Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS - Xếp gọn trong Tuần 7-2024

Thứ sáu - 17/05/2024 08:29
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS - Xếp gọn trong Tuần 7-2024
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS - Xếp gọn trong Tuần 7-2024
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS
Xếp gọn trong Tuần 7-2024
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Ga 16, 29-33. 3
Suy niệm 1: Thầy không một mình. 3
Suy niệm 2: Thầy đã thắng thế gian. 5
Suy niệm 3: Cùng hiệp thông với Chúa. 6
Suy niệm 4: Sức nuôi sống. 7
Suy niệm 5: Nương tựa vào Chúa. 8
Suy niệm 6: Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian. 9
Suy niệm 7: Can đảm lên, Ta đã thắng thế gian. 10
Suy niệm 8: Dũng cảm và tự tin vào Chúa. 11
Suy niệm 9: Hãy vững tin vào Chúa. 13
Suy niệm 10: Cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian. 15
Suy niệm 11: Môn đệ sống giữa thế gian. 16
Suy niệm 12: Các con hãy can đảm lên. 18

Thứ 3: 14/05 Th. Matthia. 19
Lời Chúa: Ga 15, 9-17. 20
Suy Niệm 1. Chúa chọn ai 20
Suy Niệm 2. Không phải anh em đã chọn Thầy... 22
Suy Niệm 3. Chính Thầy đã chọn các con. 24
Suy Niệm 4. Ở lại trong tình thương của Thầy. 25
Suy Niệm 5. Ðược sai đi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ 26
Suy Niệm 6. Tông đồ sau cùng: Matthia. 27
Suy Niệm 7. Thánh Mátthia tông đồ. 28
Suy Niệm 8. Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba”. 30
Suy Niệm 9. Thánh Matthias Tông đồ. 31
Suy Niệm 10. Thánh Matthia. 32
Suy Niệm 11. Ngài đã chọn con. 33
Suy Niệm 12. Matthia, Tông đồ thứ 13. 34
Suy Niệm 13. Thánh Matthias, Tông đồ. 36
Suy Niệm 14. Thánh Matthias, Tông đồ. 37
Suy Niệm 15. Chúa chọn người Chúa muốn. 38
Suy Niệm 16. Thánh Matthia. 39
Suy niệm 17. Người thợ giờ thứ mười một 42

Thứ 4: 43
Lời Chúa: Ga 17, 11b-19. 43
Suy niệm 1: Xin Cha gìn giữ họ. 43
Suy niệm 2: Niềm vui trọn ven. 45
Suy niệm 3: Xin Cha gìn giữ họ. 46
Suy niệm 4: Đức Kitô và Kitô hữu. 47
Suy niệm 5: Thánh hiến. 48
Suy niệm 6: Được thánh hiến để trở nên chứng nhân. 49
Suy niệm 7: Ơn gọi của con là sống giữa đời 50
Suy niệm 8: Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô. 51
Suy niệm 9: Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ. 53
Suy niệm 10: Chúa Giêsu cầu nguyện cho môn đệ. 55
Suy niệm 11: Tự thánh hóa chính mình. 57
Suy niệm 12: Để chúng được nên một như ta. 59

Thứ 5: 61
Lời Chúa: Ga 17, 20-26. 61
Suy niệm 1: Để họ được nên một 61
Suy niệm 2: Tình yêu và sự sống. 63
Suy niệm 3: Sức mạnh của hiệp nhất. 64
Suy niệm 4: Sự hợp nhất toàn hảo. 65
Suy niệm 5: Sống trong hiệp nhất 66
Suy niệm 6: Hiệp nhất để yêu thương. 67
Suy niệm 7: Hiệp nhất với Chúa và với nhau. 68
Suy niệm 8: Nên một trong tình yêu Chúa. 69
Suy niệm 9: Chúa cầu cho Hội thánh hiệp nhất 71
Suy niệm 10: Hiệp nhất để sống theo chân lý. 73
Suy niệm 11: Nên một với Chúa. 75
Suy niệm 12: Để chúng được hoàn toàn nên một 77

Thứ 6: 78
Lời Chúa: Ga 21, 15-19. 78
Suy niệm 1: Hãy theo Thầy. 79
Suy niệm 2: Yêu mến hơn. 81
Suy niệm 3: Cơ hội thứ hai. 82
Suy niệm 4: Lãnh trọng trách. 83
Suy niệm 5: Yêu thương vô điều kiện. 84
Suy niệm 6: Có yêu thì mới chu toàn. 85
Suy niệm 7: Phêrô -- sứ mệnh mục tử. 86
Suy niệm 8: Chăn dắt các chiên của Thầy. 87
Suy niệm 9: Chúa trao quyền chăn dắt cho Phêrô. 89
Suy niệm 10: Thân phận Phêrô là yêu mến. 91
Suy niệm 11: Lòng mến và nhiệm vụ. 92
Suy niệm 12: Phêrô, con có mến Thầy không?. 95

Thứ 7: 97
Lời Chúa: Ga 21, 20-25. 97
Suy niệm 1: Lời chứng xác thực. 97
Suy niệm 2: Lời ban sự sống. 99
Suy niệm 3: Làm chứng cho Chúa. 100
Suy niệm 4: Về thánh Gioan. 101
Suy niệm 5: Làm chứng tá cho tình yêu. 102
Suy niệm 6: Cảm nghiệm và làm chứng. 103
Suy niệm 7: Ơn gọi theo Chúa. 104
Suy niệm 8: Được mời gọi trở nên chứng nhân. 105
Suy niệm 9: Gioan sẽ là chứng tá trong Hội thánh. 106
Suy niệm 10: Thánh Gioan tông đồ. 108
Suy niệm 11: Ơn gọi của Gioan. 109
Suy niệm 12: Chính thánh Gioan làm chứng và viết ra sự thật 111

----------------------------------

 

Thứ 2:

Cùng hiệp thông với Chúa.
Thứ Hai tuần 7 Phục Sinh.
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.

 

Lời Chúa: Ga 16, 29-33


Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.
Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Thầy không một mình


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém.
Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nadarét.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn.
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá:
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
 
Cầu nguyện:

Giữa những ồn ào của đám đông,
Giữa những sôi nổi của thành công
Và ê chề của thất bại,
Xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
Giữa những khát khao thèm muốn
Và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
Xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
Giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
Chẳng có ai để cậy dựa,
Xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
Để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Thầy đã thắng thế gian


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

“Thầy đã thắng thế gian”. Lời nói đầy khích lệ đối với các môn đệ trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thế gian là một trận chiến khốc liệt. Vì là trận chiến toàn diện. Thế gian có tất cả, bao trùm tất cả. Vì là trận chiến cô đơn. Ta chỉ có một mình chống lại tất cả. Vì thế gian bàng bạc khắp nơi. Ngấm cả vào máu thịt. Nên chống lại thế gian là phải chống lại chính mình.

Chống lại thế gian là một trận chiến cô đơn vì không ai có thể giúp ta. Ta phải tự mình chiến đấu.Nhưng chính trong cô đơn ta gặp được Thiên Chúa. Khi đã dám dứt bỏ tất cả, ta gặp được Thiên Chúa. Ở sâu trong nỗi cô đơn, Thiên Chúa chờ đợi ta như một phần thưởng, như một người bạn thân thiết nhất chỉ xuất hiện khi những bạn bè giả dối ra đi. Như kho tàng chôn giấu trong ruộng. Như viên ngọc nằm trong đá chỉ xuất hiện sau khi loại bỏ những lớp bùn đất bao phủ bên ngoài.

Chiến đấu trong cô đơn đòi hỏi sự trung tín. Khi dám dứt bỏ tất cả, kể cả từ bỏ chính mình, tâm hồn minh chứng một sự trung tín sâu xa với Thiên Chúa. Chính trong sự trung tín, Thiên Chúa hiện diện vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng trung tín.

Chúa Giêsu đã trải qua cuộc chiến khốc liệt và đã chiến thắng. Mọi người đã bỏ Chúa. Chúa đã cảm thấy cô đơn tột cùng. Nhưng rồi Chúa vượt lên trên tất cả và lên cùng Đức Chúa Cha. Các môn đệ chẳng thể đi con đường nào khác ngoài con đường của Thầy. Các môn đệ chẳng thể vượt trội hơn Thầy thoát khỏi nỗi cô đơn. Chúa không hứa giải thoát các ông khỏi cuộc chiến đấu. Chúa loan báo trước cuộc gian nan khốn khó của các môn đệ: “Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khó”. Nhưng chỉ cho các ngài cách thế chiến thắng đó là “Trong Thầy anh em được bình an”. Chỉ đi theo con đường của Chúa, chiến đấu trung tín cho đến cùng, chỉ khi đã vượt thoát hết những ràng buộc của trần gian, người môn đệ mới đạt đến Chúa, mới ở trong Chúa và mới được hưởng sự bình an. Cuộc chiến sẽ rất khốc liệt. Thế gian như miệng sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Nhưng “Hãy can đảm lên vì Thầy đã thắng thế gian”.

Can đảm là ơn Chúa Thánh Thần. Sức mạnh phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, như các tín hữu sơ khai, ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ngự đến và giúp ta trong cuộc chiến đấu với thế gian này. Có ơn Chúa Thánh Thần ta mới hi vọng đạt đến chiến thắng. Vượt lên khỏi thế gian và những ràng buộc của nó, ta mới đạt đến sự bình an là hoa trái của Chúa Thánh Thần.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 3: Cùng hiệp thông với Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chúa Giêsu làm thế nào để thuyết phục các môn đệ tin Ngài là Con Thiên Chúa? Xin thưa, vì Ngài có thể đọc được những ý nghĩ thầm kín nhất trong tận đáy lòng của họ như một quyển sách mở rộng ra trước mắt. Ngài trả lời những câu hỏi của các ông trước khi họ mở miệng thưa với Ngài, và qua đó mạc khải cho họ thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa.

Ðối với người Kitô, tin vào Thiên Chúa có nghĩa là tin vào Ðấng do Ngài sai đến, đó là Người Con yêu quí của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu vì chính Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể làm người, vì Chúa Giêsu thấy Chúa Cha và Ngài là Ðấng duy nhất biết và làm chứng về Chúa Cha. Do đó, lòng tin của chúng ta có một nền tảng vững chắc vì dựa trên lời mạc khải của Thiên Chúa, và đó chính là sự khởi đầu cho đời sống trường cửu. Chúa Giêsu cũng cảnh giác các môn đệ rằng lòng tin của họ sẽ gặp những thử thách và các ngài có thể sẽ bị vấp ngã. Ngài cũng đã báo trước về sự phản bội của một dân tộc cũng như sự chiến thắng vẻ vang của Ngài trên thập giá. Mặc dù biết trước rằng các môn đệ sẽ bỏ rơi mình trong giờ phút khổ nạn nhưng Chúa đã đối diện với những cay đắng đó bằng với một tình yêu cao thượng và một thái độ kính cẩn nơi các môn đệ của mình. Chúa yêu thương các ông cho đến tận cùng ngay cả khi họ bỏ rơi Ngài chết cô độc trên thập giá. Vì Ngài biết rằng thập giá sẽ không đem đến sự thất bại nhưng là sự chiến thắng vẻ vang trên tội lỗi và sự chết.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ một cách vô điều kiện thì ngày nay Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng Ngài cũng yêu thương tất cả nhân loại một cách vô điều kiện và không bỏ rơi bất cứ ai. Khi chúng ta không tránh khỏi những đau khổ của cuộc sống trần thế, thì Chúa Giêsu luôn hiện diện ở giữa chúng ta một cách vô hình và Ngài bảo đảm với chúng ta rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua khỏi những thử thách cam go của cuộc sống. Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy can đảm và tin tưởng vì Ngài đã chiến thắng thế gian. Chúa Thánh Linh được sai đến để ban cho chúng ta nguồn hy vọng và lòng xác tín vào sự chiến thắng của Chúa Phục Sinh. Và không gì có thể đè bẹp được lòng tin và sự hy vọng này. Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để chúng ta vượt qua các trở ngại để giữ vững đức tin của mình.

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ rất cần đến sự soi sáng của Chúa Thánh Linh để các ngài hiểu lời Thầy dạy, vì lời Thầy vượt lên trên sự hiểu biết của họ. Các môn đệ tin rằng đã hiểu được những điều Chúa nói nhưng thực ra tâm trí các ông vẫn còn hạn hẹp và lòng tin vẫn còn yếu đuối đến nỗi có thể bỏ rơi Thầy mình sau đó. Chúa cho các ông hiểu rằng việc Ngài trở về với Chúa Cha phải trải qua sự khổ nạn và sự trở lại đó mang một mầu nhiệm sâu xa làm biến đổi tính chất nhân bản của chúng ta, khiến chúng ta thành thụ vật mới dưới tác động của Chúa Thánh Linh, là Ðấng mà Chúa Giêsu sai đến để soi sáng và ban sức mạnh đức tin cho các môn đệ. Chỉ khi Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, các môn đệ mới thực sự tin vào Ngài. Cũng như các môn đệ của Chúa ngày xưa, có nhiều lúc chúng ta không hiểu được thánh ý của Ngài. Do thế, chúng ta cầu xin Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta bằng với hồng ân của Ngài để chúng ta được trở nên là những thụ vật mới trong Thần Khí của Ngài, và để chúng ta luôn thực hiện thánh ý của Ngài với một lòng tin sâu xa, đó là cùng hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài.

Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con luôn biết tín thác vào quyền năng cứu rỗi của Chúa, nhất là trong giờ phút thử thách và thất vọng. Xin ban cho chúng con sự bình an và lòng tin mỗi khi lòng chúng con tràn ngập những nghi ngờ, để chúng con tìm thấy sự hy vọng qua sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.

---------------------------------

 

Suy niệm 4: Sức nuôi sống


Kết thúc bài diễn từ trong bữa tiệc ly, các môn đệ đã tuyên xưng niềm tin: “Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” và Đức Kitô đã bảo đảm với các ông: “Hãy tin, Thầy đã thắng thế gian”. Xin cho chúng ta cũng biết tuyên xưng niềm tin của chúng ta như thế.

Nhưng cuộc thương khó đã làm cho lời tuyên xưng của các ông như giả dối: Các tông đồ bỏ Thầy một mình mặc cho sức mạnh của thế gian xổ lồng chống lại Đức Giêsu. Dầu thế, chân lý đã chế ngự toàn diện tấn bi kịch đó. Chính Đức Giêsu ra lệnh cho các kẻ thuộc về mình để kệ Người nộp mình chịu đau khổ trong tay quân thù. Người không tự bảo vệ. Những kẻ nghịch sẽ luôn luôn có. Nhưng sau cùng, tình yêu Thiên Chúa sẽ chiến thắng tất cả. Chúa Cha không bỏ rơi Con mình. Ngài yêu mến Con và mọi kẻ Con đã chọn để ở với mình.

Như thế, niềm trông cậy Kitô hữu đang treo mắc vào trời, không như một bằng khen làm ru ngủ mọi lo âu, sầu khổ, nhưng như một sức nuôi sống tình yêu của chúng ta mạnh mẽ tiến bước. Từ nay mãi mãi chúng ta là người của vĩnh cửu ban một trọng trách ở lại và biến đổi một thế giới hoang dại không Thiên Chúa. Là những người chứa chan niềm vui Thiên Chúa, mang trách nhiệm rao giảng nước trời để cho nhân loại được sống lại trong nước Chúa. Chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiến theo chân Người để phục vụ anh em chúng ta vì Người.

Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ bài diễn từ của Chúa, chúng ta thấy được Đức Giêsu đã nói liên tiếp từ Chúa Cha, Thánh Thần và đến Người là Chúa Con: Chúa Cha chỉ nói qua Con, Con không làm gì cho ta mà không có Thánh Thần. Thánh Thần thuần thục hóa ta sống làm con Thiên Chúa. Vòng luân lưu mầu nhiệm này không bao giờ ngừng tăng trưởng trong ta và chung quanh ta. Ước chi chúng ta biết đón nhận mầu nhiệm này để không sống hời hợt như cánh bèo trôi dạt mà sống sâu thẳm như gốc rễ luôn luôn tiếp nhận nhựa sống mới. Sống đức tin không đơn giản nhờ trí thức, nhưng nhờ cam kết gắn bó chính bản thân đã quyết tâm xác tín một lần cho tất cả. Cần tiếp xúc lâu dài đi sâu vào cầu nguyện mới giúp ta cảm nghiệm được tiếng nói thiêng liêng sâu thẳm trong mình: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”.

LP.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 5: Nương tựa vào Chúa.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và các môn đệ như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, đã được thực hiện trong khung cảnh Bữa Tiệc ly, trước giờ Chúa Giêsu vượt qua khỏi đời này để về cùng Cha. Trong những giờ phút đó, Chúa Giêsu cảm thấy được an ủi khi nghe lời tuyên xưng từ miệng các môn đệ Ngài: “Giờ đây chúng con nhận ra là Thày biết hết mọi sự… Vì thế chúng con tin Thày từ Thiên Chúa mà đến”. Có thể gọi đó là lời tuyên xưng niềm tin của các môn đệ; nó không phải là những lời bộc phát, nhưng được kết tinh sau ba năm theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến các phép lạ Ngài làm.

Đáp lại lời tuyên xưng ấy, Chúa Giêsu cảnh tỉnh các môn đệ về sự yếu đuối mỏng dòn của niềm tin nơi con người, đồng thời cho các ông thấy đâu là nơi nương tựa vững chắc nhất. Như Phêrô vừa tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì liền sau đó lại ngăn cản Thày đi vào con đường khổ nạn dẫn tới vinh quang; vừa khẳng quyết theo Thày đến tận cùng, nhưng rồi lại lớn tiếng chối bỏ Thày. Các môn đệ giờ đây tin nhận “Thày từ Thiên Chúa mà đến” nhưng khi giờ đến, các ông sẽ tản mác mỗi người một nơi, bỏ mặc Thày một mình. Nhưng dù có bị các môn đệ bỏ rơi, Chúa Giêsu cũng không đơn độc một mình, bởi vì có Chúa Cha hằng ở với Ngài.

Những kẻ theo Chúa ngày hôm nay cũng có những lúc cảm thấy bị bỏ rơi và không biết tìm nương tựa nơi đâu? Họ chỉ có một nơi nương tựa duy nhất đó là Thiên Chúa, Đấng hằng quan tâm săn sóc con người và ban ơn trợ lực để giúp họ thắng vượt mọi thử thách. Chúa Giêsu đã báo trước các yếu đuối của các môn đệ cũng như những gian truân các ông sẽ phải chịu, nhưng không để làm các ông lo sợ, trái lại để các ông thêm tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa gia tăng nơi chúng ta niềm cậy trông phó thác, để giữa những đêm tối của cuộc đời, chúng ta luôn được bình an, tin tưởng, vì biết rằng có Chúa hằng ở cùng chúng ta.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian


Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, chúng ta thấy suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử thách triền miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như  gông cùm, đòn roi và cái chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người Kitô hữu hôm nay phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang tính vĩ mô và sâu xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những thử thách tinh vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng thì cũng không khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!

Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33).

Vững tin vào Lời Chúa phán cùng với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy khốn, các ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo về Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.

Trong cuộc sống của người Kitô hữu ngày nay, hẳn mỗi người cũng đều cảm thấy khó khăn trong việc sống đạo! Thật thế, hơn bao giờ hết, chúng ta đang phải đối diện với những trào lưu tục hóa trên diện rộng, mọi nơi và mọi lúc. Trào lưu đó có thể là một hệ tư tưởng; có thể vì giá trị đạo đức bị đảo lộn; cũng có thể vì miếng cơm manh áo... mà người ta bắt chúng ta phải tin và hành động theo...

Những lúc như thế, Lương Tâm lên tiếng và chúng ta được mời gọi sống những giá trị Tin Mừng ngay trong những thực tại đó. Vẫn biết đây là khó, nhưng hãy cam đảm lên, vì Chúa đã thắng.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con là những người môn đệ của Chúa còn đang loay hoay giữa biển đời. Theo Chúa lên đường để về nơi phúc thật là hành trình xa xôi và vất vả. Xin giúp chúng con biết chạy đến cùng Ngài để đón nhận sự bình an và can đảm mỗi khi mỏi mệt đơn côi. Xin giúp chúng con chiến thắng con người yếu đuối, nặng nề của mình, để chúng con lên đường trong thanh thản và an vui. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Can đảm lên, Ta đã thắng thế gian


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: “Trong thế gian, các ngươi sẽ phải khốn khó. Nhưng hãy can đảm lên, Ta đã thắng thế gian”. Đó là lời Chúa Giêsu tiên báo và là niềm an ủi cho mỗi người chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khác với mọi nhà chính trị, trước khi Chúa về cùng Chúa Cha, Chúa đã tiên báo cho những kẻ theo Chúa toàn là những sự khốn khó, nào là bắt bớ, ưu phiền, nào là chống đối, tan rã… Quả thật, hai ngàn năm qua là một bằng chứng cho thấy đã ứng nghiệm cái sự thật đáng sợ đó. Giáo Hội luôn bị bách hại. Tuy nhiên Chúa đã an ủi khích lệ Giáo Hội can đảm lên. Tất cả mọi gian khổ thử thách, dù đáng sợ đến đâu, vẫn không thể ngăn cản Giáo Hội tiến đến chiến thắng cuối cùng mà Chúa dành cho Giáo Hội.

Lạy Chúa, sống giữa thế gian đầy sức mạnh tấn công, đầy gương xấu và mọi thứ lý thuyết đi ngược lại đường lối của Chúa, xin Chúa cho con luôn can đảm, cho con nhớ rằng Chúa đã không báo trước cho con những điều thuận lợi, may lành, mà là báo trước những sự đau khổ, bất lợi và thiệt thòi gắn liền với lý tưởng phụng sự Chúa. Vì thế, khi gặp những nghịch cảnh, con không ngỡ ngàng nhưng biết đón nhận với lòng yêu mến Chúa. Với tình yêu, con sẽ vượt qua tất cả. Khi con thông phần vào thập giá Chúa thì con cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh.

Lạy Chúa, Chúa là cùng đích của đời con, xin cho con luôn vững tin vào Chúa, hy vọng nơi Chúa. xin cho con trung thành theo Chúa trên con đường thánh giá, để con dự phần vào chiến thắng của Chúa. Chúa đã chiến thắng thế gian, xin giúp con nhìn lên Chúa mà an tâm tiến bước. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 8: Dũng cảm và tự tin vào Chúa


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Henri Shepler là một tân binh. Viên hạ sĩ sai anh xuống làm việc tại nhà ăn. Anh không đi. Viên hạ sĩ cho là anh bướng và dọa sẽ báo cáo lên cấp trên.

- Được, hạ sĩ cứ việc báo cáo. Tôi đăng ký đi lính chứ không phải đi làm bồi bàn.

Buổi chiều, Shepler bị gọi lên bộ chỉ huy. Đôi chân run run, nhưng lòng anh bình thản, vì anh biết mình hành động đúng. Vị sĩ quan hỏi:

- Có phải sáng nay anh không tuân lệnh cấp trên?

- Đúng vậy, thưa ngài.

- Tại sao anh làm vậy?

- Đơn giản là vì tôi cho rằng công việc trao cho tôi là không đúng. Tôi đăng ký làm người lính chứ không phải làm bồi bàn.

 Vị sĩ quan bật dậy, đến bắt tay anh và nói: “Shepler, anh đúng là hạng người chúng tôi cần. Tôi vui mừng khi thấy anh là con người dũng cảm và tự tin ở mình”.

Suy niệm

Chúa Giêsu nói về sự thương khó của Ngài: Sẽ phải đối diện với sự sợ hãi, đau khổ, nghi ngờ, phản bội khi người bán Thầy như Giuđa, kẻ chối Chúa như Phêrô, và cuối cùng Ngài phải trực diện với cái chết. Nhưng Ngài vẫn phải tiến bước với lòng can đảm, sẵn sàng bước vào một cuộc chiến…

Ðức Giêsu cũng loan báo cho những môn đệ của Ngài qua hình ảnh các môn đệ đến chúng ta, những Kitô hữu mọi thời sẽ phải lao đao khốn quẫn vì bóng đêm tội lỗi, vì thiếu vắng niềm tin. Chúng ta nhiều lúc bế tắc trong cuộc sống. Sự ác lộng hành, sự dữ nhiều khi đè bẹp chúng ta. Tội lỗi tràn ngập thân xác, tâm hồn khiến ta không còn trỗi dậy được nữa. Quyền lực của thế gian lại bách hại người tin...

Chúa Giêsu đi trước chúng ta, Ngài đã vượt qua sức mạnh của sự chết và bóng đêm của tội lỗi. Ngài dạy chúng ta đừng sợ vì Ngài đã chiến thắng thế gian, và hãy vững lòng và can đảm bước đi giữa thế gian… Niềm tin vào Chúa Phục sinh: “Thầy đã thắng thế gian” cho chúng ta sức mạnh vượt những khó khăn trong đời, đối diện và đi lên từ những thất bại, vượt qua những tranh đấu nội tâm và thể xác, những xung đột trong đời sống hàng ngày, thay vì để nó gặm nhấm trái tim hay tiêu cực trốn chạy. Chúng ta hãy can đảm đứng lên xua tan đêm đen, xua tan bóng tối của tội lỗi, phá tan gông cùm xiềng xích của sự hủy diệt. Nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh.

Khi hiện ra với các môn đệ sau khi Phục sinh khải hoàn, Chúa Kitô đã giúp các môn đệ nhìn tổng thể cuộc đời trong tinh thần Phục sinh mà chính Ngài là một điển hình: Tất cả là để ứng nghiệm Thiên ý. Các Tông đồ được soi chiếu bằng ánh sáng Phục sinh của Thầy, nên hiểu được ý nghĩa hoàn thành cuộc đời. Các ông được mời gọi tiến bước trong cuộc sống loan báo niềm tin Phục sinh và để niềm tin Phục sinh chiếu rọi cho cuộc đời dù phải đối diện bóng đêm của thế gian và sức mạnh của sự dữ...

Trong Chúa Kitô Phục sinh, từng bước đi giữa thế gian, chúng ta mang tâm tình của thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).

Ý lực sống:

“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 9: Hãy vững tin vào Chúa


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Tại sao Phụng vụ lại còn chọn cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng này nữa vì nó lấy lại chủ đề bàn về sự thương khó và chịu nạn của Chúa Kitô? Thưa vì đoạn Tin Mừng này trình bầy cho chúng ta về thân phận của Hội thánh đang dong duổi ở trần gian, vì thế Hội thánh cần phải tin tưởng vào Chúa Kitô Phục sinh để can đảm sống và sống dồi dào trong ơn nghĩa Chúa.

Vì thế, Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta về niềm tin của Hội thánh vào sự chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô Phục sinh để thúc đẩy mọi Kitô hữu, con cái của Hội thánh, biết can đảm giữ vững và trung thành với ơn nghĩa Chúa.

2. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay là lời của các môn đệ thưa với Chúa Giêsu, rằng các ngài đã tin Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Chúa Giêsu ghi nhận niềm tin đơn sơ đó, nhưng cũng hiểu rõ các môn đệ chưa thực sự hiểu đúng về sứ mạng Thiên sai của Người. Bởi cho đến lúc này, các môn đệ tin Chúa Giêsu được sai đến và chỉ chờ cho Người giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của Rôma và lên ngôi hiển trị, lúc đó các môn đệ sẽ được chia sẻ danh vọng và quyền lực với Thầy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu phải nói rõ là sắp đến “giờ của Người”, giờ ở đây không phải là chiêu tập binh mã để giải phóng theo kiểu trần thế, mà là “giờ đi vào cuộc khổ nạn”, giờ môn đệ sẽ tán loạn bỏ lại Người một mình.

3. Từ trước tới nay, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để dạy các ông về Ngài, về Thiên Chúa và về Nước Trời, nhưng giờ đây lúc Thầy trò sắp chia ly, Ngài không dùng dụ ngôn nữa và dạy bảo những lời rõ ràng. Thấy vậy, các Tông đồ tỏ ra hồ hởi, phấn khởi, đắc chí và tự hào vì thấy Chúa tuyên bố rõ ràng về Ngài và biết rõ Ngài bởi Thiên Chúa mà đến.

Nhưng Chúa đã kéo các ông ra khỏi sự mộng tưởng, đưa các ông trở lại hoàn cảnh cụ thể của mình. Chúa nói: “Anh em biết Thầy ư? Anh em tin Thầy ư? Thầy báo trước cho anh em biết khi giờ quyết liệt đến anh em sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết. Nhưng không sao, Thầy thông cảm sự yếu đuối của anh em. Thầy nói vậy để anh em được yên chí về Thầy, Thầy không buồn, không giận anh em đâu...”.

4. Hôm nay Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

Vững tin vào lời Chúa phán với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời  sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy hiểm, các Ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.

5. Trong bài giảng lễ Các Thánh Nam nữ, Đức Giào hoàng Phanxicô chia sẻ: “Lời Chúa chỉ cho mỗi người con đường dẫn về Thiên quốc. Đây là hành trình gian nan vất vả, vì là một cuộc hành trình lội ngược dòng”.

Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chia sẻ sứ vụ của Người nơi trần gian. Đó là loan truyền ngọn lửa tình yêu Người đã thắp lên cho cả nhân loại. Tuy nhiên, sống giữa một xã hội bất công và hận thù, việc làm đó của các môn đệ là một hành vi đi “ngược dòng”; và do đó, họ sẽ bị người đời chống báng bởi “thế gian thù ghét những gì không thuộc về nó”. Thế nhưng, trên bước đường loan truyền sứ điệp yêu thương, người môn đệ luôn mang trong mình niềm tin tưởng: Thầy đã chiến thắng khải hoàn, và nhờ sự trợ giúp của Thầy, đến lượt môn sinh cũng được nối bước khải hoàn.

6. Vậy bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là gì? Nhiều người chúng ta trong cuộc sống theo Chúa cũng giống như các Tông đồ, khi được ơn trên thúc giục thì phấn khởi, nói thánh nói tướng: “Chúng con biết Chúa, chúng con tin Chúa”, hay như Phêrô: “Con sẵn sàng chết với Chúa”. Nhưng khi gặp thử thách thì bỏ trốn, và có lẽ người nói mạnh nhất là người chạy nhanh nhất và sa ngã nặng nề hơn: Phêrô chối Chúa ba lần, các Tông đồ bỏ trốn hết, Gioan được coi là thân thiết nhất, cũng chỉ âm thầm đau xót. Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể giống các Tông đồ lúc đầu thì chúng ta cũng hãy giống các ngài  lúc cuối: Phêrô đã ăn năn khóc lóc, các Tông đồ khác hối hận lần lượt trở lại với Chúa.

7.Truyện: Can đảm tuyên xưng Chúa.

Trong thời kỳ cách mạng Pháp, có 16 nữ tu dòng Carmel bị kết án tử hình vì tội cuồng tín. Khi tòa tuyên án, một trong số 16 nữ tu rụt rè hỏi: “Thưa quan tòa, tội cuồng tín là gì”?

Vị thẩm phán đáp: “Là tội dại dột và cố chấp  tin vào một tên tử tội đã bị kết án đóng đinh ở trên thập giá cách đây cả hơn nghìn năm”. Nghe thế, vị nữ tu chắp tay ngước mắt lên trời và nói: “Ôi! Thật tuyệt diệu khi được chết vì Chúa Kitô”.

Đến ngày xử án, 16 nữ tu được mang ra pháp trường trên chiếc xe ngựa chuyên dùng chở các tử tội, ai thấy xe ấy cũng sợ, ngoại trừ 16 nữ tu đơn sơ yếu đuối sắp bị hành quyết. Họ cất tiếng thánh thót hát lên những bài thánh ca quen thuộc, trước khi bị đem lên máy chém, từng người một quì trước mặt Mẹ Bề Trên để lặp lại lời khấn vâng lời, sau đó họ cất tiếng hát kinh “Veni Creator: Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến”.

Với một chiếc đầu rơi, cường độ của âm thanh nhỏ dần, cuối cùng đến phiên Mẹ Bề Trên tên là Têrêsa Augustina, trước khi bị lưỡi dao rơi xuống kết thúc cuộc đới, người môn đệ của Augustinô ấy đã lặp lại lời của thánh nhân: “Tình yêu sẽ luôn chiến thắng, vì tình yêu có sức mạnh vô song”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 10: Cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Đề tài giáo lý về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.

Chúa Giêsu báo trước rằng khi Ngài bị nạn thì các môn đệ sẽ bỏ Ngài: “Nay đã đến giờ, và đến giờ rồi, các con sẽ mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình.”

Chúa Giêsu còn tiên báo xa hơn về cuộc sống của các môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.”

Suy gẫm

1. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng hãy can đảm lên Thầy đã thắng thế gian.”

Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người gói trong những tấm da thú bị đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!…Bọn Thiên Chúa giáo!…” Giờ đây cảnh tượng hành hình những Kitô hữu tiên khởi thời Néron năm 64.

Lịch sử Giáo Hội mở ra với những cuộc bách hại. Và trải qua 2000 năm, bị nghi ngờ, bị thù ghét và bách hại luôn là số phận của người Kitô hữu. Tại sao? Lời Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho tôi.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng là Kitô hữu nghĩa là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa. Xin cho con luôn biết can đảm đối diện với thập giá.

2. Nếu chỉ có tin vào phần đầu của Lời Chúa thì chúng ta sẽ lo sợ lắm. Chúng ta phải tin luôn phần sau của Lời Chúa nữa “Thầy đã chiến thắng thế gian.” Chắc chắn như thế, Chúa Giêsu đã bị biết bao gian nan khốn khó cùng một lúc đổ dồn lại tấn công Ngài, bao nhiêu kẻ thù liên minh lại để làm hại Ngài, đến nỗi Ngài phải chịu chết, chết rất đau đớn và rất nhục nhã. Có thể nói, khi Ngài chết là Ngài đã gánh chịu biết bao gian nan khốn khó. Bởi vậy khi Ngài sống lại thì không phải Ngài chỉ chiến thắng một sự gian nan khốn khó nhưng là tất cả mọi gian nan khốn khó. Chiến thắng ấy không phải chỉ riêng Ngài mà còn đảm bảo cho chiến thắng của tất cả những ai theo Ngài.

3. Nhưng để có thể đón nhận những gian nan khốn khó sẽ đến và để có thể vững tin vào chiến thắng, chúng ta phải “can đảm lên.” Xin Chúa ban cho con thêm can đảm.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 11: Môn đệ sống giữa thế gian


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.

1. Chúa Giêsu báo trước và báo xa hơn về cuộc sống của người môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

Lịch sử Giáo Hội đã được khởi đầu với những cuộc bách hại. Và trải qua hơn 2000 năm số phận của người Kitô hữu cũng vẫn luôn là số phận bị nghi ngờ, bị thù ghét và có thể bị bách hại nữa. Tại sao? Lời Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho chúng ta.

Chúng ta hãy nghe một đoạn văn nói về một cuộc hành hình các Kitô hữu đầu tiên dưới thời bạo Chúa Néro năm 64 tại Rôma: “Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt của khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người bị gói trong những tấm da thú được đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!… Bọn Thiên Chúa giáo!…”

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội VN chúng ta: cũng không có luật trừ. Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1553, cùng với Tin Mừng của Chúa đến Việt Nam thì Thánh Giá cũng đến theo. Biết bao tín hữu đã bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, phải lén lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ… để trung thành với Đức tin. 300 năm Giáo Hội VN đã phải chịu rất nhiều khổ đau: Tính đến cuối thế kỷ 19, người ta đã có thể thống kê được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần được diễm phúc tử đạo. Trong số này có 118 vị đã được các Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Piô XII phong lên bậc chân phước rồi được Đức Gioan Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh gần đây.

Quả thực Giáo Hội Việt Nam của chúng ta nghèo nàn, không so sánh được với các Giáo Hội Âu Mỹ, nhưng chúng ta có quyền hãnh diện về lòng trung thành sắt son với đạo Chúa của tổ tiên ta: ba thế kỷ bắt bớ tù đày và trên 130.000 đấng Tử đạo.

2. Nếu chỉ nghe có phần đầu của Lời Chúa hôm nay thì chúng ta sẽ lo sợ nhưng nếu nghe luôn cả phần sau thì chúng ta sẽ thấy thật phấn khởi: “Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).

Chúng ta hãy nhìn lại một chút lịch sử của Giáo Hội Chúa từ khi Chúa thành lập đến nay:

- Mới vừa giảng đạo được ba năm, chính Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Hội Thánh, đã bị kết án và chết một cách nhục nhã trên cây Thánh Giá.

* Hội Thánh mới thành hình chưa được bao lâu thì lại phải trải qua 300 năm bách hại. Sự bách hại lúc này không còn hạn chế trong đất nước Do Thái mà bao trùm cả đế quốc Rôma, mãi cho đến năm 313, sắc chỉ Milan về tự do tín ngưỡng mới được ban hành. Giáo Hội được hưởng một thời gian an bình. Nhìn lại cuộc sống của Giáo Hội cả thời kỳ này, sử gia Tertulianô đã nói: “Hạt máu của các vị Tử Đạo là hạt giống nảy sinh người Kitô hữu khác”.

* Thế kỷ VI, VII làn sóng các dân man di lại tràn gập đế quốc Rôma, gây không biết bao nhiêu điều điêu đứng khó khăn cho Hội Thánh. Nhưng rồi với sự kiên trì dạy dỗ, Hội Thánh đã cảm hóa được họ, lôi kéo họ trở về.

* Đền thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:

- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh.

Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:

- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá tan Hội Thánh được.

Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:

- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.

Tóm lại, con thuyền Phêrô đã bị sóng gió bão táp xô đẩy suốt 20 thế kỷ nay vẫn không bị chìm. Nhà thi hào Henrich Heine người Đức (1797-1856) sau khi nhìn lại những thất bại của mình trong công việc chống phá Giáo Hội đã phải thú nhận: “Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đo sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.

 Lời Chúa hãy còn đó: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 12: Các con hãy can đảm lên


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Sau những ngày tháng theo Chúa đó đây, nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, chứng kiến các phép lạ Chúa làm để chữa lành những chứng bệnh khác nhau trong dân chúng, các tông đồ càng gắn bó với Chúa nhiều hơn, càng hiểu biết về Chúa nhiều hơn, tuy các ngài cũng gặp những khó khăn gian nan thử thách và bây giờ nó vẫn còn diễn ra trong cuộc sống hằng ngày của các ngài.

Một khi hiểu biết và gắn bó với Chúa nhiều hơn, các ngài càng tin tưởng ở Chúa, phó thác cuộc đời các ngài, quá khứ, hiện tại, cũng như tương lai cho Chúa: “Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra (Ga 16, 29 – 30). Các ngài thưa lên Chúa với một tâm tình tha thiết như vậy, vì các ngài nhận thấy được Chúa thương các ngài, dù các ngài còn nhiều lầm lỗi, thiếu sót, giới hạn, bất toàn, Chúa vẫn không chấp nhất. Mặt khác, tâm tình của các ngài lúc này tràn đầy niềm vui, hoan lạc, hạnh phúc, sung sướng trong Chúa, do vậy mà các ngài nhìn thấy tương lai của các ngài tươi sáng hơn trong cuộc hành trình theo Chúa, cho nên các ngài quyết theo Chúa đến cùng.

Chúa đón nhận những tâm tình, những nỗ lực theo Chúa của các ngài. Chúa cảm thông với các ngài, nhưng Chúa nói với các ngài là hiện tại của các ngài là như vậy đó, nhưng trong tương lai sắp tới, đời không như là mơ đâu, sẽ có rất nhiều điều bất trắc xảy đến ngoài ý muốn của các ngài, làm cho các ngài phải đau khổ, phải sợ hãi, phải khiếp đảm bỏ Chúa chạy trốn, các ngài vẫn là một tạo vật yếu đuối, bất toàn, tội lỗi lắm: “Chúa Giêsu đáp lại các ông: Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian (Ga 16, 31 – 33). Do đó, các ngài đừng dựa vào sức mình, mà hãy dựa vào sức Chúa. Chúa là đá tảng vững chắc để con người chúng ta tựa nương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Do vậy, dù rằng người ta có bắt Chúa, giết chết Chúa trên thập giá đi chăng nữa, cũng không thể làm gì được Chúa: “Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy: (Ga 16, 32). Những lúc xảy ra như thế, Chúa nói các ngài đừng buông xuôi, đừng sa ngã, đừng thất vọng mà hãy tin tưởng mãnh liệt vào Chúa: “Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian (Ga 16, 33). Chúa luôn ở bên cạnh để nâng đỡ các ngài, các ngài sẽ vượt qua, vì vậy, đừng sợ.

Lạy Chúa phục sinh, trong cuộc sống, chúng con là thụ tạo tội lỗi, yếu đuối, chúng con có nhiều nỗi sợ: Sợ đói, sợ khát, sợ bệnh tật, sợ đau khổ, sợ bị bỏ rơi, sợ bị hiểu lầm, sơ ma, sợ chết, sợ bị rớt hỏa ngục…Xin Chúa thương ban ơn nâng đỡ, giúp chúng con dựa vào Chúa để chúng con có sức mạnh vượt qua các nỗi sợ, sống trung thành với Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết can đảm, mạnh dạn lên, đừng sợ một điều gì, vì Chúa đã thắng thế gian thì chúng con cũng sẽ được như Chúa, bởi chúng con là con cái trong gia đình của Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 3: 14/05 Th. Matthia

Ðược sai đi.
14/05 – Thứ Ba tuần 7 Phục Sinh. – THÁNH MATTHIA, Tông Đồ. Lễ kính.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ: Thầy gọi các con là bạn hữu".
 
* Thánh Matthia là người “đã theo Chúa Giêsu, kể từ khi Người chịu phép rửa của ông Gioan cho đến ngày Người thăng thiên”.
Chính vì thế, thánh nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông Giuđa, để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Thánh nhân được kể vào Nhóm Mười Hai, như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 15, 9-17


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.

"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.

"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.

Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Chúa chọn ai


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Cái chết của anh Giuđa chẳng những là một điều đáng tiếc,
mà còn để lại một khoảng trống trong nhóm Mười Hai.
Nhóm Mười Hai trở thành nhóm Mười Một (Mc 16, 14).
Giuđa đã được tham dự vào công việc phục vụ của nhóm.
Sự ra đi của anh khiến cho chức vụ này cần người bổ sung.
Trong cuộc gặp mặt giữa khoảng một trăm hai mươi anh em,
Phêrô, trưởng nhóm, đã muốn tìm người thay thế (cc. 15-20).
Theo Phêrô đâu là điều kiện để có thể được chọn vào nhóm Mười Hai?
Anh phải là người đã đồng hành với nhóm này
trong suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa họ.
Thời gian đi với nhóm được kể từ lúc ông Gioan làm phép rửa cho Chúa,
cho đến ngày Ngài được phục sinh và được đưa lên trời (c. 21).
Như thế để được nhập vào nhóm Mười Hai,
phải là người có kinh nghiệm sống đời sống của nhóm,
và kinh nghiệm sống với Thầy Giêsu trong suốt sứ vụ của Ngài.
Chỉ ai đã từng có kinh nghiệm đi với nhóm, đói no vất vả với nhóm,
người ấy mới được là thành viên mới của nhóm.
Chỉ ai đã đi sát với Thầy Giêsu, đã lắng nghe bao bài giảng của Thầy,
đã chứng kiến bao việc kỳ diệu Thầy thực hiện,
chỉ ai có kinh nghiệm về việc Thầy bị giết và được phục sinh,
người ấy mới có thể trở nên chứng nhân về sự phục sinh ấy
cùng với cả nhóm anh em (c. 22).
Có hai người được đề cử vì hội đủ điều kiện: Giôxếp và Mátthia.
Khi không biết chọn ai, thì cộng đoàn đã cầu nguyện.
Cầu nguyện cho thấy họ muốn được soi sáng để chọn ý Chúa.
“Xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để kế tục sứ vụ tông đồ” (c. 25).
Họ đã không chọn bằng cách bầu phiếu theo đa số,
nhưng bằng cách rút thăm để tìm người Thiên Chúa chọn.
Cách này là cách truyền thống để tìm ý Chúa trong Do thái giáo (Lv 16, 8).
Matthia đã trúng thăm và trở nên vị tông đồ thứ mười hai.
Khi mừng lễ thánh Matthia, chúng ta mừng lễ một vị tông đồ,
tuy không trực tiếp được Đức Giêsu gọi và chọn,
nhưng đã được chọn gián tiếp qua các tông đồ khác và cộng đoàn.
Thiên Chúa vẫn chọn qua lựa chọn của con người, mãi đến tận thế,
nên Giáo hội vẫn có người được gọi để phục vụ.
Xin cho mọi chọn lựa của chúng ta đều nhắm đến vinh danh Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
 
--------------------------------

 

Suy Niệm 2. Không phải anh em đã chọn Thầy...


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

“Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già,
tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con.”
Quyết định của cha Kônbê (Maximilianus Maria Kolbe) đã cứu được ông Francis.
Không phải chỉ mình ông và gia đình ông,
cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng,
những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.
Từ hầm giam,
không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa.
Chỉ có tiếng hát và lời kinh...
Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc,
vì nó là bằng chứng của một tình yêu.
Không có tình yêu nào lớn bằng
tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.
Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kôn-bê,
nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.
Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.
Ðây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn
của một người đang yêu.
Ðây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu
dành cho những nhà thần bí.
Ðức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.
Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy
thì phải giữ các điều răn (x. câu 10),
mà điều răn quan trọng nhất
là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu:
muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.
Cành nào muốn hiệp thông với cây
thì cũng phải hiệp thông với các cành khác.
Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành.
Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.
Khi gắn bó thân thiết với Chúa,
chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.
Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy
để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa.
Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển:
như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em;
như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.
Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.
Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.
Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.
Môn đệ Ðức Kitô phải là chứng nhân tình yêu,
yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.
Chúng ta không có dịp để chết như cha Kôn-bê,
nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.
Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ.
Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.
Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng,
hãy trở lại với Ðức Giêsu như suối nguồn
để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” (Trích trong PRIER)
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 3. Chính Thầy đã chọn các con


--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy sống trọn vẹn tình yêu, theo mẫu mực tuyệt hảo như Thiên Chúa yêu thương. Ta hãy giữ giới răn của Chúa Giêsu để sống trong tình yêu của Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, không có lời mời gọi nào êm dịu và ngọt ngào cho bằng tiếng gọi của tình yêu. Sự ngọt ngào ấy còn tuyệt diệu hơn nữa khi có tiếng gọi của tình yêu từ chính Chúa.

Nhưng lạy Chúa, từ vườn địa đàng, nơi phủ ngập tình yêu của Chúa, tổ tiên loài người đã đánh mất tình yêu. Lòng con người hóa nên chai cứng và thù hận đã bóp nghẹt con tim. Tình trạng ấy đang ảnh hưởng trên đời sống con hôm nay.

Lời Chúa đã đánh thức tình yêu con sống dậy, và hướng dẫn con biết sống trong tình yêu của Chúa. Tình yêu ấy cần được sống trong đời thường. Tình yêu ấy sẽ biến đổi con thành người sống trong thuận hoà. Tình yêu ấy luôn ẩn dấu trong trái tim để hướng dẫn con sống đời yêu thương cụ thể. Tình yêu ấy lắng đọng trong đôi mắt để con nhìn người khác là anh em. Tình yêu ấy luôn ngập tràn trên môi miệng để con biết nói lời dựng xây, biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với kẻ khác. Tình yêu ấy luôn hiện diện trên đôi tay để con biết sẵn sàng cho đi những nghĩa cử cao đẹp. Và tình yêu ấy luôn tiến bước trên đôi chân để con sẵn sàng đi đến với mọi người.

Lạy Chúa, xin dạy con sống tình yêu chia sẻ như Chúa, để đời con tràn đầy niềm vui hạnh phúc, vì “kẻ cho thì có phúc hơn người nhận”. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn”.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 4. Ở lại trong tình thương của Thầy


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Mẹ Têrêsa, nhà truyền giáo của tình thương bác ái. Mẹ bắt đầu sứ mạng của mình mỗi ngày, trước lúc rạng đông, Mẹ đến trước Thánh Thể Chúa. Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, găp gỡ Thiên Chúa, Mẹ lắng nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: “Ta khát”. Lời kêu vang này, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố ở Calcutta, Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người nghèo, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết. Mẹ Têrêsa sống tình yêu, trao ban tình yêu cho những người bất hạnh nhất như lệnh truyền của Chúa Giêsu: Yêu thương anh chị em chung quanh như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Suy niệm

Tình yêu xuất phát từ nguồn mạch là Thiên Chúa Cha như thánh Gioan sau này đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), một tình yêu vô tận và không ngừng trao ban:

Từ Chúa Cha qua Chúa Con như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: Như “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào” (Ga 15,9a). Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5).

Rồi từ Chúa Con, Đức Giêsu đến môn đệ, như Ngài khẳng định: “Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9b). Người môn sinh khám phá và chiêm nghiệm: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9c).

Chính vì xuất phát nguồn từ nơi Thiên Chúa đến với nhau rồi lan ra giữa các môn đệ với nhau theo tiêu chuẩn mô phạm tình yêu của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Ở lại trong tình yêu và trung tín với lệnh truyền yêu thương của Ngài, môn sinh sẽ được “tràn đầy niềm vui” vì “Ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy” (1Ga 4,16b).

Như Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9), đó là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại: Tất cả những gì Ðức Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha. Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Và nhân loại cũng trao cho nhau như Chúa Giêsu truyền: Biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.

Ý lực sống: Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore).

 -------------------------------

 

Suy Niệm 5. Ðược sai đi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’


Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ thánh Mathia tông đồ. Tuy được gọi là tông đồ, nhưng thánh Mathia không thuộc nhóm Mười Hai Tông Ðồ nguyên thủy của Chúa Giêsu; ngài là người được chọn để thay thế cho kẻ phản bội là Giuđa Iscariốt.

Mathia theo tiếng Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.

Tông đồ theo nguyên ngữ có nghĩa là "được sai đi". Thánh Phêrô đã xác định "được sai đi để làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa Giêsu". Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chính là nền tảng của niềm tin, là chìa khóa mở ra chiếc cầu của ơn cứu độ giữa Thiên Chúa và con người, giữa thời gian vĩnh cửu. Chính nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh mà các tông đồ đã hoán cải các dân tộc, rửa tội cho kẻ tin và thực thi những phép lạ. Sau ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã làm chứng về sự phục sinh của Chúa khắp nơi, từ Palestina đến Hy Lạp, từ Rôma đến Ai Cập và Siri. Các ngài thiết lập các Giáo Hội, các cộng đoàn những kẻ tin Chúa Kitô Phục Sinh. Ðược cộng đoàn ủy thác cho sứ mệnh khi chọn làm tông đồ, thánh Mathia đã làm chứng cho sự phục sinh của Chúa đến cùng. Có nhiều truyền thuyết về nơi hoạt động và cách thế tử đạo của thánh Mathia. Tất cả đều hội tụ vào một điểm nổi bật là ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.

Ðức tin chúng ta đang có là đức tin được các thánh tông đồ truyền lại. Sợi dây chuyền nối kết chúng ta với các thánh tông đồ tuy vô hình nhưng vô cùng sống động. Với không biết bao nhiêu xương máu, niềm tin và sự phục sinh của Chúa Kitô mà các thánh tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng đã được truyền lại cho chúng ta. Ðây là gia sản quí giá nhất mà chúng ta đã được thụ hưởng, mà chúng ta cũng được mời gọi để chia sẻ với tất cả mọi người. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô gắn liền với cuộc tử nạn của Ngài. Có đi vào cõi chết, Chúa Giêsu mới sống lại. Tiến trình này đã trở thành qui luật cơ bản của niềm tin Kitô giáo. Các thánh tông đồ đã sống qua quy luật ấy cho đến cùng khi dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô. Các ngài xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 6. Tông đồ sau cùng: Matthia


-- J.M

Người ta cho con số 13 là số xui! Đức Ki-tô với 12 tông đồ làm thành số 13! Sau khi Chúa về trời, các ông đề cử chọn một tông đồ thay thế Giuđa cho đủ số 12 tông đồ. Trong nhóm 120 cầu nguyện chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chi có hai vị được chọn. Họ đã theo Đức Giê-su từ khi Chúa chịu phép rửa của Gioan tới khi Chúa lên trời. Thánh Matthia đã được chọn theo kiểu rút thăm của loài người, Ngài đã vinh dự là tông đồ sau cùng, để vào sổ chứng nhân của Đức Ki-tô.

Không phải anh em nhưng chính Thầy chọn anh em.

Sự chọn lựa này làm sáng tỏ Tin Mừng theo Thánh Gioan. Trong suốt thời gian Chúa Giê-su còn trên đất Israel, Thánh Matthia đã thấy, đã nghe, đã biết giá trị cao cả của Đức Giê-su. Ngay từ giờ phút đầu Ngài đã có mặt ở đó, nhưng Đức Giê-su không chọn Ngài!.... Matthia đã chọn Đức Giê-su như mọi người, đã đáp lại lời kêu gọi của Đức Giê-su. Ngài đã yêu mến như 12 tông đồ; nhưng không được có địa vị gì. Ngài vẫn có sứ mệnh khá đặc biệt là thay thế Iscariốt, nhưng nhất là sứ mệnh tông đồ sau cùng!

Luôn luôn người ta thấy khó nhọc khi suy nghĩ về ơn kêu gọi: Giữ lời mời gọi của Chúa, khó lòng cự lại, dù ta được tự do trả lời. Đó là một mầu nhiệm. Thực ra Thiên Chúa đã biết rõ ta sẽ nói vâng hay không rồi! hai tình yêu đối diện với nhau rồi!

Vui mừng của tôi...

Thánh Matthia hình như là một trong những người tự hiến thân mà không đặt vấn đề, Ngài không xin gì, chỉ bằng lòng sống với nhau như là bạn thân là tốt rồi. Nhờ đó, Ngài thật sung sướng và vui mừng!

Một người đã yêu thì dù có thể bị khổ sở, cũng không sao. Họ yêu vì có tình yêu đang yêu. Họ cho mà như không cho gì, vì họ yêu trọn vẹn, vì họ tự hiến tất cả.

Thánh Matthia, vị tông đồ trung tín, tình nguyện tự hiến cho bạn thân! một thứ tình yêu quí hiếm luôn luôn, nhưng mãi mãi rất sống động.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 7. Thánh Mátthia tông đồ


--Lm. Anthony Trung Thành

Thánh Mathia là người con út trong số 12 Thánh Tông đồ. Ngài được chọn để thế chỗ cho Giuđa Iscariô, được 11 tông đồ và cộng đoàn sơ khai bầu chọn. Cuộc bầu chọn được sách công vụ ghi lại một cách cụ thể như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay (x. Cv 1,15-17.20-26).

1. Việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ

Cuộc bầu chọn có những bước quan trọng sau đây:

Bước thứ nhất, Thánh Phêrô đưa ra điều kiện: Ngài nói:  "Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh" (Cv 1, 21-22). Chúng ta thấy, điều kiện mà Thánh Phêrô đưa ra rất rõ ràng. Người được bầu chọn phải là người đã từng theo Đức Giêsu từ khi chịu phép rửa cho tới khi lên trời. Nghĩa là phải hiểu về Giáo huấn và chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm trong suốt ba năm cuộc đời công khai. Đặc biệt, phải chứng kiến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời của Ngài. Bởi vì người Tông đồ cần làm chứng về những điều đó.

Bước thứ hai, cộng đoàn đề cử: Sau khi lĩnh hội được ý của Thánh Phêrô, cộng đoàn đề cử 2 người là ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a.

Bước thứ ba, cầu nguyện: Cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Đây là bước hết sức quan trọng làm cho cuộc bầu chọn này khác với các cuộc bầu chọn thông thường khác. Cuộc bầu chọn này mang tính thần linh. Có Chúa Thánh Thần can thiệp. Chính Chúa Giêsu trước khi chọn các Tông đồ, Ngài cũng đã làm như vậy. Kinh Thánh kể, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm (Mt 10, 1-4; Mc 3,13 -19; Lc 6,12-16).

Bước thứ tư cũng là bước cuối cùng để chọn ra người Tông đồ, đó là rút thăm. Trong thực tế hôm nay, có nhiều cách để bầu chọn người lãnh đạo. Cách đơn giản là giơ tay. Cách thông thường là bỏ phiếu. Nhưng dù sử dụng cách nào đi chăng nữa vẫn có yếu tố con người trong đó. Còn việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ, mặc dầu bằng cách đơn giản nhất là rút thăm, nhưng luôn luôn vẫn có yếu tố thần linh, đó là việc của Chúa chứ không phải việc của con người. Chúng ta liên kết bước thứ tư với ba bước trên sẽ thấy rõ điều đó.

Bài học mà chúng ta rút ra hôm nay: Luôn làm mọi việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi chọn lựa những người làm việc cho Chúa và Giáo Hội phải xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Những lúc đó phải nói được như các Tông đồ: “Thánh thần và chúng tôi quyết định” (x. Cv 15, 28).

2. Mọi người đều được Chúa mời gọi làm Tông Đồ

Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 9,16). Thật vậy, trong ba năm cuộc đời công khai, chính Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ. Có khi Ngài chọn cách trực tiếp: Như khi Ngài gặp ông Philipphê và mời gọi ông “Hãy theo Ta” (x. Ga 1,43); Hay khi Ngài gặp ông Lêvi và mời gọi ông “Anh hãy theo Ta” (x. Mc 2,14). Nhưng cũng có khi Ngài mời gọi các Tông đồ đi theo Ngài qua một trung gian nào đó: Ngài mời gọi Nathanael qua trung gian ông Philipphê (x. Ga 1, 45-51); Ngài mời gọi ông Anrê qua trung gian ông Gioan (Ga 1, 35-37); Ngài mời gọi ông Simon Phêrô qua trung gian ông Anrê (x. Ga 1, 40-42). Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người làm việc tông đồ qua nhiều trung gian khác nhau, có thể qua gia đình, qua thầy cô giáo, qua bạn bè, đặc biệt là Ngài mời gọi chúng ta qua trung gian Giáo Hội.

Để đón nhận, Giáo hội cũng đưa ra những điều kiện phù hợp với từng ơn gọi, nhất là ơn gọi làm linh mục và tu sĩ. Điều kiện chung của Giáo luật. Điều kiện riêng của các Giáo Phận hay của các dòng tu. Vì vậy, không phải ai cũng đủ điều kiện để làm tông đồ trong ơn gọi linh mục hay tu sĩ (con số này rất ít). Nhưng mọi người đều được mời gọi chu toàn bổn phận ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội. Đa số được mời gọi làm tông đồ trong ơn gọi hôn nhân: Có người được mời gọi làm tông đồ trong vai trò ban hành giáo, giáo lý viên; Có người được mời gọi làm tông đồ trong vai trò bác sỹ, nhà giáo, công nhân; Có khi chúng ta được mời gọi làm tông đồ ở gia đình, ở nhà thờ nhưng cũng có khi chúng ta được mời gọi làm tông đồ nơi chính mình là việc, nơi trường học, chợ búa…Trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nơi, hãy luôn cố gắng toả sáng việc tông đồ để “sinh hoá trái” cho phù hợp với ơn gọi của mình: Hoa trái của đức công bằng; hoa trái của đức yêu thương, bác ái; hoa trái của sự tha thứ… Để làm việc được những việc đó, đồi hỏi người tông đồ phải hy sinh, thậm chí có khi phải chấp nhận hy sinh cả tính mạng của mình để làm chứng cho Chúa thì cũng phải sẵn sàng.

Sau khi được bầu chọn làm Tông đồ, Kinh Thánh không nói gì về Thánh Mathia. Nhưng chắc chắn Ngài đã hết lòng chu toàn bổn phận mà Giáo Hội trao phó, đó là bổn phận loan báo Tin Mừng và đặc biệt Ngài đã hy sinh tính mạng mình để làm chứng cho sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Xin Ngài luôn đồng hành và hướng dẫn công việc tông đồ của mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa, Thánh Mathia dầu được chọn sau hết nhưng Ngài đã chu toàn bổn phận như mười một Tông đồ khác, đó là hăng say loan báo Tin mừng và làm chứng cho Chúa bằng cái chết. Mọi người chúng con cũng được kêu gọi tiếp tục sứ điệp của Thánh Mathia. Xin cho chúng con, dù trong hoàn cảnh và địa vị nào cũng biết chu toàn bổn phận tông đồ để làm sáng danh Chúa. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 8. Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba”


Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại (Ga 15,16)

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba” được Chúa chọn để thay thế cho Giuđa Iscariốt. Theo sách Công vụ Tông Đồ, Thánh Matthia là môn đệ theo Chúa từ khi Người chịu phép rửa đến ngày Người lìa bỏ các Tông Đồ và được rước lên Trời (x. Cv 1, 21-22). Và sau khi các Tông Đồ cùng với cộng đoàn cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, Thánh Matthia được chọn vào nhóm Mười Hai. Thánh nhân trở thành vị Tông Đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo, sẵn sàng hy sinh làm chứng, chịu bách hại và tử đạo trong sứ vụ Loan Báo Tin Mừng.

Cuộc đời của Thánh Matthia Tông Đồ minh họa cho lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16). Chúa có một chương trình thật đặc biệt, một cách chọn gọi rất riêng để trao phó sứ mạng cao cả cho từng Tông Đồ và cho Thánh Matthia. Đáp lại, Thánh nhân đã dùng chính cuộc đời mình để đáp trả tiếng gọi yêu thương của Chúa. Mừng lễ thánh Mathia Tông Đồ, mỗi người được nhắc nhớ đến ơn gọi làm tông đồ và làm Kitô hữu của mình. Quả vậy, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Mỗi ngày, ta được Chúa mời gọi trở nên tông đồ của Người trong môi trường đang sống, trong vai trò và bậc sống của mình. Chúng ta chỉ có thể đáp trả ơn gọi của mình khi biết dùng Lời Chúa dệt nên cuộc đời mình mỗi ngày. Hãy sinh hoa kết trái trong bậc sống và hoàn cảnh của mình. Hãy làm sáng danh Chúa trong gia đình, ngoài xã hội, nơi công sở, trên ruộng nương. Hãy làm chứng cho Tin Mừng bằng chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa gọi mỗi ngày. Và nhất là, xin Chúa giúp chúng con luôn sẵn sàng và vững vàng trở nên những chứng nhân của Chúa, như Thánh Matthia Tông Đồ, nhờ luôn kết hợp mật thiết với Chúa Kitô Phục Sinh. Amen

 -------------------------------

 

Suy Niệm 9. Thánh Matthias Tông đồ


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nói: ”Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả của anh em được lâu bền” (Ga 15, 16). Thánh Matthias là một trong trường hợp được chính cộng đoàn do Chúa Thánh Thần tác động, đã chọn Ngài thế chỗ Giuđa Iscariôt kẻ phản bội Chúa Giêsu.

CHÚA TUYỂN CHỌN MATTHIAS

Đọc công vụ tông đồ 1, 15-17. 20-26, ta sẽ nhận ra sự chọn lựa vô cùng quan trọng người thế chân Giuđa sau khi Chúa phục sinh về trời. Bài diễn từ của thánh Phêrô nêu lên những điểm nổi bật để tuyển chọn một người vào số 11 tông đồ. Sau khi giới thiệu hai người Giuse, tức Barsabba, biệt danh là công chính, và ông Matthias, Phêrô và mọi người có mặt cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó” (Cv 1, 25), và họ rút thăm, thăm trúng ông Matthias: ông được kể thêm vào số mười một tông đồ” (Cv 1, 26).

Nhóm 12 là con số đã được mạc khải. Dân Israen mới được xây dựng trên nền tảng của 12 tông đồ. Xưa dân Israen được xây dựng trên 12 chi tộc của Giacóp. Thánh Matthias đã được tuyển chọn vào số 12 vì ông đủ tiêu chuẩn do Phêrô, thủ lãnh các tông đồ đề ra: đã theo Chúa Giêsu, từ khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giorđan đến khi Chúa về trời, để có thể làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Giêsu. Môn đệ phải sống với Chúa, nghe Chúa giảng dậy, chứng kiến các phép lạ của Chúa, sống thân tình với Chúa, và phải ăn uống với Chúa sau khi Chúa sống lại, nhờ đó, họ mới có thể mạnh dạn, can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh, dẫu có phải hy sinh cả tính mạng để minh chứng cho Thầy chí thánh. Thánh Matthias đã được tuyển chọn thế chân Giuđa, và Ngài đã hoàn thành xuất sắc nhất sứ mạng Chúa trao phó cho Ngài.

LỜI NGUYỆN CẦU

“Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Matthias để bổ sung nhóm mười hai tông đồ. Cúi xin Chúa nhận lời Người cầu thay nguyện giúp cho chúng con, nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn”. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Matthias, tông đồ).

-------------------------------

 

Suy Niệm 10. Thánh Matthia


--Suy niệm Tin Mừng hằng ngày

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 15,9-17)

Thánh Camilo Lellis (1550 -1614) đã lập một dòng để giúp các bệnh nhân. Dòng này có lời khấn buộc người tu sĩ phải hoàn toàn dấn thân cho việc cứu chữa các bệnh nhân, bất chấp bệnh truyền nhiễm, vì đó là tiếng gọi của lòng nhân lành Chúa.

Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời đó mời gọi chúng ta trở lại với nền tảng đích thực của tình yêu. Tình yêu chân thực không dừng lại ở chữ viết hay trên môi miệng, nhưng là một tình yêu năng động, có sức lan tỏa bằng hành động, như Đức Giêsu đã yêu. Đó là tình yêu hy sinh tự hiến cho con người (xc. Ga 15,13)

Thánh Mathia cũng được Chúa tuyển chọn và mời gọi vào trong nhóm mười một thay thế cho ông Giuđa để làm chứng cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã hăng say loan báo Tin Mừng. Ngài đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hiểu biết giá trị cao quý của đức ái, để con say mê thực hành, ngõ hầu được trở nên giống Chúa hơn. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 11. Ngài đã chọn con


--Nhóm Suy niệm BC

“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con”. Đó là niềm xác tín mà chúng ta đã nghe rất nhiều lần qua các bài hát trong các dịp lễ truyền chức hay khấn dòng, tưởng chừng chỉ áp dụng cho các tu sĩ, giáo sĩ mà thôi, nhưng quả thực câu Thánh Kinh này rất sâu sắc và sát với thực tế kinh nghiệm đời sống đức tin của mỗi người. Điều này càng đúng hơn nữa trong cuộc đời của thánh Mathia, người đã được chọn để thay thế chỗ khuyết của Giuđa, kẻ phản bội trong Nhóm Mười Hai.

“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con”. Trước tiên, chúng ta cảm nhận được điều này khi chúng ta được thành hình trong dạ mẹ. Chúng ta chẳng có quyền được chọn lựa ai sẽ là bố mẹ của mình, nơi nào sẽ là sinh quán của mình và ngày nào sẽ là sinh nhật của mình. Tất cả điều đó Thiên Chúa đã dự liệu cho chúng ta như một thụ tạo duy nhất, cá biệt của Ngài. Hơn nữa, Ngài còn đặt để chúng ta vào một gia đình, dòng họ, dân tộc với những truyền thống riêng biệt. Chính Ngài biết chúng ta trước. Rồi ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, Ngài đặt để chúng ta trong môi trường của một gia đình có đức tin thuộc về một giáo xứ, một giáo phận, một Giáo Hội. Ngài đặt chúng ta vào môi trường đức tin, gieo vào tâm hồn chúng ta những hạt giống đức tin và chờ ngày nó được lớn lên. Chính Ngài đã chọn chúng ta trước.

Khi ta lớn lên biết phán đoán và biện phân, tự chúng ta nhận định, cảm nhận về tình thương của Ngài và đó là lúc chúng ta can đảm đáp lại tiếng Chúa kêu mời sống ơn gọi của mình trong bậc tu trì hay gia đình. Chúng ta có thái độ đáp trả cách này hay cách khác là bởi vì trước đó chúng ta đã cảm nhận được tình yêu của Ngài dành cho. Chính Ngài đã yêu chúng ta trước.

Khi ý thức rõ ràng chính Thiên Chúa đã yêu thương và chọn chúng ta trước khi chúng ta có thể nhận biết và yêu mến Ngài, chúng ta dám hoàn toàn tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa: Ngài đã chuẩn bị mọi thứ cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cả sau lẫn trước, Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta cần, Ngài dẫn chúng ta đi qua những lối chúng ta không bao giờ nghĩ tới. Một nhạc sĩ nào đó đã diễn tả thật đẹp về đức tin của người theo Chúa trong bài hát Hãy Theo Thầy: “Đi theo Chúa chẳng cần biết ở đâu, chẳng cần biết làm gì. Dù ở đâu hay làm chi con vẫn đi trong đường Ngài”.

Xác tín đó cho chúng ta một thái độ khiêm tốn nhìn nhận những thành công mà chúng ta đạt được chẳng phải do sức riêng của chúng ta nhưng hoàn toàn là do ơn Chúa đó thôi. Tác giả Thánh Vịnh 127, 1 đã diễn tả thật sâu sắc: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Đồng thời, xác tín về tình yêu đi bước trước và ơn gọi luôn đến từ phía Thiên Chúa cũng cho ta thêm niềm hy vọng, lạc quan trong những đau khổ thất bại mà chúng ta gặp phải. Bởi vì, Thiên Chúa có thể biến những điều tưởng chừng như thất bại đó thành những điều hữu ích cho chúng ta. “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119, 71).

Lạy Chúa, con tin Ngài đã biết đến con, yêu thương con trước khi con được thành hình trong dạ mẹ, bàn tay Chúa vẫn luôn bao bọc chở che con trên mọi nẻo đường. Xin cho con luôn tín thác vào tình yêu thương Quan Phòng của Chúa, đồng thời cao rao và đáp lại tình yêu đi bước trước của Ngài trong suốt cuộc đời con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12. Matthia, Tông đồ thứ 13


--Nt. Scholastica Vũ Hiền

Trong ngày lễ thánh Mat-thi-a Tông đồ chúng ta cùng suy chiêm về mầu nhiệm ơn gọi. Không ai trong chúng ta mới sinh ra đã biết trước sau này mình sẽ sống ơn gọi tu trì hay hôn nhân, nhưng Thiên Chúa thì biết và Ngài sẽ cắt đặt cũng như chọn gọi mỗi người theo ý Ngài muốn: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15, 16). Ơn gọi của thánh Mat-thi-a là bằng chứng minh nhiên cho Lời nói trên.

Mat-thi-a đã đi theo Chúa Giêsu từ những ngày Người còn tại thế, nhưng ông lại không được Chúa gọi trực tiếp như các Tông đồ khác mà qua trung gian Giáo hội dưới quyền điều hành của thánh Phêrô. Tuy nhiên, thánh Phêrô không tự mình đưa ra quyết định tuyển chọn mà ký thác cho Thiên Chúa bằng hình thức bắt thăm. Sách Công vụ thuật lại sự kiện này như sau: “Họ đề cử hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mat-thi-a. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai” (Cv 1, 23-24). Sau khi cầu nguyện họ bốc thăm và Mat-thi-a đã trúng cử. Sự kiện này nói lên rằng, ơn gọi luôn là sự lựa chọn đến từ Thiên Chúa. Cộng đoàn hay Hội thánh chỉ là trung gian cầu nguyện để thánh ý Chúa được tỏ hiện: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này”.

Các thánh Tông đồ và hôm nay là thánh Mat-thi-a không phải là những người đưa ra quyết định chọn Chúa Giêsu trước, nhưng các ông chỉ nghe và đáp lại sáng kiến của Người. Đức Giêsu đã tuyển chọn các ông, một số thì trực tiếp, số khác như Mat-thi-a gián tiếp qua việc bầu chọn mà Giáo Hội phó thác trong tay Chúa. Suy nghĩ về mầu nhiệm ơn gọi, thực sự không có lời giải đáp nào thỏa đáng cho thắc mắc, tại sao người này được tuyển chọn mà người kia thì không. Đơn giản chỉ vì Chúa gọi đến với Ngài những kẻ Người muốn. Vì thế, từ khi chúng ta bắt đầu xuất hiện trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người đã an bài cho chúng ta mọi ân huệ và điều kiện cần thiết để ta có thể nghe và có khả năng đáp lại lời mời gọi của Chúa qua Hội thánh trần gian.

Ơn gọi là một linh ân tuyệt vời của Đấng luôn khởi sự những điều thiện hảo cho con người. Và khi chọn gọi Ngài cũng nâng những kẻ được tuyển chọn lên hàng thân hữu chẳng vì lý do nào: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Được trở nên bạn nghĩa thiết, được chia sẻ vinh quang cũng như kế hoạch nhiệm màu Chúa Giêsu đã nghe được từ nơi Chúa Cha. Đức Giêsu còn hứa sẽ yêu các môn đệ cũng bằng tình yêu Chúa Cha đã yêu thương Ngài, chỉ cần họ kiên trì ‘ở lại trong tình thương của Người’ và tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy (Ga 15, 9-11). Chỉ nơi Đức Giêsu các môn đệ mới tìm thấy tình thương thực sự. “Tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.

Lạy Chúa, giữa những giằng co phải lựa chọn, xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để có thể kín múc sức mạnh từ Chúa và can đảm thực thi kế hoạch Ngài an bài cho chúng con. Nhờ lời thánh Mat-thi-a chuyển cầu, xin cho chúng con nên chứng nhân trung thành sẵn sàng làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 13. Thánh Matthias, Tông đồ


--giaophanvinhlong.net

Tài liệu duy nhất đáng kể về thánh Mathia là tường thuật của sách Công vụ các tông đồ (Cv 1,15-26). Theo điều kiện mà thánh Phêrô đưa ra để chọn người thế chân cho Giuđa trong nhóm 12. Chúng ta biết thánh Mathia là một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài đã theo Chúa Giêsu “Khởi từ lúc Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu về trời” (c. 22)

Khi Chúa Giêsu đã về trời, các tông đồ vâng lệnh Chúa trở về Giêrusalem cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh Thần đến. Họ gặp nhau lại khoảng 120 người. Lúc ấy Phêrô lên tiếng nhắc lại sự Giuda phản bội và kết luận:

  - “Phải chọn lấy thêm một người để cùng chúng tôi làm chứng tá cho sự sống lại của Chúa Giêsu”.

Cộng đoàn đã đề cử hai người xem ra xứng đáng nhất, với vinh dự này là Giuse, gọi là Barsabba biệt danh là Giustô và Matthia. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12.

Vị tân tông đồ, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã ra đi rao giảng Phúc âm và hiến phần còn lại cho việc tông đồ, thánh Clementê, thánh Alexandria kể lại rằng: các giáo huấn của thánh Matthia tập chú vào nhu cầu phải hy sinh hãm dẹp xác thịt và những ước muốn lăng loàn. Đó là bài học quan trọng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và đem ra thực hành.

Nhiều sứ giả cho rằng thánh Matthia đi từ Giuđêa tới tận Ethiopie rao giảng và làm cho vô số người trở lại đạo. Sau ba mươi năm bị bách hại, nỗ lực và thành công, Ngài bị ném đá và bị chặt đầu dưới thời Nerô vào năm 63.

Theo dân Hy lạp, thánh Matthia đã mang Kitô giáo đến miền Cappadôcia rồi bị đóng đinh vào thập giá ở Côlehis. Và xác Ngài được đưa về Giêrusalem. Một phần các xương thánh vẫn còn ở đền thờ Đức Bà cả nơi thánh nhân đã làm nhiều phép lạ.

-------------------------------

 

Suy Niệm 14. Thánh Matthias, Tông đồ


--Lm. Gioakim Dương Minh Thanh

Hôm nay giáo Hội mừng lễ thánh Matthia tông đồ, có thể nói đây là vị tông đồ của giờ thứ 11, giờ mà mọi sự hầu như đã kết thúc đã hoàn tất thì Ngài được chọn làm tông đồ. Chúng ta cùng nhau nhìn qua chân dung của Ngài một chút để xem cuộc đời của vị tông đồ giờ thứ 11 nầy như thế nào? Có thể nói được rằng ngày mà Chúa Giêsu chịu phép rửa dưới sông Giodan thì Matthia đã có mặt, nhưng lúc bấy giờ ai chú ý đến ông. Dưới cặp mắt của thế gian và của Chúa Giêsu nữa hình như không có ai để ý tới ông vì ông không có gì nổi bật. Chỉ biết rằng từ ngày biết được Đức Giêsu thì ông đã là người đi theo Ngài một cách âm thầm, không đòi hỏi, không bon chen điều gì. Ngày Chúa Giêsu chọn 12 Tông đồ thì ông cũng không được chọn, nhưng ông không hề thất vọng. Ông là một người tín hữu như hàng triệu người tín hữu vô danh khác, chưa một lần hưởng được dấu hiệu tình yêu nơi Đức Giêsu như các Tông đồ khác. 3 năm ròng rã theo Chúa, không cầu xin một ân huệ nào chỉ biết đi theo và đi theo một cách kiên trì. Ngày Chúa chết một số môn đệ thất vọng bỏ về, nhưng ông vẫn kiên trì ở lại. Thế rồi khi Phêrô tuyên bố: Chúng tôi cần một người theo Chúa Giêsu từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa cho đến khi Chúa Giêsu vinh thăng để thay thế Giuđa Iscariot. Lúc bình bầu, người ta chú ý đến một người quan trọng tên là Giuse, ông là người nổi tiếng có biệt danh là người công chính, nhưng để cho có sự công bình, người ta cũng nhắc đến tên của một người khác tên là Matthia. Không ai biết gì về ông, ông là một người lu mờ, chỉ có điều người ta chú ý đến ông là ông đã kiên trì theo Chúa từ đầu. Và rồi giữa 2 người, Thiên Chúa đã chọn người có tên là Matthia tầm thường đó. Matthia là gì? Tục danh? Biệt hiệu? Con ai? Thân thế? Sự nghiệp? Không ai biết và cũng chẳng ai để ý, thế mà ông được Thiên Chúa chọn làm tông đồ. Ông chỉ nổi bật khi được chọn và rồi lại tiếp tục rơi vào quên lãng, người ta chỉ biết được Ngài là người thế vào con số 12 đã khuyết. Ngày Chúa Giêsu còn sống, Giuđa được thân mật, được an ủi, được chuyện trò với Chúa và khi cần một người để bị sỉ vả, bị bách hại, bị đánh đập, bị tù đày vì Đức ki tô thì đã có Thánh matthia thế vào. Matthia có lẽ là vị Tông đồ bạc bẽo nhất, một người âm thầm gần như vô tích sự, thế mà Thiên Chúa đã chọn Ngài, Thiên Chúa đã không chọn Yuse justo barsaba biệt danh là người công chính mà lại chọn Matthia. Vì thế mà Thánh Phao lô Tông đồ đã nói: Những gì thế gian cho là điên dại, là hèn kém thì Thiên Chúa đã chọn để biêu nhuốc hạng khôn ngoan.

Thiên Chúa đã chọn Matthia làm tông đồ, mặc dù Ngài không có gì đặc sắc và nổi bật lại là một niềm an ủi và là một sứ diệp mà Thiên Chúa nhắn gởi cho mỗi người chúng ta. Matthia không lừng danh nổi bật với nhiều chứng tích như Phêrô và Phaolô, nhưng Ngài chỉ có một điều là sống tin mừng với lòng kiên trung để hành trình theo Chúa suốt đời. Chúng ta được an ủi rất là nhiều vì qua vị Tông đồ thứ 11 nầy, vì Ngài xuất hiện hầu như mọi việc đã được hoàn tất. Chúa Giêsu nhập thể, chết, sống lại, siêu thăng và sau đó Ngài mới được chọn. Mặc dù muộn màng, là người đến sau nhưng lại được đặt ngang hàng với người đến trước, không phải đồng hàng trong cái hư danh là Tông đồ, nhưng đồng hàng dưới đôi mắt nhân lành của Thiên Chúa. Ngài được chọn làm tông đồ, chúng ta được an ủi vì được chọn trước, chọn sau không quan trọng nhưng quan trọng là có được chấp nhận vào làm vườn nho của Thiên Chúa không?.

Mừng kính Ngài hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng được Thiên Chúa mời gọi trở nên Tông đồ của Ngài ngay trong môi trường mình đang sống và trong khả năng hạn hẹp có thể của mình. Hãy trở thành những vị tông đồ âm thầm khiêm nhường như men lẫn trong bột để làm cho cuộc đời dậy men Đức Kitô. Mừng kính Ngài hôm nay, xin Ngài cầu bàu cùng Chúa nâng đỡ cho chúng ta đừng buồn tủi vì nhiều lúc đời mình như chiếc bóng âm thầm, như đi trong đêm đen, ngày nầy qua ngày khác không cảm thấy sự dịu ngọt của Thiên Chúa và còn có cảm giác là Thiên Chúa không để ý đến mình. Mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta có bằng chứng cụ thể để tin rằng, Thiên Chúa không xét đoán theo tài năng và công trạng của chúng ta, nhưng Ngài chỉ xét theo tình yêu của Ngài và quan trọng là lời đáp trả của mỗi người chúng ta. Xin cho mỗi người trong chúng ta biết hy vọng, tin tưởng và yêu thương trong ân tình của Thiên Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 15. Chúa chọn người Chúa muốn


--giesu.net

“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái…” (Ga 15,16)

Suy niệm: Thánh Mát-thi-a được chọn làm tông đồ muộn màng sau khi Đức Giê-su về trời, mà lại được chọn bằng cách rút thăm, nhưng dù vậy trong lời nguyện của “nghi lễ truyền chức” đó, cộng đoàn đã nài xin Thiên Chúa tuyển chọn người mà Ngài muốn: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ” (Cv 1,24-25). Quả vậy, không ai tự chọn cho mình làm tông đồ nếu như Chúa đã không chọn họ trước. Chúa chọn họ một cách hoàn toàn tự do và theo ý Ngài muốn (Mc 3,13). Điều Chúa mong muốn là những người Chúa chọn được sai đi và mang lại nhiều hoa trái và hoa trái đó tồn tại vững bền.

Mời Bạn: Ơn gọi của mỗi người, dù thuộc bậc giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều là ơn ban từ Đấng Khôn Ngoan và Quan Phòng. Chúa không gọi chúng ta vào một bậc sống nào đó để chúng ta sống một cách tầm thường vô nghĩa. Nếu chúng ta hài lòng đón nhận và nhiệt tâm phát triển ơn gọi mình, thì chúng ta đang làm cho ơn gọi của mình sinh hoa kết quả cho Chúa.

Chia sẻ: Bạn cảm nhận hạnh phúc thế nào về ơn gọi của bạn? Mời bạn chia sẻ.

Sống Lời Chúa: Ôn lại quá trình ơn gọi của mình và dâng lời tạ ơn Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã chọn gọi các tông đồ và sai các ngài đi. Nay Chúa cũng chọn gọi chúng con và sai chúng con đi tiếp nối sứ mạng tông đồ. Xin ban cho chúng con niềm xác tín và lòng nhiệt thành để việc tông đồ chúng con sinh hoa kết quả cho Nước Chúa.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 16. Thánh Matthia


--Huệ Minh

Cùng với Giáo Hội, hôm nay ta mừng kính Thánh Mathia tông đồ.

Sau khi Chúa về trời, các Tông Đồ đã tụ họp lại với nhau, cùng nhau cầu nguyện và đón chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Theo Tông Đồ Công Vụ (1, 15-26), các tông đồ đã đề nghị phải tìm một người để thay thế cho Giuđa. Đó phải là người đã theo Đức Kitô và làm môn đệ của Ngài.

Tuy Sách Thánh cho biết, người đưa ra ý kiến là thánh Phêrô, nhưng thánh nhân không đơn phương quyết định ai sẽ là người thay thế Giuđa. Thánh nhân đưa ý kiến, nhưng tông đồ đoàn và các môn đệ của Chúa cùng nhau tuyển chọn bằng cách đưa ra người xứng đáng để mọi người quyết định bằng rút thăm sau khi đã cầu nguyện. Trong phòng cầu nguyện lúc đó có tất cả là một trăm hai mươi người, và họ đã chọn ra hai vị có đủ điều kiện là Matthia và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết cả hai vị này đã từng ở với họ và theo Đức Kitô. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12 tông đồ của Chúa.

Mathia theo tiếng Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.

Khi nhìn lại lịch sử cũng như biến cố chọn Thánh Mathia làm tông đồ, ta thấy có những tiến trình như sau.

Ta thấy, Thánh Phêrô đưa ra điều kiện: Ngài nói:  "Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh" (Cv 1, 21-22). Chúng ta thấy, điều kiện mà Thánh Phêrô đưa ra rất rõ ràng. Người được bầu chọn phải là người đã từng theo Đức Giêsu từ khi chịu phép rửa cho tới khi lên trời. Nghĩa là phải hiểu về Giáo huấn và chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm trong suốt ba năm cuộc đời công khai. Đặc biệt, phải chứng kiến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời của Ngài. Bởi vì người Tông đồ cần làm chứng về những điều đó.

Sau đó, ta thấy cộng đoàn đề cử: Sau khi lĩnh hội được ý của Thánh Phêrô, cộng đoàn đề cử 2 người là ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a.

Và kế đến là việc cầu nguyện: Cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Đây là bước hết sức quan trọng làm cho cuộc bầu chọn này khác với các cuộc bầu chọn thông thường khác. Cuộc bầu chọn này mang tính thần linh. Có Chúa Thánh Thần can thiệp. Chính Chúa Giêsu trước khi chọn các Tông đồ, Ngài cũng đã làm như vậy. Kinh Thánh kể, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm (Mt 10, 1-4; Mc 3,13 -19; Lc 6,12-16).

Và sau cùng, ta thấy là tiến trình cuối để chọn ra người Tông đồ, đó là rút thăm. Trong thực tế hôm nay, có nhiều cách để bầu chọn người lãnh đạo. Cách đơn giản là giơ tay. Cách thông thường là bỏ phiếu. Nhưng dù sử dụng cách nào đi chăng nữa vẫn có yếu tố con người trong đó. Còn việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ, mặc dầu bằng cách đơn giản nhất là rút thăm, nhưng luôn luôn vẫn có yếu tố thần linh, đó là việc của Chúa chứ không phải việc của con người.

Với tất cả những điều nhìn lại ở trên, ta thấy ta học được bài học là:

Luôn làm mọi việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi chọn lựa những người làm việc cho Chúa và Giáo Hội phải xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Những lúc đó phải nói được như các Tông đồ: “Thánh thần và chúng tôi quyết định” (x. Cv 15, 28).

Ắt hẳn, ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga 9,16).

Thật vậy, trong ba năm cuộc đời công khai, chính Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ. Có khi Ngài chọn cách trực tiếp: Như khi Ngài gặp ông Philipphê và mời gọi ông “Hãy theo Ta” (x. Ga 1,43); Hay khi Ngài gặp ông Lêvi và mời gọi ông “Anh hãy theo Ta” (x. Mc 2,14). Nhưng cũng có khi Ngài mời gọi các Tông đồ đi theo Ngài qua một trung gian nào đó: Ngài mời gọi Nathanael qua trung gian ông Philipphê (x. Ga 1, 45-51); Ngài mời gọi ông Anrê qua trung gian ông Gioan (Ga 1, 35-37); Ngài mời gọi ông Simon Phêrô qua trung gian ông Anrê (x. Ga 1, 40-42). Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người làm việc tông đồ qua nhiều trung gian khác nhau, có thể qua gia đình, qua thầy cô giáo, qua bạn bè, đặc biệt là Ngài mời gọi chúng ta qua trung gian Giáo Hội.

Cùng với Giáo Hội, ta hân hoan đón nhận một vị Tông Đồ mới, ‘rón rén’ bước vào tông đồ đoàn với cả niềm khiêm tốn. Chúng ta không có thông tin nào khác về Ngài ngoại trừ thông tin về việc bầu chọn.

Trong khi chúng ta cầu nguyện với thánh Matthia và cùng Ngài hân hoan với sự chọn lựa của Thánh Thần, chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho các giám mục, linh mục, tu sĩ, cũng như Giuđa xưa, đã khước từ bổn phận mà Giáo Hội giao phó. Khiếm khuyết do bản tính con người… nhưng cũng do tính hời hợt trong việc phục vụ cộng đoàn kitô. Họ thiếu sự kết hiệp với Đức Giêsu mà hôm nay tin mừng Thánh Gioan nhắc đến.

Các thánh tông đồ xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.

Để sinh nhiều hoa trái, các tín hữu, cách đặc biệt những ai được Chúa tuyển chọn để làm người hướng đạo, cần phải mô phỏng cung cách sống của mình theo Đức Giêsu, Đấng đạt đến đỉnh cao tình yêu bằng cách chết cho người tội lỗi. Bổn phận của toàn thể Giáo Hội là cầu nguyện cho hàng linh mục, đặc biệt cho các linh mục của mình và giúp đỡ các ngài sống cuộc sống theo phong cách của những người tận hiến phục vụ, chứ không theo cách thức người đời. Đức Giêsu đă nhấn mạnh điều này: sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Người linh mục càng đầy tràn Thiên Chúa, càng sốt sắng cầu nguyện, kết hiệp với Chúa, thì càng có khả năng thông ban Đức Kitô cho anh em mình.

Mừng lễ thánh Mathia tông đồ hôm nay để nhắc nhớ cho mỗi người chúng ta về ơn gọi của mình. Chính Thiên Chúa đã yêu thương và ban cho chúng ta được làm con cái Ngài. Theo gương thánh nhân để lại, chúng ta hãy không ngừng cảm tạ ơn thánh Chúa ban, và hăng say làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

---------------------------------

 

Suy niệm 17. Người thợ giờ thứ mười một


(hdmtggv.weebly.com)

+ Chúa luôn có cách của Ngài, và cách của Ngài không bao giờ giống ai.

+ Thánh Matthia chính là Tông đồ giờ thứ mười một. Không ai nghĩ ông là sẽ Tông đồ nếu không có sự phản bội của ông Giuđa.

+ Ơn gọi mỗi người một cách, mỗi người một vẻ, không ai giống ai nhưng ai cũng đặc biệt và duy nhất.

+ Chúa luôn CHỌN- GỌI- chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút.

BÀI HỌC:

+ Đức Hồng Y Thuận đã từng nói: “Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những đường cong”.

+ Ông Giuse trong Cựu Ước thì nói: “Thiên Chúa biến sự dữ của anh em làm với tôi thành sự lành”.

+ Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người.

+ Trong mọi sự, chúng ta phải nhìn thấy được thánh ý Chúa muốn gì trên cuộc đời của ta? Trên sự việc xảy ra và trên cuộc sống này?

Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin cho chúng con luôn là những người môn đệ trung tín, dù là người thợ giờ thứ mười một. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 4:

Xin Cha gìn giữ họ.
Thứ Tư tuần 7 Phục Sinh.
“Để chúng được nên một như Ta”.

 

Lời Chúa: Ga 17, 11b-19


Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Xin Cha gìn giữ họ


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chúng ta đang sống trong một thế giới tự nhận là khoa học kỹ thuật,
trong đó dường như Thiên Chúa vắng mặt,
và Quỷ dữ, Ác thần, Satan cũng không có chỗ.
Thật ra, cả Thiên Chúa lẫn Satan đều có mặt trong thế giới này.
Con người sống trong thế giới là chịu sự lôi kéo của cả hai.
Khi dâng lời cầu nguyện lúc sắp trở về với Cha,
Đức Giêsu ý thức hơn khi nào hết quyền lực có thật của quỷ dữ
đang tác động trên các môn đệ còn sống ở trần gian.
Chính vì thế Ngài khẩn khoản xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (c. 15).
“Khi còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ… Con đã canh giữ họ…” (c. 12).
Gìn giữ các môn đệ là việc Đức Giêsu đã làm trong suốt sứ vụ,
và Ngài đã không để ai trong họ phải hư mất, trừ Giuđa.
Những sói dữ bao giờ vẫn có, chúng khuấy phá đàn chiên.
Mục tử Giêsu đã không để ai cướp được chiên khỏi tay mình,
và trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã dám hy sinh mạng sống (Ga 10, 11).
Bây giờ Ngài xin Cha tiếp tục gìn giữ các môn đệ (c. 11b),
là đoàn chiên của Cha mà Cha đã ban cho Ngài chăm sóc.
Vì Thiên Chúa là Cha chí thánh đối với Đức Giêsu (c. 11b),
nên Cha có khả năng làm cho các môn đệ nên thánh.
Thánh thiện là thuộc tính của Thiên Chúa Cha,
nhưng Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6, 69),
và Đấng Phù Trợ được gọi là Thánh Thần (Ga 14, 26).
Thánh thiện là nét chung của Ba Ngôi, tách biệt Ba Ngôi khỏi thế giới,
dù thế giới vẫn là đối tượng để Ba Ngôi luôn cùng nhau hướng về.
Ba Ngôi vẫn muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình cho thế giới.
“Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11, 44).
Đức Giêsu xin Cha thánh hóa các môn đệ (c. 17),
nhờ Thánh Thần mà Cha sắp ban xuống trên họ.
Làm cho các môn đệ nên thánh chính là tách biệt họ ra khỏi thế gian,
với lối suy nghĩ và hành động, với những giá trị riêng của nó.
Thánh hóa môn đệ chính là làm cho họ không thuộc về thế gian nữa,
để như Đức Giêsu, họ thuộc về Cha trọn vẹn (c. 16).
Nhưng tách biệt khỏi thế gian lại không có nghĩa là cất họ khỏi đó (c. 15),
và giữ họ an toàn trong tháp ngà bảo đảm.
Đời người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai vào thế gian (c.18).
Thế gian đầy bóng tối, dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,
phải đằm mình vào, để biến đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
“Các con là muối của trái đất, là ánh sáng của thế gian” (Mt 5, 13).
Được thánh hóa, được tách khỏi thế gian, chính là để được sai vào đó.
Nếu không được thánh hóa, không thuộc về Chúa, thì khi được sai vào,
ta sẽ chẳng biến đổi được thế gian, và sẽ bị nó nuốt chửng.
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
 
-------------------------------

 

Suy niệm 2: Niềm vui trọn ven


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha. Tình yêu luôn khát khao kết hợp. Kết hợp tạo nên hạnh phúc. Hạnh phúc đem đến niềm vui. Nay Chúa hết thời hạn ở trần gian để trở về cùng Chúa Cha. Nên Chúa tràn đầy niềm vui, Đó là niềm vui trọn vẹn.

Vì yêu thương, Chúa muốn các môn đệ được tham dự vào tình yêu đó. Được hòa nhập trong tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi. Được hưởng niềm vui trọn vẹn.

Tuy nhiên còn có khó khăn vì các môn đệ còn ở trần gian. Vì thế phải sống tất cả những mâu thuẫn của ơn gọi. Phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Phải thuộc về Thiên Chúa nhưng còn phải chịu xa cách Người. Phải làm chứng về Nước Trời cho trần gian. Phải sống đời siêu nhiên trong tự nhiên. Phải yêu mến nhưng lại phải dứt bỏ trần gian. Đó là những nghịch lý. Hóa giải và vượt qua những nghịch lý đó là nhiệm vụ của người môn đệ.

Chính Chúa Giêsu đã trải qua những khó khăn đó với tất cả những cám dỗ, những thử thách, những đau khổ. Chúa đã phải chiến đấu với chính mình đến toát mồ hôi máu ra. Nên Chúa cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ môn đệ để tuy sống giữa thế gian nhưng họ không bị nô lệ cho ác thần.

Và Chúa xin Chúa Cha thánh hóa môn đệ bằng Lời Chân Lý. Lời Chân Lý vạch ra những giả trá của thế gian. Lời Chân Lý dẫn đưa đến sự thật và sự sống. Chính Chúa Giêsu đã dùng Lời Chân Lý mà chống lại lời giả trá của ma quỉ trong ba cuộc cám dỗ. Và Chúa làm gương cho các môn đệ khi tự hiến thân mình khi hoàn toàn dứt khoát từ chối trần gian. Chỉ sống theo thánh ý Chúa Cha.

Thánh Phao-lô là một môn đệ gương mẫu đã thực hành lời Chúa dạy. Ngài cảnh báo các kỳ mục Ê-phê-sô về sự giả trá và chia rẽ xuất phát từ chính nội bộ. Đó chính là thế gian với những lời lẽ giả trá. Phao-lô thuộc về Chúa nên từ chối thế gian. Không ham mê của cải danh vọng chức quyền thế gian. Trái lại ngài làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát và cho đi. Và ngài hiến dâng đoàn chiên cho Thiên Chúa, cho lời ân sủng của Thiên Chúa. Phao-lô làm gương tự hiến mình để mọi người thấy chỉ có Chúa là sự sống, là sự thật và là hạnh phúc. Chỉ nơi Chúa niềm vui mới trọn vẹn.

-------------------------------

 

Suy niệm 3: Xin Cha gìn giữ họ.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có một câu truyện tưởng tượng như sau:

Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:

- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?

Chúa Giêsu trả lời:

- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.

Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:

- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?

Chúa Giêsu đáp:

- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.

Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng vào sự trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể tìm được câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.

Thật thế, dù chỉ là một nhóm nhỏ, các môn đệ đã là đối tượng được Chúa Giêsu đặc biệt quan tâm. Suốt thời gian chung sống, Chúa Giêsu đã gìn giữ họ để không một ai trong bọn họ hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm Lời Kinh thánh. Giờ đây, sắp lìa bỏ họ để về cùng Cha, Ngài không che dấu nỗi lo sợ của Ngài. Ngài đã xin Cha gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha, nghĩa là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ đó các môn đệ có đủ sức mạnh để thắng vượt mọi khó khăn trở ngại.

Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở lại thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hoá trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thể chu toàn sứ mệnh đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ.

Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và quan tâm săn sóc của Chúa, để ngay giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.

-------------------------------

 

Suy niệm 4: Đức Kitô và Kitô hữu.


Chúng ta cùng tên: Kitô hữu và Kitô, chúng ta đã được xức dầu bởi Thiên Chúa, nghĩa là được chọn trao cho một sứ mệnh. Hôm nay, lời Đức Giêsu soi sáng cho ta hiểu rõ hơn về sự đồng căn tính và đồng sứ mệnh giữa Người và chúng ta.

Đây: Đức Giêsu đã liên kết chúng ta với Người, với công trình của Người: “Để họ nên một như chúng ta là một”, “Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian”, “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian”, “Con thánh hiến chính mình Con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”. Chỗ khác chúng ta cũng thấy những câu tương đồng như thế: Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”, “Người ta đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”, “Họ đã giữ lời Thầy, họ cũng giữ lời anh em”.

Những điều quả quyết này của Đức Giêsu ném chúng ta vào trung tâm sức sống và sứ mệnh của Người. Chúng ta cần nghiêm chỉnh đón nhận lời của thánh Phao-lô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô”. Đức Kitô là đầu, anh em là chi thể của thân thể Người.

Như thế, chúng ta cùng một đường đi như đầu tiếp với thân thể, cùng một hướng đích và một chỉ huy. Chúng ta còn phải cùng sống vâng phục và sẵn sàng như Chúa Con đối với Chúa Cha. Hơn nữa chúng ta còn chia sẻ mọi gần gũi của Đức Kitô với Thiên Chúa. Chúng ta là thân thể của Đức Kitô, nói cách khác, thân thể của Đức Kitô trong thế giới ngày nay. Chúng ta cùng tên, cùng gốc, chúng ta cần chia sẻ cùng đà tiến triển.

Khi ý thức được đồng căn tính, đồng sứ mệnh rồi, lúc đó một đòi hỏi khẩn thiết xuất hiện thúc đẩy chúng ta phải hiến con người mình, thể diện mình cho Đức Kitô. Chúng ta phải có trách nhiệm đáp lại cho những ai hát câu: “Tôi đi tìm dung nhan Chúa …”. Một câu hỏi đang đè nặng trên chúng ta: “Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là máu huyết của Đức Kitô, anh em là sự vui mừng, tình yêu và hòa bình của Đức Kitô: vậy anh em đã làm gì để nên giống Người?

LP.

 -------------------------------

 

Suy niệm 5: Thánh hiến


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Mục đích sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải chương trình cứu độ của Chúa Cha và nhất là để làm vinh danh Cha, vì thế, tất cả những gì Ngài làm đều nhằm vào mục đích làm sáng danh Chúa Cha. Trước giờ phút chịu khổ nạn trên thập giá và trước sự hiện diện của các môn đệ, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha cầu nguyện: “Lạy Cha chí thánh, xin giữ gìn các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lời cầu nguyện của Ngài cho nhân loại luôn được hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Con và cùng với Chúa Thánh Linh và kết hợp với tất cả những ai là thành phần chi thể của mình Chúa. Chúa Giêsu đã tuân phục thánh ý Chúa Cha mặc dù đứng trước cám dỗ từ chối vác lấy thập giá. Ngài múc lấy sức mạnh từ Chúa Cha và lấy sự vâng phục Chúa Cha làm sự vinh hiển của mình.

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn ở trong tư thế sẵn sàng vác lấy thập giá mà theo Ngài bất cứ lúc nào Ngài mời gọi chúng ta. Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Linh để sống như các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu cũng cầu xin Chúa Cha thánh hóa và thánh hiến các môn đệ trong sự thật và trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Chân lý của Thiên Chúa giải thoát chúng ta ra khỏi sự tối tăm của trí óc và sự thống trị của tội lỗi, nó mang đến cho chúng ta sự tốt lành, tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa Thánh Linh là cội nguồn và là Ðấng ban tất cả sự thánh thiện, nếu chúng ta mở rộng cánh cửa tâm hồn để Chúa Thánh Linh bước vào cuộc đời ta và để Ngài tác động, soi sáng và lèo lái chúng ta, thì Ngài sẽ biến đổi chúng ta bằng ngọn lửa thanh tẩy để chúng ta trở nên giống như Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến”. Chúa Giêsu đã tự thánh hiến Ngài như của hy lễ hoàn tất sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó và Ngài cũng giao phó sứ mạng đó cho các môn đệ.

Sự thánh hiến của Chúa Giêsu chính là sự khổ nạn của Ngài trên thập giá để qua đó đem tất cả nhân tính của Ngài vào trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Sự thánh hiến là sự đổi mới trong Chúa Thánh Linh, bởi vì khi chúng ta mở rộng trái tim để đón nhận sự thánh thiện của Ngài, có nghĩa là chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Thánh Linh tác động lên trên cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện đã hướng về Chúa Thánh Linh để qua Ngài mà Chúa tự dâng hiến mình như của hy lễ toàn thiêu. Qua sự thánh hiến của Chúa Giêsu, Chúa Cha cũng thánh hiến toàn thể nhân loại cũng cùng một thể thức, để chúng ta cũng biết đặt mình dưới sức tác động của Chúa Thánh Linh, để Ngài giúp chúng ta bảo tồn đức tin và trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống hiệp nhất và biết yêu thương lẫn nhau. Xin hãy thánh hóa chúng con trong chân lý và hướng dẫn chúng con qua Chúa Thánh Linh để chúng con luôn trung thành theo chân Chúa đến bất cứ nơi nào mà Chúa muốn.

-------------------------------

 

Suy niệm 6: Được thánh hiến để trở nên chứng nhân


Câu chuyện ảo tưởng, tham vọng của Ađam và Evà khi nghe theo lời dụ dỗ và lừa phỉnh của Ma Quỷ trong Vườn Địa Đàng khi xưa vẫn được lập lại nơi nhiều người trong xã hội hôm nay, nhất là giới trẻ.

Thật vậy, ngày nay, nhiều người không thể, không biết hoặc đôi khi không nhận ra, nhưng vẫn vui vẻ lựa chọn những chân lý nửa vời, để rồi tin, sống và đi theo. Họ luôn có khái niệm “tạm” cho nhiều tình huống.

Hôm nay, Đức Giêsu cầu xin cho các môn đệ của mình được thánh hiến, tức là được “tách ra” để thuộc trọn về Chúa Cha như Đức Giêsu đã thuộc về Người. Thuộc về Chúa Cha, tức là thuộc về Chân Lý. Thuộc về Chúa Cha cũng là phó thác, tin tưởng vào tình thương của Người. Thuộc về Chúa Cha cũng là vâng nghe lời Đức Giêsu dạy dỗ.

Như vậy người môn đệ được hiện hữu giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Giữa sự ác, lọc lừa, nhưng không thuộc về chúng, mà ngược lại, các ông phải làm chứng cho chân lý Tin Mừng.

Quả thật, các môn đệ đã sẵn sàng làm chứng cho chân lý Tin Mừng như lời Đức Giêsu đã phán: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nhắc cho mỗi chúng ta hãy nhớ đến Bí tích Thánh Tẩy ta đã lãnh nhận. Khi thuộc về Chúa qua Bí tích này, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và trở nên môn đệ của Người. Trở nên môn đệ cũng có nghĩa là trở nên chứng nhân. Vì thế, chúng ta không thể không làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày. Làm chứng cho Chúa, tức là từ bỏ Ma Quỷ và mọi việc, mọi sự sang trọng của chúng. Làm chứng cho Chúa cũng có nghĩa là đi ngược với những điều bất chính mà con người ngày nay bày ra.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ bằng sự thật, bằng Lời của Người, thì xin cũng thánh hóa chúng con để chúng con được thuộc trọn về Cha để chúng con trở nên giống Cha dù vẫn sống giữa thế gian tội lỗi. Amen.

Ngọc Biển SSP

 -------------------------------

 

Suy niệm 7: Ơn gọi của con là sống giữa đời


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Trước khi về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ còn ở lại trong thế gian. Chỉ cần ta trung thành với Chúa Giêsu, còn ngoài ra, ta cứ an tâm phó thác.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay qủa thực có một sức khích lệ an ủi con rất nhiều. Khó có một trang phúc âm nào cho con dễ cảm nếm được mối tình nồng thắm của Chúa bằng Lời Chúa hôm nay. Chúa về với Chúa Cha, nhưng Chúa không bỏ mặc chúng con. Chúa không quên chúng con, trái lại, Chúa còn lo cho tương lai của các tông đồ và lo cho số phận của chúng con còn ở lại trần gian.

Thân phận của người môn đệ Chúa ở giữa thế gian quả là một nghịch lý. Con ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, sống ở giữa đời nhưng không được sống hoàn toàn như người đời. Không giống thế gian nên con bị thế gian ghét bỏ. Không về hùa với thế gian nên con bị thế gian bách hại. Không để bị lây nhiễm tinh thần thế gian nên con phải can đảm chiến đấu chống lại cám dỗ chạy theo thế gian. Nhưng lạy Chúa, dù gian nan đau khổ, con vẫn tin tưởng phó thác nơi Chúa và trung thành bước theo Chúa. Trái tim con đã thuộc về Chúa, con tin rằng tình yêu và ơn thánh của Chúa sẽ gìn giữ con và giúp con chiến thắng.

Chính vì thế mà con không chạy trốn thế gian. Chúa đã muốn để con ở lại thế gian và sai con vào thế gian. Ơn gọi của con là sống giữa đời, thấm nhập vào thế gian, để phục vụ nhân loại và làm chứng cho Chúa. Xin Chúa giúp con đưa tinh thần Phúc âm vào mọi sinh hoạt của cuộc sống. Xin Chúa gìn giữ con trong chân lý của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ðể chúng được nên một như Ta”.

-------------------------------

 

Suy niệm 8: Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tháng Giêng năm 2003, tôi đến Rôma kinh thành muôn thuở để họp tại trụ sở Trung ương Dòng, dành những thời gian rảnh, chúng tôi viếng các Đền thờ Mẹ… Tại đền thánh Phêrô, chúng tôi kính viếng lăng mộ của ngài cùng với các Đấng kế vị. Bất ngờ dịp đó chúng tôi được chiêm ngưỡng xác Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị mục tử được gọi là Giáo hoàng nhân lành. Đức Gioan XXIII, được phong Chân phước ngày 3/09/2000. Xác được đặt ngay phía dưới một bàn thờ trong đền thờ Thánh Phêrô cho dân chúng kính viếng và cầu nguyện nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II, Công đồng chung do Ngài loan báo triệu tập. Thi hài ngài được đặt trong hòm kính, với khuôn mặt nguyên vẹn hồng hào như đang ngủ. Công đồng Vaticanô II được gọi là Công đồng Đại Kết vì hướng hiệp nhất của Giáo hội. Tôi nhớ về lời phát biểu của ngài về Đại kết: “Các anh em tín hữu Kitô khác đều là anh em với chúng ta họ chỉ hết là anh em khi họ hết học kinh Lạy Cha…”. Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng có những nỗ lực phi thường để đối thoại với các tín hữu Kitô để tìm con đường hiệp nhất. Tôi còn nhớ đọc một câu chuyện về Ngài khi trên giường bệnh và giờ hấp hối miệng ngài luôn khẩn nguyện: “Xin cho họ hiệp nhất”.

Suy niệm

Trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã thấy trước những tương lai sắp đến với các môn đệ và những người theo Ngài: Những thử thách, có cả những người môn đệ rời bỏ Ngài, sự chia rẽ của các đồ đệ, của các người tin vào Ngài… có cả người rời bỏ niềm tin. Ngài cất lời cầu nguyện khẩn thiết đến Chúa Cha, cho môn đệ, cho thế giới hiệp nhất: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11b). Lời cầu nguyện chung cho thế gian mà Chúa Kitô trong tư cách là linh mục, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhưng lời cầu nguyện này dành đặc biệt riêng cho các môn đệ mà thánh Clément d’Alexandrie Suy niệm: “Tất cả chúng ta tham dự vào chung một tấm bánh thánh và tất cả chúng ta nhận cùng một dấu thánh được Thánh Thần thánh hiến. Chính vì thế những môn đệ phải trở nên một thân thể và tham dự vào chỉ một và cùng Thần Khí cho một tinh thần hiệp nhất được thực hiện viên mãn, hoàn thành... Chúa Giêsu muốn rằng các môn đệ Ngài thực hiện cùng một sự đồng tâm không thể bị phá hủy, trong một hòa hợp tuyệt vời” (Commentaire de l'évangile selon saint Gioan, XI 9). Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô luôn là dấu chỉ và là sứ giả xây dựng sự hiệp nhất và bình an cho thế giới mà Chúa Giêsu ước muốn khi khẩn cầu Chúa Cha.

Không chỉ sự chia rẽ nơi thế giới, người tin vào Chúa Kitô sẽ gặp và đứng trước những khó khăn sống niềm tin. Những người đón nhận Tin Mừng sống theo Tin Mừng gột rửa trong tình yêu của Chúa Kitô, họ sống trong Thần Khí và thực thi yêu thương bác ái, công lý (x. 1Ga 3,13-19). Chính vì thế người tin coi cuộc sống của họ khác với sự chọn lựa của thế gian: Quyền lực, tiền tài, danh vọng. Quyền lực của bóng tối, của thế gian muốn thổi tắt những ngọn đèn đang đốt sáng xua bóng tối. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và các người tin vào Ngài luôn kiên cường đứng vững với niềm tin. Luôn là chứng nhân công lý của tình yêu giữa thử thách trăm bề. Sự kiên vững sống niềm tin của người môn đệ Chúa Kitô như những ngọn hải đăng giữa đêm đen của thế gian đầy hận thù, của chia rẽ.

Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ cho những người tin vào Ngài luôn được Chúa Cha đoái thương: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga17,17). Sự thật là trong cung lòng của Thiên Chúa, tình yêu luôn tuôn trào cho con người và cho thế giới luôn được thực hiện: Thiên Chúa yêu thương nhân loại và Ngài luôn thúc đẩy nhân loại được hòa giải với nội tâm chia rẽ do tội lỗi. Lời hứa bình an và hiệp nhất được chính Con Một Ngài thực hiện qua mầu nhiệm của sự chết: Chết cho tội và phục sinh sống với sức sống mới.

Lời cầu nguyện được xuất phát từ trái tim Đức Kitô, một trái tim dâng hiến yêu thương nhân loại khi cho họ chính sự sống khi trên thập giá, đổ ra giọt máu cuối cùng (x. Ga 19,34) mà Bossuet đã suy ngẫm: “Tư thế của trái tim Ngài và những lời kêu cầu mà Ngài đã cầu xin với Chúa Cha, theo Ngài trong cuộc khổ nạn cho đến khi Ngài chết, đó là linh hồn, của lễ dâng hiến toàn thiêu” (La Cène; II° partie, 33° jour).

Lời cầu nguyện linh mục của Chúa Giêsu luôn dành cho chúng ta với những thực tế mà chúng ta đang sống. Với Chúa Kitô, chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho sự hiệp nhất của thế giới, của Giáo hội, của chính chúng ta.

Ý lực sống:

“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,

 Anh em được sống vui vầy bên nhau”. (Tv 133,1).

 -------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ của Ngài. Phải hiểu chữ “môn đệ” ở đây theo nghĩa hẹp, nghĩa là không phải tất cả những kẻ tin Ngài, mà là một nhóm cán bộ nồng cốt của Ngài, tức nhóm 12 và nhóm 72. Môn đệ Chúa Giêsu hôm nay là các Giám mục, Linh mục và tu sĩ. Chúa cầu nguyện với ba ý chính:

- Gìn giữ các môn đệ trong đức tin.

- Che chở các ông khỏi thế gian hư đốn.

- Tác thánh các ông theo sự thật.

Thánh hiến các ông qua bí tích Truyền Chức.

2. “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ...”

Trong lời mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin cùng Cha Ngài hãy gìn giữ các môn đệ mà Cha đã trao cho Ngài. Vì thế trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã thấy trước những tương lai sắp đến với các môn đệ và những người theo Ngài: những thử thách, có cả những môn đệ rời bỏ Ngài, sự chia rẽ của các đồ đệ, của các người tin Ngài... có cả người rời bỏ niềm tin. Ngài cất lời cầu xin khẩn thiết đến Chúa Cha, cho môn đệ, cho thế giới hiệp nhất: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu luôn tin tưởng các môn đệ sẽ trung thành thi hành sứ mạng của các ông.

Có một câu truyện tưởng tượng như sau: Khi Chúa Giêsu về trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:

- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?

Chúa Giêsu trả lời:

- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.

Thiên thần Gabriel giật mình sửng sốt:

- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?

Chúa Giêsu đáp:

- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.

3. Trong lời cầu nguyện cho các môn đệ, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha miễn cho các môn đệ khỏi những đau khổ gian truân khi họ thi hành sứ mạng tông đồ. Bởi vì Ngài biết thế nào họ cũng sẽ gặp căm thù, ghen ghét, hành hạ, thử thách, cực khổ. Nhưng Ngài chỉ xin Chúa Cha gìn giữ họ khỏi bị nhiễm lây tội lỗi và sống trong sự thật của lời Ngài. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ của Ngài, để trong lúc sống giữa đời, họ vẫn giữ được sự thánh thiện nguyên tuyền.

4. Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hóa trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thề chu toàn sứ mạng đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ. Ngài đặt nhiều tin tưởng vào họ trong mọi gian nan thử thách.

5. Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và sự quan tâm săn sóc của Chúa, để giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.

Về phía chúng ta, chúng ta hãy sống thánh giữa đời, nghĩa là chúng ta phải sống như sen giữa bùn lầy, ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta phải sống như men trong bột, như muối ướp cá, như những chiếc đèn trên cao soi sáng cho mọi người.

6. Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng.

Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau  trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”.

Cách đây ít lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn, khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn; khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng được  chứng tỏ cho ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”.

Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.

-------------------------------

 

Suy niệm 10: Chúa Giêsu cầu nguyện cho môn đệ


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện cho các môn đệ của mình.

Đây là phần thứ hai của kinh nguyện Tư tế. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đọc ngày hôm qua (Ga 17,1-11a) Chúa Giêsu cầu nguyện cho chính bản thân Ngài, xin Chúa Cha tôn vinh Ngài. Sang phần hai, phần của hôm nay, Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài. Phải hiểu chữ “Môn đệ” ở đây theo nghĩa hẹp, nghĩa là không phải tất cả những kẻ tin Ngài, mà là một nhóm các cán bộ nòng cốt của Ngài, tức nhóm 12 và nhóm 72. Môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay là Giám mục, Linh mục, Tu sĩ.

Lời cầu nguyện cho những người này:

- “Xin hãy gìn giữ trong Danh Cha những kẻ Cha ban cho con, để chúng được nên một.”

- “Để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.”

- “Xin gìn giữ chúng khỏi sự dữ.”

- “Xin hãy thánh hóa chúng trong sự thật.”

Suy gẫm

1. Chúa Giêsu biết các môn đệ của mình ở trong một hoàn cảnh hết sứ đặc biệt và tế nhị:

Họ phải sống giữa thế gian. Mà thế gian là một thế gian thù nghịch đối với Chúa Giêsu và các môn đệ của Chúa Giêsu. Thế gian này đã ghét Chúa Giêsu nên cũng ghét các môn đệ của Ngài, thế gian này còn rất xảo quyệt, luôn tìm cách quyến rũ để các môn đệ đi lệch khỏi đường của Chúa Giêsu mà ngả sang phía thế gian.

Ở trong một thế gian như thế, người môn đệ luôn phải đứng trước hai cám dỗ: Một là cám dỗ trốn tránh, xa lánh thế gian; hai là cám dỗ thỏa hiệp với thế gian. Nhưng xa lánh thì làm sao cho chu toàn sứ mạng thánh hoá thế gian, còn thoả hiệp với thế gian thì đánh mất căn tính của mình và cũng đánh mất sứ mạng của mình.

Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cầu xin cho các môn đệ mình hai điều: một là sự hiệp nhất, hai là sự thánh hiến. Đây chính là 2 điều quan trọng để chúng ta tuy sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.

Điều thứ nhất là hiệp nhất: Kinh nghiệm cho thấy Linh mục hay Tu sĩ nào không thân thiết với anh chị em cùng lý tưởng của mình, không gắn bó với Giáo Hội và với cộng đoàn của mình, thì Linh mục, Tu sĩ ấy dễ sa ngã hơn.

Điều thứ hai là thánh hiến: Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thánh hiến ai là làm cho người đó hoàn toàn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha lấy Lời Chúa mà làm cho các môn đệ thuộc về Chúa một cách trọn vẹn. Ai đã trọn vẹn thuộc về Chúa thì cho dù người đó có sống trong bao nguy hiểm quyến rũ của thế gian thì cũng không hề hấn gì. Người ấy như sen trong bùn, như ánh sáng chiếu trong đêm tối, như men vùi trong thúng bột. Người ấy vừa luôn trung thành với Chúa của mình, vừa chu toàn sứ mạng thánh hoá thế gian.

3. “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.”

Khi đọc câu Lời Chúa này, tôi nhớ lại kinh nghiệm của một anh trong nhóm. Vì không thể từ chối, anh đành phải đi đến một nhà hàng không được “trong ánh sáng” cho lắm. Mỗi người vào bàn, và mỗi người đều có một cô “phục vụ” bên cạnh. Thoạt đầu, anh muốn tránh né, vì nghĩ rằng thái độ có thể làm cô ấy tủi, nên anh cố gắng làm một điều gì đó tốt hơn. Sau khi hỏi thăm về gia cảnh của cô, anh mới hỏi: “Tại sao cô phải là nghề này?” Cô gái thinh lặng một lát rồi bật khóc. Mọi người nhìn anh khiến anh lúng túng… Trước khi anh ra về, cô nói nhỏ: “Có lẽ em sẽ không tiếp tục sống bằng nghề này được.”

Lắm khi tôi xa lánh người xấu, những cái phàm tục, trong khi Chúa Giêsu đã không xin Chúa Cha cất tôi khỏi thế gian. Lắm khi tôi lại mải mê tìm kiếm “danh, lợi, thú.” Và vì sợ mất, tôi đã không dám sống như lời Chúa Giêsu đòi hỏi.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống thanh thản. Để nhờ được tự do trong Chúa, xin giúp chúng con tích cực xây dựng cuộc sống trần gian theo như Chúa muốn.

-------------------------------

 

Suy niệm 11: Tự thánh hóa chính mình


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện cho các môn đệ của mình. Chúa không quên nói lên phương pháp giúp các môn đệ chu toàn được sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa trao phó.

1. Phương pháp đó là gì thì ta hãy nghe lời của Chúa: “Vì họ con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19).

Chúa Giêsu không dạy chúng ta làm điều gì mà chính Ngài đã không làm trước. Mỗi người chúng ta trong cương vị của một người lãnh đạo, lãnh đạo một giáo xứ, lãnh đạo một gia đình, lãnh đạo một đoàn thể, lãnh đạo một tập thể nào đó cũng phải nói như Chúa: “Tôi phải tự thánh hóa chính mình để những người tôi lãnh đạo được thánh hóa”

Người Rôma có một câu châm ngôn rất hay: “Không ai có thể cho cái mình không có”

Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”.

  Chúng ta có thể sửa đổi lại lời của ông để áp dụng cho các bậc cha mẹ: “Càng lớn lên, tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta gặt hái được do được sống với các bậc cha mẹ vĩ đại của mình”.

  Nếu chúng ta muốn tìm một phương cách để giúp con cái mình quí chuộng sự cầu nguyện, thì không gì hay hơn là chính chúng ta hãy biết sốt sắng cầu nguyện trước.

Nếu chúng ta muốn tìm một phương cách để hướng dẫn con cái mình biết tham dự Thánh Lễ cách tích cực và sốt sắng thì không gì hay hơn là chính chúng ta hãy tham dự Thánh Lễ một cách tích cực và sốt sắng trước.

Và nếu chúng ta đang tìm phương cách để thúc giục con cái chúng ta biết yêu thương tha nhân hơn thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy làm gương về lòng yêu thương trước.

Vì theo các nhà giáo dục thì:

Thầy giáo đầu tiên và quan trọng nhất đối với con cái chính là cha mẹ chúng. Không điều gì có thể thay thế ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái.

- Dù là chương trình giáo dục có nổi tiếng nhất trên thế giới

- Dù là giáo xứ có tốt nhất trên thế giới.

- Dù là trường học có tốt nhất trên thế giới

- Dù là bạn bè có tốt nhất trên thế giới, tất cả những cái đó tuy có góp phần vào việc giáo dục con trẻ, nhưng chúng cũng chỉ đóng vai trò ảnh hưởng thứ yếu.

Thầy giáo đầu tiên và quan trọng nhất đối với con cái chính là cha mẹ chúng. Không điều gì có thể thay thế ảnh hưởng của họ.

2. Còn cầu nguyện thì Chúa cầu nguyện điều gì? Dĩ nhiên đó phải là những điều làm Chúa bận tâm hơn cả. Đây là những bận tâm của Chúa đối với các tông đồ lúc đó và chúng ta sau này:

Cầu xin cho họ ơn hiệp nhất trong yêu thương.

Cầu cho họ khỏi bị bách hại.

Cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật.

Thứ nhất: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các Tông đồ được luôn hiệp nhất trong yêu thương. Chính sự hiệp nhất trong yêu thương như một dấu chỉ cụ thể làm cho người ta nhận ra các tông đồ là những môn đệ đích thực của Chúa. (Ga 13,35)

Thứ đến: Chúa Giêsu cầu nguyện để các Tông đồ lúc đó và sau này được gìn giữ cho khỏi bị ác hại bởi thần dữ. Lý do vì “thế gian ghét anh em, vì Thầy đã chọn anh em và tách anh em ra khỏi thế gian, vì thế mà thế gian ghét anh em” (Ga 15,18).

Sau cùng, Người cầu cho họ luôn được ơn thánh hiến trong sự thật:

Thánh hiến nhờ Sự thật và trong Sự thật là gì?

Về phía Thiên Chúa thì sự thật đó là: Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy yêu thương, Người muốn cho con hết thảy con cái mình được cứu rỗi.

Về phía loài người chúng ta thì sự thật là: Loài người chúng ta rất yếu đuối vì bị ảnh hưởng của tội lỗi, nhưng nếu chúng ta thật lòng nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa thì chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu chuộc.

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe Lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần con được gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 12: Để chúng được nên một như ta


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa cầu nguyện cùng Chúa Cha cho chúng ta là vì Chúa quá thương và quan tâm đến số phận của từng người trong chúng ta. Chúa thương chúng ta nên Chúa rất quí chúng ta. Chúng ta đã được Chúa Cha trao phó cho Chúa, và chúng ta chính là món quà quí giá nhất của Chúa. Chúa không thể nào bỏ rơi chúng ta được. Chúa gìn giữ chúng ta. Chúa liên kết chúng ta lại để chúng ta hoàn toàn nên một như Ba Ngôi Thiên Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn: (Ga 17, 11 – 12). Chúa cầu nguyện cho chúng ta, gìn giữ chúng ta, liên kết chúng ta, cho chúng ta sống gia đình của Chúa, để chúng ta sống hòa thuận thương yêu nhau và được ơn phục sinh Chúa ban cho sau này nữa.

Chúa xuống trần gian và sau khi chu toàn sứ mạng cứu thế, Chúa về với Chúa Cha. Chúa về với Thiên Chúa và Chúa đầy quyền năng, vinh quang, danh dự. Lẽ ra Chúa an phận, Chúa vui với niềm vui từ ngàn xưa Chúa đã có, nhưng mà không làm như vậy, Chúa lo lắng cho chúng ta đang khi chúng ta còn ở trần gian này. Chúa biết Chúa đi rồi, chúng ta sẽ gặp nhiều đau khổ do thế gian gây ra. Họ làm như vậy là vì chúng ta là con cái của Chúa, làm theo thánh ý của Chúa chứ không làm theo ý thế gian. Chúng ta không nao núng vì có Chúa ở với chúng ta, bênh đỡ, phù hộ chúng ta từng giây phút trong cuộc sống: “Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng. Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian: (Ga 17, 13 – 16). Như vậy, Chúa rất lo chúng chúng ta, chúng ta hãy sống theo ý Chúa để phần nào làm Chúa an tâm và chúng ta cũng có niềm vui trong cuộc sống nữa.

Một điều rất trọng đại là Chúa sống vì chúng ta và cho chúng ta. Chúa mong muốn chúng ta hãy nhìn vào Chúa như là mẫu gương để chúng ta sống đẹp lòng Chúa Cha và Chúa. Vì thế, chúng ta thấy cuộc đời của Chúa được các sách Tin Mừng nhất lãm nói đến, ghi lại rất cụ thể, đó là trong một ngày sống của Chúa: Sáng sớm Chúa thức dậy đi ra nơi thanh vắng cầu nguyện với Chúa Cha, dâng ngày cho Chúa Cha. Ban ngày Chúa đi rao giảng Tin Mừng và làm các phép lạ để chữa các chứng bệnh khác nhau trong dân. Trước và sau khi rao giảng Tin Mừng cũng như làm phép lạ, Chúa đều cầu nguyện để xin ơn và tạ ơn Chúa Cha. Buổi tối trước khi đi ngủ sau một ngày làm việc, Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, đội ơn Chúa Cha. Đó là những công việc Chúa làm để Chúa tự thánh hiến con người của Chúa, ngày sống của Chúa và rồi chúng ta noi theo để Chúa thánh hóa chúng ta, và cũng qua đó chúng ta làm gương cho người khác dõi bước để làm cho danh Chúa lan rộng khắp nơi: “Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý: (Ga 17, 17 – 19).

Lạy Chúa hằng sống, Đấng đánh bại thần chết, xin Chúa ban Chúa Thánh Thần đến với chúng con để Ngài đổi mới chúng con, giúp chúng con sống theo lời Chúa dạy, liên kết chúng con nên một trong tình yêu của Chúa và giúp chúng con đem hết khả năng của mình để xây dựng Hội Thánh Chúa mỗi ngày được phát triển hơn. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 5:

Sức mạnh của hiệp nhất.
Thứ Năm tuần 7 Phục Sinh.
“Xin cho chúng nên một”.

 

Lời Chúa: Ga 17, 20-26


Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.
Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.
Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Để họ được nên một


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.
Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện,
nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta,
những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất,
vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.
Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người.
Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ,
theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác.
Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài
được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).
Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.
Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con
vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21).
Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.
Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.
Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào
trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con:
“để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).
Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất
là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều
giữa Cha, Con và các môn đệ.
“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…
Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).
“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).
Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự
giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.
Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế
với thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.
Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng
“Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21),
“Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).
Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.
Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương,
hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
 
Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo. Amen.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Tình yêu và sự sống


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Hợp nhất là sự sống trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi chính là nguồn mạch tình yêu và sự sống trong sự hợp nhất trọn vẹn. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. “Cha và Con là Một”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Kết hợp sâu xa trong một tình yêu hoàn hảo được biểu lộ trong chuyển động dâng hiến trọn vẹn: “Mọi sự của Cha là của Con. Và mọi sự của Con là của Cha”. Sự dâng hiến làm nên sự sống. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. “Thầy sống nhờ Cha”. Cuộc trao đổi dâng hiến làm cho tình yêu không bao giờ vơi cạn. Và sự sống ngày càng sung mãn.

Tình yêu và sự sống đó lan tràn đến nhân loại. Nhưng để lãnh nhận con người phải hòa mình vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh rất đẹp mà Chúa Giê-su đã dùng là cây nho: “Thầy là cây nho. Anh em là nhành nho”. Như cành cây phải gắn liền với thân cây. Muốn nhận lãnh sự sống từ Thiên Chúa ta phải gắn liền vào Thiên Chúa. Muốn gắn liền vào Thiên Chúa ta phải có tình yêu. Tình yêu làm cho ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Khi ta ở trong Chúa Giêsu thì Chúa Cha ở trong ta: “Con ở trong chúng và Cha ở trong Con”. Tình yêu đó phất sinh sự sống trong ta. Một sự sống dồi dào sung mãn.

Khi hợp nhất với Thiên Chúa, người ta tự nhiên hợp nhát với nhau. Đó chính là hình ảnh của cộng đoàn tín hữu sơ khai. Yêu mến Thiên Chúa nên bỏ của cải làm của chung. Vì thế cộng đoàn có một sức sống mãnh liệt. Và đó là một cộng đoàn chứng nhân. Thế gian thấy họ mà tin vào Chúa: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con”.

Thế gian tin và muốn gia nhập cộng đoàn tín hữu sơ khai. Vì từ thâm tâm ai cũng hướng về tình yêu và sự sống. Trong hợp nhất tình yêu và sự sống được biểu lộ. Trở thành sức hấp dẫn với mọi người.

Phao-lô có sức hấp dẫn vì ông luôn kết hợp với Chúa: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Chúa hài lòng về điều đó nên mời gọi ông: “Con hãy tiếp tục làm chứng cho ta tại Rô-ma nữa”

 ---------------------------------

 

Suy niệm 3: Sức mạnh của hiệp nhất.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có một câu truyện cổ như sau:

Trong một buổi hội họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành được ngôi vị Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:

- Hỡi Chúa sơn lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.

Và mũi tên đã cắm phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm. Thấy cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:

- Chỉ một lời con người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm sao chúng ta có thể chống lại bọn họ.

Sói già an ủi cọp:

- Điều suy nghĩ của Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều là nếu tất cả muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con người. Như nhà sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả một bày sói, với sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.

Ý kiến ấy thật hay, nhưng thú rừng vẫn bị tiêu diệt, vì chẳng bao giờ chúng học được hai chữ hiệp nhất.

Trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Cha, Chúa Giêsu biết rằng những kẻ theo Ngài sẽ bị thế gian ghét bỏ và bị quyền lực sự dữ tấn công, nếu đơn độc chiến đấu, chắc chắn họ sẽ thất bại như Nguyên tổ của họ ngày xưa. Bởi thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ được hiệp nhất nên một “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Ngài không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người đến nguy cơ ỷ lại vào mình; Ngài cũng không cầu xin cho họ có quyền lực, vì quyền lực dễ đưa con người lọt vào hố sâu của tham vọng.

Khi cầu nguyện cho cộng đoàn những kẻ nhờ lời các Tông đồ mà tin, Chúa Giêsu đã không xin cho Giáo Hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, mà chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu, họ cũng ở đó, và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.

Người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được mời gọi phản chiếu hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu bằng cách sống yêu thương hiệp nhất. Chắc chắn không ai trong chúng ta có thể đứng vững một mình nhưng phải liên kết với nhau để thông truyền sức sống. Muốn liên kết với nhau, chúng ta cần phải ra khỏi con người ích kỷ của mình, phải từ bỏ nhiều tật xấu cố hữu của mình, nhờ đó chúng ta sẽ nên một trong Chúa và được chiêm ngưỡng quyền năng vinh quang Chúa hoạt động nơi chúng ta.

------------------------------

 

Suy niệm 4: Sự hợp nhất toàn hảo


Hiện nay, chúng ta thấy trong xã hội có nhiều thứ biến đổi tiến tới đỉnh hợp nhất như quy tụ thành những thị xã, đô thị, thành phố, những hiệp hội, liên hiệp. Ít lâu nay, chúng ta đã trở nên những thành viên không chỉ của một làng xã, một trường học, nhưng còn của một cộng đoàn, một khu vực bao gồm nhiều quốc gia.

Cơ cấu xã hội đang chuyển đổi thành nhóm như: hiệp hội công dân, cộng đồng căn bản, khối kinh tế, liên minh phòng thủ … Một triết gia đã quả quyết thế giới đang thành một làng xã nhờ những phương tiện giao thông tân tiến thần tốc.

Vũ trụ tiến tới hợp nhất dần dần như đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Xin cho tất cả nên một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”.

Nhưng hợp nhất nên một không hẳn là mặc khải và là bằng chứng của Đức Kitô. Chúng ta có thể thành một nhóm duy nhất, một cộng đoàn tôn giáo tập trung vào chính mình mà không vào Thiên Chúa, thành những nhóm bất khả xâm phạm đối với người ngoài, bất khả chia cơm sẻ áo. Chúng ta có thể sống dưới một mái nhà mà không tạo nên một gia đình.

Hiện thời, chúng ta thấy nhiều sức mạnh dẫn lối chỉ đường đưa loài người đến hợp nhất. Mặc khải của Đức Kitô có mặt ở đó, như đang cưu mang nó, nhưng sự hiệp nhất toàn hảo chỉ thực hiện được trong Thiên Chúa: “Xin cho tất cả nên một trong Chúng Ta”.

Những cộng đoàn Kitô hữu ngày nay có thể là dấu chỉ của sự hợp nhất toàn hảo này khi họ sống biết chia sẻ thực sự về đức tin, đức ái và hành động. Đó là một trong những vai trò của Giáo hội trong xã hội để giúp con người đạt tới vô cùng nhờ cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.

CG.

------------------------------

 

Suy niệm 5: Sống trong hiệp nhất


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội Thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích thánh tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất tình yêu.

Lời cầu nguyện của Chúa trước lúc khổ nạn cho chúng ta thấy tình yêu cao cả và sự tín cẩn mà Thiên Chúa đã trao cho các môn đệ của Ngài, vì thế Ngài vẫn trao cho các ông một sứ mạng vô cùng lớn lao là rao giảng tên Ngài khắp nơi trên thế gian và cho đến tận cùng thời gian. Chúa Giêsu chết đi và sống lại để tất cả mọi người trở nên một như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Chúa Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con để họ được là một như chúng ta là một”.

Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói tới sự vinh quang mà Ngài ban cho các môn đệ và Ngài cũng mời gọi tất cả chúng ta hãy mở rộng vòng tay để đón nhận sự vinh quang đến từ tình yêu của Chúa Cha, để tất cả được trở nên một. Tuy nhiên, đây là sự vinh quang khác biệt với sự vinh quang phát sinh từ lòng kiêu ngạo của con người, vì loại vinh quang này chỉ đem tới sự chia rẽ. Sự vinh quang của Chúa Giêsu là sự vinh quang của Ðấng đã tự hạ mình xuống ngang hàng với nhân loại để yêu thương và phục vụ như Ngài đã rửa chân cho các môn đệ. Ðó là sự vinh quang của Ðấng đã không màng tới sự vinh quang của cá nhân, vì thế mà Chúa Cha đã vinh danh Ngài. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gởi các tín hữu Philipphê đã nói rằng Chúa Giêsu trong lúc còn sống tại trần thế đã lãnh nhận vinh quang của Thiên Chúa. Vì Ngài tuy là Thiên Chúa nhưng đã trút bỏ vinh quang và mặc lấy thân nô lệ và sống nên người phàm nhân. Ngài lại còn tự hạ mình xuống và vâng lời Cha để chết trên thập giá cho sự cứu rỗi của nhân loại. Chính vì thế mà Cha Ngài đã suy tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trổi hơn các danh hiệu khác. Chính Chúa Cha đã dành cho Con Ngài sự vinh quang vượt lên trên các vinh quang của trần thế. Chúa Giêsu đã có được sự vinh quang đó không phải vì Ngài ưa thích tìm kiếm mà vì Chúa Cha đã ban cho Ngài. Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta phương cách để trở nên một đó là đón nhận sự vinh quang mà Ngài đã ban cho chúng ta, sự vinh quang giúp chúng ta biết phục vụ cho những người khác và mở rộng trái tim đến tất cả mọi người. Sự vinh quang giúp chúng ta biết hạ mình sống gần gũi với tầng lớp của những người anh em khốn khó của mình.

Lạy Chúa, xin hãy thương xót nhân loại và chữa lành các vết thương chia rẽ của chúng con. Xin cho tất cả các tín hữu Kitô sống trong sự hiệp nhất như Ngài đã cầu xin Cha. Xin hãy đổi mới chúng con bằng sức mạnh của Thần Khí để chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất và làm tăng thêm trong chúng con tình yêu đối với anh chị em khác trong Chúa Kitô.

------------------------------

 

Suy niệm 6: Hiệp nhất để yêu thương


Trong thời gian qua, lòng con dân Nước Việt luôn thể hiện lòng yêu mến quê hương đất nước và mong sao cho quê hương được thanh bình, không có chiến tranh. Lòng yêu mến đó được chứng minh qua sự can đảm, bất chấp mọi khó khăn... sẵn sàng đứng lên để đấu tranh cho sự thật, công lý và hòa bình trên Biển Đông. Qua những gì vừa xảy ra, hẳn ai cũng hiểu được rằng: chỉ có hiệp nhất, chung lòng thì mới có thể chiến thắng được ngoại xâm.

"Xin cho chúng nên một". Đây là lời nguyện khẩn thiết của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu cũng nêu lên mẫu gương hiệp nhất giữa Chúa Cha và Ngài. Và như thế, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ cũng hiệp nhất với nhau như Chúa Cha và Chúa Con là một. Qua đó, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Thầy, đó là chúng ta yêu thương nhau.

Ngày nay, người Kitô hữu chúng ta sống sự hiệp nhất ấy qua lời cầu nguyện, bằng hành vi đức tin và sự liên đới. Sự hiệp nhất chỉ có thể có khi chúng ta chấp nhận “hiệp nhất trong đa dạng”. Biết lắng nghe, thông cảm và tôn trọng mọi người.

Lời cầu nguyện và mong muốn của Đức Giêsu khi xưa cho các môn đệ được hiệp nhất, cũng chính là lời cầu nguyện và mời gọi của Ngài dành cho chúng ta hôm nay.

Lạy Cha, ơn cứu độ Cha ban cho chúng con không chỉ dành riêng cho người Kitô hữu, nhưng là cho toàn thể nhân loại. Xin cho chúng con biết loan báo lời của Con Cha cho mọi người không phân biệt, và biết làm chứng cho Cha trong sự hiệp nhất của chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

------------------------------

 

Suy niệm 7: Hiệp nhất với Chúa và với nhau


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người được hiệp nhất trong Thiên Chúa. Muốn trở nên thành phần trong gia đình của Chúa, chúng ta cần biểu lộ tinh thần hiệp nhất: hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, chúng con muốn tiếp nối lời Chúa Giêsu Con Cha, để dâng lên Cha lời cầu nguyện cho thế giới, cho Giáo Hội, cho gia đình con và cho tất cả chúng con được hiệp nhất.

Cha đã tác tạo chúng con trong tình yêu. Mãi mãi Cha vẫn hằng yêu thương chúng con và mong muốn chúng con sống yêu thương nhau, hiệp nhất trong tình yêu của Cha. Nhưng vì tội lỗi, chúng con đã xa cách Cha và xa cách nhau. Dù vậy, Cha vẫn không bỏ chúng con, vẫn kêu gọi chúng con trở về với tình yêu của Cha. Qua dòng lịch sử, từng bước từng bước một, Cha đã hàn gắn sự đổ vỡ và kêu gọi chúng con sống tinh thần hiệp nhất. Sau cùng, chính Chúa Giêsu Con Cha đã xuống thế gian để trở thành mối dây liên kết chúng con với Cha và với nhau. Và hôm nay, Giáo Hội vẫn đang nỗ lực duy trì và phát triển sự hiệp nhất ấy.

Nhưng lạy Cha, công việc của Giáo Hội còn bề bộn lắm. Trong lòng Giáo Hội còn nhiều khó khăn làm cản trở sự hiệp nhất. Là những người sống trong Giáo Hội, chúng con đã cảm nhận được điều ấy. Chính trong giáo xứ, trong gia đình chúng con, vẫn còn nhiều nỗi bất hòa. Xin cho mỗi người chúng con biết nỗ lực thông cảm với nhau, tha thứ cho nhau, biết gạt bỏ ra bên ngoài những ý riêng để đi tới hiệp nhất. Xin Cha giúp mỗi người chúng con biết quên mình, biết hãm dẹp tự ái và kiêu ngạo, để cùng nhau sống hiệp nhất trong tình yêu Cha. Và qua dấu chỉ đó, chúng con làm chứng cho tình yêu của Cha. Amen.

Ghi nhớ: “Xin cho chúng nên một”.

------------------------------

 

Suy niệm 8: Nên một trong tình yêu Chúa


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quý giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con. Nói xong, ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gãy chiếc đũa cho cha xem”. Ba người con vâng lời cha bẻ gãy chiếc đũa dễ dàng.

Sau đó, người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gãy bó đũa này cho cha xem”. Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gãy được. Bấy giờ, người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết yêu thương nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gãy được các con. Ngược lại, nếu các con không đoàn kết yêu thương nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gãy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.

Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.

Suy niệm

Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và những ai đã cùng chia sẻ với Ngài trong bữa tiệc ly trước khi bước vào cuộc thương khó. Tin Mừng Gioan17,20-26 là những tâm tình cuối cùng trong lời cầu nguyện hướng về Chúa Cha trước khi Ngài bị bắt và kết án trên thập tự. Đó là thời điểm khó khăn khủng hoảng nhất và là thời điểm ly biệt. Chúa Giêsu sống trong thế giới, với kinh nghiệm nhân loại mà Ngài mang lấy, Ngài đã thấy trước được những gì khó khăn liên quan đến đời sống đức tin, Ngài hiểu được sự khó khăn của các tông đồ khi chứng kiến và bước vào cuộc thương khó. Trái tim của Thầy luôn nghĩ đến các môn sinh và những người đã đón tiếp Lời Ngài qua các tông đồ nên Ngài tha thiết cầu nguyện với Cha: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con” (Ga 17,20).

Lời cầu với một lòng tha thiết với Chúa Cha cho chúng ta, những người tin vào Ngài, đang sống đức tin ấy giữa lòng thế giới, luôn trung thành với Lời Ngài và hiệp nhất trong tình yêu. Mặc dù chính Ngài còn mang trong mình những lo âu của cuộc thương khó nhưng Ngài vẫn dành trọn lời cầu tha thiết của Ngài cho sự hiện diện của thân phận con người.

Ngài đã nhìn thấy trước những khó khăn của việc giữ đức tin và của sự hiệp nhất với những tương quan của thực tế thế giới trong mọi thời đại. Đó là sự chia rẽ: Chia rẽ giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc, giữa các tôn giáo…. Chính sự chia rẽ đào sâu trong lòng con người một vực thẳm của sự ngăn cách và với thời gian, nó sinh ra hận thù, chiến tranh… như chúng ta thấy ở châu Phi và Trung Đông. Sự chia rẽ còn xuất hiện giữa những người cùng chung một niềm tin Kitô. Sự chia rẽ trong Giáo hội đã không biểu lộ được tình yêu Thiên Chúa hiện diện giữa con người trong thế giới mà Đức Kitô mong muốn và đã loan báo cho trần gian. Không chỉ trên bình diện quốc tế, sự chia rẽ còn xảy ra nơi phạm vi nhỏ hơn như trong cộng đoàn, trong công sở và ngay cả trong gia đình. Nó bào mòn hạnh phúc và gây nên sự đổ vỡ trong các mối quan hệ gia đình và xã hội... Trong thế giới hôm nay, sự chia rẽ xảy ra từng ngày, nối tiếp từng năm và kéo dài từ thế kỷ này qua thế thế kỷ kia. Chính vì thế, trái tim của Chúa vẫn tiếp tục rỉ máu và lời cầu nguyện của Ngài vẫn vang vọng và thắm thiết bên Chúa Cha: “Để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).

Chúa Giêsu cầu nguyện vì sự hiệp nhất trước hết là quà tặng ân sủng từ Thiên Chúa, ân ban này sẽ được tìm thấy gốc rễ nơi trái tim của Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta qua vinh quang của Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa. Với ân sủng này, chúng ta cùng Ngài đi vào sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Thánh Thần: “Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con” (Ga 17,22-23).

Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay đặt chúng ta, những người đón tiếp và tin vào Lời, trong trái tim và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta ở bên Cha để hiệp nhất giữa những chi thể thánh được hoàn thiện. Hiệp nhất nơi gia đình, cộng đoàn, trong Giáo hội với tình yêu chính là hình ảnh của Ngài hiệp nhất với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng ta khiêm tốn luôn sống trung thành với ân sủng mà Ngài ân ban. Trong tình huynh đệ, hãy đón nhận sự khác biệt của anh em để tìm về một mối hiệp nhất trong tình yêu.

Ý lực sống:

“Xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa…”.

------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa cầu cho Hội thánh hiệp nhất


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không những cầu xin Cha cho các môn đệ Ngài, mà còn cho tất cả những người nghe và tin vào lời các môn đệ giảng. Để lời Chúa được mang đến khắp cùng bờ cõi, đến với mọi người, mỗi Kitô hữu chúng ta phải chuyên chăm học hỏi, thấm nhuần Lời Chúa và luôn chia sẻ cho những người mình gặp gỡ.

2. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích Thánh Tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất và tình yêu (Mỗi ngày một tin vui).

3. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta”.

Chúa Giêsu cầu nguyện cho Giáo hội ngày mai, tức là cho mọi tín hữu trong tương lai, như vậy có tất cả chúng ta nữa. Ngài cầu xin cho chúng ta được hiệp nhất với nhau trong Giáo hội Ngài thiết lập, để cùng nhau hiệp nhất với Ngài.

“Nên một” là một điều hết sức quan trọng, nên khi cầu nguyện cho bất cứ thành phần nào trong Giáo hội, Chúa Giêsu cũng cầu xin cho họ được điều ấy.

Lạy Cha, xin gìn giữ chúng trong tình hiệp nhất.

Không phải thứ hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng con đang chia rẽ.

Mà là sự hiệp nhất dám chấp nhận những dị biệt và những lời góp ý thẳng thắn.

Một sự hiệp nhất được thúc đẩy bởi ước muốn duy nhất trong lòng mọi người là sống theo chân lý của Cha.

4. Chúa Giêsu cầu nguyện vì sự hiệp nhất trước hết là quà tặng ân sủng từ Thiên Chúa, ân ban này sẽ được tìm thấy gốc rễ nơi trái tim của Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã chia sẻ cho chúng ta qua vinh quang của Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa. Với ân sủng này, chúng ta cùng Ngài đi vào sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Thánh Thần: “Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con” (Ga 17,22-23).

5. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã diễn tả rất sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài đã nói như sau: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô”.

Có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người trưởng thành trong đức tin, trưởng thành trong lòng mến và có khả năng gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi.

Như thế, sự hiệp nhất chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chứng tỏ chúng ta là những người trưởng thành trong đức tin cậy mến, và đó là lý do thu hút người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta.

6. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay đặt chúng ta – những người đón tiếp và tin vào Lời, trong trái tim và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta ở bên Cha để hiệp nhất giữa những chi thể thánh được hoàn thiện. Hiệp nhất nơi gia đình, cộng đoàn, trong Giáo hội với tình yêu chính là hình ảnh của Ngài hiệp nhất với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng ta khiêm tốn luôn sống trung thành với ân sủng mà Ngài ân ban. Trong tình huynh đệ, hãy đón nhận sự khác biệt của anh em để tìm về một mối hiệp nhất trong tình yêu.

7. Truyện: Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.

Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời, ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: “ Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quí giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con”. Nói xong ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gẫy chiếc đũa cho cha coi”. Ba người con vâng lời cha bẻ gẫy chiếc đũa dễ dàng.

Sau đó người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gẫy bó đũa này cho cha xem”. Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gẫy được. Bấy giờ người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết thương yêu nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gẫy được các con. Ngược lại nếu các con không đoàn kết thương yêu nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gẫy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.

Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.

------------------------------

 

Suy niệm 10: Hiệp nhất để sống theo chân lý.


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Chúa Giêsu cầu cho các tín hữu đã nghe lời giảng của các môn đệ mà tin vào Ngài:

“Con không chỉ cầu xin cho chúng mà thôi, mà cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con.”

“Để cả chúng cũng nên một trong Ta.”

“Con muốn rằng, Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con.”

“Để tình yêu Cha yêu Con ở trong chúng và Con cũng ở trong chúng nữa.”

Suy gẫm

1. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta”: “Nên một” là một điều hết sức quan trọng, nên khi cầu nguyện cho bất cứ thành phần nào trong Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng cầu xin cho họ được điều ấy.

Lạy Cha, xin giữ chúng con trong tình hiệp nhất. Không phải thứ hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố nhịn tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng con đang chia rẽ.

Mà sự hiệp nhất dám chấp nhận những dị biệt và những lời góp ý thẳng thắn.

Một sự hiệp nhất được thúc đẩy bởi một ước muốn duy nhất trong lòng mọi người là sống theo chân lý của Cha.

2. Nhạc trưởng Michael Costa đang diễn tập với dàn hợp xướng gồm cả trăm nhạc cụ và nhạc công. Bỗng có tiếng sáo ré lên. Chắc người thổi sáo sợ rằng nhạc trưởng không nghe thấy tiếng sáo của mình. Nhạc trưởng cáu kỉnh quát: “Tiếng sáo nào kì vậy?” Và phải tập lại từ đầu.

3. “Con muốn rằng Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con.” Chúa Giêsu ở đâu? Ở trong tình yêu Chúa Cha; ở trong sự thật; ở trong Thánh Ý Chúa Cha; Ở trên Thập Giá và ở trên thiên đàng.

4. Chính Cha đã sai Con và yêu thương họ như đã yêu thương Con.”

Mỗi lần nói đến cuộc đời Chúa Giêsu, tôi rất dễ dâng lời cảm tạ, ngợi khen, tri ân trước những hy sinh lớn lao của Ngài. Và tôi thường lý luận nông cạn rằng vì Chúa Giêsu được Chúa Cha yêu thương cách đặc biệt nên Người có thể làm mọi sự.

Nhưng hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu lại khẳng định với tôi rằng Chúa Cha đã yêu thương tôi như đã yêu thương Chúa Giêsu.

Như vậy, Chúa Giêsu Nadarét ngày nào cũng như tôi hôm nay, và cũng được Chúa Cha yêu thương bằng một tình Cha thật gần gũi. Nhưng khác một điều Ngài đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, dù trong những lúc đau thương nhất của cuộc sống. Còn tôi, tôi cũng tin vào tình yêu của Thiên Chúa, nhưng không mấy xác tín rằng Chúa Cha đã yêu thương tôi như đã yêu thương Chúa Giêsu.

Cha ơi, xin cho con cảm nghiệm được Cha yêu con và học biết nơi Đức Kitô cách đáp lại trọn vẹn tình Cha.

 ------------------------------

 

Suy niệm 11: Nên một với Chúa


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu cầu cho các tín hữu đã nghe lời giảng của các môn đệ mà tin vào Ngài.

1. Chúa cầu nguyện để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Ngài: “Con muốn rằng, con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con” (Ga 17,24).

Hoàng đế Fransois Joseph là vua nước Hung gia lợi từ 1848-1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử và cũng là một triều đại tiến bộ nhất. Hoàng đế là con người rất nghiêm khắc, nhưng lại trị vì đất nước rất khoan dung.

Khởi đầu triều đại của ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Triều thần đề nghị với vua Fransois Joseph bỏ kinh đô Vienne nước Áo để sang Salzburg nước Hung Gia Lợi, cho tới khi tai họa qua đi. Vua Fransois Joseph liền hỏi:

- Ở Salzburg có đủ phòng nghỉ cho con cái ta không?

Quan đại thần thưa:

- Tâu đức vua, ở Salzburg chắc chắn có đủ phòng nghỉ cho tất cả hoàng gia.

Vua Fransois Joseph hỏi lại hai lần nữa:

- Có thực sự có phòng đủ cho con cái ta chớ?

Rồi giơ tay chỉ vào dân chúng đông đúc đang đứng ngoài sân mà nói với quan đại thần:

- Quan hãy nhìn đám dân chúng đông đúc kia. Họ là con cái của ta cả. Có người cha nào đang tâm bỏ con cái trong nguy hiểm sao? Không! Những người tại thủ đô Vienne này đã chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu. Ta phải quan tâm đến họ, như là lo cho chính ta vậy.

Một ông vua trần thế mà còn biết thương và lo cho dân như thế, huống chi là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta. Làm sao Chúa co thể vui khi con cái của Ngài không được chung hưởng hạnh phúc Thiên đàng với Ngài.

Chính vì thế mà trong khi chờ đợi chúng ta phải biết luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa. Có như thế chúng ta mới cảm nghiệm được cuộc đời có Chúa là cuộc đời hạnh phúc như thế nào.

Hồi còn làm tổng thống Hoa Kỳ, ông Roosevelt đã có lần sang mãi tận Phi châu để nghỉ hè. Ông thích săn những con hươu cao cổ tại đó. Sau những ngày nghỉ hè thú vị, tổng thống lên đường trở về. Trong chuyến tàu đem tổng thống trở về, người ta cũng thấy có một nhà truyền giáo sau hơn bốn mươi năm phục vụ những người dân Phi châu cùng có mặt trên con tàu.

Khi tàu sắp cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh dân chúng đứng trên bờ cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ hân hoan chào đón tổng thống Roosevelt đi săn trở về bình an. Ông cảm thấy tủi thân vì hình như chẳng có ai để ý đến mình. Một thân một phận lủi thủi lên bờ. Tự thâm tâm ông như muốn trách Chúa:

- Đấy, Chúa thấy không, tổng thống đi nghỉ hè về thì được nhiều người ra đón rước như vậy. Còn con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa, phục vụ anh chị em nghèo khổ tại Phi Châu trong suốt bốn mươi năm qua. Thế mà bây giờ trở về đây, không ai thèm nghĩ đến con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá.

Nhưng ngay lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo:

- Này con, đừng vội thất vọng, con chưa trở về quê hương thật của con mà!

2. Chúa còn cầu nguyện chúng ta nên một với Ngài: “Để cả chúng cũng nên một trong Ta” (Ga 17,21).

Trong một buổi thuyết trình về đạo được tổ chức trên boong một du thuyền lớn, tiến sĩ A. Simpson giải thích với cử tọa về vấn đề này như sau: Ông lấy một cái chai quẳng vào lòng biển. Cái chai rơi vào đại dương và đang ở trong đại dương.

Nước biển chui vào chiếm hữu cái chai, nước biển càng vào, cái chai càng từ từ chìm sâu vào lòng đại dương. Ông kết luận:

- Cái chai ở trong đại đương và đại dương ở trong cái chai. Đó là hình ảnh xác thực nhất để chỉ mối tương giao giữa Chúa Giêsu và chúng ta là những môn đệ của Người.

Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, trong bài ca thiêng liêng của ngài, ngài đã diễn tả về vấn đề này thật hay như sau: “Chúa Cha đã thực hiện điều Chúa Con cầu xin khi thông ban cho họ chính tình yêu thương Người hằng thông ban cho Chúa Con. Tuy vậy, Người không thông ban cho họ theo bản tính như khi Người thông ban cho Chúa Con, nhưng đã thông ban cho họ bằng cách lấy tình thương mà kết hợp họ với Người và thần hóa họ. Cũng thế, không nên hiểu rằng Chúa Con xin Chúa Cha cho họ nên một theo yếu tính và bản thể như Chúa Cha với Chúa Con là một, nhưng Người chỉ muốn xin cho họ nên một nhờ kết hợp với nhau trong tình thương, như Chúa Cha và Chúa Con vẫn là một trong Tình Thương duy nhất. Do đó, các linh hồn được thông phần với Thiên Chúa những điều tốt đẹp mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn có theo bản tính. Vì vậy, nhờ được thông phần với Thiên Chúa, các linh hồn thực sự là những vị thần. Họ nên giống Thiên Chúa và được chung phần với Người.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được nên một với Chúa. Amen.

 -------------------------------

 

Suy niệm 12: Để chúng được hoàn toàn nên một


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Do tội lỗi con người chúng ta phạm, mà chúng ta bị phân tán, chia ly, mất đi sự hiệp nhất giữa chúng ta trong gia đình của Chúa (xSt 11, 1 – 8). Từ điều này dẫn đến con người chúng ta hận thù nhau, ghét nhau, chửi nhau, đánh nhau, giết nhau, trộm cướp, rượu chè, bài bạc, hút chích, trai gái… gây ra bao nhiêu là thảm cảnh đau khổ cho nhau trên trần gian này. Chúa rất đau lòng khi nhìn thấy chúng ta sống như vậy để rồi chúng ta phải hư vong đời đời. Vì thế, Chúa đã vâng lời Chúa Cha để xuống thế làm người, cứu chúng ta. Nhưng trên hết, Chúa vẫn luôn cầu nguyện hằng ngày, và ngay cả bây giờ nữa cùng Chúa Cha cho chúng ta. Chúa cầu nguyện cùng Chúa Cha cho mỗi người chúng ta biết bỏ ý riêng của mình, vì (Chín người, mười ý) để làm theo thánh ý của Chúa thì chúng ta mới sống chung với nhau và yêu thương nhau được. Qua đó, chúng ta mới nên một trong đức tin, đức cậy, đức mến. Như vậy, tình yêu giữa chúng ta với nhau theo mẫu gương tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa thì chúng ta mới sống hiệp nhất nên một được: “Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con: (Ga 17, 20 – 23). Như vậy, Chúa Cha là giềng mối của sự nên một, Chúa là trung tâm điểm của sự nên một, và Chúa Thánh Thần là chất keo sơn kết dính cho chúng ta nên một.

Một khi chúng ta sống thuộc về Chúa, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong cuộc đời này. Chúng ta chẳng bao giờ giữa đường đứt gánh tơ duyên. Chúa luôn luôn ở bên cạnh chúng ta và chúng ta cũng được luôn luôn ở với Chúa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào: Dù là vui, buồn, sướng, khổ, thành công, thất bại, giàu sang, túng thiếu, dư đầy, nợ nần …vẫn có Chúa ở với chúng ta. Bây giờ Chúa đang ở trên thiên đàng cùng với Chúa Cha, mặc dù Chúa ở khắp mọi nơi, tuy chúng ta không thấy, nhưng chúng ta tin nơi nào có Chúa thì nơi đó là thiên đàng. Vậy thì nơi Chúa ở không bao giờ hết chỗ cho con người chúng ta ở đâu. Do đó, chúng ta hãy luôn nói lên quyết tâm, lập trường của mình là chúng ta luôn tin Chúa là Chúa của chúng ta, luôn sống trung thành với Chúa và sẵng sàng vâng lời Chúa ra đi làm chứng Chúa là Chúa tình yêu bằng đời sống yêu thương, phục vụ, chia sẻ những gì mình có cho anh chị em của chúng ta, để họ nhận biết, mến yêu và thờ phượng Chúa như chúng ta: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa: (Ga 17, 24 – 26). Chúng ta tin chắc rằng chúng ta đã có một chỗ do Chúa đã dọn sẵn rồi, chúng ta không lo, còn lại là chúng ta phải cố gắng sống theo thánh ý Chúa.

Lạy Đấng phục sinh của chúng con, xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, để nhờ ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ, chúng con sẽ ăn ở theo đường lối của Chúa, để được đẹp lòng Chúa, và Chúa không bỏ rơi chúng con, cho chúng con được sống đời đời sau này. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 6:

Cơ hội thứ hai.
Thứ Sáu tuần 7 Phục Sinh.
“Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”

 

Lời Chúa: Ga 21, 15-19


Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 1: Hãy theo Thầy


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ,
một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Ghennêxarét, hồ Tibêriát.
Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò.
Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên: Hãy theo Thầy.
Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước
để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.
Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này.
Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.
Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn,
nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.
Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo.
Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.
Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế,
nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy (Ga 18, 18. 25).
Bây giờ, cũng bên đống than hồng,
Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.
“Anh có yêu mến Thầy không?”: ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế.
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”: ba lần Phêrô trả lời như thế.
Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.
Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ.
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”: ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế.
Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.
Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy.
Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.
Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,
nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy (cc. 18-19),
chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa (c. 19).
“Hãy theo Thầy”, lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.
“Hãy theo Thầy”, sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.
“Hãy theo Thầy”, sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.
“Hãy theo Thầy”, sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.
“Hãy theo Thầy” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.
“Hãy theo Thầy” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy (Lc 22, 31-32).
Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu:
Con có mến Thầy không?
Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng,
vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.
Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư.
Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: Hãy theo Thầy.
Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên
bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
 
--------------------------------

 

Suy niệm 2: Yêu mến hơn


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Hai người tiền phong. Phê-rô và Phao-lô. Đá Tảng và Trụ Đồng nâng đỡ Giáo hội. Hai tông đồ trưởng. Hai tâm hồn ưu tuyển. Với chỉ một điều kiện: Yêu Mến Hơn.

Chúa Giê-su hỏi Phê-rô: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không”? Đây là lời mời gọi thứ hai. Cách lời mời gọi đầu khoảng 3 năm. Lời mời gọi đầu khi Chúa Giê-su khởi sự đời công khai. Khi Phê-rô còn bồng bột hăng say. Chúa mời gọi ông hãy đi chinh phục: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ lưới người như lưới cá”. Và Phê-rô hăng say đáp trả: “Dù mọi người bỏ Thầy, con quyết không bỏ Thầy”.

Hôm nay lời mời gọi đi vào chiều sâu: Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không? Chúa cần tình yêu. Tình yêu là đủ. Và Chúa trao nhiệm vụ mới. Không phải đi chinh phục. Nhưng quan tâm chăm sóc đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Phê-rô thưa lại. Tuy không bồng bột hăng say. Nhưng đầy quyết tâm và sâu lắng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau tất cả những gì đã trải qua, lời đáp trả thật sự sâu lắng, vững chắc, nhưng cũng đầy khiêm tốn. Chúa cũng không úp mở hứa hẹn. Thẳng thắn báo trước cái chết. Nhưng Phê-rô vẫn cương quyết bước theo. Đó chính là tình yêu đã lớn manh. Đã yêu mến hơn.

Thánh Phao-lô cũng đi trên con đường yêu mến hơn. Từ khi được biết Chúa, ngài yêu mến. Đến nỗi cùng chịu đóng đinh với Chúa. Để từ nay không còn sống cho chính mình nữa. Chỉ sống cho Chúa. Để Chúa sống trong ngài. “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách” ngài. Khiến ngài ra đi không ngừng nghỉ. Rao giảng trở thành lẽ sống. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Biết chắc “xiềng xích và Thánh Thần đang chờ đợi”, nhưng ngài luôn hiên ngang tiến bước. Chỉ ước mong được hi sinh cho Chúa và cho anh em: “Tôi hoàn thành nơi thân xác tôi những cực hình còn thiếu sót nơi cuộc khổ nạn của Chúa. Hầu sinh ơn ích cho Giáo hội”.

Hôm nay Chúa đang cần những tâm hồn yêu mến hơn. Chúng ta có quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa không? Hôm nay Chúa cũng muốn hỏi tôi: “Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không”? Tôi đáp lại thế nào?

 --------------------------------

 

Suy niệm 3: Cơ hội thứ hai.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai. Thật thế, trong Bữa Tiệc ly trước khi chịu khổ hình, Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ: “Tất cả các con sẽ bị vấp ngã vì Ta trong đêm nay”. Nghe thế, Phêrô phản đối và quả quyết: “Cho dù tất cả vấp ngã vì Thày, con sẽ không vấp ngã bao giờ”, nhưng rồi chỉ vài giờ sau đó ông đã nhát đảm chối Thày đến ba lần. Giờ đây, sau khi Phục sinh. Chúa Giêsu đã gặp riêng Phêrô và cho ông cơ hội thứ hai. Chúa hỏi: “Simon, con của Giona, con có mến Ta hơn những người này không?. Phêrô không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: những giọt lệ thống hối chân thành sau khi chối Thày đã không đủ để minh chứng mình yêu mến Thày sao? Nhưng Phêrô đã học được bài học của quá khứ, nhất là bài học khiêm nhường cần thiết để lãnh nhận ơn cứu rỗi mà nhóm Biệt phái không thể lãnh nhận được vì tự cao tự đại. Phêrô đã thưa: “Lạy Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày”. Ba lần hỏi dẫn đến ba câu trả lời cùng một nội dung, nhưng không phải là để bù đắp cho ba lần chối Thày trước đây, mà là một đòi hỏi tiên quyết là tuyên xưng lòng yêu mến. Sau đó, Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, Phêrô đã sống đến tận cùng cơ hội thứ hai và đã sẵn lòng chết vì niềm tin của mình.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn thắng.

Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá ra lòng nhân từ vô biên của Chúa, để chúng ta luôn khiêm nhường chỗi dậy sau mỗi lần sa ngã, và xin Chúa ban cho chúng ta trung thành với ơn Chúa cho đến cùng.

 --------------------------------

 

Suy niệm 4: Lãnh trọng trách


Mùa phục sinh sắp hoàn tất. Suốt mùa, chúng ta được Đức Kitô giáo huấn. Lời Người rao giảng cho chúng ta mỗi ngày giúp chúng ta gắn bó hơn với Người trong cuộc đời Kitô hữu đã rửa tội và được sống lại.

Sau phần giáo huấn của Đức Kitô, có lẽ chúng ta sẵn sàng gắn bó sâu hơn với Người. Nhận biết như Chúa là luôn luôn tiến sâu nữa. Hôm nay, chúng ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi của Đức Giêsu như thánh Phê-rô đã đáp lời Người: “Si-mon, con ông Gio-na, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Anh đã học biết Thầy, Thầy đã giới thiệu anh với Cha Thầy, bây giờ anh biết kế hoạch cứu độ loài người, Thầy yêu anh, Thầy đã tha thứ cho anh: vậy “Anh có mến Thầy không?”

“Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy”, ba lần Phê-rô đã quyết hứa lòng mộ mến Thầy. Tuy nhiên, Đức Giêsu không dừng lại đây, Người nhấn mạnh Phê-rô phải lãnh trọng trách đối với những người khác: “Để chứng tỏ anh mến Thầy là anh phải yêu mến anh em”. Thánh Gio-an đã quả quyết: “Ai quả quyết mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối?”.

Lãnh trọng trách còn đi xa hơn nữa: mỗi lần gắn bó với ai, luôn luôn hy sinh sức khỏe, tự ái, tự do của mình cho người ấy: “Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn đến”.

Tình yêu Đức Giêsu luôn luôn kêu gọi ta từ bỏ, hy sinh đến chết. Yêu người khác đến độ trở nên tôi tớ để làm theo ý muốn của họ, đáp lại mọi ước ao của họ. Tình yêu phải chịu lệ thuộc.

Chúng ta đã được Đức Giêsu giáo huấn, được Ngài dẫn vào hiệp thông với Chúa Cha. Chúng ta đã học yêu mến Chúa. Bây giờ chúng ta hãy chọn: chúng ta có biết tự giữ lấy mọi lời đó cho mình không? Tình yêu mến Chúa của chúng ta chỉ là một thứ tình cảm chóng qua hay là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta phục vụ.

CG.

 --------------------------------

 

Suy niệm 5: Yêu thương vô điều kiện


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ như một người bình thường trên Biển Hồ Tiberia. Ngài giúp cho các môn đệ bắt được nhiều cá và sau khi ăn sáng xong với các môn đệ, Chúa Giêsu liền hỏi ông Phêrô: “Này anh Phêrô, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Chúa hỏi ông Phêrô đến ba lần, điều này khiến ông đau lòng vì nhắc ông nhớ tới việc đã công khai chối Thầy đến ba lần. Và trước mặt Chúa, Phêrô đã khẳng định với Ngài rằng ông yêu mến Ngài hơn các môn đệ khác. Chỉ trong lúc đó Phêrô mới hiểu rằng tình yêu của Thầy đổ tràn lên ông hơn là tình yêu của ông đối với Thầy. Trước đây, Phêrô đã từng hùng hồn tuyên xưng trước các môn đệ khác rằng: “Dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. Nhưng sau kinh nghiệm cay đắng vì sự phản bội của mình, Phêrô ý thức về sự yếu đuối của mình để hiểu rằng ông phải hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa chứ không ở khả năng của mình, vì thế mà Phêrô đã thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Chúa Giêsu, trước khi giao phó Giáo Hội của Ngài cho Phêrô chỉ đòi hỏi ở ông duy nhất một điều kiện, đó là tuyệt đối yêu mến Ngài. Chúa không đòi hỏi người môn đệ khả năng xuất chúng để lèo lái Giáo Hội, cũng như trí thông minh phi thường để đối phó với các thử thách mà Ngài chỉ đơn giản hỏi ông: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Thánh Gioan cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đã chọn ông Phêrô làm người đứng đầu Hội Thánh không phải vì ông yêu mến Chúa hơn các môn đệ khác, nhưng vì Chúa Giêsu đã đặt ông đứng đầu Hội Thánh nên ông phải yêu Chúa và yêu các môn đệ nhiều hơn cũng như cần phải trung thành nhiều hơn nữa.

Phêrô hiểu rằng cội nguồn của tình yêu không tới từ ông mà đến từ Chúa khi Ngài hỏi ông: “Anh có mến Thầy không?” Chúa Giêsu chính là cội nguồn của lòng nhân ái và Ngài muốn trao ban tình yêu đó cho Phêrô. Chúa Giêsu không chỉ hỏi ông Phêrô câu hỏi này, nhưng Ngài còn hỏi tất cả chúng ta và Ngài muốn trao ban cho chúng ta món quà quí giá đó. Chúng ta mang trong trái tim ước mơ yêu thương Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tình yêu đó hời hợt vì bản chất chúng ta yếu đuối và bất trung, và đôi khi chúng ta lại còn nghi ngờ Ngài. Nhưng chính Chúa đã cho Phêrô và cả chúng ta cơ hội để trả lời Ngài: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con yêu Chúa không phải vì chúng con hoàn hảo, mà vì Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không. Chúng con là những kẻ bất trung, còn Chúa thì luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, Ngài loan báo cái chết tử đạo của ông vì đi theo Chúa tức là vác thập giá để theo Ngài, có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chính mình và hy sinh cả mạng sống mình vì Nước Trời. Chúa Giêsu là người yêu chúng ta trước nhất, Ngài yêu chúng ta một cách vô điều kiện. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ hồng ân là được theo Ngài và chịu chết tử đạo để làm vinh danh Ngài như thánh Gioan đã viết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Người nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Ngài đã cho Phêrô hiểu thế nào là một tình yêu hoàn hảo, đó là dâng hiến chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, và biết hướng về tình yêu của Thiên Chúa bằng với tất cả lòng tin cậy. Ðiều đó cũng nhắc nhở với chúng ta là các hoạt động tông đồ trước hết phải đặt nền tảng trên tình yêu gắn bó với Chúa, để sau đó loan truyền tình yêu của Ngài cho những người khác.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện qua việc yêu mến tha nhân, và xin giúp cho chúng con yêu họ một cách cụ thể bằng việc quan tâm đến những niềm vui cũng như nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.

 --------------------------------

 

Suy niệm 6: Có yêu thì mới chu toàn


Khi nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”, trong đó có đoạn:

“Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu”.

Lời bài hát trên mang đậm chữ “yêu”. Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm...

Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao phó quyền chủ chăn cho Phêrô. Biết được vai trò, sứ mạng và những khó khăn mà ông sẽ đón nhận từ mình, nên Đức Giêsu đã cật vấn ông tới ba lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?". Có lẽ Đức Giêsu hỏi ông như thế là vì muốn ông từ nay phải trở nên người trưởng thành thực sự chứ không phải như những lần trước, vừa mới thề sống chết với Thầy, rồi sau đó lại chối Thầy vì sợ liên lụy. Ý thức được điều đó, nên ông đã tỏ ra buồn rầu và xấu hổ.

Tuy nhiên, sứ vụ mà ông sắp đón nhận là một cuộc hành trình đầy cam go, cần phải có tình yêu đủ lớn thì mới có thể chung chia sứ vụ với Thầy được.

Thật vậy, Phêrô đã ý thức điều đó, và ông đã tuyên xưng mạnh mẽ với đầy tràn tình yêu và Thần Khí Thiên Chúa trong mình: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy".

Ngày nay, Chúa cũng trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài cho các mục tử trong Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài trở nên những mục tử “như lòng Chúa mong ước”. Trở nên những mục tử không chỉ “biết” mà còn “ngửi thấy mùi chiên”.

Bên cạnh đó, trong chức tư tế phổ quát, mỗi người chúng ta cũng đều là mục tử khi được tham dự vào chức tư tế độc nhất của Đức Giêsu qua Bí tích Rửa Tội, vì thế, chúng ta cũng không ngừng vươn tới mẫu gương của Đức Giêsu là mục tử nhân lành để noi theo và sống ơn gọi bằng cách chu toàn bổn phận của mình trong lòng mến.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho hết mọi thành phần dân Chúa, dù trong vai trò gì, cũng luôn biết lấy tình yêu làm lẽ sống, để qua đó, mỗi người sẽ được sống trong một tình yêu lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 --------------------------------

 

Suy niệm 7: Phêrô -- sứ mệnh mục tử


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Cũng như Thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao cho sứ mệnh mục tử để chăn dắt đoàn chiên Chúa, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa trao sứ mệnh mục tử trong phạm vi và khả năng của mình. Nhưng trước hết, Chúa đòi phải có lòng yêu mến và sự hy sinh.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước khi về trời, Chúa đã trao cho Thánh Phêrô sứ mệnh mục tử, thay mặt Chúa chăn dắt đoàn chiên, dù trước đó Ngài đã ba lần chối Chúa. Chúa đã cho biết rõ Ngài yếu đuối nhưng Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Chúa chỉ đòi hỏi Ngài lòng yêu mến Chúa, một lòng yêu mến đặc biệt, yêu mến Chúa hơn mọi người, yêu mến đến độ dám hy sinh cả mạng sống.

Ngày nay, Chúa vẫn yêu thương và tin tưởng chúng con. Chúa trao cho mỗi người trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên Chúa: là cha xứ đối với giáo xứ, là cha mẹ đối với con cái, là anh chị đối với đàn em, là người trên đối với người dưới, là người giàu đối với người nghèo, là người khoẻ mạnh đối với người yếu đau… Mỗi người chúng con đều có sứ mệnh của người mục tử. Chúa tin tưởng và trao phó sứ mệnh mục tử cho chúng con, dù Chúa biết rõ chúng con đã từng phạm tội, chỉ là kẻ tài hèn sức mọn.

Lạy Chúa, chỉ có lòng yêu mến Chúa thật mới giúp con có đủ khả năng để thay mặt Chúa chăm sóc anh chị em. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa nồng nàn để trong mọi hoàn cảnh, con luôn hết lòng chu toàn sứ mệnh ấy. Xin ban thêm lòng yêu mến Chúa cho con, để dù trong lúc khó khăn, con luôn biết hy sinh sức lực, khả năng, thời giờ và ngay cả mạng sống, để phục vụ những người mà Chúa đã tin tưởng trao phó cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”

 --------------------------------

 

Suy niệm 8: Chăn dắt các chiên của Thầy


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong thánh lễ an táng Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, tức là Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI sau này, giảng lễ gợi hứng từ Tin Mừng Ga 21,15-19, và tập trung vào lời Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).

Đức Hồng y Joseph Ratzinger, suy tư và khai triển tiếng gọi của Chúa Giêsu cho Phêrô “Hãy theo Thầy”, tiếng gọi này nhưng cũng xuyên suốt cuộc đời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đấng kế vị Phêrô, từ khi lãnh tác vụ linh mục giữa thời chiến tranh, tiếp đến sứ vụ Giám mục trong thời kỳ bức màn sắt, cho đến khi lên ngôi Giáo hoàng như lời Chúa uỷ thác: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.

Suy niệm

Câu hỏi của Thầy Giêsu hỏi Phêrô ba lần liên tiếp: “Con có yêu mến Thầy….?”, sự đáp trả với lòng xác tín của ông cũng ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy” và trách nhiệm cũng được trao ba lần qua mệnh lệnh: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy” (x. Ga 21,15-17). Như một sự tín nhiệm của Thầy dành cho Phêrô dù ông là môn đệ đã từng chối Thầy. Sự việc và cuộc đàm đạo của Thầy trò làm nổi bật mối tương quan giữa tình yêu và trách nhiệm qua lời tuyên tín của Phêrô “con yêu mến Thầy” và mệnh lệnh Chúa Giêsu trao phó “chăn dắt các chiên con của Thầy”. Trong ánh sáng Phục sinh, tình yêu làm gia tăng sự trách nhiệm và từ trong tinh thần trách nhiệm, tình yêu đổi mới, thăng tiến nhân loại theo hướng tích cực như lời nguyện ước: “Xin tình yêu làm thay đổi thế giới”. Sự giao thoa và liên hệ giữa lời cầu nguyện với hình ảnh đáp trả tình yêu của Phêrô làm tôi hiểu thêm về lời cầu nguyện và càng hiểu sâu xa hơn ‎ý nghĩa tuyên xưng tình yêu của Phêrô với trách nhiệm được giao.

Khi trao cho Phêrô đảm đương trách nhiệm Giáo hội, lòng ước ao của Thầy nơi ông có một tình yêu mãnh liệt với Thầy thể hiện qua sự tận tụy với anh em mà Phêrô có trách nhiệm chăm sóc. Tình yêu với Thầy qua sứ mạng mà ông gánh vác. Ông đã đảm đương nhiệm vụ cách quảng đại và anh hùng, điều này đã được chứng minh bằng chính cuộc đời của vị thủ lãnh mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn và tiên báo: “Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa” (Ga 21,18-19). Phêrô đã yêu và vinh danh Thầy qua cái chết trên thập giá nơi đồi Vatican vì tình yêu mà ông đã tuyên xưng.

Trách nhiệm của Phêrô được giao không chỉ là kết quả của lời đáp trả ngắn gọn “con yêu mến Thầy”. Lời tuyên tín và trách nhiệm của Phêrô đã được chuẩn bị suốt hành trình rao giảng của Đức Kitô. Với Tin Mừng Gioan 21,15-19, trách nhiệm được đặt dấu ấn của niềm tin Phục sinh làm sống dậy tình yêu, lòng nhiệt thành và trách nhiệm trong mọi khoảnh khắc của thời gian, có giá trị vĩnh cửu vì được sự chết và phục sinh của Đức Kitô thánh hóa. Thầy Giêsu đã chuẩn bị trước cho Phêrô nhiệm vụ “chăm sóc đoàn chiên” ngay vào giây phút đầu tiên ông gặp gỡ và theo Chúa qua sự giới thiệu của người em là Anrê, chính Chúa đã gieo vào tâm hồn ông ‎ý niệm trách nhiệm: “Anh sẽ được gọi là Phêrô” (Ga 1,42) và “trở nên kẻ chài lưới người” (Lc 5,10). Trách nhiệm “chài lưới người” cũng được Chúa đào tạo cho ông cách tiệm tiến xuyên qua nhân cách của ông: quảng đại nhiệt thành tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Chân thành ý thức bản thân khi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8); Ông yếu đuối chối Thầy ba lần khi Đức Giêsu bị bắt (x. Ga 18,17-27).

Phêrô đã tuyên tín tình yêu và lãnh nhận trách nhiệm…

Thế giới hôm nay ở bất cứ chân trời nào cũng đều có nhu cầu của trách nhiệm trong tình yêu: yêu nghề nghiệp vì đó là sứ mệnh được Thầy Giêsu giao; yêu anh em đồng loại làm cho người đảm đương công việc trong trách nhiệm hơn. Tất cả quy tụ về Đức Kitô, Đấng đã truyền cho chúng ta trách nhiệm dấn thân như Người đã nói với Phêrô: “Con hãy theo Thầy” (Ga 21,19), theo Thầy trên mọi nẻo đường của cuộc sống, theo Thầy khi gánh vác trách nhiệm trong công việc mà tôi và bạn đang đảm đương.

Ý lực sống:

“Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15.17).

 --------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa trao quyền chăn dắt cho Phêrô


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, lần này Chúa hiện ra với các môn đệ tại bờ hồ Tibêriat và trong lần này Chúa trao cho Phêrô được quyền tuyệt đối trong Hội thánh và nói tiên tri về đời sống của ông.

2. Trước khi trao quyền trông coi Giáo hội cho Phêrô, Chúa Giêsu hỏi ông ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không”? Câu hỏi được lặp đi lặp lại để Phêrô phải suy nghĩ, lựa chọn và xác định tầm quan trọng của vấn đề. Để thi hành sứ vụ, Phêrô cũng như các môn đệ, phải có lòng yêu mến thiết tha, vì có yêu Thầy tha thiết, thì mới chăm sóc được đoàn chiên của Thầy.

Mỗi người chúng ta được sống trong những môi trường khác nhau, với sứ vụ khác nhau trong công cuộc xây dựng Nước Trời tại thế, chúng ta cũng phải có một tình thương! Vì tình thương xóa bỏ hận thù, là mối dây liên kết mọi điều thiện hảo.

3. Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy? Có nhiều nhà giải thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy là để tỏ ra tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.

Có những tác giả khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người biết rõ rệt Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với tình yêu của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm mọi trách nhiệm.

Một số người khác lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai lần đầu và “chiên mẹ”ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của Phêrô trên cả giáo dân và các chủ chăn khác,

Có người lại cho rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã chối Chúa.

Có người lại cho rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa trao ba quyền cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo (Lm Phạm văn Phượng).

4. Khi thiết lập người đứng đầu Giáo hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng ba lần chối Chúa. Nếu xét theo cái nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho Ngài. Thiên Chúa đi tìm chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lầm lỗi, nhưng quan trọng là: “Này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.

5. “Người nói vậy... Hãy theo Thầy”.

Câu này giải thích ý nghĩa lời của Chúa Giêsu trong câu 18: đó là cuộc tử đạo của Phêrô. Kiểu nói “anh sẽ phải giang tay ra”: có thể ám chỉ đến khổ hình thập giá mà Phêrô sắp phải chịu vào cuối đời

Và Chúa thêm: “Hãy theo Thầy”: Hẳn là Chúa muốn nhắc lại lời trước đây: Khi người bảo Phêrô: “Nơi Thầy đi, nay con không theo được, nhưng sau này con sẽ theo” (Ga 13,16), thì từ nay, Phêrô theo thật, nghĩa là Phêrô cùng chịu chết trên thập giá.

Truyện: Nhà hiền triết Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia, Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:

- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?

- Không.

- Vậy anh hãy theo ta.

Đó cũng là câu Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Góp nhặt).

6. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã trực tiếp ban quyền tối thượng cho Phêrô, Chúa chính thức trao cho ông quyền thủ lãnh trên Tông đồ đoàn và trên cả Giáo hội của Ngài. Chúng ta là những tín hữu trong Giáo hội, chúng ta cũng phải khiêm tốn nhìn nhận vai trò Chúa ban cho mỗi vị Chủ chăn, và trong đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng: Chúa đang lãnh đạo Giáo hội qua những vị đó. Cho nên, chúng ta hãy lấy tình con thảo mà yêu mến, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và sẵn sàng cộng tác, giúp đỡ, nhất là cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta.

7. Truyện: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó.

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bắt đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập giá đang đi hướng về phía thành.

Ông hỏi: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó?

Người ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”.

Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên ông xin được chết trên Thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.

Ông thực hiện đúng lời của Chúa: “Khi về già ngươi sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).

 --------------------------------

 

Suy niệm 10: Thân phận Phêrô là yêu mến


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Bài giáo lý về cuộc nói chuyện giữa Chúa Giêsu và các môn đệ bên bờ hồ Tibêria.

Về thân phận Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?…Hãy chăn dắt các chiên của Thầy.”

Suy gẫm

1. “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Alexander đại đế, khi còn nhỏ là một cậy bé thông minh. Một hôm cha cậu mua phải một con ngựa khó tính, không ai dạy nổi. Thế mà Alerxander thuần phục con ngựa ấy một cách dễ dàng. Có người hỏi cậu bí quyết khắc phục con ngựa ấy, cậu trả lời: “Chẳng có gì lạ. Tôi xét kỹ thấy con ngựa này rất sợ cái bóng của nó. Vì thế chỉ cần quay nó hướng về mặt trời để nó không còn thấy cái bóng của nó nữa.”

Ông Phêrô rất sợ cái bóng của mình, nhưng khi ông hướng về Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, sợ hãi như tan biến đi, nhường chỗ cho tín thác xâm chiếm cả tâm hồn ông.

Lạy Chúa, Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa biết con hơn con biết con và Chúa yêu con hơn con yêu con. Con tín thác đời con cho Chúa.

2. Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?… Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”

Ngày ấy trong Vườn Cây Dầu, Phêrô đã rút gươm để bênh vực Chúa Giêsu, nhưng sau đó ông đã tỏ ra hèn nhát và đã phản bội Thầy mình. Lúc ấy, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô, một cái nhìn trìu mến, cảm thông cho nỗi yếu nhược của ông, làm òa vỡ trong ông niềm xót xa, ân hận. Ông đã hiểu trọn nghĩa hai chữ yêu thương.

Và hôm nay, một lần nữa trong ánh sáng Phục sinh. Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô, hỏi các môn đệ và hỏi chính tôi về một điều, một điều Người đã định nghĩa bằng trọn cuộc sống, đó là Tình Yêu.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu, yêu Chúa và yêu mọi người, yêu như Chúa yêu vì Ngài chính là tình yêu.

3. Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra cái vật này, vật kia. Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:

- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?

- Không!

- Vậy anh hãy theo ta.

Đó cũng là câu của Chúa Giêsu: “Hãy theo Ta.”

 --------------------------------

 

Suy niệm 11: Lòng mến và nhiệm vụ


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúng ta vừa nghe một câu chuyện có liên quan đến Phêrô:

1. Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15)

Sau mỗi lần Phêrô tuyên xưng lòng mến, Chúa Giêsu trao cho Phêrô một nhiệm vụ. Chung qui lại là: “Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Ga 21,16).

Có một câu chuyện tưởng tượng như sau: Khi Chúa Giêsu về trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:

- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ rồi chăng?

- Không! Chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.

Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:

- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng mà bỏ Chúa. Trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?

Chúa đáp:

- Không,Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ sẽ không bỏ rơi Ta.

Vâng, đúng là Chúa tín nhiệm những môn đệ của Ngài. Ngài tín nhiệm họ bởi vì Ngài biết họ.

Câu chuyện thật cảm động bên bờ biển Galilê hôm nay đã cho chúng ta thấy thật rõ điều đó.

“Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Phêrô nói lên điều này với tất cả kinh nghiệm đau xót nơi chính bản thân mình. Làm sao ông quên được những điều Thầy đã báo trước với ông, về việc chính ông sẽ chối Thầy mình trước khi gà chưa kịp gáy lần thứ ba, chối tới ba lần, làm sao ông có thể quên được.

Chúa biết...Biết tất cả mọi sự (Ga 21,17).

Phêrô hơi buồn vì Chúa hỏi ông đến lần thứ ba.

Tại sao Chúa phải làm thế?

Chẳng phải là Chúa không biết lòng mến của ông đối với Ngài. Và có lẽ cũng chẳng phải là để đền bù lại ba lần ông đã chối Chúa. Chẳng lẽ Chúa mà lại hẹp hòi đến như vậy sao? Ngài chẳng cần phải như vậy. Nhưng sở dĩ Ngài làm thế là vì Ngài muốn ông xác tín một cách dứt khoát về giá trị con đường yêu thương mà Chúa đã đi, để rồi khi lãnh trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa, ông cũng phải dẫn dắt họ đi trên con đường đó. Dứt khoát là không có con đường nào khác ngoài con đường đó. Đừng đi tìm bất cứ một con đường nào khác con đường đó.

2. Chúa nói với Phêrô “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).

Theo Chúa không phải chỉ là đi trên những con đường cát bụi mà có lần Chúa đã đi qua, nhưng là phải sống chính cuộc sống mà Chúa đã sống.

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập Giá đang đi hướng về phía thành.

Ông hỏi: “Quo vadis: Người đi đâu đó?”

Người ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”.

Phêrô đã hiểu ngay. Lần này thì Chúa không cần phải cắt nghĩa dài dòng nữa. Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và tự nộp mình để rồi chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng, ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh cùng một cách thức như Thầy, nên ông xin được chết trên Thập Giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.

Với tư thế đó, ông sẽ phải chịu đau đớn nhiều hơn. Nhưng Phêrô đã muốn như thế để nói lên tấm lòng của ông đối với Thầy chí thánh.

Rõ ràng ông thực hiện trọn vẹn lời của Chúa: “Khi về già, ngươi sẽ dang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).

Phêrô nằm trên Thánh Giá. Giống như Chúa Giêsu, như con chiên hiền lành, không một tiếng than, không một lời trách. Ông nằm trên đó như một lễ tế dâng lên Thầy chí thánh với tất cả lòng yêu thương: Yêu thương thì sẵn sàng hy sinh. Yêu thương thì sẵn sàng quên mình.

Phêrô đã chết nhưng cái chết của ông không vô ích. Ông đã chết không như một thất bại nhưng như một anh hùng chiến thắng. Sự can đảm của ông chẳng khác gì một ngọn lửa hồng rực sáng, sáng lên thật nhanh, thật mạnh nơi tâm hồn những tín hữu đầu tiên để họ cùng ông viết lên những trang sử hào hùng cho tòa nhà Giáo Hội, mà chính Phêrô là nền móng.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta cũng được sống can đảm như thế, để chúng ta xứng đáng với sự cứu chuộc của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Ðã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Amen.
 
--------------------------------

 

Suy niệm 12: Phêrô, con có mến Thầy không?


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Trong cuộc khổ nạn của Chúa, thánh Phêrô ba lần chối Chúa, mặc dù Chúa đã cảnh báo cho ngài biết trước để mà tránh đi khi nó xảy đến, nhưng ngài vẫn chối Chúa, vẫn phạm lỗi (Ga 13, 36 – 38). Thê nhưng chẳng phải ngài chối Chúa trước mặt người có chức có quyền, có thân thế địa vị, có danh thơm tiếng tốt, nhưng là trước mặt một người phụ nữ; mà phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ không có một giá trị gì cả, cho nên ngài quả là đốn mạt, hèn hạ, đáng xâu hổ, đang bị khinh bỉ vô cùng là vậy. Nhưng mà nhờ Chúa thương ngài vô cùng, cái vô cùng của tình thương Chúa lớn hơn gấp mấy ngàn lần cái vô cùng của tội lỗi, của sự đốn mạt, của sự hèn hạ, của sự xấu hổ mà ngài đã phạm, để rồi Chúa quay lại nhìn ngài với ánh mắt nhân từ, hiền hậu, tha thứ, chứ không trách móc, không oán hờn. Do đó, ngài đã xin lỗi Chúa, ngài ăn năn khóc lóc cho đến trọn đời (xLc 22,54 – 62).

Từ giờ phút đó cho đến mãi về sau, thánh Phêrô luôn ý thức thân phận thụ tạo, yếu đuối, tro bụi, tội lỗi, bất xứng của ngài. Ngài luôn bám chặc vào Chúa, tựa nương vào Chúa không một chút ngơi nghỉ, và đồng thời ngài cũng yêu thương các tông đồ khác, các anh chị em đồng loại khác của mình: “Chúa nói với thánh Phêrô: Thầy luôn cầu nguyện cho con, để đức tin của con không bị lạc mất; phần con, sau khi con chỗi dậy, con hãy cũng cố anh em con: (Lc 22, 32 – 34). Mặc dù Chúa đã tha tội chối Chúa cho ngài rồi, nhưng ngài vẫn canh cánh trong lòng tình yêu của ngài đối với Chúa sao mà vụn nát quá. Cuộc đời của ngài theo Chúa sao mà chẳng vuông tròn chút nào cả. Chúa hiểu, Chúa thương ngài để rồi hôm nay, Chúa tạo cho ngài một cơ hội khác, chúng ta xem  đây như là cơ hội cuối cùng cho ngài trước khi Chúa về trời. Cơ hội này là cơ hội tình yêu để phủ lấp những tội lỗi đã qua: “Tinh yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi: (1Pr 4, 8). Thánh Phêrô tận dụng cơ hội Chúa ban này để ngài tuyên xưng lòng mến đối với Chúa mà trước đó ngài đã chối ba lần. Dường như ngài tuyên xưng lòng mến rất to, rất lớn để cho Chúa nghe mà bỏ qua thêm cái nhát đảm của ngài, và để cho người khác nghe nữa mà ngài bớt đi sự xấu hổ, sượng sùng của ngài. Vì thế, khi Chúa hỏi: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?: (Ga 21, 15. 16. 17) và ba lần ngài đều đáp lại: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy: (Ga 21, 15. 16. 17). Tuy lần thứ ba, ngài buồn vì ngài nhớ lại ba lần chối Chúa. Nhưng theo Chúa thì ngài đừng buồn nữa, vì ngài rất nhạy bén về cảm thức tội lỗi của ngài thì trong tình yêu đối với Chúa và với mọi người, ngài phải nhạy bén hơn thế để mới phục vụ đoàn chiên Chúa trao phó: “Con hãy chăn dắt đoàn chiên cua Thầy: (Ga 21, 15. 16. 17). Và cuối cùng chính tình yêu vô cùng bén nhạy, đâm rễ sâu trong Chúa, ngài sẽ hiến dâng mạng sống cho Chúa sau này. Nhưng dù gì đi chăng nữa, có nói gì đi chặng nữa, nếu Chúa không nói với thánh nhân: “Người lại bảo ông: Con hãy theo Thầy: (Ga 21, 19) thì việc theo Chúa của ngài cũng ra như không, vô ích. Nhưng đây Chúa nói với thánh nhân là con hãy theo Chúa. Đây mới là điều minh chứng thánh Phêrô thuộc trọn về Chúa rồi, chắc ngài rất hạnh phúc. Mọi người chúng ta đang chờ câu nói này của Chúa với từng người chúng ta. Để được Chúa nói như thế, chúng ta hãy sống theo thánh ý Chúa cho thật tốt, thật nghiêm chỉnh, thật đàng hoàng.

Lạy Chúa, Đấng phục sinh, rất nhân hậu từ bi, xin thương xót chúng con, xin ban Chúa Thánh Thần đến với chúng con, biến đổi cuộc sống chúng con, dẫn đường đưa chúng con đến cuộc sống vĩnh cửu, phúc trường sinh sau này, xin cho chúng con đang khi còn sống ở đời này, biết tôn kính, mến yêu, thờ phượng Chúa cho phải đạo làm con Chúa. Amen.

---------------------------------`
 

Thứ 7:

Làm chứng cho Chúa.
Thứ Bảy tuần 7 Phục Sinh.
"Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra".

 

Lời Chúa: Ga 21, 20-25


Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Lời chứng xác thực


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,
còn có người môn đệ được Đức Giêsu thương mến.
Anh đã có mặt trong bữa Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,
và được Phêrô nhờ hỏi Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).
Anh đã đưa Phêrô vào dinh thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).
Anh đã cùng với Phêrô chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,
nhưng anh chạy nhanh hơn, và tin trước Phêrô (20,3-10).
Khi Phêrô chối Thầy ba lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),
thì anh là môn đệ duy nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,
và được Ngài trao Thân Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).
Trong lần Đức Giêsu tỏ mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),
anh là người đầu tiên nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”
Có vẻ hình ảnh người môn đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.
Dù sao Simon Phêrô đã ba lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,
và ba lần Thầy giao cho anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.
Thầy còn tiên báo cái chết tử đạo của anh,
và mời anh một lần nữa: “Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).
Đó là đường đời của Phêrô, một môn đệ và một mục tử.
Nhưng đâu là con đường tương lai của người môn đệ kia?
Phêrô đi theo Đức Giêsu, quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.
“Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (c. 21).
Đức Giêsu đã không bảo là anh này sẽ không chết,
hay anh còn sống mãi cho đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).
Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,
thì người môn đệ kia đã qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.
Như thế tiếng đồn về câu nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).
Những gì anh để lại cho thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.
“Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).
Người môn đệ này cho chúng ta một lời chứng đáng tin,
vì anh là người đã sống bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.
Anh đã mắt thấy tai nghe, và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.
Không hẳn anh đích thân cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,
nhưng anh lại chính là tác giả của mọi điều được viết trong đó.
Tất cả là kinh nghiệm riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,
và những Suy niệm lâu dài dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.
Người môn đệ này còn là người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.
Cộng đoàn ấy được ám chỉ qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).
Một người trong cộng đoàn đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).
Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến?
Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.
Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Điều anh để lại cho đời trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.
Anh là nhân chứng đáng tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đúng anh là người được Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.
 
Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa của đời con,
chỉ trong tình yêu con mới tìm thấy Chúa.
Trong tình yêu, các cánh cửa hồn con mở tung,
để con được thở không khí tự do tươi mới
và quên đi cái tôi nhỏ mọn của mình.
Trong tình yêu, toàn bộ con người con vươn ra khỏi
những ranh giới cứng nhắc của óc hẹp hòi
và của thái độ tự khẳng định đầy bất an
khiến con bị giam mình trong sự nghèo nàn và trống rỗng.
Trong tình yêu, mọi sức mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,
chẳng bao giờ còn muốn quay trở lại,
nhưng chỉ muốn mất mình trọn vẹn trong Chúa,
vì qua tình yêu, Chúa là trung tâm sâu nhất của lòng con,
Chúa gần con hơn cả chính con gần con.
Nhưng khi con yêu Chúa,
khi con tìm cách phá vỡ vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng
nỗi khắc khoải không nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
khi đôi mắt mù lòa của con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài
ánh rạng ngời không thể lại gần được của Chúa,
và hơn nữa, lạy Chúa là Đấng vô phương thấu hiểu,
khi qua tình yêu, Chúa trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,
khi ấy con mới có thể chôn mình hoàn toàn trong Chúa,
lạy Thiên Chúa nhiệm màu,
và chôn mọi câu hỏi của con cùng với con. Amen. (Karl Rahner, S.J.)
 
--------------------------------------

 

Suy niệm 2: Lời ban sự sống


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Câu kết thúc Phúc Âm thánh Gio-an khiến ta ngạc nhiên: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”.

Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa vốn toàn năng toàn tri toàn thiện và phổ quát. Nhưng Ngôi Lời Nhập Thể tự nhận những giới hạn của con người. Lời Thiên Chúa thì vô hạn. Ngôn ngữ con người thì hữu hạn. Lời hữu thanh chẳng diễn tả hết ý vô thanh. Thánh Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa. Đã nghe được nhịp đập của trái tim Chúa. Đã nghe được lời vô thanh của Thiên Chúa. Đã hiểu được lời vô hạn của Thiên Chúa. Đã ôm ấp Lời Thiên Chúa cao sâu muôn trùng, mênh mông vô biên, trời đất chứa chẳng nổi.

Thánh Phao-lô cũng là người nghe được lời vô hạn, vô thanh, vô ngôn của Thiên Chúa. Ngài đã được đưa lên tầng trời thứ ba. Đã được Thiên Chúa trực tiếp dậy dỗ. Và đã hình thành một Tin Mừng riêng biệt của mình. Tin Mừng đầy ắp trong tâm hồn khiến ngài bị thúc bách nói ra: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Vì thế ngài rao giảng không ngừng. Chờ thụ án tử hình vẫn rao giảng. Rao giảng cho đến hơi thở cuối cùng.

Như thế Phúc Âm không phải là một quyển sách nhưng là một cuộc gặp gỡ. Có bao nhiêu cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su là có bấy nhiêu Phúc Âm.

Theo lời truyền khi thánh Gioan về già, không thể nói nhiều. Mỗi lần tín hữu tụ tập lại, người ta khiêng ngài ra. Ngài chỉ giảng một câu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Ngài giảng mãi câu ấy không biết chán. Giáo dân nghe câu ấy suốt đời không biết mệt. Vì lời hữu hạn của con người đã gặp Chúa, có sức chuyên chở nội dung sức sống vô biên của Lời Thiên Chúa.

Ở đây nữa ta thấy sự sâu xa của Lời Thiên Chúa vô hạn đối nghịch với lời hữu hạn của con người. Chỉ một Lời Thiên Chúa ngắn ngủi lại tràn đầy sức sống, tràn đầy ý nghĩa và làm say đắm lòng người hơn nhiều bài giảng dài dòng, huyên thiên, vô nghĩa trong lời hữu hạn của con người.

 --------------------------------------

 

Suy niệm 3: Làm chứng cho Chúa.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.

Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi nhất là để Suy niệm và viết cuốn Tin mừng thứ tư và ba lá thư. Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô.

Lịch sử Giáo Hội từ đầu cho đến nay là cả một cuốn sách về những chứng từ khác nhau: bằng lời nói, bằng đau khổ, bằng hy sinh, bằng công việc từ thiện… mỗi người một cách, mỗi thời đại một cách tuỳ ở Chúa Thánh Thần soi sáng, nhưng tất cả là để giới thiệu tình yêu Chúa cho mọi người để mọi người hưởng nhờ ơn cứu độ.

Chắc chắn, không phải tất cả chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng cái chết vì đạo, nhưng chúng ta có thể làm chứng bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức phần đóng góp của chúng ta cho kho tàng phong phú của Giáo Hội qua những hy sinh âm thầm từng ngày, để làm cho mọi người nhận biết tình yêu Chúa và trở về cùng Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 4: Về thánh Gioan


Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.

Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, Suy niệm lâu dài mãi tới già.

Mấy tuần mùa phục sinh Ngài loan báo cho chúng ta Tin mừng về: sự tái sinh bởi Thánh Thần, chia sẻ bánh hằng sống, niềm hy vọng phục sinh, tiếp nhận mục tử tốt lành, ban Thánh Thần, thánh Gio-an giới thiệu chúng ta vào hiệp thông với Chúa Cha. Hơn nữa, ngài còn xác định về những đòi hỏi phải theo Đức Kitô: Sự cần thiết phải tin, nhận lãnh những dấu chỉ, đức tin vào lời chứng về Đức Kitô, trông cậy vào Đấng Thiên Chúa sai đến.

Đến lượt, chúng ta cần cảm nghiệm sâu sắc về đời sống của Đức Kitô. Nhờ thế, chúng ta là nhân chứng về những sự kiện cao cả của Thiên Chúa trong lịch sử lúc này. Lời chứng của chúng ta rất cần cho thế gian. Mỗi người trong chúng ta, tùy theo cách thức và đặc sủng của mình, phải loan báo Tin mừng đã sống thực trong đáy lòng con tim chúng ta.

Mỗi người chúng ta phải lớn tiếng rao giảng lời chứng của mình về Đức Kitô hàng ngày. Lời rao giảng Tin mừng trong phụng vụ được các tông đồ truyền lại cho chúng ta, giúp chúng ta làm sống lại lời Tin mừng đến tận các bàn giấy, các nhà máy, và các gia đình.

Chúng ta không nên đợi những người khác bắt đầu sống theo Đức Kitô, rồi chúng ta mới bắt đầu thi hành ý Người. Hãy nhờ chính lời của Người nói với Phê-rô: “Dù Thầy muốn cho người ấy cái gì, dù Thầy định cho những người khác thế nào, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Tôi”.

CG.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 5: Làm chứng tá cho tình yêu


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.

Qua những lời đối thoại với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.

Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.

Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của cuộc sống.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Cảm nghiệm và làm chứng


Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây  đăng tin:

Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.

Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.

Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia Keys.

Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?

“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.

“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.

Thánh Gioan hôm nay hiện lên trên trang Tin Mừng như một người chứng về tất cả những gì ngài đã viết trong Tin Mừng của mình về Đức Giêsu. Ngài đã trở nên chứng nhân cho tất cả những gì đã viết là bởi vì ngài đã được ở với Đức Giêsu, được nghe lời dạy, và cảm nghiệm được tình yêu đặc biệt mà Thầy đã dành cho mình. Như vậy, muốn hiểu phải yêu, và khi đã yêu thì phải làm chứng và lời chứng của người đó mới thật.

Như vậy, phụng vụ hôm nay muốn mời gọi chúng ta rằng: hãy yêu mến Chúa tha thiết, lắng nghe lời Ngài và hãy trở nên chứng nhân cho Đức Giêsu đến tận cùng trái đất.

Tuy nhiên, không có một mẫu số chung nào cho mọi người, vì thế, mỗi người mỗi cách, miễn sao cho Tin Mừng được loan báo và hợp với tinh thần của Giáo Hội.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng, để từ đó cũng sẵn sàng trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng cách sống động trong cuộc sống hiện tại của chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Ơn gọi theo Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đời mỗi người Kitô hữu là một ơn gọi theo Chúa. Ta hãy đáp lại ơn gọi yêu thương đó tùy theo bậc sống trong hoàn cảnh riêng của mình, với niềm phó thác cậy trông vào Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người chúng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa đang dẫn con đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho con.

Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa không bảo con đừng quan tâm đến anh chị em quanh con. Khi thấy anh em cần nâng đỡ đức tin, Chúa muốn con chạy tới đóng vai bàn tay của Chúa để đỡ nâng họ. Con sẽ đỡ nâng bằng gương sáng, bằng một lời động viên, bằng một lời nhắc nhở, và nhất là bằng những lời cầu nguyện. Rồi khi con gặp thử thách, con tin Chúa sẽ lại dùng anh chị em quanh con thay mặt Chúa mà ủi an, động viên con.

Tuy nhiên, Chúa muốn nói với riêng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa dạy con đừng phân bì ghen tỵ. Xin Chúa đừng để con so sánh phận mình với phận người mà chùn bước chân theo Chúa. Con biết mỗi đời người là một mầu nhiệm trong tình yêu quan phòng của Chúa. Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con”.

Xin cho con vui với phận mình và tin tưởng bước theo Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 8: Được mời gọi trở nên chứng nhân


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ngày kia, Voltaire nói với một người bạn: “Để lập Kitô giáo, chỉ cần mười hai tên ngư phủ quê mùa, dốt nát. Tôi sẽ cho thế giới thấy rằng chỉ cần một người Pháp cũng đủ tiêu diệt tôn giáo đó”.

Với ý đồ đó, ông phản bác cả Isaac Newton. Newton dựa vào sách Daniel 12,4 và Nahum 2,4 tiên đoán rằng: Một mai, con người có thể di chuyển với tốc độ kỳ diệu là 40 dặm trong một giờ. Voltaire bảo: “Hãy xem Kitô giáo điên rồ đã đầu độc một người thông thái như Newton đến cỡ nào! Ông không biết rằng một người chạy 40 dặm 1 giờ sẽ nghẹt thở, vỡ tim mà chết hay sao?”.

25 năm sau khi Voltaire qua đời, căn nhà của ông được bán cho Hội Thánh Kinh Geneva và trở thành kho lưu trữ Thánh Kinh. Còn chiếc máy in của ông cũng được dùng để in Thánh Kinh!

Suy niệm

Tông đồ Gioan là “môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 13,23; 19,26; 20,2; 21,7), người đã ngả đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly (x. Ga 13,23.25) như là biểu tượng của tình yêu gắn bó với Thầy.

Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được đức tin mạnh mẽ cho con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ máu làm chứng cho Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở Rôma, còn bị ném vào trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an vô sự. Sau đó, Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.

Theo ý muốn của Chúa Giêsu, Gioan đã đi trên con đường khác với các anh em tông đồ: rao giảng Tin Mừng ở các giáo đoàn bên Tiểu Á, tận dụng hết mọi khả năng, mọi điều kiện Chúa cho để đào sâu Lời Chúa. Khi đã 99 tuổi, thánh Gioan mới viết sách Tin Mừng thứ tư với đức tin thật vững chắc được chuẩn bị và nuôi dưỡng bằng tình yêu. Gioan đã loan báo Tin Mừng cả tâm hồn đầy xác tín, như ông đã nói: “Điều chúng tôi đã được tai nghe, điều chúng tôi đã nhìn tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời hằng sống” (1Ga 1,1) như ông đã xác định cuộc đời của mình: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật…” (Ga 21,24-25).

Ngoài Tin Mừng thứ tư và sách Khải huyền, Gioan còn là tác giả của ba thư. Tư tưởng của ông trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là tình yêu và chúng ta chỉ thực sự trở nên Kitô hữu nếu chúng ta biết thương yêu nhau. Tông đồ Gioan đã trao cho nhân loại bài học lớn lao về tình yêu, nhờ đó chúng ta cảm thấy được Chúa Kitô yêu thương “cho đến cùng” (Ga 13,1) và sống cuộc đời vì Người.

Trong mỗi thời đại, ở mỗi xã hội khác nhau luôn cần có những chứng nhân, trách nhiệm khác nhau. Thiên Chúa luôn cần đôi tay, trái tim, khả năng của chúng ta để tiếp tục sự hiện diện và hành động của Ngài. Có người làm chứng bằng máu, có người bằng sự dấn thân đổ mồ hôi, có người chứng nhân bằng nghĩa cử hy sinh phục vụ, có những chứng nhân trong âm thầm cầu nguyện…

Mỗi chúng ta được mời gọi trở nên một trong số chứng nhân đó. Chúa đang cần sự đóng góp của chúng ta.

Ý lực sống:

“Vì vui riêng, Người đã làm tôi bất tận.
Thân này thuyền nhỏ mong manh đã bao lần người tát cạn
rồi lại đổ đầy cuộc sống mát tươi mãi mãi” (Tagore, Lời Dâng #1).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 9: Gioan sẽ là chứng tá trong Hội thánh


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Kết thúc mùa Phục sinh, Phụng vụ cho chúng ta thấy Phêrô đã nhận chức vụ Mục Tử thay thế Chúa Kitô, Gioan là chứng tá thường trực trong Hội thánh.

Bài Tin Mừng hôm nay là bài kết thúc Tin Mừng thánh Gioan, trình bầy về Gioan sẽ là chứng tá thường trực trong Hội thánh Chúa cho đến tận thế qua sách Tin Mừng của ông.

2. “Thưa Thầy, còn anh này thì sao”?

Phải chăng khi Phêrô thắc mắc về Gioan như vậy là ông ngầm nói với Thầy mình rằng anh Gioan cũng mến Thầy và được Thầy yêu cách riêng, thì sao? Nghĩa là Thầy sẽ trao cho anh ta nhiệm vụ gì? Hay tại sao Thầy lại không trao trách nhiệm chăn dắt Hội thánh cho anh ta có phải hơn không? Đó cũng là thắc mắc của nhiều người khi đọc Tin Mừng Gioan, bởi vì xem ra Gioan xứng đáng hơn Phêrô, vì ông đã không chối Chúa.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu không trả lời thẳng vào thắc mắc của Phêrô mà lại nói khó hiểu hơn đối với Phêrô cũng như các môn đệ khác: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến anh”, rồi Chúa nói ngay: “Phần anh, hãy theo Thầy”.

3. “Nếu Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho đến khi Thầy đến...”.

Câu này là câu vừa trả lời vừa là câu hỏi rất khó hiểu. Thực ra, ý Chúa Giêsu không nói là Gioan sẽ sống mãi không chết, nhưng Chúa muốn Gioan “ở lại”. Phải hiểu chữ “ở lại” này theo nghĩa của Tin Mừng thứ tư: ở lại là tồn tại mãi trong tình yêu mến, trong sự thân thiết. Dù sau này Gioan sẽ chết đi nhưng Chúa Giêsu muốn hình mẫu của Gioan như một môn đệ trung thành đi theo Thầy, như một môn đệ thường suy gẫm về Thầy tiếp tục tôn tại mãi trong Giáo hội (Lm Carôlô).

4. “Chính người môn đệ này làm chứng về những điều đó”.

Nghĩa là vì Chúa muốn hình mẫu của Gioan còn tồn tại mãi trong Giáo hội  như một cách làm chứng, cho nên Gioan đã làm chứng bằng cách viết lại những cảm nghiệm, những suy gẫm của mình về Chúa Giêsu. Và Gioan còn cho biết: “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra”. Có lẽ không phải thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn viết ra. Không đủ chỗ chứa là đối với những cảm nghiệm và những suy gẫm rất sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy (Carôlô).

5. Trong lịch sử Giáo hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ  và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc âm và đem ánh sáng lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

6. Như vậy, trong mỗi thời đại, ở mỗi xã hội khác nhau luôn cần có những chứng nhân, trách nhiệm khác nhau. Thiên Chúa luôn cần đôi tay, trái tim, khả năng của chúng ta  để tiếp tục sự hiện diện và hành động của Ngài. Có người làm chứng bằng máu, có người bằng sự dấn thân đổ mồ hôi, có người làm chứng bằng nghĩa cử hy sinh phục vụ, có những chứng nhân trong âm thầm cầu nguyện.

Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên một trong số chứng nhân đó. Chúa đang cần sự đóng góp của chúng ta.

7. Truyện: Làm chứng cho Chúa.

Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích  hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc  đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.

Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi, nhất là để Suy niệm và viết cuốn Tin Mừng thứ tư và ba lá thư... Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô (Mỗi ngày một tin vui).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 10: Thánh Gioan tông đồ


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích

Tiếp bài nói chuyện bên bờ hồ về thân phận của Thánh Gioan “Người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến… cũng là người nằm sát ngực Chúa… Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến… chính môn đệ này đã làm chứng…”

B. Suy gẫm

1. Thánh Gioan tông đồ có nhiều nét đáng nêu gương cho chúng ta:

“Khi ấy Phêrô quay lại nhìn thấy người môn đệ mà Chúa Giêsu yếu mến đi theo sau.” Trong ngôn ngữ Tin Mừng “đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Ngay từ đầu Gioan đã đi theo Chúa Giêsu. Gioan còn tiếp tục đi theo Chúa Giêsu trên tất cả mọi nẻo đường Ngài đi, kể cả đường Thập Giá. Rồi khi Chúa Giêsu đã đặt Phêrô thay thế mình. Gioan lại tiếp tục đi theo Phêrô. Thánh Gioan chính là hình mẫu của Môn đệ trung thành.

2. “Ông là người đã nghiêng mình vào ngực Chúa Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi.” Gioan chẳng những là người trung thành đi theo, mà còn là người hiểu biết Chúa Giêsu nhiều nhất và sâu nhất, vì Gioan “nghiêng mình vào ngực Chúa,” vì Gioan “hỏi” nghĩa là thường suy gẫm về Chúa.

3. “Nếu Thầy muốn, anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến…” Ý Chúa Giêsu không nói là Gioan sẽ sống mãi không chết, nhưng Chúa muốn nói Gioan “ở lại.” Phải hiểu chữ “ở lại” này theo ý nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư: Ở lại là tồn tại mãi trong tình yêu mến, trong sự thân thiết. Dù sau này Gioan sẽ chết đi nhưng Chúa Giêsu muốn hình mẫu của Gioan như một môn đệ trung thành đi theo Thầy, như một môn đệ suy gẫm về Thầy tiếp tục tồn tại mãi trong Giáo Hội.

4. “Chính người môn đệ này làm chứng về những điều đó.” Nghĩa là vì Chúa muốn hình mẫu của Gioan còn tồn tại mãi trong Giáo Hội như một cách làm chứng, cho nên Gioan đã làm chứng bằng cách viết lại những cảm nghiệm, những suy gẫm của mình về Chúa Giêsu. Và Gioan còn cho biết “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra.” Có lẽ không phải cả thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn sẽ viết ra. Không đủ chỗ chứa là đối với những cảm nghiệm và những suy gẫm sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy.

Chúng ta hãy nói gương thánh Gioan trung thành “đi theo” Chúa Giêsu, biết “nghiêng mình vào ngực Chúa Giêsu,” biết “hỏi” Chúa Giêsu, để có như thế chúng ta mới có thể “làm chứng” về Ngài.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 11: Ơn gọi của Gioan


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Tin Mừng hôm nay đề cập đến ơn gọi của Gioan.

1. Khi Chúa nói với Phêrô “Phần ngươi hãy cứ theo ta” (Ga 21,22)… rõ ràng Chúa đã muốn cho Phêrô có một ơn gọi riêng. Ơn gọi của Phêrô không giống những người khác. Mỗi người đều được Chúa dành cho một ơn gọi. Nhìn lại Lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thường thấy Chúa làm như vậy. Ơn gọi của các Tổ phụ khác với ơn gọi của các tông đồ.

Với Abraham, Chúa gọi ông vào lúc tuổi đời ông đã già nua. Ông đã từ bỏ quê cha đất tổ, để theo Chúa (St 12,1-4). Abraham đã hoàn thành ơn gọi của mình.

Còn đối với Môisen, Chúa lại có cách hành xử khác. Chúa đã gọi ông từ giữa lòng sông Nil, rồi sau khi đã tôi luyện ông thành gang thép, Chúa đã trao cho ông một trọng trách phải thực hiện và Môisen đã hoàn thành sứ mạng đó.

Bây giờ, đến trường hợp của Phêrô. Phêrô đang sống yên hàn trong nghề chài lưới ở Capharnaum (Ga 1,44). Và Chúa gọi ông. Ông đã từ bỏ tất cả nghề nghiệp, gia đình chỉ vì tiếng gọi: “Hãy theo Ta” (Ga 11,35). Và Phêrô đã hoàn tất sứ mạng đó trên đỉnh đồi Vaticanô bằng một cái chết cũng đau đớn không kém gì Thầy mình. Và chính vì thế mà ông đã trở thành cột trụ của Giáo Hội.

2. Bây giờ đến lượt Gioan. Gioan cũng được gọi nhưng Chúa muốn Gioan sống ơn gọi của mình bằng con đường khác.

Trong nhóm 12, Gioan là một trong những người gần gũi Chúa nhất. Gioan đã đi theo Chúa trên tất cả mọi nẻo đường Ngài đi. Gioan là người đã nghiêng đầu mình vào ngực Chúa trong bữa ăn tối cuối cùng, điều đó chứng tỏ Gioan chẳng những là người trung thành đi theo, mà còn là người hiểu biết Chúa nhiều nhất và sâu xa nhất.

Khi Chúa nói “Nếu Thầy muốn, anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến…” (Ga 21,22) thì không có nghĩa Gioan sẽ sống mãi, nhưng Chúa muốn nói về cuộc sống của Gioan sau đó. Chúa muốn giữ Gioan ở lại lâu hơn các tông đồ khác để Gioan làm chứng. Đó là ơn gọi của Gioan. Gioan đã làm chứng không những bằng cuộc sống của mình mà còn bằng cả ngòi bút của mình nữa. Tin Mừng của Gioan đã giúp người ta hiểu về Chúa rõ hơn. Khi Gioan viết “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra” (Ga 21,25), điều đó không có nghĩa là cả thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn sẽ viết ra, nhưng là không đủ chỗ cho những cảm nghiệm và những suy gẫm sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy.

3. Phần chúng ta, chúng ta hãy noi gương Gioan trung thành “đi theo” Chúa, biết “nghiêng mình vào ngực Chúa”, biết “hỏi” Chúa, có thật nhiều cảm nghiệm về Chúa, để rồi có thể “làm chứng” về Chúa như Gioan đã làm thuở xưa.

Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước được trở ra mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu, nhàm chán nơi bàn giấy. Một ngày kia, sau khi nghe anh than phiền, tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.

Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Chết đau thương nhục nhã hay chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Các Tông đồ đều được phúc tử đạo, ngay cả Gioan - vị Tông đồ sống lâu nhất, tuy không trực tiếp chết như vị tử đạo, nhưng cũng đã bị cho vào vạc dầu sôi. Tất cả những cái chết ấy đều là lời chứng hùng hồn cho đức tin.

Lịch sử Giáo Hội sau thời các Tông đồ là những cuốn sách về những chứng từ như thế. Mỗi người một cách, người viết bằng máu, người bằng cuộc sống từ bỏ quên mình, người bằng những nghĩa cử hy sinh phục vụ, người bằng cuộc sống âm thầm trong đau khổ. Nói tóm lại, có hàng trăm nghìn những ngôn ngữ, trăm nghìn những thứ bút mực, đã được dùng để viết nên những chứng từ, nhiều đến nỗi, như lời tiên đoán của Gioan: “Tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách được viết ra” (Ga 21,25).

Còn hôm nay thì sao? Chúa Giêsu cũng vẫn cần những chứng nhân khác. Ngài cần đôi tay, bàn chân, môi miệng, trái tim chúng ta để tiếp tục hiện diện và hành động. Dòng thác Nirgara dù đổ xuống từng khối nếu không được ngăn lại sẽ không bao giờ biến thành nguồn thủy điện. Cả khối dầu hỏa Trung đông cũng không quay nổi một động cơ nếu không được con người khai thác sử dụng. Chúa Giêsu đang cần một chút đóng góp của chúng ta để sức nóng và ánh sáng Ngài được đạt tới mọi người.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 12: Chính thánh Gioan làm chứng và viết ra sự thật


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Tương lai con người chúng ta thuộc về Chúa. Chúng ta chẳng biết sống chết của mình như thế nào? Chỉ có Chúa biết mà thôi. Phần chúng ta, chúng ta nói như thánh Phaolô: “Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết là chêt cho Chúa: (Rm 14, 7 – 8). Vậy thời gian chúng ta sống trên trần gian này được bao lâu và rồi sẽ chết là thuộc về Chúa. Chúng ta hãy an tâm phó thác cuộc đời chúng ta cho Chúa. Nếu chúng ta có quan tâm đến số phận của anh chị em chúng ta, sự sống, sự chết của các người anh chị em chúng ta, chúng ta hãy cầu nguyện cho họ.

Thánh Phêrô được Chúa tạo điều kiện cho ngài bày tỏ lời tuyên xưng tình yêu của ngài với Chúa để chuộc lại lầm lỗi ba lần chối Chúa và sau đó là Chúa đã đón nhận tình yêu ấy, nên Chúa đã  trao đàn chiên của Chúa là Giáo Hội cho ngài phục vụ, chăm sóc, và cuối cùng sau đó, Chúa bảo ngài hãy theo Chúa, vì vậy,  ngài vui mừng, hạnh phúc, sung sướng vô cùng. Ngài được như thế rồi thì ngài lại nghĩ ngay đến các anh em tông đồ khác của ngài có được Chúa thương như ngài hay không? Ngài quan tâm đến số phận từng cá nhân người anh em tông đồ khác. Một cách cụ thể là ngài hỏi Chúa về tương lai của thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu cách đặc biệt và rất gần gũi với ngài trong lúc Chúa đi vào cuộc khổ nạn: “Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi: Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy? Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: Còn người này thì sao?: (Ga 21, 20 – 21). Ngài hỏi Chúa như vậy chẳng phải ngài là người hay tò mò, nhiều chuyện của người khác đâu! Ngài chỉ ước mong điều tốt các tông đồ khác mà thôi.

Trước câu hỏi của ngài với Chúa, Chúa đã trả lời với ngài rằng: “Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy. Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: Nó sẽ không chết, mà Người chỉ nói: Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con: (Ga 21, 22 – 23). Như vậy, số phận con người chúng ta là ở trong tay Chúa. Chúng ta cứ tin tưởng, cùng nhau, giúp nhau bước theo Chúa. Chúng ta quan tâm đến nhau thì chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, cầu xin Chúa luôn ban phát sự lành, sự thiện, sự tốt cho anh chị em của chúng ta.

Trong lúc chúng ta sống ở gian trần này để chờ đợi Chúa đến, chúng ta hãy thực hiện sứ mạng Chúa trao phó cho thật tốt, cho thật đàng hoàng, cho thật tử tế, đó là sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mc 16, 15), để làm cho danh Chúa được rạng rỡ vinh quang giữa muôn tạo vật: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra: (Ga 21, 24 – 25).

Lạy Chúa hằng sống, hằng có đời đời, Mùa Phục Sinh Chúa ban cho chúng con sắp hết rồi,  xin Chúa cho chúng con luôn hoan hỷ sống trọn mùa hồng ân này, và xin Chúa ban ơn để chúng con ăn ở theo thánh ý Chúa hầu làm sáng danh Chúa nơi môi trường chúng con sống. Amen.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây