giấc ngủ say. Không tương lai, không hy vọng, không tiến triển thì không còn đời sống nữa.
- Người ta thường nói: “Các dân tộc sung sướng không có lịch sử”. Diễn tả theo triết lý, ta phải nói: không có hạnh phúc trên trần gian.
- Jaspers viết: “Sự thật về hạnh phúc xây trên nền của thất bại”. Và Newman viết: “Phải lo ngại ì không có gì để lo ngại”.
- Không những hạnh phúc chẳng bao giờ đạt được ở đời này, mà tưởng rằng mình đả đạt được cũng là một điều đáng lo ngại.
- Pascal nói: “Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người đi treo cổ tự vẫn”. Như vậy khi đi tìm hạnh phúc, người ta không biết mình đi tìm cái gì. Nhưng đã không biết vật mình tìm, thì làm sao thấy được nó.
- Với nhiều người, hạnh phúc là những thoả mãn tạm bợ và tương đối mà họ nông cạn biến nên vĩnh cửu và tuyệt đối trong thời gian. Nhưng làm gì có vĩnh cửu và tuyệt đối trong thời gian.
- Theo kant thì ý niệm hạnh phúc không thể xác định được. Ta có quyền và khả năng làm cho ta nên sung sướng, nhưng ta chỉ có thể làm cho ta đáng được hạnh phúc mà thôi.
- Ta có thể lo liệu để có chức quyền, danh vọng, giàu sang, nhưng chức quyền, danh vọng, giàu sang chưa chắc đã đem lại được cho ta hạnh phúc.
- Trong cuộc đời, cám dỗ nguy hiểm nhất cho ta không phải là lạc thú, nhưng hạnh phúc. Nó làm cho ta lầm tưởng rằng đời mình đã đạt, và dừng lại giữa đường trong lúc phải tiến lên.
- Hạnh phúc là sản phẩm của tưởng tượng chứ không phải của lý trí, vì nó là một tình trạng, mà đã là tình trạng thì không còn biến đổi ở điều gì được nữa, vì nếu có một biến đổi dù nhỏ thì ta cũng không còn tình trạng ấy nữa. Nhưng đời người luôn biến đổi không ngừng.
******
- Ước vọng hạnh phúc là ước vọng vĩnh viễn thoát khỏi thất bại. Nhưng đời người là một chuỗi thất bại và thành công. Người ta phải chấn chỉnh mỗi ngày. Đó là điều người ta gọi là tiến bộ.
- Cái may lớn nhất của đời người là đừng bao giờ được hưởng hạnh phúc hay phải chịu cùng cực. Hai thái cực ấy đều làm cho ta mất hứng để mà sống.
- Hạnh phúc không tốt nếu ta coi nó như một mục đích ở tự nó, không tốt nếu ta coi nó như chân trời của mọi mục đích ta theo đuổi. Nó không tách rời với cách nhìn toàn diện, và chỉ có nghĩa cho con người như sự kiện toàn chung cục. Ta không được muốn nó ở tự nó và cho chính nó, nhưng ta có thể muốn nó như cái gì thêm vào cho sự kiện toàn bản thân của ta.
- Định mệnh của con người là hướng về hạnh phúc, vì ta có bổn phận phải chống lại đau khổ và buồn phiền do thất bại gây nên. Thầy thuốc phải loại trừ bệnh tật, nhà kinh tế phải loại trừ phá hoại và lãng phí, nhà giáo dục phải loại trừ sự ngu dốt...
- Dù ai cũng nhận thấy mình có trách nhiệm phải đẩy lui đau khổ, nhưng ai cũng biết rằng chẳng bao giờ đau khổ biến đi trên thế gian, vì không còn đau khổ, con người sẽ đánh mất tự do, nghĩa là khả năng đánh mất hạnh phúc của mình.
Chiến đấu là qui luật và là cơ cấu của con người. Chẳng ai thành công mà không phải chiến đấu.
- Chiến đấu biểu lộ lưỡng tính mà thân phận làm người phải gánh chịu. Là người ai cũng cảm thấy rạn nứt âm thầm nhưng bền bỉ ngay trong bản thân rằng mình không ăn khớp với chính mình.
- Tai họa lớn nhất trong nội tâm của con người là không vượt qua được chia rẽ trong ý thức tâm lý và cảm nghiệm quãng cách giữa mình với chính mình. Ý thức luân lý luôn cố gắng để rút ngắn quãng cách nói trên, và tìm cách tổng hợp hai hình thức bản ngã ấy.
- Nói đến ý thức về bản thân, người ta nghĩ ngay đến cảm thấy là hai, mà phải trở nên một.
- Lý tưởng của hiểu biết nơi con người là trực giác. Nhưng họ không có thể đạt được lý tưởng này, vì đối tượng của hiểu biết là một tổng hợp đã hoàn thành, và chủ thể của nó là một tổng hợp cần phải thể hiện. Thật vậy, mọi khoa học đều là những kinh nghiệm đã được quan sát, thử nghiệm, tổng hợp trong một hệ thống định luật chung và mọi chủ thể hiểu biết chỉ thực sự là chủ thể duy nhất khi đã phối hợp được các dữ kiện của hiểu biết mình có trong một tổng hợp.
- Chẳng có sinh hoạt nào của con người mà lại không có chiến đấu, kể từ chiến tranh đến tình yêu. Thật vậy, trong cả hai hiện tượng nói trên, đều có kẻ thắng người thua. Chỉ khác một điều là trong chiến tranh kẻ thắng người thua rõ ràng; còn trong tình yêu, ai cũng nghĩ rằng mình thắng cho tới lúc vỡ mộng nhận thấy mình cho đi thì nhiều mà nhận được chẳng là bao nhiêu.
- Ở con người có một bản năng căn bản là chiếm đoạt và làm chủ. Họ muốn cho kẻ khác thất bại, và ở tình trạng ấy luôn mãi. Đó là điều người ta mong ước trong chiến tranh; đó cũng là điều người ta mong ước giữa đôi trai gái yêu nhau.
- Pháp lý không loại sức mạnh và tươi quan các sức mạnh, nhưng luôn giả định chúng.
- Ai cũng biết rằng bạo lực là bất công, nhưng người ta không thắng nổi bất công, nên người ta dùng bạo lực để chống bạo lực và đưa về lẽ phải: vai trò của tòa án là như vậy.
- Mọi lên án tuyệt đối bạo lực đều giả hình vì như vậy người ta không phân biệt hành động bạo lực và tình trạng bạo lực. Nhiều lần để duy trì một tình trạng bất công, người ta tố cáo gắt gao và ầm ĩ các việc bất công.
- Không có thể lên án hay chấp nhận một lần cho xong bạo lực. Phải nhân hóa nó, rèn luyện nó trong lúc đề phòng cẩn thận những tái phát bất ngờ của nó.
- Không có an toàn xã hội nếu không có cơ quan trật tự, nghĩa là bạo lực. Không có tiến bộ trong sự thật nếu không có phê bình, quở trách, nghĩa là trật tự tinh thần.
- Chẳng có ai sống mà lại không nhờ vả vào một bạo lực đang được áp dụng trong nơi mình ở. Cả những người “bất bạo động” cũng chẳng làm chứng được gì nếu không có những việc bạo động gây công phẫn trước dư luận, tạo nên bầu khí thuận lợi cho họ.
- Lịch sử chứng tỏ rằng: tình trạng bạo lực chỉ biến đi nhờ những hành động bạo lực. Các hành động ấy đã đành cũng là bất công.
Để thắng bạo động, nhiều danh nhân đã nghĩ đến tình yêu. Nhưng triết lý hay thần học về tình yêu vừa trở nên có hệ thống liền trở nên nhạt nhẽo. Lý do là tình yêu nơi con người có những giới hạn và những thất bại riêng của nó. Nó chỉ đem lại vui hưởng trong chốc lát, còn thời gian tìm hiểu luôn là một đấu tranh, vì có nền tảng ở chất vấn, đương đầu giữa người yêu nhau.
- Một hữu thể chỉ cảm thấy mình bị phân chia khi ước mong được duy nhất.
- Nói rằng tranh đấu gây chia rẽ cũng là quả quyết rằng: đời sống thật là một cuộc chiến tranh; nhưng cũng vì đó mà ta hy vọng sẽ được hưởng hòa bình.
Tha hóa là trở nên người khác, xa lạ với chính mình và không còn bản thân mình là của mình nữa.
- Nguyên nhân tha hóa thì có nhiều, nhưng chung qui vẫn là có lỏng lẻo hay gián đoạn trong liên lạc giữa bản thân với lãnh vực vật lý hay xã hội trong đó mình sống.
- Người ta luôn bị đe dọa trở nên xa lạ với chính mình khi trở nên xa lạ với kẻ khác và thế gian. Khi rơi vào tình trạng này, ta gây một thảm hại cho cả giống nòi, vì ta không còn nhân tính nữa.
- Có một điều đáng buồn cho nhân loại là có nhiều người không còn ơ trong nhân loại nữa, vì ở họ nhân loại ở ngoại diện không còn ăn khớp với nhân loại ở nội hàm nữa: kẻ gian phi ở ngoại diện là một người, nhưng ở tâm hồn không xứng đáng là một người có tư cách của con người nữa.
- Đã trải qua bao nhiêu ngàn năm mà nhân loại vẫn chưa đạt đến mục tiêu sơ đẳng nhất của mình: như có đủ của ăn để nuôi thân, có đủ thuốc để chữa bệnh, có đủ giáo dục để nên người.
- Văn minh loài người đã tiến bộ rất nhiều. Trong tổ chức xã hội, người ta đã đi từ cưỡng ép đến tự do: trong lao động, người ta đã đi từ nô lệ đến chủ trị thiên nhiên... Nhưng nhân loại vẫn chưa dứt bỏ được hẳn với các tha hóa mà lịch sử ban đầu của mình còn để lại: tiền của vẫn là ngẫu tượng, kỳ thị chủng tộc vẫn đưa đến những đối xử bất công...
- Ngày nay, những lo âu của đời sống xã hội đã thay thế cho lo âu trước quyền lực của thiên nhiên, tha hóa kinh tế đã thay thế cho tha hóa bằng vũ lực. Nhưng hai phần ba nhân loại vẫn sống trong thiếu thốn cả về thể chất lẫn tinh thần ở một mức độ không còn giữ được phẩm giá con người nữa.
- Xem ra tình trạng bất công nói trên có thể giải thoát được nếu loài người có sự tươi trợ lẫn nhau hơn và có một tổ chức kinh tế công bình hơn. Nhưng đến nay, tiến bộ về khoa học, kỹ thuật chỉ đem lại lợi lộc cho một số nước tiên tiến. Họ biến cơ cấu xã hội và giao lưu hàng hóa thành một bộ máy bóc lột tinh vi những nước nghèo nàn, lạc hậu.
******
- Lớn lên ở vật lý chưa phải là phát triển và phát triển kinh tế chưa phải là hoàn chỉnh bản thân, vì có của cải dư dật chưa phải là tất cả ước vọng của con người.
- Với con người, mọi tiến bộ đề hàm chứa một cái nguy nội tại: những đồ con người sản xuất ra có thể biến từ vật dụng đến sự vật.
- Vật dụng là đồ con người chế biến ra để giúp đỡ mình trong đời sống, nó đã được nhân hóa và có để phục vụ con người.
- Sự vật là các hiện tượng trong thiên nhiên ở trước mắt con người. Chúng có ở tự chúng và chưa được nhân hóa. Chúng có thể làm chủ người có chúng.
- Khi vật dụng trở nên sự vật, quá trình này sẽ đảo ngược chiến thắng của con người trên sự vật. Thay vì bắt sự vật phục vụ mình thì con người lại trở nên nô lệ của sự vật.
- Sau đây là một vài thí dụ về sự vật hóa các vật dụng:
Tiền của người ta phải sử dụng để phục vụ cho các nhu cầu của mình và của kẻ khác. Nhưng thay vì sử dụng nó như vật dụng, nhiều người coi nó như sự vật mình phải tích góp, nhưng không được sử dụng. Lúc ấy, thay vì để con người điều hành vì ích lợi của họ, tiền của đã trở nên ông chủ điều động đời sống của họ.
- Lao động là hình thức sơ khai và nền tảng của mọi quan hệ xã hội. Nhưng quan hệ này rất sớm hình ảnh quan hệ giữa sự vật: một đọ sức để nắm quyền làm chủ.
- Lao động nhằm vào sản xuất. Sản xuất là trung tâm mọi quan hệ và trung gian nhân loại phải có với nhau. Nó có thể biến nên sự vật tự tại, tùy thuộc ở những quy luật khách quan, không dính líu gì đến con người cả. Và như vậy, trong sản xuất người ta có thể coi mình và kẻ khác là sự vật, mất can đảm và tin cậy, và nhìn thế gian như một sức mạnh thù địch đe dọa mình.
- Thế gian không phải chỉ là sự vật ta phải tìm hiểu để chinh phục, nó còn là vật dụng trực tiếp hay gián tiếp mà ước vọng làm cho ta yêu mến và muốn có.
- Con người là một nhân vị hay một sự vật tùy ở như ta có hiệp thông với họ và có tìm được vui thỏa ở họ hay không.
- Con người và môi trường trong đó họ sống làm nên duy nhất biện chứng mỗi bên đều đem lại lẫn cho nhau ý nghĩa. Chẳng có ý nghĩa nào mà lại không do hoạt động liên đới của cả hai bên. Nếu sự liên đới trên rối loạn, con người liền mất hướng đi, cảm thấy mình không còn ý nghĩa cho chính mình nữa.
- Đe dọa thường xuyên có thể đến đến cho con người là thất bại trong cuộc sống, nghĩa là trong hiện diện của mình giữa thế gian. Thiếu những liên hệ sống động với thế gian con người sẽ cảm thấy trống rỗng và bị đe dọa trầm trọng rơi vào tha hóa.
- Khi quan hệ của ta với thế gian sai lạc thì ta cảm thấy chán nản, vì ta không còn nắm giữ được ý nghĩa của thực tại nữa. Thật vậy, sự vật trong thế gian chỉ trở nên thực tại cho ta khi nó có ý nghĩa cho đời ta.
- Trong con người có một xu hướng nguy hiểm là muốn trở nên sự vật và phục vụ cho các sản phẩm mình làm ra để nên vật dụng cho đời sống mình. Đó là xu hướng thờ bò vàng mà Kinh Thánh đã nhắc đến như một tội quái gỡ của dân Do Thái.
- Con người củng cố hiện hữu của mình bằng những sáng tạo của họ ở các phạm vi xã hội, luân lý, nghệ thuật, khoa học... khi các sáng tạo ấy xảy ra vì con người thì có sự hài hòa, nhưng nếu con người sống vì chúng thì họ đã tha hóa.
- Ngày nay, nhờ hiểu biết của mình, con người đã tạo nên được nhiều vật dụng cho nhu cầu của mình, dầu vậy, xu hướng biến nên sự vật, tha hóa và thờ ngẫu tượng, tuy thay hình đổi dạng, nhưng vẫn sống động, vì thế trách nhiệm tự giải thoát bản thân luôn vẫn cấp bách. - “Được cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích g씓Được cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích gì”. - Tha hóa đối lập với tự chủ. Nhưng để có tự chủ, thì phải có tự do.
Nhìn như một tính năng của con người thì tự do không chỉ là khả năng lựa chọn giữa nhiều đối tượng khác nhau và một tiến trình để đạt đến đối tượng mà ta coi là mục đích, mà còn là sự thể hiện bản thân của con người nữa.
- Nhờ có tự do, ta làm chủ được bản thân mình, và không lệ thuộc vào yếu tố vật chất để thể hiện bản thân ấy, vì ta có thể chọn yếu tố này, giũ bỏ yếu tố kia.
- Nơi con người, có nhiều tiềm năng như hiểu biết và ý chí, có nhiều lãnh vực hoạt động như tinh thần, trần thế, lịch sử, xã hội... Tiềm năng căn bản họ có để duy nhất bản ngã mình trước các tiềm năng và lãnh vực khác nhau ấy là tự do. Nhờ có nó, họ lôi cuốn tất cả vào cuộc dấn thân của mình trong đời sống.
- Tuy sự lựa chọn của tự do nhằm vào các đối tượng khác nhau, nhưng đều hướng về sự thể hiện bản thân là sự phóng nền tảng của con người. Dự phóng này trải dài trong thời gian nên các hoạt động của tự do không luôn có hiệu năng như nhau, có lúc tích cực, có lúc tiêu cực, nhưng dù thế nào chúng đều đóng góp vào việc làm cho con người có một hiện hữu cụ thể và đều nhận được ở đó sự quan trọng và trách nhiệm của mình. Không có hành động lẻ tẻ nào của tự do mà lại không qui về sự hình thành tổng hợp nói trên.
- Hoạt động của tự do, ở phát xuất ban đầu, sâu xa và toàn diện đến nỗi suy tư không có thể tách biệt nó ra khỏi bản vị con người như một đối tượng riêng được. Mọi thái độ và mọi hoạt động của con người đều qui về “hữu thể tự do” và “hữu thể có định hướng” làm nên căn tính của con người. Suy tư không thể tách rời con người và tự do được. Không có tự do, con người không còn là con người nữa, nhưng chỉ là một “rô-bô”.
- Vì tự do ở ngoài tầm tay của suy tư nên con người chẳng bao giờ nắm chắc được khuynh hướng luân lý nền tảng của mình nhờ suy luận. Họ chẳng bao giờ có thể xét mình được thấu triệt đến nỗi có thể xét xử và minh giải cho mình được vững chắc. Vì thế mà các vị thánh nhân cũng vẫn lo sợ ra trước tòa Thiên Chúa.
******
- Tự do, theo mô thức, là tiềm năng để tạo nên sự hoàn thành. Nó cho ta cơ hội làm nên lịch sử đời mình.
- Con người sống hướng về tương lai với những khả thể không bờ bến. Họ không phải là một vật đã hoàn thành và đã được xếp đặt, nhưng là chủ thể cho sự tiến triển, nhờ ở tự do của mình.
- Tự do là tiềm năng con người có để tạo cho mình một bản ngã, để thu xếp nhờ vào các khả thể không biết trước được, khi xảy ra quyết định lịch sử độc nhất không có thể chối từ được, nhờ đó con người thu lại tất cả quá khứ để làm nên một tương lai, và sửa soạn cho những gì chưa có sẽ xảy ra. Quyết định có tính bền vững này không làm cho trở nên vô nghĩa tiến trình luôn di động của đời người, nhưng đảm nhận nó như điều đã quyết định.
- Nhờ tự do, con người tạo cho mình một vị trí và một sự vững vàng nhờ đó họ xác định cho mình một diện mạo trong những biến đổi không tiên liệu được của đời sống mình để làm cho bản ngã mình nên vĩnh cửu. Vì thế mà tự do đưa đến tất yếu bền vững: kẻ lành sẽ tốt lành vĩnh viễn, và kẻ dữ sẽ vĩnh viễn xấu xa sau khi chết.
- Trong cái nhìn trên, con người chẳng bao giờ bắt đầu từ “không”. Họ chỉ có thể đổi mới những gì mình đã quyết định như tiêu biểu cho bản ngã mình mà thôi. Nhìn tự do như một sáng kiến tuyệt đối sẽ vô nghĩa.
- Nghĩ với Sartre rằng mọi quyết định của mình đều có giá trị như nhau vì mình có tự do là ảo tưởng.
- Như con người hữu hạn, tự do của họ cũng hữu hạn. Như mọi hoạt động khác của con người, tự do phải đi từ ý tưởng đến thể hiện, và việc thể hiện luôn lệ thuộc vào các cảnh huống của một thể xác vật chất có sẵn như chất liệu cần cho việc thể hiện thật sự. Người có thân thể yếu đuối không vì muốn mà trở nên lực sĩ có hạng được.
- Vì có yếu tố thể xác vật chất nên tự do luôn bị đặt vào những ảnh hưởng của bên ngoài. Quyết định của nó không tách rời ra khỏi một thế gian mà nó không trốn tránh hay giũ bỏ được. Vì hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa của xứ sở mình, một thanh niên trong thế giới thứ ba không có thể quyết định cho mình một “lối sống”, y hệt như một thanh niên Tây phương.
- Người ta không tự do vì có một dự phóng theo ý riêng mình hay một quyền tự chủ nội tâm không nao núng bằng vì biết đón nhận để lắng nghe và dàn xếp ở nội tâm với những gì xảy ra không tránh được. Một ngôi sao bơi lội, vì một tai nạn làm cho anh mất lanh lẹ và sự dẻo dai cần có, biết từ giã các cuộc đua tài và đi vào con đường huấn luyện viên là người có tự do nội tâm thật.
- Với người Kitô hữu, những hoàn cảnh xảy đến không tránh được nói trên thường được giải thích như dấu chỉ quyền tối thượng của Thiên Chúa để thử thách tự do của con người.
- Với người có đức tin, cách giải thích này có thể đem lại thanh thản, cậy trông để nhìn vào sự cố một cách khách quan, sáng suốt để có những thích ứng phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Họ không tách rời tự do và trách nhiệm, họ chỉ có tự do thật khi làm tròn trách nhiệm của mình. Gương người tự do thật là Đức Kitô vâng lời ngôi Cha đón nhận cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại khỏi cái chết đời đời.
- Nhiều người đã quên trong giải thích trên yếu tố tích cực là làm tròn trách nhiệm mà chỉ nghĩ đến yếu tố tiêu cực là chịu đau khổ. Họ khuyên người bị thua thiệt, rủi ro ở đời rằng: “Hãy vui lòng chịu vì Chúa”. Chúa không muốn người ta chịu đau khổ, Chúa muốn người ta lướt thắng đau khổ để làm tròn trách nhiệm. Tự làm khổ mình là một quái tật, chứ không phải là một nhân đức.
******
- Trong những hoàn cảnh cụ thể, việc thể hiện tự do bao giờ cũng đã có những con đường có ý nghĩa mở ra để ta lựa chọn. Vì thế, tự do trước một cảnh ngộ chẳng bao giờ hoàn toàn trung lập, dửng dưng. Nó là hiệu quả của một quyết định, một cách nào đó, đã có từ trước. Con cái Ađam chẳng bao giờ vô tư; ngay sau khi sa ngã, họ đã có một xu hướng về sự dữ. Vì thế, trong mọi quyết định tự do trước các cảnh huống xảy đến, bao giờ họ cũng phải chọn giữa hai con đường vâng phục Thiên Chúa hay tách rời và đối lập với thánh ý Người.
- Điều vừa trình bày nhìn thấy rất rõ trước đau khổ và sự chết. Chẳng có ai lại đón nhận các biến cố ấy một cách ngây thơ, không vấn đề. Người ta có thể nổi loạn, thất vọng hay cậy trông, kiên nhẫn tùy ở trước đây họ đã có những xác tín nào.
- Tự do của con người còn bị chi phối bởi thời gian nữa. Mỗi người có một lịch sử nội tâm riêng của mình.
- Là người, ta phải có một dự phóng luân lý nền tảng. Nhưng tự do không xuất hiện trong một nối tiếp hoàn hảo và dứt khoát. Nó gồm có một chuỗi những hoạt động tự do nối tiếp nhau, dị biệt nhau không những ở cường độ mà còn ở đường hướng nữa. Vì thế mà nó có thể có nhiều hình thức như trung thành với quá khứ, hối hận, đổi mới...
- Ở đời này “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” mới là “lời hứa và đối tượng của trông cậy” (Rm 8,21).
Sự chết là một thất bại hoàn toàn của hữu thể thực nghiệm. Nó chấm dứt sự sống và hoá thạch con người. Với nó, không còn biến đổi, không còn dự phóng gì nữa. Nhưng dù vậy, với con người, sự chết chưa phải là thất bại hoàn toàn, một vô nghĩa tuyệt đối.
- Con người không phải chỉ là một sinh vật có cùng, phải chết, họ còn la sinh vật biết mình phải chết và biết đương đầu với sự chết. Họ không những có một thân thể phải tan rã với sự chết, nhưng còn có một ý thức biết mình phải sống để mà chết. Đó là vì con người thuộc hai thế giới: thế giới tự nhiên trong đó mọi vật đều phải vâng theo những qui luật “tất định” và thế giới tinh thần trong đó qui luật là tự do: ta chỉ có bản ngã mà ta tự tạo cho mình.
- Theo Edgar Morin, con trẻ chỉ có ý thức về sự chết khi nó đã ý thức về cá nhân mình.
- Sự chết còn là một ý niệm trừu tượng bao lâu con người chưa biết sợ nó. Cái mà người ta gọi là “sự muốn sống” không phải là một bản năng có tự lúc ban đầu.
- Phải có một hoàn cảnh bất ưng đặt con người trước đe doạ của sự chết như một điều bất hạnh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, không ai có thể tránh được, thì họ mới nhận thấy đời sống mình là mong manh. Còn thông thường, người ta có một dự phóng cho đời mình như thể rằng không bao giờ mình phải chết.
- Trước đe doạ phải mất đi sau khi chết, người ta mới nhận ra rằng cái chết là của từng cá nhân. Cũng từ đó, con người ý thức về mình là một thực tại phải chết nhưng vẫn siêu việt sự chết. Họ cảm nghiệm một cách lờ mờ rằng: chết chưa phải là hết cho tôi, vì tôi còn trách nhiệm về đời sống của tôi.
- Người ta chỉ cảm nghiệm rằng mình là một nhân vị, nghĩa là một chủ thể sống cho mình và vì mình, có trách nhiệm về các việc lành dữ mình đã làm khi họ cảm nghiệm rằng mình phải chết.
******
- Nói rằng tự sát là hèn nhát chỉ đúng có một phần. Nó đòi ít nhất sự can đảm vật lý, và thường một can đảm luân lý nữa. Kirilov đã cho rằng: tự sát là biểu hiện sự tự do tuyệt đối nơi con người.
- Nếu ta không được tự sát, trước hết là vì ta có thể làm được việc ấy, không ai cấm ta điều ta không làm được. Nhưng cũng vì sự sống là một phẩm giá tự ta không ban cho mình được, nên ta không co quyền tiêu diệt.
- Với người còn sống, sự chết chỉ là một hình ảnh mình có trong trí khôn, nhưng hình ảnh ấy hiện diện trong mọi tác động của đời sống. Chẳng có gì ở đời này mà lại không qua đi. Vì thế kinh nghiệm về sự chết không những là sự khiếm diện, mà còn là sự hiện diện nữa.
- Trong các văn minh lớn, con người tôn trọng sự sống, nhưng lúc cần, cũng biết coi thường sự chết.
- Người chết ám ảnh người sống, đó là điều cắt nghĩa tại sao trong nhiều dân tộc sự chết không làm cho người ta sợ bằng người chết.
******
- Vấn đề đời sau là giải đáp tự nhiên của nhân loại cho thất bại cuối cùng của đời sống là sự chết, vì với người có sáng kiến, khi gặp thất bại, thì phải có chấn chỉnh lại, và sự chấn chỉnh ấy thường là cuộc sống đời sau của bản ngã tinh thần khi bản ngã vật lý đã tiêu tan.
- Như ta thấy ở trên, con người ở trần gian chẳng bao giờ cảm thấy mình là một, họ luôn thấy ở nội tâm họ như có hai bản ngã trái ngược nhau. Trước sự chết, họ hy vọng rằng bản ngã vật lý của họ tiêu tan, nhưng bản ngã tinh thần vẫn còn. Định nghĩa về sự chết như chia lìa của thể xác với linh hồn là thuộc về quan niệm này.
- Giải đáp trên không thoả mãn kinh nghiệm toàn diện mà nhân loại có về cái chết như xảy đến không riêng cho một phần nào, nhưng cho tất cả các phần làm nên con người.
- Vì cái chết, ta thấy rõ đời người là mong manh, nên nó mở cửa cho ta bước vào “hiện hữu” thật sự trong đó ta không còn sống nguyên nhờ hiện hữu thực nghiệm nữa.
- Tính siêu việt và ý nghĩa của sự chết ở tại nó biến đổi cuộc sống nên sự hiện hữu. Nhưng hiện hữu siêu việt này chỉ có được khi ta đã loại bỏ được ý niệm một đời sống thực nghiệm khác. Sau khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng, nhưng sống như các thiên thần.
- Hiểu như trên, sự chết là thất bại lớn nhất của con người lại là dịp cho họ khám phá ra khả năng hiện hữu vô biên của mình.
- Lúc ta khám phá ra sự chết cũng là lúc ta khám phá ra các lý do để sống.
Hy vọng là động lực cho hành động vì ta chỉ hành động khi ta tin rằng ta sẽ đạt được kết quả mình mong muốn.
- Vì con người có sáng kiến và tự do, nên không những họ phải thích ứng với thiên nhiên, mà còn phải vượt trên thiên nhiên nữa.
- Khả năng siêu việt thiên nhiên đến để quân bình khả năng thích ứng với thiên nhiên, và mở đường cho hoạt động của trí tưởng tượng. Khả năng này bỏ lại đằng sau quá khứ, không sa lầy trong cảnh huống hiện tại, và mở ra cho tương lại những khả thể mới. Nhờ đó, con người luôn được thức tỉnh để tránh hành động máy móc và thái độ thụ động. Nó chắp cho con người đôi cánh hy vọng để bay trên các sự kiện và biến chúng nên phương tiện để xây dựng cho mình một tương lai.
Ý hướng không hành động chưa là gì cả. Nó chưa là thực tại. Nhưng hành động không ý hướng cũng không phải là hành động của một người, mà chỉ là hành động của một “rô bô”. Vì thế Hegel đã viết: “Sự thật của ý hướng là hành động”. Nói cách khác: nơi con người, mọi hành động đều có một ý hướng, nghĩa là một tiêu chuẩn phải đạt được. Và vì thế hành động không tách rời với cậy trông được.
- Trong bất cứ phạm vi hoạt động nào của đời sống như nghệ thuật, văn hoá, tôn giáo, kinh tế, chính trị... chẳng bao giờ ta thoả mãn với những điều mình đã có. Ý hướng luôn là cái óng đi trước hành động.
- Nếu không phân tích, thường không phân biệt hành động và ý hướng là động lực của nó: chúng quyện vào nhau, và nâng đỡ nhau. Phân biệt lý thuyết và thực hành là nguồn gốc phân chia trong nhân loại những nhà trí thức bất lực, và những tên trộm cướp vô trách nhiệm. Nó đưa đến đồi bại cho trí tuệ. Nhưng dù vậy, chẳng có ai thống nhất được hoàn toàn tư tưởng và đời sống.
- Hành động luôn thêm vào hiệu quả ý hướng mong đợi những hiệu quả mà ý hướng không mong đợi. Chúng có thể tốt mà cũng có thể xấu. Chúng là những sự ý hướng không ngờ, mà cũng chẳng làm chủ được.
- Ta không thuộc về thế gian, nhưng ta phải sống trong thế gian. Ta không được ngập lụn trong thế gian, nhưng ta phải thể hiện bản thân trong thế gian. Ai cũng có trong thâm tâm một cái gì không thuộc về mình, nhưng mình có trách nhiệm phải khắc phục.
- Chỉ có tự do khi gặp trở ngại. Nó không còn là tự do khi nó chấp nhận mọi đòi hỏi của thiên nhiên, nhưng nó cũng không còn là tự do khi nó theo đuổi một sự vô điều kiện tuyệt đối không có được trong đời sống. Tự do cho ta kinh nghiệm mình không hoàn toàn là chủ bản thân mình, và ở bản thân mình, vẫn có gái gì vượt ra ngoài chủ trị của ta.
- Mỗi lần thắng được trở ngại, ta cảm thấy mình làm chủ được đời sống hơn và ý thức rõ ràng hơn rằng mình đã xây dựng kiên cố thêm bản ngã của mình.
- Thành công liên tiếp làm cho ta cảm nghiệm rằng: mình hiện hữu mỗi ngày một vững vàng hơn. Nó đem lại trông cậy mình sẽ đạt đến thành công cuối cùng. Sự trông cậy này giúp ta chiến thắng các trở ngại một cách dễ dàng hơn.
- Bao lâu con người còn trông cậy, nghĩa là còn chờ đợi và mong ước ở tương lai một cái gì dù không rõ ràng, và còn tò mò về điều gì sẽ xảy ra, thì dù đời có gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nó cũng vẫn không bế tắc.
- Chờ đợi cho ta khám phá ra cả cái ta không chờ đợi; trông cậy cho ta nhìn thấy cả cái ta không trông cậy.
- “Nhờ đức cậy, ta được cứu rỗi, nhưng điều trông cậy mà thấy thì không phải là trông cậy nữa, vì điều gì đã thấy thì còn trông cậy làm gì nữa? Nhưng nếu ta trông cậy điều ta chưa thấy, thì ta phải nhẫn nại trong khi chờ đợi” (Rm 8,24-25).
Nói đến tôn giáo, thường chúng ta không thắc mắc gì về ý nghĩa của từ ấy. Nó gợi ngay lên cho chúng ta một số hình ảnh và ký ức rất quen thuộc vì chúng làm nên một phần của kinh nghiệm hằng ngày đời sống ta. Từ lúc mới bước vào đời, trong tia đình, ta đã được đưa vào thế giới tôn giáo với bàn thờ, ảnh thánh, câu chuyện người hiền kẻ ác, Đức Kitô, Đức Phật... Khi có trí khôn, ta được học giáo lý, dự các lễ nghi tôn giáo, thông hiệp với các người đồng đạo trong một niềm tin, một nhân sinh quan... tôn giáo đối với mỗi người là tôn giáo của mình.
- Chắc rằng trong thế giới đa dạng ngày nay, ta luôn gặp những người có tôn giáo khác tôn giáo của ta, nhưng ta phán đoán về đạo lý và nghi lễ của họ theo mô hình về đạo lý và nghi lễ của ta, nên ta nghĩ rằng chẳng cần phải suy nghĩ nhiều để hiểu biết tôn giáo là gì.
- Khi đề cập đến tôn giáo, cần phân biệt hai phạm vi khách quan và chủ quan.
Ở phạm vi khách quan, tôn giáo là một hiện tượng xã hội bao gồm tất cả thái độ và tập tục của những người có chung một tín ngưỡng. Nó gắn liền với địa phương, văn hoá và giáo dục của mỗi người.
- Nhưng tôn giáo khách quan chẳng có gì gắn bó với ta. Ai cũng có thể thế nó cũng như biết sông núi, ao hồ, rừng cây của một địa phương. Để là người của một tôn giáo, biết nhiều về tôn giáo ấy chưa đủ, còn phải có tinh thần tôn giáo và nhìn tôn giáo của mình với đức tin.
- Tôn giao là một tình trạng chủ quan của mỗi người, nhưng lại được tiếp nhận ở mỗi người dưới hình thức những sự kiện khách quan và những tập tục xã hội.
- Thực tại khách quan của tôn giáo không tạo nên được lòng tin, nhưng chỉ khơi dậy và nuôi dưỡng. Đức tin là một thực tại nội tâm, có tính cá nhân. Nó đến để bổ khuyến cho thực tại khách quan và biến một người biết tôn giáo nên một tín đồ.
- Thiếu đức tin, thái độ và hoạt động của một tín đồ không còn thật sự là những sinh hoạt tôn giáo nữa.
- Với người không có đức tin, tôn giáo chỉ là một mớ tập tục và tín ngưỡng lạ kỳ mà nguồn gốc đến từ xa xưa. Đó là cái nhìn của người không tin, nhưng như vậy thì không còn phải là tôn giáo nữa, cũng như xác chết khác với một người.
******
- Nhìn vào các dấu chỉ bên ngoài mà truyền thống để lại về tôn giáo, ta gặp thấy:
. Một nội dụng khách quan của đức tin gồm trong các huyền thoại, mạc khải, thông báo, chỉ thị... nội dung ấy được phổ biến bằng giáo huấn.
. Một nghi thức phụng tự gồm có một số lễ nghi thờ lạy và cầu nguyện làm nên bởi những lời, cử chỉ và thái độ đã được xác định nên có thể nhắc lại được.
. Trong nhiều tôn giáo, có ngay từ ban đầu một hàng tư tế với một số đặc quyền. Các ngài là những người được thánh thiến và có trách nhiệm giảng dạy đạo lý và cử hành các nghi lễ.
. Nếu đạo lý được viết thành sách, các sách ấy làm nên Kinh Thánh và là tiêu chuẩn cho đức tin. Bên cạnh Kinh Thánh còn có cả một nền văn chương phong phú để giải thích Kinh Thánh và để trình bày những chỉ thị mới nhằm bổ túc các chỉ thị trong Kinh Thánh.
Các dữ kiện lịch sử về tôn giáo nói trên có thể quan sát, phân tích và tìm hiểu. Nhưng nguyên lý làm nên căn tính của tôn giáo, nghĩa là đức tin sống động của người tín đồ thì lại là cái gì ở trong nội tâm của mỗi người.
- Điều ở nội tâm làm nên cốt lõi của tôn giáo được Schleiermacher gọi là “tâm tình tuyệt đối phục tùng”. Nhưng phục tùng ấy bởi đâu mà có? Rudolf Otto trả lời: “bởi kính sợ thánh thiêng”.
- Thánh thiêng thuộc tâm tình chứ không thuộc trí tuệ. Nó cũng không liên can đến luân lý như nhiều người đã nghĩ. Người ta cảm thấy nó, mà không hiểu được nó. - Để cảm nghiệm thánh thiêng, cần phải có hai điều kiện, đó là cảm nghiệm một hiện diện vô hình và cảm nghiệm sự lệ thuộc tuyệt đối của mình vào hiện diện ấy.
- Khi con người đã ý thức về thánh thiêng thì họ sẽ có một cái nhìn khác về thế gian; thế gian ở bản thân không tồn tại được mãi, nó chỉ hiện hữu nhờ chia sẻ hiện hữu của thực tại vô hình.
******
- Nếu con người có thể làm cho mình xứng đáng với hạnh phúc, họ không thể tự ban cho mình được.
- Ở đời này, các cố gắng thuộc phạm vi tri thức và luân lý nhằm đem lại sự hoàn thiện cho cá nhân, chỉ là đối tượng cho sự trông cậy, chứ chưa thực hiện được, vì bao lâu còn ở trong thời gian, người ta luôn gặp những thành bại bất ngờ.
- Tâm tình tôn giáo trước thành bại của cuộc đời là liên lạc giữa cố gắng và ân sủng, giữa thanh tẩy và hiệu quả, giữa mời gọi và dâng hiến.
- Như đức cậy siêu việt mọi hy vọng, sự thánh thiện siêu việt mọi hình thức hiền nhân. Một bên là ý chí hướng về Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành, một bên là ý chí hướng về tổ chức đời sống và tự lập bản thân.
- Chẳng có tình yêu nào không đem lại đau khổ, nhưng bao lâu ta còn tình yêu, ta vẫn vui mừng vì thấy mình hiện hữu, nghĩa là đang sống ở nội tại trong tin tưởng và hành động của mình.
- Trong kinh nghiệm của người có đức tin, chẳng có thất bại nào không chuộc lại được bằng tình yêu.
- Tôn giáo là dấu chỉ nhu cầu siêu hình bất diệt trong nhân tính qua các thời đại. Sự cao quý của nó ở tại nó đáp lại nhu cầu bổ sung siêu cảm giác nơi con người. Nhưng nhu cầu này họ không tự ban cho mình được.
- “Nào, con người nhỏ bé, hãy trốn các bận rộn của bạn ít lâu, hãy dứt bỏ các tư tưởng nhộn nhịp của bạn chốc lát, hãy quên đi những lo âu vất vả, hãy xao lãng những bận bịu nhọc nhằn của bạn. Hãy để ít thời giờ nghĩ đến Thiên Chúa và hãy nghĩ ngợi ít lâu trong Người (...) Chúa là Thiên Chúa của con mà con không hề thấy Chúa, Chúa tạo dựng nên con, Chúa tái tạo con, hết mọi sự lành của con đều do Chúa ban cho mà con chưa biết Chúa. Con được tạo dựng để xem thấy Chúa, thế mà con chưa làm được điều con được tạo dựng để làm (...) bao giờ Chúa ngoảnh mặt nhìn đến chúng con và tỏ dung nhan Chúa cho chúng con? (...). Lạy Chúa, hãy nhìn xem, hãy nghe, hãy soi sáng chúng con, hãy tỏ mình ra cho chúng con, hãy trả lại Chúa cho chúng con để chúng con được hạnh phúc. Chẳng vậy chúng con khốn khổ lắm! Xin hãy thương đến sự vất vả và nỗ lực của chúng con để đi đến Chúa, vì chúng con không làm nên sự gì nếu không có Chúa trợ lực” (Thánh Anselme trong cuốn Proslogion).
- Tôn giáo là hình ảnh hữu hạn của các dân tộc và thời đại chiếu vào tấm gương vĩnh cửu. Qua hình ảnh ấy các dân tộc và thời đại nhìn thấy những gì bền vững. Nhưng thực ra chúng vẫn có phần phải đổi thay, từ từ hay đột ngột, vì thế tôn giáo cũng có lịch sử và sự tiến triển.
- Tôn giáo là phản chiếu của một khách thể siêu việt vào mọi dân tộc và thời đại. Vì là phản chiếu chứ không phải là chính khách thể siêu việt ấy mà tôn giáo chỉ là dấu chỉ, và đã là dấu chỉ thì có thể sáng tỏ hay lu mở.
Ý thức về tội là một giai đoạn quan trọng của kinh nghiệm tôn giáo, nhưng ý thức này không có một mức độ như nhau trong mọi tôn giáo. Vì thế mà ý nghĩa về tội ở mỗi tôn giáo mỗi khác. Những suy nghĩ sau đây về tội là theo ý thức của Kitô giáo.
- Tội không phải chỉ là đánh mất sự lành, nó tạo nên một tình trạng riêng biệt cho người phạm tội. Tình trạng ấy thông thường ai cũng mắc phải. Thánh Phaolô viết: “Mọi người đều có tội và mất vinh hiển của Thiên Chúa” (Rm 3,23).
- Tội khác với sai lỗi. Chắc rằng sai lỗi cũng như tội đều liên can đến đời sống cá nhân, ta không thể từ chối nó là của ta, nhưng sai lỗi có quan hệ với những hành động cụ thể rõ ràng: đó là việc làm trái với một quy luật hay một bổn phận, đưa đến những hậu quả có thể xác định được. Còn tội là một tình trạng mà ta nhận biết một cách tổng quát, không thể gán riêng cho một loại hành động nào nhất định được.
- Trong phán đoán luân lý, tội và sai lỗi có quan hệ bền chặt với nhau. Đã đành sai lỗi là những hành động do bất trắc xảy đến, nhưng người có sai lỗi không tránh được cảm nghiệm mình là chủ thể và là nguyên nhân sai lỗi của mình.
- Trái với các hình thức hành động khác, sinh hoạt luân lý chỉ nhằm gây âm vang về giá trị vào lương tâm ta lúc ta hành động: vì thế mà ý thức về tội và về sai lỗi có một sự trùng hợp khó mà nhận biết để phân biệt chúng. Thông thường người ta nói: tôi phạm tội để diễn tả cảm nghĩ người ta đã sai lỗi ở một điều gì.
- Khi một người suy nghĩ về sai lỗi của mình, không những họ cảm thấy sai lỗi của mình có nguyên nhân ở ước vọng và quyết định của chính mình, nhưng họ cũng cảm thấy sự sai lỗi ấy lệ thuộc phần nào vào một quá khứ mình không muốn, và không hẳn là quá khứ của mình.
- Chẳng bao giờ ta cảm thấy mình là một bản ngã thuần nhất, luôn là chính mình, nắm vững trong hành động toàn thể quá khứ của mình ở sự duy nhất của nó, và điều động tất cả quá khứ ấy cho một quyết định mà ta có thể chịu hoàn toàn trách nhiệm.
- Dù không làm nhẹ đi cường độ của sáng suốt ta có khi quyết định, ta cũng phải nhận rằng, trong sai lỗi, có một sự vô thực trong quyết định và một tương hệ giữa muốn và không muốn. Sai lỗi bắt nguồn từ sự không muốn, từ sự vô thực của quá khứ mà ta không dám đảm nhận là của ta.
Dù sai lỗi bao giờ cũng là hành động của riêng ta, nó vẫn không có thể hiểu được đầy đủ nếu chỉ căn cứ vào hành động ấy mà thôi. Nó không tự nó tạo ra được sự vô thực mà sai lỗi gồm chứa. Sự vô thực của sai lỗi thông hiệp vào một sự vô thực căn bản hơn phảng phất trong mọi hành động của ta mà không giảm đi sự trầm trọng của sai lỗi trong lương tri ta.
- Quả quyết rằng sai lỗi có nguyên nhân ở một quá khứ mà ta không thể chối là không biết, nhưng cũng không có thể nhận là bởi mình, là nhắc gián tiếp đến điều mà ta gọi là tội tổ tông, hay cảnh huống tội lỗi mà ta có từ lúc sinh ra. Cảnh huống ấy chẳng bao giờ ta làm chủ được hoàn toàn và cũng chẳng bao giờ ta lìa khỏi nó được một cách dứt khoát.
- Tội và sai lỗi, ở bản chất, không khác nhau nhưng chúng khác bởi tên mà người ta gán cho chúng và bởi cách mà lương tri ý thức về chúng.
- Ngay trong Kinh Thánh cũng không có phân biệt rõ ràng giữa tội và sai lỗi. Có lúc thì tội cũng được coi như sai lỗi, nghĩa là như hành động ngẫu nhiên trái với luật pháp; nhưng cũng có lúc nó được coi như tình trạng nô lệ và như sự vong thân cần giải thoát.
- Trong Cựu Ước, hình ảnh quen thuộc nhất về tội là sự lưu đày của Israel ở Babylon. Trong lưu đày, người ta ở xa quê hương và đền thờ. Thiên Chúa như vắng bóng ở nơi lưu đày. Để được giải thoát, thì phải nhờ vào Thiên Chúa. Sự giải thoát này được coi như sự thứ tha, một lãng quên hay xoá bỏ tội lỗi của Israel (Tv 1;32,1).
- Trong Tân Ước, tội biểu lộ qua các sai lỗi về lề luật và nghi lễ. Nhưng giữ lề luật và nghi lễ chưa chắc đã làm cho đời sống vô tội.
- Lề luật chỉ là dịp cho tội xuất hiện qua các sai lỗi Lề luật. Chỉ có công ơn của Đức Kitô mới giải thoát con người khỏi tội, và vì thế, công ơn ấy cũng giải thoát con người khỏi Lề luật (Gl 3,13).
- Tội tiêu biểu tình trạng hiện sinh của con người. Đó là một tình trạng nô lệ biểu lộ qua nhiều hình thức sai lỗi, nhưng chẳng sai lỗi nào có thể thâu tóm được hết bản chất và sự trầm trọng của tội.
- Tội là “có thái độ thù địch với Thiên Chúa”. Con người được tạo dựng để sống trước mặt Thiên Chúa và có một đối thoại tin tưởng với Người. Nhưng họ đã bỏ trốn và ẩn náu. Căn tính của tội là ở từ chối ở trước mặt Thiên Chúa.
- Theo Kinh Thánh, con người không có thể sống cô đơn, đóng kín trong cá thể mình. Họ được tạo dựng theo “hình ảnh” Thiên Chúa. Họ chỉ là hình ảnh, họ phải có trước mặt Đấng mà mình phản chiếu.
- Tội không làm suy giảm các khả năng tự nhiên của con người. Họ vẫn có khả năng hiểu biết, quản trị và cải tạo vô hạn. Nhưng tội làm cho đời sống họ mất quân bình.
- Người có tội không còn là người nguyên vẹn nữa. Họ đã đánh mất quan hệ tự do đầy cậy trông mà họ có với Thiên Chúa lúc ban đầu, vì họ đã nghe theo ma quỷ, nghi ngờ về lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Vì nghi ngờ trên, quan hệ giữa loài người với nhau cũng ra xấu hơn. Việc Cain giết em là Abel cũng chỉ tại anh không còn tin ở sự công bằng của Thiên Chúa, ghen tương với em được Người sủng ái.
- Khi một người băn khoăn muốn tìm hiểu căn tính của mình trong một quá khứ mà mình lên án. Sau tương quan mà họ có với quá khứ ấy, đã ló dạng tương quan giữa họ và Thiên Chúa ngự trong lòng họ.
- Tội không phải là một thực thể riêng ở trong thế gian hay ở trong con người. Nó là thái độ của con người trong quan hệ với Thiên Chúa và thái độ tương ứng của Thiên Chúa. Chính xác hơn, đó là sự nổi loạn của con người và thịnh nộ của Thiên Chúa. Hiệu quả của hai thái độ ấy là con người sống thiếu ân sủng, không còn xứng đáng kêu lên với Thiên Chúa: Abba, Pater.
******
- Suy xét tích cực về sai lỗi của mình hay xét mình ngầm chứa sự tin cậy của con người ở hữu thể của mình. Điều này không có nghĩa là họ sẽ tìm cách chạy tội nhờ phán đoán của mình về sai lỗi, nhưng nhờ suy xét này sẽ giúp họ sát gần lại trong tương lai với căn tính của mình.
- Xét mình ở thiết yếu không là nhìn vào ý muốn tinh ròng tuyệt đối là nơi chủ thể gặp được duy nhất cho mình. Suy xét ấy không gạt ra một bên quá khứ, di truyền, tính nết, sự thiếu thiện chí... nhưng ở giai đoạn nào của đời mình, nó cũng giúp cho chủ thể biết mà sửa chữa hay phục hồi một trong các phạm vi nói trên để làm cho khuôn mặt của bản ngã mình được sáng sủa hơn.
- Xét mình về sai lỗi làm cho chủ thể nhận thấy mình không duy nhất ở bản thân, trong phạm vi luân lý, mình không có sự duy nhất giữa ý thước và hành động, nhưng nó không làm cho chủ thể ngã lòng, mà còn mở đường cho hy vọng nữa.
- Xét mình về những sai lỗi mình đã làm là dấu chỉ mình có một bản ngã sống động, và nếu mình còn có thể đặt vấn đề về bản thân, đó là vì mình còn chưa đi đến cùng những khả năng mình có.
- Sự chính xác mà ta có mỗi ngày một hơn trong khi xét mình về các nguyên nhân đưa ta đến sai lỗi cho ta thấy chiến thắng không rỡ ràng, nhưng cũng là lý do để ta trông cậy. Thật vậy, cản trở, khi được nhận diện, đã mất đi rất nhiều sức nguy hại của nó. Ta chỉ không biết cách đối phó khi nó tối mù đối với ta, còn khi ta đã biết nó là gì, nguồn gốc nó ở đâu, thì ta cũng dễ tìm ra phương thế để thắng vượt nó.
- Ý thức về sai lỗi, khi trở nên suy tự về sai lỗi, có thể giúp ta khám phá ra nguyên lý của sai lỗi và giúp ta chủ trị được nguyên lý ấy. Vì thế, xét mình là khởi điểm để chủ thể bước vào cuộc tái sinh.
- Sai lỗi là dấu chỉ của tội, nhưng dấu chỉ không nói lên được hết căn tính của điều nó ám chỉ. Ngoài ra, dấu chỉ còn có thể hàm hồ, không đưa ta đến điều nó ám chỉ. Đó là lý do giải thích tại sao có lần ta sai lỗi mà ta không nhận biết mình có tội.
- Trong Kitô giáo, hiểu biết về sai lỗi không cho ta một hiểu biết đầy đủ về tội. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể cho ta biết điều này. Chỉ có Người mới biết tội là gì và sự nghiêm trọng của nó thế nào, vì tội là sự xúc phạm của loài người đến chính Thiên Chúa. Cũng vì thể, để thú tội mình ra thì phải có đức tin và cách thẩm định hành động của ta theo đức tin.
- Theo đức tin tội đưa đến trốn tránh Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ đã ẩn náu vào bụi rậm khi Thiên Chúa đến thăm vườn địa đàng sau khi ông bà phạm tội. Vì thế thú tội cũng có nghĩa là lại ra trước mặt Thiên Chúa, là Đấng thấu suốt mọi sự. Khi thú tội, đã là lúc người có tội trở lại trước tôn nhan Thiên Chúa và được ơn tha thứ.
- Ta chỉ nhận biết tội là gì khi ta nhận biết Thiên Chúa là Đấng chí thánh, ghen ghét tội lỗi và là Cha đầy lòng thương xót. Vì thế, chỉ có người đã được thứ tha mới hiểu rõ tội là gì.
- Người thú tội trải qua hai tâm tình lo sợ và giải thoát: lo sợ vì tội phạm đến Đấng quyền năng và thương yêu ta vô cùng, giải thoát vì biết rằng Thiên Chúa nhân hậu đã thứ tha cho mình.
- Người thú tội nhận biết Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ trước tội mình là chính đáng, nhưng họ cũng nhận biết rằng sự công chính của Thiên Chúa cũng công chính hoá kẻ có tội, khi họ ra trước mặt người thú nhận tội mình.
- Thú tội chứng tỏ ở người có tội một hiểu biết mới về Thiên Chúa và một ý thức mới về bản thân. Nhờ hiểu biết mới về Thiên Chúa này, họ không còn hoài nghi về quyền năng và lòng nhân hậu của Người nữa, họ đã dứt bỏ được hoài nghi của tội nguyên tổ sau khi bị con rắn đầu độc. Nhờ ý thức khiêm nhượng về sự lệ thuộc của mình vào Thiên Chúa từ hiện hữu đến hành động, họ nhận biết mình phải trông cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.
- Như trên kinh nghiệm về tội cho ta biết vị trí tôn giáo và luân lý của ta để mà cải đổi, chứ không phải là tình trạng thất vọng bệnh hoạn như có người lầm tưởng.
* Về phương diện luân lý: xoá tẩy mọi vết nhơ tội lỗi và mọi tham vọng bất chính.
* Về phương diện tri thức: vượt được các sai lầm và sự giới hạn trong hiểu biết để có một trí tuệ thông minh tuyệt đối.
* Về phương diện siêu hình: làm cho đời mình nên một ơn gọi, một trọng trách, biến nó nên một nhu cầu có tầm phổ quát.
* Về phương diện nguyên nhân: coi nguyên nhân ấy có tính siêu việt, khởi điểm từ một ân sủng của Thiên Chúa và đưa con người đến một đời sống thần hoá.
- Kiện toàn bản thân, với con người, là đạt được hạnh phúc, nghĩa là sự lành hoàn hảo mà khi ta đã có thì ta sẽ được hưởng một vui mừng trên hết và vô tận. Trong theo đuổi này, không có tham vọng ích kỷ hay vụ lợi cá nhân, vì điều ta theo đuổi là sự giải thoát khỏi các áp lực vật chất, và sự phục vụ cho một giá trị vượt trên mọi ngẫu nhiên.
- Tại sao ta ước ao đạt đến hoàn hảo tuyệt đối! Đó là vì có một sự lỗi nhịp quá lớn giữa những đòi hỏi vĩnh viễn mà ta phải đáp lại trong mọi suy nghĩ với tính bất tất của bản ngã suy tư của ta.
- Để suy nghĩ thì phải dựa vào một chân lý thiết yếu, tổng quát và vĩnh viễn làm quy luật và giới hạn cho suy luận của ta.
- Khi ta nhận ra rằng một chân lý có tính bất tất, đúng cho một số trường hợp mà thôi, thì ta cũng vẫn coi suy luận của ta là tuyệt đối thì mới có thể quả quyết như vậy được.
- Nhưng nếu đem suy luận của ta ra mổ xẻ, ta thấy luôn rằng: đó là nối kết của những hoàn cảnh tạm bợ và một tổ chức ngẫu nhiên của lý trí.
- Không những tri thức của ta u tối mà lương tâm của ta cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Nhiều lúc ta cảm thấy nó không những ngắn ngủi mà còn thiên vị nên ta chỉ nhận biết một phần nhỏ các sai lỗi của mình mà thôi.
- Sai lỗi chỉ là những điểm trồi lên của một xu hướng sâu xa hơn của tâm hồn ta mà tín lý Kitô giáo gọi là tội nguyên tổ.
- Ai cũng cảm thấy mình có thể rơi vào mọi sai lỗi, có thể là đồng phạm và có phần trách nhiệm vào mọi hèn nhát và bất công. Cả đến việc ta giữ được mình trong sạch cũng vẫn phải nhờ vào một trật tự xã hội trong đó nhiều người đã có đôi tay hoen bẩn vì bất công và nhiều người đã bị đè bẹp vì bạo động.
- Những mâu thuẫn trên đưa đến nỗ lực khám phá ra một liều thuốc hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở cả trong và ngoài con người. Liều thuốc ấy là một sự đổi mới và cũng là một sự giải thoát.
- Để có được sự đổi mới và giải thoát thì phải qua những con đường tinh thần mà kinh nghiệm của nhiều thế hệ ẩn sĩ có đời sống nội tâm phi thường đã để lại thành quy luật cho đời sống hằng ngày. Ở đây ta có thể nghĩ đến sách Gương Phúc, các tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá, của thánh Ignatio, của thánh Phanxicô Salê...
- Đời sống tinh thần nào cũng nhằm đào tạo một phán đoán đúng về các giá trị. Phán đoán này vừa có lý thuyết và thực hành, vừa có chiêm niệm và thể hiện trong đời sống. Nó không dừng lại ở nhận biết chắc chắn các giá trị trong lý thuyết, nó còn đòi phải yêu mến các giá trị ấy nữa, vì khi ta chưa yêu mến chúng thì ta chưa thấu hiểu được chúng.
Chẳng có một đời sống thực tế nào mà lại không vâng theo một phẩm trật giá trị; chẳng có hành động nhân loại nào mà lại không vâng theo một quy luật chung cho mọi người.
- Chỉ người cẩn thận nhưng táo bạo trong việc tìm hiểu các giá trị của đời sống mới là người có được sự đại lượng trong đời sống thực hành.
- Đời sống có giá trị và ý nghĩa hay không là tuỳ ở bước tiến phối hợp của tất cả các khả năng ta có. Bước tiến ấy gắn liền với một phán đoán sáng suốt nội tại trong chính trí năng ta, vì chẳng có ai có thể sáng suốt ngoài nguồn ánh sáng mình có được.
- Rèn luyện đời sống tinh thần có mục đích khởi đầu và giữ vững sự thành thật của con người với bản thân, không cho phép mình có ảo tưởng, thiên lệch, thoả mãn quá sớm... Càng có nhiều văn hoá, càng có những suy luận có phương pháp; càng có đời sống tiết chế, càng có kỷ luật trong lúc chiến đấu; càng có tinh thần đại lượng, càng dễ thành công.
- Sự phê bình nghiêm nhặt bản thân không dừng lại ở việc xét mình để kiểm điểm lại những sai lỗi mà lương tâm ghi lại, mà còn bước đến phán đoán về cách nhìn của lương tâm nữa. Ta sai lỗi không những trong tư tưởng, lời nói, việc làm mà cả trong những điều thiếu sót nữa.
- Mỗi người cũng như mỗi nhóm người thường phấn đấu để cho quan niệm về sự giải thoát của mình thắng. Nhiều lúc người ta giết kẻ khác hay để kẻ khác giết mình nhằm đạt đến mục đích này. Hiệu quả là rất nhiều lúc những sự tận tâm cao đẹp ấy, những chứng nhân can trường ấy xung đột với nhau, vô hiệu hoá lẫn nhau và gây nên thất bại.
- Ngày nay có biết bao lao động cần cù, nghiên cứu vững chắc, kỷ luật nghiêm túc đã bị lợi dụng vào những công trình đưa nhân loại đến diệt vong. Chắc rằng không phải những khối óc tối tăm, những xưởng may lạc hậu, những người lao động thiếu tay nghề đã làm ra quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki.
- Để giải thoát, có đức tin chưa đủ, ta còn phải có sự khôn ngoan. Nhưng chỉ có sự khôn ngoan thật khi nó hướng về sự lành tuyệt đối.
- Chẳng có nỗ lực nào của con người có giá trị thật nếu thiếu tình thương, nhưng tình thương là gì nếu không phải là sự cởi mở để chấp nhận tha nhân như chính bản thân. Sự chấp nhận này chỉ có thể được khi ta chấp nhận có một tha thể nội tại trong ta là căn nguyên của chính bản thân. Hai giới răn kính Chúa, yêu người được Đức Giêsu coi như vẫn là một.
- Sự giải thoát gồm hai yếu tố: chủ trị được tội lỗi và các hậu quả của nó, đạt đến một tình trạng siêu việt tình trạng con người sa ngã mà thần học gọi là tình trạng ân sủng.
- Để am hiểu giải thoát là gì, cần phải phân biệt phần nội tại trong con người và phần siêu việt con người.
- Phần nội tại là ý thức về khả năng làm chủ được bản thân, phần hướng về siêu việt là gặp gỡ với một tha thể tuyệt đối mà con người chỉ là “hình ảnh” (St 1,26).
- Để am hiểu giải thoát, cũng cần phải hiểu biết sự dữ mà nó xoá đi và thực tại mới mà nó thay vào “con người cũ”.
- Sự tiến triển không có giới hạn của đời sống tinh thần chứng tỏ luôn luôn và bằng nhiều cách rằng sự giải thoát và sự kiện toàn bản thân của con người không có được nếu chỉ trông cậy vào sức riêng của mình.
- Nhờ hiểu biết chính mình và vũ trụ, nhờ tiến triển trong phạm vi kinh tế và xã hội, con người có thể làm cho nhẹ gánh phần nào cho đời sống vật chất của mình. Nhưng giải thoát và đổi mới là sự duy nhất có thể đáp lại ước vọng của họ thì họ chỉ nhận được từ Thiên Chúa vì chỉ có Người mới tha được tội lỗi họ và mới cho họ được tham dự vào đời sống vĩnh cửu của Người.
- Con người phải luôn góp phần tích cực vào việc giải thoát bản thân trong lịch sử. Đã đành Thiên Chúa khởi xướng, nhưng con người phải quyết định lấy việc giải thoát ấy bằng sự ưng thuận và cộng tác.
- Trong công cuộc giải thoát, Thiên Chúa và con người đều phải có quyết định của mình: Thiên Chúa nhân từ đưa ra một giao ước, loài người sa ngã từ bỏ đời sống cũ để gia nhập dân Thiên Chúa. Hết mọi cá nhân đều phải chia sẻ đời sống giải thoát của cộng đồng là Giáo Hội.
- Sự giải thoát phải xâm nhập vào mọi phạm vi của con người: thể xác, tinh thần, xã hội và lịch sử. Không những các phạm vị ấy ảnh hưởng lẫn vào nhau, mà có những ảnh hưởng hàm hồ, lưỡng diện nữa. Một mặt, sự giải thoát đến từ Thiên Chúa qua trung gian lời giảng dạy, các bí tích và Giáo Hội trong lịch sử; mặt khác, con người tỏ ra thuận hay nghịch với Thiên Chúa trong thái độ họ có lúc đón nhận các thực tại nói trên.
Con người có linh hồn và thể xác, nhưng chỉ có một bản ngã.
Linh hồn là nguyên lý của đời sống và tư tưởng. Nó phân biệt với thể xác, nhưng nó phải nhờ thể xác để biểu lộ hoạt động của mình.
Tinh thần là khả năng tư tưởng vâng theo những quy luật và hoạt động riêng.
Tinh thần đối lập với thể chất, một bên là tư tưởng, một bên là đối tượng của tư tưởng, một bên là nhất tính của trí tuệ, một bên là bội tính của các yếu tố trí tuệ tổng hợp lại.
Thể chất là phối hợp những đối tượng mà tri giác cho biết. Nó gồm có những đặc tính riêng như bền vững, độc lập và ở trong không gian.
Khi nói về thể chất ở loài người, ta quen gọi là thân thể hay xác thịt.
Bản ngã là chủ thể tư tưởng nơi con người, sự nhất tính và sự đồng nhất với chính mình của nó là điều kiện thiết yếu cần cho việc tổng hợp các dữ kiện khác nhau của trực giác và cho các mô hình khác nhau trong một ý thức.
******
Con người trong đời sống luôn bị giằng co bởi biện chứng nhất tính (Unité) và bội tính (Multiplicité), đơn thuần và phức tạp, bền bỉ và đổi thay...
Phức tạp, đa dạng, đổi thay là những điều cần để nhận thức. Một chân trời mù tịt giữa mênh mông của biển khơi sẽ chẳng có gì để ta bám víu vào mà ước lượng vị trí của ta. Một ngục tối không có ngày đêm sẽ chẳng có gì để ta căn cứ vào mà ước lượng thời gian.
Hãy tưởng tượng một thế giới thuần chất như một không trung vô tận, chẳng có gì khác biệt nhau, chẳng có gì thay đổi, rồi đặt trí tuệ vào khung cảnh ấy. Chắc nó sẽ chẳng biết được gì, vì để biết thì phải có đa dạng, đổi thay, nối tiếp... Không có bội tính, thì trí tuệ lấy gì mà sao sánh.
Không có bội tính nếu không có nhất tính. Không có đơn vị thì chẳng bao giờ có nhiều thực tại. Người ta không đếm được 1,2,3... nếu không có đơn vị.
Quả cà có nhất tính của nó thì ta mới có thể đếm được 1,2,3... quả cà. Thiếu nhất tính ấy, đếm chúng sẽ vô nghĩa. Bội tính đã ngầm chứa nhất tính.
Trí tuệ chỉ nhận biết nhờ so sánh, nghĩa là quan sát từ vật này đến vật khác, từ bản ngã đến khách thể.
Mọi nhận thức đều có nhờ so sánh, nhưng hoạt động so sánh có tính tự động, nên ta không nhận thấy và ta cảm nghiệm như mình nhận thức sự vật ở tự chúng, chẳng phải so sánh với vật nào khác.
Nhận thức bừng dậy nhờ đối lập bản ngã với khách thể. Nhưng đối tượng của nhận thức là bản ngã hay khách thể, chứ không phải quan hệ giữa chúng.
Nhìn thấy quan hệ nói trên, nghĩa là nhìn thấy bội tính của thể chất trong quan hệ ấy là thân thể nhìn như của tôi và như khách thể đòi phải có một rèn luyện trong tư tưởng. Trẻ nhỏ khi còn có trí tuệ thô sơ thường chỉ nhận thấy nhất tính của sự vật. Chúng chưa phân biệt con gà với hình của nó.
Vì trí tuệ chỉ nhận biết nhờ so sánh, nghĩa là quan sát từ vật này đến vật khác, quá trình của nó là đi từ nhất tính đến bội tính, hay ngược lại, từ bội tính đến nhất tính.
Nếu trẻ thơ nhìn sự vật trong nhất tính, người từng trải có thể chỉ lưu ý đến quan hệ đa tạp của sự vật, mà quên đi nhất tính của chúng.
******
Con người sống trong bội tính và đi tìm nhất tính. Họ lùng kiếm nhất thể trong đa tạp. Họ không nắm bắt được, nhưng cũng không lãng quên được.
Mọi thắc mắc, mọi vấn đề, mọi tìm tòi và mọi khám phá của tư tưởng loài người đều có tiềm ẩn câu hỏi về quan hệ giữa bội tính và nhất tính.
Với con vật chỉ có bội tính. Đời nó chỉ là một chuỗi nối tiếp những cảm giác và một dòng tri giác trôi đi không trở lại. Trái lại, con người nhìn thấy bản ngã mình và cá thể của sự vật, họ nhìn thấy nhất tính trong bội tính.
Mọi vấn đề đến cho con người đều ở như làm thế nào để dung hoà nhất tính và bội tính.
Trật tự, hài hoà, quân bình... đều là những cách thức để dung hoà nhất tính và bội tính. Thực tại nào đáp lại được dung hoà ấy ở mức độ cao thì lành mạnh hay tốt đẹp.
Một phong cảnh gồm có núi, sông, cây, cỏ trong ánh sáng ban mai chỉ đẹp vì toát ra ở đó một cái gì hùng vĩ. Một bản nhạc gồm nhiều cung điệu, âm giao phức tạp phối hợp lại, chỉ hay khi có một tổng hợp hài hoà gây êm dịu, thoải mái cho thính giả.
Nhất tính đưa đến hoàn hảo và hoàn hảo của bội tính ở tại nó có thể quy về nhất tính. Một vật chỉ đẹp trong một khung cảnh thích hợp. Vẻ đẹp của nó sẽ được nhân lên vì sự thích hợp với vẻ đẹp của các vật xung quanh.
Bao giờ đời sống cũng phức tạp, đa dạng gây nên bởi khả năng của bản thân và hoàn cảnh xã hội, nhưng đời sống chỉ đẹp khi ta biết quy nó về một mục đích cao thượng.
Chẳng có gì trong ta và ngoài ta, mà không phức tạp, đổi thay, đa dạng. Nhất tính chỉ gặp được trong trật tự, hài hoà và quân bình của bội tính nơi sự vật mà thôi.
******
Nói đến lành mạnh, tốt đẹp, hoàn hảo là nói lên trật tự, hài hoà và quân bình, nói khác đi, là nói lên nhất tính của sự vật.
Một thân thể đẹp gồm có các chi thể cân xứng. Một sức khoẻ lành mạnh chỉ có trong một thân thể mà mọi chức năng đều hoạt động ăn nhịp với nhau, một cách điều hoà.
Trong đời sống trí tuệ, cần phải biết nhiều nhưng cũng cần phải biết vững chắc. Nhưng biết nhiều thường không vững chắc, vì thế cần phải dung hoà số lượng và chất lượng, giảm bớt những kiến thức ít cần thiết để tập trung vào kiến thức cần thiết.
Kiến thức là một loại đồ ăn không những phải nuốt, nhưng còn phải tiêu hoá.
Để con người sảng khoái, bình an, cần phải có quân bình ở cả thân thể, tinh thần và đời sống luân lý. Các yếu tố ấy ảnh hưởng lẫn vào nhau: một người nhức đầu hay đau răng sẽ không tập trung để suy nghĩ được. Một người tâm thần bất ổn sẽ biếng ăn, mất ngủ. Một người không làm chủ được xác thịt và phán đoán sai lầm sẽ không có đời sống luân lý tốt được.
Thông thường, đời sống luân lý cao không chỉ tuỳ thuộc vào một bản lãnh mạnh, nhưng còn tuỳ thuộc vào các điều kiện sinh lý, tinh thần và xã hội nữa. Chẳng có gì nơi con người đứng vững một mình, cái gì cũng ở trong tất cả.
Con người ai cũng có đam mê, xu hướng phức tạp. Nhưng mục đích của đời sống co người là thống nhất bản ngã, hướng mọi sức mạnh mình có về một mục tiêu. Ta chỉ sống có luân lý khi ta làm được điều ấy.
Nhân đức là giữ cho các xu hướng và động lực của linh hồn ta có sự hài hoà: khôn ngoan quá trở nên nhút nhát, can đảm quá trở nên liều lĩnh, rộng rãi quá trở nên phung phí, nhân từ quá trở nên nhu nhược.
******
Với con người, mọi sự đều đơn giản và phức tạp. Người thô lỗ chỉ nhìn thấy đơn giản, người hiểu biết bắt đầu nhìn thấy phức tạp, rồi sau mới tìm ra nhất tính của nó.
Trong khoa học, phải quan sát và diễn tả đúng về các thể chất, rồi sau mới quy chúng về một loại, một giống nào đó. Trong triết học, phải tìm hiểu những hiện tượng phức tạp và sự chuyển biến của chúng để rút ra một chân lý cho đời sống.
Lòng người hướng về nhất tính, nên những tư tưởng đơn giản để làm cho người ta ưa thích. Nhưng tư tưởng đơn giản thường sơ sài, không diễn tả được bội tính của sự vật, nên hay sai lầm.
Thực tại nào cũng phức tạp. Con người ở tự mình, rất phức tạp. Trong họ gồm có tinh thần, thể chất, tình cảm, đam mê... Thế giới trong đó họ sống cũng rất phức tạp. Bội tính là quy luật của loài thụ tạo. Chỉ có Thiên Chúa mới độc nhất và có nhất tính.
Nhưng trong tư tưởng, con người khởi điểm từ bội tính phải quy về nhất tính. Quy hướng này gặp đầy khó khăn. Đã đành Thiên Chúa là nguồn mạch mọi loài, mọi vật nên chúng đều tuỳ thuộc vào Người. Nhưng Người siêu việt muôn trùng tạo vật của Người.
Ta có thể phân chia tư tưởng làm 3 loại.
1. Nhìn mọi vật đơn sơ trong nhất tính ban đầu.
2. Nhìn mọi vật trong trạng thái phức tạp, đa dạng và đổi thay, nghĩa là trong bội tính của nó.
3. Chấp nhận sự vật có bội tính, nhưng cố gắng quy chúng về nhất tính. Theo cách nhìn này, người ta không chỉ tìm hiểu sự vật ở hình thành, mà còn muốn giải thích bởi căn nguyên của nó nữa.
Trong phạm vi hoạt động, con người cũng phải đi từ bội tính đến nhất tính.
Đời sống con người thật phức tạp: Thể xác hướng về một đường, tinh thần hướng về một nẻo, gia đình có những đòi hỏi khác với nghề nghiệp, lao động cần nhưng du hí cũng cần... đời sống có bao hoạt động phải dung hoà trong một chủ thể tự do.
Với người thô lỗ, khi ta nói: “Ở đời chẳng có gì đơn giản”, họ cho là ta chọc tức họ, vì lập trường vững như đá của họ là mọi sự đều đơn giản, chẳng có gì phức tạp. Với họ đen là đen, trắng là trắng, tội lỗi là tội lỗi, thánh nhân là thánh nhân, không có nửa vời, vừa đen vừa trắng, vừa tội lỗi vừa thánh thiện.
Tâm trạng của đám đông thường thô lỗ. Với họ, chỉ có xấu và tốt, không có vừa xấu vừa tốt, vì thế những vở kịch họ thích chỉ có anh hùng và tiểu nhân, không có người bình thường. Các vở cải lương ăn khách thường như vậy.
Gặp thấy đời sống phức tạp thì người thô lỗ bực bội. Với họ, phải có nhất tính, nên khi thấy bội tính thì họ giận dữ.
Đời sống phức tạp, để thành công phải suy nghĩ, tính toán, tranh đấu, khắc phục khó khăn. Người thô lỗ thấy như vậy thì nổi giận, vì với họ chém giết để tranh sống dễ hơn kiên nhẫn chịu đựng, tìm cách vượt qua trở ngại. Họ sẵn sàng dâng nửa nước cho người đàn bà họ yêu, nhưng họ từ chối tìm hiểu khát vọng của người ấy.
Người thô lỗ nhìn thấy nhất tính ở mọi nơi. Vì thế, cái gì trước mắt họ cũng tuyệt đối: bản thân họ, ý kiến họ, tâm tình họ, cái gì nơi họ cũng tượng trưng cho giá trí, lẽ phải và sự thật. Không ai chuyên quyền, hẹp hòi bằng người thô lỗ.
Người nông cạn đón nhận đời sống ở bề mặt đa dạng của nó và dừng lại đó. Họ không có ý nghĩa, hay có thì không kiên gan để vượt qua bội tính mà đi tìm một lý tưởng hay mục đích cho đời mình, nên bản thân họ chẳng bao giờ có sự duy nhất.
Người nông cạn chẳng bực tức mà cũng chẳng phấn khởi trước đổi thay muôn hình vạn trạng của đời người. Họ chẳng bao giờ nghĩ đến cưỡng lại sự đổi thay và sự trôi qua của sự vật. Thái độ dễ chấp nhận mọi sự của họ có thể làm cho người xung quanh nghĩ rằng họ nhìn rộng thấy xa. Thật ra, họ chỉ là người ba phải, nếu chưa đi đến hèn nhát.
Người nông cạn chẳng bao giờ phải cố gắng, nhưng hiệu quả của đời họ thật ít ỏi, vì họ thiếu một lý tưởng để vươn lên. Đời họ chẳng bao giờ ra khỏi bội tính để tiến lên nhất tính.
Tư tưởng và hành động của một người chỉ có ý nghĩa khi họ nhìn biết đa dạng và đổi thay ở mình và sự vật để vượt lên trên bội tính của chúng và quy chúng về nhất tính. Có lẽ chẳng bao giờ họ hoàn thành được công việc trên, nhưng dù sao, họ cũng đang đi trên con đường hoàn chỉnh bản thân. Một chủ thể tự do là một chủ thể có khả năng thống nhất đời mình.
Người khôn ngoan nhìn đời mình một cách nhất quán vì họ biết nhìn nhất tính trong bội tính, và bội tính trong nhất tính. Vì nhìn thấy nhất tính trong bội tính nên họ cắt nghĩa được sự vật đổi thay và đa dạng bởi nguyên nhân, và tạo cho hoạt động phức tạp một mục đích.
Phải biết khám phá ra nhất tính trong bội tính thì mọi sự, con người cũng như vũ trụ, mới có một ý nghĩa.
Người khôn ngoan không nóng giận trước đổi thay và phức tạp. Họ đối đầu không ngạc nhiên và sợ hãi trước các trở ngại chúng tạo nên trong đời sống. Dù gặp hoàn cảnh nghèo hèn, thất bại, lỗi lầm hay giàu sang, thịnh đạt, công danh, lúc nào họ cũng vẫn chỉ có một quyết tâm là làm thế nào để làm chủ lấy đời mình và kiện toàn nó.
Người khôn ngoan biết, nhưng không cho rằng mình đã biết tất cả, nên họ vẫn muốn biết thêm. Người ấy quả quyết nhiều hơn phủ nhận, nhưng quả quyết của họ luôn mực thước và uyển chuyển. Họ biết rằng tạo vật thì biến đổi, đa dạng và tương đối, nhưng họ cũng biết rằng: chúng vâng theo một trật tự và quy luật bất biến và cái đó làm nên sự tốt đẹp.
Vì nhìn thấy sai lầm và sự thật, bất tất và thiết yếu, nên người khôn ngoan nhìn thấy rõ hơn sự thật và tuyệt đối để phân biệt chúng với các sự khác.
Người khôn ngoan biết rằng hiểu biết được các vật ở sự phức tạp và đổi thay của chúng rất khó, nhưng để hiểu biết chúng thì phải tìm ra nguyên nhân và mục đích của chúng. Họ đã vượt qua khó khăn này và họ đã thành công.
Người khôn ngoan giữ được quân bình giữa trí tuệ và tình cảm, giữa tinh thần và xác thịt. Họ làm chủ được đam mê và nhìn rõ sự thật.
Người ta chỉ khôn ngoan khi sáng suốt tự chủ được các thèm muốn đưa đến một đời sống hưởng lạc thô bỉ, và khi can đảm đón nhận sự thật, dù biết rằng làm việc ấy, mình phải thua thiệt hay thú nhận mình đã lầm lạc.
Mọi nhất tính đều có nền tảng ở Thiên Chúa vì Người là căn nguyên tối hậu của mọi loài. Người đã sáng tạo nên chúng bởi không.
Chỉ khi ta đã chấp nhận có sự thiết yếu độc nhất cần cho ta thì ta mới có thể đánh giá đó là tuyệt đối. Như vậy: sự độc nhất thiết yếu cho ta là tuyệt đối với ta. Nhưng chỉ có Thiên Chúa mới tuyệt đối với ta, vì Người là Đấng sáng tạo nên ta, nên Người duy nhất thiết yếu cho sự hiện hữu của ta.
Thiết yếu thì không có giới hạn, trái lại, bất tất thì có giới hạn. Vì thế trong các vật bất tất không có tuyệt đối. Chúng tốt lành nhưng không là sự tốt lành. Tốt lành trong chúng có một mức lượng nào đó, vì thế ta có thể nói người này tốt lành hơn người kia.
Không có giới hạn cho những sự tốt lành bất tất, vì chẳng có sự tốt lành bất tất nào loại trừ một sự tốt lành bất tất khác: ở bản tính chúng đều có cũng được mà không có cũng được.
Thế giới bất tất, vì là tạo vật, nên sự tốt lành của nó cũng bất tất. Thiên Chúa có thể tạo nên thế giới này với những sự tốt lành khác hẳn. Người còn có thể tạo nên muôn vàn thế giới khác cũng tốt lành, nhưng một cách khác.
******
Khi một vật hiện hữu thì sự hiện hữu của nó là sự thật, vì thế ta có thể nói: một hữu thể thiết yếu là sự thật.
Một hữu thể trước đã có, nay có thể không còn nữa, nhưng nó cũng đã hiện hữu, vì thế sự hiện hữu của nó luôn thiết yếu thật.
Sự tốt lành là một mục đích mà người khôn ngoan ai cũng hướng vào.
Trước một hữu thể, trí tuệ có thể phân biệt vật hiện hữu và sự tốt lành vật ấy có bởi đó mà ra. Con người là một hữu thể, họ có thể nhìn hiện hữu của mình như một sự tốt lành phải gìn giữ.
Mục đích thiết yếu chỉ có cho hữu thể thiết yếu, còn với các hữu thể bất tất, mục đích không thiết yếu. Con người có thể là trạng sư, bác sĩ, thợ máy hay nông dân ai chọn nghề nào thì nghề ấy trở nên mục đích cho họ. Đó là sự tốt lành cho họ, nhưng họ vẫn có tự do để chọn nghề khác.
Con người có giới hạn và lệ thuộc vào môi trường trong đó họ sống, nên có nhiều sự tốt lành hợp cho người này, nhưng không hợp cho người kia. Thân hình vạm vỡ thích hợp với người nam, nhưng không thích hợp với người nữ. Khéo léo chân tay tốt cho người thợ hơn tài hùng biện.
Mỗi người có những mục đích riêng và những sự tốt lành riêng vì thế tuỳ theo hình thức đời sống họ chọn, họ sẽ có những sự tốt lành thích hợp và không thích hợp. Khi họ đã chọn đời sống ở thôn quê thì đời sống thành thị không còn là sự tốt lành với họ nữa.
Trước khi dấn thân, ta có nhiều hướng để chọn, nhưng khi đã chọn một hướng, thì phải kiên trì tiến lên theo hướng ấy. Đổi hướng luôn sẽ chẳng đưa ta đến đâu cả.
Con người chỉ hoàn chỉnh với cả đời mình. Ở mỗi ngã ba đường phải giữ vững hướng đi, phải chọn một và loại bỏ các hướng khác. Có người muốn hạnh phúc gia đình, nhưng không dứt nổi với tự do cá nhân, nên chẳng bao giờ lập được gia đình. Có người quá cẩn thận, muốn chọn con đường bảo đảm nhất, nên cân nhắc hoài và đánh mất mọi cơ hội thuận tiện để dấn thân.
Đối với con người, mục đích chỉ trở nên thiết yếu vì sự tốt lành nhằm tới là tham dự vào sự tốt lành của Thiên Chúa.
Chỉ có Thiên Chúa mới là căn nguyên hiện hữu, Người hiện hữu tuyệt đối, vì thế sự hiện hữu của con người cũng thiết yếu tuyệt đối khi đã tham dự vào hiện hữu của Người.
******
Con người theo đuổi sự tốt lành tuyệt đối, độc nhất, thiết yếu là Thiên Chúa qua bội số những sự tốt lành bất tất ở trần gian. Những sự tốt lành bất tất ấy đều là sự hảo, nhưng chưa phải là hoàn hảo, nên ở đời này, con người chưa đạt được hoàn chỉnh cho bản thân mình.
Sống luân lý là sống đời mình thế nào để đạt đến hoàn hảo qua và bởi những sự tốt lành bất tất. Nói cách khác, phải tiến từ bất tất đến tuyệt đối, từ tạo vật đến Thiên Chúa. Chính vì thế mà thánh Gioan đã nói: “Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà không thương yêu anh em mình là người nói dối”.
Nhờ sống luân lý, người ta tiến từ bội tính của bản thân đến duy nhất của bản ngã, từ bản tính của hữu thể bất tất đến nhất tính của cứu cánh.
Trong từ ngữ tôn giáo dân gian, người ta nói: Mua nước Thiên Chúa bằng của cải trần gian.
Mục đích của các nhân đức, trong đời sống luân lý, là giải thoát tinh thần khỏi vật chất để có điều kiện tốt hơn mà điều hoà cách sử dụng những sự tốt lành bất bất để tìm lại nhất tính cho mình.
Nhờ tinh thần, con người có thể nhìn thấy sự thật tuyệt đối qua sự vật bất tất, nhìn thấy Thiên Chúa qua tạo vật của Người.
Có những nhân đức nhằm hiểu biết sự thật, siêu nhiên như đức tin, tự nhiên như khôn ngoan, khiêm nhường. Có những nhân đức nhằm theo đuổi những sự tốt lành, siêu nhiên như đức mến, tự nhiên như can đảm, kiên trì, nhẫn nại. Nếu chỉ có các nhân đức giúp ta thấy rõ, ta sẽ không thi hành những việc tốt lành. Nếu chỉ có các nhân đức làm cho quyết định vững chắc và hành động kiên trì, ta có thể hành động sai lầm. Phải điều hoà các nhân đức trên để hiểu biết và ý muốn hài hoà với nhau. Sự hoàn chỉnh con người ở tại sự hài hoà này, nghĩa là phải duy nhất đa dạng, đưa bội tính về nhất tính.
Khi tinh thần không còn bị xác thịt làm cho mù quáng và ý muốn vâng theo quyết định của bản ngã thì con người gặp thấy nhất quá trong bản thân để tìm về căn nguyên tối hậu của mình là Thiên Chúa.
Thế nào là tìm về Thiên Chúa? Là vâng theo thánh ý Người biểu lộ trong thiên nhiên, nghĩa là chọn sự tốt lành giúp ta hoàn chỉnh bản thân, và khi nó có nhiều, thì phải chọn một và theo đuổi đến cùng.
Càng hoàn chỉnh, con người càng hiểu rõ Thiên Chúa là ai, và càng say mê sự tốt lành của Người. Lúc ấy, dù đời sống vẫn đa đoan, hoàn cảnh vẫn đầy bất trắc, tinh thần ta vẫn cảm thấy một niềm vui nhẹ nhàng, siêu thoát.
Trong lúc ta hành động theo thánh y Thiên Chúa, không những ta được trở nên “hình ảnh” của Người, mà còn được hưởng Người như nguồn hạnh phúc của ta một cách mầu nhiệm. Đó là ân huệ nhưng không Thiên Chúa ban cho những kẻ theo đuổi việc tham dự vào sự hoàn hảo của Người.
Quy luật đầu tiên của luân lý là sống theo tinh thần vì đó là chức năng cho biết sự thật và sự tốt lành.
Một trong những nguyên lý quen thuộc của luân lý là đánh giá tinh thần cao quý hơn thể chất. Các lý do viện ra để bênh vực nguyên lý này không những dựa vào giá trị nội tại của tinh thần mà còn dựa vào hạnh phúc nó đem lại nữa.
Sự cao quý nội tại thì dễ dàng chấp nhận, nhưng có ít sức lôi cuốn vì quá trừu tượng, còn hạnh phúc tinh thần thì rất nhiều người không tin. Họ nói: chẳng ai hy sinh hạnh phúc vật chất cho hạnh phúc tinh thần, người ta chỉ hy sinh hạnh phúc vật chất nhỏ để đổi lấy hạnh phúc vật chất lớn hơn thôi.
Cả trong tôn giáo là nơi đề cao giá trị tinh thần, nhiều người cũng vẫn suy tưởng như vậy! Họ tránh những vui sướng xác thịt hưởng một cách trái phép ở đời này vì họ sợ những hình phạt vật chất khủng khiếp ở đời sau.
Trong sinh hoạt tư tưởng chẳng ai dám chối tinh thần cao quý hơn vật chất. Cả đến những người chủ trương duy vật như Épicure, Hobbes, Guyau... cũng đều tìm cách gán ghép các thoả mãn vật chất vào các lý do tinh thần.
Tại sao có mâu thuẫn giữa suy luận của trí tuệ và xu hướng bộc phát nơi con người như vậy? Để hiểu vấn đề, cần phải đi sâu vào tâm lý của họ.
Nhờ ý thức, người ta nhận biết mình và các vật xung quanh. Ý thức gồm hai hoạt động:
- Cảm giác là phản ứng của sinh vật trước thể chất nó quan hệ với nhờ thấy, nghe, nếm.
- Nhận thức do tinh thần đem lại: Đó là phán đoán về cảm giác nói trên của một chủ thể. Chẳng bao giờ có thấy, nghe, nếm không chủ thể. Bao giờ thì cũng chỉ có tôi, anh, nó thấy, nghe, nếm. Ý thức bao giờ cũng gồm có một chủ thể và một đối tượng.
Như vậy, mọi vật chỉ có cho một chủ thể có ý thức về chúng. Nếu không có một chủ thể ý thức thì nó có cũng như không. Đó là trường hợp nhiều người sống trong hạnh phúc mà không hay biết. Đến lúc không còn nữa, họ mới nhận ra rằng mình đã mất nó.
Ý thức không là vật chất. Nó thuộc tinh thần nên là khởi điểm cho tư tưởng.
Tư tưởng là hiểu biết điều ta ý thức.
Chức năng của tư tưởng là so sánh và lập một trật tự giữa những vật ta ý thức. Vì thế, trong tư tưởng ta luôn đối chiếu một vật ta ý thức với lý tưởng ta có về nó.
Trong tư tưởng, tinh thần cố gắng đặt một quan hệ giữa hai ý niệm, một về đối tượng đã ý thức và một về một trong các mô hình của lý tưởng như thật, tốt, đẹp.
Sự vật ý thức thì phức tạp, biến đổi nên bất tất, còn lý tưởng thì bền vững, đơn giản nên thiết yếu, và vì đó nó tuyệt đối.
Cái gì phân biệt con người với các sinh vật khác? Đó là các sinh vật khác chỉ ý thức về các vật ở bội tính và sự bất tất của chúng, còn con người thì nhìn thấy ở đằng sau các vật ấy lý tưởng tuyệt đối của chúng.
Tuyệt đối chỉ xuất hiện nhờ tư tưởng, nghĩa là hoạt động của tinh thần. Nhưng để tinh thần đạt đến tuyệt đối thì phải tránh những yếu tố ngăn cản hoạt động của nó. Theo kinh nghiệm thì các đam mê vật chất có thể làm mờ ám và sai lạc tinh thần.
Trong Kitô giáo, người ta nghĩ rằng nếu không nhận biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối thì mọi nhận định về chính mình và vũ trụ của họ đều sai lạc.
******
Để khôn ngoan, cần phải có tinh thần sáng suốt, nhưng để sáng suốt thì phải làm chủ được những động lực trong người có thể làm cho tinh thần mờ ám như thú vui xác thịt, đam mê của cải, đam mê ăn uống, đam mê danh vọng... Các lý thuyết về khôn ngoan từ đông sang tây như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, La Mã đều chấp nhận nguyên lý trên.
Những người tin có tuyệt đối, dù là Thiên Chúa hay một thực tại nào khác, đều dễ dàng chấp nhận xu hướng tinh thần nói trên. Người duy vật có thể không chấp nhận nhưng suy luận vòng vo rồi họ cũng đi đến quả quyết chỉ có thú vui tinh thần mới có giá trị.
Ngày nay, trong các lý thuyết về xã hội, người ta thường đề cao giá trị tinh thần, nhưng không quy vào một chủ trương về triết học hay về con người nào rõ ràng.
******
Người ta thường coi trong sạch là điều kiện cho tinh thần được sáng suốt.
Trong sạch có một ý nghĩa hẹp là sự trinh tiết của thể xác. Lý do là đam mê giới tính có một sức cuồng loạn hơn các đam mê vật chất khác, nên ai giữ được trinh tiết là như tiêu biểu cho sự trong sạch của một người.
Nói đến trong sạch, tự nhiên ai cũng kính trọng. Đó là tâm tình tiêu biểu cho sự ngưỡng vọng của con người về lý tưởng. Nhưng có một định nghĩa rõ ràng về trong sạch thì chẳng ai làm nổi.
Trong phạm vi luân lý, trong sạch là một đức tính có thể pha trộn vào mọi hoạt động. Người ta nói đến cái nhìn trong sạch, hành động trong sạch, cảm nghĩ trong sạch, con tim trong sạch, tâm hồn trong sạch... Nói chung, trong sạch là vượt trên xác thịt.
Vì trong sạch là biểu hiện cho đời sống luân lý cao, nên trước công chúng con người có nhân cách thường e thẹn trước những cử chỉ khơi dậy đam mê xác thịt và những hành động đem lại thoả mãn vật chất thô tục. E thẹn là như ranh giới bên ngoài của đức trong sạch.
Những gì tục tĩu làm vẩn đục đời sống luân lý đều là đối tượng cho e thẹn, và đều trái với đức trong sạch.
Trong sạch là như linh hồn của đời sống luân lý, nó có mặt ở khắp nơi, nhưng chẳng bao giờ đứng riêng một mình. Đây là lý do khiến ta khó nói được nó là gì.
Các nhà huyết bí của mọi tôn giáo đều nghĩ rằng khi con người đã được giải thoát khỏi mọi trói buộc của vật chất thì họ trở nên trong sạch, và tự nhiên hướng về Thượng Đế.
Để con người có thể vươn lên ở phạm vi tinh thần, họ phải biết làm chủ các nhu cầu vật lý, các đam mê xác thịt, các ước vọng trần gian, các lo lắng về bản thân, và tập trung mọi sự vào tuyệt đối. Họ phải biết quy bội tính vào nhất tính.
Khuất phục thể chất theo tinh thần là vấn đề đầu tiên và nền tảng. Đường hướng của tư tưởng và hoạt động sẽ sai lạc nếu vấn đề này không được giải quyết. Mọi vấn đề khác đều liên quan tới nó.
Để có đời sống luân lý, cần phải sống trong sạch, nhiều người lầm hiểu trong sạch với từ bỏ bản thân. Thế là họ cho rằng đời sống luân lý chỉ gồm có các cấm đoán tiêu cực: không được làm cái này, không được làm cái khác mà thôi. Điều này giải thích tại sao khi nói đến luân lý thì họ buồn rầu, bực bội. Những người sống luân lý cách ấy sẽ không tìm thấy hạnh phúc mà họ hy vọng.
Người sống theo cấm đoán của luân lý mà thôi giống như người rèn luyện mình đọc đúng “nốt” nhạc, rồi thôi, không bao giờ hát nên bài. Họ phải khổ công tập rèn mà chẳng bao giờ được nếm cái hay của âm nhạc.
Người ta chỉ sống luân lý khi khắc phục thể xác để củng cố tinh thần. Sự khắc phục sẽ vô nghĩa nếu nó không nhằm vào duy nhất bản ngã, củng cố tinh thần.
******
Mức độ nhân cách của con người biểu lộ qua đời sống tinh thần của mình nên vấn đề căn bản để hoàn chỉnh bản thân là “tinh thần hoá”.
Tinh thần hoạt động và biểu lộ qua thân thể. Nó kết hợp bền chặt với thân thể đến nỗi mọi phân chia đều xem ra giả tạo.
Ta chỉ biết con người có tinh thần vì họ có những hoạt động không giải thích bằng thân thể được. Ta nói các hoạt động ấy bởi tinh thần.
Các sinh vật khác không có hoạt động tinh thần nên ta nói: tinh thần là đặc tính của con người.
Mọi hoạt động tinh thần đều có kèm theo hoặc trợ lực bởi những hoạt động vật chất và ngược lại mọi hoạt động vật chất đều có ảnh hưởng của một trạng thái tinh thần.
Ta luôn gặp trường hợp một ý tưởng, một niềm vui, một nỗi buồn ảnh hưởng đến các chức năng sinh lý như áp suất mạch máu hay sự tiêu hoá và bài tiết. Và ngược lại, nhức đầu, đau răng làm nhụt khả năng suy tưởng.
Con người là một, nhưng có hai loại hoạt động, một của thể xác và một của tinh thần. Cả hai đều thuộc con người, nhưng ta không biết rõ quan hệ của chúng với nhau là thế nào.
Điều ta biết rõ là con người có thể thân và linh hồn, còn cắt nghĩa quan hệ của chúng thì mỗi người nói mỗi cách.
******
Giải thoát tinh thần khỏi nặng nề của thể xác không có nghĩa là phải tách rời chúng ra. Để giữ vững tinh thần, không phải quên đi thể xác.
Con người được coi là “tinh thần nhập thể”.
Linh hồn và thể xác tuy có bản tính khác nhau, nhưng đã hợp lại nên một hữu thể duy nhất.
Muốn cho tinh thần phát triển thì cũng phải săn sóc đến thân thể. Người xưa quen nói: trí tuệ lành mạnh trong thân thể lành mạnh (mens sana in corpore sano).
Thiếu dinh dưỡng, con người sẽ không suy nghĩ và hành động được nhiều. Trên thế giới, những dân tộc nghèo cứ nghèo thêm và các dân tộc giàu cứ giàu thêm.
Phải làm cho mọi người trên thế giới đừng ai thiếu dinh dưỡng. Vấn đề này kéo theo biết bao vấn đề khác như kinh tế, sản xuất, giao thông, phân phối... Chưa hết, còn phải đặt lại cả các vấn đề về sở hữu, lao động, quyền con người, sự giao dịch, tổ chức xã hội...
Mọi người có ăn chưa đủ, còn phải giải thoát người có ăn dư dật nữa: họ có thể ăn quá nhiều, ăn chọn lọc quá và ăn xằng bậy hại sức khoẻ.
Đói ăn, người ta sẽ suốt ngày thèm khát và nghĩ đến ăn. Thừa ăn, người ta quen với dư thừa à trở nên đòi hỏi. Con người cần phải có đủ ăn, nhưng cũng phải biết coi nhẹ miếng ăn. Theo thánh Phaolô thì phải “ăn như không ăn”.
Vấn đề ăn uống thường được coi là vấn đề vật chất hạ đẳng nhất mà đã phức tạp và dính líu đến bao nhiêu là vấn đề tinh thần rồi. Do đó ta nhận thấy rằng: tinh thần và vật chất luôn quyện vào nhau, ta không thể phân tách ra được.
Trong luân lý, phải giải thoát tinh thần khỏi vật chất, nhưng để rồi lại hội nhập nó với vật chất trong một trạng thái mới: tinh thần phải ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.
******
Đời sống tinh thần lẫn lộn buồn vui. Vui vì nhìn thấy tuyệt đối trong sự thật và tình yêu, nhưng buồn vì thấy tuyệt đối luôn ở ngoài tầm tay của mình. Sự thật và tình yêu nơi trần gian luôn có giới hạn.
Ở đời này có những kinh nghiệm chẳng bao giờ diễn tả được hết, và càng được hưởng thì ta lại càng thêm khao khát: như sự hiểu biết, tình yêu, danh vọng...
Trong các thú vui tinh thần, luôn có một thất vọng cho giác quan. Lý do là vì để vui thoả thì thể xác phải có phần của nó mà tinh thần lại thường lẩn trốn thể xác. Thất vọng này chỉ hết khi con người đã hoàn toàn làm chủ được thể xác mình. Nhưng sự tự chủ ấy luôn phải chinh phục, chẳng bao giờ chiếm đoạt được trọn vẹn.
Than van rằng Thiên Chúa ở trong thâm sâu của tâm hồn mình, mà mình vẫn cảm thấy quá xa không đạt tới được luôn là đề tài của các nhà thần bí tôn giáo (mystiques).
******
Không phải ai cũng là nhà thần bí. Đại đa số sống theo thực tế. Vợ đẹp, con khôn gần gũi hơn lý tưởng. Người ta gặp thánh nhân thì cũng cung kính. Còn nghĩ đến bắt chước các ngài thì năm thì mười hoạ cũng có, nhưng ý nghĩ ấy thoáng đến rồi lại trôi đi. Người ta an phận khi có đủ ăn, đủ mặc. Tinh thần chìm sâu trong xác thịt, dễ gì mà giải thoát được nó.
Lý tưởng với nhiều người là điều rất hời hợt: họ đã nghe nói về lý tưởng một cách gợi cảm, họ đã xúc động, nhưng chưa bao giờ đã có một lựa chọn cho lý tưởng.
Lý tưởng phải xuất phát từ nội tâm, nó phải là lựa chọn của bản thân, nếu không nó chỉ là một mơ ước hão huyền, chẳng bao giờ có sức biến đổi được con người.
Với đa số nhân loại, thiết yếu là đời này. Đời này qua đi nhưng gây cảm xúc, còn tinh thần và bền bỉ chỉ là lý thuyết, không cảm thấy trong thực tế.
Nhưng dù sao, ngưỡng vọng về một đời sống trong sạch, cao quý thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trào trộn vào bao thèm khát khác lôi cuốn hơn nhiều vì gần gũi với thể xác hơn.
Nhiều người để mình trôi theo dòng đời không mục tiêu, không cứu cánh, đun đẩy bởi những kích thích trực tiếp chóng qua. Chẳng bao giờ họ nhìn thấy giá trị của sự vật, trật tự của chúng và mục đích điều động chúng. Họ như người vô tình bước vào nhà ga, không biết chọn con tàu nào vì không biết đi đâu. Có nhiều người bám vào đời sống vì bản năng sinh tồn. Họ chỉ n gày ngày thu xếp làm sao để có đủ ăn, đủ mặc, sung sướng hay ít nữa là đỡ phiền hà. Họ lao động khi cần, nếu không họ chẳng làm gì hết. Còn sự chết thì họ tránh nghĩ đến.
Đời của nhiều người chỉ là một vòng lẩn quẩn. Khi chưa có của, họ tưởng của cải sẽ làm cho họ hạnh phúc. Đến lúc có của, họ thấy hạnh phúc vẫn không đến. Sự thụ hưởng làm cho họ bạc nhược, nên thay vì làm chủ của cải mình có, thì họ trở nên nô lệ của nó.
Người sống không mục đích và lý tưởng, chỉ còn biết vui với sự vật đổi thay và bất tất gặp thấy trên đường đời, kể cả chén rượu và nàng tiên nâu. Họ lãng quên bản ngã vì chỉ bừng tỉnh khi nhu cầu hay đam mê thúc bách. Họ chạy theo bội tính của sự vật và quên đi nhất tính của con người mình.
Con người cảm thấy giới hạn và muốn vượt qua, nên họ luôn ước ao không còn như cũ, nhưng có thêm một cái gì mới. Họ muốn đổi thay và tiến bộ.
Làm người, ai cũng cảm thấy, ít là lờ mờ, rằng mình phải lớn lên bằng cách toả ra xung quanh mình. Mọi thèm khát của họ đều hướng ra ngoài bản thân! Thèm ăn, thèm uống, thèm tiền của, thèm sự thật, thèm tình thương... Đối tượng thèm khát của họ luôn ở bên ngoài họ.
Xu hướng đến với tha thể để đồng hoá, chủ trì hay phục vụ nó cũng vẫn là xu hướng đồng nhất với nó để thêm phong phú cho mình.
Tình yêu ở ý nghĩa khái quát nhất của nó là xu hướng về khách thể.
Đồng hoá vật khác vào mình hay để nó đồng hoá mình vào nó, đó là đời sống.
Kết hợp là trở nên một với một vật khác. Khi ta kết hợp với một vật, ta trở nên nó hay nó trở nên ta.
Với con người, những thực tại đa dạng bất tất có bội tính thấp hèn, chúng do giác quan của thân thể cho biết, những thực tại đơn giản, tuyệt đối, có nhất tính thì cao quý, chúng do tinh thần cho biết. Ta gọi các thực tại trên là giá trị vật chất và các thực tại dưới là giá trị tinh thần.
Màu sắc, hình thái, khối lượng thuộc giá trị vật chất. Sự thật, sự tốt lành, sự đẹp thuộc giá trị tinh thần.
Con người sẽ thoái hoá nếu kết hợp với các giá trị vật chất và trở nên nó hay phục vụ nó. Trái lại họ sẽ kiện toàn bản thân nếu kết hợp với những giá trị tinh thần và trở nên nó hay phục vụ nó.
Con người có thể xác và linh hồn. Sự tồn tại của thể xác là điều kiện cho đời sống của họ, nhưng sự tồn tại của tinh thần mới làm nên phẩm giá của họ.
Khi kết hợp với một giá trị vật chất thì con người phải đồng hoá nó nên mình hay bắt nó phục vụ mình. Trái lại, khi kết hợp với một giá trị tinh thần, thì họ phải đồng hoá nên nó hay phục vụ nó.
Của ăn, tiền bạc, sức khoẻ... có để sử dụng chứ không phải để phục vụ. Khi con người để chúng điều khiển đời sống mình và trở nên nô lệ của chúng thì họ đã thoái hoá.
Trái lại, khi con người quy phục các giá trị tinh thần, quên mình đi để phục vụ sự thật, sự tốt lành và sự đẹp thì họ đã đi trên con đường hoàn chỉnh bản thân. Càng hoà đồng sâu sắc hơn với các giá trị tinh thần thì con người càng hoàn hảo hơn. Hiển linh của tuyệt đối là mức chót cho cuộc hoà đồng này.
******
Con người có thể đi tìm các giá trị tinh thần vì chúng hay vì mình. Vì mình khi con người theo đuổi chúng vì khoá trá hay lợi ích cá nhân gặp thấy bởi đó mà ra. Lúc ấy họ đã muốn các giá trị tinh thần phục vụ cho mình. Nhưng khi, thay vì vươn ra khỏi mình để đạt đến tuyệt đối, người ta quay lại với bản thân chật hẹp của mình thì tuyệt đối của giá trị tinh thần cũng biến đi. Đạo đức giả không phải là đạo đức vì người đạo đức giả chỉ làm những việc tôn giáo vì ích lợi cá nhân chứ không phải để tôn vinh Thiên Chúa.
Người chỉ tìm bản thân trong nghệ thuật khoa học và tôn giáo thì sự ích kỷ của họ sẽ là bức bình phong ngăn chặn giữa các giá trị tinh thần và bản thân họ. Họ đã đưa các giá trị tuyệt đối ấy vào trong con người bất tất của họ, nên họ đã tương đối hoá chúng.
Vì con người bất toàn nên họ buộc phải kiện toàn bản thân mình. Họ hướng về những sự lành làm cho họ nên hoàn chỉnh. Họ yêu chúng, nhưng tình yêu của họ chẳng bao giờ hoàn hảo, vì chẳng bao giờ vô vị lợi, nhưng không.
Dù con người ngụp lặn vào các giá trị tinh thần để đồng hoá với chúng, họ vẫn nhìn thấy rằng họ không mất mát. Cho đi là một sự lành, sự lành này luôn ở với họ. Đã là tình yêu thì phải vô vị lợi, nhưng không, vì bản tính của tình yêu là cho đi.
Tình yêu biểu lộ trong mong ước sự lành và hành động để có sự lành cho người ta yêu. Nó càng cao thượng khi nó càng ít lý do cá nhân để yêu.
Yêu nhưng không là khi ta không có lý do để hành động mà ta đã hành động hết mình vì điều này tốt cho người ta yêu.
Mức độ tình yêu đo lường theo mức độ nhưng không của nó. Tất cả những gì cản trở nhưng không ấy đều do thiếu tình yêu.
Con người phải kiện toàn bản thân, họ phải hướng về những sự lành mình không có, vì thế con người không có thể quên mình đi hoàn toàn được.
Trong con người, có những xu hướng mãnh liệt muốn quy tụ tất cả vào bản thân mình. Chúng ăn rễ sâu trong xác thịt và bản ngã ta nên phải có một dứt bỏ mạnh mẽ thì mới giải thoát ra được. Vì chúng, mỗi lần cho đi là một lần ta cảm thấy mất mát. Đó là lý do giải thích tại sao người ta nói phải “đánh mất bản thân” để có thể hoà mình vào các giá trị tinh thần một cách vô vị lợi.
Để thành công thì phải có tuyệt đối làm chân trời cho công cuộc của ta.
Nhu cầu tuyệt đối cũng phổ biến cho tinh thần như ăn uống cho xác thịt. Nhưng đối tượng của nhu cầu này thật khó xác định. “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra”.
Mặt trời là nguồn ánh sáng cho mắt ta dễ định vị hơn tuyệt đối là nguồn ánh sáng cho tâm hồn ta.
Người ta chỉ phấn khởi trong những công cuộc mà đối tượng xem ra siêu việt những mục đích vật chất ở đời này. Điều này biểu lộ trong mộng ước và các phương tiện để diễn tả mộng ước như âm nhạc, thi ca và tôn giáo. Điều này còn biểu lộ khi người ta thấy cần phải nghĩ ra một “thượng tầng kiến trúc” cho một tổ chức vật chất như khi người ta nói rằng vua là “thiên tử” hay “con mặt trời”. Chủ nghĩa Quốc xã ở Đức đã lạm dụng xu hướng này một cách đáng sợ.
Một tình yêu không biến đổi gì ở người yêu, không sinh ích lợi gì cho người yêu, không đem đến cả cái vui vì đã cho đi tình yêu, đó là tình yêu của Thiên Chúa vì chỉ có một mình Người mới không thêm bớt gì được vào mình và mới không cần đến gì ngoài bản thân.
Con người vì được sáng tạo bởi tình yêu, nên luôn hướng về tình yêu, nhưng tình yêu của họ bất toàn, chẳng bao giờ đạt đến nhưng không tuyệt đối.
Đời sống theo đức tin giúp người ta quên mình đi, hoà đồng trong tình yêu của Thiên Chúa mỗi ngày một nhiều, hầu như vô hạn định. Vì thế, ở trần gian, tình yêu của họ luôn khắc khoải, băn khoăn. Họ luôn đặt vấn đề làm thế nào để tình yêu của mình mỗi ngày một tiến gần đến nhưng không.
Mạc khải của Kitô giáo về Thiên Chúa thoả mãn đòi hỏi tuyệt đối của loài người vì Người là một bản ngã có quan hệ liên chủ thể với họ trong tình yêu. Tình yêu ấy xâm nhập mọi hoạt động của họ từ cảm xúc, nghĩ tưởng đến ước muốn và hành động. Thiên Chúa, qua tình yêu, là như mặt trời soi dẫn đời sống tinh thần của họ.
Tình yêu Thiên Chúa vừa là nơi ta phải tan biến vào, vừa là nơi ta gặp thấy bản thân đích thực của ta.
Giữa tình yêu của Thiên Chúa và loài người không có sự cân xứng. Tất cả những gì thuộc về loài người đều ngăn trở và chối từ tình yêu Thiên Chúa, nhưng tình yêu ấy là của Thiên Chúa cho loài người, nên nếu họ bị tiêu diệt thì Thiên Chúa không còn loài người để yêu, do đó trí tuệ họ không thể diễn tả được tình yêu này, nhưng kinh nghiệm về ước vọng vô biên tồn tại trong lòng họ chứng tỏ sự hiện hữu của nó.
Khi con người đã giũ bỏ được bản thân và tiến sâu trong tình yêu Thiên Chúa. Họ cảm thấy cái vui tràn trề của một tâm hồn mất hút trong tình yêu vô biên.
Kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống cho ta thấy rõ một vật ta gặp chung quanh ta đều giới hạn. Giới hạn của bản thân ta, giới hạn của các bản ngã khác bên cạnh ta, thế giới vật chất với tính phức tạp đổi thay và bất tất của nó.
Những vật giới hạn trên đều tương đối nghĩa là chúng không tự đủ cho chính mình, không có sự hiện hữu bởi tự mình, không ước lượng một cách tuyệt đối, nhưng tuỳ thuộc vào một mô hình nào đó ở ngoài mình.
Làm người ai cũng biết mình đã sinh ra, trưởng thành thì rồi sẽ già nua và sẽ chết. Nhưng trong thực tế, họ sống như không phải chết. Tám mươi tuổi họ còn đặt những chương trình dài hạn cho tương lai như thể họ còn sống lâu. Trên giường chết, họ vẫn nghĩ rằng mình chưa chết. Vì thế, để thành công trong việc yên ủi họ trong giờ hấp hối, người thân vẫn phải nói đến các dự án tương lai của họ. Họ sống như thể đời họ tuyệt đối vậy.
Nhận biết đời mình không vĩnh viễn, tư tưởng và đức tính của mình có thể đổi thay, sức khoẻ mình rất là giòn mỏng, của cải mình thu thập với bao mồ hôi, nước mắt có thể mất đi, sẽ đưa người ta đến mất niềm tin vào cuộc sống. Ai ở tâm trạng ấy sẽ thấy đời là buồn thảm.
Kinh nghiệm cho thấy: muốn thành công trong đời sống, phải tin tưởng và hy vọng nhiều thì mới có hăng say trong hành động. Mà để tin tưởng và hy vọng, thì phải có tuyệt đối là lý do cho mình.
Khi ta nghĩ: Điều này thật, điều này tốt, điều này nên làm, thì ta đã quy chúng về sự thật, sự tốt lành nên làm. Ta đã quy chúng về một tuyệt đối như mô hình của chúng.
Tuyệt đối là sự ở trong tư tưởng cũng như trong thực tại, không lệ thuộc vào bất cứ một vật nào khác, và có ở tự tại lý do hiện hữu của mình. Trong phạm vi tri thức luận, đó là hữu thể ở hiện hữu tại tại không lệ thuộc vào hình ảnh người ta có thể có về mình.
Tuyệt đối khác với tương đối vì ở trạng thái tột cùng, kiện toàn và hoàn hảo nên vượt trên mọi quan hệ với vật khác.
Ta có thể lấy tuyệt đối làm mốc để so sánh các vật tương đối, nhưng tuyệt đối thì duy nhất, không so sánh với vật nào được.
Tuyệt đối thì không còn giới hạn, không có thể thu hẹp vào, và không chấp nhận một luật trừ nào.
Người tự mãn đặt tuyệt đối ở bản thân. Tất cả những điều họ nghĩ và làm đều tuyệt đối. Bảo họ rằng: tư tưởng họ có phần đúng, phần sai, việc họ làm có phần tốt phần xấu, thì họ nổi giận. Với họ, cái gì của họ cũng tuyệt đối: tư tưởng họ có là sự thật, việc họ làm là sự tốt lành.
Chẳng bao giờ người tự mãn tỏ ra trong cách sống rằng họ có thể sai lầm và chấp nhận một cách nhìn sự vật khác với cái nhìn của họ.
Bảo người tự mãn rằng đời người chẳng bao giờ hoàn chỉnh và họ luôn phải cải đổi để tiến lên thì họ không tin.
Phải khiêm nhường nhận biết mình giòn mỏng, đổi thay, bất tất thì mới có thể chấp nhận có một sự thật và một sự thiện tuyệt đối để làm mô hình cho mình theo đuổi trong cuộc sống.
Rất nhiều người đặt tuyệt đối vào các vật tương đối. Người này nghĩ của cải sẽ đem lại cho họ hạnh phúc, người kia nghĩ danh vọng sẽ làm họ toại nguyện. Với họ, của cải danh vọng là tuyệt đối. Cả đời, họ chỉ nghĩ đến chúng và chỉ hoạt động vì chúng.
Họ lầm lẫn vì coi những sự tương đối chỉ là phương tiện để chinh phục tuyệt đối như là tuyệt đối, nên chẳng bao giờ họ sẽ được toại nguyện khi đã có chúng. Càng giàu họ lại càng muốn giàu thêm, và càng có chức quyền họ lại càng muốn củng cố nó thêm nữa. Lòng Giáo Hội hướng về tuyệt đối làm sao có thể thoả mãn với của cải và chức quyền là những điều tương đối được.
Người đặt tuyệt đối vào vật chất chỉ còn nhận thấy giá trị vật chất mà quên đi giá trị tinh thần, nhưng con người không phải chỉ là con vật, họ còn có tinh thần, và cái đó mới làm cho họ nên cao quý hơn các sinh vật khác.
Vì giá trị vật chất thực tế và giá trị tinh thần cao xa nên có nhiều người tin ở giá trị tinh thần mà thật ra họ chỉ sống cho giá trị vật chất. Đó là những người ngoan đạo luôn lui tới nhà thờ cầu kinh, dâng lễ để được những ân huệ vật chất và để tránh những hình phạt cho thể xác nơi địa ngục.
Trái lại, có một số người, vì ảnh hưởng giáo dục hay xã hội, không tin có giá trị tinh thần, nhưng trong đời sống vẫn tôn trọng sự tận tuỵ phục vụ cho hạnh phúc kẻ khác và tình yêu vô vị lợi. Những người này, trong thực tế, đã tin ở tinh thần và tuyệt đối. Họ làm chứng niềm tin của họ không bằng lời nói, nhưng việc làm.
Người duy linh đến đâu cũng phải chấp nhận bên tuyệt đối có tương đối. Tuyệt đối và tương đối đều là dữ kiện hiển nhiên của đời sống. Nhưng mỗi dữ kiện đến với nhận thức qua một con đường khác:
- Tuyệt đối đến qua tinh thần: nếu không có tuyệt đối thì sẽ không có gì hết, nếu có nhiều vật thì một trong các vật ấy là tuyệt đối. Phải bắt đầu bằng tuyệt đối vì tuyệt đối có trước rồi mới có các vật tương đối. Tương đối thì phải tương đối với vật đã có, còn tuyệt đối thì thiết yếu hiện hữu bởi tự tại. Do đó mọi vật đều quy về tuyệt đối, đều hiện hữu nhờ tuyệt đối và đều hiện diện trong tuyệt đối.
- Tương đối đến qua kinh nghiệm: Nó không có lý do hiện hữu, ta không chứng minh được rằng nó có, nhưng ta thấy nó hiện diện trước mặt ta, và cảm gáic ta có về nó buộc ta phải công nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng cảm giác của ta về nó cũng chứng tỏ nó không phải là tuyệt đối vì nó phức tạp, biến đổi và bất tất.
Trước tương đối và tuyệt đối, nhiều người không làm sao dung hoà được để có một cái nhìn nhất quá về sự vật. Nhưng ở đây, vấn đề nền tảng không phải là dung hoà theo lý luận, nhưng đón nhận trong thực tiễn.
Vì cả hai đều hiện hữu, chắc rằng chúng có thể cùng tồn tại. Và vì vật tương đối không hiện hữu ở tự tại, thì nó phải có lý do hiện hữu ở tuyệt đối. Từ đó ta có thể nghĩ thêm rằng: vật tương đối chỉ hiện hữu hướng về tuyệt đối như nguồn mạch và mục đích của mình.
******
Ta có thể tóm lược rằng có ba loại người: - Người nghi kỵ: cho rằng đời người bất tất sẽ qua đi, chẳng có gì là bền vững chẳng có gì là tuyệt đối.
- Người tự mãn: cho rằng đời mình là tuyệt đối, mọi tư tưởng và hành động của mình đều đúng và tốt lành. Họ dễ rơi vào cảm giác bị bách hại khi thấy đời sống của mình bị thời thế bên ngoài phi bác.
- Người khôn ngoan nhìn nhận có tuyệt đối nhưng biết mình tương đối. Đời họ không buồn tẻ vì niềm tin của họ vào tuyệt đối cho họ hy vọng vượt qua tình trạng bất tất của mình để tham dự một ngày một nhiều vào tình trạng thiết yếu của tuyệt đối.
******
Mọi vấn đề đặt ra đều quy về tuyệt đối vì làm gì, nghĩ gì, ước ao gì thì con người cũng vẫn cố gắng đạt đến tuyệt đối. Nhưng tuyệt đối là gì thì thật khó nói: đã là người có trí khôn, ai cũng biết đến nó không ít thì nhiều, nhưng ai thành thật với chính mình cũng phải thú nhận rằng mình không nắm vững vấn đề này lắm.
Từ tuyệt đối gợi lên trong tâm trí ta một ý niệm mông lung về sự thật, sự thiện và sự cao đẹp. Con người có thể thoái mái trong ý niệm mông lung này vì hoạt động thực tiễn và hứng khởi của tình cảm không đòi sự minh bạch rõ ràng. Vì thế mà khi nhu cầu thực tiễn và tình cảm đòi hỏi, người ta có thể biến mọi thực tại thành tuyệt đối. Từ của cải, danh vọng, tình yêu đến ly cà phê đen ban sáng và mũi bạch phiến chích mỗi ngày, từ tổ quốc, danh dự, tự do đến giống nòi và nhân loại đều có thể là tuyệt đối cho loài người cả.
Khi ta chọn một điều nói trên làm tuyệt đối cho mình thì ta đã chấp nhận đó là Thượng Đế. Lúc ấy ta có Thượng Đế không phải là Thượng Đế.
Người ta có thể chối rằng Thượng Đế không phải là Thiên Chúa của Kitô giáo, Allab của Hồi giáo, Vichnou của Ấn Độ giáo, Tạo của Lão giáo, Bouddha Amitabha của Phật giáo... nhưng người ta không thể chối Thượng Đế.
Người ta chối Thượng Đế không phải vì không chấp nhận có Thượng Đế, nhưng vì nghĩ rằng quan niệm về Thượng Đế có trong tư tưởng không đúng, và vì thế phải tìm một quan niệm khác đúng hơn. Sự sai lầm ở tại một ý niệm sai lầm, một ý niệm chưa đầy đủ, hay một ý niệm có pha trộn thật và sai, chứ không ở tại sự hiện hữu của một Thượng Đế.
Như ta đã thấy, mỗi người có một ý niệm về Thượng Đế riêng cho mình. Riêng trong Kitô giáo, Thiên Chúa có những đặc điểm sau đây:
Hiện diện trong khiếm diện. Để dễ hiểu điều này, ta hãy bắt đầu bằng một thần thoại:
Một lữ khách lạc vào một khu rừng vắng bỗng anh bỡ ngỡ thấy mình đứng trước một toà lâu đài tráng lệ nguy nga. Một người giúp việc lâu đài bước ra mời anh vào thăm toà nhà. Anh bước vào, mọi sự trong lâu đài hình như đã được sắp xếp từ trước để đón anh: từ thái độ các người giúp việc luôn túc trực để thoả mãn ý muốn của anh đến phòng ăn ấm cúng có bày sẵn đồ ăn lót lòng để anh dùng. Anh thấy rõ là ông chủ lâu đài đã ra lệnh cho gia nhân phải đón tiếp anh nồng hậu. Hỏi gia nhân thì họ nói ông vẫn có nhà và đã ra lệnh cho họ thi hành mọi việc, nhưng trong thời gian anh lưu lại lâu đài, chẳng lúc nào anh được giáp mặt ông cả. Nhưng dù ông không xuất hiện, suốt thời gian, chẳng lúc nào anh không cảm thấy lòng hiếu khách và sự ân cần của ông đối với anh. Ông vắng mạt mà không vắng mặt vì hiệu quả của sự săn sóc nhiệt thành của ông.
Con người sống trong thế gian, nếu lưu tâm, cũng có một cảm nghiệm về sự hiện diện trong khiếm diện của Thiên Chúa như vậy. Vừa bước vào đời, họ đã được gia đình che chở, đùm bọc, nuôi nấng dạy dỗ cho đến khi khôn lớn. Họ sống trong xã hội có quy luật để tạo cho họ một môi trường để làm phát triển các khả năng mình có như nhà trường, xưởng thợ, nhà máy, tập đoàn công nghiệp. Trước thiên nhiên, nếu họ hiểu biết các quy luật của chúng để mà thích ứng, và biết tổ chức lao động của mình cho hợp lý, thì họ sẽ quản trị được chúng và chúng sẽ cung cấp cho họ những gì đời sống họ đòi hỏi. Nói tóm lại, họ nhận biết trong thiên nhiên có những quy luật và lệnh truyền huyền bí để bảo vệ cho họ tồn tại và phát triển trong đời sống, tuy chẳng bao giờ họ gắp thấy Đấng ban những quy luật và lệnh truyền ấy.
Ông chủ thiên nhiên này khác với các ông chủ của loài người. Những người này phải tỏ ra và bảo vệ chủ quyền của mình trước mặt người dưới vì họ có chứ không là chủ quyền ấy nên nếu họ không sử dụng và bảo vệ nó thì nó sẽ mất đi. Trái lại Thiên Chúa là chủ quyền của mình nên không cần phải khẳng định rằng mình có nó nữa, không có ai hoặc sự gì có thể can thiệp vào đó được. Người là chủ do bản tính của sự vật vì chúng là của Người. Người có hiệu hữu thì sự vật mới hiện hữu, chẳng có gì thoát khỏi quyền năng của Người.
Khi loài người làm chủ được sự vật, họ không mất mát gì đến chủ quyền của Thiên Chúa. Giữa hai người quyền năng của người này giới hạn quyền năng của người kia, trái lại Thiên Chúa là chủ cả loài người lẫn sự vật, Người ban hiện hữu cho cả hai, chúng chỉ tồn tại nhờ ở Người và chúng không thể ra khỏi ảnh hưởng của quyền năng Người được. Vì thế, khi con người làm chủ được thiên nhiên, thì cũng là do thánh ý Người muốn như vậy. Sách Sáng Thế Ký đã nói đến Thiên Chúa ban quyền cai quản các vật trong vườn địa đàng cho loài người (Gen 1,28).
Thiên Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ. Tạo vật chỉ có bởi và trong Thiên Chúa. Ta không có thể nghĩ đến một tạo vật mà lại độc lập hay tách biệt với Thiên Chúa được, vì lúc ấy nó không còn là tạo vật nữa. Nhưng ta không thể chối không có tạo vật, các vật ta trực tiếp nhận biết đều phức tạp, đổi thay, bất tất, chúng đều không hiện hữu bởi tự mình, nên đều tuỳ thuộc vào một thực tại hiện hữu ở tự tại. Nói khác đi, chúng đều là tạo vật, chúng chỉ có hiện hữu nhờ can thiệp của Thiên Chúa và chỉ có hữu thể theo mức độ Thiên Chúa ban cho chúng. Hoạt động của Thiên Chúa vào chúng sâu sắc, mạnh mẽ, thiết yếu hơn chính thực tại của chúng. Ta không có thể tưởng tượng được rằng chúng có thể tách rời khỏi quan hệ với Thiên Chúa, vì không có gì trong tạo vật mà không thuộc về Thiên Chúa.
Tính nguyên nhân nơi Thiên Chúa tuyệt đối: Người sáng tạo mọi lúc, không có thời gian bắt đầu và kế tiếp. Tạo vật chỉ hiện hữu vì được đặt vào hiện hữu bởi Thiên Chúa, nếu Người ngưng việc ấy, nó liền biến mất không để lại dấu tích gì ngay lập tức.
Để nhận biết tạo vật, ta phải nhờ đến đối chiếu, so sánh. Màu sắc, đường nét, tiếng động, ý nghĩ đều phân biệt nhau nhờ đối chiếu, so sánh lẫn với nhau. Thiên Chúa đồng hoá chặt chẽ với tất cả những gì hiện hữu đến nỗi không có gì hiện hữu nếu không có hiện diện của Người. Nhưng Người tuyệt đối, chẳng có gì để so sánh, đối chiếu với Người cả. Người độc nhất và không thuộc về một loại nào cả. Người cũng chẳng có gì để tranh chấp và đòi hỏi với ai, vì không có một đối thủ. Vì thế, để hiểu biết Người, ta không thể so sánh, đối chiếu với một thực tại nào khác được.
Đôi khi người ta nói rằng: loài người đã cướp mất bí mật về vũ trụ của Người. Nhưng Thiên Chúa đâu có giữ bí mật về thiên nhiên, Người còn truyền cho con người phải dùng hiểu biết và cương quyết để làm chủ thiên nhiên nữa. Mọi hiểu biết và quyền lực của con người trên thiên nhiên đều biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa vì Người là chủ các quy luật họ khám phá ra cũng như khả năng khám phá của chính họ nữa.
Vì tạo vật lệ thuộc vào Thiên Chúa một cách quá bền chặt như vậy, đến nỗi xem ra Người đồng nhất với vũ trụ và chẳng có sự gì hiện hữu mà không ở trong Người, nên rất nhiều người cho rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là thần linh. Nhưng nếu Thiên Chúa ở trong vũ trụ, Người không phải là vũ trụ, mà chỉ là chủ sống động của vũ trụ thôi. Giữa Người và vũ trụ, có phân biệt giữa Đấng sáng tạo với tạo vật. Hữu thể của Thiên Chúa khác với hữu thể của tạo vật vì một bên là tự tại và một bên là tương đối, một bên là thiết yếu và một bên là bất tất.
Thiên Chúa siêu việt. Siêu việt là ở trên, Đấng siêu việt vượt trên mọi mô hình về hiểu biết của loài người. Một đối tượng như vậy làm sao có một ngôn ngữ cân xứng để diễn tả được. Các nhà thần học phải nhờ đến hai cách diễn tả sau đây:
Trước là cách diễn tả theo phủ định: đó là chối về Thiên Chúa tất cả những gì tương đối, không hoàn hảo như nói rằng: Người không có hình tượng, không định vị trong thời gian và không gian...
Thứ đến cách diễn tả theo tương tự (analogia). Loài người là tạo vật, nếu có gì tốt lành ở họ thì sự ấy phải có một quan hệ nào đó với sự tốt lành hơi Thiên Chúa. Kinh Thánh nói đến con người là hình ảnh Thiên Chúa. Quan hệ ấy siêu việt vì ở trên mọi tượng hình của hiểu biết nơi con người. Thí dụ khi ta nói: Thiên Chúa nhân từ. Chắc rằng nhân từ là một đức tính cao đẹp nên phải có nơi Thiên Chúa một cái gì giống như thế, nhưng không giống theo đơn nghĩa, mà chỉ giống theo tương tự thôi. Thật vậy, nhân từ nơi Thiên Chúa bền vững không có giới hạn, không phân biệt bạn thù... như ở loài người.
Dù có nhiều người biết rằng Thiên Chúa siêu việt và cách nói về Người không được hiểu theo đơn nghĩa. Nhưng trí khôn loài người yếu đuối, nên tuy chấp nhận chân lý trên trong lý thuyết, mà trong thực hành, khi cần diễn tả, vẫn trình bày theo đơn nghĩa. Thế là Thiên Chúa trở nên một người. Đó là lầm lẫn của cách nói thần nhân đồng hình (Anthropomorphisme). Vì lầm lẫn này, người ta rất dễ dàng tưởng tượng rằng Thiên Chúa cũng có những cách suy nghĩ, những tâm tình và cách quả quyết như loài người, và rút ra từ đó một quan hệ giống như quan hệ với những người có quyền, có chức: cũng biếu xén, tâng bốc, lấy lòng... để thủ lợi cho mình chứ không lo đến tập rèn các đức tính mà Thiên Chúa đã in sâu vào bản tính con người bằng một ước nguyện hoặc đã phán truyền qua miệng các tiên tri. Chỉ có vâng phục tuyệt đối các quy luật và lệnh truyền của Thiên Chúa trong đời sống mới định vị đúng quan hệ của ta với Đấng đã sáng tạo nên ta.
******
Vấn đề căn bản của đời sống con người là thấy và hiểu đủ về Thiên Chúa, vì đời mình có nghĩa hay không là tuỳ thuộc vào đó.
Trí tuệ sẽ chẳng quả quyết được gì nếu ta không chấp nhận có Đấng tuyệt đối, vì ta sẽ không biết nguyên nhân dự vật là gì, ta cũng chẳng giải thích được gì vì ta không có một mô hình căn cứ vào đó mà đánh giá thực hư, tốt xấu của sự vật.
Nhưng như Phúc Âm đã hứa hẹn, phải có tâm hồn trong sạch thì ta mới nhìn thấy Thiên Chúa.
Tiếp cận đến cầu nguyện có nhiều cách, nhiều như số người cầu nguyện, và như những biến cố luôn khác nhau xảy đến. Cầu nguyện rất dị biệt, dị biệt như những tìm tòi của tình yêu vậy.
- Phạm vi của cầu nguyện cũng rộng như phạm vi của hy vọng. Ta có thể nói rằng ở mọi sinh vật có tiến triển, đều có hy vọng. Vì thế mọi cố gắng đáp lại những đòi hỏi của bản thân mình, đều ngầm chứa một lời cầu nguyện. Cố gắng ấy là khoảnh đất tự nhiên cho cầu nguyện mọc lên.
- Nhìn như trên, ta có thể suy nghĩ rất rộng: tiếng khóc của trẻ sơ sinh đã là một lời cầu nguyện. Cầu nguyện này còn hoàn toàn có tính sinh lý. Nó sẽ biến nên sự thích ứng với môi sinh.
- Khi thời gian ở trong lòng mẹ đã mãn, thì một quy luật không gì cưỡng được đuổi nó ra khỏi lòng mẹ. Đến lúc này, nó hoàn toàn ở tình trạng thụ nhận, thì bấy giờ, trước vũ trụ bao la, nó phải tự mình phản ứng lại. Cơ thể có sự sống này thốt lên một lời cầu cứu với cái khách thể xa lạ mà nó vừa bị ném vào. Nó sẽ được đón nhận, nhưng từ nay, chính nó phải có cố gắng thì mới được đón nhận. Gặp gỡ đầu tiên cũng là đối đầu đầu tiên của con người với thế gian trong hơi thở thứ nhất của trẻ sơ sinh. Đây là: một điều phi thường, một phép lạ! Hơi thở đầu tiên tạo nên một trao đổi sự sống giữa thế gian và sinh vật. Đó là biểu tượng chứa đựng tất cả mầu nhiệm về sự sống. Thật vậy, đời sống chỉ là sự hình thành dài dòng của sự gặp gỡ đầu tiên này giữa con người và thế gian với những thành công và thất bại nối tiếp.
- Như trên, mọi cố gắng của con người để tồn tại và tiến triển đều ngầm chứa một lời kêu cầu, một khẩn nguyện. Ở giai đoạn này, cầu nguyện là một từ mà hy vọng nơi con người chưa dám đón nhận, hoặc vì chưa có một công thức, hoặc vì chưa biết diễn tả với ai.
- Phải thú nhận rằng: khi đã nhận được sự sống, ta chờ đợi và hy vọng rất nhiều. Đó là điều tự nhiên: người ta chỉ sống khi có hy vọng, và không có hy vọng thì sống cũng như là chết. Nhưng ta hy vọng gì và vào cái gì? Đời sống thế gian, tha nhân, Thiên Chúa...? Lúc sơ sinh ta chưa biết rõ được gì.
- Kinh Thánh đã nhắc đến người nữ tì Agar, vì lòng ghen tị của bà chủ mình, phải đuổi ra khỏi nhà với đứa con nhỏ tuổi là Imael mà cô đã có với ông chủ mình là Abraham. Cô tiến vào hoàng địa với một vò nước, và khi đã uống cạn vò, cô không đành lòng nhìn thấy con chết khát, nên đã đặt nó một nơi rồi ra xa đó mà ngồi. Vì không được sưởi ấm bởi lòng mẹ, lại khát nước, Ismael bắt đầu kêu khóc. Kinh Thánh nói: “Thiên Chúa, nghe tiếng kêu khóc của đứa bé và thiên thần của Thiên Chúa từ trời gọi Agar mà bảo: ‘Sao đó Agar! Đừng sợ gì cả, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu của thằng nhỏ ở nơi của nó’” (St 21,17).
- Ismael sắp chết khát, tiếng kêu khóc biểu lộ sự đau khổ và khát vọng được sống của nó. Tiếng kêu khóc ấy tuy chưa có lời để diễn tả, cũng đã nói lên sự nổi loạn của nó trước số phận bạc bẽo của mình. Tại sao nó lại phải chết khát trong sa mạc bên người mẹ thất vọng và đau khổ của nó? Đây là phản ứng bột phát của một sinh vật trước hoạn nạn và sự chết. Trong phản ứng này, chẳng có gì gợi lên một lời cầu nguyện. Ta ở trong một trường hợp hoàn toàn bột phát: cơ thể của một sinh vật đã kiệt quệ vì đói khát thốt ra qua tiếng kêu khóc sự bất lực và nỗi uất ức của mình. Đây là một trong muôn vàn bi kịch gây nên do kiêu căng và ích kỷ của loài người. Tiền sự chúng tạo nên đưa đến những hiệu quả theo luật tất định không cách cứu vãn. Nhưng, một tia hy vọng bất ngờ le lói: “Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu của trẻ nhỏ ở nơi của nó”. Thiên Chúa đã nghe, nghĩa là đã biết và đã cảm thông. Tình cảnh một trẻ thơ hấp hối vì hiếu mọi sự cần thiết cho đời sống mang nặng một ý nghĩa mà nạn nhân, vì còn quá non dại, chưa diễn tả ra bên ngoài được. Nhưng phải giải thích thế nào về tiếng kêu khóc của Ismael là một lời cầu nguyện mà Thiên Chúa đã nghe?
- Kinh Thánh đã nhấn mạnh: “Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu khóc của trẻ thơ ở nơi của nó”. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, thông suốt mọi sự, nhưng Người lưu ý đặc biệt đến cảnh huống của trẻ nhỏ Ismael, Người thấy nó “ở nơi của nó”, giữa đau đớn và tuyệt vọng của con hấp hối.
Nhưng cái gì làm chứng rằng Thiên Chúa đã lưu ý đến tiếng kêu khóc của Ismael nói riêng và đến tiếng kêu khóc của những người bé mọn nói chung? Họ thiếu bảo vệ vì không có khôn ngoan, quyền lực, của cải... nên trở nên vật hy sinh cho ích kỷ và bất công của loài người. Trong lịch sử, họ luôn là những người thua thiệt.
- Câu trả lời ở tại sự kiện Con Thiên Chúa làm người đã thâu tóm nơi Người tất cả nhân loại yếu đuối, thua thiệt. Tiên tri Isaia nói: “Người đón nhận các khổ cực của ta và Người gánh lấy các đau đớn của ta” (53,4). Vì thương yêu loài người, Đức Kitô đã đồng hoá với họ và đã đón nhận các khổ cực của họ để nâng họ lên: “Và Ta, khi lên khỏi đất, Ta sẽ kéo theo hết mọi người với Ta” (Ga 12,32). Mọi người bé mọn, cùng khổ, kể cả những người vì hoàn cảnh đời sống, không còn có đủ sáng suốt để tự do chấp nhận hay chối bỏ Thiên Chúa nữa, cũng sẽ được Đức Kitô nâng lên.
- Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, những đau khổ, thua thiệt của những người nhỏ mọn yếu đuối đều được thâu nhận trong Đức Kitô nên đều có một giá trị giải thoát. Cha Monchanin viết: “Tất cả những đau khổ không có ý nghĩa ở một tạo vật nào cũng sẽ có ý nghĩa tuyệt đối trong sự đau khổ của Đức Kitô” (Ecrits spirituels, Paris, Centurion, tr. 123).
- Các sự thiệt thòi, đau khổ của bao tâm hồn đơn sơ, vô tội chưa biết tự mình dâng hiến cho Thiên Chúa như trường hợp Ismael cũng không vô ích, vì đã được Đức Kitô thâu nhận là của mình, và được Thiên Chúa Ngôi Cha chấp nhận.
- Thánh Phaolô còn tiến xa hơn trong đường hướng suy niệm trên. “Toàn thể vũ trụ đều rên xiết trong đau đớn sinh con” (Rm 8,22). Với ông, vì tội lỗi của loài người, thế gian này nay cũng rơi vào tình trạng hư đốn, nên nó cũng đang mong chờ ơn giải thoát.
- Thế gian ra xấu vì tà tâm của loài người ngày nay là một sự kiện rõ ràng. Hằng ngày báo chí nhắc đến những nguy hai gây nên trong môi sinh, trong cơ cấu xã hội... có thể giảm thiểu đời sống và tha hoá con người. Đó là tiếng báo động rằng thế gian “rên xiết trong đau đớn sinh con”.
- Thế gian rên xiết, nó không biết ý nghĩa việc nó làm, nhưng Chúa Thánh Thần bắt đầu ở sự rên xiết này để đưa nó đến ấp úng kêu tên Thiên Chúa. Sự rên xiết của Thần Khí không thể diễn tả ra được, nhưng ở đâu có hoạt động của Thần Khí, thì ở đó có thôi thúc để thế gian xưng ra danh Thiên Chúa.
- Trong rên xiết ngầm chứa hy vọng, khi không có hy vọng, không còn rên xiết nữa. Trong thế gian, khi không còn hy vọng, và rên xiết đã tắt lịm, đó là lúc nhân loại đã bít kín mọi cửa sổ mở lên siêu việt.
- Theo thánh Phaolô, người tín hữu cũng thuộc về thế gian, nhưng họ không thất vọng vì họ biết rằng: sẽ có ngày thế gian đổi mới, và trong trời mới đất mới, họ sẽ sống trong vinh quang Thiên Chúa. Và vì thế, họ cảm thấy có trách nhiệm phải biến rên xiết của thế gian nên lời cảm tạ.
- Thế gian là tạo vật của Thiên Chúa. Làm xuất hiện giá trị của thế gian đã là tham dự một cách nào đó vào kinh nghiệm tôn giáo về mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Đó cũng là nhận biết hành động của Thiên Chúa trong ta qua trung gian của thế gian là hình ảnh của Người.
- Nếu Thiên Chúa hiện diện trong thế gian, thế gian vẫn chưa phải là nước Thiên Chúa. Vinh quang mà Thiên Chúa phản chiếu trong thế gian còn mờ mờ như ở trong gương. Con đường tiệm tiến của cầu nguyện ở trong hoàn cảnh lưỡng diện này.
- Đó là điều giải thích thế gian vừa có ở chính mình vừa có ở ngoài mình sức mạnh để đi đến một biến hình trọn vẹn. Con đường của cầu nguyện cũng phải nhờ vào hai sức mạnh ấy thì mới đạt được kết quả.
******
Cầu nguyện có muôn vàn hình thức, nhưng đều quy về một trong hai đường hướng sau đây là ra khỏi thế gian và nhập cuộc với thế gian.
- Có người chỉ cầu nguyện được khi ở một mình, xa người khác. Họ cần một phòng kín hay một nhà thờ thanh vắng. Trong Phúc Âm, Người cũng “ra khỏi đám đông, đến một nơi thanh vắng, và ở đó, Người cầu nguyện” (Mc 1,35).
- Người khác lại cần phải nhìn thấy bất công, bạo lực, đau khổ trong thế gian để cùng với các nạn nhân của các bất hạnh ấy cầu nguyện, thì họ mới cảm thấy sốt sắng, thành tâm, khẩn thiết.
- Gần đây, có nhà thần học nghĩ rằng: khi việc thờ phượng Thiên Chúa trở nên một trú ẩn để xa tránh thế gian, thì người ta đã làm cho tôn giáo trở nên hư đốn (J. Robinson, Dieu sans Dieu, Nouvelles Editions Latines, P. 114).
- Giữa hai xu hướng trên, ta phải chọn cái nào? Đâu là tiêu chuẩn để ta lựa chọn? Một tiếp cận thật sự với cầu nguyện cũng là một tiếp cận với Thiên Chúa, nên dù theo xu hướng nào, thì cầu nguyện cũng luôn là khơi dậy một tình yêu tiến đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Vấn đề được đặt ra ở đây là Thiên Chúa ở đâu? Ở trong hay ở ngoài thế gian? Ở khắp mọi nơi hay chẳng ở đâu cả?
- Theo Kinh Thánh thì Thiên Chúa vừa siêu việt vừa nội tại trong ta. Người vừa ở trong, vừa ở ngoài ta. Người bao giờ cũng rất gần gũi, nhưng cũng rất cách biệt với ta.
- Nếu cầu nguyện là “nâng lòng ta lên với Thiên Chúa”, thì cũng là đi xa hơn điều ta cảm thấy để đạt đến điều ta không cảm thấy. Điều ta cảm thấy là thế gian và điều ta không cảm thấy là “thánh thiêng” (sacré). Cầu nguyện là bỏ trần gian lại đằng sau để bước vào thánh thiêng. Nhưng lại nảy ra vấn đề: thánh thiêng ở trong hay ngoài ta?
- Trong Kitô giáo, có người quả quyết: Thánh thiêng là chiều sâu của bình thường cũng như Thiên Chúa vừa ở ngoài vừa ở trong ta. Và nếu như vậy: thánh thiêng phải khám phá ra ở ngay trong những thực tại hằng ngày của đời ta, nghĩa là trong thế gian. Nhưng người khác lại nói: người tín hữu chân chính là người tin rằng thánh thiêng siêu việt mọi thực tại trần gian (cf. Jean Danielou, Dieu et Nous, Grasset, 1956, ch. 1 và 2).
- Để hiểu quan hệ giữa Thiên Chúa và loài người, suy luận triết học không cho biết đầy đủ được, cần phải nhờ vào mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Con nữa. Ông Claudel viết: “Biến cố Đức Kitô đã đến vì ta cho mọi sự một đường hướng và một tiến triển” (L’Épée et le Miroir).
- Cần phải biết việc một ngôi Thiên Chúa đến sống giữa loài người đã làm cho tất cả các thực tại trần gian thánh thiêng như thế nào? Đó là một vấn đề quá rộng không thể đơn giản giải đáp trong mấy dòng được. Điều chúng ta cần biết ở đây là Đức Kitô đã thiết lập cả một phẩm trật hiện diện của Thiên Chúa trong tạo vật. Sự hiện diện ấy khác trong viên đá, trong viên đá đã thánh hiến trên bàn thờ, và trong tấm bánh đã truyền phép. Sự hiện diện ấy cũng dị biệt trong các hành động khác nhau nơi con người.
- Vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong tạo vật có thể đi từ hiện diện trong khiếm diện đến hiện diện trong bí tích mà người ta có thể biết rằng trình độ thánh thiêng ở chúng có thể đi từ trần tục đến thánh hiến. Vì thế con đường để gặp gỡ thánh thiêng và kết hiệp với Thiên Chúa cũng có nhiều cấp bậc.
- Nếu khách quan con đường cầu nguyện có nhiều, ta không được vin vào đó để biện hộ cho những thái độ tâm lý sai lầm.
- Nếu xa thế gian một thời gian vì nó quá trần tục để đi vào thánh thiêng cho dễ “nâng lòng lên với Thiên Chúa” thì đó là điều tốt. Nhưng còn ở đời này, ta không có quyền quay lưng với thế gian để được thông hiệp giả tạo với thánh thiêng. Thế gian đầy bất công phải xoá bỏ, bất trắc phải đương đầu. Ta không được lấy cớ chọn thánh thiêng và những đặc ân dành cho nơi ấy chỉ vì hèn nhát và lười biếng trước những trách nhiệm ở đời này. Chán đời đi tu là một phương châm sai lầm.
- Nhưng lấy cớ rằng Thiên Chúa không ngự trên mây xanh, mà ngay giữa loài người để dấn thân vào các trách vụ trần gian đến không còn giây phút tĩnh tâm nào để nhớ đến Thiên Chúa và thánh ý Người thì cũng là điều sai lầm.
- Ta phải tránh những thái độ một chiều gây nên bởi những động lực mà ta không dám tự thú với bản thân. Để được như vậy, ta phải nhìn vào gương Người. Luôn ta phải tìm Chúa giữa loài người chứ không phải trên mây xanh. Lời của thánh Gioan sau đây đúng luôn mãi: “Có một Đấng ở giữa anh em mà anh em chưa nhận biết” (Ga 1,26). Thật vậy, trong giờ phát xét Chúa sẽ đồng hoá mình với những người bé mọn thiếu thốn, ai giúp đỡ, che chở họ là giúp đỡ, che chở chính Chúa. Nhưng mặt khác Người cũng dạy ta “rút vào nơi thanh vắng để gặp Thiên Chúa” (Mt 6,6), và giữa hoạt động tông đồ, sau một ngày truyền giáo mệt nhọc, Người thường đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện.
- Như trên, Người đi vào cả hai con đường cầu nguyện: Người là Thiên Chúa thật, nhưng cũng là người hoàn toàn. Trong những biến cố quan trọng của đời người Người đều gặp với Ngôi Cha: như khi Người chịu Phép rửa (Lc 3,21); khi Người hiển linh cho mấy môn đệ thân tín (Lc 9,29); khi Người cho Ladarô đã chết được sống lại (Ga 9,4); khi Phêrô chối Người (Lc 22,31). Trước hay sau khi có một quyết định quan trọng, Người thường cầu nguyện để sửa soạn và kiểm điểm việc mình làm, như trước khi chọn 12 tông đồ (Lc 6,12) và sau khi làm cho bánh ra nhiều (Lc 6,36). Ngay cả trong lúc đến một nơi truyền giáo, người ta tìm gặp Người liên miên, mà Người vẫn có giờ “rút vào nơi thanh vắng” (Mc 1,35).
- Tại sao trong một đời sống hoạt động đầy công việc, Đức Kitô vẫn luôn có những giờ phút rút vào thanh vắng để cầu nguyện? Vì mệt nhọc trước một đời sống đầy lo nghĩ, để thoả mãn luật tâm lý có làm việc thì cũng cần có nghỉ ngơi, để gặp lại Ngôi Cha mà nhận lãnh thánh ý Ngài... có lẽ các lý do đó đều đúng một phần.
- Cầu nguyện là chấp nhận cho Thiên Chúa kiểm soát mọi hành động của đời ta.
******
- Với nhiều người nói đến cầu nguyện là nghĩ ngay đến im lặng. Với họ, im lặng không những là điều kiện hay một hình thức của cầu nguyện, mà còn là cách diễn tả cuối cùng và hoàn hảo của cầu nguyện nữa.
- Chắc rằng yên lặng là một yếu tố quan trọng trong cầu nguyện, nhưng không là tất cả cầu nguyện.
- Khi nhìn vào đời sống nhộn nhịp của thời đại chúng ta, có lạ gì ta cảm thấy cần có sự yên tĩnh, cũng như người ngột ngạt thì cảm thấy cần phải thở.
- Thí dụ người thợ làm một xưởng máy trong thành phố. Vừa thức dậy đã phải len lách đến nơi làm việc, làm việc rồi nghỉ trưa tại sở, rồi lại làm việc tiếp giữa ồn ào của các động cơ. Tối trở về gia đình lẽ tất nhiên người ấy mong ước được hưởng một chút yên hàn. Và nếu người ấy cầu nguyện, lẽ tất nhiên cầu nguyện phải là một giờ yên lặng trong tâm hồn.
- Nhưng nếu người ấy, vì một may mắn nào đó, được sống trong yên tĩnh lâu dài. Anh sẽ chịu đựng yên lặng một thời gian. Rồi từ yên lặng, sẽ vang lên những tiếng động, không phải của một hoà điệu du dương, nhưng của đòi hỏi các nhu cầu từ vật lý đến tinh thần, trá hình dưới những ký ức của đời sống cụ thể. Thế là, tưởng rằng trốn vào yên lặng thì thoát được các vấn đề rắc rối của đời sống, người ấy lại gặp chúng ở một mức độ sâu sắc hơn, làm cho anh càng thêm bối rối.
- Sau những choáng váng của đời sống nội tâm nói trên, anh lại cảm thấy đời sống hoạt động vững chãi hơn. Chắc rằng nó đòi có sự chiến đấu, gian khổ, nhưng nó cụ thể, gắn liền với thân phận con người hơn. Làm sao tránh được quan hệ với quá trình kinh tế, chính trị của thời đại chúng ta? Bên cạnh ta, mọi người đều ở hoàn cảnh ấy, ta hãy cùng họ chiến đấu để cứu ta và cứu họ. Và người ta lao mình vào hoạt động, hoạt động... cho tới một cơn bệnh làm tắt nghẽn hoạt động.
- Dù tha thiết ước mong được yên lặng, nhiều người chỉ đến ngưỡng cửa rồi dừng lại, chứ không đi sâu vào lòng yên lặng. Một số người khác sợ hãi yên lặng, họ cần có tiếng động bên mình, nếu không thì họ lo sợ.
****** - Ước muốn yên lặng và trốn lánh vào ồn ào hoạt độn g đều là những hiện tượng ta luôn gặp thấy trong đời sống người Kitô hữu. Điều này đã gây nhiều tranh luận về quan hệ giữa suy niệm và đời sống tông đồ.
- Yên lặng chỉ có ích khi ta biết dành cho nó vị trí đúng trong đời sống. Lúc ấy nó không đối lập với hoạt động, nhưng phối hợp với hoạt động để đem lại cho đời sống một bước tiến biện chứng: suy niệm ban can đảm và sáng suốt cho hoạt động và hoạt động ban kinh nghiệm, đối tượng và lý do cho suy niệm.
- Tâm lý học cho biết dù chỉ trong giới hạn một ngày, hoạt động của con người cũng có giới hạn vì gặp phải những phản kháng bên ngoài và bên trong. Lúc ấy, không tránh được sự chùn bước và làn sóng nội tâm ập ngược lại gây nên một xúc động mạnh. Nếu lúc ấy người ta không tự chủ được mình thì rơi vào tình trạng chán nản, phân tán tập trung, trốn lánh vào thế giới tưởng tượng. Trái lại, nếu lúc ấy con người có tự chủ và sự chín chắn, thì điều họ coi như phản kháng sẽ là cơ hội để họ hiểu biết mình và đời sống hơn, và nhờ đó, họ sẽ có một đổi mới trong cách dấn thân phù hợp với thực tế hơn. Biện chứng: suy nghĩ – hành động là điều kiện không những cho thành công trong hoạt động mà còn cho sự tiến bộ trong đời sống tinh thần nữa.
- Ở thời đại chúng ta, thường biện chứng trên bị rối loạn hay lãng quên. Những khó khăn trong đời sống thường bởi đó mà ra. Người ta sống phân tán, vọng ngoại vì không biết phải tìm gì, làm chủ cái gì, và giũ bỏ cái gì?
- Những vấn đề của cầu nguyện chỉ đặt đúng khi lưu ý đến biện chứng trên. Thánh Gioan Thánh Giá phân biệt trong việc thánh hoá sự thanh luyện thụ động và sự thanh luyện hoạt động. Ông cho rằng: thanh luyện thụ động phải đặt trên thanh luyện hoạt động. Trong “cảnh vực thần linh”, Teilhard de Chardin cũng phân biệt sự thần hoá các hành động và sự thần hoá các thụ nhận vì đó là hai bộ mặt của cùng một đời sống và là hai cánh tay để con người vươn lên tới Thiên Chúa.
- Dính bén thế gian hay chìm xuống và từ bỏ đời này hay vươn lên là hai động tác của đời sống con người như trong hô hấp, người ta phải trở ra và hít vào vậy.
- Một bên là hoạt động, dấn thân, gắn bó với trần gian và bên kia là yên lặng, cầm trí, từ bỏ đời này: đó là nhịp điệu của đời sống. Chẳng ai đạt đến ngay một lúc sự hoàn thiện cho dù đó là kinh nghiệm của hoạt động hay một suy niệm. Đời sống là một hình thành vất vả của thế gian và của con người, con người trong thế gian. - Ta không hoàn thiện bản thân một mình nhưng với người khác. Sự liên đới ấy có cả trong cầu nguyện riêng tư nhất, và là nền tảng cho cầu nguyện tập thể.
******
- Chân lý trong cầu nguyện đòi chân lý trong đời sống và sự tôn trọng nhịp điệu của nó. Như vậy, phải đặt lúc nào cho việc cầu nguyện! Có được chỉ cho nó những giờ nhất định không? Chắc rằng sức lực dồn vào các công việc bên ngoài có lúc dội lại nội tâm: lúc ấy là thời giờ tốt nhất để cầu nguyện. Nhưng người ta cần phải đi xa hơn nữa: phải biết cầu nguyện mọi lúc, vì cầu nguyện ăn rễ rất sâu vào đời sống con người.
- Làm thế nào để có thể cầu nguyện mọi lúc? Phải phân biệt cầu nguyện như một hành động trong các hành động của con người, và như một thái độ trong đời sống. Trước là một bận bịu riêng, một thời giờ dành vào việc cầm trí để đón nhận Thiên Chúa đến tỏ ra cho ta. Thứ đến một chú ý của cả cuộc đời: ta luôn tỉnh thức đi theo con đường Thiên Chúa đã vạch ra cho đời sống ta như một tinh tú trung thành chuyển vận theo quỹ đạo của mình. Hai hình thức trên phải bổ túc lẫn cho nhau, nhưng hình thức trên có giờ có lúc, còn hình thức sau phải gắn bó với cả mọi lúc của cả cuộc đời.
- Cầu nguyện luôn thuộc phạm vi của hữu thể, ở đây sự kết hiệp với Thiên Chúa là một hiệp nhất trong sự kiện, nó không cần đến lời nói để nhắc lại. Nó cho ta cảm giác rằng đời mình có tập trung, không phân tán, có mục đích và mình đang tiến tới mục đích ấy.
******
- Tối đến, cơm nước xong, ta ngồi trước máy truyền hình cho đến lúc buồn ngủ, ta tắt máy lên giường và rơi vào giấc ngủ: đó là nếp sống bình thường của biết bao người! Ít ai nhận thấy rằng ban ngày mình đã bận rộn với các việc ngoại giới, tối đến mình lại còn để cho hình ảnh các bận bịu ấy ám ảnh cho đến lúc thân thể mệt mỏi rơi vào trống rỗng của giấc ngủ là một mất mát lớn. Tại sao ta không nghĩ đến sửa soạn giấc ngủ là việc quan trọng nhất của ta trong ban đêm? Đó là tiên báo về ban đêm của đời ta, khi sự chết đến. Người ta quen nói: sống là sửa soạn để biết chết. Cả ngày bận rộn để mưu sinh, đêm đến, ta được nghỉ ngơi yên tĩnh, đó là lúc ta phải trở lại nội tâm, suy nghĩ về ý nghĩa đời mình, và cho nó một định hướng. Trước khi đi ngủ, kinh tối đọc có ý thức là một sửa soạn rất thích hợp.
- Lúc sáng sớm, vừa mở mắt ra, với nhiều người, các hình ảnh của ban ngày đã ập vào đầu óc họ: nào là dự định, lo ngại, nào là chán chường, mệt mỏi... Không phải chính bản thân họ dậy khỏi giấc ngủ, nhưng một mớ ý nghĩ và cảm xúc đã xô đẩy họ tỉnh thức và kéo họ vào dây chuyền các bận rộn.
- Ít ai gạt được các hình ảnh trên ít phút để nghĩ đến bản thân: như đọc kinh sáng, tập thể dục và ăn lót lòng một cách thanh thản.
- Để trở lại với bản thân lúc đi ngủ và lúc thức dậy như vậy, con người phải biết chống lại các bận rộn và lôi cuốn làm cho họ lạc hướng đời mình. Sự chống lại này thường đem đến cho họ một cảm giác trống vắng, vì nó chưa có một kết quả phải đạt được vào một chương trình phải thể hiện. Nó chỉ là sự kiện chứng tỏ bản ngã ta không thể hiểu biết được và mọi ngày trong đời ta đều chỉ có cho bản ngã mình.
- Khi rời ồn ào các việc bên ngoài để trở về với nội tâm, ta thường có cảm giác sự trống rỗng, nhưng dần dần, ta sẽ khám phá ra cảm giác có Thiên Chúa ở trung tâm đời sống mình. Cảm giác này ban đầu còn yếu đuối và chủ quan, nhưng sẽ vững vàng dần dần và trở nên dấu chỉ của một đời sống tinh thần đích thực. Vì cố gắng lặp đi lặp lại ta sẽ dần dần học biết lắng nghe Thiên Chúa ngự trong lòng ta và vâng theo chỉ dẫn của Người. Lúc ấy ta sẽ thấy một hữu thể đầy sức sống ngự giữa cuộc đời ta, ân cần với nó và là mô hình mà nó phải noi theo.
- Thánh ý Thiên Chúa không tuỳ thuộc vào giá trị của sự vật bên ngoài, nhưng là mầu nhiệm của Thiên Chúa trong quan hệ với mỗi người. Người ban cho ta đời sống Người đã quyết định, và cầu nguyện là tìm hiểu thánh ý. Người cho thời gian tới, và gặp được Người ở đó.
******
- Ngày nay, người ta đặt nặng hoạt động và hiệu nghiệm của đời mình nên có người nghĩ rằng: cầu nguyện là thoái thác và trốn lánh thực tế phũ phàng để bước vào ảo mộng.
- Cầu nguyện không phải là mơ mộng ích kỷ. Đức Giêsu là mẫu mực cho ta về cầu nguyện chẳng bao giờ trốn lánh khó khăn và phấn đấu thực tế. Người là Con Thiên Chúa mà Người đã không e ngại nhận lấy thân phận một người chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc loài người. Theo gương Người, nhiều vị thánh có đời sống cầu nguyện thâm sâu, đã tìm thấy ở đó ánh sáng và sức mạnh để trở nên những người tổ chức xã hội phi thường. Thánh Bernađô và thánh Grêgôriô Cả vừa là những người có đời sống siêu nhiên sâu sắc vừa là những động lực lớn của việc tổ chức xã hội Tây phương ở thời Trung cổ. Thánh Têrêsa Cả vừa chép sách thiêng liêng vừa cải tổ và thành lập nhiều nhà dòng mới trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn. Thánh Đaminh lấy khẩu hiệu cho dòng Người sáng lập là “Comtemplare et tradere” (Suy niệm và rao giảng). Như vậy, không thể nói rằng: cầu nguyện tách ra khỏi người khác để khỏi phải dính líu đến các trách vụ và cuộc chiến đấu của họ.
- Trách móc bất công trên không chỉ dành cho cầu nguyện, người ta cũng đã trách móc như vậy với thi ca và nghệ thuật. Mỗi lần có tiếng mời gọi con người đưa mắt nhìn xa hơn các gánh nặng và đau khổ của cuộc đời là người ta lại trách móc như vậy.
- Nguyên nhân ở tại người ta không phân biệt trốn chạy và vượt lên trên. Vượt lên trên không phải là sợ đương đầu, nhưng đương đầu để vượt lên một cái gì đẹp đẽ hơn. Con người chỉ chiến đấu khi có hy vọng, chẳng ai chiến đấu để mà chiến đấu.
- Đức Kitô đã muốn đem lại một đời sống mới bất diệt, nhưng để đạt tới đó, Người đã phải đón nhận một cái chết thê thảm nhất.
- Đời này còn là tù đày, chưa phải là hạnh phúc, nhưng để giải thoát những kẻ tù đày thì phải nếm mùi tù đày mới biết cách giải thoát họ.
- Trong việc cầu nguyện, không được quên duy nhất của tương phản và biện chứng đối lập: cầu nguyện vừa là một dấn thân vừa là một thoái thác, hai phương diện ấy không thể tách rời nhau được.
- Như người lao động có quyền được thời giờ nghỉ ngơi để lấy lại sức, như người lính chiến được trở về hậu phương để bồi bổ trước khi đánh một trận mới, người tín hữu cũng cần phải có thời giờ dứt bỏ các bận bịu đời này để hướng về Thiên Chúa là hy vọng của đời mình.
******
- Thiên Chúa là Chúa của đời sống. Người xưa cảm nghiệm Lời này rõ hơn chúng ta. Họ nghe thấy tiếng Thiên Chúa trong sấm nổ, gió gào; họ dùng sư tử và mãng xà để tượng trưng cho các sứ thần của Người. Những biến cố bất ngờ xảy đến làm đảo lộn cả nếp sống cũ, những tư tưởng mới làm đảo lộn cả quan niệm về đời sống, đều là gặp gỡ với Thiên Chúa.
- Sứ thần của Thiên Chúa không luôn có hình thức sư tử và mãng xà, nó có thể có hình thức quen thuộc hơn: một ước muốn dai dẳng, một ngờ vực, một ức chế, một nhu nhược nuôi dưỡng một tình trạng căng thẳng, sợ sệt cũng có thể là sứ thần của Người. Trong trần gian, Thiên Chúa không ngự ở một thiên đường êm đềm, bình lặng, trong đó mọi sự đều có trật tự và hợp lý. Người ngự giữa chia ly phải hàn gắn, dang dở phải hoàn thành, bất toàn phải đưa đến hoàn hảo. Không phải trật tự và sự bền vững là điều Người muốn, nhưng sự biến đổi để nên tốt hơn, vì thế để đến với Người thì phải phấn đấu và dứt bỏ.
- Ở đời này người ta làm lụng vất vả để có đời sống sung túc, và khi đã được giàu có rồi, thì ước ao được an nghỉ trong khung cảnh ấy. Còn Thiên Chúa, Người không lo tổ chức Nước Người cho bền bỉ ở đời này. Người không tiêu diệt các thầy thông luật và người biệt phái, Người không loại Giuđa ra khỏi nhóm 12, Người để cho những kẻ chống đối, thù nghịch Người tồn tại theo quy luật tự n hiên, Người không bênh vực Đức Kitô bằng phép lạ... Khôn ngoan của Người xem ra trái với khôn ngoan của loài người.
- Chúng ta nóng lòng muốn xoá bỏ bất công, bạo lực, ngu muội, hèn nhát... với lý do là để bảo vệ bản thân vào Giáo Hội, và ta cầu nguyện trái với thánh ý Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin sai thiên thần của Chúa xuống lập lại trật tự trong Giáo Hội và trên trái đất! Trong lúc chính Đức Kitô đã xin Cha Người không đưa chúng ta ra khỏi thế gian, mà chỉ xin Ngài gìn giữ chúng ta cho khỏi sự dữ mà thôi. Khi muốn trốn lánh thế gian, ta cũng xa lánh Thiên Chúa.
- Có sự dữ phá huỷ và có sự dữ làm cho ta đau đớn. Ta phải xa lánh sự dữ phá huỷ, nhưng ta phải đương đầu với sự dữ làm cho ta đau đớn. Đức Giêsu không lánh vào trong đền thờ yên tĩnh, Người ở ngoài tiền đường, giữa náo nhiệt của quần chúng, bên hòm tiền và người đổi bạc. Người không tìm lợi thế, Người chấp nhận hoàn cảnh tự n hiên xảy đến. Nhưng lúc nào Người cũng tự chủ và tin ở sứ mệnh Ngôi Cha trao phó.
- Với người tín hữu, các cuộc khủng hoảng của đời sống đều có ý nghĩa: thất bại, ảo tưởng, đổ vỡ, sự mới lạ gây e ngại... đều có thể vượt qua và đưa đến hoàn thành định mệnh. Nhưng trước những hoàn cảnh ấy, điều cầu thiết là đừng mù quáng chấp nhận, hèn nhát chịu đựng, nhưng có sự kiên nhẫn sáng suốt của người biết phân biệt lành dữ.
- Trong đời sống, phải biết chấp nhận sự giằng co giữa lành và dữ, không nên nôn nóng xoá đi một bên nào: đó là một hình thức hy vọng và một thái độ cầu nguyện.
- Cầu nguyện là tới gần Thiên Chúa giữa những biến cố gây xúc động của cuộc đời.
******
- Các định nghĩa về cầu nguyện thường in dấu vết triết lý của thời đại mình, nên không xác định được cầu nguyện là gì một cách quán triệt.
- Định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng linh hồn lên Thiên Chúa” chịu ảnh hưởng sâu đậm của phái Tân Platon và coi linh hồn như bị giam hãm trong thân thể cần được giải thoát. Nhưng cầu nguyện không phải là việc riêng của linh hồn, mà là việc của toàn thể con người trước Đấng sáng tạo nên mình.
- Định nghĩa của thánh Augustinô: “Cầu nguyện là thưa lên Thiên Chúa” nói lên được một vế của cầu nguyện là “thưa lên”, nhưng vế “đáp lại lời Thiên Chúa” mà chắc rằng thánh Augustinô không chối bỏ, vẫn chưa được diễn tả.
- Định nghĩa của K. Rahner sau đây xem ra đầy đủ hơn: “Cầu nguyện vừa là đón nhận ý muốn thương yêu của Thiên Chúa, vừa là đáp lại nồng nàn với tình yêu ấy, được diễn tả hay công thức hoá bằng một hình thức nào đó”. Nhưng mọi người không hiểu được dễ dàng định nghĩa phức tạp này.
- Trong cầu nguyện, có liên quan đến yếu đố sâu thẳm nhất của căn tính con người là xu hướng về Thiên Chúa là nguồn gốc của mình vì Người đã sáng tạo nên mình từ không cho có.
- Trong cầu nguyện còn có liên can đến ơn cứu độ mà Đức Kitô đã đem đến cho ta. Nhờ ơn này, ta được tham dự vào tình yêu Thiên Chúa trong bình an và hoan lạc của Chúa Thánh Thần.
- Trong cầu nguyện, khi sự dứt bỏ với bản thân càng lớn, nghĩa là sau khi tâm hồn ta càng trong sạch, càng giũ bỏ được các đam mê thấp hèn, thì sự gặp gỡ với Thiên Chúa càng có nhiều thuận lợi.
- Sự đón nhận đức tin, sự hướng về đức cậy và sự tận hiến trong đức mến và sự cầu nguyện củng cố sẽ làm cho người tín hữu cảm thấy một cách cụ thể phẩm chất siêu nhiên của đời sống mình.
- “Này là tâm hồn con ở trước mặt Chúa, xin mở nó ra và xin nói với tâm hồn con rằng: Chính Ta là ơn cứu độ của con. Con muốn chạy theo tiếng ấy và cuối cùng nắm bắt được Chúa. Xin Chúa đừng lánh mặt xa con” (Confessions 1,5).
- Căn tính của cầu nguyện không thể xác định được, nó chỉ xuất hiện cho kẻ đã cầu nguyện với tâm hồn cởi mở nhờ đức tin, đức cậy và đức mến vào Đấng đã thâu nhận thế giới vào mình mà vẫn ngàn trùng siêu việt nó. Vì thế, để biết cầu nguyện, con đường các tông đồ đã theo là đúng nhất, đó là hỏi chính Chúa: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1).
- Với kinh “Lạy Cha”, không những Đức Kitô đã ban cho các môn đệ một công thức mẫu, mà còn ban cho các ông khả năng cầu nguyện một cách thích hợp (Rm 8,26).
- Trong cầu nguyện của Kitô hữu, họ không tách rời với Đức Kitô, “trong Người họ tìm được gan dạ để đến với Thiên Chúa trong cậy trông” (Ep 3,12). Họ tìm được trong Người phẩm giá là con Thiên Chúa, vì thế mỗi lời cầu nguyện của họ đều kết thúc bằng: “nhân danh Đức Kitô, Chúa chúng con”.
- Nhân danh Đức Kitô không chỉ có nghĩa là làm nên với Người một nhiệm thể mà Người là đầu, nhưng còn có nghĩa là có cùng một tư tưởng và ý muốn như Người. Vì thế mà Chúa Thánh Thần cũng có vai trò soi sáng và hướng dẫn để ta không sai lầm khi cầu nguyện. “Thánh Thần đến giúp sự yếu hèn của ta vì ta không biết xin gì để cầu nguyện cho đúng” (Rm 15,33).
- Nếu Đức Kitô và Chúa Thánh Thần là gác giả và là Đấng ban sự sống cho cầu nguyện của người tín hữu, thì nơi cầu nguyện phải là Giáo Hội. Đức Kitô chỉ hiện diện trong Giáo Hội, vì Người đã hứa ở đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Người thì ở đấy Người hiện diện. Mặt khác Đức Kitô là đầu Giáo Hội, mọi hoạt động của thân thể đều phải nhờ đầu điều động.
******************** Thành khẩn
Các bài viết của
- Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ,
- Cha Giuse Thân Văn Tường và
- Cha Gioakim Mai Xuân Triết
Thời trước, được in RONÉO rải rác trong các tập TĨNH TÂM hàng tháng,
hoặc những cuốn sách Đạo đức, Tu đức, in Ronéo.
Nay kẻ hèn này muốn sưu tầm lại, để lưu giữ trên trang https://linhmucmen.com/
hầu có thể giúp ích cho những thế hệ mai sau lâu dài, kẻo mai một đi thì tiếc lắm.
Vậy, những ai còn giữ những cuốn Tĩnh Tâm đó, hoặc những sách đó,
có bài viết của - Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ
- Đức Cha GB. Bùi Tuần - Cha Giuse Thân Văn Tường và - Cha Gioakim Mai Xuân Triết
Xin giúp đánh máy lại, hoặc Photo, rồi gởi cho con (con sẽ đánh máy), theo địa chỉ:
- Email: mennguyen296@gmail.com Hết lòng cám ơn. Lm.Nguyễn Văn Mễn -------------------------------------------