Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con".
Chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần trước một cuộc tĩnh tâm, một hội nghị hay một cuộc gặp gỡ tìm ý Chúa. Thánh Thần cho ta ánh sáng để quyết định. Nhưng Thánh Thần cũng là Đấng ban sức mạnh đỡ nâng, nhất là lúc Giáo Hội gặp gian nan thử thách. Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của sự bách hại. Các môn đệ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ (Ga 15, 18-20). Hơn nữa, họ còn bị trục xuất khỏi hội đường và bị giết (Ga 16, 2). Sau khi Đức Giêsu về trời, ai sẽ là người đứng ra bảo trợ họ? Ai sẽ là người giúp họ can đảm để làm chứng cho Đấng phục sinh? Đức Giêsu trả lời: chính Thánh Thần, Đấng mà Ngài sai đến từ nơi Cha. Thánh Thần từ từ tỏ mình ra như một Đấng, một ngôi vị có thực, đang hiện diện trong lòng từng Kitô hữu và trong cộng đoàn. Thánh Thần là Đấng ở với anh em, ở giữa anh em và ở trong anh em (Ga 14, 16-17). Như thế Đức Giêsu thực sự chẳng lìa xa chúng ta. Ngài vẫn hiện diện liên tục bên chúng ta, nhờ Thánh Thần Ngài sai đến. Giáo Hội sơ khai đã có kinh nghiệm sâu xa về Đấng Bảo trợ này, đặc biệt trong giai đoạn bị bách hại. Stêphanô là người đầy Thánh Thần (Cv 6, 5). Khi ông tranh luận với những người Do thái cứng lòng, Thánh Thần đã ban cho ông lời lẽ khôn ngoan không ai địch nổi (Cv 6, 10). Trong Thánh Thần, ông đã làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh, Đấng đang đứng bên hữu Thiên Chúa (Cv 7, 55-56). Chính lời chứng này đã đưa ông đến cái chết tử đạo đầu tiên. Cái chết của Stêphanô nhắc ta nhớ lời hứa của Đức Giêsu. Giờ bị thẩm tra là giờ thánh, giờ làm việc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Khi đứng trước các nhà lãnh đạo, Đức Giêsu khuyên ta đừng lo phải nói gì, “vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết điều phải nói” (Lc 12,12), đến nỗi “không phải chính anh em nói, mà là Thần khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 20). Cái chết của bất kỳ vị tử đạo nào cũng là một sự kết hợp diệu kỳ giữa lời chứng bằng máu của họ với lời chứng của Thánh Thần ở trong họ. “Người sẽ làm chứng về Thầy, anh em cũng làm chứng vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Chẳng bao giờ các Kitô hữu hết gặp khó khăn khi còn sống ở đời này, hết phải làm chứng cho Đức Giêsu trước một thế giới thù nghịch. Chẳng phải bách hại chỉ có dưới thời các vua triều Nguyễn. Cuộc sống tiện nghi, dễ chịu thời nay cũng là một thứ bách hại nhẹ nhàng, khiến nhiều Kitô hữu bị vướng vào và dễ dàng bước qua thập giá. Xin Thánh Thần thêm sức cho ta khi ta phải lội ngược dòng. Cầu nguyện:
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài. Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa. Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu, và dám chết vì những điều mình ghét. Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút sống con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương. Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị. Cuối cùng, xin cho con biết hòa nhập cả hai nên một: để sống là yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (NNS) ---------------------------------
Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Vệ và Thần Chân Lý. Hai chức năng quan trọng và rất cần thiết cho thời đại chúng ta.
Chúng ta cần Đấng Bảo Vệ vì chúng ta không ngừng bị tấn công. Mà không có phương tiện gì chống trả hay tự vệ. Chúa Giê-su đã từng bị tấn công rồi. Sau đó Giáo hội liên tục bị như thế. Bắt bớ 3 thế kỷ ở Rô-ma. Bắt bớ 3 thế kỷ tại Việt nam. Ngày nay các thừa sai vẫn bị giết. Nhiều cộng đoàn Kitô hữu vẫn bị ngược đãi. Ngày nay các cuộc tấn công còn tinh vi bạo tàn hơn nữa. Vì không tấn công thể lý nữa, nhưng tấn công luân lý. Người ta tố cáo Giáo hội ngược đãi trẻ em. Trọng nam khinh nữ. Ràng buộc lương tâm khiến con người không được hạnh phúc…
Chúng ta cần Thần Chân Lý vì kẻ tấn công nguy hiểm nhất chính là sự gian dối. Những đánh tráo khái niệm. Những từ ngữ hoa mỹ phỉnh gạt. Phá thai thì gọi là pro choice. Tôi có quyền lựa chọn nhưng sao không cho bào thai có quyền được sống.
Sự thật trần gian đã khó biết. Sự thật Nước Trời còn khó nhận hơn. Và Chúa kêu gọi chính chúng ta phải cùng với Thần Chân Lý làm chứng cho sự thật. Sự thật về Thiên Chúa, về Nước Trời có thực sự chiếu tỏa nơi ta hay không? Ta có sống thật vui tươi vì cảm nghiệm hạnh phúc Nước Trời trong một đời sống quên mình, nghĩ đến người khác không?
Cộng đoàn tín hữu sơ khai đã sống sự thật theo Thần Chân Lý. Nên thánh Phao-lô không còn tha thiết gì với những gì xưa kia ngài coi là lợi lộc nữa. Sau khi gặp Chúa Giê-su Phục sinh ngài chỉ còn biết một mình Chúa và coi đây là mối lợi lớn lao nhất. Ngài đi tìm dấu vết những người tin Chúa để cùng hợp đoàn với họ. Ngài không còn sống theo xác thịt nữa, chỉ theo Thần Chân Lý hướng dẫn.
Bà Ly-đi-a cũng để cho Thần Chân Lý hướng dẫn nên gặp được Phao-lô, gặp được Lời Chúa. Từ đó bà không coi trọng việc buôn bán vải điều nữa. Nhưng dành hết tâm trí sức lực vào đức tin, thực hành đức bác ái, mong được đón tiếp các tông đồ, phục vụ anh chị em.
Ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần đến trong ta và trong xã hội hôm nay. Ta hãy kiên quyết sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Sống và Bảo vệ Chân Lý.
Trong thế gian, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là một sự hiện diện vô hình và chứng tá của Chúa Thánh Thần cho Chúa Giêsu được thể hiện, được nhìn thấy nơi chứng tá của các môn đệ cho Chúa. Và như vừa nói trên, chứng tá này không phải là điều dễ dàng. Ðây là con đường nhỏ hẹp, gặp nhiều gian nan, thử thách. Theo Chúa đích thực làm cho ta ra khỏi thế gian và vì thế mà bị thế gian ghét bỏ, khai trừ. Nhưng trong những lúc gian nan thử thách như vậy, trong những giây phút cảm thấy trống rỗng và đau khổ trong cuộc đời của người đồ đệ, Chúa Thánh Thần, Ðấng an ủi, Ðấng bảo trợ, mà Chúa Giêsu sai xuống từ Thiên Chúa Cha, Ðấng ấy sẽ đồng hành với các môn đệ và trợ giúp họ, để các ngài được luôn trung thành làm chứng cho Chúa. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống của các môn đệ là nền tảng vững chắc cho niềm hy vọng của đồ đệ giữa những thử thách trên trần gian. Và chúng ta nhìn thấy điều này khi đọc qua những trang sách Tông Ðồ Công Vụ, sau khi được Chúa Thánh Thần ngự xuống, các tông đồ như được biến đổi hoàn toàn, từ lo sợ chạy trốn, chuyển sang can đảm, sẵn sàng hy sinh và cương quyết phục vụ. Trong lúc gặp thử thách, trước mặt những người quyền thế ngăn cấm không được làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, các tông đồ can đảm trả lời công khai: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người".
Người Kitô hôm nay, đồ đệ của Chúa Giêsu, cần xét lại thái độ sống chứng nhân của mình. Có hai thái cực cần tránh đi, không thể có thái độ vênh vang tự đắc, cũng không được qụy lụy chiều theo qui mô của kẻ chống đối Chúa, cần sống khiêm tốn nhưng đồng thời can đảm mạnh mẽ trong việc phục vụ, chấp nhận phiền phức mà trong lòng vẫn vui tươi. Ðây là kinh nghiệm sống chứng nhân của thánh Phaolô tông đồ khi ngài tâm sự trong thư thứ hai Corintô chương 4, câu 7 và các câu tiếp theo như sau: "Thiên Chúa làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên dung mạo Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình sành để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp, gian nan nhưng không tuyệt vọng, bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình của chúng tôi".
Tóm lại, làm chứng cho Chúa Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Chúa Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Chúa Giêsu Kitô. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Chúa Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã mời gọi chúng con làm chứng cho Chúa. Xin thương ban ơn nâng đỡ chúng con, nhất là trong những lúc gian nan thử thách, tin tưởng vào Lời chúa và với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng con muốn làm chứng cho Chúa và chứng tỏ cho anh chị em biết rằng chúng con biết Chúa và yêu mến Chúa thực tình. Chính vì biết Chúa và yêu mến Chúa thật tình nên chúng con dấn thân làm chứng cho Chúa.
Toàn bộ Tin mừng thánh Gio-an được coi như một vở kịch trình bày một phiên tòa với những ngôn từ: Chứng nhân, quan án, trạng sư, bảo trợ, bào chữa, tố cáo, chiến thắng … Đấng Bảo trợ đến tố cáo và xét xử thế gian vì họ tố cáo và xét xử sai lầm về Đức Giêsu. Thần chân lý đến với những dấu chỉ và công việc đầy nhân ái, nhưng người Do thái không biết đón nhận Ngài. Họ từ khước ánh sáng và họ bị kết án ở trong tối tăm. Chính họ đã kết án Đức Giêsu là sự sáng, nhưng Thánh Thần, Đấng bào chữa cho Đức Giêsu sẽ chỉ cho Giáo hội biết đến cùng Đấng có lý.
Nhờ Ngài làm chứng và soi sáng cho chúng ta, là những Kitô hữu, biết nhận ra trách nhiệm của mình đối với Đức Kitô, để trở nên giống hình ảnh Đức Kitô đi loan báo Tin mừng cho thế giới. Mỗi Kitô hữu phải là hình ảnh của Đức Kitô hiện diện trong thế giới, vì Đức Kitô sống lại không còn là Đức Giêsu đi lại cô độc ở Ga-li-lê và cầu nguyện cô đơn trong nơi thanh vắng của núi rừng hoang địa. Người chỉ hiện diện nơi các chứng nhân của Người. Đức Kitô cần nhờ các tín hữu để nói với thế gian như Người đã nói với Phao-lô: “Sao ngươi bắt Ta?”. Đức Giêsu sẽ không làm được gì nếu Người chỉ ở trên trời ngự trên ngai tòa bên hữu Đức Chúa Cha. Vì thế, cần phải thêm rằng Người đang hoạt động trên trái đất cùng với những ai đi rao giảng lời Ngài (Mc. 16, 19-20). Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người cần có những kẻ được cứu chuộc. Đức Giêsu đã sai Thánh Thần đến như đã hứa ở bài này, cần có nhiều người đón nhận Ngài và với Ngài trở nên những chứng nhân làm chứng cho Đức Giêsu trước mặt loài người (Cv. 5, 32).
Như thế Tin mừng thánh Gio-an thúc đẩy chúng ta hiện tại hóa lời luận chứng xưa thành lời chứng mãi mãi, để làm sống lại vở kịch đầy xung đột giữa ánh sáng và tối tăm, sự sống và sự chết, chân lý và giả dối, đồng thời không ngừng đặt chúng ta trước giờ Đức Kitô bị kết án, bị giết chết, này trở nên Đấng phán xét và sống lại, trở nên Đấng Kitô đang hiện diện trong các kẻ tin nhờ Thánh Thần.
Tại một trung tâm truyền giáo bên Italia, người ta đọc thấy một bài thơ với nội dung như sau: Bạn thân mến, tôi đã tìm một Thập giá. Một hôm tại tiệm bán đồ cổ, tôi đã mua được một tượng Đức Kitô, đây là Đức Kitô tuyệt đẹp nhưng sứt mẻ và bơ vơ vì bị tách lìa khỏi Thập Giá. Tôi chợt nghĩ không chừng bạn đang có một Thập giá, nhưng là một Thập giá trơ trụi không có Đức Kitô. Đức Kitô của tôi không có nơi ngơi nghỉ vì thiếu Thập giá, còn Thập giá của bạn thì lại thiếu Đức Kitô. Đức Kitô không Thập giá và Thập giá không Đức Kitô. Tôi xin đề nghị với bạn: tại sao chúng ta không liên kết cả hai lại? Tại sao bạn không trao Thập giá trống trơn của bạn cho Đức Kitô? Bạn chỉ có một thập giá đơn độc trống rỗng lạnh giá vô nghĩa, một Thập giá không có Đức Kitô. Hẳn bạn đã hiểu đau khổ như thế là vô lý, tôi không hiểu được tại sao bạn lại chịu đau khổ như thế từ bao lâu nay. Một thập giá không có Đức Kitô là một tra tấn, là nguyên nhân dẫn đến thất vọng. Giờ đây bạn đã có liều thuốc trong tay, bạn sẽ không còn đơn phương chịu đau khổ nữa. Bạn hãy trao cho tôi Thập giá trống không của bạn, tôi sẽ trao cho bạn Đức Kitô sứt mẻ của tôi. Bạn hãy trao Thập giá và hãy đón nhận Đức Kitô, rồi bạn sẽ thấy mọi sự đổi thay, bạn sẽ không còn đơn độc trong đau khổ, bởi vì trong Thập giá của bạn có Đức Kitô.
Bách hại, khổ đau là phần số gắn liền với ơn gọi Kitô hữu. Trong những giây phút cuối cùng ngồi bên các môn đệ, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc tử nạn của Ngài, mà còn báo trước những khổ đau mà họ sẽ trải qua vì mang Danh Ngài. Ngài sẽ tiếp tục hiện diện ấy càng rõ nét hơn qua chính những khổ đau mà các môn đệ Ngài sẽ trải qua. Một cách nào đó, vụ án của Chúa Giêsu sẽ tiếp tục trong chính các môn đệ của Ngài. Thế gian đã kết án Chua Giêsu và do đó trút hận thù lên các môn đệ của Ngài. Thật ra, không phải thế gian xét xử Chua Giêsu, mà chính Ngài xét xử thế gian. Cuộc tử nạn và cái chết của Chua Giêsu là một tố cáo về chính tội ác của thế gian. Qua cuộc tử nạn dưới nhiều hình thức mà các môn đệ Đức Kitô phải trải qua trên khắp thế giới và suốt lịch sử nhân lọai, sự xét xử của Chúa Giêsu đang tiếp diễn, tội ác của con người được tiếp tục phơi bày qua những khổ đau mà các môn đệ Đức Kitô phải gánh chịu vì niềm tin của họ.
Nhưng Chúa Giêsu không đến để luận phạt thế gian. Ngài đến để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cuộc tử nạn và cái chết của Ngài mạc khải cho nhân lạo gương mặt yêu thương của Thiên Chúa, và ngày nay qua cuộc tử nạn của các môn đệ Ngài, gương mặt yêu thương của Thiên Chúa lại tiếp tục được sáng tỏ. Qua cuộc tử nạn ấy, con người mới nhận thấy rằng chỉ có tình yêu mới thắng được hận thù, chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Tình yêu chiến thắng hận thù, tình yêu mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, tình yêu ấy người môn đệ chỉ có thể múc lấy từ Đức Kitô mà thôi. Ngài là Đấng Phục Sinh, Ngài đang hiện diện trong tâm hồn các môn đệ Ngài. Hãy để cho Ngài được hiện diện và đồng hành với ta, hãy để cho Ngài được tiếp tục dự phần vào thập giá của ta mỗi ngày, khi ấy cuộc sống sẽ mãi mãi có ý nghĩa, khổ đau sẽ có sức thanh luyện, và tình yêu sẽ chiến thắng hận thù.
Trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).
Bài trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu trước khi trở về với Chúa Cha, Ngài đã giới thiệu Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, là Đấng Bảo Trợ sẽ đến với các môn đệ.
Khi giới thiệu Chúa Thánh Thần như thế, Đức Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ rằng: khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm chứng và giúp các ông hiểu được tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và những lời Ngài đã dạy trước đó. Mặt khác, Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn phù trợ, để các ông can đảm làm chứng và sẵn sàng đón nhận tất cả mọi khổ đau vì Đức Giêsu.
Thật vậy, nếu không có Chúa Thánh Thần, các môn đệ vẫn là những con người khờ dại, kém tin và sợ sệt thủa nào. Tuy nhiên, khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên những người can đảm, uyên thâm, mạnh mẽ và dám chấp nhận tất cả, kể cả cái chết để làm chứng cho điều mình loan báo là có thật, đáng tin. Các ông đã thực hiện lời nói đi đôi với hành động.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sẵn sàng can đảm loan báo lời Chân Lý, chấp nhận mọi thử thách đau thương để Lời Chúa được lan rộng khắp nơi. Tin và sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần còn là một lời mời gọi chúng ta từ bỏ con đường, cách sống và hành vi cũ, chấp nhận lột xác, trở nên con người mới để được biến đổi như các môn đệ khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần trên chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi. Can đảm làm chứng và loan báo Lời Chân Lý của Chúa đến với muôn dân. Amen.
Sứ điệp: Kitô hữu là người được kêu gọi làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người trong mọi nơi mọi lúc. Chính Chúa Thánh Thần sẽ nâng đỡ và an ủi chúng ta trong sứ mạng làm chứng này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa bị bắt và bị đóng đinh, các môn đệ yêu dấu đã bỏ trốn. Các ngài không có đủ can đảm theo Chúa để biện hộ cho Chúa, các ngài đã trở về nhà tìm nơi an thân ẩn náu. Và ngay cả khi Chúa sống lại, hiện ra và cùng ăn uống với các ngài, các ngài vẫn chưa vững vàng tin vào Chúa và làm chứng cho niềm tin ấy.
Mãi cho tới lúc Chúa ban Thánh Thần xuống, các ngài mới mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Từ lúc đó, cái chết cũng không thể ngăn cản bước chân rao giảng của các ngài.
Lạy Chúa, Chúa cũng thương cho con được tham dự vào ba chức năng: tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa như các tông đồ xưa. Xin cho con luôn xác tín rằng con là một ánh đèn chiếu sáng, một sứ giả loan truyền tình thương, một nhân chứng Tin Mừng của Chúa.
Vậy lạy Chúa, xin tha thứ cho con, vì đã bao lần con sống bê tha, tội lỗi, không những không làm chứng cho Chúa, mà lại làm người khác mất niềm tin vào Chúa. Xin ban cho con sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để cho dù con bé nhỏ, nghèo hèn yếu đuối, con vẫn cố gắng sống thánh thiện hơn, biết quảng đại yêu thương, biết cho đi cách vô vị lợi. Xin giữ con đừng bao giờ kiêu căng cậy vào tài sức của mình, nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng hoạt động của Chúa Thánh Thần. Amen.
Cha Paul Wharton có kể lại câu chuyện: Một chàng thanh niên trẻ đến xin học một người thợ cả tài năng chuyên làm những bức tranh kiếng màu như chúng ta thường thấy tại các nhà thờ ở Âu Mỹ. Sau thời gian thụ huấn cần thiết, người học trò vẫn không thể đạt được những tác phẩm mang dấu ấn như thầy. Anh nghĩ có lẽ dụng cụ làm việc của thầy đặc biệt hơn nên anh xin thầy cho mượn dụng cụ của thầy.
Sau bảy tuần lễ, chàng trai đến nói với sư phụ: “Thưa thầy, con không thể làm được bất cứ tác phẩm nào đẹp đạt được với những dụng cụ mà thầy đưa”. Vị sư phụ điềm đạm trả lời: “Không phải dụng cụ của thầy mà con cần để làm nên tác phẩm, nhưng đó là “spirit of the mastes you need” chúng ta có thể hiểu rằng đó là “tinh thần, linh hồn, nghị lực” của người thầy mà người học trò cần thiết phải có” (Theo Discipleship, Stories and Parables, Paulist Presse).
Suy niệm
Ðấng Phù Trợ là Ngôi Ba Thiên Chúa, còn gọi là Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Linh, Thần Khí Thiên Chúa... Chính Ngài khởi xướng tất cả mọi công trình của Thiên Chúa. Ðấng Phù Trợ làm cho thế giới hiểu công trình cứu độ phục sinh của Ngôi Lời (x. Ga 14,26). Cho nên, Chúa Giêsu khi rời các tông đồ, Ngài xin Thần Khí của Cha xuống trên các ông: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ… Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,16-17), các môn đệ trở nên khí cụ của Thần Khí thi hành sứ vụ của Đức Kitô giao.
Chúa Thánh Linh luôn ở trong người môn đệ, thánh Phaolô nhấn mạnh người môn đệ có Thần Khí như cây tươi tốt kết tinh hoa trái. Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ… (x. Gl 5,22-23).
Để sống sứ vụ Thiên Chúa ủy thác tiếp tục các công trình của Đức Kitô và là công cụ của Chúa Thánh Thần. Thần Khí Thiên Chúa ban cho chúng ta những ân huệ thiêng liêng còn gọi là đặc sủng. Các ơn này được ngôn sứ Isaia loan báo: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn sức mạnh, ơn thông hiểu, ơn kính sợ Thiên Chúa (x. Is 11,2). Thánh Phaolô nói đến quyền năng, biết bao đa dạng của các ân sủng mà Thần Khí tác động khi nói các đặc sủng của Thánh Linh nơi nhiều hoạt động khác nhau (x.1Cr 12,4-11). Thánh Thần còn giúp người tín hữu sống hơi thở bằng lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha (x. Rm 8,26-27), giúp chúng ta có những tâm tình cầu nguyện và sống như Ngôi Lời như chúng ta đã chứng nghiệm được lời cầu nguyện thánh hiến (x. Ga 16) và phút cam đảm dứt khoát của Ngài bước vào cuộc thương khó phục sinh (x. Ga 16-18)
Hôm nay và qua mọi thời đại “hơi thở” của Thiên Chúa luôn luôn tác động, như không khí cho chúng ta thở, nếu không thở chúng ta sẽ chết:
“Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104,29-30).
Không tiếp nhận Thánh Thần, chúng ta sẽ trở nên khô héo, như cây không tiếp nhận nước, ánh sáng. Nước, lửa (ánh sáng) gió và khí là những hình ảnh loan báo về Thánh Thần.
Ý thức về Thần Khí Chúa trong đời sống, chúng ta không để Thánh Thần bị lãng quên như thực tế chúng ta thấy trong cách sống niềm tin của người Kitô hữu. Chúng ta xác tín hơn tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, một thụ tạo có được Thần Khí Thiên Chúa như thánh Phaolô chia sẻ: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Chính trong yêu thương tràn ngập Thần Khí, chúng ta được Thiên Chúa ở cùng: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 3,24).
Ý lực sống:
“... Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13).
1. Do thái giáo coi Đức Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các Kitô hữu là những người phản bội Do thái giáo. Do đó họ giết Đức Giêsu, bắt bớ các Kitô hữu. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết: “Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa”.
Nhưng đồng thời Đức Giêsu trấn an họ: Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến. Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ: Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ và Chúa Thánh Thần là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.
2. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Parakletos chữ Hy lạp, chỉ một nhân vật có thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá này đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình sẽ đổi khác rất nhiều.
Có Đấng Parakletos (Đấng Phù Trợ) đứng bên cạnh thì môn đệ của Chúa không còn phải bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ nữa. Đấng Phù Trợ sẽ:
Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn, An ủi trong những lúc đau buồn, Che chở họ những khi họ bị nguy hiểm, Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ, Dạy cho họ biết cách làm, cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ, Và cuối cùng, là đích thân bảo vệ họ (Carolô).
3. Đức Giêsu hứa sẽ gửi Đấng phù trợ đến. Nhưng công việc của Đấng phù trợ sẽ không là gì khác ngoài việc làm chứng về Đức Giêsu. Để rồi một khi lòng tin vào Đức Giêsu được vững mạnh, các Tông đồ sẽ là nhân chứng của Thầy. Họ sẽ làm chứng không những về các hành động của Đức Giêsu mà còn cả ý nghĩa các việc làm của Ngài nữa. Đấng phù trợ là Thần Chân lý đến từ Cha, sẽ cho họ thấy công việc phải làm và con đường phải đi. Chắc chắn họ sẽ không tránh khỏi sự bách hại.
Đức Giêsu biết trước điều này, Ngài không ra tay ngăn cản, nhưng chỉ tiên báo cho họ biết, bởi vì có Đấng phù trợ ở với họ và sự bách hại sẽ là lời chứng hùng hồn nhất. Trong bách hại, người môn đệ sẽ tỏ lòng trung thành đối với Thầy. Nhờ bách hại, họ sẽ trở nên giống Thầy, Đấng đã bị bắt bớ và bị giết trên Thập giá (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chúng ta thấy, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện xuống, cuộc đời của các Tông đồ đã thay đổi toàn diện, từ những người chậm hiểu, hèn nhát, hám danh, ham sống sợ chết, Chúa Thánh Thần đã biến đổi các ông thành những chứng nhân nhiệt thành, tận tâm, can trường, coi thường gian ngay, không thể làm thinh không nói những điều đã nghe, đã biết. Mọi gian khổ, đe đọa, tù ngục, không làm cho các ông thoái lui; trái lại, hết mọi Tông đồ đều lấy máu đào làm chứng cho lời các ông truyền giảng và sẵn sàng chết để tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô. Như vậy, muốn làm chứng về Đức Giêsu, phải có kinh nghiệm bản thân về Ngài, và dựa vào quyền năng của Thánh Thần.
5. Nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ đến các linh mục thừa sai đến rao giảng Tin Mừng cho chúng ta. Nhưng sứ mạng truyền giáo bắt nguồn từ Chúa Cha khi sai Con Một Ngài là Đức Giêsu loan báo cho nhân loại biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, để “ai tin thì được cứu độ” (x. Ga 3,36).
Để chứng thực cho sứ mạng của mình, Đức Giêsu nói Ngài có Thánh Thần làm chứng. Quả thật, Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, làm chứng bằng cách tác động bên trong con người giúp họ hiểu biết và đón nhận Tin Mừng cứu độ của Chúa Cha được Đức Giêsu loan truyền. Hạnh phúc cho Hội Thánh khi được Thiên Chúa không chỉ cứu độ nhưng còn tuyển chọn để tham dự vào sứ mạng truyền giáo của Thiên Chúa. Chỉ trong Chúa Thánh Thần, Hội thánh mới có khả năng thực hiện sứ mạng ấy (5 phút Lời Chúa).
6. Tóm lại, làm chứng cho Đức Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Đức Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Đức Giêsu. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Đức Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.
7. Truyện: Cần spirit of master trong tác phẩm.
Cha Paul Wharton có kể lại câu chuyện: Một chàng thanh niên trẻ xin học một người thợ cả tài năng chuyên làm những bức tranh kiếng mầu như chúng ta thấy tại các nhà thờ Âu Mỹ. Sau thời gian thụ huấn cần thiết, người học trò vẫn không thể đạt được những tác phẩm mang dấu ấn như thầy. Anh nghĩ có lẽ dụng cụ làm việc của thầy đặc biệt hơn nên anh xin thầy cho mượn dụng cụ của thầy.
Sau bảy tuần lễ, chàng trai đến nói với sư phụ: “Thưa thầy, con không thể làm được bất cứ tác phẩm nào đẹp đạt được với những dụng cụ mà thầy đưa”. Vị sư phu điềm đạm trả lời: “Không phải dụng cụ của thầy mà con cần để làm nên tác phẩm, nhưng đó là “spirit of master you need”, chúng ta có thể hiểu đó là “tinh thần, linh hồn, nghị lực” của người thầy mà người học trò cần phải có (Theo Discipleship, Stories and Parables, Paulist Presse).
Do Thái coi Đức Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các Kitô hữu là những người phản bội Do Thái. Do đó họ giết Chúa Giêsu và bắt bớ các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết: “Người ta sẽ loại bỏ các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa.”
Nhưng đồng thời Chúa Giêsu chấn an họ: Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến.
Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ: Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ.
Ngài là Thần Chân Lý: Ngài sẽ soi sáng giúp các môn đệ làm chứng cho những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.
Suy gẫm
1. “Đấng phù trợ” dịch từ chữ hy lạp Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác rất nhiều: đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời sao cho khéo léo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với quan tòa thì sự hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử khoan hồng hơn.
Thánh Kinh cũng dùng chữ này theo nghĩa rộng, vượt qua khỏi khung cảnh toà án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien Parakletos bà Susanna khi bà bị hai ông già dê âm mưu kết án oan; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình.
Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Ngài sẽ bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ. Thế gian cũng sẽ thù ghét họ, gài bẫy hại họ, làm khó dễ họ, thậm chí còn bắt bớ họ. Nhưng thực ra các môn đệ không bơ vơ vì đã có Chúa Thánh Thần đứng bên cạnh để:
- Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn. - An ủi họ trong những lúc đau buồn. - Che chở họ trong những khi nguy hiểm. - Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ. - Dạy họ cách làm cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ. - Đích thân bênh vực họ.
Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu thế nào đối với các tông đồ khi các Ngài sống và hoạt động giữa thế gian.
Bài Tin Mừng nhắc chúng ta nhớ đến một Đấng Parakletos mà chúng ta vẫn hằng có sát bên cạnh mình thế mà chúng ta thường quên, đó là Chúa Thánh Thần. Chúng ta quên Ngài đến nỗi nhiều khi chúng ta đọc hay hát kinh Chúa Thánh Thần mà vẫn không nghĩ tới Ngài. Và bởi vì quên Ngài, không nghĩ tới Ngài nên chúng ta thường bị rơi vào tình trạnh cô đơn, buồn chán, lo âu, sợ sệt, ngã lòng…
2. “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.”
Sau những ngày làm đầy tớ cho một gia đình quý tộc, Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, lanh thang. Nàng được một gia đình Do Thái thuê về chăm sóc cho mấy đứa con nhỏ của họ. Nhưng ngay hôm đầu tiên, khi biết nàng là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là “Nàng không được giảng đạo” cho các con ông. Nàng nhận lời và bắt đầu công việc của mình bằng hết khả năng. Có điều trên cổ nàng luôn đeo một chiếc huy chương của cha nàng để lại, bên trong có nhét một mảnh giấy nhỏ, mà nàng nhất định không cho ai coi. Rồi đến khi lũ trẻ lâm bệnh, nàng ra sức chăm sóc, phục vụ. Lúc chúng được lành bệnh thì cũng là lúc nàng ngã bệnh và từ trần. Giờ đây người ta có thể đọc tấm giấy nhỏ trong tấm huy chương: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo đức trước mặt họ như một chứng từ hùng hồn nhất.” Bàng hoàng rồi cảm phục, gia đình người chủ Do Thái xin nhận Bí tích Thánh Tẩy.
Lạy Chúa, xin giúp con can đảm sống đạo trước mặt mọi người như một chứng từ hùng hồn.
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Parakletos chữ Hylạp, chỉ một nhân vật có thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá này đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình sẽ đổi khác rất nhiều.
Có Đấng Parakletos (đấng Phù trợ) đứng bên cạnh thì môn đệ của Chúa sẽ không còn phải bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ nữa. Đấng Phù Trợ sẽ:
Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn. An ủi họ trong những lúc đau buồn. Che chở họ những khi họ bị nguy hiểm. Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ. Dạy cho họ biết cách làm, cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ. Và cuối cùng, là đích thân bênh vực họ.
2. Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu như thế nào cho các tông đồ khi các Ngài sống và hoạt động giữa thế gian.
Chúa Thánh Thần làm những việc nhiều khi chúng ta không thể hiểu nổi.
Tại một tỉnh thuộc miền Trung Ấn Độ, một tín hữu Kitô có tên là Sacdu-Sundasi tự nguyện tham gia công tác truyền giáo bằng cách phổ biến sách Tin Mừng. Ngày kia, trên một chuyến xe lửa, anh can đảm lấy ra một số sách Tin Mừng của thánh Gioan đựng trong cặp và trao cho hành khách không phải là Kitô hữu cùng đi trên xe. Một hành khách, thay vì chỉ từ chối không nhận, lại còn giận dữ chộp lấy một quyển Tin Mừng xé nát ra và quăng những mảnh giấy vụn qua cửa sổ. Thiện chí truyền giáo của Sacdu tưởng chừng như tan biến theo gió. Nhưng cũng vào lúc ấy, có một người tình cờ đi dọc theo đường ray, anh ta tò mò cúi xuống nhặt mảnh giấy bị gió cuốn trước mặt, và anh đọc được hàng chữ “Bánh Hằng Sống” được in bằng tiếng địa phương. Tuy không hiểu rõ những chữ trên có ý nghĩa gì nhưng anh cứ giữ lấy mảnh giấy để dò hỏi các bạn quen biết. Một trong bọn họ bảo: Đây là mảnh giấy trong sách đạo Kitô, anh không nên đọc nó nếu không muốn bị ô uế.
Suy nghĩ trong khoảnh khắc, người đã nhặt được mảnh giấy, nói:
- Tôi không sợ bị ô uế, ngược lại, tôi muốn đọc trọn quyển sách mang dòng chữ tuyệt vời này.
Sau đó, anh tìm mua một quyển Tân Ước và được chỉ chỗ của câu trong mảnh giấy lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là Bánh Hằng Sống”. Anh say mê đọc và thấy con tim được chiếu sáng. Rồi sau khi lãnh nhận phép thanh tẩy, chính anh đã trở nên một giáo lý viên.
Người đã ghi lại câu chuyện trên ghi chú: qua Chúa Thánh Thần, mảnh giấy nhỏ đã thực sự trở nên Bánh Hằng Sống cho anh.
3. Chúa Giêsu nói “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,27).
Có nhiều cách làm chứng, nhưng cách làm chứng “Bằng cuộc sống” là hữu hiệu nhất và cũng phổ thông nhất. Ai cũng có thể làm được.
Đây là một câu chuyện đã xảy ra trong một giáo xứ ở một vùng sâu vùng xa. Khi về nhận xứ, linh mục chánh xứ được biết ở đây có nhiều người đã được ơn trở lại với Chúa. Trong một buổi họp mặt tại nhà thờ, sau khi giảng, vị linh mục hỏi mọi người:
- Ở đây ai là người có nhiều công nhất trong việc giúp cho anh chị em trở thành con cái của Chúa? Rồi ngài gợi ý: Người đó có thể là một bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em. Và bây giờ tôi mời anh chị em đứng lên và tiến đến bắt tay người nào có ảnh hương nhất đối với anh chị em trong việc đem Đức Kitô như là Đấng cứu Độ đến với mình.
Sau lời của vị linh mục hầu như mọi người đổ dồn cặp mắt về phía một cụ già đã ngoài 75 tuổi ngồi bên phải vị linh mục. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày mà thôi.
Thế mà cả một chuỗi dài những người nối tiếp nhau tiến đến bắt tay bà cụ. Họ nói:
- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Chúa Giêsu đã đưa dẫn chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng cứu Độ.
Chính nhờ đời sống tươi đẹp, thánh thiện đó mà người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Đấng Cứu Thế có thể hơn cả một nhà giảng thuyết tài giỏi.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu.
Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con.
Khi Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”.
Người Pháp vẫn thường nói: ra đi là chết một chút. Cuộc chia ly nào cũng đem lại những mất mát buồn phiền. Khi biết mình sắp phải chia tay Thầy, các môn đệ cũng không tránh khỏi tâm trạng đó (c.6). Gần ba năm sống bên Thầy, tuy ngắn ngủi nhưng có bao là kỷ niệm. “Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy” (c. 5). Thầy Giêsu đã an ủi bằng cách nói rằng mình đi để dọn chỗ cho họ. Rồi Thầy trò lại được chung sống bên nhau (Ga 14, 1-3). Chuyện Thầy về với Cha lẽ ra phải làm họ vui sướng, vì Thầy được Cha tôn vinh (Ga 14, 28). Nhưng lý do chính khiến Thầy ra đi là nhằm lợi ích cho môn đệ. “Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (c. 7). Rõ ràng sau khi Đức Giêsu chết, phục sinh, hiện ra nhiều lần và lên trời, sau khi các môn đệ không còn thấy Ngài nữa, thì Đấng Bảo Trợ bắt đầu đóng một vai trò quan trọng. Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, sẽ làm công việc của một người Thầy. “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26). Thầy Thánh Thần giúp ta hiểu được và đến được với Thầy Giêsu. Thánh Thần như người phụ đạo, tiếp nối việc giảng dạy của Thầy Giêsu. Thánh Thần còn là người làm chứng cho Thầy Giêsu nữa, để các môn đệ cũng can đảm trở nên chứng nhân cho Thầy (Ga 15, 26-27). “Thầy đi thì có lợi cho anh em” (c.7). Khi Đức Giêsu hoàn tất phần công việc Cha giao cho mình (Ga 17, 4; 19, 30), Ngài chuyển giao mọi việc còn lại cho Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ. Ngài tìm điều có lợi hơn cho sự lớn lên của các môn sinh, dù Ngài rất yêu họ và muốn được sống gần họ (Ga 13, 1; 17, 24). “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14, 18). Đức Giêsu đến với môn đệ bằng việc sai Thánh Thần. Đúng là họ sẽ chẳng bao giờ mồ côi, vì họ đã có một Đấng Bảo Trợ. Trong cuộc sống lắm khi người Kitô hữu thấy Chúa Kitô như vắng mặt. Buồn chán, thất vọng, xao xuyến, sợ hãi, khô khan chiếm lấy lòng mình. Không phải lúc nào cũng thấy Chúa gần bên, ấm áp và thân thiện. Những lúc khó khăn đó lại có thể là dịp để ta tập yêu Ngài cách nhưng không, tin Ngài chỉ tìm điều có ích hơn cho ta, và kiên nhẫn đợi chờ quà tặng bất ngờ do Ngài gửi đến. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát. Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con. Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con, chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu. Amen. ---------------------------------
Các môn đệ đã từ bỏ tất cả để gắn bó với Chúa Giê-su. Nay Người ra đi hỏi sao các môn đệ không buồn phiền lo lắng. Nhưng Chúa Giê-su quả quyết: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Vệ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.
Chúa Giê-su ra đi thì có lợi. Vì các môn đệ từ nay không sống bằng thế giới khả giác nữa, nhưng đi vào thế giới siêu nhiên mầu nhiệm. Ánh mắt dõi theo Chúa trong ngày lễ Thăng Thiên sẽ hướng về nội tâm, để họ kết hợp với Chúa Giê-su vinh hiển trong thế giới thần linh. Đó là thế giới của mầu nhiệm Ba Ngôi. Và biểu hiện mạnh mẽ qua Chúa Thánh Thần.
Ngôi Lời nhập thể hữu hình trong thời gian phải chịu những giới hạn của con người. Nay Người ra đi về thế giới thần linh. Để quyền năng của Người thể hiện qua Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống của Chúa Giê-su. Là Thần Khí Đức Ki-tô.
Đấng Bảo Vệ đến bảo vệ các môn đệ. Điều đó thể hiện cụ thể trong bài sách thánh hôm nay. Người bảo vệ Phao-lô và Si-la tuy bị đánh đập nhưng không phải chết. Tuy bị giam cầm nhưng tâm hồn vẫn tự do và vui tươi. Vẫn ca hát và dậy dỗ, khuyên nhủ và rao giảng. Cửa sắt và gông xiềng chẳng đủ sức trói buộc các ngài.
Thần Chân Lý đến cho thế gian thấy sự sai lầm. Thế gian cụ thể qua viên cai ngục. Sau biến cố động đất và cửa ngục cùng gông xiềng bật tung ra, viên cai ngục nhận biết mình tội lỗi vì đã không tin Chúa. Nên quì sấp mặt xin Phao-lô tha tội. Ông muốn sống công chính khi trả về cho Chúa quyền năng trên cuộc đời minh. Nên ông tuân phục Thiên Chúa. Và ông tránh án phạt. Vì không tin Chúa là đi vào sự chết. Chỉ tin Chúa mới đem đến sự sống. Ông đã hỏi Phaolô: “Tôi phải làm gì để được ơn cứu độ”. Thánh Phaolô đã vạch cho ông con đường sự sống: “Phải tin vào Chúa Giêsu”.
Tạ ơn Chúa Giêsu hiển vinh đã ban Đấng Bảo Vệ và Thần Chân Lý đến. Xin Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trong con. Để con được bình an hoan lạc. Và luôn sống theo sự thật của Chúa.
Sách Công vụ Tông đồ kể lại rằng trong dịp lễ Ngũ tuần khi người Do thái tự khắp nơi tuôn về Yêrusalem để mừng lễ, các Tông đồ lúc đó đang tề tựu một nơi, thì bỗng từ trời một tiếng ào ào như thế cuồng phong thổi đến, vang khắp cả nhà, hết thảy họ được đầy Thánh Thần và nói được các thứ tiếng tùy theo Thần Khí ban cho họ. Phêrô đã mạnh mẽ rao giảng về Đức Giêsu thành Nazaret vừa bị Hội đồng Do thái kết án và đống đinh Thập gía, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Nghe Phêrô giảng, có khoảng 3000 người đã hối cải và xin chịu thanh tẩy.
Lời giảng của Phêrô đạt được kết quả như vậy là nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã tác động trên người nghe lẫn người giảng, một công việc đã được Chúa Giêsu tiên báo trước khi Ngài từ giã các môn đệ như được tường thuật trong Tin mừng hôm nay: “Khi Đấng Phù trợ đến, Ngài sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt”.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã hiện thực trong đám đông Do thái vào dịp lễ Ngũ tuần. Việc làm của họ một lần nữa được Phêrô nhắc lại và nhờ Thánh Thần họ đã hiểu thế nào là tội, là sự công chính, là án phạt. Việc làm ngày hôm trước Lễ Vượt qua, họ tưởng là phụng sự Thiên Chúa mà kỳ thực họ đã lầm vì đã giết chết Đấng thánh của Thiên Chúa được sai đến để cứu dân. Về phần Chúa Giêsu Ngài bị giết chết, nhưng đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu đi đến tận cùng của việc bị kết án, thì cũng là lúc con người nhận ra sự công chính nơi Ngài. Viên bách quản đã thốt lên: “Người này thật là Con Thiên Chúa”, và đám đông chứng kiến cảnh tượng ấy đã đấm ngực mà lui về. Cái chết của Ngài là một chiến thắng tội lỗi và sự chết, để những ai bước theo Ngài không còn lo âu thất vọng, nhưng phấn khởi vui mừng vì một ngày kia cũng được thông phần vinh quang với Ngài.
Kitô hữu ngày nay cũng được đón nhận Thánh Thần và được Ngài cho biết về tội lỗi, về sự công chính, về án phạt. Tuy nhiên hiểu biết mà thôi chưa đủ, mà còn phải hành động nữa. Chính hành động đã dẫn họ đến miền đất của công chính hay án phạt 3000 người Do thái trở lại vào dịp lễ Ngũ tuần không phải là những người vô tội. Trong nhóm họ, nhiều người đã kết án Chúa Giêsu, nhưng không vì thế mà bây giờ họ không còn lối thoát. Thánh Thần đã mở lối cho họ hiểu biết, Ngài cũng vạch đường cho họ bước theo.
Như người Do thái, nhiều lần chúng ta đã nhiệt tâm hành động và cứ tưởng như thế là tôn vinh Thiên Chía. Chỉ khi đối diện với Thần Chân Lý, chúng ta mới nhận ra điều sai lầm của chúng ta. Xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta luôn đi trong chính lộ và mau mắn chỗi dậy mỗi khi chúng ta lầm lỗi.
Các nhà tu đức thường đưa ra lời mời gọi đến mỗi người tín hữu là: mỗi tối, hãy dành ra ít phút, lắng đọng trước nhan Thiên Chúa để hồi tâm. Tại sao vậy? Thưa, hồi tâm là một phương pháp rất có ích cho đời sống thiêng liêng, nó giúp cho đương sự nhớ lại những điều tốt – xấu đã làm trong ngày. Tốt thì phát huy, xấu thì loại trừ. Các thánh là những người đã đi theo con đường này.
Hôm nay, Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến để làm chứng cho Ngài, và Chúa Thánh Thần sẽ đến để thực thi sứ vụ là tố cáo thế gian vì đã không tin nhận Đức Giêsu. Người cũng tố cáo những điều sai lỗi mà thế gian đã làm.
Nói cách khác, Người đến làm cho Lời của Đức Giêsu được bừng sáng lên, đồng thời cũng làm cho sự xấu xa, tội lỗi bị lên án.
Ngày nay, qua tiếng nói Lương Tâm và nơi các dấu chỉ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và thúc dục mỗi người biết làm lành, lánh dữ. Tuy nhiên, vì còn mang nặng tính tự kiêu, ích kỷ và bảo thủ, nên nhiều khi chúng ta đã bỏ qua tiếng nói của Lương Tâm, không đón nhận Chúa Thánh Thần vì lý do sợ Chân lý, sợ Sự Thật. Như thế, đôi khi vẫn cứ đi sai đường trệch lối mà không biết, nhưng cũng không thiếu những lúc ta cố tình không chịu biến đổi, dẫu biết điều đó là không đúng, là sai.
Vì thế, việc hồi tâm là điều cần thiết. Bởi lẽ, trong thinh lặng nội tâm, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết được đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu cần tránh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy chiếu soi ngọn lửa Chân Lý vào trong tâm hồn chúng con, để chúng con cam đảm quay lưng lại với điều xấu. Xin cũng giúp sức cho chúng con biết can đảm, yêu mến, lựa chọn những điều tốt và làm theo. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ sẽ giúp các môn đệ tin vào Chúa Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến để cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường nói: xa mặt cách lòng, thân xác xa nhau thì tâm hồn cũng xa nhau. Tuy nhiên nhiều lúc chúng con thấy thân xác sống bên nhau mà lòng dạ vẫn xa cách nhau, và ngược lại chính lúc thân xác xa cách nhau thì tâm hồn lại cảm thấy gần gũi và quí mến nhau hơn. Khi cha mẹ còn đang sống, con cái thường hất hủi thờ ơ, nhưng khi cha mẹ qua đi rồi, con cái mới thấy cần và quý mến cha mẹ hơn.
Lạy Chúa, nhờ kinh nghiệm ấy, con hiểu được Lời Chúa nói: Chúa ra đi thì có lợi hơn. Khi Chúa còn sống trong thân xác, người Do Thái vẫn thường chống đối Chúa, và ngay cả môn đệ vẫn chẳng tin vào Chúa. Nhưng sau khi Chúa chịu chết, nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện và tác động, các môn đệ tin vào Chúa hơn, và người Do thái theo Chúa nhiều hơn.
Ngày nay đôi mắt con chẳng còn được thấy Chúa, nhưng Chúa vẫn ở gần con, Chúa Thánh Thần vẫn ở bên con và lôi kéo lòng con lại gần Chúa. Con xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho con như lời Chúa đã hứa để Người yên ủi dạy dỗ con. Con hứa sẽ để lòng con gần Chúa bằng cách siêng năng cầu nguyện hằng ngày.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin soi sáng tâm hồn và đốt lửa yêu mến trong trái tim con. Xin Chúa giúp con ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn. Xin Chúa bênh vực, bảo vệ con trước sức tấn công của quỷ dữ hằng muốn lôi kéo con xa Chúa Giêsu và chống lại Người. Giữa một thế giới đang muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, xin Chúa giúp con luôn trung thành với Chúa Giêsu. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với các con”.
Khi Nansen lần đầu tiên thám hiểm Bắc Cực, ông đem theo một con chim bồ câu khỏe mạnh, có đôi cánh dài. Sau hai năm làm việc giữa băng tuyết, ông viết một lá thư, buộc vào chân chim và thả nó ra. Con chim chao liệng mấy vòng rồi bay thẳng về phương Nam, vượt hàng ngàn dặm giữa đại dương và cuối cùng đến bên đầu giường vợ của nhà thám hiểm. Nhờ đó, bà biết được chồng mình vẫn bình an.
Thánh Linh cũng tựa như chim bồ câu, một loại bồ câu thần thiêng, báo cho ta biết Chúa Kitô vẫn đang sống và hành động giữa thế giới này.
Suy niệm
Ðức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể thực hiện chương trình tình yêu của Thiên Chúa đem ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài tiếp tục mạc khải cho các đồ đệ về Chúa Thánh Thần và vai trò của Người trong chương trình cứu độ.
Đức Giêsu nhấn mạnh Ðấng Phù Trợ ở lại (menei) với các môn đệ (Ga 14,17; 16,8) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (Ga 1,32). Ngài là Đấng Phù Trợ ở giữa các môn đệ để thay thế sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Ngài bảo đảm cho họ sẽ không mồ côi (Ga 14,15-18; 16,7-8). Các môn đệ tin vào Chúa Giêsu, nên được đón nhận Ngài (Ga 7,39; 14,12-14). Còn thế gian không thể nhận lấy Đấng Phù Trợ vì họ không tin vào Chúa Giêsu. Khi Thần Chân Lý đến, thế gian sẽ bị hạch hỏi về sự cứng lòng đó.
Chúa Thánh Thần biến đổi và hướng dẫn các môn đệ đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16,13), và dẫn dắt các ông đi trong con đường thần thiêng của đức tin, để rồi ra đi làm chứng cho Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu ra đi để làm lợi cho chúng ta – Thần Chân Lý đến…
Kể từ khi khai sinh trong Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, Giáo hội của Đức Kitô luôn đứng vững và phát triển dưới sự hướng dẫn, tác động của Chúa Thánh Thần như lời Chúa Giêsu truyền: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Chúa Thánh Thần soi sáng trí lòng, sưởi ấm tâm hồn, thúc giục chúng ta làm điều lành, tránh điều xấu, điều dữ như thánh Phaolô nhấn mạnh: “Hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6). Ngay khi được rửa tội, Thánh Thần triển khai các hành động của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả. Thánh Thomas tiến sĩ nhấn mạnh rằng: “Chúa Thánh Thần được trao ban đến để cư ngụ trong chúng ta và làm cho chúng ta nên mới”.
Xin ngự đến, lạy Thánh Thần sáng tạo, Ðến viếng thăm và tuôn đổ ơn trời Xuống cõi lòng và tâm trí bề tôi Là sản phẩm do tay Ngài mà có.
(Thánh Thi Kinh Chiều I Lễ Hiện Xuống)
Xin Thần Khí ở cùng chúng ta luôn mãi...
“Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25).
Ý lực sống:
“Ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14).
1. Đang lúc buồn sầu, rồi nghĩ đến giây phút Thầy trò chia ly, lại nghe nói đến những sự bách hại mai ngày, các Tông đồ thêm chán nản. Đức Giêsu thương hại, nhìn các ông và hứa sẽ sai Thánh Thần đến ủng hộ các ông. Vì Đức Giêsu về trời là điều kiện phải có để Thánh Thần đến. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giêsu loan báo về việc Chúa Thánh Thần đến ở với các Tông đồ để an ủi, soi sáng và ban thần lực cho các ông.
2. Về phương diện tự nhiên, “đi là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu). Cuộc ra đi nào ít nhiều cũng thế cả, buồn cho người ở cũng như người đi. Nhưng nếu sự ra đi ấy có ích và nhất là cần thiết thì Đức Giêsu khuyên chúng ta chấp nhận sự ra đi đó. Đàng khác, có sống thì phải có chết, có đoàn tụ có ngày cũng chia ly, đó là qui luật của cuộc sống, chính Đức Giêsu cũng nếm cảm và kinh qua qui luật đó. Nhưng Chúa chết là để sống lại, ra đi là để đoàn tụ: “Thầy về cùng Cha, “Để Thầy ở đâu các con sẽ ở đó với Thầy”.
Hơn nữa, Ngài còn nói với các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con, vì nếu Thầy không ra đi thì Đấng Bảo Trợ không đến với các con”, Đấng Bảo Trợ Chúa nói đây là Chúa Thành Thần. Chúa Thánh Thần đến soi sáng, trợ giúp và thúc đẩy các Tông đồ minh chứng về Đức Giêsu và tiếp tục sứ mạng của Ngài.
3. Động từ “ra đi” trong bản văn Tin Mừng được nhắc đến nhiều lần, nhưng mang hai ý nghĩa khác nhau. Trước hết, “ra đi” là đi về cùng Chúa Cha; thứ đến, “ra đi” là không còn ở với các môn đệ một cách thể lý nữa. Có “ra đi” thì có trở về. Thầy Giêsu, sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh, sẽ đến với các môn đệ nhưng đó là sự hiện diện mới mẻ, thiêng liêng hơn và cũng thân mật hơn, thâm sâu hơn. Thầy sẽ gửi Thánh Thần đến dạy dỗ các môn đệ, cho các ông biết rằng từ nay Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến, ngự trị nơi tâm hồn con người. Thánh Thần cũng sẽ đến làm chứng về Thầy Giêsu, soi sáng cho các môn đệ hiểu được những lời Thầy mình dạy ngày nào. Rốt cùng, đặt thế gian trước sự lựa chọn hoặc tin vào Đức Giêsu để được cứu rỗi, hoặc cứng lòng ở lì trong tội lỗi (5 phút Lời Chúa).
4. Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm:
- Chúa Thánh Thần đến sẽ làm chứng về Đức Giêsu là Đấng công chính, và như vậy Người cũng chứng thực về tội lỗi của những người từ chối và giết Đức Giêsu.
- Chúa Thánh Thần cũng dùng những dấu lạ để làm chứng về sự công chính của Đức Giêsu: là Đấng đã tử nạn, phục sinh và lên trời.
- Chúa Thánh Thần cũng làm chứng cho sự thật là ma quỉ và tay sai sẽ bị xét xử và luận phạt, vì Thập giá của Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ.
5. Một nguyên tắc triết lý rất cơ bản là “Errare humanum est”, nghĩa là đã là người thì thế nào cũng có sai lầm. Cho nên nhận ra những sai lầm của mình là một điều cần thiết và rất hữu ích để còn có thể sửa sai, để ngày càng hoàn thiện chính mình. Từ đó lời khuyên thứ nhất của đoạn Tin Mừng này là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn ý thức mình không phải là hoàn hảo, mình còn nhiều sai lầm, mình cần tự nhận ra những sai lầm ấy.
Trong bài hát về Chúa Thánh Thần, có câu: “Thánh Thần khấn xin Ngài đến, hồn con đang mong chờ Ngài... Ngài ơi, xin Ngài mau đến chiếu sáng tối tăm u mê sai lầm, Ngài ơi xin Ngài mau đến hiển linh Ngài ơi”. Lời khuyên thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thì mới thấy rõ và đúng những sai lầm của mình.
6. Ngày nay, qua tiếng nói Lương tâm và nơi các dấu chỉ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và thúc dục mỗi người biết làm lành lánh dữ. Tuy nhiên, vì còn mang nặng tính tự kiêu, ích kỷ và bảo thủ, nên nhiều khi chúng ta đã bỏ qua tiếng nói của Lương tâm, không đón nhận Chúa Thánh Thần vì lý do sợ Chân lý, sợ Sự thật. Như thế, đôi khi vẫn cứ đi sai đường trệch lối mà không biết, nhưng cũng không thiếu những lúc ta cố tình không chịu biến đổi, dẫu biết điều đó là không đúng, là sai.
Vì thế, việc hồi tâm là điều cần thiết. Bởi lẽ, trong thinh lặng nội tâm, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết được đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu nên tránh.
7. Truyện: Con hiểu làm sao được.
Chú bé bị mù từ bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú được trông thấy những cảnh vật chúng quanh sao mà đẹp thế. Chú liền nói với mẹ: “Sao bao lâu nay mẹ không nói cho con hay đất trời đẹp quá”. Bà mẹ bật khóc nói: “Con ạ, mẹ đã cố gắng nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làm sao hiểu được”!
Nếu Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng chẳng thấy sự hiện diện của Chúa (Góp nhặt).
Tiếp theo bài giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian.
Vì là Thần chân Lý, Chúa Thánh Thần sẽ tố cáo thế gian về tất cả những gì sai lầm của nó:
“Về tội lỗi”: người Do Thái coi Chúa Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, Chúa Thánh Thần sẽ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng công chính của Thiên Chúa.
“Về án phạt”: Thượng hội đồng Do Thái đã xử án chết cho Chúa Giêsu và nhiều người Do Thái cho rằng án xử ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Chúa Thánh Thần sẽ chứng minh án xử đó là bất công.
Suy gẫm
1. Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần là Parakletos của các tông đồ và của chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tiếp một vai trò nữa của Chúa Thánh Thần: Ngài là “kẻ chứng minh thế gian sai lầm,” nghĩa là vạch cho con người thấy những sai lầm của mình.
Chúa Thánh Thần sẽ vạch cho thấy 3 thứ sai lầm:
Sai lầm thứ nhất là “về tội lỗi”: đối với người Do Thái xưa, đó là tội đã không tin Chúa Giêsu, còn đối với chúng ta ngày nay, chúng ta đã tin Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Mỗi người đều có tội, đều có nhiều tội, nhưng lắm khi tự mình không thấy tội mình, do đó cần phải có người vạch ra cho ta thấy, người đó là Chúa Thánh Thần.
Sai lầm thứ hai là “về sự công chính”: Đối với người Do Thái, họ đã không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng công chính nên đã giết Ngài. Đối với chúng ta ngày nay, đây là thứ sai lầm khi nhận định về Chúa. Rất nhiều khi chúng ta nhận định sai về Chúa: bóp méo hình ảnh của Chúa theo sở thích chủ quan của mình. Thí dụ:
- Kẻ cố chấp miệt mài trong tội thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng nhân hậu vô cùng;
- Kẻ khắt khe hay lên án người khác thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng công minh nhất định sẽ trừng phạt người tội lỗi;
- Kẻ đang dan díu trong tình yêu ngang trái thì cái phao của họ là “Thiên Chúa là tình yêu” để tự an ủi: Yêu nhau thì có tội gì đâu…
Sai lầm thứ 3 là “về việc xét xử”: ngày xưa Thượng hội đồng Do Thái đã xử án chết cho Chúa Giêsu và nhiều người Do Thái cũng cho rằng án ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Đây là một thứ sai lầm do dự và do dư luận. Chúng ta ngày nay nhiều khi cũng dựa vào dư luận để có thành kiến không đúng về người khác.
2. Một nguyên tắc triết lý cơ bản là “Errare humanum est” nghĩa là đã là người thì thế nào cũng có sai lầm. Cho nên nhận ra những sai lầm của mình là một điều cần thiết và rất hữu ích để còn có thể sửa sai, để ngày càng hoàn thiện chính mình. Từ đó lời khuyên thứ nhất của đoạn Tin Mừng này là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn ý thức mình không phải là hoàn hảo, mình còn nhiều sai lầm, mình cần tự nhận ra những sai lầm ấy.
Trong bài hát về Chúa Thánh Thần có câu: “Thánh Thần khấn xin ngự đến, hồn con đang mong chờ Ngài… Ngài ơi xin Ngài hãy đến chiếu sáng thế gian u mê sai lầm, Ngài ơi mau đến hiển linh Ngài ơi.” Lời khuyên thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thì mới thấy rõ và đúng cái sai lầm của mình.
3. Chú bé bị mù từ bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú dần dần sáng ra. Ngày nọ, mẹ dẫn chú ra đường và mở mắt che, chú say sưa ngắm nhìn trời đất. Chú kêu lên: “Mẹ ơi, sao bao lâu nay mẹ không nói cho con hay đất trời đẹp như thế này.” Bà mẹ bật khóc nói: “Con ạ! Mẹ đã cố gắng nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làm sao hiểu được.”
Nếu Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng chẳng thấy sự hiện diện của Chúa.
1. Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần là Parakletos (Đấng Bào chữa) của các tông đồ và của chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết thêm một vai trò khác nữa của Chúa Thánh Thần: Ngài là “kẻ chứng minh thế gian sai lầm”, nghĩa là vạch cho con người thấy những sai lầm của mình.
Chúa Thánh Thần sẽ vạch cho ta thấy 3 thứ sai lầm:
- Sai lầm thứ nhất là “về tội lỗi”: Với người Do Thái xưa là tội đã không tin Chúa Giêsu, với chúng ta ngày nay, là tin nhưng không sống xứng đáng với niềm tin của mình.
- Sai lầm thứ hai là “về sự công chính”:
Với người Do Thái xưa là tội không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng công chính nên đã giết Ngài. Với chúng ta ngày nay, là nhiều khi chúng ta có những ý nghĩ sai về Chúa, bóp méo hình ảnh của Chúa theo sở thích chủ quan của mình. Thí dụ kẻ cố chấp miệt mài trong tội thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng nhân hậu vô cùng; kẻ khắt khe hay lên án người khác thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng công minh nhất định sẽ trừng phạt người tội lỗi; kẻ đang dan díu trong tình yêu ngang trái thì cái phao của họ là “Thiên Chúa là tình yêu” để tự an ủi: Yêu nhau thì có tội gì đâu…
- Sai lầm thứ 3 là “về việc xét xử”: xưa thượng hội đồng Do Thái lên án xử tử Chúa và nhiều người Do Thái cũng cho rằng, án ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Đây là một thứ sai lầm dựa vào dư luận. Còn chúng ta ngày nay là nhiều khi chúng ta dựa vào những dư luận sai lầm để có thành kiến không đúng về người khác.
2. Cái nguy của ngày xưa cũng như ngày nay là nhiều người không nhận ra được những sai lầm của mình.
Trong những câu chuyện của người Da Đỏ xưa tại Châu Mỹ người ta còn giữ lại câu chuyện này.
Có một anh nông dân chất phác nọ, ngày kia lượm được quả trứng chim phượng hoàng. Lòng tốt thôi thúc anh đi tìm tổ chim phượng hoàng để trả lại. Không tìm được, anh đem trứng đó đặt vào ổ vịt. Vịt nở trứng và trứng phượng hoàng cũng nở. Phượng hoàng con sống giữa đàn vịt, lặn lội trong nước, ăn uống, đi đứng, kêu cạp cạp... tất cả đều giống như bao con vịt chung quanh.
Phượng hoàng con không bao giờ đặt vấn đề mình là ai. Nó cứ nghĩ, mình là vịt như bao con vịt khác và hành động giống như vịt vậy. Ngày này qua ngày khác, phượng hoàng con sống kiếp vịt! Nhưng một ngày kia, trong một lần đi ăn chung với các bạn, phượng hoàng con bỗng nhìn lên trời và thấy một phượng hoàng nghiêng cánh bay lượn qua lại... Phượng hoàng ở dưới đất bỗng cảm thấy mình như muốn bay lên cao, bay nghiêng như vậy. Nhưng khi nó vừa vỗ cánh muốn bay lên cao thì mấy con vịt đứng bên cạnh mắng nó rằng:
- Đừng làm kiểu muốn bắt chước kẻ khác. Mày chỉ là một con vịt mà thôi, không thể bay cao như con phượng hoàng đang bay lượn trên kia được đâu.
Thế là con phượng hoàng lạc loài sống và chết trong xác tín sai lầm: “Mình chỉ là con vịt”
Thái độ của chúng ta đối với chính mình nhiều khi cũng như thế. Mình sai nhưng không biết là mình sai, không thấy được cái sai lầm của mình.
3. Và còn có một thái độ nguy hiểm hơn nữa đó là nhiều khi đã được soi sáng để nhận ra những sai lầm của mình nhưng lại không dám đối mặt với chúng và không dám can đảm sửa lại.
Nhà hiền triết Mạnh Tử sang nước Tề. Một hôm nhân cuộc nói chuyện thân tình, ngài đánh bạo hỏi vua Tề Tuyên Vương mấy câu:
- Giả sử có người bầy tôi nhà vua đem đời sống của vợ con gửi gắm một người bạn thân, nhờ trông nom giúp để sang chơi nước Sở có việc. Tới khi về mới hay bạn để vợ con mình đói rét, người ấy phải xử trí thế nào?
Tuyên Vương đáp:
-Tuyệt giao ngay.
Mạnh Tử lại hỏi:
- Giả sử có người làm quan sĩ sư (coi việc hình ngục) không chăm nom mỗi thuộc viên để hình ngục sai lầm, công việc lộn xộn, nhà vua xử sao?
- Đuổi cổ đi!
Mạnh Tử luôn dịp hỏi thêm một câu nữa:
- Thế làm vua một nước mà không lo việc triều chính để đến nỗi ở trong nước không bình trị thì trách nhiệm về ai và nên xử ra sao?
Tề Tuyên Vương nghe nói, ngoảnh ngay sang tả hữu, nói lảng qua việc khác, vừa có ý chữa thẹn, vừa tránh không trả lời.
Giả như Chúa hỏi chúng ta “Thế làm cha… làm mẹ một gia đình mà không lo cho gia đình để đến nỗi gia đình không còn giữ được thế giá gia phong, không còn giữ được phẩm chất đạo đức của gia đình nữa thì trách nhiệm về ai và nên xử ra sao?
Lạy Chúa, trong cuộc đời đã có nhiều lần Chúa soi sáng cho chúng con nhưng chúng con cũng giả điếc làm ngơ như thế. Xin Chúa tha thứ cho chúng con. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.” Ðức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ. Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần... Ðức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26). Ngài cũng chẳng phải là Ðấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Ðấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16). Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật. Vì lợi ích của họ, Ðức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7), để nhường chỗ cho Ðấng Cha và Ngài sai đến. Ðức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy. Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Ðức Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Ðức Giêsu. Cha cũng chẳng tim mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng. “Mọi sự Cha có đều là của Thầy” (c.15) Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha. Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần, Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia. Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn. Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín. Thế giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo. Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người. Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới thần linh của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con. Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi. Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế giới của Chúa không? Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em. Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen. ---------------------------------
Chúa Giê-su không thể nói hết. Vì quá sức chịu đựng của các tông đồ. Các ngài không thể nhớ hết. Và càng không thể hiểu nổi. Nhưng Thần Chân Lý sẽ đến và sẽ dẫn các ngài đến chân lý vẹn toàn.
Tiếng nói của Chúa Thánh Thần là tiếng nói thiêng liêng trong tâm hồn. Ai lắng nghe sẽ thấu hiểu những chân lý cao siêu. Và sự thật toàn vẹn sẽ vô cùng phong phú.
Chúa Giê-su là Ngôi Lời. Nên từ cử chỉ, lời nói, hành động, và toàn bộ cuộc sống, cái chết, phục sinh của Người đều là lời, là chân lý vô cùng phong phú, sâu xa. Thánh Gio-an chỉ sống sau các tông đồ khác khoảng gần 30 năm, nhưng Tin mừng Gio-an đã vô cùng sâu sắc và phong phú. Thánh nhân cho biết ngài chỉ viết ra những điều giúp người ta tin thôi. Nếu phải viết hết mọi điều thì thế gian không đủ chỗ chứa.
Thánh Thần sẽ dẫn ta đến chân lý vẹn toàn. Thánh Phao-lô có thể hiểu điều đó xuyên qua thất bại hôm nay. Đến A-the-na là thủ đô của sự khôn ngoan, Phao-lô đã vận dụng trí thông minh, sự khôn ngoan của người Hi lạp và kiến thức quảng bác của ngài về văn chương triết học Hi lạp để thuyết phục Hội đồng A-re-o-pa-go. Nhưng ngài đã thất bại. Bẽ bàng, ngài bỏ A-the-na đi Co-rin-tô.
Tại Co-rin-tô, ngài đã nhận ra không thể dùng sự khôn ngoan của người đời, nhưng phải dùng sự điên rồ của thánh giá: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.… nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm….Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí (1Cr 2, 1-13).
Lạy Chúa xin ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết sự thật toàn vẹn của Chúa.
Trong một tập truyện ngắn, nhà văn Hy lạp Nikos Kazanzakis có kể lại cuộc gặp gỡ giữa một linh mục Chính thống tên là Manassê và một ẩn sĩ. Hai vị đàm đạo với nhau suốt ngày mà câu chuyện vẫn không chấm dứt. Vị ẩn sĩ có thói quen nhắm nghiền đôi mắt trong khi nói chuyện. Thấy thế linh mục Manassê liền đề nghị ông hãy mở mắt ra, có mở mắt, ông mới thấy những kỳ công của Chúa. Nghe thế, vị ẩn sĩ trả lời: “Nhưng tôi nhắm mắt lại là để thấy Đấng đã thực hiện những kỳ công ấy”.
Chỉ với đôi mắt đức tin, con người mới cảm nhận và nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ trong Tin mừng hôm nay, được trích từ những lời giã biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trong Bữa Tiệc ly trước khi Ngài đi vào cuộc tử nạn. Chúa Giêsu xem cuộc tử nạn của Ngài như một cuộc ra đi trở về cùng Chúa Cha, vì sứ mệnh của Ngài đã hoàn tất. Nhưng sự ra đi của Ngài không phải là một vĩnh viễn từ giã cõi đời, mà là một hiện diện mới, và Thánh Thần chính là Đấng sẽ làm chứng về sự hiện diện mới ấy của Chúa Giêsu.
Chỉ trong Thánh Thần, nghĩa là trong đức tin, con người mới cảm nhận được sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu, chỉ trong Thánh Thần, con người mới hiểu biết về Chúa Giêsu. Đó là cảm nghiệm mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể có được từ sau lễ Ngũ tuần. Trước đó, Chúa Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra cho các ông, nhưng sự hiểu biết của các ông về mầu nhiệm của Ngài vẫn còn bị giới hạn. Chỉ sau khi Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh và chân lý của Ngài mới sáng tỏ trong tâm hồn các ông. Chúa Giêsu đã khẳng định vai trò giáo dục của Thánh Thần khi Ngài nói với các môn đệ: “Khi Thần Chân lý đến, Ngài sẽ đưa các con vào tất cả sự thật”.
Chúa Giêsu là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa đã nói với nhân loại qua người Con Một của Ngài, nhưng lời ấy con người chỉ có thể đón nhận và lãnh hội trong và nhờ Thánh Thần mà thôi. 2.000 năm qua, Thánh Thần đã không ngừng hướng dẫn và soi sáng để Giáo Hội đào sâu giáo huấn của Chúa Giêsu. Cũng chính Thánh Thần ấy qua phép rửa ban cho mỗi kitô hữu ơn hiểu biết về chân lý cứu rỗi và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh.
Thánh Phaolô, tuy chưa từng được sống với Chúa Giêsu, nhưng nhờ Thánh Thần đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục sinh, đến nỗi đã thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chính do Thánh Thần tác động, con người mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh, cho nên thánh Phaolô khuyên chúng ta đừng dập tắt Thánh Thần. Đừng dập tắt Thánh Thần có nghĩa là luôn biết lắng nghe tiếng nói của Ngài trong đáy thẳm tâm hồn chúng ta. Là đền thờ của Thánh Thần, cho nên từ trong tâm hồn, chúng ta luôn nghe đuợc tiếng nói của Ngài. Đừng dập tắt Thánh Thần có nghĩa là luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận sự hiện diện và tác động của Ngài trong mọi biến cố cuộc sống. Điều đó cũng có nghĩa là luôn nhìn vào cuộc sống bằng cái nhìn của lạc quan, tin yêu và hy vọng.
Nguyện xin Thánh Thần ban cho chúng ta một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương và hy vọng, để cuộc sống chúng ta trở thành dấu chứng cho sự hiện diện của Đấng Phục sinh.
Đức Giêsu Kitô, khi tiếp xúc với các tông đồ đã biết rõ sự yếu đuối của con người và sự khó hiểu của loài người về mặc khải của Thiên Chúa. Vì thế, ngày hôm nay, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta về Tin mừng này là “Thánh Thần sẽ đến dẫn đưa anh em đến sự thật toàn vẹn … Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.
Đức Giêsu đã hứa với chúng ta rằng chúng ta sẽ được dẫn tới sự thật toàn vẹn có phải để chúng ta biết được mọi bí mật trong vũ trụ? Có phải cho chúng ta một kiến thức bách khoa không? Có phải không có chi vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta không? Tôi không tưởng như vậy. Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chiều kích khác, đó là sự thật toàn vẹn về một người. Chân lý của giáo lý Công giáo chỉ cho chúng ta biết, người đó chính là Đức Giêsu, Đấng làm chứng về Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Đức Giêsu còn làm chứng rằng đời sống của chúng ta được mời gọi đến sự sống đời đời sau cái chết. Người lấy chính bản thân mình làm chứng rằng hiến mạng sống mình cho người khác là phương thế biến đổi đời sống diệt vong này ra đời sống trường sinh bất diệt. Theo giáo lý, tin là tin vào một người chân thật, lời chứng của họ mới chân thật. Người ta không tin những nguyên lý, những mầu nhiệm, những chân lý suông. Tin là tin vào một người. Mặc khải của Thiên Chúa chính là mặc khải về một người đã hành động đầy nhân ái đối với con người.
Điều quan trọng là chúng ta gắn bó liên kết nhiều với Đấng của công thức đức tin, chứ không phải công thức tín lý làm cho có đức tin như chúng ta tưởng. Chúng ta không bao giờ tới được Đấng mà các nhà thần học chôn vùi trong hàng ngàn từ ngữ.
Trong Thánh lễ, chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa đã cho chúng ta được tới với Ngài trong đức tin, và hãy cảm tạ Ngài vì đã ban tặng Thần khí của Ngài mặc khải cho chúng ta Đấng lạ lùng này là Đức Giêsu Kitô. Người là chân lý, là sự thật. Trong người chúng ta có thể hãnh diện biết bao.
Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn những môn đệ của Chúa Giêsu đến sự thật trọn vẹn. Chúa Giêsu dùng từ ngữ “hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn” để nói lên một trong những trách vụ của Chúa Thánh Thần. Ðây không có nghĩa là Chúa Thánh Thần mạc khải thêm cho các môn đệ Chúa Giêsu biết những sự thật mới mẻ về Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần không mạc khải thêm những điều mới. Mạc khải của Chúa Giêsu đã trọn vẹn nhưng các môn đệ chưa lãnh hội trọn vẹn hết mọi sự được, cần nhờ đến Chúa Thánh Thần để được dẫn sâu vào trong các sự thật của Chúa, để hiểu mỗi ngày một hơn mạc khải của Chúa. Ðây không phải là vấn đề về số lượng nhiều hay ít những sự thật của Chúa, nhưng là vấn đề về phẩm chất, về mức độ lãnh hội sự thật nơi các môn đệ. Các ngài cần đào sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, cần được hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn, cần hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, nhờ qua Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu biết các môn đệ còn là những người có những giới hạn và cả những tật xấu nữa, và do đó đang cần đến sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần biết là chừng nào để có thể làm chứng cho Chúa cách đáng tin.
Chúa hứa sẽ trao ban Chúa Thánh Thần xuống khi đã về cùng Thiên Chúa Cha vừa đồng thời mời gọi các ông hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận Chúa Thánh Thần. Hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi từng cá nhân của các tín hữu cũng như trong cộng đoàn Giáo Hội không đi ngược lại việc làm của Chúa Giêsu, nhưng làm cho công việc đó được đón nhận cách sâu xa hơn và như thế, có thể nói là Chúa Thánh Thần làm Chúa Giêsu Kitô được vinh hiển, được nhiều người biết đến mỗi ngày một hơn.
Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta mỗi ngày một hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, mỗi ngày một trở nên người Kitô trung thực hơn, mỗi ngày một chiến thắng nhiều hơn trên tội lỗi.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin thương ngự xuống trên chúng con và hướng dẫn chúng con trên con đường hiểu biết và yêu mến Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn.
Ngày nay, con người khao khát sự thật biết là chừng nào! Tuy nhiên, con người cũng rất sợ sự thật và ngại khi nghĩ hay nói về nó??
Khao khát, bởi vì chỉ có sự thật chân tình, người ta mới có thể ngồi lại với nhau, mới có thể cùng nhau giải quyết vấn đề cho tốt.
Người ta sợ sự thật, bởi vì sự thật sẽ làm cho những người ưa sống hình thức, hào nhoáng, giả tạo bị phanh phui, bóc trần.
Người ta ngại sự thật, bởi vì khi đối diện với sự thật, họ phải thay đổ lối sống và cách nghĩ.
Tuy nhiên, cái khó là: nhiều khi không biết đâu là thật, đâu là giả, nên có những sự kiện tưởng chừng như là thật thì lại là giả; đôi khi cái tưởng là giả thì hóa ra lại là thật.
Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho các môn đệ biết Chúa Thánh Thần chính là Đấng sẽ giúp cho các ông biết đâu là sự thật trong mầu nhiệm cứu độ, để các ông cứ theo sự hướng dẫn của Người mà tiến bước thì sẽ được cứu độ.
Cuộc đời của Đức Giêsu đã hoàn toàn đứng về phía sự thật, và Ngài không ngần ngại tuyên bố: “Tôi đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật. Chính vì điều này mà tôi đã đến”. Ngài cũng kêu gọi: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Chính vì thế, từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ, các ông mới hiểu đúng sứ mạng của Đức Giêsu là: đến để cứu chuộc chứ không phải vì chính trị!
Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, nhiều khi cũng chẳng khác gì các môn đệ khi xưa. Có những lúc chúng ta uốn nắn Lời Chúa và phỏng chiếu dưới cái nhìn thiển cận của mình. Lấy Lời Chúa làm bình phong để hỗ trợ cho sự gian dối hay những mục đích phần xác hơn là phần hồn. Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta không đứng về phía sự thật và không sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Mong sao, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần thật dồi dào, phong phú. Đây là một hồng ân, và cũng là trách nhiệm đòi chúng ta phải đứng về phía sự thật, làm chứng cho sự thật, dầu có phải chết.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con can đảm lựa chọn sự thật và trung thành đi theo sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu sẽ ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, để Chúa Thánh Thần soi sáng Giáo Hội thấu hiểu giáo huấn và sứ mạng của Chúa Giêsu. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ làm cho chương trình cứu độ của Chúa Ba Ngôi được trọn vẹn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, để con có thể lãnh nhận trọn vẹn công cuộc cứu độ, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho con. Chúa mặc khải cho con biết Thánh Thần là Thầy dạy con, giúp con hiểu tất cả giáo huấn của Chúa và đưa con vào sự thật toàn vẹn. Nhờ Chúa Thánh Thần, con nhận ra Chúa là Thiên Chúa, và Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất với nhau.
Vì yêu thương chúng con, Chúa Cha đã trao ban Con Một là chính Chúa, và cũng vì yêu thương chúng con nên Chúa ban Thánh Thần cho chúng con. Chúng con xin cảm tạ tình thương của Chúa. Chúng con được Thiên Chúa trân trọng yêu thương, trong khi chúng con chỉ là những thụ tạo của Chúa, những thụ tạo đã hơn một lần chối từ tình yêu của Chúa.
Xin Chúa Thánh Thần giúp con ngày càng khám phá ra Chúa, thấu hiểu Chúa nhiều hơn, cảm nghiệm được tình yêu bao la thầm lặng của Chúa. Với ơn Phục Sinh giao hòa, con được Chúa ban Thánh Thần. Người luôn hiện diện trong tâm hồn và cuộc sống con. Con muốn trở nên người học trò của Chúa Thánh Thần, luôn ham thích lắng nghe và thực thi những lời Người dạy bảo, những lời của chân lý. Lời của Người âm thầm trong con, xin cho con biết lắng nghe. Và đừng để con cố tình gạt bỏ tiếng nói của Người trong linh hồn con. Amen.
Ghi nhớ: “Thần Chân lý sẽ dạy các con biết tất cả sự thật”.
Tại Mamrê, dưới cây sồi, tổ phụ Abraham khi nghỉ ngơi giữa cơn nóng ngặt của mùa hè thiêu đốt đã được gặp Thiên Chúa: “Ðức Chúa hiện ra với ông Abraham tại cụm sồi Mamrê... Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất thờ lạy” (St 18,1-2). Ba người mà Abraham thờ lạy là Thiên Chúa Ba Ngôi, theo các nhà chú giải Thánh Kinh, và thái độ thờ lạy chỉ dành duy nhất cho Thiên Chúa, ông đã mời Ngài vào viếng thăm: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài” (St 18,3). Ba Ngôi đã viếng thăm “túp lều bé nhỏ của đôi vợ chồng già” và chúc lành cho Sara - người vợ son sẻ không con giữa lúc tuổi già đã xế bóng về chiều với lời hứa sang năm bà sẽ sinh con.
Lời chúc lành đó đã thành hiện thực, Sara sinh con trai là Isaac và bà đã hân hoan tuyên tín: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười” (St 21,6). Sara cười vui sướng sau bao năm sầu não vì sự son sẻ tủi nhục của mình, niềm vui này là kết quả từ sự viếng thăm của Thiên Chúa…
Suy niệm
Chúa Ba Ngôi đã viếng thăm tổ phụ Abraham mà Sara vợ ông đã ca tụng là trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo: Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng - Đấng tạo thành trời đất…; là Con - Đấng cứu chuộc… và Thánh Thần - Đấng Thánh hóa. Chúng ta còn xác tín tuy Ba Ngôi nhưng cùng một bản tính Thiên Chúa và chỉ có một Thiên Chúa duy nhất.
Tertullianô - một văn sĩ Công giáo nổi tiếng thời các giáo phụ đã suy gẫm về Chúa Ba Ngôi: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần gắn bó với nhau như là nguồn suối, dòng sông và hồ” (hồ được dẫn nước từ nguồn qua sông). Lời suy gẫm về Ba Ngôi Thiên Chúa đưa tôi chìm đắm trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Cách diễn tả của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tất cả từ nơi Cha như là nguồn, đều thuộc về Con như biểu tượng của dòng sông và Người lãnh nhận để ban phát là Thánh Thần ẩn dụ dưới hình ảnh hồ ân sủng ban phát nước hằng sống.
Thiên Chúa Ba Ngôi luôn hiện hữu giữa chúng ta vì: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8) như thánh Gioan đã khẳng định. Ba Ngôi đã hợp nhất trong tình yêu cho nên Ba Ngôi cũng gợi cho chúng ta đi vào tình yêu vĩnh cửu này. Thiên Chúa không ở xa chúng ta, Ngài không chỉ ở trong tín điều hay ở bầu trời xa xăm mà Ngài ở bên và trong mỗi chúng ta qua Ngôi Hai nhập thể, chính Ngôi Con biểu lộ tình yêu của Chúa Cha và cùng Cha ban phát Thánh Thần, nguồn tình yêu cho nhân loại. Ngôi Hai mời gọi chúng ta đi vào sự hiệp nhất và gắn bó với tình yêu Cha - Con “để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Ba Ngôi, con người được mời gọi đến với tình yêu, đổi mới chính mình trong tình yêu hiệp nhất và tương trợ lẫn nhau. Tình yêu đã liên kết Ba Ngôi thành một Thiên Chúa duy nhất và tình yêu này cũng làm cho chúng ta thông hiệp với đời sống Thiên Chúa và với anh em, hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26-27). Chính vì thế, các tín hữu của cộng đoàn tiên khởi đã sống trong sự hiệp nhất tuyệt vời mà thánh Luca đã ghi nhận: “hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện.... các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến”... (Cv 2,42.44-47). Đó là hình ảnh sống động phác họa từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, mỗi lần ca tụng kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính... chúng ta ý thức không chỉ tuyên xưng trên môi trên miệng mà là từ sâu thẳm của tâm hồn, chúng ta mời Ngài vào viếng thăm để nơi đó diễn ra sự hội ngộ đặc biệt như trong túp lều của Abraham: Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ làm cho chúng ta cười như Sara đã cười...
Ý lực sống:
“Lòng tin kính trước sau chẳng đổi Chúa là Cha tuyệt đối quang vinh Ngôi Hai Con Một hiển linh Thánh Thần do bởi mối tình Cha Con…” (Thánh Thi Kinh Sáng Lễ Chúa Ba Ngôi).
1. Đức Giêsu đã nói trước với các Tông đồ và đồng thời cũng là lời hứa với các ông, là Ngài sẽ sai Chúa Thánh Thần, là Thần Chân lý đến để tiếp tục giảng dạy cho các ông và cho cả thế giới biết tất cả sự thật về Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy về sư phạm của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta hiểu biết, huấn luyện ta lớn lên. Điều này giúp chúng ta tin tưởng vào ơn phù trợ và ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để nhờ đó chúng ta ý thức và sốt sắng hơn trong việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
2. Đức Giêsu là mạc khải trọn vẹn về Chúa Cha. Nhưng các môn đệ Người có khả năng tiếp nhận trọn vẹn mạc khải ấy hay không là một chuyện khác. Người xác nhận rằng các ông chưa “có thể chịu nổi” sự thật toàn vẹn. Người hứa rằng Thần Khí sự thật, tức Chúa Thánh Thần, sẽ đến – nhưng không phải để trao “cú một” nguyên gói sự thật, mà là để “dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Như thế, việc khám phá sự thật là một quá trình cần phải được tiếp tục không ngừng trong sự dẫn dắt của Thánh Thần; và thái độ đứng đắn của người môn đệ Chúa Giêsu là khiêm tốn, ngoan ngoãn lắng nghe sự dẫn dắt – thường một cách rất tế nhị và từ những phía rất bất ngờ - của Chúa Thánh Thần. Thái độ hãnh thắng, tự mãn, coi mình hoàn toàn đúng và kẻ khác hoàn toàn sai... chắc chắn không phải là thái độ của một người ở trong Thần Khí sự thật (5 phút Lời Chúa).
3. Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn những môn đệ của Đức Giêsu đến sự thật toàn vẹn. Đức Giêsu dùng từ ngữ “hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn” để nói lên một trong những trách vụ của Chúa Thánh Thần. Đây không có nghĩa là Chúa Thánh Thần mạc khải thêm cho các môn đệ Chúa Giêsu biết những sự thật mới mẻ về Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần không mạc khải thêm những điều mới. Mạc khải của Đức Giêsu đã trọn vẹn nhưng các môn đệ chưa lãnh hội trọn vẹn hết mọi sự được, cần nhờ đến Chúa Thánh Thần để được dẫn sâu vào trong các sự thật của Chúa, để hiểu mỗi ngày một hơn mạc khải của Chúa. Các ngài cần đào sâu hơn giáo huấn của Đức Giêsu, cần hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn, cần hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, nhờ qua Thánh Thần. Đức Giêsu biết các môn đệ còn là những người có những giới hạn và cả những tật xấu nữa, và do đó đang cần đến sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần biết là chừng nào để có thể làm chứng cho Chúa cách đáng tin.
4. Chỉ trong Chúa Thành Thần, nghĩa là trong đức tin, con người mới cảm nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu, chỉ trong Thánh Thần, con người mới có thể hiểu biết về Đức Giêsu. Đó là cảm nghiệm mà các môn đệ Đức Giêsu có thể có được từ sau lễ Ngũ tuần. Trước đó, Đức Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra cho các ông, nhưng sự hiểu biết của các ông về mầu nhiệm của Ngài vẫn còn bị giới hạn. Chỉ sau khi Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh và chân lý của Ngài mới sáng tỏ trong tâm hồn các ông. Đức Giêsu đã khẳng định vai trò giáo dục của Chúa Thánh Thần khi Ngài nói với các môn đệ: “Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ đưa các con vào tất cả sự thật (Mỗi ngày một tin vui).
5. Ngày nay đối với chúng ta, đời sống chúng ta luôn luôn cần đến sự giúp đỡ, hướng dẫn và giữ gìn. Ai sẽ giúp chúng ta điều đó? Thưa là Chúa Thánh Thần. Ngài không hiện diện giữa chúng ta theo kiểu Đức Giêsu đã hiện diện giữa các Tông đồ, nhưng Ngài ở trong lòng chúng ta, để thực hiện nơi chúng ta những gì Đức Giêsu đã thực hiện nơi các Tông đồ lúc Ngài còn tại thế. Ngài soi sáng trí khôn chúng ta, Ngài sưởi ấm cõi lòng chúng ta, Ngài thúc giục chúng ta làm điều lành và tránh điều xấu.
6. Truyện: Giêsu ông là ai?
“Giêsu, ông là ai”? Đó là câu hỏi của nhân vật Giuđa Iscariot trong tác phẩm “Giêsu, ông là ai” của nhà văn Dominico Donrio. Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Messia của dân Israel. Khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người; lúc đó, Đức Giêsu biến mất. Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền thì lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy, Đức Giêsu lại âm thầm đến với cộng đoàn Esseniens, nơi Giuđa Iscariot là thủ lãnh.
Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng họ lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài xử thế và Giáo lý Ngài truyền dạy.
“Giêsu, Ngài là ai”? là câu hỏi của các môn đệ và của người đương thời. “Giêsu, Ngài là ai”? cũng là câu hỏi cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội ngược dòng.
Lạy Chúa, chỉ trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu và tin vào lời Chúa, một hiểu biết mang lại sức mạnh cho các ông đón nhận mầu niệm Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Và con cũng thế, sẽ chẳng hiểu được lời Ngài dạy trong cuộc sống, nếu không có thần khí của Ngài hướng dẫn. Nguyện xin Thánh Thần Chúa tỏa trên chúng con (Epphata).
Tiếp bài giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy Kitô hữu. Ngài sẽ dạy Kitô hữu biết sự thật, sự thật vẹn toàn.
Suy gẫm
1. “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con nhưng bây giờ chúng con không chịu nổi. Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt chúng con đến sự thật vẹn toàn.” Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dạy chúng ta biết về Chúa Thánh Thần: sau khi vạch cho chúng ta thấy những sai lầm của mình, Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn chúng ta đến sự thật, sự thật vẹn toàn:
Xã hội chúng ta đang sống là một xã hội nhiều gian dối, ngay cả mỗi người đối với bản thân mình mà cũng thường tự dối gạt mình: mình xấu mà nghĩ mình tốt, mình sai mà nghĩ mình đúng. Tất cả những sự dối trá đều gây hại, ngược lại, sự thật thì có lợi, nhưng lời Chúa nói “Sự thật sẽ giải thoát chúng con.” Bởi thế, mỗi người chúng ta cần phải biết sự thật, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, xin Ngài cho ta hiểu rõ hơn con người của mình như thế nào, còn những gì yếu kém cần sửa đổi.
2. Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật, không phải chỉ sự thật về bản thân mình như vừa nói trên, mà còn là sự thật toàn vẹn.
Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi.” Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh cách môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút là các môn đệ không chịu nổi nên Chúa Giêsu không nói nữa.
Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu của Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói tới chính là chén đắng.
Một lần khác Chúa Giêsu mở miệng nói mình sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, thì Thánh Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là màu nhiệm đau khổ của Thập Giá.
Trong đêm Thứ Năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô một lần nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con.” Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ.
Tóm lại sự tật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm hạ, phải chịu đau khổ, phải chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng tất cả các lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy; và khi đó, nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu:
Một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công Vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân hiểm nguy vì loan báo Tin Mừng, Ngài nói: “Tôi sung sướng vì được thông phần khổ nạn của Đức Giêsu Kitô trong thân xác tôi.” Ngài còn nói: “Vinh dự của ta là Thập Giá Đức Kitô,” cái Thập Giá mà những người trí thức Hy Lạp nói là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
3. “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đên sự thật toàn vẹn.”
“Giêsu, ông là ai?” Đó là câu hỏi của nhân vật Giuđa Itcariốt trong tác phẩm “Giêsu, ông là ai?” của nhà văn Dominico Donrio. Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Messia của dân Ítraen. Khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người, lúc đó Đức Giêsu biến mất. Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy Đức Giêsu lại âm thầm đến với cộng đoàn Esseniens, nơi Giuđa Itcariốt làm thủ lĩnh. Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài sử thế và giáo lý Ngài tuyền dạy.
“Giêsu, Ngài là ai?” là câu hỏi của các môn đệ và những người đương thời. “Giêsu, Ngài là ai?” cũng là câu hỏi cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội ngược dòng.
Lạy Chúa, chỉ trong Chúa Thánh Thần các môn đệ mới hiểu và tin vào Ngài, một hiểu biết mang lại sức mạnh cho các ông đón nhận mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Và con cũng thế, sẽ chẳng hiểu được lời Ngài dạy trong cuộc sống, nếu không có Thần Khí của Ngài hướng dẫn. Nguyện xin Thánh Thần Chúa toả trên chúng con.
1. Chúa Giêsu tiếp tục dạy chúng ta về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy. Ngài sẽ dạy Kitô hữu biết sự thật, sự thật vẹn toàn.
“Thầy còn nhiều điều muốn nói với anh em nhưng bây giờ anh em không chịu nổi. Khi nào Thần Chân lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt anh em đến sự thật vẹn toàn” (Ga 16,12-13). Sự thật mà Chúa Thánh Thần dẫn ta đến là sự thật toàn vẹn.
Chúng ta thấy trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu chỉ mới hé mở ra một chút vậy mà các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu không nói nữa.
Thí dụ như trong đêm thứ năm trước khi đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô không chịu nổi nên cự nự: “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con” (Ga 13,8). Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn mà các môn đệ phải chấp nhận là chính số phận của Thầy mình, phải tự khiêm hạ, phải chịu đau khổ, phải chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng tất cả các lần kể trên Chúa Giêsu đã không nói hết ý mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi.
Nhưng rồi khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy; và khi đó, nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu nữa.
Một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt và bị giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra thượng hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân hiểm nguy vì loan báo Tin Mừng, Ngài nói: “Tôi sung sướng vì được thông phân khổ nạn của Đức Giêsu Kitô trong thân xác tôi”. Ngài còn nói: “Vinh dự của ta là Thập Giá Đức Kitô”. Thập Giá mà những người trí thức Hylạp nói là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm thì thánh Phaolô lại coi là vinh dự.
2. Chúa còn quả quyết: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,12). Người sống trong sự thật sẽ luôn được Chúa soi sáng.
Một bác nông dân nọ, sau một đêm ngủ say, sáng ra mới hay đã bị kẻ trộm dắt mất con ngựa duy nhất trong chuồng. Đây lại là con ngựa nổi tiếng là khôn, vừa chạy nhanh, vừa cày giỏi, lại vừa dai sức. Bác nháo nhác vội vã đi truy tìm thì cuối cùng, gặp được con vật yêu quý ở một xóm chợ chuyên buôn bán ngựa. Bác khăng khăng đòi bắt ngựa về, nhưng tên bán ngựa quát tháo bảo đó là ngựa hắn đã nuôi từ lâu, hôm nay mới đem ra chợ bán. Hắn cho rằng, bác nông dân đã cố tình nhìn lầm để vơ vào cho mình những gì không phải là của mình.
Hai bên giằng co cãi đi cãi lại mãi cũng chẳng đi đến đâu cho nên họ bèn kéo nhau đến quan trên nhờ minh xét. Quan trên hình như đã bị hối lộ mua chuộc nên mới hạch hỏi:
- Lão bảo con ngựa này là của lão thế thì lão có thể cho biết một chi tiết nào làm chứng rằng, con ngựa này thật sự là của lão không? Lão mà khai man thì bị nghiêm phạt đấy nhé!
Thấy tình thế bất lợi cho mình, bác nông dân khôn ngoan ngẫm nghĩ một hồi rồi nẩy ra một diệu kế. Bác bất ngờ lấy hai tay bịt luôn hai mắt con ngựa rồi bảo tên trộm:
- Con ngựa này có một mắt bị tật. Nếu anh khai với quan là đã từng nuôi nó từ bé thì ắt hẳn anh phải biết rõ nó bị tật ở mắt nào! Bây giờ thì anh nói đi: con ngựa này bị tật bên mắt nào?
Tên trộm đâm ra ngẩn ngơ, đành nói liều:
- Nó bị tật ở mắt bên trái!
Bác nông dân liền cười thật to:
- Sai rồi, mắt trái của nó làm gì có tật!
Vừa nói bác vừa buông bàn tay đang bịt mắt trái con ngựa để quan trên có thể thấy rõ con mắt bên trái không hề có tật gì cả.
Tên trộm biết đã bị hố, cố vớt vát gân cổ lên cãi:
- Ấy tôi quên, con mắt bên phải nó mới bị tật cơ!
Bác nông dân lại càng cười to hơn nữa, vừa nói vừa buông nốt bên tay còn lại:
- Anh lại nói sai nữa rồi, mắt phải con ngựa cũng có thương có tật gì đâu. Thật ra, bẩm quan trên, con ngựa này tôi nuôi từ bé, hai mắt nó đều lành lặn. Đích thị tên này là kẻ đã trộm ngựa của tôi đêm qua. Xin quan trên minh xét!
Đám đông những người hiếu kỳ cùng kéo lên cửa quan, đã theo dõi đầu đuôi câu chuyện, giờ đây hiểu ra, bèn vỗ tay hoan hô bác nông dân tài trí. Thế là quan đành phải xử thắng cho bác nông dân, còn tên trộm thì bị bắt giam để trừng trị tức khắc.
Quả đúng là điều gì đã gian dối thì dù có quanh co lấp liếm thế nào đi nữa rồi cũng sẽ bị đưa ra ánh sáng của chân lý vẹn toàn!
Chúa Giêsu đã nói: “Sự Thật sẽ giải phóng anh em” – Hãy can đảm sống theo sự thật, chúng ta sẽ luôn có sự bình an trong tâm hồn.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha”. Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: “Điều Người nói với chúng ta: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, và “Vì Thầy về cùng Cha”, như thế có ý nghĩa gì?” Họ nói: “Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?” Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: “Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”.
Thầy Giêsu nói với các môn đệ một câu đối với họ là khó hiểu: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (c. 16). Câu này có thể dễ hiểu với chúng ta vì chúng ta biết rõ cái chết trên thập giá đang chờ Thầy Giêsu. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, cái chết này sẽ khiến các môn đệ không còn được thấy Thầy nữa. Chúng ta cũng biết rằng chỉ một thời gian ngắn sau, Thầy Giêsu lại được phục sinh, và đã hiện ra cho các môn đệ thấy. Mất Thầy là một thử thách lớn trong đời người môn đệ. Thầy là chỗ dựa, là lý do khiến họ chấp nhận cuộc sống bấp bênh này. Chính Thầy đã gọi, đã kéo họ ra khỏi gia đình và nghề nghiệp ổn định để lang thang đó đây, sống nhờ lòng tốt của những người nghe giảng. Gần ba năm sống bên Thầy, chia sẻ ngọt bùi, thành công thất bại, tình Thầy trò gần gũi như tình bạn hữu. Bây giờ mất Thầy, họ sẽ đi đâu và đi với ai? Cái chết trên thập giá của Thầy là đại tang của một người thân. Nỗi đau này được nhân lên nhiều lần vì họ đã không dám có mặt để lo liệu việc mai táng. “Anh em sẽ khóc lóc và than van… Anh em sẽ buồn phiền…” (c.20). Khi tảng đá đã khép kín ngôi mộ, chẳng còn thấy Thầy nữa, khi thế gian và thủ lãnh của nó hả hê vui sướng vì chiến thắng, liệu các môn đệ có vượt qua được nước mắt đau đớn này không? “Ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… (c. 16) và nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (c. 20). Anh em sẽ lại thấy Thầy lúc Thầy hiện ra gặp anh em sau phục sinh, lúc Thầy sai Thánh Thần đến ở với và nâng đỡ anh em, và nhất là lúc Thầy đồng bàn với anh em trong bữa tiệc Thiên quốc. Khi gặp lại Thầy và nhận ra Thầy đang sống, thế nào anh em cũng hết phiền muộn đắng cay. Nỗi buồn của anh em tan biến khi anh em biết rằng Thầy mới là người chiến thắng. Đời sống người Kitô hữu đan xen giữa vui với buồn. Có lúc thấy mất Chúa và mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán. Chúng ta phải chia sẻ cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày. Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi. Niềm vui trong ta như sống lại với bao hy vọng dâng trào. Chỉ xin đừng bỏ đi khi thấy Chúa vắng bóng và thất bại trong đời ta. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề; có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy; có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin. Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn, niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen. -------------------------------
Trước khi chịu khổ nạn. Chúa Giê-su loan báo cho các tông đồ: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui”. Khi Chúa chịu chết và an táng trong mộ, các tông đồ không còn trông thấy Thầy. Không phải chỉ không trông thấy, mà còn có tâm hồn trống rỗng, cô đơn, tuyệt vọng. Trái lại thế gian đắc thắng vui cười. Chúa đã chết. Đó là thắng lợi của trần gian. Họ niêm phong cửa mộ. Cắt đặt lính canh. Đắc thắng.
Nhưng khi Chúa phục sinh, các tông đồ lại tràn ngập niềm vui. Vui vì được gặp lại Chúa. Nhưng ở một chiều kích khác. Hai môn đệ đi đường Em-mau đi bên Chúa suốt mấy tiếng đồng hồ. Nhưng không nhận biết Chúa. Họ nhìn thấy nhưng không nhận ra. Trái lại khi Chúa đã biến đi rồi thì họ lại thấy Chúa, nhận ra Chúa đang hiện diện. Không thấy Chúa bằng đôi mắt thể xác. Họ thấy Chúa bằng ánh mắt nội tâm. Vì Chúa vắng mặt. Nhưng lại hiện diện tràn đầy. Đó là hiện diện phục sinh. Họ đã chết. Nhưng nay sống. Sống mãnh liệt. Sống phong phú. Đó là đời sống đức tin.
Chính ánh mắt nội tâm đó. Chính sự hiện diện phục sinh đó. Chính đời sống đức tin đó làm cho các tín hữu sơ khai. Dù bị bắt bớ, bị xua đuổi, kể cả bị giết chết, mà vẫn bình an. Và như thánh Phao-lô, bị chống đối mà vẫn bình tĩnh. Bị đánh đập mà vẫn kiên cường. Bị nhục mạ mà vẫn vui tươi. Vì có Chúa ở cùng. Chúa phục sinh luôn ở bên các ngài.
Đó là sức sống mới. Sức sống của Chúa phục sinh. Sức sống tràn trào thôi thúc các ngài đi rao giảng, làm chứng về Chúa. Hàng ngày phải lao động sinh nhai. Cuối tuần vẫn hăng say rao giảng: “Ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. Mỗi ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do thái, lẫn người Hy-lạp”. Bị chống đối nơi này thì đi nơi khác. Bị người này chống đối thì rao giảng cho người khác. “Bởi họ chống đối và nói lọng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: “Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại”.
Xin cho con cảm nhận được sự hiện diện phục sinh của Chúa. Để con có niềm vui tươi hăng hái làm chứng cho Chúa.
Kinh điển Phật giáo có ghi lại câu truyện như sau: Một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất trên đời đã bị chết. Trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đem đứa bé đến nhà những người láng giềng và xin họ vui lòng chỉ cho biết có thứ thuốc nào có thể làm cho con bà sống lại, nhưng ai ai cũng chỉ biết lắc đầu và cảm thông mà thôi. Nhưng cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một vị lương y có thể cải tử hoàn sinh cho đứa bé, người đó chính là Đức Thích Ca.
Người đàn bà khốn khổ tìm đến Đức Thích Ca và khẩn cầu Ngài ban cho một liều thuốc. Đức Thích Ca liền nói: “Ta cần có một ít hạt cải”. Nghe thế, người đàn bà liền vội vã đi tìm hạt cải và đem lại cho Đức Thích Ca. Nhưng vừa thấy những hạt cải, Ngài lại bảo: “Hãy đi mời những gia đình nào không có tang chế đến lấy những hạt cải này. Tin lời Đức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà để mời gọi mọi người lấy hạt cải, nhưng tất cả đều từ chối, vì thật ra không ai mà lại không có người thân đã ra đi.
Khi người đàn bà trở về nhà thi đêm đã bắt đầu xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn. Nhưng càng về khuya, ánh sáng càng tắt dần, và cuối cùng đêm đen dầy đặc bao trùm vạn vật. Lúc bấy giờ người đàn bà mới suy nghĩ: đời là thế: sinh ra, đau khổ rồi chết. Nghĩ thế, bà đứng dậy đem xác con vào rừng và chôn cất.
Đau khổ và tận cùng là cái chết, đó là phần số của kiếp người mà khi nhập thể làm người, Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi, Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc tử nạn mà Ngài phải trải qua. Nhưng xem ra các môn đệ Ngài không hiểu được và cũng không muốn chấp nhận tại sao một số phận nghiệt ngã như thế lại có thể xẩy ra cho Thày mình, một người có quyền phép trên cả sự chết và nhất là đang trên đường tiến đến một tương lai sáng lạn. Trong những giờ phút cuối cùng còn ngồi bên các ông. Chúa Giêsu lại nói đến cái chết của Ngài, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như một cuộc ra đi: ra đi mà không vĩnh biệt, do đó, Chúa Giêsu đã nói: “Một ít nữa, các con sẽ không thấy Thày, rồi một ít nữa, các con sẽ lại thấy Thày”. Một lần nữa, loan báo cái chết, Chúa Giêsu cũng báo trước sự Phục sinh của Ngài: các môn đệ sẽ buồn sầu vì cái chết của Ngài, nhưng rồi niềm vui của họ sẽ gấp bội khi Ngài sống lại. Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu gắn liền với đau khổ và niềm vui của các môn đệ; đúng hơn, cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng và mầu nhiệm khổ đau của con người.
Kitô giáo không chối bỏ thực tại của khổ đau, nhưng trong cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kitô giáo không còn nhìn vào khổ đau như một ngõ cụt của cuộc sống, trái lại, trong ánh sáng Phục sinh của Chúa Giêsu, cuộc sống vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống. “Một ít nữa, các con sẽ không thấy Thày, rồi một ít nữa, các con sẽ lại thấy Thày”. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy Ngài ngay cả trong những lúc tăm tối nhất của cuộc sống. Thấy được Ngài bám chặt lấy Ngài, thì cho dù khổ đau có chồng chất, con người vẫn thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhận ra khuôn mặt của Ngài trong những anh em đang đau khổ chung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với những người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục sinh sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta.
Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong đoạn Tin mừng này. Đức Giêsu nói: “Ít lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy. Thầy về cùng Chúa Cha”. Phải nghĩ gì về ẩn ngữ này? Đức Giêsu đi du lịch một thời gian ngắn ư? Sự vắng mặt của Người giống như một cuộc hành trình đến miền nhiệt đới ư? Hay lời Người như trò chơi hú tim của trẻ em, lúc ẩn, lúc hiện bất ngờ ư? Những lời này tàng chứa một mặc khải phong phú. Hôm nay, chúng ta nghe biết sự mặc khải trọn vẹn về sinh lực của Đức Kitô: Thầy về cùng Cha. Đức Kitô đang chuẩn bị sẵn sàng khởi hành về Đấng là nguồn sự sống, nguồn sinh lực.
Cuộc sống của Đức Kitô không ngừng ra đi và trở về. Không đi bằng con đường đất đá, nhưng bằng con đường huyền diệu sâu thẳm và gắn bó mộ mến. Đức Giêsu càng ngày càng hiệp thông sâu xa vào kế hoạch của Cha Người. Đó là con đường hiệp thông thực hiện cứu độ để lật ngược lại sức nặng bất phục tùng của con người.
Tuy nhiên, trở về cùng Cha, Đức Giêsu vẫn không xa lìa chúng ta. Càng hiệp thông với Chúa Cha sâu thẳm bao nhiêu, Đức Giêsu càng ban tặng sự sống dồi dào. Vì Chúa Cha là nguồn sự sống, đã ban sự sống lại và sự sống vinh quang cho Chúa Con để Chúa Con làm cho mọi người được sống và sống lại với Người.
Chúng ta cũng được mời trở về cùng Chúa Cha để tham dự vào chính nguồn sống đó. Nhờ đó, chúng ta càng ngày càng thực hiện được sứ vụ từ Chúa Cha trao cho để trở nên người thông truyền sự sống của Chúa Cha và ra đi hiệp thông với người khác trong Chúa Con.
Thánh lễ lôi cuốn chúng ta vào dòng sống trở về này. Trong dòng sống này chúng ta được liên kết với Đức Kitô, để thấy được nguồn vui về cùng Chúa Cha đang chờ đợi chúng ta ở tột đỉnh con đường trở về của Chúa Con.
Chúa Giêsu mạc khải trước cho các môn đệ về mối tương quan mới cần phải có giữa Chúa và các ông trong mầu nhiệm vượt qua. Sự hiện diện mới của Chúa Phục Sinh với các môn đệ đòi hỏi các ngài phải có cái nhìn mới đối với Chúa và có thái độ sống mới. Sống thấy niềm vui vì xác tín có Chúa luôn hiện diện bên cạnh, cả trong những lúc gian nan bị thử thách, bị bách hại. Lời quả quyết của Chúa Giêsu: “Ít lâu nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa các con sẽ lại thấy Thầy” loan báo trước về thực tại mới sau biến cố vượt qua của Chúa. Trong vòng ba năm theo sống bên cạnh Chúa Giêsu, các môn đệ đã trông thấy Chúa Giêsu, nhưng có thể nói là các ông chưa thực sự thấy Chúa, vì các ông không hiểu được Chúa thực sự là ai. Ðức tin chưa được trọn vẹn, các ông còn cần Chúa Thánh Thần đến trợ giúp để được đưa vào trong sự thật trọn vẹn để hiểu thấu đáo hơn, để được thấy Chúa Phục Sinh. Khi nghe Chúa loan báo người sắp ra đi chịu khổ nạn thì các ông buồn. Những kẻ thù của Chúa khi giết chết Chúa trên thập giá thì vui mừng tưởng rằng mọi sự việc sẽ chấm dứt từ đây. Phần Chúa Giêsu, người báo trước cho các môn đệ là mọi sự sẽ được đổi mới, Chúa vẫn sống, sẽ đến với các ông, sẽ hiện diện với các ông cách mãnh liệt, vững chắc hơn nữa.
Chỉ “ít lâu nữa, các con lại thấy Thầy”, đây là mầu nhiệm cao cả của đời sống Kitô. Chúng ta sẽ không thấy được Chúa Giêsu, không thể tin nhận Người cho đến khi nào được Chúa Thánh Thần soi sáng để thấy Chúa, hiểu và tin nhận Chúa. Cần phải có sự thay đổi nội tâm, có cái nhìn mới về Chúa Giêsu, phải có niềm vui đích thực. Các tông đồ được mời gọi nâng tâm hồn lên, vượt qua được những cảm giác thường tình, để có thể khám phá ra Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ trong cuộc đời các ông, và từ đó nếm hưởng niềm vui đích thực, không phải niềm vui thế gian ban cho, nhưng là niềm vui từ Chúa, niềm vui mà không quyền lực thế gian nào có thể lấy mất đi được. Cần phải bước vào trong mối tương quan mới với Chúa Giêsu. “Các con cũng vậy, bây giờ các con lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không một ai lấy mất được”. Ðó là vì Chúa Giêsu hiện diện cách mới mẻ trong đời sống các môn đệ. Các ông phải thay đổi để đón nhận sự hiện diện mới mẻ này: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng”. Chúng ta phải thể hiện và phải sống làm sao để cho thế gian, cho anh chị em chung quanh được trông thấy những sự thật chúng ta đang có trong tâm hồn mình, do sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn mình.
Lạy Chúa, xin hãy đến ngự trong con, cho con được sống mối tương quan mới với Chúa và sống vững mạnh trong niềm vui, mọi nơi và mọi lúc.
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng những lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!
Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?”
Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi’”.
Hôm nay, các môn đệ biết Đức Giêsu sắp rời xa mình, nên các ông buồn sầu và lo lắng! Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các ông và báo cho các ông về sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần. Đây là niềm vui vô cùng to lớn, bởi vì nhờ Người, mà các ông hiểu được con người, lời giảng dạy và sứ vụ của Đức Giêsu đúng theo chương trình và ý định của Thiên Chúa Cha. Như vậy, sự ra đi của Đức Giêsu sẽ đem lại cho các môn đệ niềm vui trọn vẹn qua Chúa Thánh Thần.
Trong đời sống đức tin của mình, nhiều khi chúng ta cũng cảm thấy Chúa như xa dần chúng ta! Nhất là khi túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bị hiểu lầm, vu vạ cáo gian hay cô đơn... Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta vững tin rằng, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Thật vậy, những khi ta rối trí ngã lòng và cảm thấy lạc lõng, chúng ta hãy tin tưởng rằng: lúc đó chúng ta đang được Chúa bồng ẵm trên tay, để chỉ còn có một đôi chân của Chúa mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vững tin vào Chúa, dù cuộc đời lắm nỗi khổ đau. Xin cho chúng con hiểu rằng, những lúc đó Chúa đang gần chúng con hơn cả, và xin cho chúng con được gần Ngài nhờ niềm tin. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã trở thành ý nghĩa cho thời gian. Thời gian có Ngài hiện diện là thời gian của niềm vui. Vì vậy, thời gian của người tín hữu sẽ trở thành u buồn nếu vắng bóng Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời con được dệt thành từ bao nhiêu biến cố. Mỗi sự việc xảy ra tạo nên những tâm trạng khác nhau. Có lúc con cảm thấy thật dễ chịu sung sướng vì cuộc đời hợp ý con. Nhưng rất nhiều khi con chán nản, thời gian sao nặng nề căng thẳng quá.
Tuy nhiên, lạy Chúa Giêsu, khi con sống trong tình yêu Chúa, thì thời gian con sống trở thành nhẹ nhàng hạnh phúc. Vì lúc ấy con sống trong tình mến Chúa, và lòng yêu mến ấy sẽ hóa giải tất cả. Bất cứ lúc nào Chúa cũng vẫn hiện diện trong cuộc đời con, nhưng nhiều lúc con đã khước từ lời mời gọi yêu thương của Chúa để đi theo những mời mọc của ma quỷ và thế gian. Lúc đó, cuộc sống của con vắng bóng Chúa và mất đi niềm vui hạnh phúc. Cuộc đời trở nên vô nghĩa.
Ngày xưa, Chúa đã trở thành niềm vui và sự nâng đỡ ủi an cho các môn đệ. Vì thế, khi vắng bóng Chúa, các ông đã buông xuôi thất vọng. Hôm nay, Chúa đã phục sinh và vẫn hiện diện trong cuộc đời con, giúp con biết luôn tìm sống theo thánh ý của Chúa, như một niềm vui tràn đầy trong tâm hồn. Và mặc dù bề ngoài con thiếu thốn hoặc mất mát tất cả, nhưng tâm hồn con vẫn có Chúa hiện diện, thì con tin rằng con vẫn còn tất cả, cuộc đời vẫn reo vui phấn khởi và tràn đầy ý nghĩa. Amen.
Ghi nhớ: “Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”.
Vào tuần thánh năm 1980, Đài Phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô nước Áo. Cô phát biểu: “Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy”.
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây viết. Cô giải thích: “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa”.
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi: “Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?”.
Cô gái mỉm cười nói: “Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài đã cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Trước viễn cảnh cuộc khổ nạn, Ðức Giêsu báo cho các môn đệ sự ra đi của Ngài làm cho các ông lo buồn. Sự lo buồn nơi các tông đồ thật dễ hiểu vì đây là tâm trạng tự nhiên của con người khi phải xa cách người Thầy yêu mến. Các ông lo vì Người đã nói đến sự thương khó mà Ngài đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19) và bây giờ là gần kề: “Một ít nữa… các con sẽ không thấy Thầy”. Vì người ta sẽ bắt Ngài, giết trên thập tự rồi chôn vùi trong mồ và các ông không thể thấy Ngài được nữa!
Vì thế Ðức Giêsu nói: “Anh em sẽ khóc lóc than van, còn thế gian sẽ vui mừng”. Trước cái chết trên thập giá của Ðức Giêsu, các môn đệ buồn sầu vì sự thất bại của Thầy, còn thế gian hân hoan vì tưởng rằng mình đã chiến thắng. Nhưng “ngày thứ ba Người sẽ sống lại” và sự chết sẽ không làm chủ được Ngài.
Cho nên, Ngài nhấn mạnh: “Rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, “một ít nữa” này rõ ràng là “ngày thứ ba”. Chiến thắng của thế gian không phải là chiến thắng cuối cùng và thất bại của Ðức Giêsu cũng không phải là thất bại sau hết. Nơi tận cùng của cái chết là bắt đầu đi vào cuộc sống và chiến thắng vĩnh cửu: Ngài toàn thắng tội lỗi, sự chết và phục sinh vinh quang.
Với sự hiện diện của Ðức Giêsu Phục Sinh, các môn đệ sống niềm vui vô bờ bến: Nước mắt trở nên tiếng cười... Chỉ sau khi Chúa Phục sinh hiện ra với các ông, “các ông vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20) thì đúng như lời Chúa đã nói trước: “Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Khi sinh con, người đàn bà lo buồn… nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui… Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,21-22). Các ông cảm nghiệm sâu xa sự sống đời đời và được hưởng sự sống đó do Đấng Phục Sinh mang lại.
Giữa những đau khổ lớn lao của cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhờ tin vào Đấng đã chết và phục sinh, sẽ tìm thấy niềm vui. Những đau khổ tham dự vào mầu nhiệm thập giá với Chúa Kitô, dẫn tới niềm vui phục sinh, niềm vui đích thực sẽ không thể mất đi và cũng không bao giờ tàn lụi: Đó chính là niềm vui vì được sống, được sống đời đời do Chúa Phục Sinh mang lai…
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 125,5).
Ý lực sống:
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24b).
1. Sau khi loan báo về Chúa Thánh Thần sẽ đến, về hoạt động của Người, Đức Giêsu cũng loan báo về việc Người sẽ trở lại để khích lệ các môn đệ. Ngài nói: “Ít lâu nữa các con sẽ không còn trông thấy Thầy”. Nghĩa là:
- Người báo tin về sự tử nạn mà Ngài sắp chịu. Vì thế, các môn đệ sẽ không còn trông thấy Người nữa.
- Người loan báo về sự Phục sinh và sự trở lại của Người trong vinh quang. Vì thế, các môn đệ sẽ thấy Chúa, không bằng khả giác nhưng bằng đức tin.
2. Trước viễn cảnh cuộc khổ nạn, Đức Giêsu báo cho các môn đệ sự ra đi của Ngài làm cho các ông buồn. Sự lo buồn nơi các Tông đồ thật dễ hiểu vì đây là tâm trạng tự nhiên của con người khi phải xa cách người Thầy yêu mến. Các ông lo vì Người đã nói đến sự thương khó mà Ngài đã ba lần báo trước và bây giờ là gần kề: “Một ít nữa... các con sẽ không thấy Thầy”. Vì người ta sẽ bắt Ngài giết trên thập tự rồi chôn vùi trong mồ và các ông không thể thấy Ngài nữa.
Vì thế Đức Giêsu nói: “Các con sẽ khóc lóc than van, còn thế gian sẽ vui mừng”. Trước cái chết trên thập giá của Đức Giêsu, các môn đệ buồn sầu vì sự thất bại của Thầy, còn thế gian hân hoan vì tưởng rằng mình đã chiến thắng. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại và sự chết sẽ không làm chủ được Ngài.
Cho nên Ngài nhấn mạnh: “Rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, “một ít nữa” này rõ ràng là “ngày thứ ba”. Chiến thắng của thế gian không phải là chiến thắng cuối cùng và thất bại của Đức Giêsu cũng không phải là thất bại sau hết. Nơi tận cùng của cái chết là bắt đầu đi vào cuộc sống và chiến thắng vĩnh cửu: Ngài toàn thắng tội lỗi, sự chết và phục sinh vinh quang (Lm Vinh Sơn).
3. “Nhưng nỗi buồn của các con biến thành niềm vui”.
Với sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh, các môn đệ sống niềm vui vô bờ bến: nước mắt trở nên tiếng cười... Chỉ sau khi Chúa Phục sinh hiện ra với các ông, “các ông vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20) thì đúng như lời Chúa đã nói trước: “Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Khi sinh con, người đàn bà lo buồn... nhưng khi sinh rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui... Các con cũng vậy, bây giờ các con lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng; và niềm vui của các con không ai lấy mất được” (Ga 16,21-22). Các ông cảm nghiệm sâu xa sự sống đời đời và được hưởng sự sống đó do Đấng Phục sinh mang lại.
4. Kitô giáo không chối bỏ thực tại của đau khổ, nhưng trong cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, Kitô giáo không còn nhìn vào đau khổ như một ngõ cụt của cuộc sống, trái lại, trong ánh sáng phục sinh của Đức Giêsu, cuộc sống vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống. “Một ít nữa, các con sẽ không thấy Thầy, rồi một ít nữa, các con sẽ thấy Thầy”. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy Ngài ngay cả những lúc tăm tối của cuộc sống. Thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài, thì cho dù khổ đau có chồng chất, con người vẫn thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhận ra khuôn mặt của Ngài trong những anh em đau khổ chung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với những người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Đức Giêsu và niềm vui Phục sinh sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta (Mỗi ngày một tin vui).
5. Tóm lại, lời Chúa hôm nay là một lời nhắn nhủ đầy yêu thương, nhắc cho chúng ta nhớ mình chỉ là lữ khách sống tạm ở trần gian, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời chúng ta ngắn ngủi lắm, chúng ta phải luôn sống tốt lành để được chết lành, chúng ta phải biết từ bỏ mình để gặp gỡ lại mình trong cõi vĩnh phúc.
6. Truyện: Niềm vui trong tình yêu Chúa.
Vào tuần thánh năm 1980, đài phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo quốc. Cô phát biểu: “Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ánh chính sự đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy”.
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây viết. Cô giải thích: “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc 100 phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa”.
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi: “Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này”?
Cô gái mỉm cười nói: “Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống”.
1. Ngày sống của mỗi người đều có 24 tiếng, thế nhưng thời gian có ý nghĩa và độ dài khác nhau tùy từng người: người đang chờ đợi sẽ thấy thời gian trôi quá chậm, còn kẻ đang sợ hãi thì thời gian lại đến quá nhanh. Cũng vậy, người đang trĩu nặng buồn phiền, thời gian dài lê thê, còn kẻ đang hưởng niềm vui, thời gian lại ngắn ngủi mau qua.
“Một ít nữa, các con sẽ không thấy Ta, và một ít nữa, các con sẽ thấy Ta.” Chúa Giêsu cho các môn đệ biết sẽ có một khoảng thời gian, họ sẽ không thấy Ngài vì Ngài về cùng Cha. Cũng chung một thời gian, nhưng các môn đệ sẽ khóc sẽ than, còn thế gian sẽ vui mừng. Thật ra, thời gian tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ là thước đo của lịch sử. Thời gian chỉ có ý nghĩa và giá trị khi con người đặt tình cảm vào đó. Quá khứ qua rồi nhưng có thể sống lại trong tình cảm; tương lai chưa đến nhưng đã thành tựu trong dự kiến bằng các hy vọng hoài bão. Bởi thế, thời gian có thể là linh dược, hay độc dược: một kỷ niệm, một viễn ảnh sáng lạn vẫn luôn là liều thuốc làm phấn khởi lòng người.
Chúa Giêsu có thời gian của Ngài. Ngài kêu gọi các môn đệ đến với Ngài. Nhưng tới lúc Ngài phải từ giã các ông, các ông sẽ buồn sầu, tuy nhiên đó cũng là lúc để các ông nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói, và nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui, khi Ngài trở lại. Như thế, Chúa Giêsu đã trở thành ý nghĩa của thời gian: thiếu vắng Ngài, các môn đệ u sầu, nhưng có Ngài, các ông mừng vui.
Chúa Giêsu vẫn hiện diện trong thời gian, và tình yêu của Ngài trải dài trong lịch sử. Con người sở dĩ chưa gặp được Ngài vì còn chạy theo thú vui chóng qua mà chưa sống cho vĩnh cửu. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tìm kiếm Chúa Giêsu để Ngài trở thành ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Có Ngài, mọi u buồn sẽ trở thành niềm vui, được sống trong tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ quên đi mọi nhọc nhằn của thời gian.
2. Kinh điển Phật Giáo có ghi lại câu chuyện: một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất qua đời, trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đến hàng xóm và khẩn cầu: “xin vui lòng chỉ cho tôi bất cứ thứ thuốc nào để làm cho nó sống lại.” Nhưng ai cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Cuối cùng có một người mách cho người đàn bà biết có một vị lương y có thể cải tử hoàn sinh đứa bé đó được, đó chính là Đức Phật Thích Ca.
Người đàn bà mang đứa bé đến cầu khẩn với Ngài và xin ban cho đứa bé một liều thuốc. Đức Phật Thích Ca liền nói: “Ta cần một ít hạt cải.” Người đàn bà liền tìm một ít hạt cải mang lại cho Đức Phật. Nhưng vừa thấy, Đức Phật nói với người đàn bà: “Hãy đi mời nhà nào không có tang chế và hãy uống lấy những hạt cải này.”
Tin lời Đức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà mời uống lấy những hạt cải này, nhưng tất cả đều từ chối vì thật ra không có nhà nào mà lại không có người đã ra đi. Khi người đàn bà trở về nhà, trời đêm đã buông xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn, càng về khuya màn đêm càng tối và đêm đen bao trùm vạn vật. Lúc ấy, người đàn bà mới bắt đầu nghĩ: đời là thế, sinh ra đau khổ rồi chết, vì thế bà đứng dậy mang xác con vào rừng chôn cất.
Như vậy con người được sinh ra rồi chịu đau khổ tận cùng là cái chết. Đó là số phận của kiếp người mà khi Nhập Thể Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi. Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc khổ nạn Ngài đã trải qua, nhưng xem ra các môn đệ của Ngài không hiểu được và cũng không chấp nhận được, vì tại sao số phận nghiệt ngã như thế lại xảy ra với Thầy mình, một người có quyền phép trên cả sự chết và đang trên đường tiến tới một tương lai sáng lạn.
Trong những giờ phút cuối cùng ngồi bên các ông, Chúa Giêsu nói đến cái chết một lần nữa, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như là cuộc ra đi, ra đi mà không vĩnh biệt. Do đó, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy ra đi, anh em sẽ buồn rầu, nhưng niềm vui của họ gấp bội khi Ngài sống lại” (Ga 16, 20).
Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ và niềm vui của các môn đệ, đúng hơn cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng vào mọi khổ đau của con người. Kitô giáo không chối bỏ cái chết và sự đau khổ, nhưng qua cái chết và sự Phục sinh của Đức Kitô, Kitô giáo không còn nhìn cái chết và đau khổ như một ngõ cụt của cuộc sống. Trái lại, trong ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô, cuộc sống con người mang một ý nghĩa thật tuyệt vời, mặc cho bao đau khổ mà con người vẫn phải trải qua “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi một ít nữa các con sẽ xem thấy Thầy” (Ga16, 16).
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài, có nghĩa là cả những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, họ vẫn nhận thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài để tiến bước, cho dẫu đau khổ như thế nào đi chăng nữa, con người vẫn tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy người anh em đang đau khổ ở xung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục sinh tràn ngập tâm hồn chúng ta.
1. Chủ đề bài Tin Mừng hôm nay nói về những buồn vui của cuộc sống người Kitô hữu.
“Chúng con sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của chúng con sẽ biến thành niềm vui” (Ga 16,20). Chỉ khi nào ở trên trời thì chúng ta mới có thể hoàn toàn vui thôi, còn bao lâu còn ở lại trần gian thì vui buồn lẫn lộn. Và những vui buồn ở đời này có những tính chất khác nhau và những hậu quả khác nhau.
Có những cái vui không trọn vẹn, như lời một bản thánh ca lấy ý từ sách Giảng viên: “Hoa nào không phai tàn, trăng nào không khuyết, ngày nào mà không có đêm, yến tiệc nào không có lúc tàn”.
Có những niềm vui chẳng mấy chốc lại biến thành nỗi buồn. Đó là những thú vui tội lỗi. Thí dụ cái vui của thằng con hoang đàng trong sách Tin Mừng: Khi nó ngụp lặn trong những cuộc trụy lạc thì nó vui, nhưng sau khi cuộc trụy lạc tàn và khi đã hết tiền, nó rơi vào một sự trống rỗng, một nỗi buồn mênh mông.
Có những nỗi buồn cứ càng ngày càng buồn thêm, không dứt. Đó là cái buồn do hậu quả của một việc làm sai quấy. Thí dụ như cái buồn của Giuđa khi đã phản bội, đã bán đứng Thầy mình. Giuđa buồn đến nỗi phải đi thắt cổ chết. Hay những nỗi buồn của những người ở trong hoả ngục: Họ phải buồn muôn đời muôn kiếp vì họ biết rằng, họ đã mất Chúa muôn kiếp muôn đời.
Một hôm sau khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa cho được tra vấn một tên quỷ:
- Nhân danh Thiên Chúa, ta hỏi ngươi: Đâu là nơi mà ngươi cho là hạnh phúc nhất?
Tên quỷ thẳng thắn trả lời:
- Dĩ nhiên là ở Thiên Đàng. Ôi! Được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc rồi. Với Chúa thời gian chỉ là mùa xuân vĩnh cửu. Nếu ngài lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu trên trần gian và mọi tinh tú trong vũ trụ rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là con số không.
Vị linh mục thắc mắc:
- Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi lại đánh mất phúc Thiên Đàng?
Tên ma quỷ trả lời một cách hằn học:
- Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận.Tất cả chỉ còn là oán thù. Lúc này dù phải chịu mọi cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sáng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng lại Thiên Đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi.
2. Nhưng điều đáng chú ý hơn cả là việc Chúa Giêsu nói đến những thứ buồn sẽ biến thành niềm vui.
“Ít lâu nữa các con sẽ không thấy Thầy”. Đó là cái buồn vì không được thấy Chúa.
“Nhưng rồi ít lâu nữa chúng con sẽ lại thấy Thầy… nỗi buồn của chúng con sẽ biến thành niềm vui”: nỗi buồn xa Chúa đã biến thành niềm vui khi các ông gặp lại Chúa Phục Sinh.
Còn đối với chúng ta thì sao? Không phải cái vui nào cũng nên tìm kiếm, và không phải cái buồn nào ta cũng phải tránh xa.
Đối với những thứ vui chóng tàn, chúng ta đừng quá bám víu, để khi nó tàn chúng ta không bị thất vọng. Chuyện đứa con hoang đàng là một thí dụ.
Đối với những thứ vui mà chẳng mấy chốc sẽ biến thành nỗi buồn, ta cũng đừng nên mất công tìm kiếm. Thí dụ Giuđa vui khi nhận được tiền nhưng chẳng mấy chốc tiền đã làm cho Giuđa tuyệt vọng.
Có những việc làm mà hậu quả sẽ để lại những nỗi buồn dai dẳng, chúng ta đừng bao giờ làm.
Nhưng chúng ta hãy biết buồn khi lỡ phạm tội, buồn để sám hối ăn năn, buồn để quay gót trở về với Chúa. Có thể nói đây là nỗi buồn thánh vì nỗi buồn này sẽ biến thành niềm vui.
“Anh em sẽ lo buồn nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui”.
Milton đã có lần tâm sự: “Mù không phải là khổ, không chịu được cảnh mù mới là khổ”.
Phải biết biến nỗi buồn thành niềm vui.
Một nhà truyền giáo kể lại câu chuyện như sau:
Có một cụ già vừa mới trở lại đạo Công giáo, mỗi ngày cụ đến nhà thương để đọc Kinh Thánh cho các bệnh nhân nào muốn nghe. Thế nhưng, một ngày nọ, cảm thấy có gì không ổn trong mắt, cụ đi khám tại bác sĩ chuyên về khoa mắt và đã biết rằng, mình không còn sử dụng đôi mắt được lâu nữa, vì sắp bị mù mà không còn cách chi để chữa nữa.
Từ đó, người ta không thấy cụ đến nhà thương nữa. Có người nói là đã thấy cụ đi một mình lên núi. Nhiều tuần lễ sau, bỗng nhiên người ta lại thấy cụ trở lại nhà thương và tiếp tục đọc Kinh Thánh như trước.
Trả lời cho những người thắc mắc là cụ đã làm gì trên núi trong những ngày qua, cụ nói:
- Tôi tìm đến nơi thanh vắng để học thuộc lòng các sách Tin Mừng khi tôi còn thấy được, để sau này khi bị mù, tôi vẫn còn có thể đọc Kinh Thánh cho các bệnh nhân nghe”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa”.
Hiếm khi một đoạn Tin Mừng ngắn mà lại có nhiều từ nói đến niềm vui, nỗi buồn như vậy. Khi sắp bước vào cuộc Khổ nạn, Đức Giêsu không giấu các môn đệ về những thử thách đang chờ họ. Khóc lóc, lo buồn, than van là những điều họ sẽ phải trải qua (c. 20). Nhưng tâm trạng đó chỉ là tạm thời. Niềm vui khi thấy Thầy phục sinh mới là điều còn mãi (c. 22). Không có một Kitô giáo buồn. Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của Kitô giáo, bởi lẽ Kitô giáo phát sinh từ Tin Mừng rộn rã, từ tiếng reo Halleluia: Đức Kitô đã sống lại rồi và đang ở giữa cộng đoàn tín hữu. Niềm vui ấy vẫn được diễn tả qua nhiều hình thức, qua tiếng chuông chiều cao vút của nhà thờ, qua các bài thánh ca dìu dặt đưa hồn bay lên gặp Đấng Tuyệt đối, qua những nụ cười tươi và tà áo muôn màu của giáo dân đi lễ mỗi Chúa nhật. Nhưng niềm vui không chỉ có ở nơi nhà thờ, mà còn ở mọi nơi. Niềm vui trên khuôn mặt một nữ tu cúi xuống vết thương của người phong. Niềm vui háo hức của một thanh niên bỏ tất cả để xin vào nhà Tập. Niềm vui bình an của những vị tử đạo Việt Nam trên đường ra pháp trường. Không thể hình dung một Kitô giáo mà không có niềm vui. Kitô giáo buồn thì chẳng phải là Kitô giáo nữa. Thế giới hôm nay có quá nhiều cách để làm cho người ta vui. Niềm vui dường như có thể mua được bằng tiền. Người ta tưởng càng sở hữu nhiều, càng hưởng thụ nhiều thì càng vui. Nhưng chính lúc đó người ta lại rơi vào sự buồn chán. Thế giới hôm nay là một thế giới buồn. Ba mươi ngàn người Nhật tự tử trong một năm. Hiện nay ở Hàn Quốc đang lan rộng tình trạng tự tử tập thể. Khi đời sống vật chất quá đầy đủ, thừa mứa, người ta lại không biết mình sống để làm gì. Kitô giáo phải có khả năng đem lại niềm vui cho thế giới, không phải thứ niềm vui rẻ tiền, vì mua được một trận cười thâu đêm, nhưng là thứ niềm vui của người tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Người mẹ phải chịu buồn phiền, đau đớn khi sinh con, nhưng sinh rồi thì vui sướng, chẳng còn nhớ đến chuyện vượt cạn (c. 21). Kitô giáo không né tránh đau khổ, cũng không tìm con đường diệt khổ, nhưng đón lấy đau khổ và tìm thấy ý nghĩa của nó trong tình yêu. Như người mẹ chịu đau để đứa con chào đời, người Kitô hữu vui sướng vì thấy hoa trái của những gian truân thử thách. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen. ---------------------------------
Chúa Giêsu phục sinh mở ra một thế giới mới và vì thế mở ra một tầm nhìn mới. Thế giới bị phân đôi thành thượng giới và hạ giới. Chúa Giêsu về trời hiển trị. Nhưng các môn đệ còn ở lại trần gian. Chúa như vắng mặt khỏi trần gian. Quyền lực thế gian thống trị thế giới. Sự ác lộng hành. Sự thiện bị áp chế. Thế gian reo cười đắc thắng. Các môn đệ Chúa phải khóc lóc than van.
Nhưng giữa tình trạng tồi tệ đến tuyệt vọng đó, Chúa lại nhóm lên niềm hi vọng. Ta hi vọng vì tuy Chúa vắng mặt nhưng vẫn ở với ta. Dù thế gian toàn quyền thống trị thế giới, nhưng Chúa vẫn âm thầm ở bên cạnh con cái của Người như lời Chúa nói với thánh Phaolô: “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh”. Thế gian hung hăng nhưng Chúa dịu hiền. Thế gian ồn ào nhưng Chúa lặng lẽ. Thế gian tấn công nhưng Chúa che chở. Thế gian hủy diệt nhưng Chúa xây dựng. Thế gian giết chết nhưng Chúa cứu sống. Giữa những hỗn loạn ngay tại dinh quan thống đốc Ga-li-on, Phao-lô đã thoát đi bình an.
Ta còn hi vọng hơn nữa vì Chúa cho biết đau khổ chính là mảnh đất tốt cho cây sự sống mọc lên và kết trái hạnh phúc. Đau khổ là lưỡi cày cày xới ruộng đất cho phì nhiêu. Buồn phiền là phân bón cho cây sự sống lớn mạnh. Khóc lóc phát sinh nước mắt tưới cho hạnh phúc kết trái. Rồi đau khổ sẽ qua. Hạnh phúc sẽ đến. Bấy giờ “nỗi buồn biến thành niềm vui”. Tất cả những gian nan thử thách ở đời này giống như giây phút người phụ nữ sinh con. Khi đến giờ thì rên la đau đớn. Nhưng khi sinh con rồi thì hạnh phúc chứa chan. Sẽ đến ngày Chúa “xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân… sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,… sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người”. Đau khổ là điều kiện phát sinh và là tường thành chắc chắn cất giấu kho tàng hạnh phúc, không ai có thể lấy mất được.
Khi ban cho ta niềm hi vọng hạnh phúc, Chúa mở ra một tầm nhìn mới về thế giới hôm nay. Đó là tầm nhìn phục sinh giúp ta nhìn thấy thế giới vô hình. Nhìn thấy tương lai tươi sáng qua hiện tại tăm tối. Nhìn thấy những hạt lúa vàng trên đống bùn đen lầy lội. Nhìn thấy hạnh phúc thiên đàng qua đau khổ trần gian.
Các thánh là những người có một tầm nhìn phục sinh sắc bén, nên có những thái độ ứng xử siêu thoát. Các thánh tử đạo đi ra pháp trường như đi dự tiệc. Các thánh tông đồ hân hoan vì đã bị đánh đập nhục mạ. Chân phước Mẹ Têrêxa Calcutta cám ơn người nghèo vì người nghèo cho Mẹ cơ hội phục vụ Chúa. Sống mầu nhiệm phục sinh ta hãy có tầm nhìn phục sinh. Sẽ thay đổi cuộc đời. Sẽ cho ta niềm hi vọng.
Trong bài xã luận của bán nguyệt san Công giáo Italia, số tháng 3/1993 có ghi lại gương hy sinh của một người mẹ trẻ tên là Carla Levati, qua đời khi mới chỉ được 28 tuổi. Khi mang thai đứa con thứ hai, Carla được các bác sĩ cho biết chị bị viêm cột sống mà một cuộc chữa trị có thể phương hại trầm trọng đến mạng sống của thai nhi. Với sự đồng ý của chồng, chị Carla chấp nhận đau khổ và ngay cả cái chết, miễn là đứa con được sinh ra lành mạnh. Nhưng vì quá đau đớn, người mẹ đã qua đời 8 tiếng đồng hồ sau khi đứa con chào đời ngày 26/1/1993.
Cái chết của chị Carla đã gây nhiều phản ứng sôi nổi tại Italia. Những tờ báo lớn xuất bản tại Rôma xem sự hy sinh của chị như một hành động hy sinh cao cả chứ không mù quáng. Nguyên tắc của chị Carla tuân theo chính là tình yêu: chỉ tình yêu mới có thể thúc đẩy người mẹ hy sinh mạng sống mình vì đứa con. Nguyên tắc âý không chỉ bắt nguồn từ Tin mừng, mà còn là một đòi hỏi của tình mẫu tử. Người mẹ là người trao ban sự sống bằng chính đau khổ của mình và nếu cần chết đi để cứu mạng sống của con mình.
Ý nghĩa cao cả nơi cái chết của chị Carla có thể giúp chúng ta đi sâu vào Tin mừng hôm nay. Thật thế, chính Chúa Giêsu đã nhận chân ý nghĩa cao cả nôĩ đau đớn của người đàn bà trong khi sinh con. Niềm đau đớn ấy mang một ý nghĩa cao cả đến độ đã được Chúa Giêsu mượn để nói lên chính cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Có đau đớn trong khi sinh con, người đàn bà mới cảm nhận được niềm vui khi đứa con chào đời; có trải qua khổ nạn, Chúa Giêsu mới đi vào vinh quang Phục sinh; và từ nỗi đau khổ được chấp nhận trong tinh thần phó thác hiến dâng, người môn đệ Chúa Kitô mới cảm nhận được niềm vui tái sinh.
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng nhìn vào những biến cố cuộc sống với cái nhìn đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tìm thấy được ý nghĩa cao cả của hy sinh; chỉ trong đức tin đau khổ mới mang ý nghĩa của hy sinh và trở thành biểu tỏ của tình yêu. Kitô giáo không phải là một tôn giáo đề cao đau khổ; Kitô giáo không tuyên xưng một Thiên Chúa chỉ biết vui lòng khi thấy con người đau khổ. Kitô giáo thiết yếu là đạo của tình yêu. Chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống: chỉ có tình yêu được cảm nhận trong mọi hoàn cảnh cuộc sống mới có thể khiến cho người hy sinh ngay cả mạng sống mình: chỉ có tình yêu mà con người không ngừng trao ban cho người khác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Để hiểu tầm mức lời này của Đức Giêsu, chúng ta cần tới kinh nghiệm của chúng ta về dự tính, về sinh trưởng và về khởi sự. Cái đà khởi đầu cuộc hành trình xuất phát từ miền phấn khởi, từ mơ ước, chúng ta xây dựng những phương trình đẹp, chỉ huy những giai đoạn thi công, kế hoạch. Chúng ta hình như làm chủ được vận mệnh.
Các tông đồ đã phân phối khi Chúa biến hình lúc đầu sứ vụ truyền giáo, lúc đầu đi chữa các bệnh nhân. Nước Thiên Chúa chẳng bao lâu nữa được thiết lập.
Nhưng sự khó khăn cũng bắt đầu khi bắt tay vào việc: Những vất vả khó nhọc, những bất lực, những hố sâu lòng người. Dù gặp đau khổ, chúng ta cảm thấy vẫn phải cố gắng hy sinh sức lực và mạng sống để đạt tới đích. Đức Giêsu đã biết phải trả giá thế nào để thực hiện kế hoạch cứu độ thế giới, và đến giờ phút treo trên thập giá, Người đã gục đầu xuống. Những kẻ chưa hiểu được công cuộc cứu độ, Đức Giêsu đã tiên báo cho chúng ta biết: Đó là một công việc rất khó khăn. Nhưng Tin mừng đã bảo đảm rằng: mặc dầu có cực khổ, khó khăn, kế hoạch cứu độ của Chúa vẫn được hoàn tất khi đã đặt kế hoạch ban sự sống, thì Người phải thực hiện cho đến cùng.
Theo ý nghĩa đó, hôm nay chúng ta hiểu được sứ điệp đầy hy vọng này là mọi đau khổ được tận hiến đều dẫn đến vui mừng như đau khổ của người mẹ sinh đứa con ra chào đời, cũng thế, mọi kế hoạch được tận tâm thực hiện đều mang lại thành công tốt đẹp, đem lại sự sống.
Muốn thúc đẩy con người tiến đến một đời sống phát triển tươi đẹp, phải mở cho họ thấy chân trời vô tận, nhưng đừng quên rằng hiện tại phải gian lao cùng khổ. Tóm lại hoạt động đem ơn cứu độ đến cho con người sẽ phải cưu mang nhiều giai đoạn đau khổ nhọc nhằn.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống kinh nghiệm những giai đoạn đó để tham gia vào công việc cứu độ, dù vì thế mỗi người chúng ta phải thiệt thòi đến mạng sống.
Ðoạn Phúc Âm vừa đọc nối tiếp với đoạn Suy niệm hôm qua về mối tương quan mới cần phải có giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Người đồ đệ cần khám phá ra Chúa Giêsu với đôi mắt đức tin và sống kết hiệp khắng khít mỗi ngày một hơn với Người. Sự sống kết hiệp với Chúa là nền tảng vững chắc với niềm vui không bao giờ mất đi nơi tâm hồn người đồ đệ.
Suy niệm bài Phúc Âm vừa đọc lại trên, chúng ta hãy đào sâu thêm về niềm vui mà Chúa muốn trao ban cho mọi đồ đệ của Người. Ðể được hưởng niềm vui của Chúa, người đồ đệ phải thực hiện một điều kiện căn bản, liên kết với cuộc khổ nạn của Chúa để được ân sủng Chúa thanh luyện. Trong khung cảnh những lời tâm sự mạc khải về cuộc ra đi, tức cuộc vượt qua của Người, Chúa Giêsu long trọng loan báo: “Thật, Thầy bảo thật các con, các con sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng”.
Khóc lóc và than van là hành động của một người thương khóc cái chết của những người thân yêu nhất. Dùng hai từ này để diễn tả hoàn cảnh các môn đệ sắp trải qua, Chúa Giêsu như muốn mạc khải cho các ông về cái chết sắp đến của Người, vừa đồng thời hé mở cho các ông nhìn thấy mối liên hệ của cuộc đời các ông với cuộc vượt qua của Người. Ðây là điều mà sau này thánh Phaolô tông đồ dùng một từ ngữ khác để diễn tả, mang lấy cuộc Thương Khó của Chúa nơi mình, hoàn tất nơi mình những gì còn thiếu trong sự Thương Khó của Chúa là chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Chúa. “Chúng con sẽ khóc lóc và than van vì Chúa sắp chịu chết trên thập giá tủi hổ”. Trong khi đó thì thế gian, tức những kẻ thù của Chúa Giêsu vui mừng, vì họ nghĩ rằng đã loại trừ được một đối thủ, có những lời nói phơi bày tật xấu của họ và không ngừng quấy rầy lương tâm họ.
“Các con sẽ khóc lóc và than van”, lời cảnh tỉnh này còn nhắc cho các môn đệ sự thử thách họ sẽ trải qua trong cuộc khổ nạn và chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa bị bắt, các ông chạy tán loạn. Chúa bị treo chết trên thập giá và an táng trong mồ, các ông lo sợ, ẩn mình trong phòng, đóng kín cửa; vài người khác thất vọng bỏ về quê. Làm môn đệ của Ðấng chịu đóng đinh không phải là chuyện dễ dàng, êm xuôi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”; “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Nhưng cái chết của Chúa Giêsu chỉ là một giai đoạn dù là giai đoạn không thể tránh né được, Chúa chết đi để rồi sống lại, Chúa ra đi để rồi trở lại, Chúa phục sinh trở lại gặp các môn đệ và biến đổi nỗi buồn thành niềm vui: “Thầy sẽ gặp lại các con và lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không ai có thể lấy mất đi được”.
Niềm vui của các môn đệ đến từ Chúa, do Chúa ban cho, chứ không do những nguyên do nào khác. Nền tảng của niềm vui trong cuộc đời của các môn đệ là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh trong chính cuộc đời họ. Chúa Phục Sinh đến với các môn đệ phục hồi niềm tin đã bị lung lay chao đảo. Chúng ta cần làm sao để Chúa Phục Sinh có thể đến và hiện diện luôn mãi trong cuộc đời.
Lạy Chúa, xin đến ngự trong con, ban tràn đầy Thánh Thần tình yêu giữa Cha Con, kết chặt con vào Chúa để con được sống an vui mãi mãi, dù giữa những khó khăn thử thách.
Một người phụ nữ đang mang thai, bà ta sẽ rất sợ hãi khi biết sắp đến giờ bà sinh. Bà thấu được những cơn đau dữ dội, xé lòng mà mình sẽ phải gánh chịu! Tuy nhiên, niềm vui khôn tả sẽ ập đến với bà khi mắt bà nhìn thấy đứa con của mình cất tiếng khóc chào đời.
Thấy được tâm trạng các môn đệ đang hoang mang lo lắng vì sắp phải lìa xa mình, Đức Giêsu đã trấn an các ông và vén mở cho các ông thấy niềm vui sẽ nên trọn: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được”.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, cũng có những lúc đi trong đêm tối của cô đơn, ốm đau, bệnh tật. Những lúc đó, chúng ta chán nản và muốn buông xuôi. Nhưng như bà mẹ mệt nhọc lúc mang thai và đau đớn khi sinh hạ, sau đó, bà sẽ vui mừng khi thấy con mình chào đời. Hình ảnh này cũng là hình ảnh của cuộc đời đức tin nơi chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có cái nhìn của đức tin và hy vọng trong nguồn ơn cứu độ, bởi vì: sau khi mưa trời lại sáng; thất bại là mẹ thành công; và nếu ta cùng chết với Đức Giêsu thì cũng được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đón nhận những đau khổ, chấp nhận hy sinh, để từ đó, một ngày kia, chúng con được chan chứa niềm vui vì thập giá sẽ nở hoa cứu độ. Amen.
Sứ điệp: Để được hạnh phúc có con thơ, người mẹ phải trải qua những giây phút đau đớn lúc sinh nở. Người Kitô hữu cũng phải can đảm chấp nhận cùng chịu đau khổ với Chúa, mới hy vọng có niềm vui được chia sẻ sự sống lại với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con những niềm vui lớn lao của ngày mùa, sau khi chúng con đã trải qua những tháng ngày gian khổ trên nương đồng. Chúa đã ban cho chúng con được hưởng bao thành quả sau những ngày vất vả học hành. Vâng, đó là những kinh nghiệm quý giá giúp con hiểu về mầu nhiệm đau khổ. Con tin rằng những đau khổ, hy sinh, cố gắng trên con đường theo Chúa, là dấu hiệu loan báo niềm vui tràn đầy và hạnh phúc đời đời mà Chúa đã dành sẵn cho những môn đệ tín trung.
Xin cho con xác tín rằng: “sau cơn mưa trời lại sáng”, và cơn mưa giông gió ấy sẽ giúp cho bầu trời trong lành hơn, giúp cho đất đai mầu mỡ hơn và giúp cho vạn vật tươi tốt hơn. Chính cuộc đời của Chúa Giêsu Con Chúa, đã là một bằng chứng cụ thể. Ngài đã chấp nhận mọi nỗi đau đớn, tụi nhục, gian khổ, nhưng sau cùng Ngài đã phục sinh vinh hiển, đồng thời Ngài cũng phục sinh toàn thể nhân loại chúng con nữa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con sức mạnh của Chúa để con kiên tâm bền chí mà vững bước qua gian lao thử thách theo Chúa đến cùng. Xin giúp con nhận ra giá trị đích thực của những hy sinh từ bỏ, để con biết mau mắn đón nhận đau khổ trong cuộc sống. Xin đừng để con sống buông xuôi, trái lại xin cho con biết lội ngược dòng để đến cùng Chúa là nguồn suối hạnh phúc đích thực. Amen.
Ghi nhớ: “Niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được”.
Người thanh niên hỏi Giuse thành Arimathê, người đã táng xác Chúa Giêsu: “Bây giờ ngôi mộ ông cho mượn đã được trả lại. Ông định làm gì với ngôi mộ đó?”.
Giuse nhìn anh một lúc rồi nói: “Khi nghe Ngài sống lại, tự nhiên là tôi chạy đến mộ. Ngài không còn ở đó. Ngài đã trả lại ngôi mộ cho tôi. Nên điều tôi sẽ làm sau đó là: Tôi đặt một ghế băng dưới gốc cây, đối diện với ngôi mộ trống. Buổi chiều, tôi tới ngồi đó và suy nghĩ: “Giêsu Nadarét đã ngủ trong ngôi mộ này và Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Giuse Arimathê cũng sẽ nằm trong ngôi mộ này, và điều Chúa sẽ làm cho ta là gì?”. Chúa Giêsu đã nói: “Ta sống và ngươi sẽ sống”. Tôi có thể tin vào lời đó”.
Suy niệm
Bằng hình ảnh tâm trạng vui buồn của người phụ nữ trước và sau lúc sinh con được Ðức Giêsu dùng để báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Qua đó Ngài khẳng định: xuyên qua thập giá đau khổ, mới đến vinh quang phục sinh.
Như hai môn đệ ngay trong ngày Chúa Phục sinh, bước nhanh trên con đường hướng về Emmaus, một làng cách Giêrusalem chừng 11 cây số. Họ buồn sầu chán nản và than thở: “Chúng tôi đã hy vọng chính Ngài sẽ giải thoát dân Israel! nhưng”... (x. Lc 24,13-25), Chúa Giêsu Phục sinh mà họ không nhận ra, qua Kinh Thánh bắt đầu từ ông Môisê, tới các ngôn sứ, đã giải thích: “Ðấng Thiên Sai đã chẳng phải chịu những hình khổ ấy trước khi bước vào vinh quang của Ngài sao?” (x. Lc 24,26-27). Qua đó, Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy rõ mầu nhiệm sự chết và sự sống là nền tảng của cuộc sống của người tin vào Ngài.
Người môn đệ Chúa Kitô, cũng được mời gọi bước trên con đường thập giá theo Chúa trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng sẽ đối diện với thử thách gian nan đau khổ đó là hành trình thập giá, nhưng nếu chúng ta kiên tâm và can đảm vượt qua trong niềm tin vào Đấng Phục Sinh, chúng ta sẽ chiến thắng cùng với Ðức Giêsu và đạt được niềm vui vĩnh cửu.
Thật thế, chỉ có Ngài, Đấng đã chết và phục sinh mới có thể đem lại ý nghĩa cho đời sống của những ai đang mệt mỏi, buồn rầu và tuyệt vọng… Hai địa điểm “ưu tiên” chúng ta có thể gặp gỡ Đấng Phục Sinh để biến đổi đời sống mình: Lời Chúa và Thánh Thể” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI).
Ý lực sống:
“Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20).
1. Tâm trạng vui buồn của người phụ nữ trước và sau lúc sinh con được Đức Giêsu dùng để báo cho các môn đệ về viễn tượng Khổ nạn và Phục sinh của Ngài. Một lần nữa Đức Giêsu khẳng định chân lý “qua đau khổ đến vinh quang”.
Trên con đường theo Chúa, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều gian nan đau khổ, nhưng nếu kiên tâm và can đảm vượt qua, chúng ta sẽ chiến thắng cùng với Đức Giêsu và đạt được niềm vui bất diệt.
2. Trước khi bước vào cuộc tử nan, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ khóc lóc và than vãn”, lời cảnh tỉnh này còn nhắc cho các môn đệ sự thử thách họ sẽ trải qua trong cuộc khổ nạn và chịu chết trên thập giá của Đức Giêsu. Chúa bị bắt, các ông chạy tán loạn, Chúa bị treo trên thập giá và an táng trong mồ, các ông lo sợ, ẩn mình trong phòng, đóng kín cửa; vài người khác thất vọng bỏ về quê. Làm môn đệ của Đấng bị đóng đinh không phải là chuyện dễ dàng, êm xuôi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”.
Nhưng cái chết của Đức Giêsu chỉ là một gian đoạn dù là giai đoạn không thể tránh né được. Chúa chết đi để sống lại. Chúa ra đi để rồi trở lại. Chúa Phục sinh trở lại gặp các môn đệ và biến đổi nỗi buồn thành niềm vui: “Thầy sẽ gặp lại các con và lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không ai có thể lấy mất đi được”.
3. Bằng hình ảnh tâm trạng vui buồn của người phụ nữ trước và sau sinh con được Đức Giêsu dùng để báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn và Phục sinh của Ngài. Qua đó, Ngài khẳng định: “xuyên qua thập giá đau khổ, mới đến vinh quang phục sinh.
Như hai môn đệ trong ngày Chúa phục sinh, bước nhanh trên con đường hướng về Emmaus, một làng cách Giêrusalem chừng 11 cây số. Họ buồn sầu chán nản và than thở: “Chúng tôi đã hy vọng chính Ngài sẽ giải thoát dân Israel, nhưng...” (x.Lc 24,13-25), Chúa Giêsu Phục sinh mà họ không nhận ra, qua Kinh Thánh bắt đầu từ ông Maisen, tới các tiên tri, đã giải thích: “Đấng Thiên sai đã chẳng phải chịu những hình khổ ấy trước khi bước vào vinh quang của Ngài sao” (x.Lc 24,26-27). Qua đó, Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy rõ mầu nhiệm sự chết và sự sống lại là nền tảng của cuộc sống của người tin vào Chúa.
4. “Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”. Đó là lời Đức Giêsu nói với các môn đệ, một lời khích lệ, một lời tiên báo, một lời hứa và cũng là lời bảo đảm chắc chắn. Thực vậy, khi Chúa chết, các môn đệ buồn phiền, nhưng khi Chúa sống lại, hiện ra với các ông, các ông vui mừng. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, sau khi gặp được Chúa đã phấn khởi vui mừng chạy về Giêrusalem báo tin cho các môn đệ khác. Cô Maria Madalena sau khi gặp được Chúa cũng vui mừng chạy về báo tin Thầy đã sống lại. Nỗi buồn chia tay nay lại trở thành niềm vui. Lời Chúa báo trước đã thành sự thật: “Bây giờ các con buồn sâu, nhưng khi Thầy gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng”.
5. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào những biến cố cuộc sống với cái nhìn đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tìm thấy được ý nghĩa cao cả của hy sinh: chỉ trong đức tin, đau khổ mới mang ý nghĩa của hy sinh và trở thành biểu tỏ của tình yêu Kitô giáo không phải là một tôn giáo đề cao đau khổ; Kitô giáo không tuyên xưng một Thiên Chúa chỉ biết vui lòng khi thấy con người đau khổ. Kitô giáo thiết yếu là đạo của tình yêu. Chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống; chỉ có tình yêu được cảm nhận trong mọi hoàn cảnh cuộc sống mới có thể khiến cho người hy sinh ngay cả mạng sống mình; chỉ có tình yêu mà con người không ngừng trao ban cho người khác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho cuộc sống (Mỗi ngày một tin vui).
6. Chân lý “qua thập giá tới vinh quang” là bất biến. Và niềm vui chỉ thật sâu sắc và trọn vẹn sau khi đã kinh qua những nỗi ưu phiền. Niềm vui cao quí nhất dành cho những ai theo Đức Giêsu chính là sau khi trung tín vượt qua cuộc lữ hành trần thế, được gặp Đức Giêsu và hưởng niềm vui Phục sinh trong Nước Trời. Đó là niềm vui vĩnh hằng không ai có thể cướp mất được. Niềm vui mà thánh Phaolô từng nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
7. Truyện: Qua đau khổ tới vinh quang.
Có một người nọ luôn tỏ ra khó chịu, không thể nhìn bất cứ cái gì đẹp đẽ và khỏe mạnh. Một hôm đi ngang qua một vùng gần sa mạc, ông thấy một cây dừa non tươi tốt. Ông ta liền nhặt một cục đá khá nặng và đặt vào giữa đọt cây dừa rồi ra đi với nụ cười khoái trá đầy vẻ độc ác.
Cây dừa đã vùng vẫy tìm cách vứt hòn đá đi, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Cây dừa bèn đổi chiến thuật bằng cách đâm rễ thật sâu xuống tới những mách nước ngầm dưới lòng đất. Sức sống đến từ lòng đất và hơi ấm mặt trời từ trên cao xuống đã làm cho cây dừa trở thành một cây dừa có sức mạnh nâng cả tảng đá lên cao.
Sau nhiều năm tháng trôi qua, người đàn ông kia trở lại với ước muốn hằn học rằng sẽ được nhìn thấy cây dừa oằn mình dưới sức nặng của viên đá. Cây dừa đã cúi sâu cho ông ta xem viên đá vẫn còn nguyên trong đọt non của mình và nói:
- Tôi cám ơn ông, chính viên đá tai ác của ông đã làm cho tôi trở nên mạnh mẽ và trưởng thành.
Các môn đệ được Chúa căn dặn: “Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con” (Ga 16,7). Đó là một cuộc biệt ly. Có cuộc biệt ly nào mà không buồn, không xót, không thương. Cuộc chia ly ở đâu đâu cũng buồn khổ hết. Chia ly ở bên đường, bến đò, ga xe, phi trường, nghĩa địa... đều da diết, đều chết đi trong lòng một ít, và đối với các tông đồ hẳn không phải là ít, vì họ đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Trở đi mắc núi, trở về mắc sông. Giờ đây, Chúa ra đi, đi sang một thế giới khác hẳn. Chúng ta thử tưởng tượng các môn đệ lúc ấy bơ vơ biết như thế nào. Cùng lắm họ mới theo đạo Chúa được ba năm. Với ba năm theo Chúa chập chững, giờ đây mất Chúa. Kẻ âm người dương. Từ đây một người Do Thái với 33 tuổi tên là Giêsu, sẽ biến khỏi sân khấu lịch sử của nhân loại, với không gian, thời gian khí hậu của miền Palestin. Cho nên các tông đồ buồn khổ là phải lẽ. Từ đây, lấy ai làm trụ cột mà dựa dẫm, lấy đâu làm nơi nương tựa cho những ngày mệt mỏi đời tông đồ. Chính Chúa Giêsu đã thấy họ buồn và Chúa xác nhận rằng: “Vì Ta đã nói thế nên ưu phiền tràn ngập lòng các ngươi” (Ga 16, 6) Đúng như một kiểu nói:
Mù sương cuộc sống não nề
Thầy đi con ở buồn về ai mang.
Đó là một nỗi buồn nhân loại thấm thía. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng phải vượt qua như thế như nỗi buồn khổ của một người mẹ sinh con. Giây phút chờ đợi đứa con ra đời với biết bao nhiêu là lo lắng hồi hộp, cho sự sống cả mẹ lẫn con và cho cả tương lai đứa con... Nhưng khi đứa con ra chào đời thì nó trở thành niềm vui tràn ngập vì đã cộng tác vào chương trình sáng tạo và tiếp tục dòng dõi nhân loại. Người mẹ vui hẳn lên vì tương lai huy hoàng đang chờ đón con mình, và tương lai của người mẹ như được bảo đảm hơn vì có thêm gậy chống cho tuổi đời.
Cũng tương tự như thế, các môn đệ buồn rầu trước cuộc ra đi của Đấng đã chịu đóng đinh vì mình. Họ lo âu cho tương lai đời họ sẽ đi về đâu, số phận của họ sẽ xoay vần ra sao. Nỗi lo âu có trên một phạm vi nhân loại rất là hữu lý, có vẻ là khôn ngoan, lo xa nữa. Nhưng Chúa nói đó chỉ là nỗi lo âu tạm bợ thôi. Cũng như xưa kia các môn đệ lo lắng làm sao ra của ăn nơi hoang địa, thì Chúa đã ban bánh hóa ra nhiều 2 lần. Nơi Vườn Cây Dầu, các môn đệ lo sợ sống những giây phút căng thẳng... Nhưng rồi Chúa đã Phục Sinh hiện đến giữa họ, ban an bình, lấy lại niềm tin hy vọng. Nay niềm vui chưa trọn thì Chúa lại về Trời. Sự vui qua sự sầu lại tới là thường thế đó.
Nhưng các môn đệ đâu có ngờ Chúa về Trời mà vẫn còn ở lại với họ và những người kế tiếp họ cho đến tận thế. Ngài vẫn sống, nhưng sống cách thiêng liêng vượt trên mọi điều kiện không gian, thời gian. Chính nhờ đó các môn đệ không còn cảm thấy lo sợ và họ còn vui mừng đón nhận cái chết như chính Chúa nữa, vì họ biết có phần tốt nhất đang dành cho họ trên Trời.
Đời sống người Kitô hữu luôn luôn bao gồm những lúc chờ đợi với ít nhiều buồn thảm và những lúc gặp gỡ vui mừng. Như một đợt sóng có lúc hạ xuống. Đời sống con cái Chúa cũng bồng bềnh trong đau khổ và niềm vui như vậy. Xin đừng quên Lời Chúa: “Nỗi vui mừng của các con không ai giật mất được” (c.22). Niềm vui của chúng ta là niềm vui đã được Chúa cứu chuộc, không còn bị án nào nữa. Chúng ta đã được gia nhập vào Giáo Hội cùng phép Rửa Tội, được Chúa huấn luyện bằng Lời Chúa, được Ngài nuôi dưỡng bằng Mình Máu Ngài. Mỗi ngày sống chúng ta vui mừng vì sẽ được về gần trời.
1. Chúng ta tiếp tục Suy niệm về những buồn vui của người Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã có một nhận xét rất cụ thể và rất hay về vấn đề này: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đã đến giờ của mình; nhưng khi sinh rồi thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã được sinh ra trong thế gian” (Ga 16,21). Đây là một kinh nghiệm cụ thể về việc cưu mang sinh sản. Chúa muốn mời gọi mỗi người chúng ta phải trải qua cưu mang và sinh sản ấy.
“Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,22).
Cách đây không lâu, tạp chí Truyền giáo có đăng một mẫu chuyện ngắn về một bé gái Phi Châu đã chết vì bệnh bạch hầu lúc 13 tuổi. Khi xem lại các đồ dùng quen thuộc của em, cha mẹ em đã đọc được những dòng nhật ký cuối cùng, của em như sau:
“Lạy Chúa, con đang được giải thoát. Trong bóng tối dày đặc của khổ đau và buồn chán, con thoáng thấy bàn tay Chúa đang vẫy gọi con. Nó vụt qua như một tia lửa yếu ớt nhưng cũng đủ chiếu sáng và sưởi ấm lòng con và chẳng ai dành dật được nó khỏi con”.
Thông thường, đau khổ được coi là hình phạt dành cho những kẻ gây ra tội ác. Nếu hình phạt chưa đến với họ, thì đời con đời cháu sẽ phải gánh chịu: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Cha ăn nho xanh, con ghê răng” (Ed 18,2).
Chúa Giêsu đã có cái nhìn lạc quan hơn về đau khổ. Với Ngài, đau khổ không hướng về quá khứ, nhưng mở cửa cho tương lai. Con người không tuyệt vọng trong đau khổ, nhưng hy vọng vui mừng vì thành quả của đau khổ.
2. Trước nỗi buồn của các môn đệ vì sự ra đi của Ngài, Chúa mời gọi các ông đừng lắng đọng trong buồn phiền khổ sầu, nhưng hướng về niềm vui tương lai.
Lời nhắn nhủ của Chúa xưa cho các tông đồ cũng là lời được gửi đến cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay: Nếu chỉ ngồi đó mà than trách hoặc đặt câu hỏi thì đau khổ vẫn mãi còn đó nhưng nếu biết hướng về Thập Giá, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa và giá trị của đau khổ. Thập Giá sẽ là ánh sáng soi đường chúng ta trong những tăm tối cuộc đời, và qua Thập Giá, chúng ta sẽ tới được Ánh Sáng.
Tại một miền quê bên Mỹ vào thời lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang vì tội ăn trộm cừu. Dân trong làng đã mở tỏa án để xét xử.
Sau khi nghị án, mọi người đồng ý cho khắc trên trán của mỗi tội nhân hai chữ viết tắt S.T có nghĩa là “kẻ ăn trộm”.
Một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự xỉ nhục đã trốn sang một vùng khác để quên đi dĩ vãng của mình. Nhưng anh ta không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt trên trán. Bất cứ người nào gặp anh ta, họ cũng tra hỏi anh ta về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa không chịu nổi sự nhục nhã, anh ta lại rời bỏ nơi mình đang cư ngụ để tiếp tục sống lang thang. Cuối cùng, vì mòn mỏi trong cay đắng anh ta đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Nếu người anh đã bị xỉ nhục gặm nhấm đến nỗi phải chạy trốn suốt cả cuộc đời thì người em lại tự nhủ:
“Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì tội ăn trộm mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tôi phải tái tạo sự tin tưởng nơi những người chung quanh cũng như nơi chính mình”.
Với quyết tâm đó, anh ta đã ở lại trong xứ sở của mình. Không bao lâu anh đã xây dựng được một sự nghiệp lớn và tạo được danh thơm tiếng tốt cho chính mình.
Nhưng dù năm tháng có qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi trên trán anh. Ngày kia, có người lạ mặt hỏi một cụ già về ý nghĩa của hai chữ ấy. Cụ già suy nghĩ một lát rồi trả lời:
- Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ ấy. Nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng, hai chữ ấy có nghĩa là “Thánh thiện”
Một thi sĩ Ấn Độ đã viết:
“Hãy tin nơi bạn, vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.
Hãy tin ở ngày hôm nay, vì mỗi phút chứa đựng một dịp may để phụng sự Chúa.
Hãy tin ở những người chung quanh mình, vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.
Hãy tin ở hiện tại, vì hôm qua đã qua đi và ngày mai sẽ không bao giờ đến.
Hãy tin ở tình yêu của Chúa, vì Ngài tha thứ cho bạn và bạn cũng hãy tha thứ cho chính mình”.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, và Ngài mời gọi chúng ta cũng đừng thất vọng về mình. Mỗi may mắn là dịp để chúng ta cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi thất bại và đau khổ là khởi đầu cho một nguồn ơn dồi dào hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn yêu thương ta. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây giờ, các con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con. Đã đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha”.
Allah là tên của Thiên Chúa trong Hồi giáo. Ngài được tôn kính bằng 99 danh hiệu khác nhau: Đấng Tối cao, Đấng Nhân hậu, Đấng Toàn năng, Đấng Vĩnh cửu… Danh hiệu thứ 100 sẽ được mặc khải ở đời sau. Nhưng Allah không bao giờ được gọi là Cha, vì Ngài không sinh con. Kitô giáo yêu mến Đức Giêsu và tin Ngài là Con Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Cha của Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn gọi Thiên Chúa bằng tiếng Abba thân thương. Cuộc đời Đức Giêsu nơi trần gian giống như một cuộc ra đi và trở về. Ngài từ Thiên Chúa Cha mà đến thế gian (cc. 27-28), rồi Ngài lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha, sau khi hoàn thành sứ vụ. Sứ vụ của Ngài là vén mở cho môn đệ về Chúa Cha (c. 25), và đưa họ đi vào chỗ thân tình gần gũi với Người Cha ấy. Chúa Cha ở trong thế giới thần linh, nhưng thế giới ấy lại có những cửa sổ mở ra với thế giới con người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thầy Giêsu kêu mời các môn đệ hãy mạnh dạn đến với Cha và nài xin. Đây là điều trước đây họ chưa từng làm (c. 24a). Đã đến lúc mạnh dạn đưa ra những thỉnh nguyện nhân danh Thầy Giêsu. Nhân danh Thầy Giêsu mà xin cùng Chúa Cha là điều vẫn nằm ở phần cuối của mỗi lời nguyện trong Giáo Hội. Khi cầu xin nhân danh Thầy Giêsu, chúng ta hiệp nhất với Thầy, nên lời xin của chúng ta dễ được Chúa Cha đoái nhận. Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta mọi sự nhân danh Đức Giêsu (c. 23). Hơn thế nữa, chính Chúa Cha cũng yêu mến chúng ta (c. 27), và muốn cho chúng ta ơn lớn nhất là đi vào tương quan với Ba Ngôi ngay từ khi còn sống ở trần gian. “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (c. 24). Khi sắp được về hưởng niềm vui bên Chúa Cha (Ga 14, 28), thấy các môn đệ buồn phiền, Thầy Giêsu đã nói nhiều về niềm vui. Thầy muốn chia sẻ cho họ niềm vui của mình, Ba lần Ngài nói đến niềm vui trọn vẹn hứa ban cho họ (Ga 15,11; 16,24; 17,13). Ngài còn hứa cho họ niềm vui mà không ai sẽ lấy được (Ga 16, 22). Chuẩn bị mừng lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta xin được niềm vui đó, niềm vui của những người đã chạm đến trời cao. Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái, đây là niềm tin của con. Con tin Cha là Tình yêu, và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con. Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa, cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt, cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân, con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái. Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại, chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha. Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất cũng có một đốm lửa của sự thiện, được vùi sâu dưới những lớp tro. Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ. Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích, thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người. Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng. Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu. Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ đang chuyển mình tiến về với Cha, qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần. Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau, vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến, để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con. Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen. ---------------------------------
“Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Nay Thầy lai bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha”. Vai trò con thoi đi lại nối kết giữa hai nơi xa xôi diệu vợi như trời với đất, giữa hai đối tượng nghìn trùng cách biệt như Thiên Chúa với con người đã khiến Chúa Kito trở thành Đấng Trung Gian.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì đưa ta đến gặp gỡ trực tiếp với Đức Chúa Cha: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu dẫn ta đến với Chúa Cha rồi để ta trực tiếp gặp gỡ với Chúa Cha.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì dẫn đưa ta đến tình yêu: “Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. Thật vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy”. Tình yêu Chúa Ki-tô dẫn ta đến tình yêu của Chúa Cha.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì dẫn đưa ta đến sự sống. Ta được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi trong vòng tròn tình yêu ngày càng lan rộng. Chúa Giê-su yêu mến Chúa Cha. Ta yêu mến Chúa Giê-su. Chúa Cha yêu mến ta. Tình yêu trao ban và nhận lãnh tạo nên một chuyển động không ngừng nghỉ làm phát sinh sự sống ngày càng sung mãn.
Các tín hữu thời sơ khai đã sống tinh thần trung gian tốt đẹp.
Thánh Phao-lô đi rao giảng, đi đến đâu cũng bị chống đối, nhưng thánh nhân vẫn yêu thương các giáo đoàn, đi lại thăm viếng khích lệ và làm cho tất cả các giáo đoàn được vững mạnh. A-pô-lô là người đạo mới, nhờ am tường Kinh Thánh và có tài hùng biện, đã thuyết phục được nhiều người, nhưng vẫn còn yếu kém về đạo, lập tức được vợ chồng Prít-ki-la và A-qui-la mời về nhà để bổ sung. Khi A-pô-lô muốn đi A-kai-a, anh em đã khuyến khích và viết thư giới thiệu cho các môn đệ để ông được đón nhận. Nhờ vòng tròn yêu thương ngày càng lan rộng đã làm cho sức sống của Giáo hội sơ khai mạnh mẽ và phát triển mau chóng.
Mỗi ngày ta có nhiều gặp gỡ, tiếp xúc, xin cho ta trở nên trung gian tốt lành để mọi cuộc gặp gỡ tiếp xúc của ta đều hướng dẫn mọi người đến với Thiên Chúa, xin cho những người tiếp xúc gặp gỡ ta đều hướng đến tình yêu, như thế cộng đoàn chúng ta sẽ có sức sống mạnh mẽ trong tình yêu nồng nàn.
Khi cuộc Nam Bắc phân tranh bùng nổ tại Hoa kỳ vào khoảng măm 1860, một vị giáo sĩ nọ đã đến gặp Tổng thống Abraham Lincoln và trịnh trọng phát biểu: “Thưa Tổng thống, chúng ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn ở phía chúng ta trong cuộc chiến này”. Nghe thế, Tổng thống Abraham Lincoln vặn lại tức khắc: “Tôi không mấy quan tâm về điều đó, vì tôi biết rằng Thiên Chúa luôn đứng về phía những người công chính, nhưng tôi luôn lo lắng và cầu nguyện để tôi và toàn dân Mỹ đứng về phía Chúa.
Lời phát biểu của Tổng thống Abraham Lincoln nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa và thái độ đích thực trong lời cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện thiết yếu là xin cho được đứng về phía Chúa, chứ không lôi kéo Thiên Chúa đứng về phía mình.
Tin mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và Suy niệm hôm nay là đoạn kết trong diễn từ Tiệc ly. Một trong những đặc ân nơi cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu chính là cầu nguyện nhân danh Ngài. Chúa Giêsu là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, cho nên từ nay chỉ trong Ngài, con người mới có thể cầu nguyện với Thiên Chúa một cách đúng đắn. Chúa Giêsu là trung gian duy nhất giữa con người và Thiên Chúa trong sự cầu nguyện, bởi vì Ngài vừa là vừa là con người vừa là Thiên Chúa: Ngài là người luôn đọc trong từng biến cố đời mình như một thể hiện chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa; Ngài là Thiên Chúa nắm giữ chìa khoá của chương trình cứu rỗi ấy và biết rằng Thiên Chúa luôn nhận lời Ngài.
Sinh hoạt nền tảng nhất của người kitô hữu chính là cầu nguyện. Nhưng mãi mãi, có lẽ chúng ta phải thốt lên như các môn đệ Chúa Giêsu: “Lạy Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện” vì chúng con chưa biết cầu nguyện. Thay cho một lời giải thích về cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, đó là tất cả cuộc sống của Ngài, một cuộc sống luôn diễn ra phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Như vậy, cầu nguyện là đi vào tri giao mật thiết với Thiên Chúa, hay nói như Abraham Lincoln là đứng về phía Chúa. Thật ra, thái độ nền tảng của cầu nguyện là ra khỏi chính mình và đi vào tương quan với người khác. Người không thể ra khỏi chính mình và sống tương quan với người khác, không thể cầu nguyện một cách đúng đắn theo tinh thần của Chúa Giêsu. Ai biết tôn trọng người khác và thiết lập với người khác tương quan đối thoại và lắng nghe, người đó mới có thể có đủ những điều kiện cần thiết để sống tương quan mật thiết với Chúa Giêsu Phục sinh.
Cầu nguyện là đứng về phía Chúa. Ước gì trong Chúa Giêsu Phục sinh, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, đồng thời là mẫu mực của cầu nguyện, cuộc sống của chúng ta luôn là một thực thi thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân. Nguyện xin Chúa Giêsu Phục sinh đồng hành với chúng ta để hiến cả đời sống chúng ta thành một lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa.
Hôm nay, tôi thấy lời của Đức Giêsu có vài điều nói thẳng, nói rõ ràng: “Bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha”, “Thầy không dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa”.
“Bây giờ Thầy bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha”. Một lời nói như của người bạn từ giã chúng ta, như của đứa con từ giã cha mẹ. Như cô dâu từ giã tổ ấm: Bây giờ con xin từ giã tất cả mọi người thân yêu trong nhà mà đi lập gia đình riêng. Hay như đứa con lớn từ bỏ nhà mà đi ở chỗ khác cũng nói: Con đi mua căn hộ khác để ở. Những người ở lại sẽ ngậm ngùi xúc động trước sự ra đi đó. Họ cảm thấy đời sống chua xót làm sao: “Ra đi là chết đi một tý”. Lúc này chúng ta cảm thấy rõ rệt nhu cầu con người cần sống hiệp thông với nhau và cần có mặt của người khác. Chia ly, chia rẽ khổ cực chừng nào!
Ngay cả lúc Đức Giêsu tỏ bày cho chúng ta biết Người ra đi có lợi cho chúng ta, chúng ta cần cảm thấy một sức nặng vắng mặt đè nặng trên chúng ta. Đức Giêsu sẽ không bao giờ có mặt như khi Người sống bằng xương bằng thịt nữa.
Câu nói thẳng thừng thứ hai là: “Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa”. Thầy nói dụ ngôn đã trọn vẹn rồi. Dụ ngôn của Đức Kitô bây giờ là đi thẳng vào sự thực, trực tiếp chỉ biến cố.
Ngôn từ này rất rõ nét, rất chính xác, rất đích đáng và dễ hiểu. Trong một xã hội độc tài, những bất công, những bóc lột, nếu được phơi bày thực sự, được đưa ra ánh sáng, thì chúng ta thấy trong xã hội văn minh họ xử đối với con chó, con hải cẩu còn hơn con người trong xã hội tàn ác. Đó là điều thật dễ hiểu.
Khi Đức Kitô nói với chúng ta sự thật về biến cố: Người trở về đời sống hiệp thông với Chúa Cha, và cho chúng ta cảm thấy rõ ràng rằng nếu giữa chúng ta còn xảy ra những bất công, kiện cáo, tố cáo, cãi cọ và lãnh đạm, thì không thể nào tha thứ, không thể nào khoan dung được. Người tha thiết mời gọi chúng ta sống hiệp thông với Chúa Cha, hiệp thông với mọi anh em mình là con Chúa. Như vậy, chúng ta mới hiểu rõ được sự thực việc Đức Giêsu về cùng Cha.
Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã từ Thiên Chúa Cha mà đến mới có đủ thẩm quyền để nói cho chúng ta biết sự thật quan trọng là Thiên Chúa Cha yêu thương anh em. Ngay nơi đầu Phúc Âm của mình, thánh Gioan đã thốt lên: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng ta đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người, là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật”. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Chúa Giêsu Kitô mà có, không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
Chỉ một mình Con Một Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Ðấng từ Thiên Chúa Cha mà đến mới có đủ thẩm quyền để nói cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha yêu thương anh em, và chỉ những ai đã đạt tới mức chiêm niệm cao sâu mới có thể cảm nghiệm, xác tín và tuyên xưng như vậy. Cùng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha yêu thương anh em, Thiên Chúa Cha yêu thương con người tội lỗi, yếu hèn của chúng ta. Trong thinh lặng, nhìn lại cuộc đời tội lỗi của mình, chúng ta đã cảm nghiệm được sự thật vừa nói như thế nào rồi. Cuộc đời chúng ta cần được xây dựng trong sự thật căn bản này: Thiên Chúa Cha yêu thương anh em. Nếu không phải do chính Chúa Giêsu Kitô, Ðấng từ Thiên Chúa Cha mà đến để mạc khải cho chúng ta sự thật này thì quả thật chúng ta không dám liều mọi sự, liều cả cuộc đời để tin và sống theo một vị Thiên Chúa vô hình và thường im lặng trước biết bao cảnh đời cùng khổ của con người cũng như của anh chị em trong xã hội.
“Thiên Chúa Cha yêu thương anh em”, đây là căn bản cho niềm vui của chúng ta cảm nghiệm trong linh hồn. Chọn sống cho một vị Thiên Chúa không ngừng tác động trong lịch sử, để chứng tỏ tình thương yêu đối với con người, mặc dù nhiều khi không đáp trả tình yêu của Ngài cách xứng đáng. Sự lựa chọn đó không làm chúng ta run sợ nhưng trái lại làm cho tâm hồn chúng ta cảm thấy nóng lên ngọn lửa sốt mến muốn hiến dâng mỗi ngày một trọn vẹn hơn.
Trong tuần lễ qua, Suy niệm Phúc Âm chương 16 theo thánh Gioan, chúng ta đã chiêm ngắm về khía cạnh thiết yếu của đời sống Kitô, và một trong những khía cạnh quan trọng đó là cuộc đời của người đồ đệ cần được liên kết sâu xa với mầu nhiệm vượt qua của Chúa, để nếm hưởng niềm vui và làm ích cho anh chị em. Không có con đường nào khác để biến cuộc đời chúng ta trở nên nguồn phúc lợi cho anh chị em ngoại trừ con đường ra đi như Chúa. Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng và Ngài loan báo trước cho các môn đệ là sắp đến giờ Ngài ra đi không phải để đi mất mà là để hiện diện lại cách mới mẻ và sâu xa hơn: “Thầy từ Chúa Cha mà đến thế gian và giờ đây Thầy trở về cùng Chúa Cha”.
Từ nay công việc quản lý trần gian này để gây phúc lộc cho anh chị em trở thành công việc của chúng ta, cùng với sức mạnh của Chúa, sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Ðấng thay thế cho Chúa Giêsu để nâng đỡ, an ủi và hướng dẫn chúng ta. Và một trong những phương thế để giữ liên lạc, để có sức mạnh của Chúa đủ để trung thành cho đến cùng trong sự dấn thân hàng ngày của chúng ta cho Chúa và cho anh chị em, là cầu nguyện. Cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu. Cầu nguyện trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu cùng cầu nguyện với chúng ta thì chúng ta còn phải lo sợ điều gì nữa. Phải, điều đáng sợ không phải từ phía Thiên Chúa mà là từ phía chúng ta. Liệu chúng ta có để cho Chúa Giêsu ngự trong tâm hồn mình để cùng thưa chuyện với Thiên Chúa hay không mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được ghi nhớ mãi lời căn dặn của Chúa, đó là “Thiên Chúa Cha yêu thương các con”. Xin Chúa giúp chúng con sống mãi trong tình thương Chúa và múc lấy sức mạnh để từ đó mà phục vụ anh chị em trong mọi hoàn cảnh.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất toàn của mình, cũng như sự giới hạn về uy tín. Vì thế, có những điều chúng ta muốn mà không được và phải cần đến một trung gian làm cầu nối cho mình.
Hôm nay Đức Giêsu mặc khải cho các môn đệ về vai trò của Ngài trong mối tương quan với Thiên Chúa Cha, và Ngài hứa cho những ai nhân danh Ngài mà xin cùng Thiên Chúa Cha thì Người sẽ ban cho như ý. Đây là cách nhấn mạnh và cụ thể, rõ ràng, chứ thực ra, đã có lần Đức Giêsu nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”; hay: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Tại sao hôm nay Đức Giêsu lại dạy các môn đệ chi tiết và cụ thể đến như vậy? Thưa là bởi vì trước kia, khi Đức Giêsu còn ở với các ông, diện đối diện, nên việc cầu xin nhân danh Đức Giêsu là điều mà ít ai nghĩ tới. Tuy nhiên, sau khi đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết, Đức Giêsu sẽ về với Chúa Cha, và như vậy, Ngài đảm nhận vai trò Trung Gian giữa con người với Thiên Chúa Cha cách đắc lực và hiệu quả. Vì thế, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ hãy nhân danh Ngài mà xin với Chúa Cha thì sẽ được như ý.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhân danh Đức Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha những nhu cầu và ước nguyện của mình. Khi chúng ta nhân danh Ngài mà cầu xin, ấy là chúng ta tôn nhận vai trò Trung Gian và công nghiệp cứu chuộc của Đức Giêsu.
Mặt khác, khi nhân danh Đức Giêsu để cầu xin, ấy là lúc chính Ngài hiện diện và hành động trong ta, làm cho lời cầu nguyện trở thành hiện thực.
Mong sao mỗi khi chúng ta nhân danh Đức Giêsu để xin điều gì với Chúa Cha, chúng ta hãy biểu lộ thái độ khiêm tốn, kết hiệp và sẵn sàng thuần phục ý Chúa hơn là ý ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết kết hợp với Chúa trong lời cầu nguyện, để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài, những lời cầu nguyện của chúng con được Chúa Cha thương nhận lời và chúc phúc. Amen.
Sứ điệp: Nhờ Danh Chúa Giêsu mà mỗi người chúng ta được Chúa Cha yêu mến và nhận lời khi ta cầu xin. Hãy tin mến Chúa Giêsu, Ngài là nguồn cậy trông của người Kitô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa đã gánh tội cho con. Không có Chúa, con chẳng thể nào xứng đáng ca tụng Thiên Chúa, chẳng đủ sức đi về nhà Cha. Nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa mà con được trở lại làm con Thiên Chúa, được hưởng mọi phúc lộc của kẻ làm con. Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Phẩm giá của con tùy thuộc vào Danh Chúa. Con biết khi cậy trông Danh Chúa, con trở nên lớn lao trước mặt Cha trên trời.
Xin cho con được thực tâm mến Chúa, xin cho con biết tin nhận Chúa để con đáng được Cha trên trời yêu mến và nhận lời con cầu xin.
Con tin mến Chúa bằng cả cuộc sống biết thực thi Ý Chúa. Chúa đã nói “Ai yêu Ta thì sẽ giữ Lời Ta”. Chúa không muốn con chỉ tin Chúa trên môi miệng hoặc chỉ mến Chúa bằng cảm xúc mau qua. Vì mến tin Chúa, con quyết sống đạo và con sẽ được Chúa Cha thương đón nhận như một của lễ nhờ Danh Chúa.
Tuy thế, sống theo niềm tin vào Danh Chúa vẫn là một thách đố cho con. Đôi khi vì sống theo Thánh Ý Chúa, con trở nên nghèo hơn, mệt hơn, vất vả hơn. Ngược lại, khi sống theo kiểu thế gian, con thấy thoải mái hơn, an nhàn hơn. Nhưng dù vậy xin Chúa cho con lòng tin mạnh mẽ để con dám can đảm khước từ những thiện hảo trần thế không đẹp lòng Chúa, để con đáng được Chúa Cha yêu mến và được hưởng phần gia nghiệp trên trời. Amen.
Ghi nhớ: “Cha yêu mến các con, bởi vì các con yêu mến và tin Thầy”.
Một người cha tận tuỵ vào bệnh viện thăm con trai bảy tuổi đang nằm hấp hối vì chứng bệnh nan y. Cậu bé dường như cảm thấy mình sẽ không khỏi được. Cậu hỏi: “Bố, có phải con sẽ chết không?”.
- Sao con hỏi thế? Con sợ chết phải không?.
Cậu ngước nhìn với ánh mắt tin tưởng và trả lời: “Không, bố ạ, nếu Chúa giống bố”.
Suy niệm
Trong suốt tuần lễ qua, chúng ta Suy niệm chương 16 Phúc Âm Gioan, chúng ta được mạc khải các chân lý trung tâm của đời sống Kitô: Đường thập giá, Chúa Cha và Đấng Bảo Trợ - Thánh Thần, sức mạnh của Thánh Thần, Ðấng thay thế cho Chúa Giêsu để nâng đỡ, an ủi và hướng dẫn chúng ta.
Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài loan báo cho các môn đệ là sắp đến giờ Ngài ra đi. Ra đi không phải để đi mất mà để hiện diện lại cách mới mẻ và sâu xa hơn: “Thầy từ Chúa Cha mà đến thế gian và giờ đây Thầy trở về cùng Chúa Cha”. Phương thế để giữ liên lạc với Ngài và có sức mạnh trung thành đến cùng trên đường thập giá trong sự dấn thân hàng ngày là cầu nguyện. Cầu nguyện với Cha nhân danh Chúa Giêsu.
Ngài dạy chúng ta thái độ phải có khi cầu xin với Cha là: Chúng ta tin và lấy danh Ðức Giêsu kêu cầu, chắc chắn Chúa Cha sẽ nhậm lời. Với tâm tình con thảo, như giáo lý Công giáo dạy: “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm như tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Con, luôn ở trong tương quan Cha, con, nghĩa là phải thể hiện niềm tin phó thác: Tin Cha sẽ làm những gì tốt nhất cho mình.
Trong niềm xác tín đó, chúng ta luôn mang tâm tình tạ ơn hằng ngày: Cha luôn yêu thương quan phòng, và làm những tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ý lực sống
“Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy”... (Ga 16,27).
1. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ phải có khi cầu xin với Cha là phải tin và lấy danh Đức Giêsu mà kêu cầu, chắc chắn Chúa Cha sẽ nhận lời. Như thế, lời cầu xin của chúng ta phải ở trong tương quan Cha – con, nghĩa là phải thể hiện lòng tin tưởng phó thác; tin Cha sẽ làm những gì tốt nhất cho mình. Trong niềm xác tín đó, chúng ta luôn mang tâm tình tạ ơn, ngay cả những điều ta xin không được, những điều không hợp ý ta, những điều xem ra không lợi cho chúng ta. Tất cả đều được Cha an bài trong yêu thương và tốt đẹp nhất cho chúng ta.
2, Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta có kinh nghiệm về sự bất toàn của mình, cũng như sự giới hạn về uy tín. Vì thế, có những điều chúng ta muốn không được và phải cần đến một trung gian làm cầu nối cho mình.
Hôm nay Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về vai trò của Ngài trong mối tương quan với Thiên Chúa Cha, và Ngài hứa cho những ai nhân danh Ngài mà xin cùng Thiên Chúa Cha thì Người sẽ ban cho như ý. Đây là cách nhấn mạnh và cụ thể, rõ ràng, chứ thực ra, đã có lần Đức Giêsu nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, hay: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Tại sao hôm nay Đức Giêsu lại dạy các môn đệ chi tiết và cụ thể đến như vậy? Thưa là bởi vì trước kia, khi Đức Giêsu còn ở với các ông, diện đối diện, nên việc cầu xin nhân danh Đức Giêsu là điều mà ít ai nghĩ tới. Tuy nhiên, sau khi đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết, Đức Giêsu sẽ về với Chúa Cha, và như vậy, Ngài đảm nhận vai trò Trung gian giữa con người với Thiên Chúa Cha cách đắc lực và hiệu quả. Vì thế, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ hãy nhân danh Ngài mà xin với Chúa Cha thì sẽ được như ý (Ngọc Biển).
3. Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài loan báo cho các môn đệ là sắp đến giờ Ngài ra đi. Ra đi không phải để đi mất mà để hiện diện lại cách mới mẻ và sâu xa hơn: “Thầy từ Chúa Cha mà đến thế gian và giờ đây Thầy trở về cùng Chúa Cha”. Phương thế để giữ liên lạc với Ngài và có sức mạnh trung thành đến cùng trên đường thập giá trong sự dấn thân hằng ngày là cầu nguyện. Cầu nguyện với Cha nhân danh Đức Giêsu.
Ngài dạy chúng ta thái độ phải có khi cầu xin với Chúa Cha là: Chúng ta tin và lấy danh Đức Giêsu kêu cầu, chắc chắn Chúa Cha sẽ nhậm lời. Với tâm tình con thảo, như Giáo lý Công giáo dạy: “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (GLCG số 2800).
Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát như Đức Giêsu đã khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10). Lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Con, luôn ở trong tương quan Cha – con, nghĩa là phải thể hiện niềm tin phó thác: Tin Cha sẽ làm những gì tốt nhất cho mình.
4. Sinh hoạt nền tảng nhất của người Kitô hữu chính là cầu nguyện. Nhưng mãi mãi, có lẽ chúng ta phải thốt lên như các môn đệ Đức Giêsu: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” vì chúng con chưa biết cầu nguyện. Thay cho một lời giải thích về cầu nguyện, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, đó là tất cả cuộc sống của Ngài, một cuộc sống luôn diễn ra phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Như vậy, cầu nguyện là đi vào tri giao mật thiết với Thiên Chúa, hay nói như Abraham Lincoln là đứng về phía Chúa. Thật ra, thái độ nền tảng của cầu nguyện là ra khỏi chính mình và đi vào tương quan với người khác. Người không thể đi ra khỏi chính mình và sống tương quan với người khác, không thể cầu nguyện một cách đúng đắn theo tinh thần của Đức Giêsu. Ai biết tôn trọng người khác và thiết lập với người khác tương quan đối thoại và lắng nghe, người đó mới có thể có đủ những điều kiện cần thiết để sống tương quan mật thiết với Đức Giêsu Phục sinh.
5. Truyện: Hiệu lực của lời cầu nguyện.
Một ngày kia, thánh Etienne, vị thánh thành lập hội dòng Grammont, khi ngài đang giảng thuyết trước một cử tọa rất đông đảo người lắng nghe. Bỗng có một người đứng dạy, dám nói thẳng với ngài: “Thưa cha, mặc dù cha nói nhiều đến sự kinh tởm của tội lỗi, con cũng chả thèm muốn hoán cải tí nào cả và con sẽ bực bội khi nghe tin cha cầu nguyện cho con”.
Ngạc nhiên trước những lời nói bạo gan này, vị thánh xúc động đến nỗi ngài phải khóc nức nở. Và ngay sau đó, ngài đánh chuông, tập họp các tu sĩ lại, và ngài nói với họ rằng: “Chúng ta hãy cầu nguyện cho con người đáng thương này”.
Vài giờ sau đó, trái tim của kẻ tội lỗi cứng đầu đó hoàn toàn thay đổi, anh ta nhận ra tình trạng thảm hại của linh hồn anh ta và quyết định sống một cuộc đời mới.
Anh tìm đến gặp vị thánh, anh đã phủ phục dưới chân ngài và xin ngài tha thứ, anh ta cũng hứa sẽ từ bỏ hết các tật xấu và không bao giờ tái phạm chúng nữa.
Thánh Etienne, nhân cơ hội cuộc trở lại này, ngài đã tỏ cho các môn đệ của ngài thấy sự hữu hiệu của lời cầu nguyện.
Tiếp bài giáo lý về việc Chúa Giêsu trở lại: “Hãy xin thì sẽ được… Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin.”
Suy gẫm
1. Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu bằng hai chữ “Ngày ấy…”, vẽ lên một tương lai rất tốt đẹp: “Ngày ấy…chúng con xin Chúa Cha điều gì thì Ngài sẽ ban cho các con nhân danh Thầy.” Nhưng “ngày ấy” là ngày nào?
Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói: “Ít lâu nữa chúng con sẽ không thấy Thầy, nhưng lại ít lâu nữa chúng con lại thấy Thầy” (Ga 16,17). Vậy “ngày ấy” là ngày Thầy trò gặp lại nhau sau một thời gian xa cách. Khi gặp lại nhau như thế, liên hệ Thầy trò sẽ kết gắn bó, đến nỗi tuy hai nhưng chỉ là một, Thầy ở trong trò và trò ở trong Thầy.
Và chính Thầy trò liên hệ mật thiết với nhau như thế mới có hệ quả tốt đẹp là “Chúng con nhân danh Thầy mà xin điều gì với Chúa Cha thì Ngài sẽ ban cho chúng con hết.” Thật đúng như lời Chúa Giêsu nói ở trước chương này, trong dụ ngôn cây nho: “Nếu chúng con ở trong Thầy và Thầy ở trong chúng con, thì chúng con muốn xin gì cứ xin, chúng con sẽ được như ý” (Ga 15,7). Và điều này rất đúng, bởi vì khi chúng ta và Chúa Giêsu ở trong nhau, nên một với nhau thì Chúa Giêsu muốn gì, xin gì thì ắt chúng ta cũng muốn và xin như thế. Nói cách khác chúng ta không muốn và không xin gì ngoài những gì Chúa Giêsu muốn và xin. Và bởi vì Chúa Cha luôn nhận lời Chúa Giêsu xin nên cũng sẽ luôn nhận lời chúng ta.
Từ đó tôi hiểu rằng điều tốt đẹp nhất tôi sẽ nhận được trong “ngày ấy” không phải là việc tôi xin gì và được gì, nhưng là việc tôi và Chúa Giêsu ở trong nhau và nên một với nhau, khiến tôi chỉ còn muốn những gì mà Chúa Giêsu muốn và xin những gì mà Chúa Giêsu xin.
2. Cầu nguyện là đứng về phía Chúa: Khi Nam Bắc phân tranh bùng nổ tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1860, Một vị giáo sĩ nọ đã đến gặp tổng thống Abraham Lincoln và trịnh trọng phát biểu: “Thưa tổng thống, chúng ta hãy luôn tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn ở phía chúng ta trong cuộc chiến này.” Nghe thế, tổng thống Abraham Lincoln vặn lại: “Tôi không mấy quan tâm về điều đó, vì tôi biết rằng Thiên Chúa luôn đứng về phía những người công chính. Tôi luôn lo lắng và cầu nguyện để tôi và toàn dân Mỹ luôn đứng về phía Chúa.”
3. “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn.”
“Cha ơi! làm sao con có thể sống được khi đó là người thân duy nhất của con, chồng con đã phản bội con và giờ đây đứa con duy nhất sắp rời bỏ con rồi!” Lẫn trong những giọt nước mắt, người thiếu phụ thổn thức tâm sự cùng cha xứ như thế, khi đứa con của bà đang cận kề cái chết.
Với lòng tin tưỏng, cha quay sang hỏi người thiếu phụ: “Con có thể làm gì nếu như con muốn nó lành bệnh.” Bà vội trả lời: “Thưa Cha, con có thể hy sinh tất cả, kể cả cuộc sống của con, miễn sao con trai của con khỏi bệnh.”
“Cầu nguyện và tin tưởng vào Chúa chính là phương thuốc thần diệu nhất. Hãy về và cầu nguyện, Chúa sẽ nhận lời cầu xin tha thiết của con.”
Người thiếu phụ trở về và thành khẩn van xin Chúa. Như một phép lạ, cậu con trai dần dần bình phục trước sự vui mừng khôn tả của bà.
Tôi tin rằng Chúa luôn đáp lời tôi cầu nguyện dù Ngài đáp lại “Yes” hay “No”, tôi vẫn tin rằng tất cả chỉ vì Ngài thương tôi, muốn tôi được hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho con biết lấy cầu nguyện là phương châm sống của đời con.
1. Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu bằng hai chữ “Ngày ấy…”, rồi sau đó tiếp tục bằng cách vẽ lên một tương lai rất tốt đẹp: “Ngày ấy…chúng con xin Chúa Cha điều gì thì Ngài sẽ ban cho các con nhân danh Thầy” (Ga 15,16). Nhưng “ngày ấy” là ngày nào?
Trước đoạn Tin Mừng hôm nay 6 câu, tức là thuộc đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói: “Ít lâu nữa chúng con sẽ không thấy Thầy, nhưng lại ít lâu nữa chúng con lại thấy Thầy” (16,17). Vậy “ngày ấy” là ngày Thầy trò gặp lại nhau sau một thời gian xa cách. Khi gặp lại nhau như thế, liên hệ Thầy trò sẽ hết sức gắn bó, đến nỗi tuy hai nhưng chỉ là một, Thầy ở trong trò và trò ở trong Thầy.
Và chính việc Thầy trò liên hệ mật thiết với nhau như thế đã đem lại những hệ quả tốt đẹp là “Chúng con nhân danh Thầy mà xin điều gì với Chúa Cha thì Ngài sẽ ban cho chúng con hết” (Ga 15,16).
Thật đúng như Lời Chúa Giêsu nói ở trước chương này, trong dụ ngôn cây nho: “Nếu chúng con ở trong Thầy và Thầy ở trong chúng con, thì chúng con muốn xin gì cứ xin, chúng con sẽ được như ý” (Ga 15,7). Và điều này rất đúng, bởi vì khi chúng ta và Chúa Giêsu ở trong nhau, nên một với nhau thì Chúa Giêsu muốn gì, xin gì thì ắt chúng ta cũng muốn và xin như thế. Nói cách khác, chúng ta không muốn và không xin gì ngoài những gì Chúa Giêsu muốn và xin. Và bởi vì Chúa Cha luôn nhận Lời Chúa Giêsu xin nên cũng sẽ luôn nhận lời chúng ta.
2. “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16,24).
Gioan Hogan, mười sáu tuổi, không bao giờ nghĩ rằng, Chúa có thể can thiệp vào đời sống của cậu. Cậu phải bỏ học và kiếm sống bằng nghề đi giao bánh. Mọi người trong trường đều tiếc cho cậu, vì cậu là một học sinh chăm chỉ, lịch sự.
Một hôm, trên đường đi giao hàng, Gioan thấy một chiếc xe đang từ từ trượt xuống một hồ nước, bên trong xe có một người đàn ông đang vùng vẫy để thoát thân. Không chút ngần ngại, cậu nhảy xuống nước và nhận ra người trong xe là một mục sư. Nhờ một cánh cửa sau hé mở, cậu đã kéo được nạn nhân ra khỏi xe.
Mệt lả sau hành động cứu người, cảnh sát đề nghị cậu lên xe để được đưa về nhà, nhưng cậu từ chối, viện lẽ cậu còn phải đi giao bánh. Cậu nhờ cảnh sát điện thoại đến cho những tiệm bánh, để báo cho khách hàng biết rằng, bánh sẽ chậm đôi chút vì cậu đến trễ.
Tháng 12/1995, cậu được trao giải thưởng cùng với hai ngàn năm trăm đồng tiền mặt và một học bổng. Gioan cho biết rằng, biến cố đó đã hoàn toàn thay đổi cuộc sống của cậu. Vì như cậu tâm sự hai tuần trước khi tai nạn xảy ra, cậu đã có lần kề súng vào đầu định tự tử, nhưng không biết tại sao súng lại không nổ, bằng không cậu sẽ không bao giờ có cơ hội cứu sống được một người. Người mẹ nghèo của cậu cho biết bà đã cầu nguyện rất nhiều cho cậu. Bà tin rằng, việc cậu thoát chết và cứu sống được một người khác chính là kết quả lời cầu nguyện của bà.
Gioan Hogan đã trở lại trường và theo các lớp phụ đạo để bắt kịp các bạn khác. Cậu đã tìm được ý nghĩa và cơ may mới cho cuộc sống mới.
* Những ai cầu nguyện và tin tưởng ở lời cầu nguyện đều cảm nhận được sự hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Quả thật, Chúa Giêsu đã không bao giờ lừa dối chúng ta khi Ngài khẳng quyết rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).
Hoàng hậu Bianche xứ Castille nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực, vì bà thành hôn mười hai năm rồi mà vẫn không có con.
Khi đến thăm thánh Đaminh, ngài khuyên hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hằng ngày để xin Thiên Chúa ban diễm phúc cho bà được làm mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1231, hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng. Đó là hoàng tử Phillip. Nhưng con trẻ chết yểu ngay khi mới lọt lòng mẹ.
Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van xin Đức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các triều thần cùng dân chúng trong cả nước, và xin tiếp lời cầu nguyện cho bà.
Năm 1235, qua sự bầu cử của Đức Mẹ, Chúa đã nhận lời cầu xin của bà, một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế Công giáo sau này. Vì vị hoàng đế này đã trở thành một vị thánh. Đó là vua thánh Louis.
Lạy Chúa! Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của Thập Giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Amen.