Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông. Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến. Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên. Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".
Cha mẹ thường phải chịu đau khổ vì con. Đức Giêsu đã từng đối diện với sự bối rối của ông trưởng hội đường khi cô con gái mười hai tuổi của ông gần chết (Mc 5, 22-23). Ngài cũng đối diện với sự kiên trì của người phụ nữ dân ngoại khi bà xin Ngài chữa cho cô con gái của bà bị quỷ ám ở nhà (Mc 7, 25). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đứng trước nỗi đau của một người cha có đứa con trai nhỏ mang triệu chứng của bệnh động kinh. Nhưng đối với ông, hẳn con ông là người bị quỷ ám. Ông đã đem cậu con đến với Đức Giêsu, tiếc thay lại không gặp (c. 17). Bởi vậy ông đã xin các môn đệ của ngài đuổi quỷ dùm. Tiếc thay họ không làm được (c. 18). Bây giờ gặp được Ngài, ông tha hồ kể về bệnh tình của con ông. Mỗi lần quỷ nhập - hay mỗi lần lên cơn động kinh - con ông bị vật xuống đất, sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ (c.18). Nhiều khi quỷ còn xô cậu bé vào nước hay lửa cho chết (c. 22). Vì chuyện buồn này diễn ra từ hồi cậu còn nhỏ, nên người cha hẳn đã đau khổ triền miên và căng thẳng từ nhiều năm qua. Ông gặp Đức Giêsu chỉ mong Ngài giải phóng con mình khỏi quỷ. “Xin chạnh lòng thương mà giúp chúng tôi.” Rõ ràng nhiều người khác trong gia đình ông cũng phải chịu đau khổ. “Nếu Thầy có thể làm được gì”, câu này cho thấy ông tin không mạnh lắm. Vì thế Đức Giêsu đã bắt bẻ câu nói của ông. “Mọi sự đều có thể đối với người tin” (c. 23). Đức Giêsu buồn vì phải ở với và chịu đựng một thế hệ cứng lòng tin (c. 19). Các môn đệ không đuổi được quỷ vì họ chưa đủ đức tin. Người cha muốn con mình được khỏi, ông cũng cần có thêm đức tin. Thái độ nửa tin, nửa ngờ cũng là thái độ của thế hệ chúng ta. Đức tin là lời đáp trả của con người, nhưng đức tin cũng là ơn ban của Thiên Chúa. Có lúc chúng ta cũng kêu lên như người cha đang chới với: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!”(c. 24). Chúa có khả năng nâng đỡ đức tin của ta trong lúc khủng hoảng. Có lúc chúng ta thấy không thắng nổi sức mạnh của xác thịt, của quỷ ma. Và như các môn đệ, chúng ta tự hỏi tại sao (c. 28). “Giống quỷ ấy chỉ trừ được bằng cầu nguyện” (c. 29). Cầu nguyện là xin Đức Giêsu thêm sức mạnh và thêm lòng tin cho ta. Cầu nguyện:
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong... Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.
Chỉ có một sự khôn ngoan đích thực. Đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là chính sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan cao vượt đất trời, thống trị vũ trụ muôn loài. “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời…Trời cao đất rộng vực sâu và sự khôn ngoan, ai dò cho thấu?...Chỉ có một Đấng Khôn Ngoan rất đáng sợ, ngự trên ngai của Người. Đó chính là Đức Chúa”. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ban sự sống. “Người rộng ban khôn ngoan cho những ai yêu mến Người” (năm lẻ)
Thánh Gia-cô-bê cho biết sự khôn ngoan đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Và làm những điều tốt đẹp. “Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng: những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan”. Trái lại sự khôn ngoan phát xuất từ thế gian thì làm những việc xấu xa. Gây ra chia rẽ, bất hoà. “Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối, trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ”. Sự khôn ngoan của ma quỷ đưa đến ghen ghét. Ghen ghét dẫn đến chết chóc. Còn sự khôn ngoan từ Thiên Chúa là yêu thương. Dẫn đến sự sống (năm chẵn).
Ma quỷ luôn luôn muốn dùng sự khôn ngoan đen tối ác độc để khống chế con người. Muốn thống trị thế giới. Bằng sự sợ hãi. Bằng nô lệ. Bằng bệnh tật. Bằng cái chết. Ma quỷ luôn muốn giết chết con người. “Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết”. Con người không sao thoát ra khỏi thế lực của ma quỷ. Nói gì đến kháng cự. “Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi”. Vâng sức con người không thể chống lại ma quỷ. Phải có sức mạnh của Thiên Chúa. Muốn có sức mạnh của Thiên Chúa cần hai điều kiện. Người bệnh cần có lòng tin “Mọi sự đều có thể dối với người tin”. Người trừ quỷ cần cầu nguyện. “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”. Tin để Chúa hành động. Và cầu nguyện để có sức mạnh của Chúa. Chỉ khi sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến mới đẩy lui được sự khôn ngoan của ma quỷ.
Có một người suốt đời chỉ biết chăm lo cho mình, vì thế tuy là người giàu có nhưng anh cũng là người keo kiệt nhất. Ngày nọ, sau khi dự đám tang của người thân trở về, anh quyết định đổi mới cuộc sống. Ít lâu sau đó, một người láng giềng bị cháy sạch nhà cửa, đây là cơ hội tốt để anh học biết cho đi. Thế nhưng, khi đứng trước kho lẫm, có tiếng nói thầm vào tai anh: "Hãy cho ít thôi". Một lần nữa anh phải chiến đấu với tính keo kiệt của mình, nhưng lòng quảng đại trong anh đã chiến thắng. Dù vậy, khi người láng giềng cám ơn và ra về, lòng anh vẫn còn vọng lại dư âm như muốn chế nhạo anh: "Chỉ có người điên mới làm như vậy, người láng giềng cũng có đôi tay để làm việc, tội gì phải cho đi như thế, lúc ốm đau thì lấy đâu lo cho thân mình".
Ngày nay, vẫn còn có nhiều người lưu tâm đến việc thờ ma quỷ, không những trên báo chí, phim ảnh, mà còn cả phong trào tôn thờ ma quỷ nữa. Ðiều này dễ làm con người lầm tưởng rằng ma quỷ ở đâu đâu hoặc ở trong một số người nào đó. Kỳ thực, không có những hiện tượng bên ngoài, như bị vật ngã, xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ thân thể, mà Tin Mừng hôm nay ghi lại, nhưng thực tế con người cũng bị ma quỷ ám ảnh tâm trí một cách nào đó. Những quỷ kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, mê ăn uống... không hiện nguyên hình, nhưng ngụy trang thành những bộ mặt đáng yêu để quyến rũ con người: với những lý luận đủ sức thuyết phục con người, như: thu tích tiền của có gì là xấu, có tiền củ tại sao tôi không hưởng thụ. Những ý tưởng đó dần dà chiếm hữu con người hoàn toàn, khiến họ bịt tai nhắm mắt trước những khốn khổ của người khác.
Thật không dễ gì trị được hiện tượng quỷ ám này, nếu không thực hiện Lời Chúa dạy là ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay để nâng con người lên khỏi sức nặng của thân xác và của cám dỗ vật chất; cầu nguyện để đón nhận sức mạnh chiến thắng của Chúa Kitô, Ðấng đã đánh bại được quyền lực của Satan. Cầu nguyện là để cho con người cũ của chúng ta chết đi và để cho Chúa Giêsu mỗi ngày một lớn lên trong chúng ta.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thêm ý thức về thân phận tội lỗi, yếu hèn của chúng ta, và trong mọi sự, chúng ta biết hướng nhìn lên Chúa là sức mạnh, là lẽ sống duy nhất của chúng ta.
Bất cứ ở đâu, hể quỷ nhập vào là vật cháu xuống; Cháu xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi. Người đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng, không có lòng tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi.” (Mc. 9, 18-19)
Đang lúc Chúa Giêsu và ba tông đồ còn ở trên núi, thì các môn đệ đã được Chúa sai đi truyền giáo gặp một trở ngại lớn. Đó là chuyện một đứa trẻ bị quỷ ám, quỷ thường hành hạ, xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho chết. Cha đứa bé đã đưa nó đến cho các môn đệ, nhưng các ông này không thể thắng được tên quỷ kia. Bệnh tật khốn khổ của đứa bé, có lẽ là chứng động kinh, đã lôi kéo đám đông và các kính sư, họ bắt đầu tranh luận với các môn đệ. Chắc hẳn mấy ông kinh sư nọ phải vui sướng vì sự thất bại này và phải hỏi các môn đệ ấy xem liệu Ông Thầy của họ sẽ đuổi được tên quỷ này không. Câu truyện tới đây thì Chúa Giêsu xuất hiện và thu hút mọi người. Cha đứa nhỏ len lỏi đến được với Chúa Giêsu và trình bày cho Người hay tình cảnh. Sau khi đã thử lòng tin của ông, Chúa Giêsu chữa cho con trai ông ta được lành. Phép lạ này đặt sức mạnh của Thầy đối chọi với sự yếu kém, bất lực của các môn đệ. Đức Giêsu mặc dầu đang tiến đến cái chết, như Người đã loan báo, thì Người vẫn cứ thảnh thơi hành động nhờ vào tính toàn năng của Thiên Chúa.
Mặt dưới của sự thất bại
Sự các môn đệ thất bại không trừ được quỷ cho Chúa Giêsu cơ hội giáo huấn về lòng tin và sự cầu nguyện, cả hai đều là nền tảng của việc truyền giáo cũng như đời sống Kitô giáo. Về phương diện này, ba giai đoạn của trình thuật thật quan trọng: lời trách móc đám đông, nói chuyện với người cha và nói chuyện với các môn đệ. Khi người cha mô tả cho Chúa Giêsu cơn bệnh của đứa con trai ông và sự bất lực của các môn đệ Người, thì Chúa Giêsu đưa ra một lời trách móc: “Oi thế hệ cứng lòng, không có lòng tin!”. Các ngôn sứ trước thái độ bất trung và cứng lòng của dân Do thái thường kêu lên như vậy. Căn nguyên của sự thất bại nằm trong sự thiếu lòng tin, và điều này khiến Chúa phâỉ bực mình nổi giận: “Tôi còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?”
Cha của người bệnh nói: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi.” Lời kêu gọi xin thương xót này làm động lòng Chúa, mặc dầu có một sự ngờ vực nào đó về quyền năng của Người. Chúa Giêsu bắt bẻ lại: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin”, có nghĩa là Thiên Chúa toàn năng phục vụ cho kẻ tin. Chúa Giêsu nắm giữ quyền năng thay đổi thực tại vì lợi ích của người tín hữu chân thật. Người cha đã hiểu được tiến trình Chúa Giêsu đề nghị cho ông: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi”. Thay vì xin chữa khỏi cho con mình, ông lại xin được tăng thêm lòng tin vốn là điều kiện cho phép lạ được thực hiện.
Cầu nguyện cho có lòng tin đã là một thái độ tin rồi và không có được lòng tin vững chắc, nếu không dựa vào ân sủng của Chúa.
Ngày nọ, một linh mục đến hỏi thánh Gioan Vianney bí quyết làm cho xứ đạo được thánh thiện. Thánh nhân hỏi: "Ngài đã làm gì?" Cha kia đáp: "Con tổ chức hội đoàn, con mời gọi học giáo lý, con cho thực hiện những cuộc rước kiệu... Thế nhưng xứ con giáo dân vẫn lười biếng, bê bối".
Thánh Vianney hỏi lại: “Thế cha đã ăn chay và cầu nguyện chưa?". Nghe câu hỏi đó cha sở này thú thực là chưa hề nghĩ tới.
Thấy vậy, cha Gioan Vianney đã chỉ ra cho cha kia biết nguyên nhân là chưa cầu nguyện và ăn chay nên không thành công...
Câu hỏi: "Tại sao chúng con không trừ được quỷ” mà các môn đệ cất lên hỏi Đức Giêsu có lẽ cũng là câu hỏi đầu tiên của chúng ta khi nghe đọc bài Tin Mừng hôm nay!
Khi các môn đệ đang phân vân và không thiếu kinh ngạc trước sự cứng đầu của quỷ, Đức Giêsu đã nói ngay: “Giống quỷ đó chỉ trừ được bằng cầu nguyện”.
Tại sao vậy? Thưa! Rất đơn giản, vì các môn đệ chỉ là người thừa tác để trừ quỷ chứ tự thân, các ông không thể trừ được. Vì thế, các ông phải nhân danh người sai mình. Cầu nguyện chính là sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời của người sai và người được sai. Khi cầu nguyện, người thi hành chỉ biết làm khi có lệnh hay đúng hơn là làm theo ý chủ.
Chỉ có sự kết hiệp mật thiết với Chúa, con người mới có khả năng để thống trị ma quỷ. Chỉ có cầu nguyện liên lỷ, con người mới gắn bó và đi trong đường lối của Thiên Chúa, nếu không, người ta dễ làm theo ý riêng và quy chiếu về mình thay về Chúa.
Thật vậy, "Không cầu nguyện thì không có đức tin. Không có đức tin thì không có tình mến. Không có tình mến thì sinh kiêu ngạo. Khi đã kiêu ngạo thì hoàn toàn thuộc về ma quỷ”. Đây là mấu chốt các môn đệ không trừ được quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cậy trông vào Chúa qua việc cầu nguyện. Cần xác định rõ rằng: việc trừ quỷ là việc của Chúa, chúng ta chỉ là dụng cụ Chúa dùng. Tuy nhiên, dụng cụ phải vừa tay ông chủ, tức là chúng ta chỉ hữu dụng khi biết phụ thuộc vào Chúa qua cầu nguyện.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ý thức được sự cao quý của việc cầu nguyện, để đức tin, cậy, mến ngày càng lớn mạnh trong con người và nơi sứ vụ của chúng ta. Amen.
Sứ điệp: Chúa là Đấng Toàn Năng. Con người chúng ta là nạn nhân của ma quỷ ác độc. Để cho tình thương đầy uy quyền của Chúa ảnh hưởng đến cuộc sống của ta và lôi ta ra khỏi mưu thâm ác độc của ma quỷ, ta phải tin vào Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đoàn dân đang vây quanh các môn đệ của Chúa. Họ ngạc nhiên vì các môn đệ của Chúa đã bất lực trong việc cứu chữa người bị quỷ ám.
Chúa đã thốt lên: “Hỡi thế hệ cứng lòng tin và tà vạy”. Con thấy lời này trước tiên nhắm tới các môn đệ đã ăn chay cầu nguyện không đủ, lại còn tự tin vào tài hèn sức mọn của mình. Chúa cũng nhắm tới đoàn dân đang háo hức muốn xem cho no mắt chứ không muốn hiểu chiều sâu của ơn cứu độ. Chúa còn nhắm tới thái độ của những biệt phái và luật sĩ chỉ tìm bắt bẻ chỉ trích chứ không khách quan và chân tình tìm hiểu sự thật và chẳng thống hối gì. Và Chúa cũng nhắm nói tới người cha của cậu con trai: ông chỉ lo một vấn đề sinh tử phần xác của đứa con.
Lạy Chúa, cả con nữa, con muốn suy nghĩ lại cuộc sống làm con Thiên Chúa của con. Con thường hay cậy vào sức riêng và lòng đạo đức của chính mình như các môn đệ của Chúa xưa kia. Trong cuộc sống thường ngày, con dễ dàng đi vào lối sống của đoàn dân khi con thờ ơ nông cạn và chỉ tò mò. Chúa ở với con trong bí tích Thánh Thể có khi không hấp dẫn con bằng những người chết thiêng chết thánh. Con lại sa vào tình trạng của người luật sĩ khư khư với cách sống đạo cổ truyền. Người cha trong bài Tin Mừng hôm nay là hiện thân của chính con, chỉ lo lắng về vật chất và rất yếu lòng tin.
Con chỉ biết thưa cùng Chúa: Ôi lạy Chúa, xin cứu chữa con. Con tin vào Chúa. Xin tăng thêm đức tin cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi”.
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải đức Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Người mạnh nhất không thể một mình chống lại Satan.
Suy niệm
Thần ô uế (x. Mt 1,23) cũng như quỷ (x. Mc 1,32; 3,11a.15.22…) luôn tượng trưng quyền lực sự dữ, luôn đối địch với Thiên Chúa và là sự chẳng lành với sức khỏe thể xác và tâm linh cho con người.
Đứa bé bị quỷ ám nên động kinh, người cha đã gặp các môn đệ của Chúa Giêsu để xin cứu chữa cho đứa bé, nhưng các ông không thể trừ quỷ được. Không mất niềm tin ông đi gặp Chúa Giêsu cầu xin: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi”. Đức Giêsu nói với ông ta: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin”. Chúa quan tâm đến lời cầu xin của ông, đức tin của ông thình lình bùng lên: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,23-24). Ðức Giêsu dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân. Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khuất phục ma quỷ, tà thần…
Chúa dạy các môn đệ phải ăn chay và cầu nguyện mới có thể trừ quỷ. Ăn chay để nâng con người lên khỏi sức nặng của thân xác và của vật chất; cầu nguyện để đón nhận sức mạnh chiến thắng của Chúa Kitô, Ðấng đã đánh bại được quyền lực của Satan. Cho nên, trong lời cầu chúng ta tin vào Chúa khi nhìn nhận sự bất lực của mình và hoàn toàn cậy dựa vào Chúa.
Chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi, yếu hèn của chúng ta trong tinh thần chay tịnh và hướng nhìn lên Chúa với niềm tin trong lời cầu: Chỉ có Chúa là sức mạnh cho con ẩn thân...
Ý lực sống: “Lạy Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91,2).
Mc 8,31 đến 10,52 (tức là các bài Tin Mừng từ Thứ Năm tuần VI đến Thứ Năm tuần VIII) nằm trong phần thứ hai của tác phẩm mà nội dung chính là vén màn cho độc giả dần dần biết rõ thêm:
a/ về Đức Giêsu,
b/ về Nước Thiên Chúa mà Ngài thiết lập,
c/ về điều kiện làm môn đệ Ngài. Riêng phân đoạn 8,31--10,52 là giai đoạn chót của cuộc vén màn này, sẽ cho ta biết những nét quan trọng nhất của 3 nội dung ấy.
A. Hạt giống...
1. Chuyện xảy ra đang lúc Chúa Giêsu và 3 Môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê đang ở trên núi (Chúa Giêsu biến hình). Trong lúc Chúa Giêsu vắng mặt, người ta đem đến cho 9 Môn đệ kia một đứa trẻ bị quỷ ám làm cho nó bị câm. Nhưng các ông bất lực không trục xuất được tên quỷ ấy. Sự thất bại này khiến các môn đệ mất mặt. Đám đông dân chúng xúm vào phê phán các ông, và các ông cố gắng chống chế. Do đó xảy ra một cuộc tranh luận.
2. Thấy Chúa Giêsu về, người ta mừng rỡ trình bày sự việc cho Ngài. Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là khó chịu. Ngài trách và than: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ nữa! Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa!". Lời than trách này nhắm đến nhiều hạng người: thứ nhất là chính các môn đệ, kế đến là đám đông dân chúng, và sau cùng là người cha của đứa trẻ bị quỷ ám. Chính vì họ chưa đủ lòng tin nên mới có thất bại này.
3. Khi còn lại một mình với Chúa Giêsu, các Môn đệ hỏi tại sao họ thất bại, Chúa Giêsu cho biết thêm lý do thứ hai nữa là vì thiều cầu nguyện và ăn chay.
* Như thế, mặc khải của đoạn Tin Mừng này là: Chúa Giêsu là Đấng mà uy quyền có thể chế ngự cả uy quyền rất mạnh của ma quỷ. Môn đệ Chúa cũng có thể có được uy quyền này nếu có lòng tin vững chắc, ăn chay và cầu nguyện.
B.... nẩy mầm.
1. "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ nữa! Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa!": Tiếng than này của Chúa Giêsu cho thấy việc Ngài ở với những kẻ cứng lòng tin quả là một sự cực khổ và một điều khiến Ngài phải chịu đựng. Chắc hẳn Chúa cũng đã phải khổ vì tôi, Ngài đã phải chịu đựng tôi rất nhiều vì lòng tin yếu kém của tôi.
Tôi phải mượn lời của người cha đứa bé trong chuyện này mà khiêm tốn thưa với Chúa: "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin trợ giúp lòng tin yếu kém của con".
2. "Loại đó không thể trừ được nếu không cầu nguyện và ăn chay": Câu này của Chúa Giêsu là để trả lời cho người cha (cũng cho cả các môn đệ và chúng ta ngày nay): muốn được trợ giúp cho đức tin yếu kém của mình thì phải cầu nguyện và ăn chay.
3. Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.
Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và vào cầu nguyện. Khi ông trở ra, ông nói: “Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ nơi nó".
Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng.
Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh mẽ nói với tướng quân: "Kết quả cho ta thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh".
Tướng quân trả lời: "Rất đúng", và cho anh hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa. (Góp nhặt)
Tin mừng kể lại việc Đức Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì là đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Đức Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xảy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Đức Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự, hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu yêu thương và muốn chữa con người khỏi mọi bệnh tật; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi hỏi phải có đức tin.
Một ông tướng quyết định tấn công, cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.
Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và vào cầu nguyện. Khi ông trở ra, ông nói: “Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ nơi đó”.
Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng.
Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh mẽ nói với tướng quân: “Kết quả cho ta thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh”
Tướng quân trả lời: “Rất đúng”, và cho anh hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa” (Góp nhặt).
Quả thật, đức tin và đời sống cầu nguyện dường như là hai yếu tố không thể tách rời nhau. Muốn có đức tin phải cầu nguyện. Lúc cầu nguyện cũng phải có đức tin. Không có đức tin thì lời cầu nguyện trở thành trống rỗng không có đối tượng. Có đức tin nhưng không được bổ dưỡng bằng cầu nguyện thì đức tin ấy chẳng bao lâu sẽ bị chết yểu. Ngược lại, cầu nguyện mà không có đức tin thì lời cầu nguyện cũng trở thành vô nghĩa, không có mục đích.
Không gì bất hạnh bằng khi không có niềm tin trong cuộc sống. Thế nên, Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói với một phóng viên: “Muốn có đức tin ông phải cầu nguyện”. Người ta phải cầu nguyện mới có đức tin, bởi vì đức tin là một ân ban bởi trời.
Đức tin không là kết quả của cuộc tìm kiếm. Triết gia Blaise Pascal đã có lần nói: “Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện”.
Một tác giả khuyết danh đã viết một câu chuyện thú vị có tên “Đại hội Satan” (Lm. Phan Quang SDV dịch, nguồn internet) để nói về phương cách cám dỗ. Mục tiêu Đại hội này nhắm tới là đưa ra kế sách cám dỗ con người thời nay. Phương án tối ưu được Đại hội nhất trí thông qua là “Phải tìm cách cướp đi thời giờ của đám đồ đệ Giêsu – Làm thế nào, chúng nó sẽ không còn thời gian để mà thể nghiệm Giêsu trong cuộc sống của nó nữa”. Điều mà Đại ca Satan muốn các tiểu quỷ phải làm: Dụ dỗ nó tiêu tiền... để rồi phải bận rộn với các kế hoạch kiếm tiền; đổ đầy tâm trí tụi nó những tin tức tiêu cực hầu gây kích động, và dùng những thứ văn hoá đồi trụy để đẩy chúng đến chỗ ăn chơi bạt mạng... Theo nhận định của Đại ca Satan: “Nếu như chúng nó và Giêsu một khi đã thiết lập quan hệ thì khả năng chống chế của chúng ta kể như đi đoong. Đến lúc đó, chúng ta sẽ sập tiệm”.
Sự ác đang lan tràn và nhiều người bất lực trong việc chống trả, kể cả các Kitô hữu. Ngày xưa các Tông đồ cũng đã đương đầu với khó khăn này: “Tại sao chúng con đây không trừ nổi tên quỷ ấy?” Giải pháp của Chúa là: “Chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (5 phút Lời Chúa).
Các Tông đồ không trừ được quỷ, không phải vì quyền năng trước đó Đức Giêsu ban cho các ông khi đi truyền giáo không đầy đủ, nhưng do các ông ỷ lại vào sức mình,
Theo đoạn kết Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng chỉ trừ được quỷ này bằng lời cầu nguyện, nghĩa là phải dùng sức mạnh của Chúa mới trừ được mà muốn có sức mạnh từ nơi Chúa thì phải kết hợp với Người qua đời sống cầu nguyện.
Trong khi các môn đệ lúc “vắng Chúa” đã ỷ vào sức riêng mình để làm phép lạ, vì cứ tưởng mình có quyền ấy mà không cần đến Chúa. Đó cũng là một sự yếu kém về đức tin. Không ít người trong chúng ta cũng thế, khi thành công thì luôn nghĩ là do tài năng của mình mà quên Chúa, khi khó khăn hay đứng trước mưu ma chước quỷ lại dại dột dùng sức riêng để chống lại và rồi thất bại ê chề. Hôm nay Đức Giêsu nhắc cho chúng ta rằng, quỷ chỉ sợ cầu nguyện, vì khi cầu nguyện là chúng ta đang dùng lấy sức mạnh của Chúa mà làm cho ma quỉ khiếp đảm.
Truyện: Hãy ăn chay và cầu nguyện
Ngày nọ, một linh mục đến hỏi thánh Gioan Vianney bí quyết làm cho xứ đạo được đạo đức, thánh thiện. Thánh nhân trả lời:
- Ngài đã làm gì rồi?
Cha kia đáp:
- Con đã tổ chức hội đoàn, con mời gọi học giáo lý, con cho thực hiện những cuộc rước kiệu... Thế nhưng xứ con giáo dân vẫn lười biếng, bê bối.
Thánh Vianney hỏi lại:
- Thế cha đã ăn chay cầu nguyện chưa?
Nghe câu hỏi đó cha sở này thú thực là chưa.
- Vậy cha hãy về ăn chay, cầu nguyện nhiều hơn, xứ đạo cha sẽ biến đổi.
1. Câu chuyện chúng ta vừa nghe xảy ra vào lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ Gioan, Phêrô và Giacôbê đang ở trên núi khi Chúa biến hình.
Trong lúc Chúa Giêsu vắng mặt, người ta đem đến cho 9 môn đệ kia một đứa trẻ bị quỷ câm ám xin các ông chữa nó nhưng các ông bất lực không trục xuất được tên quỷ này.
Sự thất bại này các môn đệ cảm thấy mất mặt. Đám đông dân chúng xúm vào phê phán các ông, và các ông cố gắng chống chế. Do đó xảy ra một cuộc tranh luận.
Thấy Chúa Giêsu về, người ta mừng rỡ trình bày sự việc cho Ngài.
Phản ứng của Chúa Giêsu đầu tiên là khó chịu. Ngài trách và than: “Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ nữa! Ta còn phải chịu đựng các ngươi tới bao giờ nữa?” (Mc 9,19)
2. Khi còn lại một mình với Chúa Giêsu, các môn đệ hỏi Chúa về lý do làm họ thất bại, Chúa cho họ biết thêm một lý do nữa là vì họ thiếu cầu nguyện và ăn chay.
Như thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói cho mọi người biết: Chúa là đấng có uy quyền trên cả ma quỉ dù ma quỉ rất mạnh. Và môn đệ của Chúa cũng có thể có được quyền uy này nếu họ có lòng tin vững chắc, ăn chay và cầu nguyện.
Có một giai thoại về mẹ Têrêsa Calcutta mà người ta hay kể cho nhau nghe. Một lần kia, trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình, mẹ Têrêsa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội Công giáo. Ông ta đặt cho mẹ Têrêsa câu hỏi:
- Bà yêu thương và phục vụ người nghèo, tốt lắm, thế còn bao nhiêu của cải của toà thánh Vatican và Giáo Hội thì sao?
Mẹ nhìn thẳng vào mắt người phóng viên và nói với ông:
- Ông quả là người không được hạnh phúc, có một cái gì đó đang gặm nhấm tâm hồn ông. Ông không có sự bình an trong tâm hồn.
Lời nói đơn sơ và thành thực của mẹ Têrêsa như một mũi tên phóng vào tim người đối diện, khiến ông để lộ sự bối rối trên khuôn mặt của ông. Mẹ Têrêsa như người mẹ hiền ân cần lo lắng đã ôn tồn nói với ông:
- Tôi nghĩ rằng, ông nên có đức tin.
Trước câu trả lời của mẹ, người phóng viên như cá cắn lưỡi câu. Hình như có một sức mạnh nào đó đánh động vào tận cõi lòng của ông, nên không một chút e ngại ông thành thật hỏi mẹ:
- Tôi phải làm gì để có đức tin?
Mẹ Têrêsa đáp:
- Ông hãy cầu nguyện, mẹ Têrêsa dịu dàng nói với ông, và tôi cũng sẽ cầu nguyện cho ông.
Đức tin - Cầu nguyện dường như là hai yếu tố không thể tách lìa nhau. Muốn có đức tin phải cầu nguyện - Lúc cầu nguyện cũng phải có đức tin. Không có đức tin thì lời cầu nguyện trở thành trống rỗng không có đối tượng. Có đức tin nhưng không được bổ dưỡng bằng cầu nguyện thì đức tin ấy chẳng bao lâu cũng sẽ bị chết yểu. Ngược lại, cầu nguyện mà không có đức tin thì lời cầu nguyện cũng trở thành vô nghĩa, không có mục đích.
Người ta kể lại rằng, có một giáo xứ nọ ở đồng quê đang phải trải qua một cơn nắng hạn lâu dài, đồng ruộng khô cằn, súc vật chết dần chết mòn, người ta cũng còn bị đe dọa chết đói. Mọi người đến cầu cứu với vị linh mục. Ngài quả quyết như sau:
- Không gì có thể cứu vãn chúng ta, ngoại trừ cầu nguyện. Tôi đề nghị mọi người hãy đến nhà thờ đọc kinh cầu mùa để xin Chúa ban mưa xuống. Nhưng trước khi tập trung ở nhà thờ để cầu nguyện chung với nhau, tôi xin mọi người trong giáo xứ hãy về nhà ăn chay một tuần và hãy tin tưởng rằng, Chúa sẽ nhận lời, và sáng Chúa nhật chúng ta sẽ tập trung lại để cầu nguyện.
Sau một tuần ăn chay, tất cả đều tập trung lại để cầu nguyện. Vừa thấy họ, vị linh mục đã nổi giận: - Anh chị em hãy đi về, tôi sẽ không cầu nguyện cho trời mưa, bởi vì anh chị em không có lòng tin.
Nghe thế, mọi người đều chống chế:
- Thưa cha, nếu không tin thì chúng con đã không ăn chay suốt một tuần qua.
Vị linh mục nói lớn:
- Anh em tin ư? Tin, nhưng tại sao anh chị em không mang dù theo?
Không gì bất hạnh bằng khi không còn niềm tin trong cuộc sống. Thế nhưng, như mẹ Têrêsa còn nói “Muốn có đức tin, ông phải cầu nguyện”. Người ta phải cầu nguyện mới có đức tin, bởi vì đức tin là một ân ban từ trời.
Đức tin không là kết quả của một cuộc tìm kiếm. Triết gia Pascal đã có lần nói: “Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quì gối xuống và cầu nguyện”.
Vâng, cầu nguyện sẽ làm cho đức tin thêm sức mạnh và đức tin sẽ làm cho những lời cầu nguyện của chúng ta có chất lượng hơn.
Quang cảnh trong bài Tin Mừng theo tường thuật của thánh sử Máccô hôm nay là một đám đông có rất nhiều người: Những người luật sỹ, dân chúng, người bị quỷ ám, cha đứa bé bị quỷ ám, các tông đồ…. Đám đông này xô bồ, ồn ào, mất trật tự là do những người biệt phái, luật sỹ thấy các tông đồ là học trò của Chúa mà không làm được như Chúa là xua trừ ma quỷ ra em bé bị quỷ câm ám cho nên họ nói to tiếng, bắt bẽ, đôi co đủ lý do để làm mất uy tín các đầu đệ của Chúa. Kế đến là em bé bị quỷ câm ám la lối, tru tréo, dằn vặt. Dân chúng thì bàn tán nói chuyện ôn ào. Riêng các tông đồ thì im lặng, ghi nhận tất cả những gì đang xảy ra: “Và những luật sỹ đang tranh luận với các ông…đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất” (Mc 9, 13 – 18). Đang khi đó, chúng ta thấy, lúc này không có sự hiện diện của Chúa, tất cả mọi sự dường như lộn xộn, hỗn độn, mất trật tự, con người chúng ta mỗi người mỗi ý kiến, phân rẽ nhau dẫn đến dễ xích mích nhau.
Đúng lúc này, Chúa lại đến hiện diện ở đây. Có Chúa, mọi người qui hướng về Chúa: “Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người” (Mc 9, 15), và sau đó họ trình bày với Chúa: “Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lục” (Mc 9, 17 – 18). Qua đó, ma quỷ là nguyên nhân của các cuộc ổn áo, bất hòa, gây rối, căng thẳng. Còn Chúa thì là nguyên nhân của sự hiệp nhất, yêu thương, giúp đỡ, phục vụ…. Do đó, sau khi Chúa nghe bố của đứa con trai trình bày nguyên nhân của việc đứa bé bị ma quỷ hành hạ như thế: “Thưa nó bị từ lúc tấm bé, quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó” (Mc 9, 22), Chúa xúc động, Chúa thương bé trai này. Mặc khác, người cha rất thương con, lo chạy chữa cho con, nhưng đành bất lực trước tình trạng quỷ nhập của con, giờ này chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Ông xin Chúa cứu chữa con ông, nhưng ông cảm thấy mình bất xứng, yếu đức tin, chẳng đáng để Chúa nhìn đến: “Thưa Thầy, con tin, xin Thầy trợ giúp lóng tin yếu kém của con” (Mc 9, 24). Và rồi Chúa đã chữa em bé được lành bệnh, Chúa trục xuất quỷ ra khỏi con người của em, em trở lại cuộc sống như bao người khác, em và cha em rất hạnh phúc với ơn Chúa ban nhưng không này.
Qua phép lạ lớn lao này, chúng ta nhận ra rằng Chúa muốn cho các tông đồ ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay khi làm bất cứ điều gì trong cuộc sống cho chính chúng ta cũng như cho người anh chị em của chúng ta, nhất là vấn đề trừ quỷ là trước hết chúng ta phải cậy dựa vào ơn Chúa, có tình thương anh chị em chúng ta, có lòng khiêm nhường và cách đặc biệt là phải cố gắng chạy tịnh, cầu nguyện, hy sinh làm các việc lành phúc đức thì chắc chắn Chúa sẽ giúp chúng ta: “Loại quỷ đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay” (Mc 9, 28).
Lạy Chúa, tất cả những gì Chúa dạy bảo chúng con, tất cả các ơn lành Chúa ban cho chúng con, tất cả những gì Chúa làm cho chúng con trong cuộc sống này đều làm cho chúng con hân hoan vui sướng. Xin Chúa nhận lời chúng con cầu xin và chúc lành cho những điều chúng con ước mơ để trở thành hiện thực nhằm đem lại hạnh phúc cho chúng con và cho anh chị em của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 7 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Thiên Chúa và kế hoạch của Người là còn mãi, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên cho thấy: Tất cả chỉ là phù vân hoặc ảo ảnh. Thú vui không đem lại hạnh phúc thật: hoạt động của con người, dưới bất cứ hình thức nào cũng thế. Cái chết kết liễu cả hai. Cái chết làm cho chính cuộc sống nên đáng ghét, đối với người Sêmít, đây là nghịch lý, lời nói không diễn tả hết được. Trong khung cảnh đổ vỡ này, chỉ còn một thực tại duy nhất đứng vững, đó là Thiên Chúa và kế hoạch Người muốn thực hiện cho con người. Ai đẹp lòng Thiên Chúa, thì Người ban cho trí khôn ngoan, sự hiểu biết và niềm vui; ai có tội, thì Người bắt phải vất vả gom góp và tích trữ. Điều ấy cũng là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát. Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng tham, vì buông theo lòng tham đó, nhiều người đã chuốc lấy bao đau khổ.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: ngước nhìn lên Chúa là ánh sáng dẫn lối soi đường, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nítxê nói: Người khôn ngoan đưa mắt nhìn lên Đầu của mình… Như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ. Mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Người xót thương chút phận. Tôi là ánh sáng thế gian; ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Đấng có từ trước muôn đời, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca nói: Khôn ngoan đã được tác thành trước vạn vật, sự hiểu biết anh minh đã có tự muôn đời. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 92, vịnh gia cho thấy: Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Trong bài Tin Mừng, cha đứa bé kêu lên: Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi. Đức Kitô tiêu diệt thần chết, dùng chính sự khôn ngoan của thập giá để làm sáng tỏ phúc trường sinh. Chúng ta rất cần ơn Chúa trợ giúp, mới có thể tin vào Đức Kitô và nghịch lý của thập giá. Chính vì thế, cha của đứa bé đã kêu xin Đức Kitô trợ giúp lòng tin yếu kém của ông. Chúng ta phải đưa mắt nhìn lên Đầu của mình là Đức Kitô. Không thể có chuyện: kẻ ở trong ánh sáng, mà lại, thấy bóng tối, cũng vậy, không thể có chuyện: kẻ đưa mắt nhìn lên Đức Kitô, mà lại, dán mắt vào những điều hư ảo. Chúng ta điên dại vì Đức Kitô, nghĩa là, chúng ta đui mù về những sự thuộc về hạ giới, mà chỉ đăm đăm hướng nhìn lên cao, nhìn lên Đầu của chúng ta. Dù bị khốn khổ trước mặt người đời, chúng ta cũng không đưa mắt nhìn đi nơi khác, nhưng vẫn, đăm đăm nhìn lên Đức Kitô, bởi vì, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dẫu, là gian truân, khốn khổ, bắt bớ, đói rách, trần trụi, hiểm nguy, gươm giáo. Ước gì chúng ta đừng để Chúa phải thốt lên: Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Ước gì mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
Ngoài chuyện chậm tin, chậm hiểu, các môn đệ còn có một điểm yếu là hay cãi nhau. Họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Người ấy sẽ là người đứng đầu trong Nước sắp tới của Đấng Mêsia. Tiếc thay trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại cãi nhau khi đang đi ngoài đường (c. 33). Tệ hơn nữa, họ cãi nhau ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ hai về cái chết và sự phục sinh sắp đến của mình (c. 31). Hẳn Thầy Giêsu rất đau vì thấy học trò của mình khá trần tục. Dù đang đi với Thầy trên cùng một con đường, nhưng họ vẫn để lòng mình theo đuổi vinh quang thế gian. Đức Giêsu quả là một bậc thầy về sự điềm đạm. Ngài đợi tới khi về nhà ở Caphácnaum mới gợi lại chuyện trên đường. Ngài làm như mình không rõ về đề tài câu chuyện: “Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Khi các ông mắc cỡ làm thinh, không dám nói ra chuyện cãi nhau (c. 34), Thầy Giêsu cũng chẳng nỡ ép các ông phải nói. Ngài ngồi xuống như một vị thầy bắt đầu giảng dạy (c. 35), gọi Nhóm Mười Hai lại - nhóm các nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội - và đưa ra một nguyên tắc chi phối việc quản trị cộng đoàn: “Nếu ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết của mọi người và làm người phục vụ cho mọi người (c. 35). Câu nói trên của Đức Giêsu mở ra một cuộc cách mạng nơi tâm con người. Đức Giêsu không dạy ta lật đổ người đứng đầu để chiếm lấy quyền lực. Ngài cũng không đòi ta bỏ ước mơ làm lớn. Ngài dạy cho ta cách trở nên lớn lao thực sự trước mặt Thiên Chúa. Đó là trở nên người phục vụ mọi người, sống như Ngài đã sống: “Suốt đời Thầy đã sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 27). Nếu làm đầu mà phải phục vụ thì có ai muốn làm người đứng đầu nữa không? Lịch sử của nhân loại là lịch sử của những cuộc cãi nhau không ngớt giữa các quốc gia, các tôn giáo, các bộ tộc, và ngay trong giáo xứ, gia đình. Đề tài muôn thuở vẫn là quyền lực, chức tước, địa vị, tiếng tăm. Ai cũng muốn làm đầu, làm lớn để được phục vụ, để khỏi phải hầu bàn. Ước gì chúng ta hiểu rằng quyền uy chỉ là giấy phép để phục vụ. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài. Xin tha thứ cho con vì đã quá bận tâm đến những điều mình nói, đến ảnh hưởng của mình, đến những điều người ta nói và nghĩ về con. Xin tha thứ cho con vì muốn nên giống kẻ khác mà quên mất chính mình, vì khao khát có được những đức tính của họ, mà quên phát triển bản thân. Xin tha thứ cho con vì đã mất nhiều thời gian cho việc phô trương hơn là cho việc xây dựng bản thân. Xin cho con biết cởi mở với anh em; nhờ đó, Chúa có thể đến với con như đến với một người bạn. Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người” mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài vì con là con của Chúa và là anh em của mọi người. Amen. (Michel Quoist) ------------------------------
Thiên Chúa và thế gian. Hai nẻo đường. Thế gian chiều theo dục vọng. Ham muốn. Khoái lạc. Tiền tài. Danh vọng. Chức quyền. Tất cả dẫn đến xung đột. Từ ngay trong bản thân. Tranh chấp với tha nhân. Bất hoà bất ổn trong xã hội. “Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau”. Theo thế gian là chống lại Thiên Chúa. Vì thế gian đi đến kiêu ngạo. Thiên Chúa dẫn đến khiêm nhường. “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (năm chẵn).
Người đi theo đường của Thiên Chúa chống lại thế gian chắc chắn sẽ gặp nhiều thử thách. “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách… Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục”. Nhưng nếu ta kiên trì Chúa sẽ đến cứu giúp ta “Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người….Vì Đức Chúa là Đấng nhân từ và hay thương xót: Người thứ tha tội lỗi và cứu vớt trong lúc gian truân” (năm lẻ).
Chính Chúa Giê-su xuống thế làm người nêu cho ta tấm gương luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại”.
Các môn đệ của Chúa còn nặng thói thế gian. Nên “khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. Chúa Giê-su dạy các môn đệ hãy từ bỏ thói thế gian. Đi vào con đường của Chúa. Đường của Chúa ngược hẳn với đường thế gian: “Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Khiêm nhường sẽ dẫn đến hạ mình. Yêu thích những điều hèn mọn và những người bé nhỏ. Con đường ấy dẫn đến Thiên Chúa. “Rồi Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Xin cho con biết chọn đi vào con đường của Chúa. Để con đạt tới chính Chúa.
Ở cuối văn kiện Tòa Thánh, các Ðức Giáo Hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: "Tôi tớ của các tôi tớ". Ðây là tinh thần mà Chúa Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải có, như được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay: "Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người".
Cám dỗ về quyền hành và cám dỗ lạm quyền là sự kiện thường xuyên và mãnh liệt đối với con người mọi thời. Chính những cám dỗ ấy cũng đã xảy ra cho Nhóm Mười Hai Tông đồ. Thật vậy, vào chính lúc Thầy của các ông loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, các ông đã có thái độ ích kỷ, vụ lợi; các ông tưởng thời lập quốc của Ðấng Mêsia và ngày vinh quang của các ông đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Chính các ông cũng cảm thấy sự tranh cãi như thế là đáng trách, bởi vì khi được Chúa Giêsu hỏi, các ông đã làm thinh.
Và rồi sự việc đã diễn biến không như các ông tưởng nghĩ, bởi vì đối với Chúa Giêsu, trong Nước Trời tồn tại ở trần gian này, cho dù vẫn có tôn ti trật tự, nhưng đó là một trật tự lạ lùng: Người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác, người nhỏ nhất phải là đối tượng để được hầu hạ. Rốt cuộc, chúng ta có thể hầu hạ ai chính là vì chúng ta muốn hầu hạ Chúa Giêsu trong họ, và chúng ta có được hầu hạ ai, thì cũng chỉ vì họ đang hầu hạ Chúa Giêsu nơi chúng ta. Như vậy, điều quan trọng không phải là làm lớn hay làm nhỏ trong Nước Trời, chỉ có Thiên Chúa là nhân vật quan trọng trong Nước Trời, và làm lớn hay làm nhỏ, tất cả đều phục vụ Thiên Chúa mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn thường được dùng làm kim chỉ nam cho việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội. Nếu mọi người, kẻ cầm quyền cũng như người dưới quyền đều hiểu và thực thi giáo huấn này, chắc chắn Giáo Hội sẽ trở nên thu hút hơn đối với nhân loại, nhất là đối với con người hôm nay đã quá mệt mỏi với những hình thức mị dân, lạm quyền, dua nịnh của giới lãnh đạo; người ta sẽ nhận ra nơi đó khuôn mặt của Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn, một Chúa Kitô lãnh đạo bằng cách bị nộp, bị giết chết vì người khác.
Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Nhưng để bài học ấy tác động mạnh mẽ và hữu hiệu, chúng ta cần nghĩ tới hình ảnh của Chúa, Ðấng lãnh đạo dân Chúa, nhưng đã trở thành tôi tớ cho mọi người.
Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn có ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại.” Nhưng các ông không hiểu những lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (Mc. 9, 30-32)
Chúng ta đang sống trong một xã hội cạnh tranh gay gắt, một thế giới mà con người giành giật nhau, tiêu diệt nhau khi người này làm trở ngại cho thành công của người kia. Điều đó được thấy rõ trong quảng cáo. Bạn có thể đọc trong mục rao vặt cúa những tờ nhật trình, những yêu cầu cần người đại loại như sau: “Cần một thanh niên năng nổ, chiến thắng.” Đây không phải là một thông tin của quân đội mà là của một xã hội bán những cái máy hút bụi. Người ta cần một thanh niên năng nổ, chiến thắng đối với những khách hàng tình cờ. Người thanh niên càng năng nổ, có tinh thần chiến thắng càng sẽ được tuyển vào làm trong công ty. Hoàn cảnh trong Phúc âm hôm nay cũng gần tương tự. Các tông đồ coi Nước Trời như chuyện buôn bán cạnh tranh vậy… thế là Chúa Giêsu phải lên tiếng can thiệp.
Đây là lần thứ hai, Chúa Giêsu có ý loan báo cho các ông về cái chết và phục sinh của Người. Giáo huấn này thật vô vị: Các ông chẳng hiểu, tệ hơn nữa, cũng chẳng thèm hỏi han gì. Lời Chúa chẳng vang dội trong tâm khảm các ông. Các ông bàn tán về đề tài các ông ưa thích: ai là người lớn hơn cả?
Về tới nhà
Về tới nhà, Chúa Giêsu ngồi xuống, quy tụ các môn đệ lại chung quanh Người. Lần này, Người muốn cho các ông phải hiểu. Người dùng chính lời lẽ của các ông để diễn tả: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” Các ông muốn làm người lớn, là người quan trọng trong Giáo hội, điều này chẳng phải là xấu. Các ông là người thế nào, có tham vọng làm lớn tới đâu, thì Chúa nhận như vậy thôi, nhưng Chúa Giêsu chỉ cho các ông phương thế làm lớn trong Giáo hội. Làm lớn, chính là trở nên người bé nhỏ; làm người quan trọng, chính là coi mình chẳng là gì; là ông chủ, thì phải làm người phục vụ; làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết.
Để cho các ông hiểu rõ sự nghịch lý này, Chúa Giêsu làm một dụ ngôn bằng động tác: Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy…” Em nhỏ ở đây, chính là biểu tượng của tất cả những gì bé nhỏ, hèn mọn, tùy thuộc, cần được người khác chăm sóc, mà không thể cho lại được cái gì.
Chúa Giêsu hàm ý rằng điều làm cho người ta nên cao cả là khả năng tiếp đón bản thân Người và khi người ta tiếp đón vì danh Người, một người yếu đuôí, vô phương tự vệ, thì khả năng đó còn lớn hơn nữa bội phần.
Ai trong anh em muốn làm người đứng đầu thì hãy tự mình phục vụ những người ít được kính nể, những người bị tước đọat nhất, hãy làm người phục vụ những người bé mọn nhất, và làm như thế vì danh Thầy, bởi lẽ Thầy yêu cầu như vậy.
Đã từ lâu, chúng ta rất quen với cụm từ: “Tôi tớ các tôi tớ” được ký bởi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sau mỗi văn kiện hay tông huấn...
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi người môn đệ của mình phải có và giữ được đức khiêm tốn khi nói: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
Muốn làm lớn và trở thành người lãnh đạo là cái mộng của con người mọi thời không từ ai. Chính các môn đệ là những người được ở gần Đức Giêsu, nghe và chứng kiến những việc Ngài làm, tất cả toát lên sự khiêm nhường tột cùng. Tuy nhiên, các ông vẫn không thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của quyền lực đầy hấp dẫn đang mời gọi các ông qua con người có tên là Giêsu. Đấng mà các ông vẫn đang hy vọng được hưởng đặc quyền đặc lợi khi Ngài đứng lên lật đổ chế độ và thiết lập một vương quốc theo kiểu trần thế.
Vì thế, khi vừa nghe Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai, liền sau đó, các ông đã chăm chú vào chuyện bàn tán xem ai là người lớn nhất?
Lẽ ra, khi nghe thấy thầy của mình loan báo về cái chết sắp xảy đến, các ông phải là người an ủi, động viên, chia sẻ..., Không! đằng này sự vụ lợi, thực dụng và ích kỷ đã làm cho họ mờ mắt và vơi cạn đi sự cảm thông, các ông chỉ còn nghĩ đến mình mà thôi.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã làm đảo lộn suy nghĩ của các môn đệ khi nói: người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác; muốn làm được điều đó, phải có tâm hồn trẻ thơ.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu dạy các môn đệ và cũng là chính mỗi người chúng ta một bài học về sự khiêm nhường và phục vụ. Người lãnh đạo thì phải phục vụ dân, không được lạm quyền, mỵ dân và a dua, nịnh hót, mà làm những việc bất nhất trái lương tâm. Cha mẹ thì phải yêu thương chăm sóc con cái. Con cái phải kính trọng cha mẹ, nhất là khi các ngài lớn tuổi.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
Sứ điệp: Lần thứ hai Chúa loan báo Chúa sẽ chịu khổ nạn và sẽ sống lại. Chúa mời gọi các môn đệ bắt chước Chúa trở nên tôi tớ phục vụ mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa hoàn toàn quên mình để chỉ nghĩ đến con và yêu thương con. Vì yêu thương, Chúa hy sinh tất cả vì con, đến nỗi Chúa tự nguyện đón lấy mọi khổ đau và cả cái chết nữa. “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu”. Con đang được sống trong tình yêu ấy. Con hết lòng cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, dù Chúa là Chúa của con, nhưng Chúa không khư khư ôm lấy địa vị của mình để thống trị con bằng quyền lực. Trái lại, Chúa đã tự nguyện trở nên đầy tớ để phục vụ con. Chúa muốn dùng tình yêu để chinh phục trái tim con.
Cũng như các tông đồ ngày xưa, con không thể hiểu được thái độ của Chúa. Và con lại càng không muốn chấp nhận những Lời Chúa dạy con phải trở nên đầy tớ phục vụ lẫn nhau. Xin Chúa chiếu soi để con hiểu được Lời Chúa. Xin giúp con biết quên mình để nghĩ tới người khác. Xin biến đổi tâm hồn con nên khiêm tốn và ban cho con một trái tim đơn sơ, nhỏ bé. Thái độ “kẻ cả” chỉ muốn thống trị, quyền lực, hưởng thụ, lấy mình làm trung tâm và bắt người khác phục vụ mình. Xin Chúa đừng để con rơi vào thái độ ấy. Xin cho con hiểu rằng chính khi con hiến thân là lúc con được lãnh nhận, chính khi con quên mình là lúc con gặp lại bản thân, chính khi con biết chết đi để sống cho Chúa và anh em là con được sống.
Lạy Chúa, xin cho mọi người trong gia đình con và cộng đoàn giáo xứ con biết sống khiêm tốn và hầu hạ lẫn nhau. Xin cho nhân loại hôm nay biết chấp nhận lối sống mới của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết”.
Khổng Tử đi ngang qua núi Thái thì gặp một phụ nữ đang khóc lóc thảm thiết bên mộ con. Thầy đến hỏi lý do tại sao bà ta khóc, thì được cho biết là bà khóc cho con, cho chồng và cho cả cha chồng đã bị cọp ở núi Thái bắt ăn thịt.
Khổng Tử bèn hỏi tại sao gia đình không dọn đi nơi khác, thì được bà thổ lộ là: “Ở đây không có hà chính” (hà chính ám chỉ sách lược quốc trị hà khắc, quan lại lộng quyền làm khổ dân chúng). Khổng Tử quay sang học trò và nói: “Hà chính mãnh ư hổ giã” (có nghĩa là sách lược quốc trị hà khắc còn ghê gớm hơn cọp). Bởi vì gia đình của người phụ nữ tránh chính sách làm khổ dân của vua quan đến lánh trong rừng thiêng nước độc chấp nhận ngay cả nguy hiểm với cọp dữ và cái chết.
Xã hội xưa là thế, chính sách hà khắc không làm cho an dân, dân không thể ấm no, nước không thể giàu. Người lãnh đạo có quyền bính trong tay phải lo chính sách an dân. Nếu người làm lớn chỉ lo công danh bổng lộc, thì xã hội vẫn còn những con người cùng đinh khốn khổ. Đất nước, xã hội còn đầy rẫy những bất công vì thiếu những người quản lý mang cái tâm vì nước vì dân. Trần gian là thế và sẽ mãi là thế, lịch sử đã chứng minh cho sự lặp đi lặp lại những bất công.
Chúa Giêsu đến trần gian loan báo nước Trời. Nước Trời bắt đầu được xây dựng bằng sự cải tạo con người và xã hội ngay ở trần gian.
Suy niệm
Các môn đệ tranh luận ai sẽ là người lớn nhất. Đức Giêsu hướng các môn đệ và qua các ông đến tất cả những ai có ý tưởng muốn có sự tham vọng làm lớn thì phải mang lòng khát khao phục vụ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9,35), Ngài hướng các ông trên con đường đi trên quyền lực không để tham vọng quyền thế thu vén cho bản thân, nhưng phải dấn thân vì mưu ích cho đồng bào dân tộc…
Thế giới hôm nay rất cần những người muốn đứng đầu theo tiêu chuẩn của Đức Giêsu đề ra, nghĩa là trong phục vụ khiêm hạ, hết lòng lo cho nước cho dân như hình ảnh của chính Đức Kitô phác họa và sống nêu gương khi rửa chân cho các môn sinh, Ngài kêu mời: “Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa thì đúng lắm. Vậy mà Thầy đã rửa chân cho các con. Các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,13).
Trong nước của Thiên Chúa, người lớn thì phải phục vụ, còn người bé nhỏ thì được đón tiếp nhân danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó (x. Mc 9,36), cử chỉ này đều đi ngược phong tục Do Thái thời đó vì xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Hơn nữa, chúng không hiểu biết Lề Luật nên người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo. Đứa trẻ còn tiêu biểu cho những người đau khổ, cô thế cô thân, gặp thiếu thốn, có nhu cầu ủi an nơi chúng ta nhưng lại bị chính cộng đồng đã loại trừ. Tất cả những con người bé mọn luôn có trong trái tim của Thiên Chúa, dù bị anh em đồng loại bỏ rơi, Thiên Chúa vẫn ở bên và đỡ nâng.
Thật thế, Chúa làm cho thân phận bé mọn được tràn đầy ân sủng như chính Ngài dùng lời Kinh Thánh khẳng định: “Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21,16). Hơn thế nữa, người khiêm nhu bé mọn còn được Thiên Chúa đồng hóa trong thân phận của chính họ: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,37).
Chúa Giêsu đã nói rõ: Sự tiếp rước anh em nghèo khó, những con người bé nhỏ, tầm thường không có danh tiếng, không của cải quyền thế, những kẻ cô thân cần sự giúp đỡ là làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-46), như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Đi trên đường trần gian xây dựng nước Chúa, người làm lớn sống tinh thần phục vụ theo gương Thầy Giêsu như thánh Phaolô mời gọi: “Hãy sống trong tình yêu như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và cống hiến chính thân mình Người” (Ep 5,2).
1. Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ Ngài là ai: Ngài là Đấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại. Các ông chẳng hiểu gì mạc khải đó vì các ông vẫn quan niệm về một Đấng Messia vinh quang hiển hách. Vì thế trên đường đi các ông tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước của Ngài. Về đến nhà, Ngài hỏi các ông trên đường đã tranh cãi với nhau về cái gì, các ông không dám trả lời. Nhân dịp này Ngài dạy các ông: Ai muốn làm lớn, phải làm đầy tớ mọi người. Rồi Ngài dẫn một trẻ nhỏ đến giữa các ông mà phán: “Ai đón nhận trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy và sống đơn sơ không tham vọng như nó là đón tiếp chính Thầy, và ai tiếp nhận Thầy là tiếp nhận Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
2. Tranh giành quyền lực là chuyện thường tình của thế gian, trong bất cứ lãnh vực nào cũng có chuyện người thủ lãnh, kẻ thuộc hạ, người làm lớn kẻ làm nhỏ, người ngồi trên kẻ ngồi dưới, người được danh dự kẻ bị quên lãng. Nhưng trong Giáo hội của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra nguyên tắc lãnh đạo: ai muốn làm người đứng đầu thì phỉ làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người. Đức Giêsu không chỉ phục vụ và hầu hạ, lại còn hầu hạ và phục vụ đến chết. Cái chết trên thập giá của Ngài là thể hiện tột cùng của lãnh đạo và phục vụ. Vì thế, người được đặt làm thủ lãnh để phục vụ phải là người sằn sàng chết cho mọi người. Qui luật này có giá trị cho mọi Kitô hữu. Làm môn đệ của Đức Giêsu là chọn lấy con đường phục vụ và phục vụ cho tới cùng.
Vì thế, ở cuối văn kiện Tòa Thánh, các Đức Giáo hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: “Servus servorum”: tôi tớ của các tôi tớ. Đây là tinh thần mà Đức Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo hội phải có, như được đề cập trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
3. Bác sĩ Elizabeth Couplaros là giáo sư về môn tâm lý trị liệu tại đại học Chicago, Hoa kỳ. Một trong những tác phẩm bán chạy nhất của bà có tựa đề “Sự chết và Chết”. Cuốn sách ghi lại sự phỏng vấn của tác giả với hàng trăm người đã từng bị bác sĩ tuyên bố là chết nhưng bỗng dưng sống lại. Có thể nói người chết sống lại này đều cho biết rằng trong khoảnh khắc mà bác sĩ gọi là chết ấy họ như sống lại cả quãng đời của họ, cứ như thế họ xem lại cuốn phim về cuộc đời của họ. Khoảnh khắc ấy có nghĩa gì không? Bác sĩ Couplaros đã nhận định như sau: “Khi bạn trải qua khoảnh khắc ấy, bạn chỉ thấy có hai điều quan trọng trong cuộc đời, một là bạn đã phục vụ; hai là bạn sống yêu thương, còn tất cả những điều mà chúng ta xem trọng như danh tiếng, tiền của, uy tín và quyền lực đều vô nghĩa”.
4. Một điều nghịch lý cần chấp nhận.
Chúa phán: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Để các ông hiểu rõ sự nghịch lý này, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Ngài đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp nhận một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Em nhỏ ở đây, chính là biểu tượng của tất cả những gì bé nhỏ, hèn mọn, tùy thuộc, cần được người khác chăm sóc, mà không thể cho ai được cái gì. Ngài hàm ý nói rằng điều làm cho người ta nên cao cả là khả năng đón tiếp bản thân Ngài và khi người ta tiếp đón vì danh Ngài, một người yếu đuối, vô phương tự vệ, thì khả năng đó còn lớn hơn nữa bội phần. Ai trong anh em muốn làm người đứng đầu thì hãy tự mình phục vụ những người ít được kính nể, những người bị tức đoạt nhất, hãy làm người phục vụ những người bé mọn nhất, và làm như thế vì danh Thầy, bởi lẽ Thầy yêu cầu như vậy.
5. Truyện: Cần tinh thần phục vụ.
Những thuộc viên cao cấp của Bà-la-môn ở Ấn Độ không bao giờ cúi xuống làm việc của người đầy tớ. Vì thế Shirman Naraayan sốc làm sao khi ông được giao nhiệm vụ mà ông thấy như mình bị hạ thấp khi ông dành thời gian làm tại trung tâm Grandhi (là một trung tâm tĩnh tâm của người Hindu).
Tốt nghiệp tiến sĩ tại trường Kinh Tế Luân Đôn, chàng thanh niên này đã đến tìm hướng đi cho tương lai. Chàng không biết rằng mọi người tại trung tâm này đều được giao nhiệm vụ cụ thể, và Shirman phải chùi nhà vệ sinh. Thấy bị xúc phạm ghê gớm, anh đi thẳng đến chỗ Grandhi và phàn nàn: “Tôi có bằng tiến sĩ. Tôi có thể làm được nhiều điều lớn lao hơn, tại sao lại bắt tôi phải phí thời gian và tài năng vào việc lau chùi phòng vệ sinh vậy”? Grandhi trả lời: “Tôi biết anh có thể làm được nhiều việc lớn, nhưng tôi cũng phải xem thử anh có đủ năng lực để làm những việc nhỏ không đã”.
Có thể bạn đủ năng lực để phục vụ Chúa một cách đặc biệt. Qua nền giao dục bạn hấp thụ và ân tứ bạn có được, có thể bạn có khả năng làm những công việc lớn lao và hiệu quả. Nhưng bạn có sẵn lòng khiêm nhường làm những việc của đầy tớ nếu Chúa giao công việc đó cho bạn không? Bạn có sẵn lòng lau chùi nhà vệ sinh hay rửa chân cho người khác không (Ga 13,14-15)? Đó mới thật sự là điều một môn đệ vâng lời cần làm.
1. Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ biết Ngài là ai: Ngài là Đấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại.
2. Do đã quen với quan niệm về một Đấng Messia vinh quang hiển hách, các môn đệ không hiểu gì cả. Nhưng không dám hỏi lại Chúa Giêsu. Và cũng vì đã quen với quan niệm thế tục ấy nên dọc đường các ông tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời mà Chúa Giêsu thành lập.
3. Chúa Giêsu sửa dạy các ông: trong Nước Trời, đừng ai để ý tới địa vị lớn hoặc nhỏ. Điều thứ nhất phải để ý là phục vụ: càng có chức vụ cao thì càng phải phục vụ nhiều (để nhấn mạnh ý tưởng phục vụ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ). Điều thứ hai phải để ý nữa là có thái độ tiếp đón mọi người không phân biệt gì cả, dù là một người hèn hạ, vô ích thì người môn đệ Chúa cũng phải tiếp đón (để nhấn mạnh ý tưởng tiếp đón, Chúa Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ, tức là một con người không mang lại lợi ích gì cho kẻ tiếp đón nó, mà còn mang tới phiền muộn).
B.... nẩy mầm.
1. Trong "nước trần gian", muốn thành đạt thì phải chứng tỏ cho người ta thấy mình là "người lớn", lớn về khả năng, lớn về trí óc, lớn về sức mạnh v.v. Còn trong Nước Trời, Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ mình tỏ ra là trẻ nhỏ, là đầy tớ. Để mở mang Nước Trời ở trần gian này, tôi phải có một lối sống hơi ngược đời như thế, vì "Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian".
2. "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy tức là đón tiếp chính mình Thầy". Những "trẻ nhỏ như thế này" là những người nghèo hơn tôi, kém thông minh hơn tôi, yếu hơn tôi, cư xử nói năng vụng về hơn tôi… Chính vì họ tệ hơn tôi nên tôi thường xua đuổi họ hoặc không thích ở gần họ. Nhưng như thế tức là tôi đã xua đuổi và thờ ơ với chính Chúa rồi.
3. Ngày xưa các môn đệ đã làm một chuyện lố bịch là mặc kệ Chúa mời gọi đi theo Ngài trên con đường thập giá, họ cứ tranh dành nhau địa vị và quyền lợi. Nhưng về sau khi hiểu lại, họ đã thay đổi hẳn: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô". Phần tôi, tôi cứ tiếp tục việc làm lố bịch đó. Khi nào thì tôi mới hiểu lại và thay đổi đây?
4. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con đường của chúng con. Xin cho chúng con luôn đi theo con đường thập giá Chúa để mỗi ngày được nên giống Chúa hơn.
Đây là lần thứ hai mà Chúa nói về cuộc khổ của Chúa sẽ chịu sau này. Chúa chịu khổ nạn là vì yêu thương chúng ta, cứu chúng ta khỏi chết, khỏi trầm luân hư mất đời đời.
Chúa nói về cuộc khổ nạn của Chúa, Chúa chấp nhận phần quá đau khổ, quá tủi nhục, quá thiệt thòi về cho Chúa để chúng ta được hạnh phúc, được sống, được thừa hưởng gia nghiệp hạnh phúc nước trời. Các tông đồ lúc đó và chúng ta ngày hôm nay phải vui mừng, hân hoan, phấn khởi cảm ơn Chúa mới là đúng, mới là phải đạo, mới là chính đáng.
Đàng khác, các tông đồ cần phải đồng càm, sẻ chia với Chúa trong giờ phút quan trọng nhất này đây để phần nào an ủi Chúa, để Chúa không cô đơn, khỏi lẻ loi khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn cứu chuộc con người chúng ta.
Thế nhưng các tông đồ lại có những suy nghĩ khác với những suy nghĩ của Chúa. Trong lúc Chúa nói về cuộc khổ nạn của Chúa thì các ngài lại tranh giành xem ai là người lớn nhất trong lúc cùng đi chung trên một con đường với Chúa, cùng sãi những bước chân song song bước chân của Chúa, cùng nhìn thấy những gì đang diễn ra trên lối đi đó, cùng hướng đến đích của cuối chặng đường đi. Các ngài dường như đồng sàng dị mộng với Chúa: “Dọc đường các con tranh luận gì thế? Các ông làm thinh, vì dọc đường các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất” (Mc 9, 33 – 34).
Các ngài theo Chúa mà vẫn còn mang nặng bùi trần của kiếp người vô thường, vẫn còn tham, sân, si. Có lẽ Chúa sẽ rất mệt nhọc khổ sở để dạy dỗ các ngài. Quả thật, Chúa không la rày các ngài, không phân định người hơn kẻ thua, ai lớn ai bé. Chúa không làm như vậy là vì Chúa thương các ngài. Chúa luôn nhắc nhở các ngài là anh em với nhau trong gia đình của Chúa. Chính vì thế, mà Chúa đã nói: “Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35). Để cho các tông đồ hiểu hơn, Chúa gọi một em bé tới, đặt giữa các ngài, và Chúa nói: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đả sai Thầy” (Mc 9, 36 – 37). Như vậy, Chúa muốn chúng ta sống khiêm hạ, đơn sơ, bé nhỏ, phó thác và biết đón nhận nhau, không hơn thua, tranh giành nhau, và hãy nhường nhịn nhau, yêu thương nhau như anh em một nhà.
Lạy Chúa, Chúa chịu chết không những cho riêng chúng con mà còn cho tất cả mọi người, không biệt một ai cả. Chúa chịu chết cho chúng con là vì Chúa yêu thương chúng con vô cùng, thế mà chúng con không biết ơn Chúa dạy là phải yêu thương nhau, giúp nhau nên thánh, mà lại làm phiền lòng Chúa rất nhiều, đó là chúng con loại trừ nhau, sống ích kỷ hận thù, chia rẽ, bè phái, làm nhiều điều trái khoáy, thủ đoạn để hại nhau, xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con sống theo ý Chúa, sống yêu thương nhau, làm vinh danh Chúa qua đời sống chia sẻ, phục vụ mọi người. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 7 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: đón nhận mọi sự từ Chúa, dù không hiểu lý do, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên cho thấy: Thiên Chúa thấu biết ý nghĩa của mọi việc. Hoạt động của con người có thể dẫn đến những hậu quả hoàn toàn trái ngược nhau. Còn cách xử sự của Thiên Chúa, con người không thể hiểu được, nên, thái độ hợp lý nhất là: hạ mình chấp nhận tất cả những gì Người muốn. Thời gian chẳng còn bao lâu; vậy kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng, vì bộ mặt thế gian này đang biến đi. Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: phó thác mọi sự vào tay Thiên Chúa, Đấng cầm quyền sinh tử, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nítxê nói: Một thời để sinh ra, một thời để chết đi: cái tử nhất thiết theo sau cái sinh, và mọi người sinh ra rồi cũng biến tan trong cái chết… Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành; không ai cứu khỏi tay Ta được. Ta giữ chìa khóa của tử thần và âm phủ.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: tin tưởng, kiên nhẫn chịu đựng mọi thử thách, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca nói: Con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 36, vịnh gia kêu gọi: Hãy ký thác đường đời cho Chúa, chính Người sẽ ra tay. Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Chúa. Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải phục vụ mọi người. Chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Chúa; Chẳng tự hào về điều gì, ngoài tình yêu thương phục vụ như Chúa. Thập giá là đau khổ, sỉ nhục, và thất bại, nhưng cũng là: niềm vui, vinh dự, và chiến thắng vinh quang. Trong Đức Kitô: Mọi sự rồi sẽ qua đi: đau khổ sẽ qua, niềm hoan lạc sẽ đến. Có một thời để sinh ra và có một thời để chết. Ước gì Chúa cũng ban cho chúng ta được sinh ra đúng thời và chết đúng lúc. Ai đã cưu mang lòng kính sợ Thiên Chúa, thì sinh ra ơn cứu độ cho chính mình, nhờ các đau đớn trong tâm hồn khi sinh nở. Quả thật, một cách nào đó, chúng ta là cha mẹ của chính mình, khi biết tự do chọn làm điều thiện, nhờ đó, chúng ta tạo cho mình một hình hài, sinh ra mình và cho mình được chào đời. Chúng ta làm được điều vừa nói, khi đón nhận Thiên Chúa ngự đến trong chúng ta, để rồi, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, con cái Đấng quyền năng và con cái Đấng Tối Cao. Trái lại, chúng ta sẽ biến mình thành những kẻ sinh non và làm cho mình trở nên bất toàn và yếu đuối, bao lâu hình ảnh Đức Kitô chịu đóng đinh, chưa được hình thành trong chúng ta. Nếu chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của việc sinh ra đúng lúc, thì cũng hiểu rõ ý nghĩa của việc chết đúng lúc. Chính vì Đức Kitô, mà mỗi ngày, chúng ta bị giết; chúng ta đã mang án tử nơi mình. Chết mỗi ngày là không bao giờ sống cho tội lỗi. Chết đối với tội lỗi và sống nhờ Thần Khí là một hồng ân của Thiên Chúa. Cái gì Người giết, thì Người cũng hứa sẽ làm cho sống. Ước gì mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".
Sau khi Thầy Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục sinh lần hai, các môn đệ đã cãi nhau ngay ngoài đường xem ai là người lớn nhất. Như thế tham vọng cá nhân vẫn tồn tại cả nơi những người đã bỏ mọi sự mà theo Thầy (Mc 9, 33-37). Sau vụ tranh cãi có tính nội bộ trên, bài Phúc Âm hôm nay kể lại chuyện tranh cãi với người ngoài nhóm. Gioan, “con của Thiên Lôi”, là người khởi đầu câu chuyện. Thực ra ông chỉ là người nói lên phản ứng chung của các anh em. Họ bực bội vì có người “không theo chúng ta”, không ở trong nhóm, mà lại dám lấy Danh Thầy Giêsu để trừ quỷ (c. 38). Và thực sự người đó đã trừ được một cách thành công. Danh Giêsu có sức mạnh trừ quỷ, đó là điều không thể chối cãi. Nhưng đối với Gioan và các bạn của ông, chỉ những người trong nhóm mới có quyền dùng Danh ấy. Chính vì thế Gioan thú nhận, “chúng con đã cố ngăn cản…” Họ muốn độc quyền sử dụng Danh Thầy, nghĩa là muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu ai cũng lấy Danh Giêsu mà trừ quỷ, thì còn thế giá gì cho các ông! Chẳng rõ các môn đệ đã làm gì để ngăn cản người kia, Chỉ biết Thầy Giêsu không chấp nhận thái độ cấm đoán ấy (c. 39). Thầy bao dung và cởi mở hơn nhiều. Thầy có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Hẳn người ấy có niềm tin nào đó vào Thầy, vào quyền năng của Danh Thầy. Như thế anh ấy đã có tương quan ít nhiều với Thầy, dù không theo Thầy làm môn đệ chính thức trong nhóm. “Ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Nguyên tắc này của Đức Giêsu khiến chúng ta có thêm nhiều bạn, và bớt số người mà ta nghĩ là kẻ thù. Nó khiến chúng ta ra khỏi sự lo sợ vì quyền lợi mình bị đe dọa, và tránh được những tranh chấp không đáng có. Thật ra thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ sự ích kỷ chứ không từ lòng đạo đức thực sự. Có thứ khép kín ích kỷ của một cá nhân, nhưng cũng có sự khép kín ích kỷ của một tập thể, một họ đạo, một dòng tu, một tôn giáo, một quốc gia. Đức Giêsu mời chúng ta vượt ra khỏi ranh giới của nhóm mình, để mở ra với thế giới, với các kitô hữu khác, với những người không tin. Chúng ta cần thấy những điều chân thiện mỹ nơi họ như những tia nắng đến từ Vừng Đông rực rỡ là Đức Giêsu, và cảm được mối dây thầm kín kết nối họ với Thiên Chúa. Cần tập nhận ra Đức Giêsu đang hiện diện và hoạt động ở những nơi, những tổ chức và những người mà ta không ngờ. Rao giảng Tin Mừng cho một người là nói với người ấy rằng anh đã quen biết Giêsu và Giêsu đã ở trong anh từ lâu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài. Xin tha thứ cho con vì đã quá bận tâm đến những điều mình nói, đến ảnh hưởng của mình, đến những điều người ta nói và nghĩ về con. Xin tha thứ cho con vì muốn nên giống kẻ khác mà quên mất chính mình, vì khao khát có được những đức tính của họ, mà quên phát triển bản thân. Xin tha thứ cho con vì đã mất nhiều thời gian cho việc phô trương hơn là cho việc xây dựng bản thân. Xin cho con biết cởi mở với anh em; nhờ đó, Chúa có thể đến với con như đến với một người bạn. Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người” mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài vì con là con của Chúa và là anh em của mọi người. (Michel Quoist) ------------------------------
Con người nơi nào thời nào cũng mơ ước được khôn ngoan. Sách Huấn ca hôm nay cho thấy: Khôn ngoan làm cho con người nên cao trọng. Được sự sống. Được vinh quang. Người khôn ngoan sẽ lãnh đạo người khác. Dòng dõi sẽ trường tồn. Tuy nhiên để đạt tới khôn ngoan phải qua một cuộc thử luyện: “Vì ban đầu, khôn ngoan sẽ đồng hành với họ qua nẻo đường quanh co, giáng xuống trên họ hãi hùng run rẩy, và dùng kỷ luật của mình mà tôi luyện bao lâu chưa tin tưởng họ được,; rồi lại thử thách họ qua những phán quyết của mình” (năm lẻ).
Thánh Gia-cô-bê cho biết khôn ngoan chính là người biết từ bỏ ý mình để làm theo ý Chúa. Chúa làm chủ muôn vật muôn loài. Làm chủ cuộc đời chúng ta. Làm chủ cả linh hồn. Cả thân xác. Cả trí tuệ. Cả tài năng. Cả chương trình. Cả thời gian. Vì thế đừng tự mình toan tính gì. Khôn ngoan chính là biết tìm ý Chúa. Làm mọi sự theo ý Chúa. Muốn những gì Chúa muốn. Để Chúa điều khiển cuộc đời. “Thật vậy, các người chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. Thay vì nói: “Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia”, thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu” (năm chẵn).
Chúa Giê-su dạy ta biết khôn ngoan là đừng tìm theo ý mình. Chỉ làm vinh danh Thiên Chúa. Các tông đồ thiếu khôn ngoan. Vì bị tính tự ái, phe nhóm, độc quyền chi phối. Chỉ tìm thoả mãn tự ái của mình. Muốn độc quyền thuộc về Chúa và làm chứng về Chúa. Vì thế mà khép kín. Ích kỷ. Nghĩ cho bản thân. Không nghĩ cho Chúa. Cho Nước Chúa. Hẹp hòi. Không chịu mở rộng cánh cửa. Càng không mở rộng tâm hồn. Chúa đã chỉnh đốn các ông. Hãy khôn ngoan. Tìm ý Chúa chứ đừng tìm ý riêng. Tìm đồng thuận chứ đừng tìm đối nghịch. Tìm điểm chung chứ đừng tìm điểm riêng. Tìm hài hoà chứ đừng tìm khác biệt. Tìm hợp nhất chứ đừng tìm chia rẽ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Thật đơn sơ biết bao. Mà thâm sâu biết bao. Rộng mở. Mà khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin ban cho con đức khôn ngoan. Để con biết phục vụ Chúa.
Disney và Roy là hai anh em, mỗi người có một biệt tài và họ đã sớm nhận ra tài năng của nhau. Disney là họa sĩ, còn Roy là một doanh nhân. Họ phân công với nhau: Roy lo sản xuất và tiêu thụ. Disney thì tập trung vào sáng tác. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ này, hai anh em đã tạo được sự nghiệp lớn lao.
Nhận ra tài năng của người khác là việc ai cũng có thể làm, nhưng thành thật nhìn nhận tài năng và cùng cộng tác với người khác là điều không dễ thực hiện. Ðó cũng đã là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu. Họ khám phá có người nhân danh Chúa để trừ quỷ, nhưng người này lại không thuộc nhóm của họ, thế là họ ngăn cấm người ấy, Chúa Giêsu trả lời: "Ðừng ngăn cấm người ta... Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Qua suốt dòng lịch sử, đặc biệt từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội không ngừng đẩy mạnh sự hợp nhất giữa các Giáo Hội Kitô, hoặc trong chính nội bộ của mình. Nhu cầu của Giáo Hội thật đa diện, cần có sự đóng góp của nhiều người mới mong đáp ứng đầy đủ. Những khác biệt trong Giáo Hội là vẻ đẹp muôn mầu muôn sắc, nếu tất cả múc lấy nguồi suối từ Chúa Giêsu và sức mạnh từ Thánh Thần.
Ước gì lời Chúa hôm nay hun đúc chúng ta lòng mong muốn làm điều tốt cho người khác, tìm kiếm chân lý hơn là tìm cách thắng cuộc trong tranh luận. Xin Chúa Kitô là nguồn hiệp nhất trong Giáo Hội giúp chúng ta thành tâm hiệp nhất với nhau trong mọi việc.
Ông Gio-an nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.” (Mc. 9, 38-39)
Có một lúc nào đó các tông đồ đã tranh luận với nhau để xem ai là người lớn nhất. Và đây lại một cuộc cãi cọ nữa, lần này với một người lạ mà Chúa đã lệnh cho thay vào chỗ Người. Chính Gioan là người đến kể lại cho Thầy về trường hợp người trừ quỷ lạ mặt đó. Ông Gioan này, một con người hiền dịu như thế, lại rất có thể nổi nóng, tàn bạo. Ta còn nhớ, một ngày nào đó, ông đã xin Chúa Giêsu cho lửa trời và sấm sét xuống tiêu diệt một làng của người Samari, vì họ đã không chịu tiếp rước các ngài. Ông không gớm cả những biện pháp mạnh. Ở đây, ông lại bực tức với một người ngoại nhập lấy danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ và được thành công. Thật là xì-căng-đan hết chỗ!
Vì “người ấy không theo chúng ta.” Người ấy không phải là người thuộc nhóm chúng ta và kìa anh ta tiếm quyền của chúng ta, dẫm chân lên những mảnh vườn của chúng ta. Đó là một sự lộn xộn mà anh ta xin Chúa Giêsu sửa sai. Vả lại các tông đồ cũng đã bắt đầu xen vào. Các ông đã ngăn cản anh lấy danh nghĩa Chúa mà hành đông và các ông đòi Chúa công nhận hành đông của các ông. Còn Gioan một phần nào như muốn nói: “Khỏi cần đi theo Thầy nữa, làm môn đệ Thầy mà làm chi, khi mà kẻ tới trước đều có thể hành động nhân danh Thầy.”
Đừng là ốc đảo
Phản ứng của Chúa Giêsu, đày lòng bao dung, đã phải làm cho các môn đệ thất vọng: Người lệnh cho các ông cứ để cho người lạ này trừ được bao nhiêu quỷ thì cứ làm, và công việc ấy biện minh cho con người anh: người mới gia nhập này tỏ cho thấy có nhiều dấu hiệu thiện chí, công việc anh làm đều hướng về Chúa Giêsu, và một khi ra đi rồi, chẳng lẽ anh lại đâm ra khinh rể và nhục mạ Người. Ở đây Chúa Giêsu xem ra lạc quan, sẵn sàng kết nạp mọi người ở ngoài, sẵn sàng tỏ thái độ dễ dàng để chiêu mộ những người theo. Thực tế mà nói, Chúa muốn cho các môn đệ thấy rằng thái độ của các ông là không có căn cứ, là hẹp hòi.
Chúa giải thích thêm bằng câu nói bất hủ: “Ai không chống lại tôi, là ủng hộ tôi.” Người truyền lệnh cho các ông phải vượt khỏi những cái nhìn hoàn toàn phàm trần và hẹp hòi của các ông, bỏ ra một bên tinh thần phe nhóm và cởi mở với tất cả mọi người thiện chí. Nhưng thái độ này của Chúa Kitô không phải là “ba phải” chút nào: khi phải chiến đấu chống sự ác, Người tỏ ra kiên quyết và Người sẽ tuyên bố: “Ai không cùng với chúng ta, là chống lại chúng ta.” Có nghĩa là trung lập khi phải đối phó với sự ác chính là đồng lõa với sự ác vậy.
Người ta thường so sánh khả năng làm việc nhóm giữa người Việt Nam và người Nhật Bản, kết quả như sau:
Cùng một công việc, một người Việt và một người Nhật, người Việt hơn hẳn người Nhật.
Hai người Việt làm việc với nhau và hai người Nhật làm với nhau, kết quả bằng nhau.
Ba người Việt làm việc chung và ba người Nhật làm việc chung, thì ba người Nhật hơn hẳn về chất lượng cũng như tinh thần cộng tác.
Tại sao vậy? Thưa không phải người Việt không nhận ra khả năng của nhau! Cả người Việt và Nhật đều nhận ra khả năng của người đối diện. Tuy nhiên, về sự trân trọng tài năng và sử dụng chất xám trong khi làm việc chung thì người Nhật bỏ xa chúng ta!
Đây cũng chính là tâm trạng, thái độ của các môn đệ khi thấy người khác làm việc tốt hơn mình, nhưng chỉ vì họ không thuộc về nhóm của các ông, nên các ông tìm cách ngăn cấm họ.
Với Đức Giêsu thì khác. Khi thấy thái độ kỳ thị của các ông, Ngài đã dạy cho họ bài học về sự hiệp nhất trong đa dạng khi nói: “Đừng ngăn cấm người ta… Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự đa dạng trong Vương Quốc của Đức Giêsu. Đồng thời cũng mời gọi các ông biết đón nhận những sự khác biệt đó như là một cơ hội để học hỏi và cùng nhau chung tay xây dựng Nước Trời.
Ngày nay, trong đời sống thường nhật, có lẽ nhiều khi chúng ta mong muốn được nhiều người tôn trọng mình và coi thường người khác. Hay có khi chúng ta tìm cách thổi phổng uy tín dởm của mình và luôn tìm cách đạp đổ danh thơm tiếng tốt của đối phương. Hoặc có những lúc chúng ta không ưa ai thì cho dù người đó có tốt lành, gương mẫu thế nào đi nữa, trước mắt và trong lối suy nghĩ của ta, họ chỉ là “con ông nọ, con bà kia ý mà”!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được trái tim rộng mở như Chúa, để chúng con biết nhìn thấy điều tốt đẹp nơi anh chị em của mình, và cùng nhau cộng tác nhằm góp phần xây dựng sự hiệp nhất cho Vương Quốc của Chúa trên trần gian. Amen.
Sứ điệp: Tin Mừng phải được rao giảng. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không phải là đặc quyền của riêng ai, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay đã xác định rõ thái độ con phải có đối với việc loan báo Tin Mừng. Đang khi các tông đồ tỏ ra không bằng lòng về một người lạ mặt lấy Danh Chúa mà trừ quỷ, thì chính Chúa đã bênh vực người đó. Thông truyền cứu độ, đó là sứ mạng Chúa trao cho tất cả mọi người, không trừ ai. Và tiêu chuẩn để xác định một người thuộc về Chúa, đó là người ấy có hành động nhân danh Chúa hay không.
Lạy Chúa, mỗi khi nhận được tin vui về người thân, con chỉ muốn đến ngay với họ. Và nếu như họ chưa biết tin vui ấy, thì con muốn rằng chính con sẽ là kẻ báo tin vui cho họ. Tin vui càng lớn bao nhiêu, con càng muốn báo cho họ sớm bấy nhiêu. Nhưng tất cả các tin vui mà con vừa thưa với Chúa thật là tầm thường so với Tin Mừng mà Chúa đã đem đến cho loài người. Đây là tin trọng đại làm thay đổi số phận cả loài người. Tin trọng đại ấy khơi dậy trong tâm hồn con ước muốn được ra đi loan báo cho anh chị em con. Con muốn ra đi, thoát ly tất cả những cũ kỹ hư nát của nếp sống, muốn gội sạch lớp mốc đã phủ dầy theo ngày tháng, muốn trở thành một con người mới nhân danh Chúa. Ước mơ ấy bừng sáng trong con, hoàn toàn mới mẻ, cao thượng và mạnh mẽ.
Ước gì đó cũng là ước mơ của tất cả mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Thay vì bỏ nhà đi hoang, sẽ lên đường rao giảng Nước Chúa. Con dâng lên Chúa ước nguyện đó, xin Chúa chúc phúc cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con”.
Hôm qua, Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác. Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Chúa Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Chúa Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.
- Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với nhũng nhóm khác. Phương châm của thế gian là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta"
- Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, nhưng phải sẵn sàng hợp tác với tất cả mọi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là "Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta".
B.... nẩy mầm.
1. Kẻ thốt lên những lời sặc mùi đố kị này là ai? Cũng là kẻ một lần khác đòi khiến lửa trời xuống thiêu rụi một làng Samari không tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Đó chính là Gioan, "người môn đệ mà Chúa Giêsu thương yêu". Con người tự nhiên của Gioan vốn xấu như vậy. Nhưng nhờ tình thương của Chúa, sau này Gioan trở nên tốt, có thể nói là tốt hơn những môn đệ khác. Nhìn gương thánh Gioan, tôi không thất vọng về bản chất xấu xa của mình, nhưng tôi càng tin cậy vào tình thương có sức biến đổi tuyệt vời của Chúa.
2. Gioan cũng là một trong 3 môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu. Thế mà vẫn nặng đầu óc phe phái. Gioan đố kị với cả những người "nhân danh Chúa mà trừ quỷ", tức là những người làm việc tốt.
Thánh Gioan mà còn như thế thì huống chi là tôi. Tôi phải khiêm tốn thừa nhận trước Chúa và trước lương tâm rằng tôi đã nhiều lần đố kị ganh ghét các anh chị em tôi, ganh ghét không phải vì họ xấu mà chính vì họ tốt. Và tôi phải hết sức đề phòng không để cho khuynh hướng ganh ghét ấy khuynh đảo tôi nữa.
3. Tôi thường nhìn người khác một cách nghi kị và khắt khe. "Họ không ủng hộ tôi tức là họ chống đối tôi". Do cái nhìn ấy, nếp sống của tôi trở nên bi quan và khép kín. Hôm nay Chúa dạy tôi một cái nhìn rất bao dung và rất lạc quan "Ai không chống đối các con là ủng hộ các con". Chắc chắn với cái nhìn này đời tôi sẽ vui tươi hơn và tôi sẽ làm việc thoải mái hơn.
4. Truyện ngụ ngôn Ấn độ có kể như sau:
Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần gian.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con không thể gặp được một con người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một con người thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp… nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp.
Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng tốt". (Chờ đợi Chúa)
Hôm qua, Đức Giêsu dạy các môn đệ bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác. Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Đức Giêsu chẳng những không ngăn cấm họ mà con sửa dạy các môn đệ của mình:
- Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là: “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”.
- Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, nhưng phải sẵn sàng hợp tác với tất cả những người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.
Kẻ thốt lên những lời sặc mùi đố kỵ này là ai? Cũng là kẻ một lần khác đòi khiến lửa trời xuống thiêu rụi một làng Samari không tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ Ngài? Đó chính là Gioan. Ông cũng muốn độc quyền cho Chúa hay các Tông đồ mà thôi. Nhưng Chúa lại bảo: “Chớ ngăn cản họ...”(c.39). Chúa muốn nói rằng dù là ai mà nại vào danh Ngài tức là đã có lòng tin vào quyền của Chúa rồi. Vậy khi trừ được ma quỷ càng làm tăng giá trị đức tin nơi người đó và nạn nhân. Và đó là một vinh danh Thiên Chúa.
Ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ một bài học đừng ganh tị nhau trên con đường phục vụ Thiên Chúa. Mỗi người phải ý thức mình là một phần trong cơ thể. Tuy các chi thể khác nhau nhưng làm thành một thân thể duy nhất. Mỗi một chi thể phải làm xong, và làm hoàn hảo công tác của mình. Cho nên, hãy ý thức rằng những chức vụ khác nhau trong Giáo hội không phải là sự phân chia giai cấp mà là những công tác khác nhau của những cá nhân trong một tập thể Hội thánh Chúa phục vụ cho vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
Thần học mục vụ ngày nay có đề cập đến hai hạn từ “bao hàm” và “loại trừ”. Các môn đệ ngăn cản người ngoài nhóm lấy danh Chúa trừ quỷ thuộc hạng “loại trừ”, còn cung cách của Đức Giêsu là “bao hàm”, bao dung chấp nhận người ngoài nhóm lấy danh mình trừ quỷ, bởi vì nhân danh mình là một cách nào đó đã có liên hệ với mình. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Người mang tâm thức “loại trừ” thường mặc cảm tự ti, luôn sợ bất lợi cho mình hoặc phe nhóm mình. Vì thế, tốt nhất là ngăn cản, không muốn cho ai hành động. Còn người có khuynh hướng “bao hàm” sẵn sàng đón nhận những khác biệt, nhất là những khác biệt có thể mang lại lợi ích chung. Điều này càng đúng hơn cho thời đại hôm nay, vì thế giới ngày càng đa cực, đa diện hơn trong cách ứng xử, tiếp cận chân lý (5 phút Lời Chúa).
Sự cộng tác là cần thiết và ích lợi
Nhận ra tài năng của người khác là việc ai cũng có thể làm, nhưng thành thật nhìn nhận tài năng và cộng tác với người khác là điều không dễ thực hiện. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Đức Giêsu. Họ khám phá có người nhân danh Chúa để trừ quỷ, nhưng người này lại không thuộc nhóm của họ, thế là họ ngăn cấm người ấy. Đức Giêsu trả lời: “Đừng ngăn cấm người ta... Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Walt Disney và Roy là hai anh em, mỗi người có một biệt tài và họ đã sớm nhận ra tài năng của nhau. Disney là hoạ sĩ, còn Roy là một doanh nhân. Họ phân công với nhau: Roy lo sản xuất và tiêu thụ. Disney thì tập trung vào sáng tác. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ này hai anh em đã được sự nghiệp lớn lao (Mỗi ngày một tin vui).
Vườn hoa Giáo hội Chúa thì muôn màu muôn vẻ, nhưng cùng góp chung tô điểm cho Nước Chúa thêm xinh đẹp rạng rỡ; cánh đồng truyền giáo bao la rất cần đến nhiều sáng kiến của từ các cá nhân, hội đoàn và các linh đạo hoạt động mới.
Là người con của Chúa trong lòng Giáo hội, chúng ta không ganh tị với việc thiện của người khác, không tự cho mình có đặc quyền lo việc Chúa, nhưng tất cả đều được mời gọi có những sáng kiến làm chứng cho Chúa và giúp đỡ tha nhân.
Ngoài ra, trong khi phục vụ Giáo hội, chúng ta phải đặc biệt tránh cái thành kiến, nó làm lệch lạc sự việc, nó chẳng khác gì cặp kính màu mà ta đeo trước mắt. Người đeo mắt kính tròng trắng sẽ thấy cảnh vật sáng sủa. Trái lại, với cặp kính màu hồng, cảnh vật cũng đượm màu hồng, nhưng với cặp kính đen, mọi sự sẽ ra u buồn đen tối.
Truyện: Bao dung và hợp tác
Truyện ngụ ngôn Ấn Độ có kể như sau: Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần gian.
Trước tiên thần gọi Durianna, một vua nổi tiếng tàn ác đến: “Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một người có lòng tốt”. Durianna đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: “Lạy Ngài, con không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn”.
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng là quảng đại, bao dung, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một con người thực sự xấu xa”.
Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: “Lạy ngài, con xin lỗi, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, tham lam, trộm cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp, vì cho dù vấp ngã mọi người đều có lòng tốt” (Góp nhặt).
Hôm qua, Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay, Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác.
Chúng ta thấy phương châm của thế gian thường là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta". Còn phương châm của Chúa Giêsu là: "Ai không chống đối Ta tức là ủng hộ Ta" (Mc 9,40).
1. Chúng ta đã biết Gioan là ai rồi! Gioan đã một lần đòi khiến lửa từ trời xuống để thiêu rụi một làng Samaria, khi họ không chịu tiếp đón Chúa và các môn đệ qua đó để lên Jêrusalem. Gioan tự phong cho mình là "người môn đệ được Chúa Giêsu thương yêu", thế nhưng tinh thần của Gioan vẫn còn khác xa với tinh thần của Chúa. Con người tự nhiên của Gioan là như thế, vẫn còn rất hẹp hòi và có nhiều hạn chế. Thế nhưng, nhờ tình thương của Chúa mà sau này Gioan được trở nên tốt, có thể nói là tốt hơn những môn đệ khác.
Nhìn gương của Gioan chúng ta sẽ không thất vọng về bản chất xấu xa của mỗi người chúng ta, nhưng thêm tin tưởng hơn vào tình thương có sức biến đổi tuyệt vời của Chúa. Phải nói rằng, chúng ta rất dễ bị cám dỗ để nhìn người khác với cặp mắt nghi kỵ và khắt khe. "Họ không ủng hộ chúng ta tức là họ chống đối chúng ta". Những cái nhìn như thế, chẳng những không đem lại niềm vui nào cho cuộc sống mà còn gây ra những hậu quả nhiều khi rất nặng nề làm cho cuộc sống trở nên như một hỏa ngục!
2. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta phải có một cái nhìn bao dung và lạc quan "Ai không chống đối các con là ủng hộ các con" (Lc 9,50). Chắc chắn với cái nhìn này, cuộc sống của chúng ta sẽ vui tươi hạnh phúc và làm việc thoải mái hơn.
Người ta kể lại: hôm ấy một bác nông phu nọ đang cày ruộng, tình cờ có một người khách qua đường dừng lại hỏi.
- Thưa bác, người dân làng trước mặt tôi đây là người thế nào?
Không buồn dừng tay cày, cũng chẳng cần phải ngoảnh mặt lên nhìn người khách lạ, bác nông phu trả lời bằng một câu hỏi khác.
- Thế thì làng vừa đi qua ông đã gặp thấy những người như thế nào?
Người khách lạ vừa bâng quơ chỉ chỏ, vừa trả lời.
- Ôi thôi, toàn những người độc ác, ích kỷ, vô lương tâm.
Bấy giờ, bác nông phu mới dừng tay cày ngước mắt lên nhìn người khách lạ và nói.
- Rất tiếc, tôi cũng phải nói với ông rằng: những người trong làng trước mặt ông đây cũng y như thế thôi. Ông sẽ khám phá ra rằng, họ cũng là những người giống y như những người trong làng ông vừa mới đi qua.
Nghe vậy, người khách lạ bực mình phóng ngựa ra đi. Xế chiều hôm ấy, một người khách lạ khác cũng đi ngang qua lối ấy, thấy bác nông phu cày ruộng đang chuẩn bị ra về, khách qua đường dừng chân lịch sự hỏi: - Những người dân sống trong làng gần đây thế nào?
Bác nông phu cũng đáp lại bằng một câu hỏi y như bác đã hỏi người khách lạ ban sáng.
- Những người trong làng ông vừa đi qua thế nào?
Người khách lạ vui vẻ đáp:
- Họ thực là những người tốt lành, niềm nở, hiếu khách, tôi rất tiếc là phải sớm từ giã họ.
Bác nông phu liền bỏ cày, bỏ cuốc, tiến lại gần người khách qua đường vừa bắt tay vừa nói:
-Tôi rất mừng vì những người ông đã gặp, ước chi ông sẽ gặp được những người như thế trong làng gần đây.
Khách qua đường thứ hai mỉm cười, lại vẫy tay chào bác nông phu rồi ra đi tiếp vào làng.
Câu chuyện trên đây trích từ sách chuyện cổ của những người thổ dân Châu mỹ Latinh. Câu trả lời của hai người khách qua đường cho chúng ta thấy cái lợi, cái hại từ cái nhìn của chúng ta đối với cuộc sống. Nó chẳng khác gì những cặp kính màu mà ta đeo trước mắt. Người đeo mắt kính tròng trắng sẽ thấy cảnh vật sáng sủa. Trái lại, với cặp kính màu hồng, cảnh vật cũng đượm màu hồng, nhưng với cặp kính đen, mọi sự sẽ ra u buồn đen tối.
Chúng ta thường nghe nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Bao nhiêu sự giằng co căng thẳng, bao nhiêu sự hiểu lầm cay đắng, bao nhiêu đổ vỡ đau thương trong các quan hệ xã hội đã bắt nguồn từ cái nhìn chủ quan, hạn hẹp, còn quá lệ thuộc vào những thành kiến ích kỷ này. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta đừng quá dễ dàng để cho mình bị lôi cuốn vào những tình cảm, những xúc động của xác thịt làm lu mờ cả lý trí chúng ta và cho chúng ta biết quảng đại trong cách nhìn đối với tất cả mọi người để chúng ta thấy được những cái hay cái tốt của người khác hầu chúng ta có thể cùng nhau nắm tay xây dựng cho Chúa một xã hội tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, xin đừng để trái tim con khép lại trên chính mình,
nhưng biết sống quảng đại như Chúa,
biết vươn lên cao, vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường
bằng một tâm tình bao dung tha thứ như Chúa. Amen.
Theo sách Tin Mừng thánh Máccô, trong nội bộ của các tông đồ thì tranh nhau, hơn thua nhau, không nhường nhịn nhau: “Vì dọc đường, các ông tranh luận ai là người lớn nhất” (Mc 9, 34). Còn với những người ở bên ngoài thế gian, thì các ngài được có Chúa ở với các ngài như là các ngài được kho báu quý giá vô cùng, cho nên các ngài không muốn chia sẻ Chúa của các ngài cho một ai cả. Các ngài muốn giữ Chúa cho riêng bản thân mình. Nhất nữa, các ngài muốn Chúa yêu thương, lo lắng cho các ngài mà thôi. Vì thế, các ngài độc quyền về Chúa của mình, không cho phép người khác làm bất cứ điều gì giống như Chúa đã làm: “Thưa Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không thuộc về ta, và chúng con đã ngăn cấm y” (Mc 9, 38). Nhưng Chúa đã không cho các ngài làm như vậy, vì đó là mầm móng sự chia rẻ, ganh tỵ, chiến tranh, hận thù nhau, và không thể nào rao giảng Tin Mừng của Chúa cho người khác được.
Chúa không cho các tông đồ làm như vậy: “Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con” (Mc 9, 39). Chúa mong muốn cho tất cả con người chúng ta sống theo lời Chúa dạy thật tốt để rồi yêu thương anh chị em của chúng ta, làm các việc lành, việc thiện, việc tốt mà cứu giúp anh chị em của chúng ta, nhất là những người đang gặp gian nan, khốn khó, đau khổ, đói khát, thiếu thốn….
Cuộc sống chung quanh chúng ta, có rất nhiều anh chị em đang gặp bao tai họa, rất cần sự cứu giúp, đỡ nâng của chúng ta. Nếu chúng ta nhân danh Chúa làm điều tốt lành cho anh chị em đó thì họ sẽ thấy Chúa qua chúng ta, chúng ta xứng đáng là môn đệ chủa Chúa, nhất định danh Chúa sẽ được lan rộng khắp mọi nơi trên thế gian này.
Đàng khác, điều Chúa cần các tông đồ và chúng ta là hãy cộng tác với Chúa để ngăn cản, để đẩy lui sự dữ, sự ác, sự xấu ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Những người hay làm sự ác, sự dữ, sự xấu, mang đến điều hại chứ không là điều có lợi cho anh chị em chúng ta, chúng ta cần ở bên họ, giúp đỡ họ làm điều thiện, điều lành, điều tốt cho cho những điều ác, điều dữ, điều xấu ở trên.
Lạy Chúa, Chúa nói với thánh Gioan cách riêng, với các tông đồ nói chung và ngày hôm nay là chúng con: “Đừng ngăn cấm họ “, nghĩa là khi người khác làm điều tốt lành cho anh em mình vì lòng mến Chúa thì hãy khuyến khích họ, đồng thời, Chúa cũng dạy chúng ta là tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau trong gia đình của Chúa, nên hãy thương yêu nhau, nâng đỡ nhau, giúp nhau thực hiện thánh ý Chúa để làm cho cuộc sống bớt khổ đau, bớt nghèo đói, bớt rách nát để có cơ hội sống phụng sự Chúa tốt hơn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 7 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: tránh xa lời dối trá, tin tưởng và vâng theo ý Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên cho thấy: Thiên Chúa ban cho mỗi người một phần hạnh phúc. Hơn bất cứ một giá trị hiển nhiên nào khác, của cải vật chất và mọi thứ phú quý giàu sang đều dẫn đến thất vọng. Về điểm này, hơn bất cứ chỗ nào khác, sách Giảng Viên đi trước và báo trước Tin Mừng. Chết là mất tất cả, chỉ còn lại một tài sản duy nhất: đó là đã sử dụng của cải mình có, dù lớn hay nhỏ, theo thánh ý Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa; xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có, chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng. Con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa: Số phận con ở trong tay Ngài.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: không chiều theo dục vọng, nhưng, quy hướng mọi sự về Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Giêrônimô nói: Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới… Lạy Đức Chúa là Cha và là Thiên Chúa của đời con, xin đừng để mặc con chiều theo tư tưởng xấu xa, đừng để cho mắt con trâng tráo; xin đẩy dục vọng xa khỏi con. Xin đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn. Bằng không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: yêu mến khôn ngoan và yêu mến luật Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca nói: Ai phụng sự khôn ngoan thì cũng phụng thờ Đấng Thánh, và ai yêu mến khôn ngoan thì được Đức Chúa mến yêu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 118, vịnh gia cho thấy: Kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào. Đường con Chúa rõ mười mươi, huấn lệnh, thánh ý, con thời vâng theo.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta. Đường lối, huấn lệnh Chúa là đường, là sự thật, là sự sống; Ai không chống lại ánh sáng là đang ủng hộ ánh sáng, là đang tiến bước và giúp người khác tìm về nẻo chính đường ngay. Ánh sáng của Lời Chúa sẽ vạch trần đâu là lời giả dối, đâu là lời chân thật; đâu là của cải chóng qua, đâu là kho tàng vĩnh cửu; đâu là những dục vọng thấp hèn, đâu là niềm khát khao cao thượng. Mọi công lao vất vả của con người trên trần gian này là để cho miệng ăn, răng nhai và bụng tiêu hóa. Đành rằng thức ăn làm khoái khẩu đôi chút, nhưng, chỉ khoái bao lâu thức ăn còn ở trong miệng mà thôi. Sau khi ăn uống rồi, linh hồn của người ăn cũng không được no thỏa, vì người ấy còn muốn ăn nữa. Ai ăn Lời Chúa, ăn đường lối thánh chỉ của Chúa, cũng vậy, miệng thì vất vả làm việc, mà lòng không được thỏa thuê, vì lúc nào cũng muốn đào sâu thêm, người ấy hăm hở tìm hiểu những gì thuộc về sự sống và đi con đường chật hẹp đưa tới sự sống. Người ấy nghèo về những việc xấu, nhưng lại, biết Đức Kitô là sự sống cư ngụ ở đâu. Ước gì chúng ta biết đến gần Đức Kitô, đến gần ánh sáng, để chúng ta có thể biện phân được đâu là giả dối, đâu là chân thật: có những điều xem ra ủng hộ ta, nhưng lại, làm cho ta lầm lạc; có những điều xem ra chống lại ta, nhưng lại, dẫn ta đến sự thật vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa. "Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".
Khi nghe một người chịu tháo khớp vì mắc bệnh tiểu đường, chúng ta chẳng ngạc nhiên mấy. Mất đi bàn chân mà kéo dài được sự sống thì còn hơn là giữ lại mà phải chết. Có bao nhiêu người chịu giải phẫu mỗi ngày. Họ chấp nhận cắt bỏ một phần thân thể bị hư hoại, để mong giữ lại được cả mạng sống. Tuy việc cắt bỏ luôn đi kèm với đau đớn và mất mát suốt đời, nhưng người ta vẫn vui vì thấy mình còn sống. Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm ta ngạc nhiên và không vui. Bài này có nhiều câu được lặp lại như một điệp khúc. ‘‘Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì anh hãy chặt nó đi… Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì anh hãy chặt nó đi… nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì anh hãy móc nó đi…” Có cần phải chặt tay, chặt chân hay móc mắt không? Có cần phải hiểu các câu này của Chúa theo nghĩa đen không? Nếu hiểu theo nghĩa đen, chắc khó mà có một kitô hữu lành lặn. Bởi vậy chúng ta thường dễ bỏ qua hay hiểu theo nghĩa bóng, và có nguy cơ làm yếu đi sứ điệp mà Đức Giêsu muốn chuyển tải. Giá Trị tối hậu mà Đức Giêsu muốn chúng ta coi trọng đó là Sự Sống vĩnh hằng, là Nước Thiên Chúa (cc. 43-47). Để có được Giá Trị này, ta phải chấp nhận hy sinh nhiều giá trị khác. Hơn nữa, chúng ta lại càng phải từ bỏ hy sinh những gì cản trở khiến ta không thể đạt tới mục đích mình theo đuổi. Tay, chân, mắt là những bộ phận rất quan trọng trong cơ thể. Chúng là những chi thể không thể thiếu để có một đời sống bình thường. Tuy nhiên, chúng có thể trở thành duyên cớ khiến ta vấp phạm, sa ngã. Sa ngã ở đây là thứ sa ngã đưa chúng ta vào cõi chết đời đời, nơi toàn bộ cuộc đời chúng ta bị đổ vỡ nát tan không sao hàn gắn. Vì cuộc đời của chúng ta là vô giá, một cuộc đời đã được chuộc bằng chính Máu Con Thiên Chúa, một cuộc đời mà chính chúng ta đã dày công xây đắp, nên việc cắt bỏ những điều phá hoại cuộc đời ấy là chuyện tự nhiên. Chặt tay, chặt chân hay móc mắt là những điều kinh khủng, gây đau đớn. Bị què tay, què chân hay chột mắt ở đời này là điều chẳng ai mong. Nhưng Đức Giêsu mời chúng ta nghĩ đến giá trị của đời sống vĩnh cửu, để có can đảm cắt đứt với những thụ tạo đang làm hư hỏng đời ta. Cắt đứt với một thói quen xấu lâu năm, hay cắt đứt tương quan tội lỗi với một người, những điều ấy nhiều khi còn khó hơn việc móc mắt hay chặt tay. Chúng ta chỉ có thể sống Lời Chúa hôm nay nếu chúng ta không bị hút bởi khoái lạc trần gian ngay trước mắt. Xin Chúa giúp ta thực hiện những cuộc giải phẫu mỗi ngày, để đau đớn của đoạn tuyệt hôm nay đem lại hạnh phúc trọn vẹn mãi mãi. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen. ---------------------------------
Cần biết phân biệt mục đích và phương tiện. Vì phương tiện là để sử dụng. Mục đích là để đạt tới. Phải dùng phương tiện để đạt tới mục đích. Không phải ngược lại. Đừng vì tiếc phương tiện mà để lỡ mục đích. Đừng dừng lại phương tiện. Nếu phương tiện cản trở. Phải mạnh dạn gạt bỏ. Để đạt tới mục đích.
Đời sau là mục đích. Đời này là phương tiện. Linh hồn là mục đích. Thân xác là phương tiện. Phải biết dùng đời này để đạt được đời sau. Phải biết dùng thân xác để đạt tới linh hồn. Hi sinh đời này sẽ đạt được đời sau. Hi sinh một phần thân thể, kể cả mạng sống, sẽ đạt được Nước Trời. “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt”.
Vì thế đừng cậy vào của cải. Đừng chiều theo dục vọng. Tất cả đều chóng qua. Phải mau sám hối. Đừng đợi đến lúc Chúa nổi lôi đình. Sẽ kinh khủng. Và không còn kịp nữa. “Đừng trì hoãn, hãy trở về với đức Chúa đi; đừng lần lữa hết ngày này qua ngày khác, vì thình lình Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ, và trong thời trừng phạt, con sẽ phải tiêu vong. Đừng cậy dựa vào của cải bất chính, vì điều đó chẳng ích gì cho con ngày con gặp bất hạnh” (năm lẻ).
Của cải là phương tiện chứ không phải mục đích. Của cải để sử dụng chứ không phải để tích trữ. Nếu không biết dùng của cải sẽ là bằng chứng tố cáo. Nhất là đừng chiếm đoạt của cải cách bất công. Bất công sẽ bị kết án. Bấy giờ sẽ phải than van khóc lóc. “Giờ đây, hỡi những kẻ giầu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người….Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người…Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (năm chẵn).
Đừng vì thân xác mà mất linh hồn. Đừng vì vật chất mà mất Nước Trời. Hãy hi sinh thân xác để được linh hồn. Hãy quảng đại chia sẻ tài sản. Để mua lấy Nước Trời. Đó là thái độ khôn ngoan cần thiết.
Vào thời trước, có một đoàn thám hiểm từ Âu Châu lên đường đi tìm vùng đất mới. Vị trưởng đoàn cho mọi người biết hễ ai chạm đến vùng đất mới trước tiên, người đó sẽ làm chủ vùng đất ấy. Một người trong nhóm quyết chiếm vùng đất mới bằng mọi giá. Ông tận lực chèo thuyền, nhưng một chiếc thuyền bạn đã bắt kịp và đang tiến lên phía trước gần sát bờ. Là một con người có ý chí sắt đá và gan dạ, ông đã can đảm lấy chiếc rìu chặt đứt bàn tay trái của ông, rồi ném lên bờ. Thế là bàn tay ông đã chạm đến đất trước tiên, do đó vùng đất này thuộc về ông.
Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục". Ðiều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là cần phải sẵn sàng hy sinh những gì gần gũi thân thiết nhất, hơn là phạm tội mất lòng Chúa. Như thế, việc chặt chân, chặt tay, móc mắt, không thể hiểu theo nghĩa đen được. Chúa không có ý bảo chúng ta hủy bỏ một phần thân thể, nhưng qua cách nói ấy, Ngài có ý nói rằng Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt chân, chặt tay. Chẳng hạn, hy sinh của cải vật chất cho sự sống và hạnh phúc của đồng loại, cũng đau đớn như hy sinh một phần thân thể, nhưng sẽ chiếm hữu được Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã nói: Ai cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ không nhà trú ngụ, người ấy sẽ được Nước Trời làm cơ nghiệp. Cũng vậy, chúng ta sẽ chiếm hữu Nước Trời, nếu chúng ta dám hy sinh của cải, sức lực để hỗ trợ Giáo Hội và phục vụ cho công cuộc truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài không chỉ hy sinh một phần nào thôi, mà là dâng hiến toàn thân Ngài. Mỗi ngày trong Thánh Lễ, chúng ta cử hành việc hy hiến của Chúa Giêsu, chúng ta hãy xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta cũng biết trao ban chính mình để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho đồng loại.
“Ai cho anh em uống một chén nước lã vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em người đó không mất phần thưởng đâu. Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc. 9, 41-42)
Bài Phúc âm ngày hôm nay có vẻ như rất rời rạc. Tuy gồm những câu rời rạc, nhưng tất cả đều liên hệ tới việc gia nhập và đón nhận sư sống Nước Trời. Tiên vàn, đó là chuyện cho các môn đệ uống một chén nước. Trong cuộc đời truyền giáo, các môn đệ sẽ gặp phải những đắng cay, khó khăn và chống đối đủ thứ ngay cả từ nơi những người thân của mình. Nhưng cũng sẽ có những người tử tế sẽ đón tiếp các ông. Chúa Giêsu hứa trước với những tấm lòng hiếu khách này rằng lòng tốt của họ sẽ được trọng thưởng, cho dầu lòng tốt ấy chỉ được biểu lộ bằng một chén nước. Ở đây Chúa Giêsu muốn các môn đệ ghi lòng tạc dạ điều này là các ông được đồng hóa với Người: một việc nhỏ nhất người ta làm cho các ông, là một việc tốt người ta làm cho chính bản thân Người vậy.
Một thái độ triệt để
Về vấn đề gương xấu, Chúa Giêsu tỏ ra một thái độ cương nghị hiếm có, nếu không phải nói là một sự tàn bạo khác thường: phải chết và chặt chân chặt tay. Ý niệm về gương xấu của Người khác với của ta: Đối với chúng ta, chúng ta nghĩ đó là một cử chỉ, một lời nói đụng chạm mạnh đến ý kiến chung, xúc phạm đến những người lành; còn đối với Người thì gương xấu là những gì gây nguy hiểm cho phần rỗi của người ta, chẳng hạn như làm cho những tâm hồn đơn sơ phải lo lắng bối rối về lòng tin của họ đối với Chúa Kitô. Kẻ nào gây một gương xấu như thế, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Cái chết thể lý đối với người ấy còn ít nguy hiểm hơn là đe dọa, làm hại đức tin của người khác. Chúa Giêsu dùng hình ảnh dữ tợn này không phải để chỉ sự kết án và hành hình như vậy, nhưng để diễn tả cái trách nhiệm nặng nề đáng sợ mà người gây nên gương xấu phải gánh lấy.
Đức Kitô nói tiếp về gương xấu của bản thân mỗi người, nghĩa là sự đe dọa, làm hại cho phần rỗi do chính những phàn thân thể của mình gây nên như: tay, chân, mắt… Ở đây lệnh truyền vẫn còn mạnh mẽ: “Hãy chặt, hãy móc”. Tuy nhiên ai cũng biết những phần thân thể này quan trọng như thế nào đối với cuộc sống. Mất một chân, một tay, một mắt, đối với một người là mất đi một phần con người của mình, điều mà ai cũng cảm thấy rất xót xa. Phải mất mát, thiệt thòi sự sống như vậy, chỉ đến nước cùng, người ta mới đành phải chịu vậy mà thôi. Và y khoa góp phần xoa dịu nỗi đau phần nào cho con người kém may khi dự liệu những bộ phận giả thay thế.
Vậy mà Chúa lại lệnh cho phải bỏ đi phần mình gây gương xấu. Chắc chắn là tính cách triệt để này không thể được hiểu theo nghĩa đen, bởi lẽ những tín hữu chúng ta sẽ không muốn được liệt vào hàng những kẻ què cụt, đui mù.
Nhưng Chúa chỉ muốn chúng ta ghi tâm khắc cốt điều này là những thái độ nửa vời, không kiên quyết, khi sự sống Nước Trời bị đe dọa, đều là ngoài đề và không thể chấp nhận được.
Trong cuộc đời sứ vụ của Đức Giêsu, nhiều lần Ngài đã nói đến quy luật được và mất. Chẳng hạn như: hạt lúa mỳ có thối đi thì mới sinh bông hạt; muốn theo Chúa thì phải bỏ mình; con người có chịu đau khổ mới được vinh quang...
Thánh sử Máccô trình thuật bài huấn dụ của Đức Giêsu về cái được và mất như sau: cái được mà Đức Giêsu nói ở đây là Nước Trời; còn cái mất chính là tay, chân, mắt khi chúng gây dịp tội...
Ngài nói: nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục; với con mắt, Ngài cũng nói như vậy...
Tại sao Đức Giêsu lại cất lên lời dạy dỗ các môn đệ mạnh mẽ như vậy? Thưa là vì tới giờ này, các ông vẫn còn đang hoang tưởng về thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu theo kiểu trần gian. Các ông không chú trọng đến cốt lõi của vấn đề và chẳng hề có cái nhìn Thiên Giới khi chứng kiến những dấu lạ của Đức Giêsu.
Nếu cứ để các môn đệ bám víu vào những chuyện trần tục, thì viên ngọc quý là Nước Trời làm sao các ông có được nếu không chấp nhận đánh đổi bằng những hy sinh. Vì thế, thà mất tất cả mà được hạnh phúc đời đời thì hơn là có mọi thứ mà mất sự sống trường sinh.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chú trọng đến sự sống mai hậu. Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì? Ta lấy gì để bù lại? Bởi vì sự sống đời đời mới là nơi mối mọt không thể đục khoét. Còn danh dự, chức quyền, giàu có... chỉ là phương tiện, khi ta chết, nó chào và tiễn ta ngay tại nấm mồ, để lại nơi chúng ta hai bàn tay trắng!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu thấu quy luật được - mất khi kiếm tìm hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Xin cho chúng con cũng sẵn sàng thà mất tất cả mà được Nước Trời thì cũng chấp nhận. Ước gì, sau cuộc đời tại thế, chúng con có được gia tài đích thực là Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
Sứ điệp: Chúa muốn ta sống thánh thiện. Ta phải can đảm hy sinh cắt đứt những dịp tội và không được lôi kéo kẻ khác vào tội lỗi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới thấy tội lỗi gây ra cho con sự đau khổ trầm luân biết bao. Thế nên Chúa đã hy sinh xuống thế làm người và chịu chết trên thánh giá để cứu con khỏi tội lỗi. Công ơn cứu chuộc của Chúa, con xin trọn đời ghi khắc trong tim.
Lạy Chúa, Chúa nhìn thấy con thiển cận và dại dột dường nào. Rất nhiều lúc, chỉ vì thú vui lợi lộc mau qua mà con đã liều mình lao vào tội lỗi. Những dịp tội ở gần bên cạnh con, ở ngay trong chính bản thân con. Dịp tội mang dáng vẻ quyến rũ, ngọt ngào, dễ thương, nhưng bên trong chất chứa đầy nọc độc giết người. Xin Chúa giúp con biết cảnh giác đề phòng những cạm bẫy của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Xin Chúa ban cho con sức mạnh để con chống trả những cơn cám dỗ. Và xin Chúa ban cho con lòng can đảm để con biết hy sinh khước từ những gì lôi kéo con xa Chúa. Nếu cần, xin Chúa dạy con hy sinh ngay cả sự sống của thân xác con.
Lạy Chúa, con xin cho mọi người Kitô hữu biết sống thánh thiện để lôi kéo nhân loại đi lên. Thế giới hôm nay đầy những gương xấu, người ta đua nhau phô bày tội lỗi để lôi kéo nhau vào tội lỗi và xô đẩy nhau xuống vực thẳm. Đời sống tội lỗi của con cũng đã góp phần làm ô nhiễm thế giới. Xin Chúa thương xót và tha thứ cho con. Xin giúp con biết thận trọng trong lời nói, việc làm, cách sống, để đừng tạo nên ảnh hưởng xấu nơi người khác, nhất là nơi giới trẻ. Xin Chúa giúp con biết làm gương sáng cho người khác và góp phần thánh hóa thế gian. Amen.
Ghi nhớ: “Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục”.
Trong đoạn này, Mc gom chung những giáo huấn mà có lẽ ngày xưa Chúa Giêsu đã dạy trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, do đó ta không thấy được mối liên hệ mạch lạc giữa các ý tưởng.
Có cả thảy 3 giáo huấn:
1. Ai giúp đỡ môn đệ Chúa thì sẽ được Chúa thưởng, dù sự giúp đỡ đó rất nhỏ.
2. Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho "những kẻ bé mọn".
- "Những kẻ bé mọn" không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.
- Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…"
3. Các môn đệ Chúa phải có "muối" trong mình (Nhóm CGKPV giải thích là "sự từ bỏ") và phải sống hoà thuận với nhau.
B.... nẩy mầm.
1. "Ai cho các con một ly nước lã…": Tục ngữ VN có câu "nước lã mà khuấy nên hồ", nghĩa là từ không có gì cả mà làm nên chuyện. Vậy cho "một ly nước lã" nghĩa là hầu như chẳng cho gì cả, thế mà Thiên Chúa vẫn kể và vẫn thưởng công. Giá trị của tấm lòng kẻ biết phục vụ là như thế.
2. Trong dụ ngôn về ngày phán xét chung, Chúa Giêsu cũng thưởng các kẻ lành vì những việc nhỏ mọn họ đã làm cho "những kẻ bé mọn". Như thế nghĩa là trước mặt Chúa, một việc nhỏ bé nhất làm cho một kẻ nhỏ bé nhất cũng có giá trị rất cao cả. Hay nói cách khác, dưới con mắt Chúa, không có việc làm nào vì tình thương mà nhỏ bé cả.
3. "Ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin vào Thầy, thà buộc thốt cối xay vào cổ nó…": Cớ vấp phạm là những lời nói và hành động nhiều khi rất vô tình. Ai ngờ hậu quả chúng gây ra cho người khác và cho chính mình lại to lớn như thế.
Tôi đâu có biết rằng một lời nói của tôi chỉ để chơi thôi nhưng làm cho anh chị em tôi đau lòng đến cả đêm không ngủ. Huống chi một lời nói vì nóng giận mà tôi không kềm lại được…
Chúa dạy tôi phải quan tâm tới anh chị em. Trước khi làm gì hay nói gì tôi cũng phải suy nghĩ xem lời nói và việc làm đó sẽ có tác động gì nơi người anh chị em tôi.
4. "Nếu tay con nên dịp tội, hãy chặt đi… Nếu chân con… Nếu mắt con… Thà có một tay… một chân… một mắt mà được vào Nước Thiên Chúa": Được vào Nước Thiên Chúa là điều quý giá nhất, so với nó không có hy sinh từ bỏ nào là quá đáng cả.
Hiện giờ tôi cần phải "chặt" cái gì?
5. Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích "Phúc")
Trong đoạn Tin mừng này, Marcô gom chung những giáo huấn mà có lẽ ngày xưa Đức Giêsu đã dạy trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, do đó ta không thấy được mối liên hệ mạch lạc giữa các ý tưởng.
Tất cả có 3 giáo huấn:
- Ai giúp đỡ môn đệ Chúa thì sẽ được Chúa thưởng, dù sự giúp đỡ đó rất nhỏ.
- Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho “những kẻ bé mọn”.
- Các môn đệ Chúa phải có “muối” trong mình (Nhóm CGKPV giải thích là “sự từ bỏ”) và phải sống hòa thuận với nhau.
Hôm nay chúng ta chỉ chú trọng triển khai bài giáo huấn thứ hai của Đức Giêsu.
Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay: “Nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Điều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là cần phải sẵn sàng hy sinh những gì gần gũi thân thiết nhất, hơn là phạm tội mất lòng Chúa. Như thế, việc chặt chân, chặt tay, móc mắt không thể hiểu theo nghĩa đen được. Chúa không có ý bảo chúng ta hủy bỏ một phần thân thể, nhưng qua cách nói ấy, Ngài có ý nói rằng Nước trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt chân chặt tay.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải hy sinh cho thế gian, xác thịt và ma quỷ; đồng thời phải biết duy trì, bảo vệ và phát triển phẩm giá làm con cái Chúa, sống trong ơn nghĩa Chúa.
Xét ra Lời Chúa hôm nay cũng không xa thực tế lắm. Có người chỉ vì lòng tham của cải chứ không phải vì Nước trời mà đã dám hy sinh một phần thân thể. Họ dám hy sinh cái nhỏ để chiếm được cái lớn.
Đó là ông O’Neil, nhà thám hiểm đã tìm ra đất Ái Nhĩ Lan. Khi nhóm thám hiểm đến gần phần đất mới, vị thuyền trưởng tuyên bố: “Hễ ai chạm tay trước hết vào phần đất trên bờ thì người ấy làm chủ phần đất ấy”. Ông O’Neil quyết tâm chiếm cho bằng được. Ông chèo một chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Nhận thấy có kẻ khác vượt lên trên mình, ông quyết định lấy rìu chặt đứt cánh tay trái và liệng vào bờ, chạm đất trước hết, thắng cuộc.
Nhà thám hiểm cụt một tay để được một nước thế gian, thì trong việc chiếm lấy Nước trời, Chúa dạy chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì thân thiết và quý mến nhất.
Chúa cũng răn đe rất nghiêm ngặt những ai gây gương mù gương xấu “Thà buộc cối xay vào cổ người ấy mà ném xuống biển còn hơn”. Lời răn đe rất thẳng thắn và quyết liệt. Thớt cối xay nặng như thế mà kéo dìm một tội nhân dưới nước thì không thể nào ngóc đầu lên được: ý nói đến sự xấu xa, ghê tởm, nặng nề của tội làm gương xấu.
Trong bức thư của Lentulo, tổng trấn Do thái gửi cho hoàng đế Tibêriô, để diễn tả chân dung Chúa Kitô, có câu này: “Khi ông (Chúa Kitô) quở trách sửa phạt, thật cả là một sự ghê sợ; nhưng khi khuyên bảo dạy dỗ ông lại rất hòa nhã đằm thắm, làm cho thiên hạ tin phục say mê”.
Truyện: Trên một chuyến xe lửa, cha Bernard Vogan gặp một hành khách ăn nói rất ư tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vogan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?” Cha Vogan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Phải tránh dịp nguy hiểm đưa đến tội
Kinh thánh nói: “Ai thích sự nguy hiểm sẽ rơi vào sự nguy hiểm đó” (Gv 3,27): chơi với lửa có ngày sẽ bỏng, chơi với dao có ngày đứt tay, chơi với bùn có ngày lấm áo... Đó là kinh nghiệm ngàn đời của dân gian.
Chống lại chước cám dỗ là tốt, việc phải làm, nhưng cũng không nên gây ra dịp thuận tiện để cho cám dỗ ập tới. Tại sao không cố mà tránh cơ hội gây ra cám dỗ để khỏi bị mắc bẫy?
Chim ham mồi sa lưới Cá ham thính mắc câu, Con người phải nghĩ cho sâu, Đừng ham danh lợi, sắc hầu sa cơ. Tài danh là cạm giữa trời, Hồng nhan là bả những người tài hoa. Truyện: Thuê tài xế lái xe
Có một người giàu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.
Người giàu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xảy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.
Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.
Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.
Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giàu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20).
Những lời giáo huấn của Chúa trên đây thật đơn sơ và dễ hiểu.
1. Trước hết, Chúa đề cao những việc làm vì bác ái yêu thương.
Một hôm, có một phóng viên báo chí đến quan sát công việc của mẹ Têrêxa tại Calcutta. Thấy mẹ làm những công việc ghê tởm: cúi mình trước những người hấp hối, người phong cùi. Ông nói với mẹ:
- Nếu có ai cho tôi một triệu Mỹ kim, tôi cũng không đủ can đảm làm những việc ghê tởm như vậy.
Mẹ trả lời: “Tôi không làm vì tiền bạc. Tôi làm vì tôi nhìn thấy khuôn mặt của Chúa đau khổ nơi anh chị em tôi”.
Trước cuộc sống, không ai mà không có những nhu cầu cần được giúp đỡ bất kể người đó là ai. Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rộng tay giúp đỡ rất nhiều người. Ngài giúp đỡ một cách hết sức thiết thực. Bây giờ thì Chúa đã lên chốn vinh quang và Chúa đã để lại việc này cho chúng ta.
Một nhà truyền giáo kể lại một câu chuyện đẹp sau đây:
Một chị giáo viên vừa dạy các học sinh cấp I người Phi Châu về việc nhân danh Chúa Giêsu mà cho người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, chị đang ngồi trước hiên nhà, thì thấy một đám phu khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống đất để nghỉ ngơi. Họ là người của bộ tộc khác, và nếu họ xin nước nơi những người thường dân không theo Kitô giáo, thì họ sẽ được trả lời ngay: hãy tự đi tìm lấy mà uống, vì có một bức tường ngăn cách giữa chúng tôi và các anh. Thế nhưng, đang khi những người mệt mỏi kia ngồi đó và chị đang nhìn họ, thì có một nhóm em gái nhỏ người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò nước. Cả bọn đều rụt rè, sợ sệt. Các em tiến đến gần những người phu khuân vác đang mệt mỏi nọ và quì xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác kia ngạc nhiên, đưa tay nhận lấy và uống ngon lành rồi sau đó trả vò lại. Các bé vội vàng chạy đến cô giáo và nói:
- Chúng em vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống.
Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước gì cũng có nhiều người làm như vậy. Chính những việc làm đơn sơ tỏ ra lòng tử tế là những việc hết sức cần thiết. Mahomet đã nói: “Đặt người lạc lối vào đúng con đường, cho một người khát uống nước, mỉm cười với anh em mình. Đó là đức bác ái”.
2. Giúp người thì sẽ được phần thưởng đời đời, nhưng còn việc làm gương mù gương xấu khiến cho một anh em yếu đuối vấp phạm thì sao? Chúa lên án với những lời hết sức nghiêm khắc.
Tại Palestine có hai loại cối: cối đá xay bằng tay mà phụ nữ dùng trong nhà. Và loại cối đá lớn đến nỗi phải cột một con lừa mới kéo nổi. Loại cối đá mà Chúa nói ở đây là loại lớn. Bị ném xuống biển với một thớt cối như thế cột vào người, chắc chắn không hy vọng trở về. Thật ra, đây là cách xử tử được áp dụng tại cả Rôma lẫn Palestine ngày xưa. Sử gia Josepthus kể rằng: lúc một số người Galilê thành công trong cuộc nổi dậy, họ bắt những người thuộc đảng Hêrôđê và ném họ xuống biển hồ theo cách này.
Tự mình phạm tội đã là chuyện khủng khiếp rồi, nhưng dạy kẻ khác phạm tội, lại càng tệ hại hơn. O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về chuyện ngắn đã sáng tác câu chuyện về một em bé gái mồ côi mẹ như thế này:
Cha cô bé có thói quen mỗi khi đi làm về là ngồi ngay xuống ghế, mở cặp, lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Một lần kia con ông là một bé gái mở cửa bước vào. Em xin ông chơi đùa với em một lát vì em cảm thấy rất cô đơn. Lần này cũng như lần khác ông bảo ông mệt lắm, hãy để cho ông yên. Và ông bảo em hãy ra đường mà chơi. Thế là em đi ra chơi ngoài đường, và chuyện không tránh được đã xảy ra là em đã trở thành một cô gái đứng đường. Thời gian trôi qua, ông bố chết và cô cũng chết. Linh hồn cô được đưa lên Thiên Đàng. Thánh Phêrô vừa nhìn thấy cô liền thưa với Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, đây là cô gái thật xấu nết. Con nghĩ phải đưa cô xuống hỏa ngục ngay.
Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp:
- Không, hãy cho cô ấy vào.
Rồi đôi mắt ngài trở nên nghiêm nghị:
- Và con hãy đi tìm người cha đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi nó ra thiên đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục.
Thiên Chúa không nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng sẽ hết sức nghiêm khắc đối với những kẻ khiến người khác sa vào tội lỗi, dù kẻ đó vô tình hay cố ý, đã đặt một tảng đá làm cớ vấp chân trên lối đi của một người anh em yếu đuối hơn mình.
Mắt, mũi, tay, chân….nó là một thành phần quan trọng của cơ thể con người chúng ta trong cuộc sống tự nhiên ở trần gian này. Chúng ta thấy được những gì đang xảy ra xung quanh chúng ta là nhờ đôi mắt. Những cảm nhận các điều gì đang ở bên cạnh, cận kề của chúng ta như nóng, lạnh, sần sù, trơn tru, gai góc.. là nhờ đôi tay và đôi chân này. Chúng ta sống được là nhờ cái lỗ mũi hít thở không khí…Bởi vậy, thiếu một trong những bộ phận quan trọng đó, chúng ta khó mà được hạnh phúc trong cuộc đời này.
Dẫu biết là như vậy, nhưng đối với Chúa, dù là quan trọng không thể thiếu, chúng ta phải quí mến, gìn giữ, bảo vệ nhưng rồi một mai kia nó cũng sẽ trở về cát bụi, hư vô, đang khi đó phần hồn, phần sự sống siêu nhiên chúng ta còn quan trọng hơn thế rất nhiều, nó liên quan đến đời sống vĩnh cửu, trường tồn, bất biến của con người chúng ta. Vì thế, tại sao chúng ta không biết coi trọng, quí mến phần sự sống đời đời của chúng ta sau này, nếu chúng ta pham tội nặng mà không trở về với Chúa, chúng ta bị trầm luân muôn kiếp. Do đó chúng ta phải coi trọng sự sống vĩnh cửu kia hơn coi trọng tay, chân, miệng lưỡi, mắt mũi….của mình. Chúng ta phải dứt khoát với tội lỗi: “Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn” (Mc 9, 42), chứ chúng ta không được dung dưỡng, ba phải, thỏa hiệp để rồi làm ảnh hưởng đời sống vĩnh cửu chúng ta: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa” (Mc 9, 43 – 49).
Như vậy, khi theo Chúa, giữ đạo Chúa, chúng ta không phải là những người đuôi mù, cụt tay, cụ chân, xi cà que, tàn tật so với những người không theo đạo, vì Chúa đã nói: “Các con hãy có muối trong mình và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9, 50). Muối đó là ơn Chúa ban, là các việc lành thánh thiện đạo đức chúng ta làm, nhất là bỏ ý riêng, làm theo ý Chúa để chúng ta sống hòa thuận thương yêu nhau. Cụ thể, khi chúng ta có toàn vẹn cơ thể, thì chúng ta mới bưng một ly nước mời anh chị em chúng ta uống, chúng ta mới có thể nhìn thấy những nỗi thống khổ của anh chị em chúng ta mà chúng ta giúp đỡ, sẻ chia: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9, 41). Vì thế, theo Chúa chúng ta cần giữ lửa trong con người chúng ta, chúng ta cần gìn giữ ơn Chúa trong con người chúng ta để chúng ta mới sống đạo tốt, mới làm được các việc lành phúc đức.
Lạy Chúa, xin Chúa thương ban ơn nâng đỡ giúp chúng con dứt khoát, xa tránh các tội lỗi, luôn sống đẹp lòng Chúa,bằng cáchthực thi thánh ý Chúa một cách trọn vẹn, là từ bỏ ý riêng, làm theo ý Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn làm gương sáng trong đời sống đạo cho anh chị em chúng con noi theo, xin đừng để chúng con làm gương mù gương xấu mà hại người anh chị em của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 7 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: nhìn nhận mình yếu đuối bất toàn, cần Chúa thương trợ giúp, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên cho thấy: Đến lượt Đức Khôn Ngoan, vốn được xem như lý tưởng cao vời của hiền nhân, lại trở nên đề tài tranh luận, bởi vì, Đức Khôn Ngoan tuy cao quý thật, nhưng, ở ngoài tầm tay chúng ta. Thế nhưng, nếu có những chuyện vượt quá khả năng con người, thì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Ai dám nói: “Tôi đã giữ lòng mình thanh khiết, và tôi đã sạch tội rồi?” Trên mặt đất, chẳng có người công chính nào làm điều thiện mà không phạm tội. Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình; nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành sẽ tha tội cho chúng ta.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: giữ lòng trong sạch để nhìn thấy được phần nào sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Côlumban nói về sự cao sâu khôn lường của Thiên Chúa… Lạy Chúa, tình thương Ngài cao ngất trời xanh, lòng thành tín vượt ngàn mây biếc. Công lý của Ngài như đỉnh núi Thái Sơn, quyết định của Ngài tựa vực sâu thăm thẳm. Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu!
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: tin tưởng bước theo đường lối, thánh chỉ của Chúa, chứ không được trì hoãn, lạm dụng tình yêu và lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca kêu gọi: Đừng trì hoãn, hãy trở về với Đức Chúa đi. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 1, vịnh gia cho thấy: Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa. Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy đón nhận lời Thiên Chúa, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thà cụt một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là, có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục. Đón nhận lời Thiên Chúa đúng như bản tính của lời ấy, lời Thiên Chúa là lời sự sống, vì thế, bằng mọi giá phải đạt cho bằng được, để được vào cõi sống, cho dù, có phải hy sinh cả tính mạng, chứ đừng nói chi đến “cụt tay”, “cụt chân”, hay “chột mắt”. Lời Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, mênh mông bát ngát, ở ngay bên cạnh, ngay trong lòng ta. Ai có thể hiểu nổi lời Thiên Chúa theo đúng bản tính khôn tả, khôn lường của lời ấy? Sự hiểu biết về Thiên Chúa ví được như đại dương sâu thẳm, ví như mắt người ta không thể nhìn thấy đáy biển sâu thế nào, thì cảm quan nhân loại cũng không thể hiểu nổi lời Thiên Chúa như thế. Do đó, chúng ta tìm hiểu sự cao sâu của Thiên Chúa, không phải, nhờ tranh luận, nhưng, nhờ cách ăn ở ngay lành; không phải, bằng môi miệng, nhưng, nhờ đức tin, phát xuất từ lòng chân thành. Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, vì thế, chúng ta đừng làm cớ vấp phạm, cho cả những kẻ bé mọn nhất, khiến họ không được hưởng sự sống đời đời của Chúa. Ước gì chúng ta biết lo cho mình, và cho tất cả mọi người được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ". Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ, và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới. Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng. Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu đã gia tăng đáng kể. Sống với nhau đến đầu bạc răng long lại trở thành một giấc mơ. Có mấy người Pharisêu đến hỏi Đức Giêsu về chuyện chồng ly dị vợ. Đức Giêsu hỏi ngược họ xem ông Môsê đã truyền dạy thế nào (c. 3). Những người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1) để cho thấy ông Môsê cho phép viết giấy ly dị và sau đó ly dị (c. 4). Dĩ nhiên, cho phép không phải là truyền dạy! Đức Giêsu đã trích sách Sáng Thế (2, 24) để nhấn mạnh sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng. “Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác (c. 8), mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động. Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (c. 6) và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa. Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 5). Đức Giêsu mới là Đấng đến để hoàn chỉnh Luật Môsê và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong xã hội, văn hóa và Do Thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Vì vợ là một thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng, nên thực tế chỉ vợ mới có thể phạm tội ngoại tình đối với chồng, và chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ. Đức Giêsu không chấp nhận chuyện coi vợ như một món hàng, mua về, thích thì dùng, không thích thì bỏ đi. Vợ đã trở nên xương thịt của chồng, ngang hàng với chồng, nên khi chồng thiếu chung thủy với vợ, ly dị vợ mà cưới vợ khác thì anh ta cũng phạm tội ngoại tình đối với vợ (c. 11). Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau. Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp. Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay. Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn. Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay. Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu, khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được, khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian… khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau. Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương, bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ… để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao. Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng. Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc. Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng. Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen. -------------------------------
Trung tín là một phẩm chất cao quý của con người. Vì thế nó bao gồm nhiều phẩm chất khác.
Sách Huấn ca đưa ra ba phẩm chất. Trước hết cần có sự cẩn trọng. Đừng vội vàng trong chọn lựa bạn bè. Phải xem xét kỹ lưỡng. “Nếu con muốn làm bạn với ai thì hãy thử người ấy trước, nhưng đừng vội tin tưởng ngay. Vì có kẻ chỉ là bạn nhất thời, ngay con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn con nữa”. Kế đến cần có sự trung tín. Muốn có bạn tốt chính ta phải là bạn tốt. Muốn người trung tín với ta chính ta phải trung tín trước. “Vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế”. Trên hết phải kính sợ Chúa. Vì “những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người bạn như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình”. Yêu mến Chúa sẽ biết trung tín với bạn bè (năm lẻ).
Thư Gia-cô-bê đề nghị hai phẩm chất khác. Trước hết là sự kiên nhẫn. Người trung tín là người kiên nhẫn vượt qua khó khăn. “Phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp”. Gióp đã gặp rất nhiều thử thách. Nhưng ông vẫn kiên trì vượt qua. Cuối cùng giữ được lòng trung tín với Chúa. Để trung tín cũng cần ngay thẳng. “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khsc mà thề. Nhưng hễ “có” thì nói “có”. “Không” thì nói “không”. Trung tín thật thà thì ngay thẳng và đơn sơ. Quanh co phức tạp thường khó thật (năm chẵn).
Tuy nhiên sang đến tình yêu và hôn nhân thì còn đòi thêm phẩm chất tình yêu. Yêu đến độ trở nên một. Đó là ý định của Thiên Chúa: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Nếu yêu nhau thật sự hai người sẽ nên một. Nên một rồi không thể lìa xa nhau. Không thể sống thiếu nhau. Đó là tình yêu theo khuôn mẫu của Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nên không thể tách lìa. Thiên Chúa yêu con người nên luôn trung tín. Dù con người tội lỗi đến đâu Thiên Chúa vẫn tha thứ. Dù con người phản bội muôn ngàn lần, Thiên Chúa vẫn yêu thương. Cứu chuộc. Chết cho con người.
Trung tín giúp đạt tới tình yêu đích thực. Trung tín làm nên phẩm giá của con người có trách nhiệm. Trung tín giúp con người đạt tới Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta về những trang đầu tiên của lịch sử nhân loại, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong mối giây bất khả phân ly của đời sống đôi lứa. Có thể nói, đó là gia đình đầu tiên của lịch sử loài người. Chúa Giêsu đã nại đến sự kiện này để giải đáp vấn nạn của người Biệt phái: "Người ta có được phép rẫy vợ không?", và như vậy một cách nào đó, Ngài đã đề cập đến hôn nhân, đến giá trị và đòi hỏi của hôn nhân.
Trước hết, hôn nhân là một sự tự do trao đổi yêu thương giữa người nam và người nữ, một sự cam kết sống chung suốt đời. Chiếc nhẫn mà họ trao cho nhau trong ngày cưới là dấu chứng tình yêu, và từ ngày đó mọi hành vi đi ngược với lời cam kết đều bị coi là ngoại tình, bởi vì hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập và con người không thể phân ly những gì Ngài đã kết hợp.
Hôn nhân còn là một cộng đồng kết hợp hai tâm hồn và được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Hôn nhân là giây tình yêu liên kết hai người phối ngẫu, và tình yêu này phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở: "Chồng hãy yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình đi". Trong đời sống hôn nhân, hai người nương tựa vào nhau, bổ túc và tài bồi lẫn nhau. Thiên Chúa thấy người nam ở một mình không tốt, Ngài đã dựng nên cho nó một người nữ, rút từ cạnh sườn người nam, và người nam sẽ bỏ cha mẹ để nên một với vợ mình, đó là hình ảnh của một tình yêu kết hợp. Nhờ tình yêu kết hợp trong hôn nhân, người nam và người nữ sẵn sàng chấp nhận việc sinh dưỡng và giáo dục con cái thành những đứa con ngoan của Thiên Chúa, của Giáo Hội, của gia đình và xã hội.
Nhưng một cuộc hôn nhân chỉ thành công khi người nam và người nữ thực tình yêu nhau, có sức hiến thân cho nhau, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách mà hoàn cảnh đè nặng trên con người, trong tâm tình chúc tụng tạ ơn. Thật vậy, việc cam kết trước bàn thờ là một lời khấn trọng thể, một lời hứa thánh thiêng đặt nền tảng trên tình yêu, tình yêu mà Thánh giá là biểu hiện rõ nét nhất, tình yêu mà Chúa Kitô hiến mình cho Giáo Hội đến cùng mức. Hôn nhân không phải luôn luôn là một khúc tình ca, một cuộc ve vãn suốt đời, nhưng là một cuộc sống chung nhiều khi khó khăn. Do đó chỉ có tình yêu đích thực khi đôi bạn có khả năng và muốn giữ lời gắn bó với nhau cho đến chết. Những hy sinh từ bỏ, sự trung tín qua những thử thách, những lần nhượng bộ, đều là bằng chứng của đức tin và sức mạnh nhận được từ Thánh Thần.
Chính vì những giá trị cao đẹp của hôn nhân như thế, nên thái độ của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân thật dứt khoát. Ngài xác định lại nền tảng thánh thiêng cũng như tính cách bất khả phân ly của giây hôn phối. Ngài mạnh mẽ lên án tội dâm bôn ngoại tình, cả việc rẫy vợ nữa, trừ phi là nố gian dâm, nhưng điều đó có lẽ không nhằm biện minh cho việc ly dị, mà chỉ là đuổi người vợ bất chính, hoặc là ly thân rồi sau đó không được tái hôn nữa. Như thế, chính nhờ Chúa Giêsu, hôn nhân đã được nâng lên hàng Bí Tích và mặc một sắc thái mới phản ánh vẻ đẹp ban đầu đã bị lu mờ vì tội lỗi nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin cho các gia đình được luôn gắn bó với nhau trong tình yêu thương hợp nhất, để làm chứng cho tình yêu duy nhất và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ nói thế là để thử Người.
“Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc. 10, 2. 9)
Nền văn minh của chúng ta đã phát triển khả quan lãnh vực thực phẩm. Từ ngữ lương thực mau hư ngày xưa ám chỉ những thực phẩm rất dễ hư thối như: rau cỏ, trái cây, v.v….Thật là điều lạ: kỹ thuật tân tiến tìm cách bảo quản những thực phẩm dễ hư này bằng kỹ thuật đông lạnh, nhưng xã hội tiêu thụ thì lại làm cho những vật không hư hóa ra mau hư. Người ta nghĩ và làm ra những sản phẩm để rồi những sản phẩm ấy lại mau chóng được thay thế bằng những sản phẩm khác. Có những áo dài giấy, những tấn lưỡi dao bào, những bật lửa máy bị “đổ tháo đi.” Nền văn minh “sính-cái-mới”, thích-sắm-sửa, ưa-giục-bỏ! Cái não trạng tiềm ẩn ở bên dưới cách sống này có nguy cơ làm ô nhiễm những quan hệ của con người, làm cho những quan hệ ấy trở nên mau hư. Tình yêu giữa con người trở nên mau hư, hôn nhân, một vấn đề phải giục bỏ, bởi lẽ làm lại cuộc sống với một người khác thì dễ hơn là xây dựng lại những quan hệ đã sứt mẻ với người bạn đời của mình.
Câu trả lời của Chúa Giêsu
Câu hỏi của những người Pharísiêu phản ánh cái não trạng ưa tạm thời, thích mới nới cũ này. Cứ theo mặt chữ thì đây đúng là một câu hỏi của người tiêu thụ: “Thưa Thầy, người ta có được phép (dục) bỏ vợ mình không?” Nói cách khác, tình yêu con người có mau hư không? Câu hỏi thừa, vì luật Mô-sê đã có ghi khoản này cho cặp vợ chồng Do thái. Chỉ cần thời gian ăn xong một bữa cơm là có được tờ giấy ly dị. Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là đưa những người chất vấn mình trở về với luật Mô-sê. Rồi Người giải thích điều luật cho phép đó bằng lời này: “Chính vì các ông lòng dạ chai đá …”
Chúa Giêsu sẽ khẳng định điều luật căn bản này, dựa vào sách Sáng Thế: “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ”. Có nghĩa là con người là một sinh vật có những quan hệ với nhau, rằng, để hiện hữu như là người, con người phải đồng-hiện hữu, nghĩa là cùng sống với người khác: “Không nên để con người sống một mình.” Con người cần một người khác để sống với. Và ước muốn này rất mạnh, thậm chí: ”người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình.”
Thiên Chúa muốn cho tình yêu vợ chồng lớn hơn cả tình yêu đối với cha mẹ nữa. Kết quả khác nữa là hai vợ chồng “sẽ thành một xương một thịt.”, nghĩa là “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, không một quyền lực nào của loài người được phép phân ly hai người đã nhờ hôn nhân mà nên một. Cũng như chỉ có sự chết mới phá vỡ được sự duy nhất của con người thế nào, thì cũng chỉ có một sự chết mới cắt đứt được mối giây ràng buộc hai người nam nữ đã nên một mà thôi.
“Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Nói về sự chung thủy trong hôn nhân Công Giáo, nhiều người đã không khỏi khó chịu và buông theo những lời chê bai như: Giáo Hội không thích ứng với thời đại; Giáo Hội là một bà già; Giáo Hội bảo thủ...
Khi nhận định như thế, người ta đòi Giáo Hội phải duyệt xét lại vấn đề hôn nhân. Một mặt họ muốn dễ dãi, không muốn ràng buộc. Mặt khác, người ta muốn coi đời sống hôn nhân như là một sự thỏa thuận thuần túy con người, tức là giảm thiêng.
Tuy nhiên, Giáo Hội từ bao đời vẫn luôn trung thành với Giáo Huấn của Đức Giêsu, người sáng lập nên Giáo Hội mà chúng ta là thành phần trong Giáo Hội ấy. Giáo huấn về hôn nhân được khởi đi từ ý định Thiên Chúa, vì thế, nó thuộc Thiên Luật: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phép phân ly”.
Nếu chỉ giải thích như thế, hẳn con người thời nay rất khó đón nhận. Nhưng cần thêm giáo huấn của thánh Phaolô để làm sáng tỏ ý định của Thiên Chúa: “Chồng hãy yêu thương vợ, như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình vì Giáo Hội”.
Thật vậy, Thiên Chúa không từ bỏ con người. Đức Giêsu không ly dị Giáo Hội của Ngài, mặc cho con người và Giáo Hội có những điều trái khuấy.
Sự trung thành trong hôn nhân được mời gọi diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa và Giáo Hội. Bí quyết của việc sống chung thủy, đó là sự tha thứ. Cần cảm nghiệm được sự tha thứ của Thiên Chúa cho mình, thì chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau và cùng nhau vượt qua thử thách để sống sự chung thủy trong đời sống hôn nhân.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta đều đã kết ước với Chúa. Chúa thuộc về ta và ta thuộc về Chúa. Chúa làm chủ và ta là thần dân của Ngài. Từ giao ước đó, chúng ta được mời gọi trung thành giữ giáo huấn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, chúng ta đã bội ước và đã làm cho cuộc hôn nhân thánh của mình bị đứt đoạn.
Nguyên nhân làm cho sự trung thành của chúng ta gãy cánh, đó chính là những tội lỗi, ngờ vực và thiếu tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa khi chúng ta đi tìm những lợi lộc thấp hèn qua những thụ tạo do con người và ma quỷ tạo nên.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết yêu mến luật của Chúa và trung thành với giao ước mà chúng con đã ký kết với Ngài. Amen.
Sứ điệp: Hôn nhân là một giao ước tình yêu. Đây không phải chỉ là một giao ước đơn thuần của con người, nhưng chính là sự kết hiệp bất khả phân ly do Thiên Chúa thiết lập.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hơn bao giờ hết, nền tảng gia đình đang lung lay đến tận gốc rễ. Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông, con được biết có rất nhiều gia đình đang trong tình trạng tan vỡ: nào là vợ chồng ngoại tình không còn chung thủy với nhau, nào là con cái bỏ nhà ra đi, để rồi giờ này tâm hồn người cha đang đau khổ, trái tim nhiều người mẹ tan nát, và những đứa con không cửa không nhà, bơ vơ, lạc lõng giữa chợ đời. Chúng trở thành những thiếu niên phạm pháp, làm tệ nạn xã hội càng ngày càng tăng.
Lạy Chúa, tất cả chỉ vì thiếu bóng tình thương. Bởi không yêu thương nên vợ chồng mới hằn học, lạnh lùng với nhau, chửi rủa, đánh đập, xua đuổi nhau. Bởi không yêu thương nên con cái bất mãn và đi tìm tình thương nơi chốn giang hồ. Vậy xin tình yêu Chúa ngự trị trên tất cả mọi gia đình chúng con.
Xin Chúa giúp sức và nâng đỡ các vợ chồng biết trung thành với lời cam kết ban đầu, là yêu thương nhau trọn đời. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng để giáo dục con cái. Xin cho sự hòa thuận luôn hiện diện trong mọi gia đình. Lạy Chúa, nhất là các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào ơn gọi hôn nhân, xin cho họ biết ý thức, sáng suốt, để khi đặt viên đá đầu tiên xây dựng gia đình, họ kiến tạo được một mái ấm tình thương.
Lạy Chúa, con là một thành viên trong gia đình, xin cho con luôn là sợi dây tình thương nối kết để cuộc sống gia đình luôn bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Hôm nay thánh Marcô cho chúng ta biết: Đức Giêsu đến Galilê, dân chúng tấp nập kéo đến nghe Ngài giảng. Và nhóm biệt phái đến hỏi thử Ngài: chồng có được phép rẫy vợ không? Chúa lại quay ra hỏi họ: Ông Maisen dạy họ làm sao? Họ thưa: Maisen cho phép họ ly dị vợ. Chúa liền bảo cho họ biết: tại vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Maisen phải buộc lòng cho phép họ làm như thế, chứ thực ra ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên người nam, người nữ và kết hợp họ nên một. Đó là điều Thiên Chúa đã phối hợp thì loài người không được phân ly.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường đối ngược nhau về vấn đề ly dị này.
- Lập trường dễ dãi do rabbi Hillel đứng đầu chủ trương cho phép ly dị vì những lý do rất tầm thường.
- Lập trường khắt khe do rabbi Shammai đứng đầu chủ trương chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Hôm nay khi người biệt phái đến hỏi Đức Giêsu xem họ có được phép ly dị không? Thay vì trả lời “Có” hay ”Không” – vì Đức Giêsu biết họ có ý gài bẫy Ngài sẽ phạm một trong hai tội: vi phạm Lề Luật hoặc đối đầu với Hêrôđê – thì Đức Giêsu lại nhắc cho họ điều căn bản là từ thuở ban đầu Thiên Chúa sáng tạo loài người có nam có nữ, chúc phúc cho họ để nên một với nhau và Ngài nhắc lại câu: “Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly”.
“Thuở ban đầu” – có nghĩa là từ ngàn đời trong ý định của Thiên Chúa đã muốn người nam và nữ kết hợp với nhau trong việc cộng tác sáng tạo và bất khả phân ly. Thế nhưng, vì ích kỷ mà con người phản bội dối gian nhau, thiếu tình thương và tha thứ cho nhau... dẫn đến đổ vỡ. Chính vì thế mà Maisen cho phép ly dị như một chọn lựa ngoài ý muốn để giải gỡ cho họ. Chúng ta cần dừng lại ở lời này của Đức Giêsu: Ông Maisen cho phép chứ không phải Thiên Chúa đã ban bố điều đó, và ông Maisen cho phép là vì lòng chai dạ đá của họ.
Như vậy, Đức Giêsu xác định rõ ràng về ý định của Thiên Chúa và nâng hôn nhân lên hàng bí tích. Ngài khẳng định khi hôn nhân thành sự là cả hai đã nên một xương một thịt và do Thiên Chúa kết hợp nên loài người không ai có quyền phân ly. Và hôn nhân là sự bình đẳng, bổ trợ cho nhau để cùng hướng tới sự cộng tác sáng tạo của Thiên Chúa.
Sự kỳ thị nam nữ trong luật Do thái
Sách Đệ nhị luật chương 24,1-3 có ghi: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, và sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ và chết, thì người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau khi nàng đã ra ô uế”.
Chúng ta thấy ngay có sự kỳ thị nam nữ trong luật ấy. Người Do thái coi người nữ đứng hàng thứ sáu trong nhà, xếp sau cả vật nuôi của họ. Họ xem người nữ như một món đồ để thỏa mãn và lưu truyền nòi giống, thích thì giữ và chán thì bỏ.
Như vậy, ý định của Thiên Chúa là sáng tạo một người nam và một người nữ để thành một huyết nhục là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau. Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa nam và nữ, đồng thời cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu duy nhất và chung thuỷ: “Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”.
Ngày nay, Giáo hội vẫn trung thành với giáo lý của Đức Giêsu và luôn khẳng định đặc tính “vĩnh viễn” của hôn nhân Công giáo. Không ai có quyền huỷ bỏ giao ước hôn nhân hợp pháp vì đây là luật của Chúa. Luật ly dị xem ra là một luật khắt khe và khó khả thi, nhưng với ơn Chúa trợ giúp, chúng ta có thể thực hiện được, và nhờ đó Giáo hội cũng như xã hội càng thêm vững chắc, gia đình dễ tìm được hạnh phúc.
Truyện: Án Tử trung thành với vợ
Án Tử, người nước Tề, là một người nổi tiếng thanh liêm và thuỷ chung. Xuất thân từ gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh tảo tần buôn bán để nuôi ăn học. Đỗ đạt làm quan, không bao giờ Án Tử quên ơn ấy của vợ.
Dù cuộc sống có đầy cạm bẫy, ông vẫn trung thành. Một hôm vua Cảnh Công đến thăm và ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà vừa già vừa xấu xuất hiện trong bữa tiệc. Án Tử liền giới thiệu đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt, ông mới đề nghị với Án Tử: “Ôi, vợ khanh sao vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu khanh. Khanh nghĩ sao?”
Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát không chút do dự: “Nhà tôi nay tuy đã già và xấu, nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ lúc già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nhà tôi thường nhờ cậy tôi như tôi đã từng nhờ cậy sự giúp đỡ của nhà tôi. Nay bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi mang tiếng là ăn ở bội bạc với nhà tôi.
Nói xong, Án Tử lạy hai lạy từ chối không nhận lấy con gái của vua.
Những người biệt phái phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề li dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép li dị vì những cớ rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho li dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép li dị.
Còn lập trường của Chúa Giêsu là tuyệt đối không được li dị: "Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân li".
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.
B.... nẩy mầm.
1. Tình trạng li dị ngày càng gia tăng là biểu hiện của những tật xấu căn bản hơn của người thời nay, đó là không trung thành và hay thay đổi, sống theo sở thích hơn là theo trách nhiệm. Tình trạng li dị cũng cho ta hiểu rằng sống thủy chung với một tình yêu là điều rất khó.
Lạy Chúa, mới ngày nào con còn cảm thấy rất yêu mến Chúa, sao hôm nay lòng con đã bớt nồng nàn, và không biết mai ngày sẽ ra thế nào nữa! Phần Chúa thì muôn đời vẫn một mực yêu thương con. Xin gìn giữ con mãi mãi trong tình yêu thương của Chúa.
2. Đời sống độc thân của những người dâng mình cho Chúa là một dấu chỉ và một bằng chứng và một sự khích lệ cho những kẻ sống đời hôn nhân:
- dấu chỉ về một tình yêu hoàn toàn không vị kỷ
- bằng chứng rằng trung thành với tình yêu đã cam kết là một điều có thể
- vì là dấu chỉ và bằng chứng nên nó là một sự khích lệ.
Xin cho các Linh mục, tu sĩ sống đời tận hiến của mình một cách vui vẻ và trung thành.
1. Những người Pharisêu phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề ly dị. Lập trường của những người Do Thái không thống nhất về vấn đề này, đôi khi còn trái ngược nhau nữa:
* Lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbit Hillel) cho phép ly dị vì những cớ tầm thường.
* Lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbit Shammai) chỉ cho ly dị trong những trường hợp ngoại tình.
Tuy khác nhau nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.
Còn lập trường của Chúa Giêsu thì sao? Thưa là tuyệt đối không được ly dị: “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn dạy người ta cách để sống đời hôn nhân cho tốt đẹp: phải yêu thương nhau (luyến ái) và đồng tâm nhất trí (nên một huyết nhục) với nhau.
Án Tử, người nước Tề là một người nổi tiếng thanh liêm và thủy chung. Xuất thân từ gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh tảo tần buôn bán để lấy tiền cho ông ăn học. Đỗ đạt làm quan, không bao giờ Án Tử quên ơn ấy của vợ.
Một hôm, vua Cảnh Công đến thăm và ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà vừa già vừa xấu xuất hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử vừa giới thiệu người phụ nữ ấy là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt, vua mới đề nghị với Án Tử:
- Ôi, vợ khanh sao vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu khanh. Khanh nghĩ sao?
Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát không chút do dự:
- Nhà tôi nay tuy đã già và xấu, nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ lúc già, lấy chồng lúc đẹp cốt để nhờ cậy khi xấu. Nhà tôi thường nhờ cậy tôi như tôi đã từng nhờ cậy sự giúp đỡ của nhà tôi. Nay bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi mang tiếng là ăn ở bội bạc với nhà tôi.
Nói xong, Án Tử lạy hai lạy từ chối không nhận lấy con gái của vua.
2. Chúng ta thấy tình trạng ly dị ngày càng gia tăng. Tình trạng ly dị cho chúng ta hiểu rằng, sống chung thủy với một tình yêu là điều rất khó.
Báo TUỔI TRẺ CHỦ NHẬT 9.1998 có đăng những lời tâm sự của một người con nói về người cha của mình: Tên anh là Roberto Mc Donald
Tôi mồ côi mẹ từ lúc lên 6. Cha tôi vừa là người cha cũng lại vừa là người mẹ. Do vậy, khi cha tôi nằm xuống vì chứng ung thư xương vào tuổi 75, thì tôi đâm ra ngã lòng tuyệt vọng thật sự!
Khi còn nhỏ, một ngày nọ, tôi nghe cha tôi sai người chị cả của tôi vào phòng ông để lấy một ít tiền từ một chiếc hộp màu đen. Tôi cứ thắc mắc mãi, tại sao tôi lại không được phép nhìn vào trong chiếc hộp ấy xem nó dựng cái gì mà có vẻ bí mật thế?
Năm tháng qua mau, tôi càng lớn lên thì cha tôi càng già yếu. Mái tóc ông bạc đi, khuôn mặt nhăn nheo và tấm thân bắt đầu gập lại. Tuy nhiên, nụ cười tươi vẫn cứ luôn đọng lại trong đôi môi của ông, và nó sẽ còn đó cho đến khi ông trút hơi thở cuối cùng. Khi dọn dẹp và lôi ra mọi thứ trong phòng ông, thật sự là tôi không còn nhớ đến chiếc hộp màu đen. Các thứ trong ngăn kéo đều đã được lấy đi, đồ đạc cũng được dọn bớt, căn phòng giờ đây trống vắng làm sao.
Khi mở đến chiếc tủ sau cùng, mắt tôi bỗng chạm phải chiếc hộp màu đen. Đó là một chiếc hộp dẹt bình thường bằng kim loại bọc da, các cạnh hộp đã rách và mòn đi rất nhiều. Nhẹ nhàng mở ra, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy mọi thứ bên trong.
Bên trong hộp chính là tất cả những gì thiêng liêng mà người cha thân yêu của tôi đã gìn giữ: Tờ hôn thú với chữ ký của mẹ, một tấm ảnh đẹp nhất của mẹ trong chiếc váy dài màu vàng mà cha thích nhất, một tấm ảnh chụp tôi lúc lên 5 với những lời đề tặng nguệch ngoạc của một đứa trẻ “Tặng ba và mẹ của con”. Hóa ra, tôi đã có mặt ở bên trong chiếc hộp màu đen, mẹ tôi cũng thế!
Tôi hình dung ra cha tôi đã nhiều lần lặng lẽ lôi chiếc hộp ra nhìn ngắm mọi thứ. Ông đã mỉm cười và nói thầm một mình. Tôi nghĩ rằng, cha đã thường làm như thế nhiều lần trong bao nhiêu năm trời qua, vì mọi thứ đều cũ kỹ sờn rách... Giờ đây chiếc hộp ấy đã thuộc về tôi. Khi tôi nhắm mắt xuôi tay, nó sẽ lại thuộc về các con tôi. Và ở bên trong, chúng cũng sẽ tìm thấy những gì thân thương nhất của tôi. Chúng sẽ có được một gia tài lớn ở bên trong chiếc hộp nhỏ màu đen, đó là tình yêu và niềm tin của tôi. Tôi tin chúng sẽ nhận ra rằng, điều quan trọng thật sự và duy nhất trong cuộc đời này chính là tình yêu mà chúng ta dành cho nhau...
Chúa đã trả lời cho những người biệt phái hỏi Chúa là con người chúng ta có được phép ly dị không, rằng là: “Khởi đầu công cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và cả hai sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.” (Mc 10, 6 – 9). Như vậy, qua câu trả lời của Chúa, chúng ta thấy:
-Chúa muốn con người chúng ta sống trên mặt đất này là sống thành cộng đoàn với nhau, không ai là một hòn đảo riêng lẻ. Vì thế chúng ta hãy giúp đỡ nhau, nhất là giúp nhau nên thánh.
-Hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là do Chúa lâp nên, vì thế, hai người sống yêu thương nhau, giúp nhau, sinh sản, giáo dục con cái theo thánh ý của Chúa.
-Mối dây liên kết hôn nhân công giáo của chúng ta là vĩnh viễn, không được phép ly dị, không được để bỏ nhau, dù là tòa đời có cho phép ly dị, nhưng Chúa thì không cho. Bởi thế, chúng ta phải sống trọn tình vẹn nghĩa với nhau. Chỉ có cái chết mới làm phân ly hai người mà thôi.
Như vậy, mục đích của hôn nhân là yêu thương nhau, giúp nhau, nhất là giúp mhau nên thánh, sinh sản, giáo dục con cái cho Chúa, và đặc tính của hôn nhân là vĩnh viễn, không phân ly. Thế nhưng, trong thực tế, có những đôi hôn nhân sống không có vấn đề gì xảy ra, dù có thử thách, họ vẫn vượt qua được, nhưng có những đôi là tự ý bỏ nhau, không sống với nhau cho đến trọn tình vẹn nghĩa như Chúa truyền. Con người chúng ta đã phá họa chương trình của Chúa đã thiết định cho chúng ta, nên chúng ta gây ra biết bao nhiêu đau thương, đổ nát cho cuộc sống này, và rồi chúng ta sẽ gánh lấy tội lỗi của mình: “Ai bỏ vợ mình và lấy người khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10, 11 – 12).
Chúa nói điều này ở địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan, khi dân chúng tụ họp lại bên Chúa (Mc 10, 1 – 2). Nghĩa là Chúa nói cho những người có đạo (Giuđêa),và những người không có đạo (Bên kia sông Giođan), để họ biết điều Chúa truyền dạy mà giữ đạo Chúa tốt hơn trong đời sống hôn nhân gia đình, nhằm mang lại hạnh phúc cho nhau, cho con cái, cho cha mẹ đôi bên và cho mọi người bà con thân thuộc của họ.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng hay thương xót và nhân ái, Chúa thương hết tấ cả mọi người chúng con, Chúa biết chúng con sống đời sống hôn nhân gia đình rất khó khăn và phức tạp, nếu không có ơn Chúa ban, thì chúng con khó mà sống chung thủy vẹn toàn với nhau. Vì thế giờ phút này, xin Chúa ban ơn thêm sức cho chúng con, để nhờ ơn Chúa ban đó, xin Chúa cho các đôi vợ chồng của chúng con sống theo ý Chúa, và làm gương sáng cho người khác noi theo, để làm vinh danh Chúa nơi chúng con đang sống. Amen.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: trung thành vâng giữ luật Chúa, còn việc thưởng phạt là của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên cho thấy: Đối với người Ítraen đạo đức, không có gì có thể so sánh với niềm tin vào việc Thiên Chúa thưởng phạt. Ấy vậy mà, niềm tin đó cũng chỉ là phù vân, và vì nếu thưởng phạt là chuyện chắc chắn, thì hậu quả của việc đó mắt phàm chúng ta lại không thể lường được. Rõ ràng là, Giảng Viên chân thành hơn những ai dựa vào truyền thống, để khẳng định rằng: người công chính sẽ được hạnh phúc và ác nhân sẽ bị trừng phạt. Biết bao phen ta thấy điều trái ngược trong cuộc sống: phủ định việc thưởng phạt của Thiên Chúa, là bắt ta đi tìm câu giải đáp cho vấn nạn, không phải, trong cuộc sống trên trần gian, nhưng là, một nơi khác, sau này, các dụ ngôn về Nước Thiên Chúa sẽ mang lại ánh sáng cuối cùng cho chúng ta. Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. Chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho nhờ Thần Khí. Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Con người không thể nhận ra mọi việc Thiên Chúa làm.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: trung thành sống theo đường lối Chúa sẽ được đầy hoan lạc, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Arighentô nói: Linh hồn hớn hở vui mừng trong Chúa vì Chúa vui nhận việc ta làm… Lạy Chúa, được Ngài ở bên, con chẳng nao núng bao giờ. Vì thế tâm hồn con mừng rỡ và lòng dạ hân hoan. Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: trung thành với bạn bè là điều đáng quý, trung thành với luật Chúa còn đáng quý hơn bội phần, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca nói: Không có gì đổi lấy được một người bạn trung thành. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 118, vịnh gia cho thấy: Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi. Lạy Chúa, con dâng lời ca tụng, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con. Con vui thú với thánh chỉ Ngài chẳng quên lời Ngài phán.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa, Lời Chúa là sự thật; xin Chúa lấy sự thật mà thánh hiến chúng con. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. Lời Chúa là sự thật, Lời Chúa sẽ thánh hiến ta: Trung thành với những gì Chúa đã ban truyền, sẽ mang lại cho ta niềm hạnh phúc lớn lao. Luật Chúa là bánh ngon, là rượu quý: Một khi đã gắn bó, và thấm nhuần đạo lý đức tin chân thành, ta sẽ vui vẻ ăn bánh và hoan hỷ uống rượu, mà Chúa đã dọn sẵn cho ta. Là Hội Thánh, là hiền thê của Đức Kitô, chúng ta được liên kết nên một với Người, được ăn bánh từ trời, và được uống rượu từ cạnh sườn của cây nho thật, là Đức Kitô. Ai ăn bánh và uống rượu mầu nhiệm này, là được tham dự vào mầu nhiệm của Ngôi Lời. Ai được tham dự như thế, thì phải tỏ ra xứng đáng: lúc nào cũng phải mặc áo trắng, nghĩa là, các việc làm của ánh sáng, để ánh sáng của chúng ta chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời. Luật Chúa đã ban hành, loài người không được hủy bỏ; Sự gì Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. Ước gì chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu với trẻ em. Chắc các em còn nhỏ nên cần có người đưa các em đến với Ngài. Đó có thể là cha mẹ hay một người trong gia tộc. Những người đưa các em đến phải có lòng tin vào Đức Giêsu. Họ đưa con của họ đến gặp Đấng mà họ tin là Người của Thiên Chúa. Họ không mong Thầy Giêsu chữa bệnh hay cho con mình bánh kẹo. Điều họ mong là được Ngài chạm tay vào chúng (c. 13). Một cái chạm tay rất nhẹ của Thầy, một cái chạm nhẹ của Thiên Chúa. Họ mong có sự tiếp xúc giữa chính tay Thầy với thân xác con cái họ. Ơn phúc lành đến qua tay, qua sự tiếp xúc đơn sơ. Thầy Giêsu rất vui lòng làm chuyện đó. Nhưng các môn đệ lại không nghĩ như vậy. Họ nghĩ chơi với trẻ em chỉ tổ mất thì giờ, bị quấy rầy vì ồn ào, lộn xộn. Vả lại, trẻ em thì đâu có xứng đáng để được gặp Thầy. Bởi vậy họ đã ngăn cấm không cho các em đến với Đức Giêsu. Nói chung họ vẫn chưa hiểu ra bài học mới đây của Thầy (Mc 9, 36-37). Khi thấy các môn đệ ngăn cản, Thầy Giêsu đã nổi giận thực sự. Chắc Ngài giận vì không hiểu được sao các ông vẫn hẹp hòi đến thế, sao các ông vẫn chưa đổi được cái nhìn của mình về trẻ em. “Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” (c. 14). Đây là một mệnh lệnh nghiêm chỉnh và có giá trị mãi. Trẻ em có chỗ trong trái tim Giêsu. Thầy Giêsu dù bận bịu nhưng vẫn có giờ cho các em gặp gỡ. Ngài không coi chuyện chơi với các em là phiền phức. Chúng ta chẳng những không được ngăn cản, mà còn phải giúp đưa các em đến với Thầy Giêsu. Chúng ta là cha mẹ, là thầy của các em, nhưng mặt khác chúng ta lại là học trò để học hỏi nơi các em. “Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (c. 14). Chúng ta cần học nơi các em lòng biết ơn, sự cậy dựa và khiêm nhu. “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (c. 15). Như thế phải học cách đón lấy Nước Trời như trẻ thơ, nghĩa là đón lấy như một quà tặng mà mình không xứng, đón lấy với sự ngỡ ngàng, ca ngợi, tri ân. Hãy nhìn Thầy Giêsu bồng các em nhỏ trên cánh tay (c. 16; Mc 9, 36). Hãy nhìn nét mặt hạnh phúc của Thầy. Thầy chẳng những chạm đến các em, mà còn bồng các em. Thầy còn trịnh trọng chúc lành bằng cách đặt hai bàn tay trên các em. Rõ ràng Thầy Giêsu quý các em, và Ngài không muốn ta làm hư các em. Thế giới hôm nay có bao điều ngăn cản không cho trẻ em gặp Chúa. Bao trẻ thơ đã bị lạm dụng từ nhỏ, bị ngược đãi, bị bắt làm nô lệ, bị thất học, bị bỏ rơi, bị ném vào cuộc đời quá sớm. Bao trẻ thơ bị suy dinh dưỡng, bị bệnh tật và chết khi còn trong lòng mẹ. Bao trẻ thơ thèm được chút hơi ấm của tình thương gia đình. Nhất là có những trẻ em đã sớm mất tuổi thơ và dính vào thói hư của người lớn như nghiện ngập, phạm tội hình sự. Hãy giúp các em làm quen với Giêsu và đừng làm gương xấu cho các em. Hãy đón tiếp các em để gặp được chính Thầy Giêsu và gặp được chính Thiên Chúa (Mc 9, 37). Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng. Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc. Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng. Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen. -------------------------------
Thế gian trọng lớn khinh nhỏ. Đó là thú tính. Càng văn minh càng biết trân trọng những gì bé nhỏ. Càng thánh thiện càng biết sống bé nhỏ. Vì nhận biết con người thật của mình. Biết Thiên Chúa lớn lao. Biết mình bé nhỏ. Biết Thiên Chúa có tất cả. Mình chỉ là hư vô. Biết Thiên Chúa là Cha. Mình là con. Mình tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Từ mạng sống. Đến sức khoẻ. Tài năng. Hạnh phúc. Tất cả đều bởi Chúa. Vì thế cần sống tâm tình người con bé nhỏ.
Các môn đệ cũng theo thói đời, khinh thường trẻ nhỏ. Nhưng Chúa đã dạy các ông chân lý về Nước Trời. “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy họ. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là chủa những ai giống như chúng”.
Sách Huấn ca dạy ta: Ta phải biết mình bé nhỏ. Vì Thiên Chúa tạo dựng ta từ hư vô. Từ bụi đất. Ta phải tạ ơn Chúa không ngừng. Vì Thiên Chúa nâng ta lên làm con cái, cho ta trổi vượt muôn loài. Ta phải tạ ơn Chúa. Vì Thiên Chúa ban cho ta trí khôn phân định phải trái. Phải biết ca tụng, tạ ơn Chúa. Và nhất là phải luôn tuân giữ lề luật và sống trong thánh ý Chúa: “Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người. Danh Thánh Người, chúng sẽ ca ngơi, những công trình vĩ đại của Người, chúng sẽ kể ra… Bổn phận đối với tha nhân, Người truyền cho ai nấy phải thi hành. Đường lối của chúng luôn luôn ở trước mặt Người, và không bao giờ giấu mắt Người được” (năm lẻ).
Khi biết mình hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa ta sẽ phó thác cho Chúa tất cả. Dù vui. Dù buồn. Dù đau yếu. Dù khoẻ mạnh. “Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca”. Người phó thác cho Chúa sẽ trở thành công chính. Lời cầu nguyện của người công chính sẽ được Chúa nhận lời. Tiên tri Ê-li-a hoàn toàn sống cho Chúa. Phó thác vào Chúa. Nên lời cầu của ngài rất có hiệu lực. “Ông Ê-li-a xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống, và đất đã trổ sinh hoa trái” (năm chẵn).
Hãy sống bé nhỏ. Như người con thơ dại đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha nhân từ sẽ lo liệu cho ta mọi sự. Sẽ làm việc thay ta. Sẽ sắp xếp mọi sự thuận lợi cho ta.
Ðức Giáo Hoàng Piô X khi nhậm chức Giám mục giáo phận Mantova, Ngài đã nghĩ đến người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn. Trong câu chuyện thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của mình: "Mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?"
Người mẹ mỉm cười đưa chiếc nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn cho con xem và nói: "Nếu không có chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn Giám mục của con".
Thật thế, nếu cha mẹ không để tâm giáo dục con cái, làm sao chúng có thể nên người, nhất là nên người con của Chúa được.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước Trời: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào". Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: "Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn".
Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin của con cái cho các vị lãnh đạo tinh thần và thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.
Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả các cha mẹ. Xin Ngài soi sáng để các cha mẹ hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, đồng thời nhiệt tâm giáo dục con cái và dẫn đưa chúng đến với Chúa.
Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Mc. 10, 13-15)
Trích đoạn Phúc âm này tưởng chừng tầm thường, nhưng không phải vậy. Trái lại, mấy câu vắn vỏi này là một mạc khải quan trọng về Thiên Chúa và mối quan hệ của Người với chúng ta. Suốt cuộc đời Người và khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu Kitô đã chỉ có một sứ mệnh duy nhất là làm cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa: “Sự sống đời đời, chính là họ nhận biết Cha và Đấng Cha sai.” Và Chúa đã thực hiện tốt sứ mệnh đó bằng việc làm cũng như bằng lời nói; tốt hơn nữa bằng những quan hệ giữa con người cũng như bằng những phép lạ của Người. Các Phúc âm phần lớn đều là tường thuật về những quan hệ của Chúa Giêsu với người ta. Trong mối quan hệ của Người với tha nhân, Chúa Giêsu tỏ ra hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập đối với dư luận quần chúng và người xung quanh. Các môn đệ thì muốn dân chúng ở xa Người, tạo nên một bức màn che chắn Người. Các ông làm như thể muốn sàng lọc những người có thể đến với Chúa Giêsu. Trước mọt dụng ý như thế, Chúa Giêsu bực mình, nặng lời khiển trách các ông… rồi Người gọi trẻ em đến với mình, đặt tay chúc lành cho chúng và ôm hôn chúng.
Lời mời gọi nên như trẻ thơ
Chúa Giêsu không đành đón tiếp các trẻ em như đón tiếp các người thu thuế và tội lỗi, Người đi xa hơn nhiều; Người lấy chúng làm gương mẫu cho những thính giả cúa mình: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Nên giống như trẻ em, có nghĩa là gì? Chúng ta vốn nghĩ, trẻ em chẳng có chi hoàn hảo, chẳng có chi đáng bắt chước về mọi phương diện. Ông La Bruyère đã viết một cách cay nghiệt rằng: “Trẻ em là đồ ăn cắp, nói dối, chúng đã là những người lớn đấy.” Cũng không phải là chuyện trở lại vẻ hồn nhiên trong trắng của trẻ em như trở lại vẻ tinh tuyền ban đầu của nguyên tổ khi ở vườn địa đường. Kinh thánh không nhìn trẻ em ở khía cạnh này. Vả lại đòi hỏi một người lớn phải khổ sở vì không còn là một đứa trẻ nữa có lẽ đó là một yêu cầu có phần nào bệnh họan.
Tuổi thơ đồng nghĩa với tươi mát, hồn nhiên, đơn sơ. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận Nước Thiên Chúa với những tâm tình này, nghĩa là với niềm hân hoan vui sướng như được một cái mới, không tính toán, không hậu ý, nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng mình tùy thuộc vào Chúa và liên quan tùy thuộc đối với người khác. Tuy nhiên trong bất cứ trường hợp nào, ta không được là con người ấu trĩ và từ chối làm cho chính ta điều gì có thể làm được.
Bởi lẽ, tinh thần thơ ấu mà Chúa Giêsu đề nghị không phải là một sự “nhõng nhẽo”, ươn lười, nhưng là một tâm hồn rộng mở đón nhận lời Chúa với tinh thần đơn sơ vậy.
Nếu xét về đời sống thiêng liêng: Nước Trời là gia nghiệp của con người, thì đời sống tự nhiên, con cái là gia sản của các bậc cha mẹ.
Muốn cho gia sản ấy thực sự có giá trị và ý nghĩa thì phải lo giáo dục con cái cho đàng hoàng.
Giáo dục đúng thì sẽ được hưởng hoa trái của niềm vui. Giáo dục sai sẽ lãnh hậu quả buồn.
Hôm nay, người ta đem đến cho Đức Giêsu các trẻ em và xin Ngài đặt tay chúc lành cho chúng. Tuy nhiên, các môn đệ đã ngăn cản các bà mẹ khi các bà dẫn các trẻ em đến với Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng quở trách các môn đệ và đề cao các em.
Qua hình ảnh, tính tình của trẻ em mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học quan trọng: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào”. Câu nói này vừa là một giáo huấn về sự chân thành, đơn sơ cần có đối với người môn đệ. Mặt khác, vừa là một mặc khải về quy luật tất yếu để được vào Nước Trời là trong sạch như trẻ thơ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc giáo dục con cái. Đồng thời cần phải làm gương cho con cái của mình noi theo.
Nhưng điều chính yếu mà Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta là: hãy sống những đặc tính của trẻ thơ thì sẽ được vào Nước Trời. Đặc tính ấy được thể hiện qua sự chân thành, không lươn lẹo, quanh co, không giam tham, hối lộ, vu vạ, cáo gian, không cướp của, giết người...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nêu gương sáng cho trẻ em và học được những bài học đơn sơ, trung thành, trong trắng để được vào Nước Trời. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu thương mến các trẻ em cách đặc biệt, vì Nước Trời thuộc về chúng. Muốn vào Nước Trời, tâm hồn chúng ta cần phải trở nên như trẻ thơ: cậy trông, phó thác và đơn sơ.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của con, một đứa con nhỏ trong gia đình thật yếu ớt. Hơn nữa, một em bé trong xã hội có là gì đáng cho người khác quan tâm! Nhưng cũng em bé đó lại có vai trò quan trọng trong Nước Trời.
Chúa đã đề cao trẻ thơ như mẫu mực cho tất cả những ai muốn vào Nước Trời. Bởi vì, lạy Cha, nếu em bé lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ và gia đình, thì con cũng hoàn toàn lệ thuộc vào Cha trong tâm tình phó thác đơn thành.
Xin Cha giúp con nhận ra con người thật của mình: tự sức con, với tất cả mọi nỗ lực, không xứng đáng với ơn lành Cha ban. Cả đời con lập công cũng chẳng đáng Cha ban Nước Trời. Con biết mình yếu đuối như một trẻ thơ. Chính Chúa Giêsu cũng trở thành một trẻ thơ trước mặt Cha. Ngài sống với Cha trong tâm tình đơn sơ, cởi mở, phó thác, vâng phục hoàn toàn. Con nhìn thấy nơi trẻ thơ Giêsu một tấm lòng yêu mến đối với Cha. Xin Cha loại bỏ những gì làm con ảo tưởng mình là kẻ lớn: tự phụ, kiêu căng, ích kỷ… để chỉ giữ lại một điều duy nhất là: tin tưởng cậy trông nơi Cha.
Con biết Cha không thích những người mang thái độ của “kẻ cả”. Xin Cha thanh luyện con để tâm hồn con luôn trong sáng, để hình ảnh Cha không bị mờ đục nơi tâm hồn con. Xin Cha cúi xuống với con và dắt con đi trên đường về Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”.
1. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").
2. Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người do thái coi khinh trẻ nhỏ (do chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
3. Phản ứng của Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
4. Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. "Thấy vậy Ngài bất bình": Chúa khó chịu và bất bình khi môn đệ Ngài đuổi xua trẻ nhỏ. Ngày nay Chúa cũng tiếp tục khó chịu và bất bình nếu Ngài thấy tôi có thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử và không rộng tay đón tiếp mọi người.
2. "Hãy để trẻ nhỏ đến với": Tôi nên hiểu "trẻ nhỏ" theo nghĩa rộng. Chúa bảo tôi hãy sống làm sao để tất cả mọi người đều có thể gần gũi tôi, hơn nữa đều cảm thấy thoải mái khi ở gần bên tôi. Nhất là những người "nhỏ bé", tức là kém cỏi, vụng về, chậm trí v.v.
3. "Nước Thiên Chúa là của những người giống như trẻ nhỏ". Trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ, trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế, trẻ nhỏ không tính toán lời lỗ thiệt hơn… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay… Tôi đối với Chúa như thế nào? Có giống những nét trên của trẻ nhỏ không?
4. "Những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ", đó là tựa đề quyển sách của Mục sư Robert Fangum, một quyển sách bán chạy nhất tại Hoa kỳ trong thời gian gần đây. Tác giả viết "Những bài học chúng ta học được ở nhà trẻ đều là những điều chúng ta cần biết để sống hạnh phúc; nếu tất cả chúng ta đều trở lại nhà trẻ thì có lẽ thế giới này không hỗn loan như hiện nay." Những điều đó là gì?
- Hãy chia xẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đừng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
- Lấy đâu thì trả lại đó, dọn dẹp những gì mình bày ra, và nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.
- Ra đường phải chú ý đến xe cộ qua lại, phải nắm tay nhau mà đi.
- Biết ngạc nhiên trước những mầu nhiệm của cuộc sống. (Chờ đợi Chúa)
Người Do thái có thói quen đem con mình đến với những người tốt lành có thế giá để họ chúc lành cho các em. Hôm nay người Do thái đem các trẻ nhỏ đến cho Chúa chúc lành, nhưng các môn đệ sợ chúng quấy rầy nên đuổi đi. Chúa không bằng lòng nên quở các ông, và bảo hãy để yên cho chúng đến với Ngài, vì Nước trời là của những người sống đơn sơ, vâng lời, trong sạch và hoàn toàn phó thác giống như chúng. Rồi Chúa ẵm chúng vào lòng và ban phúc lành cho chúng.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Đức Giêsu, để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng, chứng tỏ Đức Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài… Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do thái, Đức Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước trời: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào”. Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: “Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”.
Những đức tính của trẻ nhỏ
Cám dỗ lớn nhất của con người là đam mê quyền lực, ai cũng mong muốn được ăn trên ngồi trốc, được mọi người tung hô kính trọng... để rồi từ đó làm mọi cách để đạt được mục đích chức quyền... Hình ảnh nên như trẻ nhỏ, nghĩa là phải biết sống tự hạ khiêm tốn, vì ai biết hạ mình xuống sẽ được tôn lên, còn ai kiêu ngạo thì tự đánh mất chính mình trong mắt mọi người.
- Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên tính đơn sơ chân thực, trẻ nhỏ không tính toán lợi hại hay những toan tính nham hiểm. Chúa cũng muốn mọi người chúng ta sống chân thành và ngay thẳng, không toan tính mưu lợi thấp hèn.
- Hình ảnh trẻ nhỏ còn nói lên tinh thần sống phó thác và tin tưởng nơi cha mẹ. Chúa mời gọi chúng ta biết sống đơn sơ phó thác nơi tay Chúa quan phòng.
- Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên sự trong sạch. Trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, không có những đam mê xấu. Chúa cũng muốn chúng ta sống trong sạch trước mặt Người.
Một nhận xét bi quan đáng quan tâm
Có người đưa ra nhận xét: bản chất trẻ em hôm nay không khác gì trẻ em thời Đức Giêsu... Và có lẽ trẻ em thời nào cũng vậy: rất thiên thần. Tuy nhiên cách hành xử thì có lẽ đã khác đi rất nhiều: trẻ em hôm nay - quả thực - là không còn “thiên thần” mấy nữa... Và đây là điều người lớn chúng ta cần coi lại. Dù các em làm gì, nói gì... thì cũng chỉ là những gì các em nhìn thấy nơi người lớn. Còn nhỏ thì nhìn thấy nơi cha mẹ, anh chị... Lớn lên thì thấy nơi thầy cô, chú bác... Vào đời là những trải nghiệm học được từ trường đời... Trường đời càng ô trọc con người càng gian manh. Vì thế cần phải được giáo dục trong những môi trường tốt lành ngay từ còn nhỏ.
Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin con cái cho những vị lãnh đạo tinh thần hay thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.
Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
Hãy để cho trẻ nhỏ đến với Chúa
Một cách nào đó, chúng ta vô tình hay hữu ý đã ngăn cản trẻ nhỏ đến với Chúa khi:
- Ngay những ngày đầu trẻ được sinh ra, chúng ta bê trễ việc lo cho trẻ lãnh Bí tích Thánh tẩy làm con cái Chúa.
- Không tập tành cho con trẻ làm quen tiếp xúc và yêu mến Lời Chúa, kinh nguyện hằng ngày cùng những việc đạo đức ngay tại nơi gia đình.
- Không ngăn cản hoặc tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc với những thứ văn hóa xấu (bạo lực, phim ảnh, sách báo xấu, trò chơi thiếu lành mạnh), chính những thứ đó gián tiếp ngăn ngừa trẻ tiếp cận với Chúa.
- Không sống nêu gương đạo đức và thánh thiện cho trẻ.
- Đối với những người lớn, chúng ta không ngăn cản những sáng kiến riêng tư đơn sơ của họ trong việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Truyện: Một thầy dạy bất đắc dĩ
Ông Tamba, một nhà trí thức tại Indonesia và cũng là một tín hữu Kitô đã kể lại như sau:
Tôi rất hãnh diện và tôi cho rằng tôi là người tín hữu duy nhất trong giáo xứ Palembang có được bằng tiến sĩ đại học Siuydaia, mà còn là chủ tịch hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức trong tỉnh nữa. Với tất cả những danh hiệu và chức vụ này tôi tưởng như chẳng ai bằng tôi. Thế nhưng, tôi lại bê trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa.
Lúc ấy, Chúa sai một người thầy đến dạy tôi. Người thầy là đứa cháu trai mới có bốn tuổi. Tôi thường nói với cháu rằng, người tin Chúa phải cầu nguyện trước khi đi ngủ. Một hôm, cháu đến nhà tôi chơi và ở lại ngủ chung phòng với tôi. Khi tôi lên giường ngủ, cháu hỏi:
- Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa Giêsu rồi đấy à?
Câu hỏi ngây thơ của đứa cháu làm tôi tỉnh ngộ. Thật đúng là Chúa đã dùng một đứa bé mới có bốn tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh tôi và nhắc nhở tôi. Tôi đã lập tức cầu nguyện ngay trước mặt đứa cháu. Và từ đó tới nay, tôi không bao giờ quên cầu nguyện trước khi đi ngủ nữa.
Ông Tamba, một nhà trí thức tại Inđonesia và cũng là một tín hữu Kitô đã kể lại như sau:
- Tôi rất hãnh diện và tôi cho rằng, tôi là người tín hữu duy nhất trong giáo xứ Palembang có được bằng tiến sĩ đại học Siuydaia, mà còn là chủ tịch hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức trong tỉnh nữa. Với tất cả những danh hiệu và chức vụ này tôi tưởng như chẳng ai bằng tôi. Thế nhưng, tôi lại bê trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa. Lúc ấy, Chúa sai một người thầy đến dạy tôi. Người này là đứa cháu trai mới có hai tuổi. Tôi thường nói với cháu rằng, người tin Chúa phải cầu nguyện trước khi đi ngủ. Một hôm, cháu đến nhà tôi chơi và ở lại ngủ chung phòng với tôi. Khi tôi lên giường ngủ, cháu hỏi:
- Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa Giêsu rồi đấy à?
Câu hỏi ngây thơ của đứa cháu làm tôi tỉnh ngộ. Thật đúng là Chúa đã dùng một đứa bé mới có hai tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh tôi và nhắc nhở tôi. Tôi đã lập tức cầu nguyện ngay trước mặt đưa cháu. Và từ đó tới nay, tôi không bao giờ quên cầu nguyện trước khi đi ngủ nữa.
2. Thứ đến là tính thật thà. Có lần Chúa Giêsu đã dạy: "Có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5,37).
Nhà văn Pécaut, người Pháp, có kể lại một câu chuyện có thật và đầy xúc động, mà ông đã gặp một lần trong đời để rồi vẫn còn nhớ mãi, không thể nào quên được. Câu chuyện như sau:
Một hôm, tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trạc 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương, tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay:
- Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trở lại trả cho ông ngay.
Tôi nhìn thằng bé với một thoáng nghi ngờ. Nó vội nói:
- Thưa ông, cháu không phải là một thằng ăn cắp đâu ạ!
Quả vậy, gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng, và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa...
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé, bé hơn, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống "thằng ăn cắp" như tạc. Nó thổn thức nói với tôi:
- Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu... cháu sợ rằng, anh cháu chết mất thôi..."
Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào:
- Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi...
Chúng tôi rời khỏi những khu phố giàu sang để lách vào những con hẻm lầy lội tối tăm của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại trước một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng.
- Thưa ông, xin ông lại gần cháu hơn một chút với...
Tôi tiến lại gần, quỳ một chân, cúi xuống đỡ lấy bàn tay nhỏ bé và lạnh ngắt. Em nói với tôi, ánh mắt lấp lánh niềm vui ngây thơ:
- Em cháu đã đưa chỗ tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy không, chúng cháu đâu có phải là những đứa lừa gạt và ăn cắp. Cháu chỉ có mình nó là em ruột, cháu bị tai nạn thế này, rồi đây... Ôi trời ơi, rồi đây em cháu sẽ ra sao đây?
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em, và tôi hứa với em rằng, tôi sẽ hết lòng chăm sóc thằng bé thay cho em.
Tội nghiệp thằng bé, tôi biết vết thương rất trầm trọng, không còn có thể làm gì để kịp cứu chữa cho em. Thằng bé có lẽ đã cố gắng thoi thóp sống chỉ cốt để gặp được tôi, trăn trối một lời cuối cùng. Bây giờ thì em không còn rên rỉ đau đớn nữa, đôi mắt em liếc nhìn đứa em thân yêu rồi chớp chớp nhìn tôi với một vẻ bình thản gần như hạnh phúc...
Đấy, người bạn bé nhỏ của tôi đã chết như thế đấy. Thằng bé đã cho tôi biết thán phục và thương cảm trước một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực...
Chúa thương hết tất cả mọi người chúng ta, Chúa không phân biệt một ai cả, đặc biệt, Chúa rất thương các trẻ nhỏ.
Chúa thương các trẻ nhỏ là bởi vì khi xuống thế làm người, Chúa cũng đã trải qua tuổi thơ ấu sống gia đình Nazarét, có Đức Mẹ là mẹ của Chúa, có thánh Cả Giuse là cha nuôi của Chúa. Các ngài là Đấng dưỡng nuôi, dạy dỗ, hướng dẫn, gìn giữ, bảo vệ Chúa. Đàng khác, các trẻ nhỏ trong cuộc sống thời bây giờ chưa có tư cách pháp lý, chưa có chỗ đứng trong xã hội, cho nên lời chứng của các em chẳng được người lớn quan tâm, để ý tới.
Tuổi trẻ em là tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, các em sống vô tư, không so đo tính toán thiệt, chỉ biết tin vào người lớn, dựa vào người lớn, và đi theo người lớnmà thôi.
Các em còn là tuổi mầm non, tương lai của đất nước, mọi người lớn cần phải quan tâm giúp đỡ, dạy dỗ, hướng dẫn để các em lớn lên trở thành người tốt cho Giáo Hội, cho xã hội.
Chính vì thế, Chúa thương các em là như vậy. Vì thương cho nên Chúa bênh đỡ, bảo vệ các em. Các tông đồ khi thấy các em đến với Chúa đông đảo, các ngài sợ các em làm mất thời gian của Chúa, bởi Chúa không có thời gian rảnh rỗi, vì thời gian Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa rao giảng Tin Mừng, Chúa làm các phép lạ đã chiếm hết một ngày sống của Chúa rồi. Vậy khi các ngài ngăn cản các em nhỏ, các ngài không có ý gì cả, các ngài không có ý xấu với các em nhỏ đâu, các ngài vẫn yêu mến các trẻ nhỏ giống như Thầy của các ngài.
Nhưng mà Chúa thì khác, Chúa thương và Chúa không khước từ một ai, cho nên Chúa nói với các tông đồ hãy để trẻ nhỏ đến cùng Chúa. Đến với Chúa để Chúa đặt tay, để Chúa chúc lành cho các em: “Khi ấy, người a đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa, để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa bất bình và bảo các ông rằng: Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bào thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng” (Mc 10, 13 – 16).
Như vậy, là người lớn, chúng ta phải sống làm sao để làm gương cho các trẻ nhỏ. Chúng ta phải sống làm theo ý của Chúa, thì lúc đó chúng ta mới làm gương cho các em. Khi chúng ta sống theo ý Chúa để làm gương cho các trẻ em thì lúc đó chúng ta lại trở nên tốt hơn, đẹp lòng Chúa hơn, chúng ta tin tưởng, cậy trông, phó thác ở Chúa thì Chúa sẽ cho chúng ta được vào nước Chúa để hưởng hạnh phúc đời đời sau này.
Lạy Chúa, đời sống của chúng con tựa nương vào Chúa, xin Chúa cứu vớt chúng con, xin Chúađừng giận dỗi mà hủy diệt mạng sống chúng con, xin Chúa lấy lòng nhân tử thương xót chúng con, ban cho chúng con có một đời sống khiêm nhường, hạ mình thẩm sâu trước nhan thánh Chúa để Chúa cho chúng con được vào hưởng hạnh phúc vô biên với Chúa và các thánh trên thiên đàng. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 7 Thường Niên, Năm lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: từ độ “thanh xuân” tới lúc “về chiều”, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Giảng Viên kêu gọi: Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Từ rất xa xưa, các bậc khôn ngoan đã hứa cho người công chính một cuộc đời trường thọ, nhưng thử hỏi: vào cuối một cuộc đời như thế, cái gì chờ đợi chúng ta? Đâu phải là niềm vui của người được thỏa chí toại lòng, sau một chuỗi ngày dài hạnh phúc, nhưng là, nỗi luyến tiếc những năm tháng đã qua, và mối lo sợ, khi cái chết mỗi ngày một đến gần hơn. Chính vì vậy mà, sau này Đức Giêsu mới dạy chúng ta: Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài. Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng. Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: tiến bước trong cõi đầy ánh sáng, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Arighentô nói: Hãy đến với Chúa thì anh em sẽ được soi sáng… Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh chúc tụng danh Người. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Chúa đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng, và đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm.
Dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa: như con thơ bước đi trước mặt cha hiền, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca nói: Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh Người. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 102, vịnh gia cho thấy: Ân tình Chúa thiên thu vạn đại, Chúa dành cho ai kính sợ Người. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào. Mầu nhiệm Nước Trời được mặc khải cho những kẻ bé mọn, vì thế, phải có tâm hồn trẻ nhỏ mới được vào Nước Trời. Đức Kitô là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta tiến vào Nước Trời, chỉ những người bé mọn mới đón nhận được ánh sáng của Người, bởi vì, chính Người đã làm người, đã mặc lấy thân phận bé mọn, rốt cùng của kiếp người, để, những con người bé mọn: què quặt, đui mù, phong hủi, nghèo khổ, và bị cái chết đe dọa, nhìn thấy được Mặt Trời công chính, và thoát khỏi bóng tối mịt mù đang vây bủa. Ai đến cùng Người, thì sẽ được soi sáng. Chiêm ngắm, nghiền ngẫm vẻ đẹp đơn sơ bé nhỏ thần linh của Người, ta sẽ soi sáng và trở nên xinh đẹp, tâm hồn ta sẽ chan chứa ngọt ngào, mặc lấy sự thánh thiện, và đạt được ơn thông hiểu, qua hết mọi ngày trong đời sống chúng ta. Mọi niềm hoan lạc đều do Đấng là Mặt Trời soi đường công chính ban cho chúng ta, là những kẻ ngắm nhìn Người: chúng ta sẽ múa nhảy mừng vui trước Nhan Thiên Chúa, niềm hoan lạc sẽ trào dâng, và chúng ta sẽ không ngừng cất tiếng chúc tụng ngợi khen Người. Ước gì mỗi người chúng ta hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm mà thực thi những điều đẹp ý Chúa. Ước gì được như thế!