Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày TN được xếp gọn trong Tuần 8-2024 (Năm chẵn)

Thứ sáu - 31/05/2024 06:11
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày TN được xếp gọn trong Tuần 8-2024 (Năm chẵn)
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày TN được xếp gọn trong Tuần 8-2024 (Năm chẵn)
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày TN
được xếp gọn trong Tuần 8-2024 (Năm chẵn)
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Mc 10, 17-27. 3
Suy Niệm 1: Tôi phải làm gì?. 4
Suy Niệm 2: Thanh luyện. 5
Suy Niệm 3: Khôn ngoan đích thực. 6
Suy Niệm 4: Đặt câu hỏi không đúng. 8
Suy Niệm 5: Khôn ngoan và khôn dại 9
Suy Niệm 6: Tinh thần từ bỏ. 10
Suy Niệm 7: Theo Chúa phải khó nghèo. 11
Suy Niệm 8: Người khôn ngoan thật sự. 13
Suy Niệm 9: Lý tưởng sống của người theo Chúa. 14

Thứ 3: 16
Lời Chúa: Mc 10, 28-31. 16
Suy Niệm 1: Bỏ mọi sự vì Thầy. 17
Suy Niệm 2; Phấn đấu vì niềm hy vọng. 18
Suy Niệm 3: Phần thưởng gấp trăm.. 19
Suy Niệm 4: Phần thưởng gấp trăm.. 20
Suy Niệm 5: Theo Chúa, ta được gì?. 21
Suy Niệm 6: Từ bỏ để được gấp trăm.. 22
Suy Niệm 7: Phần thưởng cho môn đệ. 23
Suy Niệm 8: Gấp trăm lần. 25
Suy Niệm 9: Thiên Chúa quan phòng. 27

Thứ 4: 29
Lời Chúa: Mc 10, 32-45. 29
Suy Niệm 1: Không được như vậy. 30
Suy Niệm 2: Phục hồi vinh quang. 32
Suy Niệm 3: Tiên báo cuộc tử nạn. 33
Suy Niệm 4: Thập giá Chúa Kitô, Tin Mừng của ta. 34
Suy Niệm 5: Qua sự chết mới đến vinh quang. 35
Suy Niệm 6: Phục vụ trong khiêm tốn. 36
Suy Niệm 7: Tinh thần phục vụ. 37
Suy Niệm 8: Muốn làm lớn làm đầu giữa giữa anh em.. 39
Suy Niệm 9: Làm lớn như là cơ hội để phục vụ. 41

Thứ 5: 43
Lời Chúa: Mc 10, 46-52. 43
Suy Niệm 1: Xin thương xót tôi 44
Suy Niệm 2: Xin cho con được thấy. 45
Suy Niệm 3: Ðến với Chúa. 46
Suy Niệm 4: Người mù thấy rõ hơn những kẻ sáng mắt 47
Suy Niệm 5: Nhạy bén để được dứu độ. 48
Suy Niệm 6: Anh mù sáng mắt sáng tâm hồn. 49
Suy Niệm 7: Người mù thành Giêricô. 50
Suy Niệm 8: Sáng mắt sáng lòng. 52
Suy Niệm 9: Người mù sáng mắt 54

Thứ 6: 31/05 Đức Maria thăm viếng Elisabeth. 56
Lời Chúa: Lc 1, 39-56. 56
Suy Niệm 1. Maria ở lại độ ba tháng. 57
Suy Niệm 2. Thân mẫu Chúa đến với tôi 59
Suy Niệm 3. Đức Mẹ Thăm Viếng. 61
Suy Niệm 4. Đức Mẹ Đi Thăm Viếng. 63
Suy Niệm 5. Thăm viếng bác ái và truyền giáo. 66
Suy Niệm 6. Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth. 67
Suy Niệm 7. Người phụ nữ diễm phúc. 70
Suy Niệm 8. Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth. 71
Suy Niệm 9. Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ. 73
Suy Niệm 10. Đức Maria vội vã lên đường. 76
Suy Niệm 11. Cuộc viếng thăm tình yêu. 77
Suy Niệm 12. Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời 80
Suy Niệm 13. Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth. 82
Suy Niệm 14. Thăm viếng yêu thương phục vụ. 84
Suy Niệm 15. Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth. 86
Suy Niệm 16. Đức Maria thăm viếng. 87
Suy Niệm 17. Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth. 91
Suy Niệm 18. Không khiêm nhường, không biết tạ ơn! 97
Suy Niệm 19. Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth. 99
Suy Niệm 20. Cuộc gặp gỡ lịch sử. 101
Suy Niệm 21. Cuộc viếng thăm đầy ân sủng. 104
Suy Niệm 22. Niềm vui có Chúa. 105
Suy Niệm 23. Chia Sẻ Niềm Vui 107
Suy Niệm 24. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân. 109
Suy Niệm 25. Thương thì Thăm.. 112
Suy Niệm 26. Tình khúc ngợi khen. 115
Suy Niệm 27. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế. 119
Suy Niệm 28. Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét 121
Suy Niệm 29. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn. 127
Suy Niệm 30. Lên đường vì yêu. 130
Suy Niệm 31. Đức Mẹ Thăm Viếng. 132
Suy Niệm 32. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng. 134
Suy Niệm 33. Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét 137
Suy Niệm 34. Thăm viếng với niềm vui 138
Suy Niệm 35. “Mẹ sống để phục vụ, Mẹ đi để trao Chúa Giêsu”. 139
Suy Niệm 36. Niềm vui thăm viếng. 141

Thứ 7: 01/06 Th. Giúttinô. 143
Lời Chúa: Mc 11, 27-33. 143
Suy Niệm 1: Chúng tôi không biết 144
Suy Niệm 2: Truy tìm khôn ngoan. 145
Suy Niệm 3: Chất vấn về quyền. 146
Suy Niệm 4: Thượng Hội Đồng chào thua. 147
Suy Niệm 5: Ai hơn ai?. 149
Suy Niệm 6: Khiêm tốn đón nhận sự thật 150
Suy Niệm 7: Tranh luận về quyền của Đức Giêsu. 150
Suy Niệm 8: Quyền nào mà làm?. 153
Suy Niệm 9: Cố gắng mà đối xử tốt với nhau. 154

----------------------------------
 

Thứ 2:

Điều kiện theo Chúa.
Thứ Hai tuần 8 thường niên.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".

 

Lời Chúa: Mc 10, 17-27


Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao". Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó.
Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa".
Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi phải làm gì?


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

“Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”
Một anh thanh niên vội vã chạy đến, quỳ trước mặt Đức Giêsu
và hỏi Ngài như thế khi Ngài vừa lên đường.
Rõ ràng anh đang háo hức và thao thức
tìm kiếm một lối sống phù hợp ở đời này,
để nhờ đó được hưởng hạnh phúc vững bền mãi mãi.
Anh đã đến với Thầy Giêsu tốt lành để hỏi câu hỏi này,
và anh thực sự chờ nơi Thầy câu trả lời.
Thầy nhắc anh về những giới răn liên quan đến tha nhân.
Đây là những điều anh đã biết, và hơn nữa,
anh thú nhận mình đã giữ chúng từ khi còn nhỏ (c. 20).
Thầy Giêsu như bị cuốn hút bởi con người đạo đức của anh.
Đưa mắt nhìn anh, Thầy đem lòng yêu mến (c. 21).
Đúng là anh đã không làm hại gì đến tha nhân.
Nhưng anh còn thiếu một điều quan trọng, đó là:
Đi. Bán những gì mình có. Cho người nghèo.
Rồi đến. Và theo Thầy Giêsu.
Thầy mời anh đi một vòng, rồi trở lại.
Lúc trở lại với Thầy, anh sẽ nhẹ hơn nhiều,
vì mọi của cải đã được phân phát cho người nghèo khó.
Thầy Giêsu muốn anh trở nên môn đệ của mình,
sau khi đã trở nên tay trắng, không còn gì để nương tựa.
Anh thanh niên sẽ có kho tàng trên trời,
khi anh được giải phóng khỏi kho tàng của anh dưới đất.
Tiếc thay anh đã từ chối lời mời của vị Thầy có lòng mến anh,
và đã chỉ cho anh điều phải làm.
Lúc nãy anh chạy đến với Thầy, bây giờ anh lại bỏ đi (c. 22).
Lúc nãy anh háo hức, vui tươi, bây giờ anh sa sầm nét mặt.
Anh không ngờ Thầy lại đòi hỏi tận căn đến thế.
Anh mong sự sống vĩnh cửu, anh thích làm môn đệ Thầy Giêsu,
nhưng anh lại không muốn bỏ chỗ dựa là của cải đời này.
Lòng gắn bó với của cải đã là một trở ngại khiến anh mất tự do.
Không phải vì anh chiếm hữu nhiều của cải,
nhưng thực ra, vì của cải đã chiếm hữu anh.
Thầy Giêsu chắc còn buồn hơn anh thanh niên,
vì Thầy bị mất một người mà Thầy ưng gọi làm môn đệ.
Đến bao giờ anh thanh niên mới nguôi ngoai nỗi buồn?
Lời mời của Thầy tốt lành vẫn đeo đuổi tâm trí anh.
Anh vẫn suốt đời thiếu một điều.
Khi về nhà, khi tiếp xúc với của cải dư dật,
có khi nào anh lại thao thức đặt câu hỏi:
Tôi phải làm gì để được thừa hưởng sự sống đời đời?
Có khi nào anh nghĩ đến chuyện chia sẻ cho người nghèo?
Có khi nào anh lại muốn đến với Thầy Giêsu?
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thanh luyện


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa hôm nay nói về thanh luyện. Trong vũ trụ hiếm có vật gì nguyên tuyền. Vạn vật trong vũ trụ sống bên nhau. Ảnh hưởng lẫn nhau. Xâm nhập vào nhau. Muốn có nguyên tố tinh tuyền. Cần phải thanh luyện.

Thánh Phê-rô cho biết vàng tuy là vật chất ở trần gian. Cũng đòi có cuộc thanh luyện. Huống hồ chúng ta có gia tài cao quí hơn gấp bội trên trời. Có thứ vàng vĩnh cửu. Có gia tài không bao giờ vẩn đục tàn phai. “Chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em”. Để đạt tới gia tài lớn lao cao quí ấy ta cũng phải được thanh luyện bằng những đau khổ lớn lao. “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (năm chẵn).

Hôm nay Chúa Giê-su cho biết cuộc thanh luyện đó thật khốc liệt. Vì rốt ráo. Muốn vào Nước Trời phải thanh luyện tâm hồn khỏi những dính bén trần tục. Kho tàng trần tục đối lập với kho tàng Nước Trời. Giá trị khác nhau. Chất liệu khác nhau. Và cách thức thủ đắc cũng khác nhau. Kho tàng trần gian là vật chất. Kho tàng Nước Trời là ân sủng. Kho tàng trần gian mau qua. Kho tàng Nước Trời vĩnh cửu. Kho tàng trần gian có được nhờ thu góp. Kho tàng Nước Trời thành hình nhờ phân tán. Kho tàng trần gian qui về bản thân. Kho tàng Nước Trời dành cho tha nhân. Như Chúa dạy chàng thanh niên: “Hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời”. Hai kho tàng này mâu thuẫn nhau. Chỉ được một trong hai. Muốn được kho tàng Nước Trời phải bán hết kho tàng trần gian. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”.

Gắn bó với của cải trở thành chướng ngại. Chọn trần gian là tội lỗi. Vì quay lưng lại Nước Trời. Vì thế cần sám hối. Cần trở về với Chúa. Xa lánh trần gian. “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người, và giảm bớt dịp tội. Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm”. Không ai ngờ chàng thanh niên kia là tội lỗi. Nhưng anh thực sự chạy theo tội lỗi. Vì trước lựa chọn. Anh từ bỏ Chúa mà chạy theo tiền tài. Mà Chúa đã nói công khai: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được”(Mt 6, 24) (năm lẻ).

Xin cho con luôn biết sám hối. Thanh luyện tâm hồn khỏi bụi bặm trần gia. Để chọn lựa Chúa. Và sống cho Chúa.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Khôn ngoan đích thực


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong truyền thống Kinh Thánh, Vua Salômôn vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.

Ðây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến Chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.

Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi; muốn được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.

Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu: hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi tấm lòng và cuộc đời cũng như có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Đặt câu hỏi không đúng


Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm phần gia nghiệp?”

Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc. 10, 17. 21)

Người giầu có này đặt cho Chúa một câu hỏi kiểu người có óc kinh doanh: “Thưa Thầy, tôi phải đặt gía nào để được thừa hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Chúa Giêsu trả lời anh rằng Người không có tiền mặt trao đổi cho một vụ giao dịch như thế, và anh chàng “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” đã hoàn toàn mất giá trong một cuộc trao đổi thuộc loại như thế. Cũng như thể ta đem bánh trao đổi với chủ lò bánh để mua nhà của ông ta vậy. Bánh không thể đổi lấy cái nhà tuy là vật sở hữu nhưng đã tham dự vào cuộc sống của chủ lò bánh. Sự sống đời đời không phải để bán. Chẳng thể dùng tiền mà mua được sự sống ấy; trái lại phải rũ bỏ hết mọi khế sở hữu của mình. Nếu lòng ta để hết cả vào cái sở hữu của ta, thì sự sống đời đời dù là đẹp đẽ đến đâu, cũng sẽ trở nên lê thê, buồn chán, bởi lẽ những khát vọng của ta sẽ chẳng được thỏa mãn. Xem ra ý nghĩa của câu truyện là như vậy.

Bạn để lòng ở đâu, thì ở đó có nguồn vui

Khi nói ta không thể dùng những việc lành, việc thực hành các giới răn mà mua được Sự Sống, thì hoàn toàn không có ý khinh chê những hành động này và nếu vì nghèo đói mà ta chỉ mải mê lo cho cuộc sống vật chất này thì thật bất hạnh! Một việc thiện vẫn là một việc thiện cho dù nó không đáng hưởng một Sự Sống mà không gì xứng đáng. Việc tuân thủ luật pháp vẫn là cần thiết để sinh hoạt của con người được trôi chảy, mặc dầu việc tuân thủ kia không thể cho quyền (theo luật) được hưởng Sự Sống đời đời.

Rất nhiều khi chúng ta thường trình bày Chúa Giêsu như một nhà cách mạng đả kích trật tự xã hội, đang khi Người lại làm hết sức mình để ta phải nhận rằng thái độ trên đây không phải là sứ mệnh của Người. Có những giá trị nhân loại, dầu sao vẫn là những giá trị lớn như công bình, ý thức chia sẻ, dù rằng nó không có một giá trị đời đời. Người tín hữu sẽ tự bôi lọ mình khi không quan tâm đến những giá trị trên đây, viện lẽ rằng mình chỉ phải lo cho những gíá trị đời đời. Dầu sao, trong chính bản thân ta, chúng ta có những cái phải quan tâm để đưa tới mức hoàn thiện. Chúng ta đã chẳng có Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu để dạy ta làm người hoàn toàn và tuyệt vời sao. Uy thác hoàn toàn cho Chúa sứ mệnh sửa lại một nhân loại đã suy đồi, thiết tưởng là làm hại cho công trình sáng tạo vậy.

Nếu chúng ta được Chúa mời gọi bán hết của cải mà cho người nghèo để đi theo Chúa Giêsu, chính là để ta chọn một con đường mà những của cải này, dù tốt và cần đến đâu để ta sống ở trần gian, thì đều không cần thiết ở nơi ấy, nơi “trời mới đất mới.”

 -------------------------------

 

Suy Niệm 5: Khôn ngoan và khôn dại


Trong một dịp nói chuyện với các tu sĩ, một linh mục lớn tuổi được đề nghị chia sẻ về kinh nghiệm cầu nguyện của chính ngài. Lúc đầu ngài không muốn vì e rằng rơi vào tình trạng khoe khoang, nhưng sau khi mọi người thuyết phục trong tinh thần đạo đức, ngài đã nhận lời. Ngài chia sẻ rất nhiều ý tưởng, nhưng điều đáng chú ý nhất, ngoài lời cầu nguyện cho mọi người, ngài dâng lời cầu nguyện cho chính mình. Ngài nói: “Tôi thường xin Chúa cho tôi được ơn khôn ngoan, yêu mến Lời Chúa, can đảm đón nhận đau khổ, trung thành với ơn gọi và được chết lành đang lúc có ơn nghĩa với Chúa”.

Thật vậy, người khôn ngoan theo lối hiểu của Kinh Thánh chính là khám phá ra ý nghĩa của cuộc đời, biết đặt cuộc đời mình trong thánh ý của Thiên Chúa chứ không phải tiền bạc, danh vọng và lợi thú... Biết tìm đến với kho tàng vĩnh cửu, chứ không bám víu và phụ thuộc vào những thứ mau qua, chóng hết ở đời.

Hôm nay, có một chàng thanh niên tốt lành đến để gặp Đức Giêsu nhằm xin Ngài chỉ cho con đường dẫn đến hạnh phúc. Thấy thế, Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến và mời gọi anh đi theo mình trên con đường mà chính Ngài đang đi. Tuy nhiên, khi buộc phải để lại mọi sự cho người nghèo thì anh đã không dám và từ từ rút lui!

Như vậy, ơn cứu độ đã đến được với anh thanh niên này, nhưng anh đã để mất bởi sự tham lam, ích kỷ của mình. Anh ta đã coi tiền bạc, của cải là số một trong cuộc đời của anh, nên chính Chúa cũng không còn chỗ đứng nơi tâm hồn người thanh niên đáng thương này thì làm sao ơn cứu độ có thể đến được!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt bậc thang giá trị, và biết lựa chọn đúng để được hạnh phúc đời đời. Hãy cẩn trọng với vấn đề tiền bạc vì tiền bạc có thể sẽ là rào cản lớn chắn đường về trời nếu nó trở thành ông chủ.

Nếu bao lâu chúng ta vẫn còn chạy đua với đồng tiền, bất chấp mọi thủ đoạn để chiếm lĩnh, hay sống ích kỷ, dửng dưng với người nghèo khổ, thì bấy lâu lời mời gọi đánh đổi kho báu Nước Trời sẽ là lời mời gọi xa lạ với chúng ta.

Như thế, lẽ đương nhiên, chúng ta đánh mất kho tàng đích thực và trở thành người dại trước mặt Thiên Chúa vì: “Lợi lãi cả thế giới mà mất linh hồn thì còn ích gì?”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tìm đến với Chúa, vâng nghe và thực hành Lời Chúa, bởi Chúa chính là nguồn mạch khôn ngoan. Amen.

Ngọc Biển SSP

 -------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tinh thần từ bỏ


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Muốn được cứu độ, cần phải có ơn Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào sức tự nhiên và tiền của, ắt không thể được cứu rỗi. Chúa quả quyết: “Không có Ta, các con chẳng làm gì được”.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con thấy, vào Nước Trời là một việc khó. Cái khó ấy chính là lòng tham sân si. Người giàu cũng như kẻ nghèo, nam cũng như nữ, ai cũng có thể mắc vào cái khó này. Người giàu thì cứ muốn giữ của mãi, người nghèo thì cứ muốn mơ ước mãi, ít ai có tấm lòng từ bỏ.

Lạy Chúa, con nhớ lại hình ảnh vẽ một người đang hấp hối chết dữ. Kẻ lâm chung được thiên thần và các thánh bay đến bên cạnh tấp nập khuyên lơn van xin. Nhưng ông ta cứ quay mặt nhìn vào bị tiền. Giây phút cuối cùng ấy, thiên thần bản mệnh của ông phải che mặt khóc. Ông ta đã quá gắn bó với tiền của.

Chúa đòi hỏi mỗi người chúng con một cách. Chúa ban cho mỗi người một phương tiện để sống. Xin cho con luôn nhớ rằng sự đời này chóng qua. Quê hương thật của con là Nước Trời. Quê hương thật của con sẽ trường tồn mãi mãi. Và để con được vào quê hương này, xin cho con biết sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Thánh Ý Chúa. Ngày con sinh ra, con trần truồng, không một đồng bạc dính thân. Trong cả cuộc sống, Chúa trao cho con hành trang tiền của và các tài sản. Nhưng ngày con giã từ trần thế, Chúa gọi con về với cả thân xác linh hồn con, mọi sự đời này được để lại cho trần gian, con sẽ ra đi tay không.

Lạy Chúa, còn ngày nào sống trên đời, xin Chúa cho con luôn sống trong tinh thần từ bỏ. Xin đừng để con vì của cải mà mất quê Trời. Chỉ có Chúa là gia nghiệp muôn đời của con. Amen.

Ghi nhớ: “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 7: Theo Chúa phải khó nghèo


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự chọn lựa của một người đi theo Chúa: chọn của cải trần thế hay kho tàng Nước Trời? Người thanh niên trong bài Tin Mừng là một người giầu có và giữ đạo đức từ thuở nhỏ. Nhưng khi Đức Giêsu đưa ra một điều kiện cao hơn là chia sẻ của cải cho người nghèo, thì anh ta chán nản bỏ đi. Đức Giêsu cho thấy: để được vào Nước Trời, không chỉ giữ đúng, giữ đủ lề luật, không làm gì hại đến ai như anh nhà giầu kia, mà còn phải thực thi bác ái. Vì chỉ ai sẵn sàng trở nên nghèo khó để mưu ích cho anh em, mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ.

2. Nhìn lại cuộc sống của người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay, xem ra anh ta quả là một người đạo hạnh, vì tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa từ lúc còn nhỏ. Thái độ sống của anh khiến chúng ta phải kính nể. Do đó, ước muốn trở nên hoàn thiện của anh là một điều chính đáng.

Tuy nhiên, khát vọng trở nên hoàn thiện không chỉ là những điều phải tuân giữ như anh ta nghĩ, mà còn phải thể hiện một cách mạnh mẽ hơn và triệt để hơn, đó là dám đánh đổi tất cả để được sự hoàn thiện ấy. Đức Giêsu đã “đánh” vào điểm yếu của người thanh niên, khi Ngài đưa ra một cuộc “trao đổi” cho anh: bán tất cả tài sản để có một kho tàng khác; đổi cả một gia tài cả đời dành dụm để được một sự hoàn thiện, và đổi cái có trong tay lấy cái không thấy được. Kết quả, anh ta không dám đánh đổi. Anh đành rút lui. Vâng, tiền bạc có thể mua được nhiều thứ nhưng không thể mua được sự thánh thiện.

3. Trong truyền thống Do thái, của cải giầu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Đức Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bầy điều đó trong Hiến chương Nước Trời hay Tám mối phúc thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con đường của Đức Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.

4. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.

5. Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu có, cũng không chúc lành cho người nghèo. Bằng chứng: những người đàn bà thánh thiện đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án? Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng). Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38) hay những người thu thuế có tiền (Lc19,1-10).

Vậy Chúa lên án những gì?

Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của.

Thật khó cho người giầu có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn  ông đã làm.

Truyện: Đứng trên của cải.

Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.

Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay, và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.

-------------------------------

 

Suy Niệm 8: Người khôn ngoan thật sự


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Trong truyền thống Kinh Thánh, vua Salomon vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.

Đây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Máccô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về Thập Giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.

Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được ơn cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.

Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian, có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi, khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 9: Lý tưởng sống của người theo Chúa


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện gây nhiều ấn tượng trong toàn bộ Tin Mừng.

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã có lần lấy bài Tin Mừng này làm đề tài để chia sẻ với các người trẻ trên thế giới về lý tưởng sống của một người theo Chúa.

Rõ ràng Tin Mừng hôm nay đặt người thanh niên này cũng như chúng ta vào tư thế phải chọn lựa: Theo Chúa hay là theo của cải.

Câu chuyện ban đầu thật tốt đẹp. Anh ta đã chạy đến với Chúa, rồi quì dưới chân Chúa. Một chàng thanh niên giàu có, quí phái quì xuống trước mặt nhà tiên tri người Nazareth không một xu dính túi. Anh ta hỏi Chúa về những việc phải làm để có được sự sống đời đời.
Chúa đã nêu ra các điều răn vốn là nền tảng của một đời sống đạo đức, đáng kính trọng. Chàng thanh niên nọ đã không chút do dự đáp ngay rằng, mình đã giữ trọn tất cả từ thuở nhỏ.
Đối với cái nhìn của một con người thì được như thế quả đã là quá tốt rồi. Thế nhưng, đối với Chúa thì chưa đủ. Ngài muốn anh dấn thân một cách trọn vẹn hơn, bằng một đời sống biết chia sẻ những gì mình có cho những người nghèo khó. Nhưng người thanh niên đã không dám chấp nhận và rồi anh đã bỏ đi.

Và chính trong bối cảnh này mà Chúa đã nói: "Người giàu có khó vào Thiên Đàng biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa" (Mc 10,24).

Vâng! Của cải vật chất như một con dao hai lưỡi. Cái nguy hiểm đầu tiên là nó làm cho con người muốn gắn chặt tấm lòng của mình vào đời tạm này, mà quên đi cuộc sống mai sau. Và nếu mối bận tâm chính yếu của con người chỉ là việc chiếm hữu của cải vật chất càng nhiều càng tốt, thì sớm muộn gì nó cũng khiến người ta nhìn mọi sự trên đời này bằng khuynh hướng lượng giá. Họ sẽ căn cứ vào sự giàu có sang trọng để đánh giá một con người, hơn là căn cứ vào những giá trị tốt đẹp để đánh giá con người đó.

Nếu mối bận tâm chính yếu của một người là của cải vật chất, thì người ấy sẽ chỉ biết có giá cả mà không biết đến giá trị. Người ấy chỉ biết nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, chứ không biết rằng, có những giá trị ở đời người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc được.
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn ".

Có thể kể ra những thứ sau đây mà tiền không mua được:

Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khỏe.

2. Chúng ta hãy cố gắng sống siêu thoát để cho cuộc sống được thanh thản hơn.
Một chàng sinh viên vừa nhận được một phần thưởng. Lúc bước ra tới cổng thì gặp một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy.

- Chú ơi! Chúc mừng chú, thật vinh dự cho chú đã đạt được giải nhất trong cuộc thi khó khăn này. Tôi có một chuyện muốn nói với chú nhưng không biết có tiện không. Nếu chú có con nhỏ chú mới hiểu được điều tôi sắp nói. Con của tôi đang bị ung thư nặng nằm trong bệnh viện, nếu không có một khoản tiền để mổ, chắc em nó không qua khỏi được! Mà nhà tôi thì... không thể lo được một khoản tiền lớn đến như vậy...

- Thế bác cần bao nhiêu? - Anh sinh viên nhìn bà hỏi, lòng cảm thông thật sự.

 Sau khi nghe người phụ nữ kể hết sự việc, anh liền rút phong bì đựng số tiền vừa được thưởng và trao hết cho bà.

- Cầu mong cho con bác qua được hiểm nguy. Bác về lo cho em ấy ngay đi.
- Cảm ơn chú, không biết tôi phải lấy gì mà đền ơn chú đây.

Nói rồi, người phụ nữ với vẻ xúc động bước ngay ra cổng.

Vài ngày sau anh có dịp quay lại trường. Một người trông thấy liền tiến tới hỏi:

- Có người kể với tôi, mấy hôm trước anh có gặp một người phụ nữ sau cuộc thi, và anh đã cho bà ấy tiền để chữa bệnh cho đứa con sắp chết của bà ấy, phải không?

Người thanh niên gật đầu xác nhận.

- Vậy thì tôi phải báo với anh tin này để anh biết, bà ta là một tay lừa đảo thật sự đấy. Bà ta chẳng có đứa con nào bị bệnh gần chết cả. Anh cả tin quá! Anh bị lừa rồi, anh bạn ạ!

Một thoáng im lặng, anh thanh niên hỏi lại:

- Có thật là không có đứa bé nào bị bệnh gần chết cả, đúng không?
- Đúng vậy. Tôi bảo đảm là như thế - người đàn ông quả quyết
- Ồ đó là tin tốt lành nhất trong ngày mà tôi được biết đấy - người thanh niên nói.

Đoạn anh nói thêm:

- Chúng ta nên ăn mừng vì không có đứa trẻ nào phải chết cả.

---------------------------------

 

Thứ 3:

Sẽ được gấp trăm.
Thứ Ba tuần 8 thường niên.
"Ngay ở đời này, lúc bị bắt bớ, các con lãnh được gấp trăm, còn đời sau các con sẽ được sự sống vĩnh cửu".

 

Lời Chúa: Mc 10, 28-31


Khi ấy, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?"

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Bỏ mọi sự vì Thầy


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bình thường con người làm gì cũng ít nhiều nghĩ đến cái lợi cho mình.
Không lợi vật chất thì cũng lợi tinh thần.
Không lợi đời này thì cũng lợi đời sau.
Không lợi cho cá nhân mình
thì cũng lợi cho gia đình mình, tôn giáo của mình, quê hương của mình.
Con người dám hy sinh bỏ cái này để được cái kia lớn hơn.
Nếu biết giữ cho đúng mực, khuynh hướng này không phải là xấu.
Anh thanh niên giàu có đã không dám bán và cho tất cả tài sản
để nhẹ nhàng thanh thản bước theo Thầy Giêsu.
Đối với anh, cái mất ở đời này lớn quá so với cái được ở tương lai.
Ngược lại, các môn đệ đã bỏ gia đình và nghề nghiệp ổn định
để đi theo một vị Thầy không chỗ tựa đầu,
sống cuộc sống bấp bênh, vất vả, thiếu thốn.
Khi nghĩ về cuộc sống hiện tại của cả nhóm đang theo Thầy,
Phêrô đại diện anh em đặt câu hỏi:
“Phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (c. 28).
Vậy chúng con sẽ được gì? (x. Mt 19, 27).
Thầy Giêsu không coi thường hay gạt bỏ câu hỏi này của Phêrô.
Thầy còn muốn long trọng trả lời câu hỏi này
cho cả những người ở thế hệ kế tiếp.
Bất cứ ai vì Thầy và vì Tin Mừng
mà bỏ những điều được coi là thiết yếu đối với cuộc sống
như tương quan máu mủ: cha mẹ, anh chị em, con cái,
như phương tiện để sống và sống còn: nhà cửa, ruộng đất (c. 29),
những người ấy, ngay bây giờ, ở đời này,
sẽ được gấp trăm về những điều đã mất.
Hơn nữa, họ còn được sự sống vĩnh cửu ở đời sau (c. 30),
điều mà anh thanh niên giàu có mơ ước.
Nhưng Thầy cũng không giấu những bách hại đang chờ đợi họ.
Hẳn các môn đệ sau khi theo Chúa đã chẳng có thêm nhà đất, vợ con.
Nhưng họ đã thuộc về một cộng đoàn rộng lớn hơn gia đình xưa của họ.
Nơi cộng đoàn Kitô này, gia đình nào cũng là nhà của họ,
mảnh đất nào cũng là nơi họ gắn bó thân quen như của mình.
Và rõ ràng họ có nhiều anh chị em và con cái hơn xưa.
Hạnh phúc đến ngay từ đời này khi con tim và vòng tay rộng mở.
Hạnh phúc này chỉ là hưởng trước chút hạnh phúc đời sau.
Người kitô hữu hôm nay sống ở thế kỷ hai mươi mốt
cũng có lúc nghĩ về cái mất, cái được của việc một đời theo Giêsu.
Chúa Giêsu đòi chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài và sau Ngài.
Điều đó kéo theo những từ bỏ đớn đau, những thập giá thầm lặng.
Theo Giêsu, chúng ta thấy mình phải bỏ thế gian với bao quyến rũ.
Theo Giêsu, chúng ta thấy mình không thể chiều theo cái tự nhiên.
Nhưng theo Giêsu, chúng ta được điều lớn hơn cả.
Đó là chính Giêsu.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa. Amen. (Graham Kings)
 
--------------------------------

 

Suy Niệm 2; Phấn đấu vì niềm hy vọng


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Ki-tô là niềm hy vọng. Đó là điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa: ngày Chúa Ki-tô sẽ tỏ hiện. Bằng chịu đau khổ và đạt tới vinh quang. Nhưng thánh Phê-rô cho biết, để niềm hi vọng trở thành hiện thực, cần phải có thái độ tích cực chuẩn bị. Muốn mục đích phải muốn phương tiện. Muốn được thấy Chúa Ki-tô tỏ hiện, phải từ bỏ lối sống xưa cũ theo xác thịt để sống một đời sống mới theo thần khí, tiết độ, từ bỏ bản thân.”Đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (năm chẵn).

Sách Huấn ca hướng dẫn cách bày tỏ niềm hy vọng bằng việc từ bỏ. Trước hết là từ bỏ tội lỗi. “Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa. Chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội”. Kế đến là từ bỏ đường tà. Đi theo đường ngay chính. Đó là tuân giữ Lề Luật của Chúa. “Tuân giữ Lề Luật là làm cho lễ phẩm thêm phong phú. Gắn bó với lệnh truyền là dâng lễ kỳ an”. Và sau cùng từ bỏ của cải. Dâng của lễ trọng hậu lên Chúa. Nhưng cũng phải dâng với tấm lòng quảng đại. Và nhất là với nét mặt vui tươi. Chắc chắn Chúa sẽ hài lòng. Và sẽ ban lại cho gấp bội. Đó chính là niềm hy vọng. “Hãy tôn vinh Đức Chúa với tấm lòng quảng đại…Dâng cúng chi, cũng phải giữ nét mặt tươi cười; dâng hiến của thập phân, hãy hân hoan vui vẻ. với tấm lòng quảng đại, hãy dâng hiến Đấng Tối cao, tuỳ theo nhưng gì Người ban tặng và tuỳ theo khả năng con có. Vì Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả lại cho con gắp bảy lần” (năm lẻ).

Thánh Phê-rô cũng chính là người hỏi Chúa Giê-su về niềm hi vọng: Chúng con đã bỏ hết mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được gì bù lại? Chúa Giê-su không ngần ngại loan báo trước niềm hi vọng: Các con sẽ được lại gấp trăm.

Niềm hi vọng là được thấy Chúa tỏ hiện, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa. Nhưng cần phải trải qua giai đoạn thanh luyện bằng từ bỏ. Địa vị trong Nước Chúa không được sắp xếp, đo lường bằng chức vị trong Giáo hội hay bằng thời gian theo Chúa, nhưng bằng mức độ từ bỏ. Càng từ bỏ nhiều thì càng gần Chúa. Càng gần Chúa thì càng hạnh phúc. Có những người theo Chúa đã lâu, nắm giữ những địa vị cao trọng trong Giáo hội, nhưng mức độ từ bỏ chưa cao. Trong khi có những người mới theo Chúa, giữ địa vị thấp kém trong Giáo hội, nhưng mức độ từ bỏ lại cao hơn. Vì thế Chúa Giê-su cảnh báo: “Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 3: Phần thưởng gấp trăm


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp liền những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ về sự nguy hiểm của tiền của. Sau khi người thanh niên rời lìa Chúa, vì anh ta không thể từ bỏ của cải, Chúa Giêsu đã nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". Ở đây rõ ràng Chúa Giêsu sử dụng kiểu nói khuyếch đại như người Ðông phương thường dùng để kích thích sự chú ý. Hình ảnh con lạc đà chở nặng trên mình cho thấy sự say mê dính bén tiền của là một ngăn trở không cho con người trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.

Trước sự sửng sốt của các môn đệ: "Thế thì ai có thể được cứu?", Chúa Giêsu xác quyết rằng ơn cứu độ hoàn toàn vượt quá những khả năng của loài người; đó là một ơn nhưng không của Thiên Chúa, vì chỉ mình Ngài mới có thể cứu độ con người. Nhưng quan điểm này còn khiến các môn đệ hoang mang hơn. Bằng chứng là phản ứng của Phêrô. Nhân danh Nhóm Mười Hai, ông thắc mắc muốn biết sự dấn thân của các ông có được thưởng gì không? Chẳng lẽ lòng quảng đại của các ông lại vô ích sao? Nếu những người giàu có, mặc dù nhiều của cải không thể vào Nước Thiên Chúa đã đành, còn những người đã từ bỏ những của cải hợp pháp nhất, liệu họ không có cơ may được vào đó được sao?

Trả lời cho câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu hứa ban gấp trăm ngay ở đời này và đời sau được hưởng sự sống đời đời. Kiểu nói "gấp trăm ở đời này" cần được hiểu theo nghĩa phẩm chất hơn là theo nghĩa số lượng: từ bỏ cha mẹ không có nghĩa là để được một trăm cha mẹ ngay ở đời này, nhưng là để được điều quý giá hơn cha mẹ, đó là cộng đoàn anh em sống hiệp nhất với nhau trong đức tin. Trong câu trả lời của Chúa, cần lưu ý một chi tiết, đó là ngoài những gì nhận được bây giờ, còn có sự bách hại nữa. Bị bách hại, bị ngược đãi là vận mệnh của người môn đệ; bước theo Chúa là chấp nhận phiêu lưu với Ngài trên con đường sống đức tin với những đau khổ, thử thách không thể tránh được.

Nguyện xin Chúa ban sức mạnh tình yêu để chúng ta sống trọn ơn gọi và chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 4: Phần thưởng gấp trăm


Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau.” (Mc. 10, 28-30)

Ai mà đã không có lần mơ tưởng đến phần thưởng gấp trăm ấy được hứa cho những ai từ bỏ tất cả: ly kỳ nữa là được cả một lô mẹ, anh em, chị em, nhà cửa… nhưng, ôi thôi!, lại cùng với sự ngược đãi nữa chứ? Giống như việc mua bán ở chợ, còn gì hấp dẫn cho bằng “bán chạy như tôm tươi”. Mơ ước hình như chưa bao giờ thực hiện được, ít ra là đối với những ai đã chơi bài. Sẽ được thực hiện ở thế giới bên kia không? Chẳng ai đã khẳng định điều đó bao giờ. Chẳng có gì ngạc nhiên, khi họa hoằn mới có những người dám đánh cuộc, một cái nắm trong tay còn hơn một trăm cái chưa có là vậy.

Hãy mở rộng nhãn giới của ta

Lời hứa như thế cho Phêrô và những người giống như ông là một lời hứa có tính tiên tri liên quan tới tương lai của cộng đồng các Kitô hữu sẽ sống những gía trị mà Chúa Giêsu đã loan báo. Không phải là loan báo thưởng gấp trăm lần hơn những gì người ta sẽ từ bỏ, nhưng là sự mô tả trước về những cộng đoàn sẽ sinh ra từ những ai sẽ mở rộng tâm hồn của họ tới chiều kích toàn cầu, những ai mà tình huynh đệ và yêu thương của họ sẽ không đóng khung trong gia đình, quê hương hay cục bộ, nhưng vươn tới hết mọi người bất kỳ họ là ai và ở nơi nào. Ở đây, chúng ta có được bài miêu tả có tính tiên tri về Giáo hội, và đại gia đình nhân loại, nơi đây tình huynh đệ và quyền sở hữu của cải sẽ không bị một quyền độc đoán nào khác giới hạn.

Giáo hội, gia đình của các con cái Thiên Chúa sẽ chỉ đạt được sự hoàn thiện tròn đầy, trọn vẹn ngày mà chúng ta sẽ chỉ là một trong Chúa Kitô, ngày mà người ta gọi là ngày sau hết, ngày thế mạt. Giáo hội ấy, cộng đồng không biên giới ấy, đã được thể hiện hôm nay trong những cơn bách hại, trong đau khổ của thập giá, nhưng cũng đang được hân hoan khi đi theo con đường Chúa đã đi và sống theo đường lối Đức Kitô đã muốn.

Giáo hội ấy, cộng đồng của những người anh em thuộc mọi chủng tộc, với những mái nhà đủ kiểu, với những môi trường văn hóa muôn vẻ thật đúng là phần thưởng gấp trăm đầy phấn khich cho những người biết sông yêu thương.

Giáo hội ấy có bành trướng không phải là để loại trừ những cộng đồng địa phương; mà sự bành trướng có chiều kích toàn cầu ấy còn bị những tâm hồn hẹp hòi ích kỷ tranh giành và bách hại vì nghĩ rằng họ sẽ bị tổn thương.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 5: Theo Chúa, ta được gì?


Sự nguy hiểm của tiền bạc đã làm cho người thanh niên có tiếng là đạo đức lầm lũi ra đi, vì tiền của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!

Thật là một sự xót xa cho số phận chàng thanh niên giàu có này! Thấy được sự nguy hiểm như vậy, nên  tiếp theo đó, Đức Giêsu đã thốt lên với các môn đệ: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”; “Con lạc đà chiu qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.

Nghe đến đây, các môn đệ hiểu được sự nguy hiểm của tiền của, tuy nhiên, nó đã làm cho các ông hoang mang, bởi vì khó như thế thì có lẽ không ai vào được! Vì vậy, Phêrô đã đứng lên thay lời anh em và thưa với Đức Giêsu rằng: “Thế thì ai có thể được cứu?”; “Và chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy thì được gì?”. Để giải thoát cho các ông về sự lo lắng này, Đức Giêsu đã mặc khải cho các ông biết: đối với loài người thì không thể làm được, nhưng đối với Thiên Chúa thì hoàn toàn có thể. Vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải đến từ cố gắng hay phấn đấu thuần túy của con người. Nhân đây, Đức Giêsu cũng nói rõ để các môn đệ nhận ra những ân huệ mà Chúa ban cho những ai trung thành với Ngài, đó là sự sống đời sau.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết trung thành đi trên con đường Chúa đã đi, để chúng con gặp được Chúa là nguồn bình an, hạnh phúc ở cuối con đường cuộc đời trần gian. Amen.

Ngọc Biển SSP

 --------------------------------

 

Suy Niệm 6: Từ bỏ để được gấp trăm


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa sẽ thưởng bội hậu cho những ai từ bỏ mọi sự vì Chúa. Nhưng phần thưởng cao cả nhất là được chung số phận đau khổ và sự sống vinh quang với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên hành trình đi theo Chúa, đã có những lúc con tự hỏi như thánh Phêrô: con từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, vậy con sẽ được phần thưởng gì? Vì Chúa, con đã hy sinh bỏ mình, đã ép mình ép xác giữ các giới răn. Vì Chúa, con chấp nhận bị thua lỗ thiệt thòi, thậm chí bị nhạo cười khổ đau. Nhưng con sẽ được gì để bù lại? Nhất là nhiều lúc con nhìn thấy những người sống bất nhân thất đức lại gặp nhiều may mắn thành công sung sướng, còn con theo Chúa lại gặp khổ đau thất bại nghèo đói. Dường như theo Chúa là dại khờ.

Lạy Chúa, không, con không tin như vậy. Chúa đã hứa ban phần thưởng gấp trăm cho con ngay từ đời này. Dù con không thấy được rõ ràng điều ấy, nhưng con tin cuộc sống con hôm nay là điều quá tốt đẹp mà Chúa đang thưởng cho con. Chúa luôn ban cho con gấp trăm ngàn lần điều con không dám cầu xin hay nghĩ tới. Chúa vẫn luôn quảng đại với con hơn con đáng được.

Lạy Chúa là gia nghiệp con, xin cho con cảm nếm niềm hạnh phúc theo Chúa và đồng số phận với Chúa. Xin ban cho con một đức tin vô vị lợi, được theo Chúa vô điều kiện, không mặc cả, không tính toán.

Cùng với thánh I-nhã, con xin Chúa dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không mong tìm một phần thưởng nào khác, hơn là biết làm theo Ý Chúa. Con chỉ xin Chúa ban tình yêu và ân sủng, và thế là đủ cho con. Amen.

Ghi nhớ: “Ngay ở đời này, lúc bị bắt bớ, các con lãnh được gấp trăm, còn đời sau các con sẽ được sự sống vĩnh cửu”.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 7: Phần thưởng cho môn đệ


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau khi người thanh niên giầu có bỏ Chúa mà đi, Phêrô liền hỏi Đức Giêsu: chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng con sẽ được lại gì? Chúa đáp: Thầy bảo thật, ai bỏ cửa nhà, cha mẹ, con cái, ruộng vườn vì Thầy và vì Phúc âm, thì ngay ở đời này sẽ được lại gấp trăm cùng với các cơn bắt bớ, và ngày sau sẽ được sống đời đời, vì ai theo Thầy sẽ lật ngược được mọi giá trị ở đời: Ai bỏ đi thì được lại, ai ở sau thì trở nên trước.

2. Khi nói tới hai chữ “từ bỏ”, tức là không còn hoặc mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng, hoặc “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa thay cho chúng ta: Từ bỏ mọi sự, theo Ngài chúng con sẽ được gì?

Nhìn chung khi làm bất cứ việc gì có thể là tốt, có thể là xấu, thì điều đầu tiên mà ai cũng nhắm đến, đó là phải có lời, có lợi.

Sau khi đưa ra một loạt những việc từ bỏ: cha mẹ, anh em, ruộng vườn, nhà cửa... Đức Giêsu khẳng định sẽ trọng thưởng gấp trăm ngay ở đời này cùng với sự ngược đãi, nhất là được sự sống đời đời mai ngày.

3. Trả lời câu hỏi của Phêrô, Đức Giêsu hứa ban gấp trăm ngay ở đời này và đời sau được hưởng sự sống đời đời. Kiểu nói “gấp trăm ở đời này” cần được hiểu theo nghĩa phẩm chất hơn là theo nghĩa số lượng: từ bỏ cha mẹ không có nghĩa là để được một trăm cha mẹ ngay ở đời này, nhưng là để được điều quí giá hơn cha mẹ, đó là cộng đoàn anh em sống hiệp nhất với nhau trong đức tin.

Nếu hiểu theo nghĩa đen, thì việc bỏ cha mẹ, anh em, chị em hay con cái, hoặc nhà cửa và ruộng đất mà theo Chúa xem ra không bình thường, thậm chí còn mất tính nhân bản, hay đi ngược lại với nền giáo dục gia đình nữa. Thực ra, phải hiểu là Đức Giêsu mời gọi chúng ta luôn biết chọn Chúa làm ưu tiên số một, những điều khác là thứ yếu. Những gì ở đời này chỉ là tạm bợ, chóng qua, chỉ có Chúa mới là vĩnh cửu. Đức Giêsu không muốn chúng ta quá bám víu vào vật chất, tiền bạc để rồi khước từ Nước Thiên Chúa.

4. Đừng bắt cá hai tay (tục ngữ).

Có nghĩa là đừng tham lam, hai tay bắt hai con cá, như thế chẳng bắt được gì. Về vấn đề này, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền tài cùng một lúc (x.Lc16,13). Người giầu có thể đi đến chỗ không cần Thiên Chúa nữa. Họ từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giầu sang bóp nghẹt Lời Chúa (x.Mt 13,22).

Truyện: Con lừa trước sự lựa chọn.

Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghệm như sau: ông để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hễ nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt sức mà chết.

Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn, và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24).

5. Kẻ sau hết sẽ nên trước hết...

Đức Giêsu nói: “Kẻ đứng đầu sẽ nên sau chót, và kẻ sau chót sẽ lên hàng đầu”. Trước hết phải hiểu sự ám chỉ về dân Do thái tự phụ là những người biết Thiên Chúa trước, nhưng rồi chính họ lại tự đánh mất cơ hội nhận ra Tin Mừng nơi Người.

Ngoài ra, câu nói này, Đức Giêsu muốn chúng ta đừng bao giờ ỷ lại, hay chểnh mảng trong nhiệm vụ, nhưng phải luôn hy sinh cố gắng và kiên trì trên bước đường theo Chúa. Ở đời tốt xấu trở như bàn tay. Có khi trước đây họ là người tội lỗi xấu xa, nhưng giờ họ lại ăn năn hối lỗi và có đời sống đạo đức tốt lành. Trái lại, có những người trước đây là tốt lành thánh thiện, nhưng giờ họ lại bê tha, tội lỗi, xấu xa.

5. Truyện: Hoàng tử và thanh kiếm.

Vua Charles một lần kêu hoàng tử và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (triều thiên). Vua hỏi:

- Con chọn cái nào?

Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

Vua cha hỏi:

- Sao con lại chọn thanh kiếm?

Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:       

- Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 8: Gấp trăm lần


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

“Quả thật, ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em hay cha mẹ, con cái, ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng mà lại không lĩnh gấp mấy trăm lần bây giờ” (c.30)

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy giá trị thực sự của tiền tài và tình yêu mà người Do Thái cho là nhất, là được chúc phúc. Giờ đây, Chúa đưa ra một giá trị thiêng liêng cao cả vượt trên những thứ đó. Chúa bảo: “Ai từ bỏ cha mẹ ruộng nương... lại không nhận được... gấp trăm”: lời gấp trăm đây không phải là về số lượng toán học, nhưng Chúa muốn so sánh cái hạnh phúc Chúa dành cho kẻ từ bỏ mọi sự theo chân Ngài, được một hạnh phúc mà người đó không thể ngờ được ở trên Trời - nơi có đông đảo các thánh và triều đình thiên quốc, nơi đã ghi tên họ, đã dành phần sẵn cho họ.

Chữ gấp trăm lần đây còn hiểu là họ sẽ được thử thách gấp bội - mà trong Bát Phúc đã nói tới (Mt 5,11-12), vì môn đệ không trọng hơn thầy mình được. Nhưng sau khi vượt qua những thử thách ấy, họ sẽ được hạnh phúc gấp trăm lần là Nước Trời.

Điều kiện đạt được hạnh phúc ấy trước tiên là việc từ bỏ. Chúa bảo Phêrô, cũng như các môn đệ phải theo Ngài vô điều kiện. Chúa dùng ví dụ so sánh là bầy cáo có hang để trú ẩn trong giờ nguy hiểm, vào lúc trời lạnh giá, mưa sa. Chim trời có tổ sau những ngày mỏi cánh. Nhưng Chúa nói: “Con người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,18). Người môn đệ phải sống một đời hoàn toàn bất định và tạm thời, hiến thân trọn vẹn ngay khi không có gì, và khi bất an nhất. Người môn đệ phải lội ngược dòng suối để đi tìm về nguồn, phải vẫy vùng giữa dòng nước cuốn trôi để đi tìm về đại dương vĩnh cửu...

Nói tóm lại, người môn đệ của Chúa trước hết phải từ bỏ chính mình đi: ”Hạt lúa giống nếu không mục nát ...” (Ga 12,24). Xin hãy nghĩ tới việc đời này: chính cái việc làm âm thầm của một bác nông phu đã chuẩn bị cho một ngày mùa cơm trắng đầy xôi. Chính sự nghiền nát của cối xay bột đã biến hạt lúa gạo thành bột làm bánh thơm lành. Một đứa trẻ chỉ xuất hiện trên đời sau bao nhiêu đau khổ của người mẹ. Chính cái dao mổ của y sĩ đã trừ diệt được căn bệnh. Tất cả minh chứng: từ bỏ để lời lãi mai sau.

Từ bỏ là con đường hẹp của Phúc Âm. Chính Chúa xác định như thế. Con đường của Chúa đã hẹp mà lại còn phải vác thập giá nữa, nên con đường phải vất vả vấp váp, giống như đầy khúc khuỷu, mô ụ, ổ gà. Nhưng cuối con đường ấy là vinh quang Nước Trời. Và còn hơn thế nữa, “ngay bây giờ, ở đời này, còn nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm lần.” (Mt 10,30). Chỉ những người thực sự từ bỏ khi theo Chúa mới cảm nhận được sự kỳ diệu này.

Từ bỏ không phải theo nghĩa là chối bỏ, vứt bỏ đời sống trần gian. Không phải thế. Con người vẫn sống giữa trần gian, nhưng là từ bỏ những tham vọng trần gian để đi về vĩnh cửu.

Có thể chúng ta cũng đang hỏi Chúa như Phêrô: “Lạy Chúa chúng con từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con được gì?” Có chắc là đã từ bỏ hết chưa? Và nếu đúng như thế thì cứ an tâm, chắc chắn nơi quê trời kia, ta đã có một phần tốt nhất. Thánh Phêrô hẳn đã hiểu ý Chúa rồi, nên chắc là rất vui lòng theo Chúa. Và Chúa cũng đang cần chúng ta là những Phêrô của cuộc sống hôm nay. Chúa đang cần những người thợ gặt của giờ thứ 11, cần những thợ gặt cho cánh đồng lúa chín vàng với tinh thần từ bỏ cần thiết...

 --------------------------------

 

Suy Niệm 9: Thiên Chúa quan phòng


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng  khó hiểu và gây nhiều tranh luận nhất.

1. Nhìn vào cuộc sống thực tế, nếu không có cái nhìn bằng đức tin thì chúng ta khó mà thấy được những gì Chúa Giêsu nói: nào là được gấp trăm về đất đai nhà cửa, nào là ruộng nương, anh chị em, cha mẹ con cái.

Riêng thánh Marcô lại thêm một câu: cùng với sự bắt bớ, làm cho đoạn Tin Mừng này thêm khó hiểu hơn. Vậy phải hiểu như thế nào về đoạn Tin Mừng này của thánh Marcô? Chúng ta phải nhớ, thánh Marcô viết Tin Mừng theo cái nhìn thần học chứ không theo cái nhìn lịch sử như thánh Luca.
Khi Chúa bảo với các môn đệ: Ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này lại không nhận được nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, gấp trăm, thì chúng ta phải hiểu rằng: từ bỏ một gia đình nhỏ để nhận được một gia đình lớn, gia đình của Thiên Chúa, trong đó Thiên Chúa là Cha. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói: Ai là anh em, chị em và mẹ Ta? Đó là những người làm theo ý Cha trên trời, người đó là anh, là chị là em và là mẹ Ta. Theo ý của Chúa Giêsu thì gia đình thiêng liêng này còn quan trọng hơn gia đình huyết thống.

Khi Egerton Young giảng đạo lần đầu tiên cho người da đỏ ở Saskatchewan, về Thiên Chúa là Cha mọi người thì ông đã làm cho những người từ trước đến giờ chỉ thấy Thiên Chúa trong sấm sét giông bão ngạc nhiên. Một tù trưởng cao niên hỏi Young:

- Có phải ông thưa với Thiên Chúa rằng "Lạy Cha của chúng tôi không?"

Young đáp:

- Phải.

Vị tù trưởng tiếp tục hỏi:

- Vậy thì Ngài cũng là cha của ông chứ gì?

Young đáp:

- Phải.

Rồi vị tù trưởng nói tiếp:

- Và Ngài cũng là cha của tôi phải không?

Young đáp:

- Chắc chắn như vậy.

Gương mặt vị tù trưởng bỗng sáng rực lên cách khác thường, ông ta vung tay lên và nói như người mới khám phá được một điều gì khác thường, ông bảo:

- Vậy thì tôi với ông là anh em.

Có người phải hi sinh nhiều mối dây ràng buộc với người thân yêu để trở thành Kitô hữu, nhưng khi làm như vậy người ấy đã trở thành một thuộc viên và anh em trong một gia đình rộng lớn bằng cả thế gian này kể cả Thiên Đàng.

2. Hơn nữa khi từ bỏ những gì thuộc về trần gian, các môn đệ của Chúa còn nhận được sự quan phòng che chở đặc biệt của Cha trên trời.

Có lần Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo các Tông Đồ: Bông huệ ngoài đồng có canh cửi thêu dệt gì đâu mà đến như vua Salomon sang trọng tột bậc, cũng không có cái áo cẩm bào đẹp như vậy. Chim chóc trên trời có gieo vãi gì đâu mà Cha trên trời cũng nuôi sống. Và Chúa còn nhấn mạnh: đến tóc trên đầu của các con cũng đã được đếm cả rồi! Cha chúng con biết chúng con thiếu những gì. Nói cách khác, người Tông Đồ bỏ mọi sự mà theo Chúa thì nhận được một gia tài quí báu hơn bội phần, gấp trăm, đó là tình thương của Cha trên trời. Thiên Chúa biểu lộ tình thương của Người qua sự quan phòng trong suốt cuộc đời của mình.

Qua cuộc sống hiến thân phục vụ các người nghèo khổ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã từng được chứng kiến những cử chỉ từ bi và âu yếm của Chúa quan phòng thật lạ lùng. Ở Calcutta, các nữ tu Dòng Bác Ái của mẹ hằng ngày phải chăm sóc cho 7.000 người, và còn phải cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Một ngày thứ sáu trong tuần nọ, chị nữ tu coi nhà bếp đến thưa với mẹ:

- Thưa mẹ, trong nhà không còn gì ăn cho hôm nay và ngày mai. Tốt hơn hết là chúng ta nên báo trước cho mọi người biết điều đó.

Nghe tin đó, mẹ không biết trả lời với chị này thế nào... Thế nhưng, vào khoảng 09 giờ sáng hôm đó, không hiểu vì lý do gì, chính quyền Ấn Độ tuyên bố đóng cửa các trường công. Thế là số bánh mì đã được dành cho các học sinh được chở đến cho mẹ. Và tất cả hơn 7.000 người, từ nhỏ chí lớn có đủ bánh mì ăn trong hai ngày!

Thật vậy, chưa bao giờ những người nghèo lại được ăn những bữa no nê như thế, và không một ai trong cả tỉnh Calcutta biết lý do vì sao chính phủ đã tuyên bố đóng cửa các trường công hôm ấy. Nhưng đối với Mẹ Têrêsa thì đã quá rõ! Đó chính là dấu hiệu tình thương của Chúa, Người Cha giàu lòng yêu thương con cái mình!

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Thứ 4:

Tiên báo Thương Khó.
Thứ Tư tuần 8 thường niên.
"Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp".

 

Lời Chúa: Mc 10, 32-45


Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết những gì sẽ xẩy đến cho Người: "Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đến gần Người và thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Người đáp: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy". Chúa Giêsu bảo: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định".

Mười môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan.

Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Không được như vậy


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Khi nghĩ đến những đau khổ Đức Giêsu phải chịu
chúng ta thường nghĩ ngay đến cuộc Khổ nạn của Ngài.
Chúng ta ít nghĩ đến một đau khổ khác,
đó là Ngài phải chịu đựng sự chậm hiểu của các môn đệ.
Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ khá rõ.
Khi đang trên đường lên Giêrusalem,
Thầy Giêsu kéo riêng Nhóm Mười Hai để loan báo cho họ lần thứ ba
về những gì sắp xảy đến cho mình trong cuộc Khổ nạn (c. 32).
Tiếc thay, hai môn đệ thân tín là Giacôbê và Gioan,
vẫn loay hoay ở lại trong tham vọng về chức quyền của mình.
Họ nói với Thầy Giêsu một câu không được lịch sự lắm:
“Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con bất kỳ điều gì chúng con xin.”
Vậy mà Thầy vẫn nhẹ nhàng trả lời họ:
“Các anh muốn Thầy làm gì cho các anh?” (c. 36).
Họ đã dám xin được ngồi hai chỗ cao nhất trong vinh quang Nước Thầy.
Thầy Giêsu thú nhận mình không có quyền cho điều đó,
nhưng Thầy lại mời hai ông chia sẻ chén đắng Thầy sắp uống
và dìm mình thật sâu trong phép rửa Thầy sắp chịu (c. 38).
Khi thấy mười môn đệ kia tức giận với Giacôbê và Gioan,
Thầy Giêsu đã huấn dụ cho cả nhóm về cách lãnh đạo trong Giáo Hội.
Cách lãnh đạo này khác hẳn cách lãnh đạo ngoài đời,
thường dùng quyền uy để thống trị và mưu cầu tư lợi.
“Giữa anh em thì không được như vậy!” (c. 43).
Mọi chức vụ và quyền bính là để phục vụ cho Dân Chúa.
Thầy Giêsu chỉ cách hành xử cho những ai muốn làm lớn, làm đầu.
Đó là sống như người đầy tớ, người phục vụ (c. 44).
Thầy Giêsu đã không nói suông, nhưng sống điều Ngài giảng.
Rõ ràng Thầy là người có uy quyền (Mc 1, 22.27; 2, 10).
Nhưng quyền uy đó chỉ được dùng để rao giảng và để giải phóng.
Suốt đời Thầy đã sống như một người phục vụ.
Và giờ đây, cái chết của Thầy chính là một việc phục vụ cao nhất.
Lần đầu tiên Thầy Giêsu nói rõ ý nghĩa cái chết của mình.
Như người Tôi Trung trong ngôn sứ Isaia (Is 52,13 - 53,12)
Thầy phải trả giá bằng mạng sống để cứu chuộc muôn người (c. 45).
Không dễ kéo các môn đệ ra khỏi những tham vọng trần tục.
Thầy Giêsu vẫn thấy mình lạc lõng bên cạnh các môn đệ.
Họ không hiểu được Thầy, và cũng chẳng muốn đi đường Thầy đi.
Làm sao để chúng ta cảm được hạnh phúc của việc phục vụ?
Làm sao để chúng ta hiểu rằng phục vụ không làm con người hèn hạ,
nhưng lại nâng cao con người và ban cho nó sự lớn lao đích thực?
Chính Chúa Giêsu, Đấng được thành toàn nhờ suốt đời phục vụ,
là chỗ dựa đầy hy vọng của chúng ta.
 
Cầu nguyện:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Phục hồi vinh quang


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Bị ngoại bang xâm lấn. Mất nước. Nô lệ. Nhục nhã. Người Do thái nhớ lại thời huy hoàng. Được Chúa phù trợ. Ngẩng đầu hiên ngang trước các cường quốc. Vì thế họ nài xin Chúa hãy trở lại. Hãy tái diến những kỳ công thuở xa xưa. Hãy phục hồi dân Chúa. Để cho mọi người nhận biết và tôn thờ Chúa. “Xin cho tái diễn những điềm thiêng và lại làm những dấu lạ khác. Các chi tộc Gia-cóp, nguyện chúa thương quy tụ cả về. Xin thương trả lại phần gia sản, như Chúa đã cho họ thuở ban đầu…Xin làm cho khắp cả Xi-on vang lời tường thuật những kỳ công của Chúa, và làm cho thánh điện, được rực rỡ ánh vinh quang của Ngài.. Và mọi người trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ngài là Đức Chúa, là Thiên Chúa muôn thuở muôn đời” (năm lẻ).

Thiên Chúa đáp lời. Gửi Con Một từ trời xuống cứu độ con người. Nhưng không phải bằng bạo quyền thống trị theo thói người đời. Như hai anh em nhà Dê-bê-đê lầm tưởng. Nhưng bằng khiêm nhường phục vụ. Đến hi sinh mạng sống. Như Chúa dạy dỗ các tông đồ: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Con đường của Chúa là con đường khiêm nhường. Hạ mình để phục hồi anh em. Chịu chết để cứu sống anh em. Chịu nhục nhã để anh em được vinh quang. Vì thế Chúa quả quyết lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Điều đó khiên các môn đệ kinh hoàng. Nhưng đó mới là con đường vinh quang. Chúa được vinh quang. Và Chúa phục hồi ta trong vinh quang.

Vì thế thánh Phê-rô khuyên nhủ chúng ta. Trước hết phải nhận biết sự thật. Chúng ta được phục hồi không phải do thế lực trần gian. Nhưng do bửu huyết của Chúa Giê-su. Chúa đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Chịu chết rồi phục sinh. Đó là niềm hi vọng của chúng ta. Nếu đã biết sự thật. Ta hãy thanh luyện tâm hồn khỏi các thế lực trần gian. Hãy biết khiêm nhường phục vụ lẫn nhau. Yêu thương nhau: “Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi” (năm hẵn).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Tiên báo cuộc tử nạn


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác, người ta cũng biết rằng Chúa Giêsu đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ Bắc tới Nam. Thánh sử Marcô đã nhấn mạnh hành trình lên Yêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và đây là lần loan báo thứ ba.

Thật vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cái chết của Ngài như một con đường tất yếu phải đi qua. Giữa lúc mọi người đang thán phục về những lời rao giảng và các phép lạ của Ngài, giữa lúc mọi người đang chờ những điều phi thường hơn nữa, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết".

Chết là điều tất yếu của thân phận làm người. Ðã nhập thể làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi định luật ấy. Thế nhưng, khi loan báo về cái chết của mình, Chúa Giêsu muốn nối kết nó với sứ mệnh của Ngài. Sứ mệnh của Ngài chỉ được thực hiện bằng con đường sự chết. Người ta chống đối Ngài, người ta giết chết Ngài vì cuộc sống, lời nói và việc làm của Ngài là một tố cáo tội ác của con người; Ngài bị chống đối đến cùng, vì cuộc sống và sứ mệnh của Ngài là một hành trình đi ngược dòng đời.

Người Kitô hữu đích thực cũng không thể tránh được số phận ấy. Là chứng nhân của Ðấng đã đi ngược dòng đời, họ cũng không thể thoát khỏi những chống đối. Cái chết âm thầm, cái chết từng giây phút chống lại tội lỗi và sự dữ là điều tất yếu trong cuộc sống người môn đệ Chúa Kitô; có chết như thế, họ mới biết rằng mình đang đi đúng con đường của Chúa Kitô, con đường dẫn đến sự sống đích thực.

Dù sống trong nghèo nàn, dù sống trong cơ cực, khổ đau, xin cho chúng ta luôn vững tin vào Ðấng đã đi qua con đường sự chết để dẫn đưa chúng ta vào cõi trường sinh.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Thập giá Chúa Kitô, Tin Mừng của ta


“Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào mặt Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau Người sẽ sống lại.” (Mc. 10, 33-34)

Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu lại loan báo cho Nhóm Mười Hai, cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Đây là lần loan báo thứ ba và cũng là dài hơn cả. Câu trả lời của các môn đệ xác nhận các ông đã quen cả rồi, ngay cả không còn sững sờ về điều tiên tri này nữa. Các ông vẫn bận tâm muốn biết mình sẽ có được địa vị nào trong cái vương quốc trần gian, mà theo các ông ước đoán, thì Thầy của họ sẽ gặp phải đau khổ và phải chết.

Khi thuận lợi và khi không thuận lợi

Chẳng lạ gì một sứ điệp phải loan báo đi mà lại mang vẻ ít hấp dẫn như vậy, gặp phải và luôn luôn sẽ gặp phải sự không hiểu; bao giờ sứ điệp ấy cũng vẫn sẽ là dấu hiệu bị người đời chống đối; phần chúng ta cho đến tận cùng thời gian sẽ bị cám dỗ muốn quên đi hay lẩn tránh sứ điệp ấy. Mầu nhiệm ấy, sứ điệp ấy vừa khó sống, lại vừa khó loan đi và ở mọi thời sẽ là đối tượng tầm thường cho bộ máy tuyên truyền nhắm vào. Tuy nhiên chính đó lại là nét đặc trưng của chúng ta. Nếu ta đánh mất đi thì còn gì để nói cũng như còn gì khôn ngoan hơn để dạy.

Hạnh phúc, công bình, chính trực chúng ta đâu có độc quyền. Nhưng “sự điên rồ của thập giá, nguồn tràn chảy ơn phục sinh” mới thật sự là của chúng ta. Khi ta loan báo điều gì khác không phải là “Đức Giêsu chịu đóng đinh, đã sống lại từ cõi chết”, ta đua tranh với những người giầu lòng nhân ái yêu thương, những bậc hiền nhân quân tử, và những vị ân nhân của nhân loại, điều đó tốt, nhưng không biện minh được cho hiện hữu cuộc đời Kitô hữu của ta. Không có ta, người ta vẫn có thể sống hạnh phúc và chính trực. Nhưng nếu ta không sống và loan đi sứ điệp của ta bằng một tình yêu nhưng không, tự do chấp nhận hiến thân, chết không chỉ cho bạn hữu mình mà còn cho cả những ai xa lạ, thù địch thì người ta sẽ không bao giờ hiểu biết được tình yêu sâu thẳm khôn lường của Thiên Chúa là thế nào.

Chẳng ai đã trông thấy Thiên Chúa bao giờ, mà chỉ thông qua những dấu chỉ, những bí tích mà con người được tiếp xúc với Người. Chỉ có một dấu chỉ tương xứng với một Thiên Chúa yêu thương chính là Đức Giêsu chết vì yêu thương, chính là những Kitô hữu nối gót Người, nhờ Người, và trong Người góp phần làm cho cái mầu nhiệm của một tình yêu đã làm nên những việc lạ lung của Thiên Chúa được trải dài đến thiên thu bất tận. Phúc âm không phải là công bố một hiệp ước xã hội đã được soạn thảo cách khoa học, nhưng là việc của Thánh Thần ngự trị trong Vương quốc tình yêu điên dại tuyệt vời, xâm nhập trái tim con người vậy.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Qua sự chết mới đến vinh quang


Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có thể ví như nước thủy triều dâng. Tại sao thế? Thưa! Vì Đức Giêsu đang tiến dần đến cái chết của Ngài. Ngài tiến gần cả về địa lý lẫn thời gian cũng như khung cảnh bề ngoài.

Về mặt địa lý, Ngài đang lên gần đến thành Giêrusalem;

Về thời gian, đây là thời điểm thuận lợi để những người Pharisêu, Kinh Sư và những kẻ không ưa Ngài dễ dàng thực hiện ý định giết Ngài;

Về tâm lý, việc Ngài giảng dạy hấp dẫn và những việc Ngài làm thu hút dân chúng, nên người ta không ngớt lời khen ngợi, đây là dịp châm ngòi cho sự ghen tương sẵn có nơi giới lãnh đạo Dothái.

Vì thế, Ngài đã loan báo lần cuối cùng về số phận của Người Tôi Trung: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị đánh đòn và bị giết chết”.

Chết là quy luật không thể bỏ qua cho những ai muốn sống. Không có sự chết, không có phục sinh. Nhưng điều quan trọng là chết như thế nào và làm sao phải chết? Đây mới là điều cốt lõi.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu, đó là vì yêu thương mà không chịu xã hội mua chuộc; không chấp nhận sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen mà đánh mất tinh thần vâng phục cũng như sứ vụ cứu rỗi nhân loại... Vì thế, Đức Giêsu đã chấp nhận chết vì yêu, vì sứ vụ.

Mỗi người Kitô hữu cần phải xác định rõ quy luật tất yếu này là: nếu ta thuộc về Đức Kitô, ấy là chúng ta chấp nhận đi cùng Ngài để lội ngược dòng. Khi lội ngược dòng như thế, chúng ta sẽ không tránh khỏi sự thù nghịch, khinh khi, và ngay cả mạng sống.

Như Đức Giêsu, chúng ta chỉ có được sự sống viên mãn khi chấp nhận quy luật ngược đời như vậy mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, tin và theo Chúa thật không dễ! Nhưng xin cho con hiểu rằng, vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu chỉ có được nơi những tâm hồn trung thành đến cùng. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Phục vụ trong khiêm tốn


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Lý tưởng cao cả nhất của Kitô giáo là phục vụ trong khiêm tốn. Chúa Giêsu ở giữa chúng ta như một người tôi tớ. Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ chính mình, để cùng Ngài đi vào con đường thập giá bằng đời sống phục vụ mọi người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, các môn đệ và người Do Thái ngày xưa, đã mong chờ Chúa là Đấng cứu tinh uy quyền và đầy sức mạnh. Nhìn thấy phép lạ Chúa thực hiện, cảm nhận uy tín trong lời Chúa giảng dạy, họ hy vọng một cuộc đổi mới, và họ sẽ được vinh quang. Nhưng chính lúc tưởng rằng sắp đạt tới tột đỉnh uy quyền, thì các ông lại ngỡ ngàng thất vọng khi nghe Chúa nói đến cái chết. Lạy Chúa, quyền bính mà Chúa thiết lập là thứ quyền bính của phục vụ. Cái chết của Chúa trên thánh giá là đỉnh cao của phục vụ, như một tên nô lệ. Nếu một người nô lệ sống là sống cho người khác, và chết cũng là chết cho người khác, thì Chúa đã chấp nhận sống và chết như một tên nô lệ.

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa đang phục vụ con nơi bàn tiệc Thánh, Chúa phục vụ con nơi bà tiệc Lời Chúa, và bàn tiệc Thánh Thể. Chúa đã hoán đổi địa vị một cách bất ngờ. Con được trở thành người ngồi bàn, còn Chúa tự nguyện đi lại hầu hạ con. Chúa đã dọn bữa sẵn sàng và mời con hưởng dùng. Con xin dâng lời tạ ơn Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp con biết sống tinh thần phục vụ theo kiểu của Chúa: muốn làm lớn thì phải làm nhỏ. Xin giúp con biết khám phá rằng: cuộc sống không phải để hưởng thụ, nhưng là để phục vụ. Và trong phục vụ, con sẽ có hạnh phúc. Bởi vì nếu con thông phần vào thập giá của Chúa thì con cũng được chia phần sự sống phục sinh với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Tinh thần phục vụ


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Địa vị và quyền hành đã gây ra chia rẽ giữa các môn đệ. Điều đó cho thấy mục đích theo Đức Giêsu của các môn đệ còn thấp kém. Chính vì thế, trước lời loan báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn, các ông vẫn không hiểu, dù Ngài đã nói đến lần thứ ba.

Đức Giêsu thì cương quyết lên Giêrusalem để chấp nhận khổ nạn, còn các môn đệ thì sợ hãi kinh hoàng. Đức Giêsu nói rõ, con đường của Ngài là con đường đau khổ, là chấp nhận chén đắng. Sự thanh tẩy tức là từ bỏ mình, là chấp nhận khiêm tốn phục vụ như một đầy tớ của mọi người. Đó là vinh quang đích thực của Đức Giêsu và của những môn đệ Ngài.

Trên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ: “Ngài sẽ bị nộp cho các thượng tế và luật sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Ngài... nhưng ba ngày sau Ngài sẽ sống lại” (Mc 10, 33). Đây là lần thứ ba Chúa nói cho các môn đệ biết về điều này. Nhưng thật đau lòng, khi nghe Chúa nói như vậy, các môn đệ không quan tâm gì, các ông lại tranh giành ngôi thứ với nhau. Nhân cơ hội này Chúa đã sửa bảo các ông một cách tế nhị, và dạy các ông bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt tính ghen tương.

Khởi đầu câu chuyện là hai ông Giacôbê và Gioan, hai anh em ruột, xin Chúa cho mỗi ông được ngồi bên hữu bên tả Chúa, nghĩa là muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Đây cũng là điều bình thường, ai lại không muốn cho mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự?

Đức Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người, muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai khiến người khác. Bởi vì các môn đệ hãy còn suy nghĩ về nước Đức Giêsu ở trần gian này, nên các ông còn thích quyền hành danh vọng và muốn người ta phục vụ mình.

Nhưng Đức Giêsu lại suy nghĩ khác, nước Ngài không thuộc về thế gian, cho nên người có quyền hành không được dùng địa vị của mình để cai trị áp bức người khác, để lên mặt ta đây, và bắt người khác phục vụ mình, nhưng trái lại phải biết phục vụ, không phải chỉ dành quyền lợi cho cá nhân mình, nhưng để bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người.

Các môn đệ được coi như những con người còn rất “thô sơ”, còn đầy những nết xấu ví dụ như trường hợp hôm nay, các ông có tính ghen tị. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người là điều không tốt, nhưng lòng ganh tị cũng không tốt đẹp gì. Khi thấy hai ông Giacôbê và Gioan xin Chúa được ngồi bên hữu bên tả Chúa, các môn đệ khác khó chịu, bực mình. Các ông ghen tị, không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ của Chúa cũng vẫn còn hẹp hòi, ích kỷ. Điều này cũng chứng tỏ các ông còn suy nghĩ về nước Đức Giêsu ở trần gian. Vì thế, Chúa cũng sửa bảo các ông phải loại bỏ tính xấu này.

Kiêu ngạo và ghen tị là hai nết xấu đã cản trở sự phát triển đời sống chúng ta về mọi phương diện. Chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu này để sống hòa hợp, vui vẻ với nhau, cộng tác với nhau, đừng ai kiêu ngạo muốn hơn người, và cũng đừng ai phân bì, ghen tị khi thấy người khác hơn mình.

Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ. Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải là một địa vị thống trị hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn: “Con Người đến không phải được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10, 45).

Người lãnh đạo trong Hội thánh là “đầy tớ”. Trong các văn kiện, Đức giáo hoàng thường dùng danh hiệu “Servus servorum”: đầy tớ của các đầy tớ. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là “thừa tác” hay “trợ tá” theo đúng nghĩa của chữ Latinh “Minister” là tôi tớ; hoặc tiếng Hy lạp “Diakonos” là đầy tớ và “Doulos” là nô lệ.

Trong các vị lãnh đạo của Giáo hội cũng phải có phẩm trật như người ta nói: “Kim chỉ phải có đầu” (tục ngữ), cần phải có một người đứng đầu điều khiển một cộng đoàn, chứ không thể có cảnh “Cá đối bằng đầu” (tục ngữ) mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn phục tùng ai. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là huỷ bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác.

Truyện: Gương Đức Giáo hoàng Gioan 23

Một lần kia, phái đoàn tòa Giám mục ra đón Đức Hồng y Roncalli mới đi xa về, vừa từ trên xe xuống. Mọi người ngạc nhiên, vì trên áo Hồng y có vương mấy cọng rơm đồng quê.

Ai hỏi, ngài cũng cười, nhưng các người đi cùng thì hiểu. Vì xe của Ngài đang từ hướng bắc về miền nam, đi qua đồng ruộng. Giữa đường có chiếc xe bò chở rơm sa hố. Ngài liền cho xe của Ngài dừng lại, xắn tay áo, ngài hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh lên đường.

Những cọng rơm trên áo Hồng y, ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng sự thực tỏ rõ cho chúng ta một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.

Sau này lên ngôi Giáo hoàng, với tước hiệu Gioan 23, Ngài vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ như thế.

Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Đức Giáo hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đi tìm. Cuối cùng gặp ngài đang nói chuyện với tù nhân trong khám đường Rôma.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Muốn làm lớn làm đầu giữa giữa anh em


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Hai cảnh tượng đối nghịch nhau một cách trắng trợn:

- Chúa Giêsu loan báo (đây đã là lần thứ ba) rằng Ngài sắp chịu nạn, chịu chết và sống lại.

- Hai môn đệ Giacôbê và Gioan lại xin hai địa vị ưu tiên trong "nước" mà họ nghĩ Chúa Giêsu sắp thành lập. 10 môn đệ kia bực tức. Không phải vì cho rằng hai môn đệ này sai mà vì nghĩ họ đã muốn "chơi trội" hơn mình trong cuộc chạy đua tranh dành địa vị.

Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu dạy về Nước Thiên Chúa và nước trần gian, về cách cư xử của những người lớn trong hai nước đó:

- Trong nước trần gian, kẻ làm lớn thì lấy quyền mà trị dân, bắt dân phục vụ mình.

- Trong Nước Thiên Chúa, làm lớn là làm đầy tớ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ.

B.... nẩy mầm.

1. "Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi": Khi viết câu này, có lẽ thánh Mác-cô cũng muốn nói lên tâm trạng của các kitô hữu trong giáo đoàn của ngài. Họ đang bị đế quốc rôma bắt bớ. Họ biết rằng làm môn đệ là phải đi theo Chúa Giêsu. Họ cũng biết có Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ. Nhưng họ vẫn bỡ ngỡ và sợ hãi. Đó cũng là tâm trạng của chúng ta ngày nay.

Lạy Chúa, chúng con sợ. Nhưng xin Chúa nâng đỡ chúng con, để chúng con kiên trì theo chân Chúa cho đến cùng.

2. "Các con không biết các con xin gì": nhiều khi tôi cũng xin Chúa những điều mà tôi không hiểu, những điều hoàn toàn ngược với thánh ý Chúa.

3. "Lãnh tụ các nước thì sai khiến dân chúng như ông chủ…. Còn các con… ai muốn làm lớn thì hãy làm đầy tớ…": Trong cộng đoàn, tôi cũng có một chút "quyền", một chút "địa vị". Tôi đã dùng chúng như thế nào: như một ông chủ hay như một đầy tớ?

4. "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em." (Mc 10,43-44)

Lượm cuốn sách lên cho nội, bé Thảo thắc mắc:

- Tại sao bà không cúi xuống được hở bà?

- Chân người già yếu lắm con, vả lại, khi cúi xuống bà thường bị chóng mặt, hoa mắt chỉ chực té thôi!

- Ồ, "cúi xuống" mà khó đến vậy sao? cô bé thốt lên đầy kinh ngạc...

... Đã từ lâu, người ta thường nhắc tới căn bệnh "sĩ" trong thời sinh viên, những kẻ "coi trời bằng vung". Vì "sĩ" người ta có thể làm tất cả, người ta học giỏi, chấp nhận nghèo khổ; vì "sĩ" người ta ăn chơi, người ta đánh nhau vì một câu nói vô tình v.v... Nhưng mấy ai vì "sĩ" mà "cúi xuống" để phục vụ người?

Lạy Chúa, xin cho đôi chân con thật vững, trái tim con đầy ắp yêu thương, để con biết "cúi xuống", dẫu có lúc chỉ vì thế mà phải chịu nhiều chuyện rắc rối, bởi xác tín rằng ngày xưa và mãi mãi, Ngài vẫn luôn làm như thế. (Hosanna)

5. Đây là câu chuyện vui của thầy Anrê với cây Thập giá bị bỏ lại. Trước khi bắt đầu cuộc hành hương về Núi Thánh, thầy tu viện trưởng dẫn các tu sĩ của mình đến nơi có trưng bày nhiều loại Thập giá lớn nhỏ khác nhau và nói: “Nào chúng ta mỗi người hãy chọn lấy cho mình một cây Thập giá để vác trong suốt cuộc hành hương này.” Các tu sĩ chạy đến tranh nhau dành cho mình cây Thập giá nhỏ nhất bao nhiêu có thể. Họ nghĩ thầm rằng đó là cây Thập giá nặng nhất, tiện đường vì cuộc hành hương còn xa.

Khi mọi tu sĩ đã chọn cho mình cây Thập giá rồi, thì còn lại một cây Thập giá to nhất cho thầy tu viện trưởng. Thầy bước đến vác lấy cây Thập giá đó mà chỉ dùng có một tay nhấc cây Thập giá lên cùng đi. Ai cũng có vẻ thích thú vì có thái độ “Lãnh nặng, tìm nhẹ” để vác lấy Thập giá trên đường hành hương, nhưng người dành được cây Thập giá nhỏ nhất mới vỡ lẽ ra rằng Thập giá mà mình cầm lấy lúc đầu lại là Thập giá nặng nhất.

Câu chuyện vui phơi bày tâm lý tầm thường của mỗi người. Miệng chúng ta quyết mạnh mẽ là mình vác lấy Thập giá theo Chúa nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta ước ao có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý muốn riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý Chúa gởi đến cho mình. Hay tệ hơn nữa, chúng ta có thể xin Chúa cho mình được vâng lời, hay ngồi bên hữu, bên tả Chúa, như lời cầu xin của hai anh em con ông Giêbêđê được kể lại trong Phúc Âm (Mc 10,32-45).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Làm lớn như là cơ hội để phục vụ


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Hai cảnh tượng đối nghịch nhau một cách trắng trợn:

* Chúa Giêsu loan báo (đây đã là lần thứ ba) rằng, Ngài sắp chịu nạn, chịu chết và sống lại. Trong lúc đó thì hai môn đệ Giacôbê và Gioan lại xin hai địa vị ưu tiên trong “Nước” mà họ nghĩ Chúa Giêsu sắp thành lập. 10 môn đệ kia bực tức. Không phải vì cho rằng, hai môn đệ này sai mà vì nghĩ họ đã muốn “chơi trội” hơn mình trong cuộc chạy đua tranh dành địa vị.

* Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu muốn dạy về Nước Thiên Chúa và nước trần gian, về cách cư xử của những người lớn trong hai nước đó:

- Trong nước trần gian, kẻ làm lớn thì lấy quyền mà trị dân, bắt dân phục vụ mình.

Mẹ Têrêsa kể ở Hội nghị thượng đỉnh được tổ chức tại Johannesburg. Trong lúc người dân đói khổ, không cơm ăn, không nước uống, các phái đoàn hùng hậu của các quốc gia tham dự Hội Nghị, sống tại các khách sạn bốn sao, năm sao, với những thực phẩm hảo hạng, cả rượu “champagne” được chở từ các nước Tây Phương đến Johannesburg, để thỏa mãn khẩu vị của các phái đoàn trong 10 ngày Hội nghị thượng đỉnh.

Còn trong Nước Thiên Chúa, làm lớn là làm đầy tớ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ.

Chúa Giêsu đã không coi việc cai trị như là cơ hội để hưởng thụ mà là để phục vụ.

Ngày xưa, vua nước Tề sai sứ giả đem thư sang thăm bà Uy Hậu nước Triệu, là mẹ của Triệu Uy Vương được giữ quyền nhiếp chính. Khi nhận được thư của sứ giả, bà Uy Hậu chưa vội xem nhưng hỏi ngay sứ giả:

- Tề năm nay không mất mùa chứ? Dân tình yên chứ? Vua cũng mạnh khoẻ chứ?

Sứ giả nghe hỏi, không bằng lòng, nói:

- Tôi vâng mạng vua nước tôi sang xứ bên này, Thái Hậu không hỏi đến vua tôi mà lại hỏi thăm mùa màng với dân sự trước, thế chẳng ra, tôn trọng kẻ hèn hơn người sang ư?

Uy Hậu mỉm cười bảo:

- Không phải! nếu không có mùa màng thì lấy đâu có dân, không có dân thì lấy đâu có vua? Ai lại bỏ gốc mà hỏi ngọn bao giờ!

Đoạn, Uy Hậu lại hỏi luôn một loạt:

- Chung Ly Tử là sử sĩ bên ấy vẫn được bình yên chứ? Người ấy có lương ăn cũng thế, không có ăn cũng thế. Có áo mặc cũng thế mà không có áo mặc cũng vậy. Ấy là người có thể giúp vua mà phục vụ dân đấy. Sao nhà vua đến bây giờ vẫn chưa triệu người ấy ra làm quan?

Còn Nghiệp Dương Tử bên ấy vẫn bình yên chứ? Người ấy thương xót kẻ quan quả, chu tuất kẻ cô độc, chân tế kẻ khốn cùng, giúp đỡ kẻ túng bấn, đó là một người có thể giúp vua để sinh lợi cho dân.

Còn người con gái Bắc cung tên Anh Nhi Tử vẫn bình yên đấy chứ? Người ấy bỏ cả đồ trang sức, đến già không lấy chồng để phụng dưỡng cha mẹ. Ấy là người làm gương mẫu cho dân, bắt chước ăn ở với cha mẹ cho có hiếu có đạo, sao đến bây giờ nhà vua chưa cho người ấy vào chầu? Nếu hai kẻ sỹ ấy không được làm quan, người con gái ấy không được vào chầu thì làm sao vua nước Tề trị được vạn dân?

À, còn tên Tử Trọng ở Ô Lăng vẫn còn đấy chứ? Tên này trên không làm nên tôi vua, dưới không trị được việc nhà, giữa không kết giao với ai, thế là tên này chuyên dạy dân làm điều vô dụng, sao đến bây giờ nhà vua chưa đem ra xử tử?

Hỏi xong, bấy giờ Uy Hậu mới xem thư.

3.”Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.” (Mc 10, 43-44).

Gần chúng ta bên nhà thờ Chí Hòa, có một cộng đoàn nữ tu gọi là tu hội Eau-Vive (Nước hằng sống). Tu hội này có nguồn gốc từ Bỉ. Ngoài công việc đạo đức ra, họ còn mở quán ăn phục vụ khách hàng. Cái đặc biệt của họ là sau giờ cơm tối, thông thường vào tối 9 giờ, tu hội có giờ cầu nguyện, chia sẻ Tin Mừng giữa các chị. Các chị thường thưa với khách hàng: “Giờ đây chúng tôi có giờ cầu nguyện, quý vị nào muốn tham gia, chúng tôi xin kính mời, ai không tham gia xin cứ tự nhiên”. Thế rồi các chị cùng một số thực khách sắp ghế vòng quanh lại và bắt đầu cầu nguyện với những bài thánh ca sốt sắng, truyền cảm. Có nhiều người mới đầu không tham gia, dần dần thấy hay hay cũng lắng tai nghe, rồi những lần kế tiếp xách ghế ngồi phía sau tìm hiểu. Khi đã quen, đã mê thì tuần nào cũng ít là một vài lần đến để ăn cơm, nhưng cốt là để tham dự các giờ cầu nguyện ban tối mà họ cho là rất tự nhiên, hấp dẫn và cảm động. Quán ăn đã trở nên nhà nguyện, vì có Chúa hiện diện giữa họ.

Lạy Chúa, xin cho đôi chân con thật vững, trái tim con đầy ắp yêu thương, để con biết “cúi xuống”, dẫu có lúc chỉ vì thế mà phải chịu nhiều chuyện rắc rối, bởi xác tín rằng, ngày xưa và mãi mãi, Ngài vẫn luôn làm như thế. (Hosanna).

---------------------------------

 

Thứ 5:

Chữa người mù Bartimê.
Thứ Năm tuần 8 thường niên.
"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".
 
 

Lời Chúa: Mc 10, 46-52


Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít , xin thương xót tôi".
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh"? Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Xin thương xót tôi


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.
“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.”
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
 
Cầu Nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Xin cho con được thấy


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và quyền năng. Người làm ra biết bao điều kỳ diệu. “Vinh quang Đức Chúa bao phủ công trình Người sáng tạo. Các thánh của Đức Chúa không tài nào kể lại mọi kỳ công của Người”. Vì những công trình quá lớn lao. Vượt quá tầm hiểu biết của con người. Bao thiên niên kỷ qua rồi mà người ta chưa hiểu thấu hết những bí mật Chúa đặt vào trong vũ trụ. Bao nghiên cứu tìm hiểu, nhưng “những gì thấy được chỉ như một ánh lửa” nhỏ bé. (năm lẻ).

Chính vì thế mà điều con người cần cầu xin là xin cho được thấy. Thấy những kỳ công Chúa thực hiện. Thấy những bí mật của đời mình. Và quan trọng nhất thấy Chúa và thấy được con đường mình phải đi để đạt tới Chúa. Đó chính là điều anh mù Ba-ti-mê đã xin. Trong cảnh mù loà anh tuyệt vọng. Vì chẳng ai có thể cho anh được thấy. Chỉ mình Chúa Giê-su. Anh đã tin Người là Đấng Cứu Thế khi anh tuyên xưng Người là Con Vua Đa-vít. Lòng tin lớn mạnh vượt qua được những chướng ngại. Nên đã được Chúa nhận lời. “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Và khi được thấy anh đã làm điều cơ bản nhất. Không dùng ánh sáng để đi tìm trần gian. Tìm tiền của. Nhưng anh “nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Thật khôn ngoan. Và cơ bản. Thấy Chúa và đi theo Chúa. Đó là đi vào điều cốt lõi trong đời sống. Đi vào ơn cứu độ. Đi vào sự sống đời đời. Đó là thành đạt lớn nhất đời.

Đó chính là điều thánh Phê-rô khuyên nhủ ta. “Hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ”. “Hãy tiến lại gần Đức Ki-tô”. Vì do lòng thương xót, Chúa “mời gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền”. Chúng ta đang trên đường từ bỏ bóng tối để tiến về ánh sáng. Chúng ta hãy noi gương anh mù Ba-ti-mê đi theo Chúa trên đường Chúa đi. Nghĩa là “tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn”. Hãy làm chứng cho Chúa bằng đời sống ngay chính giữa ban ngày. “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu không, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm, mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm” (năm chẵn).

Lạy Chúa, xin cho con được thấy ánh sáng của Chúa. Đi theo ánh sáng của Chúa. Và chiếu sáng ánh sáng của Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðến với Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trước cửa Thiên Ðàng, một tu sĩ gõ cửa và cầu khẩn: "Lạy Chúa, xin cho con được vào". Cánh cửa vẫn đóng kín, nhưng có tiếng hỏi: "Con có mang theo điều gì không?". Vị tu sĩ đáp: "Con mang theo một bị chứa đầy những nhân đức của con". Có tiếng vọng lại: "Ðiều ấy tốt, nhưng Ta không thể mở cửa cho con vào".

Vị tu sĩ ra đi, nhưng buổi chiều ông lại đến gõ cửa để xin được vào. Lần này, khi được hỏi có đem theo điều gì không?, ông cho biết có đem theo công nghiệp của việc Suy Niệm và cầu nguyện lâu giờ. Tuy nhiên, ông vẫn chỉ nhận được lời này: "Thật là tốt, nhưng Ta vẫn không thể mở cửa cho con vào".

Vị tu sĩ lại ra đi, đến tối, ông trở lại. Lần này, ông chỉ đến với con người của ông mà thôi. Nhưng tức khắc cánh cửa mở rộng để cho ông bước vào.

Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta về thái độ tinh thần cần phải có để đến với Chúa, đó là đến với Chúa bằng chính thực tế con người mình; bằng tâm tình tin tưởng và cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa, hơn là dựa vào sức riêng của mình. Ðó cũng là thái độ chúng ta có thể thấy được nơi anh mù gần thành Yêricô mà Tin Mừng hôm nay ghi lại.

Anh mù đến với Chúa bằng chính thực tại đau thương của mình và trông cậy vào tình thương của Chúa: "Lạy con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi". Ðây là lời cầu xin của một tâm hồn khiêm tốn và tin tưởng, như Chúa Giêsu đã ghi nhận sau khi chữa lành anh: "Lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Ðức tin nơi anh mù đã giúp anh vượt qua thử thách, người ta càng ngăn cản anh, anh càng kêu to hơn cho đến khi được Chúa nghe thấy và cho gọi anh lại.

Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn, kiên trì chờ đợi gặp Chúa không? Chúng ta có ý thức mình cần đến ơn Chúa, cần đến tình yêu và sự tha thứ của Chúa không? Như anh mù, chúng ta hãy thưa: "Lạy Chúa, xin thương xót con". Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy những kỳ công Chúa đã và đang thực hiện trong lịch sử nhân loại và trong chính đời sống chúng ta, để chúng ta trở thành bài ca tôn vinh Chúa luôn mãi.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Người mù thấy rõ hơn những kẻ sáng mắt


Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy con vua Đa-vít xin dủ lòng thương tôi!” (Mc. 10, 47-48)

Thời Chúa Giêsu y khoa chưa phát triển, những bệnh tật về mắt ở thời đó thật là bi thảm, hy vọng chữa khỏi thực tế coi như không có. Người mù chẳng có cách thế phục hồi và sớm muộn phải lâm vào số phận những người đi ăn xin. Việc chữa khỏi mù thời ấy hầu như mang tính chất một cuộc cải tử hoàn sinh. Người ta coi những người mù và phong hủi là những “đại diện ưu tiên” của nỗi khốn khổ của con người. Trong mọi tập tục tôn giáo, thể thức chữa trị tật nguyền này đóng một vai trò quan trọng. Ở thời Chúa Giêsu, người ta coi đó là dấu chỉ thiên sai. Chẳng thế mà khi người ta hỏi Người có phải thật là Đấng Mêsia không, thì Người đã trưng dẫn việc Người chữa lành những người mù dể làm bằng chứng.

Người mù Giêricô phát hiện ra

Ai cũng biết rằng những người mù phát triển một sự chú ý mà những người sáng mắt hiếm khi có được. Điều họ cảm nhận dù chỉ nhỏ nhoi, thì họ lại suy nghĩ sâu xa, và nhờ sự chú tâm như thế, họ cảm nhận được bằng trực giác nhiều thực tại mà ta không thấy; phương ngôn ta đã chẳng nói “kẻ có tật, có tài” là gì. Đám đông đi theo Chúa Giêsu mù tịt về sứ mệnh đích thực của Người, đang khi người mù Giêricô, trong mịt mù đêm tối của đôi mắt, anh lại thành công: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít! Xin dủ lòng thương tôi!”

Tiếng kêu của anh lạc lõng trong tiếng huyên náo của mọi người. Vậy mà Chúa Giêsu nghe thấy và gọi anh. Giữa đám đông, một người nào đó nhận ra Người và người nào đó ấy lại mù cả đôi mắt. Một người không trông thấy Người lại nói đúng tên Người!!! Từ vực sâu khốn khổ của đời anh, người con trai ông Timê đã thấy rõ được cái bí mật thiên sai, đang khi các môn đệ của Người là những chứng nhân thường ngày nghe Người nói thấy Người làm, thì lại luôn luôn mơ tưởng những địa vị đặc biệt người ta dành cho mình trong cái tôi chẳng biết là vương quốc trần gian nào.

Chuyện đẹp mắt trong câu chuyện này không phải là chuyện người mù đã được chữa khỏi, mà là chuyện con người hèn mọn này, con người bé nhỏ này của Nước Trời đã là người, trước cả mọi người, làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Nếu có bao giờ câu nói “Tin là thấy” có được trọn vẹn ý nghĩa, thì đúng là ở đây Với lòng khiêm tốn, chúng ta hãy cầu xin cho những người chưa có hay đã từ bỏ con đường của Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Nhạy bén để được dứu độ


Trước mỗi dấu chỉ hay sự kiện, mỗi người nhìn dưới góc độ khác nhau. Người thì trầm trồ khen ngợi; người thì chê bai không ngớt, kẻ thì dửng dưng...

Sự xuất hiện của Đức Giêsu cũng vậy. Ngài đi đến đâu cũng có nhiều người tin và theo Ngài, nhưng cũng không thiếu kẻ chống đối kịch liệt, lại có những người vô tình đến vô tâm, nên họ không cần quan tâm gì đến sự xuất hiện của Ngài.

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy phản ứng nhạy bén của anh mù. Anh vừa nghe thấy nói là Đức Giêsu thành Nazarét, anh ta đã cố nhoi lên và không ngừng kêu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Lời kêu cầu này của anh mù không chỉ đơn thuần là lời van xin, mà còn là lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt của anh vào một Đức Giêsu đã được loan báo từ bao đời nay, hôm nay anh đã được gặp. Điều này đã được chứng minh bằng lời khen ngợi và sự chữa lành của Đức Giêsu: “Đức tin của anh đã cứu anh”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta về tinh thần sống đạo. Liệu trong cuộc sống, chúng ta có nhạy bén với Lời Chúa, với các dấu chỉ, hay nhiều khi chúng ta dửng dưng với những sứ điệp mà hằng ngày Thiên Chúa không ngừng gửi đến cho chúng ta qua nhiều hình thức???

Thực tế, nhiều khi thay vì nhạy bén và thi hành, chúng ta lại ngụy biện và phớt lờ như người không biết. Như vậy, anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ mù về thể lý, còn tâm anh thì sáng, trong khi đó chúng ta thì ngược lại!

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con luôn biết nhạy bén với sứ điệp Lời Chúa, để chúng con thi hành và được cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Anh mù sáng mắt sáng tâm hồn


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Khi chữa lành anh mù Bac-ti-mê, không những Chúa Giêsu cho anh được sáng mắt, mà còn cho anh được sáng tâm hồn. Đó là anh tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mù bao giờ cũng đáng buồn. Thân xác mù thì chỉ thiệt hại cho bản thân mình, còn tâm hồn mù thì thiệt hại cho cả xã hội. Xã hội hôm nay đang nỗ lực mang ánh sáng đến cho người mù. Đó là điều cần thiết vì mang lại hạnh phúc cho người tàn tật. Nhưng điều cần thiết hơn là giúp con người tìm thấy ánh sáng cho cuộc đời. Lạy Chúa, ngày nay xã hội đang nỗ lực thực hiện công việc từ thiện là chữa mắt miễn phí cho những người mù lòa. Đó là việc cụ thể của tình người. Từ đó, xin cho con biết trao tặng ánh sáng Lời Chúa cho các tâm hồn khi chính mình đi trong ánh sáng của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết học thái độ của anh mù Bac-ti-mê. Đó là biết rằng mình đang mù. Đó là tin rằng: chỉ một mình Chúa mới có thể chữa lành. Xin cho con can đảm vượt qua mọi chướng ngại, sẵn sàng từ bỏ mọi quyến luyến ràng buộc, sẵn sàng từ bỏ mọi tính hư tật xấu, như anh mù can đảm vất bỏ cả áo khoác, để đến với Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót con.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao kẻ gặp Chúa nhưng không biết Chúa. Trong khi đó, anh mù đã nhận ra Chúa là Đấng cứu độ duy nhất và tin tưởng nơi Chúa. Xin cho con biết đến với Chúa mỗi ngày, để đón nhận hồng ân cao cả, là nhận biết Chúa là Đấng Toàn Năng, và con là người mang thân phận yếu hèn cần được cứu giúp. Xin Chúa chữa lành con và giúp con đi theo Chúa tiến về Giêrusalem với nhiều hứa hẹn đau khổ và vinh quang. Lạy Chúa, xin thương xót con. Amen.

Ghi nhớ: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Người mù thành Giêricô


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Đức Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.

Hôm nay, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Đức Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).

Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.

Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.

Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu... thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.

Truyện: Chiếc đèn lồng

Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:

- Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.

Người bạn trả lời:

- Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.

Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:

- Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?

Người kia đáp:

- Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.

Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Sáng mắt sáng lòng


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong "nước" Chúa Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để "sửa lưng" các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn "thấy" Chúa Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn "đi theo" Ngài.

- Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết "xin cho tôi được thấy", và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn "đi theo" Chúa Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).

- Trước đó, khi được Chúa Giêsu gọi, anh đã từ bỏ ("liệng áo choàng"), thay đổi nếp sống (từ "ngồi ở vệ đường" đến "đứng dậy"), quy hướng về Chúa Giêsu ("nhảy đến với Chúa Giêsu").

B.... nẩy mầm.

1. "Xin cho con được thấy": Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đoàn của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Ngài. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Bartimê để cầu xin với Chúa: "Lạy Chúa, xin cho con được thấy".

2. "Nhiều người mắng anh… Người ta gọi anh mù và bảo ‘Hãy vững tâm đứng dậy. Ngài gọi anh đó": tha nhân có khi là cản trở, có khi là trợ lực giúp ta đến với Chúa. Xin Chúa giúp con, khi bị tha nhân cản trở, vẫn cương quyết một lòng hướng về Chúa; và khi được tha nhân trợ lực, con càng tiến đến Chúa cách tích cực hơn.

3. "Mỗi năm một lần vào mùa xuân, những sức mạnh ẩn mình của trái đất bỗng bừng dậy. Hoa nở, lá cây đâm chồi, cỏ mọc, lúa vươn lên… Sức sống mà Thiên Chúa dấu ẩn bấy lâu trong lòng đất bỗng đột ngột vươn dậy. Vài tháng trước đó, nếu không có kinh nghiệm của những mùa xuân đã qua, thì có ai mà ngờ sẽ thấy được cảnh sống lại huy hoàng của thiên nhiên như vậy. Đối với mùa xuân vĩnh cửu cũng thế. Có nhiều điều rất kỳ diệu tự ta không thấy nhưng Chúa có thể cho ta thấy… Lạy Chúa, xin mở mắt con" (Newman)

4. Lời kể của một bà mẹ:

Tôi có một đứa con mù từ lúc mới sinh. Khi cháu được 20 tháng, lần đầu tiên tôi đưa cháu đến một siêu thị. Cứ vài bước, nó lại dừng lại để lắng nghe những tiếng động chung quanh: tiếng chân của những người đi bộ, tiếng xe chạy, tiếng chim đang hót, tiếng gió mát từ xa thổi đến…

Trên đường về, tôi nhận thấy con tôi vui vẻ rộn rã hơn bao giờ hết. Nụ cười của nó nói với tôi rằng buổi sáng hôm đó là buổi sáng đẹp nhất đối với nó vì nó đã khám phá được những điều mới mẻ kỳ diệu.

Riêng tôi, tôi tự hỏi: con tôi và tôi, ai thực sự là kẻ mù loà? (Chờ đợi Chúa)

5. "Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy tới gần Chúa Giêsu. Người hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mù đáp: Thưa Thầy, xin cho con nhìn thấy được". (Mc 10,50-51)

"Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn"

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc Âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là "mù" mà không chấp nhận mình "mù", vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhận ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đằng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi lời Chúa nữa.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con vì con cần được khai mở để nhận ra Chúa và bước theo Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sống của con (Hosanna)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Người mù sáng mắt


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Người mù sáng mắt.

Trình thuật người hành khất mù lòa được sáng mắt đã được thánh Marcô diễn tả thật rõ ràng và vô cùng sinh động, khiến chúng ta có cảm tưởng như được chứng kiến tận mắt sự kiện xảy ra. Chúa Giêsu, các môn đệ và đoàn lũ dân chúng đang theo Ngài rảo qua đường phố. Bên lề đường, một người hành khất mù lòa đang nhẫn nại nài xin của bố thí từ các khách bộ hành. Người hành khất ngồi đó, và với thời gian, có lẽ anh không còn hy vọng tìm được một phương thế chữa trị sự mù lòa của mình, anh buồn tủi chấp nhận định mệnh và sống bằng của bố thí từ những người giàu lòng bác ái.

Với một người sống trong hoàn cảnh đó, thì sự ồn ào xao động chung quanh có lẽ không làm cho anh ta bận tâm. Tuy nhiên, sự ồn ào xao động của buổi sáng hôm ấy có gì khác thường, khiến anh ta không thể không lưu ý. Anh hỏi thăm những người chung quanh, và khi được biết có Đức Giêsu thành Nazareth đang đi qua nơi ấy, anh cảm thấy như bừng lên sức sống và cất tiếng kêu gào át cả tiếng ồn ào của đám đông: “Lạy Giêsu Con vua Đavid, xin thương xót tôi” (Mc 10, 47). Lời kêu gào của anh nhẫn nại, tha thiết, đánh động lòng người, nhưng nhiều người chung quanh đã bảo anh im đi, có lẽ vì họ nghĩ rằng Chúa Giêsu trong sứ mệnh rao giảng của Ngài, Ngài phải thực hiện những việc vĩ đại hơn là quan tâm đến người hành khất mù lòa ngồi bên vệ đường.

Nhưng Chúa Giêsu cho gọi anh đến. Người hành khất mù lòa như nhận được một sức sống mãnh liệt, và dường như quên là mình đang mù lòa cần người dẫn dắt, anh vứt áo choàng sang một bên và chạy về phía Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh” (Mc 10, 51). Người mù đáp: “Lạy Thầy xin cho con được thấy” (Mc 10, 51). Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi, lòng tin của anh đã chữa anh” (Mc 10, 52). Người hành khất mù lòa được sáng mắt và đi theo Chúa.

2. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của chúng ta.

Đã bao lần qua nhiều phương nhiều cách, Chúa muốn gọi chúng ta như đã gọi người hành khất mù loà thuở xưa, nhưng hình như nhiều lần tiếng gọi ấy đã bị tắt lịm vì tiếng ồn ào của xã hội chung quanh. Chúa gọi, nhưng chúng ta đã không quảng đại đáp trả, chính vì thế chúng ta vẫn còn dẫm chân trong đống tội của sự đui mù thiêng liêng.

Người hành khất mù loà trong bài Tin Mừng hôm nay, khi vừa được biết cho gọi mình, đã mau mắn vất bỏ cái áo anh đang mang trên người, cái áo rất cần thiết cho một người sống trong vùng đất sa mạc, để chạy nhanh về phía Chúa. Việc anh làm như thế chứng tỏ niềm tin anh đặt vào Chúa rất mạnh. Chính Chúa đã xác nhận điều đó: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Mc 10, 52).

Xét như thế thì chúng ta thấy niềm tin có một chỗ đứng rất quan trọng trong cuộc sống.

Abraham là một người dân quê ở thành Ur, thuộc xứ Kalđê. Một ngày nọ, Thiên Chúa nói với ông: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà của cha ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn …” (St 12, 1-2). Abraham ra đi. Đâu là đất Chúa hứa? Làm sao trở thành tổ phụ một dân lớn với một người vợ không con lại đã quá già? Bao nhiêu câu hỏi đã được đặt ra, nhưng Abraham cứ đi, lao mình vào nơi vô định. Khi đã sinh được một cậu con trai đầu lòng Thiên Chúa lại phán: “Ngươi hãy đem con ngươi, đứa con một ngươi yêu dấu là Isaac, mà đi tới đất Hôria và ở đó, hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến cho Ta” (St 22, 2). Abraham, ruột đau như cắt vì quá yêu con, nhưng vẫn thắng lừa dắt con lên núi tế lễ Chúa.

Suốt đời ông là một thử thách không ngừng, nhưng ông hoàn toàn tin Chúa, sẵn sàng nghe Chúa mọi nơi, mọi lúc. Bởi thế, ông được Chúa gọi là “cha các kẻ tin” (Rm 4, 11).

Mẹ Têrêsa nói: “Biết đón nhận đau khổ trong đức tin, chúng ta sẽ có cơ hội san sẻ nỗi thống khổ của Đức Giêsu và bày tỏ tình yêu với Ngài.”

Ước gì trong từng giây phút, chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta.

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều các con làm cho
người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta”.

(Mẹ Têrêxa Calcutta).

---------------------------------

 

Thứ 6: 31/05 Đức Maria thăm viếng Elisabeth

 Nhận ra dấu chỉ của Chúa.

31/05 – tuần 8 thường niên – ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT. Lễ kính.
"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"

 

Lời Chúa: Lc 1, 39-56


Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Maria ở lại độ ba tháng


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Từ Nadarét, Chị Maria đã phải đi 160 cây số
để đến nhà ông bà Dacaria.
Ngày nay, người ta cho rằng nhà của ông bà tư tế này là ở En Kerem,
một ngôi làng nằm trên đồi, vây bọc bởi những cây ô liu và vườn nho,
cách Giêrusalem 6 cây số về hướng tây.
Cuộc hành trình vất vả, dài như cuộc hành hương lên Đền Thánh.
Chị Maria không đi một mình,
chắc Chị đi với một người bà con.
Hơn nữa, chị đi với Giêsu đang lớn lên trong lòng Chị.
Khi nghe sứ thần nói bà chị họ Êlisabeth già nua đang mang thai,
Maria thấy mình có bổn phận phải vội vã lên đường.
Chị muốn đem đến cho bà Êlisabeth sự hiện diện của Chị.
Một sự hiện diện khiêm tốn và lịch sự.
Chị đã mở lời chào khi vừa bước vào nhà ông bà tư tế Dacaria.
Chúng ta không rõ Maria đã chào như thế nào,
nhưng lời chào của Chị đã làm bật dậy nơi bà Êlisabeth
một chuỗi những âm vang mạnh mẽ và bất ngờ.
Tai vừa nghe lời chào của cô em Maria,
Êlisabeth thấy thai nhi trong lòng mình nhảy lên vì vui sướng (cc. 41, 44).
Lập tức bà được đầy tràn Thánh Thần.
Thánh Thần đã khiến bà nhận ra những mầu nhiệm lớn lao
đang diễn ra trong cuộc hạnh ngộ ở đây, vào giây phút này.
Êlisabeth lớn tiếng ca ngợi Maria là người phụ nữ diễm phúc nhất.
Maria có phúc vì được chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu độ (c. 42),
và vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với mình (c. 45).
Ngỡ ngàng và ngây ngất trong hạnh phúc, Êlisabeth kêu lên:
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa của tôi đến với tôi thế này?” (c. 43).
Như thế mầu nhiệm ẩn kín nơi Chị Maria, bà Êlisabeth đã biết.
Ngược lại, khi thấy bà chị họ của mình mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần đã nói với mình.
Một sự hiện diện mang tính phục vụ.
Maria đã ở với bà Êlisabeth độ ba tháng để giúp bà trong lúc sinh nở.
Tất cả những việc trong nhà, hẳn chị Maria đã tận tâm chu tất.
Khi Chị nhận mình là nữ tỳ của Chúa (Lc 1, 38),
khi bà Êlisabeth gọi Chị là Mẹ của Chúa tôi (c. 43),
thì Chị lại trở nên nữ tỳ phục vụ bà chị họ cao niên.
Sự hiện diện của Chị đem lại cho cả nhà niềm vui và hạnh phúc.
Giêsu vẫn lớn lên từng ngày trong Chị, và Chị cảm nhận điều đó.
Lời ca Magnificat chẳng phải chỉ được cất lên một lần.
Lời ngợi khen ấy thấm nhuần cuộc sống của Chị.
Mãi mãi Chị là nữ tỳ hèn mọn được Thiên Chúa cúi xuống (c. 48).
Và Chị biết mình cũng phải cúi xuống để phục vụ tha nhân.
Mọi cuộc gặp gỡ của chúng ta hằng ngày đều có tính linh thánh.
Trong niềm vui của Thánh Thần, ta vừa cho đi, vừa nhận lãnh,
vừa ngợi khen Chúa, vừa phục vụ con người.
Ước gì chúng ta thấy mình lớn lên nhờ dám mở ra để gặp gỡ.
 
Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2. Thân mẫu Chúa đến với tôi


--‘Manna’

Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?

Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?

Cầu Nguyện

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 3. Đức Mẹ Thăm Viếng


--GM GB. Bùi Tuần

1. Mấy ngày nay tôi đau nhiều. Đêm rồi, những cơn đau làm tôi không sao ngủ được. Tôi nghĩ tới lễ Đức Mẹ đi thăm Bà Elisabét (31.5.2014). Tôi lần chuỗi mân côi, và nói với Đức Mẹ: “Mẹ ơi, con đau lắm, đứng lên không được. Xin Mẹ thương con. Mẹ có thể đến thăm con, được không?”. Tôi nói như thế nhiều lần. Rồi lại lần chuỗi.

2. Một lát sau, tôi cảm thấy có một sự gì lạ xảy ra trong tôi. Tôi dần dần như được trầm mình vào một dòng nước thiêng liêng. Dòng nước thiêng liêng ấy rửa tôi khỏi tình trạng lo âu. Tôi cảm thấy tâm hồn được bình an nhẹ nhàng. Tôi thấy mình thực bé nhỏ, hèn mọn, yếu đuối. Đột nhiên, tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với lời đó, Chúa dạy tôi và các môn đệ Chúa hãy là hạt lúa gieo vào lòng đất, để chịu chết đi, thì mới được cùng với Chúa cứu các linh hồn.

3. Khi đề cập đến việc cứu các linh hồn, tự nhiên tôi được một ánh sáng thiêng liêng cho thấy: Hiện nay rất nhiều người đang bị quỷ Satan khống chế, xiềng xích, lôi kéo từ tội nọ sang tội kia. Để sau cùng phải sa xuống hoả ngục. Cứu được chỉ một người ra khỏi quyền lực Satan đã là chuyện không dễ chút nào, phương chi cứu nhiều người. Ngay để cứu chính mình cũng là việc không tự mình làm được. Dứt khoát phải nhờ vào Chúa. Mà, để được Chúa cứu, thì hãy khiêm nhường. Hết sức khiêm nhường.

4. Tôi như thiếp đi. Rồi tỉnh lại. Tôi nhận ra là Đức Mẹ đã đến thăm tôi. Tôi không nhìn thấy Đức Mẹ. Nhưng chính ở sự Đức Mẹ đến một cách kín đáo tế nhị, mà tôi càng mến phục sự khiêm nhường của Đức Mẹ.

Tôi cảm được sự khiêm nhường của Mẹ là một vẻ đẹp và là một hương thơm, dấu chỉ tình yêu cứu độ của Mẹ.

5. Việc Đức Mẹ thăm tôi đã qua rồi. Tôi hết lòng cảm tạ Mẹ. Có hai điều Mẹ để lại trong tôi một cách đặc biệt.

Điều thứ nhất là cảnh nhiều người thời nay bị Satan khống chế.

Chính tôi đã thấy và đang thấy cảnh đó. Thực là ghê gớm. Phúc Âm kể lại một người bị quỷ ám xin Chúa cứu. Chúa hỏi quỷ tên là gì? Nó thưa: Tên tôi là đạo binh.Chúa bắt quỷ phải ra khỏi người đó. Chúng nhập vào đàn heo gần đấy. Đàn heo rất đông từ sườn đồi lao mình xuống vực thẳm (x. Lc 8,26-33). Tôi dám nói là hiện nay các đạo binh quỷ nhập vào một người, một gia đình hay một cộng đoàn cũng đang xảy ra, tuy dưới hình thức nhẹ hơn. Chúng vẫn còn đó. Những người bị ác thần nhập nhiều khi cảm thấy rất khổ, muốn thoát, nhưng không tự mình thoát được. Đức Mẹ dạy tôi là các con của Mẹ hãy sống như hạt lúa gieo vào lòng đất, làm của lễ hy sinh, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu họ.

6. Điều thứ hai là sự nhiều môn đệ Chúa thời nay đang dần dần coi thường đức khiêm nhường.

Đúng lý ra, người môn đệ của Chúa phải luôn coi mình làkẻ được Chúa sai đi, vì thế phải quan tâm làm tốt những gì Chúa muốn mình làm vì lợi ích các linh hồn. Sống như thế đòi phải rất khiêm nhường. Nhưng thực tế đang xảy ra khác. Nhiều người môn đệ Chúa lại tự đánh giá mình theo những gì mình biết làm, theo khả năng của mình, như mọi người trong xã hội mình sống, chứ không như Chúa muốn. Do đó, họ coi cạnh tranh uy tín, địa vị là bình thường, coi đấu tranh giành thắng lợi cả trong lãnh vực tôn giáo cũng là chuyện hãnh diện, coi tìm vinh quang cho cá nhân mình cũng là làm cho Chúa.

7. Những điều trên đây được Mẹ nhắc nhủ cho tôi. Tôi nhận biết là đạo đức đang xuống dốc ở ngoài đời cũng như ở trong đạo. Tôi quyết sửa ngay nơi bản thân tôi. Nhưng thú thưc tôi chưa làm đủ, làm đúng như Chúa muốn. Tôi sám hối và cầu xin Mẹ thương thêm sức cho tôi. Đức Mẹ thôi thúc tôi hãy tận dụng thời gian còn lại để cùng với Chúa cứu các linh hồn. Nếu chần chừ, tưởng chừng mọi sự sẽ êm xuôi cả, chẳng có gì xấu sẽ xảy ra đâu, thì ai biết được những bất ngờ có thể xảy ra!

8. Khi tôi đang ngồi viết gần xong bài này, thì tôi nghe còi xe cứu hoả rú. Từ xa rồi gần lại. Tôi mở cửa đi ra, thì thấy xe cứu hoả đang ở sân Toà Giám Mục. Tôi hoảng sợ. Hỏi ra, thì biết dân xung quanh thấy khói đen bốc ra từ một căn phòng khu nhà góc Toà Giám Mục. Họ gọi xe cứu hoả. Đúng là đang có cháy do chập điện. May mà kịp cứu. Tôi nghĩ tới những bất ngờ.

9. Thực sự tôi đang thấy những bất ngờ đau đớn đang xảy ra đó đây trên thế giới, trong khu vực, trên Quê Hương và ngay tại địa phương bé nhỏ này. Bất ngờ này kéo theo bất ngờ khác. Tôi hỏi Đức Mẹ, thì Mẹ cho tôi nhớ lại tất cả những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima. Sẽ có những cơn đau đớn bất ngờ khủng khiếp xảy ra, nếu người ta không sám hối và khiêm nhường tỉnh thức.

Tôi cầu xin Mẹ thương đến viếng thăm Đất Nước Việt Nam yêu dấu của tôi. Xin Mẹ ban cho tất cả đồng bào tôi được yêu thương nhau, biết bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức thiêng liêng cao quý.

Lạy Mẹ, xin đến cứu con khỏi mọi tội lỗi.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 4. Đức Mẹ Đi Thăm Viếng


--GM GB. Bùi Tuần

Phụng vụ Hội Thánh định ngày 31 tháng 5, để kính nhớ biến cố Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà thánh Isave.

Hằng năm, đến lễ này, tôi thường làm ba việc sau đây:

1/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà thân mẫu của Gioan Baotixita. Nhờ cuộc viếng thăm này, Gioan Baotixita được thánh hoá, sau này trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu thế.

2/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà mẹ già Isave. Nhờ đó Mẹ làm gương cho muôn đời: về sự người trẻ, dù chức cao quyền trọng, nên biết cộng tác với người già, trong chương trình cứu độ.

3/ Nguyện cầu Mẹ vẫn tiếp tục đi thăm các con cái Mẹ, nhất là thăm những đứa con nghèo túng, bệnh tật, lầm lạc, thiếu mọi phương tiện để hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra..

Tôi xin phép triển khai đôi chút ba việc kể trên.

Thánh hoá Gioan Baotixita.

Phúc Âm thánh Luca thuật lại: “Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Giacaria, và chào bà Isave. Bà Isave vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave như nhảy lên và bà được tràn đầy Thánh Thần. Bà liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng chị nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,39-45).

Rõ ràng, bà Isave đã được Chúa soi sáng cho biết người em họ còn rất trẻ của mình mới nhận một vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa. Chúa soi sáng cho bà qua một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là bào thai bà đang mang bỗng nhảy mừng, khi Đức Mẹ vừa cất tiếng chào.

Tôi thấy các dấu chỉ trên đây đều xảy ra một cách rất âm thầm. Sự hiểu được ý nghĩa các dấu chỉ này cũng rất âm thầm. Tất cả diễn ra trong bầu khí thanh vắng của nội tâm. Nếu nội tâm không có sự thanh vắng, chắc chắn những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ không thể được nội tâm đón nhận.

Xin cảm tạ Chúa đã cho Đức Mẹ và bà thánh Isave một thanh vắng êm đềm trong nội tâm sâu thẳm và nhạy bén.

Xin cảm tạ Chúa vẫn ban cho thời này những nội tâm như thế theo gương Đức Mẹ và bà thánh Isave.

Những việc thánh hoá như thánh hoá Gioan Baotixita vẫn được Chúa làm trong thời nay, cũng vẫn một cách âm thầm lặng lẽ như xưa.

Thế nhưng, thời nay, tại nhiều nơi, việc thánh hoá, thánh hiến, đang có vẻ đóng khung vào những cơ chế mang nặng hình thức, như lễ nghi rườm rà, y phục nhất định, kinh sách dài dòng, hát xướng huyên náo. Thêm vào đó là những tổ chức đón tiếp, trình diễn, mừng chúc, tiệc tùng, tặng quà, trong bầu khí náo động nhộn nhịp, ồn ào. Những khung cảnh như vậy có thể tốt với nhiều điều kiện. Nhưng xem ra đang có chiều hướng phát triển theo tinh thần thế tục. Nếu cứ vậy, thì sẽ không còn sự thanh vắng nội tâm cần thiết. Thay vào đó sẽ là một “sự thánh hoá, thánh hiến” ồn ào, hội nhập vào sự ồn ào của một thế giới hướng ngoại rất xa lạ với sự thánh hoá thực chất của Phúc Âm.

Cộng tác giữa trẻ với già.

Kinh Thánh tả việc Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một cuộc “lên đường vội vã” (Lc 1,39). Người vội vã lên đường chính là một người phụ nữ rất trẻ, mới mang thai Chúa Cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần.

Với niềm tin như thế, Đức Mẹ có thể tự hào, tự đắc, tự tin. Nhưng không. Đức Mẹ đã vội vã lên đường. Hướng đi là tìm đến người chị họ Isave. Bà Isave là người đàn bà mà chính thiên sứ Gabriel gọi là “đã già rồi” (Lc 1,36), nhưng mới được thụ thai con trai nhờ ơn Chúa thương ban.

Khi nhìn những bước đi thầm lặng, vất vả, vội vã của người phụ nữ trẻ Maria, Mẹ Đấng Cứu thế, tôi rất xúc động. Mẹ băng qua bao nhiêu dặm đường, để lên vùng núi, tìm thăm người chị họ đã già. Những bước đi vội vã đó đáng trân trọng hơn muôn vàn quà tặng.

Nhưng khi thấy trong giây phút vừa gặp nhau, người chị họ già lại là người chúc khen người em họ còn trẻ, tôi bàng hoàng bỡ ngỡ. Thánh Isave đã mở lòng Maria, để từ đó trào ra những lời tạ ơn Chúa.

Hình ảnh cuộc gặp gỡ thân thiết giữa một bà mẹ trẻ và một bà mẹ già là một gợi ý. Đối với tôi, đó là một gợi ý về sự cộng tác giữa trẻ và già. Hai bên cùng tự do cộng tác, không do áp lực nào. Nhưng cả hai cùng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Hai bên nói đây không phải chỉ hiểu về hai cá nhân. Nhưng cũng được hiểu về cả một thế hệ đi sau và thế hệ đi trước.

Sự cộng tác này hiện nay trở nên cần thiết, khi nhiều tổ chức xem ra đang có nguy cơ phá sản về kỷ cương, và các giá trị đạo đức truyền thống.

Mẹ tiếp tục đi thăm.

Để cứu nguy, nhiều nơi đang phát động việc hành hương đến những nơi Đức Mẹ hiện ra. Người ta vẫn tin những nơi đó linh thiêng. Vì những nơi đó được Đức Mẹ viếng thăm. Tôi rất hoan nghênh những cuộc hành hương đó.

Nhưng, khi suy gẫm về biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, tôi vẫn nghĩ rằng: Đức Mẹ có tấm lòng muốn chia sẻ Tin Mừng, muốn hướng về những người khác, muốn lên đường, ra đi cứu độ. Vì thế, tôi thường cầu xin Đức Mẹ thương đến thăm tôi, khi tôi không thể đi hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra. Tôi cũng xin điều đó cho mọi người, không phân biệt họ là ai.

Tôi rất xác tín sự Đức Mẹ có lòng thương xót đặc biệt đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị trói buộc vào những hoàn cảnh éo le không sao gỡ được. Tôi xin Mẹ đoái thương đến thăm họ.

Hiện nay, nhiều người không công giáo và công giáo, hoặc công giáo bê bối, vẫn thích mang giữ ảnh tượng Mẹ trong nhà và trong mình. Hiện tượng đó cho phép tôi nghĩ rằng: Đức Mẹ đang tìm cách đến thăm từng gia đình và từng người. Thăm một cách lặng lẽ, nhưng thân mật. Từ đó, nhiều người nhận thức dần dần về một thế giới thiêng liêng. Đồng thời họ khát mong gặp được một Đấng thiêng liêng, để đời mình khỏi mất hướng.

Tôi hy vọng những con cái Mẹ cảm nhận được điều đó, để biết bước theo Mẹ và thay Mẹ đến thăm cứu giúp những người đang chìm dần xuống cảnh khổ nguy.

Để kết, tôi xin phép kể một câu chuyện nhỏ:

Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ . Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.

Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó”. Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5. Thăm viếng bác ái và truyền giáo


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Việc Đức Maria thăm viếng gia đình ông Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét vừa có tính cách bác ái vừa là truyền giáo. Truyền giáo là cùng với Chúa Giêsu đến chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kẻ khác và phục vụ họ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã đem Chúa đến gia đình ông Gia-ca-ri-a. Cuộc thăm viếng này không những đem lại niềm vui, mà còn đem ân sủng của Chúa xuống trên gia đình người chị họ neo đơn, nhờ đó mà Thánh Gioan Tiền Hô được tẩy sạch tội lỗi, nhảy mừng trong lòng bà Ê-li-sa-bét.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con rất thường gặp gỡ, thăm hỏi nhau. Bạn bè tri kỷ thỉnh thoảng tâm sự với nhau, bên ly cà phê nóng, bên ly rượu lai rai..., rồi những dịp ma chay cưới hỏi trong xóm trong làng. Thế nhưng con tự hỏi: những khi gặp gỡ kẻ khác, không biết con đã thực sự đem lại niềm vui và ơn thánh của Chúa cho kẻ khác chưa. Con chỉ có thể đem Chúa đến cho kẻ khác khi con có Chúa ở trong mình theo cung cách của Đức Mẹ. Chúa ở trong cung lòng của Đức Mẹ vừa là Thiên Chúa quyền năng, vừa là người con rất thân thiết. Lạy Chúa, khi rước Chúa mỗi ngày, con có Chúa ở trong tâm hồn con. Xin Chúa cho con đón nhận Chúa với tất cả tấm lòng. Đối với con, không những Chúa là Thiên Chúa của con mà còn là Đấng thân yêu nhất, là Đấng mà con có thể hiến dâng cả cuộc sống, có thể hy sinh từ bỏ tất cả những gì ngăn cản con sống với Chúa. Xin Chúa sống trong con như Đấng con quý mến nhất, yêu thương nhất.

Con tin rằng khi đó con có thể đem Chúa đến với người mà con gặp gỡ, để chính họ cũng đón nhận được chính Chúa. Xin Chúa dạy con đem Chúa đến với kẻ khác bằng thái độ yêu thương, phục vụ, chân thành và khiêm hạ giúp đỡ tha nhân. Amen.

Ghi nhớ: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”

-------------------------------

 

Suy Niệm 6. Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth


--GM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan

Anh chị em thân mến,

Chúng ta đang đứng trước một cuộc thăm viếng vừa là chuyện của cuộc đời thường, mà cũng là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu vừa đầu thai trong lòng mẹ đã đi thăm vị Tiền Hô tương lai của mình. Cả hai còn trong lòng mẹ mà đã biết nhau. Đức Giêsu đem Thánh Linh đến, Gioan Tẩy Giả trong lòng đã nhảy mừng chào đón Người.

Nhưng hôm nay nhân ngày lễ hành hương kính Mẹ, tôi muốn anh chị em ngắm nhìn dung mạo và tâm hồn Mẹ, người tín hữu đệ nhất của Tân Ước trước mầu nhiệm đi viếng này, và đây là bài học quý giá cho cuộc đời tín hữu của chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay làm nổi bật những thái độ tâm hồn của Đức Mẹ như sau:

Mẹ là người có một Đức tin sâu thẳm.

Mẹ là người có tâm hồn nghèo khó tuyệt vời.

Mẹ là người có con tim tràn đầy tình chia sẻ.

1. Đức tin sâu thẳm của Đức Mẹ.

Trong lời chào mừng được Thánh Linh soi sáng của bà Êlisabeth, ta thấy một lời tán dương thật bất ngờ: “Phúc cho em là người đã tin rằng, Chúa đã thực hiện những gì người đã nói với em” (Lc 1,45).

Chúa đã nói gì với Đức Mẹ? Đó là lời sứ thần chuyển đến cho Mẹ trong giờ truyền tin: “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên bà, và quyển năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh mà bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Đây là cuộc thụ thai nhiệm mầu, người trần không ai hiểu được. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ lúc đó là cả một niềm tin sâu thẳm vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ ôm ấp thánh ý Chúa vào lòng và nguyện cầu cho thánh ý đó trọn vẹn nơi mình. Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là một quyết định vào đời trong Đức Tin, là tiếng nói “có”, không do dự với Thiên Chúa trước một tương lai đang mờ mịt. Con thuyền đời của Mẹ ra khơi mà không nghĩ gì đến sóng gió ba đào, có thể chờ đợi mình. Tiếng Xin Vâng của Mẹ là cả một niềm tin yêu, phó thác cả tương lai mình cho Thiên Chúa. Là sẵn sàng cho gươm đâm thâu trái tim, là chứng kiến và hiệp thông với sự hy sinh của người con yêu trên thập giá.

Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ nhận được một lời tán dương: “Em có phúc”, không phải vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà là Mẹ đã tin, đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa dẫn dắt mình qua những nẻo đường mới lạ.

Cuộc sống của người tín hữu đúng nghĩa là sống trong thánh ý Thiên Chúa, là bước đi trong Ánh sáng của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, mà nhiều lúc ta thấy không giống với lý luận của người đời, nhiều lúc phải dám nói như thánh Phaolô: “Sự khôn ngoan của người đời là sự dại dột trước mặt Thiên Chúa”. Cuộc đời đầy gian nan, đầy thập giá, người đời coi đó là vô phúc, là thiếu khôn ngoan, thì người tín hữu phải đánh giá đó là của lễ Tình yêu theo Tin Mừng, Chúa mời gọi ta dâng hiến.

Để đạt tới hạnh phúc như vậy, ta cần phải học cho được tâm hồn nghèo khó của Đức Mẹ.

2. Tâm hồn nghèo khó của Mẹ.

Tâm hồn nghèo khó là bài học đầu tiên Chúa dạy các môn đệ Ngài: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ đã thể hiện tâm hồn nghèo khó đó như thế nào. Tinh thần hay tâm hồn nghèo khó thì khác với sự thiếu thốn về vật chất mà ta thường coi là bất hạnh. Cùng với tâm hồn nghèo khó là tâm hồn khiêm tốn, nhận ra mình là tạo vật do Chúa dựng nên từ chút vật liệu tầm thường là bùn đất, tro bụi. Nếu chúng ta có trở nên người may mắn, thông minh, tài giỏi, giàu sang hay quyền thế, tất cả đều do Chúa ban cho. Đừng tự mãn như là tự mình tạo nên được. Philatô nói với Chúa: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”, Chúa đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.

A đam - Evà đã lầm, khi thấy mình được tự do nói “không” hay nói “có” với Thiên Chúa, bèn quên đi hồng ân đầy tình thương đó, không chịu nghe lời chỉ bảo của Ngài, để theo Satan ăn trái cấm mong được quyền hành như Ngài. Cứ ăn bừa trái cấm, ăn rồi mới thấy mình trần truồng, nghĩ là không còn chi nữa. Mất Chúa là tai hoạ lớn nhất,khủng khiếp nhất cho con người.

Trong bài ca tạ ơn tại nhà bà Êlisabet, Mẹ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, khi bà Êlisabet ngợi khen Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, lập tức Mẹ lại xưng mình là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Mẹ đang nhìn thấy Chúa dẹp tan  người lòng trí kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, bắt người giàu có trở thành tay không. Đó là những kẻ cứ tưởng mình là chúa của mình.

Bài học khiêm nhường của tâm hồn nghèo khó là bài học cứu độ cho con người, và khi Chúa Kitô muốn dâng một của lễ xoá tội trần gian, Ngài đã hạ mình vâng lời Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập tự.

Muốn làm con Chúa, muốn có hạnh phúc Nước Trời, ta cần suy gẫm và cầu xin Đức Mẹ dạy bảo cho chúng ta biết bài học của Chúa Kitô: Sống hiên lành và khiêm nhường trong lòng. “Hãy học cùng Ta,vì Ta hiền lành và  khiêm nhường trong lòng” đó là hạnh phúc thật.

3. Con tim tràn đầy chia sẻ của Đức Mẹ.

Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta không bỏ qua được tâm hồn nghèo khó đi đôi với con tim tràn đầy tình chia sẻ của Đức Mẹ. Làm người ai mà không cần đến tình thương. Tham lam, ích kỷ đang làm hao mòn tình thương trên mặt đất nầy.

Từ Nazaret đến Ain Karim, Mẹ đã lên đường mang theo Chúa Giêsu cùng đi với Mẹ. Trước hết thì Mẹ với tư cách là bà con, Mẹ muốn chia vui khi nghe Tin Mừng thiên thần báo thụ thai cách lạ lùng, trước đó 6 tháng. Mẹ cũng hiểu ý Chúa quyền năng muốn mời gọi Mẹ mang theo sứ mệnh mừng vui và bình an cho chị họ mình, khi Mẹ lên đường có  Chúa đi theo. Một hoạt động mang tính nhiệm mầu và bác ái.

Cuộc gặp gỡ người ta quen nói là mẹ gặp mẹ, con gặp con và Thánh Linh thì hoạt động. Bà Êlisabet được đầy Thánh Thần và chào mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Gioan thì nhảy mừng trong dạ mẹ, còn Đức Mẹ không ngớt lời ngợi khen Thiên Chúa.

Thiên Chúa tình yêu đang ở giữa lòng Mẹ. Tình yêu đó đang đốt nóng cõi lòng Mẹ, và mọi cử chỉ, hành động của Mẹ đều chan chứa tình yêu.

Mầu nhiệm này cũng là biến cố có liên hệ đến cuộc sống của chúng ta hôm nay. Mỗi người tín hữu vẫn cưu mang Chúa trong cuộc đời đức tin của mình. Sống ở đâu chúng ta cần biết biểu lộ tình yêu để làm chứng cho Chúa ở trong chúng ta và chúng ta là môn đệ Chúa, mọi sự bắt nguồn từ tình yêu.

Gia đình  Kitô giáo nào cũng phải là mẫu mực của sự thuận hoà, đầm ấm vì có Chúa tình yêu luôn hiện diện trong gia đình của mình. Và đàng khác nhiệm vụ khẩn trương mà mỗi Kitô hữu không thể quên là phải biết giới thiệu Thiên Chúa Tình Yêu cho biết bao người thành tâm thiện chí muốn biết Chúa.

Chúng ta đến Tàpao xin nhiều ân huệ của Mẹ, xin đừng quên điều Chúa nhăn nhủ: Hãy loan báo Tin Mừng Tình Yêu cho người nghèo khó. Xin Mẹ ban cho chúng ta ân huệ đó.

-------------------------------

 

Suy Niệm 7. Người phụ nữ diễm phúc


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A- Phân tích (Hạt giống...)

Đức Mẹ Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Phúc Âm này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:

- Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.

- Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình

- Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác

- Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.

B- Suy gẫm (... nẩy mầm)

1. Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.

Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)

2. “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.” (Lc 1,39-40)

Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới.

Con cũng biết “Tin” là “Bước đi”. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời này, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)

 -------------------------------

 

Suy Niệm 8. Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xảy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth! Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.

Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác

Sau khi đón nhận tin cưu mang Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin mừng đã trình bày. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.

Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta cũng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho người khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.

Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.

Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.

Đức Maria, mẫu gương của bác ái

“Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.

Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dặm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.

Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?

Bác sĩ Longet đáp:

- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

-------------------------------

 

Suy Niệm 9. Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ


--Lm Giuse Đinh Tất Quý

A. Thánh Luca thuật lại một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: người mẹ già và người mẹ trẻ.

- Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.

- Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả con người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.

+ Cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm tuyệt đẹp: dẹp trong ý nghĩa và đẹp trong thành quả.

Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh.

Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa

+ Chúng ta cầu xin cho cuộc viếng thăm này trờ thành mẩu mực cho các cuộc viếng thăm nhau của chúng ta.

B. Quả vậy khi nhìn vào cuộc sống xô bồ ngày nay, chúng ta thấy chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống nơi thành thị. Có khi hai người ở sát nhà nhau mà không gặp nhau suốt cả tháng trời. “Tình nghĩa láng giềng” ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, và “sống chết mặc bây”. Linh mục Azevedo nhận xét: ngay cả những tu sĩ ở cùng một cộng đoàn mà nhiều khi chỉ “sống bên cạnh nhau” chứ không phải “sống với nhau”. Câu chuyện Đức Mẹ lặn lội đường xa đến thăm và giúp đỡ bà Êlisabeth là một lời nhắc nhở những người sống cạnh nhau hãy nhớ đến nhau.

Hơn nữa khi chúng ta thăm nhau, thử hỏi chúng ta đã đem lại được gì tốt đẹp cho những người chúng ta viếng thăm hay chỉ là những chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc là ngồi lê đôi mách. Việc thăm viếng nhau như thế chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm dịp tội cho nhau và là dịp để nói xấu người khác.

 Có lẽ chúng ta cũng phải thành thực kiểm tra lại những cuộc thăm viếng của chúng ta xem: Tôi có mang Chúa đến cho người tôi thăm viếng hay không? Những điều tôi nói có phải là Tin Mừng khiến người được tôi thăm cảm thấy được bình an và hạnh phúc hơn không?

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.

Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

- Tôi đã quen sống như vậy rồi.

- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông la trả lời cộc lốc:

- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

- Dĩ nhiên.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.

Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10. Đức Maria vội vã lên đường


--Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên

George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?".

Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống".

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.

Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Isave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.

Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ. Ðó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.

(Trích trong ‘Lẽ Sống’)

-------------------------------

 

Suy Niệm 11. Cuộc viếng thăm tình yêu


--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tin mừng ngày Lễ Thăm viếng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc nhất trần gian: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Isave, mẹ Gioan Tiền Hô.

Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui, diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần tác động trên Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Isave. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15). Đó là một Lễ Ngũ Tuần đầu tiên mà bà Isave nói dưới tác động của ThánhThần. Đức Maria đã tiếp đón một cách đơn sơ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cung lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ ngoại hạng này cũng như sáng ngày Phục Sinh, bí mật nầy của Thiên Chúa được giao phó cho phụ nữ trong niềm hân hoan vui sướng chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần.

Thánh Luca thích nói rằng Thánh Thần sẽ “được đổ tràn đầy trên mọi xác thịt”, khi trích dẫn những lời của tiên tri Gioel. Bà Isave trở thành nữ tiên tri. Bà kêu lên, bằng giọng của lời tung hô phụng vụ : “Maria, em thật có phúc giữa tất cả phụ nữ và hoa trái lòng em được chúc phúc”.

Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.

Đức Maria đã đi thăm người chị họ Isave. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.

Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang và giữa hai giao ước cũ và mới.

- Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ơ lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Isave được ơn Thánh Thần  đã xưng tụng Đức Maria  là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

- Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì con trẻ Gioan trong lòng mẹ Isave nhảy mừng vui sướng.

- Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

Cuộc viếng thăm của Đức Maria là cuộc viếng thăm của tình yêu.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”. Ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

Khi đến thăm bà Isave, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Isave vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Isave, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Isave là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Isave  đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con yêu dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Có đôi bạn trẻ yêu nhau đã nhiều năm nhưng hai gia đình không chấp nhận vì vấn đề tôn giáo. Cô gái là con của gia đình đạo đức. Chàng trai là con gia đình theo đạo ông bà. Nhà gái muốn con rễ theo đạo mới gã con gái. Nhà trai không chấp nhận vì họ quan niệm, con trai theo đạo là bỏ tổ tiên ông bà. Khi đến thăm gia đình chàng trai, qua vài câu chuyện mở đầu, tôi thắp mấy nén nhang trước bàn thờ tổ tiên với lòng thành kính. Hai ông bà quá đổi nhạc nhiên: Cha xứ Nhà thờ mà thắp nhang trước bàn thờ ông bà mình ư? Tôi giải thích cho họ về đạo hiếu về việc thắp nhang của người kitô hữu. Họ nhận ra là lâu nay họ hiểu lầm về đạo Công giáo nên không cho con theo đạo. Hai ông bà vui mừng và sẵn sàng cho con trai gia nhập đạo. Hạnh phúc đến với đôi bạn trẻ ấy. Niềm vui bừng lên khi mọi khúc mắc được giải toả.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẽ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

Đức Maria viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Isave. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương  cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẽ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ  những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12. Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Nói và viết về Mẹ còn gì hạnh phúc bằng? Ngôn từ của thế gian vẫn chỉ có giới hạn không thể diễn tả nổi những điều con người muốn nói về Mẹ, đặc biệt người Mẹ ấy lại cao trọng hoàn toàn hơn bất cứ người Mẹ nào ở trần gian. Mẹ có tên là Maria, người nữ tỳ của Thiên Chúa. Tên Maria bao hàm tất cả những gì đẹp nhất, cao quý nhất mà từ ngữ của con người xem ra không đủ để diễn tả toàn vẹn  về Mẹ.

“Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét” (Lc 1, 39-40). Nói lời xin vâng cùng Thiên Chúa, Mẹ Ma-ri-a đã rất tế nhị, vội vàng lên đường, vượt đồi, qua núi, đến xứ Giu-đê-a, để chia vui với bà chị họ của Mẹ là bà Ê-li-sa-bét cũng đang mang thai con trong lúc tuổi già.Cái thai đã được 6 tháng: “…Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 36-38). Mẹ Maria lòng hân hoan, dạ đơn thành, đã quên hết sự mệt nhọc vì đường xa, khó khăn để tới với bà chị họ yêu quí, để chia sẻ hồng ân vô biên Thiên Chúa đã ban cho Mẹ và bà Ê-li-sa-bét: “Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 40-45).

Mẹ được ân phúc như lời chào của bà Ê-li-sa-bét không chỉ có nghĩa là Mẹ làm Mẹ của Chúa Giêsu về mặt thể lý, nhưng qua cung lòng trinh khiết, không vương tì ố, Mẹ trở nên đền thờ Thiên Chúa, Mẹ thông ban Thần khí là chính Thần khí của Chúa Giêsu. Ma-ri-a trước khi cất cao lời ca ngợi hồng ân vô biên của Thiên Chúa đã đoái thương Mẹ và bà chị họ Ê-li-sa-bét, Chúa Thánh Thần đã tỏ lộ cho bà Ê-li-sa-bét hiểu rõ rằng người phụ nữ đang ở trước mặt mình không chỉ là người em họ của mình nhưng đó chính là Mẹ của Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43). Phần Mẹ Ma-ri-a, Mẹ cũng nhận ra rằng đứa con đang trong lòng dạ của bà chị họ Ê-li-sa-bét, không phải là một đứa con bình thường, nhưng là một quà tặng quí giá, vị tiền hô Thiên Chúa ban tặng để Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Điều này đã xẩy ra sau đó 30 năm bên bờ sông Giođan, khi Gioan chỉ cho nhân lọai thấy Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Mẹ cất tiếng ca tạ ơn Thiên Chúa qua kinh “Magnificat “. Đây mãi mãi nói lên tâm tình sâu kín của tâm hồn cầu nguyện của Mẹ. Mẹ đã ca ngơi hồng ân của Thiên Chúa. Một hồng ân vô giá của Thiên Chúa trao ban nhưng không cho Mẹ và cho nhân lọai. Tất cả đều là ân sủng. Thiên Chúa đi tìm những gì nghèo hèn và yếu kém để nâng dậy và bù đắp. Mãi mãi Mẹ và nhân lọai ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì ơn cứu độ chứa chan nơi Chúa Giêsu.

Cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng của Mẹ Ma-ri-a và bà chị họ Ê-li-sa-bét có tính cách hết sức lịch sử trong cuộc hành trình đức tin để nhận lãnh ơn cứu độ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cung lòng khiết trinh của Mẹ đã thúc đẩy Mẹ đem niềm vui tới cho bà chị họ và nhân lọai qua thánh Gioan Tiền Hô đang được bà Ê-li-sa-bét cưu mang. Đây là sự chia sẻ, sự quan hệ giữa người với người. Đi thăm viếng là ra khỏi nhà mình, nhưng ý nghĩa quan trọng là ra khỏi chính bản thân của mình, quên mình, quảng đại chia sẻ tình thương và đến với con người. Đây cũng là ý lực giúp chúng ta ra khỏi cái vỏ an toàn, sự ích kỷ, để co cụm lại trong con người của mình, để vượt qua mọi trở ngại, mọi thử thách, đến với mọi người để cảm thông, phục vụ, hy sinh loan báo Tin Vui, giới thiệu Đức Kitô cho nhân lọai, cho con người. Và như thế, cuộc gặp gỡ của Mẹ và bà Ê-li-sa-bét mang ý nghĩa thật cao cả, tuyệt vời.

Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ đã mau mắn ra khỏi nhà, ra khỏi chính mình để quảng đại đến và ở lại phục vụ bà chị họ Ê-li-sa-bét, để cùng với bà chị họ, ca ngợi, tạ ơn hồng ân tuyệt vời Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, cũng như cho bà chị họ. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 13. Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth


--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nghe các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ kính Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth hôm nay, chúng ta như nghe được tiếng reo vui và những nụ cười hân hoan mừng rỡ, niềm hân hoan và tiếng reo mừng này là tiếng reo mừng của Dân Chúa sau hàng ngàn năm mong đợi lời Chúa hứa nay đã được thực hiện.

Trước hết là niềm hân hoan sung sướng của hai bà mẹ: Bà Maria và Bà Elizabeth, Tin mừng cho thấy: Trong những ngày ấy, Maria vội vã lên đường ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giudea và vào nhà ông Zacaria – Elizabeth. Cụm từ trong những ngày ấy, nói lên sư sốt sắng hân hoan của mẹ ngay sau biến cố truyền tin thưa tiếng xin vâng, biến cố ấy đem lại cho mẹ niềm hân hoan hạnh phúc vì mẹ biết rằng đã đến thời Thiên Chúa viếng thăn Dân Người, và lời của các tổ phụ, các ngôn sứ nay đang được thực hiện nơi cung lòng của mẹ, vì mẹ vừa cảm nhận một mầm sống mới nảy sinh trong lòng mẹ chính là Con Thiên Chúa. Niềm vui ngâp tràn trong lòng mẹ, đây không chỉ là niềm vui riêng của mẹ, mà còn là niềm vui của cả dân tộc và của cả nhân loại, vui vì Đấng Cứu Độ đã đến, Mẹ vui mừng hân hoan vì Thiên Chúa không còn ở xa, nay Ngài đã đến và ở trong tâm hồn Mẹ, Mẹ vui vì mẹ có Chúa trong tâm hồn.

Một khi có Chúa trong tâm hồn, thì người ta không thể ngồi im và giữ riêng cho mình, cũng vậy, khi có Chúa, Mẹ Maria đã muốn đem Chúa đến cho người khác, qua thái độ vội vã của mẹ, chúng ta nhận ra điều đó. Đồng thời, với một tâm hồn nhạy bén, Mẹ biết rằng người chị em của mình cũng đang tràn ngập niềm vui mừng vì: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho bà, cho bà Elizabet được mang thai khi tuổi đã cao. Chính vì thế, niềm vui của cả hai người phụ nữ như đã đan quyện vào nhau ngay khi họ vừa gặp nhau, vừa cất lời chào nhau, Bà Elizabet cũng đã được Thánh Thần soi sáng và nhận ra ân lộc đầy tràn mà Chúa ban cho cô em gái mình là Maria, bà đã cất lời ca tụng mẹ: Em thật có phúc hơn mọi người nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc, còn Mẹ Maria thì cất lên lời ngợi khen: Linh Hồn tôi ngợi khen Đức Chúa.

Cũng nhờ Ơn Thánh Thần soi sáng, mà lần đầu tiên, Bà Elizabét đã gọi em của mình là Mẹ Thiên Chúa: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Đây là một chức vị vô cùng cao trọng mà Chúa ban cho Đức Maria, nay được bà Elizabet xưng tụng. Bà Elizabet cũng cho thấy niềm vui sướng ấy còn lan tỏa đến Gioan, lúc đó còn đang là một thai nhi ở trong lòng bà cũng đã nhảy lên vì vui sướng. Theo các thánh giáo phụ, thì cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ, song cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con và là cuộc gặp gỡ giữa Thiên chúa và Dân Người, cuộc gặp gỡ đem lại ơn cứu độ. Cùng với lời xưng tụng Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, Bà Elizabeth còn ca tụng mẹ Maria: Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện. Tất cả những lời ca tụng của bà Elizabeth dành cho Mẹ cũng là lời tuyên xung ca tụng của toàn thể giáo Hội và nhân loại tôn vinh mẹ.

Lời reo vui của hai người phụ nữ này đã được tiên tri Sophonia tiên báo: Reo vui lên hởi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi vì Đức Chúa đã rút lại án phạt, đã đẩy lui quân thù, Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa. Vị Tiên tri đã nhìn thấy trước ngày này, ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa, ngày Ngài viêng thăm để đem ơn cưu độ cho dân Người đem lại an vui và hạnh phúc cho xứ sở.

Cùng những lời ca ngợi và tâm tình dạt dào niềm vui của Elizabeth, Đức Maria đã diễn tả niềm vui sâu thẳm của Mẹ qua lời kinh Ngợi khen. Mẹ nhìn nhận tất cả những những sự lạ lùng đang diễn ra trong cuộc đời Mẹ là bởi quyền năng Thiên Chúa và tình thương của Ngài đang bao phủ cuộc đời Mẹ: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi. Mặc dù được bà Elizabet goi mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức Maria chỉ dám khiêm nhường nhận mình là thân phận nữ tỳ hèn mọn, không dám mơ tưởng ước muốn điều gì, tất cả những gì đang xảy ra là vì Chúa đã ghé mắt đến Mẹ, Mẹ ý thức rất rõ rằng, chính vì được Chúa nhìn tới, được Chúa yêu thương nên Mẹ trở nên đáng yêu trước mặt Chúa, và được mọi người khen ngợi.

Mừng lể Đức Maria đi thăm bà elizabeth hôm nay, chúng ta được mời gọi nhìn vào tấm gương của Mẹ, Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc đem Chúa đến cho tha nhân, một khi đã gặp Chúa, một khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng được mời gọi, hay nói đúng hơn được thúc đẩy để ra đi, để lên đường trở thành người đem Chúa đem niềm vui đến cho người khác. Chúng ta được mời gọi sống làm sao để mọi người gặp gỡ tiếp xúc với chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang ở trong tâm hồn chúng ta, trở thành người đem niềm vui và hạnh phúc đến cho người khác. Chúng ta sẽ không thể đem niềm vui đến cho người khác khi chúng ta không thực sự vui, cũng vậy chúng ta không để đem hạnh phúc và bình an đến cho người khác khi tâm hồn và cuộc sống chúng ta không hạnh phúc không bình an.

Để có sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn, thì điều cần thiết trước tiên đó phải là một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn ngay thẳng trong lời nói và hành động; kế đến, đó phải là một tâm hồn có Chúa: Chúa chỉ cư ngụ trong tâm hồn của những người khiêm nhường thực sự, dám mở rộng cánh cửa tâm hồn để cho Chúa đi vào, dám nuôi dưỡng để cho Ngài lớn lên trong tâm hồn của mình. Chúa đang chờ đợi để được bước vào tâm hồn mỗi người, qua việc rước lễ mỗi ngày, qua việc lắng nghe và gẫm suy Lời Chúa, Chúa sẽ đến ở với chúng ta và biến cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta ngập tràn niềm vui hạnh phúc và bình an, và thúc đẩy chúng ta đem niềm vui và bình an đến cho anh chị em mình.

Ngày nay do bận rộn với công việc, hầu như con người đánh mất thói quen thăm viếng nhau, giúp đỡ nhau, mừng lễ Mẹ đi thăm viếng bà Elizabet, là dịp để chúng ta nhìn lại các mối tương quan họ hàng bạn bè, để biết dành cho nhau những phút giây thân tình, hãy đến với nhau bằng sự chân thành và quảng đại, hãy dành cho nhau những tình cảm thân thiện, để góp phần làm cho bầu khí gia đình, lối xóm, xứ đạo mỗi ngày thêm ấm cúng thân tình hơn.

Xin Đức Mẹ giúp chúng ta cũng có được cái nhìn nhạy bén của trái tim, nhận ra những nhu cầu của anh chị em, và quảng đại giúp đỡ chia sẻ. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 14. Thăm viếng yêu thương phục vụ


--Lm. Anmai, C.Ss.R

Thăm viếng! Một nhu cầu hết sức tự nhiên, hết sức bình thường của con người và chuyện bình thường như thế thì có gì đâu để mà nhớ, để mà mừng. Mỗi một cuộc thăm viếng mang ý nghĩa, mang niềm vui, mang ý nghĩa khác nhau nhưng cuộc thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria hết sức đặc biệt để rồi ngày hôm nay Giáo Hội mừng kính cuộc thăm viếng của Mẹ. Cuộc thăm viếng của Mẹ được trọn vẹn niềm vui bởi vì Mẹ đã lên đường một cách vô vị lợi và Mẹ đã mang Chúa đến cho người khác.

Thánh Sử Luca ghi lại rất ngắn gọn: “Khi ấy, bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1, 39). Đơn giản thế thôi: đi đến miền núi. Ngày hôm nay đi lên miền núi cũng là một điều khó khăn huống hồ gì thời của Đức Mẹ. Nếu như tính toán về phương tiện đi lại, điều kiện vật chất thì chẳng ai dại gì mà đi đến cái vùng núi xa xôi hẻo lánh như vậy. Vượt trên cách trở của địa lý và vượt trên sự tính toán thường tình của con người, Mẹ Maria đã ra đi và ra đi một cách “vội vã”. Thánh Sử thêm chữ “vội vã” như muốn nói về lòng hăng say, nhiệt tình của Mẹ dù là lên núi khó khăn cách trở. Nếu lên núi với cái bộ mặt ũ rũ, với cái thái độ lề mề chậm chạp chắc có lẽ là chán lắm, đàng này Đức Mẹ đã “vội vã”!

Một cách diễn tả đơn sơ, vài ba hàng ngắn gọn, chúng ta nhận ra Đức Maria đã đi thăm bà chị họ mình với một tâm tình hết sức là dễ thương, nhiệt tình, chịu thương, chịu khó …

Đặc biệt hơn các cuộc thăm viếng khác ở chỗ là vừa vào nhà, bà Êlisabét nghe tiếng Bà Maria chào thì bỗng dưng đứa con trong bụng nhảy lên. Không chỉ đứa con trong bụng nhảy lên mà mẹ nó được “đầy Thánh Thần”. Đến đây thì quá rõ, chẳng còn gì phải bàn cãi nữa, cuộc thăm viếng của Đức Mẹ quả thật là hết sức đặc biệt và đầy ý nghĩa.

Cuộc thăm viếng của Mẹ vốn đã có ý nghĩa nhưng với xã hội ngày hôm nay, ý nghĩa ấy lại càng được nhân lên gấp bội vì lẽ ngày hôm nay, người ta tính toán với nhau nhiều quá, người ta đã khép lòng lại với anh chị em đồng loại nhiều quá! Và có đi thăm đi chăng nữa cũng chỉ với cái hình thức của con người, của cuộc đời là “có qua có lại mới toại lòng nhau” chứ không còn mang ý nghĩa vô vị lợi như Mẹ nữa. Hơn nữa, khi Mẹ thăm viếng, Mẹ đã không chỉ tung hô Chúa, giới thiệu Chúa mà còn mang Chúa lại cho người khác. Và trong cuộc đời, nếu nhìn kỹ một chút, nếu chìm lắng một chút: có Chúa là có tất cả.

Và thử dừng lại một chút để nhìn lại cuộc đời của Mẹ. Đâu phải bỗng dưng hay vô tình mà Mẹ có Chúa và Mẹ mang Chúa cho người khác. Nếu như Mẹ không có Chúa thì làm gì Mẹ có thể mang Chúa cho người khác, Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa trong đời Mẹ cho người khác được.

Điểm này trong cuộc thăm viếng của Mẹ hết sức quan trọng: muốn mang Chúa, muốn giới thiệu Chúa cho người khác thì trong mình, trước tiên phải có Chúa. Và muốn có Chúa như Mẹ, cần và cần lắm đời sống chiêm niệm, đời sống đơn sơ hoàn toàn tín thác cho Chúa.

Nếu như Đức Maria ồn ào náo động như nhiều người Do Thái cùng thời với Mẹ thì làm sao mà Mẹ có Chúa được? Nếu như Đức Maria trông chờ vào Đấng Mêsia như nhiều người Do Thái thời ấy trông chờ thì làm sao mà Mẹ cưu mang Đấng Cứu Độ trần gian thật được? Và nếu như Đức Maria là người sống bề ngoài, sống cái bề nổi của cuộc đời thì làm sao mà Mẹ khiêm tốn sống trong sự quan phòng của Chúa được.

Nơi Mẹ Maria, có một dấu ấn hết sức đặc biệt đó là Mẹ hết sức quảng đại. Chúng ta, ngày hôm nay, nhiều khi cứ vun vén cho bản thân mình với lối sống đậm chất của ích kỷ, của vun vén nên hình ảnh quảng đại của Mẹ ngày hôm nay cũng là một bài học hết sức to lớn của mỗi người chúng ta. Khi Mẹ cho đi niềm vui thì niềm vui của Mẹ không chỉ nhân hai, nhân bốn mà nhân đến vô cùng.

Thế nên, cuộc thăm viếng của Mẹ hôm nay không chỉ mang niềm vui cho gia đình Êlisabét mà còn mang lại niềm vui cho những ai tự xưng mình là con của Chúa, là con của Mẹ.

Nếu là con của Mẹ thật thì mỗi một cuộc thăm viếng của ta cũng phải giống như Mẹ, nghĩa là cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn vô vị lợi và cuộc thăm viếng ấy mang Chúa cho người khác. Có quá đáng chăng khi nói rằng thăm viếng vô vị lợi và có Chúa thì cuộc thăm viếng ấy mới có ý nghĩa và mang niềm vui trọn vẹn. Nếu thăm viếng mà ẩn ý dưới một nguồn lợi nào đó hay là cuộc thăm viếng ấy mình chỉ đi tìm mình thì cũng vui lắm nhưng nó chưa tròn vẹn và chưa mang ý nghĩa cao đẹp như Mẹ.

Thi thoảng có dịp nhìn lại cuộc thăm viếng của Mẹ để ta soi chiếu những cuộc thăm viếng của ta. Xin Mẹ nâng những cuộc thăm viếng của chúng ta thêm tầm cao lên một chút, thêm ý nghĩa lên một chút. Xin Mẹ soi sáng, giúp đỡ chúng ta có những cuộc thăm viếng tròn vẹn ý nghĩa như cuộc thăm viếng của Mẹ với gia đình Êlisabét xưa vậy.

-------------------------------

 

Suy Niệm 15. Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth


Thánh Luca chỉ tường thuật biến cố xảy ra bên ngoài thôi, nhưng ta cần phải chiêm ngắm đức bác ái của thiếu nữ Maria 16 tuổi đã hăng hái lên đường đến chào mừng và giúp đỡ bà chị già 60 tuổi mới được làm mẹ. Suốt dọc đường ba ngày trên lưng lừa từ Nadaret đến Aim-Karen, Maria con người giản dị duyên dáng cất tiếng hát bài ca Manhiphicat (Magnificat) của bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuel, làm bài ca của mình, qua tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa đã để lại một mầu nhiệm nói lên hành động của Thiên Chúa gắn liền với đức tin của chúng ta, dẫn chúng ta vào ơn cứu độ. Cần thiết chúng ta phải đặt mình vào địa vị của bà Êlisabét để Đức Maria đến thăm hỏi chúng ta. Điều đó khó khăn lắm không? Ngài tốt đến độ đến thăm ai chẳng sợ lặp lại câu: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội!”

Nơi nhiều người chỉ thấy thoáng qua, thấy rung động chút ít trước sự kiện siêu nhiên; không được thường xuyên trong sáng; đôi khi bác ái, thương cảm. Nhưng chưa đủ. Một tâm hồn chân thành với mình và với người khác phải được mở ra trước ơn Thiên Chúa, ta thấy rõ điều đó nơi Thánh Phaolô. Khi còn là kẻ bách hại, ông đã hoạt động chân thành đến điên cuồng. Khi trở lại, ông càng thầm tín mạnh mẽ hơn nữa để hoạt động cho Chúa và cho dân được tuyển chọn, ông đã dương cao chính nghĩa của người Nadaret. Trước một tâm hồn chân thành, dù là thứ chân thành xấu, Thiên Chúa không thể từ bỏ. Thiên Chúa bắt đầu cảm hóa họ. Đức Maria cũng tham gia can thiệp. Mẹ đến đóng ấn trên những công trình Thiên Chúa và giúp những công trinh đó phát triển. Điều đó rất cần... Chúng ta cần suy nghĩ để thấy rằng tất cả chúng ta một phần nào giống như bà già Êlisabét, đầy thiện chí, đầy ham muốn tốt, nhưng lại cằn cõi và lo sợ...

Ước chi Đức Maria đến can thiệp cho, ước chi cuộc thăm viếng của Mẹ tăng cường cho những cố gắng của chúng ta, biết chạy đến xin mẹ cứu giúp! Người ta nói Mẹ là tình yêu tuyệt diệu. Con tim con sẽ luôn luôn kêu khấn Maria như mẹ của mọi thiện chí...

Vậy chúng ta với tất cả niềm tin mời Mẹ đến vì hy vọng rằng Mẹ làm cho đời sống đức tin của chúng ta sinh hoa trái. Chúng ta tuyên xưng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, không phải là một Thiên Chúa xa xôi, bắt chúng ta mang gánh nặng giơí răn, nhưng là Thiên Chúa rất nhỏ bé đang chờ đợi giúp làm cho đức thành tín lớn lên trong chúng ta. Đức Maria cũng mang đến cho chúng ta một kho tàng là nhận biết Đức Giê-su là Chúa. Mong chúng ta mở lòng ra đón nhận và đừng bao giờ từ chối cuộc thăm viếng của Mẹ Maria. Đừng bao giờ!.

L.P

 -------------------------------

 

Suy Niệm 16. Đức Maria thăm viếng.


Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này - nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.

Phục vụ vui tươi.

Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong Ca Nhập Lễ hôm nay.

Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành xứ Giuđêa”. Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế, và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà Elizabeth.

Chúng ta đồng hành với Đức Maria trong lời cầu nguyện, và thân thưa với Mẹ bằng những lời trong bài đọc Một hôm nay: Reo vui lên! Nữ Tử Sion! Hãy hò la, hỡi Israel! Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Jerusalem!… Có ở giữa ngươi, Giavê Thiên Chúa của ngươi. Anh hùng vạn thắng! Vì ngươi, Người hân hoan vui sướng. Với ngươi, Người làm mới lại Tình Yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui.

Thật dễ dàng tưởng tượng ra niềm vui chan chứa và những ước vọng vĩ đại nơi tâm hồn Đức Maria. Thiên thần đã cho Mẹ biết, Này đây chị họ bà là Elizabeth đã cao niên và đã có thai. Đó là cuộc mang thai kỳ diệu và liên quan đến biến cố Đấng Cứu Thế sẽ đến. Sau lộ trình dài, Đức Maria đã đến nhà ông Giacaria và chào bà chị họ. Và khi bà Elizabeth vừa nghe lời chào của Đức Maria, hài nhi liền nhảy mừng; và Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Cả gia đình được biến đổi vì sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời chào của Mẹ thật hiệu quả: làm cho bà Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua lời tiên tri trên môi miệng của Mẹ, Mẹ đã làm tuôn trào một dòng ân thánh cho người chị họ như từ một nguồn suối… Thực vậy, nơi đâu Đấng ‘Đầy Ơn Phúc’ đặt chân đến, mọi sự đều được chan chứa niềm hân hoan.6 Ảnh hưởng tuyệt vời này Chúa Giêsu đã thực hiện qua Đức Maria, Đấng ngay từ đầu đã liên kết với công trình cứu độ và niềm vui được Chúa Kitô đem đến cho trần thế.

Ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng hôm nay cho chúng ta nhìn thấy một khía cạnh trong đời sống nội tâm của Đức Maria, đó là tinh thần khiêm nhượng phục vụ và tình yêu vô vị kỷ dành cho những ai cần đến sự trợ giúp của Mẹ. Biến cố trong mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui của chuỗi Mân Côi mời gọi chúng ta hãy hiến thân mau mắn, vui tươi, và chân thành cho người chung quanh. Nhiều khi sự phục vụ tốt nhất chúng ta có thể thực hiện là chia sẻ với họ niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi chúng ta sống thân mật với Chúa, qua việc trung thành giữ trọn những giờ cầu nguyện trong ngày sống. Việc kết hợp với Thiên Chúa và thực hành các nhân đức siêu nhiên luôn luôn kéo theo niềm hứng thú thực hành các nhân đức nhân bản: Đức Maria đem niềm vui đến cho gia đình bà chị họ, bởi vì Mẹ ‘mang’ Chúa Kitô.8 Chúng ta ‘mang’ Chúa Kitô trong lòng, và với Người là niềm vui chứa chan, đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, dù khi làm việc, hoặc khi viếng thăm bè bạn hoặc những ai đang yếu đau hay không? Sự hiện diện của chúng ta có làm cho người khác vui tươi hay không?

Tìm Chúa Giêsu qua Mẹ Maria.

Khi Đức Maria đến, bà Elizabeth được tràn đầy Thánh Thần và đã reo lên: Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và Con trong lòng em đang cưu mang cũng đầy phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe lời em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.

Bà Elizabeth không những chúc tụng mà còn giải thích vì sao Đức Maria lại là người diễm phúc: đó là vì Hoa Trái trong lòng Mẹ, Người Con của Mẹ muôn đời được chúc phúc. Thử nghĩ về những lần chúng ta lặp lại lời ấy khi lần chuỗi: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ! Chúng ta có đọc những lời ấy vui tươi như bà Elizabeth hay không? Những lời ấy như một soi động liên kết chúng ta với Mẹ trên trời, khi chúng ta làm việc, đi lại, hoặc nhìn lên ảnh tượng Mẹ.

Đức Maria và Chúa Giêsu luôn luôn cận kề bên nhau. Những việc kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã thực hiện, ngày xưa cũng như hiện nay, luôn luôn trong sự hợp nhất thân mật với Mẹ Người, Đấng Trung Gian Mọi Ơn. Công đồng Vatican II đã nói, Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô tử nạn.

Hôm nay, một lần nữa chúng ta lại ý thức rằng mỗi lần gặp Mẹ Maria là chúng ta lại hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nếu tìm kiếm Mẹ Maria, bạn sẽ gặp được Chúa Giêsu. Và bạn sẽ biết hơn về những gì trong trái tim của một Thiên Chúa tự hạ, Đấng đã sẵn sàng cho chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày. Tặng ân lớn lao nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại - để chúng ta được hiểu biết và yêu mến Người - đã khởi đầu từ đức tin của Mẹ Maria, và hôm nay điều ấy đã được bà Elizabeth minh chứng. Sự tràn đầy ân sủng mà sứ thần loan báo là Quà-Tặng-chính-Thiên-Chúa. Đức tin của Mẹ Maria, được bà Elizabeth chúc tụng trong ngày Thăm Viếng, đã nói lên Đức Trinh Nữ Nazareth đã đáp lại ân huệ này như thế nào. Đức Trinh Nữ Maria, người thưa lời fiat trọn vẹn và vô điều kiện, đã xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà ông Giacaria với tư cách Mẹ Thiên Chúa. Đây là khám phá của bà Elizabeth, cũng là của chúng ta; và đó là điều chúng ta cảm thấy luôn luôn lạ lùng.

Bài ca Magnificat.

Đặc trưng của mầu nhiệm Mân Côi này là bầu khí mừng vui lan tỏa: mầu nhiệm Thăm Viếng là mầu nhiệm của niềm vui. Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng mẹ; bà Elizabeth, mừng vì được làm mẹ, đã cất lời chúc tụng Thiên Chúa; và trước những lời ca ngợi của bà chị họ, Đức Maria đã nâng tâm hồn lên Thiên Chúa trong bài ca Magnificat, một bài ca chan chứa niềm vui ơn cứu độ. Mái nhà ông Giacaria và bà Elizabeth toát lên tinh thần Cựu Ước với vẻ thánh thiện, trong khi Đức Maria mang trong lòng mình Mầu Nhiệm khởi đầu Tân Ước. Magnificat là bài ca của thời đại Đấng Cứu Thế, gồm chứa cả niềm phấn khởi của Israel xưa và nay… Lời kinh Magnificat của Đức Maria thực sự đã trở thành lời nguyện của Giáo Hội qua mọi thời gian.

Đây là bối cảnh giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa đầy đủ về điều kín nhiệm Mẹ Maria đang ấp ủ trong tâm hồn. Mầu nhiệm lớn lao được sứ thần tỏ cho Mẹ đã được thể hiện qua bài ca Magnificat. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và tâm trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi. Những lời ấy tràn đầy sự cao quí và nói lên sự kết hợp mật thiết với Đấng Cứu Độ, đó là tấm gương phản chiếu linh hồn Đức Maria.

Cùng với bài ca hân hoan và khiêm nhượng này, Đức Trinh Nữ Maria còn để lại cho chúng ta một lời tiên tri. Mẹ nói, Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu ‘Mẹ Thiên Chúa,’ và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Nhất là từ khi công đồng Êphêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Mẹ đã tiên báo: ‘Muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.’

Trong cuộc đời mình, Đức Maria không nổi bật về những việc kỳ vĩ: Phúc Âm không đề cập đến bất cứ một phép lạ nào Mẹ đã thực hiện khi còn tại thế, và chỉ ghi lại vắn tắt về những lời Mẹ đã nói ra. Đời sống bên ngoài của Mẹ giống như mọi bà mẹ khác trong các gia đình. Tuy nhiên, lời tiên tri phi thường của Mẹ đã được ứng nghiệm từng chữ. Ai có thể kể được tất cả những lời ca tụng, những lời kêu cầu Mẹ, những đền thánh, những bia tạ ơn, những việc sùng kính đối với Mẹ? Suốt hai mươi thế kỷ, Mẹ đã được mọi người xưng tụng ‘diễm phúc’: các nhà trí thức, những người mù chữ, các bậc vua chúa, những quân nhân, các nhà kinh doanh, nam và nữ, trẻ em và người cao niên… Chúng ta cũng đang làm ứng nghiệm lời tiên tri của Mẹ ngay lúc này, khi từ thâm tâm, chúng ta thưa cùng Mẹ: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.

Chúng ta đã kêu cầu Mẹ một cách đặc biệt trong tháng Năm, nhưng tháng Năm không thể chấm dứt. Nó phải tiếp tục mãi trong cuộc đời chúng ta. Lòng sùng kính và yêu mến của chúng ta đối với Mẹ không thể nhạt nhòa nơi tâm hồn chúng ta. Đúng hơn, nó phải tăng tiến và biểu hiện qua đời sống chứng nhân, theo gương Mẹ Maria, ‘tên của một loài hoa tuyệt đẹp mà tôi vẫn reo lên mỗi sáng và mỗi chiều tối’ – như thi sĩ Dante đã nói lên (Paradiso, 23, 88). Khi tìm ra Mẹ Maria, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu.

Magnificat anima mea Dominum! – Linh hồn tôi ngợi khen Chúa – tâm hồn Mẹ đã tôn vinh Thiên Chúa khi cưu mang Người trong lòng, và bước đi với Người.

Ôi lạy Mẹ! Ước chi chúng con cũng được như Mẹ: vui mừng trong Chúa và chiếm hữu được Người.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 17. Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth


I. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ

Từ thế kỷ VI, bên Giáo hội Đông phương, thánh truyện Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth theo Thánh sử Luca (1:39-56) được đọc ngày thứ Sáu sau Chúa nhật III mùa Vọng nhưng chưa phải là lễ, đến sau thì mừng lễ vào ngày 2 tháng 7.

Bên Tây phương, năm 1263, Dòng Phanxicô khởi xướng mừng lễ này. Năm 1386, Công đồng Prague nước Áo công nhận lễ này do mỹ ý của Đức Cha Gioan Jenstein, Tổng Giám mục thành Prague mừng lễ vào ngày 28 tháng 4 với hai lý do:

1. Xin ơn hiệp nhất Giáo hội trong thời kỳ có sự tranh chấp giữa Giáo hoàng giả Clementê III tại Avignon (Pháp) với Đức Urbanô VI tại Rôma.

2. Mừng lễ này ngoài mùa Chay, và trong mùa Phục sinh sau lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3.

Năm 1389, Đức Urbanô VI chuẩn bị thành lập lễ này trong khắp Giáo hội để công bố Năm Thánh 1390. Nhưng chưa kịp thi hành thi ngài băng hà ngay năm đó. Đức Bônifaciô IX lên nối quyền liền thi hành quyết định của vị tiền nhiệm, năm 1401 ngài thành lập lễ này vào ngày mùng 2 tháng 7 hàng năm trong khắp Giáo hội. Năm 1441, Công đồng Basel (Thụy Sĩ) xác nhận lễ này. Đức Sixtô IV soạn kinh Nhật tụng đặc biệt. Đức Thánh Piô V đưa lễ này vào sách kinh Phụng vụ. Năm 1608 Đức Clêmentê VIII đặt kinh Phụng vụ và lễ như ngày nay. Năm 1969, Đức Phaolô VI đổi sang ngày 31 tháng 5 sau ngày lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3, và trước lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả ngày 24 tháng 6.

II. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ

Lễ Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth liên quan tới lễ Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai Chúa Giêsu, vì sau khi chịu thai Chúa, Đức Mẹ từ Nazareth miền Bắc, hối hả đi thăm viếng Thánh Elizabeth ở Ain Karim, một thành nhỏ bé miền Nam, cách Giêrusalem chừng 5 miles về phía tây. Trong biến cố này có ba nhân vật tỏ ra thái độ rõ rệt:

1. Thánh Elizabeth được ơn Thánh Linh soi sáng nhận biết chức phẩm cao sang của Đức Mẹ, đã khiêm hạ nói: "Bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa tôi đến với tôi?" (Lc 1:43).

2. Thánh Gioan Tẩy giả còn là thai nhi cũng nhận biết Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ nên đã nhảy mừng (Lc 1:44).

3. Đức Mẹ nhận thấy Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ đã sớm làm những việc lạ lùng và, Mẹ được đặc ân cao cả nên Mẹ đã khiêm hạ cất tiếng cao rao chúc tụng Chúa (Lc 1:46-55). Chỉ có Chúa Giêsu âm thầm trong cung lòng Đức Mẹ, không tỏ ra dấu hiệu nào. Coi như Chúa thụ động nhưng lại rất chủ động trong biến cố Thăm viếng này. Chúa thường giấu ẩn uy quyền của Người để tỏ cho chúng ta biết quyền lực của Người vô hình, chuyển động mọi sự, điều khiển mọi sự cách kín đáo. Thế nhưng ảnh hưởng quyền lực của Người rất sống động và sâu rộng. Người làm cho thai nhi Gioan được khỏi tội Nguyên tổ trong lòng Thánh Elizabeth. Đó là phép lạ đầu tiên trong ơn thánh mà Chúa âm thầm làm ngay khi còn trong cung lòng Mẹ Maria.

Một trong những mầu nhiệm cao siêu của Kitô giáo là việc hợp nhất Chúa làm trong chúng ta và cách bí nhiệm Người thăm viếng chúng ta:

a) Bề trong do Chúa Thánh Linh và ơn thánh của Người;

b) Bề ngoài do các Nhiệm tích, nhất là Nhiệm tích Thánh Thể. Chúng ta hãy niềm nở mật thiết tiếp rước Chúa mỗi khi Người thăm viếng linh hồn chúng ta, nhất là khi chúng ta rước lễ.

III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Bài đọc I: Sôphônia 3:14-18.

Dưới thời vua Josia (640-609), nước Giuđêa lâm cảnh hỗn loạn về tôn giáo và xã hội, nhưng tiên tri loan báo án phạt sẽ chấm dứt và Giuđêa sẽ được hưởng cảnh thanh bình: "Hãy vui lên! Hãy hoan hỉ trong lòng, hỡi nữ tử Sion, vì vua ngươi ở giữa ngươi. Người là anh hùng vạn thắng. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui".

Sự vui mừng ngày Đức Mẹ viếng thăm bà Elizabeth cũng như sự vui mừng cảnh thanh bình nước Giuđa thời tiên tri Sôphônia (Zephania), vì Mẹ Maria cưu mang thai nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ như Hòm bia Tân ước có Thiên Chúa ở giữa dân Người. Thai nhi Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth (Lc 1:41) như vua David nhảy mừng trước hòm bia (2 Sm 6:12). Bà Elizabeth ca tụng Mẹ Maria (Lc 1:41) như vua David ca tụng Obed-Edom (2 Sm 6:12). Mẹ Maria ở lại nhà bà Elizabeth ba tháng (Lc 1:56) như hòm bia lưu lại ba tháng tại nhà Obed-Edom (2 Sm 6:11).

Bài đọc II: Rôma 12:9-16.

"Hãy yêu mến nhau tha thiết. Hãy làm tôi Chúa với lòng nhiệt thành và tâm thần sốt sắng. Hãy chia sẻ cho người túng thiếu. Hãy ân cần cho khách đỗ nhà. Hãy vui với người vui". Đó là những nét đặc sắc của tình bác ái nổi bật trong truyện Đức Mẹ thăm viếng, và là những đặc tính tươi đẹp của các môn đệ của Chúa Kitô.

Phúc âm: Luca 1:39-56.

Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elizabeth để chia sẻ niềm vui cả hai được mang thai cách lạ và để giúp đỡ bà chị họ trong tuổi già. Thánh sử Luca không nói tên địa danh mà bà Elizabeth ở là thành Ain-Karim miền phụ cận Giêrusalem, mà chỉ nói: "Một thành xứ Giuđa miền sơn cước". Những bước gót sen của Mẹ Maria trong dịp này đã được tiên tri Isaia diễn tả: "Đẹp thay trên các núi non, chân người sứ giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan tin mừng, kẻ loan báo ơn cứu độ và nói với Sion: Thiên Chúa của ngươi là Vua" (Is 52:7).

Mang thai nhi Giêsu, Mẹ Maria là một dụng cụ ban phúc lành cho bà Elizabeth và thai nhi của bà. Qua lời chào của Mẹ Maria, lời tiên tri của thiên thần được thực hiện: "Từ trong lòng mẹ, nó sẽ được đầy tràn Thánh Thần" (Lc 1:15). Nhận biết Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria, bà Elizabeth lên tiếng ca khen Mẹ và Con lòng Mẹ, rồi bà tỏ ra vinh dự được Mẹ Chúa đến viếng thăm. Lời ca khen của bà Elizabeth vọng vang lời thượng tế ca ngợi bà Giuđitha: "Phúc cho con nơi Đấng tối cao, hơn mọi người nữ" (Gđt 13:18). Bà Giuđitha, chém đầu tướng Holoferne để giải cứu dân của bà, là hình ảnh Mẹ Maria trong nhiệm cuộc giải thoát nhân loại (Lc 24:21).

Bà Elizabeth xác nhận hiệu quả lời chào của Mẹ Maria: "Thai nhi trong lòng bà nhảy mừng". Hai lời bà chúc tụng Mẹ Maria:

Lời 1: Về điều Thiên Chúa đã làm cho Mẹ (Lc 1:42). Lời này giống như là một phụ nữ ca ngợi Mẹ (Lc 11:27).

Lời 2: Mẹ diễm phúc vì Mẹ tin (Lc 1:45). Lời này giống như lời Chúa khen tặng Mẹ vì Mẹ nghe và giữ lời Chúa (Lc 1:28).

Mẹ Maria nhận biết điều lạ lùng đã xảy ra nơi Mẹ, nên Mẹ cất tiếng ngợi khen Chúa: "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại. Danh Người là Thánh" (Lc 1:49). Mẹ Maria trở về nhà, sau khi bà Elizabeth hạ sinh Gioan Tẩy giả, vì khi Mẹ đi thăm bà thì bà đã có thai được sáu tháng (Lc 1:36) và Mẹ ở lại nhà bà ba tháng (Lc 1:56).

IV. LỜI CÁC THÁNH

- Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.

- Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.

- Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống mọi thụ tạo.

- Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.

- Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ; không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.

- Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi khát vọng của các con.

- Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con, vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.

- Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa đều ở trong tay Mẹ.

- Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều lãnh nhận từ tay Mẹ.

- Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.

- Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.

- Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.

- Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.

- Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.

- Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói, Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.

- Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.

- Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.

- Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ.

- Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.

V. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

- Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.

- Đức Gioan Phaolô II

1. Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: "Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng" (Lc 1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.

2. Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin". Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ".

- Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu = impossible" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.

- Công đồng Vatican II

Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô nhảy mừng trong lòng mẹ.

Lm. Phêrô, CMC

-------------------------------

 

Suy Niệm 18. Không khiêm nhường, không biết tạ ơn!


Ngày 04-10-2006, giáo dân của Giáo Phận Bắc Ninh tập trung rất đông đủ tại nhà thờ Chính tòa Giáo Phận để cử hành thánh lễ An táng cho Đức Cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến. Trong phần tiễn biệt, người ta rất ấn tượng với những dòng di chúc của Đức Cha. Nói đúng hơn, đây là lá thư mục tử cuối cùng của cuộc đời ngài trên dương thế. Tâm thư này được viết trước khi lên bàn mổ để các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật mà ngài đã được báo cho biết là 95% sẽ chết, chỉ có 5% là sống sót.

Trong bức tâm thư đó, ngài viết cho mọi thành phần trong gia đình Giáo Phận. Tuy nhiên, người ta chú tâm hơn với phần viết cho các nữ tu của Tu hội Con Đức Mẹ Hiệp Nhất. Nội dung đại khái như sau: “Các con yêu quý, khi ở trong Giáo Phận, cha thấy các con thua kém chị em của các hội dòng khác. Bởi vì họ trổi trang hơn chúng con về nhiều mặt, nào là: kiến thức, khả năng mục vụ, giáo tiếp, nhan sắc… Tuy nhiên, cha nhận thấy nơi chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thành. Đây chính là nét đẹp nơi tâm hồn chúng con. Cha thiết nghĩ có khi lớ ngớ như chúng con lại dễ vớ Thiên Đàng nhanh hơn cha”.

Khi viết cho các nữ tu như vậy, có lẽ Đức Cha muốn nói lên một điều, đó là Chúa thương những người hiền lành, đơn sơ, chân thành, nhất là khiêm nhường.

Tại sao vậy? Thưa, bởi vì người khiêm nhường là người thuộc về Thiên Chúa, nên dễ dàng đi vào mối tương quan mật thiết với Người.

Ngược lại, người kiêu ngạo là người không thuộc về Thiên Chúa, và đương nhiên, không thể hiệp thông được với Người. Nói cách khác, khiêm nhường là con đẻ của Thiên Chúa. Kiêu ngạo là con đẻ của ma quỷ. Chính vì vậy mà Thiên Chúa bênh đỡ và bảo vệ người khiêm nhường, còn kẻ kiêu ngạo thì sẽ bị Người tiêu diệt như lời thánh Phêrô đã nói: “Thiên Chúa chống lại kiêu kiêu ngạo” (1 Pr 5,5).

1. Mẹ Maria, Người Nữ Tỳ khiêm hạ

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth hôm nay làm toát lên vẻ đẹp của sự chia sẻ và khiêm nhường nơi Mẹ Maria.

Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Luca giới thiệu cho chúng ta một người phụ nữ tuyệt vời: ngài là người tràn đầy ân sủng; là người có phúc hơn hết mọi người phụ nữ và nơi cung lòng của ngài sẽ xuất hiện Đấng Cứu Chuộc mà muôn dân mong đợi.

Tuy nhiên, với những ơn cao trọng lớn lao như vậy, tác giả lại cho thấy được xảy ra nơi một Nữ Tỳ hèn mọn và rất đỗi khiêm nhường, người đó chính là Mẹ Maria.

Thật vậy, chắc chắn Mẹ là người biết rõ Người Con mà mình đang cưu mang là ai? Người Con ấy quyền thế cao sang biết chừng nào? Hơn nữa, lời ca tụng của bà chị họ là Êlisabeth lại càng làm nên sự uy nghi, tự hào, bà nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ […] Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi” (x. Lc 1, 42-43)

Tuy nhiên, Mẹ Maria đã không tự kiêu để nhận những vinh dự đó về cho mình, ngược lại, Mẹ đã dâng nó lại cho Thiên Chúa trong tâm tình khiêm nhường của một người nữ tỳ hèn mọn.

Quả thật, nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ được những ơn cao trọng có một không hai trong lịch sử nhân loại như vậy, Mẹ phải hãnh diện đến tự kiêu. Nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ biết mình có phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian, ắt Mẹ sẽ vỗ ngực xưng tên để huênh hoang, tự đắc với đời. Và như một hệ quả, nếu không khiêm nhường tuyệt đối, Mẹ sẽ phá hoại chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo.

Vì thế, nơi Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận hồng ân của Thiên Chúa trong tâm thế của một người môn đệ, một nữ tỳ khiêm nhu. Điều này đã được chứng minh khi Mẹ cất lên lời kinh Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu mà Người đã làm trên phận nữ tỳ hèn mọn của mình.

Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ lội ngược dòng lịch sử cứu độ để nhận thấy bàn tay uy quyền và thương xót của Thiên Chúa đã cứu và giải thoát dân khỏi biết bao nguy biến.

Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ Maria đã gia nhập vào dòng người thánh thiện để ca ngợi sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, khi Người đưa cánh tay mạnh mẽ để hạ gục kẻ kiêu căng, truất bỏ những người quyền thế, để người giàu có trở về tay không, còn người nghèo khổ, thấp hèn lại được đầy dư.

Cuối cùng, cất lên lời kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cùng với muôn người ngóng trông ơn cứu độ để cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì Người đã thực hiện lời hứa với các Tổ phụ và Tiên tri khi trao ban Con Một của Người xuống trần gian cứu chuộc con người.

2. Sứ điệp Lời Chúa

Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta cũng cùng nhau lội ngược dòng để đọc lại lịch sử cuộc đời của mình dưới tâm thức của người thụ ơn, để thấy được những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời chúng ta.

Những ơn đó là: ơn được sinh ra làm người trong một gia đình. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Được lớn lên với biết bao ân cần, lo lắng của mọi người mà Chúa gửi đến để chăm sóc cho ta. Ngài cũng cứu chúng ta biết bao lần qua những cơn bạo bệnh. Ngài che chở ta và giải thoát ta khỏi biết bao nguy biến, tai ương… nhất là ơn được sống tới ngày hôm nay. Rồi sức khỏe, trí thông minh, và rất nhiều khả năng khác mà Thiên Chúa không ngừng ban cho chúng ta…

Tuy nhiên, khác với Mẹ Maria, nhiều khi chúng ta chưa đủ nhạy bén hay vô tình mà quên đi nghĩa vụ của người thụ ơn với Thiên Chúa. Hoặc cũng có lúc chúng ta có thái độ giảm nhẹ mầu nhiệm để thay vào đó là khái niệm tự nhiên có, nên việc biết ơn có vẻ cũng vì đó mà bị giảm nhẹ theo!

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, khô khan, nên chưa khiêm nhường đủ để nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trên cuộc đời mình.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta khi đứng trước hồng ân lớn lao như vậy, hãy có tâm tình của Mẹ Maria để cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Người đã làm trên và trong cuộc đời chúng ta. Đồng thời, noi gương Mẹ, mỗi người cũng hãy chia sẻ niềm vui với những anh chị em xung quanh, nhất là sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến chúng ta, để vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là những mối ưu tư và lo lắng của chúng ta.

Mặt khác, luôn sống tâm tình khiêm nhường và tín thác nơi Thiên Chúa, biết nhạy bén như Mẹ Maria để không chỉ bản thân mình cần cám ơn, chúc tụng Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn làm những bổn phận đó trong tư cách là dân Thiên Chúa khi cảm tạ và chúc tụng thay cho người khác.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, đường lối khiêm nhường là cách thức Thiên Chúa thể hiện quyền năng. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương khiên nhường của Đức Trinh Nữ Maria để sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và để thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng con.

Xin cũng cho chúng con biết quan tâm, lo lắng cho mọi người, nhất là những người khổ đau, nghèo đói đang cần đến chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 19. Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth


--Đaminh Trần văn Chính

Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:

Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?

Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha, sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy?. Đức cha giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì và cha đẹp trai quá!”.

Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người  bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể xác cũng như tâm linh!

Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một gia đình lớn.

Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi, cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông Đồ người cùi”.

(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển thánh ngày 11/10/2009).

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời “xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ. Đây không phải là một cuộc thăm viếng bình thường, mà là chuyến đi mang niềm vui của ơn cứu độ đến cho tha nhân. Niềm vui này thật quan trọng và lớn lao đến nỗi bà chủ nhà Elisabet, khi thấy Đức Maria đến đã phải thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm viếng tôi”. Và Gioan tuy chỉ là một thai nhi cũng đã vui mừng mà nhảy lên trong dạ mẹ. Như vậy chúng ta thấy, khi nhận được niềm vui của Tin Mừng cứu độ, Mẹ đã không giữ lại cho riêng mình mà đã vội vã lên đường đi chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người.

Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế, thì lẽ ra người phải đến chăm nom, phục vụ và ngợi khen Đức Mẹ phải là bà Elisabet. Nhưng vì lòng khiêm nhường, Đức Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi vất vả, và không phải là không có những mối nguy hiểm trên đường! Nhưng Mẹ vẫn đến để thăm viếng phục người chị em này.

Noi gương Đức Mẹ, chúng ta là những người được mệnh danh là “người có Chúa” tức những Ki-tô hữu thì cũng phải có bổn phận đem Chúa đến giới thiệu cho tha nhân. Nhưng trước hết hãy học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường và yêu thương. Bởi chỉ có thực sự khiêm tốn và yêu thương chân thành chúng ta mới có thể đem Tin Mừng cứu độ cho tha nhân được.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta biết thể hiện những hành động yêu thương quí mến mọi người mà chúng ta gặp gỡ, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chúng ta có thể trao cho họ những nụ cười tươi thắm, những lời nói nhỏ nhẹ chân thành, những ánh mắt thiện cảm nhân từ… Như thế là chúng ta đã mang niềm vui, an bình đến cho mọi người, và nhất là chúng ta đã thể hiện được là người có Chúa Ky-tô đang ngự trị nơi tâm hồn của chúng ta.

3. Cầu Nguyện:

Lạy Chúa, còn biết bao người chưa nhận biết Chúa. Xin ban Thánh Thần thức tỉnh tâm hồn họ để nhờ đó họ nhận ra chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian mà họ phải tôn thở, kính mến để cuộc sống dương gian này mang lại ý nghĩa thực sự cho họ, và cũng xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết bổn phận mình là Ky-tô hữu, thì phải đem Chúa đến cho mọi người và đem mọi người về cho Chúa, bằng đời sống yêu thương, bác ái, hy sinh và phục vụ của mình. Amen.

4. Sống Lời Chúa:

Mỗi ngày cố gắng hy sinh làm việc thiện, có ý cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo.

-------------------------------

 

Suy Niệm 20. Cuộc gặp gỡ lịch sử


--JM. Lam Thy DVD

Đúng vào ngày kết thúc Tháng Hoa kính Đức Mẹ (31/5), Giáo Hội cử hành lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Ê-li-sa-bét. Vì sao có cuộc thăm viếng này? Vì khi truyền tin cho Đức Maria là Ngôi Lời sẽ Nhập Thể trong cung lòng của Đức Mẹ, sứ thần có báo cho Mẹ một tin vui: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.” (Lc 1 38). Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, vì thế Đức Mẹ “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa” (Lc 1, 39) để viếng thăm và ở lại với người chị họ 3 tháng.

Xét theo sự giao tế của con người, khi thấy chị em có tin vui thì đến chia vui là chuyện bình thương. Tuy nhiên, nếu để ý một chút sẽ thấy bà Ê-li-sa-bet với Đức Maria chỉ là chị em họ, mà con đường từ nơi Đức Maria tới nơi bà Ê-li-sa-bét phải vượt qua một chặng đường đồi núi chập chùng rất dài (đi bộ phải mất 2 – 3 ngày đường), đầy khó khăn nguy hiểm, đó sẽ là trở ngại lớn khiến khó lòng thực hiện được ý định viếng thăm nhau. Vậy mà Đức Mẹ vẫn “vội vã” tới thăm, điều này cho thấy phải có một động lực rất mạnh thúc đẩy Mẹ lên đường. Không những thế, Mẹ còn ở lại chăm sóc người chị họ cho tới khi bà mãn nguyệt khai hoa. Như vậy thì cuộc thăm viếng lịch sử này đã hàm chứa 2 chiều kích nền tảng của Ki-tô Giáo: Chia sẻ và Phục vụ trong Yêu thương.

1- Chia sẻ: Trước khi có cuộc thăm viếng của Đức Maria, thì đã có cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến trao ban Con Một của Người cho nhân loại trong cung lòng của Đức Mẹ. Chính Chúa Giê-su là Đấng cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời. Người mang lại nguồn ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa cho những ai tin tưởng và đón nhận tình yêu của Người. Khi Đức Mẹ “xin vâng” thì cũng là lúc Mẹ được tràn đầy Thánh Thần, và chính đó là động lực thúc đẩy Mẹ thể hiện việc đem Tình Yêu chia sẻ cho tha nhân. Nói cách khác là ngay từ lúc này, Đức Mẹ đã thi hành sứ vụ “đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15) như về sau Đức Giê-su Thiên Chúa hằng giảng dạy và sai phái các môn đệ của Người.

Đức Maria viếng thăm là đem Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng là Con của Mẹ đến với gia đình bà Ê-li-sa-bet. Và vì thế, nên bà E-li-sa-bét mới nói: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1, 43-45). Vì yêu thương, nên dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi đầy cam go, nguy hiểm, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm người chị họ. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Mẹ. Quả thật hình ảnh cao đẹp này cũng đã được tiền định từ trước, nên ngôn sứ Xô-phô-ni-a mới viết “Thánh vịnh mời gọi Si-on vui mừng” (xc bài đọc 1 hôm nay: Xp 3, 14-18a) và ngôn sứ I-sai-a hết lời ca tụng: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ.” (Is 52, 7).

Đến như Bài ca Ngợi Khen (Magnificat) tuy là lời Đức Mẹ chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, nhưng đó lại là Tin Mừng đem đến cho mọi người, nếu biết tin yêu và vâng phục thánh ý của Thiên Chúa (như Đức Mẹ) và hân hoan vui mừng đón nhận (như hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét và thai nhi Gio-an Bao-ti-xi-ta). Thật thế, “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”

2- Phục vụ: Nếu chỉ tới thăm rồi về ngay thì chưa đủ, mà Đức Mẹ còn “ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” Khi Đức Mẹ tới viếng thăm thì bà chị họ đã có thai được 6 tháng, bây giờ Mẹ ở lại thêm 3 tháng nữa, tức là ở lại với người chị họ tới ngày bà sinh con. Rõ ràng Đức Mẹ ở lại chỉ với mục đích duy nhất là để giúp đỡ, chăm sóc thai phụ trong những ngày cuối thai kỳ. Người phụ nữ có thai rất cần có người ở liền bên phục vụ, mà người đó phải là phụ nữ, bởi có những việc người chồng không thể làm được. Hành động phục vụ của Đức Mẹ chính là vâng phục tuyệt đối thánh ý của Thiên Chúa (“những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta.” – Lc 1, 2), mà khi Người Con của Mẹ trưởng thành đã giảng dạy và thực hiện (“Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em… Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” – Mt 20, 26).

Trong cuộc sống xô bồ ngày nay, chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống ở thành thị. Có khi sống liền vách với nhau mà cũng không hề có được tình nghĩa “tối lửa tắt đèn có nhau, bán anh em xa mua láng giềng gần”! Tình nghĩa láng giềng ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng, sống chết mặc bay”. Ngược lại, có những người thăm viếng nhau hàng ngày, mỗi ngày bỏ rất nhiều thời giờ để nói chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, đơm điều đặt chuyện. Việc họ thăm viếng chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm cớ cho nhau phạm tội (dèm pha, nói xấu, thậm chí còn xúc xiểm gây thù chuốc oán người khác). Ấy mới chỉ là nói về việc thăm viếng nhau đã khan hiếm như thế, thì không hiểu việc yêu thương phục vụ sẽ còn khó kiếm đến như thế nào!

Như vậy thì cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Mẹ dành cho gia đình ông Da-ca-ri-a là khởi đầu cho Giao Ước Mới đem Tin Mừng đến cho nhân loại. Đức Maria thăm viếng vừa để chia sẻ Tin Mừng vừa để phục vụ anh em, đã thể hiện cụ thể và sinh động nhất tình cảm “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 30-31). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương tuyệt vời cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm viếng nhau, chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa đến phục vụ cho tha nhân luôn luôn và mãi mãi phải là sứ vụ của con cái Chúa, không thể khác hơn.

“Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ngay khi còn cưu mang Thánh Tử Giê-su, Thánh Mẫu Maria đã được Cha soi sáng và người đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Ðức Maria ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giê-su Ki-tô Con Cha là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét).

-------------------------------

 

Suy Niệm 21. Cuộc viếng thăm đầy ân sủng


--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến…

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.

Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét… Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.

Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.

Qua mỗi ngày sống, mong sao mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 22. Niềm vui có Chúa


--Nữ đan sĩ Maria Maximiliano Kolbe

Xp 3,14-18a; Rm 12,9-16b; Lc 1,39-56

(http://hoidongxitothanhgia.com/)

Khát vọng niềm vui ẩn chứa nơi tâm hồn con người. Ai ai cũng mong có được niềm vui hoàn hảo, trọn vẹn và bền vững. Nhưng niềm vui ở đâu nếu không phải ở nơi những con người có Chúa trong lòng, những người gặp Chúa trong cuộc đời? Niềm vui đó được thể hiện rõ nét nhất nơi Đức Maria trong ngày Đức Maria đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét mà bài Tin Mừng hôm nay thuật lại.

1. Niềm vui có Chúa

Đức Maria đã được sứ thần mời gọi “Mừng vui lên”. Hôm ấy, Mẹ càng vui vì có Chúa trong lòng mình. Mẹ vui vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa trên cuộc đời Mẹ cũng như trên dân tộc của Mẹ. Mẹ vui vì Chúa đã làm cho Mẹ bao điều cao cả, đến nỗi hết mọi đời sẽ khen Mẹ có phúc (Lc 1,48-49).

Niềm vui được manh nha từ trong Cựu ước. Bài đọc thứ I ghi lại lời mời gọi, qua đó loan báo niềm vui: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi… Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3,14-15). Niềm vui được loan báo này đã thành hiện thực qua Đức Maria. “Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” ấy chính là Đức Giêsu đang ngự trong lòng Đức Maria.

Đứng trước ân huệ lớn lao là được cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Mẹ chỉ biết dâng lời chúc tụng Chúa bằng bài ca “Ngợi khen” (Magnificat), mà chúng ta hát trong giờ Kinh Chiều. Ngày xưa, dân Ít-ra-en vui mừng ca tụng Chúa qua những thánh vịnh, thánh thi vì họ thấy Chúa hiện diện giữa họ, yêu thương họ (Tv 33; 149 …).

2. Niềm vui chia sẻ Niềm vui

 Khi có Chúa trong mình, có niềm vui trong mình, Đức Maria vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui đang trào tràn với người chị họ Ê-li-sa-bét (Lc 1,39). Mẹ đã không quản ngại, dù đường xa cách trở, dù núi non cheo leo. Mẹ chia sẻ niềm vui vì mình được cưu mang Chúa, là Chúa Tể muôn loài, lại là Đấng cứu chuộc mọi sinh linh. Mẹ chia sẻ niềm vui với người chị họ cao niên. Chị là người hiếm muộn mà Chúa đã cho chị mang thai và sắp được làm mẹ, sắp rửa được tủi nhục không con theo quan niệm thời ấy giờ.

Mẹ đã cảm nghiệm được niềm vui yêu thương nên Mẹ sống quảng đại. Mẹ đến để phục vụ, chăm sóc người chị trong những ngày sắp mãn nguyệt khai hoa. Tình bác ái này được thánh Phao-lô nói đến trong bài đọc II, trích từ thư Rôma chương 12: chúng ta phải yêu thương nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với nhau, cầu nguyện cho nhau, sốt sắng phục vụ Chúa, ngay cả người bắt bớ mình, mình cũng phải chúc lành. Chân phước Tê-rê-sa Calcutta qua kinh nghiệm phục vụ, trao ban của ngài, cũng đã nói: “Ai trao ban cách vui vẻ là trao ban nhiều hơn thế”.

3. Niềm vui đón nhận

Bà Ê-li-sa-bét vui vì bà biết đón nhận niềm vui từ người em họ, bà vui vì được người em họ của bà đến viếng thăm, vui vì em đến chăm sóc mình trong lúc thai nghén. Niềm vui to lớn nhất là được Đức Maria đem Chúa đến cho gia đình mình, vui vì Chúa đến cư ngụ trong nhà của mình. Niềm vui của bà được lan truyền qua người con trong bụng, khiến người con ấy tuy chưa chào đời mà đã nhảy mừng. Niềm vui bà Ê-li-sa-bét có được, bà nhận ra được Chúa đến nhà bà là nhờ Chúa Thánh Thần ban cho bà (Lc 1,41), vì như chân phước Phao-lô VI đã viết: “Nơi chính Thiên Chúa, tất cả đều là niềm vui bởi tất cả đều là ân ban (Tông huấn Gaudete in Domino 9/5/1975).

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống niềm vui và trao ban niềm vui. Vì Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Chúng ta vui vì có Chúa trong mình, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình dương thế. Chúng ta vui vì có những anh chị em Kitô hữu khác cùng sống với chúng ta trong cuộc đời, có người bạn đường chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kiếp người với chúng ta. Đó cũng là dịp để chúng ta thực tập, thi thố, trao ban niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ. Đồng thời chúng ta cũng biết ơn đón nhận tình thương, niềm vui từ anh chị em trao ban cho chúng ta.

-------------------------------

 

Suy Niệm 23. Chia Sẻ Niềm Vui


--Radio Veritas Asia

--‘Suy Niệm Lời Chúa’

Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.

Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.

Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.

Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.

Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác".

Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.

Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: "Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa". Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: "Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!"

Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.

Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: "Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi". Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.

Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.

-------------------------------

 

Suy Niệm 24. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân


--JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?

2. Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?

3. Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?

Suy tư gợi ý:

1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương

Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ», ngài gọi cái khổ ấy là «ái biệt ly khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!» (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.

2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương

Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.

Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng

Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.

Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.

Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.

Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 25. Thương thì Thăm


—Trầm Thiên Thu

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, năm A

Người ta thăm viếng nhau vì quý mến, vì thương yêu, vì tình cảm, chứ chẳng ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,... Nói chung, quá trình đó được bắt đầu từ đức ái: Thương thì Thăm.

Để có thể thăm viếng nhau như vậy, người ta phải có lòng khiêm nhường, như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi, chúng ta cầu xin: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được lòng khiêm nhường”. Quả thật, đức khiêm nhường rất quan trọng vì đó là nên tảng của mọi nhân đức.

Đức Maria là thôn nữ nghèo, nhưng nhu mì và dễ thương vì luôn sống khiêm nhường, và là thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Thiên Chúa.

Sứ thần Gáprien truyền tin vui nhưng Nàng Maria lại bối rối. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Cô Maria, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “hoảng hồn”, nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời chứng minh một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là người chị họ Êlidabét, vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thở phào nhẹ nhõm, Đức Mẹ Ô-kê ngay lập tức (Lc 1:38) mà không chút đắn đo. Phúc chồng lên phúc!

Thuở xưa, Thiên Chúa cũng đã động viên các cô gái: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là bắt đầu có sự can đảm, có can đảm là có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi.

Khi “không sợ” thì người ta có thể làm được nhiều thứ. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực hiện đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo. Nhưng Thánh Phaolô cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái có nhiều dạng và nhiều mức độ, cần phải can đảm thực sự mới có thể thực hiện. Không dễ đâu!

Thánh Phaolô giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng phải vậy thôi, và đọc kỹ từng chữ, chúng ta sẽ thấy “nhức đầu” đấy, chứ không đơn giản như chúng ta thường nghĩ.

Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Cái PHÚC không đâu xa, mà do mình, nếu thực sự TIN. Tuy nhiên, tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!

Lúc đó, Đức Maria chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55) độc đáo:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Thánh Luca cho biết rằng “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).

Khi Đức Maria thụ thai, Chị Êlisabét đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vị chi là Chị Êlisabét đã đến lúc khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, rất cần sự giúp đỡ của người khác. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về hai chữ T quan trọng trong cuộc sống: Thăm (viếng) và Thương (yêu).

Lạy Thiên Chúa từ ái, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con một Người Mẹ tuyệt vời, xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Mẹ luôn luôn. Xin biến đổi chúng con để mỗi chúng con sớm trở nên khí cụ bình an của Ngài.

Lạy Mẹ nhân lành, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Mẹ, xin thương hướng dẫn và che chở chúng con trong mọi hoàn cảnh, và xin dẫn đưa chúng con về với Chúa. Xin Mẹ đoái thương nước Việt Nam bé nhỏ của chúng con, nhất là trong hoàn cảnh có nguy cơ chiến tranh Biển Đông hiện nay. Xin Mẹ ngăn tay kẻ thù và biến đổi tà tâm thành thiện tâm, xin cho Nước Việt và thế giới được hưởng tự do, công lý và hòa bình đích thực của Thiên Chúa.

Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 26. Tình khúc ngợi khen


—Trầm Thiên Thu

TRINH NỮ XIN VÂNG VÌ MẾN CHÚA

MẸ HIỀN PHỤC VỤ BỞI YÊU NGƯỜI

Cuộc đời Đức Mẹ là một Tình Khúc Ngợi Khen không ngừng du dương tán tụng hồng ân Thiên Chúa. Vừa được trở thành Mẹ Thiên Chúa và biết tin người chị họ cũng đã được diễm phúc làm mẹ được nửa năm, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm chị và cùng chia sẻ niềm vui lớn lao trong tâm tình chị em.

Thánh Bênađinô nói: “Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần. Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ”. Còn Thánh Laurensô Brinđisi cho biết: “Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ”.

Đặc biệt hơn, Thánh Anphong Ligôri cho biết: “Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy Giả, Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, lễ Đức Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là lễ Đức Mẹ Ban Ân Sủng”. Ôi, thật kỳ diệu và thú vị biết bao!

Với kinh nghiệm cuộc sống, ai cũng biết rằng thăm viếng là một cách giao tiếp phổ biến trong xã hội đời thường. Chắc chắn không ai lại không một lần thăm viếng người khác, có thể chỉ là hỏi thăm bình thường hoặc chuyện vãn khi nhàn rỗi, đặc biệt là những cuộc thăm viếng dành cho người già, bệnh nhân, trẻ mồ côi, người nghèo, tù nhân, nạn nhân,...

Có thể khác nhau về mức độ khi thăm viếng nhau, nhưng điều cốt lõi cần thiết vẫn phải là vì đức ái, như Thánh Phaolô khuyên: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:16). Chỉ vì đức ái mà hành động thì chuyện nhỏ cũng trở nên giá trị trước mặt Thiên Chúa, không vì đức ái mà chỉ vì “lấy lòng” hoặc “che mắt thế gian” thì chuyện lớn cũng không có giá trị gì đối với Thiên Chúa. Có thể nói rằng, ở cấp quốc gia và về lĩnh vực chính trị, có thể có gì đó gọi là “giả hình” khi người ta có những cuộc viếng thăm với danh nghĩa là “chính thức”, bởi vì đó là những cuộc thăm viếng nhau theo lời mời chứ không tự ý. Tất nhiên ở đây phải được hiểu với nghĩa tương đối.

Tương tự, trong cuộc sống đời thường và bình dân, người ta chỉ thăm viếng nhau vì quý mến nhau, thương yêu nhau, thân thiện với nhau, chứ chẳng có ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Khi thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,... Nói chung, quá trình đó cần phải được bắt đầu từ đức ái: thấy thương thì thăm (4T) và thân tình thì thăm (4T), và hai điều đó đúc kết thành 4T: Tình Thương Thành Thật.

Một loạt mẫu tự “tê”, có thể là “tê” bình thường mà cũng có thể là “tê” thật, bởi vì thực hành được 4T đó không hề đơn giản. Để có thể thăm viếng nhau chân tình, người ta phải có lòng khiêm nhường thực sự, đúng như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được LÒNG KHIÊM NHƯỜNG”. Điều cầu xin đó thực sự cần thiết, bởi vì đức khiêm nhường rất quan trọng và là nên tảng của mọi nhân đức, là viên đá góc của tòa nhà nhân đức. Đức khiêm nhường là “ông vua” đối nghịch với “quỷ vương” là thói kiêu ngạo.

Là tín nhân Công giáo, ai cũng biết rằng Đức Maria là một thôn nữ nghèo, nhưng sống nhu mì và dễ thương, bởi vì thục nữ Maria luôn sống khiêm nhường, đồng thời còn là một thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ là một con người vô cùng đặc biệt, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ để làm gương sáng cho chúng ta soi vào hằng ngày.

Nàng Maria vô cùng bối rối khi được Sứ thần Gáprien truyền Tin Vui. Biết thế nên Sứ thần liền trấn an: “Thưa bà Maria, XIN ĐỪNG SỢ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đức Mẹ còn rất trẻ nhưng được tôn xưng là “bà”, chứng tỏ Đức Maria rất đáng kính trọng: “Đức Nữ rất đáng kính chuộng, Đức Bà là Đấng trọng thiêng, Đức Bà là Đấng đáng tôn trọng” (Kinh Cầu Đức Bà). Vừa nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “giật thót mình”, thế nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời sứ thần còn dẫn chứng cụ thể về một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là bà Êlidabét (Isave), người chị họ của Đức Maria. Sứ thần xác định rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thế thì không có gì lo lắng nữa, cũng chẳng đắn đo chi cả, Đức Mẹ chấp nhận ngay (Lc 1:38). Nhân đức chồng lên nhân đức, ân phước chồng lên ân phước. Quả thật, Trinh Nữ Maria vượt trên cả sự tuyệt vời!

Từ thuở xa xưa, chính Thiên Chúa cũng đã từng động viên các cô gái trẻ: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, ĐỪNG SỢ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là lúc chúng ta bắt đầu có sự can đảm, có can đảm thì có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Thật kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi, liên lỉ tác động để hướng chúng ta về Thiên Chúa.

Lòng can đảm rất cần thiết. Khi có lòng can đảm, người ta có thể làm được nhiều thứ, như Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi làm gì cũng được”. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực thi đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo – và cả trong đời thường, bởi vì ai cũng muốn yêu và được yêu. Thế nhưng phải luôn cảnh giác, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái đa dạng và có nhiều mức độ, phải thực sự can đảm mới có thể thực hiện. Không dễ chút nào cả, coi bộ “căng” dữ nghen!

Không chỉ có vậy, Thánh Phaolô còn giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Xem ra có vẻ “dài dòng”, nhưng phải vậy thôi, và nếu để ý mà “nuốt lấy” từng chữ, từng ý, có thể chúng ta sẽ cảm thấy “nhức đầu” chứ chẳng đơn giản như chúng ta tưởng đâu!

Trình thuật Lc 1:39-56 kể lại cuộc thăm viếng của Đức Maria dành cho Bà Chị Êlidabét, Giáo Hội gọi đó là lễ Đức Mẹ Thăm Viếng (Visitatio Mariæ). Có điều đặc biệt: Lễ này không chỉ được mừng kính trong Công giáo Rôma, mà cả trong Chính Thống, trong một phần Anh giáo và Tin Lành.

Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria VỘI VÃ lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được ĐẦY TRÀN THÁNH THẦN, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật CÓ PHÚC vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).

Thật lạ lùng, cái PHÚC chẳng ở đâu xa xôi mà ở rất gần, ngay trong mỗi con người, tức là do chính mình – nếu thành tâm TIN thực sự. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý lời của Thánh TS Teresa Avila: “Tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo”. Kể ra cũng nhiêu khê, một khoảng rất mong manh giữa TIN và TƯỞNG, rất dễ lầm tưởng đấy!

Hai chị em cùng hân hoan hàn huyên tâm sự. Sau khi nghe Chị Isave bày tỏ niềm hạnh phúc vì “được Mẹ Thiên Chúa đến thăm”, Đức Maria vang lời chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55), một bài Thánh Ca độc đáo, bất hủ, không tín nhân nào lại không biết.

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Trong bài Thánh Ca này, Lòng Chúa Thương Xót đã được Đức Mẹ đề cập chứ không phải ngày nay mới được nói tới – từ khi Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh Nữ tu Faustina và thiết lập lễ Lòng Chúa Thương Xót (CN II PS). Và Thánh sử Luca cho biết rõ ràng: “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).

Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng khi Đức Maria thụ thai, bà chị Êlisabét cũng đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vậy là bà chị Êlisabét sắp đến ngày khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, thế nên rất cần sự giúp đỡ của người thân. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về điều kỳ diệu trong cuộc sống: Tình Yêu Thương. Vâng, đức ái (đức mến, tình mến, lòng mến) vô cùng quan trọng – quan trọng cả đời này và đời sau (x. 1 Cr 13:13). Tình Yêu Thương bất tử, còn mãi mãi…

Cùng với Đức Mẹ, ước gì cuộc đời của mỗi chúng ta luôn là bản Tình Khúc Ngợi Khen kính dâng Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.

Lạy Thiên Chúa là tình yêu vĩnh hằng, thật diễm phúc khi chúng con được Ngài trao ban một Người Mẹ tinh tuyền là Đức Trinh Nữ Maria. Xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Đức Mẹ, biết nhìn mọi người bằng ánh mắt nhân ái. Xin Chúa biến chúng con thành khí cụ bình an trong Đại Gia Đình Đa Đồng Đường của Ngài.

Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng con xin chúc tụng Mẹ và tận hiến cuộc đời cho Mẹ. Xin Mẹ đồng hành, hướng dẫn và che chở chúng con suốt đời, xin dẫn chúng con về gặp Con Yêu của Mẹ. Xin Mẹ thương Nước Việt bé nhỏ của chúng con và những đất nước gặp hoạn nạn – tinh thần và thể lý. Xin Mẹ biến đổi tà tâm thành thiện tâm để cả thế giới cùng tận hưởng nền tự do đích thực, vui sống trong công lý và hòa bình viên mãn của Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 27. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế


--Lm. Hồng Phúc

Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.

Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.

Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.

Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).

Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.

Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.

Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.

Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.

Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.

“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).

Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 28. Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét


--Lm Fx Vũ Phan Long Ofm

1.- Ngữ cảnh

Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.

Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: người được coi như là Hòm Bia Giao ước.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41);

2) Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45):

3.- Vài điểm chú giải

- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18).

- đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).

2 Sm 6
Lc 1,39-56

Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Đavít nhảy mừng
Gioan nhảy mừng (44)
Dân reo
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Vào nhà Dacaria (40)
Hòm Bia: nguồn phúc  (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)

- Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).

- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:

Gđt 13,18-19
Lc 1,42

Bà được chúc phúc…
Em được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
hơn mọi người phụ nữ
Và Đức Chúa là Thiên Chúa
Và quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)
được chúc phúc (eulogêmenos)

- Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):

- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày

- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày

- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày

Tổng cộng: = 490 ngày

= 70 tuần 7 ngày.

Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).

- Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).

4.- Ý nghĩa bản văn

Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.

* Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)

Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.

Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel.

* Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria  (42-45)

Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là

Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.

Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. TrongCựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lcbảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài.

Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.

Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.

Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.

+ Kết luận

Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.

Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.

Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?

2. Đức Maria được bảo là “có phúc”  vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.

3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.

4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêsa Calcutta).

5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?

---------------------------------

 

Suy Niệm 29. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn


--‘Tin Mừng Chúa Nhật’

Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.

Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.

Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:

Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.

Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.

Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.

Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.

Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.

Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.

Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.

Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.

Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.

Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?

Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!

Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 30. Lên đường vì yêu


--Lc 1,39-56

Hôm nay, Giáo hội kỷ niệm cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà chị họ E-li-za-beth. Ngay khi nhận được lời truyền tin của Sứ thần, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu thế, và người chị họ của Mẹ cũng đang cưu mang một người con trai do quyền năng và tình thương của Chúa ban cho, Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà chị ho của mình, một cuộc thăm viếng thánh thiện và mang nhiều ý nghĩa cao quý.

 

Vấn đề được đặt ra là tại sao Đức Maria lại vội vã lên đường trong cuộc thăm viếng này như thế? Có phải Đức Maria muốn ra đi để xác minh lời Sứ thần nói về bà E-li-za-beth có đúng sự thật hay không? Câu trả lời chắc là không, vì Đức Maria đã tin ngay từ đầu rồi. Bởi thế mà bà E-li-za-beth mới nói với Đức Maria rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). Mẹ không bao giờ nghi ngờ bất cứ điều gì Chúa đã nói với Mẹ qua miệng của Sứ thần cả. Vậy thì có phải Đức Maria muốn gặp bà chị họ để khoe niềm vinh dự là mình được chọn là Mẹ Đấng Cứu thế không? Cân trả lời cũng là không phải thế. Vì Mẹ là một người rất khiêm hạ, tự xưng mình mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Cho nên, đối với Mẹ chắc không hề có chuyện đi khoe khoang hay kiếm tìm vinh dự cho mình. Ta thấy rõ là khi Đức Maria được bà E-li-za-beth ngợi khen “em thật có phúc” và “bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm”, thì Đức Maria đã quy những lời tán dương, ca ngợi ấy về Thiên Chúa ngay lập tức: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà E-li-za-beth trở thành một dịp cho hai bà mẹ diễm phúc ca tụng Thiên Chúa hết lòng. Ai cũng nhận ra được rằng, mình đã được Thiên Chúa yêu thương cách lạ lùng, vượt sức tưởng tượng hay ước muốn: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 49). Hai bà mẹ cảm nghiệm niềm hạnh phúc đã ngập tràn trong tâm hồn và không còn dám ước mơ gì hơn, bởi lẽ Thiên Chúa đã đong đầy tâm hồn của các ngài những niềm vui thánh thiện.

Cuộc ra đi vội vã của Đức Maria đến nhà bà E-li-za-beth chỉ đơn thuần là một cuộc thăm viếng như bao cuộc thăm viếng khác mà thôi. Đức Maria ý thức rằng, người chị họ E-li-za-beth đang rất cần sự trợ giúp vì bà E-li-za-beth mang thai trong lúc tuổi già và sắp sinh con. Đức Maria vội vã đến với bà E-li-za-beth chỉ vì muốn giúp người chị họ của mình một tay trong lúc sinh con mà thôi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang đầy tình tương thân tương ái trong đó. Đó cũng là bài học cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có ý thức sự bối rối, neo đơn của người khác để sẵn sàng và vội vã đến với họ không? Hay trong xã hội náo nhiệt này, chúng ta chỉ biết sống cho mình: “đèn nhà ai nấy sáng” hay “sống chết mặc bây”.

Cuộc thăm viếng của Đức Maria còn là việc mang Chúa đến cho gia đình bà E-li-za-beth nữa. Như xưa, Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom và Chúa đã ban cho gia đình ông rất nhiều phúc lộc, thì việc lưu lại 3 tháng của Đức Maria với Chúa Giêsu trong lòng cũng mang lại bình an và niềm vui cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. “Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào , thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng cứu thế của Ngài trước khi sinh ra: Ngài đã thánh hoá Gio-an Tẩy giả ngay lúc còn trong bụng mẹ. Và Gio-an cũng đã thi hành sứ vụ tiền hô của mình là nhảy mừng khi Đấng Cứu Thế đến.

Cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà E-li-za-beth là lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lại chính mình: Chúng ta có biết mang Chúa, mang bình an và niềm vui đến cho những người chúng ta gặp gỡ không? Mục đích những cuộc thăm viếng của tôi đến với người khác là gì? Có cần thiết cho tôi và cho họ không…?

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy cho chúng con biết quan tâm đến người khác và không ngừng khao khát mang Chúa đến cho người khác với tâm hồn thanh khiết như Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng biết trở thành những sứ giả mang bình an, niềm vui và hạnh phúc đến cho những người chúng con gặp gỡ. Amen

---------------------------------

 

Suy Niệm 31. Đức Mẹ Thăm Viếng


--Trầm Thiên Thu(từ CatholicCulture.org)

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ, lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth's proclaiming of Mary – theo linh hứng của Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô Salê.

LỊCH SỬ

Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).

Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.

Theo Sách lễ năm 1962 thời Chân phước GH Gioan XXIII, hôm nay là lễ Đức Maria Trinh Vương và Thánh nữ Aurelia Petronilla. Ngày nay, lễ Đức Maria Trinh Vương được cử hành vào ngày 22 tháng Tám. Thánh Aurelia Petronilla được Thánh Phêrô, giáo hoàng tiên khởi, hướng dẫn vào đức tin. Bà qua đời sau ba ngày từ chối kết hôn với Flaccus, một nhà quý tộc ngoại giáo. Không có chứng cớ lịch sử về việc bà tử đạo, nhưng một bức bích họa (fresco) thời sơ khai cho thấy bà chịu tử đạo. Ngày nay, lễ Thánh Aurelia Petronilla không còn trong lịch phụng vụ.

THĂM VIẾNG

Cuộc thăm viếng bắt đầu: “Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1:39). Như một bài thơ trữ tình mở đầu cách diễn tả của Thánh sử Luca về cuộc thăm viếng. Chúng ta có thể cảm thấy ấm lòng và thánh thiện, lòng yêu thương gấp rút đã thúc đẩy Thục Nữ Maria băng qua núi đồi để đến với người chị họ. Trái tim Đức Mẹ đã đập nhịp đập của Đức Kitô.

Nhiều phụ nữ, nếu đang mang thai, sẽ từ chối đi trên con đường gập ghềnh để có thể bày tỏ lòng tử tế với người khác. Họ sẽ nói rằng họ có trách nhiệm với chính mình và thai nhi trước khi làm điều gì hoặc đến với người khác, sợ “động thai”. Nhưng Mẹ Thiên Chúa không đắn đo những điều như vậy. Thánh Êlidabet cũng sẽ sinh con, và dù Con Trẻ trong lòng Đức Mẹ là Thiên Chúa, Đức Mẹ vẫn không thể làm ngơ nhu cầu cảu Thánh Êlidabet – hầu như không thể tin được đối với chúng ta, nhưng đó là tính cách của Đức Mẹ.

Đức Mẹ chào Chị Êlidabet, và vừa nghe lời chào, con trẻ Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Ngay cả trước khi sinh ra, sự hiện diện của Ngài đã đem lại Sự Sống.

Làm sao Thánh Êlidabet biết điều gì đã xảy ra với Đức Mẹ? Điều gì làm Thánh Êlidabet nhận biết Cô em họ cũng đang mang thai như mình, là Mẹ Thiên Chúa? Thánh Êlidabet biết điều đó nhờ con trẻ trong lòng mình, khi con trẻ nhảy mừng trong lòng. Nếu chúng ta thực hành việc suy niệm này, chúng ta sẽ có kinh nghiệm như Thánh Êlidabet.

Nếu Đức Kitô lớn lên trong chúng ta, nếu chúng ta bình an, hồi tưởng, vì chúng ta cho rằng điều đó quan trọng, Ngài sẽ lớn mạnh trong chúng ta; nếu chúng ta nhiệt thành, “vội vã” đến nơi nào đó theo sự thúc giục trong lòng, vì chúng ta tin Chúa Giêsu muốn chúng ta có mặt ở nơi đó, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta được thúc đẩy càng ngày càng nhiều để mà hành động theo sự thúc đẩy theo xung động tình yêu của Đức Kitô. Chúng ta sẽ có câu trả lời theo các xung động này, chúng ta sẽ được đánh động và vui mừng.

Thánh Êlidabet là bổn mạng các thai phụ. Biểu tượng: Thánh Êlidabet chào mừng Cô em Maria, một phụ nữ luống tuổi đang mang thai Thánh Gioan Tẩy giả, Thánh Êlidabet đồng hành với Thánh Dacaria.

Những việc cần làm:

– Đọc Lc 1:39-47, câu chuyện về Cuộc Thăm Viếng. Suy niệm những lời trong kinh Magnificat và kinh Kính Mừng, hai lời cầu nguyện của lễ này. Với những người có con cái, tùy theo tuổi tác, hãy tổ chức một buổi cầu nguyện chung, và rồi cùng thảo luận về ý nghĩa hai lời cầu nguyện này như một gia đình.

– Lễ này nhắc chúng ta sống bác ái với những người hàng xóm và với mọi người. Hãy giúp đỡ mẹ (dù đang mang thai hay không), hãy giúp đỡ người già và các bệnh nhân, nếu có thể thì hãy mời một người nghèo đến cùng dùng bữa với gia đình,...

---------------------------------

 

Suy Niệm 32. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng


-- Lm. Anthony Trung Thành

Lịch sử cứu độ là lịch sử của những cuộc viếng thăm. Đó là những cuộc viếng thăm giữa Thiên Chúa và dân Người. Thật vậy, sau khi hoàn tất công trình tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng luôn viếng thăm để ban ơn và có khi để khiển trách, trừng phạt con người. Khi Adong Evà phạm tội, Ngài viếng thăm để ra hình phạt đồng thời để hứa ban Đấng Cứu Độ (x. St 3,1-24). Rồi, Ngài viếng thăm dân Ngài qua các ngôn sứ và các vị lãnh đạo dân Do Thái: Ngài viếng thăm và thi ân giáng phúc cho ông Ab-ra-ham và hứa sẽ làm cho dòng dõi ông nên đông đúc như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển (x. St 22,17); Ngài viếng thăm Mô-sê qua bụi gai bốc cháy để truyền lệnh cho ông giải thoát dân Is-ra-el ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh 3, 1-12); Ngài ở với ngôn sứ Giê-rê-mi-a để cứu sống và giải thoát (x. Gr 15,20) và Ngài luôn đồng hành với các ngôn sứ để truyền cho họ nói Lời của Ngài cho dân chúng; Cuối cùng, chính Ngài đã viếng thăm nhân loại qua chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Qua đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã viếng thăm gia đình ông Gia-ca-ri-a qua trung gian Đức Maria. Cuộc viếng thăm này có hai chiều kích đặc biệt: chiều kích thứ nhất là chiều kích chia sẻ. Mẹ Maria mang Chúa đến để chia sẻ với bà chị họ. Nhờ đó, Thánh Gioan Tẩy Giả được khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ trong lòng Bà Ê-li-sa-bét. Chính bà Ê-li-sa-bét đã vui mừng thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 43-45). Chiều kích thứ hai là chiếu kích phục vụ. Tin mừng cho biết, Mẹ Maria“ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Khi Mẹ đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét thì bà đã cưu mang Gioan được sáu tháng. Mẹ ở lại đó ba tháng, tức là những tháng cuối cùng trước khi bà Ê-li-sa-bét hạ sinh. Đây là những ngày tháng khó nhọc vất vả nhất của người phụ nữ mang thai. Mẹ biết được như vậy, nên Mẹ đã tự nguyện ở lại đó để chăm sóc, phục vụ, giúp đỡ bà chị họ. Điều đó thể hiện tinh thần thăm viếng mang chiều kích phục vụ của Mẹ.

Về phần Đức Giêsu, sau thời gian sống ẩn dật tại làng quê Na-za-rét, Ngài bắt đầu hành trình truyền giáo là bắt đầu những cuộc viếng thăm: Ngài đi khắp mọi nơi và gặp gỡ mọi người để biến đổi và chữa lành họ; Ngài viếng thăm ông Gia-kêu khi ông đang ngồi trên cây sung; Ngài viếng thăm ông Lê-vi tại bàn thu thuế; Ngài viếng thăm gia đình La-za-rô và cho ông đã chết Bốn ngày được sống lại; Ngài viếng thăm và chữa lành cho mẹ vợ của ông Phê-rô…Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma qủi kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người (x. Cv 10, 36-38). Tin mừng còn cho biết: Nhờ Ngài mà kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được xem thấy, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo khó được nghe Tin mừng. Chắc chắn Mẹ Maria cũng đồng hành với Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường truyền giáo để thăm viếng, an ủi tất cả mọi hạng người trong xã hội. Đặc biệt, Mẹ có mặt tại tiệc cưới Cana để khẩn cầu Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu ngon giúp cho gia chủ trong lúc bế tắc. Mẹ hiện diện dưới chân Thánh giá để lãnh nhận sứ mạng làm Mẹ loài người. Sau khi về trời, Mẹ còn thăm viếng loài người bằng những lần hiện ra nơi này nơi khác như ở Lộc Đức, ở Fatima, ở Lavang…Còn Đức Giêsu, sau khi Phục Sinh, Ngài còn hiện ra nhiều lần nhiều nơi để viếng thăm và cũng cố đức tin cho các Tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên. Có thể nói, những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và của Đức Maria là mẫu mực cho các cuộc viếng thăm giữa con người với nhau qua mọi thời đại. Đó là những cuộc viếng thăm đem lại niềm vui, tình thương và ơn cứu độ.

Các Tông đồ lãnh nhận sứ mạng Đức Giêsu trao phó, tiếp tục ra đi đến với muôn dân. Sách Công vụ Tông đồ kể lại các sinh hoạt của Giáo hội sơ khai cho chúng ta thấy điều đó. Các Ngài ra đi khắp mọi nơi để thăm viếng, rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu đã chết và sống lại. Riêng Thánh Phaolô, sau khi trở lại, Ngài đã thực hiện nhiều cuộc hành trình truyền giáo đến với dân ngoại. Nhờ đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập. Từ đó tới nay, Giáo hội không ngừng ra đi để thăm viếng muôn dân: Đó chính là sự “ra đi” của các nhà truyền giáo, các giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân. Đặc biệt, từ thời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho tới nay, các Đức Giáo Hoàng thường thực hiện những cuộc thăm viếng mang tính quốc tế: Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã có 129 cuộc viếng thăm ngoài thành Rôma. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến viếng thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; viếng thăm vùng Thánh Địa Giêrusalem... Các cuộc viếng thăm của Ngài ảnh hưởng đến việc hòa giải các dân tộc và tôn giáo. Đức Giáo hoàng Benedictô XVI và Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ra đi. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường quan tâm đặc biệt đến các vùng ngoại vi. Ngài đã đến với những người tị nạn tại đảo Lampedusa, trại tù Casal del Marmo…Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy “ra đi” để đem Tin mừng đến với với những người bần cùng nhất, những người sầu khổ, những người còn trong bóng tối tội lỗi. Chính vì thế, các cuộc viếng thăm của Ngài không những đem lại sự hòa hợp các dân tộc mà còn đem lại niềm vui và sự an ủi cho những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.

Viếng thăm cũng là bổn phận của mỗi người chúng ta hôm nay: Viếng thăm để thực hiện bổn phận truyền giáo; Viếng thăm để thực hiện bổn phận liên đới giữa chúng ta với các mối tương quan như ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu. Chúng ta hãy bắt chước gương viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và Đức Maria. Hãy có những cuộc viếng thăm tha nhân một cách vô vị lợi. Hãy viếng thăm tha nhân khi vui cũng như lúc buồn như lời Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Hãy viếng thăm tha nhân trong sự thành thật không giả hình, viếng thăm trong tình yêu thương huynh đệ: “Đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau” (Rm 12, 9-11); “Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà” (Rm 12, 13). Đặc biệt, chúng ta hãy siêng năng viếng thăm những người nghèo đói, bệnh tật, cô thế cô thân, những kè tù đày... để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho họ. Vì khi chúng ta thăm viếng họ là chúng ta đang thăm viếng Chúa. Tin mừng theo Thánh Mathêu, chương 25, Đức Giêsu đã đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” Ngài nói thêm: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”

Ước mong rằng, ngày lễ Mẹ Thăm Viếng hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta luôn biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, đem niềm vui có Chúa và tinh thần phục vụ cho họ như gương mẫu của Đức Maria. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 33. Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét


Nghe tin bà Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria đã vội vã lên đường thăm viếng chị mình. Lý do để mẹ thăm viếng có lẽ rất đơn giản như cách người ta vẫn làm: vừa là để chia vui với chị, vừa để giúp đỡ người chị của mình. Con đường Mẹ phải đi khá dài, khoảng 160 cây số, từ miền quê Nadarét phía Bắc lên miền núi Giuđê phía nam. Người ta ước chừng nếu đi bộ thì khoảng 5-6 ngày. Đó quả là một hành trình nhiều gian khó đối với một người phụ nữ mang thai và thời gian đi với Mẹ chắc cũng sẽ kéo dài hơn.

Chúng ta có thể dễ dàng mường tượng niềm vui diễn ra như thế nào khi hai bà mẹ cùng mang thai này gặp gỡ nhau. Nhưng ở đây, tác giả Tin Mừng còn cho chúng ta thấy một niềm vui sâu xa hơn: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên và bà được đầy Thánh Thần.” Ta tự hỏi khi gặp bà Êlisabét, Mẹ đã chào hỏi thế nào? Tin Mừng không nói rõ, nhưng có lẽ Đức Maria cũng chỉ chào hỏi thông thường như người Do Thái vẫn làm khi gặp gỡ nhau: “Shalom!”, có nghĩa là cầu chúc“bình an”  Nhưng ở đây lời chào của Mẹ không đơn giản là cầu mong bình an, lời chào ấy còn làm cho bà Êlisabét tràn đầy Thánh Thần và đứa con trong bụng nhảy lên vui mừng. Do đâu lời chào của Mẹ làm sao lại có sức mạnh của ân sủng lớn lao đến như vậy?

Khi nói lời “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận sứ mạng cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa. Một khi Mẹ để cho Ngôi Lời chiếm ngự tâm hồn và chính máu thịt Mẹ lại đang nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế, thì mọi lời nói, mọi hành động của Mẹ, dù đơn sơ nhỏ bé nhất, cũng đã trở thành quà tặng mang lại điều kỳ diệu. Một khi tâm hồn trong tình trạng ân sủng, chứa chan ơn cứu độ, thì trong mọi tương quan, bất kỳ lời nói và hành động nào của Mẹ cũng đều mang hoa trái của ân phúc cho những người Mẹ gặp gỡ.

Như thế việc Mẹ Maria thăm viếng bà Êlisabét không chỉ đơn giản là một bài học nhân bản về lòng quảng đại, sẵn sàng giúp đỡ khác. Qua cuộc thăm viếng này, Mẹ Maria đã chỉ ra cho chúng ta con đường để trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô: đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa và lên đường chia sẻ niềm vui cứu độ với tha nhân.

Hai bà mẹ trong Tin Mừng hôm nay, Đức Maria và bà Êlizabét, hớn hở mừng vui, không phải vì được những thứ vật chất để đổi đời, nhưng vì nhận được ân phúc của Chúa, tức là được chính Chúa ngự trong tâm hồn. Những người có Chúa ở cùng, thì biết cách trao tặng chính mình và sống hướng về người khác. Mẹ Maria và bà Êlizabét “hớn hở mừng vui”, nhưng cả hai lại không nói về ơn phúc của chính mình, mà nói về ơn phúc của người khác, vui với niềm vui của người khác. Bà Êlizabét nói về ơn phúc của em mình và ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Còn Đức Maria, sau những lời ngợi khen của bà Êlizabét, Mẹ đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa thay cho cả nhân loại, cho những ai đang khiêm tốn đợi trông ơn cứu độ:

“Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”
Lạy Ngôi Lời nhập thể,
xin hãy đến ở cùng chúng con,
để cuộc đời chúng con đầy tràn niềm vui của ơn cứu độ;
xin biến đổi chúng con thành con người mới trong Chúa,
nhờ đó chúng con có khả năng trao tặng chính mình,
và công bố Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 34. Thăm viếng với niềm vui


“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.” (Lc 1,49)

Suy niệm: “Các cuộc thăm viếng luôn để lại niềm vui, nếu không phải lúc đến, thì cũng lúc ra về” (Ngạn ngữ Bồ Đào Nha). Chắc chắn cuộc thăm viếng của Đức Ma-ri-a ở Ain-Karim đem lại niềm vui lớn lao cho bà Ê-li-sa-bét khi mới đến, cũng như trong suốt thời gian ba tháng sau đó. Khi mới gặp Đức Ma-ri-a, Bà Ê-li-sa-bét đã kêu lớn tiếng, cảm thấy vinh dự được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm mình. Niềm vui ấy đạt đến đỉnh điểm khi thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ, được “giáp mặt” thai nhi Giê-su, được ơn khỏi tội nguyên tổ từ giây phút đặc biệt này. Niềm vui ấy tiếp tục lan tỏa trong mái nhà ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét ba tháng ròng rã khi Đức Ma-ri-a mang danh phận là Mẹ Thiên Chúa, nhưng sống phận nữ tì phục vụ bà mẹ Ê-li-sa-bét trong những ngày chuẩn bị sinh nở người con đầu lòng của mình.

Mời Bạn: Có lẽ thời gian bên gia đình, điện thoại, máy vi tính, thư giãn, tán gẫu… chiếm khá nhiều quỹ thời gian của bạn. Bạn cũng hãy sắp xếp để quan tâm hơn đến bao người đang cần sự viếng thăm thân tình của bạn: người cao tuổi, bệnh nhân, người nghèo… trong giáo xứ.

Sống Lời Chúa: Mỗi tuần tôi dành một giờ đi thăm viếng những người “bé nhỏ” (người nghèo, người đau ốm, neo đơn…) đang cần sự thăm viếng, nâng đỡ, khích lệ của tôi để sống niềm tin.

Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ nêu gương cho con khi danh là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại sống phận nữ tì của Ngài qua việc thăm viếng phục vụ bà Ê-li-sa-bét. Xin cho con nhạy bén trước nhu cầu của những người chung quanh, để con vui vẻ, sẵn lòng dành thời gian thăm viếng họ. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 35. “Mẹ sống để phục vụ, Mẹ đi để trao Chúa Giêsu”


Con Thiên Chúa, từ ngày truyền tin, lại còn là con Đức Maria. Hồng ân ấy, Đức Maria không giữ cho riêng mình, Người đã vội vã lên đường, đi thăm người bà con để chia sẻ cho nhau.

Biến cố gặp gỡ giữa Maria và Elisabeth đã làm nổi bật lên hai đặc trưng: Đức tin và sự trao ban – phục vụ.

1. Đặc trưng niềm tin

Với khoảng cách giữa Nazareth và Ain Carem (khoảng 100km) với liên lạc thời đó, tin tức về một phụ nữ mang thai ở cách xa nhau như thế, Maria chỉ biết được nhờ tin vào Lời Chúa qua miệng thiên sứ Gabriel mà thôi. Niềm tin của Đức Maria được khẳng định khi Mẹ thưa “xin vâng” một cách dứt khoát và điều này được chính bà Elisabeth đã thốt lên lời ca ngợi “phúc cho bà là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).

Từng câu từng chữ trong lời ca tụng của bà Elisabeth đều mang đầy ý nghĩa, nhưng điều bà nói cuối cùng mới thực quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin…” (Lc 1,49). Câu nói này có thể đặt cận kề với tước hiệu “đầy ơn phúc” trong lời chào của thần sứ.

Qua lời chào của thiên sứ Gabriel và lời tán dương của bà Elisabeth dành cho Đức Maria, cho thấy chân lý về Đức Maria hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ vì Mẹ đã tin. Công đồng Vaticano II dạy: “Phải bày tỏ sự vâng phục của đức tin (Rm 16,26; 2Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải, nhờ đó con người hoàn toàn tự nguyện phó thác vào Thiên Chúa”. Cách diễn tả đức tin này đã được Đức Maria thực hiện nơi bản thân mình cách trọn vẹn. Giây phút quyết định là lúc truyền tin, và các lời của bà Elisabeth: “Em thật có phúc vì đã tin” được áp dụng vào giây phút chính xác đó . Với cả lý trí và ý chí, Đức Maria đã đáp lại tiếng Chúa bằng cả con người trọn vẹn đầy nhân tính và nữ tính, và lời đáp trả của đức tin này bao hàm một sự cộng tác hoàn hảo với hồng ân trợ lực của Thiên Chúa và một sự sẵn sàng trọn vẹn cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng dùng hồng ân của mình làm cho đức tin luôn hoàn hảo.

2. Đặc trưng đức ái (trao ban và phục vụ)

Việc Đức Maria vội vã ra đi đến Ain Carem khi vừa được báo tin là người chị họ trong lúc tuổi già đã mang thai được sáu tháng, được thôi thúc bởi ba động lực là để chia sẻ niềm vui, trao ban “ân sủng” và tinh thần đức ái: Đức Maria đến chia sẻ niềm vui kép đôi vì vừa được cưu mang Chúa Giêsu, vừa vui mừng cho bà Elisabeth được Thiên Chúa cất đi nỗi nhục son sẻ của bà; Đức Maria đến để đem Chúa Giêsu đến cho Gioan được nhảy mừng và bà Elisabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần; và Đức Maria đến để giúp đỡ bà Elisabeth trong thời kỳ thai nghén. Tất cả được gói gọn trong một động lực duy nhất là đức ái tuyệt hảo của Mẹ Con Thiên Chúa.

Niềm vui trước hết và trên hết mà Đức Maria muốn chia sẻ chính là niềm vui được Thiên Chúa cứu độ. Được cứu độ là niềm vui lớn nhất mà bao thế hệ đợi chờ, chính vì thế mà Đức Maria, người được cứu độ đầu tiên, tràn ngập niềm vui, vừa cất tiếng chào thì Gioan trong dạ bà Elisabeth cũng nhảy lên vui sướng vì ơn cứu độ đã đến. Đức Maria mang đến cho gia đình bà Elisabeth ân sủng của Thiên Chúa, vì Mẹ tràn ngập ân sủng, nên ân sủng đó trào tràn trên bà Elisabeth làm cho bà cất lớn tiếng và ca ngợi Mẹ Thiên Chúa.

Đức Maria mang trong mình Đấng là ân sủng và được bao quanh bằng ân sủng của Thánh Thần, Mẹ hiểu rõ bản chất của ân sủng không cho phép tích trữ và giữ lấy như của riêng, mà cần phải trao ban, ân sủng không dừng lại nơi Mẹ mà được tặng ban cho con cái loài người. Thật vậy, nếu ân sủng là để phân phát, thì người làm đầu chỉ có thể là để phục vụ (x. Mt 23, 11), và thế giới ân sủng còn là thế giới của tình thương.

Tình thương bao la và cao thượng vốn được xây dựng trên hy sinh và dâng hiến. Nơi đó, không chờ đợi để nhận lãnh hay để được phục vụ, mà là luôn tìm cách trao ban, chia sẻ và hiến tặng.

Tóm lại, qua biến cố Đức Maria thăm viếng bà Êlizabeth, Chúa muốn dạy chúng ta sống tinh thần của Mẹ Maria là sống trong ơn nghĩa của một tâm hồn đầy Chúa, cưu mang Chúa trong trái tim mình, để rồi mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân. Đặc biệt cụ thể hoá việc làm chứng cho Chúa qua chính đời sống phục vụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin phó thác, để chúng con biết xin vâng như Mẹ Maria; xin cũng tăng thêm cho chúng con đức ái, để chúng con biết sống trao ban và phục vụ như Mẹ Maria. Nhờ đó, cùng với Mẹ Maria, chúng con xứng đáng là những người con thảo của Cha trên trời. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 36. Niềm vui thăm viếng


--Huệ Minh

Sau khi sứ thần Gabrien cho biết Đức Mẹ được chúc phúc và cưu mang con Thiên Chúa, Đức Mẹ vui mừng khi người chị họ của mình là bà Êlisabét cũng được chúc phúc. Đức Mẹ đã vội vã lên đường đến thăm chị họ của mình.

Động lực thúc đẩy Đức Mẹ lên đường là do lòng yêu mến và tình người của Đức Mẹ. Khi đã có lòng yêu thương thì có gian nan, xa xôi thì cũng điều vượt qua. Đức Mẹ biết chị họ đã già, lại có thai lần đầu tiên và được sáu tháng nên rất cần người giúp đỡ. Đức Mẹ đã đến ở và giúp người chị của mình. Học nơi mẹ, chúng ta đừng có thái độ làm ngơ hờ hững với anh em họ hàng của mình. Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm giúp đỡ khi họ cần vào lúc thuận tiện có thể. Nhờ đó, chúng ta được thêm niềm vui và anh em mình cũng được hạnh phúc như Đức Mẹ vậy.

Chuyến viếng thăm của Đức Mẹ có bao nhiêu mục đích, song mục đích chính yếu vẫn là chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Dacaria. Gioan vui mừng nhảy lên trong lòng mẹ nhờ gặp gỡ được Đấng Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ. Bà Êlizabeth kêu lớn tiếng và nói: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc... Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em, sau lời chào của Đức Mẹ.

Đức Mẹ không những đem niềm vui cứu độ đến cho gia đình Dacaria mà còn ở lại với bà Êlizabeth độ 3 tháng để giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, bởi hơn bao giờ hết, những ngày tháng sắp sinh nở, và sau khi sinh nở, cần thiết biết bao sự giúp đỡ của người khác. Đức Mẹ đã làm như thế để Êlizabeth hoàn toàn có thể yên tâm trong việc cộng tác phần mình vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1, 45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin". Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ".

Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1, 14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.

Đức Mẹ đi thăm chị họ của mình cũng có thể nói là Mẹ ra đi truyền giáo. Theo Tin Mừng viết thì Đức Mẹ đi một mình. Nhưng với niềm tin của chúng ta, Đức Mẹ đi cùng với Thiên Chúa vì Mẹ đã được Thiên Chúa chúc phúc, được tuyển chọn, là người của Chúa, thuộc về Chúa và cũng đang cứu mang Con Một Thiên Chúa. Như vậy trên đường đến thăm chị họ, Đức Mẹ luôn có Chúa đi cùng. Đức Mẹ đi trong niềm vui và mang niềm vui đến cho mọi người. Niềm vui ấy được thể hiện nơi thai nhi của bà Êlisa bét: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”(x Lc 1,44). Chúng ta hãy bắt chước Mẹ lên đường trong niềm tin rằng chúng ta không bao giờ đi một mình, chúng ta luôn có Chúa thân hành và hiện diện.

Hình ảnh vui tươi phục vụ và nhất là niềm vui mang Chúa đến cho mọi người nơi Mẹ gợi cho chúng ta một cung cách sống quảng đại, yêu thương và dấn thân phục vụ. Noi gương Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi mang Chúa đến cho mọi người, như lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, trên con đường đi thăm viếng bà Elizabeth, đã trở nên ngôi nhà tạm sống động, vì Mẹ đang cưu mang trong cung lòng mình Con Thiên Chúa”. Để có thể thực hiện được điều này, mỗi người chúng ta cần phải có Chúa trong mình, cần phải sống kết hiệp với Chúa, trở nên những ngôi nhà tạm sống động của Chúa. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng cần phải biết siêng năng lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, để có thể lắng nghe và nhận ra được thánh ý Chúa trên cuộc đời mình, từ đó hăng say cất bước ra đi mang niềm vui đến cho mọi người.

Qua cuộc viếng thăm ấy, Đức Mẹ cảm thấy vô cùng hạnh phúc không gì diễn tả nổi. Đức Mẹ đã cất cao bài “Magnificat”. Một bài ca vang mãi muôn đời. Bài hát mà Giáo Hội đã làm lời kinh trong phụng vụ. Cùng với Giáo Hội chúng ta hãy hát lên và sống bài ca ấy. Bài ca của niềm vui trọn vẹn và đích thực. Niềm vui vì nhìn thấy được công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; vui vì tìm được nguồn chân lý, công bằng và sự thật và vui vì con đường đến với Thiên Chúa còn có rất nhiều người cùng đi.

Thăm viếng người khác một cách chân thành với mục đích đem yêu thương, an vui, hạnh phúc đến cho họ là một trong sứ điệp quan trọng của lời Chúa hôm nay. Muốn có thể đem yêu thương, an vui hạnh phúc cho người khác, đòi các tín hữu phải là người có niềm vui cứu độ. Xin Chúa cho các tín hữu luôn biết mở lòng ra cho Chúa đến để khi tâm hôn có Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Mẹ đem niềm vui cứu độ đến với tha nhân.

---------------------------------

 

Thứ 7: 01/06 Th. Giúttinô

Do quyền phép nào?
01/06 –tuần 8 thường niên. – Thánh Giúttinô, tử đạo. Lễ nhớ.
"Ông lấy quyền nào làm sự đó?"

* Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Samari, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ thứ 2. Sau khi tin Chúa Kitô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Kitô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế Antôniô và “Đối thoại với ông Triphông”, tranh luận với người Do thái.
Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rôma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Kitô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Máccô Aurêliô.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Mc 11, 27-33


Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đến Giêrusalem. Và trong khi Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ, thì những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đến hỏi Người: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?"
Chúa Giêsu đáp: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi". Họ liền bàn riêng với nhau rằng: "Nếu chúng ta trả lời "Bởi trời", ông ấy sẽ nói: "Vậy sao các ông không tin Người?" Nhưng nếu chúng ta nói "Bởi người ta", chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri.
Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không biết". Và Chúa Giêsu bảo họ: "Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chúng tôi không biết


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

 “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy
hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” (c. 28).
Ba giới chức cao nhất của Do Thái giáo
đã đặt câu hỏi như vậy với Đức Giêsu khi Ngài đi đi lại lại
trong Đền Thờ Giêrusalem vào những ngày cuối đời.
Ông lấy quyền nào mà dám đuổi những kẻ buôn bán ở đây?
Ông lấy quyền nào mà lật bàn của những người đổi tiền,
và xô đổ ghế của những người bán bồ câu? (c. 15).
Tất cả những người làm chuyện buôn bán
đều nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của Đền Thờ.
Nếu không cho buôn bán ở đây thì người dân lấy gì mà dâng cúng?
Có phải ông định phá hoại các sinh hoạt ở Đền Thờ không?
Tại sao ông dám nói nơi Thánh này đã trở nên hang ổ của bọn cướp?
Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục muốn giết Đức Giêsu (c. 18).
Họ nghiêm chỉnh đến gặp Ngài và đòi Ngài phải trả lời câu hỏi của họ.
Họ muốn biết người nào đã cho Đức Giêsu quyền đó.
Đức Giêsu dùng phương pháp của các rabbi,
trả lời một câu hỏi bằng cách đặt ngược một câu hỏi khác.
“Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi.
Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết
tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (c. 29).
Ngài đặt cho họ câu hỏi về nguồn gốc của phép rửa bởi Gioan:
“Phép rửa của ông Gioan là do Thiên Chúa hay do loài người?” (c. 30).
Câu hỏi tưởng như đơn giản này lập tức đưa họ vào thế kẹt.
Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi Thiên Chúa
thì họ sẽ bị tố cáo vì đã không tin vào lời giảng của Gioan.
Hơn nữa khi tin vào Gioan, họ cũng phải tin vào Đức Giêsu,
Đấng đã được Gioan hết lòng khiêm cung làm chứng.
Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi loài người
thì họ sẽ vấp phải sự chống đối từ phía dân chúng,
vì họ tin Gioan là một vị ngôn sứ đích thực.
Như thế câu hỏi của Đức Giêsu đã đưa họ vào thế tiến thoái lưỡng nan.
Câu hỏi của Ngài dồn họ vào thế phải trả lời:
“Chúng tôi không biết.” (c. 33).
Có thật họ không biết hay chỉ là né tránh sự thật?
Họ đã không tin Gioan, vì sợ tin Gioan sẽ phải tin cả Giêsu nữa.
Nhưng họ lại sợ không dám nói ra điều đó cho dân chúng biết.
Nỗi sợ bị mất uy tín, mất chỗ đứng, khiến họ trở nên câm lặng.
Câu hỏi của Đức Giê su đòi họ trở về với lòng mình
để tự tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi của họ: “Ông lấy quyền nào?”
Quyền của Đức Giêsu là quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi thành kiến và nỗi sợ hãi
để có được sự tự do khi trao đổi với nhau?
Làm thế nào để chúng ta không tìm cách tránh né sự thật,
dù chấp nhận sự thật đòi chúng ta phải thay đổi tận căn và trả giá?
Làm thế nào để chúng ta can đảm nhận mình sai để lại bắt đầu?
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau,
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Truy tìm khôn ngoan


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thượng tế, kinh sư và kỳ mục hỏi Chúa một câu hỏi. Chúa Giê-su trả lời bằng một câu hỏi khác. Theo triết học thì câu hỏi là một truy tìm khôn ngoan. Câu hỏi của các thượng tế hướng về quyền lợi. Đó là khôn ngoan theo trần gian. Vì Chúa Giê-su xua đuổi người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Giới thượng tế mất uy tín và lợi nhuận. Câu hỏi của Chúa Giê-su xoáy vào lương tâm. Hỏi về sự thật. Mở ra khôn ngoan theo Nước Trời. Họ không dám trả lời. Vì nếu trả lời theo lương tâm và sự thật thì họ mất uy tín và quyền lợi. Họ không tìm khôn ngoan. Họ tìm lợi nhuận. Nói đúng ra họ chọn khôn ngoan theo thế gian. Nên không nghe lời Chúa.

Giới kinh sư, thượng tế và kỳ mục không có niềm vui. Vì họ né tránh sự thật. Tuy họ không dám trả lời câu hỏi của Chúa Giê-su, nhưng câu hỏi vẫn còn đó. Chất vấn lương tâm họ. Đặt họ đối diện với sự thật. Vì họ không tìm sự khôn ngoan. Nên lương tâm họ ray rứt. Trái lại tác giả sách Huấn ca tha thiết tìm sự khôn ngoan. Nên tâm hồn ông bình an. Hạnh phúc. Và tin tưởng. “Như hoa tươi nở, tựa chùm nho chín, đức khôn ngoan làm hoan hỷ lòng tôi…Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện, và sẽ không xấu hổ thẹn thùng”. Biết rằng đức khôn ngoan ở nơi Chúa, nên ông tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho sự khôn ngoan. “Nơi thánh điện tôi hằng cầu xin, và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan”. Khi tìm được ông tha thiết giữ gìn: “Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân giữ Lề Luật”. Và ông tạ ơn Chúa ban cho ông sự khôn ngoan: “Trong đức khôn ngoan, tôi tiến lên mãi, và tôi sẽ tôn vinh Thiên Chúa, Đấng đã cho tôi được khôn ngoan”.

Thư Giu-đa rõ ràng hơn. Cho biết do dự là thiếu khôn ngoan. Sẽ dẫn đến hoả ngục. “Đối với những người do dự thì anh em phải thương xót; hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa thiêu”. Người khôn ngoan theo Nước Trời phải dứt khoát mạnh mẽ trung thành với một chọn lựa duy nhất: sống theo đức tin. Tin vào Chúa Giê-su. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Đó là khôn ngoan. Vì sẽ dẫn ta đến sự sống đời đời: “Anh em hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (năm chẵn).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Chất vấn về quyền


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Theo Tin Mừng Marcô, Chúa Giêsu đã bắt đầu tranh luận với những người Do thái không tin khi Chúa Giêsu lên Yêrusalem lần cuối cùng. Bầu không khí đối đầu giữa Chúa và các vị lãnh đạo Do thái khởi sự với biến cố Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Ðền Thờ. Ngày hôm sau, khi Chúa và các môn đệ trở lại Ðền Thờ, các Thượng tế, Luật sĩ và Kỳ mục đến chất vấn Chúa: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?". Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc tranh luận đầu tiên trong năm cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái, trước khi Chúa Giêsu bước vào cuộc tử nạn của Ngài.

Tinh thần chân thành và đối thoại vốn là tinh thần của Phúc Âm. Là con người hiếu hòa, Chúa Giêsu cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Chúa Giêsu lại giữ thái độ yên lặng, như khi Ngài đứng trước Caipha, Hêrôđê, Philatô. Nhưng trường hợp những kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho hoàng đế Cesar không, hoặc có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tính không?

Hôm nay, chúng ta chứng kiến một cảnh đối ngoại, nhưng thật ra đó chỉ là một cách gài bẫy để bắt bẻ Chúa: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?" Chúa Giêsu nhận thấy thái độ không thành thật của họ nên Ngài hỏi vặn lại: "Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?". Cách thức trả lời của những kẻ chống đối Chúa cho thấy họ đã tìm ra giải đáp cho câu hỏi họ đặt ra. Họ không thể chối cãi sự kiện phép rửa của Gioan là từ Trời, do quyền của một vị Tiên tri. So sánh phép rửa của Gioan với những việc làm và những phép lạ của Chúa Giêsu mà họ đã chứng kiến, thì chắc chắn những phép lạ của Chúa hơn phép rửa của Gioan. Do đó, theo lý luận nghiêm chỉnh và thành thật, những kẻ chống đối Chúa phải biết Chúa đã lấy quyền từ đâu để làm các điều ấy.

Như thế, câu hỏi của Chúa Giêsu: "Phép rửa của Gioan là do Trời hay do người ta?" là câu hỏi để đánh thức lương tâm và kêu gọi đến sự thành thật nơi những kẻ chống đối Ngài. Chỉ những ai chấp nhận đi theo con đường sự thật với lòng chân thành, người đó mới vào được Nước Chúa và được cứu rỗi. Ðể có thể vào Nước Chúa, những kẻ chất vấn Chúa trong Tin Mừng hôm nay, cần phải canh tân đời sống, cần phải có lòng chân thành, lương tâm ngay chính và tinh thần phục thiện.

Chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình và xét xem chúng ta đã sống thế nào? Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta nhận biết sự thật, khiêm tốn đón nhận và sống sự thật của Chúa cho đến cùng.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Thượng Hội Đồng chào thua


Đức Giêsu và các môn đệ lại vào Giê-ru-sa-lem. Người đang đi trong đền thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Hay ai đã cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy?” (Mc. 11, 27-28)

Việc tẩy uế đền thờ đến tai nhà chức trách tôn giáo Do thái, không phải chuyện chơi. Người ta cử một phái đoàn chính thức của Thượng hội đồng (gồm các trưởng tế, luật sĩ và trưởng lão) đến điều tra sự việc. Thoạt nhìn, cuộc điều tra có vẻ “lô-gích”. Chúa Giêsu qua hành động mới đây đã đòi cho mình có quyền đối với Nhà Chúa, còn đối với những người Do thái thì đây là một đòi hỏi ngạo mạn chưa từng có. Thực tế, những người đến điều tra đều là những quan tòa nặng óc thành kiến. Họ đến không phải để tìm biết một sự thật, mà là để gài bẫy. Chúa Giêsu trả lời không phải để lẩn tránh vấn đề, nhưng cốt lột cái mặt nạ che dấu tính xảo quyệt của họ: “Vây, phép rửa của ông Gioan là do Trời hay do người ta?” Sau khi cân nhắc ảnh hưởng lợi hại của câu trả lời, những người được sai đi ấy không dám bày tỏ ý kiến riêng, bởi lẽ biết sự thật về ông Gioan thì họ cho là điều ít quan trọng, điều quan trọng đối với họ là phải giữ thể diện. Bởi họ có thái độ như thế, nên Chúa Giêsu nghĩ có nói cho họ biết ý nghĩa thật về sứ mạng của Người thì cũng vô ích. Bởi Người đến không phải để thỏa mãn óc tò mò của con người. Người đến làm cuộc đổi thay những cuộc đời, và để có được sự đổi thay này, bước đầu của con người là phải mở rộng tâm hồn mình ra.

Chúa Giêsu không muốn mở những cuộc phỏng vấn

Kitô giáo không phải là một cuộc đọ tài giữa những kẻ tài trí như những đấu thủ quần vợt giao banh khéo léo và hiểm hóc. Người ta sẽ không tìm đưa ra những lý lẽ chứng minh chân lý đức tin cho những con người không muốn tin. Ai không tự mình khâm phục bản thân con người Đúc Giêsu, thì cũng đừng nghĩ rằng những lý luận hay ho sẽ làm cho người ấy chịu thuyết phục.

Nếu Chúa Giêsu không để cho người ta phỏng vấn hôm nay và giải thích quan niệm của Người về cuộc sống, về thế giới, Người cũng sẽ không bắt ai phải chịu phục Người, bởi lẽ không phải vì những lời giảng giải hay nói truyện của Người mà người ta gắn bó với Người, mà vì Người là ai, sống như thế nào và đã làm gì. Chúng ta không phải là những nhà kỹ thuật đã sáng nghĩ ra một mô hình sống cao hơn, chúng ta là những chứng nhân hèn mọn của AI ĐÓ đã sống đời mình như là Thiên Chúa, đã yêu thương con người đến chết vì con người, nên Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi sự chết và đã ban tặng Người “một Tên cao trọng hơn mọi tên”.

Chúng ta coi chừng đừng ỷ mình hiểu biết về Chúa mà thay đổi được lòng người, chính khi yêu thương mà chúng ta sẽ là những chứng nhân của Tình yêu.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Ai hơn ai?


Sau khi đánh đuổi con buôn trong đền thờ, Đức Giêsu bị các vị lãnh đạo Dothái đến chất vấn Ngài về nội dung việc đuổi dân chúng ra khỏi đền thờ. Đây cũng chính là một trong 5 cuộc tranh luận sôi nổi giữa Ngài với những người lãnh đạo Dothái trước khi chịu chết.

Khởi đi từ việc họ cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”. Đây là câu hỏi ranh mãnh và đầy nguy hiểm. Nếu Đức Giêsu trả lời là Ngài tự ý lấy quyền của riêng mình mà làm vậy, thì họ ngay lập tức có lý để bắt Ngài vì những lời nói đầy ngông cuồng. Nếu Ngài nói là lấy quyền của Thiên Chúa thì họ cũng thừa cớ để loại trừ Ngài vì những lời nói lộng ngôn.

Tuy nhiên, tình thế được lật ngược khi Đức Giêsu đặt họ vào một thế bí khi thức tỉnh lương tâm bằng câu hỏi: "Theo ý các ông, thì công việc của Gioan Tẩy giả là theo ý người ta hay theo ý muốn của Thiên Chúa?". Câu hỏi này đã đẩy họ vào đường cùng, khiến họ gặp phải một nan đề khó giải quyết, bởi lẽ, nếu trả lời là đến từ Thiên Chúa thì họ đoán trước có thể sẽ bị Đức Giêsu nói rằng: tại sao các ông lại chống? Hay nếu đến từ Thiên Chúa thì tại sao không tin Gioan đã làm chứng về Ngài? Và tại sao không công nhận Ngài là Mêsia? Còn nếu nói là đến từ con người thì chắc chắn họ bị dân chúng chống đối và phản loạn, bởi vì Gioan được coi như Ngôn Sứ và là chứng nhân. Đứng trước tình thế bí bách đó, họ chỉ còn biết thốt lên: chúng tôi không biết!

Khi sự thật lên ngôi thì những sự gian trá ranh mãnh phải lui về vị trí của chúng.

Trong xã hội hôm nay vẫn còn đó những người sống giả hình, man trá, tránh né hoặc trốn chạy sự thật. Khi không chấp nhận chân lý, thì họ chỉ còn sống trên sự tàn ác, độc địa, giã tâm khi bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để dồn anh chị em chúng ta vào chân tường.

Tuy nhiên, cũng như những nhà lãnh đạo Do thái thời bấy giờ. Nếu không dám đối diện với sự thật và nâng đỡ nhau trong chân lý, thì ắt sẽ lãnh nhận hậu quả là rơi vào trong tình trạng tuyệt vọng và đáng xấu hổ, lầm lũi ra về.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay sẽ đánh thức lương tâm của mỗi người, nếu chúng ta đang sống trong sự giả trá, thiếu chân thành và không phục thiện.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, chân thành để gặp được Chúa và thuộc về Chúa để được sống đời đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ------------------------------

 

Suy Niệm 6: Khiêm tốn đón nhận sự thật


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Có nhiều người đến gặp Chúa Giêsu với nhiều mục đích khác nhau. Hôm nay, các thượng tế, các kinh sư, và các kỳ mục đến để bắt bẻ, gài bẫy Chúa. Chúng ta thường đến gặp Chúa với mục đích gì?

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi gặp những người đối thoại muốn bắt bẻ điều chi, thì Chúa chứng tỏ sự trổi vượt của Chúa bằng sự im lặng, như khi Chúa đối diện với vua Hêrôđê, hoặc với quan Philatô. Bởi vì đạo Chúa không phải là cuộc đấu trí giữa những người thông minh khéo léo. Chúa cũng không đến để thỏa mãn tính tò mò của con người. Nhưng Chúa đến để thay đổi đời sống của nhân loại. Tuy nhiên, muốn đổi mới cuộc sống, con người cần mở rộng lòng mình để đón nhận chân lý.

Lạy Chúa, Chúa không chỉ hướng dẫn con bằng lời nói, nhưng trên hết, Chúa đã để lại mẫu gương sống động về tình yêu. Xin giúp con biến đổi bản thân mình bằng cách sống yêu thương, chứ không phải bằng sự hiểu biết lý thuyết về Thiên Chúa. Và xin loại khỏi con những thành kiến để con có thể chấp nhận tất cả mọi người với lòng yêu mến chân thật. Ước gì qua những lần gặp gỡ anh em, con biết biểu lộ tấm lòng chân thành, biết tôn trọng và yêu mến họ, vì tất cả mọi người đều được Chúa yêu thương. Con quyết tâm bắt tay anh em như một cử chỉ cảm thông yêu mến. Con dốc lòng sẽ nói lời dịu dàng để nối kết tình nghĩa anh em.

Lạy Chúa, những ai đi theo con đường sự thật với lòng chân thành, sẽ được vào Nước Chúa và mới được cứu rỗi. Chúa đã dạy con biết sự thật và muốn con khiêm tốn đón nhận sự thật ấy. Xin giúp con biết sống chân thành theo sự thật của Chúa cho đến cùng. Amen.

Ghi nhớ: “Ông lấy quyền nào làm sự đó?”

------------------------------

 

Suy Niệm 7: Tranh luận về quyền của Đức Giêsu


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Việc Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong Đền thờ đã khiến các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão nổi giận. Họ đến chất vấn Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm sự đó”?

Đức Giêsu không tự đưa ra câu trả lời, nhưng hỏi ngược lại họ về nguồn gốc của phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Không phải ngài tránh né vấn đề, nhưng là cách Ngài khuyến khích họ suy nghĩ: nếu họ đừng có thành kiến nhưng biết sáng suốt nhận định thì họ sẽ thấy rõ sứ mạng của Gioan là bởi trời, và sứ mạng cùng quyền năng của Đức Giêsu cũng bởi trời.

Nhưng vì họ muốn bám chặt vào thành kiến nên họ đã không chịu suy nghĩ. Họ hỏi Đức Giêsu không phải để tìm biết sự thật mà tin, nhưng để lập mưu tìm kế giết Chúa. Họ là hạng lòng khác miệng khác, hay đúng hơn là “khẩu phật tâm xà”.

2. Sau việc Đức Giêsu đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền thờ, những người cầm đầu Do thái căm giận Đức Giêsu. Họ đã ra lệnh bắt Ngài. Nhưng họ chưa dám cương quyết thi hành, vì sợ dân chúng. Trong lúc chờ cơ hội, họ tìm đến mở cuộc tranh luận với Ngài.

Qua sự kiện đó, các thượng tế và kỳ lão trong đền thờ hội họp nhau lại để chất vấn Chúa. Họ hỏi Chúa hai câu: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy”, “Ai đã ban quyền ấy cho ông”? Cả hai câu hỏi đó đều minh chứng họ không tin gì vào sứ mệnh thần linh của Đức Giêsu. Họ không hỏi để biết nhưng là để gài bẫy Chúa và muốn đưa Ngài vào ngõ bí.

3. Tinh thần chân thành và đối thoại là tinh thần của Phúc âm. Là con người hiếu hòa, Đức Giêsu cũng tỏ ra chân thành và thích đối thoại. Tuy nhiên, khi những người đối thoại với Ngài tỏ ra gian manh, thì Đức Giêsu lại giữ thái độ yên lặng, như khi Ngài đứng trước Caipha, Hêrôđê, hay Philatô. Nhưng trường hợp những kẻ đối thoại bắt bẻ điều gì, thì Chúa lại chứng tỏ sự trổi vượt của Ngài. Ngài cũng đáp lại bằng một phương thế khác, khi những người đối thoại muốn gây áp lực để buộc Chúa phải trả lời, như khi họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho hoàng đế César không, hoặc có nên ném đá người phụ nữ  bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình không?

4. Nhưng hôm nay, đúng là “vỏ quít dầy có móng tay nhọn”, thay vì trả lời, Đức Giêsu đảo ngược thế cờ bằng cách đưa ra một câu hỏi ngược lại: “Các ông trả lời cho tôi biết: “Phép rửa của Gioan bởi đâu? Bởi trời hay bởi người ta”?

Bây giờ đến lượt họ lúng túng. Nếu trả lời bởi trời, thì tại sao lại không tin Chúa, vì Gioan Tiền Hô đến trước để loan báo về Đấng Cứu Thế, do Thiên Chúa sai đến và có uy quyền Thiên Chúa. Ngược lại, nếu trả lởi bởi người ta thì sẽ gặp phản ứng của dân chúng, vì họ tin Gioan là tiên tri bởi trời đến  loan báo về Đấng Cứu Thế.

Trả lời đằng nào cũng không được, nên họ cũng khôn khéo trả lời: “Chúng tôi không biết”, đây là một lần nói dối công khai trước Chúa và mọi người. Nhưng Chúa biết và Chúa trả lời: “Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy”.

5. Các nhà lãnh đạo Do thái luôn có thành kiến với Đức Giêsu nên họ không chịu nhận ra sứ mạng cao quí của Ngài. Thành kiến là ngục tù giam hãm con người. Thành kiến làm cho người ta phán đoán sai lệch vì “Đã thương quả ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”.

Có một nhà thiên văn nọ sáng chế được một viễn vọng kính. Đêm nọ ông bỗng phát hiện một con rồng trên mặt trăng. Ông chạy khắp thành phố  mời bạn bè đến xem khám phá của ông. Mọi người đến xem tấm tắc khen ngợi tài năng của ông. Nhưng trong đám đông hiếu kỳ, có một nhà thiên văn học kỳ cựu cũng đến để tìm hiểu thực hư. Vừa đưa mắt vào viễn vọng kính, ông mỉm cười một cách bí ẩn rồi mở ống kính ra, cho mọi người thấy một con ruồi đã chết cứng trong đó. Thì ra con rồng trên mặt trăng không là gì khác hơn là con ruồi nằm trong ống kính.

Chúng ta dễ có khuynh hướng nhìn người khác qua lăng kính  những thành kiến có sẵn.

6. Truyện: Gậy ông đập lưng ông.

Hẳn chúng ta đã nghe câu chuyện “Cò với Cáo”. Chuyện kể thế này: Có một dạo cáo và cò rất hay thăm viếng nhau, có vẻ như hai người bạn thân. Rồi cáo mời cò đến ăn cơm, và để chơi xỏ bạn, cáo chỉ đặt trước mặt cò một chiếc đĩa bằng.

Món này thì cáo liếm sạch dễ dàng, nhưng cò chỉ nhúng ướt  đầu cái mỏ của mình trong đĩa xúp và ăn xong vẫn thấy đói. “Xin lỗi”, cáo nói: “Món xúp này không hợp với bạn”.

 “Thôi mà, đừng xin lỗi”, cò nói: “Hy vọng rằng mình đã đến chơi với bạn thì bạn cũng ghé chơi với mình, mai kia mời bạn đến chơi ăn cơm với mình nhé”. Và đôi bạn xếp ngày  cho cáo đến thăm cò. Lúc cáo đến, cả hai ngồi vào bàn ăn.

Mâm cơm hôm đó chỉ có một cái bình, cổ dài, miệng hẹp, cáo không thể nào cho mồm vào được, chỉ ngồi đó mà liếm bên ngoài bình. Cò liền nói: “Ăn như thế này mình chẳng có gì phải xin lỗi, ác giả ác báo mà”.

------------------------------

 

Suy Niệm 8: Quyền nào mà làm?


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

1. Việc Chúa Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong đền thờ đã khiến các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão nổi giận. Họ đến chất vấn Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó?"

2. Chúa Giêsu không tự đưa ra câu trả lời, nhưng hỏi ngược lại họ về nguồn gốc phép rửa của Gioan tẩy giả. Không phải Ngài tránh né vấn đề, nhưng đây là cách Ngài khuyến khích họ suy nghĩ: nếu họ đừng có thành kiến nhưng biết sáng suốt nhận định thì họ sẽ thấy rõ sứ mạng của Gioan là bởi trời, và sứ mạng cùng quyền năng của Chúa Giêsu cũng bởi trời.

3. Nhưng vì muốn bám chặt vào thành kiến nên họ đã không chịu suy nghĩ.

B.... nẩy mầm.

1. Thành kiến là ngục tù giam hãm con người. Thành kiến làm cho người ta phán đoán sai lệch "Thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng"; "Đã thương quả ấu cũng tròn, không thương bồ hòn cũng méo". Tôi có thành kiến không? Thành kiến với ai? Thành kiến chuyện gì?

2. Chúa cũng thích đối thoại với tôi. Nhưng nếu Ngài bảo "Hãy trả lời Ta đi" mà tôi tránh né "Con không biết", thì Ngài cũng lại nói "Vậy thì Ta cũng không nói cho con biết". Xin cho con biết lắng nghe những câu Chúa chất vấn con. Xin cho con cảm đảm trả lời thành thật. Và xin cho con được biết Chúa muốn dạy con làm gì.

3. Có một nhà thiên văn nọ sáng chế được một viễn vọng kính. Đêm nọ ông bỗng phát hiện một con rồng trên mặt trăng. Ông chạy khắp thành phố mời bạn bè đến xem khám phá của ông. Mọi người xem đều tấm tắc khen ngợi tài năng của ông. Nhưng trong đám đông hiếu kỳ, có một nhà thiên văn học kỳ cựu cũng đến để tìm hiểu thực hư. Vừa đưa mắt nhìn vào viễn vọng kính, ông mỉm cười một cách bí ẩn rồi mở ống kính ra, cho mọi người thấy có một con ruồi đã chết cứng trong đó. Thì ra con rồng trên mặt trăng không là gì khác hơn là con ruồi nằm trong ống kính.

Chúng ta dễ có khuynh hướng nhìn người khác qua lăng kính những thành kiến có sẵn.

4. "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?" (Mc 11,28)

Các thượng tế và ký lục đã chất vấn Chúa Giêsu như thế, khi Người xua đuổi những kẻ buôn bán trong đền thờ.

Tôi cũng là đền thờ của Chúa nhưng tội lỗi đã làm ô uế đến thời ấy. Tôi cũng hỏi Chúa câu trên khi Ngài yêu cầu tôi đánh đổ những thành kiến, xua đuổi các tật xấu và ý nghĩ xấu xa...

Chúa Giêsu muốn con người hiểu rằng Ngài có quyền đòi hỏi mọi người phải tôn trọng đền thờ Cha Ngài.

Tại sao tôi lại chất vấn quyền của Chúa nhỉ?

Lạy Chúa, xin cho con đừng tra hỏi Ngài nhưng biết khẳng định quyền của Ngài trên đời sống hàng ngày của con. (Hosanna).

------------------------------

 

Suy Niệm 9: Cố gắng mà đối xử tốt với nhau


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Các thượng tế và Kinh sư dùng một câu hỏi hóc búa để gài bẫy Chúa: Ông lấy quyền nào mà làm các chuyện ấy (tức là truyện Thanh tẩy Đền thờ).

* Nếu Chúa trả lời ngài lấy quyền của Thiên Chúa thì họ sẽ có đủ lý do để tố cáo và bắt giết Ngài, vì theo luật lệ của họ, ai xưng mình là Thiên Chúa thì đáng tội chết.

* Nếu Chúa nói ngài tự lấy quyền mình mà làm thì trước mắt họ Ngài là một người vô danh tiểu tốt mà dám chống lại hàng thượng tế và Kinh sư sao được, như thế ngài cũng mắc tội

Nhưng họ thật không ngờ là Chúa đã dùng ngay cái bẫy họ giăng để làm họ bị kẹt, không trả lời được. Chúa hỏi: “Tôi cũng xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy? (Mc 11, 30) Họ không trả lời được. Chân họ đã vướng vào bẫy do chính mình bày ra. “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông biết là tôi lấy quyền nào mà làm” (Mc 11, 33). Thế là huề cả làng.

2. Vâng chúng ta hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau.

Người ta thường nói: ác giả ác báo. Đi đêm nhiều thế nào cũng có lúc gặp ma; cố tình làm điều ác, làm điều dữ thì sẽ có ngày bị trừng phạt. Đó là lẽ thường tình của cuộc sống.

Hẳn mỗi người chúng ta còn nhớ câu truyện giữa cò với cáo. Truyện thế này: Có một dạo cáo và cò chơi thân với nhau. Chúng rất hay thăm viếng nhau, chẳng khác gì hai người bạn thân. Một hôm cáo mời cò đến ăn cơm, và để xỏ bạn, cáo chỉ đặt trước mặt cò một chiếc dĩa trẹt. Với món ăn ở trong dĩa này, thì cáo có thể liếm sạch một cách dễ dàng, nhưng cò chỉ có thể nhúng ướt đầu cái mỏ dài của mình trong dĩa xúp và ăn xong vẫn thấy đói. “Xin lỗi”, cáo nói, “món xúp này có lẽ không hợp với bạn”.

Cò cũng chẳng vừa, nó nói:

- Thôi mà, đừng xin lỗi. Hy vọng rằng mình đã đến chơi với bạn thì bạn cũng ghé chơi với mình, mai kia đến chơi ăn cơm với mình nhé

Và đôi bạn thu xếp hẹn ngày cho cáo đến thăm cò. Lúc cáo đến, cả hai ngồi vào bàn ăn. Mâm cơm hôm đó chỉ có một cái bình, cổ dài, miệng hẹp, cáo không thể nào cho mồm vào được, chỉ ngồi đó mà liếm bên ngoài bình.

- Ăn như thế này, mình chẳng có gì phải xin lỗi, ác giả ác báo mà. Cò nói.

Ngược lại, khi chúng ta cố gắng ăn ngay ở lành thì niềm vui, ơn lộc sẽ đến với chúng ta.

Đây là câu chuyện từ Internet:

Hôm đó, tôi đến một tiệm hoa nhỏ để mua hoa. Sau khi nghe tôi kể tên một số loại hoa tôi định mua, cô gái bán hoa quay người vào trong phòng trữ hoa. Sau đó, tôi nghe thấy có tiếng nói chuyện thì thầm từ trong phòng vọng ra.

Tôi tự hỏi, không biết cô ta nói chuyện với ai vậy?

Không kiềm chế nổi sự tò mò, tôi gõ cửa hỏi cô ta:

- Cô đang nói chuyện với ai vậy?

Cô quay đầu mỉm cười, trả lời:

- Tôi đang nói chuyện với hoa của tôi.

Tôi vô cùng ngạc nhiên, hỏi lại:

- Nói chuyện với hoa của cô ư?

Bằng đôi tay mảnh mai đang bận rộn chọn những bông hoa cho tôi, cô đáp lại:

- Tôi trò chuyện với hoa của tôi. Nói với bông hoa này, mi nở tốt lắm, rực rỡ lắm, nhưng ta cũng không giữ nổi mi lại đâu. Rồi tôi nói với bông hoa kia, mi vội gì chứ, nụ hoa vẫn còn chặt như thế, một hai ngày nữa bán vẫn chưa muộn.

Tôi sững sờ đứng nghe. Sau khi từ biệt cô gái, trong lòng tôi tràn ngập cảm giác khó tả, bất giác tôi nhớ đến một câu chuyện khác.

Một tài xế lái xe buýt trên một tuyến đường ngoại ô. Ngày nào anh cũng vui vẻ lái xe trên con đường đầy cát bụi này. Cô nhân viên bán vé trêu anh:

- Chẳng ai được như anh, ngày nào cũng có hẹn.

Anh ấy hạnh phúc mỉm cười, hỏi:

- Ghen tị rồi phải không?

Hành khách đều đoán già đoán non, chắc là chàng trai này có người yêu ở vùng ngoại ô.

Chiếc xe buýt lắc lư tiến về phía trước trên con đường đầy ổ gà. Gần đến một thôn nhỏ, cô nhân viên bán vé phấn khích chỉ vào một chiếc ao trước mặt nói:

- Vẫn còn ở đó? Không sai một phút!

Người lái xe bấm còi, 3 tiếng ngắn, 1 tiếng dài giống như “ám hiệu”.

Hành khách ngẩng cổ lên nhìn: Trời ơi, hóa ra là một bầy ngỗng trắng! Nghe tiếng còi xe, chúng lập tức dang rộng đôi cánh tranh nhau chạy về phía chiếc xe, vừa chạy vừa vui sướng kêu lên, giống như những cô gái chờ đợi lâu ngày mới gặp được người yêu.

Chàng lái xe hò hẹn với những con ngỗng trắng, cô gái thì thầm to nhỏ với những cành hoa, khiến tôi hiểu được một điều: cuộc sống có thật nhiều niềm vui nếu ta biết trân trọng nó.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở nên những chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa anh chị em xung quanh chúng con. Amen.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây