Tin vào Đấng Thiên Sai. Thứ Hai tuần 3 Phục Sinh. "Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời".
Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến".
Xóa đói giảm nghèo, giảm số trẻ em suy dinh dưỡng, nâng chiều cao của giới trẻ Việt Nam lên bằng các nước trong vùng, đó là mối quan tâm của những người mang trách nhiệm, vì sức khỏe thân xác cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người. Làm sao để con người lớn lên cân đối về mọi mặt, đó là mục tiêu tối hậu của mọi công tác giáo dục. Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông. Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác họ. Nhưng Ngài cũng biết rằng không thể làm phép lạ như thế mãi. Hơn nữa, phép lạ này chỉ giúp họ khỏi đói trong vài giờ, và đây là cái đói của thân xác. Phép lạ này dù lớn, nhưng chỉ nuôi được một đám đông vài ngàn người, vẫn còn bao người trên thế giới cần được nuôi ăn. Đức Giêsu mong nuôi được nhiều người hơn, nuôi được mọi người. Không phải chỉ nuôi về thân xác, mà nhất là về tinh thần. Không phải chỉ nuôi bằng thức ăn trần thế là bánh và cá, mà nuôi bằng giáo huấn của mình, bằng chính con người mình. Sau phép lạ bánh hóa nhiều, khi đám đông định tôn Đức Giêsu lên làm vua, chắc họ đã nghĩ đến sự bảo đảm về mặt vật chất mà Ngài mang lại. Lúc nào cũng có bánh ăn no nê, đó là ước mơ của nhiều người nghèo thời ấy. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối đứng lên khởi nghĩa giành độc lập. Ngài không phải là một Mêsia làm chính trị. Bánh và cá mà Ngài giúp họ tạm thời vượt qua cơn đói chỉ là thứ lương thực mau hư nát dành cho xác thân (c. 27). Lương thực đó là dấu chỉ cho một thứ lương thực khác Ngài sắp ban. Đó là lương thực thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu (c. 27). Hẳn nhiên, lương thực sau này quan trọng hơn nhiều. Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, người nghèo hôm nay cần cơm bánh, nhưng còn cần những thức ăn tinh thần khác nữa. Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần. Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng. Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật. Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ. Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến (c.29). Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa. Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, noi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, noi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ... Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa. Amen. ---------------------------------
Cơm áo gạo tiền luôn là mối lo hàng đầu của con người. Người ta bỏ phiếu cho những lãnh đạo đem lại cơm no áo ấm. Sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều dân chúng nô nức đi tìm để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Hi vọng thời cường thịnh của Ít-ra-en bắt đầu.
Nhưng Chúa hướng tâm trí họ lên cao hơn. Đừng tìm của ăn chóng hư nát và chỉ đem lại đời sống mau tàn. Hãy tìm của ăn vĩnh cửu đem lại sự sống đời đời. Chúa mặc khải cho biết tấm bánh đem lại sự sống đời đời chính là Người, là Giê-su. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Và cách làm việc để tìm được tấm bánh ấy là tin vào Người, tin vào Giê-su.
Đức tin nâng ta lên sự sống mới. Ở sự sống mới người ta không còn sống bằng cơm bánh, nhưng bằng Lời Chúa và bằng Thánh Thể: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
Đó là sự sống trong Thánh Thần: “Ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7, 38-39).
Sống theo Thần Khí không còn sống theo xác thịt. Không còn theo thói đời. Không còn dính bén những giá trị trần gian. Như Stê-pha-nô người tràn đầy Thánh Thần. Nên ông khôn ngoan không ai có thể bài bác được. Nên “mặt ông giống như mặt thiên sứ”. Nên ông sẵn sàng hiến mạng sống cho Chúa. Và khi chết ông còn xin Chúa tha thứ cho những kẻ giết mình.
Chúa đã phục sinh. Tôi cũng phải sống lại với Chúa. Chúa đã lên một cấp độ sự sống mới, tràn đầy vinh hiển. Tôi cũng phải theo Chúa sống một đời sống mới. Tin vào Chúa Giê-su. Nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Sống theo Thần Khí. Đó là khởi đầu sự sống đời đời.
Ở thời đại nào, đám đông cũng có thể là một sức mạnh mù quáng, hành động thiếu suy nghĩ và bị lôi cuốn bởi những dòng chảy của sự dữ. Trước khi bị các thượng tế và tổng trấn Philatô kết án, Chúa Giêsu đã bị chính đám đông kết án. Cái đám đông đã từng tung hô Ngài trong ngày Ngài khải hoàn tiến vào Giêrusalem, cũng cái đám đông ấy gào thét, đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Bi kịch ấy dường như được thánh Gioan báo trước qua đoạn Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và Suy Niệm hôm nay. Ðám đông được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau vẫn còn đứng bên kia bờ Biển hồ. Chúa Giêsu đã đọc được động lực thúc đẩy họ tìm kiếm Ngài, họ đã đi tìm kiếm Ngài không phải vì Ngài là đối tượng của khát vọng tìm kiếm của họ, mà chỉ vì đã được Ngài cho ăn no nê; họ đi tìm kiếm không phải vì đã nhận ra ý nghĩa của phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì chính Ngài đã mang lại ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống của họ; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì giáo huấn của Ngài; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì những giá trị cao quí của cuộc sống mà Ngài đến để bày tỏ. Cái đám đông ấy bị lôi kéo bởi những cái hời hợt, nhất thời và chóng qua là cơm bánh. Ðây chính là bi kịch đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Ðám đông đã khước từ Ngài và treo Ngài lên thập giá chỉ vì họ đã không hành động theo những xác tín thâm sâu thể hiện trên đạo lý, trên tiếng gọi của lương tâm, mà chỉ sống theo cảm tính và những xu thế mù quáng. Ðây cũng chính là nguy cơ mà người tín hữu Kitô có thể rơi vào.
Dĩ nhiên, nói đến đạo là nói đến đám đông. Chúng ta lãnh nhận đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta sống và thể hiện đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta cần có một đám đông nào đó để nâng đỡ niềm tin của chúng ta. Tuy nhiên, cái đám đông ấy cũng dễ lôi kéo và biến việc thể hiện đức tin của chúng ta thành một lối giữ đạo hình thức và máy móc. Ðạo dễ trở thành một chuỗi biểu dương bên ngoài hơn là một cuộc gặp gỡ thâm sâu giữa tha nhân và Chúa. Ðạo sẽ chỉ còn là những bó buộc và nghĩa vụ mà đám đông thôi thúc để tuân giữ hơn là được thực thi vì xác tín và lòng mến.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh mà chúng ta đón nhận mỗi ngày trong Thánh Thể và gặp gỡ thường xuyên qua tha nhân trở thành đối tượng của sự khao khát và tìm kiếm không ngơi nghỉ của chúng ta, để trong tất cả mọi sự, chúng ta có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giêsu đáp:
“Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc Không phải vì của ăn hay hư nát, Nhưng để có lương thực trường tồn Đem lại phúc trường sinh, Là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông Bởi vì chính Con Người là Đấng Chính Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga. 6, 24-27)
Bài giảng về bánh hằng sống trong hội đường Ca-phác-na-um sau ngày phép lạ bánh hóa nhiều có lẽ là một tổng hợp các bài giảng ở nhiều nơi. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các môn đệ và Đức Giêsu ở Ca-phác-na-um vì họ không thấy Người xuống thuyền đi sang Ca-phác-na-um với các môn đệ, mà bây giờ lại thấy Người ở đây. Còn “Đức Giêsu khi thấy họ sắp bắt mình đem đi tôn làm vua, thì Người lánh mặt, đi lên núi một mình”, mãi tới đêm, biển động vì gió thổi mạnh, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển hồ đến gần thuyền … Ngay lúc đó thuyền đã tới bờ của miền Ca-phác-na-um.
Như thói quen, thánh Gio-an sắp nối kết sự kiện phép lạ cụ thể này với ý nghĩa thần học: Họ tìm … họ ngạc nhiên vì không biết Người đến đây bằng cách nào? Người đã đến đây bằng cách lạ lùng là đi trên mặt biển giữa đêm khuya gió to sóng lớn. Cũng thế, Đức Giêsu đã đến với họ không phải từ làng Na-gia-rét, như người ta biết, nhưng là từ trời mà người ta không biết, cũng như Người từ bờ hồ phía đông nơi bánh hóa nhiều, đi qua biển tới bờ hồ phía tây nơi miền Ca-phác-na-um.
Họ cố gắng tìm Đức Giêsu là điều đáng ca ngợi, còn đáng ca ngợi hơn nữa khi họ tìm Người trong đức tin, và liên kết với Người không vì của nuôi xác nhưng vì của ăn đời đời. Tuy nhiên, dân chúng vẫn tiếp tục đòi của vật chất, họ chú trọng đến man-na nuôi sống cha ông họ hằng ngày trong sa-mạc và so sánh với phép lạ hóa bánh ra nhiều để cầu mong Đức Giêsu cho họ được ăn như vậy. Còn Đức Giêsu, Người nhấn mạnh đến sự đói khát tinh thần, đến của ăn hằng sống cho linh hồn. Đó mới chính là sứ mệnh quan trọng của Người. Người đã hết sức nhẫn nại như đã nhẫn nại giải thích cho ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, cho bà ở Sa-ma-ri về nước trường sinh. Lúc này, Người cũng kiên nhẫn giải thích về bánh man-na dựa vào thánh vịnh 78, 24 để dẫn họ tới bánh ban sự sống đời đời. Bài diễn thuyết này có thể hiểu như một giảng đạo có ba phần: Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa (câu 32-40), bánh bởi trời: Đức Giêsu đến từ trời (câu 41-50), để làm của ăn: như bánh ăn (câu 52-58).
Người Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Một gia đình khỉ nọ sống giữa một khu rừng rậm. Mùa đông đến, cả gia đình khỉ rét run vì lạnh. Một đêm nọ nhìn từ xa thấy một con đom đóm đang bay lượn, chúng tưởng là một cục than hồng. Thế là nhà khỉ bắt lấy con đom đóm mang về, cẩn thận để củi và rơm vào rồi ngồi quanh mà sưởi. Có con còn kề miệng sát vào con đom đóm để thổi với hy vọng lửa bốc cháy. Một con chim bay qua tình cờ thấy cảnh tượng bèn dừng lại nói với bầy khỉ: “Các bạn ơi, đây không phải là lửa mà chỉ là một con đom đóm”. Nhưng bầy khỉ không đếm xỉa gì đến nhận xét của con chim, chúng lại chúi đầu vào con đom đóm mà thổi. Một lần nữa con chim trở lại bình tĩnh nói đó chỉ là một con đom đóm. Tức giận vì lời dạy khôn của con chim, bầy khỉ túm lấy nó và giết đi. Rồi chúng tiếp tục thổi hơi vào con đom đóm. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình khỉ chết cóng vì lạnh bên cạnh con đom đóm.
Khao khát hạnh phúc đích thực, nhưng lại chạy theo ảo ảnh; muốn sống sung mãn, nhưng lại chạy theo những phù phiếm chóng qua, có thể đó là bài học mà câu chuyện ngụ ngôn trên đây muốn ngỏ với chúng ta.
Tin mừng hôm nay dường như cũng muốn nhắc nhở chúng ta về sự lạc hướng ấy. Đám đông tụ tập bên Chúa Giêsu để được ăn uống thoả thích là hình ảnh của một nhân loại đang lạc hướng. Đám đông những người Do thái trong Tin mừng hôm nay là những người đã từng chứng kiến phép lạ của Chúa Giêsu, thế nhưng họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì đã tin nhận Ngài hoặc để lắng nghe giáo huấn của Ngài, mà chỉ mong được Ngài cho ăn uống no thoả.
Chúa Giêsu không đến thế gian để mang lại một cây đũa thần cho những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của con người. Ngài đến để cho con người được sống và hạnh phúc thực sự. Sự sống và hạnh phúc ấy chính là nhận biết và yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Chỉ có Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khát vọng trong tâm hồn con người, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc trọn hảo.
Mùa Phục Sinh, Giáo Hội luôn mời gọi chúng ta ý thức về sự sống thần linh đang châu lưu trong tâm hồn người tín hữu. Sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian đó là chỗ đứng của người tín hữu trong trần thế này. Mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao; bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình anh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không cha đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh hướng dẫn và cũng cố chúng ta trong niềm tin ấy.
Danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, nhất là sau cuộc hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Tuy nhiên, vì tình thương, nên Ngài đã làm phép lạ này chứ không phải vì muốn nổi danh! Nhưng đối với người Dothái, họ có lối suy nghĩ khác! Thay vì họ tạ ơn Chúa vì lòng thương xót của Ngài, thì ngược lại, họ chỉ nghĩ đến cái bụng và khao khát được thỏa cơm đói. Vì thế, dân chúng nghĩ rằng: có Đức Giêsu hiện diện ở giữa họ thì có lẽ sẽ không phải đói khát và có khi chẳng cần làm lụng vất vả cũng có ăn! Thế nên, họ tìm cách để tôn vinh Ngài lên làm vua. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lánh đi để sang bờ bên kia trước họ.
Vì biết được lộ trình của Đức Giêsu, nên họ đã tìm mọi cách để gặp Đức Giêsu. Khi gặp Ngài, họ cất tiếng hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?", Đức Giêsu thừa biết mục đích của họ, vì thế Ngài nói ngay: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26 ). Khi nói như thế, Đức Giêsu mời gọi họ hướng tới một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn, đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh (x. Ga 6, 27 ).
Ngày nay, trong đời sống đạo, nhiều người vẫn còn thói quen tin Chúa như những người Dothái. Tức là tin Chúa khi vui, lúc thành công, nhất là tin khi được lợi. Vì thế, chúng ta vẫn thấy có chuyện như: thích thì đi lễ, đi chầu, đọc kinh... không thích thì thôi!
Trong tâm tình cầu nguyện, mấy ai nghĩ đến chuyện chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì những điều kỳ diệu cũng như ơn lành Ngài đã làm cho! Hoặc liệu có ai xin Chúa cho được đạo đức, thánh thiện, sám hối, khiêm nhường, nhất là yêu mến Lời Chúa... Nhưng mỗi khi đến nhà thờ là lâm râm xin cho được cái này, được cái kia, nhất là xin cho được ăn ra làm nên... Mỗi khi như thế, chúng ta cũng không hơn gì người Dothái muốn tôn Chúa làm vua và đi tìm Ngài chỉ vì cái bụng chứ không phải vì lòng mến!
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết hướng về Chúa như là nguồn cội của hạnh phúc, và xin ban cho chúng con làm mọi cách vì hạnh phúc mai hậu trong Nước Trời. Amen.
Sứ điệp: Con người cần công ăn việc làm để có của ăn nuôi thân. Nhưng cuộc sống không phải chỉ cần của ăn mau qua, mà còn cần lương thực trường tồn nơi Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, khi làm việc, con mong muốn công việc của con mang lại kết quả lâu bền. Không ai có thể kiên trì trong một công việc mà họ biết chắc sẽ thất bại hoặc sẽ hư đi ngay trong chốc lát. Thế nhưng, nhiều khi con lại đành chịu hao tốn tất cả tiền tài, sức lực, thậm chí cả cuộc sống, để thu góp cho mình lương thực nuôi xác và của cải đời này, mà quên đi tìm những của cải vững bền tồn tại muôn đời.
Lạy Chúa, của cải vật chất và cơm bánh hằng ngày là những cái cụ thể xuất hiện trước mắt con, lôi kéo con, cám dỗ con, thúc bách con. Cái nghèo, cái đói, làm con khiếp sợ. Cái giàu, cái no, cái đẹp, lôi cuốn con. Vì thế, con đã thường bận tâm tới chuyện ăn mặc, chuyện tiền bạc, đến độ bỏ quên Chúa, chẳng còn thiết tha với việc cầu nguyện và dự lễ, chẳng còn tôn trọng giới răn Chúa. Xin Chúa tha thứ cho con.
Xin Chúa dạy con biết khôn ngoan đi tìm của cải tồn tại muôn đời. Xin cho con biết tiên vàn tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn các sự khác con tin rằng Chúa sẽ thêm cho. Đặc biệt, con biết rằng Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là lương thực thần linh mà Chúa đã thương ban tặng cho con. Xin Chúa giúp con biết đón nhận với tất cả lòng khao khát, mến tin và tri ân, để nhờ đó con được sống sự sống của Chúa và sống muôn đời.
Lạy Chúa, khi ra công làm việc để có của ăn nuôi thân, xin cho con ý thức rằng đời sống tâm linh là điều đáng quan tâm gấp bội. Bởi vì, “người ta sống không chỉ bằng cơm bánh, mà còn sống bởi những lời do miệng Chúa phán ra”. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
Vua Louis XIV, vị vua được gọi là Vua Mặt Trời (Le Roi Soleil) và cũng được biết với danh hiệu Louis Đại đế (Louis le Grand hay Le Grand Monarque). Triều đại của ông kéo dài 72 năm, dài nhất trong lịch sử nước Pháp. Vua Louis thường có thói quen dâng thánh lễ tại nhà thờ Versailles. Dân chúng cũng đến đó tham dự thánh lễ rất đông.
Một Chúa Nhật kia, vua cũng đi dâng thánh lễ, nhưng hôm nay rất lạ vì có rất ít người tham dự. Nhà vua ngạc nhiên và hỏi Đức Giám mục chủ tế thánh lễ, lý do tại sao mà giáo dân hôm nay tham dự thánh lễ ít thế. Đức Giám mục trả lời là vì chính ngài đã tung tin ra: Hôm nay nhà vua không đi dự thánh lễ được. Bây giờ nhà vua mới hiểu ra được là người ta đi tham dự thánh lễ vì ai: Nhà vua hay Thiên Chúa…
Tìm đến với Chúa ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa, thế nhưng lại chỉ mong được gặp vua, ngắm vua…
Suy niệm
Dân chúng Do Thái, sau khi được Chúa dưỡng nuôi bằng phép lạ bánh hóa nhiều, họ đi tìm để gặp Chúa, tôn vinh Ngài lên làm vua. Tôn vinh Ngài không phải vì tin nhưng vì được nuôi dưỡng, được no bụng: “Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vị của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con Người sẽ ban cho” (X.Léon Dufour “Lecture de l'evangile de Gioan”). Cho nên mục đích của việc dân chúng tìm Đức Kitô chỉ lo bảo đảm cho họ được của ăn vật chất luôn mãi…
Chúa Giêsu đã nhìn thấy mục đích việc tìm đến với Ngài của họ, Ngài đã đưa ra ánh sáng tâm tư mờ ảo đầy bụi trần của họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26).
Qua lời mời gọi dân Do Thái, Đức Kitô mời gọi cả nhân loại tìm đến và tin vào Ngài, tức là tin vào Đấng Thiên Chúa Cha sai đến. Chính việc tìm kiếm này sẽ đem lại cho con người sự sống đời đời.
Tìm đến bên Ngài, tin vào Ngài, Chúa không bảo người tin là biếng nhác làm việc, là ngồi chờ sung rụng, là chi trông chờ phép lạ... Ngài mời gọi người tin, làm việc không ngừng, làm việc hết mình để có thể tìm kiếm sự bền vững trong đời: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).
Thật thế, khi tìm Chúa và tin theo Lời Ngài là dẫn bước đi tìm nước Trời, không chỉ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau mà còn được lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa cưu mang ngay ở đời này như Ngài đã nói: “Các ngươi hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời, rồi mọi sự đó sẽ được cho thêm” (Lc 12,31).
Tìm Chúa, theo Chúa và tin vào Ngài, theo lời dạy của thánh Phaolô: “Chúng ta hãy sống theo đức tin chân chính chứ không theo những tư tưởng sai lạc” (x. Cl 2,6-8), những tư tưởng mang những tâm tư bụi trần với những lo toan của ăn, vật chất hay niềm tin bị điều kiện hoá bởi phép lạ. Thật thế, Chúa chúng ta không phải là “cái bụng” hay “máy phép lạ” như dân chúng Do Thái đã tìm kiếm Chúa, Chúa chúng ta “là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Ý lực sống: “Người nhận biết Thánh Danh, sẽ một niềm tin cậy,
vì lạy Chúa, Chúa chẳng bỏ rơi những ai kiếm tìm Ngài” (Tv 9,11).
1. Trong suốt tuần thứ ba mùa Phục sinh, các bài đọc đều qui về Bánh Hằng Sống. Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu nói về Bí tích Thánh Thể: Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Đức Giêsu. Sáng hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở phía bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Rồi Ngài dạy họ hãy tìm một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
2. Dân chúng Do thái, sau khi được Chúa nuôi dưỡng bằng phép lạ bánh hóa nhiều, họ đi tìm gặp Chúa, tôn vinh Ngài lên làm vua. Tôn vinh Ngài không phải vì tin nhưng vì được nuôi dưỡng, được no bụng: “Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vị của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con Người sẽ ban cho” (x. Léon Dufour, “Lecture de l’évangile de Jean). Cho nên mục đích của việc dân chúng tìm Đức Kitô chỉ lo bảo đảm cho họ được của ăn vật chất luôn mãi...
3. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho biết: Dân chúng gặp được Chúa, họ hỏi Chúa ngay: “Thưa Thầy, Thầy đến đây hồi nào”? Câu trả lời của Chúa làm cho họ chưng hửng, thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi, Chúa lại phanh phui tâm địa không mấy tốt đẹp của họ: “Đâu phải vì các người thấy dấu lạ mà đi tìm Ta, chẳng qua là vì các người đã được ăn bánh no nê mà thôi”. Rồi Chúa bảo họ: “Đừng vất vả tìm thứ của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm thứ của ăn tồn tại mãi và đưa tới cuộc sống muôn đời”. Họ hỏi lại Chúa: “Vậy chúng tôi phải làm gì”? Chúa bảo: “Hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Họ hiểu ngay Chúa muốn nói họ phải tin vào Ngài.
4. Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ được vào lúc 2 giờ sáng, sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng ngủ được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Bởi vì không sao ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại bài tường thuật trận đấu hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey đã ghi lại cảm tưởng thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ ước trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng”.
Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh Demsey không? Chúng ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghĩa, bởi vì nó không giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc thật.
Đó là kinh nghiệm của J. Demsey: cứ tưởng chức vô địch sẽ đem cho anh sự nghỉ ngơi, thư thái, nào ngờ anh vẫn cảm thấy trống rỗng, lo sợ bị mất chức vô địch trong những lần đấu kế tiếp (Mỗi ngày một tin vui).
5. Vì con người mang thân xác nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng là tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Lời Đức Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hằng ngày chúng con thường tìm gì: tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu thân xác hay thỏa mãn nhu cầu tâm linh?
Trong mọi sự, ta phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, ta tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình ảnh cao quí của Chúa nơi bản thân, không chà đạp nhân phẩm người anh em. Trong mọi sự ta luôn tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất đời ta.
6. Truyện: Bé cái lầm
Người Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
Một gia đình khỉ nọ sống giữa một khu rừng rậm. Mùa đông đến, cả gia đình khỉ rét run vì lạnh. Ban đêm khỉ nhìn thấy con đom đóm bay lượn, chúng tưởng là cục than hồng. Thế là cả nhà khỉ bắt lấy con đom đóm mang về, cẩn thận cho thêm củi và rơm vào rồi ngồi quanh mà sưởi. Có con còn kề miệng sát vào con đom đóm để thổi với hy vọng lửa bốc cháy.
Một con chim bay qua thấy cảnh tượng ấy bèn dừng lại nói với bầy khỉ: “Các bạn ơi, đây không phải là lửa mà chỉ là con đom đóm”. Nhưng bầy khỉ không đếm xỉa gì đến nhận xét của con chim, chúng lại chúi đầu vào con đom đóm mà thổi.
Một lẫn nữa con chim trở lại bình tĩnh nói đó chỉ là một con đom đóm. Tức giận vì lời dạy khôn của con chim, bầy khỉ túm lấy nó và giết đi. Rồi chúng tiếp tục thổi hơi mạnh hơn vào con đom đóm. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình khỉ chết cóng vì lạnh bên cạnh đống củi và con đom đóm.
Bắt đầu bài giáo lý về Bí tích Thánh Thể: vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng đi tìm Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “...các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Rồi Ngài dạy cho họ một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Vì còn mang thân xác nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thoả mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng là tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hằng ngày chúng con thường tìm gì? Tìm những thứ thoả mãn nhu cầu thân xác hay những thứ thoả mãn nhu cầu tâm linh?
2. Một lời nhắc nhở khác của Chúa: chúng con thường ra công làm việc vì cái gì: vì thức ăn hay hư nát hay thức ăn tồn tại đến cuộc sống đời đời?
3. “Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ vào lúc 2 giờ sáng sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng nằm ngủ được một tiếng đồng hồ, anh ta bỗng thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng” (…) Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh J. Demsey không? Chúng ta ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghiã; bởi vì nó không giúp ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lên tiếng cảnh tỉnh: “Đừng mải mê chạy theo những gì không đem lại hạnh phúc đích thực”. (Mỗi ngày một tin vui)
4. “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
Tôi đến nhà thờ mỗi tuần hầu như chỉ vì thói quen, vì khoe khoang quần áo hay chỉ vì tỏ ra mình là người đạo đức. Tôi đến với Chúa hầu như để giảm bớt cơn sầu hay xin xỏ điều này điều nọ.
Mặt khác tôi sống và làm việc, học tập chẳng qua chỉ vì muồn tìm cho mình một việc làm có lương bổng cao, một địa vị kha khá để mọi người phải kiêng nể.
Tôi nào đã biết mình đã nhắm sai mục đích. Mục đích trọng yếu là: “Sự sống đời đời”. Điều mà tôi chỉ thoáng nghĩ đến như một ý niệm mơ hồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi điểm về Chúa, biết tìm kiến của ăn không hư nát là chính Chúa và giáo lý của Ngài. (Epphata)
Chúng ta bắt đầu bài Suy Niệm về Bí tích Thánh Thể:
1. Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng đi tìm Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, họ gặp Ngài ở bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Tôi không phải vì các ngươi thấy các dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn no nê” (Ga 6,26).
Rồi Ngài nói cho họ biết về một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời” (Ga 6,26-27).
Qua những lời đó, Chúa Giêsu nhắc nhở cho dân chúng ngày xưa và cũng như ngày nay: Cuộc sống con người ngoài lương thực vật chất, còn một thứ lương thực khác, đó là thứ lương thực làm cho người ăn có được sự sống tồn tại đến muôn đời.
Một điền chủ muốn thưởng công xứng đáng cho nông dân đã chăm chỉ cầy sâu cuốc bẫm, chăm sóc ruộng đất cho chủ trong suốt một thời gian dài. Vào một buổi sáng nọ, ông chủ cho gọi người nông dân đến và nói:
- Nhờ anh mà tôi được giàu có thêm. Hôm nay, tôi quyết định cho anh một phần thưởng. Anh biết rõ ruộng đất của tôi rộng thẳng cánh cò bay. Vậy vào lúc mặt trời mọc sáng ngày mai, tôi cho anh chạy trên đất của tôi nhanh chậm tùy ý. Anh phải tính thế nào để đúng lúc mặt trời lặn, anh phải trở về điểm khởi hành. Vòng tròn thửa đất có vết chân của anh đã chạy sẽ là ranh giới tài sản mà tôi cho anh.
Anh nông dân hết sức mừng rỡ. Vì khỏe mạnh nên anh chạy nhanh như gió. Càng về chiều, anh càng chạy nhanh hơn. Nhìn lại thửa đất mênh mông mà anh đã chạy vòng qua, anh càng hăng hái và ráng chạy, chạy nhanh, thật nhanh. Lúc mặt trời vừa lặn thì cũng là lúc anh vừa trở về lại điểm khởi hành. Thế nhưng, vừa về đến nơi thì anh cảm thấy choáng váng trong người. Mặt tái mét, mắt hoa lên, rồi anh ngã xuống đất và rồi tim anh ngừng đập. Anh đã tắt thở trước mặt mọi người! Thế là hết! Lúc đó, anh chỉ còn cần có 3 tấc đất người ta gửi tấm thân anh vào đó.
2. Lời của Chúa Giêsu: “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).
Một nhà truyền giáo kia kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm, có một người bản xứ vội vã chạy đến tìm gặp tôi. Anh la lớn: “Thưa Cha! cách đây 25 cây số có một người đang hấp hối. Cha hãy đến mau!”
Vài phút sau, tôi ra khỏi thành phố, hướng về phía Nam. Trong nhiều giờ, chúng tôi cuốc bộ dưới ánh nắng chói chang và qua những con đường đầy bụi bặm. Những lời nói của người dẫn đường làm cho tôi có cảm giác như có một cái gì đó bất thường sắp xảy ra. Anh ta nói với tôi về một người bệnh, một người bệnh trong một ngôi chùa. Cuối cùng, thì tôi cũng đã hiểu ra: Đó là một người Kitô hữu già làm nghề gác chùa từ rất lâu! Ông ta giữ nhiệm vụ canh chùa, rung chuông đánh trống mỗi khi có các buổi lễ. Bây giờ, ông ta sắp chết vì thế ông nhờ người đi tìm Linh mục.
Buổi chiều, chúng tôi đến nơi, trong một góc chùa, trên một chiếc chiếu, tôi nhận thấy một cụ già rất gầy và hầu như đang hấp hối. Ông nhìn tôi cười và nói một cách khó nhọc:
- Thưa Cha, cha đã đến. Cha đã không quản ngại đường sá xa xôi. Con cám ơn Cha.
- Nhưng... tại sao cụ lại ở đây! Tôi được biết là cụ đã ở đây giữ chùa, phục vụ các ngẫu thần và bỏ rơi Thiên Chúa duy nhất chân thật mà cụ đã tuyên xưng khi chịu phép rửa!
- Thưa Cha - Ông cụ rên rỉ - xin Cha hãy cúi xuống một tí để nghe con nói và hiểu giùm con. Đúng là con giữ chùa, con rung chuông, đánh trống. Nhưng chỉ vì cái này (ông phác một cử chỉ ăn uống), nhưng bên trong con nói: “Chúa ơi, xin đừng giận con, Chúa biết rằng, chỉ vì cái ăn, nhưng cái này (ông đưa tay chỉ ngực) luôn thuộc về Chúa!”
Sau lời thú nhận này, đôi mắt ông rực sáng. Tôi quỳ xuống gần bên chỗ nằm đáng thương của ông, nghe ông xưng tội và ban của ăn đàng cho ông. Ông ta tỏ vẻ sung sướng biết là ngần nào. Tôi thấy là ông chẳng còn sống được bao lâu nữa, những cơn đau kinh khủng đang dày xé thân xác gầy mòn của ông. Tôi tìm cách an ủi, nhưng con người đang hấp hối này nói với tôi bằng một giọng vui vẻ:
- Điều đó không có gì quan trọng cả, thưa Cha, con muốn chịu đựng tất cả, vì chẳng bao lâu nữa, con sẽ được vào Nước Trời, ở đó mọi sự đều rất tốt đẹp!
Vài ngày sau, tôi nhận được tin cụ già đã qua đời một cách bình an trong ngôi chùa của cụ...
Vâng! “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).
Khi ấy, đám đông thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời".
Chúa Giêsu đáp: "Thật Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".
Họ liền thưa với Ngài rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi".
Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Man-hu? Cái gì vậy? Đó là câu con cái Israel hỏi nhau khi thấy manna lần đầu tiên rơi trên mặt đất. Môsê trả lời: “Đó là bánh Đức Chúa đã ban cho các ngươi làm của ăn.” Bốn mươi năm Đức Chúa đã nuôi dân của Ngài bằng thức ăn ấy, trong suốt cuộc hành trình trong sa mạc cho tới khi họ đến đất Canaan. Đức Chúa vẫn là Đấng quan tâm đến sinh mệnh của dân. Qua Môsê, Ngài cho họ manna là bánh từ trời xuống. Có vẻ những người ở Caphácnaum muốn thách đố Đức Giêsu làm một dấu lạ lớn lao tương tự như dấu lạ Môsê đã làm (cc. 30-31), nếu Ngài thật là một vị ngôn sứ như Môsê đã loan báo (Đnl 18, 15). Hãy ban cho chúng tôi thứ bánh bởi trời như manna ngày xưa. Đức Giêsu khẳng định không phải Môsê đã cho họ ăn bánh bởi trời. Chính Chúa Cha đã ban cho dân Israel bánh bởi trời, trong sa mạc. Và nay Chúa Cha còn muốn ban một thứ bánh mới. Đức Giêsu long trọng giới thiệu bánh mới này: “Chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực” (c. 32). Bánh này là bánh từ trời xuống và ban sự sống cho thế giới (c. 33). Như thế bánh mới này cũng là bánh từ trời, nhưng không chỉ dành cho dân Israel như manna cũ. Đây là thứ bánh đích thật dành cho cả thế giới loài người. “Lạy Ngài, xin cho chúng tôi thứ bánh ấy luôn” (c. 34). Đây là một sự hiểu lầm của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nó tương tự như sự hiểu lầm của người phụ nữ Samari khi chị xin Đức Giêsu: “Xin cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát” (Ga 4, 15). Thứ bánh mới Đức Giêsu giới thiệu không phải là tấm bánh vật chất, ăn được để tránh cái đói tạm thời, nhưng là tấm bánh thỏa mãn sự đói khát sâu thẳm nơi trái tim. “Chính tôi là bánh trường sinh, Ai đến với tôi sẽ không đói, ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ” (c.35). Đến với và tin vào Đức Giêsu ta sẽ tìm được thức ăn tinh thần. Lời dạy dỗ của Ngài là bánh từ trời đích thực, vượt hẳn manna xưa. “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8, 3). Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nên lời của Ngài sẽ là bánh đem lại sự sống cho bất cứ ai tin. Tạ ơn Cha đã nuôi chúng ta bằng Tấm Bánh Giêsu, Bánh từ trời xuống. Chúng ta không phải đi lượm manna mỗi ngày như dân Israel xưa. Nhưng mỗi ngày chúng ta phải lắng nghe Lời Giêsu để được no đủ. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen. ---------------------------------
Giê-su là bánh đích thực. Vì là bánh Cha ban. Món quà Cha ban rất quí giá. Vì đó là Người Con yêu dấu. Là hình ảnh tuyệt hảo của Cha. Là chính Cha. Là chính sự sống. Nhờ Người mà muôn vật có sự sống. Vì nhờ Người “vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3).
Giê-su là bánh đích thực. Vì bánh từ trời xuống. Trời là cung lòng Chúa Cha. Là tình yêu thương của Chúa Cha. Tình yêu thương của Cha quá lớn lao. Nên đã ban cả Con Một của Người. Đó là tất cả những gì có thể ban. Bánh từ trời vì Giê-su chính là thiên đàng. Ở với Chúa Giê-su là ở trên thiên đàng. Như lời Chúa hứa với người trộm lành: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Giê-su là bánh đích thực. Vì bánh này không bao giờ hư nát. Ai ăn bánh này sẽ không bao giờ chết. Bánh đem lại sự sống đời đời.
Ăn bánh này thế nào? Người Do thái hỏi và Chúa Giêsu chỉ dẫn cho họ: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”. Đến với Chúa là sống với Chúa. Sống với Chúa là biến đổi nên giống như Chúa. Là suy nghĩ, ăn nói, cư xử như Chúa. Tin vào Chúa là hiến toàn thân cho Chúa. Là kết hợp nên một với Chúa. Là để Chúa sử dụng đời sống.
Thánh Stê-pha-nô đã đến với Chúa và đã tin vào Chúa. Đến với Chúa và sống với Chúa nên Stê-pha-nô để Chúa biến đổi nên giống Chúa. Hãy chiêm ngắm giờ chết của Stê-pha-nô. Lời nói và hành động của ngài sao y lời nói và hành động của Chúa Giê-su. Cũng xin tha cho kẻ làm hại mình. Cũng phó linh hồn trong tay Chúa. Tin vào Chúa nên Stê-pha-nô hiến toàn thân cho Chúa. Cái chết là thể hiện ước nguyện dâng hiến. Stê-pha-nô hân hoan đón nhận cái chết như cơ hội tuyệt vời hoàn tất hành vi dâng hiến.
Ăn bánh bởi trời rồi, Stê-pha-nô dứt bỏ trần gian. Sống một đời sống khác, tâm hồn Stê-pha-nô hoàn toàn trong sạch. Nên ông đã nhìn thấy trời mở ra. Và nhìn thấy Chúa Giê-su đến đón ông. Để đi vào cuộc kết hợp trọn vẹn. Hoàn toàn nên một với Chúa Giê-su là tấm bánh đích thực. Để từ đây không bao giờ đói khát nữa. Để no thỏa trong hạnh phúc trọn vẹn.
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, mức tiêu thụ đã gia tăng nhanh chóng và xâm nhập vào hầu hết mọi chiều kích của cuộc sống con người, đến độ chúng ta gọi nền văn minh hiện nay là văn minh tiêu thụ. Từ năm 1975 đến năm 2000, mức tiêu thụ của thế giới đã gia tăng gấp đôi. Tổng cộng mức tiêu thụ của thế giới trong hai mươi lăm năm qua đã lên đến hai mươi bốn ngàn tỉ Mỹ kim. Ðây là một hiện tượng tích cực hay tiêu cực.
Sự gia tăng của mức tiêu thụ có gia tăng với sự phát triển đích thực của con người không? Ðây là những câu hỏi cơ bản mà bản báo cáo cuối cùng của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc đã nêu lên, để rồi cuối cùng đưa ra khẳng định như sau: "Sự tiêu thụ của cải và các dịch vụ là một sinh hoạt thường hằng trong đời sống mỗi ngày. Tuy nhiên, đó không phải là cứu cánh tối hậu của mỗi cá nhân. Hơn nữa, cho dẫu của cải và và các dịch vụ có thừa mứa và mức tiêu thụ có gia tăng theo một mức độ làm chóng mặt, trật tự xã hội vẫn không tốt đẹp hơn."
Theo bản báo cáo của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc, hiện nay một gia đình trung lưu tại Phi Châu tiêu thụ hai mươi phần trăm ít hơn cách đây hai mươi lăm năm. Hai mươi phần trăm dân số thế giới vẫn còn đứng bên lề sự gia tăng mức tiêu thụ của thế giới. Trong bốn tỉ bốn những người đang sống trong các quốc gia đang phát triển, gần ba phần năm vẫn chưa có được những hạ tầng cơ sở về vệ sinh. Một phần ba thiếu nước uống. Một phần tư không có được cái bếp ăn chốn ở cho đàng hoàng. Một phần năm không biết thế nào là các phương tiện chăm sóc sức khỏe hiện đại. Một phần năm trẻ em không được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học và một phần năm khác không có đủ chất đạm và một chế độ ăn uống đầy đủ. Trong số hai tỉ người thiếu máu trên khắp thế giới chỉ có năm mươi lăm triệu sống tại các nước tiên tiến. Chênh lệch giữa các nước giàu và các nước nghèo, chênh lệch ngay trong cùng một nước. Ðây là hiện tượng không thể chối cãi được trong nền văn minh tiêu thụ ngày nay. Khoảng cách giữa các nước giàu và những nước nghèo càng xa; khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong cùng một nước lại càng xa hơn. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy chắc chắn chỉ có thể là sự ích kỷ của con người mà thôi, càng có con người càng muốn có thêm và chỉ muốn chiếm giữ cho riêng mình. Sự giàu có về của cải vật chất do đó cũng đương nhiên làm cho con người được phong phú hơn. Ðây là chân lý mà Giáo Hội không ngừng nhắc nhở cho con cái mình.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về cùng đích của cuộc sống chúng ta là chính Chúa. Chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn được khát vọng thâm sâu của con người. Ðám đông những người Do Thái được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau đã tìm đến Ngài. Chúa Giêsu biết rõ họ đi tìm Ngài không phải vì đã thấy được ý nghĩa của phép lạ hoặc lắng nghe lời giáo huấn của Ngài, mà chỉ vì của ăn nuôi thân xác. Ngài kêu gọi họ hãy tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu mà Ngài đã muốn thể hiện qua phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều. Quả thật, qua phép lạ ấy, Chúa Giêsu báo trước bánh trường sinh là Ngài. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để trao ban cho mọi người, ai tin nhận Ngài, đón nhận sự sống của Ngài, người đó sẽ được trường sinh, người đó sẽ tham dự vào chính sự sống của Ngài, nghĩa là cũng sẽ trở thành tấm bánh được bẻ ra để san sẻ và trao ban cho người khác. Chỉ có một cuộc sống như thế mới thực sự đáng sống, vì nó mang lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống con người. Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã có thể nuôi nấng một đám đông trên năm ngàn người. Quả thật, Ngài chỉ cần nói một lời, múa cây đũa thần cũng đủ để nuôi sống cả nhân loại, nhưng Chúa Giêsu đã không đến như một phù thủy, Ngài cũng chẳng đến để mang lại bất cứ một giải pháp kinh tế nào, Ngài đến là để trở thành tấm bánh được bẻ ra và trao ban. Ai thực sự ăn tấm bánh ấy cũng có thể trở thành một tấm bánh được bẻ ra để trao ban cho người khác. Nhân loại thiếu ăn không phải vì thiếu cơm bánh mà chỉ vì thiếu lòng quảng đại khi những bàn tay được mở ra để trao ban và san sẻ với người khác mà thôi. Cái đói khủng khiếp của nhân loại hẳn không là đói cơm bánh mà chính là đói tình thương và lòng quảng đại của con người.
Ước gì được nuôi sống bằng tấm bánh bẻ ra là Chúa Giêsu, các tín hữu cũng trở thành tấm bánh được bẻ ra cho người khác.
Một gia đình ếch sống dưới một đáy giếng tăm tối, không thấy ánh sáng mặt trời cũng không biết những gì đang xẩy ra bên ngoài. Ngày nọ, có một con chim sơ ca bay xuống nói với dòng họ ếch về thế giới của mặt trời, của hoa cỏ, của tình yêu. Nghe thế, tộc trưởng ếch liền nới với đồng bào mình: “Các ngươi nghe chưa, thế giới của bạn sơn ca mô tả là một thứ thiên đàng không tưởng, nơi chỉ có những con ếch tốt, tức những con ếch chịu đau khổ dưới đáy giếng mới được lên tới mà thôi”. Tuy nghe những lời mỉa mai đó, một số ếch vẫn tin vào lời chim sơn ca. Một chú ếch sau khi nghiên cứu tình hình đã giải thích: “Thế giới mà bạn sơn ca loan báo không phải là thế giới khác đâu, đó chính là thế giới của chúng ta; thêm một chút ánh sáng, một chút gió mát, một chút thực phẩm, chúng ta có ngay thiên đàng dưới đáy giếng này”. Thế nhưng đa số đồng bào ếch đã thấy được sự phỉnh gạt của lời giải thích ấy, chúng vùng lên ra khỏi đáy giếng và thấy được thế giới có mặt trời, trăng sao, hoa cỏ, tình yêu.
Những người Do thái trong Tin mừng hôm nay là đại biểu của vô số những người không muốn nhìn lên khỏi đáy giếng tăm tối của họ. Dù chứng kiến nhiều phép lạ của Chúa, nhất là đã được Ngài cho ăn no thoả, nhưng cái nhìn của họ không vượt lên khỏi bao tử của họ. Khi Chúa Giêsu cho họ ăn bánh no nê và mời gọi họ đến thứ bánh không hư nát, họ đã chối từ Ngài; đôi mắt họ chỉ dán chặt vào thứ cơm bánh chóng qua; họ chỉ hướng đến cái trước mắt.
Đức tin là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa cho con người. Đức tin ấy chính là ánh sáng chiếu dọi vào đáy giếng tăm tối mà con người đã rơi xuống. Đức tin ấy là sức mạnh lôi kéo con người khỏi cái tăm tối ấy. Đức tin ấy cũng chính là cái nhìn về chân trời đầy ánh sáng Thiên Chúa ban cho con người.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta đức tin ấy. Cảm tạ Chúa đã cứu độ vào lôi kéo chúng ta ra khỏi vùng tăm tối của tội lỗi. Xin cho chúng ta được mãi là con người mới với Đức Kitô Phục sinh, được cùng tiến bước với Ngài để luôn sống như Ngài, nhìn đời bằng chính đôi mắt của Ngài và yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi chẳng hề khát bao giờ!” (Ga. 6, 35)
“Hãy cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”.
“Hãy cho chúng tôi uống mãi thứ nước đó”.
Lúc đó không còn phải vất vả lao khổ nữa! Người Ga-li-lê cũng như người Sa-ma-ri chỉ biết có xin cho, xin cho để Chúa làm những phép lạ cho mình.
Thứ tôn giáo dễ dãi, mê tín dị đoan, ỷ nại, vị kỷ. Thứ tôn giáo làm suy thoái con người cầu đảo, ném tất cả mọi tham vọng của mình vào Thiên Chúa. Họ lợi dụng Thiên Chúa. Họ quên rằng Thiên Chúa đặt đường lối cho họ đến gặp Ngài, đường lối của Thiên Chúa không thể theo đường lối của chúng ta. Ngài luôn luôn đòi ta phải ăn năn sám hối trở về với Ngài để “ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Cũng không phải trên trời phải như dưới đất.
Người Do thái cũng không lầm khi tin Đức Giêsu: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa?”. Và Đức Giêsu cũng chẳng lầm khi trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn là hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Làm là gì? làm ở đây là thực hiện đức tin, là việc nội tâm, là tự tạo mình để tỏ lòng tin, tự đón nhận tận đáy lòng thuận theo chương trình của Thiên Chúa. Thuận theo, vâng phục là một ơn phải cầu xin cho mình chỉ thực hiện trong chân lý, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta chân thật trước tôn nhan Chúa, phải vượt qua những ước muốn hời hợt phàm trần bên ngoài như lối cầu xin “xin cho chúng tôi được bánh đó mãi mãi”. Để tiến tới lối cầu xin những điều cần thiết sâu thẳm: xin ánh sáng chân lý chiếu soi, xin được can đảm hy sinh, xin được tận tâm hiến thân. Tận đáy nền của việc cầu nguyện là gắn bó, cam kết, hiệp nhất.
Như thế toàn diện đời sống chúng ta mới có thể đến với Đức Kitô, sống với Người làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa.
Cầu nguyện không phải là trốn trách nhiệm, nhưng xin Chúa giúp mình làm tròn trách nhiệm. Cầu xin hòa bình không phải xin phép lạ, chính là xin để mọi người sáng suốt, can đảm và khả năng xây dựng hòa bình.
Man-na là bằng chứng Thiên Chúa ở với Mô-sê. Bánh hóa nhiều có nghĩa là chính Đức Giêsu là bánh từ Chúa Cha ban cho thế gian được sống vô cùng hơn của ăn vật chất, vì nhờ đức tin vào Người, chúng ta được tham dự vào chương trình Thiên Chúa. Thay vì rước Thánh Thể như một bánh ảo thuật, tín hữu phải nhìn thấy Đức Giêsu đến ban tặng tình yêu cho ta được làm bạn với Người để giải khát cơn đói chân lý, đói sự sống của ta, cho ta được hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong nền văn chương Việt Nam, nếu đã từng đi học, hẳn không một ai mà không biết truyện “thằng Bờm”.
Truyện kể rằng: thằng Bờm có cái quạt mo. Khi được một người phú hộ đề nghị đổi trâu, bò, bè gỗ lim, ao thả cá mè, đôi chim đồi mồi, để ông lấy cái quạt mo của thằng Bờm, nhưng Bờm ta vẫn không chịu. Thế nhưng khi người phú hộ đề nghị đổi bằng một nắm xôi, thì Bờm ta lại đồng ý!
Khi thằng Bờm đã đồng ý đổi nắm xôi, phải chăng cho thấy một lối nhận thức hạn hẹp trong sự thực dụng của Bờm. Bờm ta chỉ đủ khả năng để biết no hay đói mà thôi, chứ không hề có những suy tính xa và sâu hơn!
Dân chúng thời Đức Giêsu cũng vậy, họ có cái nhìn và lối sống cũng như lựa chọn không khác gì thằng Bờm trong câu chuyện trên! Vì thế, mới nghe Đức Giêsu nói về một thứ bánh mà khi ăn vào không hề phải đói, thế là họ nhao nhao lên xin Đức Giêsu cách khẩn thiết: “Xin Thầy cho chúng tôi thứ bánh đó luôn mãi”.
Qua lời van xin của họ, chúng ta thấy rõ cái bụng của họ đã lớn hơn cả lý trí, nên nó cũng chi phối luôn cả lựa chọn. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trách họ: “Các người tìm Ta không phải vì các người đã thấy dấu lạ, nhưng vì các người đã được ăn bánh no nê”.
Tiếp theo dòng chảy đó, Đức Giêsu đã mạc khải để giúp họ trực tiếp đi vào thẳng nội dung, trọng tâm của vấn đề, đó là: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ".
Trong đời sống đạo của chúng ta hôm nay, nhiều khi tin Chúa vì có lợi chứ không phải lòng mến. Chúng ta vẫn cầu nguyện, vẫn đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng tin và đón nhận thánh ý Chúa, nhất là khi thử thách, đau khổ và thất bại trong cuộc đời thì lại là chuyện rất khó chấp nhận! Những lúc như thế, phải chăng chúng ta cũng thực dụng không kém những người Dothái và đôi khi chẳng khác gì thằng Bờm trong câu chuyện trên!
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng tin vững mạnh, để trong cuộc sống, chúng con biết tìm Nước Trời trước hết, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ ban cho sau. Xin cho chúng con biết đặt ra cho mình những bậc thang giá trị dưới con mắt đức tin, để chúng con không như những người Dothái khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống đem lại sự sống cho thế gian. Ai đến với Chúa và tin vào Chúa sẽ được sự sống thần linh, được bình an hạnh phúc đời này và đời sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhìn thấy con long đong vất vả ngược xuôi tối ngày để tìm kiếm lương thực nuôi sống con và gia đình con. Con cần ăn để sống và tăng trưởng. Xin Chúa nâng đỡ con trong công việc lao động hằng ngày.
Nhưng lạy Chúa, đời sống con không phải chỉ cần lương thực phần xác, mà còn cần lương thực phần hồn. Lương thực phần xác có thể làm cho thân xác con no thoả, nhưng chắc chắn không thể làm cho tâm hồn con được an vui hạnh phúc. Con thấy bao nhiêu người ăn sung mặc sướng mà vẫn buồn sầu, chán chường, thất vọng, khổ đau, thiếu vắng tình yêu, rắc gieo tội ác. Ngược lại con cũng thấy nhiều người tuy đói ăn, thiếu mặc nhưng lại sống trong niềm vui, hạnh phúc và yêu thương.
Chính Chúa là sự sống của con. Chúa từ trời xuống để đem lại sự sống đích thực cho con. Xin Chúa giúp con đón nhận Chúa vào đời con để con được no thoả tình yêu và ơn thánh Chúa. Xin giúp con biết đón nhận Lời Chúa hướng dẫn con mọi nơi mọi lúc, nhờ đó con được sống trong bình an và niềm vui. Con sẽ cố gắng thường xuyên đến với Chúa trong thánh lễ để được nuôi sống bằng lương thực là chính Chúa. Đó là lương thực bổ dưỡng, xin cho con biết đón nhận. Và đồng thời xin giúp con biết loại trừ những của ăn độc hại cho linh hồn là những tư tưởng ước muốn xấu xa, thấp hèn, hận thù, tham lam. Lạy Chúa, con đến với Chúa, xin đón nhận con. Amen.
Ghi nhớ: “Không phải Môsê, mà chính Cha Ta mới ban bánh bởi trời đích thực”.
Năm 1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn tại miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh và làm giàu, hình như muốn khẳng định câu châm ngôn thường tình của con người ở khắp mọi nơi là: “Có tiền mua tiên cũng được”.
Thế nhưng, 25 năm sau những gì đã xảy đến cho tám nhà kinh doanh giàu có này?.
Charles Schwab, Giám đốc của một trong những công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong năm cuối cùng, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay mượn của người khác. Samuel Insull, Giám đốc của một công ty chuyên sản xuất các vật dụng cần thiết trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính túi. Howard Hopson, Giám đốc của một hãng gas lớn trở nên điên loạn. Arthur Cutten, Chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không một đồng xu dính túi. Richard Whitney, Giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Albert Pall, một nhân vật cấp cao trong chính phủ, vừa ra tù vì dính líu vào một vụ tham nhũng. Người cuối cùng trong danh sách tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ khoảng thập niên 20 cũng tự kết liễu cuộc sống của mình… (Theo đài Veritas)
Thật thế, con người chỉ lo tìm kiếm tiền bạc vật chất, chính nó lôi kéo dẫn người tìm kiếm nó vào con đường “đầy sương mù”, và dẫn tới mất phương hướng khi vào đường cụt của cuộc đời.
Suy niệm
Người Do Thái tìm Đức Kitô chỉ lo bảo đảm cho họ được của ăn vật chất luôn mãi…
Nhưng Chúa mời gọi họ: thay vì tìm kiếm của ăn vật chất mà họ đang mong đợi như của ăn manna mà tổ tiên họ đã ăn trong sa mạc xưa, nhưng họ vẫn phải chết, của ăn vật chất là thứ “lương thực mau hư nát” là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, hãy tìm “lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”, lương thực trường sinh ấy chính là Ngài. Cho nên, chúng ta tìm đến, tin vào Ngài và được ăn thịt và uống máu của Ngài để có sự sống đời đời: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát” (Ga 6,35).
Có những người vẫn xác tín rằng mình tin vào Chúa, theo Chúa nhưng chỉ dựa trên những phép lạ, như dân Do Thái xưa đòi Chúa Giêsu những phép lạ để tin. Họ sống “duy phép lạ” trong đức tin, đó chính là tư tưởng tin sai lạc mà chính Đức Kitô đã chỉ rõ ràng (x. Mt 12,38-39; 16,1-4).
Bằng diễn từ Thánh Thể, Chúa Giêsu chuẩn bị cho việc hiến tế mình và máu chính mình, Ngài đã giảng dạy: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Tôi là nước trường sinh, ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, nước Tôi sẽ cho và nơi người ấy sẽ trở thành một nguồn nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,51; 4,10-13).
Sau khi đã chuẩn bị bằng phép lạ bánh hóa nhiều, bằng diễn từ mạc khải về Thánh Thể tại Capharnaum. Trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi cứu độ trên thập giá, phục sinh và về cùng Cha, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại chính thức với nhân lọai: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy… Ðây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14, 22-24). Dân Chúa sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa qua tình yêu mà Ngài dâng hiến cho con người chính mình và máu Ngài, vì thế bí tích Thánh Thể còn gọi là bí tích Tình Yêu. Thánh Thể là sự dâng hiến, quà tặng như Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1Cr 11,24).
Mỗi ngày chúng ta tiếp lời mời gọi của Chúa Kitô tìm đến Thánh Thể, bánh trường sinh và nước hằng sống, chúng ta nghe lời của ngôn sứ Isaia bằng hình ảnh: “Ðến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1).
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời dạy của Đức Giêsu về Bánh Hằng Sống tức là thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”. Thứ ăn này vượt trội hơn Manna ngày xưa. Nghe thế, dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn – cũng vẫn là vật chất – nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng rất hồ hởi và hy vọng. Hôm sau, họ đến với Đức Giêsu rất đông, hy vọng kiếm được của ăn ít ra cũng dồi dào như manna, xưa đã nuôi sống cha ông họ trong sa mạc suốt thời gian đi về đất hứa. Nhưng Đức Giêsu muốn nâng cao họ lên một bước, Ngài mời họ trước hết hãy tìm kiếm những lương thực không hư nát, là thứ tồn tại cho đến cuộc sống vĩnh hằng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,26). Họ tưởng lương thực mà Đức Giêsu nói đây là manna ngày xưa cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Nhưng Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của họ và nói rõ ràng hơn: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35).
3. Toàn chương 6 của Tin Mừng Gioan cho chúng ta thấy Đức Giêsu cống hiến Mình Máu Thánh Ngài làm của nuôi sống con người khỏi đói khát tinh thần, và để chuẩn bị con người lãnh nhận điều này, Đức Giêsu đã thực hiện một dấu chỉ lạ lùng khi hóa bánh ra nhiều cho 5000 người ăn no nê. Nhưng dấu chỉ này lại bị dân chúng hiểu lầm: họ muốn đến với Chúa vì lợi lộc vật chất, chứ không vì tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế. Trước lời mời gọi của Chúa: hãy nâng tâm hồn lên, hãy tin vào Đấng được Chúa Cha sai đến, hãy ăn thịt và uống máu Ngài để được sống đời đời, thay vì khiêm tốn vâng phục, dân chúng lại tỏ ra ngoan cố thách thức hơn nữa, như Tin Mừng hôm nay thuật lại. Họ so sánh dấu lạ Chúa vừa thực hiện tức là phép lạ hóa bánh ra nhiều, với dấu lạ của Maisen mà hằng năm họ vẫn sốt sắng tưởng niệm; họ muốn Chúa thực hiện một dấu lạ cao cả hơn dấu lạ thời Maisen.
4. Manna là một loại bánh Thiên Chúa đã ban từ trời xuống làm lương thực cho dân Do thái lúc họ lưu lạc suốt 40 năm trường trong sa mạc, cuộc sống đầy nguy hiểm, bấp bênh, thiếu thốn nước uống, cơm bánh. Cho nên, nhiều lần dân chúng đã nghi ngờ, kêu ca, than trách ông Maisen và cả Thiên Chúa nữa. Chúa thử thách họ và phạt họ bằng nhiêu tai ương, nhưng đồng thời Ngài vẫn luôn lo liệu lương thực cho họ được đầy đủ được một thứ bánh là manna, để biểu lộ sự hiện diện và sự quan phòng của Ngài, là mỗi buổi sáng, Thiên Chúa làm cho lớp sương mù bay phủ trên nơi người Do thái đóng trại, và lúc sương tan đi, rơi xuống những hạt nho nhỏ mầu trắng, có mùi vị mật ong, họ chỉ việc ra lượm mà ăn, họ không hiểu cái gì đó nên hỏi nhau “man-hu”: cái gì vậy? Rồi không hiểu sao họ gọi trệch ra là man-na, và trở thành tên của lương thực này.
5. Tóm lại, sự sống thể lý không phải là sự sống tự thân mà là sự sống lệ thuộc, nghĩa là nó cần đến lương thực vật chất nạp vào để duy trì, nhưng vì nó hữu hạn, nên sẽ đến lúc sự sống đó không thể thâu nạp được lương thực nữa, nó sẽ èo uột yếu ớt và chết.
Còn sự sống thần linh là sự sống siêu nhiên Chúa ban, tuy không chết, nhưng rất cần được nuôi dưỡng bằng bánh Sự Sống là Thánh Thể, mà Thánh Thể chính là sự sống tự thân nơi Đức Kitô thông truyền cho linh hồn chúng ta. Nhờ rước lấy Chúa Kitô mà Kitô hữu được mạnh mẽ và tăng trưởng, không sợ tội lỗi hay ma quỉ có thể xâm nhập và làm tổn hại linh hồn mình (Hiền Lâm).
6. Truyện: Hạnh phúc mong manh.
Năm 1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn tại miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh và làm giầu, hình như muốn khẳng định câu châm ngôn thường tình của con người ở khắp mọi nơi là: “Có tiên mua tiên cũng được”.
Thế nhưng 25 năm sau, những gì đã xẩy đến cho tám nhà kinh doanh giầu có này?
Charles Schwah, giám đốc của một trong những công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong năm cuối cùng, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay mượn của người khác.
Samuel Insull, giám đốc của một công ty chuyên sản xuất các vật dụng cần thiết trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính túi.
Howard Hopson, giám đốc của một hãng ga lớn trở nên điên loạn.
Arthur Cutten, chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không một đồng xu dính túi.
Richard Whitney, giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên.
Albert Pall, một nhân vật cấp cao trong chính phủ, vừa ra tù vì dính líu vào một vụ tham nhũng.
Người cuối cùng trong danh sách tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ khoảng thập niên 20 cũng tự kết liễu cuộc sống của mình... (Theo đài Veritas).
Thật thế, con người chỉ lo tìm kiếm tiền bạc vật chất, chính nó lôi kéo dẫn người tìm kiếm nó vào con đường “đầy sương mù”, và dẫn tới mất phương hướng khi vào đường cụt của cuộc đời.
Chúa Giêsu bắt đầu giải thích về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”:
Thứ của ăn đó vượt trội hơn Manna ngày xưa.
Nghe thế, dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn - cũng vẫn là vật chất - nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Thái độ dân Do Thái rất đáng cho ta suy nghĩ: vì nhớ tới Manna ngày xưa, họ chỉ nghĩ rằng đó là thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh ngày thường, cho nên họ cầu xin với Chúa Giêsu cho họ thứ lương thực vật chất đó để giúp họ no lâu hơn. Nhiều khi chúng ta đến với Chúa cũng chỉ để xin những nhu cầu thoả mãn cho cuộc sống vật chất như thế.
2. Những hình ảnh trong Phúc Âm Gioan luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thịt thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần, thấy thức ăn vật chất thì hãy nghĩ tới thức ăn tinh thần. Ước gì tôi cũng biết nghĩ như thánh Gioan khi cảm thấy đói, khát, mệt mỏi, đau yếu, bệnh tật…
3. Mỗi khi ăn, ta làm điều mà không nhà khoa học nào có thể làm: ta đưa vào trong mình một vật chất để giúp ta có sự sống. Thức ăn trở nên thành phần của cơ thể ta. Nhiều khi sức khỏe của ta lệ thuộc vào thức ăn. Một câu tục ngữ xưa nói: “Bạn là những gì bạn đã ăn”.
Thức ăn giàu chất dinh dưỡng: bạn mập; ăn vặt: bạn suy dinh dưỡng. Cho một bệnh nhân bị ghẻ ăn thức ăn thích hợp, da của anh sẽ sạch. Khi có sự nghiệp ta thường dùng thức ăn ngon.
Biết thế nên Chúa Giêsu quyết định ẩn mình trong tấm bánh và trở nên lương thực cho linh hồn của những kẻ theo Ngài (Góp nhặt).
4. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Đôi khi nhóm bạn chúng tôi cảm thấy chán nản vì cuộc sống tẻ nhạt, nhịp điệu đời sống cứ đều đều quay vòng: Học, ăn, ngủ, lo cho túi tiền có đủ xài đến cuối tháng… Sinh viên xa nhà thiếu thốn đủ thứ, thiếu vật chất, thiếu tinh thần, thèm xem phim, đói truyện báo, khát những buổi ca nhạc… Tai hại hơn, những bạn là Kitô hữu phần lớn là đói Phúc Âm, khát Lời Chúa vì những lý do không tên…, để rồi đức tin mờ nhạt mà không hay biết.
Chúa ơi! chúng con chỉ biết đói khát những vật chất thế gian, xin cho chúng con nhận ra sự “đói khát” Lời Chúa trong chính bản thân mình. (Epphata)
1. Chúa Giêsu bắt đầu giải thích về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”:
Thứ của ăn đó vượt trội hơn manna ngày xưa.
Nghe thế, dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn - cũng vẫn là vật chất - nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin Ngài cho chúng tôi bánh đó luôn mãi” (Ga 6,34).
Thái độ của dân Do Thái rất đáng chúng ta suy nghĩ: nhớ tới manna ngày xưa, họ chỉ nghĩ rằng, đó là thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh ngày thường, cho nên họ cầu xin với Chúa Giêsu cho họ thứ lương thực vật chất đó để giúp họ no lâu hơn. Nhiều người trong chúng ta, khi đến với Chúa có lẽ cũng chỉ để xin những nhu cầu thoả mãn cho cuộc sống vật chất như thế.
Ở đây, chúng ta thấy Chúa muốn nói đến một thứ lương thực khác. Chúng ta phải nhớ những hình ảnh trong Tin Mừng Gioan luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thịt, thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần, thấy thức ăn vật chất, thì hãy nghĩ tới thức ăn tinh thần.
Chúng ta thấy mỗi khi ăn, chúng ta làm điều mà không nhà khoa học nào có thể làm: ta đưa vào trong mình một lượng vật chất để giúp ta có sự sống. Thức ăn trở nên thành phần của cơ thể ta. Sức khỏe của ta lệ thuộc vào thức ăn. Một câu tục ngữ xưa nói: “Bạn là những gì bạn đã ăn”.
Thức ăn giàu chất dinh dưỡng: chúng ta sung sướng béo mập; ăn vặt: chúng ta sẽ bị suy dinh dưỡng. Biết thế nên Chúa Giêsu quyết định ẩn mình trong tấm bánh và trở nên lương thực cho linh hồn của những kẻ theo Ngài (Góp nhặt).
2. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35).
Vâng, Chúa Giêsu đã trở thành bánh trường sinh cho tất cả những ai tin vào Người. Công việc xem như không thể nhưng với Chúa thì tất cả đều có thể.
Người ta kể lại rằng, có lần thánh nữ Gertruđê đang Suy Niệm về bí tích Thánh Thể và tự hỏi không biết làm sao mà Chúa lại có thể tự hạ mình xuống thấp như thế, để hiện diện trên bàn thờ dưới hình bánh, thì chính Chúa Giêsu đã hiện ra và cắt nghĩa cho bà. Người cắt nghĩa bằng một câu chuyện sau. Người nói:
Một hoàng tử nhỏ ở trong một lâu đài rộng lớn với đủ loại đồ chơi, ngày kia nhìn qua cửa sổ và thấy các đứa bé nghèo chơi trên đường. Thấy hoàng tử nhìn qua cửa sổ như thế, người giám hộ liền hỏi:
- Hôm nay, hoàng tử muốn ở chơi trong lâu đài hay muốn ra ngoài chơi với các đứa bé trên đường phố ?
- Tôi muốn ra ngoài chơi với chúng.
Được phép, hoàng tử khoác vào người bộ đồ cũ nhất và cả ngày chơi với các trẻ nghèo. Đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của cậu bé chốn cung đình.
Rồi Chúa nói với thánh Gertruđê:
- Ta giống như vị hoàng tử nhỏ kia. Ta muốn ở với con người, đàn ông cũng như đàn bà. Bất cứ ai không đến với Mình Thánh hoặc ngăn cản kẻ khác đến rước lễ, kẻ ấy lấy mất đi của Ta một niềm vui lớn.
Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để luôn có được niềm vui.
Bà Marthe Robin một trong những người được in năm dấu thánh. Bà đã qua đời cách đây không lâu.
Hơn 30 năm trời bà không ăn uống gì, chỉ sống bằng Mình Thánh Chúa. Tôi xin nhắc lại: hơn 30 năm. Vâng, 30 năm trời như vậy, mỗi ngày có một linh mục đem Mình Thánh Chúa đến cho bà. Và mỗi khi linh mục đem Mình Thánh Chúa đến thì ngài có cảm tưởng y như Mình Thánh bay từ tay mình vào thẳng nơi miệng bà thật sự. Bà âm thầm sống trong một căn nhà nho nhỏ, có cha linh hướng săn sóc, đi đâu cha cũng khóa cửa lại, vì bà chẳng cần ăn uống gì hết.
Tuy mắt đã mù, không đọc sách báo cũng chẳng nghe được đài phát thanh, nhưng mỗi lần có ai xin bà việc gì, thì bà trả lời như thể bà đang nghe thấy tất cả những tin tức cuối cùng và mới mẻ nhất về nơi chỗ diễn tiến của sự việc vừa xảy ra. Làm sao cắt nghĩa được sự kiện lạ lùng này nếu không tin vào quyền năng của Thiên Chúa!
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là tấm Bánh Thánh nuôi dưỡng cho con, Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là Chén Máu Thánh bổ sức cho con, Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới thật sự là đường Nhưng con lại có thể chỉ đường cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là ánh sáng, Nhưng con lại có thể làm cho ánh mắt anh em con thêm sáng ngời long lanh.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là sự sống vĩnh cửu, Nhưng con lại có thể đem đến cho anh em con niềm vui sống.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám đông rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài. Bởi vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại. Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời".
Cuộc sống làm người ở đời chẳng mấy dễ dàng. Con người lúc nào cũng phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống. Môi trường sống bị ô nhiễm do bụi, khí thải, tiếng ồn. Thiên tai, bão lũ, hạn hán ngày thêm trầm trọng bởi sự biến đổi khí hậu. Dịch bệnh đủ loại thỉnh thoảng lại bất ngờ bùng phát ở một nơi nào đó và có nguy cơ lan rộng toàn thế giới. Khủng hoảng kinh tế lại càng xô đẩy nhiều người đến chỗ đói nghèo. Chiến tranh vẫn kéo dài giữa một số quốc gia, bộ tộc. Căng thẳng trong mối quan hệ giữa người với người, ngay trong gia đình. Có những vấn đề riêng tư mà tự mỗi người không sao giải quyết nổi. Con người lúc nào cũng phải vất vả trăn trở trước cuộc sống. Kinh Lạy Nữ Vương gọi trần gian là thung lũng đầy nước mắt. Chúng ta thuộc Giáo Hội chiến đấu trước khi thuộc Giáo Hội khải hoàn. Để sống ở cuộc đời chóng qua này một cách tận tụy, nghiêm túc, để sống như một người con xứng đáng của Trời và Đất, người Kitô hữu cần nhận được sự đỡ nâng của ơn trên. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chia sẻ phận làm người ở đời như ta. với đủ mọi cay đắng ngọt bùi của phận người và cái chết trên thập giá. Ngài mong trở nên bạn được đồng hành của chúng ta trên đường đời nhiều thách đố, gai chông và cạm bẫy. Ngài thỏa mãn những khát vọng thâm sâu và thầm kín nhất của ta. “Ai đến với tôi, sẽ không hề đói. Ai tin vào tôi sẽ chẳng hề khát bao giờ” (c. 35). Thiên Chúa Cha muốn gửi gắm chúng ta cho Chúa Giêsu lo liệu. “Tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (c. 39). Hãy đến với Chúa Giêsu để nhận được sự bảo vệ của Thiên Chúa. Hãy tin vào Ngài và cùng với Ngài đi trên con đường gập ghềnh, bạn sẽ đến được quê hương vĩnh cửu đang chờ đợi bạn. Sự sống vĩnh cửu thực ra đã bắt đầu ngay từ đời này rồi, khi chúng ta đến với Giêsu với niềm tin tưởng: “Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời” (c. 40). Hãy trở thành món quà của Chúa Cha cho Con của Ngài là Đức Giêsu. Hãy trở thành món quà của Đức Giêsu cho thế giới. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay. Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ. Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó. Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống. Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thuong của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. ---------------------------------
Hôm nay Chúa Giê-su một lần nữa khẳng định Người là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Nhưng Người không mời gọi chúng ta ăn bánh mà lại mời gọi chúng ta hãy đến với Người và tin vào Người để khỏi đói khỏi khát.
Mỗi loại thực phẩm có một cách tiếp thu khác nhau. Một cách “ăn” khác nhau. Hấp thụ khí trời bằng hít thở. Hấp thụ nước bằng uống. Hấp thụ nhiều loại thuốc men bằng xông hơi nước, xông hương. Hấp thụ tư tưởng bằng trí tuệ. Hấp thụ tình yêu bằng tâm hồn. Hôm nay Chúa dạy ta hấp thụ Bánh Hằng Sống bằng đức tin.
Giáo Lý Công Giáo khẳng định: Tin là gắn bó bản thân, phó thác đời mình cho Thiên Chúa (GLCG 150). Như thế tin là nên một với Chúa. Khi ta dùng thực phẩm, thực phẩm trở nên máu thịt ta. Khi ta tin vào Chúa, ta nên một với Chúa.
Nên một với Chúa, ta sẽ suy nghĩ bằng suy nghĩ của Chúa. Nói tiếng nói của Chúa. Cư xử bằng hành động của Chúa. Đi trên những nẻo đường của Chúa. Sống bằng sự sống của Chúa. Đây chính là cao điểm cho ta hoàn toàn kết hợp với Chúa.
Chính Chúa Giê-su làm gương cho ta khi Người hoàn toàn tin tưởng Chúa Cha. Nên Người không sống cho bản thân. Nhưng luôn sống và làm theo thánh ý Chúa Cha.
Các Ki-tô hữu đầu tiên làm gương cho ta khi các ngài hoàn toàn tin tưởng Chúa. Tin tưởng nên từ bỏ của cải trần gian để chia sẻ cho những người túng thiếu. Tin tưởng nên dù bị bắt bớ phải trốn chạy mà vẫn vui tươi. Tin tưởng nên đang khi trốn chạy vẫn hăng say rao giảng Lời Chúa.
Sau khi Phó tế Stê-pha-nô chịu tử đạo, phó tế Phi-lip-phê nổi bật như một người hoàn toàn kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh. Vì thế ngài xuất hiện ở đâu thì Chúa Giê-su xuất hiện ở đó. Ngài rao giảng đầy thuyết phục. Ngài làm được nhiều điều kỳ diệu. Xua đuổi thần ô uế. Chữa lành nhiều bệnh tật. Và làm cho mọi người được hân hoan.
Hôm nay tôi hiểu rằng Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống. Cách ăn bánh này là phải tin vào Chúa. Tin vào Chúa tôi phải từ bỏ mình để Chúa sống trong tôi. Khi hoàn toàn nên một với Chúa, tôi sẽ đạt đến sự sống đời đời.
Một nhà thơ nào đó đã nói lên thái độ bất cần của một số người như sau:
"Cần gì truy nguyên ta từ đâu đến Lỡ sinh ra rồi, ta chơi đến nơi Chết rồi đi đâu thì cũng mặc kệ Trước khi sinh ra có ai hỏi đâu Lỡ sinh ra đây ta không câu nệ Từ đâu tới đây, chết rồi về đâu Ôi thôi mặc kệ".
Vào thời Chúa Giêsu cũng không thiếu những người sống theo chủ trương mặc kệ ấy. Cái đám đông đi theo Ngài để chỉ được ăn uống nô nê là một điển hình. Họ chỉ biết có của ăn cho thân xác. Nói như thánh Phaolô: "Ðạo của họ là cái bụng". Là Ðấng Toàn Năng, Chúa Giêsu có thể vung chiếc đũa thần lên để thỏa mãn tất cả mọi nhu cầu thể lý của con người. Bằng chứng là với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài có thể nuôi sống một đám đông trên năm ngàn người. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến trong trần gian để cung cấp một thức ăn chóng hư nát như thế. Ngài đến để làm cho con người được sống và sống sung mãn, và sự sống sung mãn ấy chính là sự sống vĩnh cửu. Của ăn dư dật mà Ngài đã dâng lên từ năm chiếc bánh và hai con cá là dấu chỉ của bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho con người trong phép Thánh Thể, chỉ có bánh này mới làm cho con người được thỏa mãn trong nỗi khát vọng mà không một lương thực nào trên trần gian này có thể đắp đầy, chỉ có bánh này mới làm cho cuộc sống con người được sung mãn, chỉ có bánh này mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người, chỉ có bánh này mới không ngừng khơi dậy nỗi khát khao cõi trường sinh trong lòng người.
Cuộc sống tự nó là một nỗi khao khát khôn nguôi. Mỗi một ngày mới là một chuỗi những khắc khoải mới. Mỗi một ngày mới là một chuỗi những câu hỏi không ngừng được đặt ra cho chúng ta. Những người túng thiếu, những kẻ khốn khổ chung quanh chúng ta không ngừng hỏi chúng ta đã biết yêu thương đến mức độ nào. Cái chết của một người thân không ngừng hỏi chúng ta về cứu cánh của cuộc sống. Cô đơn và khổ đau không ngừng hỏi chúng ta về ý nghĩa của từng biến cố trong cuộc sống. Mỗi ngày sống là một chuỗi những câu hỏi mà chúng ta không thể tránh né được và đi cho đến ngọn nguồn những câu hỏi ấy là những câu hỏi ngàn đời của kiếp người: "Tôi từ đâu đến? Tôi sống để làm gì? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi không thể dửng dưng trước sự chất vấn của cuộc sống" Tôi không thể mặc lấy thái độ mặc kệ trước những tra vấn ấy của cuộc sống?"
Chúa Giêsu không những đến để khơi dậy những câu hỏi ngàn đời của cuộc sống: "Phần các con, các con bảo Ta là ai?" Câu hỏi Ngài đã từng đặt ra cho các môn đệ của Ngài cách đây hai ngàn năm. Ngày nay, Ngài cũng không ngừng đặt ra cho mỗi người. Ngài không những tra vấn con người của mọi thời đại, Ngài là giải đáp cho mọi thắc mắc của con người. Ngài là Ðấng đang hiện diện trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta. Ngài đang đồng hành với chúng ta.
Nguyện xin Ðấng Hôm Qua, Hôm Nay, và Mãi Mãi Vẫn Là Một cho chúng ta luôn được tác động bởi sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống chúng ta.
Vì tôi từ trời mà xuống Không phải là để làm theo ý tôi, Nhưng là để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi Là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, Tôi sẽ không để mất một ai, Nhưng sẽ cho họ sống lại Trong ngày sau hết. Thất vậy ý của Cha tôi Thì tất cả những ai thấy người Con Và tin vào người Con Thì được sống muôn đời, Và tôi sẽ cho họ sống lại Trong ngày sau hết. (Ga. 6, 38-40)
Chúng ta đã nhấn mạnh đến giá trị tương quan giữa hai ngôi vị như của nuôi con người: Người ta chỉ có thể sống khi có sự tương quan với nhau, có sự cần tới nhau. Nói cách khác, ai có thể nuôi người khác được thì mới giải thoát được chính mình, mới gắn bó với người khác được.
Đức Giêsu, qua dấu chỉ tấm bánh, quả quyết với chúng ta rằng Người là một thứ của nuôi. Chính Người cam kết với chúng ta rằng: Người ban chính mình cho chúng ta, rằng: Chính mình Người là bằng chứng tình yêu gắn bó của Chúa Cha đối với chúng ta.
Hôm nay, Người cắt nghĩa rõ ràng Người được Đức Chúa Cha nuôi sống, Người sống nhờ Chúa Cha, cho chúng ta có sự sống của Người trong chúng ta. Thiên Chúa đã cam kết với chúng ta và cho chúng ta thấy dấu chỉ của sự cam kết này là chính Đức Giêsu Kitô đến dẫn đưa chúng ta đến sự sống lại: “Tất cả những ai thấy Chúa Con và tin ở Người thì được sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”.
Tóm lại, bất kỳ ai chấp nhận liên đới với chính mình Đức Kitô đều được chúc phúc, được hưởng sức mạnh cứu độ của Người. Đời sống nhân loại của mình sẽ đi tới vô cùng để được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.
Sự mặc khải này đã làm cho chúng ta hôm nay thấy rằng tiếp xúc với Đức Giêsu Kitô là sức mạnh sự sống lại giúp ta bày tỏ lòng cảm tạ Thiên Chúa. Chúng ta phải biết rằng Đức Giêsu là quà tặng của Chúa Cha ban cho ta để Người đến tái tạo sự hợp nhất con người với Thiên Chúa, để tiêu diệt sự chết và tỏ bày sự sống lại.
Hành động tạ ơn của chúng ta có thể tô điểm cho ta thấy những sự lạ lùng để ý thức sự trung tín, vâng lời và sẵn sàng hiến dâng của Đức Giêsu Kitô đối với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến thực hiện kế hoạch trao ban sự sống đời đời cho loài người.
Hai người bộ đội vào một giáo đường để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe dọa: Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải. Có một số người đứng sang bên phải và được thả về nhà ngay, những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống và ôn tồn nói: “Chúng tôi cũng là Kitô hữu, sở dĩ chúng tôi làm thế, vì chúng tôi muốn biết ai là người thực sự sẵn sàng chết cho đức tin của mình, chỉ những người đó mới đáng tin cậy”.
Sống đức tin có nghĩa là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin mà Giáo Hội mời gọi chúng ta củng cố khi cho chúng ta lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Duy chỉ mình Ngài mới cho chúng ta sự sống đích thực.
Những người Do Thái đã thấy Chúa Giêsu nhưng họ không tin, thật ra họ đã không thấy gì. Cái nhìn của họ dừng lại nơi những cái chóng qua, họ tìm kiếm Thiên Chúa không phải vì đã tin nhận Ngài, mà chỉ vì chờ đợi được Ngài cho ăn no nê bằng của ăn hư nát. Muốn được thấy Chúa Giêsu, muốn tin nhận Ngài, trước tiên con người cần ra khỏi cái vỏ ích kỷ tham lam của mình. Có sẵn sàng ra khỏi thế giới hẹp hòi của mình, con người mới có thể thấy được Đức Kitô và đi vào thế giới của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Quả thật, chỉ những tâm hồn trong sạch, nghĩa là biết quên đi cái thế giới ích kỷ, phàm trần mới nhìn thấy Thiên Chúa.
Ước gì chúng ta luôn sống kết hiệp với Ngài và nhận ra Ngài trong mọi biến cố cuộc sống, và khi cuộc lữ hành trần gian chấm dứt “Ngài thế nào, chúng ta sẽ được thấy như vậy”.
Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là đến với Ngài. Không chỉ dừng lại ở đó, mà chúng ta còn được mời gọi đi xa hơn nữa để đón nhận, tức là thông dự vào sự sống thần linh của Ngài bằng việc đón nhận chính Ngài.
Đây cũng chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).
Tại sao Đức Giêsu phải tuyên bố như vậy? Thưa, bởi vì Ngài thấy lòng trai dạ đá nơi những người Do thái và họ đi tìm Ngài vì của ăn hư nát chứ không phải là của ăn tinh thần, tức là sự sống đời đời.
Lối sống và lựa chọn của người Do thái khi xưa cũng chính là lối sống và lựa chọn của nhiều người trong chúng ta! Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ lễ, bỏ nhà thờ chỉ vì mớ rau, củ hành, củ tỏi, con cá, con tôm, hay cũng có khi chỉ vì một nhu cầu nào đó rất tầm thường mà chúng ta sẵn sàng đánh đổi...!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống đức tin cách trưởng thành. Tức là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Quả thật: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
Muốn được như thế, chúng ta phải bỏ qua lối sống thực dụng, phải sống vượt lên trên những gì là vật chất, hẹp hòi, ích kỷ của mình. Có thế, con mắt đức tin của chúng ta mới nhận ra những dấu chỉ thiêng liêng và lý trí của chúng ta mới trong sáng để nhận biết điều gì quan trọng, điều gì thứ yếu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ban chúng con ơn khôn ngoan để chúng con biết lựa chọn điều cần thiết cho sự sống đời đời hơn là những thứ chỉ nuôi được thân xác. Xin cho chúng con biết quý trọng Bánh Hằng Sống chính là Thánh Thể Chúa và siêng năng rước Chúa vào trong linh hồn với trọn lòng mến. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh. Ai tin vào Chúa và đến với Chúa, sẽ được hạnh phúc trọn vẹn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay quả thực là tin mừng lớn lao cho con. Là tin mừng, vì Chúa đến để thỏa mãn mọi khát vọng sâu xa của đời người. Là tin mừng, vì khi con đến với Chúa, Chúa không xua đuổi, nhưng luôn mở rộng vòng tay đón nhận con. Là tin mừng, vì khi con tin vào Chúa, Chúa không để mất con, nhưng Chúa sẽ cho con được sống muôn đời. Chúa là tin mừng, vì Chúa là hạnh phúc đích thực của con. Con dâng lời cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, cuộc sống con đầy giới hạn và thiếu thốn, nên con đói khát thật nhiều. Con đói khát cơm bánh hằng ngày. Con mong ước được nhiều của cải vật chất. Con thèm khát thú vui xác thịt. Con đói khát bồi dưỡng kiến thức và đời sống văn hoá. Con khao khát có được một địa vị. Con đói tình yêu và sự cảm thông. Con khát vọng có được hạnh phúc bền vững.
Nhưng lạy Chúa, để thỏa mãn những cơn đói ấy, nhiều lúc con đã chẳng kể gì đến Chúa, thậm chí con đã gạt Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Nhưng chính lúc con gạt bỏ Chúa, thì con lại càng đói khát hơn. Dù con có đáp ứng được một vài khát vọng nào đó, nhưng khát vọng hạnh phúc lại càng được khơi sâu thêm, vì con vẫn chưa có Chúa là niềm hạnh phúc duy nhất của đời con.
Xin Chúa giúp con biết tin vào Chúa và đến với Chúa. Con sẽ có Chúa là Bánh Trường Sinh. Con tin Chúa sẽ ban tặng cho con niềm vui, sự bình an, sự no thoả sâu xa trong tâm hồn.
Lạy Chúa, khi con tìm kiếm của ăn cho thân xác, thì xin giúp con cũng biết quan tâm đến đời sống tâm linh nữa. Amen.
Ghi nhớ: “Ý muốn của Cha Ta là: hễ ai thấy Con thì có sự sống đời đời”.
Vào những ngày cuối tháng 6 năm 1848. Cuộc nội chiến xảy ra ác liệt trên những đường phố của kinh thành Paris. Tiếng la hét om sòm vang lên khắp nơi. Nằm trên giường bệnh, nhà văn Chateaubriand nghe rõ mồm một. Ông cầm lấy cây thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa mới cứu vãn được xã hội hiện tại này”.
Rồi dán chặt đôi mắt một cách trìu mến vào tượng Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, nhà văn thốt ra những lời cuối cùng đầy xúc động: “Đây chính là Chúa của con. Đây chính là Vua của con!”.
Suy niệm
Ðức Giêsu đến không làm theo ý mình, nhưng là để chu toàn ý Cha: “Ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời”. Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ không còn phải chết trong tội nữa, nhưng được Người ban sự sống đời đời, như thánh Phaolô với kinh nghiệm người được đức tin chiếm hữu, đã quả quyết: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là Adam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giêsu), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
Tin vào Chúa Kitô thì được sống. Rải rác khắp trang Tin Mừng, nói về sức mạnh của đức tin vào Con Người - Đức Kitô: Người phụ nữ bị băng huyết cả chục năm với đức tin được chữa khỏi, như ông trưởng hội đường Do Thái với đức tin của ông đã khiến Chúa làm cho con gái ông đã chết được sống lại (x. Mt 9,18-26; Mc 5,1-43; Lc 8,40.55). Người phụ nữ dân ngoại Canaan có người con bệnh gần chết, dù Chúa thử thách bà, nhưng tâm hồn bà vẫn tin mạnh mẽ vào Ngài, và con bà được chữa lành. (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30), người bị bệnh phong cùi với lòng tin cũng được khỏi (Mt 8,1-4; Mc 1,40-45; Lc 5,12-13; 17,11-19)... Người mù thành Giêricô với tất cả niềm tin kêu cầu Chúa và anh được sáng (Mt 20,29 -34; Mc 10,46-52; Lc 18,35-44)…
Người tin Chúa Kitô, là người để Chúa Cha lôi kéo và giáo hóa, nhưng trong thực tế, chúng ta sống tin thật sự, hay chúng ta để các thực tại quyền lực trần gian chiếm hữu. Tuy môi miệng tôi tuyên xưng “tin” Đức Kitô, nhưng con tim và khối óc lại hướng theo tiền bạc, danh lợi, vì nó mà tôi có thể bất chấp tất cả, ghen ghét, hãm hại, chà đạp anh em bạn hữu để được những cái bánh to, lợi lộc trần thế. Tâm tư của tôi của bạn như thánh Phaolô đã từng ví von: Chúa của họ thờ là cái bụng tức là mọi sự quyến rũ thấp kém của thế gian (x. Pl 3,19). Vì thế người sống niềm tin theo lời khuyên dạy của thánh Phaolô: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, khoác lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác... Anh em hãy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau” (Ep 4,31-32).
Sống đức tin sâu sắc, như thánh tông đồ Giacôbê xác tín: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Thật thế, người tin nhận Chúa Giêsu là Cứu Chúa của mình, chắc chắn cuộc đời của họ, mọi lời nói việc làm, được xây dựng và đặt nền tảng trên đức tin.
Ý lực sống: “Ai có đức tin thì làm được mọi việc… “Dù đức tin chỉ bằng hạt cải…” (x. Lc 17,5-6).
1. Bài Tin Mừng này cho chúng ta thấy: từ đầu bài giảng về Bánh Hằng Sống, Đức Giêsu có ý để thính giả đi từ phép lạ manna đến phép lạ hóa bánh ra nhiều; và từ phép lạ hóa bánh ra nhiều đến mầu nhiệm về Chúa và sứ mạng của Ngài. Khi thấy dân chúng chưa tin Ngài, Ngài lại hướng họ về Chúa Cha. Hôm nay, Đức Giêsu giải thích về ý nghĩa của lời Ngài nói: “Chính Ta là bánh trường sinh”.
2. Như chúng ta biết, đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu là chỉ để được ăn uống no nê. Họ chỉ biết có của ăn cho thân xác. Như thánh Phaolô nói: “Đạo của họ là cái bụng”. Là Đấng Toàn Năng, Đức Giêsu có thể vung chiếc đũa thần lên để thỏa mãn tất cả tất cả mọi nhu cầu thể lý của con người. Bằng chứng là với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Ngài có thể nuôi sống một đám đông trên 5000 người.
Nhưng Đức Giêsu đã không đến trong trần gian để cung cấp một thức ăn chóng hư nát như thế. Ngài đến làm cho con người được sống và sống sung mãn, và sự sống sung mãn ấy chính là sự sống vĩnh cửu. Của ăn dư dật mà Ngài đã dâng lên từ 5 chiếc bánh và 2 con cá là dấu chỉ của bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho con người trong phép Thánh Thể, chỉ có bánh này mới làm cho con người được thỏa mãn trong nỗi khát vọng mà không một lương thực nào trên trần gian này có thể lấp đầy.
3. Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là đến với Ngài. Không chỉ dừng lại ở đó, mà chúng ta còn được mời gọi đi xa hơn nữa để đón nhận, tức là thông dự vào sự sống thần linh của Ngài bằng việc đón nhận chính Ngài. Đây cũng chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai thấy người Con và tin vào người Con ấy, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Tại sao Đức Giêsu phải tuyên bố như vậy? Thưa, bởi vì Ngài thấy lòng chai dạ đá nơi những người Do thái và họ đi tìm Ngài vì của ăn hư nát chứ không phải là của ăn tinh thần, tức là sự sống đời đời.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống đức tin cách trưởng thành. Tức là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Quả thật: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh mà còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
4. Người tin Chúa Kitô, là người để Chúa Cha lôi kéo và giao hòa, nhưng trong thực tế, chúng ta sống tin thật sự hay chúng ta để các thực tại quyền lực trần gian chiếm hữu. Tuy môi miệng tuyên xưng “Tin” Đức Kitô, nhưng con tim và khối óc hướng theo tiền bạc, danh lợi, vì nó mà ta có thể bất chấp tất cả, chà đạp anh em bạn hữu để được cái bánh to, lợi lộc trần thế.
Tâm tư của ta như thánh Phaolô đã từng ví von: Chúa của họ thờ là cái bụng, tức là mọi sự quyến rũ thấp hèn của thế gian (x.Pl 3,19).
Sống đức tin sâu sắc, như thánh tông đồ Giacôbê xác quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Thật thế, phải được xây dựng và đặt nền tảng trên đức tin.
5. “Tất cả những người Chúa Cha đã ban cho Ta đều sẽ đến với Ta’.
Câu nói trên đây của Đức Giêsu có thể gây ra một vấn nạn: Phải chăng có những người Chúa Cha không ban cho Đức Giêsu?
Chúng ta nhớ lại chân lý bắt nguồn từ Thánh Kinh: Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi. Về phía Thiên Chúa, đó là tuyệt đối không luật trừ. Nhưng về phía con người, chúng ta cần phân biệt:
Chúa Cha đã ban cho Đức Giêsu toàn thể nhân loại, là những con người có tự do. Và tất cả, cách này hay cách khác, đều được mời gọi để chọn lựa: chấp nhận hoặc từ chối Đức Giêsu. Chính trên bình diện tự do trách nhiệm này, sẽ có tách biệt giữa những người “đến” hay “không đến” với Đức Giêsu. Nói cách khác, giữa cộng đoàn nhân loại, có người tự do đáp trả “vâng” với ân huệ đức tin, đức tin này đưa họ đến với Đức Giêsu, và đã có những người trả lời “không”, những người này đã từ chối Đức Giêsu.
6. Truyện: Lạy Chúa của con.
Vào những ngày cuối tháng 6 năm 1848. Cuộc nội chiến xẩy ra ác liệt trên những đường phố của kinh thành Paris. Tiếng la hét om sòm vang lên khắp nơi. Nằm trên giường bệnh, nhà văn Chateaubriand nghe rõ mồn một. Ông cầm lấy cây Thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa mới cứu vãn được xã hội hiện tại này”.
Rồi dán chặt đôi mắt một cách trìu mến vào tượng Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, nhà văn thốt ra những lời cuối cùng đầy xúc động: “Đây chính là Chúa của con. Đây chính là vua của con”.
Nhắc lại bài Phúc Âm hôm qua: nghe Chúa Giêsu nói tới một thứ lương thực quý trọng hơn cả Manna ngày xưa nữa, dân Do Thái tưởng đó là thứ thức ăn đặc biệt no lâu nên xin Chúa ban cho họ thứ thức ăn đó mãi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với họ rằng “Chính Ta là bánh ban sự sống”.
Chúa Giêsu trở thành Bánh Sự Sống cho loài người thế nào ?
Khi người ta đến với Ngài: “Ai đến với Ta, sẽ không hề đói”.
Khi người ta tin vào Ngài: “Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Thực ra theo luật của cú pháp sóng đôi, “Đến với” và “Tin vào” không phải là hai việc khác nhau mà chỉ là hai cách diễn tả cùng một sự việc: Tin vào Chúa Giêsu, thể hiện ở thái độ đến với Ngài. Kết quả của công việc đó là không hề đói không hề khát.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện vào việc đến với Ngài. Một ngày tôi dành bao nhiêu thời gian để “đến với” Chúa.
2. Chúng ta “đến với” Chúa bằng nhiều cách: tưởng nhớ, cầu nguyện, suy gẫm, và nhất là tham dự Thánh Lễ. Hãy xét mình xem khi chúng ta làm những việc trên, lòng chúng ta có thực sự “đến với” Chúa không ?
3. Khi tâm hồn tôi cảm thấy đói khát, tôi đã “đến với” ai, với cái gì ? Có “đến với” Chúa không ?
4. Buổi sáng bà lão ra ngoài. Buổi chiều bà trở về, bà không tìm thấy chìa khóa.
Không biết làm thế nào ?! Bà chạy sang hàng xóm, mượn chìa khóa của họ mở thử, chẳng có cái nào hợp.
Cuối cùng một người góp ý: cứ mở then cài ra xem sao! Bà mở then và cánh cửa mở toang. Thì ra khi đi ra bà không khóa cửa.
Câu chuyện trên mô tả phần nào thái độ của chúng ta trước Chúa. Ta đứng ngoài, lòng đầy băn khoăn lo sợ. Ta nghĩ phải làm việc này việc nọ mới đáng đến với Chúa. Trong khi đó, cánh cửa nhà Chúa luôn mở rộng và ưu ái đón ta vào. (Góp nhặt)
5. “Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất”.
…Chúa Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, Triết lý phương Đông và Phật Giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng sao có sức giật tung những gì tôi mòn mỏi. Tôi nằng nặc đòi nhà Dòng một năm phép, cho ra độc cư trên núi, sống với nắng, gió, mưa, đói, khát, và sự sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi nhất tâm thất niệm thì vấn đề về Chúa Giêsu lại vang lên, đeo bám tôi mãi… Một năm phép đã hết, thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, trở về nhà Dòng một cách trắng tay. Nhưng Chúa Giêsu vẫn cứ đeo bám tôi mãi. Đang trong một năm nổi loạn, thất bại và hư hỏng cùng cực đó, tôi được gọi làm linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi thẫn thờ trong nhà nguyện như sự đay nghiến, một sự nức nở và đền tội…
Một đêm trước khi làm linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Tạm Thánh Thể. Có cái gì đó khác hơn là cảm giác, hơn cả sự rung động, mà là sự bao phủ lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi “hiểu” rằng cho dù có là hòn đá hòn sỏi, dù tôi đã lấm bùn bê bết, dù tôi đã thân tàn ma dại, dù tôi đã hỏng hết cả cuộc đời, thì Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn tôi, làm tâm hồn tôi bừng sáng huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa của đời tôi…
Lạy Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được Ngài yêu thương vì Ngài là Đấng khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện qua việc đến với Ngài. Đó là điều kiện tiên quyết để được hạnh phúc, được sống đời đời. Nhưng như thánh Phaolô nói: Làm sao tin được, nếu không được nghe; làm sao nghe được, nếu không có người rao giảng; và làm sao rao giảng, nếu không được sai đi (Rm 10,14). Tất cả những ai tin Chúa, thì cũng ý thức sứ mạng được sai đi để nói về Chúa cho người khác, nhờ đó họ mới có thể đến với Chúa và tin vào Chúa. Cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi đã ý thức về sứ mạng đó, cho nên đi tới đâu, họ cũng rao giảng cho người khác biết về Chúa. Khi nói về sinh hoạt của Giáo Hội tiên khởi, các sử gia cho rằng, sở dĩ người Kitô hữu đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, là vì họ không truyền bá Tin Mừng bằng sách vở, mà là bằng đời sống gương mẫu của họ.
2. Tuy nhiên, không phải chỉ có việc tin vào Chúa, mà còn phải lãnh nhận Mình Máu Chúa. Đây là điều không dễ chấp nhận trên bình diện nhân loại, nhưng Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật này.
“Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai” (Ga 6,39).
Cha Matthêô, vị tông đồ của Phong trào tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong các gia đình, thuật lại một câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mình:
Tôi ở Lộ Đức, khi vừa giảng xong tôi bước xuống khỏi hang đá, khá mệt. Một nông dân tiến lại gần, cầm tay tôi và nói:
- Có phải cha là người vừa giảng ở Vương Cung Thánh đường không ?
- Vâng!
- Ồ quí hóa quá. Từ nhiều năm nay con vẫn dâng việc rước lễ hàng ngày và giờ thờ lạy Mình Thánh Chúa mỗi tuần của con, để xin Trái Tim Chúa ngự trị trong mọi gia đình, và cha vừa giảng với mục đích ấy.
Tôi nói với ông:
- Hãy đến khách sạn với tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện lâu dài với nhau.
- Đến khách sạn với cha ư ? Thưa cha không thể được, vì con còn có xe bò. Con không thể để xe và các con bò ở đây để đến với cha ngay được.
- Vậy tối nay, 8 giờ đến nhé.
- Tối nay, 8 giờ. Dạ, được.
Ông ta đến và chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau đến nửa đêm. Người nông dân nói chuyện như một nhà thần học có tầm cỡ. Cuối cùng, tôi nói với ông:
- Ông muốn trở thành bạn của tôi không ?
- Thưa cha, muốn lắm chớ.
- Vậy các người bạn thường viết thư cho nhau, ông nhớ viết thư cho tôi nhé.
Bác nông dân lắc đầu lia lịa:
-Thưa cha, con không biết đọc và biết viết.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Vậy ông học ở đâu được tất cả những gì ông vừa nói với tôi thế ?
Đến lượt ông ngạc nhiên:
- Ở đâu ư ? Cha hỏi con học ở đâu khi mỗi ngày cha đều dâng lễ. Ở bên Người, bên Chúa, chính Người là vị thầy duy nhất của con.
Và đây là trang nhật ký của một Linh mục:
“…Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh…Rồi chẳng biết từ đâu, Triết Đông và Phật Giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giêsu cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm …Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động trong nhà nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi tôi phải đền bù.
Một đêm trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát nhà chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cả cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…
Lạy Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được Ngài yêu thương và Ngài khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với dân chúng rằng: "Không ai đến được với Ta, nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: "Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo". Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha.
Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
Sống ở đời là phải chịu nhiều sự lôi kéo. Thời nay sự lôi kéo lại càng mạnh mẽ và thô bạo. Có sự lôi kéo của khuyến mãi, giảm giá, khiến ta vui vẻ mua cả điều không cần. Có sự lôi kéo của những sản phẩm thuộc đời mới hơn, nhiều chức năng hơn, khiến chúng ta mê mải chạy theo và rượt đuổi không ngừng. Có sự lôi kéo của hình ảnh quảng cáo, của thời trang, của sách báo, khiến chúng ta chẳng làm chủ được cái nhìn, và dễ đi đến chỗ phạm tội. Để chống lại được sự lôi kéo bên ngoài cần có nội lực bên trong. Nhiều người sa ngã vì bị kéo bên ngoài, mà bên trong không vững. “Không ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha, Đấng sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44). Đức Giêsu khẳng định về sự lôi kéo của Chúa Cha trong đời từng người. Cha lôi kéo chúng ta về phía Con của Ngài là Đức Giêsu, bất chấp những lôi kéo ngược lại đến từ phía thế gian, ma quỷ, xác thịt. Nếu chúng ta để cho Cha kéo đi mà không cưỡng lại, thế nào ta cũng đến được với Giêsu. Và Giêsu lại là Con Đường tuyệt vời dẫn ta đến với Cha. “Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 13, 6). Như thế Cha đưa ta đến với Con: “Này là Con ta yêu dấu… hãy nghe lời Người” (Mt 17, 5). Và Con đưa ta lại cho Cha để hưởng sự sống đời đời trong ngày sau hết. Cuộc sống người Kitô hữu là cuộc sống giữa những lôi kéo, giằng co, giữa chính và tà, giữa thiện và ác, giữa Thiên Chúa và Xatan. Tâm hồn con người là hiện trường của những cuộc giao đấu không ngơi nghỉ. Hãy để cho Cha lôi kéo bằng cách nghe và đón nhận giáo huấn của Cha. Lời dạy dỗ của Cha có khi chỉ nghe được trong thầm lặng. Lời ấy đưa ta đến với Giêsu, Đấng duy nhất thấy Cha, biết Cha (c. 46). Hãy tin vào Giêsu để được Sự Sống vĩnh cửu (cc. 44. 47). Hãy ăn Tấm Bánh Giêsu để được Sự Sống ngay từ đời này (c. 51). “Khi nào tôi được giương cao lên khỏi đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi” (Ga 12, 32). Hãy để Giêsu lôi kéo chúng ta khỏi sự tầm thường của cái tôi ích kỷ. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông. Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí. Amen. ---------------------------------
Chúa Cha không ngừng lôi kéo con người hướng thiện. Hướng về Chúa Ki-tô là Đấng Chúa Cha sai đến để đưa nhân loại về với Người. Nhưng tại sao con người không đáp lại tiếng Chúa mời gọi? Thưa vì giữa ân sủng và con người Thiên Chúa còn để một khoảng trống: đó là tự do. Để ân sủng Thiên Chúa phát sinh hiệu quả con người phải sử dụng tự do của mình mà “lắng nghe” và “đón nhận”.
Để lắng nghe cần khiêm tốn. Lắng nghe là nhìn nhận mình không biết. Lắng nghe phải dẹp bỏ những ý kiến riêng của mình. Lắng nghe là trân trọng lời người nói. Ông quan lớn trong triều đình của nữ hoàng nước Ê-thi-óp là người có chức quyền cao trọng, có nhiều tiền nhiều của. Nhưng ông đã khiêm tốn lắng nghe. Lắng nghe tiếng Chúa nên chăm chỉ đọc Sách Thánh trên đường đi. Lắng nghe lời dẫn giải của Phi-lip-phê. Nhờ lắng nghe mà ông có đức tin. Và ông đón nhận được ơn cứu độ.
Để đón nhận cần từ bỏ mình. Để đón nhận Chúa cần từ bỏ cái tôi. Để đón nhận ân sủng cần từ bỏ tội lỗi. Để đón nhận Nước Trời cần từ bỏ thế gian. Viên quan lớn tổng quản kho bạc của nữ hoàng Ê-thi-óp đã từ bỏ mình nên chịu gìm mình xuống dòng nước để được rửa tội. Từ bỏ chỗ ngồi trên xe êm ấm. Từ bỏ quần áo khô ráo. Để chịu xuống xe. Để chịu xuống nước.
Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người về Chúa Ki-tô. Và Thiên Chúa không ngừng dạy bảo con người. Nhưng ma quỉ, xác thịt, thế gian cũng không ngừng lên tiếng và lôi kéo con người xa lìa Thiên Chúa.
Thiên Chúa lôi kéo ta về Chúa Giê-su. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta về vương quốc của nó. Thiên Chúa lôi kéo ta về sự sống đời đời. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta về sự chết. Thiên Chúa lôi kéo để nâng ta lên. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta xuống để gìm ta xuống bùn đen. Thiên Chúa không thể ép buộc ta. Người chỉ lôi cuốn. Ta có tự do. Nếu biết dùng tự do để lắng nghe và đón nhận Chúa Giê-su ta sẽ đạt tới sự sống đời đời.
Rất nhiều khi chúng ta cũng có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa. Nói khác đi, chúng ta thường quan niệm theo mẫu mực và lối suy tưởng riêng của chúng ta, do đó Thiên Chúa mà chúng ta muốn chối bỏ không phải là Thiên Chúa thật: chúng ta chối bỏ vị Thiên Chúa theo quan niệm của chúng ta chứ không phải vị Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta, và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã quả quyết: "Ai thấy Ta là thấy Cha Ta". Chúa Giêsu là mạc khải hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải hoàn toàn khác với Thiên Chúa mà chúng ta thường quan niệm hoặc tự vẽ ra cho chính mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy lời mạc khải của Chúa Giêsu: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời". Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo Hội đã trải qua bao thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin vào Lời Chúa và hàng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức hơn nữa về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể và được có tâm hồn xứng đáng mỗi khi cử hành bí tích Thánh Thể là bảo chứng cho sự sống đời đời.
Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, Chính là thịt tôi đây, Để cho thế gian được sống. (Ga. 6, 48-51)
Tiếp theo bài giảng của Đức Giêsu về bánh ban sự sống dẫn đưa chúng ta chiêm ngắm một tiến độ khác trong hoạt động của Đức Giêsu, chúng ta nhớ đến những tiến triển của bài giảng này dần dần đào sâu đến đoạn này.
Lúc đầu là bánh hóa nhiều. Phép lạ nuôi một đoàn dân chúng dẫn họ đi tìm Đấng đã làm phép lạ. Rồi Đức Giêsu rời xa họ, để vào nơi thanh vắng đêm khuya và hôm sau trở lại với các môn đệ bên kia bờ hồ. Tới đây, Người tiếp tục bài giảng sâu hơn, ý nghĩa hơn. Sự thay đổi nơi chốn thể hiện ý nghĩa thay đổi của bài giảng.
Đức Giêsu đồng hóa mình với thứ bánh mới. Ai liên kết với Người sẽ được sống. Đức Giêsu mặc khải mục đích của sự liên kết này là: Cho con người được sống lại. Hôm nay Người nói cho ta biết: Người sẽ trở nên nguồn sống lại cho chúng ta bằng cách nào? Bằng cách hiến thịt mình cho chúng ta ăn. Ở cảnh này, Đức Giêsu còn nói rõ hơn: “Bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”.
Cho tới nhà Tiệc ly, Đức Giêsu nói: “Đây là mình Tôi bị nộp vì anh em”. Tất cả hoạt động của Người, tất cả mọi sự in ấn trong thịt máu Người với những lao khổ, chống đối, những thao thức, những bước đi cho tới lúc chết: Tất cả là hồng ân ban tặng cho chúng ta.
Đức Kitô đã là Người hiến thân cho tha nhân, không phải chỉ trong ý tưởng hay tinh thần mà còn trong hành động cụ thể sống động để lấy thân xác mình là quà tặng cho muôn dân. Như vậy, ai kết hợp với Người là kết hợp với sự sống mạnh mẽ của Người và biểu lộ ra bằng thân xác, biến thân xác mình thành quà tặng ban sự sống như Đức Giêsu.
Phần chúng ta, được thông phần thịt máu Người và được tham dự sự sống lại của Người, đó là thực hiện thánh ý và việc làm của Đức Kitô để sẵn sàng hiến thân mình làm quà tặng cho tha nhân theo gương Người, với tất cả lao khổ, thống khổ của ta để làm tôi tớ mọi người.
Ở cổng nhà Dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một Thày dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marxellino đã leo lên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marxellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh Giá. Từ đò, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh Giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi: “Con thích điều gì nhất”. Cậu bé đáp: “Con muốn được thấy mẹ con”. Người khổng lồ liền nói: “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”. Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marxellino nữa, họ đi tìm và này cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Đối với Marxellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được chăm sóc Chúa”.
Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo con người lên với Chúa Cha, người tín hữu tiếp nhận Ngài trong Thánh Thể cũng được sai đến với tha nhân và lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẽ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hàng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thực tràn ngập tâm hồn.
Có một câu chuyện kể rằng: hai người yêu nhau tha thiết, nhưng chàng trai có lệnh lên đường đi nhập ngũ trong thời chiến. Bạn gái rất đau khổ, vì không biết đi như vậy, liệu có sống xót trở về không? Vì thế, nàng khóc lóc thảm thiết! Tuy nhiên, lệnh đã được ban, chàng không có cách nào khác, đành lòng rời xa nàng để đi thi hành nhiệm vụ. Trước khi chia tay, chàng tặng nàng một chiếc khăn mùi xoa với hoa văn thêu rất đẹp. Nàng trân trọng đón nhận và lưu giữ kỷ vật ấy như là vật thiêng thánh, và thi thoảng bỏ ra xem. Mỗi lần nhìn thấy khăn đó, nàng có linh cảm như chàng đang ở trước mặt mình. Vì thế, nàng có thể cười hay khóc rất tự nhiên, khiến nhiều người không khỏi thắc mắc!
Như vậy, qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cô gái có một niềm tin mãnh liệt rằng: chiếc khăn ấy chính là hiện thân của người yêu mà mình hết mực thương mến.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ. Vì “ai tin thì được sự sống đời đời”.
Thật vậy, tin là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận hiệu quả siêu nhiên. Nếu không tin, mọi chuyện trở nên vô bổ vì không có sự tương tác.
Khi mời gọi dân chúng tin vào mình để được sống đời đời, Đức Giêsu đã dần dần khai mở và dẫn họ đến xác tín vào Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
Lời xác định “Tôi là bánh trường sinh” là lời mạc khải rất đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Bởi vì đây là lời quả quyết cụ thể, chính xác, chắc chắn.
Vì thế, ngày nay, nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ niềm tin vào sự hiện diện toàn vẹn của Đức Giêsu nơi hình bánh và hình rượu. Từ đó, chúng ta yêu mến, cung kính và đón nhận để chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Thịt Chúa thật là của ăn, Máu Chúa thật là của uống. Xin cho chúng con và mọi người biết siêng năng tôn thờ sự hiện diện của Chúa nơi Bí tích cao trọng này, để như một bảo chứng cho sự sống mai ngày trên Thiên Quốc. Amen.
Sứ điệp: Đức tin là một ân huệ Thiên Chúa ban để chúng ta có thể đón nhận Đức Kitô là Bánh Trường Sinh.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của con. Con dâng lời tán tụng. Con xác tín rằng mọi sự con đang có đều do Cha ban. Đức tin con đang sống là ân huệ kỳ diệu nhất, vì nhờ đức tin Cha đã cho con được thông phần vào chính sự sống của Cha. Tất cả những hồng ân ấy, Cha đã ban qua Người Con Một yêu quý là Chúa Giêsu.
Vâng, lạy Cha, khi đến sống với nhân loại, Con Cha đã mang sức sống mới từ chính Ngài: Ngài đã trở thành Bánh nuôi sống nhân loại, nuôi sống con. Vì thế, khi lãnh nhận Bánh Thánh- Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể- Cha kêu mời con sống như Con Cha: Đó là biết chia sẻ cho người khác chính sự sống riêng tư của con. Bánh Thánh được bẻ ra như một dấu chỉ quên mình. Từng mẩu bánh nhỏ trở thành sức sống mới. Từng việc làm vô danh âm thầm của con cũng trở nên hơi ấm, đủ sức làm vươn dậy những cuộc đời khác.
Lạy Cha, khi lãnh phần Bánh Đức Kitô, con được đón nhận trọn vẹn Thân Mình Ngài, nghĩa là con cũng đón nhận cả anh em con. Anh em chung quanh đã trở thành một phần cuộc sống của con. Xin Cha ban thêm đức tin để con vui lòng đón tiếp mọi người như Thân Mình của Con Cha. Xin mở rộng cõi lòng con để đón nhận không những các điều tốt mà cũng biết đón nhận cả những khuyết điểm của anh em nữa.
Lạy Cha, xin ban thêm đức tin để con luôn xác tín rằng: Đức Kitô là tấm bánh được bẻ ra cho một thế giới mới. Amen.
Phương Tây vào thế kỷ XVI sau khi Christophe Colomb khám phá châu Mỹ ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới này có một ngọn suối trường sinh.
Nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon… liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại thần tiên đó, nhưng đó cũng chỉ là giấc mộng hão huyền…
Suy niệm
Chúa Giêsu trong diễn từ Thánh Thể ở Capharnaum nói về cuộc sống vĩnh cửu trường sinh khi Ngài đã tuyên bố: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47), lời hứa của giao ước mới đem lại sự trường sinh bất tử. Ai tin thì được Thiên Chúa cưu mang trong đời sống mới và được cứu.
Đức tin mà Đức Giêsu rao giảng là một hồng ân của Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44). Nhờ đức tin để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêssia, là Đấng Cứu Thế, được Thiên Chúa Cha sai đến, vượt trên mọi lý luận của con người. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết, hành trình đi đến với Đấng Cứu Thế, là một ân huệ của “Chúa Cha là Đấng sai Ta”. Chúa Cha “lôi kéo” và “giáo hóa” con tim con người: “Ai nghe lời giáo hóa của Cha, thì đến với Ta” (Ga 6,45). Đức tin là hồng ân nhưng không của Chúa Cha ban cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn, biết mở rộng tâm hồn để lắng nghe và để cho Chúa Cha “lôi kéo” và “giáo hóa”.
Người Pharisiêu thông thái, tự hào, không chịu mở lòng ra đón nhận ơn “lôi kéo” và “giáo hóa” của Chúa Cha, nên họ không nhận ra và tin vào Chúa Kitô, chính Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Tin vào Chúa Kitô, chứng nghiệm những gì mà Ngài đang rao giảng về mình và máu Ngài dâng hiến. Chính trong niềm tin đó, người có niềm tin hằng ngày được nuôi dưỡng bằng thịt uống máu của Ngài mang lại sự sống đời đời: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát” (Ga 6,35). “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51-52).
Cho nên, bí tích Thánh Thể là bí tích của đức tin, vì chỉ có lòng tin là con đường duy nhất đưa ta đến bên bí tích mầu nhiệm thánh này. Cho nên, mỗi thánh lễ sau truyền phép, khi thừa tác viên của Giáo hội lập lại lời Chúa Giêsu: “Này là Mình Ta…, Này là Máu Ta…” bánh và rượu ngay lúc đó trở thành Mình Máu Chúa. Giáo hội hoàn toàn xác tín: “Đây là mầu nhiệm đức tin”.
Trong đức tin, nếu chúng ta sống kết hiệp với Thiên Chúa qua bí tích Thánh Thể, cuộc đời chúng ta sẽ trở nên tràn ngập hồng ân. Chính lúc đó, chúng ta mới cảm nghiệm được sâu sắc lời của thánh Augustinô: “Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin”.
Lạy Chúa con tin….
Ý lực sống: “Đức tin cần thiết cho con người. Thật thống khổ cho ai không tin” (Victor Hugo).
1. Bài Tin Mừng hôm nay vẫn tiếp tục triển khai diễn từ của Đức Giêsu về bánh hằng sống. Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần đầu, Đức Giêsu tiếp tục nói rõ hơn về nguồn gốc của Ngài; phần sau, Chúa khẳng định lại điều Ngài đã nói trước đó: “Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
2. Đức Giêsu tiếp tục nói rõ hơn về nguồn gốc của Ngài. Ngài bảo cho mọi người biết: Ngài bởi Chúa Cha mà đến, nên ai đến với Ngài và tin vào Ngài là nhận được ân huệ lớn nhất, ân huệ bao gồm mọi ân huệ mà Thiên Chúa ban cho loài người, đó là sự sống đời đời.
Chúa Cha không ngừng lôi kéo con người hướng thiện. Hướng về Chúa Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến để đưa nhân loại về với Người. Nhưng tại sao con người không đáp lại tiếng Chúa mời gọi? Thưa vì giữa ân sủng và con người, Thiên Chúa để một khoảng trống: đó là tự do. Để ân sủng Thiên Chúa phát sinh hiệu quả, con người phải dùng tự do của mình mà “lắng nghe” và “đón nhận” Lời Chúa.
3. Sau khi nói cho mọi người biết rõ nguồn gốc của mình, Đức Giêsu mạc khải và khẳng định điều Ngài đã quả quyết trước đó: “Tôi là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Người Do thái phản đối, nhưng Chúa vẫn giữ nguyên lời quả quyết, rồi Chúa trở lại câu chuyện manna để làm nổi bật hiệu lực của manna mới: “Tổ tiên các ngươi trong sa mạc đã ăn manna, và đã chết. Còn bánh bởi trời là bánh hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không chết”.
Những lời dạy của Đức Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo hội đã trải qua bao nhiêu thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin Lời Chúa và hằng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa.
4. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ. Vì “ai tin thì sẽ được sống đời đời". Thật vậy, tin là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận hiệu quả siêu nhiên. Nếu không tin, mọi chuyện trở nên vô bổ vì không có tương tác.
Khi mời gọi dân chúng tin vào mình để được sống đời đời, Đức Giêsu dần dần khai mở và dẫn họ đến xác tín vào Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Lời xác định “Tôi là bánh trường sinh” là lời mạc khải rất đặc biệt trong Tin mừng Gioan. Bởi vì đây là lời quả quyết cụ thể, chính xác, và chắc chắn.
Vì thế, ngày nay, nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ niềm tin vào sự hiện diện toàn vẹn của Đức Giêsu nơi hình bánh và hình rượu. Từ đó, chúng ta yêu mến, cung kính và đón nhận để chúng ta được sự sống đời đời.
5. Tóm lại, Đức Giêsu đã mạc khải cho người Do thái biết Ngài là Thiên Chúa, đến để ban ơn cứu chuộc cho họ cũng như mọi người, và Ngài ban chính thịt máu Ngài làm lương thực ban sự sống đời đời; nhưng họ nhất định không tin Ngài.
Đó là chuyện ngày xưa của người Do thái, còn chúng ta ngày nay, chúng ta có thái độ thế nào, chúng ta có tin mạnh mẽ, tin tuyệt đối vào Đức Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không? Và chúng ta siêng năng tham dự Thánh lễ, dọn lòng sốt sắng để rước Chúa Giêsu Thánh Thể không? Xin Chúa ban cho chúng ta có lòng sùng kính và mến yêu phép Thánh Thể và tin thật đây là thần lương nuôi dưỡng để giúp chúng ta đến cuộc sống đời đời.
6. Truyện: Bí quyết trường sinh bất tử?
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian.
Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên ông tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng.
Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thủy Hoàng liền phái nhiều tầu thuyền chất đầy châu báu ngọc ngà quí hiếm để đi tìm, với hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây mồ như cung điện nguy nga, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông ngân hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên 50 tuổi thì chết.
Tiếp tục ý tưởng hôm qua về “đến với” và “tin vào” Chúa.
Việc “tin vào” Chúa Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác hai phía:
Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” con người người tin vào Chúa Giêsu và đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy “ (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn lôi kéo con người đến với Chúa Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người Do Thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Chúa Giêsu.
Phía con người: Phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa: “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta”(câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người: “Trong sách ngôn sứ đã chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn” (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 45 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày: họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyến con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, “nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa” nghĩa là ý thức rắng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại việc “tin vào” Chúa Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương và luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể là được.
B. Suy Niệm (...Nẩy mầm)
1. Hôm qua chúng ta đã hiểu được ích lợi của việc đến với Chúa (“Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”). Nhưng xét lại mình, chúng ta thấy mình ít đến với Chúa. Ít đến vì một việc xem ra đơn giản như thế lại quá khó đối với bản tính của chúng ta. Hôm nay Chúa Giêsu dạy thêm: muốn đến với Ngài thì hãy để cho tình thương của Chúa lôi kéo và hãy nhớ giáo huấn của Ngài trong lịch sử là Ngài rất yêu thương loài người. Đừng lì lợm với tình thương ấy, đừng kháng cự với tình thương ấy.
2. Một buổi chiều rảnh rỗi, văn hào Paul Claudel thong thả dạo bước nhàn du. Khi đi ngang một nhà thờ, tiếng thánh ca tứ đó vọng ra đã lôi kéo bước chân ông đi vào nhà thờ. Ở đó ông đã gặp Thiên Chúa, gặp niềm tin. Đó là một cách lôi kéo của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng dùng biết bao cách khác để lôi kéo chúng ta. Chỉ cần ta đừng cố chấp nhưng ngoan ngoãn bước theo, thì ta sẽ “đến” được với Ngài. Hãy nhớ lại xem đã bao nhiêu lần và những lần đó thế nào, tôi đã lỡ mất đã không ngoan ngoãn bước theo sự lôi kéo của Thiên Chúa.
3. Người câm không nói được nhưng có cách làm khác để cho người khác hiểu được họ, đó là dùng dấu hiệu bằng tay, bằng nét mặt, có khi cả bằng thân thể. Tuy nhiên, muốn hiểu được người câm thì ta phải chú ý từng động tác nhỏ của họ. Rất nhiều khi Thiên Chúa nói với ta bằng ngôn ngữ của người câm. Ta cần chú ý lắm mới hiểu được ý của Thiên Chúa.
1. Tiếp tục ý tưởng hôm qua về “đến với” và “tin vào” Chúa.
Việc “tin vào” Chúa Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác hai phía:
Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” để con người tin và đến với Ngài: “Không ai đến được với Tôi nếu cha Tôi là Đấng sai Tôi không lôi kéo kẻ ấy” (Ga 6,44).
Được lôi kéo rồi con người còn phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa nữa: “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Tôi” (câu 45).
Tóm lại, việc “tin vào” Chúa Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa muốn và luôn tạo điều kiện để con người thực hiện. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
2. Việc quan thái giám xứ Êthiốp được ơn trở lại với Chúa trong Sách Tông Đồ Công Vụ là một thí dụ. Qua sự việc này, ta thấy có hai yếu tố quan trọng: một là ông ta là người đang nghiên cứu Kinh Thánh, hai là thiên sứ sai ông Philipphê đến để giúp ông ta. Việc thiên sứ thúc giục ông Philipphê đến với quan thái giám cho thấy, đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban, nhưng thường qua trung gian một con người. Con người làm trung gian ở đây là ông Philipphê.
Qua sự việc này chúng ta có thể hiểu được những gì Chúa nói hôm nay: “Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44). Đến với Chúa Kitô là một ơn huệ Thiên Chúa thúc giục. Ai đến với Đức Kitô và tin vào Người, sẽ có sự sống đời đời. Có Đức Kitô trong mình là ta được sống trong thế giới của Thiên Chúa, được sống sự sống trường sinh.
Nếu xưa Philipphê đã là trung gian cho quan thái giám xứ Êthiốp để ông được Chúa ban cho ông ơn đức tin, thì ngày nay người Kitô hữu cũng phải làm trung gian để những người chung quanh mình tìm đến với Chúa, để họ cũng có được ơn đức tin như vậy.
Bà J. Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigéria, châu Phi, đã kể lại câu chuyện cảm động sau đây:
Một ngày kia bà được mời đến dự lễ Giáng Sinh được tổ chức tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên bà chứng kiến một số người cùi đông như vậy. Buổi lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào bà cũng thấy những người ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ... chỗ nào cũng đông nghẹt người. Bà thấy họ thật đáng thương, bệnh tật gậm nhấm dần và hủy hoại thân thể họ, nhưng khuôn mặt người nào cũng bày tỏ niềm vui, mắt họ sáng ngời khi họ hát những bài thánh ca Giáng Sinh.
Đến phần công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên đọc sách Thánh, ông phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, mục sư mời người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho mình, người bệnh cùi ấy giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên, ông nhỏ nhẹ nói:
- Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Bà Scaggs lấy làm lạ, nói với người thông dịch rằng, anh ta dịch sai. Không ai lại có thể cám ơn Chúa vì “được cùi” bao giờ. Người thông dịch tiếp tục dịch lại lời người bệnh đang giải thích nguyên do:
- Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ biết Chúa, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ giúp tôi!
3. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. (Ga 6,51)
Trong một cuộc họp mặt đông đảo của những người Kitô hữu, tại một nhà thờ ở Tây Đức, để tiếp đón mẹ Têrêsa Calcutta, người ta dâng lên cho mẹ một bó hoa tuyệt đẹp.
Bỡ ngỡ trước lòng quí mến và trọng kính mà cử tọa dành cho mình, mới đầu mẹ Têrêsa tỏ ra hơi lúng túng. Nhưng sau đó vài giây, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa, đi thẳng lên trên cung thánh, quì gối trước bàn thờ, rồi đặt bó hoa mà mẹ vừa được trao tặng, trước nhà tạm.
Cử chỉ này của mẹ Têrêsa cho thấy, Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã kín múc lấy cho cuộc sống dấn thân và phục vụ cách vô vị lợi của mẹ.
Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian” (Ga 3,16).
Thực vậy, còn hình thức nào để thể hiện sự chấp nhận tình thương của Thiên Chúa cho bằng ăn “bánh Giêsu”. Mà điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là tin và yêu.
Đó là điều chúng ta cần cầu xin cho nhau mỗi ngày.
Khi ấy, những người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời". Người giảng dạy những điều này tại Hội đường Capharnaum.
Tin Mừng theo thánh Gioan không viết về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, nhưng lại giải thích cách sâu xa cho chúng ta về ý nghĩa của bí tích ấy đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu 51 là một bước chuyển quan trọng trong bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống ở chương 6: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” Lần đầu tiên thịt được nhắc đến trong bài giảng này. Thịt của Đức Giêsu chính là bánh từ trời được ban cho thế gian. Ngôi Lời đã vào đời làm người, đã thành thịt (Ga 1, 14). Bây giờ chính thịt ấy lại được trao ban cho con người như bánh hằng sống. Đức Giêsu không bằng lòng với chuyện nuôi một số người bằng bánh và cá. Điều đó chỉ làm giảm cơn đói thân xác trong một thời gian. Ngài muốn nuôi cả thế giới bằng chính sự sống thần linh ở nơi Ngài, nuôi bằng trọn cả con người Ngài, nuôi bằng chính thịt và máu Ngài. “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống vĩnh cửu. Và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Ăn thịt và uống máu một người là điều làm người Do thái ghê sợ. Chúng ta chỉ hiểu được những lời trên đây trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu mời các môn đệ ăn bánh và uống rượu Ngài trao mà Ngài lại nói: Đây là mình Thầy, đây là máu Thầy. Đức Giêsu muốn trao cho nhân loại sự sống của Ngài qua thức ăn, thức uống bình thường của con người là bánh và rượu. Sự sống vĩnh cửu đã hé nở ngay từ đời này và sẽ viên mãn ở đời sau. Hãy đến ăn và uống lương thực thần linh Ngài dọn cho ta. Hãy đến với lòng tin và sự trân trọng trước món quà quý giá. Nhưng dự tiệc Thánh Thể không phải chỉ là đến với thịt và máu Chúa, mà còn là gặp gỡ tiếp xúc với một ngôi vị là chính Đức Giêsu. “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm giữa hai ngôi vị. “Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c. 57). Rốt cuộc, qua việc ăn uống mình máu Chúa, chúng ta được tham dự vào mối tương quan thân tình giữa Cha và Con. Chúng ta được sống bằng cùng một dòng sự sống xuất phát từ Cha. Chúng ta được diễm phúc chia sẻ sự sống của chính Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể không phải là một thứ bùa chú hay đũa thần. Ai càng mở lòng mình ra để trao đi, càng thoát ra khỏi thái độ chiếm đoạt, thì càng thấy mình được biến đổi và được giàu có muôn ơn. Trong mỗi thánh lễ, chúng ta được mời gọi đón lấy Bánh hằng sống, Tấm Bánh Lời Chúa và Tấm Bánh Mình Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa là thức ăn, thức uống của con. Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao. Chúa ngọt ngào trong cổ họng con hơn cả tầng mật ong, vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời. Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao, vì con không sao múc cạn được Chúa. Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài? Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con, con cảm thấy cả hai. Chúa đòi con nên một với Ngài, đòi hỏi đó làm cho con đau đớn, vì con không muốn từ bỏ những thói quen của con để ngủ yên trong tay Chúa. Con chỉ biết tạ ơn Chúa, ca ngợi và tôn vinh Chúa, bởi đó là sự sống đời đời cho con. Amen. (Ruy Broeck) ---------------------------------
Chúa ban cho ta Thịt và Máu Chúa. Đó là bí tích Thánh Thể. Là Sự Sống Muôn Đời. “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng sự sống này không phải là bùa chú tự nhiên thành. Cần phải ăn uống theo qui định. Hôm nay Chúa dạy ta qui định đó.
Qui định thứ nhất: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”. Cuộc trao đổi phải có hai chiều. Cho đi và nhận lãnh. Hai động từ “ở lại” thuộc hai chiều trao đổi. Ta ở lại trong Chúa. Chúa ở lại trong ta. Ở lại là biến đổi. Chúa ở lại trong ta nên đã biến đổi nên giống ta. Chúa đã từ trời xuống thế. Thiên Chúa đã trở nên con người. Sống như con người. Đói khát như con người. Đau khổ như con người. Chết như con người. Ta muốn ở lại trong Chúa cũng phải biến đổi nên giống Chúa. Thánh thiện như Chúa. Yêu thương như Chúa. Quảng đại như Chúa. Điều này được khẳng định bằng qui định thứ hai.
Qui định thứ hai: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Chúa Giê-su sống nhờ Chúa Cha. Từ suy nghĩ, lời nói đến hành động, Chúa Giê-su không nói gì làm gì tự mình, theo ý riêng. Nhưng tất cả đều phát xuất từ Chúa Cha, theo ý Chúa Cha. “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta”(Ga 4,34). Thậm chí đến cả cái chết. Chúa Giêsu “đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thánh giá”(Pl 2,8). Ta cũng phải sống nhờ Chúa Giê-su như vậy. Không nghĩ tưởng, nói năng, hành động gì theo ý riêng. Nhưng lời nói, tư tưởng và hành động của ta phải là của Chúa Giê-su.
Để Chúa Giê-su ở lại trong ta ta phải từ bỏ mình. Ta phải từ bỏ máu thịt hay chết, tội lỗi, trần tục của mình để Máu Thịt hằng sống, thánh thiện, thần linh của Chúa Giê-su Thánh Thể ở lại trong ta.
Thánh Phao-lô được Chúa chuẩn bị cho cuộc kết hợp sâu xa với Chúa. Nên hôm nay Chúa bắt ngài phải từ bỏ con người cũ. Phải ngã xuống con người cao ngạo. Phải đui mù con người tự hào thông minh khôn ngoan. Phải đánh gục con người cứng cỏi. Thánh Phao-lô đã ngoan ngoãn từ bỏ hết. Để Thiên Chúa chiếm đoạt. Để từ nay không còn sống cho mình nữa. Mà sống cho Chúa. Ngài đã thay máu thay thịt mình bằng Máu Thịt Chúa Giêsu. Ngài đã bắt đầu cuộc sống thần linh. Ngài đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu.
Bất chấp sự phản đối của Hoa Kỳ, Nga đã đưa du khách đầu tiên vào không gian. Vị du khách này là một triệu phú người Mỹ, tên là Dennis Titô. Ông Titô đã rời căn cứ phi thuyền không gian vào tối thứ Bảy tháng 4 năm 2001 và được đưa lên trạm không gian quốc tế.
Sở dĩ cơ quan không gian Hoa Kỳ là NASA phản đối chuyến đi này là vì cho rằng ông Titô có thể gây ra nguy hiểm cho các phi hành gia trên trạm không gian quốc tế. Tuy nhiên, cơ quan không gian của Nga cam đoan rằng sứ mạng của ông Titô sẽ được bảo đảm trong suốt chuyến du hành vào không gian. Ðược biết, vé du lịch không gian của ông Titô là hai mươi triệu mỹ kim.
Phải bỏ ra một số tiền kếch xù như thế để ra khỏi trái đất tìm một chút cảm giác thoát tục để trở thành một con người nổi tiếng quả là điều không cân xứng. Trong khi con người muốn bay lên trời cao bằng những phương thế và xác thịt riêng của mình, thì Ðấng từ trời cao đã xuống trần gian, để chỉ cho con người cách thế đúng đắn nhất để lên trời cao.
Thật ra khoảng không gian mà con người có thể bay lên được chỉ là vô nghĩa so với cõi trời cao từ đó Ngài đưa con người xuống; và con đường Ngài mở ra để cho con người ra khỏi trời cao ấy hoàn toàn trái ngược lại với con đường mà con người tự vạch ra. Con đường mà Ngài đã khai thông là con đường của tự hạ, hy sinh, quên mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân. Với Ngài, chỉ khi nào thoát khỏi mọi thứ vướng bận của trần tục, con người mới có thể nhẹ nhõm để bay lên khỏi trời cao. Trở thành tấm bánh và được bẻ ra để trao ban cho con người, Ngài đã đi cho đến tận cùng con đường đã hiến thân, Ngài đã chỉ ra cho con người con đường đích thực của sự siêu thăng. Tiếp rước Ngài, ăn lấy tấm bánh là chính Ngài, con người đón nhận sự sống của Ngài để rồi chia sẻ và trao ban cho người khác. Chỉ bằng con đường hiến thân vô vị lợi, con người mới tìm lại được bản thân mà thôi.
Với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật, thế giới sâu xa này càng thu hẹp với con người, khoảng cách giữa các quốc gia ngày càng ngắn lại, đường lên không gian cũng được mở ra. Tuy nhiên, khoảng cách giữa người với người càng ngày càng lớn hơn. Cách biệt giữa giàu nghèo ngày càng vời vợi, con người đi vào không gian và cũng ngày càng xa cách nhau. Người nghèo Lazarô quằn quại bên cửa nhà hay ngay cả dưới gầm bàn ăn mà người giàu có cũng nhìn thấy. Chúa Giêsu đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người, Ngài ngồi đồng bàn với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài kết thân với những người tội lỗi, Ngài chịu đồng hóa với những người nghèo hèn và khẳng định rằng trong ngày sau hết, chính dựa trên cách cư xử với người nghèo hèn mà con người sẽ được xét xử.
Nguyện xin lương thực thần linh mà chúng ta đón nhận trong bí tích Thánh Thể bồi bổ chúng ta trong cuộc cử hành trần thế, để chúng ta luôn tiến bước trong hân, tin tưởng và quảng đại.
“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”.
Đức Giêsu nói với họ:
“Thật, tôi bảo thật các ông nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình Ai ăn thịt và uống máu tôi, Thì được sống muôn đời Và tôi sẽ cho người ấy sống lại Vào ngày sau hết. (Ga. 6, 52-54)
Những vấn nạn về tiệc Thánh Thể, về Mình và Máu Thánh Đức Kitô vẫn khó giải đáp. Chúng ta hiểu theo ngôn ngữ thực tế ư? “Ăn thịt Ta và uống máu Ta” là vây quanh một xác chết, là tiêu hóa những miếng thịt của một cơ thể loài người từ hai ngàn năm nay sao? Dứt khoát là không.
Ngược lại với lối giải thích trên, người ta hiểu theo nghĩa biểu tượng: “Ăn thịt Ta và uống máu Ta” chỉ là nhớ đến thịt và máu Đức Giêsu, tức là nhớ đến đời sống của Người, đến sinh hoạt của Người để gợi cảm hứng.
Đối với tôi, lời Đức Kitô rất rõ nét và súc tích. Tôi yêu lối giải thích cho bạn về lời Đức Kitô theo ngôn ngữ tế lễ hy sinh. Chúng ta được linh ứng theo lối giải thích của Kinh thánh để hiểu sự phân phát Mình thánh Đức Kitô.
Sự thông phần trong các lễ hy sinh, có sự phân phát của ăn cho các người tham dự. Của ăn đó là thịt con chiên hay con bê. Người ta lấy máu nó rảy trên dân chúng và dành một phần thiêu nó trên bàn thờ, một phần phân phát cho người dự lễ.
Phần dâng lên thì thuộc về Thiên Chúa với lời chúc tụng của dân chúng, điều đó có nghĩa là dân chúng nhận biết hồng ân Thiên Chúa và những việc lạ lùng Ngài làm cho dân.
Nhưng việc tế lễ đó không chỉ là do động lực của con người. Thiên Chúa tự mình nêu lên ý nghĩa cho những cử chỉ hy tế này. Hy tế trình bày quyền phép của Thiên Chúa trong hành động và khêu gợi cho con người đến tham dự.
Nguyên lý quan trọng nhất của tế lễ Thánh Thể không phải chúng ta làm cho Thiên Chúa xuống trong những dấu chỉ, nhưng chính Thiên Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được ở trong Ngài, cho chúng ta được liên kết với Ngài, được giao ước với Ngài.
Chúng ta vẫn còn được mời gọi tham dự vào tế lễ Thánh Thể này.
Triết gia Nietzsche của Đức đã cho rằng: Kitô giáo là vong thân. Con người càng tin tưởng nơi thần linh, con người càng đánh mất chính mình. Như vậy để cho con người đừng thẳng lên như một con người, cần phải loại trừ Thiên Chúa ra khỏi con người”.
Thật ra, con người không thể loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, vì làm như thế con người sẽ chuốc lấy chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy của cái chết, loại bỏ Thiên Chúa là tự hủy diệt. Con người không thể sống mà không cần Thiên Chúa, đó là bản chất Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người, đi ngược với bản chất ấy là đi vào cõi chết.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy, Chúa Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, chỉ trong Ngài con người mới thấy được Thiên Chúa. Ngài đã nói với các môn đệ: “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta”, “Ta và Cha Ta là một”. Bởi vì con người chỉ có thể sống nhờ Thiên Chúa, bởi vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một, cho nên để sống thật sự, con người phải sống bằng chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống”. Tuyên bố điều đó, Chúa Giêsu cũng loan báo chính cái chết của Ngài. Thật thế, vừa xác quyết mình từ trời xuống nghĩa là bởi Thiên Chúa mà ra và là chính Thiên Chúa, vừa tự xưng là lương thực cần thiết cho con người, Chúa Giêsu đã đọc lên chính bản án của Ngài. Người Do Thái đã giết Ngài vì Ngài tự xưng là Thiên Chúa nghĩa là Ngài đã lộng ngôn. Như vậy cái chết của Ngài trên thập giá là một mạc khải Thiên tính của Ngài.
Bí tích Thánh Thể, vì là tưởng niệm cái chết ấy, nên cũng là một bày tỏ và tuyên xưng Thiên tính của Chúa Giêsu. Chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban cho con người như lương thực để con người được sống. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu tuyên xưng rằng con người không thể sống mà không có Thiên Chúa. Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống và sống dồi dào. Thế nhưng lương thực trường sinh mà người tín hữu đón nhận trong Thánh Thể cũng là một cam kết. Tuyên xưng rằng con người chỉ có thể sống bằng sự sống của Thiên Chúa, người tín hữu cũng phải sống thế nào để cuộc sống của họ là một bằng chứng của sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong con người. Sức sống của Thiên Chúa mà con người cần đến sẽ được tỏ hiện qua niềm vui, tình huynh đệ, lòng quảng đại, sự tha thứ trong cuộc sống người tín hữu.
Tin Mừng hôm nay trình thuật lời tuyên bố của Đức Giêsu về một vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới Ngài và tới tất cả những ai tin Ngài, đó là “Bánh Hằng Sống”. Ngài không nói quanh co bóng gió, nhưng rõ ràng minh bạch: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Khi tuyên bố như thế, ngay sau đó, Ngài liền khẳng định: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
Như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu không chỉ ao ước, cũng như không chỉ có ý định trở thành lương thực cho con người, nhưng Ngài còn thực sự muốn và thực hiện điều đó. Vì thế, Ngài nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống"; “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (x. Ga 6, 54-56).
Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu cho thấy, lương thực Ngài ban tặng chính là lương thực Thần Linh, hoàn toàn khác biệt với những thứ lương thực trong đời thường, bởi vì Bánh mà Đức Giêsu trao ban chính là Ngài.
Khi trao ban cho con người chính bản thân mình, Đức Giêsu mong muốn được trở thành nguồn nuôi sống và nhất là thông truyền sự sống Thần Linh của Ngài cho nhân loại. Sự liên kết này được thể hiện qua việc ăn Thịt và uống Máu Chúa trong niềm tin. Chính vì thế, thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu Côrintô: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”.
Nói như thế, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến việc chuẩn bị và ý thức cách xứng đáng để tương xứng với hồng ân cao trọng mà vì yêu, nên Đức Giêsu sẵn sàng trao hiến cho con người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con hiểu được sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể và ý thức được giá trị của việc đón nhận Mình Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Amen.
Sứ điệp: Ai lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, thì ở đời này được kết hiệp với Chúa, được sự sống đời đời và ngày sau hết được sống lại. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy siêng năng rước Mình Thánh Chúa với một đức tin sống động.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con xin cảm tạ Chúa đã thiết lập bí tích Thánh Thể làm thần lương nuôi dưỡng sự sống thiêng liêng của con. Như sự sống thể xác cần được nuôi dưỡng, cần phải lớn lên theo năm tháng cuộc đời, thì sự sống làm con Thiên Chúa nơi con cũng cần được dưỡng nuôi và lớn lên mỗi ngày. Vâng, lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại để tái sinh con, để trao ban sự sống mới, sự sống thần linh. Chúa đã ban sự sống và còn lập bí tích Thánh Thể để tiếp tục dưỡng nuôi và làm sự sống mới được lớn mạnh. Biết bao người đã cảm nhận sự trống vắng, sự đói khát thiêng liêng, khi phải xa bàn tiệc Thánh Thể.
Xin cho con biết siêng năng tham dự thánh lễ, siêng năng rước lễ với một đức tin vững vàng, với thái độ trân trọng, với lòng khao khát mến yêu. Xin Chúa cũng thứ tha cho con những lần ơ hờ, những lần rước Chúa chỉ vì thói quen, nhất là thái độ bất kính xúc phạm khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa không xứng đáng. Xin cho con ngày càng liên kết mật thiết với Chúa nhờ việc rước lễ cách ý thức. Xin đừng để con gắn bó với thực tại thế gian chóng qua làm ngăn trở con nên một với Chúa.
Xin cho con hợp nhất với Chúa để nên của lễ hiến tế tôn vinh Thiên Chúa: Tôn vinh Thiên Chúa từng giây từng phút, trong mỗi công việc, trong từng suy nghĩ, và chứng tỏ bằng hoa bác ái yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
Daniel Connell, người đã giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan, là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi có một số bạn bè theo đạo Tin Lành chế nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Daniel đã trả lời như sau: “Sao các ông lại hỏi tôi? Lẽ ra các ông phải hỏi Đức Giêsu mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào Lời Chúa nói. Nếu Lời Chúa khẳng định rằng: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” mà thực sự không đúng, thì người nói là Đức Giêsu mới đáng trách chứ không phải là tôi! Nhưng tôi luôn tin rằng: Lời Chúa là sự thật, là Lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời”.
Câu trả lời của Daniel Connell cho ta thấy: Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, là sức sống của ta, là căn bản đức tin của ta, là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Do đó, ta cần phải có thái độ tôn trọng Lời Chúa, yêu mến và thực hành Lời Chúa, là điều kiện để ta được ơn cứu độ (Vietcatholic).
Suy niệm
Tin Mừng Ga 6,53-60, là phần kết của diễn từ Thánh Thể ở Capharnaum (x. Ga 6,22-58), sau khi Chúa Giêsu khẳng định chính Ngài là bánh ban sự sống được Giáo hội gọi là bí tích Thánh Thể. Chúa Kitô cho chúng ta biết ba hiệu quả của Thánh Thể: Thánh thể cho ta được sống muôn đời, Thánh Thể làm cho ta được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, Thánh Thể làm chúng ta sống nhờ sự sống của Chúa Giêsu, theo khuôn mẫu sự kết hiệp giữa Đức Giêsu với Chúa Cha.
Thánh Thể ban cho ta được sống muôn đời và được sống lại như Người phán: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Nếu như ngày xưa manna là của ăn được ban để nuôi thân xác, ngày nay hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho ta ơn thần hóa vĩnh cửu: “Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời” (Ga 6,48-50.58). Bằng những lời xác quyết như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách long trọng bánh hằng sống, bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy trong đức tin với lòng trong sạch, đơn sơ, ngay lành.
Hiệu quả thứ hai của bí tích Thánh Thể - bí tích Tình yêu, làm cho ta được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như Người khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người ấy” (Ga 6,56). Cách nói “ở lại trong” và “ở trong người ấy” (x. Ga 14,10-20; 15,4-5; 1Ga 3,24; 4,15-16) chỉ một sự trao đổi, kết hiệp vừa thân mật vừa hỗ tương. Chính dụ ngôn cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. Ga 15,1-17): Người rước Thánh Thể ở lại trong sự sung mãn của Chúa Kitô, đón nhận sự sống Người tuôn chảy vào trong họ như dòng nhựa sống nuôi thân nho đơm trái.
Hiệu quả thứ ba của Thánh Thể là hệ quả của hiệu quả thứ hai khi kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô thì được sống nhờ sự sống của Ngài, theo khuôn mẫu sự kết hiệp giữa Đức Giêsu với Chúa Cha: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Ta, và Ta sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Ta, cũng sẽ nhờ Ta mà được sự sống như vậy” (Ga 6,57).
Với ba hiệu quả trên, trong Thánh Thể, Chúa Kitô trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, Ngài trở nên như cơm bánh là sức sống của chúng ta. Cho nên, rước Thánh Thể là cách thức duy nhất giúp ta tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết linh hồn. Rước Thánh Thể là rước Chúa Kitô, sức sống của ta được tiếp sức sống của Chúa Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống này của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu. Như người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời tìm được chỗ nương thân… nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm.
Ý lực sống: “Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời” (Ga 6,58b).
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục bài giáo lý về Bí tích Thánh Thể: Đức Giêsu càng nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là thịt và máu Ngài: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”.
Tới đoạn Tin Mừng này, ở câu 55 Ngài tuyên bố thẳng thừng và dứt khoát: “Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống”.
Như vậy Đức Giêsu nói tới bí tích Thánh Thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người. Và hiệu quả của việc rước lễ: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”.
2. Hôm nay Đức Giêsu nhắc lại chủ đề mấy ngày hôm trước và đưa ra thêm yếu tố mới. Ngài nói: “Bánh Ta sẽ ban là thịt máu Ta... Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”, nghĩa là trong phần trước, Chúa chỉ nói Ngài là bánh bởi trời đích thật, trong phần này, Chúa nói rõ hơn bánh đó chính là thịt máu Ngài: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Nghe Chúa nói như vậy, phản ứng của người Do thái có vẻ mạnh hơn trước, họ xô xát nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ông ta mà cho chúng ta ăn được”? Họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói. Cho nên, dù dân chúng có phản đối, các môn đệ có bỏ đi, Chúa chẳng những không rút lời, nhưng lại giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn: “Quả thật, thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
3. Nếu chúng ta nói: thân xác phải ăn thì mới sống được, chúng ta phải nói thế nào về phần hồn? Dĩ nhiên, linh hồn cũng phải ăn thì mới sống được, nhưng của ăn nuôi sống linh hồn không phải là của ăn vật chất như cơm bánh hằng ngày ta ăn, mà là của ăn thiêng liêng. Nói khác đi, của ăn đó chính là Mình Máu Chúa Kitô.
Để bảo tồn sự sống, mọi sinh vật phải có thức ăn thích hợp với bản tính riêng. Linh hồn chúng ta đã được thần hóa, nên cũng cần có thức ăn thích hợp với nếp sống mới đó. Thức ăn này phải là do việc thông hiệp vào thịt máu Đức Giêsu ban cho: “Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Ai lãnh nhận mình máu Chúa Kitô, người ấy được kết hợp với Chúa, được tan biến trong Chúa để cả hai nên một, để người ấy có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
4. Trong khi rước lễ, chúng ta coi mình như đón nhận Đức Giêsu, Đức Giêsu ngự vào trong tôi. Chúng ta nói về sự hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Đức Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Đức Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và ta ở trong kẻ ấy. Chúng ta có thể nói như thánh Inhaxiô: “Đây là nơi Đức Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrillô thành Alexandria so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã diễn ta sự hiệp lễ lần đầu của ngài như là sự tan hòa với Chúa Kitô.
5. Thánh lễ trong đó có Thánh Thể là bữa tiệc mà Đức Giêsu đáp ứng cho các môn đệ Ngài. Tất cả chúng ta đều đến dự bữa tiệc ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đều được nuôi sống và được vinh dự, bởi vì ở đây mỗi người cho là một vinh dự. Ở đây mọi người trở nên bình đẳng, vì tất cả chúng ta là những người nghèo về mặt thiêng liêng nên tất cả đều được ăn uống no nê.
Ngoài ra, tất cả những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia sẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúa đã tự hiến mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và mời gọi chúng ta đến ăn, tại sao chúng ta không đến dự?
6. Truyện: Mình Thánh Chúa tôi đang cất giấu.
Thời cách mạng Pháp 1789, Giáo hội tại đây bị bách hại dữ dội. Cha xứ Breta cải trang đến dâng lễ tại một gia đình đạo đức trong xứ, là gia đình của cậu bé Benjamin. Cậu bé rất sung sướng, vì đây là lần đầu tiên cậu được giúp lễ. Đến đó, cậu theo cha xứ đi đưa Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt. Bỗng có tiếng xì xào, một toán lính đang tiến lại. Cha xứ vội trao Mình Thánh Chúa cho cậu bé rước, dầu cậu bé chưa được rước lễ vỡ lòng. Cha cũng trao cho cậu giữ luôn cả mặt nhật, rồi cả hai chia tay nhau, mỗi người chạy một ngã. Vì còn nhỏ, chạy chậm, Benjamin bị toán lính bắt kịp. Một lát sau, cha xứ cũng bị bắt. Chúng tra hỏi cha: “Mày cất giấu Mình Thánh Chúa ở đâu”? Cha một mực im tiếng. Tức giận, chúng bắn cha chết tại chỗ. Lục soát một hồi cũng không thấy Mình Thánh Chúa ở đâu, chúng liền quay sang Benjamin: “Chắc chắn mày đang giữ Mình Thánh Chúa, đưa ngay kẻo thiệt mạng”. Benjamin vừa can đảm vừa ngây thơ trả lời: “Trong bụng tôi, các ông mổ ra mà lấy”. Điên tiết, bọn lính cũng giết Benjamin tại chỗ, bên một cây sồi già.
Mấy năm sau, Giáo hội Pháp được bình yên trở lại. Một cơn bão làm đổ cây sồi già, dưới gốc cây bị trốc rễ lên, người ta thấy hai xác, trên xác cậu bé, mặt nhật còn đó, sáng ngời.
Tiếp tục bài giáo lý về Bí tích Thánh Thể: Chúa Giêsu càng nói rõ thêm về Bánh Ban Sự Sống, đó là Thịt và Máu Ngài: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”.
Ở cuối đoạn hôm qua, Chúa Giêsu đã nói rõ: “Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta”. (câu 51).
Câu đó đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận vì trong họ có người hiểu theo nghiã đen (ăn thịt sống của Chúa Giêsu) có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Chúa Giêsu, Ngài muốn ta hiểu theo nghĩa nào?
Thưa theo nghĩa đen. Bởi đó Chúa Giêsu dùng những động từ rất mạnh và rất cụ thể. Động từ “ăn” nguyên gốc là trôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thứ nào đó. và động từ trôgô này được lập đi lập lại nhiều lần (các câu 53-54). Tới câu 55 Ngài tuyên bố dứt khoát “thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Như thế là Chúa Giêsu nói tới Bí tích Thánh Thể, trong đó Ngài ban chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
Hiệu quả của việc rước lễ: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Đến đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nói rõ ràng về Bí tích Thánh Thể và khuyên tín hữu cần phải lãnh nhận Thịt và Mình Máu Ngài, nhờ đó Ngài ở trong họ, họ ở trong Ngài và được sống đời đời.
Thánh lễ quả là một dịp rất quý giá để chúng ta ăn uống Chúa, nhờ đó được ở trong Ngài và chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Thế nhưng các lễ nghi Thánh lễ vẫn cứ lập lại hầu như ngày này cũng như ngày khác. Điều đó khiến chúng ta quá quen đến nỗi không còn chú ý. Việc rước lễ cũng thế, có nhiều ngày nó chỉ là hành động theo thói quen không chút ý thức.
Thỉnh thoảng tôi cần phải làm sống lại ý thức khi tham dự Thánh lễ và Rước lễ.
2. “Xin Chúa tha thứ những lần chúng ta đã thờ ơ lãnh đạm hay không chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng để đón nhận Chúa” (Mỗi ngày một tin vui).
3. Khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên Xô xin gia nhập chi nhánh của Dòng bà, bà đã xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Máu Chúa mà họ rước mỗi ngày: “Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
4. “Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”.
Hằng đêm mỗi khi thành phố lên đèn, mọi người hối hả trở về từ công sở, trường học…
Những bước chân hối hả đi qua. đi lại…
Bên vệ được, một bà lão khô quắt, nằm cong queo như cố thu mình trốn cái không khí se lạnh. Bà kiệt sức vì đói. Những bước chân vẫn đi qua, đi lại…
Và rồi đôi chân con bước tới ngập ngừng… rồi lại bước đi.
Trên tivi người ta nói đến lũ lụt. Cảm động, con dự định… rồi lại thôi.
Con là thế! từ thuở lọt lòng mẹ đã biết nắm tay lại.
Lạy Chúa, trên Thập giá Ngài đã giang rộng đôi tay và khi Phục Sinh, Ngài đẽ trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại được sống. Xin cho con biết cho đi mãi mãi không chỉ vật chất, nhưng cho cả bản thân. (Epphata)
Hôm qua, Chúa Giêsu đã nói rõ: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi đây” (Ga 6,51).
1. Hôm nay Chúa Giêsu nói thêm về bánh ban sự sống, là thịt và máu Ngài: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54).
Câu nói này đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận là vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Chúa Giêsu) có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Chúa Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào?
Thưa theo nghĩa đen. Chúa Giêsu đã dùng những động từ rất mạnh và rất cụ thể là trôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thứ nào đó. Và động từ trôgô này được lập đi lập lại nhiều lần (các câu 53-54). Rồi Ngài tuyên bố dứt khoát: “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55).
Bí tích Thánh Thể, là bí tích Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
Vâng, việc Chúa Giêsu làm thật khó hiểu nhưng Lời Chúa quả là rất rõ ràng.
Từ xưa đến giờ, ngoài những người ở bộ lạc bán khai bên Phi châu trước kia là những người ăn thịt người, còn đối với những nơi khác thì việc ăn thịt người là một việc vô cùng họa hiếm.
Sử sách có ghi lại một ít trường hợp ăn thịt người. Thí dụ xưa ở bên Trung hoa vào đời Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, gặp lúc lương thực không có, công tử lại không ăn được rau cỏ dại trong rừng, thấy vậy Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Gần đây bên Pháp, dân Paris đã phải rởn tóc gáy vì mẫu tin: một sinh viên gốc Nhật giết một cô gái, chặt ra từng khúc, bỏ vào tủ lạnh và định ăn dần cho đến hết. Khi bị bắt, anh ta khai: cô gái ấy là người yêu của anh. Anh yêu cô đến độ muốn biến cô thành máu thịt của chính mình nên đã giết đi và ăn thịt. Chỉ tiếc rằng, anh mới ăn có vài ngày đã bị phát giác.
Khi lập phép Bí tích Thánh Thể, Chúa đã muốn hiến chính thịt máu ngài làm của ăn của uống nuôi linh hồn chúng ta hằng ngày.
Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được một công việc kỳ diệu như thế.
Chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa và xin Chúa cho chúng ta được hết lòng yêu mến Bí Tích Thánh Thể và năng chạy đến với Chúa Giêsu để được ngài bổ dưỡng.
Người ta kể lại rằng, khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên Xô, Liên Xô có ngỏ ý xin mẹ cho lập chi nhánh của Dòng mẹ ở đó. Mẹ đã đồng ý nhưng với một điều kiện: xin cho có một Linh mục dâng Thánh lễ cho các nữ tu mỗi ngày. Mẹ giải thích: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Máu Chúa mà họ rước mỗi ngày.
2. “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55).
Chúa ban Mình Máu Thánh của Người cho chúng ta...qua đó Chúa cũng muốn dạy chúng ta bài học biết chia sẻ cho nhau như Chúa.
Vào thời gian đạo Công giáo bị cấm đoán, một thương gia Công giáo người Đức đã đi lên miền Bắc cực. Vì công việc làm ăn, ông phải lưu lại đó suốt mùa Giáng Sinh.
Biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ vào đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh chiếc bàn nhỏ. Đúng nửa đêm họ cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc bình an, lời nguyện và bài Kinh Thánh, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp có một khăn thánh đã úa vàng theo thời gian.
Vừa nâng chiếc khăn lên, ông già vừa run run cất giọng nói:
- Cách đây 50 năm, thánh lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất chúng ta đang sống đã được dâng trên khăn thánh này. Lúc ấy tôi là một thanh niên giúp lễ. Đây là vật duy nhất còn lại. Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên khăn này.
Sau khi nghe những lời ấy, mọi người quì gối và ông bố dâng lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gửi các linh mục đến để chúng con được phúc mừng lễ Giáng Sinh, để chúng con lại được dự phần vào Mình và Máu Chúa.
Người thương gia Đức bồi hồi cảm động. Ông khao khát lãnh nhận Thánh Thể, một sự khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến nhà thờ dự lễ hàng ngày.
Có bao giờ chúng ta cảm thấy xa bàn tiệc thánh như những người trong câu chuyện trên?
Được tham dự thánh lễ, được đón nhận Mình Máu thường xuyên, có lẽ ít khi chúng ta có được lòng khao khát Chúa mạnh như thế. Hơn nữa, vì quá quen, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy nhàm chán, hoặc làm cho qua lần chiếu lệ.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được lòng khao khát đến với Chúa mỗi ngày.
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các ngươi có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các ngươi rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho". Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa".
Chương 6 của Tin Mừng Gioan có một kết thúc không vui lắm. Bài Tin Mừng hôm nay (cc. 60-69) đi theo ngay sau các câu 35-50, vì các câu 51-59 có lẽ được viết muộn hơn và thêm vào sau này. Đức Giêsu coi mình là bánh thật từ trời xuống (cc. 33. 50). Ai tin vào Ngài sẽ được sống muôn đời (cc 40. 47). Những lời giảng của Đức Giêsu đã gây vấp phạm, khó nghe, gai chướng, khiến nhiều môn đệ xầm xì, không tin, rút lui và không đi theo Ngài nữa. Chỉ có nhóm Mười Hai ở lại, nhưng cũng không trọn vẹn. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn gây sốc cho con người mọi thời. Lời Chúa vẫn luôn là điều khó hiểu, khó chịu và khó sống. Những Kitô hữu đã tin theo Đức Giêsu trong nhiều năm vẫn bị đặt mình trước lời Chúa và được mời gọi chọn lại. Tin vào Đức Giêsu là một chọn lựa lớn và căn bản. Chọn lựa này cần được làm mới lại mỗi ngày xuyên qua những chọn lựa nhỏ. Có những Kitô hữu mất đức tin vì đã không dám sống niềm tin của mình. Có những người rút lui và bỏ đi, dù tên vẫn còn trong sổ Rửa tội. Có những người xầm xì vì những đòi hỏi gai góc của Lời Chúa. “Chẳng lẽ anh em cũng muốn bỏ đi sao?” Đức Giêsu buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai như thế. Simon đại diện anh em đã xin được tiếp tục ở với Thầy, đi với Thầy. “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?” Lời của Thầy tuy khó nghe, nhưng con tin đó là lời ban sự sống đời đời (c. 68). Lời của Thầy tuy chướng tai, nhưng lại là thần khí và là sự sống (c. 63). Simon tin Thầy Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 69). Đấng Thánh là Đấng từ trời xuống và cũng là Đấng sẽ lên trời nơi đã ở trước kia (c. 62). Có thể điều làm con người hôm nay bỏ đạo, bỏ Chúa Giêsu, lại không phải là những lời khó nghe của Ngài, mà là đời sống của các Kitô hữu, những người không dám sống các lời ấy. Nhiều người thấy chướng khi nhìn vào cuộc sống của họ. Xin Chúa Cha ban cho chúng ta ơn đến với Giêsu, và kiên trì ở lại với Ngài. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng trước mọi biến cố của cuộc sống, khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm, hay gặp sự bất trung, bất tín nơi những người con tin tưởng cậy dựa. Xin giúp con gạt mình sang một bên để nghĩ đến hạnh phúc người khác, giấu đi những nỗi phiền muộn của mình để tránh cho người khác phải đau khổ. Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời, để đau khổ làm con thêm mềm mại, chứ không cứng cỏi hay cay đắng, làm con nhẫn nại chứ không bực bội, làm con rộng lòng tha thứ, chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ. Ước gì không ai sút kém đi vì chịu ảnh hưởng của con, không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật, lòng cao thượng, tử tế, chỉ vì đã là bạn đồng hành của con trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối, xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương. Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên, tràn trề sức mạnh để làm việc thiện, và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen. (dịch theo Learning Christ) ---------------------------------
Khi Chúa nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Người ta lẩm bẩm kêu trách Chúa. Vì họ hiểu theo xác thịt. Theo xác thịt, làm sao có thể ăn được thịt Chúa. Chúa cho biết: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời Chúa là thần khí. Nên phải “ăn” bằng tin tưởng. Nhập tâm. Tiêu hoá. Và biến thành sức sống.
Phê-rô được Thần Khí linh hứng nên đã tin và tuyên xưng: “Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Sau ngày Phục sinh, thánh Phê-rô đã hiểu rõ chân lý ấy. Và đã cảm nghiệm sâu xa. Phê-rô để Chúa chiếm đoạt. Ông hoàn toàn tin nhận. Ông hoàn toàn từ bỏ mình. Ông sống nhờ Chúa. Sự sống của Chúa mãnh liệt trong ông. Ông không có gì. Nhưng Chúa có tất cả. Vì thế, khi gặp người què từ thuở mới sinh ông nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi”. Lập tức, “anh đứng phắt dậy, đi lại được” (Cv 3,6.8).
Sự sống của Chúa mãnh liệt trong ông. Nên ông làm cho người khác được sống lại. Đến thăm “Ê-nê liệt giường đã tám năm, vì anh bị tê liệt. Ông Phê-rô nói với anh ta: “Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh khỏi. Anh hãy đứng dậy và tự dọn giường lấy”. Lập tức anh đứng dậy”.
Đến thăm bà Ta-li-tha Linh Dương đã chết, Phê-rô “quỳ xuống cầu nguyện.. và ra lệnh: “Bà Ta-li-tha, hãy đứng dậy”. Bà ấy mở mắt ra… và ngồi dậy”.
Thật lạ lùng sức mạnh của Lời Chúa. Quả thật Lời Chúa là thần khí và sự sống. Chúa có lời ban sự sống đời đời. Phê-rô đã tin. Đã lắng nghe. Đã nhập tâm. Đã tiêu hoá. Chúa trở thành sự sống trong ông. Ông lại dùng mà làm cho người khác được sống.
Ta hãy biết noi gương Phê-rô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Trong những ngày vừa qua, nhiều người Mỹ đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc thảm sát tại trường trung học Litaton, bang Colorado vào năm 1999. Cuộc thảm sát không những làm cho người Mỹ mà cả thế giới đều bàng hoàng, sửng sốt. Bàng hoàng, sửng sốt bởi vì đây không phải là cuộc thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà nằm trong một dây chuyền bạo động diễn ra hầu như theo một chu kỳ khó hiểu. Trong những năm gần đây, cứ vài ba năm lại xảy ra một vụ bắn giết như thế. Nạn bắn giết như thế cũng đã lan tràn sang Úc và một số nước khác.
Trong thư mục vụ công bố vào tháng 11/1994, các Ðức Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động điều mà các ngài gọi là một nền văn hóa bạo động, được nuôi dưỡng bằng truyền thông, âm nhạc và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác. Nhưng bạo động từ đâu mà đến, bởi đâu mà con người có thể trở thành bạo động để hãm hại và loại trừ người khác. Hai cậu học sinh tại trường trung học Litaton đã có thể tính toán chi li cuộc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc, có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với một Milosevich và vô số người Serbi đứng đằng sau ông với chủ trương tàn sát và diệt chủng đối với người gốc Albani tại Kosovo.
Quả thật, chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm của sự dữ. Bạo động, sự dữ, tội ác vốn là một bí ẩn của loài người. Mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết. Ðồng thời suy nghĩ về cuộc song đấu giữa thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Mỗi một giây phút của cuộc sống là một chọn lựa giữa thiện và ác, giữa ân sủng và tội lỗi, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động, giữa Chúa Kitô và ác thần. Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về chọn lựa ấy. Sự chọn lựa ấy lại được xây dựng trên chính sự chọn lựa của Chúa Giêsu.
Với quyền năng của một Thiên Chúa, Ngài đã nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống một đám đông trên năm ngàn người. Cơn cám dỗ đầu tiên trong sa mạc hẳn đã trở lại với Ngài, chỉ cần vung cây đũa thần, Ngài đã có thể giải quyết nhiều vấn đề cơ bản của xã hội. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến để mang lại cơm bánh bằng một giải pháp dễ dãi ấy. Ngài đến trước tiên là để cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài đến để mang lại sự sống trường sinh cho con người. Ngài đến để chỉ cho con người biết rằng mục đích của cuộc sống này không phải là cơm bánh hay của cải chóng qua, mà là cuộc sống vĩnh cửu. Ngài đến để nhắc nhở cho con người rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Khước từ giải pháp dễ dãi của loài người, Chúa Giêsu đã chọn lựa thập giá và đã đi cho đến cùng sự lựa chọn của Ngài. Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: cái chết của Ngài trên thập giá đã bày tỏ được ý nghĩa và cứu cánh của cuộc sống con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi nó thuộc trọn về Thiên Chúa và sống theo những giá trị vĩnh cửu. Ðám đông đã bỏ đi và nhiều môn đệ khác cũng rút lui, chỉ còn lại nhóm Mười Hai, mà người đại diện là thánh Phêrô, bày tỏ sự lựa chọn dứt khoát: "Bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai. Chỉ có Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời". Sự lựa chọn ấy cũng bao hàm cái chết mà tất cả các tông đồ đều trải qua. Chọn lựa theo Chúa là chọn lựa thập giá của Ngài, mỗi một giây phút là một chọn lựa.
Nguyện xin Chúa gia tăng niềm tin và ban sức mạnh để chúng ta mãi mãi được thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai, vì Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời".
Khởi đầu cho hành trinh đức tin là sự hiểu biết, nhưng đức tin phải vượt xa sự hiểu biết. Chỉ thuần túy là hiểu biết thì không thể gọi là tin và nhiều khi đức tin còn nghịch lại với hiểu biết. Đức tin đòi con người vượt trên mọi lý luận để xả thân chấp nhận như một liều lĩnh.
Có một người vô thần, bị rơi từ đỉnh núi cao xuống vực thẳm. May thay là giữa chừng có một lùm cây cản anh lại. Hai tay giữ chặt lùm cây, nhìn lên chẳng có ai, nhìn xuống là vực thẳm, anh mới cất tiếng kêu cứu: “Nếu quả thật có Thiên Chúa quyền năng vô biên, xin Ngài hãy ra tay cứu tôi, tôi xin tin”. Một giọng nói đáp lại: “Nếu anh thật lòng tin, anh hãy buông tay ra”. Người vô thần thầm nghĩ: Làm sao mà buông được, trèo lên chẳng được, buông tay thì rơi xuống vực thẳm, làm sao giữ được mạng sống, và anh hỏi lại: “Thật sự có Ngài ở đó không?” Nhưng không một lời đáp trả, chỉ còn có tiếng của anh vang vọng giữa núi rừng, cơ hội cho anh có đức tin đã qua.
“Lời gì mà sống sượng thế”, hoặc “Có Ngài ở đó không”, đấy là những phản ứng trước lời mời gọi tin. Nếu chỉ thuần túy lỳ luận và đòi hỏi bằng chứng, thì chẳng bao giờ gặp được niềm tin. Quá đòi hỏi một hiểu biết cụ thể, con người khó chấp nhận Thịt Máu Chúa Giêsu làm lương thực nuôi dưỡng thì họ sẽ thế nào khi thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước. Chưa cảm nhận được những điều cụ thể như thức ăn của uống, thì làm sao có thể cảm nhận được vinh quang của Ngài. Chưa chấp nhận được điều thuộc tinh thần mang hình thức vật chất, thì làm sao nói đến những điều thuần túy tinh thần.
Chính vì không tin, nhiều người đã bỏ không theo Chúa Giêsu nữa, chỉ còn nhóm 12 vẫn tin và theo Chúa, mặc dù cho đến lúc đó họ vẫn không hiểu lời giảng dạy của Ngài. Nói thế không phải là các ông tin và theo một cách mù quáng, nhưng là phó thác vì xác tín rằng chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống.
Trước những biến cố cuộc sống xem ra đòi hỏi một sự đáp trả bằng niềm tin, ước gì chúng ta cũng biết đáp trả không phải bằng sự bỏ đi, nhưng bằng lòng quảng đại trung thành vì biết rằng không gì ở ngoài thánh ý Thiên Chúa.
Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao?” Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga. 6, 67-69)
Trong Tin mừng theo thánh Gio-an, sau một phép lạ hay một dấu chỉ là tiếp đến một bài giảng giải thích, thính giả hay khán giả tiếp thu với thái độ lựa chọn trước đức tin, chấp nhận hay từ chối lời chứng của Đức Kitô. Lúc đầu thường bày tỏ thái độ hăng hái theo Đức Giêsu, sau đó lại tỏ ra bất mãn về sự đòi hỏi phải tin vào Đức Giêsu.
Phúc cho ai biết đi theo Người vì họ không thể chống cự lại mạc khải của Đức Kitô: Phúc cho họ vì họ không biết thoái thác! Phúc cho họ biết chọn lựa rõ ràng và không bị cuốn theo lười biếng!
Phúc hơn nữa cho ai sau khi nghe một loạt những lời của Đức Giêsu mà không còn bỏ Người ra đi, vì họ biết chỉ có một lý do độc nhất là sống theo Đức Giêsu và đặt hết tin tưởng và hy vọng của mình vào Người.
Bài giảng về bánh hằng sống được đọc lại cho chúng ta nghe trong tuần đã dẫn đưa các môn đệ phải biết chọn lựa theo Đức Giêsu. Có phải sự chọn lựa này đặt trên nền tảng lý luận tỉ mỉ kỹ lưỡng không? Không cần thiết đâu, chỉ cần ưng thuận theo Đức Kitô với lòng cảm mến hơn là lý trí. Chúng ta nhận biết một người nào đó, chúng ta liên đới với họ, và không muốn rời họ. Những người lính được sai đi bắt Người đã nói: “Không có ai ăn nói như người này bao giờ”.
Trái lại, nhiều người đã bị cám dỗ bỏ trốn theo lý trí, quyền lợi, luật lệ khi phải quyết định.
Bài giảng của Đức Giêsu cùng một mạch văn phản ảnh toàn thể tinh thần Tin mừng: Một tinh thần thuần túy điên dại trước mắt thế gian, nhưng lại là sự khôn ngoan trước mắt Thiên Chúa.
Những người còn lại theo Đức Giêsu đã đặt tin tưởng hoàn toàn vào Người.
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Vụ thảm sát ở tiểu bang Colorado Hoa Kỳ không những làm cho người Mỹ mà còn cho cả thế giới bàng hoàng sửng sốt. Bàng hoàng sửng sốt vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà hay diễn ra theo một chu kỳ bạo động. Ðó là một điều thật khó hiểu, vì trong những năm gần đây thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm sát như thế.
Trong lá thư mục vụ công bố vào năm 1994, các Ðức Giám Mục đã lên tiếng báo động được nuôi dưỡng bằng truyền thông âm nhạc, và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác được thực hiện. Nhưng bạo động từ đâu mà đến? Bởi đâu con người có thể trở thành bạo động thảm hại và loại trừ người khác?
Hai cậu học sinh trung học tại Colorado có thể tính toán chi li về việc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc; có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với vô số những người Serbia đang đứng đàng sau để chủ trương tàn sát những người gốc Albani tại Kosovo. Quả thật chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm của sự dữ, vì bạo động là sự dữ.
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Ðức Kitô trên tội lỗi và sự chết, đồng thời chúng ta cũng suy nghĩ về cuộc song đấu giữa hòa bình và bạo động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, mỗi phút giây trong cuộc sống là một cuộc chọn lựa giữa lành và dữ, giữa điều thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động.
Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta sự chọn lựa, và sự chọn lựa ấy được xây dựng trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa, Ngài đã dâng bánh và cá để nuôi sống một đám đông hơn 5,000 người. Cơn cám dỗ đầu tiên rong sa mạc đã trở lại với Ngài, Ngài chỉ cần vung cây đũa thần là có thể giải quyết được mọi khó khăn của xã hội, nhưng Chúa Giêsu không mang lại cơm bánh bằng một giải pháp dễ dàng ấy.
Do đó, điều trước tiên là Ngài đến để cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài đến để mang lại sự sống trường sinh cho con người. Ngài đến để chỉ cho con người biết rằng mục đích của cuộc sống không phải là cơm bánh hay của cải chóng qua mà là cuộc sống vĩnh cửu. Ngài đến để nhắc nhở cho con người biết rằng: "Con người không chỉ sống bằng cơm bánh nhưng bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4).
Khước từ giải pháp dễ dãi của loài người, Chúa Giêsu đã chọn lựa Thập Giá và đi đến cùng sự chọn lựa của Ngài, Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, vì chính cái chết của Ngài trên Thập Giá bày tỏ được ý nghĩa và cứu cánh của cuộc sống con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người cốt là để thuộc trọn về Thiên Chúa là sống theo sự sống vĩnh cửu ấy.
Khi Chúa Giêsu đã nói đến sự trọn lành của Ngài, đám đông đã bỏ đi và nhiều môn đệ khác cũng rút lui (Ga 6,66), chỉ còn lại nhóm mười hai mà người đại diện là thánh Phêrô; thánh nhân đã bày tỏ sự chọn lựa một cách dứt khoát: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời" (Ga 6,67-68). Sự chọn lựa ấy cũng mang lại cái chết mà các Tông Ðồ đều đã trải qua. Theo Chúa là chọn lựa Thập Giá của Ngài, các thánh Tử Ðạo Việt Nam đã hiểu rõ giá trị ấy, nên các ngài đã chọn lựa cái chết chứ không bỏ Thập Giá Chúa Kitô.
Mỗi một giây phút là một chọn lựa, nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin và gia tăng sức mạnh để chúng ta mãi mãi được thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Bỏ Ngài chúng con biết theo ai?" Amen.
Lịch sử Giáo Hội vào những thế kỷ đầu, người Công Giáo gặp muôn vàn khó khăn do hoàng đế Rôma gây nên. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cũng không nằm ngoài nỗi khó khăn đó!
Tuy nhiên, sự cương trực, thẳng thắn và dứt khoát đã làm cho các bậc anh hùng, tổ tiên của chúng ta trung thành với Chúa cách trọn vẹn.
Nói về sự can trường của các vị tử đạo, người ta có kể đến câu chuyện của Giáo phụ Policarpo: khi đám lính đã bắt được ngài, họ điệu ngài ra tòa xét xử và buộc ngài phải từ bỏ Đức Giêsu, chối bỏ niềm tin của ngài vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, cụ già gần 90 tuổi đã tuyên bố cách dứt khoát: “86 năm tôi theo Đức Giêsu, Ngài không bao giờ phụ bạc tôi, làm sao các ông lại bảo tôi phản bội Ngài...?”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thái độ dứt khoát là điều kiện cần để sống đời sống chứng nhân. Đây cũng là điều mà Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ và tất cả những ai muốn bước theo Ngài. Vì thế, khi có một số môn đệ đã bỏ Đức Giêsu vì những lời tuyên bố của Ngài về Bánh Hằng Sống, và cụ thể chính là sự trao ban Thịt và Máu của Ngài để cho những ai tin và ăn thì được sống đời đời.
Thấy có người bỏ cuộc, Đức Giêsu đã lên tiếng hỏi trực tiếp các Tông đồ là những người mà Ngài sẽ trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, Ngài hỏi: “Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô đại diện cho anh em thưa với Thầy: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai?".
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: muốn theo và làm chứng cho Ngài thì phải có thái độ dứt khoát. Không được lập lờ...!
Như vậy qua câu trả lời của thánh Phêrô, chúng ta thấy một cuộc tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Thầy của mình. Tin Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Vì thế, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành và xác tín thật mạnh mẽ niềm tin của mình nơi Chúa. Chỉ có Chúa mới là niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực, và cũng chỉ có mình Ngài mới ban cho chúng ta sự sống đời đời. Ngoài Ngài ra, chúng ta không có chúa nào khác có thể ban cho chúng ta những thứ đó.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phêrô: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ngày càng gắn bó mật thiết với Chúa như các Tông đồ khi xưa, để dù có gặp phải những khó khăn, chúng con vẫn dứt khoát nói không với những gì trái ngược với đức tin và sẵn sàng sống chết cho niềm xác tín của mình vào Chúa để xứng đáng được Chúa ân thưởng trong cuộc sống mai hậu. Amen.
Sứ điệp: Ai theo Chúa để tìm lợi lộc vật chất, người đó sẽ thất vọng. Ở nơi Chúa, con người tìm được Lời ban sự sống đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, những người Do thái theo Chúa khi có bánh phần xác, nhưng khi Chúa hứa ban Bánh Trường Sinh nuôi sống phần hồn thì họ đã bỏ Chúa. Lòng người chúng con vốn vậy: nhạy cảm trước cái đói thể xác bao nhiêu thì thường lại hững hờ trước những thiếu thốn về tinh thần bấy nhiêu. Con hiểu rằng ai không nâng tầm nhìn lên khỏi trần thế này để thấy giá trị của trời cao, người đó chẳng đủ sức làm môn đệ Chúa. Chúa đến trần gian đâu phải chỉ là để giải quyết vấn đề cơm bánh. Chúa đến để cứu chúng con khỏi tội lỗi vốn là nguyên nhân của bao khốn khổ trên cõi đời này. Chúa có ban bánh nuôi phần xác cũng chỉ là để mời gọi con lãnh nhận bánh thiêng liêng dưỡng nuôi linh hồn.
Lạy Chúa, con xét lại chính bản thân con, ít khi con biết hướng lòng nghĩ tới phần hồn. Hiếm lắm những lúc con xin cho được sống đẹp lòng Chúa, cũng ít khi cầu xin ơn chừa một khuyết điểm. Thường con hay trình bày với Chúa về khó khăn trong chuyện làm ăn, chuyện công danh sự nghiệp, chuyện đau ốm bệnh tật... và khi xin chưa được Chúa nhận lời, con thường thất vọng nản lòng, chẳng muốn tin vào Chúa nữa. Chúa đã ngán ngẩm khi nhìn đám dân Do thái đợi Chúa cho thêm bánh phần xác, rồi lục đục bỏ Chúa khi không được toại ý. Có lẽ hôm nay, con cũng đang làm Chúa chán ngán như vậy.
Xin Chúa nâng tâm hồn con lên tới Chúa để con cảm nhận được những giá trị thiêng liêng. Xin cho con biết tìm Nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác xin phó thác cho Thiên Chúa là Cha của con. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống”.
M. Toliver, một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa, có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành.
Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện.
Khi qua cơn nguy biến, đức bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói: “Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải không ba?”.
Suy niệm
Sau diễn từ mạc khải về Thánh Thể ở Capharnaum, một số lớn các môn đệ thiếu đức tin và theo cảm xúc hoặc hời hợt, lý trí của con người trước mầu nhiệm Thánh Thể, nên không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu. Trong lúc Ngài luôn nhắc các môn đệ là Ngài không đến, không nói như một người thường, nhưng Ngài đến từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Trong bài diễn từ về bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật Con Người - Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, trên sự hiểu và nhìn nhận bản thân Ngài. Nhưng đám đông dân chúng, trong số đó có các môn đệ đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Ngài và đối với lời Ngài. Vì thế nhiều môn đệ “rút lui, không còn ở với Người nữa” (Ga 6,66).
Tuy nhiên, nhóm Mười hai chọn lựa ở lại (x. Ga 6,67-69). Các môn đệ này cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi mầu nhiệm của mạc khải Thánh Thể và những lời đòi hỏi của Ngài. Trước những thử thách cao độ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm khi tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Bởi vì các ông không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, cho nên khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu. Cũng bởi vì Người mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó. Và vì Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa...
Theo bước chân của Phêrô và các môn đệ chúng ta xác tín: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chọn và sống theo Chúa Kitô là cùng Ngài đi trong ban ngày của bình yên cuộc sống hay giữa đêm tối của phong ba thử thách như Phêrô và các môn đệ. Sống với niềm tin vào Ngài là khước từ cách hiểu biết, giác quan và lý luận thông thường, hời hợt bên ngoài, nhưng là tin mà không thấy (Ga 20,29) là vững bước với sự chọn lựa và xác tín theo Thầy.
Ý lực sống: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91,2).
1. Kết quả của bài giáo lý về Thánh Thể: chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau trước những lời giảng của Đức Giêsu. Một bên, nhiều môn đệ rút lui, không theo Ngài nữa vì thấy chướng tai quá, không thể chấp nhận nổi. Một bên, Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai tuyên xưng và tin nhận rằng chỉ có Chúa mới là lý tưởng, chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống, và họ đi theo Ngài.
2. Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh Hằng Sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ liền xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng Sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm không thể chấp nhận được. Thậm chí, cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
3. Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay chuyển tải cho chúng ta, là giữa sự thất vọng bỏ đi của nhiều người, thì vẫn còn đó Nhóm Mười Hai với lời tuyên xưng của tông đồ trưởng Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Có lẽ ở đây chúng ta chưa dám chắc Phêrô và các Tông đồ đã hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể là lấy thịt Chúa cho nhân loại ăn, nhưng ít nhất Phêrô tin vào uy tín của Thầy không thể nói điều sai lạc.
Lời tuyên xưng còn khẳng định rõ hơn vế đức tin là một ân ban mà không phải ai cũng dễ dàng có được. Lời tuyên xưng của Phêrô và sự trung thành của các Tông đồ là điểm sáng về niềm tin và lòng trung tín cho chúng ta, nhất là ngày hôm nay không thiếu những người đã lìa bỏ Giáo hội. Nếu không có ơn đức tin thì sẽ không thấy sự khác biệt giữa bánh chưa truyền phépvà bánh đã được truyền phép, không thể cảm nhận được sự hiện diện thực sự của Đức Giêsu trong phép Thánh Thể.
4. Phần chúng ta, chúng ta có thái độ nào trước mạc khải của Đức Giêsu về Bí tích Thánh Thể? Lời Đức Giêsu hỏi các môn đệ ngày xưa cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta hôm nay: “Chúng con có muốn bỏ đi không”? Tin nhận và sống giáo huấn yêu thương phục vụ của Chúa đã là một điều khó: tin nhận và sống Bí tích Thánh Thể lại càng khó hơn. Tuy nhiên, chúng ta không làm việc đó một mình, bởi vì tin và sống Bí tích Thánh Thể đúng như ý Chúa muốn là một hồng ân của Chúa Cha: “Không ai có thể đến được với Ta, nếu không được Chúa Cha ban cho”.
5. Về vấn đề lựa chọn có theo Chúa hay không thì chính chúng ta phải đích thân lựa chọn và phải sống trung thành với sự lựa chọn đó: Đứng lại với Chúa, không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.
Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta tin Ngài là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban sự sống đời đời nữa. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Sự sống đời đời không phải chỉ là sự sống đời sau, nhưng đến cùng Chúa, tin vào Chúa và ăn thịt máu Chúa là chúng ta đã được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vi mỗi lần rước Chúa là chúng ta rước lấy mầm sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng rước Chúa và rước Chúa thật sốt sắng.
6. Truyện: Quyết theo chân Chúa.
Odette, một cô gái đẹp sinh ra trong một gia đình quí tộc nước Bỉ, năm 17 tuổi cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ đến bắt cô trở về. Từ lâu, ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con gái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã âm thầm chuẩn bị hôn lễ, các thiệp mời được kín đáo gửi đi và sự chuẩn bị đều giữ bí mật cho đến giờ chót.
Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vén màn nhìn qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đài. Hỏi ra, cô mới biết ngưới ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Xong, họ đưa cô xuống nhà nguyện tư của lâu đài. Giám mục của vùng và linh mục tuyên úy lâu đài đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có ưng nhận Simon làm chồng theo luật Giáo hội không? Cô dõng dạc tuyên bố:
- Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng bởi vì tình yêu của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào có thể tách rời con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng. Và kìa, Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không còn ai cấm con đi tu nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng mới 23 tuổi.
Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa”.
Chúa Giêsu hỏi nhóm 12. Phê rô thay mặt nhóm tuyên xưng. “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Hành trình đi theo Chúa Giêsu không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa làm chúng ta cảm thấy chói tai, con không muốn chấp nhận, con còn muốn rút lui. Nhưng xin cho con luôn hiểu rằng Lời Chúa - và chỉ có Lời Chúa - mới là lời chân thật và mới đem lại cho con sự sống thật. Xin cho con đừng bao giờ rút lui, vì “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
2. Tôi đã được sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng bằng lời cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Hơn nữa, là Kitô hữu, tôi còn sống nhờ một lời đặc biệt: Đó là lời Chúa.
Đức Kitô ngỏ lời với tôi qua chính cuộc đời của Ngài. Ngài đã mặc khải cho tôi biết Chúa Cha và giới thiệu tôi với Người.
Hôm nay, tôi có dám khẳng định với Chúa như Phêrô không? Ông đã sống với Chúa, đã nghe và tin vào lời Ngài, đặt biệt qua những lần bị vấp ngã.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tin vào sự linh nghiệm của Lời Chúa, để dám sống theo lời Ngài dạy bảo. (Epphata)
3. Trong vườn một gốc nho héo úa giữa bao cây nho xanh mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa. (Góp nhặt)
Nhiều người bỏ đi vì cho là những Lời Chúa nói chói tai, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều người môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”. (Ga 6,66)
Rõ ràng là hành trình đi theo Chúa không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa cũng làm chúng ta chói tai và chúng ta muốn rút lui.
Đức hồng y Carlo Martini, nguyên là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải Tin Mừng thánh Gioan, câu chuyện sau đây: Vào thế kỷ thứ ba, trong Giáo Hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ đời sống tu trì... Để giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã mượn câu chuyện chó đi săn thỏ để giải thích.
Một chú chó trong đàn bất chợt phát hiện ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn, vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Chẳng mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó đã chạy ùa theo.
Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kỳ thực chỉ có một con chó đã phát hiện nhìn thấy con thỏ, còn những con khác thì không. Sau một hồi săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì chúng không nhìn thấy con thỏ đâu. Duy chỉ có chú chó đầu tiên đã phát hiện ra con thỏ thì vẫn tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Rồi vị tu sĩ trên đã đưa ra kết luận như sau:
Đã có rất nhiều tu sỹ đi theo Chúa, nhưng chỉ có một ít thực sự nhìn thấy Chúa và họ biết họ đang theo đuổi điều gì. Số khác đã chạy theo, hoặc vì bị lôi cuốn bởi đám đông, hoặc vì họ nghĩ rằng, họ đang làm một điều tốt, nhưng rồi thời gian đã làm họ thay đổi và bởi vì họ chưa bao giờ thấy rõ Chúa là lý tưởng, nên khi gặp khó khăn, thử thách là họ bắt đầu chán nản và bỏ cuộc.
Cuộc sống của người Kitô hữu cũng có thể được ví như một cuộc đi săn. Có những lúc chúng ta rất sốt sắng, hăm hở trên con đường theo Chúa, chúng ta sẵn sàng nói lời cam kết với Chúa. Thế nhưng, nếu không cẩn trọng thì vào một lúc nào đó, khi không còn thấy gì hấp dẫn trước mắt trên con đường theo Chúa nữa, thì biết đâu chúng ta cũng lại giống như một số các môn đệ của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi nhóm 12, Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Phải nói đây là những lời tâm huyết luôn biết đặt Chúa lên trên tất cả. Giữa lúc tâm hồn đang bị dao động trước sự tháo lui của một số anh em mà Phêrô còn nói lên được những lời thật mặn nồng như thế, chắc Chúa phải cảm động lắm.
Vâng, phải thấy Chúa là tất cả, thì Phêrô mới có thể tuyên bố như vậy.
Odette, một cô gái xinh đẹp sinh ra trong một gia đình quí tộc nước Bỉ. Năm 17 tuổi cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ đến bắt cô trở về. Từ lâu, ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con gái cưng không muốn lập gia đình, nên cha mẹ cô đã âm thầm chuẩn bị hôn lễ, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi và sự chuẩn bị đều giữ bí mật cho đến giờ chót.
Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vén màn nhìn qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đài. Hỏi đầy tớ gái, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Xong, họ đưa cô xuống nhà nguyện tư của lâu đài. Giám mục của vùng và linh mục tuyên uý lâu đài đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước, vị chủ tế hỏi Odette có ưng nhận lãnh chúa Simon làm chồng theo luật Giáo hội không? Cô dõng dạc tuyên bố:
- Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào cho dù sự hăm dọa, có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng. Và kìa, Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “như thế sẽ không còn ai cấm con đi tu nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.