--------------------------------- Người con có biệt tài khuyên nhủ. 11/06 – Thứ Tư tuần 10 thường niên –, tông đồ. Lễ nhớ. “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
* Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với các anh em.
Người đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. “Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. “Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu. Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ. Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35), như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a). Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ. Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc. Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1). Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu, và vẫn kéo dài trong Giáo Hội. Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn, đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu. Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ, chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên. Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ, “những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36). Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi, và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép. Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì. Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự. Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không: một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa. Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa. Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa, được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng. Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11). Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng, nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát. Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b). Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi, vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác. Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch, và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a). Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12). Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi, cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ. Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì? Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay? Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn. Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm. Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an. Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. -------------------------------
Sứ điệp: Nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu, người tông đồ phải dùng lời giảng và bằng chứng tá đời sống để loan báo Nước Trời đã đến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, con cám ơn Chúa đã chỉ dạy chân tình và cặn kẽ, cho con biết điều con phải rao giảng và cách con phải sống để làm chứng cho Tin Mừng.
Con nhận thật rằng con chẳng có khả năng gì đặc biệt. Con cảm thấy bất lực trước những đau khổ về thể xác và tâm linh của anh chị em quanh con. Con lại càng bất lực hơn nữa trước sức mạnh của sự dữ, sự ác nơi thế gian này. Nhưng lạy Chúa, con tin vào sức mạnh, vào quyền năng của Chúa. Xin Chúa dùng con như khí cụ tình thương của Chúa.
Giờ đây, con mới hiểu được vì sao mà Chúa muốn con sống đơn giản và siêu thoát. Đó là để con được nên giống Chúa, để con thấy được quyền năng Chúa biểu lộ nơi con. Đó cũng là để giải phóng con, cho con được tự do với thế trần mà thuộc trọn về Chúa, là người của Chúa, mang bình an đến cho muôn người.
Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho những lần con xao lãng nhiệm vụ, con đã để lòng quá lo lắng chuyện đời. Cũng không thiếu những lần con chùn bước trước những khó khăn của đời tông đồ.
Cậy vì lời cầu bầu của thánh Ba-na-ba, xin Chúa ban cho con lòng tín trung với Chúa, gắn bó với sứ mạng tông đồ. Xin cho đời con nên dấu chỉ cho mọi người nhận thấy Nước Chúa đang đến. Xin cho con được vào Nước Trời trong ngày sau hết của đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Ba-na-ba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv11,23). Ngài được sách công vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai
Ngài là một người Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lê-vi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết lúc nào ngài gia nhập Kitô giáo. Như Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba -nghĩa là con của sự an ủi- một người Lê-vi, người gốc Ky-prô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)
Ngài là người hướng dẫn Saolô mới trở lại đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng năm 42, đã tìm Saolô từ Tar-sô sang An-ti-ô-ki-a làm người cộng sự truyền giáo. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, cả hai đi Ky-prô và mạn nam Tiểu Á. Cả hai đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để đấu tranh cho việc người ngoại, một khi gia nhập Ki-tô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật. Sau đấy, có cuộc tranh cãi giữa hai người, chỉ vì Phao-lô không muốn đem theo Mác-cô, bà con của Ba-na-ba, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai. Ba-na-ba đã đem Mác-cô đi với mình đến Ky-prô (Cv 15,39)
Theo truyền thuyết sau này, Ba-na-ba bị ném đá chết tại Sa-la-mít (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: “chữa lành” người đau yếu.
- Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quãng đại: Hãy cho cách nhưng không vì trước đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
- Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó.
- Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ.
- Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần”: nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ…”: tông đồ là một con người chuyên làm lành: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau: lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là ðể Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất ðịnh giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng một huớng riêng. Chuyện bất ðồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan ðiểm của Banaba là hợp lý, ðó là ông ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
- Ngài ðã cứu chữa Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài ðã cứu chữa giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc luong dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng ðuợc thúc ðẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
7. Ðừng sắm vàng bạc hay tiến ðồng ðể giắt lung. Ði ðuờng ðừng mang bao bị, ðừng mặc hai áo, ðừng ði giày hay cầm gậy (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan ðã lên ðuờng. Họ tức khắc bỏ chài luới mà lên ðuờng. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh ðồng Galilê.
Quê huong con, bao thế hệ cũng ðã lên ðuờng. Họ kiếm tìm bình ðẳng, bác ái và tự do. Họ ðấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều nguời ðã bỏ mình vì Nuớc Chúa.
Còn con Con cần ðội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc ðẹp. Con muốn xỏ ðôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền nãng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Banaba là một nguời tốt lành, ðầy Thánh Thần và lòng tin (Cv 11,23). Ngài ðuợc sách Công Vụ nhận là Tông Ðồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Muời Hai
Ngài là một nguời Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lêvi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết ngài ðã gia nhập Kitô giáo lúc nào. Nhu Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi, ngài có lòng ðại ðộ: Giuse, nguời ðã ðuợc các Tông Ðồ ðặt tên là Banaba nghĩa là con của sự an ủi một nguời Lêvi, nguời gốc Kyprô, có một thửa ruộng, ông ðã bán ði và ðem bạc ðặt duới chân các Tông Ðồ (Cv 4,36-37)
Ngài là nguời huớng dẫn Saolô sau khi Saulô trở lại ðến gặp các vị Tông Ðồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng nãm 42, Barnaba ðã tìm ðến với Saolô ở Tarsô rồi cùng với Phaolô sang truyền giáo tại Antiôkia. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất này, cả hai ði Kyprô và mạn nam Tiểu Á. Chính các ngài ðã ði Giêrusalem dự Công Nghị Tông Ðồ ðể ðấu tranh cho việc những nguời dân ngoại, khi gia nhập Kitô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật cũ. Sau ðó xẩy ra một cuộc tranh cãi giữa hai nguời. Lý do là vì Phaolô không muốn ðem theo Marcô, bà con của Banaba ði theo mình trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai cho nên Banaba ðã ðem Marcô ði với mình ðến Kyprô (Cv 15,39).
Theo truyền thuyết, sau này Banaba bị ném ðá chết tại Salamít. (Lm Nguyễn vãn Trinh, Phụng vụ chu thánh)
II. CON ÐUỜNG NÊN THÁNH
Phaolô và Banaba ðều là những tông ðồ nhung cá tính và cách ðối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẻo. Bởi thế ðôi khi hai ông ðụng ðộ nhau:
Lần thứ nhất là về vấn ðề ãn chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội ðã có quyết ðịnh rằng luong dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ Do thái giáo, trong ðó có tục lệ phân biệt những món ãn nào sạch những món ãn nào do. Bởi ðó các tông ðồ ðều hòa ðồng với luong dân, ãn chung bàn với họ. Nhung một lần kia vì sự có mặt của những nguời Do thái nên và vì muốn tránh không muốn gây khó chịu cho họ, nên thánh Banaba và cả thánh Phêrô ðã tránh ngồi chung bàn ãn với những nguời luong tòng giáo. Lần ðó Phaolô ðã nổi giận ðứng lên công khai trách hai nguời nặng lời. Sách thánh không viết gì về phản ứng nguợc lại của hai vị, tức là hai vị ðã nhịn. Chúng ta nên ðể ý: Lúc ðó Phêrô vị lãnh ðạo Giáo Hội, và Banaba nguời ðỡ ðầu cho Phaolô. Phaolô chỉ là một nguời ðến sau, một nguời cấp duới. Là một nguời ðến sau và nguời cấp duới vậy mà hôm nay Phaolô dám công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng của mình truớc mặt cả nguời Do thái lẫn nguời luong mới tòng giáo. Vậy mà hai Phêrô và Barnaba vẫn nhịn. Ðây phải nói là một tấm guong hết sức sống ðộng về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.
Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc có liên quan ðến Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô rất giận. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô ði theo, có ý là ðể cho Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần vì Banaba thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên nhất ðịnh giữ anh này lại. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng mỗi nguời một huớng. Thật không dè rằng chuyện bất ðồng này lại ðua ðến kết quả tốt. Ðó là việc truyền giáo càng ngày càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Và thêm một kết quả nữa cũng hết sức tốt ðẹp. Nó ðã chứng minh cho quan ðiểm của Banaba là hợp lý. Ðó là Barnaba ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, không những ðã giúp Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành mà sau này còn là tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Tóm lại chúng ta thấy mỗi nguời chúng ta khi sinh ra ðã mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
Ngài ðã cứu giúp Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh cho Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác với nhau một cách vui vẻ.
Ngài ðã cứu giúp giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những ðã hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ lên ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác với nhau.
Ngài cũng ðã hỗ trợ chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trợ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
Cùng với Phaolô, Ngài bênh vực cho các tín hữu gốc luong dân trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc Do thái và Kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
Ngay cả khi có những ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng luôn giữ ðuợc bầu khí huynh ðệ vì việc làm của ngài phát xuất bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: Thí dụ nhu trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây cớ vấp phạm cho các tín hữu gốc Do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có ðuợc tâm hồn giống nhu tâm hồn của thánh Barnaba: Luôn biết ðấu tranh cho lẽ phải nhung với một tấm lòng bao dung và nhất là chỉ vì yêu mến Chúa.
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng ði giảng với ngài. Hai thầy trò cùng ði các ðuờng phố Assisi, cách nghiêm trang, suy tuởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh: Thua cha, giảng ở ðâu ạ?
Cha thánh trả lời: Giảng là ðem Chúa ðến bằng guong sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Suy niệm
Lời Thầy không luôn vang mãi mọi thời ðại vì nhu cầu của cánh ðồng truyền giáo thế giới luôn mang tính cấp bách: Các con hãy ra ði .
Ra ði chứ không phải ở lại, ra ði thoát khỏi cái tôi ích kỷ, chỉ quanh quẩn cho chính mình, nhung cất buớc lo cho sứ mạng gieo giống Tin Mừng, làm việc trên cánh ðồng truyền giáo.
Ra ði và nói lớn cho thế giới: Triều Ðại Thiên Chúa ðã ðến gần các ông, ðó là nuớc tình yêu và ân sủng, nuớc công chính và bình an. Cho nên, phải chuẩn bị bằng tâm tình sám hối, nhu Gioan Tẩy giả loan báo (x. Mt 3,3), nhu chính Thầy cũng loan báo (x. Mt 4,12-17; Mc 1,14-15; Lc 4,14-15). Lo việc Nuớc Trời và công chính truớc tiên (x. Mt 6,33).
Ra ði và Hãy chữa những nguời ðau yếu trong thành, môn ðệ nhu thầy chí thánh quan tâm chia sẻ ðến nguời ðau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi nguời. Thật thế, nguời môn ðệ của Chúa luôn quan tâm ðến những nhu cầu ðuợc chữa lành, chia sẻ cho anh em ðồng loại nhu sau này Phaolô ðã cảm nghiệm và chia sẻ: Vui với nguời vui, khóc với nguời khóc (Rm 12,15). Và tại Cửa Ðẹp Ðền thờ, thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và ðã nói với nguời hành khất: Vàng bạc thì tôi không có; nhung cái tôi có, tôi cho anh ðây: nhân danh Ðức Giêsu Kitô nguời Nadarét, anh ðứng dậy mà ði! anh trở nên cứng cáp (Cv 3,6-7).
Ra ði ðừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, nhung tín thác hoàn toàn vào Thầy, sống nghèo khó, thanh thoát truớc các phuong tiện của con nguời... và không lo lắng thái quá về vật chất, nhung luôn chú tâm vào sứ mạng ðuợc sai.
Ra ði và khi vào bất cứ nhà nào, truớc tiên hãy nói: Bình an cho nhà này!. Những nguời mang sứ mạng Tin Mừng luôn mang và quan tâm tới sự an bình và chuyển giao bình an Tin Mừng mà mình sở hữu trong tu cách sứ giả Tin Mừng cho gia ðình, cộng ðồng và những con nguời mà mình gặp. Sự bình an sẽ chiến thắng lo âu, sợ sệt sinh niềm vui tâm hồn Sự bình an nhu ngôn sứ Isaia loan báo bằng hình ảnh: Này Ta tuôn ðổ xuống Thành Ðô on thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chu dân chảy về tràn lan nhu thác vỡ bờ (Is 66,12)
Lời mời gọi ra ði làm việc trên cánh ðồng truyền giáo của Chúa xa xua cũng là lời mời gọi dành cho mỗi nguời chúng ta trong cộng ðoàn tín hữu. Công ðồng Vaticanô II khẳng ðịnh: Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông ðồ. Là một nguời Do Thái sinh truởng tại ðảo Sýp vào khởi ðầu của ðạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem truớc khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân ðuợc các thánh tông ðồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là nguời con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô ðến Giêrusalem, nhung cộng ðoàn tín hữu tại ðây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là nguời ðứng ra bảo ðảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông ðồ, nhung sau ðó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều nãm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông ðồ sai Barnaba ðến Antiokia ðể ðiều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba ðã nhận ra ngay on Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do ðể nối kết hai nguời lại với nhau trong cánh ðồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một nãm. Một trận ðói lớn ðã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô ðã quyên góp ðể mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một nguời bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tuong lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên ðuờng ði ðến ðảo Sýp, quê huong của Barnaba và từ ðó sang Tiểu Á. Tại một trạm ðầu tiên ở Tiểu Á, Marcô ðã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt ðầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một buớc ði là mỗi một lần bị chống ðối và bách hại từ phía những nguời Do Thái. Những nguời này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông ðồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một nguời tàn tật, dân thành xem các ngài nhu những vị thần. Họ ðịnh giết bò ðể tế cho các ngài nhung liền sau ðó bị nguời Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thuong tích. Dù bị chống ðối và bách hại, hai vị tông ðồ vẫn hoán cải ðuợc nhiều nguời cũng nhu tổ chức ðuợc giáo ðoàn. Bị nguời Do Thái và dân ngoại chống ðối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khãn ngay cả từ phía cộng ðoàn Giêrusalem. Vấn ðề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này ðã tranh ðấu và cuối cùng ðã tìm ðuợc giải pháp trong cộng ðoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến ði trở lại ðể viếng thãm các cộng ðoàn, Barnaba và Phaolô ðã chia tay nhau mỗi nguời một ngả. Barnaba ði với Marcô ðến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một nguời môn ðệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những nãm tháng còn lại của Barnaba không còn ðuợc nhắc ðến nữa. Nhung cũng nhu thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô ðã trở thành môn ðệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục ðầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào ði nữa, tất cả mọi truyền thuyết ðều gặp nhau trong cùng một ðiểm là xem Barnaba nhu con nguời ðuợc mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô ðầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con nguời tốt, ðầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái ðộ của ngài ðối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và ðại luợng.
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, ðóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta ðuợc biết ngài là nguời Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông ðồ ðã ðặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông ðồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một nguời trong nhóm Muời Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài nhu vị tông ðồ vì ngài ðuợc lãnh nhận nhiệm vụ ðặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những ðóng góp quan trọng của Barnabas là ngài ðã ðảm bảo cho Saolô, một nguời mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt ðạo của Saolô. Sau ðó, Barnabas ðuợc sai ði rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas ðã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) ðến tiếp tay; cả hai ðã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà lần ðầu tiên các môn ðệ ðuợc gọi là Kitô Hữu.
Chính trong cộng ðoàn siêng nãng cầu nguyện này mà Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô ðể lo cho công việc mà Ta ðã kêu gọi hai nguời ấy. Sau ðó họ ãn chay cầu nguyện, rồi ðặt tay trên hai ông và tiễn ði. Do ðó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến ði truyền giáo ðầu tiên thực sự ở nuớc ngoài, truớc hết ðến Cyprus (là noi họ hoán cải một quan ðầu tỉnh nguời Rôma) và sau ðó ðến lục ðịa Tiểu Á. Lúc ðầu các ngài rao giảng cho nguời Do Thái, nhung bị chống ðối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và ðã thành công lớn. Trong một thành phố, nguời Hy Lạp quá mến mộ các ngài ðến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô nhu các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngãn cản ðuợc ðám ðông hiếu khách ấy ðừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn ðề là nguời tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas ðã chống ðối tập tục này và lập truờng của các ngài ðã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự ðịnh tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhung ngay tối truớc khi khởi hành, một bất ðồng xảy ra là có nên ðem theo một môn ðệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn ðề này mà hai tông ðồ tách làm ðôi. Phaolô ðem Silas ði Syria, còn Barnabas ðem Máccô ðến Cyprus. Sau này, ba nguời: Phaolô, Barnabas và Máccô ðã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, duờng nhu Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, ðã trở về Cyprus. Ở ðây, theo truyền thuyết, ngài ðã chịu tử ðạo vào nãm 61.
Lời Bàn
Thánh Barnabas ðuợc ðề cập nhu một nguời tận hiến cuộc ðời cho Thiên Chúa. Ngài là nguời ðầy tràn Thánh Thần và ðức tin. Do ðó ðã lôi cuốn một số ðông nguời về với Chúa. Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách ðối xử của nguời ðuợc sai ði giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: chữa lành nguời ðau yếu. - Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quảng ðại: Hãy cho cách nhung không, vì truớc ðó ta ðã lãnh nhận cách nhung không.
- Ðừng quá bận tâm ðến những phuong tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ ðó. - Cũng ðừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ. - Phải ðem bình an ðến cho những nguời mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. Các con hãy rao giảng rằng Nuớc Trời ðã ðến gần: nhiều nguời không tin có Thiên Chúa, nhiều nguời nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho nguời ta tin rằng Thiên Chúa và Nuớc Trời ðang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Chữa lành các bệnh nhân , làm cho kẻ chết sống lại , làm cho những nguời cùi ðuợc sạch trừ quỷ : tông ðồ là một con nguời chuyên làm lành: xoa dịu những ðau khổ, ðem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp ðỡ những nguời bị xã hội khinh chê, giải thoát nguời ta khỏi tội lỗi
3. Các con ðã lãnh nhận nhung không thì hãy cho nhung không: Làm tông ðồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi ðã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho ði.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tuớc ðến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 ðồng vàng ðể ngài giúp những nguời nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một nguời ãn xin ðến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa ðộng lòng thuong, lấy cả số tiền 25 ðồng vàng ðem cho nguời ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tuớc ðích thân ðến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì ðã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông ðua tặng thêm 150 ðồng vàng nữa ngoài số 25 ðồng mà ông xin hoàn lại. Từ ðó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, luong thực và quần áo ðể thánh nhân giúp ðỡ những nguời nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba ðều là những tông ðồ nhung cá tính và cách ðối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế ðôi khi hai ông ðụng ðộ nhau: lần thứ nhất là về vấn ðề ãn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội ðã có quyết ðịnh rằng luong dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong ðó có tục lệ phân biệt những món ãn nào sạch những món ãn nào do. Bởi ðó các tông ðồ ðều hòa ðồng với luong dân, ãn chung bàn với họ. Nhung một lần kia vì có mặt những nguời do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô ðã tránh ngồi chung bàn ãn với những nguời luong tòng giáo. Lần ðó Phaolô ðã nổi giận ðứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhung sách thánh không viết gì về phản ứng nguợc lại của hai vị, tức là hai vị ðã nhịn. Phêrô vị lãnh ðạo Giáo Hội, Banaba nguời ðỡ ðầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ ðến sau, một nguời cấp duới. Thế mà hôm nay nguời ðến sau và nguời cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần ðụng ðộ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba ðã cho Marcô nhập ðoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô ðã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Ðến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là ðể Marcô ðoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất ðịnh giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô ðành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một ðoàn truyền giáo riêng ði giảng một huớng riêng. Chuyện bất ðồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng ðuợc ðẩy mạnh hon. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan ðiểm của Banaba là hợp lý, ðó là ông ðã thực sự cứu chữa ðuợc Marcô, Marcô trở thành một tông ðồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Ðoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu cãn dặn các tông ðồ truớc khi sai các ông ði rao giảng Tin Mừng. Trong ðó lời dặn ðầu tiên là Anh em hãy chữa lành và lời dặn cuối cùng là Ðến ðâu anh em hãy mang bình an tới ðó. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai ðiều này, Thánh Banaba ðã thực hiện rõ nhất hai lời cãn dặn này của Chúa:
- Ngài ðã cứu chữa Phaolô khi ðứng ra bảo lãnh Phaolô truớc mặt các tông ðồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài ðã cứu chữa giáo ðoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải ðuợc mối e ngại của Giêrusalem ðối với những hoạt ðộng truyền giáo của giáo ðoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi duỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ ðối với giáo ðoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo ðoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo ðoàn mẹ Giêrusalem, ðem ðồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc luong dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc luong dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi ðụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng ðuợc thúc ðẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ãn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ ðã lỡ một lần lỗi phạm.
7. Ðừng sắm vàng bạc hay tiến ðồng ðể giắt lung. Ði ðuờng ðừng mang bao bị, ðừng mặc hai áo, ðừng ði giày hay cầm gậy (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan ðã lên ðuờng. Họ tức khắc bỏ chài luới mà lên ðuờng. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh ðồng Galilê.
Quê huong con, bao thế hệ cũng ðã lên ðuờng. Họ kiếm tìm bình ðẳng, bác ái và tự do. Họ ðấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều nguời ðã bỏ mình vì Nuớc Chúa.
Còn con Con cần ðội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc ðẹp. Con muốn xỏ ðôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền nãng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên ðuờng, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Dù không phải là một trong số muời hai tông ðồ ðuợc Ðức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhung thánh Barnaba ðuợc thánh ký Luca gọi là tông ðồ trong sách Tông ðồ Công vụ của ngài. Vì nhu tông ðồ Phaolô, Barnaba cũng nhận ðuợc từ Thiên Chúa một sứ vụ ðặc biệt. Thánh nhân là nguời gốc Dothái, sinh tại ðảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhung các tông ðồ ðổi thành Barnaba. Danh xung này có nghĩa là con của sự an ủi.
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba ðã bán tất cả những gì ngài có và ðem tiền dâng cho các tông ðồ. Thánh nhân là nguời tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hãng say tin yêu Ðức Chúa Giêsu. Barnaba ðuợc sai ðến thành Antiôkia ðể rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong ðế quốc Rôma thời ấy. Tại ðây, những nguời tin theo Ðức Chúa Giêsu lần ðầu tiên ðuợc gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp ðỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô ðã thực sự ðuợc on trở lại. Chính Barnaba ðã ðứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng ðoàn Kitô hữu; và ðã xin cho Phaolô ðến làm việc với mình. Barnaba là nguời khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ nãng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất ðặc biệt và ngài muốn thánh nhân có co hội ðể trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh ðã chọn Phaolô và Barnaba ðể thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau ðó không lâu, hai vị tông ðồ ðã lên ðuờng thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài ðã phải chịu nhiều ðau khổ và thuờng hay gặp nguy hiểm ðến tính mạng. Nhung giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài ðã thuyết phục ðuợc nhiều nguời trở về với Ðức Chúa Giêsu và Giáo hội của Nguời.
Sau ðó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, nguời bà con với ngài. Họ ði về Cyprô, quê huong của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều nguời ðã trở nên Kitô hữu ðến nỗi Barnaba ðuợc gọi là tông ðồ của ðảo Cyprô. Theo ý kiến chung, nguời ta cho rằng vị ðại thánh này ðã bị ném ðá chết vào nãm 61.
Thánh Barnaba ðã nhận một danh xung biểu hiệu ðúng con nguời của ngài: một nguời tốt luôn luôn khuyến khích nguời khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng ðuợc trở nên những nguời con của sự an ủi nhu thánh nhân.
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một nguời trong nhóm muời hai tông ðồ ðầu tiên của Chúa Giêsu, nhung thánh Luca coi ngài nhu vị tông ðồ, vì ngài ðuợc lãnh nhận nhiệm vụ ðặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là nguời gốc Do Thái, sinh tại ðảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhung các tông ðồ ðổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông ðồ cai quản. Danh xung này có nghĩa là nguời con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài ðóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Ðồng thời, chính ngài là nguời ðã ðứng ra ðảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô truớc mặt cộng ðoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại ðạo. Sau ðó, Barnaba ðuợc sai ði rao giảng ở Antiôkia ðể rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba ðã xin Phaolô ðến giúp sức cho mình. Cả hai ðã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại noi ðây. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà "lần ðầu tiên các môn ðệ ðuợc gọi là Kitô hữu".
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần ðã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô ðể thực hiện một sứ vụ quan trọng, ðó là ðem Tin Mừng ðến cho dân ngoại. Do ðó, hai ông ðã khởi hành chuyến ði truyền giáo ðầu tiên ở nuớc ngoài, truớc hết là ðến Síp và sau ðó là ðến lục ðịa Tiểu Á. Lúc ðầu các ngài rao giảng cho nguời Do Thái, nhung bị chống ðối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và ðã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn ðề là nguời tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba ðã chống ðối tập tục này và lập truờng của các ngài ðã ðuợc Công ðồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những nguời ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự ðịnh tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhung ngay tối truớc khi khởi hành, một bất ðồng xảy ra là có nên ðem theo một môn ðệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tuong lai. Vì vấn ðề này mà hai tông ðồ tách làm ðôi. Phaolô ðem Silas ði Syria, còn Barnaba ðem Máccô ðến ðảo Síp. Sau này cả ba nguời là Phaolô, Barnaba và Máccô ðã làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhung theo truyền thuyết thì thánh Barnaba ðã ðuợc phúc tử ðạo tại Síp vào nãm 61. Ðồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại ðảo Síp. Bên cạnh ðó, nguời ta nói rằng mộ Ngài ðuợc tìm thấy nãm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba ðã chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu guong về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nuớc Thiên Chúa, và là mẫu guong về một ðời sống khiêm nhuờng, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi nguời chúng ta, ðể trong ðời sống thuờng ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa ðến cho mọi nguời.
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chuong ðầu của sách Công Vụ Tông Ðồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một nguời Do Thái ðuợc sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo Hội so khai ở Giêrusalem. Chính ở ðịa vị này mà khoảng nãm 39 tân tòng Saolê ðuợc ðón nhận vào cộng ðoàn các tông ðồ (Cv 9-27). Bốn nãm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác huớng dẫn cộng ðoàn Kitô giáo mới ðuợc thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và ðã trở nên trung tâm Kitô giáo của luong dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài ðuợc trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo Hội Giêrusalem (Cv 27-30). Noi ðây hai nguời lại ðuợc Gioan Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba nguời họp thành ðoàn truyền giáo, lên ðuờng khoảng nãm 45 (Cv 13 và 14). Từ ðây Barnaba dần dần ẩn mặt ði. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhung chính Saolê duới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc Âm. Phaolô và ðoàn tùy tùng lên ðuờng tới lục ðịa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba ðuợc coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Ðây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tuong của hai ông. Ba nãm sau Phaolô trở về và ðuợc cộng ðồng Giêrusalem phê chuẩn về ðuờng lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Nãm sau, dự ðịnh hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn ðồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô ðã ðuợc hoàn thành và tên Ngài không còn ðuợc nhắc ðến trong sách Công Vụ nữa. Trong việc trao ðổi thu từ của Phaolô với Giáo Hội Côrintô cho thấy khoảng nãm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu nãm sau Phaolô xin Marcô ðến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba ðã qua ðời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống ðáng tin hon cho biết Ngài chết vì ném ðá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thu Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhung những tài liệu này không cho biết nhiều hon những ðiều ðã biết ðuợc từ sách Công Vụ các tông ðồ. cuốn gọi là tho thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào tho mục Thánh Kinh, nay nguời ta biết ðuợc là tác phẩm của một nguời Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Nguời ta nói rằng mộ Ngài ðuợc tìm thấy nãm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài ðã chép tay.
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại nguời Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhung các Tông Ðồ ðã ðổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là nguời có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn ðể trở thành thành viên của nhóm Muời Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên ðuợc ðề cử ðể thế chỗ cho Giu-ða Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Ðồ tổ chức rút thãm thì Ngài ðã không trúng, nhung thánh Mát-thi-a ðã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng ðoàn Giáo hội so khai, Thánh Nhân ðã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vuờn của mình ði, lấy tiền ðem ðặt duới chân các Tông Ðồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là nguời có tài khuyên bảo, ðầy Thánh Thần và Ðức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là nguời bảo lãnh ðể Cộng ðoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem ðón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Ðồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì ðuợc các Tông Ðồ cử ðến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba ðã trẩy ði Tác-xô ðể tìm Thánh Phao-lô. Sau ðó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt ðộng truyền giáo tại ðó trong suốt một nãm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng ðồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo ðầu tiên tới ðảo Sýp, cũng nhu tới vùng Tiểu Á. Cả hai ðã cùng tham dự Công Ðồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Ðồng này, các Tông Ðồ ðã thống nhất quyết ðịnh sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở noi nguời Do-thái lẫn noi nguời gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi ðã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan ðến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo ðối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, nguời em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Ðồ ðã chia tay nhau. Sau ðó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô ðã ðến thãm các Cộng Ðoàn tại ðảo Sýp, quê huong của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba ðã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, ðể ðặt lên ðầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn ðến truyền giáo tại Rô-ma, và ðã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này nguời tân tòng ấy ðã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Ðức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài ðến Mi-lan, và ðuợc coi là Giám mục tiên khởi của Giáo ðoàn này. Nhung theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba ðã trở lại ðảo Sýp, và tại ðó, Ngài ðã ðuợc phúc Tử Ðạo thông qua việc bị ném ðá ðến chết.
Một số chuyên gia ðã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thu mang tên của Ngài, nhung nó ðuợc coi là mạo danh, và cũng ðuợc xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thu. Bức thu này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài nhu là sự tuong ứng và hài hòa với Cựu Uớc; trong thời Giáo hội cổ ðại, bức thu này ðôi khi ðuợc coi nhu thành phần của quy ðiển Tân Uớc. Thực tế thì bức thu ðó ðã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào nãm 130, và với cách giải thích Cựu Uớc có tính bài Do-thái của mình, nên bức thu này không ðuợc công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhung tiếc rằng nó ðã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhung mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới ðuợc biên soạn. Theo một truyền thống truớc ðây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba ðuợc coi là tác giả của Thu gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống ðã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn ðệ do ðích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tuong truyền về việc Thánh Bác-na-ba ðuợc huởng phúc Tử Ðạo tại ðảo Sýp xem ra ðáng tin cậy hon. Theo ðó, Ngài ðã ðuợc phúc Tử Ðạo vào khoảng nãm 63 duới thời hoàng ðế Nero, và ðuợc an táng tại ðó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Ðông ðảo Sýp). Một ngôi Thánh Ðuờng của Giáo hội Sýp ðã ðuợc kiến thiết trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh ðạo của Giáo hội Sýp với Ðức Thuợng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính ðộc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Ðồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ ðã ðua ra quyết ðịnh nghiêng về Giáo hội Sýp, nhung Antiochia ðã thu hồi quyết ðịnh ðó.
Theo tuong truyền, vào nãm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba ðã hiện ra với Ðức Tổng Giám Mục Anthemios của ðảo Sýp, và ðã chỉ cho Ðức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau ðó, thi hài của Thánh Nhân ðã ðuợc tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, nguời ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua ðời, nguời bạn ðuờng của Ngài là Thánh Mác-cô, ðã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có ðặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Ðức Tổng Giám mục Anthemios ðã cấp tốc báo cho triều ðình hoàng ðế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua ðó vị Giám mục của Giáo hội Sýp ðã thuyết phục ðuợc nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp ðuợc thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hon Giáo hội Antiochia, và vì thế ðuợc coi là ngang hàng với Giáo hội ðó. Một nguồn suối ðã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này ðuợc cho là có khả nãng chữa lành cũng nhu có khả nãng kỳ diệu, ðặc biệt là ðối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào nãm 1953, một nhà nguyện mới ðã ðuợc kiến thiết ngay trên phần mộ ðuợc cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba ðã ðuợc tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nuớc Ý, và tại một số noi khác nhu Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Ðức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).