Dụ ngôn tá điền sát nhân. 03/06 – Thứ Hai tuần 9 thường niên. – Thánh Carôlô Loan-ga và các bạn, tử đạo. Lễ nhớ. "Chúng bắt cậu con trai giết đi và quăng xác ra vườn nho".
* Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó chỉ mới là Kitô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được cha Carôlô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.
Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: "Có người trồng một vườn nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê vườn nho và trẩy đi phương xa.
"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết. Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị chúng giết chết.
"Ông chỉ còn lại một cậu con trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng: "Chúng sẽ kiêng nể con trai ta". Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: "Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta". Ðoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng ta".
Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.
Dụ ngôn Đức Giêsu kể trong bài Tin Mừng hôm nay làm ta khó chịu. Chúng ta không chấp nhận được sự độc ác của những tá điền, những người làm công cho ông chủ, và có bổn phận phải nộp hoa lợi vườn nho cho ông khi đến mùa. Tại sao họ lại đánh đập người đầy tớ đầu tiên do ông chủ sai đến? Tại sao họ lại tiếp tục đánh đập và làm nhục người đầy tớ thứ hai? Tại sao họ dám cả gan giết người thứ ba và tiếp tục làm như thế với nhiều đầy tớ khác? (cc. 2-5). Cuối cùng, ông chủ đã sai đến với các tá điền người con yêu dấu của mình, người cuối cùng trong số những người được ông sai. Ông nghĩ người con của ông sẽ có đủ uy tín để khiến các tá điền phải vị nể. Nhưng đáng thương thay, cậu con thừa tự dấu yêu đã bị bắt, bị giết và bị quăng xác ra ngoài vườn nho. Chúng ta không hiểu được sự độc ác tàn nhẫn của các tá điền. Nhưng chúng ta lại càng không hiểu được sự cam chịu kiên trì và sự ngây thơ lạ lùng của ông chủ. Tại sao ông lại không phản ứng mạnh mẽ ngay từ tội ác đầu tiên? Tại sao ông lại thiếu cương quyết khiến cho nhiều đầy tớ, và chính con yêu dấu của mình phải chết như vậy? Dụ ngôn Đức Giêsu kể nhắm vào các nhà lãnh đạo Do thái giáo, những thượng tế, kinh sư và kỳ mục (Mc 11,27; 12,12). Các đầy tớ trong dụ ngôn là những ngôn sứ đã được sai đến với dân Ítraen. Các tá điền chính là những nhà lãnh đạo dân Ítraen từ bao đời. Người con yêu dấu chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, người đã được Thiên Chúa gọi là Con yêu dấu khi chịu phép rửa và khi được biến hình (Mc 1, 11; 9, 7). Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu báo trước cuộc khổ nạn và cái chết sắp đến bởi tay các nhà lãnh đạo đang đứng trước mặt Ngài đây. Thiên Chúa như ông chủ vườn nho đau khổ, có sức chịu đựng vô bờ dù bao lần dân Ítraen quay lưng từ chối. Nhưng cuối cùng ông sẽ tiêu diệt các tá điền và giao vườn nho cho người khác. Như thế dụ ngôn này vẫn mang nét tươi, vì mọi sự không chấm dứt với cái chết của người con. Tảng đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc (c. 10). Đức Giêsu phục sinh chính là tảng đá góc cho một tòa nhà mới. Đó là cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài, thuộc cả dân Do thái và dân ngoại. Cả một lịch sử cứu độ nằm trong một dụ ngôn, mới nhìn có vẻ buồn. Nhưng nơi đây ta bắt gặp tình yêu Thiên Chúa làm chủ suốt dòng lịch sử. Một tình yêu kiên nhẫn chịu đựng, có vẻ dại dột và ngây thơ. Một tình yêu bị bẽ bàng và làm nhục qua cái chết của Người Con yêu dấu. Nhưng cuối cùng tình yêu ấy đã chiến thắng vẻ vang nơi sự phục sinh, và nơi công trình kỳ diệu là Giáo Hội (c.11). Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái, đây là niềm tin của con. Con tin Cha là Tình yêu, và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con. Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa, cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt, cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân, con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái. Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại, chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha. Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất cũng có một đốm lửa của sự thiện, được vùi sâu dưới những lớp tro. Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ. Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích, thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người. Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng. Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu. Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ đang chuyển mình tiến về với Cha, qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần. Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau, vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến, để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con. Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen. -------------------------------
Mọi sự là của Chúa. Đó là chân lý nền tảng. Chúa tạo dựng con người từ hư vô. Chúa còn chăm sóc ân cần. Đó là hình ảnh cây nho và vườn nho mà Chúa dành hết tâm lực chăm chút. “Có người kia trồng được vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi phương xa”. Chúa tạo dựng vũ trụ. Cho con người làm chủ. Để xây dựng phát triển. Nhưng con người không ý thức thân phận của mình. Muốn chiếm đoạt của Chúa. Muốn tự tung tự tác. Muốn giết chết Chúa. Để mình hoàn toàn làm chủ vũ trụ này. “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta”. Thật là sai lầm. Khi loại trừ Thiên Chúa thế giới sẽ thành hỗn độn. Con người sẽ bị tiêu diệt. “Ông sẽ tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác”.
Tô-bít là người ý thức điều đó. Ông biết mọi sự là của Chúa ban. Nên ông luôn muốn chia sẻ với anh em. “Ngày lễ Ngũ Tuần…người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với tô-bi-a, con tôi: “Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Theine Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha”. Nhận biết Chúa làm chủ vũ trụ và làm chủ đời mình. Ông luôn “ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi”. Tôn thờ Chúa hơn vua chúa trần gian. Giữ luật Chúa hơn luật trần gian. Nên ông lo chôn cất người chết, dù bị cấm đoán. Và có thể bị nguy đến tính mạng. Và bị láng giềng chế nhạo: “Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!” (năm lẻ).
Thánh Phê-rô khuyên nhủ ta hãy ý thức điều đó. Tất cả là của Chúa ban để giúp ta được hạnh phúc. “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa”. Vì thế thánh nhân khuyên nhủ ta hãy biết phát triển những ơn Chúa ban: “Chính vì thế anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại có thêm bác ái”. Có bác ái ta sẽ ở trong Chúa. Đó là hạnh phúc. Đó là đích điểm đời ta (năm chẵn).
Đừng loại trừ Chúa. Đừng giết chết Chúa. Vì sẽ làm cho đời ta héo úa tàn lụi. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống theo Lời Chúa. Thế giới sẽ an vui phát triển.
Tin Mừng hôm nay nói về vườn nho của Chúa được trao cho các tá điền để làm sinh lợi thêm những hoa trái mới. Vườn nho cũ là Israel đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, nhưng những kẻ có trách nhiệm chăm sóc vườn nho ấy đã không chu toàn bổn phận của mình; còn vườn nho mới chính là Israel mới, tức Giáo Hội đã được Chúa Giêsu thiết lập và trao cho những tá điền mới. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn các vị lãnh đạo Do thái thời đó hiểu rằng giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã bắt đầu và không còn ngược lại được nữa; lòng độc ác của những tá điền không thể phá hủy chương trình hành động của Thiên Chúa, Ðấng nhân từ, kiên nhẫn, nhưng cũng rất công bằng và đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Những chi tiết trong dụ ngôn vườn nho gợi lên những giai đoạn của lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại. Cái chết của người con của ông chủ vườn nho thoạt xem ra là kết quả của lòng thù ghét của con người đối với Thiên Chúa. Như những tá điền muốn giết người con được sai đến để cướp vườn nho khỏi tay ông chủ, những kẻ thù nghịch Thiên Chúa cũng muốn loại bỏ Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, để tự do làm chủ vận mệnh nhân loại. Qua hình ảnh tảng đá xây đã trở nên đá tảng góc tường, Chúa Giêsu mở ra chìa khóa để con người có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa liên hệ đến việc cứu chuộc của Ngài.
Chúa Giêsu Phục Sinh sau biến cố Vượt Qua của Ngài đã trở thành nền tảng cho vườn nho mới là Giáo Hội. Giáo Hội và mỗi thành phần Giáo Hội đều thuộc về Chúa Kitô. Mỗi người phải xây dựng và phát triển đời sống mình trên nền tảng duy nhất là Chúa Kitô. "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", đó là bí quyết của mỗi môn đệ Chúa Kitô ở mọi thời và mọi hoàn cảnh, đó là bí quyết duy nhất để Chúa Kitô trở thành đá tảng nâng đỡ đời sống người Kitô hữu.
Lời của Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta trước trách nhiệm phải làm sao để dung mạo của Chúa được chiếu tỏa trong đời sống chúng ta và trong Giáo Hội. Chúa Giêsu là Ðá Tảng góc tường, là nền tảng và là sức sống cho cuộc đời chúng ta, xin cho chúng ta đừng bao giờ lìa xa Chúa.
Đức Giêsu bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không.” (Mc. 12, 1-3)
Nếu chúng ta coi dụ ngôn những tá điền sát nhân là một câu truyện vĩ đại, một câu truyện rất vĩ đại có nhiều điều khó tin, thì đối với những người Do thái được nuôi dường trong văn hóa Kinh thánh, nó là một lời tiên tri trong sáng. Đối với chúng ta, vườn nho là vườn nho cho dù có rộng mênh mông đến thế nào, thì thái độ khờ khạo của ông chủ vườn nho cũng vượt xa giới hạn của vườn. Còn đối với những người đầy tớ cũng như người con trai cứ ngoan ngõan tới cho người ta lần lượt giết chết, thiết tưởng cũng cảm động, nếu như họ không phải là những người quá điên khùng. Đối với thính giả Do thái, dù là người ít thông thạo nhất về thể văn, thì vườn nho đáng thèm khát biết bao kia chính là Israel và họ chẳng cần phải giải thích chút nào mới nhận ra được các ngôn sứ là những người đầy tớ bị hành hạ và Đức Giêsu là người Con yêu dấu.
Những dụ ngôn rất thường là những chứng cứ Kinh thánh vốn không có gì bí ẩn đối với những người đương thời của Chúa Giêsu. Đó là tranh ảnh riêng của họ, không cần đến lời giải thích. Hiển nhiên khi chúng ta buộc phải soạn ra ít lời giải thích giá trị của những hình ảnh hay họa phẩm của ta, thì điều khó nói, khó diễn tả vẫn là nét truyền cảm toát ra từ tranh ảnh hay bức họa đó. Đó chính là trường hợp những dụ ngôn của Chúa Giêsu, những dụ ngôn đó là ngôn ngữ gia đình, là tiếng nói thân thương của họ, đang khi đối với chúng ta nó là những ẩn ngữ hay trò chơi tìm ô chữ vậy.
Chúa Giêsu với lai lịch của Người
Mục sư Bonhoeffer viết: “Ai muốn đi vào và cảm nghiệm quá vội vã và quá trực tiếp cái hồn của Tân ước, thì người đó, theo ý kiến tôi không phải là Kitô hữu…Người ta không thể cũng không nói ra được tiếng cuối cùng trước khi nói ra tiếng áp chót.” Để có thể cảm nhận được Chúa và sứ điệp của Người, ta phải nhận biết không những nguồn gốc thần linh của Người mà cả những gốc rễ nhân loại từ đó Người cũng hoàn toàn được sinh ra như được sinh ra từ Cha Người Đấng ngự trên trời. Cũng vậy, Cựu ước được Chúa mạc khải như Tân ước, và Cựu ước cũng là Lời Chúa như Phúc âm, thiết tưởng không phải là điều để ta không quan tâm.
Chúa Giêsu không phải từ trời rơi xuống, Người sinh ra trong một dân tộc, Người đã có những tổ tiên mà người ta gọi là các tổ phụ và các tiền hô là những ngôn sứ vậy.
Vào thời Đức Giêsu, Dân Do thái đang bị đô hộ bởi đế quốc Lamã. Đất đai được chia thành nhiều vùng khác nhau. Chủ nhân của những vùng đất rộng lớn này chính là những người ngoại quốc.
Họ làm chủ đất đai, nhưng ít khi chính họ canh tác, nên thường cho nông dân là người Do thái thuê lại, hoặc cũng có thể họ trồng trọt, nhưng việc chăm sóc thì họ thuê. Đến mùa, những ông chủ chỉ đến để thu lợi nhuận từ chính những bàn tay lao động cực nhọc của những người làm công. Vì thế, những nông dân này căm thù sâu sắc đối với các chủ nhân ngoại quốc.
Khi sống trong thân phận nô lệ như vậy, cộng thêm sự kích động từ ngoại cảnh, nên những tá điền này sẵn sàng đang tay giết chết những người do ông chủ sai đến, bởi họ vẫn biết rằng pháp luật thừa nhận quyền sở hữu của những người chiếm giữ đất hoang.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chỉ ra sự nông nổi, nhẹ dạ của họ khi chủ mưu giết ngay cả người thừa tự để hy vọng chiếm giữ đất đai của ông chủ, bởi lẽ ông chủ sẽ đến và lấy lại đất đai để trao lại cho người khác, khi đó, họ sẽ trắng tay.
Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn vạch trần những âm mưu của giới lãnh đạo Dothái đang tìm mọi cách để giết Đức Giêsu; đồng thời Ngài muốn gửi đi một thông điệp căn bản, đó là: yêu thương sẽ xóa đi hận thù. Còn hận thù sẽ dẫn đến chết chóc, bởi sự hận thù chẳng khác gì cái hố chôn kẻ hận thù trước rồi mới chôn đối phương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống yêu thương nhau. Khi sống yêu thương, chúng ta đã hành động như chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Chỉ có tình yêu mới có thể biến thù thành bạn; cũng chỉ có tình yêu, chúng ta mới giúp nhau nên thánh ngang qua những yếu đuối, vụng về của thân phận con người. Hãy nhớ lời thánh vịnh 118 mà hôm nay Đức Giêsu đã lặp lại: "Tảng đá thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường".
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta hiểu rằng: Cái chết của Chúa là hệ quả của một sự thù hằn, ghen ghét, nhưng ngang qua cái chết vì tình yêu, Chúa đã biến nó thành quà tặng quý giá dâng lên Thiên Chúa Cha và trao tặng cho con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khơi lên ngọn lửa yêu mến nơi tâm hồn chúng con, để chúng con cùng nhau xây dựng tình thương, công bình và chân lý trong cuộc sống của mình. Amen.
Sứ điệp: Đến muôn đời, Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu thương mà Người đã thực hiện chương trình cứu độ. Dù ta phá vỡ chương trình của Người, Người vẫn một lòng yêu thương và tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.
Cầu nguyện: Lạy Cha, trong thực tế có lẽ không người cha nào lại làm như Chúa Giêsu kể trong dụ ngôn. Không người cha nào đủ kiên nhẫn và quá dại dột như vậy. Nhưng chính vì vậy mà con cảm nhận Cha yêu thương con vô cùng. Vì yêu thương con mà Cha đã ban cho con các tổ phụ, các tiên tri, và sau cùng là chính Chúa Giêsu, người Con Yêu Dấu của Cha. Con xin cảm tạ tình thương bao la ấy.
Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn chứng minh cho con thấy rằng tình yêu thương của Cha thì nhẫn nại, bao la, và có thể nói là điên rồ vì yêu thương con người, cho dù tội ác của con người càng lúc càng gia tăng. Vâng, một bên là tình thương ngút ngàn, một bên là tội lỗi đầy tràn; một bên là lòng thương xót bao la, một bên là sự cố chấp gian tà.
Ôi lạy Cha, xin cho con biết cảm nhận tình yêu thương đầy nhẫn nại của Cha, để con quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Xin cho con đừng bao giờ trở thành những tá điền sát nhân khát máu nữa, bởi mỗi lần con cố tình phạm tội, nhất là tội trọng, là con lại đóng đinh Chúa Giêsu một lần nữa trên thập giá. Xin Cha gìn giữ con khỏi sa chước cám dỗ. Con tin rằng tình yêu thương của Cha vẫn luôn luôn thắng sự cố chấp của con. Xin cho con biết tin vào tình thương ấy và đừng bao giờ để con cứng lòng. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng bắt cậu con trai giết đi và quăng xác ra vườn nho”.
Một thầy dòng là thợ may cho cộng đoàn. Ngày kia, ông đau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng!”.
Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhưng ông chỉ lặp lại lời đề nghị: “Đưa cho tôi chìa khóa vào thiên đàng”. Cuối cùng, họ đưa cho ông chiếc kim may. Một nụ cười mãn nguyện làm gương mặt thầy già sáng lên khi liếc nhìn chiếc kim trong tay và nói: “Tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh quang Chúa. Bây giờ nó là chìa khóa mở cửa cho tôi vào thiên đàng”.
Suy niệm
Vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của Cựu ước. Nó thường được liên kết với chủ đề tình yêu và vườn nho trở nên biểu tượng của “dân Thiên Chúa” (x. Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78,9-16). Ngôn sứ Isaia đã phác họa hình ảnh vườn nho được chăm sóc để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn” rất ân cần chu đáo qua nhân vật chủ vườn nho: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Người chủ quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4)…
Trong Tân ước, Chúa Giêsu tiếp tục phát triển hình ảnh vườn nho, cây nho như là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa, nho là hình ảnh sự liên kết thân mật, sức sống tình yêu với Ngài: “Thầy là cây nho, anh em là nhành, nhành nào liên kết với Thầy sẽ sinh hoa trái” (Ga 15,5) và vườn nho trở nên biểu tượng của nước Thiên Chúa …
Cách riêng trong dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho”, Đức Giêsu chỉ đích danh các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Ngay người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá. Vườn nho mà Thiên Chúa trao cho dân Israel, được trao lại cho mọi dân tộc và từ nay Thiên Chúa chăm sóc cho tất cả mọi dân nước: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho nước ấy sinh hoa lợi”. Trong Tân ước, mọi người, mọi dân tộc đều được mời gọi đi làm và ở trong vườn nho (x. Mt 20,1-16a). Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của nước Trời, nghĩa là những kẻ khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9,25; 1Pr 2,10).
Dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho” có tính cách lịch sử: nghĩa là diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ, thái độ của họ với chính Chúa. Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa và những tá điền vườn nho là hình ảnh của các giới lãnh đạo dân Do Thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Thế giới chúng ta đang sống chính là vườn nho trong dụ ngôn. Thiên Chúa là ông chủ vườn nho. Mỗi người chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có chính là hoa lợi từ vườn nho.
Tự tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Vẫn đang diễn lại từng ngày, khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh nguyên tổ trong vườn Địa đàng: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo hóa. Nhưng sự “biết” không thấy đâu lại bị tước đoạt vườn Địa đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà lại còn bị chủ vườn lấy quyền làm vườn giao phó cho các tá điền khác.
Hôm nay, tôi và bạn là những tá điền làm vườn nho được Thiên Chúa ký thác. Ước chi chúng ta luôn ý thức trách nhiệm mình là những tá điền chuyên chăm trong vườn nho của Chúa…
Tá điền cộng tác tạo dựng công trình vườn nho cho vinh quang Thiên Chúa....
Ý lực sống:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ” (Đức Hồng y J. H. Newmann).
1. Qua dụ ngôn tá điền hung ác, ta thấy Thiên Chúa hết sức yêu thương con người, mà dân tộc Israel được dùng làm điển hình. Người đã kêu gọi, tuyển chọn, bảo vệ, hướng dẫn… nghĩa là Người có cả một kế hoạch yêu thương. Khi con người thất tín, ngược đãi và chống lại Thiên Chúa, nghĩa là muốn phá đổ chương trình yêu thương, thì Thiên Chúa đã tìm đủ mọi cách, ngay cả chính Con Một yêu dấu của Người, Người cũng ban cho nhân loại. Phải chăng Thiên Chúa thất bại? Không, Thiên Chúa không thất bại. Đức Giêsu đã toàn thắng. Ngài đã phục sinh trong vinh quang. Dù con người thất tín, Thiên Chúa vẫn một mực thành tín. Đó chính là chiến thắng của Thiên Chúa.
2. Đây là một ẩn dụ mà Đức Giêsu dùng để ám chỉ các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa; vườn nho là dân Israel; các tá điền là các lãnh tụ ấy; tôi tớ được sai đi thu hoa lợi là các tiên tri; người con của ông chủ là Đức Giêsu. Thiên Chúa đã giao dân Israel cho các lãnh tụ Do thái chăm sóc, nhưng họ không chu toàn trách nhiệm. Các tiên tri nhiều lần được sai đến nhắc nhở họ, họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của mình đến, họ cũng không nghe và còn giết Người Con ấy. Bởi vậy Thiên Chúa đã truất quyền họ, Ngài sẽ ban Nước trời cho một dân khác là Giáo hội. Phần Đức Giêsu, tuy bị giết chết nhưng Ngài sẽ sống lại và làm nền tảng cho Giáo hội.
3. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn các vị lãnh đạo Do thái thời đó hiểu rằng: giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã bắt đầu và không còn ngược lại được nữa; lòng độc ác của những tá điền không thể phá huỷ chương trình hành động của Thiên Chúa, Đấng nhân từ, kiên nhẫn, nhưng cũng rất công bằng và đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Những chi tiết trong dụ ngôn vườn nho gợi lên những giai đoạn của lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại. Cái chết của người con ông chủ vườn nho thoạt xem ra là kết quả lòng thù ghét của con người đối với Thiên Chúa. Như những tá điền muốn giết người con được sai đến, để cướp vườn nho khỏi tay ông chủ, những kẻ thù nghịch Thiên Chúa cũng muốn loại bỏ Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, để tự do làm chủ vận mệnh nhân loại. Qua hình ảnh tảng đá góc tường, Đức Giêsu mở ra chìa khoá, để con người có thể hiểu được ý nghĩa sâu xa liên hệ đến việc cứu chuộc của Ngài.
4. Bài học cho chúng ta: Giáo hội Công giáo, người Công giáo đã được Thiên Chúa tuyển chọn thay thế cho dân Do thái làm vườn nho cho Chúa và đóng hoa lợi cho Ngài. Chúng ta tin Thiên Chúa sẽ giữ gìn Giáo hội khỏi rơi vào vết xe cũ của dân Do thái. Nhưng từng cá nhân có thể trở thành những tá điền thất tín. Tức là trong một khuôn khổ hạn hẹp nào đó, bất cứ tín hữu nào giữ đạo một cách vụ lợi, hoặc không dám dấn thân để mang những hoa trái đức tin và lòng mến vào cuộc sống hằng ngày với hy vọng làm chứng cho Chúa Kitô và làm đẹp bộ mặt Giáo hội, thì sẽ là tín hữu có tiếng mà không có miếng.
Vì thế, cần có một cái nhìn, một quan điểm trung thực về Đức Kitô, về Giáo hội, về vai trò của mỗi Kitô hữu, nhờ đó chúng ta có thể sống đạo và hành đạo làm lợi vốn liếng đức tin và lòng mến Chúa trao cho chúng ta.
5. Ngày nay, người ta thường nói: “Tiền là Tiên, là Phật”. Dưới ảnh hưởng của trào lưu tục hoá, con người hôm nay dường như chỉ tôn thờ vật chất và xem tiền tài là cứu cánh cuộc đời. Hậu quả là, chính việc tôn thờ này đã tạo ra một xã hội bất an. Con người trở nên ích kỷ, hận thù, ghen ghét và loại trừ lẫn nhau.
Áp dụng dụ ngôn này vào bản thân: Vườn nho mà Chúa trao cho tôi là những khả năng và phương tiện Ngài ban. Lẽ ra tôi phải dùng chúng để phục vụ người khác. Nhưng tôi có khuynh hướng giữ chúng làm của riêng cho mình. Tôi dùng chúng một cách ích kỷ, không phục vụ ai cả. Hãy coi chừng Chúa sẽ lấy lại vườn nho mà trao cho kẻ khác.
6. Truyện: Hoàng đế Julianus
Vua Julianus hoàng đế cai trị Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng đế Constantinô. Nhà vua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ muốn sống đời dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái. Chính vì thế mà nhà vua đã bỏ đạo, rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo hội. Sau khi đã lên án xử tử cho Đức Giáo hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng: “Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth?”
Đức Giáo hoàng đã khiêm tốn trả lời: “Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi Ngài đang ở trên trời. Ngài đang đóng quan tài cho đức vua đó’’.
Chẳng bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba Tư, nhà vua bị một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận rút mũi tên đó ra, phi nó thẳng lên trời mà kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã thắng tôi rồi”. Đoạn nhà vua tắt thở.
Đây là một ẩn dụ mà Chúa Giêsu dùng để ám chỉ các nhà lãnh đạo Tôn giáo Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Israel, các tá điền là các lãnh tụ ấy, tôi tớ được sai được thu hoạch các hoa lợi là các ngôn sứ, người con của ông chủ là Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã giao dân Israel cho các lãnh tụ Do Thái chăm sóc, nhưng họ không chu toàn trách nhiệm. Các ngôn sứ nhiều lần được sai đến nhắc nhở họ, họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến, họ cũng không nghe mà còn giết chết Người Con ấy. Bởi vậy Thiên Chúa truất quyền họ, Ngài ban Nước trời cho một dân khác là Giáo Hội. Phần Chúa Giêsu tuy bị giết chết nhưng Ngài sẽ sống lại và làm nền tảng cho Giáo Hội.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Áp dụng ngụ ngôn này vào bản thân: Vườn nho mà Chúa giao cho tôi là những khả năng mà Ngài ban. Lẽ ra tôi phải dùng chúng để phục vụ người khác. Nhưng tôi có khuynh hướng giữ chúng làm của riêng cho mình. Tôi dùng chúng một cách ích kỉ. Không phục vụ ai cả. Hãy coi chừng Chúa sẽ lấy lại vườn nho mà trao cho người khác.
2. Cặp vợ chồng nọ trúng số độc đắc. Bà con thân thuộc kéo đến nhận họ hàng, xin xỏ, vay mượn. Cuộc sống gia đình luôn bị xáo trộn. Ông chồng bàn với vợ dọn đi chỗ khác, đổi tên đổi họ không cho ai biết. Nhưng người vợ nói: dù đã đổi tên đổi họ nhưng nếu người ta biết mình có tiền thì người ta vẫn tìm đến quấy rầy. Người chồng bảo hãy dấu luôn số tiền và sống đạm bạc y như những người nghèo thực thụ. Hai người nhất trí làm y như vậy. Họ đến một nơi khác cất một túp lều tranh nghèo nàn, chôn dấu số tiền sống đạm bạc. Dần dần họ quên luôn mình có số tiền đó. Khi chết họ quên cả chối lại cho con cháu số tiền ấy. Thành ra trúng số mà cũng như không.
Nhận lãnh là để trao ban, có là để chia sẻ. Không trao ban, không chia sẻ thì ơn Chúa ban cũng giống như nén bạc bị chôn xuống đất. Nó không đem lại niềm vui mà chỉ gây nên lo lắng buồn phiền.
Lạy Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”. Xin cho con hưởng được niềm vui khi trao ban và tiêu hao bản thân con mỗi ngày.
3. “Có người kia trồng được một vườn nho, ông rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác và trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai đầy tớ đến để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp” (Mc 12,1-2)
Tôi là ai? Tôi có cái gì?
Tôi là một con người. Tôi có một thể xác, một tâm hồn. Tôi có lý trí, có tình cảm. Tôi có tình yêu, và quan trọng hơn là tôi được sống.
Thiên Chúa đã tạo nên hình hài này, trang bị cho nó những điều ấy, rồi Ngài trao nó cho tôi.
Vậy, tôi phải làm gì đây?
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa. xin hãy dùng con như ý Chúa muốn để sinh hoa lợi cho Ngài.
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe là dụ ngôn tương đối dễ cắt nghĩa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Vườn nho là dân Israel. Các tá điền là các lãnh tụ của dân. Tôi tớ được sai đi thu hoạch các hoa lợi là các ngôn sứ. Người con của ông chủ là Chúa Giêsu.
Thiên Chúa đã trao dân Israel cho các lãnh tụ của họ chăm sóc, nhưng họ đã không chu toàn trách nhiệm của mình. Các ngôn sứ nhiều lần được sai đến để nhắc nhở họ, nhưng không những họ đã không nghe mà còn bách hại các vị ấy: Tiên tri Êlia bị truy nã, phải trốn sang Ai Cập thất thểu ăn xin. Tiên tri Isaia đã bị cưa làm hai khúc. Tiên tri Giêrêmia bị cầm tù. Tiên tri Daniel bị tống vào hang sư tử. Tiên tri Giacaria bị sát hại giữa cung thánh và bàn thờ. Gioan Tẩy Giả bị chém đầu….
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính con một của mình đến, tưởng họ sẽ kính nể …. nhưng họ cũng không nghe mà còn giết chết luôn Người Con ấy. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã truất quyền họ, rồi sau đó Người ban cho một dân khác là Giáo Hội.
Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhưng không nhu nhược. Những kẻ chống lại Thiên Chúa có lúc đã tưởng mình chiến thắng, nhưng cuối cùng họ đã phải rước lấy thảm bại mà không thể trách Thiên Chúa được điều gì.
Trong sách các vua của Cựu Ước, chúng ta đọc được câu chuyện này: Hoàng tử của vua Hieroboam nước Israel bị đau nặng, vua liền nói với hoàng hậu rằng:
- Bà hãy cải trang giả dạng, đừng để người ta nhận ra bà là hoàng hậu, rồi đem theo mười ổ bánh mì, với bánh sữa và bình mật ong, đi gấp lên Silô, gặp tiên tri Abia, để hỏi cho biết số phận hoàng tử con chúng ta thế nào, sống hay chết.
Lúc ấy tiên tri Abia chẳng còn trông thấy gì, hai mắt đã lòa vì quá già. Nhưng Chúa phán dạy tiên tri Abia rằng:
- Này hoàng hậu Hieroboam sẽ tới hỏi han về đứa con trai đang bị đau nặng; lúc đến, nàng sẽ cải trang thành một người khác.
Do đó, khi tiên tri Abia vừa nghe có tiếng người bước qua cửa, liền hỏi ngay:
- Hoàng hậu Hieroboam đó phải không? Xin mời vào, cớ sao phải giả dạng làm người khác làm gì? Tôi có trách nhiệm báo hung tin cho bà hôm nay. Bà cứ về thưa cùng vua Hieroboam, Thiên Chúa là Chúa dân 1srael phán như sau: “Ta đã tôn ngươi lên giữa dân chúng. Ta đã đặt ngươi làm thủ lãnh Israel dân Ta. Ta đã xẻ đôi nước của gia đình Đavid mà trao cho ngươi. Nhưng ngươi đã không bắt chước Đavid tôi tớ, là tuân theo các mệnh lệnh của Ta. Trái lại, ngươi đã gây ra nhiều tội ác, lại còn thờ các thần ngoại bang mà bỏ Ta. Vì thế, nay Ta giáng họa trên gia đình Hieroboam, Ta sẽ trừ diệt nhà Hieroboam. Các người thuộc gia đình Hieroboam, nếu chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, sẽ bị chim trời rúc rỉa. Thôi bà đứng dậy đi về đi, và khi về, bà vừa đặt chân tới cửa thị trấn, thì con trai của bà sẽ chết.
Và quả đúng như thế. Hoàng hậu Hieroboam về đến Thesa, vừa bước qua ngưỡng cửa, thì hoàng tử con bà chết liền, đúng như lời tiên tri Abia đã nói (1Cv 14,1).
2. Đàng khác, nếu suy nghĩ xa hơn một chút nữa chúng ta sẽ thấy ý nghĩa còn thâm sâu hơn. Vườn nho chính là Giáo Hội. Thợ làm vườn nho sát nhân là những người Công giáo tội lỗi cố chấp đã làm khổ Giáo Hội, đã giết hại các tôi tớ đại diện Chúa.
Vua Julianus, hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 361 đến 363. Nhà vua là cháu hoàng đế Constantinô. Nhà vua là người Công giáo, nhưng lại không muốn sống đời hy sinh theo Chúa, không muốn cầu nguyện, không muốn tránh xa tội lỗi, nhưng chỉ muốn sống đời sống dâm đãng, bất công và không có lòng bác ái. Chính vì thế mà nhà vua đã bỏ đạo rồi lại còn quay sang bắt bớ Giáo Hội. Sau khi đã lên án xử tử cho Đức Giáo Hoàng, nhà vua còn hỏi nhạo báng rằng:
- Ông Giêsu thợ mộc đang làm gì ở xưởng thợ Nazareth?
Đức Giáo Hoàng đã khiêm tốn thưa:
- Tâu đức vua, Chúa Giêsu của tôi ở trên trời, Ngài đang đóng quan tài cho đức vua.
Chẳng bao lâu sau đó, vua Julianus đem quân đi giao chiến với quân Ba-Tư, nhà vua bị một mũi tên của quân thù ghim thẳng vào trái tim. Nhà vua đã tức giận kéo mũi tên đó ra, lao lên trời mà kêu rằng: “Hỡi ông Giêsu người xứ Nazareth, ông đã thắng tôi rồi”. Đoạn nhà vua tắt thở.
Hãy nhớ, Thiên Chúa đã kiên nhẫn nhưng không nhu nhược. Xin kết thúc bằng những lời trong Sách Huấn Ca Kính sợ Đức Chúa đem lại vinh quang và tự hào hân hoan và phấn khởi. (Hc 1,11)
Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỷ mừng vui và an khang trường thọ. (Hc 1,12) Ai kính sợ Đức Chúa sẽ thấy cuộc đời kết thúc tốt đẹp, ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành. (Hc 1,13).
Những người biệt phái, luật sỹ, kỳ lão, trưởng tế là những người có khả năng về sự hiểu biết cho nên khi Chúa nói dụ ngôn này xong là họ biết ngay Chúa đã ám chỉ về họ (Mc 12, 19)
Trong dụ ngôn, bọn tá điền, đó là những người biệt phái, luật sỹ, kỳ lão, trưởng tế, họ có lòng tham vô cùng, không đáy, không ai dò thấu được, họ vắt sữa, xén lông chiên mà không lo chăm sóc cho đàn chiên.
Chúa thì một niềm từ ái vô cùng, Chúa là chủ vườn nho, là chủ chăn đàn chiên, Chúa lo lắng, gầy dựng, chăm sóc, vun trồng, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một cái tháp (Mc 12, 1 – 2). Chúa làm vườn nho của Chúa thật tốt đẹp, bất cứ một ai nhìn vào, họ đều thích và trầm trồ khen ngợi.
Vườn nho đó là đoàn dân Chúa, thời Cựu Ước là dân Do Thái, thời hôm nay là Hội Thánh của Chúa.
Chúa luôn tìm mọi cách để làm cho dân Chúa được lớn mạnh mỗi ngày với bao những nét đẹp, vẻ rạng ngời, tựa cô dâu điểm trang lộng lẫy, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng (Tv 44, 14).
Còn phần riêng họ, họ làm ngược lại, khi thấy vườn nho Chúa càng đẹp, càng lộng lẫy thì họ càng mê mẫn, càng tham lam, và khi càng tham thì làm cho lòng trí của họ ra u tối, phán đoán lệch lạc, cho nên họ tìm mọi cách để chiếm đoạt, họ đã không trừ một thủ đoạn nào. Cụ thể:
-Đánh đập, bỏ tù các đầy tớ, các người được Chúa sai đến để hướng dẫn dân Chúa sống tốt hơn, tức là các tiên tri.
-Giết các tiên tri, các người được Chúa gởi đến (Mc 12, 2 – 5).
-Cao điểm các thủ đoạn của họ, đó là họ đã giết người con duy nhất của ông chủ. Đó chính là Chúa đang nói với họ đây. Chúa nói rõ ràng và một cách công khai với họ là họ sẽ giết Chúa, và rồi Chúa sẽ chết để cứu chúng ta: “Nhưng những tá điền nói với nhau rằng: Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta. Đoạn chúng bắt cậu giết đi và quăng xác câu ra vườn nho”(Mc 12, 7 - 8).
Những thủ đoạn của họ tham lam, mưu mẹo, xảo quyệt, độc ác vô cùng, và rồi, tiếp theo sau là thời kỳ lãnh đạo dân Chúa của họ sẽ chấm dứt, một đoàn dân mới của Chúa là Hội Thánh sẽ bắt đầu hình thành và phát triển từ đây: “Ông sẽ tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông đã chẳng đọc đoạn Kinh Thánh này sao: Tảng đá những người thợ xây loại ra, trở thành đá góc tường. Đó là việc Chúa làm. Thật lạ lùng trước mắt chúng ta. Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi”(Mc 12, 9 – 12)..
Quả thật, khi nghe Chúa nói như vậy, lẽ ra họ sẽ ăn năn sám hối, xin ơn Chúa tha thứ và sẽ cố gắng sửa mình sống tốt hơn. Nhưng họ lại chơi trò bẩn thỉu để hại Chúa, cho nên Chúa bỏ họ đi nơi khác, họ sẽ chết trong tội lỗi của họ vì họ đã khước từ Chúa và chai lỳ trong tội lỗi độc ác của họ.
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con, cho nên Chúa che chở gìn giữ chúng con. Chúng con được ở trong tình thương của Chúa, được nương bóng dưới cánh tay uy quyền của Chúa, cho nên chúng con kêu cầu Chúa mỗi ngày. Xin Chúa thương cứu chữa, đỡ nâng chúng con, cùng ban muôn ơn, cho chúng con luôn no say ân tình Chúa để chúng con ca ngợi Chúa mỗi ngày trước mặt mọi người. Amen.
Bổn phận tín hữu và công dân. Thứ Ba tuần 9 thường niên. "Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".
Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.
Nhóm Pharisêu và nhóm Hêrôđê không phải là hai nhóm hợp nhau. Nhưng họ lại rất hợp nhất trong việc muốn trừ khử Đức Giêsu (Mc 3, 6). Ngài đã từng nhắc các môn đệ đề phòng “men” của hai nhóm này (Mc 8, 15). Trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại liên minh với nhau để giăng bẫy. Trước khi đưa Đức Giêsu vào bẫy, họ đã lấy lòng bằng những lời ca ngợi. Rồi cái bẫy được giăng ra, sắc như một con dao hai lưỡi. “Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (c. 14). Đã từng có những câu hỏi như thế. “Có được phép chữa bệnh trong ngày sa bát không?” (Mt 12, 10). “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19, 3). Được phép có nghĩa là không đi ngược với Luật Môsê. Từ năm thứ sáu sau công nguyên, khi Giuđê và Samari trở thành một tỉnh của đế quốc Rôma, mỗi người dân Do thái phải nộp một thứ thuế thân cho những kẻ xâm lược. Đã có những phong trào đứng lên chống lại thứ thuế này. “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?” Nếu Đức Giêsu nói rõ là được phép nộp thì đụng đến lòng ái quốc của dân, và cũng đụng đến nhóm Pharisêu là những người không chấp nhận sự thống trị nhơ nhớp của ngoại bang trên phần đất của Thiên Chúa. Nếu Ngài nói rõ là không được phép nộp thì Ngài sẽ gặp khó khăn với Rôma, và sẽ đụng đến nhóm Hêrốt là nhóm lãnh đạo dựa dẫm vào thế của đế quốc. Dĩ nhiên Đức Giêsu đã khôn ngoan không trực tiếp trả lời câu hỏi này. Ngài không rơi vào bẫy, ngược lại, có thể nói, Ngài giăng một cái bẫy khác. “Đem cho tôi một đồng bạc để tôi xem” (c. 15). Đức Giêsu không mang trong mình thứ tiền này, dùng để nộp thuế cho Rôma. Nhưng kẻ thù của Ngài thì mang, và đưa cho Ngài một đồng bạc. Đồng bạc này mang hình của Xêda và mang dòng chữ: “Tibêriô Xêda, con của Augúttô thần linh, Augúttô.” Khi biết đó là đồng tiền bằng bạc của Xêda, Đức Giêsu đã nói: “Những thứ của Xêda, hãy trả lại cho Xêda, những thứ của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa” (c. 17). Câu trả lời này đã làm họ sững sờ, không thể nào bắt bẻ được. Đức Giêsu có vẻ không chống lại chuyện nộp thuế thân cho Xêda. Nhưng Ngài quan tâm đến một chuyện quan trọng hơn nhiều. Chuyện đối xử công bằng với Thiên Chúa. Trả lại cho Thiên Chúa mọi sự thuộc về Thiên Chúa: đó là bổn phận. Đồng tiền mang hình Xêda, nên chúng ta phải trả cho Xêda. Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa. Tên của Giêsu đã được ghi khắc trong tim ta, nên chúng ta không được quên mình đã thuộc trọn về Giêsu. Còn bao điều trong đời ta thuộc về Thiên Chúa mà ta vẫn giữ cho mình! Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen. (Kinh dâng hiến của thánh I-hã) -------------------------------
Người ta thường trích dẫn Lời Chúa để phân biệt tôn giáo với chính trị. Thế quyền có toàn quyền ở trần gian. Thiên Chúa có quyền ở trên trời. Nhưng người ta rất thường quên rằng quyền lực trần gian chỉ có ở đời này. Thiên Chúa có quyền ở đời sau. Ở đời sau mọi quyền lực đều qui về một mình Thiên Chúa. Mọi người phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Chịu Thiên Chúa xét xử. Như thế mọi sự đều phải trả về cho Thiên Chúa. Như Chúa Giê-su cảnh báo Phi-la-tô: “Ông chẳng có quyền gì nếu từ trên không ban cho ông”. Càng ngày người ta càng muốn thoát ảnh hưởng của Chúa. Vua La mã thậm chí còn coi mình là thần thánh. Đã in trên đồng tiền nộp thuế là: Au-gút-tô Xê-da. Thần thánh Xê-da. Chúa Giê-su vạch rõ sự giả hình của nhóm Biệt phái. Theo Lề Luật cấm thờ ngẫu tượng. Thậm chí cấm khắc hình ảnh Thiên Chúa. Vậy mà nhóm Biệt phái này dám mang hình ảnh ngẫu tượng Xê-da trong túi. Họ ham tiền. Lại làm ra vẻ giữ luật Chúa. Chúa vạch trần sự giả hình của họ.
Tô-bít là người thực hành Lời Chúa. Ông biết mọi sự là của Chúa. Nên ông trả hết cho Chúa. Ông không sợ quyền lực thế gian. Dám lỗi luật vua chúa cấm chôn cất người chết. Để thực hành Lời Chúa dạy: chôn xác kẻ chết. Ông bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Bất chấp sự phản đối của hàng xóm, của thân nhân. Và của chính vợ ông. Ông tuyệt đối giữ sự công bằng. Bảo bà vợ: “Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi”. Với Thiên Chúa còn quyết liệt hơn. Tất cả là của Chúa. Phải trả cho Chúa (năm lẻ).
Thánh Phê-rô hướng đức tin của ta về ngày sau cùng. Tất cả phải trả cho Chúa. Đời này rồi sẽ qua đi mau chóng. “Ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồn”. Rồi sẽ có “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị”. Công lý tuyệt đối của Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi ngày đó, đừng để mình bị đời này cám dỗ. Đừng để ảo ảnh đời này lừa dối. “Anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng”. Hãy kiên vững trong đức tin. Vì cuối cùng mọi sự thuộc về Chúa. “Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen” (năm chẵn).
Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharnaum (3,6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố gắng làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Ðó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: "Có được phép nộp thuế cho César không?". Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy. Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng tộc Ðavít, chắc hẳn Ngài sẽ bảo họ không nộp thuế cho César, và thế là sa bẫy họ, lúc đó, họ sẽ có lý do để bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì là nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: "Của César, trả về César; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Nói khác đi, một khi đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của quyền bính trần thế: "Của César, trả về César", nhưng Ngài thêm: "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc César, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
Họ cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-đê đến cùng Người để gài bẫy cho Người lỡ lời. Những người này đến và nói: “Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da không? chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử Tôi? đem một quan tiền cho Tôi coi!” Đức Giêsu bảo họ: “Của Xê-da, trả về Xê-da; Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người. (Mc. 12, 13-15, 17)
Chúa không phán: “Của Xêda trả về Xêda miễn là nó phục tùng luật Chúa” nhưng “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” Chúng ta thường có khuynh hướng giảm thiểu vế đầu của câu và coi như chỉ mình Chúa là có quyền. Nghĩ Chúa xử sự như vậy là điều bất công. Ta phải chú ý, người ta không biểu dương những quyền lợi của Chúa bằng cách chối bỏ quyền lợi của con người. Những kẻ trong sạch của mọi thời đại không để cho mình hoen ố vì bàn tay lấy cớ rằng họ phụng sự Thiên Chúa thì cũng là những kẻ lừa dối như những kẻ nói quá trong chiều hướng kia vậy. Péguy đã có lý để mạ lị “những người nghĩ rằng mình yêu mến Chúa bởi vì họ không thương yêu ai cả.”
Dứt khoát mà nói, những quyền lợi của con người cũng quan trọng như những quyền lợi của Thiên Chúa và khẳng định như vậy không phải là phạm thượng. Trái lại, thừa nhận trong chốc lát rằng Người đòi hỏi ta phải dành cho Người một tình yêu khác biệt, thiết tưởng sẽ là khinh miệt Chúa. Người Kitô hữu không có một trái tim hai tầng. Những tội ác chống với nhân loại cũng ghê tởm như những tội chối đạo vậy. Có những lời Phúc âm bị quên đi tỉ như “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga. 4,20).
Lễ phong vương
Có một thời việc xức dầu cho các vua được coi như một bí tích. Những tranh cãi thần học nảy sinh từ một sự giải thích như vậy chẳng mấy quan trọng, có điều là đó là ý tưởng đẹp và nó bắt nguồn tư lòng ngưỡng mộ lớn lao đối với con người được tạo dựng để cai trị. Vả lại những quyền lón lao dành cho con người đều là những tiêu đề cao quý: quyền sống, quyền được đối xử công bình, quyền được yêu thương, bình đẳng…
Nếu Thiên Chúa đòi hỏi được yêu mến trên hết mọi sự, thì tuyệt nhiên không phải là con người được hưởng một nửa tình yêu đâu, mà vỏn vẹn chỉ có nghĩa là với tất cả khả năng yêu mến của ta dành cho Người. Những anh em ta, dù có tuyệt vời đến đâu, thì vẫn có giới hạn và tận cùng. Khi những người anh em ấy đã nhận được trọn tình yêu dành cho họ rồi, thì trái tim ta vẫn còn có khả năng vươn lên tới vô hạn.
Một trong những việc làm làm vẻ vang cho thời đại của ta là việc lập ra những hội nhân quyền. Ngày nào công việc của những hiệp hội hay liên minh này sẽ thành công, ngày ấy Nước Thiên Chúa sẽ ở giữa chúng ta.
Ở đời người ta thường nói: “Thua keo này ta bày keo khác” để ám chỉ việc kiên trì trong suy tư hay hành động.
Hôm nay, những người Pharisêu đã không chịu thua Đức Giêsu, vì thế, họ đã tìm thêm dịp để hại Ngài. Không những vậy, họ còn kéo theo đồng minh là những người thuộc nhóm Hêrôđê nữa.
Câu chuyện được khởi đi từ một thái độ giả hình, nhằm che đậy sự gian xảo trong tâm hồn của những kẻ chuyên nghề nịnh hót. Họ không ngớt lời khen ngợi Đức Giêsu là người chân thật, công bằng trong cách giảng cũng như hành xử... Vì thế, nhân dịp này, họ đến để xin lời dạy khôn ngoan của Ngài về việc nộp thuế. Họ nói: “Có được phép nộp thuế cho César không?”. Đây lại là một trò chơi nguy hiểm mà họ giăng ra để gài bãy Đức Giêsu, và đây cũng là một thủ đoạn bỉ ổi nhằm trả thù Đức Giêsu vì những lần Ngài đã làm cho nhóm này bị lộ rõ chân tướng đê hèn của họ.
Đức Giêsu biết rõ đây là cái bẫy, nên Ngài rất bình thản hỏi ngược lại khi xin họ cho xem đồng tiền. Khi xem xong, Ngài hỏi: “Hình và danh hiệu này là của ai?”; họ đã nhanh nhảu trả lời: “Của César”.
Họ đưa ra cái bẫy này để xem Đức Giêsu xử trí ra sao? Họ thừa biết Ngài là con cháu thuộc dòng dõi Vua Đavít, thì mối thù dân tộc là không thể chấp nhận ngoại bang, vì thế, nếu Ngài nói không phải nộp thuế thì chắc chắn Đế Quốc sẽ xử Ngài. Còn nếu Ngài nói là phải nộp, thì dân chúng sẽ đứng lên tố cáo Ngài là tay sai cho địch, phản quốc, hại dân, và như một lẽ tất yếu, người dân không còn nghe theo những lời dạy dỗ của kẻ phản bội nữa!
Tuy nhiên, sự khôn ngoan của loài người lại trở nên ngu dại trước Thiên Chúa! Giải pháp đầy khôn ngoan của Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói: “Của César, trả về César, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.
Trong cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những kẻ “đội trên, đạp dưới” để trục lợi hay che dấu những bỉ ổi, bất nhân ngầm sâu trong con người của họ. Những lời nói thật hay, những khen ngợi thật tuyệt vời, khiến cho đối phương bị thuyết phục và rồi thuận theo những chiêu thức ma ranh quỷ quyệt của họ mà làm nguy hại cho những người lương thiện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chu toàn trách vụ trần thế, nếu những điều đó là đúng với lương tâm Kitô giáo; luôn biết đền ơn những người làm ơn cho chúng ta, nhất là Thiên Chúa, Đấng luôn ban phát mọi ơn lành cho mình.
Không được sống hai mặt, giả tạo nhân đức để làm hại người khác, vì đây là đường lối của ma quỷ chứ không phải đến từ Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khôn ngoan để lựa chọn những gì thuộc về Chúa và khước từ những gì thuộc về ma quỷ. Xin cho chúng con biết chu toàn bổn phận với Thiên Chúa và tha nhân. Amen.
Sứ điệp: Là công dân một nước, người tín hữu phải chu toàn nghĩa vụ của người công dân. Còn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa thuộc bình diện khác và có tính tuyệt đối.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người ta gài bẫy để tìm cớ tố cáo Chúa tiếp tay với đế quốc phản lại dân tộc, hoặc để tố cáo Chúa chống lại hoàng đế. Nhưng Chúa đã cho thấy lập trường của Chúa: của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa. Con thấy Chúa là người của Thiên Chúa, nhưng đồng thời Chúa cũng thuộc về một quốc gia. Chúa yêu mến quê hương, Chúa tôn trọng luật pháp. Chúa nộp thuế như mọi người. Chúa không hề chống cự quan Phi-la-tô và vua Hê-rô-đê.
Lạy Chúa, suy gẫm những điều ấy, con lại cúi mình thẳm sâu trước mầu nhiệm Chúa làm người. Dù là Thiên Chúa, nhưng Chúa đã muốn giống con trong mọi sự. Con muốn học hỏi nơi Chúa lòng yêu mến quê hương và tôn trọng quyền bính hợp pháp. Xin Chúa giúp con ý thức nghĩa vụ đối với Thiên Chúa và đồng thời vẫn không quên nghĩa vụ của người công dân. Những nghĩa vụ chính đáng, những điều không trái với Tin Mừng, không trái với lương tâm Kitô hữu, xin dạy con nhận ra đó là ý Thiên Chúa và hăng say thi hành.
Lạy Chúa, xin giúp con sống đời chứng tá cho Tin Mừng giữa lòng dân tộc. Quê hương con còn nhiều điều xấu, nhiều người xấu, nhiều hoàn cảnh xấu. Xin Chúa giúp con là Kitô hữu biết tích cực dấn thân góp phần mình để quê hương con ngày càng tốt đẹp hơn.
Nhưng trước hết, xin Chúa giúp con luôn chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Xin đừng để con quá mải mê với bổn phận ở đời mà quên mất Thiên Chúa, nhất là đừng bao giờ để con vì lợi lộc, địa vị ở đời mà bôi nhọ hoặc chối bỏ danh Kitô hữu. Xin giúp con yêu mến Thiên Chúa trong mọi sự và trên mọi sự. Amen.
Ghi nhớ: “Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa”.
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông xin Tòa Thánh Rôma hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Tòa Thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: Một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa Nhật, năm A, tr. 305).
Suy niệm
Người biệt phái và pharisiêu luôn giữ đạo hình thức nên thường bị Đức Giêsu chỉnh sửa, đôi lúc lên án gay gắt vì sự cố chấp của họ (x. Mt 23,13-15.23.25.27-29; Mc 12,38-40; Lc 11,43-46.20,45-47). Mang trong mình nỗi hiềm khích đó, nên các biệt phái và kinh sư luôn tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu nhằm tìm sơ hở của Ngài để lên án và nếu được thì họ tố cáo bắt và giao nộp Chúa cho giới cầm quyền tôn giáo và chính trị như chúng ta thấy vụ án xét xử Chúa tại dinh Caipha và dinh Philatô sau này (x. Mt 26,57-68; Mc 14,53-64; Lc 22,54-55.63-71; Ga 18,13-14.19-24).
“Có nên nộp thuế cho Cêsarê không”, lời chất vấn Chúa Giêsu của biệt phái và kinh sư có ý đồ gài bẫy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời là phải nộp thuế, người Do Thái sẽ cho Chúa Giêsu không có lòng yêu nước, ủng hộ và “đi đêm” với ngoại bang, là bán nước. Còn nếu trả lời không nộp thuế, họ sẽ tố cáo Chúa Giêsu chống lại quyền hành của người Rôma và quyền bính đế quốc sẽ “xử” Ngài. Trả lời có hay không đều rơi vào chiếc bẫy mà người biệt phái và kinh sư đã đặt sẵn cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu biết được lòng hiểm của họ, Ngài nói: “Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền”. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. Vì người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan bạc của Rôma (theo Lm. PX. Vũ Phan Long), như thế đó là hành động tôn trong quyền bính của đế quốc.
“Của Cêsarê hãy trả cho Cêsarê, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Quyền bính thế tục phục vụ lợi ích chung cho cộng đồng phải được tôn trọng. Chính quyền bính xây dựng, cai trị nhân gian xuất phát từ Thiên Chúa đã cho “con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất… và thống trị mặt đất” (St 1,28-29). Khi tham dự vào quyền bính chính trị để phục vụ nhân dân với cái tâm, chính là ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, chia sẻ với quyền bính Ngài như Gandhi xác quyết: “Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Đế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Đế”.
Ðức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân, Ngài bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (x. Mt 17,24-27). Chúng ta trong tư cách công dân có trách nhiệm thật lớn lao đóng góp thuế để giúp nền hành chính, để xây dựng đất nước. Nói về trách nhiệm này, thánh Phêrô viết: “Hãy vinh danh Thiên Chúa và tôn trọng vua” (1Pr 2,17). Tương tự thánh Phaolô cũng khuyên người tín hữu: “Mọi người phải tôn trọng nhà cầm quyền... Vậy hãy trả những gì anh chị em còn thiếu họ; hãy nộp thuế cá nhân và thuế bất động sản, và hãy tỏ lòng tôn trọng và vinh danh họ” (Rm 13,1.7). Sự tôn trọng quyền bính hợp pháp, luôn lo cho dân là nghĩa vụ của mọi công dân. Tuy nhiên, trước quyền bính vào tay của các nhà lãnh đạo ích kỷ độc tài, đục khoét của công, lèo lái vận mệnh của dân tộc đi vào vực thẳm. Phải từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị… “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta” (Cv 5,29) (x. Giáo lý Công giáo, số 2242).
Nghĩa vụ công dân hoàn thành cho sự phát triển chung đều tỏ lộ vinh quang của Thiên Chúa…
Ý lực sống:
“Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị... Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm…” (Thomas Jefferson).
1. Người Kitô hữu sống trên trần thế có hai nhiệm vụ song song: nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và đối với Tổ quốc. Trên nguyên tắc, hai nhiệm vụ này độc lập với nhau, nhưng trong thực tế, khi thi hành những nhiệm vụ này, đôi lúc chúng ta gặp không ít khó khăn, đôi lúc làm cho chúng ta lo lắng. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào vừa phụng sự Thiên Chúa vừa phụng sự Tổ quốc mà không xung đột nhau? Làm sao có thể sống tốt đạo một cách hài hòa trong cuộc sống hằng ngày.
2. Các biệt phái và những người cầm đầu dân Do thái liên kết với nhau, đã chất vấn và tìm cách bắt lẽ Chúa trong vấn đề tôn giáo. Họ đã thất bại. Nay họ định lập mưu, để buộc Người vào tội chính trị. Vì thế họ đã phỏng vấn Chúa về việc nộp thuế cho vua Rôma.
Có được phép nộp thuế cho César không?
Câu hỏi này giăng bẫy Chúa Giêsu là ở chỗ này:
- Nếu Người trả lời “có”, thì Người tự đặt mình về phía đối lập với quần chúng. Vì theo quan niệm của Do thái, thì đóng thuế cho đền thờ là một hành động tôn giáo: nhìn nhận chủ quyền của Thiên Chúa trên Israel. Còn César, vua dân Rôma, không thuộc dòng tộc Đavít, nên không có quyền gì của Thiên Chúa trên dân Người, như vậy hẳn là không phải đóng thuế cho César.
- Nếu trả lời “không” thì bè phái Hêrôđê sẽ tức khắc tố cáo Người làm cách mạng chống lại người Rôma. Và họ sẽ có cớ bắt Người.
3. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dầu biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật, Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của César, Ngài nói tiếp: “Của César trả về cho César, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.
Nói khác đi, một khi đã hưởng nhờ ân lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của César, thì có bổn phận đền đáp cho César; nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa: con người đã nhận lãnh nhiều ân huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của quyền bính trần thế: “Của César trả về César”, nhưng Ngài thêm: “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình (Mỗi ngày một tin vui).
4. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chu toàn trách nhiệm trần thế, nếu những lời đó là đúng với lương tâm Kitô giáo; luôn biết đền ơn những người làm ơn lành cho chúng ta, nhất là Thiên Chúa, Đấng luôn ban phát mọi ơn lành cho mình.
Chúng ta hãy đặt ra câu hỏi cho chính mình: trong cuộc sống của tôi, những gì là “của César” (nghĩa là thuộc về vật chất, thế gian) và những gì là “của Thiên Chúa”. Tôi đã trả cho mỗi bên như thế nào? Có trả đủ không?
5. Truyện: Có trả đủ không?
Ông Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ kể:
Ngày kia, có tín đồ than thở với ông rằng:
- Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội thánh nặng quá! - Bao nhiêu một năm? Ông Jones hỏi. - Năm đồng một năm. - Thế ông tin Chúa đã bao lâu? - Đã bốn năm nay. - Trước khi tin Chúa ông làm gì? - Tôi nghiện rượu. - Mỗi năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền? - Chừng 250 đồng Mỹ kim. - Khi ấy ông có đất ruộng gì không? - Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò. - Bây giờ ông có gì không? - Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.
Bấy giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:
- Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng, để được cày ruộng thuê với một con bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi năm, để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc từ đầu đến bàn chân!
Vâng! Tất cả là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người uỷ thác. Chúng ta phải dùng ân huệ Chúa ban cho thật xứng đáng. Lòng tin nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta chỉ là môn đệ Chúa, là người có bổn phận chia sẻ hồng ân Chúa ban cho với người khác và sử dụng nó trong thời gian nào đó mà thôi.
Tin Mừng hôm nay ghi lại một cuộc tranh luận khác giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do Thái. Ở đây, chúng ta lại thấy hai nhóm liên kết lại, kể từ khi họ bắt hụt Chúa Giêsu khi Ngài rao giảng ở Capharanaum (3, 6). Phái Hêrôđê ủng hộ Hêrôđê Antipa, thủ hiến xứ Galilê thì dựa vào thế lực của Rôma, còn nhóm Biệt phái cũng khá hòa hoãn với giới thống trị.
Thái độ sống giả hình là thái độ của những kẻ đóng kịch, cố làm sao cho người khác thấy sự tốt nơi mình, mà thực ra mình không có. Những người Biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê là những kẻ giả hình, bởi vì họ làm ra vẻ muốn tìm biết sự thật, mà kỳ thực chỉ là để tìm dịp bắt bẻ Chúa. Họ đến với Chúa, khen Ngài là người chân thật, cứ theo sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa. Nhưng rất tiếc lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu trả thù. Đó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liều chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xêda không?” Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thực ra là một cạm bẫy.
Theo họ, Chúa Giêsu là nhà cách mạng thuộc dòng Đavít, chắc hẳn Ngài không thể chấp nhận quyền bính ngoại xâm, và như vậy Ngài sẽ bảo họ không bắt bớ, giải nộp và giết Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, cái bẫy của họ không có gì nan giải, vì khôn ngoan của loài người chỉ là dại khờ trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để đưa ra một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và dấu trên đồng tiền là của Xêda, Ngài nói tiếp: “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Nói khác đi, một khi đã hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đúng nghĩa, họ đã nhờ bổng lộc của Xêda, thì có bổn phận đền đáp cho Xêda, nhưng Chúa cũng nhắc thêm bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài.
Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta biết phân biệt điều gì thuộc Xêda, điều gì thuộc Thiên Chúa, để chu toàn bổn phận đối với trần thế và đối với Thiên Chúa.
1. Những người Do Thái cử một số người Pharisêu đến hỏi để gài bẫy Chúa Giêsu. Câu hỏi của họ rất thâm độc: “Chúng tôi có phải nộp thuế cho Cêsar không?” (Mc 12,14).
Câu trả lời của Chúa vừa khôn, vừa khéo, vừa rõ: “Của Cêsar hãy trả cho Cêsar, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mc 12,17)
Qua câu trả lời trên, Chúa Giêsu nhắc cho mọi người nguyên tắc: con người có hai bổn phận phải chu toàn: đó là bổn phận đối với trần thế, và bên cạnh đó còn một bổn phận khác quan trọng hơn đó là những bổn phận đối với Thiên Chúa.
2. Vâng! Những người Pharisêu và đảng Hêrôđê đã dùng những lời lẽ rất tốt đẹp như những chiếc lá che trên những cái hố mà ở dưới họ đặt sẵn chiếc bẫy. Việc làm này chứng tỏ họ là những con người giả hình. Chúa Giêsu có lần đã ví họ như những nấm mồ bên ngoài quét vôi trắng xóa coi rất đẹp, nhưng bên trong thì đầy những xú uế thối tha bẩn thỉu.
Chúa rất ghét những con người giả hình như thế. Đối với Chúa thì con người phải biết sống trung thực với mình và với cả những người khác. Người trung thực là người sống thật với những gì mình có, không tô vẽ, không thêm bớt. Có sao nói vậy, có như thế nào sống như thế đó. Chỉ khi nào chúng ta biết sống như thế, thì cuộc sống mới trở nên tốt đẹp và mọi người mới có được cuộc sống an bình.
Một hôm, vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:
- Ta xem trong sách tướng có nói, người ta nhân trung dài một tấc thì sống lâu một trăm tuổi.
Đông Phương Sóc đứng bên phì cười. Các quan bắt lỗi là vô phép.
Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổ mặt dài mà thôi.
Vua hỏi:
- Sao lại cười ông Bành Tổ?
Đông Phương Sóc nói:
- Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi. Nếu quả thực như câu trong sách tướng bệ hạ nói thì nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung dài tám tẩc thì cái mặt ông ta dễ phải dài đến một trượng.
Vua Vũ Đế nghe nói bật cười tha tội cho.
Hãy coi chừng kẻo chúng ta cũng vấp phải chứng giả dối, đối xử với nhau theo kiểu những lời nói đầu môi chóp lưỡi, những lời khen ngợi không thành thực, những câu nói gài bẫy hại người. Sống với những người như thế thật là nguy hiểm. Nếu tôi thật là như vậy thì tôi cũng thật nguy hiểm cho những người sống chung với tôi.
3. Việc nộp thuế hằng năm cho Đền thờ Jêrusalem là một luật buộc cho tất cả những người Do Thái, phái nam từ hai mươi tuổi trở lên phải nộp thuế, cả khi người đó sinh sống ngoài lãnh thổ Israel và số tiền phải trả tương đương với số lương của hai ngày làm việc.
Thói quen đóng thuế là vào tháng ba trước khi mừng lễ Vượt Qua. Chúa Giêsu, với tư cách là con Thiên Chúa, thì Ngài phải được miễn nộp thuế Đền thờ. Vì theo luật Rôma đang có hiệu lực thời đó thì những thành phần của gia đình nhà vua, không phải nộp thuế. Tuy nhiên, để khỏi gây ra gương mù gương xấu, để khỏi làm gai mắt họ thì Chúa Giêsu đã nộp thuế. Cách hành xử của Chúa có thể là một bài học thiết thực cho mỗi người. Chúa Giêsu hành xử không theo tiêu chuẩn công bằng mà là bác ái, để khỏi gây ra gương mù gương xấu cho anh em. Chúa tuân giữ cả những điều nhỏ mà thật ra Chúa không buộc phải giữ.
4. Trong cuộc sống của tôi, thử hỏi những gì là “của Cêsar” (nghĩa là thuộc về vật chất, thế gian) và những gì là “của Thiên Chúa”.
Ông Sam Jones là một nhà truyền đạo trứ danh bên Mỹ, ngày kia, có tín đồ than thở với ông rằng:
- Thưa ông, tôi đóng góp cho Hội Thánh nặng quá! - Bao nhiêu một năm? Ông Jones hỏi. - Năm đồng một năm. - Thế ông tin Chúa đã bao lâu? - Đã bốn năm nay. - Trước khi tin Chúa ông làm gì? - Tôi nghiện rượu. - Mỗi năm ông uống rượu hết bao nhiêu tiền? - Chừng 250 đồng mỹ kim. - Khi ấy ông có đất ruộng gì không? - Tôi phải mướn đất, cày bừa với một con bò. - Bây giờ ông có gì không? - Tôi có một khu ruộng tốt và một đôi ngựa cày.
Bấy giờ, ông Jones mới nghiêm nghị trách rằng:
- Trước đây, ông cho ma quỉ mỗi năm 250 đồng để được cày ruộng thuê với một con bò, mà nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, nay ông chỉ dâng cho Ngài năm đồng mỗi năm để được cày ruộng riêng của mình với một đôi ngựa. Đúng ông là người bội bạc từ đỉnh đầu đến bàn chân! (NTS).
Vâng! Tất cả đều là hồng ân Chúa ban và phải trả lẽ với Chúa về những hồng ân Người ủy thác. Chúng ta phải dùng ân huệ Chúa ban cho thật xứng đáng. Lòng tin nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta chỉ là môn đệ Chúa, là người có bổn phận chia sẻ hồng ân Chúa ban cho với người khác và sử dụng nó trong thời gian nào đó mà thôi.
Lời Chúa trong Thánh Vịnh có nói với chúng ta rằng: “Tâm địa gian manh, con hằng xa lánh, chẳng muốn biết gì đến chuyện xấu xa”(Tv 100, 4). Vậy là, những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão là những hạn người có tâm địa xấu xa, gian manh, xảo trá. Chúa ghét những thứ tội lỗi đó của họ, Chúa xa lánh các tội lỗi đó, Chúa chẳng muốn biết đến. Nhưng mà Chúa thương họ, Chúa muốn cứu họ, Chúa lại gần gũi họ để kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ cho của cải tiền bạc, và Chúa cho họ phải biết đặt Chúa lên trên tất cả để rồi ngày ngày họ mới chu toàn công việc thờ phượng Chúa mà Chúa đã nhờ họ làm và họ sẽ cố gắng sống tốt hơn.
Chúa muốn như vậy, nhưng còn họ thì khác, họ lại lợi dụng lòng nhân hậu này của Chúa để gài bẫy, bắt bớ Chúa. Họ khen tặng Chúa trước để rồi sau đó họ hỏi một câu rất khó như là duyên cớ cho Chúa trúng vào kế độc, thâm hiểm, hèn hạ của họ: “Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không? ” (Mc 12, 13 – 14). Đây là một câu hỏi liên quan đến đời sống xã hội, chính trị, rất tế nhị vô cùng trong hoàn cảnh dân tộc Do Thái bị đế quốc La Mã đô hộ. Nều Chúa trả lời là có nộp thuế thì Chúa sẽ là người thông đồng với ngoại bang đang hà hiếp dân tộc của họ, Chúa sẽ mất uy tín, bị dân lên án và Chúa không rao giảng Tin Mừng được, chẳng còn ai nghe Chúa. Còn nếu Chúa nói không nộp thuế, Chúa sẽ bị đế quốc xử tử. Đàng nào Chúa cũng sẽ chết đối với câu hỏi này của họ.
Thế nhưng, đó là suy nghĩ của họ, còn Chúa thì khác, Chúa khôn ngoan, thông minh vô cùng. Chúa mới hỏi: “Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền. Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: Hình và ký hiệu này là của ai? Họ thưa: Của Cêsarê. Người liền bảo họ: Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa. Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.”(Mc 12, 14 – 17). Như vậy là chúng ta quá biết rõ ràng là Cêsarê dù là hoàng đế nổi tiếng nhưng vẫn là thụ tạo tro bụi, cho nên trần thế vẫn là trần thế, thụ tạo vẫn là thụ tạo, nó không thể sánh với Thiên Chúa được, Chúa vẫn là trên hết mọi sự, đừng vì mê của cải vật chất mà bỏ Thiên Chúa là không được, và vì chúng ta là con cái Thiên Chúa, đang sống nơi trần gian, ngoài việc chu toàn bổn phận đối với Chúa, chúng ta cũng biết chu toàn bổ phận trần thế nữa. Bổn phận nào ra bổn phận đó.
Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của chúng con, chúng ta là tro bụi, là thụ tạo bất xứng tội lỗi, dù chúng con có là những người nổi tiếng, lừng danh, làm những điều kinh thiên động địa đi chăng nữa, chúng con vẫn là loài hư vô, và chỉ có Chúa mới là Chúa của chúng con, là nơi chúng con nương nhờ, xin Chúa cho chúng con được no say tình Chúa ban để ngày ngày chúng con vui mừng ca tụng, ngợi khen Chúa, cao rao Chúa cho mọi người. Amen.
Người chết sống lại. 05/06 – Thứ Tư tuần 9 thường niên. – Thánh Bôniphát, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ. "Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
* Thánh nhân sinh tại Anh quốc quãng năm 673. Người nhập đan viện I-xơ-te và được Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô II đổi tên Uyn-phơ-rít thành Bô-ni-pha-xi-ô. Người là tông đồ của nước Đức và là người tổ chức lại Hội Thánh nhiều miền. Sau khi được Đức Giáo Hoàng tấn phong giám mục (năm 722), người rảo khắp nước Đức, thành lập các giáo phận và các đan viện trong đó có đan viện Phun-đa. Người bị sát hại ở Đốc-cum (Hà Lan) cùng với năm mươi hai đồng bạn năm 754.
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ".
Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời.
Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc".
Khi được hỏi về cuộc sống mai hậu, Đức Khổng Tử đã trả lời đại khái như sau: chuyện đời này còn chưa nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau. Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người. Con người muốn biết sau cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu. Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định. Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết! Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên. Họ là những tư tế Do thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới như chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần. Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật. Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10), phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi. Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23), để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó. “Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.” Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24). Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại, nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái. Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau. Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới. Họ sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25), nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa, với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh. Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người. “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43). “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3). Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người, chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền. Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con, nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới. Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại. Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15). Mà người Do thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết. Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống, nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh. Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính. Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ. Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen. ---------------------------------
Có hai luồng tư tưởng sai lầm. Không tin vào đời sau. Hoặc tin vào đời sau nhưng cho rằng đời sau cũng giống như đời này. Hôm nay Chúa Giê-su bài bác cả hai lập trường sai lầm ấy.
Có đời sau. Vì tại bụi gai cháy đỏ Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”. Thiên Chúa đang sống nên mới có thể truyện trò với Mô-sê. Và các tổ phụ cũng đang sống bên nên Thiên Chúa mới khẳng định Người là Thiên Chúa của họ.
Nhưng đời sau không còn giống như đời này. Chúa Giê-su minh định: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời”.
Chúng ta có bằng chứng vững chắc. Vì Chúa Giê-su đã từ trời xuống. Và đã lên trời. Trở về với Chúa Cha. Người đã chiến đấu với thần chết. “Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử”. Đó là niềm hy vọng vững chắc cho ta. Đó là đích điểm ta nhắm tới. Đó là con đường ta phải đi theo. Các thế lực ma quỉ thế gian luôn tìm cách lung lạc niềm tin đó. Nhưng thánh Phao-lô là người loan Tin Mừng Chúa Ki-tô phục sinh. Tin Mừng sự sống. Tin Mừng hy vọng cho nhân loại. Dù ngài phải chịu bắt bớ, đau khổ. Và chịu chết nữa. “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày Người đến” (năm chẵn).
Chính vì niềm tin vào đời sau, nên những người công chính muốn thoát khỏi đời này. Vì thế gian là “thung lũng đầy nước mắt”. Chỉ khi về với Thiên Chúa ta mới được hạnh phúc thật. Tô-bít chịu nhiều đau khổ oan ức ở đời đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời”. Còn Xa-ra, quá đau khổ, nhưng không dám tự tử. Vì còn tin vào Chúa. Và vì yêu thương cha mẹ. Nhưng cô chỉ xin Chúa cho được chết đi: “Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi”(năm lẻ).
Xin cho con vững tin vào Chúa. Vào sự sống đời sau. Để con sống xứng đáng ở đời này. Nhưng không lưu luyến. Và không quá mê mải đời này.
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.
Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.
Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (Mc. 12, 25-27)
Lòng tin vào sự sống lại đến muộn màng trong Do thái giáo, nhưng vào thời Chúa Giêsu nói chung người ta đã chấp nhận và nhóm những người thuộc phe Xađốc không tin có sự sống lại chỉ là thiểu số. Theo họ thì linh hồn hư nát cùng với thân xác. Phần đông các thành viên nhóm này thuộc giới tư tế và được người ta coi như có tài trong những cuộc tranh cãi lắt léo, nếu không nói là rối rắm như mớ bòng bong, như trường hợp Phúc âm hôm nay, họ đặt ra một vấn đề có một không hai. Vấn đề có vẻ nực cười, nhưng không có ý giễu cợt đức tin. Vấn đề muốn cho thấy sự sống lại là điều khó và phi lý, vì tạo nên những hoàn cảnh phức tạp và khó gỡ ở bên kia thế giới, chẳng hạn như trường hợp người góa phụ của bảy đời chồng này sẽ không biết cuối cùng mình sẽ là vợ của ai trong số họ. Chắc chắn bà ta sẽ không có thể được hưởng niềm vui trọn vẹn, bởi vì trong dân Do thái, người ta coi niềm an vui phu thê là phần thưởng lớn lao. Câu trả lời của Chúa Giêsu phải được đặt trong bối cảnh này: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Nói cách khác, sự sống của những người đã sống lại không cùng bình diện và tầm vóc với sự sống ở đời này.
Người được phục sinh không phải là một xác chết được sống lại
Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.
Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.
Đã có nhiều cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và nhóm này hay nhóm khác, nhưng với nhóm Xađốc thì đây là lần đầu tiên. Những người này được liệt vào hàng quý tộc có tiếng là tử tế, nhưng lại theo ngoại xâm.
Họ rất bảo thủ trong lãnh vực tôn giáo. Vì thế, họ chỉ công nhận bộ Ngũ Thư mà thôi. Tất cả các cuốn sách khác đều bị bãi bỏ cả. Vì thế, những lời dạy của các ngôn sứ xuất hiện sau đó thì đều bị họ khước từ và không tin.
Như vậy, chúng ta không lạ gì khi họ chất vấn Đức Giêsu về sự sống lại.
Họ đứng lên hỏi Ngài về việc sự sống lại sau cõi chết khi đưa ra một ví dụ: có một người lấy vợ, rồi chết không con, theo luật, người em kế phải lấy tiếp người phụ nữ ấy để có con nối dòng. Tuy nhiên, cứ lần lượt như vậy cho đến người thứ 7 lấy cô ta mà cũng chết không con, cuối cùng, chính người đàn bà này cũng chết. Vậy sau này, khi sống lại thì cô ta sẽ là vợ của ai trong 7 người chồng đã từng cưới nàng làm vợ?
Khi hỏi như vậy, Đức Giêsu thừa biết ý đồ thâm độc của nhóm này, nên Ngài đã làm cho họ cứng họng!
Trước tiên, Đức Giêsu đã làm họ lúng túng khi chỉ dẫn cho biết sự am hiểu Kinh Thánh của họ quá hời hợt.
Thứ hai, Ngài mặc khải cho họ biết rằng: sự sống con người sau khi chết hoàn toàn khác với sự sống hiện tại. Nếu sự sống hiện tại con người có bổn phận truyền sinh để lưu truyền nòi giống, thì sự sống sau cái chết không còn chuyện đó. Vì vậy, họ đâu còn lấy vợ gả chồng nữa, bởi vì sự sống của họ đã đạt tới sự viên mãn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa cũng như sự sống thật đời sau. Cuộc sống đời đời là đích đến chứ không phải dừng lại ở nhu cầu thể xác như khi lưu trú nơi trần gian.
Chỉ có Thiên Chúa là chủ của sự chết lẫn sự sống, và chỉ trong Ngài, chúng ta mới được hạnh phúc đích thực.
Vì thế, hãy biết trân trọng nó và biết mua lấy Nước Hằng Sống bằng niềm tin, sự hy sinh và tinh thần dấn thân vì Nước Trời ngay trong cuộc sống thực tại trần thế này.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Lời Chúa và tha thiết thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hiện tại. Xin ban cho chúng con luôn biết tha thiết với những thực tại trên trời, nơi tràn đầy ân sủng, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu. Amen.
Sứ điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Thiên Chúa dựng nên ta để sống, không những sống trong cuộc đời hiện tại, mà còn để sống mãi mãi sau khi sống lại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa Hằng Sống và là nguồn mạch sự sống. Con tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban sự sống cho con. Không những con chỉ sống ngắn ngủi vài chục năm trên cõi đời này, mà con tin Chúa sẽ còn cho con được sống lại để sống mãi mãi bên Chúa.
Lạy Chúa, ai cũng muốn sống và khao khát được sống mãi. Chúng con lập gia đình là để có con cái nối dài sự sống của mình. Luật Mô-sê dạy em phải lấy vợ của anh đã chết mà không để lại con cái, cũng là để có con cái nối dài sự sống. Chúng con biết mình sẽ phải chết nhưng vẫn khao khát được kéo dài sự sống. Chúa là Thiên Chúa kẻ sống, chính Chúa đã đặt vào lòng con nỗi khao khát ấy, và chính Chúa đáp ứng nỗi khát vọng ấy bằng cách cho con sẽ được sống lại với Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, con không muốn đời con chấm dứt với cái chết, nhưng trong đời sống thường ngày, con lại thường lao mình vào cái chết. Xin Chúa giúp con giữ gìn sức khoẻ thể xác bằng cách tránh ăn uống quá độ, tránh nghiện ngập say sưa hoặc chơi bời hưởng thụ. Con cũng xin Chúa cho mỗi người biết tôn trọng sự sống của những người già cả tật nguyền, nhất là sự sống của con người đang chờ ngày sinh ra.
Và trên hết, xin Chúa cho con biết quý trọng sự sống của linh hồn bằng cách giữ mình sạch tội, tuân giữ Lời Chúa và siêng năng rước Chúa Giêsu vào lòng. Như vậy, con tin rằng con sẽ được sống đời đời bên Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống”.
Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948. Trong bóp (ví) của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau:
“Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi con tàu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương. Con tàu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một dải mây trắng nơi trời và nước hòa lẫn với nhau. Lúc đó có người đứng cạnh tôi thốt lên: “Kìa, con tàu biến mất rồi!” - Biến đi đâu? - Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi! Nó vẫn là cột buồm, là vỏ tàu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tàu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó. Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên: “Kìa! Nó biến mất rồi” thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đằng kia vang lên đầy hoan hỉ: “Kìa! Nó đến rồi” Và đó chính là lúc chết (M. Link).
Suy niệm
Đối với Thiên Chúa mọi người đều luôn sống và sự chết trần gian chỉ là một sự chuyển tiếp… sang sự sống mới, tươi hơn, sáng hơn.
Nhóm Sađốc là những người có học thức, hầu hết là giàu có và có địa vị cao quý, nhóm này không tin có sự sống lại (x. Lc 20,27) chất vấn Chúa về sự Phục sinh. Họ trích sách Đệ Nhị Luật: “Khi anh em ở chung cùng nhau và một người của chúng chết đi mà không con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về chồng khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Và con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xoá khỏi Israel” (Đnl 25,5-6). Khi trích dẫn đoạn sách Đệ Nhị Luật trên và đã nhân số anh em ruột buộc phải lần lượt lấy người vợ goá đó, lên tới bảy người: “Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ!”. Sự việc được nêu ra có ý ép buộc Đức Giêsu phải từ chối tin vào sự sống lại mà họ đã chủ trương, để tránh tình trạng vô luân một vợ bảy chồng!.
Đức Kitô tuyên bố: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.
Nhóm Sađốc vốn là những vị học thức cao, họ dùng lý trí của mình dựa trên thực tại ở đời này để cắt nghĩa và phủ nhận sự tồn tại của Phục sinh. Họ dùng trí óc hạn hẹp mà họ vốn tự hào là trí thức, là lãnh đạo để giới hạn mầu nhiệm Phục sinh mà chính Ba Ngôi Thiên Chúa đồng tham dự để chuộc con người từ tội lỗi, từ cõi chết. Dù là những bậc uyên thâm, trí thức nhưng dựa trên sự lý luận giới hạn, họ đã đóng khuôn niềm tin trong cõi đời ngắn ngủi và không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Thật thế, chỉ nguyên sự kiện thân xác Phục sinh của Đức Kitô đã xuyên qua ngôi nhà đóng kín cửa đến với các Tông đồ (Ga 20,19-20), cho ta thấy thực tại Phục sinh không thể giải thích được bằng cách suy luận giới hạn của con người như nhóm Sađốc lý luận. Thực tại Phục sinh thế nào được Chúa Giêsu gói gọn bằng một giải thích: “Được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,36).
Nan giải về việc sống lại được đặt ra chính lúc Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi đó Ngài sẽ đi qua cái chết, mà những người Sađốc chủ trương chết là hết. Nhưng Ngài lên Giêrusalem không phải chỉ để chết, mà để được “rước lên trời” (Lc 9,51). Trong ba lần loan báo về cuộc thương khó, hai lần Đức Giêsu nói rất rõ Người sẽ bị giết nhưng ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy (Lc 9,22) và Người sẽ sống lại (Lc 18,33). Sự Phục sinh của Ðức Giêsu là trung tâm của thông điệp Kitô giáo - không có sự kiện này thì đức tin của chúng ta trống rỗng và lời rao giảng của chúng ta cũng trống rỗng (1Cr 15,13-14). Thánh Phaolô khẳng định rằng Ðức Kitô Phục sinh “mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15,20).
Đặt trong mầu nhiệm Phục sinh, sự khẳng định của Chúa Giêsu về Thiên Chúa hằng sống trong hành trình tiến về Giêrusalem là giải đáp cho niềm tin sống lại. Niềm tin đó mà Đấng Hằng Sống đang bị chất vấn và bị ép công nhận quyền năng của sự chết: “chết là hết”. Chính trong lúc này, Đấng đó đang tiến về Giêrusalem để đi vào cõi chết, nhưng từ cõi chết Đấng Hằng Sống đó Phục sinh và mở đường cho tất cả nhân loại Phục sinh với Ngài như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Vì nếu chúng ta tin rằng Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14).
Ý lực sống:
“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ,
cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26).
1. Câu trả lời của Chúa Giêsu trước vấn nạn kẻ chết sống lại của nhóm Sađốc cho thấy, cái nhìn của họ về cuộc sống đời sau còn quá hạn hẹp. Họ không hiểu ý nghĩa của sự phục sinh hàm chứa trong câu Kinh thánh: Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ, Người là Thiên Chúa của kẻ sống. Nếu tin Thiên Chúa hằng hữu, thì phải tin con người có cuộc sống đời sau. Họ không chấp nhận sự kiện con người sẽ sống lại, vì họ không chịu tìm hiểu Kinh thánh.
2. Tin mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên của Chúa Giêsu và nhóm Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quí tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Đối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên, khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
3. Nhóm Sađốc đã tranh luận với Chúa Giêsu về sự sống lại. Để chế nhạo sự sống lại, nhóm Sađốc bịa ra câu chuyện tưởng tượng là có 7 anh em trai, người thứ nhất kết bạn, nhưng chết mà không trối hậu, người thứ hai lấy người góa phụ đó, rồi cũng chết không con, người thứ ba cũng vậy. Cả 7 người lấy người vợ góa đó đều chết cả và đều không có con, thế thì ngày sống lại, người góa phụ đó sẽ là vợ của ai?
Đáp lại, Chúa Giêsu đã mạc khải một chân lý tràn trề hy vọng: Sau cuộc sống trần gian chóng qua này con người sẽ được phục sinh, được biến đổi thành như các thiên thần và vẫn tiếp tục sống. Đó là nền tảng của giá trị con người. Giá trị ấy được Chúa Giêsu nêu bật khi nói: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.
Thiên Chúa muốn con người được sống và sống dồi dào, tức là được tham dự sự sống vĩnh cửu của Ngài. Sự sống ấy chính là lời đáp cho những khắc khoải, khát vọng không ngừng của con người. Chính vì thế mà sự sống lại trong ngày sau hết phải là sức đẩy của đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo.
4. Cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “như các thiên thần”, nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa không để cho con người sống mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quí hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cải trên thế gian. Sống thật chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế.
5. Kiểu nói “giống như các thiên thần” có ý khẳng định rằng: việc kẻ chết sống lại không phải là trở lại đời sống trần thế, nhưng là một sự tái tạo dựng, không thể tưởng tượng được, một biến đổi tận căn của hữu thể nhân linh. Giáo huấn này dạy về tình trạng của những kẻ sống lại được kết thúc bằng sự khẳng định: “Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,36), điều này làm cho họ sinh ra trong tình trạng thiên quốc, là tình trạng của các thiên thần (St 6,2).
6. Truyện: Suy nghĩ của một bào thai
Một bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay.
Chuyện kể rằng: một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai. Bác sĩ nói:
- Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.
Nghe vậy, bào thai phản ứng:
- Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.
Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:
- À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi ư? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều, nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.
Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi! Vâng, chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy ta hôm nay là: Chắc chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.
1. Những đối thủ mà hôm nay Chúa Giêsu phải gặp là những người Sađốc, giới Tư tế. Vì họ không tin có việc kẻ chết sống lại nên đặt ra câu chuyện: một phụ nữ lấy 7 anh em trai theo tục lệ “thế huynh, “ để cho thấy sống lại là một sự lố bịch.
2. Trả lời họ Chúa Giêsu không những chứng minh có việc sống lại, mà còn cho biết cuộc sống sau khi sống lại sẽ như thế nào:
- Không giống như cuộc sống hiện tại, cho nên không cần lưu truyền nòi giống và bởi thế không cần có vợ chồng.
- Cuộc sống ấy “giống như các thiên thần”: Nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài việc yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa.
Suy gẫm
1. Những người phái Sađốc tuy là tư tế nhưng không quan tâm đến những việc đạo đức cho bằng tới những đặc quyền đặc lợi của họ. Để bảo vệ những đặt quyền đặc lợi ấy, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ chế độ nào đang cầm quyền, cho dù đó là chính quyền đế quốc Rôma đang xâm lược đất nước họ.
Họ không tin sự sống lại và không tin đời sau là phải, bởi vì ai càng coi trọng đời này và những giá trị đời này thì càng coi nhẹ đời sau và các giá trị đời sau. Càng thiên về xác thịt thì càng yếu về tinh thần.
2. Cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống “Như các thiên thần” nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài việc yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa. Xin Chúa giúp con càng ngày càng bớt sống cho vật chất thế gian, để thêm sống vì Chúa và cho Chúa.
3. Thiên Chúa không để con người sống mãi mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cải trên thế gian. Sống thật tức là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế.
4.”Quả vậy khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng có lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mc 12, 25)
Lời Chúa hôm nay như choáng ngợp lòng con.
Con cảm thấy lòng mình mở ra cho vô hạn và bước đi trên con đường thênh thang, con đường một chiều dẫn đến sự sống, sự sống tràn đầy và mãi mãi.
Từ đó, con cảm nhận rằng: con bất toàn nhưng đời đời là nhịp nối đưa con đến hoàn thiện. Những cố gắng hôm nay sẽ theo con trên con đường đến đích. Những ước mơ nhỏ bé là mầm phóng cho những dự tính lớn lao. Những gặp gỡ yêu thương sẽ có ngày tái ngộ.
Lạy Chúa, xin cho niềm hy vọng ấy chiếu sáng cuộc đời con.
1. Tin Mừng kể lại nhiều lần, người Do Thái tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu, nhưng họ đều gặp phải cảnh: gậy ông đập lưng ông. Hôm nay, họ lại tìm cách bày trò để gài bẫy Chúa một lần nữa. Theo bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thì họ muốn chế nhạo Chúa về việc tin vào sự sống lại, tức là đụng đến tín điều Phục Sinh.
Để làm công việc này, họ bày ra một câu chuyện tuy khó xảy ra trong thực tế nhưng lại rất hợp lý về phương diện lý luận và luật pháp. Câu chuyện thế nào thì chúng ta đã được nghe.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu đã cho họ thấy hai điểm:
- Một là, quan niệm của họ về cuộc sống mai hậu còn quá thô sơ và không hiểu tí gì về quyền năng của Thiên Chúa: Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? (Mc 12,24)
- Hai là họ không nhận ra được ý nghĩa của sự Phục Sinh được hàm chứa trong câu Thiên Chúa tự xưng mình là Thiên Chúa của các Tổ phụ: Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống (Mc 12,27).
Và lại một lần nữa, Chúa bịt miệng họ một cách hết sức ngoạn mục.
Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu bị nhạo cười. Người ta đã từng cho người là khùng, là điên, là bị quỉ ám. Mãi đến khi gần chết trên Thánh Giá mà quân lính hành hình Chúa vẫn còn nhạo cười Ngài: “Để xem ông Êlia có đến cứu hắn không! Nó đã cứu được kẻ khác mà nay lại không cứu được mình!” (Mt 15,31).
2. Ngày nay, cũng chẳng khác gì ngày xưa. Cũng có một số người không tin vào sự tồn tại của chính mình ở đời sau. Họ đang sống như chỉ có đời này. Họ đang hưởng thụ không biết mệt mỏi. Họ sống như chỉ có một mình mình, không cần biết đến ai, không cần để ý xem tương lai mình sẽ ra sao… Thậm chí có lúc họ còn cho những người tin vào đời sống mai hậu là ngu dại.
Thế nhưng, thực tế có như vậy hay không thì mỗi người phải tự mình suy xét lại.
Người ta đã đọc thấy trên mộ của một người ở nghĩa trang: “Đây là nấm mồ của một người dại dột, đã sống mà không biết tại sao mình sống”.
Nhà triết học Diogenes ngày xưa đã viết: “Trong tất cả mọi sự, hãy nhìn đến cùng đích cuộc đời của mình”.
Một bác sĩ sản khoa nọ đã viết nên một câu chuyện rất hay. Chuyện kể rằng: Một lần nọ, bác sĩ ấy đã thử nói chuyện với một bào thai. Bác sĩ nói:
- Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được.
Nghe vậy, bào thai phản ứng:
- Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.
Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai tự thắc mắc:
- À, nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi người ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này mãi ư? Tay sẽ làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống, chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.
Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.
Vâng, chúng ta đang sống trong trần gian và niềm tin Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay là: Chắc chắn có một cuộc đời khác nữa sau cuộc sống trên trần thế này.
Chúa đã từng nói: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con” (Ga 14,2).
Như vậy, cuộc đời trên trần gian này không khác gì bào thai cũng đang sửa soạn cho một cuộc đời thực sự sẽ đến. Cuộc sống hôm nay của chúng ta cũng là chuẩn bị cho cuộc sống sau này trên Nước Trời. Cũng như mắt, chân và tay của bào thai chuẩn bị cho cuộc đời sắp đến, thì sự có mặt của mỗi người trên trần thế cũng đang chuẩn bị cho cuộc sống mai sau.
Thánh Phaolô: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. (Cl 3,2)
Lạy Chúa, xin cho con được luôn hướng lòng lên Chúa. Amen.
Đối với Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là con cái của Chúa đều được Chúa cho sống trước nhan Thiên Chúa. Vì Chúa là Đấng hằng sống: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin Ta, sẽ không chết bao giờ”(Ga 11, 25 – 26), cho nên Chúa ban sự sống mãi mãi đó cho chúng ta. Sự sống ấy được chia làm hai giai đoạn:
-Giai đoạn một: Đây là giai đoạn Chúa cho sống ở trần gian. Sự sống ở trần thế này có giới hạn: “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn, thât nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết”(Tv 49, 13), hoặc là: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian nan khốn khó, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”(Tv 90, 10).
-Giai đoạn hai: Đây là giai đoạn Chúa cho sống vĩnh trên thiên đàng. Muốn bước vào cuộc sống này, chúng ta phải qua cái chết của thân xác. Vì thế, chết là sự chuyển tiếp từ trần gian tro bụi, sang thiên quốc vĩnh cửu: “Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống đời đời”(Mt 25, 46).
Như vậy, tổ phụ Abrahm, tổ phụ Isaác, tổ phụ Giacob tuy đã chết về phần xác rồi, nhưng phần hồn vẫn sống mãi với Chúa. Mai kia đến ngày tận thế, xác hồn sẽ được sống lại để hưởng sự sống đời đời (Mc 12, 26 – 27).
Vậy thì, những người thuộc phái Sađốc không tin có sự sống lại (Mc 12, 18), nghĩa là họ sẽ không bao giờ trầm lắng nghĩ suy nghiêm túc về sự sống lại mai sau theo Kinh Thánh Chúa dạy, thì làm gì họ có cảm nghiệm được sự sống lại linh thánh ấy, Chúa có nói, họ cũng chẳng hiếu gì, tuy cái nố họ tự bịa ra hỏi Chúa về một người phụ nữa lấy bảy anh em ruột làm chồng. Chúng ta thoạt đầu thấy có vẻ hay, trí tuệ, hấp dẫn đó, những nó là một sự tưởng tượng mà thôi: “Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ” (Mc 12, 18 – 23). Nhưng mà qua đó, Chúa cho chúng ta hiểu một phần rất nhỏ bé về đời sau: “Chúa Giêsu trả lời rằng: “Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp”. Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc” (Mc 12, 24 – 27).
Lạy Chúa, hàng ngày chúng con ngước mắt lên khẩn cầu Chúa cho đến khi Chúa xót thương thân phận tội lỗi chúng con, xin Chúa cho chúng con từ bỏ ý riêng để luôn sống theo thánh ý Chúa, ngõ hầu Chúa cho chúng con được sống lại với Chúa sau này. Amen.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Trong những ngày cuối tại Giêrusalem, Đức Giêsu bị kéo vào những cuộc tranh luận với nhiều nhóm về quyền, về chuyện nộp thuế, về sự sống lại (Mc 11, 27- 12, 27). Ít có một cuộc đối thoại đúng nghĩa khi người ta chỉ muốn giăng bẫy, và không thực sự muốn kiếm tìm chân lý. Chính vì thế bài Tin Mừng hôm nay là một bất ngờ thú vị. Một kinh sư nghe Đức Giêsu trả lời các đối thủ của mình thì ông có cảm tình và muốn hỏi Ngài câu hỏi mà ông bận tâm. “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (c. 28). Đức Giêsu thấy thiện tâm của ông, và Ngài đã trả lời nghiêm túc. Ông kinh sư như reo lên khi nghe câu trả lời của Ngài. “Thưa Thầy hay lắm, Thầy nói rất đúng.” Câu trả lời của Đức Giêsu chạm đến điều dường như đã có nơi ông. Ông thích thú lặp lại những lời Ngài đã nói (cc. 32-33). Theo ông, những điều răn đó còn quý hơn hy lễ và lễ toàn thiêu (c. 33). Đức Giêsu vui sướng khi đứng trước một vị kinh sư khôn ngoan và cởi mở. Ngài nói với ông một câu mà chúng ta thèm muốn: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (c. 34). Vị kinh sư hỏi Đức Giêsu về một điều răn đứng đầu. Ngài đã trả lời tới hai điều răn (c. 31). Hai điều răn này gắn kết với nhau chặt chẽ, nhưng vẫn là hai. Cả hai đều đòi hỏi một thái độ, một chọn lựa diễn tả qua động từ “yêu”. Yêu Thiên Chúa bằng tất cả con người mình bằng trọn cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực, và yêu tha nhân như yêu chính mình (cc. 29-31). Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa như thanh dọc của thập giá đỡ lấy thanh ngang là tình yêu tha nhân. Sống trọn tình yêu là chấp nhận cả hai thanh gỗ làm nên cây thập giá. Nếu lễ toàn thiêu đòi đốt hoàn toàn lễ vật, và hy lễ đòi giết chết con vật, thì tình yêu đối với Chúa và tha nhân cũng đòi thiêu rụi và giết chết cái tôi kiêu ngạo, ích kỷ của mình. Chẳng thể nào yêu mà đòi giữ nguyên cái tôi khép kín. Người Kitô hữu hôm nay cũng có thể hỏi Chúa câu hỏi tương tự: Điều răn nào quan trọng hơn cả chi phối mọi lề luật trong Giáo Hội? Chúa cũng sẽ giữ nguyên câu trả lời như ngày xưa. Ngài vẫn tóm mọi điều răn và giới răn trong một động từ đơn giản: yêu. Xin để tình yêu chiếm lấy trái tim của tôi, chi phối mọi chọn lựa, và biến đời tôi thành tình yêu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. Amen. (dựa theo lời của thánh Têrêxa) ---------------------------------
Yêu mến là hạnh phúc. Ai cũng muốn. Cũng cần. Có rất nhiều. Nhưng sao cứ đau khổ. Đó là vì chưa biết yêu. Hôm nay Chúa dậy ta điều cơ bản nhất. Hãy yêu. Nhưng phải có thứ tự. Và có phương pháp.
Thứ tự. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết. Vì Thiên Chúa là tất cả. Là sự sống. Là tình yêu. Là hạnh phúc. Không có Thiên Chúa thì không có ta. Yêu sự sống của mình là điều rất tự nhiên. Và cần thiết. Chúa làm mọi cách cho ta được hạnh phúc. Yêu hạnh phúc của mình là quá chính xác. Thiên Chúa là Tình Yêu. Yêu trong Tình Yêu là đi đúng đường.
Phương pháp. Phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực người”. Yêu sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Đương nhiên phải làm hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Thì mới mong đạt đến mục đích.
Thứ tự tiếp theo. Yêu tha nhân. Phương pháp. Như chính mình. Ai thực hiện sẽ đạt tới hạnh phúc.
Bảy người muốn cưới Xa-ra trước kia đều chết. Vì đã sai thứ tự và phương pháp. Họ không yêu mến Thiên Chúa. Cũng không yêu Xa-ra. Họ yêu chính mình. Theo thúc đẩy của dục vọng. Nên xa lìa Thiên Chúa. Rơi vào tay ma quỷ. Tô-bi-a và Xa-ra đã hiểu biết điều đó. Nên đến với nhau vì Chúa và vì tình yêu đích thực. Trước khi thành hôn, Tô-bi-a nói với Xa-ra: “Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện”. Và cả hai nguyện rằng: “Giờ đây, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con”. Họ đã được Thiên Chúa chúc phúc (năm lẻ).
Sự sống, tình yêu và hạnh phúc của ta được biểu lộ trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Người chết để cho ta được sống. Người chịu ghét bỏ để ta được yêu thương. Người chịu bất hạnh cho ta được hạnh phúc. Đó là Tin Mừng lớn lao cho ta. Thánh Phao-lô say mê và kiên quyết rao truyền Tin Mừng đó. Với niềm tin vững chắc: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người”. Ngài đã yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Ngài đã đạt đến sự sống, tình yêu và hạnh phúc (năm chẵn).
Lạy Chúa, xin dạy con yêu mến Chúa. Vì Chúa là sự sống, là tình yêu và là hạnh phúc của con.
Hai người đàn ông nọ quyết tâm hành hương về Yêrusalem để dự Ðại lễ Phục Sinh ở đó. Một người đặt mối quan tâm hàng đầu là đích điểm của cuộc hành trình, vì thế ông cương quyết không dừng lại bất cứ nơi đâu, và trong suốt cuộc hành trình, tâm trí ông chỉ nghĩ đến thành thánh. Còn người thứ hai, trên mọi nẻo đường, nhìn thấy nhiều người cần được giúp đỡ và ông đã tốn nhiều tiền bạc và thời giờ, đến nỗi ông không đến được đích điểm như đã dự định; thế nhưng, một cái gì đó từ Thiên Chúa đến với tâm hồn ông mà người hành hương kia không nhận được, cũng như một cái gì đó từ Thiên Chúa qua đôi tay ông, ảnh hưởng cuộc đời của nhiều người mà người kia không có được qua những nghi lễ ông tham dự tại thành thánh kéo dài suốt mùa Phục Sinh.
Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế; một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học... Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Ðâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
Ðó cũng là vấn nạn mà một luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: "Thưa Thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?" Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.
Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời đó có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác và tự lừa dối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.
Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu của cuộc sống, kể cả mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, chứ không dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc sống đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đổi hướng cuộc sống và đặt lại bậc thang giá trị của mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Xin cho tình yêu mến là nguồn mạch và sức mạnh để chúng ta thực sự gặp gỡ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.
Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc. 12, 29-31)
Chương mười hai Phúc âm thánh Maccô giống như cái thời gian một diễn giả khi thuyết trình xong dành cho thính giả đặt câu hỏi vậy. Có bao nhiêu quan điểm, có bấy nhiêu người đặt ra vấn đề; những bận tâm lo lắng của những người đặt câu hỏi thì đa dạng, còn quan niệm của Chúa lúc nào cũng vậy. Ông kinh sư vì muốn biết điều răn đứng đầu, nên khiến Chúa phải lặp đi lặp lại như một điệp khúc bằng tất cả đời sống cũng như trong lơì giảng dạy, lời “hãy yêu thương”.
Người ta thường nói sai rằng Chúa Giêsu là người đầu tiên dạy yêu mến người thân cận trái ngược với những người Do thái vốn dạy phải kính sợ Thiên Chúa và giữ đức công bình. Luật Cựu ước cũng là luật của tình yêu, bằng chứng là ở đây Chúa Giêsu trưng dẫn hai câu trong sách Nhị Luật. Nét đặc sắc của sứ điệp Kitô giáo là tình yêu đối với người thân cận là bí tích tình yêu của Thiên Chúa. Xưa nếu có vài người giải thích Luật cho rằng điều răn dạy yêu mến người thân cận chỉ giới hạn vào những người Ít-ra-en mà thôi, thì đa số vẫn chủ trương một tình yêu phổ quát. Ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào, Chúa Giêsu không phá hủy Luật, Người làm cho Luật nên hoàn hảo.
Yêu thương những người không đáng yêu
Khác với con người, Thiên Chúa không trông mong gì chúng ta là những người dễ thương. Tình yêu của Chúa là tình yêu tạo nên tính dễ thương, và đó hẳn là điều Chúa muốn diễn tả khi dạy ta yêu thương những kẻ thù địch của ta.
Ta không yêu mến anh em ta như yêu những trái táo. Tình yêu Kitô giáo không phải là bộ phận rung làm cho trái tim hay thân xác ta rung động lên trước người hay vật nào đó hấp dẫn ta. Thứ tình yêu bản năng này chẳng có gì là phong phú, bởi lẽ đó không phải là tình yêu tự do.
Người ta sẽ nhận ra bạn yêu mến anh em bạn thực bằng một tình yêu phổ quát khi tình yêu ấy sẽ là tình yêu nhưng không, chẳng màng biết ơn, khi những người được yêu mến đó sẽ không phải là những kẻ dễ thương. Chúa Giêsu đã hiến mạng sống Người vì ta, đang khi ta là những tội nhân, giáo huấn của Chúa là thế đó. Yêu mến người khác dựa trên nền tảng là vẻ hấp dẫn, chẳng cần phải có điều răn, nhưng đúng là cần phải có Mạc khải của Chúa để ta nhận ra tình yêu nhưng không của Chúa đối với ta và Thần khí của Người ở trong ta để thực hiện tình yêu ấy.
Ngày nay, người ta thường hay nghe những lời lẽ như: sản phẩm này là tốt nhất; con người này là tốt nhất! Vậy mối quan tâm hàng đầu của bạn là gì...? Nói cách khác, với tư cách là người Công Giáo, mối quan tâm hàng đầu của đời sống Kitô hữu là gì?.
Đây chính là sự quan tâm và một vấn nạn mà người Luật Sĩ đã đặt ra cho Đức Giêsu trong hành trình đi tìm chân lý của ông.
Tin Mừng thuật lại: có một Luật Sĩ đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?”. Đức Giêsu đã thấy được lòng tốt và nhất là sự khao khát của ông ta, nên Ngài đã mạc khải cho ông Luật Sĩ này ngay tức khắc khi nói cho ông biết về giới luật quan trọng nhất chính là: yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu thương người thân cận như chính mình.
Phản ứng của Luật Sĩ này là hết sức thán phục những lời dạy khôn ngoan của Đức Giêsu. Thật vậy, vì lòng chân thành đi tìm kiếm chân lý, lẽ sống, nên Đức Giêsu đã khen ngợi ông và nói cho ông biết: ông không còn xa Nước Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta bị kinh tế thị trường làm cho đời sống đức tin bị trao đảo. Nhiều khi chúng ta đặt bậc thang giá trị của mình dựa trên tiền bạc, chức quyền, danh vọng... Vì thế, đã biết bao lần chúng ta rơi vào tình trạng lập lờ, bắt cá hai tay, chỉ còn biết cái lợi trước mắt mà không hề nghĩ đến cuộc sống đời sau. Giới răn mến Chúa, yêu người là cái gì đó không được chúng ta quan tâm nếu không muốn nói là coi thường!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm chúng ta về những chọn lựa bấy lâu nay! Đồng thời, mời gọi chúng ta hãy yêu mến và trung thành giữ Luật Chúa thì chúng ta sẽ được hạnh phúc. Mặt khác, khi giữ luật Chúa, chúng ta có một cuộc sống bình an, thanh thản và luôn biết yêu thương, tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đặt lại bậc thang giá trị của cuộc đời, luôn biết tìm ý Chúa và giữ giới răn Chúa cho trọn. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã liên kết luật mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất. Ngài kêu mời ta thực hành luật yêu thương ấy như một dấu hiệu đặc biệt của người con Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, có những lúc con đã lầm. Con lầm tưởng rằng làm thật nhiều các việc đạo đức là quan trọng nhất. Con lầm tưởng rằng hy sinh là quan trọng nhất, chu toàn lề luật là quan trọng nhất. Con cảm tạ Chúa, vì Chúa giúp con nhận ra tình yêu mới là quan trọng nhất.
Lạy Chúa, trước hết yêu mến Chúa phải trở thành căn bản của cuộc sống con. Vì yêu mến Chúa, con sống và làm việc. Vì yêu mến Chúa, con chu toàn những điều luật dạy. Vì yêu mến Chúa, con tham dự các nghi lễ, đọc kinh cầu nguyện. Vì yêu mến Chúa, con cũng yêu thương anh em con.
Lạy Chúa, yêu thương người khác cũng trở thành điểm sáng cho cuộc đời con. Một đốm sáng leo lét trong đêm tối, mỗi người có thể nhìn thấy. Một hành động yêu thương của con, dù âm thầm nhỏ bé, cũng sẽ sáng lên trong xã hội loài người. Con biết điều ấy, nhưng lạy Chúa, thực hành yêu thương như Chúa dạy đòi phải hy sinh thật nhiều. Xin tình yêu Chúa đong đầy trái tim con, để con đủ quảng đại cho đi lòng tha thứ. Xin tình yêu Chúa thắp sáng trái tim con, để con làm sáng lên những trái tim khác, khi cùng nhau sống bác ái yêu thương.
Lạy Chúa, cuộc sống con có vô vàn điều cần thực hiện, nhưng con xác tín rằng, điều quan trọng nhất là biết sống yêu thương: yêu Chúa và thương người. Xin dạy con sống được nét độc đáo ấy để con thực sự trở thành người con Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người”.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy dòi bọ rất hôi thối. Thế mà, sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến...
Rồi người lạ đến gặp tôi nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Suy niệm
Lệnh truyền yêu thương được khai mở trước đó trong cuộc đàm đạo giữa người kinh sư khôn ngoan và Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”. Đức Giêsu trả lời: “… Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Tóm lại, đó là mến Chúa, yêu người mà chúng ta đã được gieo vào tâm hồn mình khi bắt đầu có trí khôn qua các buổi học giáo lý.
Chuyện giới răn yêu thương là chuyện “xưa như trái đất” mà có lẽ chúng ta đều thuộc lòng quy tắc bất biến trong Công giáo về luật mến Chúa, yêu người và tâm trạng của chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý như người thông luật: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12,32-33). Chúa Giêsu khen ông trả lời khôn ngoan rồi nói: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12,34). Tôi và bạn nắm vững quy luật của đạo Chúa, như người kinh sư “không xa nước Chúa đâu”. Có nghĩa là biết rõ, nhưng còn “hiểu và sống hay thực hành” thì tôi và bạn chưa thâm nhập trong tâm. Chính cái “hiểu và hành” là đưa chúng ta vào hiện diện trong nước Thiên Chúa.
Chúng ta thường hiểu cốt yếu của việc giữ đạo là tóm gọn trong việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích... Vì thế, đa số cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những việc đạo đức đó là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là “mến Chúa, yêu người”. Cái cốt yếu của Luật Chúa là hiểu và thực hành “mến Chúa, yêu người”. Chúng ta chưa để nguồn suối tình yêu chảy trong tim của mình, yêu Chúa quá ít và hời hợt, chỉ gói gọn trong nhà thờ.
Cuộc sống yêu Chúa phải đổi mới tận căn bằng suy ngẫm và hành động cụ thể: Mến Chúa với cả tâm hồn đơn sơ, chân thành thực thi các huấn lệnh của Người. Tất cả Lề Luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến. Giữ luật nếu quên yêu mến có thể dẫn đến óc Lệ Luật như những biệt phái, kinh sư mà Đức Giêsu đã từng quở trách. Giữ Luật Chúa không phải vì sợ, không giữ tròn thì Người phạt, nhưng giữ Luật là để trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu trong mọi tương quan giữa tôi, bạn và Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã chia sẻ: “Yêu mến là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10). Yêu mến Chúa còn là sức mạnh để chúng ta sống và yên như Thánh vịnh đã kêu cầu: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18,2).
Yêu mến Chúa là cũng yêu thương con người vì Thiên Chúa đang sống trong con người. Chính Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những người bé nhỏ, người đói, người khát, người bị tù đày… (x. Mt 25,31-46). Ai cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đày là làm cho chính Chúa. Như vậy, yêu người đòi hỏi chúng ta một thái độ đức tin, nhìn nhận Chúa đang hiện diện nơi tha nhân, nơi những người anh em. Thái độ đức tin vượt lên trên ác cảm, hằn thù, ghen ghét… đi bước xa hơn như sách Lêvi truyền dạy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19,18). Thánh Gioan cũng nối kết rất tuyệt vời giữa mến Chúa, yêu người: “Ai bảo yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình là kẻ nói láo”. Xem ra đó là một tình yêu nhưng hai đối tượng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu như Tin Mừng Matthêu nói về ngày phán xét (x. Mt 25,31-46).
Cái gì rồi cũng trôi qua. Cái gì rồi cũng phôi pha. Duy chỉ có tình yêu là tồn tại.
Ý lực sống:
“Muốn biết thế nào là tình yêu thì phải biết sống cho kẻ khác. Sống cho kẻ khác tức là yêu” (Godwin).
1. Các câu hỏi của người luật sĩ trong bài Tin mừng là một vấn đề nan giải của người Do thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Đức Giêsu đã cho họ câu trả lời thật xác đáng và đồng thời chứng tỏ Người là Chúa của Lề luật. Người cho biết tất cả các giới luật đều qui về giới răn duy nhất: mến Chúa – yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.
Con người là sinh vật có xã hội tính, tức là có nhu cầu sống chung với nhau. Tuy nhiên, vì con người còn có tự do, nên để sống chung hoà thuận, mỗi quốc gia hay tập thể cần có luật qui định các bổn phận và trách nhiệm của mỗi người, để không ai đụng chạm và làm mất lòng người khác.
2. Thời Đức Giêsu, nước Do thái cũng có bộ luật gồm hàng trăm khoản luật khác nhau, và họ không biết điều nào là quan trọng nhất. Vì thế hôm nay, một luật sĩ hỏi Đức Giêsu một câu hỏi hóc búa: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời rằng, hai giới luật quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Như vậy, cốt lõi của mọi điều luật là lòng yêu mến. Mến Chúa yêu người tuy là hai giới răn khác nhau, nhưng lại không thể tách biệt nhau.
3. Như vậy, cốt cách của đạo chúng ta là “Mến Chúa – yêu người”. Nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa qua Kinh thánh, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ ”yêu”, đó là yêu Chúa và yêu người. Tuy nhiên yêu Chúa, có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm, ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người? Khó hơn, nên chúng ta cần nói nhiều hơn về yêu người.
Nói về yêu người, chúng ta cũng đã nghe nói nhiều rồi, nhưng cũng chẳng bao giờ nói đủ, nghe đủ. Vì thế, chỉ xin nhắc lại một vài điều: Thứ nhất, yêu người là một trắc nghiệm không thể chối cãi được của tình yêu đối với Thiên Chúa, nghĩa là nếu chúng ta nói: chúng ta yêu Chúa lắm mà lại đối xử tệ với người khác, bất kể người đó là ai, chúng ta vẫn là người nói dối, và Chúa sẽ không nhận lòng yêu mến của chúng ta. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”.
Thứ hai, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, bởi vì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương mình, quí mến mình, là chuyện bình thường, không cần gì phải nói.
Thứ ba, yêu người là sẵn sàng giúp đỡ họ bằng lời nói, thái độ, việc làm, tinh thần hay vật chất. Sau hết chúng ta hãy nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu cụ thể này, tức tình yêu người, tình yêu thương anh em.
4. Tình yêu là nền tảng cho đời sống đạo. Không thấy bóng dáng của tình yêu thì cuộc sống sẽ trở thành gánh nặng. Sống đạo là đi vào trong tương quan giao ước tình yêu, để sống với cả con tim, cả khối óc, cả cuộc đời. Tình yêu con người lấy tình yêu Thiên Chúa làm mẫu mực, vì thế, Chúa Giêsu đã nối kết điều răn yêu người thân cận với điều răn thứ nhất. Và ai là người thân cận với ta nhất nếu không phải là những người trong gia đình?
5. Truyện: Yêu người bằng việc làm
Một vị đạo sĩ kia kể rằng: ngày nọ, ông từ núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:
- Chúng ta mau lại kia giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây Tạng trả lời:
- Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chính chúng ta cũng đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ trả lời:
- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa, thì chúng ta cũng chết vì đã giúp người khác, đó là điều vẫn tốt đẹp hơn.
Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước từ nãy giờ. Đi được một quãng xa, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và bị lạnh cóng lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, và do đó thoát chết lạnh.
Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện thân cho lòng nhân của Thượng Đế, bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình”.
1. Đến lượt các luật sĩ tấn công Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào là trọng nhất?” Đối với họ đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
2. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất đó là hết lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.
Suy gẫm
1. Về giới răn thứ nhất, tôi thuộc lòng, nhưng tôi chưa giữ đúng. Tôi phải xét mình lại, dựa trên từng chữ những Lời Chúa nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng… hết linh hồn… hết trí khôn… và hết sức lực…”
2. Và về giới răn thứ hai cũng thế: “Hãy yêu mến tha nhân như chính mình…”
3.”Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa là Đức Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12, 30)
Khi sinh thời Thánh Micae Hồ Đình Hy (1808-1858) là một giáo dân đạo đức có lòng bác ái, kính sợ Thiên Chúa và là một vị quan thanh liêm, chính trực, được thăng đến hàng Tam phẩm trông coi mọi việc trong đền vua.
Trong triều, những vị quan bị Ngài ngăn cản làm điều bất chính, đã tố cáo Ngài với vua Tự Đức về tội theo đạo Gia Tô. Vì thế, Ngài bị đày ải, đòn vọt đau đớn vì đức tin.
Có những vị quan quý mến đức độ của Ngài, khuyên Ngài giả vờ chối đạo rồi tiếp tục sống đạo; nhưng Hồ Đình Hy cương quyết từ chối. Ngài đã đổ máu đào chết vì Chúa tại An Hòa, Huế.
Chúa ơi, nhiều lần con đã tôn thờ sự sống trần gian hơn là tôn thờ một Chúa, Chúa của con. Xin cho con biết yêu mến Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa trong mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm của con.
4. Mối quan tâm hàng đầu là một danh từ của thời đại. Nhà nước đặt mối quan tâm hàng đầu vào chính sách kinh tế, một học sinh đặt mối quan tâm hàng đầu vào đèn sách để thi đậu vào đại học.. Đâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi, đó là câu hỏi hợp lý có thể áp dụng vào mọi sinh hoạt cuộc sống, nhưng thiết nghĩ quan trọng hơn cả là câu hỏi: Đâu là mối quan tâm hàng đầu của tôi đối với cuộc sống của một người Kitô hữu?
Đó cũng là vấn nạn mà một Luật sĩ đặt ra cho Chúa trong Tin Mừng hôm nay, khi ông ta hỏi: “Thưa thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?” Câu trả lời của Chúa Giêsu rất rõ ràng và đơn sơ, giới răn đứng hàng đầu, mối quan tâm hàng đầu của người Kitô hữu chính là tình yêu.
Nếu tình cờ chúng ta được một người nào đó đặt câu hỏi như trên, liệu chúng ta sẽ trả lời thế nào? Chúng ta có phát biểu được câu trả lời tuyệt diệu, nghe êm tai và nêu bật giá trị cao đẹp của con người chúng ta không? Và thành thật với lương tâm, liệu câu trả lời có phản ánh chính cuộc sống chúng ta không, bởi lẽ khi cho một câu trả lời đúng, chúng ta có thể lừa dối người khác, và tự dừa lối mình? Thành thật với lòng mình có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ phải ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cho đến nay mối quan tâm hàng đầu của chúng ta là tiền bạc, sức khỏe, danh vọng.
Như vậy, điều trước tiên chúng ta phải làm để hoán cải và canh tân là thành thật thú nhận rằng cho đến nay chúng ta đã đặt sai mối quan tâm hàng đầu trong cách thức chúng ta biểu lộ niềm tin qua việc đọc kinh, dự lễ, bởi vì những cách thức này thường được sử dụng như những phương thế giúp chúng ta giữ đạo, nhất là giúp chúng ta tìm gặp được Thiên Chúa và tha nhân.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đổi hướng cuộc sống và đặt lại bậc thang giá trị của những mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Xin cho tình yêu mến là nguồn mạch và sức mạnh để chúng ta thực sự gặp gỡ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.
1. Hôm nay, đến lượt các luật sĩ tấn công Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào là trọng nhất?” (Mc 12,28). Chúa Giêsu đã trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: Hai giới luật quan trọng nhất đó là hết lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình.
Có nhiều người lương dân nhìn vào đạo Công giáo với rất nhiều thành kiến. Họ cho rằng, đạo Công giáo là một hệ thống những giới răn và kinh kệ dài dòng, mà phải mất cả đời mới có thể học thuộc và tuân giữ được. Quả thực, cách sống đạo của một số Kitô hữu hiện nay có thể làm cho nhiều người ngộ nhận như thế. Thực ra thì đạo của Chúa rất đơn giản. Đạo dạy cho người ta biết có một Thiên Chúa. Ngài là tình yêu. Ngài yêu thương mọi người. Và vì yêu thương, Ngài đã sai Con Một Ngài xuống trần để mặc khải cho con người về tình yêu của Ngài và mời gọi con người hãy sống yêu thương để được hạnh phúc thật. Tất cả mọi giới răn và lề luật của Chúa được tóm gọn trong hai chữ yêu thương ấy.
“Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng. Và hãy thương yêu đồng loại như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui về hai giới răn này”. (Mc 28,30-31).
Như vậy, Chúa Giêsu đã xác định cái cốt lõi của mười điều răn là: yêu mến. Mến Chúa yêu người, hai giới răn khác nhau, nhưng không thể tách biệt nhau: chối bỏ một giới răn này, cũng có nghĩa là chối bỏ giới răn kia. Về điểm này, thánh Gioan Tông đồ đã viết rất hay: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng nó không thấy” (1Ga 4,20).
2. “Hãy yêu mến tha nhân như chính mình…” (Mc 12,33).
Một đôi vợ chồng nọ bán phở trên hè phố được một thời gian khá dài. Giá cả phải chăng cùng với nụ cười chân thành làm cho quán ăn của họ luôn tấp nập khách ra vào. Đến quán phở của họ nhiều lần, tôi phát hiện thấy sáng nào cũng có một cụ già ăn mặc rách rưới lặng lẽ đứng chờ ở một góc.
Nhìn thấy bà cụ đến, dù hai vợ chồng còn rất bận rộn với những việc đang dang dở, họ vẫn luôn mỉm cười nói với bà cụ:
- Bà chờ cháu một chút nhé, cháu sẽ làm ngay cho bà.
Một lát sau, vợ hoặc chồng họ nhanh nhẹn bỏ phở vào trong chiếc hộp giấy, múc nước phở bỏ vào trong túi “ny-lon”, buộc lại rồi đưa cho bà cụ, và luôn nhắc cụ cẩn thận kẻo bỏng tay. Bà cụ run rẩy đưa đôi tay gầy guộc ra nhận, rồi lặng lẽ quay người ra đi. Nhưng điều kỳ lạ là, dường như chưa lần nào tôi thấy bà cụ trả tiền.
Một hôm, vì không kìm nén nổi sự tò mò, tôi đã hỏi họ. Người vợ thở dài nói:
- Bà cụ ấy thật tội nghiệp, khó khăn lắm mới nuôi con cái khôn lớn. Vậy mà đến già lại không có chỗ nương tựa. Gia đình chúng tôi cũng không được dư giả gì. Giúp đỡ nhiều hơn thì chúng tôi không có khả năng, nhưng chỉ cần bà cụ đến là chúng tôi luôn đãi cụ một bát phở.
Trên nét mặt người phụ nữ trung niên ấy dường như lộ vẻ áy náy, dường như chị cảm thấy có lỗi khi chỉ giúp đỡ được bà cụ được như thế.
Tôi để ý và luôn nhận thấy vợ chồng họ đối xử lễ phép và tôn trọng bà cụ giống như những người khách hàng khác, không hề tỏ ra một chút coi thường hay ban ơn.
Sau này, trên phố xuất hiện khá nhiều quán phở, nhưng tôi chỉ thích đến quán phở của họ. Tôi thích ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ, trong âm thanh náo nhiệt của đường phố, lặng lẽ nhìn hai vợ chồng họ chìa đôi bàn tay thô ráp, tặng cho một bà cụ còn nghèo túng hơn mình cả một tấm lòng yêu thương và nhân ái.
Bố thí cho người khác, có lẽ rất nhiều người dễ dàng làm được. Nhưng bố thí cho người khác với một thái độ chân thành và nhân ái, thì không phải ai cũng có thể làm được.
Mẹ Têrêsa từng nói: “Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình”.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách: những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng còn trong tinh thần nữa, bằng cách thực thi lời hy vọng này: “Ðiều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta”. (Mẹ Têrêsa)
Chúng ta là con cái của Chúa, hàng ngày chúng ta đi lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm các việc lành phúc đức, bác ái từ thiện. Nếu chúng ta làm các việc này vì chúng ta yêu mến Chúa và thương yêu anh chị em của mình thì các việc đó có giá trị vô cùng. Vì thế, khi yêu Chúa và thương mọi người, chúng ta cảm thấy các việc làm này thật nhẹ nhàng, có nghị lực, dễ chịu, và không bị gò bó, để rồi chúng ta sẽ cố gắng làm nhiều hơn, bởi chúng ta biết rằng: “Luật sĩ thưa Người: Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh. Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa”(Mc 12, 32 – 34), và như thế, chúng ta biết chắc Chúa sẽ thưởng nước thiên đàng cho chúng ta sau này.
Nhưng mà người đời thường nói: “Yêu nhiều, khổ nhiều, yêu ít, khổ ít”. Chúa yêu chúng ta quá bội, Chúa phải chịu khổ nhiều vì sự ngang bướng, tội lỗi của chúng ta, nhất là Chúa xuống thế làm người cứu chúng ta bằng cách Chúa đã chịu chết trên thập giá để chúng ta được sống, Chúa không muốn chúng ta hư mất đời đời, cho nên Chúa mới vất vả và khổ công như vậy. Dường như Chúa thà chịu khổ, chịu thiệt thòi là để Chúa yêu chúng ta. Giờ phút này, chúng ta cũng phải bắt chước giống như Chúa. Chúng ta cũng chấp nhận khổ, chấp nhận bị lỗ lã trong cuộc sống vì chúng ta yêu Chúa và yêu mọi người. Chúng ta được Chúa tạo dựng giống hình ảnh Chúa là giống Chúa về tình yêu. Do đó, chúng ta phải chấp nhận dấn thân, chấp nhận hy sinh vì Chúa và tha nhân: “Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp: “Giới răn trọng nhất chính là: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Còn đây là giới răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12, 28 – 31). Do vậy, hàng ngày chúng ta giữ đạo Chúa, xa tránh các tội lỗi, vác thập giá theo Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng biết sống hòa thuận, tha thứ, cảm thông cho nhau, nhất là giúp nhau nên thánh. Bởi vậy, vì yêu, chúng ta sẽ cố gắng tận dụng mọi cơ hội, các dịp thuận tiện và cho dù cả không thuận tiện đi chăng nữa để chúng ta sống trọn chữ yêu, mang lại hạnh phúc cho mình và cho mọi người.
Lạy Chúa tình yêu, xin Chúa dạy bảo chúng con cách thức để chúng con yêu giống như Chúa, xin Chúa dẫn chúng con đi trên con đường tình yêu của Chúa, nhất là xin Chúa giúp chúng con sống khiêm nhường, biết hạ mình trước người anh em để rồi từ đó chúng con mới có thể giúp anh chị em chúng con sống thánh thiện để được Chúa ban ơn giống như chúng con: “Những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế”(Mt 7, 12). Amen.
Bởi lẽ là Ngày Chuẩn Bị, và để tránh cho các tử thi không còn treo trên thập giá trong ngày sabbat, vì ngày sabbat là một ngày trọng đại, những người Do-thái xin Philatô cho hạ các tử thi xuống, sau khi đánh giập ống chân. Bấy giờ những người lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu.
Khi đến gần Chúa Giêsu, chúng thấy Người đã chết, nên không đánh giập ống chân Người; nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức máu cùng nước chảy ra. Và kẻ đã xem thấy, thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cả chư vị cũng tin.
Những điều đó đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: "Không một cái xương nào của Người bị đánh giập". Và lại có lời Kinh Thánh khác rằng: "Chúng sẽ nhìn vào Đấng chúng đã đâm thâu qua".
Muốn nhìn thấy Trái Tim của Thiên Chúa, phải đến với Giêsu. Muốn nhìn thấy Trái Tim của Giêsu, chúng ta có thể đứng từ nhiều vị trí. Thấy Trái Tim ấy khi Giêsu cúi xuống trên những bệnh nhân và tội nhân, trên người thu thuế và gái điếm, trên phụ nữ và trẻ em. Thấy Trái Tim ấy khi Giêsu nuôi dân ăn no, hay rửa chân cho các môn đệ. Nhưng có một chỗ đứng đặc biệt để nhìn thấu Trái Tim của Giêsu, nhìn rõ Trái Tim đó vào lúc yêu bằng tình yêu lớn nhất, chỗ đó là Núi Sọ, lúc đó là buổi chiều thứ sáu, áp lễ Vượt Qua, khi đó Trái Tim ấy đã ngừng đập và bị đâm thâu. Chỉ riêng Tin Mừng thứ tư kể lại chuyện Đức Giêsu bị đâm vào cạnh sườn, khi Ngài chịu đóng đinh trên thánh giá. Có Mẹ của Ngài và người môn đệ Ngài thương mến đứng gần bên. Chính người môn đệ này đã chứng kiến tận mắt và muốn làm chứng một cách nghiêm túc cho các môn đệ tương lai về điều đối với ông thật là quan trọng, để họ cũng tin như ông (c.35). Câu chuyện xảy ra thật là đơn giản. Người Do thái muốn hạ xác các người bị đóng đinh xuống, vì chiều thứ sáu là đã bắt đầu ngày sabát, cũng là ngày đầu tiên của tuần lễ Vượt Qua, một đại lễ trong năm. Thấy Đức Giêsu chết rồi, lính đã không đánh giập ống chân nữa. “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (c. 34). Làm sao máu có thể chảy ra khi tim đã ngừng bơm máu và xác đã chết? Làm sao máu và nước có thể chảy ra một cách có vẻ biệt lập như vậy? Nhiều nhà khoa học đã tìm cách giải thích hiện tượng này, và đối với họ điều này không phải là không có khả năng xảy ra, đối với một người mới chết, đang ở tư thế thẳng đứng. Người môn đệ được Chúa mến thương đã chứng kiến cảnh tượng ấy, hẳn đã nhận ra và trân trọng ý nghĩa sâu xa của nó. Giáo Hội vẫn coi các bí tích được sinh ra từ cạnh sườn bị đâm thâu. Máu là máu của bí tích Thánh Thể, nước là nước của bí tích Thánh Tẩy. Từ cạnh sườn Đức Giêsu chảy ra dòng nước mà Ngài đã hứa ban trước đây. “Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7, 38-39). Dòng nước ấy là Thần Khí Ngài ban khi gục đầu tắt thở (Ga 19, 30). Chính vào giờ Đức Giêsu chịu treo, người ta giết chiên Vượt qua để mừng lễ. Đức Giêsu mới là Chiên Vượt qua đích thực (Ga 1, 29. 36). Ngài chết như con chiên hiền lành bị đem đi giết, như người Tôi Trung (Is 53, 7). Ngài chết như con chiên Vượt qua không bị đánh giập cái xương nào (c. 36). Lễ Thánh Tâm cũng là ngày thánh hóa các linh mục. Chúng ta cầu cho các linh mục có trái tim của Thầy Giêsu, trái tim bị đâm thâu, nên đã mở ra để đón mọi người chẳng trừ ai, trái tim yêu đến cùng, yêu bằng tình yêu lớn nhất, yêu đến hiến mạng. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người. Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi. Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con. Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa. Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật. ---------------------------------
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại cho đến chết. Trái tim Chúa đã mở ra, những giọt nước và máu cuối cùng đã được ban cho nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con rất xúc động khi nhìn thấy trái tim Chúa đã bị lưỡi đòng đâm thâu. Chúa đã không tiếc gì với con. Cả đến những giọt nước và giọt máu cuối cùng trong trái tim Chúa, Chúa cũng dốc cạn cho con. Tình yêu của Chúa thật cao cả và trọn vẹn.
Lạy Chúa Giêsu, dịp lễ Thánh Tâm Chúa là cơ hội để con chiêm ngưỡng và nhận biết tình yêu Chúa đã dành cho con, và nhất là để con biết đáp lại tình yêu Chúa bằng một tấm lòng chân thành với tình mến sâu xa. Thật vậy, trái tim của con đang cần thanh luyện để biết yêu thương quảng đại hơn, biết mở rộng cõi lòng như một món quà trao tặng người khác. Nếu Chúa đã yêu thương con cách trọn vẹn, kể cả những giọt máu cuối cùng trong trái tim, thì con cũng cần biểu lộ một tình yêu biết dốc cạn cho người khác. Tình yêu được dốc cạn khi con sẵn sàng tự nguyện đi bước trước, đến bắt tay kẻ con đang giận hờn. Tình yêu được dốc cạn khi con quảng đại giúp người túng thiếu, không một chút luyến tiếc hoặc tính toán hơn thiệt. Và tình yêu được dốc cạn khi con dám can đảm chấp nhận phần thiệt thòi cho mình, để người khác được lợi ích hơn.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin Chúa thanh luyện trái tim con và giúp con thực hiện điều đó. Amen.
Ghi nhớ: “Tên lính đâm thủng cạnh sườn Người, và máu cùng nước chảy ra”.
Chúng ta hãy cám ơn thánh Yoan tác giả bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe. Người đã trung thành kể lại sự kiện một lính đã lấy giáo đâm thủng cạnh sườn Chúa Yêsu, để hôm nay chúng ta có đường lối đi vào Thánh Tâm Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay thật đẹp hơn mọi bức ảnh Thánh Tâm. Và những lời Kinh Thánh là tư tưởng chắc chắn hơn cả đưa chúng ta đi vào mầu nhiệm.
Vậy, nếu chúng ta theo vết thương mà người lính đã cầm giáo mở ra ở cạnh sườn Chúa Yêsu mà nhìn vào trái tim Chúa, chúng ta sẽ thấy như thánh Yoan hồi trước, máu và nước đang chảy ra. Máu nói lên sự sống và tình yêu; Nước chảy đến đâu như muốn rửa sạch đến đó. Khi nói Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Yêsu, thánh Yoan muốn trỏ cho mọi người thấy trái tim Chúa đang đổ hết sức sống và tình yêu của Người ra để rửa sạch chúng ta, khiến chúng ta trở thành tạo vật mới, thánh thiện, trong sạch đẹp lòng Chúa.
Thế nên, thánh Phaolô trong bài thơ hôm nay đã muốn quỳ gối xuống trước mặt Cha Ðức Yêsu Kitô để tạ ơn Người vì đã dành cho loài người chúng ta một kho tàng yêu thương vô tận như thế ở trong Thánh Tâm Chúa Yêsu. Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội cũng hãy bắt chước thánh Tông đồ quỳ gối ở trước Thánh Tâm Chúa mà chiêm ngưỡng: kìa sức sống và tình yêu của Chúa đang chảy ra lênh láng mang phúc lành, ơn thánh đến cho chúng ta, để hôm nay chúng ta được tươi mát và phong phú hơn.
Quỳ trước Thánh Tâm Chúa, chúng ta thấy những lời sách Hôsê vừa nghe, tuy thật thắm thiết, nhưng dường như chưa diễn tả được tới mức của bài thơ Phaolô và của bài Phúc Âm Yoan. Hôsê cố gắng nói lên mối tình đặc biệt giữa Chúa và dân Người. Ông mượn hình ảnh một người cha, một người mẹ săn sóc đứa con thơ để nói về cách thức Chúa chăm lo cho loài người chúng ta. Chúa phán: lúc Israel còn niên thiếu, Ta yêu thương, bồng nó trên tay, ắp nó vào má, nghiêng mình trên nó và đút cho nó ăn. Quả tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi… Hỡi Israel, làm sao Ta có thể bỏ ngươi được? Phải Chúa đã không bỏ Israel, dù dân Người nhiều khi phản bội. Ezêkiel nói: Israel như người con gái, sinh ra đã bị bỏ rơi ngoài đường, Chúa đi qua động tình trắc ẩn, đem về tắm rửa nuôi nấng… Càng lớn càng thêm xinh đẹp. Chúa lại sắm cho nhiều tư trang và y phục đẹp. Gặp chàng thanh niên nào đi qua, Israel cũng chạy theo, đâm ra đồi trụy… Nhưng tình yêu của Chúa trước sau như một. Trái tim Người chỉ có yêu thương. Người lại đến chăm sóc, giúp hồi tâm tỉnh ngộ để mắt Israel lại bừng ra, khuôn mặt lại trở nên xinh đẹp.
Nói đúng hơn, trong Cựu Ước, Chúa mới chỉ hứa làm như vậy thôi. Nhưng đọc những tư tưởng ấy, ai mà không cảm động? Ai không thấy rằng trái tim Chúa thật là đại dương bát ngát tình thương? Người ta đã ví không sai khi gọi các trang Kinh Thánh là những bức thư tình. Kinh Thánh mạc khải tâm tư ý nghĩ của Chúa đối với loài người. Ðọc lên rõ ràng chúng ta chỉ thấy có tình yêu. Và nêu đọc ngoài viễn tượng tình yêu, sẽ không còn hiểu được Kinh Thánh nữa; và phải nói sẽ hiểu sai hoàn toàn. Kinh Thánh như vậy là trái tim của Chúa mở ra cho loài người. Ngày lễ Thánh Tâm trước hết chúng ta phải đọc Kinh Thánh, phải hứa sẽ đọc Kinh Thánh để tìm thấy Chúa yêu thương loài người và từng người chúng ta.
Cựu Ước đã thắm thiết, nhưng như ta đã nói, vẫn chưa sánh được với Tân Ước… Vì trong Cựu Ước, Chúa đã yêu thương nhiều, nhưng còn hứa làm nhiều việc yêu thương hơn nữa ở trong Tân Ước. Trái tim của Chúa Cha ở trong Cựu Ước còn giấu kín nhiều kho tàng bí ẩn, chỉ được mở ra nơi trái tim Chúa Yêsu như lời thánh Phaolô nói trong bài thư. Phải nhờ Tân Ước, nhờ Giáo hội, nhờ Trái tim Chúa Cứu thế, chúng ta mới biết được các mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở trong Thiên Chúa, và mới rõ được sự khôn ngoan muôn màu mà Thiên Chúa đã dự định thi hành trong Ðức Yêsu Kitô Chúa chúng ta. Như vậy, chiêm ngưỡng Thánh Tâm Chúa Yêsu hôm nay, chúng ta có thể thấy tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương loài người trong kế hoạch cứu độ.
Là vì sau nhiều thời, nhiều cách, dùng các tiên tri, đến nói với chúng ta về trái tim yêu thương của Người, của Thiên Chúa đã sai chính Con Một Người xuống thể để ai thấy Chúa Con cũng thấy Chúa Cha, ai thấy trái tim Chúa Con cũng thấy trái tim của Chúa Cha. Và trái tim của Chúa Con như thế nào, thì tất cả cuộc đời trần gian của Người đã nói lên tất cả. Không những lòng có gì, thì Người đã tâm sự hết với chúng ta. Người nói với chúng ta về Chúa Cha nhân lành yêu thương loài người đến nỗi đã thí Con Một Người cho ta. Câu chuyện những người thuê vườn nho là một tỉ dụ. Thiên Chúa có một vườn nho để cho loài người canh tác. Loài người không biết ơn, đã đánh đập mọi tôi tớ mà Người sai đến. Cuối cùng Người sai chính Con Một Người tới. Họ cũng đánh đập rồi giết chết. Tình yêu lạ lùng của Chúa Cha còn được câu chuyện đứa con hoang đàng kể lại.
Nhưng Chúa Yêsu đã diễn tả tình yêu ấy không nguyên bằng lời nói, mặc dầu lời nói của Người còn mạc khải toàn bộ chân lý cứu sống loài người. Người diễn tả trái tim của Người bằng chính nếp sống khó nghèo, vâng phục, tận tụy phục vụ mọi hạng người, kể cả những thành phần bị loài người vứt bỏ, rẻ rúng hơn cả. Người săn sóc kẻ phong cùi, người cải hoán kẻ tội lỗi. Người không bỏ chúng ta mồ côi. Và cuối cùng, Người đã chấp nhận chết để nói lên lời yêu thương thấm thía: Lạy Cha, con tự hiến thánh con để họ được nên thánh, con dâng mạng sống con để họ được sống. Chúa chết trên thập giá vì yêu thương; nhưng ở trên thập giá, Chúa còn muốn tỏ dấu yêu thương cho đến cùng.
Một người lính đã cầm giáo chọc thủng cạnh sườn Người, nơi che giấu trái tim yêu thương của Người. Những giọt máu yêu thương cuối cùng chảy ra. Những giọt máu nói lên tình yêu thương nồng nàn ngay khi thân thể đã cứng lạnh. Những giọt máu hy sinh tế lễ để đền tội cho loài người. Yoan đã nhìn thấy cảnh tượng đó. Ông thấy người lính không đánh dập ống chân Chúa tử nạn như thói quen vẫn có, khiến dù thân thể Chúa đã hy nát như vậy mà mọi cái xương vẫn còn y nguyên. Bây giờ máu lại chảy ra, máu nói lên ý nghĩa hy tế tình yêu, Yoan bừng mắt nhận ra lời Thánh Kinh: khi làm thịt con chiên vượt qua, không được làm gãy một cái xương nào. Như vậy, trên thánh giá, Ðức Kitô thật là Con Chiên vượt qua của đạo mới. Và máu từ cạnh sườn đang chảy ra, đúng là máu cứu độ thay thế hẳn máu chiên vượt qua ngày xưa bôi trên cửa nhà người Dothái để cứu họ khỏi bị sát hại.
Chúng ta quả thật đã được cứu chuộc nhờ máu từ cạnh sườn Chúa Yêsu. Yoan sung sướng suy nghĩ như vậy. Và ông lại nhìn thấy nước từ cạnh sườn Chúa chảy ra. Ðúng rồi, Êzêkiel đã viết: từ bên hông đền thờ Yêrusalem mới sẽ có suối nước chảy ra: nước trong sạch và phong phú làm sao! Nước chảy đi đến đâu, tạo vật mới mọc lên, sinh ra đến đó. Nước ấy là nước sự sống trường sinh vậy. Nay ở cạnh sườn Chúa tử nạn, có nước chảy ra theo máu. Ðiều đó nói lên ý nghĩa rõ ràng: hy lễ của Ðức Kitô đang ban Nước Thánh Thần rửa sạch chúng ta, biến chúng ta nên tạo vật mới làm cho chúng ta từ nay được sống trong sạch tươi mát.
Người ta thật có lý khi bảo Giáo hội đã được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Yêsu, như Evà đã sinh ra nhờ khúc xương sườn của Adong. Sách thánh nói Evà đã sinh ra như thế là có ý bảo xương thịt Evà cũng là xương thịt Adong. Nam nữ cũng là loài người. Nam nữ phải mật thiết yêu thương nhau bình đẳng. Coi nhau như thân thể mình. Hôm nay, Giáo hội và chúng ta cũng được sinh ra từ cạnh sườn Chúa Cứu thế. Giáo hội là thân thể của Người. Người sẽ yêu thương Giáo hội và chúng ta như thân thể của Người. Còn có thể diễn tả tình yêu như thế nào nữa không?
Thánh Yoan mời ta hãy nhìn lên Ðấng bị đâm thâu; thánh Phaolô bảo ta hãy hiệp cùng Hội Thánh mà hiểu biết chiều rộng, chiều dài, chiều cao, chiều sâu của tình yêu nơi Ðức Kitô; phụng vụ Giáo hội trong lễ và tháng Thánh Tâm này, thúc giục chúng ta chiêm ngưỡng yêu mến trái tim Chúa Yêsu yêu thương chúng ta lạ lùng.
Vậy chúng ta hãy đến cùng Trái Tim Chúa Yêsu trong Kinh Thánh, trên Thánh giá, nơi Thánh Thể, trong Giáo hội và nơi tha nhân. Trong Kinh Thánh rõ ràng chúng ta chỉ đọc thấy những lời Chúa yêu thương. Trên Thánh giá, chúng ta được thánh Yoan chỉ cho thấy máu tình yêu đang chảy ra để cứu sống chúng ta trong mạch nước trường sinh, thánh thiện. Còn nơi Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương của Trái Tim Chúa được biểu thị trong chính lời truyền phép: chúng con hãy lãnh nhận mà ăn, vì này là Mình Ta và này là Máu Ta. Có lẽ chúng ta cần phải suy nghĩ nhiều hơn về tình yêu của Chúa ở trong Giáo hội và nơi tha nhân. Việc suy nghĩ đó không khó khăn gì vì nếu Chúa đã trao tất cả trái tim Chúa cho Giáo hội, cho chúng ta, thì nhìn vào Giáo hội và tha nhân, chúng ta phải như nhìn thấy tình yêu thương của Chúa đang dành tất cả cho loài người. Chúng ta sẽ phải thêm lòng yêu thương tha nhân, muốn phục vụ tha nhân, vì có như vậy chúng ta mới cảm nghĩ như trái tim Chúa và mới làm đẹp lòng Trái Tim Chúa.
Thế nên, tháng Thánh Tâm không phải chỉ là tháng yêu mến Trái Tim Chúa; nhưng khi nhìn thấy Trái Tim Chúa yêu thương loài người vô cùng, chúng ta phải biết yêu thương chăm lo cho người khác.
Xin Thánh Tâm Chúa Yêsu làm cho trái tim chúng con được nên giống Thánh Tâm Chúa.
Thánh Gioan nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa và đã tin vào tình yêu đó”.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là dịp Giáo Hội nhắc cho chúng ta nhớ đến tình yêu vô biên của Chúa và cố gắng đáp trả. Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã dùng mọi phương thế để chúng ta thấy được, cảm nhận được tình yêu của Ngài. Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian. Chúa đã thương chúng ta đến mức độ như thế, chúng ta có cảm thấy hạnh phúc không? Nhiều người trong chúng ta không cảm thấy gì cả. Đứa con yêu quí nhất, “đẹp lòng Ta mọi đàng”, Chúa đã ban trọn vẹn cho chúng ta. Nhưng không mấy người nghĩ đến hay nhìn thấy tình thương của Ngài.
Một chàng thanh niên, ngày cưới, sau khi khách đã về, đã dẫn vợ mình đến trước mặt cha mẹ vợ, quì gối xuống và nói: “Suốt đời con tạ ơn cha mẹ đã cho con đứa con yêu quí của cha mẹ. Con nguyện suốt đời sẽ yêu thương và săn sóc vợ con hết tình và không bao giờ quên ơn cha mẹ”. Và đúng thế, anh đã giữ lời.
Chúng ta lãnh nhận món quà quí giá nhất của Chúa Cha và chúng ta đã treo đứa con yêu đó lên thập giá, lấy đòng đâm thấu tim Ngài. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samaria: “Nếu chị biết được hồng ân của Thiên Chúa”.
Chúng ta chưa biết những gì Chúa ban cho chúng ta khi ban cho chúng ta người Con Một của Ngài.
Chúa Con đã yêu thương chúng ta “đến tận cùng”, khi vâng lời Chúa Cha, đã nhập thể làm thân con người sống cho chúng ta và đã cứu vớt chúng ta bằng cách hiến thân chịu chết cho chúng ta. Nhìn Chúa Giêsu, chúng ta có thấy Ngài thương chúng ta không? Ngài đã dùng mọi cách để cho chúng ta thấy được tình yêu của Ngài… Chúng ta có thấy được không?
Giáo Hội cũng tìm mọi cách để thúc đẩy chúng ta đền đáp tình yêu vô biên của Chúa. Lễ Thánh Tâm không phải do Giáo Hội thiết lập mà chính do ý muốn rõ rệt của Chúa Giêsu, nhưng Giáo Hội đã vâng theo, đã làm hết cách để cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm như Chúa muốn.
Lễ Thánh Tâm bắt nguồn từ những lần Chúa hiện ra với thánh nữ Magarita-Maria Alacoque, là một nữ tu dòng Thăm Viếng từ năm 1673 ở Pháp.
Thánh nữ đã yêu mến nồng nàn Chúa Giêsu Thánh Thể, và trong một lần chị đang chầu Thánh thể, Chúa Giêsu đã hiện ra và cho chị biết những kho tàng ơn thánh và những ước muốn của Thánh Tâm Ngài. Ngài than phiền về sự vô ân của loài người đối với tình yêu vô biên của Ngài. Ngài cũng bảo chị phải làm hết cách để Giáo Hội chấp nhận thiết lập một thánh lễ riêng biệt vào ngày thứ Sáu sau lễ Mình Máu Chúa.
Vâng lời Chúa, chị đã tỏ ra cho cha linh hướng biết ý định của Chúa. Ngài ủng hộ hết mình khi biết rằng chính Chúa Giêsu đã muốn như thế.
Chị đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn cản trở trong việc loan truyền lòng sùng kính Thánh Tâm nầy, nhưng chị không bao giờ nản chí. Một số các giám mục linh mục thời bấy giờ ủng hộ, nhưng cũng có một số phản đối gay gắt, cho rằng tôn sùng Thánh Tâm có tính cách tình cảm và xác thịt. Vào thời bấy giờ ảnh hưởng của chủ thuyết Giăngxênius xem Thiên Chúa như một vị Thiên Chúa nghiêm khắc, công thẳng, đe phạt mọi lầm lỗi của con người, xem xác thịt là nguồn gốc mọi tội lỗi. Vì thế, tôn sùng Thánh Tâm và tình yêu của Thiên Chúa là không thích hợp.
Mãi đến năm 1765, hơn một trăm năm sau, Đức Giáo Hoàng Clêmentê XIII mới chấp nhận lập lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức Giáo Hoàng Piô IX mới chấp nhận cho toàn thể Giáo Hội mừng lễ Thánh Tâm.
Giáo Hội không gấp rút chấp nhận những mạc khải tư và luôn cẩn thận xem xét và khi nhận thấy rằng những mạc khải tư nào hợp với đức tin và ích lợi cho các linh hồn mới chấp nhận.
Tại sao Chúa Giêsu muốn chúng ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài và tại sao lại là trái tim?
Chúng ta có thể thấy rõ ước muốn của Chúa khi đọc các sách Tin Mừng. Trong đó chúng ta có thể thấy tình yêu của Chúa đối với chúng ta như thế nào, không cần một cái gì khác. Nhưng con người chúng ta hướng về vật chất và chú trọng đến vật chất, vì thế Chúa muốn dùng những gì có thể gây sự chú ý cho chúng ta để giúp chúng ta hiểu rõ hơn.
Tại sao lại dùng hình ảnh trái tim? Thông thường, trái tim là biểu tượng của tình yêu. Tôn sùng Thánh Tâm, chúng ta không chỉ tôn sùng trái tim bằng thịt máu Chúa mà thôi mà cả tình yêu vô biên của Ngài. Tình yêu đã đưa Ngài đến việc chấp nhận mọi đau khổ, và chết cho chúng ta, và nhất là đã ban cho chúng ta Mình và Máu Ngài làm của ăn cho chúng ta.
Thánh Tâm và Thánh Thể liên hệ mật thiết với nhau. Hai khía cạnh của một tình yêu, hai cách Chúa dùng để diễn tả tình yêu của Ngài. Yêu mến Thánh Tâm cũng là yêu mến Thánh Thể. Thánh Thể chính là tuyệt tác và là dấu lạ của tình yêu Chúa, là cách biểu lộ rõ nét và sung mãn nhất của tình yêu Chúa. Ngài đã đưa tình yêu của Ngài đến tột đỉnh đến nỗi ở lại với chúng ta và trong chúng ta cho đến tận thế. Thánh Thể chính là dấu hiệu của tình yêu chứa đựng trong Trái Tim của Chúa Giêsu.
Trong việc tôn sùng Thánh Tâm, nét được chú ý nhất đó là tình yêu của Chúa bị lãng quên, bị khinh miệt, bị chà đạp bằng nhiều cách. Con người đã vô ơn bội nghĩa với Đấng đã yêu thương họ đến nỗi không tiếc gì với họ.
Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến Trái Tim bị đâm thâu của Chúa. Và từ Trái tim rộng mở đó tuôn trào cho chúng ta nguồn suối ơn lành không thể nói được. Tôn sùng Thánh Tâm là nhớ đến trái tim Chúa bị đâm thâu, nhưng cũng nhớ đến tất cả những đau khổ Chúa đã chịu vì tội lỗi chúng ta. Thánh Tâm tức là trung tâm của mọi đau khổ Chúa Giêsu phải chịu vì loài người. Thánh Tâm chính là tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu, những tâm tình buồn vui, đau khổ của Ngài.
Nhớ đến những đau khổ của Chúa Giêsu, chúng ta có nhớ rằng chính chúng ta cũng là nguồn gốc của những đau khổ của Ngài không? Tại sao chúng ta sợ mất lòng người khác mà chúng ta lại không sợ làm cho Chúa chúng ta đau khổ? Vì thế, chúng ta hãy nhìn nhận tất cả những gì chúng ta đã làm cho Ngài để yêu mến Ngài thực tình hơn, can đảm hơn. Chúng ta hãy hết mình vâng theo ý Ngài để đền lại những sự yếu đuối của chúng ta và của những anh em chúng ta. Ngài muốn chúng ta yêu mến Ngài vì Ngài muốn chúng ta được hạnh phúc với Ngài. Ngài đau khổ vì thấy quá nhiều người hư mất. Chúng ta hãy tiếp tay với Ngài cứu vớt anh em chúng ta và cả chúng ta bằng cố gắng hy sinh, bằng sự trung thành. Chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn loạn, dã man. Con người không còn biết yêu thương nhau là gì. Đó là nguồn cội của mọi đau khổ của Chúa. Dù chúng ta nhỏ bé, chúng ta không thể làm gì, nhưng chúng ta có một khí giới hữu hiệu để cứu vớt anh em chúng ta là cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều, cầu nguyện bằng mọi cách, cầu nguyện luôn. Chính Chúa sẽ cứu các linh hồn chứ không phải chúng ta.
Hôm nay, khi đến ăn lấy Chúa, chúng ta hãy ăn lấy Ngài với tất cả thiện chí và niềm tin, với tất cả tình yêu của con tim nhỏ bé của chúng ta. Chúa đang khao khát, một cơn khát không nguôi. Chúa đang khao khát tình yêu của chúng ta. Hãy làm dịu bớt cơn khát của Ngài bằng tất cả khả năng của chúng ta. Hãy mang lại cho Chúa niềm vui vì có người chia sớt cơn khát triền miên của Ngài.
Trong Tin mừng chỉ có vài câu có liên hệ gián tiếp đến Trái tim của Chúa Giêsu, như trong Mátthêu 11,29: “…Vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Latinh là “quia mitis sum et humilis corde”) hoặc trong Gioan 20,27: “…Hãy đặt vào cạnh sườn Ta” (“Mitte in latus meum”) trong đó hai từ corde và latus đều ám chỉ trái tim của Chúa Giêsu. Ngoài ra Chúa Giêsu không đả động gì đến trái tim Ngài. Không bao giờ Ngài bảo phải yêu mến và tôn sùng trái tim Ngài.
Cha William G. Most, chuyên gia thần học, giảng giải: Tôn sùng Thánh Tâm là một phần của nền tảng đức tin căn cứ vào lòng Chúa yêu thương, được biểu hiện nơi Trái Tim Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta mới hiện hữu và được cứu rỗi.
Có lẽ việc tôn sùng Thánh tâm Chúa Giêsu phát xuất từ đoạn Tin mừng theo thánh Gioan 19,31-37 kể lại rằng: sau khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, thì một người lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Ngài, tức thì máu cùng nước chảy ra. Chính Chúa Giêsu lúc còn sống, Ngài phán: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,25-30).
Chiêm ngắm cạnh sườn bị đâm thâu của Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ hiểu biết Ngài cách sâu rộng hơn, kinh nghiệm về tình yêu của Ngài cách đầy đủ hơn, khiến chúng ta có thể sống chan hoà với tình yêu của Ngài và sẵn sàng làm chứng về tình yêu ấy cho những người khác.
Trái tim thường được coi là “trụ sở của Tình yêu”. Chúng ta tôn thờ Thánh Tâm Chúa, để nhớ đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại, đối với mọi người chúng ta. Giáo hội thiết lập lễ Thánh Tâm là để đề cao lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại nơi Ngôi Hai Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu Kitô.
Suy ngắm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại, chúng ta mới hiểu được định nghĩa của thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Tình yêu còn đặc biệt được biểu lộ qua việc Ngài thương xót những kẻ tội lỗi: “Ta đến không phải để tìm người công chính, nhưng để tìm người tội lỗi biết ăn năn hối cải” (Lc 5,32).
Tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải là bằng những tình cảm ướt át, uỷ mị, những lời kinh đền tạ tha thiết, những câu hát than van rên rỉ… nhưng là đi vào tâm tình của Ngài, hoà vào mạch sống yêu thương của Ngài, là chấp nhận sự hy sinh, sự mất mát, sự chết cho anh em đồng loại được sống, được hạnh phúc.
Suy ngắm tình Chúa yêu, chẳng những giúp chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa, mà còn giúp chúng ta thêm lòng yêu thương tha thứ cho nhau. Thánh Gioan viết: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau… Như Chúa đã tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau và giúp đỡ lẫn nhau…” (1Ga 11-21).
Con người có hai nhu cầu cần được thoả mãn đó là muốn yêu và được yêu. Là người, ai cũng muốn yêu: cha mẹ thương con cái, con cái yêu mến cha mẹ; vợ chồng yêu nhau, bạn bè thương mến nhau. Ai không còn khả năng để yêu người khác, thì tuy đang sống nhưng cũng kể như đã chết. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, Ngài yêu thương mọi người và Ngài cũng muốn được con người đáp lại tình yêu của Ngài. Chúng ta hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Chúa thương mình và cố gắng đáp trả phần nào tình yêu của Chúa.
Qua lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hãy thêm lòng tôn sùng yêu mến Thánh Tâm Chúa. Một cách cụ thể, tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là cố gắng đổi mới chính con tim của chúng ta, sao cho nó hiền hậu khiêm nhường như Trái Tim Chúa Giêsu theo lời Ngài phán: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Ga 20,27). Chúng ta phải làm sao cho con tim chúng ta biết yêu thương loài người, nhất là yêu thương những người nghèo khổ, bị bỏ rơi và yêu thương như trái tim yêu thương rộng mở của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn yêu thương.
Đồng thời, hôm nay cũng là ngày thánh hoá các linh mục của Chúa. Đức Thánh Cha kêu gọi cộng đồng dân Chúa hãy nâng đỡ các linh mục trong ơn gọi nên thánh của các ngài, bằng lời cầu nguyện và những việc hy sinh, cộng tác với các ngài trong việc mục vụ tông đồ và truyền giáo. Xin cho các linh mục mỗi ngày sống thánh thiện để trở thành những mục tử theo gương Chúa Kitô.
Chúng ta hãy hợp lời cầu nguyện cho các ngài như các ngài vẫn cầu nguyện cho mình hằng ngày: “O bone Jesu, fac ut sim sacerdos secundum cor tuum”: Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con trở thành linh mục như lòng Chúa mong muốn.
Trong tháng Thánh Tâm, Giáo hội mời gọi ta hãy siêng năng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu chỉ tay vào Trái Tim có vòng gai và ngọn lửa bốc cháy là một lời mời gọi của Tình Yêu Thương.
Chúa mời gọi ta chiêm ngắm Tình Yêu Thương của Chúa. Trái Tim thường được coi là trung tâm phát xuất tình yêu. Chúa cũng có một trái tim như ta. Trái Tim Người là ngọn lửa tình yêu bừng bừng cháy đêm ngày. Vì Người mãi thao thức băn khoăn cho chúng ta là đoàn chiên yêu quí của Người. Trong Kinh Thánh ta đã thấy người “chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đám đông tất tưởi bơ vơ như đàn chiên không người chăm sóc (Mc 5, 34). Người “khóc” thương Lazarô (Ga 11, 35). Trên thánh giá, Người thương tha thứ cho anh trộm lành (x. Lc 23, 39-43) và thương cầu nguyện xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người (x. Lc 23, 34). Tình Yêu Thương của Chúa được diễn tả chi tiết qua hình ảnh người Mục Tử nhân lành. Người Mục Tử nhân lành biết từng con chiên nên có thể gọi tên từng con một. Người Mục Tử chăm sóc cho từng con chiên. Con nào bị thương tích sẽ được băng bó cẩn thận. Con nào đau yếu sẽ được chăm sóc. Tất cả đoàn chiên sẽ được hướng dẫn đến đồng cỏ non xanh có dòng suối mát trong (x. Ed 34, 14-16). Người đi tìm con chiên lạc. Và khi tìm được thì vác nó lên vai đem về mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 4-7). Nhất là khi sói dữ đến tấn công người Mục Tử nhân lành sẽ liều mình đương đầu với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên (x. Ga 10, 11-15). Chúa Giêsu là người Mục Tử Nhân Lành. Người biết rõ ta vì Người đã dựng nên ta. Người thông cảm với hoàn cảnh khốn khổ của ta. Người từ trời xuống thể để đi tìm chúng ta là những con chiên lạc. Người dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Người và bằng Mình Máu Thánh Người. Người yêu thương chúng ta nên đã liều mạng sống hi sinh chịu chết thay cho chúng ta.
Chúa mời gọi ta ở lại trong Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa không chỉ mời gọi ta chiêm ngắm mà còn mời gọi ta đến với Chúa để được hưởng tình yêu thương của Chúa. Khi hai môn đệ Gioan và Anrê muốn đến nơi Chúa ở, Chúa đã mời gọi các ngài: “Hãy đến mà xem”. Xem để thấy tình yêu thương của Chúa và nhất là để hưởng nếm Tình Yêu Thương đó. Hai môn đệ đã ở với Chúa một buổi chiều. Buổi chiều đó đã để lại trong lòng các ông những kỷ niệm êm đềm không bao giờ quên được. Hơn nửa thế kỷ sau, thánh Gioan mới ghi lại kỷ niệm ngày đầu tiên gặp gỡ với Chúa, thế mà Ngài vẫn nhớ như in từng lời nói, từng cử chỉ và tất cả những gì đã diễn ra buổi chiều hôm ấy. Ngài còn nhớ cả thời gian gặp Chúa vào khoảng 5 giờ chiều (x. Ga 1, 35-39). Thật là một kỷ niệm ngọt ngào. Quả vậy Chúa mời gọi ta đến để hưởng Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa muốn ấp ủ ta như gà mẹ ấp ủ gà con (x. Mt 23, 37). Chúa mời ta đến để bổ sức cho ta, để ta có thể gánh nổi những gánh nặng cuộc đời, những gánh nặng bổn phận, những gánh nặng của riêng mình và những gánh nặng của người chung quanh.”Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúa mời gọi ta đến với Chúa để được thỏa lòng khao khát, để lấp đầy những khát vọng thâm sâu của ta.”Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống” (Ga 7, 37-38). Chúa mời gọi ta hãy ở lại trong Tình Yêu Thương của Chúa, để ta được hưởng Tình Yêu Thương của Chúa, để chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn, để cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả dồi dào và những kết quả đó sẽ tồn tại mãi mãi (x. Ga 15, 9-17).
Chúa mời gọi ta đáp đền Tình Yêu Thương của Chúa. Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đền đáp tình yêu. Chúa tha thiết yêu ta và mong ta đền đáp. Ta đền đáp trước hết bằng tuân giữ điều răn của Chúa như Lời Chúa dậy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15). Ngoài ra Chúa còn mời gọi chúng ta hãy tích cực đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc sùng kính Thánh Tâm Chúa. Theo thánh nữ Magarita, Chúa mong muốn ta hãy sùng kính Thánh Tâm Chúa bằng việc thánh hóa ngày Thứ Sáu, đặc biệt là ngày Thứ Sáu đầu tháng. Mỗi ngày thứ Sáu đầu tháng ta hãy hi sinh hãm mình, xưng tội chịu lễ, đi đàng Thánh Giá, làm giờ thánh Đền Tạ Thánh Tâm Chúa. Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa đang là nguồn ơn lành đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho Giáo hội và cho các linh hồn.
Ông Chirwin, trong cuốn “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo” có kể lại câu truyện có thật sau đây:
Tokichi Ishii, một tên tử tội đã từng giết người không gớm tay đang chờ ngày chịu hành quyết. Có hai bà trong hội Legio Mariae của Nhật- Bản thường đi công tác Tông Đồ trong các trại giam, đã nhiều lần cố gắng tìm cách vào thăm và khuyên nhủ Ishii nhưng đành thất bại ra về, các bà chỉ còn biết để lại một cuốn Thánh Kinh Tân Ước với một lời đề nghị thật dịu dàng nhân ái: “Lúc nào thấy buồn quá, không biết làm gì thì anh chịu khó mở cuốn sách nhỏ này ra đọc nhé!”
Trong những ngày dài phải chờ đợi cuộc xử bắn, quả thật Ishii đâm ra buồn chán và khủng hoảng, không biết làm gì cho khuây khỏa, anh ta trông thấy cuốn Tân Ước để trên bàn đã phủ bụi lâu nay và tò mò mở ra đọc. Anh ta không ngờ tập sách nhỏ ấy lại khiến anh say mê đọc ngấu nghiến từng câu.
Sau đó một tuần, Ishii kể lại cho người cai ngục Công Giáo: “Khi tôi đọc đến câu Đức Giêsu nói trên Thập Giá: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm...” thì tôi dừng lại. Con tim tôi như bị một con dao dài đâm thâu. Tôi có thể gọi đó là Tình Yêu của Đức Giêsu, hay tôi phải gọi đó là Lòng Thương Xót của Người? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết, đó là sự hung dữ tàn bạo nơi tôi đã tan biến, và tôi đã tin vào Đức Giêsu...”
Ngày bị đem đi hành quyết, mọi người hiện diện đều ngạc nhiên vì Ishii đã biến đổi thành một con người khác hẳn!
Thế kỷ 16, Giáo Hội bị xâu xé bởi nhiều lạc giáo mệnh danh cải cách Giáo Hội. Luther chống lại tình thương tha thứ của Chúa đối với tội nhân. Chủ trương Thiên Chúa đã tiền định ai được lên thiên đàng, ai bị xuống hỏa ngục trước rồi, không còn phép tha tội nữa. Calvin chối phép Thánh Thể. Jensenis hạn chế rước lễ vì sợ Chúa phạt khi xúc phạm đến Chúa.
Giữa thời đại khủng hoảng về tình yêu Thiên Chúa, ngày 27 tháng 12 năm 1673 lễ thánh Gioan, người môn đệ dựa đầu vào Thánh Tâm Chúa trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Magarita giữa hào quang sáng láng như mặt trời, Chúa Giêsu đã phán: “Đây là Thánh Tâm Cha đã yêu thương loài người vô cùng … Con phải truyền bá việc tôn sùng Thánh Tâm Cha để làm phương thế kín múc kho tàng châu báu cho loài người”. Chúa cho thánh nữ thấy Thánh Tâm chứa đựng mọi ơn thánh hóa và ơn cứu độ cần thiết để kéo các linh hồn ra khỏi vực thẳm chết đời đời.
Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần kêu gọi thực hiện tôn sùng Thánh Tâm và đặc biệt năm 1675 Chúa đã dạy thánh nữ vận động lập lễ kính Thánh Tâm Chúa vào thứ sáu sau lễ Mình Máu Chúa. Tháng 7 năm 1685 lễ Thánh Tâm được mừng lần đầu tiên tại nhà dòng Đức Mẹ thăm viếng ở Paray le Monial. Đến năm 1765 Đức Thánh Cha Clêmentê 13 lập lễ và kinh nguyện Thánh Tâm mừng tại Rôma và các nơi.
Lễ Thánh Tâm nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa: “Thánh Tâm đã thương yêu loài người quá bội”.
Bài đọc I, tiên tri Ôsê đã mô tả tình yêu Thiên Chúa thương dân Người như tình yêu cha mẹ đối với con thơ, bồng bế, áp má, đút ăn, tập đi, săn sóc êm ái không ngơi: “Tim Ta thổn thức, ruột gan bồi hồi ở giữa các ngươi”.
Thánh Gioan còn mô tả tình yêu Thiên Chúa qua sự hy sinh chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Thân xác chịu trăm ngàn đòn, bị đóng đinh chết treo lên, thế mà vẫn còn để cho tên lính lấy giáo thọc sâu vào Thánh Tâm, đổ hết máu và nước ra cho chúng nhìn thấu Thánh Tâm Chúa thương yêu chúng dường nào.
Không phải vô tình mà thánh Gioan nhấn mạnh đến cái nhìn vào Thánh Tâm Chúa. Chính Thánh Tâm đã mở ra cho Gioan nhìn thấy tình yêu Thiên Chúa, cho những người lành và còn đặc biệt cho chúng ta, cho quân dữ, cho kẻ thù và cho kẻ tội lỗi: “Họ sẽ nhìn vào Đấng họ đã đâm thâu qua” (Ga. 19, 37).
Thực sự, chính quân dữ đã được ơn nhìn vào Thánh Tâm, nên đã đấm ngực ăn năn và tuyên xưng: “Thật người này là Con Thiên Chúa”.
Chính Phaolô khi đi lùng bắt các Kitô hữu, đã được nhìn vào Thánh Tâm Chúa mà được ơn trở lại, nên khi viết thư cho giáo đoàn Êphêsô, Phaolô đã quỳ gối xuống trước mặt Chúa Cha trên trời dưới đất, cầu khẩn cho anh em được hợp cùng các thánh mà nhận biết chiều rộng, dài, cao, sâu của tình yêu của Chúa Kitô vượt quá trí loài người. Như thế, anh em mới được sung mãn trong nguồn ơn vô biên của Thiên Chúa.
Tình yêu Chúa đã thắng kẻ thù. Chỉ có tình yêu đó mới chiến thắng thế gian.
Đại đế Napolêôn là anh hùng vô địch, bách chiến bách thắng khắp các nước Âu châu. Chỉ trong một tháng, ông kéo 500.000 quân tràn qua Đông Âu, chiếm thủ đô nước Nga dễ dàng. Nhưng đoàn quân chiến thắng trở thành quân cướp của, giết người và đâm chém giết lộn nhau. Trong cảnh chém giết hỗn loạn, Napolêôn mới hiểu sức mạnh binh hùng dũng tướng mà thiếu tình yêu, thì khốn nạn đến chừng nào! Nên ông đã tuyên bố: “Chỉ có tình yêu mới chiến thắng”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu đang bốc lửa yêu mến loài người chúng con quá bội, xin cho trái tim mỗi người chúng con được cháy lửa yêu mến Chúa nồng nàn, cho chúng con thương yêu nhau, hy sinh phục vụ nhau, tha thứ cho nhau, mới mong làm cho cuộc sống nơi trần gian trở nên êm ái, nhẹ nhàng.
Ngay từ xa xưa, trái tim luôn là biểu tượng trung tâm của mọi hành động tình cảm, cảm xúc, tinh thần, luân lý và trí tuệ của con người. Vâng, “tim” là biểu tượng của những gì quan trọng nhất, cơ bản nhất và là biểu tượng sự sống của kiếp nhân sinh: Người có trái tim ngừng đập là người đã đi vào cõi chết và sự sống không còn hiện hữu.
Tuy nhiên, biểu tượng trên tất cả mà “trái tim” phát biểu, đó là tình yêu. Ngoài ra, tim còn là dấu hiệu của lòng nhân ái, quảng đại như người ta thường gọi người quảng đại là con người của trái tim. Tim cũng được chỉ người có ý chí mạnh mẽ, cho nên người can đảm còn được ca tụng: Người có trái tim mạnh mẽ...
Suy niệm
Trong Thánh Tâm, trái tim của Thiên Chúa gặp gỡ và cứu độ con người. Bởi sự hiệp thông, “ở trong, cư ngụ”. Chúa Kitô ở trong chúng ta và đưa chúng ta vào trong trái tim Ba Ngôi: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17,23). Sâu sắc hơn nữa, như Chúa Giêsu đã thổ lộ: “tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17,26). Tình yêu Thiên Chúa đạt đỉnh cao bằng cái chết của Con Thiên Chúa trên thập giá để cứu độ nhân sinh: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”(Ga 15,13).
Truyền thống về Thánh Tâm Chúa Giêsu được Tin Mừng ghi nhận, mà nguồn gốc chính là hình ảnh thánh tông đồ Gioan, môn đệ được Chúa yêu đã đặt mình vào lồng ngực Chúa ở trong bữa tiệc ly (x. Ga 13,23), nói về tình yêu bao bọc của Ngài đối với người môn đệ, và nhân loại qua Gioan là người đại diện, tình yêu Ngài bao bọc cả nhân loại. Thánh Augustinô đã diễn giải hình ảnh này: “Thánh Gioan, tác giả Tin Mừng, khi đặt mình vào ngực Chúa ở trong bữa Tiệc ly đã nhận từ Thiên Chúa sự dâng hiến cao cả của Thiên Chúa, ông đã lãnh nhận những gì bí mật nhất, thâm sâu (của tình yêu Thiên Chúa) trong Thánh Tâm Chúa” (“Tractatus in Johannis evangelium”, XVIII 1). Hình ảnh rõ nét nhất mà Gioan đã ghi nhận làm trung tâm tình yêu: Trên thập giá, tim của Chúa Giêsu bị đâm thâu, máu cùng nước chảy ra (x. Ga 19,34-37), phát sinh sự sống, Giáo hội và các bí tích Thánh Thể và Thanh Tẩy biểu tượng của sự sống, của tình yêu: Tình yêu gội rửa bằng nước, và tình yêu nuôi sống bằng máu. Thánh Anselmo khi chiêm ngưỡng hình ảnh trái tim Chúa bị đâm thâu đã cảm nhận: “Chúa Giêsu hiền lành, Ngài đã mở cạnh sườn, Ngài đã biểu lộ và phân phát sự tốt lành trọn hảo và Đức Ái tuôn trào nơi trái tim Ngài” (Dixième méditation).
Khi chiêm ngưỡng hai hình ảnh mang ý nghĩa của Thánh Tâm Chúa, Thánh Ambrôsiô (340 - 397) mời gọi người tín hữu đến bên tình yêu Chúa Kitô để múc nguồn tình yêu: “Hãy đến bên Đức Kitô vì Ngài là tảng đá nơi các mạch suối được sinh ra. Hãy đến bên Chúa Kitô vì Ngài là dòng suối trong đó có dòng thác tạo nên thành trì (để bảo bọc con người) của Thiên Chúa. Hãy đến bên Đức Kitô, bởi Ngài là bình an. Hãy đến bên Chúa Kitô vì những dòng suối sự sống tuôn trào từ cõi lòng (trái tim) Ngài”.
Cho nên, nơi Thánh Tâm Chúa, con người hôm nay, với tâm thức và tình cảm của thời đại khám phá ra câu trả lời mà mình luôn tự vấn và tất cả sự chờ đợi trong cuộc sống: tìm thấy được một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Thật thế, con người sẽ tìm thấy bình an, nơi tình yêu thánh trong trái tim Chúa khi đi vào sự hòa giải của chính bản thân, giữa mình với Thiên Chúa. Thánh Tâm sẽ là nguồn hy vọng sống, sống trọn vẹn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Ý lực sống
Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta về ngôi vị của Ngài, về tình yêu của Ngài, Người đã đặt trong Thánh Tâm Đức Giêsu và qua Trái Tim Thánh này, Thiên Chúa phát biểu cho chúng ta” (Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II).
Hằng năm, cứ đến Chúa Nhật thứ II sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, vào thứ Sáu trong tuần này, Giáo Hội lại cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su không có mục đích gì khác hơn là cho chúng ta thấy được phần nào tình Chúa thương yêu chúng ta.
Chúa Giê-su chẳng những đã sinh ra, đã sống, đã chết cho chúng ta, mà còn đã sống lại và hiển trị vinh quang cho chúng ta, để ở cùng chúng ta luôn mãi: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b).
Cảm kích trước tình yêu thương của Chúa Giê-su, Giáo Hội muốn bày tỏ lòng mến đối với Người. Trong tâm tình ấy, chúng ta cùng hiệp dâng Thánh Lễ này, dâng tiến Trái Tim Chúa cuộc sống và tình yêu chúng ta.
- Lạy Chúa, nhờ Trái Tim quảng đại của Chúa, Chúa đã ban cho chúng con là đoàn chiên của Chúa, được no thoả nơi đồng cỏ Nước Trời. Xin Chúa thương xót chúng con...
- Lạy Chúa, nhờ Trái Tim bao dung của Chúa, Chúa đã chết trên thập giá, để giao hoà chúng con với Chúa Cha. Xin Chúa Ki-tô thương xót chúng con...
- Lạy Chúa, nhờ Trái Tim tình thương của Chúa, Chúa đã làm cho lòng trí chúng con được tràn ngập tình yêu và ấm lên tình thương của Chúa Cha trên trời. Xin Chúa thương xót chúng con...
B- GIẢNG LỄ
Con người hay bị chao đảo, khốn khổ vì ảnh hưởng cuộc sống với người khác, nên dễ có cái nhìn thiên lệch, ác cảm về Thiên Chúa giống như vậy.
Nhưng nếu ta đọc kỹ những bài đọc của phụng vụ hôm nay - và thực sự khi ta biết chịu khó đọc Sách Thánh, nhất là sách Phúc Âm - thì cái nhìn của chúng ta tất phải đảo ngược lại! Thiên Chúa quả thật là Đấng đáng cho chúng ta tôn thờ và yêu mến, bởi Người là Đấng nhân hậu và hằng quan tâm đến hạnh phúc của con người!
Thiên Chúa đã ví Người như một mục tử chăm lo cho đoàn chiên. Người quan tâm tập trung đoàn chiên cho khỏi tản mác. Con nào thất lạc, Người tận tâm tìm kiếm và âu yếm đưa về đàn. Người dẫn thả đoàn chiên nơi đồng cỏ xanh tươi mầu mỡ, lo chữa trị cho những con bị thương tích hay ốm đau.
Đây quả thật là hình ảnh tương phản với những mục tử nhà Ít-ra-en ~nghĩa là những nhà lãnh đạo dân Chúa thời bấy giờ.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en - tác giả bài đọc I - đã từng lên án gắt gao các vị lãnh đạo tôn giáo thời ông, bởi họ chẳng những đã không chăm sóc cho người dân, ngược lại còn bóc lột, làm thiệt hại đồng bào và quần chúng của mình. Họ đặt ra nhiều hình thức lễ nghi với những của lễ phải dâng tiến, để họ cũng được chia phần trong đó ! Họ bắt người khác phải tôn kính, trọng đãi họ. Họ sống giả dối trước Tôn Nhan Thiên Chúa và bất chấp dưới mắt mọi người. Ngôn sứ đã gọi tầng lớp lãnh đạo này như là những kẻ chăn thuê, coi mướn, chỉ chú tâm mưu tính cho quyền lợi và địa vị của mình, mà quên đi quyền lợi cũng như giá trị nhân phẩm của người dân - đồng bào của họ - và của chính Thiên Chúa - Đấng sở hữu chiên đích thật nữa !
Chỉ có Thiên Chúa mới là vị Mục Tử đích thật. Vì thế, khi Đức Ki-tô làm người, Người đã là hiện thân cho tình yêu của Thiên Chúa yêu thương con người, bởi vì Người cũng đích thật là Mục Tử của đoàn chiên dân Chúa. Chúa Ki-tô sẵn sàng thí hiến cả mạng sống mình vì đoàn chiên: “ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi: Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô” (Rm 5,8-9).
Mừng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, chính là chúng ta nhắc nhớ, ca tụng, cảm tạ tình thương yêu Chúa nhân hậu, bao dung và chân thành đã dành tất cả cho chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết đáp trả tấm lòng yêu thương ấy bằng cách sống thánh thiện, tránh xa tội lỗi cũng như các dịp tội, để dành tình yêu thương lại cho Chúa. Nếu có lỡ dại sa ngã phạm tội, chúng ta cần vững tin vào lòng nhân hậu yêu thương của Chúa mà sám hối trở về và qua phép Hoà Giải, sớm làm hoà với Người.
Chúc tụng tình thương yêu của Chúa đến muôn đời. A-men.
Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học Việt Nam qua mọi thời kỳ. Đặc biệt kho tàng văn học dân gian luôn dẫn chúng ta đến một tình yêu thanh khiết, bất tử vượt mọi thời gian.
Thanh khiết như câu thơ:
“Thuyền ai lơ lửng bên sông Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?”
Bất tử chung tình như lời thơ:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Lòng chung thuỷ của con người Việt Nam thật sắt son chung tình:
“Chừng nào cho sóng bỏ ghành Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em”.
Chắc chắn con sóng không bao giờ bỏ gành. Cù lao thì luôn ở giữa biển hay gắn liền với biển. Tình yêu cao đẹp cũng phải sắt son thủy chung như thế! Tình yêu cao đẹp sẽ luôn ở cùng nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Bất chấp gian khổ vẫn chia ngọt sẻ bùi với nhau.
“Rủ nhau xuống bể mò cua Đem về nấu quả mơ chua trên rừng Em ơi chua ngọt đã từng Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Chúng ta cũng được hưởng một tình yêu cao đẹp như thế! Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Một tình yêu trung tín sắt son cho dẫu phải hy sinh cả tính mạng mình vẫn dâng hiến cho người mình yêu.
Đó là tình yêu của Đức Ky-tô yêu thương nhân loại. Tình yêu Ngài thật thanh khiết, cho đi mà không cần đền trả lại. Tình yêu Ngài thật vị tha đến nỗi vẫn yêu con người ngay khi còn là tội nhân. Tình yêu Ngài trung tín sắt son, cho dẫu con người có phản bội thì Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Vì yêu mà Ngài còn hiến trao mạng sống mình đền bù tội lỗi nhân gian.
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Tâm Chúa, là dịp để chúng ta tạ ơn tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Vì yêu mà Ngài đã dốc cạn giọt máu đào để cứu chuộc chúng ta. Ngài còn yêu là yêu cho đến cùng qua mỗi thánh lễ lại tái hiện tình yêu bất diệt mà Ngài dành cho chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt mọi thời gian để đến với con người qua muôn thế hệ. Và hôm nay Ngài vẫn đong đầy tình Ngài cho chúng ta qua muôn ơn lành hồn xác. Nhất là qua các bí tích nguồn ân sủng của Chúa luôn ban sức mạnh, chữa lành và thánh hóa chúng ta.
Tạ ơn tình Ngài cũng mời gọi chúng ta họa lại tình yêu ấy nơi chính bản thân chúng ta. Một tình yêu xóa bỏ mọi ngăn cách của văn hóa, của nghi kỵ, của hiểu lầm để sống hòa thuận yêu thương nhau. Một tình yêu dâng hiến điể quên mình phục vụ tha nhân trong khiêm cung âm thầm. Xin Chúa giúp chúng ta trở nên giống như Chúa luôn yêu thương và phục vụ anh em. Amen. [Mục Lục]
Thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu với lòng biết ơn sâu xa đối với Chúa là Đấng có Trái Tim đầy lòng thương xót đối với tội nhân. Chính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu khi còn trên Thánh Giá đã bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta (Ga 19, 31-37). Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thánh hóa các linh mục. Chúng ta hãy xin với Chúa Ba Ngôi, cho Giáo hội có thêm nhiều ơn gọi thánh thiện. Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong cảnh cơ hàn. (Ca nhập lễ)
“ Người ấy mừng rỡ, và vác chiên lên vai »
Đây là một hành động tuyệt đẹp phát xuất từ trái tim của người chăn chiên (mừng rỡ) khi tìm thấy chiên lạc và (vác chiên lên vai). Đoạn văn ngắn ngủi này (Lc 15, 3-7) không ngừng gây xúc động cho con người, và gợi lên nhiều ý nghĩa mới mỗi lần cho người đọc cũng như người nghe. Nó có sức nói về Thiên Chúa, đúng hơn, cho chúng ta biết khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha Đấng giầu lòng thương xót, và hơn thế nữa, Trái Tim của Thiên Chúa nhân hiền, vì yêu thương đã tạo dựng nên chúng ta và cho chúng ta có trái tim, Người cũng đau khổ khi chúng ta lầm lạc và ăn mừng khi chúng ta trở về: “ Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc! » (Lc 15, 6). Dựa vào lời Chúa Giêsu, ta thấy tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa hơn: “ Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải» (Lc 15, 7).
Quả thật, trái tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương! Tình thương ấy thể hiện qua sự sẵn sàng tha thứ, nhẫn nại đợi chờ tội nhân trở về, không khinh rể kẻ có tội, nhưng sẵn sàng hạ mình, cất công đi tìm kiếm, vui mừng khi tìm thấy, tha thứ và đưa chiên về đàn. Thiên Chúa đi tìm kiếm tội nhân không phải vì Thiên Chúa cần gì nơi họ, nhưng chỉ vì Thiên Chúa muốn ban phát một tình yêu vô điều kiện và chia sẻ hạnh phúc cho người Chúa yêu thương. Thiên Chúa muốn ôm ấp tội nhân vào lòng, để ngực áp ngực sao cho họ cảm nhận được nhịp đập yêu thương của Trái Tim Chúa. Một Trái Tim không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, kể cả từ chối lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Trong Trái Tim Chúa Giêsu chứa đựng nòng cốt của Kitô giáo.
Mỗi lần chiêm ngắm tượng, ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật hơn cả ngoài Trái Tim bị đâm thâu, là ngọn lửa bốc cháy, để “ Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. » (Rm 5, 8). Còn có đôi bàn tay với những vết đanh. Chúng ta đặt mình trước Thánh Tâm Chúa và tự hỏi: Bàn tay con, lạy Chúa, đã làm những gì không phải, khiến bàn tay Chúa bị đanh đóng, và bàn chân con, đã bước đi những bước chẳng lành, để Chúa bị đóng đanh cả chân lẫn tay vào Thập giá? Câu trả lời, vì tội lỗi chúng ta, vì Chúa yêu thương loài người ta quá bội.
Biểu tượng tình yêu ấy đi xa hơn cái chết chính là cạnh sườn của Chúa bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Về điểm này, chứng nhân tận mắt là thánh Tông đồ Gioan đã quả quyết: “ Một trong những người lính lấy đòng đâm vào cạnh sườn Người, và tức thì máu cùng nước chảy ra » (x. Ga 19,34). Lưỡi giáo của tên lính đã mở cạnh sườn Chúa, để từ vết thương máu cùng nước chảy ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi. Sau cùng, Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, bị chôn vùi để chúng ta được phục sinh.
Còn tình yêu nào ngọt ngào êm dịu hơn, đã được trao cho Hiền Thê; đó chính là sự mở rộng vòng tay ôm chặt của tình yêu Chúa…Tình yêu tên trộm lành đã nhận được khi xưng thú tội lỗi; Phêrô đã nhận được khi liếc mắt nhìn Chúa và khóc lóc van xin sau khi chối Chúa, đúng là từ ánh mắt đến trái tim. Có nhiều kẻ đóng đinh Chúa đã trở lại với Chúa sau khi Chúa Phục sinh, họ đã giao ước với Chúa bằng tình yêu. Khi Chúa ôm hôn những người tội lỗi và thu thuế, Chúa đã trở thành bạn hữu của họ và khách họ mời dự tiệc…
Vậy, Chúa đã làm gì để đưa họ về với Chúa, nếu không phải là Trái tim Chúa lôi kéo? Trái tim Chúa Giêsu là Trái tim dịu hiền do Thần Linh ban tặng! Phúc cho những ai giữ kín trong lòng, họ được ấp ủ bởi Chúa, trong Trái tim Chúa, họ sẽ được Chúa vác trên vai, tránh khỏi những rắc rối ở đời này. Phúc cho những ai hy vọng vào sự ấm áp và chở che dưới cánh tay Chúa.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày cầu cho ơn thánh hóa các linh mục. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Chức linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu” (số 1589).
Giáo Hội đang cần những linh mục thánh thiện; cần những thừa tác viên giúp các tín hữu cảm nghiệm lòng từ bi thương xót của Chúa và những chứng nhân đầy xác tín về tình yêu này. Xin Chúa làm cho con tim của mỗi linh mục được nồng cháy tình bác ái mục tử, có khả năng đồng hóa cái tôi của mình với cái tôi của Chúa Giêsu Linh Mục, để có thể noi gương Chúa trong sự tự hiến hoàn hảo nhất, xứng đáng là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa. Amen.
Tiếp liền sau lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, Giáo hội cử hành Lễ trọng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, làm nổi bật tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người từ cây Thánh Giá là trong Trái Tim Chúa Giêsu với sự hiện diện liên tục của Người nơi Bí tích Mình Thánh. Đó cũng là lý do sau lễ có Giờ Chầu Thánh Thể đặc biệt hướng về Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Nhân loại hôm nay đã, đang và còn sẽ hứng chịu nạn dịch Covid. Cả thể giới ngày càng mệt mỏi khi phải ứng phó với biến thể và sự lây lan của loại virus này. Nhiều bệnh nhân, y bác sĩ, người nhà bệnh nhân tuyệt vọng ngay trong bệnh viện bên cạnh những máy móc hiện đại tân kỳ. Mọi người bị ảnh hưởng bởi sự cô lập và giãn cách chưa có hồi kết.
Khủng khiếp hơn là những cuộc xung đột về sắc tộc, tôn giáo, chính trị ở các cấp độ quốc gia và trên thế giới, nhiều người phải bỏ nhà cửa, quê hương, mong thoát khỏi cảnh áp bức với hy vọng tìm đến một nơi đáng sống hơn. Những cảnh nghịch lại với Tin Mừng đang gia tăng tại một số nơi. Người ta không ngừng tục hóa Giáo hội dưới nhiều hình thức. Thay vì nhắm đến sự canh tân tinh thần Tin Mừng, qua việc huấn giáo, truyền giáo, chăm sóc mục vụ, giải thích mầu nhiệm các bí tích, người ta nhắm đến các đề tài khác, với hy vọng nhận được sự ủng hộ của dư luận quần chúng làm cho Giáo Hội đắng cay cực lòng. Đối mặt với tất cả những điều đó, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu gọi mời: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, tôi sẽ cho nghỉ ngơi…” (Mt 11, 28-29). Trong lúc khó khăn này, chúng ta, những người đã chịu Phép Rửa tội và Thêm sức, phải mạnh dạn đem yêu thương vào nơi oán thù theo gương Chúa Kitô đã yêu thương loài người quá bội, chú tâm vào biểu tượng của tình yêu từ bi của Chúa Kitô là Thánh Tâm Chúa Giêsu để chia sẻ tình yêu với đồng loại.
Trái tim là biểu tượng tự nhiên của tình yêu. Trái tim còn đập cho thấy mình còn sống. Thiên Chúa đã yêu con người bằng trái tim tình yêu: “Quả tim Ta thổn thức trong Ta … vì Ta là Thiên Chúa” (x. Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9 ). Quả Tim ấy được cụ thể nơi Trái Tim Chúa Giêsu (x. Ep 3,8-12.14-19). Trái Tim ấy yêu con người bằng một tình yêu bền vững, đáng tin cậy, thủy chung trọn đời.
Trái Tim của Thiên Chúa luôn rung động vì thương loài người và đổ tràn tình thương xuống cho nhân loại. Trái Tim ấy không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, từ chối của con người. Vì yêu, Thiên Chúa đã muốn tên lính đâm thấu và mở cạnh sườn; máu cùng nước chảy ra (x. Ga 19, 34). Từ nguồn suối thẳm sâu của trái tim mình, Chúa Giêsu đã ban cho Giáo hội các bí tích để có thể trao ban hồng ân sự sống. Từ Trái Tim Chúa bị đâm thủng vì tội lỗi chúng ta, đã tuôn trào nguồn ơn cứu độ đời đời cho nhân loại. Trái Tim đó không đơn giản là trái tim bình thường mà là Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Trái Tim “yêu thương” dân: “Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Ca nhập lễ). Lời thánh Gioan Maria Vianey là bằng chứng: “Linh mục là hồng ân của Thánh Tâm Chúa ban cho loại người” (GLHTCG số 1589). Làm sao ta không cảm động nhớ lại rằng chính từ Trái Tim Chúa đã trực tiếp nảy sinh hồng ân linh mục. Hôm nay chúng ta đừng quên cầu cùng Thiên Chúa Ba Ngôi cho các linh mục nhân ngày thánh hóa, để Giáo hội có được những cái máng tốt như lòng Chúa mong ước, thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho thế gian.
Trái tim Chúa Giêsu được miêu tả có vết thương và mão gai quấn quanh. Mão gai nhắc nhớ chúng ta về tình yêu đích thực, chung thủy, hoàn toàn tận hiến cho tha nhân, quên cả đau khổ của chính mình, ngụ ý nói, Tình yêu thực sự không thể tách rời khỏi mão gai.
Trái Tim Chúa Giêsu có Thánh Giá biểu tượng chính của Đức tin Kitô giáo, cắm ở phía trên, giúp chúng ta chiêm ngắm tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình vì chúng ta khi bị treo trên Thánh Giá. Chúa Giêsu, một con người vô tội bị thế gian kết án, đã lấy yêu thương tha thứ đáp trả hận thù khi thưa cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ đã làm” (Lc 23. 24). Người cũng dạy chúng ta phải yêu như Chúa yêu và tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
Trái Tim Chúa Giêsu có ngọn lửa bao quanh. Đây là những ngọn lửa vinh quang, lửa tình yêu bừng sáng. Ngọn lửa ấy những ước mong chiếu sáng thế gian tội lỗi và tối tăm, sưởi ấm thế giới lạnh lùng. Đó cũng là ngọn lửa nhiệt thành, chiếu rọi trên các Tông Đồ ngày Lễ Ngũ Tuần.
Ngón tay Chúa Giêsu chỉ vào Trái Tin Chúa, có ý mời gọi chúng ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28-29).
Tay kia dang rộng ra như tha thiết chào đón mọi người, vẫy mời chúng ta hãy uốn lòng nên giống Trái Tim Chúa để làm như vậy đối với tha nhân. Trái Tim Chúa Giêsu quả là một biểu tượng mạnh mẽ của tình yêu Thiên Chúa chúng ta, những người được trao cho sứ mạng yêu thương trên mặt đất này. Hơn bao giờ hết, thế giới hôm nay ngạo mạn cứng đầu, vơi cạn tình yêu đang rất cần đến tình yêu kín múc từ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
Lạy Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Amen.
Đúng 19 ngày sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ngày thứ Sáu sau lễ Mình Máu Thánh Chúa, ngày Chúa tỏ Trái Tim Tình Yêu của Người ra cho Thánh nữ Maria Margarita Alacoque (16/6/1675), phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành với lòng biết ơn lễ Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu rất hay thương “dịu hiền và khiêm nhường” trong lòng.
Trái Tim Chúa đã yêu loài người ta quá bội
Trái Tim của Thiên Chúa rung động vì cảm thương loài người luôn đổ tràn tình thương xuống cho nhân loại. Trái Tim ấy không đầu hàng trước sự vô ơn bạc nghĩa, từ chối của con người. Vì yêu, Thiên Chúa đã muốn tên lính đâm thấu và mở cạnh sườn; máu cùng nước chảy ra (x. Ga 19, 34). Từ nguồn suối thẳm sâu của trái tim mình, Chúa Giêsu đã ban cho Giáo hội các bí tích để có thể trao ban hồng ân sự sống…; để ai uống nước này “thì từ họ sẽ vọt lên sự sống đời đời” (Ga 4,14).
Từ Trái Tim Chúa bị đâm thủng vì tội lỗi chúng ta, đã tuôn trào nguồn ơn cứu độ đời đời cho nhân loại. Trái Tim đó không đơn giản là trái tim bình thường mà là Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Trái Tim “yêu thương” dân, “Quả tim Ta thổn thức trong Ta … vì Ta là Thiên Chúa” (x. Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9 ). Quả Tim ấy được cụ thể nơi Trái Tim Chúa Giêsu vượt quá sự hiểu biết của con người (x. Ep 3,8-12.14-19). Ấy vậy mà con người vẫn vô ơn bạc nghĩa trước sự hy sinh cao cả của Chúa Giêsu. Chẳng những thế, con người còn xúc phạm đến Trái Tim nhân lành của Chúa. Nhưng vì là Trái Tim Tình Yêu nên: “Đời nọ tới đời kia, Thánh Tâm Chúa vẫn hằng nuôi dưỡng ý định cứu dân Người khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Ca nhập lễ). Lời thánh Gioan Maria Vianey là bằng chứng: “Linh mục là hồng ân của Thánh Tâm Chúa ban cho loài người” (GLHTCG số 1589). Làm sao ta không cảm động nhớ lại rằng chính từ Trái Tim Chúa đã trực tiếp nảy sinh hồng ân linh mục. Hôm nay chúng ta đừng quên cầu cùng Thiên Chúa Ba Ngôi cho các linh mục nhân ngày thánh hóa, để Giáo hội có được những cái máng tốt như lòng Chúa mong ước, thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho thế gian.
Trái Tim Đức Chúa Giêsu là mạch đầy mọi nhân đức
Những lời Kinh cầu vang lên trong suốt tháng Sáu như muốn nói với chúng ta rằng: tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại, đều được gửi gắm và thể hiện nơi Trái Tim Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Thiên Chúa. Qua Trái Tim Chúa Giêsu, chúng ta thấy được sự quan phòng tình yêu từ đời đời của Thiên Chúa nhằm cứu độ thế gian. Đúng là mầu nhiệm tình yêu khôn hiểu thấu, nên chúng ta “hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người” (Tv 12, 5).
Nhìn ngắm Trái Tim Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, trong sự viên mãn của Chúa Thánh Thần, chúng ta khám phá ra lòng nhân lành của Chúa Giêsu luôn yêu thương, ấp ủ chúng nhân, chứng tỏ Trái Tim Người là mạch đầy dẫy hằng sống và thánh thiện, là nguồn suối cứu chuộc chúng ta, nguồn suối ấy đem tưới vào đời mình ta sẽ có được sự bình an sâu thẳm và niềm hạnh phúc đích thực ở nơi Trái Tim Giêsu yêu thương.
Sùng kinh Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu
Thế giới ngày hôm nay xảy ra biết bao cuộc xung đột cam go đẫm máu, rất cần sứ điệp tình yêu phát xuất từ Trái Tim Chúa, nguồn mạch duy nhất, nhân loại có thể múc lấy sự khiêm nhường và lòng tha thứ để chữa lành những thương tích. Lòng sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu có thể là nguồn mạch mọi ơn phúc cho thế giới này như lời Đức Piô X viết khi ban lệnh thi hành việc tôn sùng Trái Tim Chúa: “Việc tôn thờ Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu là trường học hữu hiệu nhất về Tình Yêu Thiên Chúa, bởi vì Tình Yêu, vốn là nền tảng của Nước Trời, phải được xây dựng trong các linh hồn, các gia đình và các quốc gia”. Đức Piô XI nhận định: “Lòng sùng kính Thánh Tâm là một phương dược phi thường cho những nhu cầu ngoại thường của thời đại chúng ta” (Caritate Christi compulsi). Trong tông huấn Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Phaolô VI viết: “Sự tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là phương thế hữu hiệu nhất để đóng góp vào việc canh tân tâm linh và luân lý của thế giới”. Thánh Gioan Phaolô II Giáo hoàng nói: “Lòng sùng kính Thánh Tâm phù hợp hơn bao giờ hết với những mong đợi của thời đại chúng ta” (Diễn văn với Dòng Thừa Sai Thánh Tâm, 5-10-1987).
Nên giống Trái Tim Chúa
Người kitô hữu không chỉ được mời gọi chiêm ngắm, sùng kính, mà còn phải sống tình yêu ấy nữa. Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ các điều răn của Thầy ” (Ga 14, 15). Như thế, Người mời gọi chúng ta kèm theo điều kiện: nếu ta yêu mến Chúa, thì ta phải giữ các điều răn của Chúa, tuân giữ thánh chỉ của Chúa, và thực hành các giới răn mà Thiên Chúa đã chỉ cho ta, để chứng tỏ rằng ta yêu Chúa.
Chúa muốn chúng ta giữ các điều răn đã được Chúa ban cho Israel trên núi Sinai qua trung gian Môisen, nhiều người trong chúng ta lặp lại mỗi ngày trong kinh nguyện, một tập quán tốt đẹp và ngoan đạo. Chúng ta lặp lại những điều đã được viết trong Sách Xuất Hành, để tin nhận và làm mới lại những gì chúng ta nhớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
Năm ngoái, trên facebook, nhiều người chia sẻ hình ảnh người cha chạy xe máy, sau xe gắn tấm biển có hình và dòng chữ “Tìm con bị bắt cóc”. Sau nhiều tháng rong ruổi tìm kiếm, thông tin về đứa con vẫn bặt vô âm tín. Người cha gầy và phờ phạc đi rất nhiều so với trước đây. Anh là Lương Thế Huynh (42 tuổi) tìm con trai út 3 tuổi tên là Lương Thế Vương bị mất tích sáng 21/6/2015, tại xã Tà Nùng, Tp. Đà Lạt. Lúc xảy ra vụ việc, anh Huynh đang lúi húi sau vườn, nghe tiếng con trai kêu la nhưng nghĩ con chơi đùa với mấy con chó nên không để ý. Sau khi xong việc, anh lên nhà thì không thấy cháu Vương đâu nữa. Đến nay đã hơn một năm, với chiếc xe gắn máy cũ, anh đi khắp nơi với hy vọng tìm ra dấu vết đứa con nhỏ của mình. Cho đến nay, hy vọng tìm thấy đứa con chỉ còn rất mong manh, nhưng người cha này vẫn cứ rong ruổi khắp nơi, vào các hang cùng ngõ hẻm để tìm lại đứa con mình.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Tin Mừng Thánh Luca đã giới thiệu cho chúng ta hình ảnh một Thiên Chúa là Cha, vì yêu thương, Ngài đã lặn lội để tìm kiếm con người, bất chấp những gian nan khổ cực. Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho các biệt phái và kinh sư hôm nay nói về tình thương của Thiên Chúa dành cho các tội nhân. Khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc, trò chuyện, đồng bàn với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi, các luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu, họ chỉ trích Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã kể cho họ dụ ngôn để nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa: Ai trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho bằng được con chiên bị mất? Chúa Giêsu muốn nói rằng: Ai trong các ông cũng sẽ hành xử như thế, huống nữa là Thiên Chúa. Việc đi tìm con chiên bị lạc là điều tất nhiên. Hiểu ngược lại, ai không hành động như thế, chắc chắn kẻ ấy là người vô cảm với chiên của mình.
Các luật sĩ và biệt phái đã để mình trở nên vô cảm trước đời sống của anh em. Họ là những người có trách nhiệm trong việc hướng dẫn người khác sống theo giới răn, lề luật của Thiên Chúa, như người mục tử chăm sóc, dẫn dắt đoàn chiên. Tuy nhiên, các luật sĩ và biệt phái chỉ lo chăm chút cho chiếc áo và những hình thức bên ngoài, họ đã để cho dân Chúa đi lạc đường, họ không cảm thấy áy náy và không cảm thấy bị thúc ép phải đi tìm đưa anh em mình trở về.
Chúa Giêsu cho thấy, việc Ngài tìm đến với những người thu thuế và những người bị coi là tội lỗi không chỉ là trách nhiệm mà là sự thúc đẩy bởi một trái tim xót thương. Dụ ngôn cho thấy, trong mắt Thiên Chúa, mỗi người đều có giá trị và có một vị trí riêng. Vì thế, dù chỉ một con chiên đi lạc thôi, Thiên Chúa cũng không thể làm ngơ, Ngài dám liều mình để lại chín mươi chín con khác trong hoang địa để đi tìm con chiên bị lạc. Như người mục tử, Thiên Chúa cất bước đi tìm con chiên bị lạc. Vì khi bị lạc như thế, nó vô cùng hoảng sợ và gặp nhiều nguy hiểm. Nó sẽ bị sa chân trật bước, có thể bị rơi xuống vực sâu hoặc kẹt trong vách đá, cũng có thể bị thú dữ bao vây cắn xé. Hình dung được nỗi sợ hãi và tâm trạng của con chiên đi lạc, mục tử Giêsu đã không quản ngại nắng gió vất vả, cũng không ngại đường xá cheo leo trắc trở để đi tìm con chiên như tìm chính đứa con bị thất lạc.
Lý do con chiên đi lạc, có thể vì nó la cà mải mê với những thú vui ven đường nên bị rớt lại khỏi đàn. Nhưng nhiều khi nó đi lạc là vì những con chiên khác trong đàn đã hắt hủi nó, loại trừ nó, coi nó như đồ thừa trong đàn. Vì thế, nó cứ lẽo đẽo theo đàn mà không được sự khích lệ của các con chiên khác, khiến nó ngày càng xa đàn rồi bị lạc đàn. Hiểu được tâm trạng con chiên đi lạc, trái tim của người mục tử Giêsu đã hết sức cảm thông với nó. Khi tìm được con chiên, Ngài không trách nó, cũng không hỏi nó tại sao. Ngài chỉ thấy điều nó cần lúc này là cái ôm nồng ấm cảm thông. Vì thế khi tìm được con chiên, người mục tử đã ôm nó vào lòng, vác nó trên vai và đưa nó trở về với đàn. Trái tim và tâm hồn của mục tử Giêsu đối với con người tội lỗi của chúng ta là như thế.
Lòng thương xót từ trái tim Chúa luôn tuôn trào sự cảm thông, tha thứ. Ngài chấp nhận bước trên gai góc, vượt qua dốc đá cheo leo, băng qua vực đèo nguy hiểm để tìm gặp chúng ta là con, là chiên của Chúa. Chúa Giêsu không hề đưa ra bất cứ điều kiện nào, cũng không đặt một tiêu chuẩn nào. Ngài yêu chúng ta hoàn toàn bằng sự thúc đẩy của trái tim, mà trái tim thì luôn có những lý lẽ riêng của nó, không thể hiểu hết được. Ngài chỉ mong đợi nơi chúng ta một điều, là hãy ngoan ngoãn để cho Ngài ôm vào lòng, để cho Ngài vác trên vai đem chúng ta trở về.
Chúa Giêsu còn diễn tả sự vui mừng của Ngài và của cả Triều thần Thiên quốc khi đón nhận một người tội lỗi hối cải. Người mục tử khi tìm được con chiên bị lạc, ông vui mừng về báo tin cho mọi người và mời mọi người đến dự tiệc: Xin hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Chúa Giêsu kết luận: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. Trong trái tim của Thiên Chúa, không ai bị bỏ rơi, không ai bị loại ra ngoài, dù chỉ là một người, thì người ấy vẫn là con Thiên Chúa, vẫn được yêu thương và tôn trọng.
Thư Roma trình bày tình yêu của Thiên Chúa ở mức độ cao hơn, sâu hơn nữa. Thánh Phaolô diễn tả: Ngay khi chúng ta chưa tin Chúa, thì Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu chết để cứu chuộc chúng ta. Dù khi chúng ta chưa biết, chưa tin, chưa yêu Ngài, thì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Nay, Ngài đã cho Con của Ngài chết thay cho chúng ta. Đến con ruột của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, đã trao tặng cho chúng ta, thì không có lẽ gì mà Ngài lại không yêu thương ta, là những kẻ được Ngài cứu chuộc, đem vào lòng và nhận làm con của Ngài.
Mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa tình yêu, tôn thờ một trái tim vĩ đại của một người cha, một tâm hồn chạnh thương của một mục tử, một trái tim bao dung và đầy tràn lòng thương xót của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên ngoan ngoãn và sẵn sàng để cho mục tử Giêsu ôm ta vào lòng và vác ta trên vai. Chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương bao dung của Thiên Chúa để không bao giờ cố tìm cách trốn tránh ánh mắt yêu thương của Chúa, nhưng sẵn sàng mở tâm hồn và thành tâm để cho Chúa yêu thương, tha thứ và chữa lành vết thương trong tâm hồn ta.
Được Chúa xót thương tìm kiếm và tha thứ, được Chúa thông cảm và yêu thương, chúng cần phải mang trái tim của Chúa, biết chạnh thương với anh chị em chung quanh. Đừng bao giờ cố tình hay quá vô tình hắt hủi, xua đuổi, hoặc vì quá khắt khe, nghi kị, thiếu cảm thông khiến cho anh em mình phải xa đàn đến độ lạc đàn bỏ Chúa, bỏ Giáo hội. Hãy dùng ngôn ngữ và hành động do sự thúc đẩy của trái tim yêu thương để đối xử với nhau trong gia đình, với xóm giềng. Đừng để trái tim của mình trở lên lạnh lùng vô cảm hoặc khô cứng trước những nỗi đau của anh chị em.
Hôm nay cũng là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục. Ảnh hưởng của vật chất, khoa học công nghệ, đã biến một số linh mục trở nên như những người máy, vô hồn, vô cảm. Nếp sống tiêu cực của xã hội cũng đang ảnh hưởng trên các linh mục, khiến cho một số linh mục không còn là hình ảnh rõ nét của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúng ta cầu nguyện thật nhiều cho các linh mục luôn biết để cho Chúa Giêsu huấn luyện, uốn nắn để các ngài trở nên giống Chúa Giêsu mục tử hơn. Xin cho các linh mục có được trái tim, đôi mắt và tâm hồn chạnh thương của Chúa, để các Ngài không mệt mỏi yêu thương, phục vụ và tìm kiếm dân Chúa. Amen.
Trong thời gian từ 1968-1969 , Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý). Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài đã xác định: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (Marguerite Marie Alacoque, 1647-1690), một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial (Pháp quốc), Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675 – có thể là ngày 16 tháng Sáu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được lòng biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…”. Chúa Giêsu đã yêu cầu Thánh nữ vận động thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Thương Xót, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước – như đã được mặc khải cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (còn gọi là Thánh Faustina Thánh Thể, OLM, 1905-1938).
Ai cũng có tim nhưng không ai thấy tim. Mặc dù tim không nhìn thấy nhưng khả dĩ cảm nhận, và tim là một cơ phận rất quan trọng, vì tim là trung tâm phân phối sự sống. Tim còn đập là còn sống. Tim hoạt động âm thầm nhưng nuôi sống cả cơ thể. Mặc dù não là trung tâm điều khiển – ví như bộ tổng tham mưu, nhưng vẫn phải nhờ tim bơm máu. Người ta có thể chết lâm sàng chứ chưa chết thật bởi vì tim còn hoạt động, dù nhịp đập rất yếu. Những người bị chứng bại não, sống đời thực vật, không biết phân biệt điều gì, nhưng họ vẫn sống nhờ tim vẫn hoạt động. Chừng nào tim ngừng đập thì sự sống mới chấm dứt!
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.
Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài, không chỉ ghé thăm mà ở lại đó mãi mãi: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Ước gì mỗi chúng ta biết tìm về nghỉ ngơi nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu – Cao Nguyên Yêu Thương và Đại Dương Thương Xót!
Ơn cha mẹ mà chúng ta đáp đền cả đời còn chưa cân xứng huống chi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Nhưng thật là diễm phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32). Ngài đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất (Lc 19:10), chỉ cần chúng ta tin vào tình yêu cao cả của Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không thất vọng. Chỉ có chúng ta rời bỏ Chúa chứ Chúa không bao giờ rời xa chúng ta!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi ngôn sứ Êdêkien để mặc khải Thánh Ước: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được” (Ed 34:11-13). Đó là lời hứa chắc chắn, vì Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong mọi lời nói và mọi việc làm. Thật tuyệt vời!
Hồng ân nối tiếp hồng ân, Ngài lại tiếp tục thề hứa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34:14-16). Thật hạnh phúc khi được nương bóng cánh của vị mục tử như vậy! Nhưng lại thật bất hạnh nếu chúng ta cố chấp, như Chúa đã cảnh báo: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu (Mt 23:37; Lc 13:34).
Nếu thực sự có niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta khả dĩ tự nhủ và xác định với mọi người điều này: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1), và có thể tự hào nói: “Chúa là gia nghiệp đời tôi” (Tv 16:5). Đó cũng là một cách tuyên xưng Lòng Chúa Thương Xót.
Nói về đức tin, Thánh Phaolô giải thích rạch ròi: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên thì có quyền trông cậy (Rm 5:2-4). Quả thật, đây là một chuỗi hệ lụy vô cùng kỳ diệu!
Còn nữa, và cũng để cho chúng ta an tâm, thánh nhân tiếp tục giải thích “dài hơi” thêm một chút: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ Máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Rm 5:5-9).
Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, hết lòng yêu thương muôn loài, đặc biệt là những kẻ xấu xa nhất, thậm chí Ngài còn chết vì họ – tức là chúng ta. Theo thế gian, cách yêu như vậy bị coi là mù quáng, ngu xuẩn, điên rồ,… Chắc hẳn chỉ có người điên mới hành động như thế. Vậy mà Chúa Giêsu đã yêu như thế. Nếu Ngài không “yêu điên rồ” như vậy thì chúng ta làm sao có được ngày nay?
Quả nhiên là vậy, “nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Ngài, phương chi bây giờ chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy” (Rm 5:10). Mà không phải chỉ có thế, Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5:11).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 15:3-7) khá ngắn gọn, chỉ có 128 từ (theo bản dịch Việt ngữ, bản của VietCatholic). Đoạn Tin Mừng này là một trong các dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót.
Một hôm, nhóm Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Những người Pharisêu và các kinh sư là ai? Đó là những nhà thông luật, giữ luật nghiêm túc hơn người, giỏi giang hơn người, đạo đức hơn người, nói năng lưu loát hơn người, sang trọng hơn người, địa vị hơn người, quyền lực hơn người,… thậm chí có thể có ngoại hình “dễ nhìn” hơn người và giàu có hơn người, nhưng cũng hợm hĩnh, ỷ lại, hống hách và kiêu ngạo hơn người. Ngày nay người ta gọi dạng đó là “chảnh”. Nói chung, cái gì ở họ cũng hơn người ráo trọi!
Nhóm Pharisêu và các kinh sư kia cũng chẳng ai xa lạ, tức là chính chúng ta ngày nay, chứ chẳng ai trồng khoai đất này đâu!
Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Vậy, tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Người ta luôn thấy những “cái lạ” ở Chúa Giêsu, và người ta cảm thấy khó chịu. Vâng, Ngài lại gây “sốc” vì nói điều “nghịch nhĩ” quá! Ngài “điên” thật rồi! Có 99 con chiên béo tốt mà dám bỏ để cố gắng đi tìm duy nhất con chiên yếu đuối, bệnh hoạn, xấu xí,… Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi! Nhưng cũng chính nhờ cách “yêu điên” ấy của Chúa Giêsu mà chúng ta mới được phục hồi cương vị làm con và đồng hưởng thừa kế gia sản Nước Trời đấy!
Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997, MC – Missionaries of Charity, Thừa Sai Bác Ái, sẽ được tuyên hiển thánh ngày 4-9-2016) xác định “chuỗi hệ lụy” rất kỳ diệu: “Kết quả của IM LẶNG là CẦU NGUYỆN, kết quả của CẦU NGUYỆN là ĐỨC TIN, kết quả của ĐỨC TIN là TÌNH YÊU, kết quả của TÌNH YÊU là PHỤC VỤ, kết quả của PHỤC VỤ là BÌNH AN”.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, con thành tâm xin lỗi Ngài vì con đã thường xuyên quên Ngài, thế nhưng Ngài vẫn không ngừng thương xót con, mặc dù con chẳng là gì và hoàn toàn bất xứng. Xin giúp con nhận biết Chúa và nhận biết chính con, nhờ đó con có thể yêu mến Ngài trọn vẹn. Xin ân thương và tha thứ những thiếu sót của con, lạy Đấng giàu lòng thương xót, và xin dạy con biết cách “yêu điên” của Ngài. Xin Nước và Máu Thánh Ngài tẩy rửa cuộc đời con, và xin cho con cũng được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài, hôm nay và mãi mãi. Ngài là Đấng hằng sống, hiển trị cùng Chúa Cha và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.
Đầu tháng 6 năm 1250, khi vua Louis IX đi kinh lý các miền trong nước Pháp, dân chúng tỉnh Maseilles bàn bạc với nhau để dâng cho nhà vua một lễ vật cho có ý nghĩa. Và hôm ấy, khi vua đến, dân chúng đều tụ tập đông đủ. Họ đề cử một cô thiếu nữ dâng lên nhà vua một quả tim bằng vàng. Bên trong quả tim có ngành bông huệ kết bằng kim cương rất quí, là biểu tượng của các vua nước Pháp, và có khắc mấy hằng chữ: “Đây là bằng chứng toàn dân tỉnh Marseilles yêu mến vua Louis, và họ luôn đặt vua trong trái tim họ”. Nhận lễ vật và đọc thấy dòng chữ trên, vua Louis hết sức cảm động. Nhà vua cũng đặt tay lên trái tim và nói: “Đây là bằng chứng vua Louis yêu thương Quốc dân Pháp, và luôn đặt họ trong trái tim vua”.
Câu chuyện trên rất ăn hợp với quan niệm người xưa rằng:
Trái tim biểu hiện tình yêu Tình yêu phát xuất theo chiều trái tim
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng tình yêu. Tôi không biết nguồn gốc có từ bao giờ? Vì sao người ta lại lấy trái tim làm biểu hiện tình yêu? Có lẽ trái tim là trung tâm của cơ thể con người. Trái tim có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn bộ cơ thể. Trái tim không còn bơm máu, cơ thể sẽ khó thở. Trái tim ngừng đập, con người coi như đã chết. Vì vậy, trái tim có một tầm quan trọng đối với cơ thể con người. Từ đó, người ta thường dùng từ ngữ “Trái tim” để diễn tả tình yêu.
Có lẽ cũng vì lý do đó mà khi tỏ mình ta cho Thánh Margarita Maria Alacốc, Chúa Giêsu đã cho Thánh nữ được xem thấy Trái tim của Ngài. Và để diễn tả tình yêu, Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ rằng: “Đây là Trái tim đã thương yêu loài người vô cùng. Không tiếc gì với họ”.
Thật vậy, Trái tim Chúa Giêsu đã thương yêu chúng ta vô cùng. Đó là Trái tim nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, tha thứ và hy sinh tất cả không tiếc gì với chúng ta.
Trái tim nhân hậu. Ngài quan tâm hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Ngài quan tâm đám đông vì họ bơ vơ không có gì ăn nên đã hoá bánh ra nhiều nuôi họ(x. Mc 8,1-10). Ngài “chạnh lòng thương” trước đám tang người con trai duy nhất của bà goá thành Naim nên đã làm cho chàng sống lại(x. Lc 7,11-17). Ngài đã thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Maria khóc thương Lazarô nên Ngài đã cho Lazarô sống lại (x Ga 11,1-45). Ngài đã chữa lành nhiều bệnh tật, xua trừ ma quỷ: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế”(x. Cv 10,38).
Trái tim khiêm nhường. Chính Ngài đã tuyên bố: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Khi các tông đồ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Chúa Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và dạy cho các ông bài học khiêm nhường: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”(x. Lc 9,47-48). Nơi khác, trong một bữa tiệc, Chúa Giêsu thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, Ngài đã lên tiếng dạy họ rằng “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11). Sự khiêm nhường được thể hiện rõ ràng nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong giờ tiệc ly (x. Ga 13,1-20).
Trái tim biết cảm thông và tha thứ. Ngài cảm thông sâu sắc với những người tội lỗi. Ngài đã đến cùng ăn cùng uống với họ để có thể cảm hoá họ trở về nẻo chính đường ngay.
Với Maria Mađalêna. Cuộc sống quá khứ đầy tội lỗi. Con một gia đình phú quý sang trọng. Sau khi Cha mẹ qua đời, cô được hưởng một gia tài kếch xù. Với gia tài lớn lao này, cô đã sống sa đoạ, truỵ lạc đến nỗi trở nên nô lệ cho ma quỷ. Mađalêna đã được Chúa cảm thông. Chúa chữa cô khỏi bảy quỷ. Chúa tha thứ tội lỗi cho cô. Sau khi sống lại, Chúa còn hiện ra với cô để trao sứ mệnh loan báo tin mừng phục sinh.
Với người phụ nữ ngoại tình. Chị bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Luật Môisê qui định tội này là tội chết. May mắn thay, chị gặp được Đức Giêsu. Ngài đã cứu chị một bàn thua trông thấy. Ngài tha thứ cho chị. Ngài không kết án: “Ta không kết án chị đâu” (Ga 8,11). Ngài muốn cho chị có cơ hội làm lại cuộc đời “chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với ông Giakêu, Mathêu là những người thu thuế. Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi người thu thuế là người phản đạo và phản quốc. Họ thuộc hạng tội lỗi ngang hàng với gái điếm, người ngoại và người Samari. Bốn hạng người này bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông và cách ly, không ai được phép quan hệ với họ. Thế mà, Chúa Giêsu đã kêu gọi Mathêu, chọn ông làm tông đồ. Mặc cho nhiều người chỉ trích “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào”, Chúa Giêsu vẫn chủ động mời ông Giakêu xuống khỏi cây sung và đến viếng thăm nhà ông. Qua cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu đã tạo ra một sự biến chuyển lớn lao trong cuộc đời của Giakêu. Ông hoán cải và thay đồi toàn diện đời sống. Bằng chứng là ông đã đứng lên thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,.8).
Với Phêrô, vị tông đồ trưởng. Chúa gọi ông. Chúa ưu ái ông. Thế mà, Phêrô chối Chúa ba lần. Phêrô khóc vì hối hận. Chúa tha cho Phêrô. Chúa còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21, 15-16), tức là làm đầu Hội Thánh, vị giáo hoàng tiên khởi.
Với người trộm lành. Ông đã từng đi đàng tội lỗi lâu năm. Vì những trọng tội mà xã hội Do thái phải trừng phạt ông bằng cực hình đóng đinh. Nhưng ông đã nhận biết tội lỗi mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với ông: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 42,43). Chúa đã tha thứ tội lỗi cho ông và cho ông vào thiên đàng ngay hôm đó.
Trái tim hy sinh. Chúng ta thấy rõ điều này nơi dụ ngôn người đàn bà bị mất đồng bạc và dụ ngôn con chiên đi lạc. Hình ảnh người đàn bà thắp đèn, quét nhà để tìm đồng tiền bị đánh mất, hình ảnh người chăn chiên trèo đồi lội suối đi tìm con chiên lạc nói lên sự hy sinh của Thiên Chúa đi tìm tội nhân. Dù chỉ một đồng bạc bị mất, dù chỉ một con chiên đi lạc thì Thiên Chúa vẫn cố tìm cho bằng được, Ngài không muốn một ai bị hư mất. Đó là bằng chứng nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể nơi Trái tim Chúa Giêsu. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu bằng việc hy sinh tính mạng của mình làm của lễ đền thay tội lỗi chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu vẫn tiếp tục được lan toả mỗi ngày trong Giáo hội nơi các Bí tích, đặc biệt là nơi Bí tích Giải tội và Thánh Thể. Vì yêu thương Chúa đã ẩn mình trong hình bánh rượu làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Vì yêu thương Chúa đã lập nên bí tích Giao hoà để tha tội cho chúng ta. Mỗi lần tội nhân đến với bí tích giao hoà với lòng thống hối ăn năn tội sẽ được tha thứ.
Tình yêu của Thánh Tâm Chúa vẫn được tiếp tục nơi các thành phần của Hội Thánh. Gương của Thánh Maximilianô Kolbe, chết thay cho người tử tù. Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho anh Agca. Gương hy sinh của Giám Mục Oscar Romero, vừa được Giáo hội phong chân phước ngày 23 tháng 05 vừa qua. Ngài đã lên tiếng tố cáo tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên. Ngài can đảm tìm mọi cách để đứng về những người vô gia cư, đói rách và bị hành hung. Thế rồi, Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/03/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nẩy lửa của mình. Cái chết của Ngài là cái chết vì tình yêu. Đó là một tình yêu hy sinh.
Trong chuyến viếng thăm Sarajevo, ở Bosnia, Đức Phanxicô nghiêng mình trước các chứng nhân bị bách hại vì đức tin. Đức Phanxicô đã không giấu được sự xúc động sâu xa của mình khi nghe các chứng nhân trình bày. Cha Zvonimir Matijević nói với Đức Giáo Hoàng rằng ngài bị bắt, bị tra tấn đến gần chết. Những trận đòn chí tử năm xưa giờ đây đã tiến triển sang nhiều hình thức bại liệt, như một thánh giá ngài sẽ mang hết cuộc đời. Tuy nhiên, ngài nói ngài cảm thấy hạnh phúc được là một linh mục của Giáo Hội Công Giáo và hết lòng tha thứ cho những ai làm hại ngài – với hy vọng họ sẽ hoán cải sang một con đường của lòng nhân hậu. Đây đúng là một tình yêu tha thứ.
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta biến quả tim mình thành quả tim yêu thương, nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, hy sinh và tha thứ. Nhờ đó, tình yêu Thánh Tâm Chúa không chỉ được tiếp tục nơi một số người mà lan toả ra nơi mọi người. Để thế giới này không còn chỗ của ghen ghét oán thù nữa mà tràn ngập tình yêu thương như lời của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.
“Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa! Xin đừng để con khép kín tâm lòng mình bao giờ! Xin cho con trái tim quảng đại như Chúa, vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường, để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. Xin cho con lướt thắng mọi oán hờn nhỏ nhen, và mọi thù hằn ti tiện! Xin cho con luôn luôn bình an tươi sáng, không một biến cố nào làm con bất ổn, không một đam mê nào khuấy động hồn con! Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng bối rối khi bị chỉ trích chê bai. Xin cho con trái tim đủ lớn để có thể yêu cả người thù địch. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm hết tất cả mọi người trong tình yêu Chúa. Amen! (Rabbouni, Lời Kinh đẹp nhất Thiên Niên Kỷ, trang 94)
Để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa, thánh sử Lu-ca ghi nhận ba câu chuyện dụ ngôn Đức Giê-su đã kể: đi tìm chiên lạc, tìm kiếm đồng bạc bị mất, và chờ đón người con đi hoang trở về. Tôi trộm gọi ba dụ ngôn trên như thế (không theo lối gọi truyền thống) vì bị ấn tượng sâu sắc bởi lòng thương xót rất con người của Thiên Chúa, theo cách diễn tả của chính Đức Giê-su.
Thường thì khi nói tới lòng thương xót, ta vẫn ít nhiều có cảm nghĩ: đó là một thái độ nhân nhượng quan tâm của một kẻ bề trên, một hành vi thi ân ban phát ân huệ cho người bất hạnh, xấu số. Thế nhưng đọc kỹ ba câu chuyện dụ ngôn trên ta mới nhận ra cả ba đều có chung một nét: lòng thương xót có vẻ như đặt Thiên Chúa dưới cả con người tội lỗi: Thiên Chúa xót thương không những cần tới, mà còn gần như lệ thuộc vào các người tội lỗi nữa là đàng khác.
Từ trong đời thường ta cũng có thể suy ra: cuộc sống người chăn cừu ít nhiều lệ thuộc vào đàn vật của mình. Do đó hành động lên đường lặn lội đi tìm con chiên lạc của ông cũng dễ hiểu thôi: vì nhu cầu cuộc sống của chính ông. Ông cần tới con chiên đó, nói cách khác, đời sống của ông phần nào lệ thuộc vào con chiên đi lạc kia. Nếu đã dám nói như thế, ta cũng dám đi tới kết luận là: người chăn chiên đi tìm chiên lạc, không phải chỉ vì ‘thương’ nó, mà còn là vì nhu cầu sống của chính ông. Dụ ngôn về người đàn bà tìm kiếm đồng bạc bị mất càng cho thấy rõ hơn điều này: bà cần tiền chứ không thương đồng tiền… Tôi vẫn cảm thấy e dè khi dám có trong đầu tư tưởng rằng: chính Thiên Chúa cần tới con người tội lỗi trước cả khi người tội lỗi cần đến Người. Suy nghĩ thông thường vẫn là: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì con người tội lỗi phải chạy tới lòng thương xót đó. Rất ít ai dám nghĩ rằng: Chúa xót thương lại chủ động đi tìm kẻ tội lỗi trước để đưa họ về; thế nhưng đó lại chính là điều Tân Ước nhiều lần minh xác: ‘Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước’ (1 Ga 4:19). Tôi thấy sợ phải xác quyết điều này vì hình như nó quá xúc phạm tới sự cao cả, sung mãn của Thiên Chúa! Thần học kinh điển đã từng dạy tôi rằng: tình yêu của Thiên Chúa là hoàn toàn vô vị lợi (gratuitous) hiểu theo nghĩa Người ban phát mà không đòi hỏi bất cứ một điều kiện tiên quyết nào. Thế nhưng rõ ràng còn hơn cả thế nữa! Đức Giê-su cho thấy: tình yêu đó không đòi hỏi gì nơi con người nhưng lại đòi hỏi chính Thiên Chúa: người bệnh cần thầy thuốc là lẽ đương nhiên, nhưng chính thầy thuốc cũng cần tới bệnh nhân, vì nếu không có con bệnh, ông không thể là thầy thuốc. Trong tình yêu kể cả tình yêu nhân ái, lệ thuộc vào nhau là một yếu tính thực sự!
Hiểu như thế tôi mới thấy: các chi tiết dầu nhỏ nhất trong dụ ngôn đi tìm chiên lạc lại mang một ý nghĩa vô cùng to lớn: người mục tử tạm ‘bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang, để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Tìm được rồi người ấy mừng rỡ…’ Tìm cho bằng được và mừng rỡ khi tìm thấy, đó là thái độ tiêu biểu đối với những gì thiết thân hay thiết nghĩa! Đức Giê-su long trọng khảng định một điều không ai hiểu nổi: “tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” Phải, nếu thiên đàng, theo lối suy nghĩ tự nhiên, là phần thưởng dành riêng cho những người công chính và thánh thiện, nơi mà Thiên Chúa cao sang vinh hiển ân thưởng những người dầy công nghiệp, thì thiên quốc chắc hẳn phải hoan hỷ đón mừng chủ yếu các bậc thánh hiền, đạo sĩ. Hạng tội nhân sám hối may mắn lắm, thì cũng chỉ được dành cho một xó xỉnh nào đó là cùng. Nhưng huyền nhiệm thay! Nước Trời của Đức Giê-su lại là chốn Thiên Chúa nhân ái và thương xót ngự trị. Vì thế vinh quang Nước Trời sẽ gia tăng mỗi khi lòng thương xót được dịp tỏa sáng trên các tội nhân là hợp lý. Nói cách khác: nếu Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót thì vương quốc của Người lại cần tới, lại lệ thuộc vào số các tội nhân sám hối gia nhập để nhờ đó lòng thương xót càng được tỏ lộ. Và còn triệt để hơn nữa khi ta dám kết luận: sự thánh thiện trọn lành của Ki-tô hữu (hiểu theo nghĩa tu thân tích đức) sẽ không đóng góp gì nhiều cho vinh quang Thiên Chúa nếu như nó không phát xuất từ lòng khiêm nhường chân thành ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Người. Nói cách khác, sẽ không có sự thánh thiện Ki-tô hữu đích thực nếu thiếu khiêm cung đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa nhân ái trao ban trong Đức Ki-tô Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi đi vào tương quan tình yêu quá thần linh mà cũng quá nhân loại này; thần linh: vì nét độc đáo (vượt quá mọi trí hiểu) mà chỉ có Đức Giê-su mới phác họa lên được, nhân loại: vì nó quá gần gũi với thân phận thấp hèn của con người. Thiên Chúa tình yêu mà lại lệ thuộc vào sự thấp hèn của kiếp sống con người sao? Phải! chính vì thế và điều duy nhất mà cuộc trao đổi tình yêu này đòi hỏi không gì khác hơn là lòng khiêm nhường sâu thẳm, khiêm tốn nhìn nhận thân phận thấp hèn của mình. Phải chăng chính Đức Giê-su đã mời gọi ta khai trác triệt để điều này, khi muốn ta hãy học cùng Người một bài học duy nhất: “Hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29)! Do đó, Thánh Tâm Chúa Giê-su mời gọi tôi khai thác triệt để các lỗi tội mình phạm, để biến nó thành vinh quang của lòng Chúa thương xót vô bờ bến.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin cho con được cảm nghiệm thứ tình yêu lệ thuộc mà Chúa đã mô tả. Xin cho con được cùng toàn thể thiên quốc vui mừng vì một tội nhân sám hối. Trước mắt, xin cho con biết vui mừng mỗi khi ban phát tình yêu tha thứ của Chúa, nhất là trong bí tích Giải Tội. Về phần mình, trước những lỗi phạm và yếu đuối riêng tư, xin cho con xác tín rằng: hơn bất cứ ai khác, Chúa đang khát khao được dịp thi thố lòng xót thương và thứ tha. Xin cho con được cảm nghiệm như Phao-lô, niềm tự hào chân chính về những yếu đuối, sa ngã của mình. A-men.
Trong Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại một dụ ngôn thật nhỏ bé do chính Người kể lại, dụ ngôn “Con chiên bị mất». Dụ ngôn thật “nhỏ bé» nhưng có năng lực diễn tả và đánh động lòng chúng ta, điều thật “lớn lao», đó là Thánh Tâm Chúa, là LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, là tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giê-su Ki-tô, là tình yêu đến cùng mang lấy hình hài Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Đức Giê-su và những người tội lỗi
Vào thời của Đức Giê-su, có những người bị coi là tội nhân một cách công khai: vì họ có một thứ nghề nghiệp bị mọi người coi là xấu, chẳng hạn nghề thu thuế như ông Gia-kêu, hoặc vì họ có đời sống luân lí không tốt, chẳng hạn người phụ nữ bị mọi người coi là “người tội lỗi trong thành» (Lc 7, 37) hay vì họ không giữ những nghi thức hay qui định đạo đức, chẳng hạn các nghi thức thanh tẩy, ăn chay, ngày sa-bát…. Họ bị mọi người khinh chê, nhất là các người Pha-ri-sêu và luật sĩ.
Ngày nay, người ta không còn tùy tiện dán nhãn tội nhân vào người này người kia nữa, nhưng sự khinh chê vẫn còn nguyên, trong cung cách ứng xử giữa người với người. Thật vậy, chúng ta vẫn còn khinh chê nhau, vì sự yếu kém, nhỏ bé, giới hạn, thiếu khả năng, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình xã hội, ngoại hình… Thân phận làm người tự nó đã nặng nề, nhưng thay vì gánh vác cho nhau hay làm cho nhẹ đi, chúng ta lại luôn tìm cách chồng chất thêm cho nhau hay tự làm cho thân phận của mình nặng thêm. Thánh Phao-lô trong thư Roma chấn vấn chúng ta: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa… Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em?» (Rm 14, 8.10).
Chúng ta hãy trở lại với bối cảnh của của dụ ngôn “Con chiên bị mất» (c. 1-2), nhìn ngắm cách Đức Giê-su đón tiếp những người tội lỗi, những người yếu kém, những người nhỏ bé: họ đến để lắng nghe Ngài; và Ngài không chỉ đón tiếp họ, nhưng còn dùng bữa với họ. Đón tiếp và dùng bữa với ai, đó chính là làm bạn, thậm chí trở nên một với người đó. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh Đức Giê-su ở giữa những người tội lỗi, bởi vì hình ảnh này rất đánh động và an ủi đối với chúng ta.
Trong Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục ban lời của Ngài cho chúng ta, vốn là những người tội lỗi, yếu kém và nhỏ bé, và còn hơn cả việc dùng bữa với chúng ta, Ngài tự biến thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống hôm nay và sự sống muôn đời.
Kinh nghiệm được đón tiếp bởi Đức Giê-su, khi mà chúng ta vẫn còn là tội nhân, yếu kém và nhỏ bé, chính là động lực để chúng ta cũng có thể đón tiếp người khác, như họ là. Kinh nghiệm này cũng làm cho có thể ra khỏi chính mình để đi vào niềm vui lớn lao của Thiên Chúa và các Thiên Thần của Ngài trên trời.
“Con chiên bị mất”
Để thay đổi hình ảnh lệch lạc của chúng ta về thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân, và để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là còn ngài kết bạn với họ, Đức Giê-su kể “một hơi» ba dụ ngôn: dụ ngôn con chiên, dụ ngôn đồng bạc và dụ ngôn người cha có hai người con (Lc 15, 4-32). Và trên Thập Giá, Ngài còn đi xa hơn, khi để cho mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu chết giữa các tội nhân.
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính trọng thể Thánh Tâm Chúa hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu tiên, nhưng chúng ta nên hiểu cả ba dụ ngôn cùng nhau, vì các dụ ngôn soi sáng cho nhau và nêu bật khía cạnh đặc biệt của mỗi dụ ngôn. Thật vậy, ba dụ ngôn có một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý: 100 con chiên trong đó có một con bị mất; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư mất. Như thế, xét về con số, sự mất mát càng lúc càng lớn: một trên một trăm, một trên mười và một trên hai; hơn nữa, xét về điều bị mất, ban đầu là con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người con thì vô giá.
Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất mát càng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng; trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.
Chính vì thế, logo của Năm Thánh Lòng Thương xót vừa đến từ dụ ngôn “Con chiên bị mất» qua hình ảnh vác trên vai, vừa đến từ dụ ngôn “Người con hoang đàng», qua hình ảnh con người được mang vác, thay vì con chiên, vừa diễn tả Đức Ki-tô, qua bàn tay in dấu đinh, vừa diễn tả căn tính thần linh của Đức Ki-tô “Ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót), qua lời mời gọi “THƯƠNG XÓT NHƯ CHÚA CHA”
Tuy nhiên, cả ba dụ ngôn có một sứ điệp khác đánh động chúng ta không kém: đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng ta, như thể, chúng ta là duy nhất, là quí nhất là yêu nhất, trong con mắt của Chúa. Và dụ ngôn đầu tiên làm bật lên sự điệp này một cách rạng ngời nhất: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. (c. 4)
Dụ ngôn đến từ đời thường, nhưng một khi thốt ra từ miệng Đức Giê-su, lại chứa đựng nhiều điều bất thường (tương tự như các dụ ngôn khác):
(1) Bỏ chín mươi chín con lại nơi đồng hoang; (2) Vác con chiên lạc trên vai, khi tìm thấy; (3) và niềm vui quá lớn và lan tỏa, so với con chiên nhỏ bé được tìm lại, như thể đó là con chiên duy nhất, và như thể chín mươi chín con kia không hiện hữu! Ba điểm bất thường diễn tả cho chúng ta một cách tuyệt vời về tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Tâm Chúa Giê-su muốn diễn tả:
– Thiên Chúa quan tâm đến từng người chúng ta, như thể mỗi người chúng ta là duy nhất. Đó chính là đặc điểm của tình yêu, nghĩa là tương quan giữa một ngôi vị với một ngôi vị. Và chỉ khi, có một con chiên đi lạc, đặc điểm này mới được tỏ lộ ra. Vì thế, kinh nghiệm “đi lạc» sẽ là cơ hội giúp chúng ta nhận ra đặc điểm này của tình yêu Thiên Chúa!
– Người mục tử không trách móc, la mắng xử phạt, giống như người cha chạy ra ôm người con trở về “hôn lấy hôn để” (x. Lc 15, 20). Bởi vì sự hiện diện của người con “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy (c. 24), là tất cả và là dư đủ để lất át tất cả, bù đắp tất cả và làm cho hi vọng1. Đó là bởi vì, tình yêu luôn đi đôi với bao dung tha thứ. Đặt vào trong bối cảnh của dụ ngôn, người tội lỗi được tượng trưng bởi hình ảnh con chiên đi lạc. Điều này thật an ủi cho chúng ta, vì dưới mắt Chúa, chúng ta là những con chiên đi lạc, phải đi tìm về cho kì được, và Thiên chúa đi tìm mỗi người chúng ta nơi Đức Giê-su. Chúng ta hãy nhìn mình như là Chúa nhìn; và chúng ta hãy là con chiên đi lạc mong được tìm thấy và được mang về. Thay vì tự biến mình thành con dê nổi loạn, con sói phá hoại.
– Tình yêu bao dung tha thứ mang lại niềm vui, và niềm vui lan tỏa sang nhiều người, sang tất cả mọi người, trên trời cũng như dưới đất.
* * *
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành đích thân cho từng người chúng ta như là “ Đối Tượng Duy Nhất » trong Đức Ki-tô, để chúng ta có thể yêu mến Người như là “ Đối Tượng Duy Nhất » của lòng trí chúng ta. Và thực vậy, dù chúng ta là ai, ở trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là:”Người môn đệ Đức Giê-su thương mến», vì chúng ta xác tín cùng với thánh Phao-lô rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. (Rm 8, 38-39)
Thánh Tâm Chúa Giê-su
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su có nguồn gốc nơi biến cố cạnh sườn của Đức Giê-su bị đâm thâu và từ đó, tuôn trao ra nước và máu (x. Ga 19, 34). Nhìn ngắm biến cố sau cùng này của cuộc Thương Khó, các Giáo Phụ nhận ra nơi đó sự khai sinh ra các bí tích của Hội thánh, nhất là bí tích rửa tội và Thánh Thể:
Lạy Chúa Ki-tô, … xin Máu thánh Chúa làm cho con say mến… Xin nước bởi cạnh sườn Chúa rửa con cho sạch… Xin cất dấu con trong các vết thương của Chúa. (Kinh Anima Christi)
Không có lòng sùng kính nào có tính cách bắt buộc, ngay cả khi được Giáo Hội khuyến khích. Chúng được đề nghị thực hành trong mức độ chúng giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến và phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta. Tuy nhiên, phải nói rằng, những hình vẽ “Trái Tim rất thánh”, có từ thế kỷ XVII, xem ra không còn phù hợp với cảm thức của chúng ta ngày này. Nhưng, chúng ta được mời gọi vượt qua hình vẽ nghệ thuật, để nhận ra rằng hình ảnh trái tim ngày nay vẫn còn mang nhiều ý nghĩa. Trong thân thể của chúng ta, trái tim đưa máu đi, ngang qua các động mạch, tưới gội khắp chi thể, để làm cho thân thể sống động. Trong đời sống tinh thần, trái tim được coi là trung tâm của nhân cách, nghĩa là nơi của những cảm xúc và những năng động hướng chúng ta đến với người khác; trái tim làm trào vọt ra trên môi miệng chúng ta những lời nồng thắm và yêu thương, bởi vì “tim có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12, 34). Chính vì thế mà, hình ảnh trái tim có mặt khắp nơi trong Kinh Thánh, mặc khải những gì trào vọt ra từ trái tim của Thiên Chúa và những gì trào vọt ra từ trái tim con người. Đó là hình ảnh trái tim rung cảm, hơn là trái tim lưu chuyển máu huyết.
Như thế, dấu chỉ tấm bánh và hình ảnh trái tim diễn tả cùng một thực tại, đó là Tình Yêu đi xuống đến cùng tận, nghĩa là LÒNG THƯƠNG XÓT, để làm cho thế giới đứng vững trong Đức Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa và để mang lại cho thế giới năng động trở về với Đấng Tạo Dựng.
Trong đời sống thường ngày, có lẽ không có gì gần gũi, thiết thân với chúng ta hơn là tình yêu. Người ta có thể ăn đói, mặc rách, có thể chịu nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống của thân xác, nhưng khó có thể có được bình an, và niềm vui nếu như không có tình yêu. Tình yêu là một cái gì gắn chặt với đời sống con người. Khuôn mặt của tình yêu cũng thật là phong phú: đó có thể là tình mẫu tử, tình huynh đệ, hay là tình yêu nam nữ… Nhưng cho dù dưới hình dáng nào đi chăng nữa, thì tình yêu vẫn luôn có một vẻ quyến rũ đặc biệt khiến cho chúng ta không thể rời xa nó.
Sở dĩ con người luôn gắn bó với tình yêu như thế, phải chăng bởi vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là khởi nguồn của mọi tình yêu? Hay nói như Thánh Gio-an: “Thiên Chúa là Tình yêu” ( 1 Ga 4, 8 ). Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật là vô bờ bến, vượt hơn cả tình thương của cha mẹ đối với con cái, như lời Ngài phán qua miệng Ngôn Sứ I-sai-a: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng, đẻ đau? Cho dù nó có quên đi chăng nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ… Ta đã khắc ghi ngươi trong lòng bàn tay Ta” ( Is 49, 15 – 16a ). Còn Thánh Phao-lô thì nói: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”, và thánh nhân kết luận: “Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” ( Rm 5, 8 ). Nói đến tình yêu, chúng ta không thể không nhắc đến trái tim, một biểu tượng hữu hình của tình yêu. Và để bày tỏ lòng tri ân của mình đối với tình yêu bao la của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành riêng ngày hôm nay để mừng kính Thánh Tâm Chúa, Thánh Tâm đã bị đâm thâu vì yêu chúng ta ( x. Ga 19, 34 ). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật bao la và sâu thẳm, không thể nào nói cho hết. Tuy nhiên, dựa vào lời Chúa hôm nay, chúng ta cũng phần nào hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua hình ảnh người Mục Tử Nhân Lành trong Thánh Kinh.
1. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI MỤC TỬ: Trở lại với bối cảnh của bài đọc một, chúng ta thấy rằng lúc bấy giờ dân Do Thái đang đứng trước nguy cơ của cảnh nước mất, nhà tan. Các vua chúa và cả hàng đầu mục trong dân đã đi vào con đường sa đoạ, chạy theo các tà thần. Họ không còn để ý gì đến việc chăm sóc cho đoàn dân mà họ được giao phó. Những người này chỉ nghĩ đến việc vơ vét, bóc lột cho thật nhiều mà không hề nghĩ đến đời sống cực khổ của dân chúng. Mặt khác, viễn ảnh ngoại xâm đang gần kề. Việc lưu đày, bị phân tán đi khắp nơi là điều không thể tránh khỏi. Toàn dân như đang sống trong cảnh tuyệt vọng. Họ chẳng còn biết bám víu vào đâu. Những chuyện kể xưa kia về việc Thiên Chúa ra tay hùng mạnh dẫn đưa họ từ Ai Cập trở về, dẹp tan các dân tộc cản lối đi của họ như đã bị chìm vào quên lãng.
Chính lúc đó, Ngôn Sứ Ê-giê-ki-en đã được Thiên Chúa sai đến loan báo về một thời đại mới. Trong thời đại mới này, chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân của Người. Người sẽ dẫn đưa những con chiên bị phân tán trở về. Người sẽ bảo vệ và giải thoát họ khỏi bàn tay áp bức của kẻ thù đang đè nặng trên họ. Ngài nói: “Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng… Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán. Ta sẽ dẫn chúng ra khỏi các dân tộc, Ta sẽ tụ họp chúng từ khắp măt đất, và đưa chúng vào đất của chúng”.
Không chỉ là tụ họp dân lại, Thiên Chúa còn lo cho đoàn chiên của Ngài từng miếng ăn, thức uống, như lời Ngài phán: “Ta sẽ thả chúng ăn trên những đồng cỏ màu mỡ,… chúng sẽ nghỉ ngơi trong những đồng cỏ xanh tươi, và chúng ăn trong đồng cỏ màu mỡ trên miền núi Ít-ra-en”. Cảm nghiệm được sự ân cần chăm nom của Thiên Chúa đối với cuộc sống mỗi ngày của mình, đặc biệt là giữa những lúc khó khăn nhất, Vua Đa-vít đã cất tiếng ngợi ca: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng…” Và rồi trong vòng tay yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa, Vua Đa-vít tin tưởng khẳng định: “Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi… Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương”.
2. MỤC TỬ GIÊ-SU: Người mục tử mà Ngôn Sứ Ê-giê-ki-en và Vua Đa-vít tiên báo không ai khác hơn là chính Đức Giê-su. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Hậu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân. Không chỉ chăm sóc, bảo vệ, tình yêu của Đức Giê-su đối với chúng ta còn lên đến tột đỉnh khi Ngài hiến mạng sống mình cho chúng ta, như lời Thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Ki-tô đã chết vì chúng ta”. Đức Ki-tô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là Ngài đã hy sinh cho chúng ta ngay lúc chúng ta đang còn là thù địch với Ngài, đang còn chống đối Ngài. Nhưng vì yêu thương, Ngài vẫn sẵn sàng hiến mạng sống mình, để chúng ta được sống và được giao hoà với Thiên Chúa là nguồn của mọi tình yêu. Chính nhờ cái chết của Đức Giê-su, mỗi người chúng ta nhận lãnh được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Kế đó, tình yêu của Mục Tử Giê-su đối với chúng ta không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn chúng ta. Tình yêu ấy đã thúc đẩy bước chân của Ngài lên đường ra đi tìm kiếm những con chiên đang sống trong lầm lạc của tội lỗi, như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng: “Ai trong các ông có 100 con chiên và nếu mất một con, lại không để 99 con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy sao?” Thiên Chúa không đặt dấu chấm hết cho một người nào. Cho dù chúng ta có tội lỗi, xấu xa đến đâu đi chăng nữa, thì Mục Tử Giê-su vẫn hằng mở rộng vòng tay chờ đợi chúng ta trở về. Và không chỉ là một sự chờ đợi, Thiên Chúa còn lên đường tìm kiếm, để dẫn đưa chúng ta trở về với Ngài.
Mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su hôm nay, chúng ta vừa cùng nhau suy niệm một vài nét về tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Đây quả là một tình yêu tuyệt vời, chúng ta không thể lấy gì để đền đáp cho cân xứng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, chắc chắn Thiên Chúa cũng không cần chúng ta đền đáp, vì Ngài là Đấng toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không còn thiếu điều gì. Do đó, đáp lại tình yêu của Đức Giê-su, tâm tình đầu tiên mỗi người chúng ta cần có là đến và ở lại trong tình yêu của Ngài. Và đó chính là điều làm cho Ngài vui mừng nhất. Ngài vui mừng vì một con chiên lạc giờ đây đã trở về và ở lại trong sự chăm sóc của Ngài. Chúng ta cũng có thể nhận ra điều này khi nhìn ngắm nét mặt rạng rỡ, hân hoan của người mẹ khi ôm ấp những đứa con trong vòng tay của mình. Trong vòng tay của mẹ, có thể đứa trẻ chẳng làm gì cho người mẹ, có khi em còn quấy rầy bà nữa, nhưng tự thâm tâm, người mẹ vẫn cảm thấy vui. Bà vui vì con bà đang ở với bà, đang tin tưởng và cậy trông nơi bà.
Cuối cùng, để đáp lại Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa Giê-su dành cho chúng ta, mỗi người chúng ta cũng phải biết sống yêu thương nhau. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình, để cho tình yêu của Đức Giê-su tuôn chảy qua chúng ta đến với anh chị em của mình. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hiệp nhất nên một đoàn chiên, có cùng một chủ chiên là Đức Giê-su.
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ kính toàn bộ kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu diễn tả sâu xa nhất lời yêu thương của Ngài. Chết mới diễn tả tất cả, chết mới thốt nên lời. Lời của Chúa Giêsu trên thập tự: “Ta khát” là lời tình yêu.
MỘT CON NGƯỜI BỊ TREO LÊN, CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI: Hơn hai ngàn năm nay, nhân loại vẫn tôn thờ một con người có tên Giêsu, một con người bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh vào thập giá. Con người đó đã bị nhiều người lên án, có người đã viết cả pho tiểu thuyết: “Thiên Chúa đã chết”, họ tưởng Ngài chết là hết, là tiêu tan, là hết hy vọng, nhưng quả thực, Thiên Chúa vẫn còn đó, Ngài vẫn sống động, Ngài vẫn hiện diện giữa mọi người, giữa dòng thế giới. Chúa Giêsu, người đã bị treo lên cao trên thập giá, người chết vì yêu: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Đã hơn hai ngàn năm nay, tại sao nhân loại, tại sao nhiều người lại vẫn tiếp tục tôn thờ một con người bị treo lên thập giá? Đây là điều rất diệu kỳ: “Chúa Giêsu là tình yêu đích thực”. Nơi Ngài có một sự thu hút rất mãnh liệt, Ngài đã được hầu hết mọi người trên toàn thế giới mến phục, tôn thờ và yêu mến. Có tới chân thập giá, nhân loại mới hiểu tại sao thế giới tôn kính Chúa, yêu mến Chúa và tin tưởng Chúa: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (Ga 12, 32). Hình ảnh Chúa Giêsu trên núi Canvê: thân trần, mình trụi, hai tay, hai chân bị đóng đinh vào thập tự, đầu đội mão gai. Chúa đã chết, đã quên mình, đã hy sinh cho nhân loại, cho mọi người vì Ngài yêu thương, tình yêu của Ngài là tình yêu đích thật, tình yêu vô vị lợi, tình yêu vô biên. Trong Phúc âm đã thuật lại biết bao dụ ngôn, biết bao ví dụ nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, đối với nhân loại: dụ ngôn “Người con hoang đàng”, “Con chiên lạc”, “Đồng bạc bị mất” vv…
Tất cả những dụ ngôn ấy nói lên lòng Chúa yêu thương nhân loại, nhất là đối với những người tội lỗi biết là chừng nào. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi bước trước. Chúa yêu nhân loại chẳng phải nhân loại có giá trị, hay cũng chẳng phải con người có nhãn hiệu Kitô-giáo Chúa yêu thương và cứu độ nhân loại trước khi nhân loại còn ở trong tội và bất tín, bất trung. Chúa chết vì yêu nhân loại, Chúa cũng mời gọi nhân loại sống tình yêu như Ngài: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng từ nhân” (Lc 6, 36). Đó là mầu nhiệm của tình yêu. Đây cũng là mầu nhiệm của đức tin.
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA: Trong cuộc sống đời thường có biết bao trường hợp thương tâm xẩy ra: hận thù, chém giết, chiến tranh, lừa đảo vv… Sở dĩ những chuyện đó xẩy ra vì “con người thiếu yêu thương”. Chúa mời gọi con người sống yêu thương, quên mình, hy sinh vì người khác miễn người khác có được hạnh phúc. Thánh Phaolô viết: “Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, nên đã phó mình vì chúng ta” (Eph 5, 2). Sống như Chúa, có trái tim của Chúa, con người sẽ ở trong tình yêu thật của Ngài. Người ta kể : “Vào một ngày nào đó, chú bé Adam Lester nay mới hai tháng tuổi (6/1984), sẽ biết rằng mẹ chú yêu chú biết chừng nào và đã hy sinh cả cuộc đời mình cho chú. Sau khi được các bác sĩ cho biết các loại thuốc trị bệnh ung thư sẽ để lại di chứng trên đứa trẻ đang nằm trong bụng, chị Hazel đã từ chối không dùng thuốc. Sau khi bé Adam ra đời được bảy tuần lễ, chị đã trút hơi thở cuối cùng tại Conventry nước Anh”. Đây là câu chuyện trong muôn vàn câu chuyện ở trần gian nói lên tình thương thật của người mẹ, tình thương hy sinh đến quên mạng sống vì người mình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chính là thước đo tình thương của Chúa đối với nhân loại. Đây là thực tế của một con người có tên Giêsu, Ngài không chỉ nói suông, nhưng đã thực hiện đúng lời Ngài đã nói: “…hy sinh mạng sống vì người mình yêu”. Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là tôn kính Chúa, tôn vinh tình yêu của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn và có thể cùng với thánh Gioan thánh sử, nhân loại hãy hô to: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó!”.
Mừng kính Trái tim Chúa Giêsu, xin cho các linh mục được có con tim nhạy cảm, tấm lòng yêu thương như Chúa để các Ngài luôn trung tín, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu, cho đàn chiên. LỜI CẦU: “Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống lòng con tràn lửa say yêu một Chúa… Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh Tâm Cha”. 5. Suy Niệm của Lm. GB. Nguyễn minh Hùng Chọn lựa cho một tình yêu
Nhân Lễ Thánh Tâm, suy nghĩ về đời sống thánh hiến
Tháng Sáu, tháng của những lễ phong chức, lễ khấn dòng, cũng là tháng của những lễ kỷ niệm ngày chịu chức, ngày khấn dòng… Có thể nói tháng Sáu là mùa ơn gọi.
Tháng Sáu cũng là tháng tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa, được cụ thể nơi Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Kitô cũng nằm trong tháng Sáu, lại là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục.
Bởi thế, tháng Sáu nói chung và lễ Thánh Tâm nói riêng là thời điểm thích hợp để tất cả những ai sống ơn gọi tu trì có dịp nhìn lại chính mình, nhìn lại ơn gọi mà mình đã sống, từ đó tự nhắc nhở cho chính bản thân ta về một chọn lựa mà mình đã dấn bước: CHỌN LỰA CHO MỘT TÌNH YÊU. Nhưng tình yêu ấy không do bản thân ta, hay bất cứ một người nào mà có, nhưng đó chính là TÌNH TRỜI.
Vì thế tôi muốn cùng bạn chia sẻ những suy nghĩ về chính ơn gọi và sự chọn lựa của mình.
Bạn có biết: Cuộc sống là kết thành của những chọn lựa. Có những chọn lựa quyết định cho cả một đời, và một đời phải sống cho chọn lựa ấy. Có những chọn lựa có thể thay đổi nhưng cũng có những chọn lựa không bao giờ thay đổi. Chọn lựa luôn là điều cần thiết cho đời người. Bởi thái độ sống của mỗi người tùy thuộc và ảnh hưởng rất nhiều từ những chọn lựa mà mình đã quyết định.
I. CHỌN LỰA:
1. Chọn lựa cần chiến đấu: Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến không phải là người nọ, thế lực kia mà là cái “tôi” xấu trong chính bản thân. Bởi thế chiến đấu để tự lách mình khỏi những mối nguy cản bước ta tiến đến sự hoàn hảo, thì ngay trong sự tự chiến đấu ấy đã là chọn lựa: chọn lựa đứng về phía thiện, tách mình khỏi những sai lạc. Chọn lựa không cho phép ta ở hai tình trạng, nhưng chỉ là một, hoặc là tốt hoặc là xấu. Chọn lựa không có chỗ cho sự trung dung: “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi: nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng, chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miện Ta”1.
Chọn lựa luôn là chọn lựa một điều gì đó, không thể có chọn lựa suông. Trong chọn lựa bao giờ cũng có lý tưởng để theo đuổi. Chọn lựa là đón nhận nhưng cũng là hy sinh. Đón nhận điều mình chọn lựa và hy sinh để sự chọn lựa thành toàn. Chọn lựa bao gồm một hướng ngắm để đến, một hy vọng củng cố lý tưởng, một niềm tin nuôi hy vọng. Và khi đã chọn lựa, không có nghĩa là ngưng chiến đấu. Càng chọn lựa, nghĩa là càng đi trên con đường mà mình đã quyết định, càng phải chiến đấu: Chiến đấu để bảo vệ điều đã chọn lựa. Chọn lựa thì dứt khoát, nhưng chiến đấu thì lâu dài, bền bỉ, vì không phải chiến đấu một lần là đủ. Ngày nào ta bằng lòng với tình trạng hiện có mà không chiến đấu để vươn lên, ngày ấy báo hiệu chọn lựa ban đầu của ta đang bị chính ta đánh mất. Nếu chọn lựa cho một thái độ sống lâu dài thì chiến đấu liên lỉ không bao giờ thừa. Càng chiến đấu bảo vệ cái thiện, chống lại cái xấu, chọn lựa càng vững chắc.
Mãi mãi chọn lựa cần chiến đấu. Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến có khi chính là sự dữ ngự trị trong ta.
2. Tự do chọn lựa: Chọn lựa đòi tự do. Không những tự do cần ngay khi chọn lựa, mà khi chọn lựa rồi cũng cần có tự do để sống điều chọn lựa. Chọn lựa không tự do, không phải chọn lựa mà là áp đặt, là thế lực. Cần đập vỡ áp đặt, thế lực để lý trí, ý chí và cả tình yêu có được sự chọn lựa đúng mức. Áp đặt hay thế lực ở đây là những hào nhoáng, là danh, là lợi, là sự thúc ép của kẻ khác… khiến đương sự nhầm lẫn, cuối cùng chọn lựa sai. Cần có tự do để dấn thân cho điều đã chọn lựa. Nếu chọn lựa không có tự do, người ta không thể dấn thân cho điều đã chọn lựa. Và chỉ có yêu thực sự một điều gì mới có thể dấn thân cho điều đó cách trọn vẹn. Một người xả thân giúp đỡ người khác, việc làm đó mang lại cho anh ta hạnh phúc, ngược lại một người làm điều gì vì bị cưỡng bức, anh ta sẽ không cảm nhận sự bình an.
3. Thiên Chúa làm người, một chọn lựa:
Chúa Kitô đã quyết định trở thành “Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” 1. Chọn lựa của Ngài là “trở nên người phàm”. Chọn lựa này mãi mãi không thay đổi. Đó cũng là chọn lựa tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài đã sống một cuộc đời cho điều đã chọn lựa, và dấn thân trọn vẹn cho chọn lựa ấy: Chúa Kitô đã “nên giống anh em mình về mọi phương diện”2. Hay “Đức Giêsu Kitô vốn vĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”1. Chúa Kitô “vâng lời cho đến chết”, sự “vâng lời” của Ngài là hoàn toàn tự nguyện. Ngài quyết định “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”2. Quyết định này là sự lựa chọn tự do: “Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta, và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta”3. Một khi quyết định chết cho đàn chiên, Chúa Kitô đã mang lại sự sống dồi dào cho đàn chiên.
II. CHỌN LỰA SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN: 1. Một chọn lựa can đảm: Nếu chọn lựa sống đời Kitô hữu hoàn hảo đã phải chiến đấu nhiều với chính bản thân, thì chọn lựa sống đời Kitô hữu thánh hiến còn phải chiến đấu vất vả hơn. Vì chọn lựa ấy là chọn lựa “sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”. Nhưng họ vững tin rằng, Chúa Kitô ở bên họ. Ngài cầu xin Cha: “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha… Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần… Lạy Cha Con muốn rằng Con ở đâu, thì những kẻ Cha ban cho Con, cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con…”.
2. Đời sống thánh hiến là sống những nét đặc trưng của đời sống Đức Kitô: Những người sống đời thánh hiến đi một bước cao hơn tiến gần đến đời sống của Chúa Kitô. “Họ diễn lại cách nào đó lối sống Đức Kitô đã chọn sống, và cho thấy lối sống ấy có một giá trị tuyệt đối và cánh chung”. Một khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”, họ muốn như nhà thương gia kia, đi tìm ngọc quý, tìm được rồi bán tất cả để chỉ mua lấy một viên ngọc. Viên ngọc NƯỚC TRỜI mà họ chọn lựa, buộc họ phải trung kiên cả một đời, chiến đấu cả một đời, hy sinh cả một đời, từ bỏ cả một đời. Chọn lựa vác thập giá theo Đức Giêsu, họ sẽ là người sống “các nét đặc trưng của đức Giêsu- khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục”. “Các nét đặc trưng” ấy “trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng”. Vì trên thập giá, “Tình yêu khiết trinh của Nguời đối với Chúa Cha và đối với mọi người được diễn tả mạnh mẽ nhất; sự nghèo khó của Người sẽ đi đến chỗ lột bỏ hoàn toàn; sự vâng phục của Người sẽ đi đến hiến dâng mạng sống”
3. Chọn lựa giữa lòng cuộc sống và chọn lựa cho TÌNH YÊU: Là người, những người dấn thân trong đời sống thánh hiến lựa chọn hướng đi của mình ở giữa lòng cuộc sống như bao nhiêu lựa chọn của mọi người. Nhưng Tình Yêu mà họ dấn bước theo không là một mái gia đình riêng tư, không là hạnh phúc đến bởi sự thành công của những nỗ lực trong đời thường, không là những thú vui trụy lạc mà không ít người của thời nay ngụp lặn trong đó, và vẫn lầm tưởng đó là hạnh phúc, là tự do của họ…
Vì chọn lựa sống rập theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô, anh chị em bước vào đời thánh hiến cũng sẽ nên giống Chúa Kitô, để cùng với Người, họ hiện diện giữa lòng cuộc sống. Nói một cách cụ thể hơn: họ chọn cho mình một kiểu mẫu của Tình Yêu để sống trọn đời cho Tình Yêu ấy. Một thứ Tình cao cả mà Chúa Kitô đã chọn sống và yêu.
Bởi vậy, giống như Chúa Kitô, cũng ngay giữa lòng cuộc sống, họ thực thi sứ mạng mà Tình Yêu đòi hỏi họ. Và ngay giữa lòng cuộc sống ấy, Họ đi tìm và bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa “đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt chán chường vì những lời hứa chính trị, những bộ mặt uất hận của những ai bị người ta khinh dễ nền văn hóa của mình, những bộ mặt sợ hãi cảnh bạo lực mù quáng thường ngày, những bộ mặt của người trẻ, những bộ mặt tủi hổ của những phụ nữ bị xúc phạm và làm nhục, những bộ mặt mệt mỏi của đám di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện để sống đàng hoàng…”1. Họ dấn thân phục vụ giữa lòng cuộc sống. Và như thế, họ tìm thấy niềm vui giữa lòng cuộc sống. Chính vì sống theo kiểu mẫu của Tình Yêu mà Chúa Kitô đã sống, những anh chị em chọn lựa sống đời thánh hiến là Chọn lựa cho một tình yêu: Tình Yêu mang tên GIÊSU KITÔ.
III. MỘT LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa, diễm phúc và hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái nam nữ của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng Tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa. Chúng con hiểu rằng, dù chúng con có chọn lựa, có hy vọng, có tin tưởng, thì điều trước tiên vẫn là hồng ân, là Tình yêu của Chúa đối với chúng con. Tình yêu là lời ngỏ, là động lực đưa chúng con tới lý tưởng của mình. Lạy Chúa, trong lòng cuộc sống, có nhiều cách để chúng con chọn lựa, nhưng chúng con chọn lựa theo Chúa. Chúng con cầu xin cho chúng con luôn trung thành truyền lại Lời Chúa cho người khác, để Lời Chúa được thêm vững mạnh trong lòng mọi người. Xin làm cho chúng con trở nên xứng đáng phục vụ bàn thánh Chúa và Hội Thánh. Chúng con kính dâng Đức Nữ Trinh Vương Maria và cầu xin Người là mẹ của Chúa Kitô, mẹ của Linh Mục Thượng phẩm đời đời gìn giữ chúng con trong hạnh phúc của đời thánh hiến, để chúng con biết trung thành theo Chúa bằng cả cuộc đời của chúng con.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta đặc biệt suy tôn Tình Yêu của Chúa Giêsu đã thể hiện qua trái tim của Người. Phụng vụ Lời Chúa năm C không có một từ nào nói về trái tim Chúa Giêsu, nhưng lại nói đến Tình Yêu của một Thiên Chúa là Cha qua hình ảnh của một người mục tử hết mình yêu thương đàn chiên.
Cùng với khẩu hiệu ”Thương Xót như Chúa Cha” (Lc 6,36), huy hiệu Năm Thánh Lòng Thương Xót (do Cha Marko I. Rupknik SJ sáng tác) trình bày người Cha đang vác người con lầm lạc trên vai. Một hình ảnh rất được Giáo Hội cổ kính quí chuộng, vì diễn tả tình thương của Chúa Kitô hoàn tất mầu nhiệm nhập thể của Người bằng công trình cứu chuộc. Hình của huy hiệu làm nổi bật sự kiện Vị Mục Tử nhân lành đi sâu vào thân thể con người, với tình thương yêu đến độ thay đổi cuộc sống của con người.
Ngoài ra, một sự kiện này không thể bỏ qua, đó là Vị Mục Tử nhân lành, với lòng thương xót tột độ, vác nhân loại trên vai, nhưng đôi mắt của Vị Mục Tử hoàn toàn giống như đôi mắt của con người. Chúa Kitô nhìn với con mắt của Ađam và Ađam nhìn với con mắt của Chúa Kitô. Như thế mỗi người nhận ra nơi Chúa Kitô là Ađam mới, chính nhân tính của mình và tương lai đang chờ đợi mình, khi chiêm ngắm, trong cái nhìn của Chúa Kitô, tình thương của Chúa Cha. (theo vi.radiovaticana.va)
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho dân Do Thái qua ngôn sứ Êdêkien về một thời đại mới mà chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân của Người. Vị mục tử sẽ tìm kiếm những con chiên bị tản mác khắp nơi, tập hợp và đưa chúng vào đất của chúng. Chăn dắt trong những đồng cỏ tươi tốt, màu mỡ trên các núi cao, các thung lũng Ít-ra-en và tại mọi nơi trong xứ có thể được. Con nào bị mất, Người sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Người sẽ đưa về; con nào bị thương, Người sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Người sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Người sẽ canh chừng. Người sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. (x. Ed 34,11-16)
Trong những ngày nắng hạn khô cằn, vị mục tử là Thiên Chúa sẽ dẫn đưa đàn chiên chúng ta đến nơi đồng cỏ xanh tươi, chỗ suối nước mát lành để chúng ta được no nê bổ sức và yên tâm nghỉ ngơi. Không còn những lo lắng, buồn phiền, mệt mỏi …. vì “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” Và rồi bình an trong vòng tay yêu thương chăm sóc, chúng ta tin tưởng khẳng định: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm.”
Đối với Thiên Chúa, chúng ta là những người con yêu dấu. Trong đôi mắt Người, từng người chúng ta thật quý giá không trừ một ai. Tình Yêu xuất phát từ trái tim Người đã che chở chúng ta, đem lại cho chúng ta sự bình an. Thương lắm, quý lắm nên Thiên Chúa mới xức dầu thơm lên đầu chúng ta, châm rượu vào ly cuộc đời chúng ta với bao ân tình thương quý. “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa”. (TV 23,1-6)
Đức Giêsu chính là Vị Mục Tử Nhân Lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân và chính Người cũng xác nhận “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Không chỉ chăm sóc, bảo vệ, tình yêu của Đức Giêsu đối với chúng ta còn lên đến tột đỉnh khi Người hiến mạng sống mình cho chúng ta, như lời Thánh Phaolô: “Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,5-11)
Tình yêu của Vị Mục Tử Nhân Lành không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn chúng ta. Dụ ngôn con chiên lạc là một trong ba dụ ngôn Đức Giêsu nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa không bỏ rơi con người tội lỗi. Sự lo lắng của vị mục tử này xuất phát từ việc trống vắng con chiên lạc trong trái tim ông. Ông dám liều lĩnh bỏ 99 con trong hoang địa và chấp nhận tất cả những rủi ro sẽ xảy đến cho bản thân để cất bước lên đường tìm 1 con. Khi tìm được con chiên lạc, ông mừng rỡ ôm nó vào lòng, vác trên vai đưa nó trở và mời bạn hữu đến chia vui “vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên đã bị mất”. Vui mừng không phải vì con số 100 tròn đầy mà là vì con chiên lạc đã được tìm thấy!
Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. Cần phải hiểu bối cảnh của dụ ngôn là sự bàn tán, xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư khi thấy những người thu thuế và tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng dậy (x. Lc 15,1-7). Điều đó cho ta thấy sự khác nhau giữa lý luận của trí óc và cái lý lẽ của con tim. Chúa Giêsu muốn chúng ta phải nghe Lời Người bằng trái tim, để có thể hiểu được những hành động Người đã dành cho những người tội lỗi. Hơn thế, Người còn cho thấy, nếu một khi để cho trái tim thúc đẩy, thì ai cũng sẽ làm như Người đã làm.
Muốn cảm nghiệm được tình yêu, chúng ta cần phải biết nghe bằng trái tim, và để cho trái tim rung đập theo nhịp riêng của nó. Hãy suy ngẫm và cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, để rồi nghe theo sự mách bảo của trái tim, chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng với tình yêu hy sinh quảng đại Thiên Chúa đã dành cho mỗi người. Hãy mang lấy trái tim và cách cư xứ của Chúa đến cho anh chị em chung quanh để bất cứ ai khi tìm đến với những Kitô hữu như chúng ta, đều tìm được một ốc đảo từ bi thương xót. (ĐTC Phanxicô)
Nguyện xin Thánh Tâm Chúa Giêsu tuôn đổ Tình Yêu của Người vào trong trái tim của để chúng con luôn biết lấy Tình Yêu đáp trả Tình Yêu, luôn nhìn đời với ánh mắt yêu thương, biết cảm thông trước những nỗi khổ của tha nhân. Luôn biết tìm đến với những người đang cần chúng con cho đi dù chỉ là một lời cầu nguyện, một chút yêu thương, một chút chia sẻ.
Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa bằng con tim rộng mở, để qua lời rao giảng của các vị mục tử chúng con kín múc được những nguồn mạch thâm sâu của Tin Mừng. Cho chúng con có một trái tim khiêm nhường để biết mở lòng mình ra đón nhận những phê bình, sai sót của anh em. Biết từ bỏ cái tôi để tiếp thu những điều chưa hay, chưa biết thay vì tranh cãi, lí luận đủ điều để bảo vệ những thiếu sót, khiếm khuyết của mình.
Xin Trái tim nhân từ của Chúa Giêsu giúp con biết cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ và cư xử với những người trong gia đình, những người cùng làm việc trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày bằng sự hiền từ và tha thứ để cuộc sống ngày càng thêm thăng hoa và trổ sinh trái ngọt. Và khi trái tim con đã được đong đầy Tình Yêu Thiên Chúa, xin cho con vững bước đi làm chứng nhân cho cội nguồn Tình Yêu là Thánh Tâm Chúa Giêsu giữa lòng xã hội và thế giới hôm nay. Amen.
“Hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29b)
Từ nguyên thủy, trước khi có thời gian và thế giới tạo thành, Thiên Chúa đã hiện hữu, và duy nhất chỉ có mình Ngài. Tình yêu Thiên Chúa cũng đã có từ đời đời, ngày hôm nay và cho đến mãi mãi, đồng thời cũng chỉ duy có tình yêu của Ngài hiện hữu mà thôi. Chúng ta là tạo vật, là người thụ lãnh và truyền tải tình yêu Chúa cho tha nhân. Nhưng chúng ta chỉ có thể thông truyền, bao lâu chúng ta biết đón nhận tình yêu đến từ Thiên Chúa. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa đã sai Con một Ngài đến trần gian. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Đức Giêsu chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Chỉ nhờ Người, và trong Người, chúng ta mới có thể đáp trả tình yêu linh thánh ấy.
Đức Giêsu, ‘Lời’ của tình yêu
Đức Giêsu là con Thiên Chúa, là ngôi vị thần linh trong Ba Ngôi. Đồng thời, Ngài đã mang thân phận con người, sinh ra làm con Đức Maria, sống kiếp người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài chính là ‘Lời’ mà Thiên Chúa ngỏ trao cho chúng ta. Ngài nói như một Thiên Chúa quyền năng, nhưng lại sử dụng ngôn ngữ của loài người. Ngài đã ngỏ lời bằng những ngôn từ giản đơn của những cư dân bình thường giống chúng ta. Ngài sử dụng những hình ảnh đời thường rất dung dị để diễn bày những chân lý cao siêu về mầu nhiệm nước trời. Từ những cánh chim trên bầu trời cao xanh, những bông hoa ngoài đồng nội, những hạt giống được gieo vãi, những cây nho xum xuê trĩu quả.. Khi muốn truyền đạt những sứ điệp quan trọng cho các học trò và đám đông, Ngài vay mươn những hình ảnh rất mộc mạc và dung dị, ví dụ: “Anh em là muối ướp mặn cho đời, anh em là đèn sáng đặt trên đế cao…” Đặc biệt, khi muốn khải thị về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, Ngài dùng hình tượng một trái tim nhân loại như một hình mẫu. Ngài nói: “Hãy học nơi ta, vì ta có một con tim hiền dịu và khiêm hạ. Anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi và an bình”.
Những người đương thời của Đức Giêsu hiểu được những gì Ngài nói, đặc biệt nơi hình ảnh một trái tim yêu thương, một trái tim hiền dịu và khiêm hạ. Đó là một con tim nhân loại đã từng rung cảm trước cái chết của một thanh niên, con trai bà góa thành Naim, đã từng thổn thức và rơi lệ trước ngôi mộ của một người bạn thân, nhưng đồng thời cũng là một trái tim mang chở cả một bầu trời yêu thương cho đến vô tận. Hiểu được điều ấy, những chàng ngư phủ Galilê cho dù dốt nát và quê mùa nhưng đã dám bỏ lại tất cả, thuyền và lưới, cha mẹ và vợ con, để đi theo chúa. Các tiến sĩ luật thông thái đã ngồi lặng yên chăm chú để lắng nghe. Ngay cả một anh thu thuế oai vệ trước một đống tiền, đã dám quẳng lại tất cả để bước theo Ngài. Đám đông sau khi lắng nghe Ngài giảng đã quên đi mọi mệt nhọc, gác lại những cơn đói cồn cào ruột gan, và bù lại, Đức Giêsu đã nhân bánh và cá ra nhiều để cho họ ăn no nê. Những người đau yếu cố sức chen lấn để được sờ chạm đến Ngài, bởi vì tất cả những ai đến với Ngài đều có thể trải nghiệm sự bình an trong tâm hồn.
Một Trái tim hiền lành và Khiêm hạ
Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta rất cần phải hướng về tình yêu cao cả và tuyệt vời ấy. Chúng ta đang sống trong một thế giới quá ồn ào, ồn ào vì những thông tin hổ lốn tràn ngập trên mạng của thời đại kỹ thuật số, ồn ào vì quá nhiều những tiếng động ầm ĩ của giết chóc và bạo lực, và nhất là ồn ào vì những tiếng xào xạc của tiền bạc kéo lôi con người vào một lối sống ích kỷ và hưởng thụ. Chúng ta cần sự tĩnh lặng và nghỉ ngơi. “Hãy học với Ta, vì Ta có một con tim hiền dịu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi an bình.” Trái tim Đức Giêsu chính là chân trời rộng mở của tình yêu, một tình yêu sâu xa và cao cả nhất mà Thiên Chúa đã hiến trao cho nhân loại.
Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Ngài cũng không đến nhằm quảng bá một học thuyết hay cổ súy một chủ nghĩa. Ngài đến chỉ với một mục đích và một sứ mạng duy nhất mà Chúa Cha đã trao phó, đó là công bố cho nhân loại một Tin mừng, Tin mừng về việc Thiên Chúa yêu thương loài người. Cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá là cách diễn bày tình yêu Thiên Chúa một cách tròn đầy và hoàn hảo nhất. Trong cuộc sống tại thế, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, có tên gọi là ‘Mái trường của tình yêu’. Ngài đã quy tập những người học trò để truyền đạt một môn học duy nhất, cũng chính là môn học về tình yêu. Ngài nhắc đi nhắc lại “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Cứ dấu này mọi người nhận biết anh em là môn sinh của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu ấy được phác vẽ nơi Trái tim của Ngài, một trái tim bị đâm thâu trên Thập giá, đã tuôn chảy cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng để trao ban đến vô tận. Trong bữa tiệc ly, môn đệ Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa để lắng nghe từng nhịp đập nơi trái tim yêu thương của vị tôn sư khả kính. Cũng dưới chân Thập giá khi đứng bên Đức Maria, Gioan đã chứng kiến trái tim Chúa mở toang khi bị người lính đâm thủng, để ông có thể chiêm ngắm một dòng suối yêu thương tuôn chảy cho đến bất tận. Vì thế, trong sách Tin Mừng thứ tư và trong cả ba lá thơ Thánh Gioan để lại, hầu như Ngài chỉ nói về một chủ đề duy nhất, đó là Tình yêu.
Tình yêu phổ quát
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta không loại trừ ai, cho dù người đó như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay yêu thương của cha nó ôm đón khi trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình lặng ngồi bên chân Chúa để được Ngài đưa dẫn vào thế giới ngập tràn yêu thương. Thậm chí một tên cướp khét tiếng với quá khứ đan kín tội ác, vẫn có thể là một vị đại thánh, được Đức Giêsu mở cửa Thiên đàng trực tiếp đưa đón vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc con người.
Con người ngày hôm nay dễ bị chết vì đột quỵ do suy tim. Con tim bị suy yếu do căng thẳng, do sợ hãi, do chán chường hay do tuyệt vọng. Nơi mỗi người chúng ta đều có một quả tim dễ mang những mầm bệnh chết người này. Đây là những căn bệnh thể lý. Nhưng có những căn bệnh trong tâm hồn còn nguy hiểm hơn rất nhiều. Nếu chúng ta sống với một trái tim bế tắc trong cô đơn hay tuyệt vọng, hoặc nếu chúng ta mang chở nơi mình một trái tim nhét đầy dao găm và lưu đạn của oán thù, một trái tim rỗng tuếch thiếu vắng sự thương cảm nhưng lại nhét đầy sự tham lam và ích kỷ, chúng ta sẽ chết với một quả tim bệnh hoạn như thế. Chúng ta sẽ ngã xuống không phải vì heart-attack, vì đột quỵ hay suy tim, nhưng sẽ chết trong vũng bùn nhớp nhúa của tội lỗi.
Kết luận
Để tinh luyện con tim mình, chúng ta hãy nhìn lên Thập giá Đức Giêsu, chiêm ngắm trái tim của Đấng bị đâm thâu để học nơi Ngài bài học căn bản nhất như Ngài đã nói : “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có một trái tim hiền dịu và khiêm hạ”. Chúng ta phải học, học mãi, và ngồi học nơi ngôi trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể học hết chữ để tốt nghiệp.
Cử hành Thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lại khung cảnh chiều thứ sáu Tuần thánh. Rốt cuộc, cực hình của Chúa trên Thập giá dù sao cũng chấm hết. Kẻ thù ra về hãnh diện như là đã chiến thắng vì việc làm của họ. Chúa vẫn cứ yên lặng và rồi những yên lặng kéo theo: Chúa bị vu cho là người phá rối và đã bị nhà cầm quyền loại trừ. Đám đông dân chúng bỏ đi và chỉ còn lại tiếng thổn thức não nề của Maria, của Maria Mađalena và của những phụ nữ đạo đức khác. Rồi tiếng ngựa phi của những anh lính vừa hoàn thành phận sự mà họ phải làm. Họ đánh dập ống chân 2 tên trộm cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, rõ ràng là người đã chết, nếu có đánh dập ống chân Người cũng vô ích. Nhưng để an tâm hơn, một anh lính không biết tên gì đã thực hiện một hành động có tính biểu tượng cao cả, đó là lấy đòng đâm thủng trái tim Người. Thế là “Máu và nước chảy ra”.
Như vậy, Thánh lễ hôm nay, Giáo Hội chỉ cho chúng ta thấy Trái Tim Chúa qua một cuộc hẹn gặp trong giờ phút khổ nạn của Người. Trái Tim đã mở, đã há ra và chẳng còn gì nữa! Tất nhiên không phải là Giáo Hội đòi hỏi chúng ta phải tôn kính trái tim tan nát ấy, nhưng là suy tôn tình yêu bao la của Chúa Giêsu đối với nhân loại. Một tình yêu mà Người không thể làm được gì hơn. Một tình yêu mà Người không thích trình diễn bằng những pha đẹp mắt của những vị anh hùng hảo hán. Tình yêu đó là: xuống thế làm người, mặc lấy tất cả những điều kiện sống của một con người, chất đầy những đau khổ, yếu đuối và giới hạn vào thân. Phải trở nên thân phận của một con người tội lỗi và bần tiện. Người muốn biết điều mà không bó buộc phải biết: đó là cái chết của một người trong những điều kiện khó khăn nhất, chết trần truồng trên thập giá. Người còn trở nên tấm bánh: bánh có thể sử dụng được, bánh ấy cũng có thể bị trao ban trên tay bẩn thỉu của những người thiếu lòng kính cẩn, hoặc trên tay những người có trái tim ô uế mà họ không muốn nhận ra tội lỗi của mình.
Để làm cho chúng ta dễ hiểu tình yêu của Người, Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh để mô tả: Người là bạn trung thành, hiện diện hằng ngày và rất gần chúng ta nơi Bí Tích Thánh Thể. Người là mục tử quan tâm đến từng con chiên và sẵn sàng chết để bảo vệ đàn chiên. Người là anh Cả, là con đường để về cùng Cha. Qua Người, chúng ta biết tình yêu rộng mở của Chúa Cha.
Vâng, Người có thể làm được gì hơn nữa để chứng tỏ tình yêu của Người? Người là Trái Tim hay yêu mến: Trái Tim thịt của Người có khả năng dốc cạn đến giọt máu cuối cùng. Trái tim Người mặc khải cho chúng ta không phải là một tình yêu nhạt nhẽo và đãi bôi, nhưng là một tình yêu mạnh mẽ, quảng đại và biếu không. Tất cả các nhịp đập của trái tim Người chỉ là lo cho chúng ta được nghỉ ngơi, bằng an, thanh thản, vì Người dịu hiền và khiêm nhường thật trong lòng.
Đối diện với Tình Yêu khôn lường của Người, nhân loại chúng ta thường chỉ đáp lại bằng sự lãnh đạm thờ ơ như chúng ta vẫn thường đọc trong kinh đền tạ Trái Tim: “Lạy ơn ĐCG rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi”:
Chúa Giêsu như một con người bị đầy đoạ. Người chiếm chỗ nào trong trái tim chúng ta? Người có được chúng ta yêu mến nhất trong đời không? Phải chăng Người là kẻ đi sau tiền tài, danh vọng của chúng ta? Nếu có món lợi nào, thì chúng ta sẵn sàng bỏ lễ chủ nhật và lễ trọng. Mỗi một ngày sống chúng ta giành cho Người mấy phút để trò chuyện.
Người còn bị xuyên tạc và bóp méo. Rất nhiều bộ phim và sách vở đã bôi nhọ hình ảnh Người. Ngay cả những người tín hữu chúng ta đã cho Chúa hình ảnh nào khi chúng ta hận thù chia rẽ và ghen ghét nhau? Biết bao lần Chúa Giêsu đã bị bóp méo và xuyên tạc trong thân thể của Người là Giáo Hội khi Giáo Hội bị phê phán cách này cách khác? Biết bao người tín hữu chúng ta cảm thấy ách của Chúa quá nặng nề và sợ sệt những đòi hỏi của Chúa. Biết bao người tín hũu chúng ta bôi nhọ Chúa vì đi đàng tội lỗi bỏ mà không tin rằng Chúa Chúa sẵn sàng tha thứ cho họ.
Chúa Giêsu bị lãng quên. Một điều trầm trọng nhất và cũng thường gặp nhất, đó là sự thờ ơ của con người trước tình yêu vô vi lợi của Chúa. Người ta nói rằng Chúa Giêsu chỉ quan trọng và cần thiết khi Người đem lợi nhuận cho họ. Chúa Giêsu chiếm chỗ nào trong những xã hội đã bị tục hoá? Người có chỗ nào trên truyền hình? Có bao nhiêu phần trăm người Kitô hữu đi lễ ngày chủ nhật? Bao nhiêu người có đạo bắt đầu ngày sống của mình bằng những lời cầu nguyện sốt sắng và chân thành hướng về Chúa Kitô? Bao nhiêu người năng đến với Bí Tích Giải tội để xin ơn tha thứ? Trong số những người lên Rước lễ, có bao nhiêu người biết phân biệt đích thực đó là chính Chúa Giêsu mà họ sẽ phải sống kết hợp mật thiết với Người ?
Ngày lễ hôm nay chúng ta hãy hồi tâm để kiểm điệm Đức Tin của mình! Hãy tin thật vào Tình Yêu Thiên Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã ban! Đừng giống như những đứa trẻ không bao giờ cám ơn cha mẹ về của ăn cũng như áo mặc mà cha mẹ chúng cung cấp cho.
Chúng ta hãy tin rằng Tình Yêu của Chúa Kitô cao cả đến nỗi Người cũng có khả năng quên đi sự vô ơn tệ bạc của mỗi người chúng ta. Tình Yêu của Người như điên rồ và mù quáng đến nỗi không thấy sự thờ ơ và lãnh dạm của chúng ta.
Không do dự và cũng chẳng còn cách nào khác, hãy bình tĩnh đặt lại vấn đề và kêu kêu lên Chúa “Xin ban cho chúng con một quả tim mới, huỷ bỏ quả tim chai đá của chúng con đi. Đừng để trái tim chúng con khép kín trước anh chị em chúng con, khi mà Trái Tim Chúa vẫn luôn rộng mở và không mỏi mệt!
31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ TỪ LỄ THÁNH TÂM ĐẾN LỄ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
Lòng sùng kính Thánh Tâm là sự tôn kính đặc biệt đối với tình yêu của Chúa Giê-su, hiện thân tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Đức Giê-su cũng đã biểu lộ tình yêu tột cùng với các môn đệ nên trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến tấm bánh không men dùng trong bữa tiệc chiên trở thành Thân Mình của Người sắp bị nộp vì tội lỗi nhân loại. Rồi Ngừoi cũng đọc lời truyền phép để biến chén rượu nho trong bữa Tiêc Ly trở thành chén Máu thánh của Người sắp đổ ra để đền tội cho nhân loại. Bí tích Thánh Thể biểu lộ tình yêu của Chúa Giê-su, được diễn tả cách rõ nét khi trên cây thập giá, Đức Giê-su còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn trúng trái tim và Máu cùng Nước đã chảy ra từ vết thương này, như đồ đệ Gioan đã làm chứng đã nhìn thấy và ghi chép trong sách Tin Mừng (x. Ga 19,34-35). Máu và Nước đó đã tuôn trào để tẩy rửa tội lỗi của loài người và cũng để ban ơn cứu độ và giao hòa loài người với Thiên Chúa.
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su đã có từ thế kỷ XI. Nhưng mãi đến thế kỷ XVI, lòng sùng kính này vẫn chỉ mang tính riêng tư, gắn với lòng sùng kính Năm Dấu Thánh của Chúa. Mãi đến ngày 31-8-1670 Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mới được cử hành tại Rennes nước Pháp, nhờ công khó của Thánh Jean Eudes (1602-1680). Từ Rennes, lòng sùng kính Thánh Tâm đã lan truyền đi nhiều nơi, nhưng phải chờ đến thánh nữ Margarette Marie Alacoque, lòng sùng kính Thánh Tâm mới có điều kiện lan rộng đi khắp nơi trên thế giới.
Trong những lần được thị kiến thấy Chúa Giê-su, thánh nữ MARGARETTE MARIE ALACOQUE đã được Người mặc khải về hình ảnh một Trái TimcủaChúa Giê-su có ngọn lửa và vòng gai quấn quanh. Lần hiện ra quan trọng xảy ra vào ngày 16-6-1675, Chúa Giê-su đã hiện ra yêu cầu Thánh nữ Margarette xin với giáo quyền cho cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su vào ngày thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, để đền bù sự vô ơn bạc nghĩa của loài người đối với tình yêu vô cùng và sự hy sinh cao cả của Chúa Giê-su. Thánh Tâm không những là biểu hiệu của một trái tim thể lý mà còn biểu hiệu tình yêu thương vô biên của Chúa đối với nhân loại.
Lòng sùng kính Thánh Tâm đã được phổ biến từ sau khi Thánh nữ Margarette Marie Alacoque qua đời vào năm 1690, nhưng phải mãi đến năm 1765, lễ Thánh Tâm mới được cử hành chính thức tại nước Pháp. Gần 100 năm sau (1856), ĐGH Piô IX đã truyền mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa cho toàn thể Hội Thánh theo đề nghị của Hội đồng Giám mục Pháp. Thánh Thể và Thánh Tâm đều là Nguồn Tình Yêu vô biên của Chúa Giê-su, Đấng đã yêu thương nhân loại tội lỗi đến cùng, đến nỗi bằng lòng chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá để đền bù tội lỗi của họ và ban ơn cứu độ cho họ.
Ngày nay, Chúa Giê-su cũng đã mặc khải về Lòng Thương Xót của Người cho Thánh nữ FAUSTINA KOWALSKA người Ba Lan (1905-1938). Người cũng yêu cầu thánh nữ hãy xin với giáo quyền thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương Xót bằng những lời sau: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Lễ kính Lòng Chúa Thương Xót đã được đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II người Ba-lan chính thức thiết lập vào ngày 30/4/2000 và truyền mừng trọng thể lễ kính Lòng Chúa Thương Xót trong toàn thể Hội Thánh vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm.
Gần đây, Đức thánh cha Phanxicô tyuyên bố sẽ chính thức mở Năm Thánh Kính Lòng Chúa Thương Xót (2016)để tạo cơ hội cho các con cái Hội Thánh khám phá những nét mới mẻ của Lòng Chúa Thương Xót, kín múc dồi dào những hồng ân đang tuôn trào từ nguồn suối vô tận là Trái Tim rất thánh của Chúa Giê-su. Trong Năm Thánh này, hãy để cho Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa thanh tẩy và nhào nắn chúng ta nên những tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót, nhờ đó lòng tràn ngập niềm vui chúng ta sẽ đủ tự tin ra đi để chia sẻ tình thương của Chúa đến cho mọi người.
2) MƯỜI HAI LỜI HỨA CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Để khuyến khích mọi người hiểu biết lợi ích của việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, Người đã hứa với Thánh nữ Margarette Marie Alacoque sẽ ban những ơn ích thiêng liêng cho những ai sùng kính Thánh Tâm như sau:
1-Ta sẽ ban cho họ mọi ân sủng cần thiết trong đời sống. 2-Ta sẽ ban bình an cho gia đình họ và sẽ tái hợp các gia đình đã ly tan. 3-Ta sẽ an ủi họ trong mọi lúc khó khăn. 4-Ta sẽ là nơi họ trú ẩn khi sống và trước khi chết. 5-Ta sẽ ban Phép Lành Nước Trời trên công việc của họ. 6-Các tội nhân sẽ tìm được Nguồn Thương Xót vô hạn nơi Thánh Tâm Ta. 7-Các linh hồn lạnh nhạt sẽ trở nên nhiệt thành. 8-Các linh hồn nhiệt thành sẽ mau đạt tới sự trọn lành.
9-Ta sẽ chúc lành cho nơi nào trưng bày và tôn sùng linh ảnh Thánh Tâm Ta, và Ta sẽ ghi dấu tình yêu của Ta vào lòng những người đeo hình Thánh Tâm Ta. Ta cũng sẽ phá hủy mọi sự rối loạn nơi họ.
10-Các linh mục nhiệt thành tôn sùng Thánh Tâm Ta thì Ta sẽ ban cho họ ơn hoán cải các linh hồn chai cứng nhất.
11-Những người truyền bá lòng tôn sùng này sẽ được ghi tên trong Thánh Tâm Ta, không bao giờ phai nhòa.
12-Ta hứa với lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Ta rằng những người rước lễ vào Thứ Sáu Đầu Tháng trong 9 tháng liên tiếp, tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ ban cho ơn ăn năn trở lại trong cuối đời: Họ sẽ không chết trong tình trạng thất sủng hoặc không được lãnh nhận các bí tích. Thánh Tâm Ta sẽ là nơi trú ẩn an toàn cho họ trong giờ sau hết.
Lời Chúa hứa luôn chắc chắn. Hãy tin tưởng và hãy dành 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, nghĩa là thực hành việc tôn sùng và yêu mến Thánh Tâm Chúa Giê-su liên tục và rước lễ trong 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng.
3) SỨC MẠNH CỦA ẢNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Vào năm 1597 lệnh cấm đạo Công giáo trên đất Nhật xảy ra gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố.
Tại vùng ODAWARA, Kamakura, người ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng và giải về Tokyo. Quan đại thần TSUKAMOTO lấy từ trong đống ảnh đạo một bức ảnh Thánh tâm Chúa Giê-su. Ông nói: Người gì đâu lại để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế và thích tìm hiểu. Ông cầm bức ảnh trái tim Chúa coi qua rồi vứt vào trong sọt rác. Nhưng đến tối khi đi ngủ, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn phải có một ý nghĩa nào đó. Ông ra nhặt lại bức ảnh trên để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà ông vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ sau: ”đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”.
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim Chúa trên bàn làm việc cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên OSAKI đến chơi, thấy bức ảnh liền hỏi :
– Này anh bạn. Anh lại thích ảnh tượng của bọn tả đạo rồi sao ?
– Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn
hóa và nhân đạo thì tôi lại thấy rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình, hành động cùng lối xử thế của Kitô giáo. Tôi xin tạm giải thích như sau: Đối với tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên người theo đạo mới vẽ trái tim ra ngoài cơ thể… Nghĩa là phải đem hết tình yêu nơi trái tim mà phục vụ xã hội và giúp ích cho đời; còn về phần mình thì chấp nhận hy sinh, không lo riêng cho bản thân, diệt trừ cái ngã vị kỷ. Đem hết tình thương ra giúp đời giúp người.
Trong bức ảnh này tôi nhận thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Đức Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng Tử, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão Tử, mạnh mẽ hơn cái Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản chúng ta. Một tôn giáo dạy phải phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là sự ngay chính của cả Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt tinh thông của ông bạn. Ông không ngờ Đạo Công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu đến như vậy. Từ đó hai ông đã trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm đón nhận phép rửa tội, và vận động triều đình thả hai linh mục ra.
(Trích trong: Hạt giống nảy mầm).
THẢO LUẬN:
1) Thánh Tâm Chúa Giê-su đã biểu lộ tình yêu tột cùng đối với loài người chúng ta thế nào ?
2) Mỗi người chúng ta cần làm gì để thể hiện tình yêu đối với tha nhân hầu đáp lại tình yêu vô biên của Chúa Giê-su đối với chúng ta ?
SUY NIỆM:
1) Ngọn lửa yêu mến phát xuất từ Thánh Tâm Chúa Giê-su:
Chúa Giê-su đã nói về lửa yêu mến của Người: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Ngọn lửa yêu thương của Chúa cần được bùng cháy lên trong tâm hồn các tín hữu. Trên cây thập giá Người đã nói: “Ta khát” (Ga 19,28), Ngài khát tình yêu của chúng ta và Người đã yêu thương chúng ta. Ngôn sứ Hôsê tuyên sấm về tình yêu của Đức Chúa như sau: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (x. Hs 11,8). Chúa Giê-su đã chứng tỏ tình yêu tột cùng của Người đối với chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Người yêu thương chúng ta vô điều kiện, yêu ta ngay khi chúng ta đang còn là tội nhân (Rm 5:8) và yêu đến tột cùng (ga 13:1). Người muốn chúng ta học nơi Người về phong cách yêu thương là đối xử dịu hiền và khiêm tốn phục vụ người mình yêu: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29). Chúng ta không thể không yêu thương vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Ngày nay chúng ta không thể đến được với Thiên Chúa Cha nếu không đi con đường Giê-su là yêu thương chia sẻ hạnh phúc cho tha nhân: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Người đến để yêu thương là “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:9-10).
2) Sức mạnh của lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa:
Lửa có đặc tính kỳ diệu: Lửa có vẻ mềm yếu nhưng cũng có sức mạnh to lớn– mạnh hơn mọi thứ sức mạnh. Một đốm lửa nhỏ có thể dập tắt dễ dàng bằng một làn gió nhẹ, nhưng một ngọn lửa lớn thì không dễ gì dập tắt được. Gió càng lớn lại càng làm cho ngọn lửa bùng cháy mạnh hơn. Lửa khi được chia sẻ ra nhiều không hề giảm bớt sức mạnh mà càng nhân sức mạnh thêm lên nhiều! Lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa Giê-su cũng có sức mạnh như vậy. Ai yêu mến Chúa và kết hiệp với Chúa thì sẽ được Người thông ban ngọn lửa yêu mến có tác động kỳ diệu đến những tâm hồn khô khan nguội lạnh như vậy.
3) Thánh Thể gắn liền với Thánh Tâm:Trong tuần Chúa Nhật lễ kính Thánh Thể Chúa Giê-su, Hội Thánh cũng mừng kính Thánh Tâm Chúa vào ngày thứ sáu.
Khi diễn tả tình yêu, người ta thường dùng hình ảnh trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu. Qua đó cho thấy: Yêu là CHO nhiều hơn NHẬN! và mọi người đều muốn yêu và được yêu. Con tim có những lý lẽ riêng mà lý trí không thể hiểu biết được, như lời thánh Phao-lô trong thư Rô-ma: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).
4) Sống yêu thương bằng việc quảng đại chia sẻ cho đi:
Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta qua việc chậm giận và hay tha thứ, ở lại trong tình yêu của Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ điều răn của Chúa.
Tác giả thánh vịnh 103 diễn tả tình yêu của Chúa cụ thể như sau: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8 và 10).
Thánh Gio-an cũng khuyên các tín hữu yêu thương nhau như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8).
Thánh nhân cũng mời gọi các tín hữu yêu thương nhau: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau… Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:15-16).
Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là tín thác mọi sự cho lòng thương xót của Người, tin Chúa bằng cả con người của chúng ta chứ không chỉ bằng môi miệng bề ngoài. Chúa Giê-su luôn mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Yêu ai thì làm theo ýngười đó, muốn cho người ấy được vuivà muốn nên giống người ấy.
Tình yêu của Chúa Giê-su đã được Người diễn tả qua hình ảnh “TRÁI TIM BỊ ĐÂM THÂU”. Vì thế, Người đã bày tỏ cho thánh nữ Ma-ga-ri-ta (thế kỷ 15) hình ảnh “TRÁI TIM CÓ LỬA VẤN VÒNG GAI” chung quanh và truyền cho Ma-ga-ri-ta hãy truyền bá rộng rãi ảnh này khắp nơi.
LỜI CẦU:
“Ôi Giêsu, tình yêu của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con; ơn gọi của con là tình yêu…Vâng lạy Thiên Chúa của con. Giữa lòng Hội Thánh, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả và giấc mơ của con sẽ mỹ mãn”… “Xin ban cho con tình yêu của Chúa, con vui lòng làm hy tế cho tình yêu, nghĩa là, nhận lấy tất cả tình yêu mà người khác không muốn lãnh nhận, bởi vì họ không để cho Chúa yêu họ theo cách Ngài muốn”. (Theo thánh Tê-rê-sa HĐ)
Trái tim là phần quan trọng nhất và quí giá nhất của con người, là cơ quan sống động và chuyển động không ngừng trong con người. Đó là trái tim tự nhiên. Thế nhưng trong con người, còn có một trái tim thứ hai, mà chúng ta gọi là Tấm Lòng. Với ngôn ngữ Anh hay Pháp, người ta gọi chung một tên là Heart hay Coeur. Những ai có tấm lòng thì trái tim cũng sẽ thao thức, đau khổ và cũng sẽ yêu mãnh liệt. Vì Tình yêu và Trái tim đồng nghĩa.
Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô như là một sự kính nhớ Tình Yêu của Chúa và Tình yêu cụ thể đó là Cuộc Thương Khó của Người. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên khi yêu nhân loại, trái tim Chúa cũng đau khổ suốt cả cuộc đời nơi trần thế và mãi đau khổ vì sự vô ơn bội nghĩa của con người. Không có đau khổ nào sánh bằng đau khổ vì bị phản bội tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta tha thiết và muốn yêu chúng ta đến cùng nên Người cũng phải đau khổ nhiều. Nhưng đau khổ vì yêu thương của Chúa thật cao đẹp và tuyệt vời vì chính Chúa chọn chết vì yêu chúng ta “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.”(Ga 10,18)
Trái Tim Chúa Giêsu yêu tất cả nhân loại nhưng Chúa yêu và quan tâm, chăm sóc từng người chúng ta cách cá nhân. Chính vì thế, Chúa đã không vì chín mươi chín chiên trong đàn mà bỏ một chiên lầm lạc nhưng trái lại, Người để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất.(x. Lc 15,4) Đối với Chúa, một bằng chín mươi chín, vì mỗi người có một giá trị cao quí. Trái tim của Mục Tử Giêsu không thể yên khi ở với đàn chiên trên cánh đồng an bình, trong khi đó còn có những chiên lạc, chiên xa đàn. Người dõi theo và thao thức khi những chiên đau bệnh, ngây ngô lầm lạc ấy bỏ đi. Lòng Thương Xót của Chúa đã muốn đếm hết mọi người chúng ta và lo lắng, đau khổ cho mỗi người “Chính Người đã mang lấy các bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta.“( Is 53,4)
Trái tim không đau khổ, không thổn thức đó là trái tim không yêu. Còn Trái Tim của Chúa chúng ta thì luôn luôn gắn liền với Thánh giá. Thế nên khi Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Margarita Alacoque, trên tay Người cầm trái tim quấn vòng gai với hai vết thương chiếu sáng hai tia lửa yêu và Chúa nói “Đây là Trái Tim đã yêu thương loài người quá đỗi.” Trái tim Chúa đã yêu nhiều nhưng chỉ nhận được sự xua đuổi, lạnh nhạt và vô ơn. Chính chúng ta, những Kitô hữu lẽ ra là những chiên tốt lành, ở bên cạnh và an ủi, đền tạ, yêu mến và làm vinh danh Người; nhưng ngược lại, đời sống của ta, tội lỗi của ta đã xúc phạm đến Chúa, nhất là những tội từ trái tim, từ tình yêu của ta đã như thêm gai nhọn, thêm giấm chua vào Thánh Tâm Chúa.
Mặc dù Tình yêu của Thiên Chúa không được đền đáp, nhưng Trái Tim Chúa vẫn tiếp tục yêu và nghĩ đến những ai rời bỏ Người. Chúa yêu những người không yêu Chúa và Chúa lên đường tìm kiếm con cái của Người đang tản mác khắp nơi, để chỉ mong chúng cảm nghiệm được tình trìu mến của Người mà hoán cải và trở về. Bởi vì đi tìm là đã yêu, đã tha thứ và thương xót vô hạn. Thế nên, khi tìm được rồi, bất chấp tất cả, Mục Tử rất đỗi vui mừng “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.”( Lc 15, 5) Không chỉ công kênh trên vai đưa về, mà còn mở tiệc mời hàng xóm ăn mừng chia vui. Ôi, một hình ảnh kỳ diệu mà chúng ta cần mãi chiêm ngắm. Chính Thiên Chúa, Cha của chúng ta, luôn đối xử với mỗi người chúng ta như vậy. Niềm vui của Chúa là tìm thấy chúng ta, những người con lạc lối.
Thiên Chúa và cả Nước Trời có chung một niềm vui. Niềm vui ấy bừng tỏa chỉ “Vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15,7) Chỉ một người mà quan trọng hết sức đối với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Người không an lòng ngồi đó chờ đợi chúng ta trở về nhưng là nóng lòng đi tìm. Đó là Trái Tim của Thiên Chúa- Trái tim thổn thức khôn nguôi.
+ Còn đối với chúng ta, chúng ta có quan tâm đến việc cứu độ con người, đến sứ mạng cứu rỗi mà Chúa cũng trao cho mỗi Kitô hữu tiếp nối cánh tay và chương trình Cứu độ của Người hay không? Trái tim của chúng ta có phần nào giống Trái Tim Chúa Giêsu, cùng nhịp đập yêu thương, thao thức khôn vơi khi còn biết bao anh chị em ta chưa biết Chúa hay còn đang lầm lạc bỏ Chúa? Chúng ta được trao sứ mệnh và được sai đi để tìm kiếm những ai bị mất. Vậy ta có nhiệt tâm tìm kiếm, tạo cơ hội và giúp đỡ anh chị em ta nhận ra tình yêu của Chúa và trở về với Người không?
Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ và xót thương bao la của Thiên Chúa “Trái Tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.”(Hs 11, 8) Người luôn tìm kiếm và cứu chữa bởi bản tính của Người là “Nhẫn Nại và Xót Thương.” Khi đến trần gian, mối bận tâm của Chúa Giêsu “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”( Lc 5,32). Chính vì thế, Chúa Giêsu – Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng cho đoàn chiên, chỉ mong cho chiên được sống và sống dồi dào bằng chính sự sống của Người.
Là chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi ở lại trong tình yêu của Chúa và tin tưởng vào lòng xót thương chăm sóc của Chúa. Hãy tín thác cuộc đời ta trong cánh tay yêu thương của Mục Tử Giêsu và “Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em“(1Pr 5,7) Đồng thời ta hãy học nơi Thánh Tâm yêu thương nhân từ của Chúa, để chính ta cũng biết trao tặng tình yêu thương cho tha nhân cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của ta bằng việc cầu nguyện cho người tội lỗi; bằng bác ái, chia sẻ, cảm thông, tha thứ… Vì tất cả những gì phát xuất từ con tim đong đầy tình yêu Chúa thì nhất định sẽ là men, muối và hấp dẫn, lôi kéo đem nhiều anh em trở về với đoàn chiên và với Thánh Tâm trìu mến dịu dàng của Chúa chúng ta.
Hôm nay, ngày thánh hóa các Linh Mục. Chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho các ngài được Thánh Tâm Chúa Giêsu yêu mến, che chở và biến đổi để các ngài thực sự là những Mục tử mang trọn vẹn hình ảnh, khuôn mặt, trái tim của Chúa Giêsu. Cầu mong cho từng lời rao giảng, mỗi lời nói và trong mọi hoạt động của các ngài luôn thấm đẫm tình yêu và lòng nhân hậu. Cầu xin cho các Linh Mục có trong mình trái tim thổn thức của Chúa với những chiên lạc, chiên xa đàn và lo lắng nhiệt thành đi tìm kiếm. Cầu khẩn cho các ngài luôn hết lòng chú ý đến những chiên đau bệnh, chiên nhỏ bé và những nỗi khốn cùng của họ.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót tất cả chúng con và xin đổ đầy tình yêu của Chúa vào mỗi con tim chúng con. Amen.
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị chìm dần dưới lòng đại dương.
Hành khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng hát vang lên:
- Gần bên Chúa, linh hồn con sướng vui.
Với chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vui mừng và hạnh phúc.
Có lẽ không một lời nói nào của Chúa làm cho chúng ta xúc động bằng lời nói đầy yêu thương sau đây: - Này con, con hãy dâng lòng con cho Cha.
Khi nghe đọc những lời này, chúng ta dường như cảm thấy Chúa đang gõ cửa, đang dang tay van xin chút tình yêu thương của chúng ta.
Thực vậy, Ngài không phải chỉ van xin bằng lời nói, mà Ngài còn thực hiện sự van xin ấy bằng những việc làm cụ thể. Máng cỏ, Thập Giá và Thánh Thể đã chẳng phải là những bằng chứng hùng hồn nhất của một tình yêu điên khùng và mạnh mẽ đó sao?
Đúng thế, mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, khi quì bên máng cỏ, chúng ta không bồi hồi xúc động sao được. Hài nhi Giêsu nằm trên lớp cỏ rơm, không nói với chúng ta bằng ngôn từ, nhưng nói với chúng ta bằng việc làm, bằng chứng tích cụ thể của tình yêu:
- Con thấy không Cha đã yêu thương con biết bao, chính vì yêu con mà Cha đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống đất. Cha đã đến trong thế gian, chỉ vì yêu thương con mà thôi.
Rồi trong những phút giây thinh lặng ấy, chúng ta hãy ngước nhìn lên Thập Giá và tự hỏi:
- Ai đã chịu treo trên đó?
- Con Thiên Chúa.
- Tại sao Ngài lại chấp nhận một cái chết tủi nhục và đớn đau như thế?
- Chỉ vì yêu thương chúng ta mà thôi.
Thực vậy, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống nghèo túng và cực nhọc. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu đánh đòn, chịu đội mạo gai và sau cùng chịu đóng đinh vào Thập Giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chịu lưỡi đòng đâm qua trái tim.
Suy nghĩ về cực hình Thập Giá, chúng ta phải kêu lên như thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Sau cùng, hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết về hình ảnh người mục tử nhân lành. Đúng thế, người mục tử nhân lành dẫn đàn chiên tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Và khi chiều xuống, người mục tử nhân lành đưa đàn chiên về chuồng để nghỉ qua đêm.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ về bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta còn trở vượt hơn tình yêu của người mục tử nhân lành rất nhiều.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thấy được những gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Cả Mình với Máu thánh. Cả thân xác với linh hồn. Cả bản tính nhân loại với bản tính Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng đáp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.
Và sau cùng, tước tình yêu thương vô biên của Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời nguyện cầu chân thành:
- Lạy Chúa, xin cho con biết làm mọi sự vì lòng yêu mến Chúa.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã giảng dạy cho mọi người và nhất là Ngài đã niềm nở tiếp đón những kẻ thu thuế và tội lỗi, ghé thăm và dùng bữa tại nhà họ. Đó là điều khiến cho bọn biệt phái và luật sĩ, vốn tự hào là những người đạo đức và trung thành tuân giữ lề luật, không thể nào chịu đựng nổi. Họ đã thì thầm bàn tán cùng nhau: – Nếu ông ta là một vị tiên tri, hẳn phải biết những kẻ ấy là hạng người nào. Hay ông ta chỉ là một kẻ mị dân, một tên quyến rũ, một phường vô lại mà thôi.
Để dạy cho những kẻ đạo đức giả, như bọn biệt phái và luật sĩ, một bài học về lòng Chúa xót thương, Ngài đã kể cho họ nghe mẩu chuyện về người mục tử nhân lành, lang thang đi tìm con chiên lạc. Và khi đã thấy được, người ấy đã vác nó trên vài mà mang về nhà, rồi loan báo tin vui cho bè bạn.
Hay mẩu chuyện người đàn bà đốt đèn tìm kiến đồng bạc đánh rơi. Và khi tìm thấy, người ấy đã mời chị em lối xóm đến để chia vui với mình.
Và nhất là với hình ảnh người cha già mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về, để rồi sẽ tha thứ tức khắc và tha thứ tất cả cho cậu.
Từ những mẩu chuyện trên, Chúa Giêsu đã đi tới một kết luận. Và chính kết luận này đã làm cho chúng ta cảm thấy được an ủi, khích lệ và thấm thía:
– Ta nói thật với các ngươi: các thiên thần ở trên trời sẽ vui mừng hân hoan vì một kẻ tội lỗi sám hối hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Những hình ảnh và những so sánh này đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn, giúp chúng ta hiểu được niềm vui khi một kẻ tội lỗi chổi dậy, từ bỏ con đường tăm tối mà trỡ về cùng Chúa, đồng thời thắp lên trong chúng ta ngọn lửa hy vọng, giúp chúng ta hiều được lòng Chúa xót thương đối với những kẻ lầm đường lạc lối.
Đức Kitô không phải chỉ giảng dạy, mà hơn thế nữa Ngài còn thực hiện những gì mình đã giảng và đã dạy. Nơi Ngài, ngôn hành hợp nhất, lời nói luôn đi đôi với việc làm.
Thực vậy, Ngài đã cải tạo trái tim của Madalêna, người thiếu phụ tội lỗi. Ngài đã tha thứ và để cho người đàn bà ngoại tình được ra về bình an. Ngài đã làm cho người thiếu phụ Samaria xúc động trước tấm lòng khoan dung. Ngài đã đổi đời cho ông Giakêu, một nhân viên thu thuế, vốn bị người Do Thái đồng hóa với phường tội lỗi. Ngài đã hứa thiên đàng cho tên trộm lành trên thập giá: ngày hôm nay, ngươi sẽ ở nơi vui vẻ cùng Ta. Ngài đã đặt Phêrô làm đầu Giáo hội, dù ông đã chối Ngài ba lần. Nỗi khổ đau của con người thì cùng cực, những tình thương của Chúa lại vô biên.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã đi theo dấu chân của Chúa, không ngừng tím kiếm những con chiên lạc, cũng như tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Chẳng hạn cha thánh Vianney đã chấp nhận mọi mệt mỏi, ngồi vào tòa giải tội nhiều giờ mỗi ngày để xoa dịu những tâm hồn tan nát vì tội lỗi. Thánh nhân thường nói:
– Thật là vui mừng nếu như có được những con cá lớn trong mẻ lưới của tôi. Những con cá lớn mà Ngài ám chí, đó chính là những kẻ tội lỗi.. Chẳng hạn cha Chevrier đã nói: – Linh mục là người bị ăn.
Và rồi cha đã vui vẻ tiếp nhận những thanh thiếu niên lầm lỡ, đã bị xã hội ruồng bỏ, dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt lành và đạo đức.
Gần chúng ta hơn, có những dòng tu, như Dòng Chúa chiên lành ở Vĩnh Long, đã mở rộng cánh cửa tiếp đón và nâng đỡ những chị em đĩ điếm, giúp họ làm lại cuộc đời. Hay như dòng Don Bosco, chuyên môn giáo dục thanh thiếu niên, nhất là những trẻ em bụi đời, để họ tìm thấy hướng đi cho cuộc sống của mình. Phải chăng đó là những phản ảnh, những tiếng vọng cho tình Chúa xót thương? Tuy nhiên, chúng ta cần phải tránh đi hai thái độ. Thái độ thứ nhất đó là cậy trông mù quáng. Những người này chủ trương cứ việc hưởng thụ, cứ việc vui chơi và chỉ cần ăn năn vào một vài giây phút cuối cùng và rồi Chúa sẽ mở rộng cửa thiên đàng đón nhận. Lý luận như thế là một sự xúc phạm, một sự chế nhạo và coi thường lòng thương xót của Chúa. Đây không phải là con đường dẫn tới thiên đàng, mà là con đường dẫn tới hỏa ngục, bởi vì Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, nhưng đồng thời còn là Đấng công bằng và ngay thẳng vô cùng.
Thái độ thứ hai đó là mất lòng cậy trông. Dù có sai lỗi và vấp phạm, thì cũng đừng bao giờ tuyệt vọng như Giuđa, bởi vì Chúa nhân từ luôn mở rộng vòng tay chờ đón. Ngài đã lên đường tìm kiếm chúng ta, những con chiên lạc. Ngài đứng ngoài cửa và gõ. Còn mở hay không, thì đó là việc của mỗi người chúng ta.
Hãy trỗi dậy và trở về để được hưởng nhờ lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa.
Mừng lễ Thánh Tâm hôm nay, Giáo Hội muốn con cái mình chiêm ngắm, suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và để theo chân Đức Kitô, ta cũng dám sống, và nếu cần, dám chết vì tình yêu đó.
Lòng Chúa yêu thương loài người Hình ảnh mà Êzêchiel và nhiều ngôn sứ khác đã phác họa là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm chiên không quản ngại đường xa vạn dặm, khó khăn khôn lường. Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định lại chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta, và đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong sự tội và bất tín. Thái độ lên đường tìm kiếm con chiên lạc của dụ ngôn hôm nay là một minh họa sống động cho chân lý ấy. Quả thật, Thiên Chúa yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt, hay vì một công trạng nào. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải tốt Ngài mới yêu thương, mà Ngài yêu thương ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài yêu thương chúng ta chỉ vì Ngài là tình yêu, chỉ vì Ngài tốt lành. Quả thật, tình yêu của Ngài là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm hạnh phúc của người được yêu. Chỉ một mình Thiên Chúa có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Tác giả sách “Đường hy vọng” đã có lý khi viết: “Tình yêu nhân loại giới hạn một nhóm người – Tình yêu nhân loại đáp trả sau – Tình yêu Thiên Chúa tình nguyện bước trước; Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình – Tình yêu Thiên Chúa hợp nhất muôn người; Tình yêu nhân loại chỉ động đến con người – Tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi và cải hóa con người”.
Trải qua 2000 năm của biến cố Nhập Thể, Chúa Giêsu đã cho con người thấy được mức độ của cuộc so sánh tình yêu thương đó chính là không cột mốc biên cương, không kỳ thị chủng tộc màu da, ngôn ngữ hay giai cấp. Tình yêu ấy là tình yêu của Thiên Chúa tự nguyện tặng ban cho nhân loại chính Con Một của mình, tình yêu của con Thiên Chúa hiến thân, Tình yêu là cho loài người trở thành con Thiên Chúa và làm anh em của Đấng cứu Thế. Tình yêu đó chính là nguồn gốc của sự sống và mục đích duy nhất mà con người phải nhắm đạt tới.
Quả thật, thái độ của Người là thái độ của một mục tử tốt. Người làm y như một mục tử chứ không ví mình như mục tử. Người muốn trong dân người chỉ có yêu thương: yêu thương của Người dành cho dân và cho từng người; và yêu thương của mọi người dành cho nhau. Đó là ý nguyện của Chúa, là chương trình cứu độ của Người. Chúa đã thực hiện lòng yêu thương đó thế nào, chúng ta hãy nhìn nơi Đức Kitô, Đấng Người đã sai đến.
Tình thương biểu lộ nơi lòng Đức Kitô Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ví Ngài như người Mục Tử Nhân Lành, đã bỏ 99 con chiên ở lại để đi tìm một con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì quên hết những nỗi vất vả cực nhọc do con chiên lạc gây ra cho mình, không trách mắng cũng không đánh đập, không cho là con chiên lạc lầm lỗi, trái lại đã vui vẻ vác chiên lên vai đưa về tận nhà. Về tới nhà, người ấy còn mời mọi người cùng chia sẻ niềm vui với ông nữa.
Hình ảnh người Mục tử Nhân Lành đã diễn tả tình yêu thương sống động và cụ thể của Chúa Giêsu. Tình yêu thương ấy có khi khó hiểu và khó chấp nhận đối với chúng ta cũng như với nhóm Biệt Phái ngày xưa. Bởi vì chúng ta thường ích kỷ, hẹp hòi, bủn xỉn… chính những người Biệt Phái xưa cũng đã từng phiền trách khi thấy Chúa Giêsu đón tiếp và cũng ăn uống với những người tội lỗi vì yêu thương họ? Quả thật, Ngài đã khẳng định một cách không thể hiểu khác hơn được: “Chỉ có bệnh nhân mới cần thầy thuốc” mà ở đây Chúa là thầy Thuốc, là Lương Y Từ Mẫu…mà các bệnh nhân đang mong đợi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã xác định mục tiêu Ngài theo đuổi trong cuộc sống: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”. Ngài không đến để xét xử luận phạt, nhưng là để cứu độ, để “cho họ được sống và sống dồi dào.
Trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, thái độ của người anh cả cũng hẹp hòi, bủn xỉn trước tình thương của người cha nhân lành. Anh ta không chấp nhận cho cha yêu thương đứa em đã có một quá khứ xấu xa, tội lỗi… không chấp nhận cho nó làm lại cuộc đời. Thái độ đó không phù hợp với Tin Mừng, với Trái Tim Chúa Giêsu, người Mục Tử Nhân Lành. Từ chỗ không hiểu tình thương của Chúa đối với người khác, chúng ta cũng có thể không hiểu tình thương của Chúa đối với chính mình. Đó quả là một điều tai hại! không hiểu thì không biết cám ơn và không biết đáp trả tình yêu của Chúa.
Tình yêu đáp trả tình yêu Chỉ một mình Thiên Chúa của Kitô giáo có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Chính vì thế mà đạo Công giáo được mệnh danh là Đạo Tình Yêu thương trong cuộc sống, thì người đó đánh mất chân tính của mình. Vì chưng, Chúa Giêsu đã không chỉ bộc lộ tình Thương nhân hậu của Cha, mà Ngài còn mời gọi chúng ta: “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót”, và còn đưa ra cho chúng ta một quy luật sống cụ thể: “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”. Trong cuộc sống, theo tâm lý chung thường chúng ta hay tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Tục ngữ đã có câu:
“Chân mình những lấm bết bê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.”
Quả thật, nếu chúng ta tự cho mình là công chính, từ đó tách biệt mình khỏi đám người tội lỗi, là vô tình chúng ta đã tự loại mình ra khỏi tình yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta với tất cả con tim cuả một Thiên Chúa làm người. Ngài luôn cảm thông tha thứ mọi yếu hèn cuả con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình là thánh thiện để rồi tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa: “chỉ có một mình Ngài mới có quyền xét xử”. Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn và tin tưởng đến với Ngài, hãy lắng nghe lời Ngài. Đừng bao giờ tìm cách che đậy tội lỗi để tỏ ra khỏi cần đến Ngài, đó là tự lừa dối mình một cách nguy hiểm. Hơn nữa, chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Chúa cách tìm đến với những người đã trót lầm lỗi, những người đang lạc đường , đang bơ vơ không có định hướng… để giúp đỡ họ , khích lệ họ, nói với họ một lời an ủi, dâng tăng họ một nụ cười tin yêu, đem đến cho họ niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, giúp họ thực tâm hối cải. Giờ đây, tiếp tục bước vào cử hành phụng vụ Thánh Thể, là hiện tại hóa sự chết của Đức Kitô, là biểu hiện tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, chúng ta hãy nhờ Đức Kitô để ca tụng và cảm tạ Chúa Cha, cảm phục tin tưởng xin ơn tha thứ cho chính mình và toàn thể nhân loại, xin ơn sám hối cho các tội nhân. Amen.
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ: Mỗi người với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 20.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số, điều bất ngờ không dừng ở đấy và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 20. 000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Edêkien với toàn thể dân Do thái: “Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới”. Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới. Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân. Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới, Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi đã trở thành người của thiên cổ, nhưng trong lòng yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa trái tim vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là đang sống và như vậy là đang lặn ngụp trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi. Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha, lọc hiềm thù để còn yêu thương, lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đem và chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống sẽ chết dần chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh thần đang đổi mới cuội đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa Người đang tháp nhập toàn bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng giòn yếu đuối này, tôi cần được tham dự vào sự sống của người.
Có một lần tại Huế, ghé thăm công viên điêu khắc, tôi chiêm ngưỡng một công trình mà tôi thấy là tuyệt. Trên một chu vi khoảng 2 mét chiều dài, 1 mét chiều rộng, như một tấm đan đặt trên ngôi mộ. Tác giả đặt những khối đá đứng như cõi hỗn mang, góc cạnh tấm đan một đôi giầy, giữa tấm đan là trái tim khắc nổi. Dưới chân khắc ghi 4 câu thơ:
“Hãy yêu như đang sống. Hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại. Sống để tình yêu có mặt.
Hình tượng cho tôi dòng suy nghĩ: Tình yêu làm hỗn mang trở nên màu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã cởi giầy để bước vào mầu nhiệm con người bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Người biết tôi mỏng giòn và là bình sành dễ vỡ nên Người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Và khiến đời tôi vẫn không ngừng tự hỏi: “Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm”. Người yêu thương tôi nhưng sao Người lại đặt trái tim của Người bên ngoài lồng ngực của Người?
Mùa thu năm 1978, người ta trưng bầy tấm khăn liệm Chúa để tôn kính công khai. Có thật là khăn liệm xác Chúa không? Không quan trọng! Điều tôi biết là những tấm ảnh mà tôi được trông thấy, đặc biệt in hình xác Người chết nằm trong khăn liệm, hình người này! “Đó là Người!” đẹp nhất trong con cái loài người! cũng là Người đẹp nhất của thời đại đó!
Tại sao không phải là Người? Tại sao Đức Ki-tô không phải là người có thể xác đẹp vô cùng để phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa!
Vẻ đẹp khêu gợi.
Người ta không thể lãnh đạm trước vẻ đẹp cường tráng này, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, không có chút gì là là thứ đẹp quyến rũ sắc dục . không phải là thứ vẻ đẹp đáng nghi ngờ. Người đẹp tinh toàn. Tại sao? vì Người hiền hậu, khiêm nhường trong lòng. Vì Người là hình ảnh của Chúa Cha!
Con Người này in lại trên tấm khăn liệm, chiếu tỏa sức mạnh này, tuyên dương sức hiền từ này, nói lên niềm trông cậy này vào Đức Ki-tô đang mời gọi chúng ta.
Mời hết mọi người , trẻ già nam nữ.
Những trẻ em, những trẻ nhỏ, cảm thấy an tâm đến với Đức Giê-su, Người không kinh ngạc, về những thói trẻ con của chúng. Thiên Chúa nói: “Không gì đẹp hơn một em bé ngủ say trong lời cầu nguyện của nó!”. (Péguy).
Các bà các cô thuộc đủ mọi tuổi yêu mến Người. Người kính trọng các bà các cô. Nếu chúng ta kể đến các tông đồ. Chúng ta cũng phải kể đến các bà trong Tin Mừng. Người ta biết rõ không chỉ có mấy bà trong số các môn đệ của Người đâu.
Các ông, các anh yêu mến Người, Người lôi cuốn, không để cảm phục những chiến công của Người, hay vì ham muốn những kết quả của Người. Họ chỉ vì yêu mến Người mà thôi! Họ không dám nghĩ bắt chước Người, nên giống Người. Nhưng chỉ mong tháp tùng Người, đi theo Người, khám phá trong đời sống mình con tim đã kêu gọi họ! không để sao y con tim Người, nhưng là để chúng ta trở nên những con tim Kitô khác.
Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.
Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:
- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.
Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.
Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.
Máu Chúa đem lại ơn tha thứ, như giòng nước tinh tuyền gột sạch tâm hồn chúng ta, đem lại sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau.
Nếu như tâm hồn chúng ta đang thất vọng chán nản vì tội lụy, nếu như tâm hồn chúng ta đang mang những vết thương cuộc đời, thì chúng ta hãy chạy đến với Chúa, để Người chăm sóc và băng bó, để Ngài chuyền máu mà cứu chữa. Bởi vì chỉ trong Người chúng ta mới biết được sống thực là gì.
Tiếp đến, chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chảy sang tâm hồn chúng ta và để trái tim chúng ta có chung một nhịp đập với trái tim Chúa.
Thực vậy, dù là ai chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được chia sẻ với trái tim Chúa, chúng ta vẫn được nghe nhịp đập của trái tim Chúa thổn thức như Gioan thuở trước. Nhân loại ngày nay đang cố gắng thay tim và ghép tim. Chúng ta cũng hãy đến với Chúa để Ngài đổi cho chúng ta một trái tim mới.
Đúng thế, có khi con tim chúng ta đã già nua và bệnh hoạn, trong khi tuổi đời vẫn còn trẻ. Có khi con tim của chúng ta đã bị chia năm xẻ bảy, trong đó Thiên Chúa chưa chắc đã có lấy được một phần nhỏ nhoi. Có khi con tim của chúng ta đã mệt mỏi và trở nên băng giá, không còn hăng hái nhiệt thành như thuở chúng ta mới biết Chúa và yêu Chúa. Có khi con tim của chúng ta đã ngoại tình, đã lang chạ, nghĩa là không còn trung thành với Chúa, trái lại đã xé rào để chạy theo những thần tượng giả dối như tiền tài, lạc thú và danh vọng.
Hãy hồi tâm, xét mình và kiểm điểm lại đời sống để xem tình trạng con tim mình như thế nào. Bởi vì không ai muốn mang lấy một trái tim bệnh hoạn, không ai muốn chấp nhận một trái tim bị chia xẻ.
Cựu ước đã diễn tả Thiên Chúa là Đấng hay ghen, cho nên Ngài càng không thể chấp nhận bệnh hoạn, chia sẻ và chai đá. Ngài chỉ bằng lòng cư ngụ trong một trái tim trong sạch, và hoàn toàn trống không.
Tất cả những danh vọng, của cải và lạc thú phải được qua một bên để dành chỗ ưu tiên số một cho Chúa. Hãy dâng lên Chúa trái tim nhỏ bé của chúng ta, cùng với một tình yêu trọn vẹn, không chia năm xẻ bảy, để cuộc đời chúng ta được thuộc hẳn về Chúa.
Mẫu mực trong đời sống đức tin. Thứ Bảy Sau lễ Thánh Tâm - tuần 9 thường niên – Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Lễ nhớ. "Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrsalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.
Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ, hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ. Người con này Mẹ đã cưu mang, dưỡng dục, và bảo vệ giữ gìn. Người con này đã đem lại cho Mẹ biết bao niềm vui và hãnh diện. Nhưng Mẹ cũng chịu nhiều đau khổ vì người con ấy. Bài Tin Mừng hôm nay vén mở một chút nỗi đau của Mẹ, cho thấy một chút trái tim của Mẹ khi sống bên Giêsu. Cậu Giêsu, mười hai tuổi, cùng với cha mẹ lên Đền thờ mừng lễ Vượt qua. Kể cũng lạ khi cậu ở lại Giêrusalem mà không báo cho cha mẹ biết. Hai ông bà đi một ngày đường mới nhận ra mình mất con, vội vã đi tìm trong đám bà con thân thuộc, nhưng không thấy, nên trở lại Giêrusalem mà tìm. Phải qua ba ngày đầy lo âu và nước mắt mới tìm thấy con trong Đền thờ. Kinh nghiệm mất- tìm kiếm- tìm thấy này thật đau đớn đối với người mẹ. Mẹ Maria sợ mất con, mất điều rất quý đã được Thiên Chúa trao cho mình. Nhưng khi thấy con mình ngồi giữa các vị thầy, rất bình an trò chuyện với họ, thì Mẹ lại sửng sốt, ngỡ ngàng, thay vì vui sướng. Như vậy là con không bị lạc, nhưng đã cố ý ở lại Đền thờ mà không báo. Mẹ không nén được một lời trách móc: “Tại sao con làm thế với cha mẹ? Cha con và mẹ đã khắc khoải tìm con” (c. 48). Chuyện không ngờ là cậu Giêsu đã đáp lại câu hỏi của Mẹ bằng hai câu hỏi, đầy vẻ sửng sốt và cũng là một lời trách: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao?” (c.49). Cũng có thể hiểu là: cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao? Đức Giêsu, khi lên mười hai tuổi, đã bắt đầu có ý thức mình thuộc về Cha. Người Cha trên trời này khác với người cha mà Ngài đang chung sống. Ngài phải ở với và lo việc cho người Cha này, lẽ ra cha mẹ phải biết chuyện đó. Dĩ nhiên hai ông bà chưng hửng, không hiểu được câu nói của cậu Giêsu (c.50). Riêng Mẹ Maria có thói quen nghiền ngẫm về các biến cố khó hiểu. Mẹ giữ kỹ trong trái tim mình những chuyện xảy ra (Lc 2, 19. 51b). Chúng ta tưởng Mẹ Maria luôn luôn hiểu Con mình, hiểu ngay, hiểu trọn vẹn. Chúng ta tưởng ai sống thánh thiện thì lúc nào cũng vui, chẳng bao giờ lo sợ. Nhìn Mẹ Maria, chúng ta hiểu theo Chúa là bước vào một cuộc hành trình. Có những lúc như đang chơi ú tim với Chúa, mất rồi lại tìm, tìm thấy rồi lại mất. Chúng ta chẳng bao giờ nắm được Chúa, giữ chặt Chúa trong tay. Chúa vẫn là Đấng không thể thấu hiểu được, và vẫn làm chúng ta sững sờ. Mẹ Maria đã chứng kiến Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt (Lc 2, 40), từ khi sinh ra đến khi mười hai tuổi, và từ mười hai tuổi đến lúc trưởng thành (Lc 2, 52). Ngài càng lúc càng ý thức mình thuộc về Cha và ý thức về sứ mạng. Con của Mẹ là một mầu nhiệm khôn dò mà Mẹ phải tìm hiểu mỗi ngày. Mẹ để cho Con tự do sống theo Ý Cha, dù điều đó đem lại nhiều đau khổ. Chuyện mất Con hôm nay chuẩn bị cho việc Con sẽ chia tay Mẹ đi sứ vụ, và chuẩn bị cho cuộc chia tay kinh hoàng trên thập giá. Chúng ta cầu cho các bà mẹ đang đau khổ vì con. Mong sự vâng phục của con cái làm tươi trái tim người mẹ. Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm họa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. ---------------------------------
Sứ điệp: Chúa Giêsu theo Đức Mẹ và thánh Giuse trở về Nagiaret và Người hằng vâng phục hai ông bà. Lòng vâng phục của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế, là nguồn sự vâng phục của Mẹ Maria đối với Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trái tim Mẹ Maria là một trái tim biết yêu thương. Từ lúc nói lên lời “xin vâng” với sứ thần Gabriel, Mẹ đã từ bỏ tất cả ý riêng, và trọn đời tín thác vào Chúa. Bằng đủ mọi cách, Mẹ luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Trái tim của Mẹ luôn cùng một nhịp đập với trái tim Chúa: vui với niềm vui của Chúa, và đau khổ với nỗi đau của Chúa. Loại trừ tất cả những gì không cần thiết, trái tim vô nhiễm của Mẹ luôn đập lên nhịp đập của tình yêu.
Lạy Chúa, hôm nay, cùng với Mẹ, con cần sống cuộc đời yêu thương. Trái tim vô nhiễm của Mẹ vẫn đang thổn thức vì yêu thương nhân loại.
Vì là Mẹ của Chúa, nên Mẹ Maria đã có nhiều kinh nghiệm của tình mẫu tử, nên Mẹ cũng đang đau khổ vì mỗi người chúng con như những đứa con vô tâm, bội nghĩa trước tình thương của Chúa. Mẹ muốn chúng con cùng Mẹ lặp lại lời “xin vâng “mỗi ngày: xin vâng trong mọi nơi mọi lúc, xin vâng để luôn lắng nghe Lời Chúa, xin vâng để biết quên mình và sống yêu thương người khác.
Lạy Chúa, khi làm những việc nhỏ mọn, tầm thường và rất âm thầm, là con đang đặt một viên gạch nền móng cho chương trình cứu độ của Chúa, và con tin rằng: lúc ấy, Thánh ý Chúa được thể hiện nơi con. Amen.
Ảnh Đức Mẹ càng ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức nào cũng đẹp. Nhưng nói về mặt hấp dẫn, thì ảnh Đức Mẹ Trái Tim xem ra được người công giáo Việt Nam yêu mến hơn. Người ngoài công giáo cũng vậy. Tôi cũng thế.
Lý do đơn giản nhất là vì trực giác của người Việt Nam. Theo trực giác Việt Nam, người mẹ vốn được cảm nhận là tình thương. Phương chi một người mẹ lại giới thiệu trái tim mình. Chẳng cần cắt nghĩa gì, trực giác con người bình thường vừa thoáng nhìn, là cảm được một cái gì cao đẹp, linh thiêng, gần gũi.
Với trực giác đó, khi nghe sứ điệp Đức Mẹ ở Fatima về việc tôn sùng Trái Tim Mẹ, tự nhiên tôi vui như được một ơn tái sinh nhiệm mầu.
Tôi dâng mình cho Trái Tim Mẹ. Coi Trái Tim Mẹ như nguồn hy vọng của mình. Đơn sơ vậy thôi. Tôi ở lại trong đó. Tình Mẹ dạy dỗ uốn nắn và dưỡng dục tôi. Mẹ tái sinh tôi.
Ở đây, tôi chỉ xin được chia sẻ mấy điều. Xưa thánh Phaolô đã nói về mấy điều ấy trên đường Ngài phục vụ (x. Cl 1,24-29). Nay tôi cũng nói về mấy điều ấy trên đường tôi phục vụ, nhưng được Trái Tim Mẹ cùng chia sẻ với tôi.
1/ Chịu đau khổ.
Thánh Phaolô viết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, thì tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).
Thánh Phaolô đã nói rất thực. Những đau khổ Ngài phải chịu cũng rất thực.
Hôm nay, sau những năm dài phục vụ trong những hoàn cảnh rất khó khăn, tôi thấy các môn đệ Đức Kitô tại Việt Nam cũng hơn kém cảm thấy những lời thánh Phaolô tâm sự xưa đã như nói thay cho mình.
Có nhiều thứ đau khổ. Của riêng mình. Của người khác. Của cộng đoàn mình.
Đau cái đau của Hội Thánh. Khổ cái khổ của Quê Hương. Buồn cái buồn của người nghèo. Lo cái lo của người bệnh.
Có những thân phận bị nhận chìm, không ngóc đầu lên được. Có những trái tim tan vỡ, không sao gắn lành lại được. Có những cuộc đời bị trói lại, bị kéo đi trên những nẻo đường tăm tối, không bao giờ thoát ra được.
Bao thứ khổ đau như thế bước vào tâm hồn tôi, thân mật như những người bạn tìm nơi trú ngụ.
Tôi đón nhận, như một phần sứ vụ Chúa Giêsu dành cho tôi. Thú thực, đau khổ vẫn là đau khổ. Chẳng sung sướng gì. Nhưng khi tôi ẩn mình trong Trái Tim Mẹ, tôi được Mẹ chia sẻ, ủi an, nâng đỡ. Tôi được Mẹ cho nhìn thấy, một cách nào đó, ý nghĩa của những đau khổ, kể cả những đau khổ vô danh, không chân dung, lặng lẽ trong tôi.
2/ Rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn.
Thánh Phaolô viết: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng Lời Chúa cho trọn vẹn” (Cl 1,25).
Thánh Phaolô xác tín việc rao giảng Lời Chúa cách trọn vẹn là một sứ vụ quan trọng Chúa uỷ thác cho Ngài.
Các môn đệ Chúa tại Việt Nam xưa rày cũng xác tín như vậy. Nhưng cách rao giảng có khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh.
Tôi đã trải qua nhiều chặng đường rất khác nhau của lịch sử Quê Hương và Hội Thánh Việt Nam. Cùng với việc phục vụ trong nhiều thời gian khác nhau và ở nhiều địa phương khác nhau, tôi học hỏi nơi Trái Tim Mẹ cách rao giảng Lời Chúa sao cho thích hợp.
Mẹ cho biết: Nói chung, cách thích hợp nhất là Lời Chúa trước tiên phải thấm nhập vào chính bản thân người rao giảng. Khi diễn tả ra, nó phải ngấm đậm ơn Chúa Thánh Thần qua việc cầu nguyện, gẫm suy và hy sinh.
Chính Mẹ đã là người rao giảng Lời Chúa một cách thích hợp.
Giảng qua cuộc sống “xin vâng” thánh ý Chúa.
Giảng qua cuộc đời biết sống với những người xung quanh một cách tế nhị.
Giảng qua một hiện diện âm thầm, mang ấn tín mọn hèn của người nữ tỳ của Chúa.
Giảng qua một nếp sống bén nhạy toả ánh sáng và tình thương của trái tim người Mẹ coi nỗi khổ của đàn con như chính nỗi đau của chính mình.
Giảng qua những tu đức coi tội lỗi như cực hình xúc phạm nặng nề sự trong trắng của Trái Tim Mẹ và sự cực thánh của Thiên Chúa.
Giảng qua một cuộc đời tu thân có chiêm niệm và dấn thân.
Nhất là giảng qua một cuộc đời luôn tập trung vào Đức Kitô. Như thánh Phaolô quả quyết: “Chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).
3/ Vất vả phấn đấu.
Thánh Phaolô viết thêm: “Chính vì mục đích ấy, mà tôi phải vất vả và chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,29).
Vất vả và phấn đấu trên đường phục vụ, đó là cảm nghiệm sâu sắc của các môn đệ Chúa tại Việt Nam.
Riêng tôi, sự vất vả và phấn đấu nặng nề nhất là đối với chính bản thân tôi. Tôi phải phấn đấu không ngừng với chính mình tôi. Tôi phải vất vả cảnh giác không ngơi với những cái xấu trong tôi.
Tôi thấy vất vả và phấn đấu như thế luôn rất cần để đón nhận được ơn Chúa.
Nhưng những vất vả và phấn đấu của tôi luôn được Trái Tim Đức Mẹ chia sẻ. Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua những trung gian Mẹ gởi tới.
Phải nói thực rằng: Từ bỏ mình, vác thánh giá mình và theo chân Chúa Giêsu là điều không dễ chút nào.
Nhất là khi Chúa Giêsu bảo tôi theo Người vào tâm trạng cô đơn, xao xuyến, hãi hùng, tăm tối mà Người đã trải qua ở vườn Cây Dầu.
Nhưng, rất may, là trong chính những trường hợp bi đát như thế, Trái Tim Đức Mẹ lại cầu bầu tha thiết cho tôi. Hơn nữa, tôi có cảm tưởng là chính Đức Mẹ cũng cùng khóc với tôi. Người lau nước mặt tôi bằng hơi ấm của tình Mẹ.
Chia sẻ vắn tắt trên đây là một sự kể lại chân thành. Hy vọng nó sẽ góp được phần nào nhỏ bé vào việc cổ động cho việc thi hành sứ mạng Fatima: “Hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.
Hoàn cảnh hiện nay đang xuất hiện nhiều dấu chỉ về một tương lai ảm đạm cho đức tin. Nên sự tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ phải được coi là một thuốc mầu. Đức Mẹ đã dạy như thế. Nhiều người đã cảm nghiệm rõ, Chính tôi là một chứng nhân.
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói “trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như “trái tim rất thanh sạch”, hay “trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc “trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...
Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6, 5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).
Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.
Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các Giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.
Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ‘‘để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ’’. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.
Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.
Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa
Ngày thứ Bảy tuần thứ hai sau lễ Hiện Xuống. Giáo Hội cho chúng ta mửng lễ Trái Tim của Đức Mẹ ngay sau khi chúng ta mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu.
I. NGUỒN GỐC LÒNG TÔN SÙNG TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ.
Lễ Trái Tim Vô nhiễm Mẹ Maria bắt nguồn từ Thánh kinh, Lời các Thánh và Mạc khải tư.
A. THÁNH KINH
* Phúc âm Thánh Luca ba lần trực tiếp nói về Trái Tim Mẹ là nền tảng chính yếu lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ:
“Maria giữ kỹ mọi điều ấy và hằng ngày suy nghĩ trong lòng” (Lc 2, 19). “Mẹ Ngài giữ kỹ hết các điều ấy trong lòng ”(Lc 2, 51) . “Một mũi gươm sẽ đâm thâu qua lòng Bà ”(Lc 2, 35).
Câu Phúc âm này là nền tảng chính yếu của lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ.
* Theo Đức Piô XII, các Giáo phụ giải thích lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ, căn cứ vào hai câu Diệu ca:
“Tôi như vườn khoá chặt, là suối niêm phong ”(Dc 4, 12).
“Tôi ngủ mà lòng tôi thức” (Dc 5, 12).
B. LỜI CÁC THÁNH
- Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.
- Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ dầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.
- Thánh Bênađino: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.
- Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.
- Thánh Tôma Kempi: Chúng ta có thể tìm một nơi náu ẩn nào có bảo đảm hơn Trái Tim từ bi Mẹ Maria? Người khốn khó tìm được sự cứu giúp, kẻ ốm liệt tìm được thuốc thang, người sầu khổ tìm được sự ủi an, người xao xuyến tìm được lời khuyên răn, kẻ thất vọng tìm được sự trợ phù.
- Thánh Gioan Maria Vianney, Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.
- Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong bức gương trong suốt Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria.
C. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
Đức Piô XII, Tình Hiền Mẫu của Trái Tim Mẹ Maria gần như vô biên. Tâm hồn Mẹ đầy tình hiền ái nồng nàn nhất. Trong giờ phút bi thảm của lịch sử loài người này, chúng con phó thác và hiến dâng chúng con cho Trái Tim Vô nhiễm Mẹ.
- Đức Phaolô VI: Một lễ rất được người đạo đức thời nay yêu quí theo chiều hướng mới lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Đó là lễ Trái tim Đức Mẹ.
- Đức Gioan Phaolô II: Trái tim Mẹ Maria đã luôn luôn theo sát sự nghiệp Con mình, và cũng đập cùng một nhịp thương mến đối với tất cả những ai mà Đức Ki tô đã và đang ấp ủ trong tình thương mến vô biên của Ngài.
- Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria đã mở ra khi Chúa nói, 'Hỡi Bà, này là con Bà'. Một cách thiêng liêng, Trái tim Mẹ đi gặp gỡ Trái tim Con Mẹ đã mở ra khi bị lưỡi đòng của người lính đâm thâu. Trái tim Mẹ mở ra vì cùng một tình yêu thương người ta và thế giới mà Chúa Ki tô đã yêu thương, đã tự hiến trên cây Thánh giá.
D. MẠC KHẢI TƯ
Mẹ Maria đã tỏ ra Trái tim Mẹ cho Thánh nữ Mechtilđê năm 1298, cho Thánh nữ Giêtruđê năm 1302, cho Thánh nữ Brigitta năm 1395, và sau đây cho Thánh Catarina Labouré năm 1830, cho cha Carôlô des Genettes năm 1836, cho nữ tu Justina Bisqueyburu năm 1840, và đặc biệt cho ba trẻ Fatima năm 1917.
1. Sứ điệp đầu tiên của Mẹ
Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra với chị Catarina Labouré, thỉnh sinh dòng Nữ Tử Bác ái tại Paris nước Pháp để dạy làm mẫu ảnh lạ (Miraculous Médal). Một mặt có ảnh Trái tim Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ. Cha linh hướng của chị Catarina bảo chị hỏi Đức Mẹ có chữ gì bên trên hai Trái tim. Đức Mẹ trả lời rằng không cần thiết có chữ gì, vì hai Trái tim kết hợp với nhau nói lên đầy đủ ý nghĩa. Đức Mẹ cũng hứa với chị Catarina, “Tất cả những ai đeo ảnh lạ đã làm phép sẽ được nhiều ơn lành, nhất là nếu họ đeo ở cổ xuống ngực'.
2. Chúa Giêsu và Mẹ Maria muốn lập lòng sùng kính Trái tim Mẹ trên khắp thế giới
Hiện ra lần thứ hai ngày 13-6-1917, Mẹ nói với Lucia: “Chúa Giêsu muốn thiết lập lòng sùng kính Trái tim vô nhiễm Mẹ trên khắp thế giới. Mẹ hứa ơn phần rỗi cho những ai có lòng sùng kính đó. Linh hồn họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương như những bông hoa Mẹ trang hoàng ngai toà Chúa... Không bao giờ Mẹ bỏ con. Trái tim Vô nhiễm Mẹ sẽ là nơi con nương ẩn và là đường dẫn đưa con đến cùng Thiên Chúa
Hiện ra lần thứ ba ngày 13-7-1917, Mẹ khuyên Lucia khi hy sinh thì đọc, “Lạy Chúa Giêsu, con xin hy sinh vì lòng yêu mến Chúa cho các tội nhân trở lại và để đền tạ tội lỗi xúc phạm tới Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria. Con đã xem thấy hoả ngục. nhiều linh hồn tội nhân khốn nạn sa xuống đó. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới lòng sùng kính Trái tim Vô nhiễm Mẹ... Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ và rước lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng”
Mẹ lại hiện ra cùng với Chúa Hài Đồng ngày 10-12-1925 với Lucia trong phòng riêng của chị tại tu viện các nữ tu Thánh Dorothy. Một tay Mẹ đặt trên vai Lucia, tay kia Mẹ cầm một quả tim quấn đầy gai. Chúa Hài Đồng nói: “Con hãy thương Trái tim Mẹ rất Thánh của con bị gai quấn quanh do những người bội bạc đâm vào mọi lúc. Và không có ai rút gai ra bằng một việc đền tạ!” Rồi Đức Mẹ nói: “Ái nữ của Mẹ! Con hãy nhìn xem Trái tim Mẹ quấn đầy gai mà những người vô ơn hằng đâm vào bằng những sự xỉ nhục và những sự tệ bạc. Ít là con, con hãy an ủi Mẹ. Nhân danh Mẹ, con hãy loan truyền rằng Mẹ hứa sẽ đến hộ giúp trong giờ chết với những ơn cần thiết tất cảù những ai trong năm thứ Bảy đầu tháng liên tiếp, xưng tội, rước lễ, đọc kinh Mân côi và cùng với Mẹ suy niệm những mầu nhiệm Mân côi có ý đền tạ Mẹ ' .
Ngày 15-12-1926, Chúa Hài Đồng lại hiện đến với Lucia hỏi xem Lucia đã truyền bá việc đền tạ Trái tim Vô nhiễm của Mẹ Chúa.
Năm 1929, Lucia đang cầu nguyện trong nhà nguyện tại tu viện Tuy, Mẹ lại hiện đến với Lucia và nhắc lại: “Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ... Nếu họ nghe lời Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hoà bình '!”
5. Đức Mẹ tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ
Năm 1932, tại Beauraing phía nam nước Bỉ, Đức Mẹ hiện ra với năm trẻ em, một em trai là Albertô 11 tuổi, và bốn em gái là Fernanda 15 tuổi, Andrea 14 tuổi, và hai chị em Gilberta V 13 tuổi, Gilberta D 9 tuổi. Các em đến học trường các Sơ dòng “Christian Doctrine ', nên các em được thấy Đức Mẹ hiện ra tại vườn tu viện các Sơ gần cây táo gai.
Ngày 17 tháng 12, Đức Mẹ xin xây một nhà thờ tại đây để dân chúng tới hành hương. Sau bốn ngày, Đức Mẹ nói, “Ta là Đức Nữ Trinh Vô nhiễm'.
Ngày 29 tháng 12, Đức Mẹ cho các em xem thấy Trái tim Vô nhiễm của Mẹ mầu vàng sáng óng.
Ngày hôm sau, Đức Mẹ cũng tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ và nói: “Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều”. Riêng với Andrea, Mẹ nói: “Ta là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương thiên đàng. Hãy cầu nguyện luôn luôn” Riêng với Fernanda, Đức Mẹ mở hai cánh tay tỏ ra Trái tim Mẹ chói chang và nói: “Con có yêu mến Con Ta không? Con có yêu mến Ta không?” Femanda thưa “có”. Đức Mẹ nói tiếp: “Con hãy hy sinh cho Ta”'. Đức Mẹ hiện ra với năm em tất cả 33 lần.
Lạy Mẹ Maria, xin uốn lòng chúng con nên giống Trái tim Mẹ. Amen.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng kính ngay sau lễ tôn kính Thánh tâm Chúa Giêsu. Điều đó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa ngày lễ của Mẹ Maria hôm nay.
Thật vậy, nếu như Thánh tâm Chúa Giêsu là dấu chỉ tình thương vô hạn mà Thiên Chúa dành cho con người, thì Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria cũng thế, cũng là dấu chỉ của tình yêu, nhưng là tình yêu của Mẹ đối với Thiên Chúa và đối với Đức Giêsu Kitô, con yêu dấu của Mẹ. Tuy nhiên, một cách đặc biệt, khi tôn kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria, Giáo Hội cũng tôn kính tình yêu hiền mẫu của Mẹ đối với toàn thể nhân loại.
Thế nhưng, tình thương của Mẹ Maria đối với con người không ngừng bị xúc phạm. Hình ảnh trái tim của Mẹ bị lưỡi gươm đâm thấu mà cụ già Simêon đã cho thấy điều đó. Và trong sứ điệp Fatima, Mẹ Maria đã tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Mẹ đã bị tội lỗi của thế gian gây nên biết bao thương tích. Bởi đó, một trong ba mệnh lệnh Fatima là “Hãy đền tạ trái tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria”.
Cũng như tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không thể hiểu thấu được tình yêu của Mẹ Maria đối với chúng ta. Thật thế, khi trao ban thánh Gioan cho Mẹ Maria, Đức Giêsu cũng trao ban mỗi người chúng ta cho Mẹ Maria. Bởi đó, dù thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay đần độn, khoẻ mạnh hay bệnh tật, mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria đón nhận như người con trọn vẹn của Mẹ. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Maria dành cho tất cả tâm tình và tình thương mà Mẹ đã dành cho Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta đều được Mẹ Ma-ri-a dành cho một chỗ đặc biệt trong trái tim Mẹ.
Là con cái của Mẹ Maria, chúng ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để được Mẹ ủi an nâng đỡ và nhất là chúng ta hãy thi hành những lời căn dặn của Mẹ:
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” Lc 1, 49)
“Lạy Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa vì phúc lộc Ngài ban" (Tv 12, 6).
Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Người (St 1, 26 - 27 ).
Mẹ Maria vốn được Thiên Chúa yêu thương tuyển lựa giữa muôn vàn người nữ, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, nghĩa là Mẹ đã nên hình ảnh của Thiên Chúa về lòng trung tín, nhân từ và lòng xót thương vô biên đối với mọi người. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho Trái Tim Mẹ Maria trở thành cung điện xứng đáng cho Chúa Thánh Thần, cho Con Một Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô ngự trị.
TRÁI TIM CỦA MẸ MARIA: TRÁI TIM TÌNH YÊU:
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ của Chúa Giêsu vì thế trái tim của Mẹ đã hoàn toàn hiến tế, thuộc trọn về Chúa, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng Mẹ cho tình yêu của Người và để cứu rỗi nhân loại. Thánh Công Đồng Vaticanô II viết: “Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian, lúc Thiên Thần Gabrien truyền tin cho Mẹ” (LG 53). Trong tông thư Đấng Cứu Độ con người, số 22, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định: “Chúng ta có thể nói mầu nhiệm cứu độ đã thành hình nhờ Trái Tim Đức Trinh Nữ thành Na-gia-rét khi Maria thưa lời xin vâng. Từ giây phút đó, Trái Tim Trinh Khiết Từ Mẫu ấy luôn luôn theo sát công cuộc của Con Mẹ và vươn đến với tất cả những ai được Chúa Kitô ôm ấp và tiếp tục ôm ấp trong tình yêu vô cùng của Người”. Như Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ Maria đã hiến tế con tim tình yêu vẹn toàn của mình cho Thiên Chúa, trái tim của Mẹ đã rộng mở để đón nhận mọi người. Người lính đâm cạnh sườn của Chúa Giêsu khi Người bị treo trên thập giá, tức thì nước và máu chảy ra, từ nơi đó phát sinh các bí tích. Trái tim hiền mẫu của Mẹ Maria cũng luôn mở rộng để cùng với Chúa Giêsu qui tụ mọi người, để ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn, trinh trong đã cống hiến cho công tình cứu rỗi của Chúa và góp phần xây dựng Hội Thánh trần thế. Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng của thánh Gioan: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13) đã minh chứng tình yêu của Chúa là tình yêu vĩnh cửu, vô vị lợi, xả kỷ. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn là dấu chỉ tuyệt vời và cao đẹp nhất dẫn nhân loại và từng người đến tình yêu của Thiên Chúa Cha. Trái tim của Mẹ Maria là trái tim tình yêu vì Mẹ đã sống trọn tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.
MARIA ĐÃ LUÔN TUÂN THEO Ý THIÊN CHÚA:
Thiên Chúa qua sứ thần Gabrien đã gọi đích danh Maria: Mẹ đã thưa xin vâng không chút đắn đo, không chút do dự khi được sứ giả của Thiên Chúa giải thích. Maria đã nói lời xin vâng tuân theo ý Chúa. Suốt cuộc đời của Mẹ là lời thưa vâng, đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Đời của Mẹ là bài ca cảm tạ, tri ân không ngừng. Mẹ đã giữ kỹ những điều Mẹ đã cảm nghiệm và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 51). Cuộc đời của Mẹ là hồng ân quí giá nhất Chúa trao cho nhân loại. Qua tác động của Chúa Thánh Thần, cuộc đời của Mẹ trở nên kiệt tác tình yêu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Mẹ luôn làm theo ý Thiên Chúa, nên nhân loại muôn đời sẽ khen Mẹ là người đầy ân sủng: Mẹ đã để Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng cho tình yêu của Ngài và để góp công vào công trình cứu rỗi nhân loại. Tình yêu tự hiến của Mẹ chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ và làm cho cuộc sống Giáo Hội được triển nở phong phú.
Đức Thánh Cha Piô XII vào ngày 31 tháng 10 năm 1942, nhân kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, đã dâng hiến nhân loại và toàn thể gia đình Kitô giáo khắp thế giới cho Trái Tim Đức Mẹ và ngày 04 tháng 5 năm 1944, Ngài truyền cho Giáo Hội mừng lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
“Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Đức Trinh Nữ Maria nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần; vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)
Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn đã được hoãn hành quyết hai năm để bà có thể cai sữa cho đứa con.
Hôm thứ Hai ngày 17/6/2002, tòa phá án thành phố Pontuar ở miền tây bắc Nigiêria vẫn duy trì cuộc hành quyết này sau khi xét đơn kháng cáo của bà Amila Nawanrami. Người phụ nữ này bị kết án tử hình hồi tháng 3/2002, sau khi bị tố cáo có thai với một người đàn ông không chính thức là chồng của chị. Kurami là người đàn bà thứ hai bị kết án tử hình vì có con ngoại hôn tại Nigiêria. Án tử hình của chị sẽ được thi hành vào năm 2004 sau khi đứa con của chị dứt sữa mẹ. Bản án thật bất công, nó ngược lại với mọi chuẩn mực văn minh của loài người. Tuy nhiên, vẫn còn thấy ở đây một giá trị mà cho dù có độc ác tới đâu loài người vẫn còn trân quí, đó là tình mẫu tử. Người mẹ Nawanrami sẽ chết đi nhưng ít ra đứa con của chị vẫn còn có được những giọt sữa mẹ nuôi dưỡng cho đến khi thôi bú.
Cho con bú mớm, đó là hình ảnh đẹp nhất mà người ta có thể nhìn thấy nơi bất cứ người mẹ nào. Hôm nay Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ. Mẹ đã sinh dưỡng Chúa Giêsu, Mẹ đã từng cho Ngài bú mớm. Một hôm, vào giữa lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy, có một người trong đám đông đã lên tiếng ca ngợi Mẹ: "Phúc cho kẻ đã cho Ngài bú mớm". Quả thật, cũng như bất cứ bà mẹ nào, Mẹ đã cho Chúa Giêsu bú mớm, Mẹ đã nhìn Ngài lớn lên từng ngày, Mẹ theo dõi và hân hoan với từng bước chân chập chững của Ngài, Mẹ vui với sự khôn lớn của Ngài, Mẹ buồn lo vì sự bất chấp xảy ra cho Ngài.
Câu chuyện Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được trái tim hiền mẫu của Mẹ: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con?" Lời trách móc này bộc lộ tất cả trái tim con người của Mẹ. Mẹ đối xử với Chúa Giêsu với tất cả tình cảm của một con người và chính vì là một con người cho nên Mẹ trở thành mẫu mực cho chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Nơi Mẹ, chúng ta nhận ra được một người tín hữu tiến bước trong mò mẫm, trong chiến đấu, trong tin yêu và vâng phục. Nhưng Mẹ không chỉ là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin. Mẹ là Mẹ của chúng ta. Mẹ đã yêu thương Chúa Giêsu với tất cả trái tim nhân loại của Mẹ. Ngày nay, Mẹ cũng tiếp tục dõi theo mỗi người chúng ta với trái tim hiền mẫu ấy. Mẹ đã trải qua thử thách, Mẹ hiểu được thế nào là khổ đau. Hơn ai hết, Mẹ đồng cảm với bao nỗi lo lắng và khổ đau của chúng ta. Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Mẹ đã từng dõi theo từng bước trong tiến trình trưởng thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ suy niệm từng biến cố của cuộc sống.
Ngày nay cũng thế, không có giây phút nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta mà không được Mẹ ôm ấp trong lòng. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta phó thác cuộc sống cho Mẹ.
Có thứ nghệ thuật cho rằng đặt trái tim bốc lửa ra ngoài ngực của Đức Giê-su và Đức Ma-ri-a là một gương mù. Thế mà chiêm ngưỡng lối cách mạng này là trình bày cho chúng ta thấy hai Đấng thương yêu chúng ta đậm đà nồng ấm biết chừng nào, và chúng ta thấy hai Đấng đáng mến vô cùng. Người ta cho đó là thứ đạo đức thời trang; lấy lý do đạo đức trong sáng, người ta chê thiếu sự liêm chính tri thức và tinh thần thối thiểu trong đức tin; Nhưng người ta không thấy chướng tai gai mắt của lối thương mại in đúc những trái tim to bự bằng nhiều kiểu để trao tặng cho nhau trong ngày lễ Va-lăng-tin;
Như thế người ta nghĩ sao?
Thói chỉ trích đó do thứ thông minh đáng nghi ngờ cho rằng lối nghệ thuật cơ bắp đó chỉ lôi cuốn sự sùng kính cảm tình. Tuy nhiên, nghệ thuật tạo hình để bày tỏ sự thực của Thiên Chúa, nó nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Đừng cười chê quá lố; chúng ta thích biểu lộ tình yêu của chúng ta thế nào: bằng phá bỏ tưởng tượng này chăng? Phải, nếu muốn làm cho lòng yêu mến biến mất và không còn gì để kính tôn nữa. Cần phải đến những nhà thờ để chiêm ngưỡng; tôi đã đến và thấy rằng: “Những tượng ảnh xưa đầy gợi cảm đang sống động tốt”. Chúng có giá trị kích thích lòng đạo đức, chúng không thể là thứ danh từ tân thời như ngày nay.
Đức Ma-ri-a yêu thương chúng ta
Trái tim cực sạch Đức Ma-ri-a thế nào? Ngài yêu thương chúng ta. Trái tim cực sạch của Ngài đồng nghĩa với tình yêu chân thật, giống như tình yêu Con Ngài đối với chúng ta. Dù cho chúng ta tan tành cũ rách, và chẳng đáng để ý chút gì.
Thi hào Claudel nói:”Lạy Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, con không đến cầu xin, con đến chỉ để nhìn ngắm Mẹ thôi. Nhìn ngắm Mẹ không chỉ để một lát, mà suốt mọi lúc...
Vì Mẹ là bà Mẹ sáng ngời vinh quang nguyên tuyền...chỉ vì mẹ là Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, Xin đoái thương chúng con”.
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.
Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết; Tô không biết phải chạy đến với ai nữa".
Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".
Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.
Khi nói đến trái tim thì mọi người không chỉ nghĩ đấy là một cơ phận của thể xác con người, nhưng còn nghĩ ngay đến chiều sâu bên trong là ý hướng, tình cảm, tâm trạng, nỗi niềm .... Triết Đông còn dùng chữ "tâm" (心:trái tim)để chỉ thế giới tinh thần (tâm linh) của con người. Có thể nói "trái tim" là biểu tượng nói lên cái cốt yếu của con người đích thực. Chính vì thế mà Đại Thi hào Nguyễn Du từng bảo:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Truyện Kiều).
Cũng vì ý nghĩa và tầm quan trọng của biểu tượng trái tim mà chúng ta có lễ trọng "Thánh Tâm Chúa Giêsu" và lễ "Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" liền kề nhau.
Câu chuyện có thật về người đàn bà "hủi", mẹ thằng Chiền (Tú Anh) trong phim "Chuyện Tử Tế" của đạo diễn Trần Văn Thủy cũng để lại cho ta nhiều suy nghĩ. Trong phim chỉ cho biết mẹ thằng Chiền bị hủi, bị xua đuổi khỏi làng, bị chồng bỏ, đi xin ăn, đêm đêm lén về nhào đất đúc được 18 vạn (180.000) với ước mơ con có một mái nhà ... đã làm cho khán giả xúc động. Nhưng khi đọc những bài báo viết sau đó mười mấy hay hai chục năm, nhất là bài "Chuyện cổ tích về số phận kỳ lạ của một người đàn bà" của tác giả Phùng Nguyên (2005) cho ta biết thêm nhiều thông tin hơn về người đàn bà "hủi" có tên Trần Thị Hằng, mẹ thằng Chiền. Bài báo đã tạo một cơn sốt ngưỡng mộ nơi độc giả. Chị Hằng đã từng nung dao nóng đỏ để chặt lần lượt mười ngón tay bị cho là "hủi' của mình, phải làm bè sống trên ao, ban ngày đi gánh nước hoặc cát thuê, đêm về gánh đất lấp ao để có một nền nhà .... Chị còn thảm thương hơn cả chị Dậu trong "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố, vì Chị Dậu còn có bầy chó để bán.
Chính trái tim thương con của người mẹ đã giúp chị Hằng vượt qua tất cả. Từ đôi bàn tay bị cho là "hủi" phải chặt cụt từng ngón cùng với trái tim người mẹ luôn yêu thương thao thức vì con, sau mười mấy năm lăn lộn với khổ đau cùng tận, chị Hằng đã thành công trong cuộc sống, đã trở thành triệu phú, có ngôi biệt thự lớn nhất xã Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình (năm 2005).
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều mời gọi chúng ta có trái tim vâng phục Thiên Chúa như Đức Maria.
Bài đọc 1, sách 2Sm mời gọi mọi người sống tâm tình của người con luôn tùng phục Thiên Chúa: "Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ? ... Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con."
Bài đọc 2, thánh Phao lô xác tín với giáo đoàn Rôma: "Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí".
Bài Tin Mừng, bằng vài nét chấm phá, thánh sử Luca phác họa chân dung Đức Maria: là người thôn nữ bình thường như mọi thôn nữ khác (c 27), là người nữ "đầy ơn sủng" và được "Đức Chúa ở cùng" (c 28), là người được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (c 30-33)... Tuy nhiên câu kết của Tin Mừng đã làm bừng sáng cả bức chân dung Đức Mẹ là một con người bình thường nhưng thật vĩ đại vì trái tim đã vâng phục Thiên Chúa cách triệt để: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Chiêm ngắm cuộc đời Đức Mẹ, chúng ta không chỉ thấy Trái tim Đức Mẹ thốt lên hai tiếng "xin vâng" trong biến cố Truyền tin, khi chứng diện trước Sứ thần của Thiên Chúa; mà cả cuộc đời Đức Mẹ, trái tim vẫn luôn rung nhịp vâng theo thánh ý Thiên Chúa giữa bao nghịch cảnh. Mẹ vâng phục Thiên Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, mọi biến cố, mọi phút giây. Trong biến cố hạ sinh con nơi hang bò lừa giữa cánh đồng hoang vu đêm khuya gió rét, biến cố trốn sang Ai Cập, dâng con trong Đền thờ, ẩn cư tại Nazareth ... ở mọi thời khắc Đức Mẹ đều thinh lặng, nhưng con tim ghi nhớ và suy niệm (x. Lc 2,19). Cả biến cố dưới chân thánh giá, Mẹ chứng diện trước cái chết của người con dấu yêu. Có nỗi đau nào sánh ví! Thế mà Mẹ vẫn thinh lặng, vâng phục và phó thác, trao phó con tim mình cho Thiên Chúa.
Ngay từ thời xa xưa, các Giáo phụ và những vị đại thánh đã ca ngợi Trái Tim Đức Mẹ:
Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.
Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ đầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.
Thánh Bênađinô: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.
Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.
Thánh Gioan Maria Vianney: Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.
Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong tấm gương trong suốt Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Lời mời gọi của thánh Eymard, cũng là lời mời gọi của Lời Chúa hôm nay: Hãy nên giống trái tim Đức Mẹ.
Có lẽ chúng ta sẽ bảo rằng: thật khó để thanh luyện trái tim mình nên giống Trái tim Đức Mẹ. Quả là khó chứ không phải là điều không thể. Điều quan trọng là tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa có tinh tuyền và mãnh liệt như Đức Mẹ hay không. Nếu có tình yêu thì chúng ta sẽ làm được tất cả, vượt qua tất cả mọi gian nan hay đam mê lôi cuốn. Cha ông ta đã từng bảo: "yêu nhau mấy núi cũng trèo" mà! Mẹ thằng Chiền chẳng phải đã thắng vượt tất cả vì yêu con sao?
Chính trái tim yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn và mãnh liệt đã làm nên một Maria vâng phục thánh ý Thiên Chúa suốt cả đời. Cũng thế, nếu trái tim chúng ta luôn thao thức qui hướng về Thiên Chúa, rung nhịp với Tin Mừng tình yêu vĩnh cửu của Ngài thì mỗi người chúng ta cũng có thể vượt qua tất cả mọi trở ngại để vâng phục Thiên Chúa cách hoàn toàn và suốt cả đời như Đức Mẹ. Các Vịnh gia từng thốt lên: "Tim thét gào thì miệng phải rống lên" (Tv 38,9) (xem bài diễn giải rất hay của thánh Augustinô về câu Thánh vịnh này ở Bài đọc 2 Kinh Sách, thứ 6 tuần 3 mùa vọng).
Nếu chúng ta không thanh luyện trái tim mình nên giống trái tim Đức Mẹ, tức để cho tim mình rung nhịp theo những xúc cảm tầm thường, nhất thời, thì trái tim chúng ta không chóng thì chày cũng dễ bị lạc nhịp theo những xu hướng của thế tục, của sự ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn, mỗi người chúng ta thanh luyện chính mình để trái tim chúng ta trở nên máng cỏ yêu thương nơi Hài Nhi Giêsu ngự trị và để chúng ta có thể mang Chúa đến cho tha nhân.
Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (Lc 2,51)
Suy niệm: Nhiều lần Chúa Giêsu đã gián tiếp ca ngợi Mẹ: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời tôi và đem ra thực hành” (Mc 3,35; Lc 8,21) và “Phúc thay ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28). Các Phúc Âm đã thuật lại những biến cố trong cuộc đời của Người Con, nhất là những biến cố trong thời thơ ấu, đã đi vào cuộc đời của Mẹ và cho biết Mẹ “hằng ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51). Hẳn đối với Mẹ, Lời Chúa không chỉ được nghe tại các hội đường mà còn vang lên nơi các biến cố đời thường và nhất là nhập thể nơi Người Con duy nhất mà Mẹ được diễm phúc sinh ra. Mẹ đã thường xuyên “đọc” Lời Chúa và suy niệm trong lòng như thế nên những phản ứng của Mẹ luôn biểu lộ thái độ của một người có lòng tin sâu xa, thấm nhuần Lời Chúa.
Mời Bạn: Mẹ Maria là người đã trải qua nhiều “đêm tối đức tin” hơn ai hết, nhưng nhờ Mẹ năng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa nên Mẹ có sức mạnh nội tâm vượt qua tất cả. Làm sao Mẹ có thể tin nổi lời sứ thần Gabriel, làm sao Mẹ có thể can đảm đi theo Chúa trọn con đường Thập giá nếu Mẹ không nhận ra và tin vào Lời Chúa? Giờ đây Mẹ vẫn chuyển cầu và dẫn chúng ta đến với Chúa mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thử thách: “Người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2,3). Nhưng liệu tôi có nghe và làm theo không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một câu Lời Chúa để suy đi gẫm lại như Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã vâng phục Mẹ vì Mẹ đã thấm nhuần Lời Chúa. Xin giúp con biết để Lời Chúa hướng dẫn bước đường con đi trong suốt cuộc lữ hành trần thế này.
Để nói lên vai trò quan trọng bậc nhất của người mẹ, tục ngữ Việt Nam có câu: “Mồ côi cha ăn cơm với cá; Mồ côi mẹ liếm lá đầu đình”. Ấy cũng bởi vì tình cảm mẹ con vô cùng thắm thiết. Ngôn ngữ loài người đã dùng 2 tiếng Mẹ và Con để tôn vinh tình cảm bất khả thay thế đó, đồng thời cũng dùng 2 tiếng ấy trong cách xưng hô giữa 2 ngôi vị đó trong gia đình. Đối chiếu tình cảm đó với Thánh Kinh, khi nhìn vào mầu nhiệm Cứu Chuộc thì Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể), khi nhìn vào mầu nhiệm Hội Thánh thì Đức Maria là Mẹ Giáo Hội (vì Người Con của Mẹ đã nhận Giáo Hội làm Hiền Thê và chính thức trao phó cho Mẹ trước khi sinh thì trên Thánh Giá). Quả thật tình Mẫu Tử giữa Mẹ Thiên Chúa và Người Con là cao vời tuyệt đỉnh, muôn vật thụ tạo khôn sánh bằng.
Tuy nhiên, khi suy niệm Thánh Kinh thì lại nảy sinh thắc mắc: Tại sao Người Con Chí Thánh Giê-su lại gọi Mẹ mình bằng tiếng Bà nghe có vẻ xa lạ như vậy (như trong tiệc cưới Ca-na, khi thấy thiếu rượu, Đức Maria nói với Đức Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” – Ga 2, 4); thậm chí cả khi trối trăng dưới chân thập tự: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ Gio-an: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.” – Ga 19, 26-27). Phải chăng vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người không muốn gọi người sinh ra mình nơi trần gian là Mẹ? Thắc mắc thật khó lý giải, đành phải nhờ vào việc tìm hiểu danh thánh Maria qua cách giải thích của các Giáo phụ, mới hiểu rõ được vấn đề:
Qua hàng bao thế kỷ, nhờ lòng tôn sùng tuyệt đối Đức Maria, các thánh Giáo phụ đã đề nghị nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của danh xưng “Maria”. Tựu trung, người ta đã có được một giàn ý nghĩa kỳ thú sau đây: Maria nghĩa là “Người Soi Sáng” bởi vì Người đã đem Ánh Sáng (Đức Giê-su Thiên Chúa – Nguồn Ánh Sáng Cứu Độ) đến cho thế gian; Maria nghĩa là “Sao Biển” vì những người đi biển được Sao Biển hướng dẫn về bến bờ như thế nào, thì Ki-tô hữu trong biển đời giông tố cũng đạt đến vinh quang nhờ sự soi đường chỉ lối của Đức Từ Mẫu Maria như vậy; Maria còn có nghĩa là “Lệnh Bà” (là Đức Bà của nhân loại). Trước đây ở Việt Nam, trong các kinh nguyện về Đức Maria đều gọi là Đức Bà. Điều đó cho thấy khi Đức Giê-su gọi Đức Maria là Bà, là Người tôn vinh Người Mẹ chí ái của minh vậy.
Còn về ngày lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, thì Lịch sử Phụng Vụ của Giáo Hội cho biết: Năm 1787, Đức Giáo hoàng Pi-ô VI ban phép các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel mừng lễ “Rất Thánh Trái Tim Mẹ Maria” vào ngày 22/8. Năm 1799, tất cả các nhà thờ giáo phận Palermô nước Ý được mừng lễ này. Năm 1805, tất cả các giáo phận và các dòng tu muốn mừng lễ này đều được Đức Pi-ô VII ban phép. Năm 1855, dưới triều đại Đức Pi-ô IX, giờ kinh và Thánh lễ đã được Thánh bộ Lễ nghi chấp thuận (1).
Từ sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917 ban hành mệnh lệnh “Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ”, vào ngày mồng 8/12/1942, Đức Thánh Cha Pi-ô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Tới tháng 5/1943, Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu Công Giáo kêu cầu sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Ngài cũng kêu mời mọi người dâng mình cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Năm 1945, ngài chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22/8. Theo chiều hướng canh tân Phụng vụ, năm 1969, Đức Phao-lô VI đổi lễ này vào ngày thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su (cuối tuần Chúa nhật II sau lễ Hiện Xuống) (2).
Thật vô cùng ý nghĩa khi ngày lễ kính Trái Tim Người Mẹ đi liền với ngày lễ kính Thánh Tâm Người Con. Ấy cũng bởi vì 2 Trái Tim ấy luôn gắn liền với nhau, ở trong nhau trong suốt thời Cứu Độ và mãi mãi cho đến vô cùng. Để được hòa chung Máu của Mẹ với Máu của Con làm của dưỡng nuôi những tín hữu, cùng đồng công cứu chuộc nhân loại thoát khỏi sự chết đời đời, hẳn nhiên Đức Mẹ phải có đầy đủ trong lòng (trong trái tim) nguồn ân sủng chan chứa làm nên những hình ảnh Trái Tim Từ Mẫu tuyệt vời: Trái Tim Tinh Tuyền, Trái Tim Tín Thác, Trái Tim Cay Đắng, Trái Tim Nhân Hậu.
Trái Tim Tinh Tuyền: Mẹ đã được tuyển chọn ngay từ khi Nguyên tổ phạm tội. Thiên Chúa đã tiền định một E-và Mới sẽ “đạp nát đầu con rắn (Xa-tan) đã cám dỗ E-và” (St 3, 1-15). E-và Mới đó chính là Đức Maria được hồng ân vô nhiễm nguyên tội ngay từ khi đầu thai trong lòng bà Anna. Đồng thời, trong suốt cuộc đời trần thế, Mẹ cộng tác mật thiết với Người Con (A-đam Mới) đồng công cứu chuộc loài người, gặp biết bao nghịch cảnh và cám dỗ của ba thù, Mẹ vẫn giữ nguyên tuyền vẻ đẹp trinh trong một Trái Tim Vẹn Sạch, không chút bợn nhơ trần thế.
Trái Tim Tín Thác: Sau khi nghe sứ thần truyền tin, Mẹ chẳng so đo ngần ngại, mà dứt khoát:”Xin Vâng”. Mẹ hoàn toàn vâng phục, phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng với tất cả tấm lòng tin, cậy, mến. Qua bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat), Mẹ cảm tạ, ca ngợi và tri ân Thiên Chúa đã đoái thương đến Mẹ và dân Chúa chọn. Vì nay lời Giao ước đã được thưc hiện, Mẹ phó thác vào Thiên Chúa, tuân phục theo những dấu chỉ, những mệnh lệnh của Người cách trực tiếp, hay gián tiếp qua người bạn trăm năm là Thánh Cả Giu-se. Dù bụng mang dạ chửa nặng nề, Mẹ vẫn vui lòng lên đường trở về Bê Lem cùng với Thánh Cả Giu-se, theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Augusto. Sau khi sinh hạ Hài Nhi Giê-su nơi hang bò lừa Bê-lem lạnh lẽo, Mẹ lại tiếp tục vâng theo Thánh ý, đem Con sang Ai-cập lánh nạn Hê-rô-đê lung giết các hài nhi.
Trái Tim Cay Đắng: Ngày 13/6/1917, một trong ba thiếu nhi Fatima (Lucia, Jacinta và Francisco) là Lucia (được “Chúa Giê-su dùng để làm cho Mẹ được mọi người nhận biết và yêu mến”) đã trực tiếp nghe lời Đức Mẹ phán hứa: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Chúa”. Thế rồi, trước khi biến đi, Đức Maria đã dùng tay phải chỉ vào ngực, cho 3 trẻ thấy một Trái Tim bị gai nhọn từ chung quanh đâm vào (3). Điều này cho thấy những gai nhọn, đinh sắc (tội lỗi loài người) không chỉ đâm vào Thánh Tâm Người Con mà còn đâm cả vào Trái Tim Mẹ. Trái Tim Mẹ khi còn tại thế đã đau đớn đúng như lời ngôn sứ Si-mê-on tiên báo (“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” – Lc 2, 35). Thật không ngờ cho đến 20 thế kỷ sau, khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (năm 1917), Trái Tim Mẹ vẫn tiếp tục bị gai nhọn, đinh sắc tội lỗi loài người đâm thâu. Danh thánh Maria với nghĩa là “Biển Đắng Cay” quả thật không sai.
Trái Tim Nhân Hậu: Nói về nhân hậu là nói về Đức Mến nền tảng của Ki-tô giáo. Đó chính là điều răn trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với Đức Maria thì Trái Tim Mẹ đã vượt trên tất cả phàm nhân về đức tính nhân hậu. Vì “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, Đức Maria đã dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa (khấn giữ đồng trinh). Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ đã “xin vâng như lời sứ thần truyền” dù cho Mẹ “không hề biết đến người nam”. Cũng vì yêu Chúa, nên Mẹ chấp nhận mọi gian nan vất vả khi sinh con tại hang bò lửa Bê-lem, khi mang Con lánh nạn sang Ai-cập. Từ khi hạ sinh Trưởng Tử Giê-su, Mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc Con, không những thế, Mẹ còn dạy mọi người đức mến yêu, vâng phục tuyệt đối Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2, 5). Cho đến khi Con tử nạn trên Gôn-gô-tha thì Trái Tim tan nát của Mẹ vẫn mở ra đón nhận đàn con cái trần gian do Người Con trao phó. Trái Tim của Mẹ vì khiêm cung nhân hậu đã xin vâng nhận làm Mẹ Thiên Chúa, nay lại mở rộng lòng nhận hậu, nhận làm Mẹ Giáo Hội lữ hành.
Suy niệm về Trái Tim Từ Mẫu Maria thì vô cùng, không bút mực nào có thể diễn tả cho hết được về kỳ công Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một Evà Mới Maria, hạ sinh một Trưởng Tử Ađam Mới, cùng hiệp thông thi hành sứ vụ Cứu Độ nhân loại. Người Ki-tô hữu hãy chạy đến với Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, để được “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”, cầu xin Người ban cho một tâm hồn trong sạch, một trái tim tinh tuyền như Mẹ và như vua Đa-vit thủa xưa. Hãy tha thiết thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51, 12). Ôi! “Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn cao dâng tâm tình kính mến. Lay Chúa, xin ban cho con trái tim tinh tuyền. Để con luôn luôn trung kiên vững một niềm tin.” (TCCĐ “Trái Tim Tinh Tuyền”).
Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Thiên Chúa (Hội Thánh kính ngày 1.1)
Khi ta nhìn Đức Ma-ri-a trong mầu nhiệm Hội Thánh, thì Đức Ma-ri-a là đấng Vô Nhiễm, vì là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu mà Hội Thánh kính hôm nay.
Chính Đức Giê-su đã gọi Mẹ mình bằng danh hiệu Bà lúc khởi đầu và lúc kết thúc cuộc đời công khai của Ngài.
- Khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su, Ngài “thai nghén” Hội Thánh qua tiệc cưới Cana là dấu chỉ. Nơi đây Đức Giê-su nói với Mẹ: “Này Bà, giữa tôi và Bà nào có việc gì” (Ga 2,4a). Đức Giê-su gọi Mẹ mình là Bà,Ngài có ý xác nhận Đức Ma-ri-a là Eva mới, sẽ làm ứng nghiệm lời hứa tiền Tin Mừng Thiên Chúa cứu độ loài người: “Người phụ nữ sẽ đạp nát đầu rắn” (St 3,15 – Theo bản dịch Phổ Thông). Bà Eva mới này mới làm ứng nghiệm lời ông Adam nói với vợ: “Bà là mẹ các sinh linh” (St 3,20), nghĩa là mẹ của những người được Thiên Chúa cứu độ.
- Kết thúc đời công khai của Đức Giê-su, khi Ngài bị treo trên thập giá là thời điểm Ngài sinh ra Hội Thánh, là con của Bà Maria, Eva mới, như Lời Đức Giê-su nói về sự liên hệ giữa môn đệ của Ngài với Đức Ma-ri-a: “Hỡi Bà, này là con Bà”, đoạn Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”, và từ giờ đó môn đệ đã lĩnh lấy bà về nhà mình” (Ga 19,26-27).
Như thế hai lần Đức Giê-su gọi Mẹ bằng danh hiệu Bà mở đầu và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài, là Ngài có ý nhấn mạnh: Từ khởi sự cho đến hoàn tất, những công việc tôi đều có sự tham dự tích cực của bà Maria. Vì thế, thánh Phao-lô nói: “Cũng chỉ vì một người mà sự tội đã đột nhập vào thế gian, và vì tội, thì sự chết nữa và như vậy sự chết đã lan qua hết mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Ấy thế, mà sự chết đã ngự trị từ Adam cho đến ông Mô-sê, trên những kẻ không phạm tội (vì lúc đó chưa có Luật) bằng cách vi phạm giống như Adam phản ảnh của Đấng sẽ đến. Nhưng không phải sa ngã sao ơn huệ cũng vậy. Vì nếu bởi sự sa ngã của một người, nhiều người đã chết, thì còn dãy tràn hơn biết bao trên nhiều người, ơn của Thiên Chúa, lộc trong ơn của một người, Đức Giê-su Ki-tô”(Rm 5,12.14-15).
Bởi đó, Đức Ma-ri-a là tiền thân của các Ki-tô hữu, vì qua Bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu cũng là một trinh nữ thanh khiết, như Maria, Mẹ của mình, được đính hôn với Tân Lang Giêsu, (x 2Cr 11,2). Chính vì vậy mà Hội Thánh tuyên xưng Đức Ma-ri-a là một Trinh Nữ Vô Nhiễm Chúa chọn từ muôn thuở, để cùng với Adam cuối cùng (x 1Cr 15,45b) sinh ra dòng giống nhân loại mới là Hội Thánh. Do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Hội Thánh số 56: “Vì Eva không vâng Lời Chúa, nên đã sinh ra nhân loại phải chết; nhưng nhờ Đức Ma-ri-a, Eva mới cùng với Adam cuối cùng, sinh ra dòng giống nhân loại mới được sống muôn đời hạnh phúc dồi dào”, và như thế Đức Ma-ri-a đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ: “Dòng giống chúng sẽ được biết đến trong các nước, và miêu duệ chúng lừng danh giữa muôn dân; ai thấy chúng đều nhận biết đích thị là dòng giống được Thiên Chúa chúc lành” (Is 61,9: Bài đọc). Bởi đó, khi Đức Ma-ri-a vừa nghe bà Elizabeth người chị họ chúc tụng: “Trong nữ giới có người là diễm phúc! Vì đáng chúc tụng thay quả lòng Bà! Và bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa đến với tôi” (Lc 1,42-43). Vừa nghe lời chúc tụng ấy, Đức Ma-ri-a cất tiếng ca ngợi Chúa: “Tâm hồn con nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,47: Đáp ca). Tâm tình ca tụng Chúa của Đức Ma-ri-a đã nối dài lời chúc tụng của bà Anna, dù hiếm hoi mà được Chúa cho sinh con trong tuổi già: “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa, nhờ Chúa con ngẩng đầu hiên ngang, con mở miệng nhạo báng quân thù. Vâng con vui sướng vì được Ngài cứu độ” (1Sm 2,1). Và như thế, lời tạ ơn trên của Đức Ma-ri-a lại làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời Thiên Chúa ra tay cứu loài người khỏi án tử vì tội: “Tâm hồn con vui sướng trong Chúa, mạng con nhảy mừng trong Thiên Chúa con thờ, vì Người đã mặc cho con áo cứu độ. Chiến bào công chính, Người phủ lên con, như tân lang chỉnh tề đai mão và tân nương điểm trang phục sức” (Is 61,10: Bài đọc). Và như thế Đức Ma-ri-a đã xác nhận mình là Tân Nương đã được Chúa điểm trang phục sức đứng kề bên Adam cuối cùng chỉnh tề đai mão, vì Ngài là Vua.
Ơn huệ quý báu Chúa ban cho Đức Ma-ri-a chỉ có thể tồn tại nhờ Mẹ đến Nhà Chúa gặp thấy Con đang giảng dạy giáo lý. Quả thật, mầu nhiệm này Đức Giê-su hữu ý bắt cha mẹ Ngài phải đến Nhà Thờ, mới được bình an. Đó là lý do Ngài trốn cha mẹ ở lại Nhà Thờ, để từ đó Con Thiên Chúa đồng hành với cha mẹ trở về quê Nazareth (x Lc 2, 41-51: Tin Mừng). Sau này từ Nazareth Đức Giê-su bắt đầu đời sống công khai, đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân (x Lc 4,14t).
Vậy ta hãy bắt chước “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a ghi nhớ Lời Chúa và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19: Tung Hô Tin Mừng), để qua Phụng Vụ Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Ma-ri-a, Hội Thánh muốn nhắc nhở con cái mình: Người Công Giáo đã được trở nên con cái Mẹ, thì phải nên giống Mẹ năng đến Nhà Thờ gặp Chúa, vì mỗi khi phạm tội là ta lạc mất Chúa, hãy trở lại Đền Thờ để tham dự Thánh Lễ, nhờ Chúa ta được thanh tẩy, và cho ta tham dự vào ơn Vô Nhiễm của Mẹ. Như lời thánh Gioan nói: “Mầm giống của Đức Ki-tô lưu lại trong kẻ ấy, và kẻ ấy không thể phạm tội, bởi chưng đã được sinh bởi Thiên Chúa” (1Ga 3,9). Đó là hiệu quả chính của Bí tích Thánh Thể mà sách Giáo Lý Roma đã xác quyết:
- Việc rước lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước Mình Chúa Ki-tô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì thế Bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Ki-tô, nếu Chúa Ki-tô không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số 1393).
- Nhờ tình yêu mà Bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Ki-tô, chúng ta càng sống mật thiết với Người; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa Chúa (số 1395).
- Nhờ tham dự Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giê-su Phục Sinh chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta, và bảo vệ ta khỏi phạm tội trọng (số 1416).
THUỘC LÒNG: Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2).
Xâm mình (xâm những hình ảnh trên thân thể) đang là mốt thời thượng của giới trẻ. Họ xâm trên mình nhiều hình ảnh hết sức lạ mắt và cho rằng xâm mình như vậy mới là “dân chơi”, mới là “sành điệu”. Có bạn trẻ xâm trên ngực hình trái tim bị một mũi tên xuyên qua đang rỉ máu với hàng chữ minh họa “hận tình đen bạc” hoặc “hận đời”…..
Khi nhìn trái tim rỉ máu ấy tôi liên tưởng đến 2 trái tim cũng bị đâm thâu: Một trái tim mà chúng ta mới mừng lễ hôm qua bị xé rách do lưỡi đòng của quân lính – Thánh Tâm CGS - và một trái tim bị đâm thâu do lưỡi gươm ác nghiệt mà Ông già Simêon đã tiên báo (Lc 2, 35b) – trái tim vô nhiễm Đức Mẹ mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Điểm khác biệt của 2 trái tim này với trái tim trên ở chỗ: 2 trái tim này bị đâm thâu và loang máu không phải vì “hận tình” và “hận đời” mà là vì “yêu Trời, yêu đời và yêu người”.
Sau khi Nguyên Tổ sa ngã, dù con người đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương Ađam và Evà. Người muốn họ và tất cả loài người phát xuất từ hai ông bà được sống trong tình nghĩa với Người nên đã sai Đấng Cứu Chuộc đến để giao hòa con người với Thiên Chúa (St 3,15) và phục hồi tình trạng ơn thánh cho chúng ta (Sách GL của HTCG).
Thế là trái tim thứ I có sứ mạng tuân hành thánh ý Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên của lễ đền tội cho nhân loại: “Này con đây, con đến để thực thi ý ngài” (Dt 10, 8-9). Nhưng để có thể xuất hiện trong cuộc đời này, trái tim thứ I rất cần có sự cộng tác của trái tim thứ II để cho thánh ý được nên trọn. Thiên Chúa không phải chờ lâu, trái tim thứ II đã mau mắn đáp lại tiếng mời gọi của Sứ Thần Gabriel: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38).
Và bắt đầu từ đó, hai trái tim hòa quyện với nhau, trở nên một tâm tình, một ý chí và một lòng mến: yêu Trời (Chúa Cha), yêu đời (chấp nhận và thực thi sứ mạng của mình) và yêu người (vì yêu thương nhân loại), đến nỗi ta không bao giờ có thể tách biệt 2 trái tim ấy ra.
Có lẽ chính vì ý thức như vậy nên liền sau lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Giáo Hội mừng lễ trái tim vô nhiễm Mẹ Maria để muốn nói lên rằng Mẹ và Con Yêu Dấu của Mẹ đã liên kết với nhau chặt chẽ, đã đồng tâm nhất trí với nhau, đã một lòng một ý vâng lời Thánh ý Thiên Chúa Cha và hoàn toàn dâng hiến cho nhân loại. Có lẽ không có hình ảnh nào cao cả cho bằng hình ảnh Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá. Chính lúc lưỡi đòng đâm thâu trái tim Con của Mẹ thì cũng là lúc trái tim Mẹ nát tan. Có lẽ để chứng thực điều đó nên vào ngày 13/6/1929, khi hiện ra với Chị Lucia, Mẹ đã cho Chị nhìn thấy trái tim của Mẹ bốc lửa và bị vòng gai quấn chung quanh, bên cạnh là Thánh Giá Chúa Giêsu lơ lửng trên trần nhà nguyện.
Bạn thân mến, Mẹ Maria đang mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy gắn chặt và liên kết trái tim chúng ta với Thánh Tâm Chúa qua trung gian trái tim vẹn sạch của Mẹ. Điều kiện để được liên kết đó là hãy yêu như Chúa và Mẹ yêu, hãy sống như Chúa và Mẹ sống, hãy hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tha nhân như Chúa và Mẹ đã làm. Amen.
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria...
Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).
Chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa khi được sứ thần Gabrien truyền tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ.
Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria”. Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính này để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.
Việc tôn sùng Trái Tim Mẹ Maria có một truyền thống đẹp đẽ hơn nữa qua tấm ảnh đeo của Thánh Catarina Laboure năm 1830 và việc hiện ra của Đức Mẹ tại Fatima từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima, Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng ''để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ''. Toàn bộ lời nhắn nhủ của Mẹ là một lời cầu nguyện, thống hối và bằng những việc hy sinh, đền bù phạt tạ Thiên Chúa về những xúc phạm đến Ngài.
Vào năm 1942, kỷ niệm 25 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Cũng vào năm ấy, ngài đã chọn mừng lễ này vào ngày 22 tháng 8, một tuần sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. Ngày 4 tháng 5 năm 1944, ngài loan báo mở rộng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cho Giáo Hội hoàn vũ. Với những cải cách về phụng vụ trong Công Đồng Vatican II, lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ được dời về một ngày ngay sau Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính là ngày thứ bảy sau chúa nhật thứ hai sau Lễ Hiện Xuống.
Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.
Phụng vụ Giáo hội đọc Tin Mừng thánh Luca 1, 41- 51 trong ngày Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ với trình thuật cuộc viếng thăm, gặp gỡ giữa Đức Mẹ và người chị họ Ê-li-sa-bet. Bản văn Tin Mừng đọc trong thánh lễ hôm nay được bắt đầu ngay bằng lời ca của người chị họ Ê-li-sa-bet ( c 41), chứ không phải từ câu 39 của chương 1 cho trọn vẹn bài đọc. Tuy thế, chúng ta vẫn có một sự xuyên suốt của bản văn khi suy niệm Tin Mừng.
Đức Mẹ đã rời Nazaret để đi thăm bà Ê-li-sa-bet, chắc chắn , đây phải là cuộc gặp gỡ của niềm vui và hạnh phúc. Mẹ đến để chia sẻ với niềm vui của người chị họ đang mang thai, nhưng đồng thời, Mẹ cũng đến để chia sẻ niềm vui của chính mình cho người chị họ, sau khi lãnh nhận sứ điệp của Thiên Chúa uỷ thác. Mẹ đến gặp, hàn huyên chuyện trò, giúp đỡ chị Ê-li-sa-bet bằng một tình yêu từ trong trái tim mình. Tình yêu nơi Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ gợi đến cho chúng ta sứ điệp của tình yêu. Trái tim, biểu tượng của tình yêu, mà nơi Mẹ, đó là một tình yêu thanh khiết và hoàn toàn tự hiến, trao ban cho Thiên Chúa và cho mọi người, tình yêu của sự rao loan tin mừng cho người khác. Đó cũng là tình yêu của sự sẵn sàng chia sẻ buồn vui, gánh lấy những vất vả, lo lắng của người khác, để rồi, tình yêu nơi trái tim Mẹ cũng là tình yêu của chấp nhận mọi đau khổ trong cuộc đời của chính Mẹ. Chính tình yêu đó đã khai mở, dẫn đưa Mẹ đến gặp chị họ Ê-li-sa-bet.
Sự hiện diện của Mẹ đã không chỉ làm chị Ê-li-sa-bet hạnh phúc, nhưng còn cho bào thai trong lòng người chị họ cũng sung sướng nhảy mừng ( c.41 ). Lẽ ra, đây là một hiện tượng bình thường khi bào thai ở độ tháng thứ sáu thường ngọ nguậy trong lòng người mẹ. Nhưng với Ê-li-sa-bet, bà đã giải thích và mặc cho hiện tượng này bằng một sự diễn giải hoàn toàn khác thường. Đó là niềm vui và sự đầy tràn Thánh Thần (c 42), một sự diễn giải thường tìm thấy trong Kinh Thánh. (Xh 31,3; Ds 11,17-29; 24,2; Tl 3,10; 6,34; 14,6; 1 Sm 10,6; 10,10; 11,6). Sự đầy tràn Thánh Thần được miêu tả như một sự kiện đặc biệt và khác thường mà chỉ người tin mới mô tả được tâm trạng hạnh phúc ấy. Và với sự đầy tràn Thánh Thần ấy, nhìn từ bên ngoài, Thánh Thần sẽ đến trên những người tin để họ thực hiện nhiệm vụ cụ thể nào đó. Đây là thời điểm đặc biệt của bà Ê-li-sa-bet khi được đầy tràn Thánh Thần để bà Ê-li-sa-bet thực hiện nhiệm vu đặc biệt của mình: soạn ra một bài ca ngợi Thiên Chúa qua Đức Ma-ri-a( c. 42 -45).
Bài hát mà Ê-li-sa-bet soạn và cất lên là sự ngợi ca Thiên Chúa. Trong thi ca Do Thái, bài ca ngợi này chứa đựng một lối song song ba yếu tố:
“Được chúc phúc giữa muôn người phụ nữ” (c. 42) “Người con em cưu mang cũng được chúc phúc” ( c. 42) “Em được chúc phúc vì đã tin” ( c. 45).
Đức Ma-ri-a được chúc phúc giữa muôn người phụ nữ, có lẽ, không vì những gì Mẹ đã làm nhưng Mẹ có phúc vì tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ. Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn và được trao sứ mạng đặc biệt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài đã làm cho Trái tim Mẹ trở nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần, để chương trình cứu chuộc loài người được thực hiện. Trong tư cách thụ tạo của Thiên Chúa, Mẹ được ân ban đặc biệt để nhận lãnh sứ mạng của tình yêu, của sự cứu độ. Sự tin yêu, vâng phục, và phó thác vào Thiên Chúa của Mẹ là nền tảng của tình yêu nơi trái tim Mẹ. Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, được toàn vẹn hoá phẩm giá người nữ nơi Mẹ cưu mang. Chính sự diễm phúc này, Mẹ đã đồng hành cùng Con Mẹ và đồng hành với nhân loại trên đường về Nước Trời.
“Mẹ của Đấng Cứu Thế” ( c 43). Ê-li-sa-bet đã nhìn Đức Ma-ri-a với một cái nhìn vượt trên những gì hữu hình nơi thân xác Mẹ, để nhận ra người em họ của mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế. Điều này gợi nhớ lại lời nói của Vua Đavit khi ông nói về Chúa của mình “Sấm ngôn của Đức Chúa, ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110,1). Ê-li-sa-bet dường như đã nhận ra người con mà người em Ma-ri-a sẽ sinh ra chính là Đấng Cứu Thế. Trong cuộc sống đức tin người Kitô hữu hôm nay, giữa những khó khăn, buồn vui của cuộc sống, Mẹ Ma-ri-a luôn là nơi để mọi người chạy đến khẩn cầu. Mẹ chuyển trao và cầu bầu cho chúng ta trước toà Chúa. Mẹ yêu chúng ta, một tình yêu của người Mẹ trọn vẹn nhất, hy sinh, trao ban và làm tất cả vì con cái Mẹ. Trái tim Vô Nhiễm Mẹ thanh khiết, ôm lấy tất cả những đau khổ, tội lỗi của con cái Mẹ, để từ đó, xin Chúa ân ban và giải thoát chúng ta khỏi những nước mắt và than khóc, những chán chường và thất vọng, những bế tắc và nghi nan. Mẹ ở đó với mỗi người chúng ta, sẵn sàng chờ đợi lời cầu xin của chúng ta trong mỗi giây phút cuộc đời. Vì, Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế và cũng là Mẹ của chúng ta.
“Mẹ có phúc bởi vì Mẹ đã tin” (c 45). Được chúc phúc cũng đồng nghĩa với hạnh phúc mà Mẹ được Thiên Chúa ân thưởng. Mẹ có phúc bởi vì Mẹ đã tin. Chúng ta có thể nhận ra được quy trình đó: đầu tiên, Thiên Chúa ban cho Mẹ ân sủng của Ngài, sau đó, Mẹ đã tin và cuối cùng Mẹ đã có được sự hạnh phúc bên trong tâm hồn. Và, ở đây, chúng ta có thể có được công thức: Ân sủng + Niềm tin = Hạnh phúc nội tại. Niềm tin như là chìa khoá để mở kho tàng quà tặng của Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta.
Lời ca ngợi Mẹ của người chị họ Ê-li-sa-bet được Mẹ đáp trả bằng bài ca tạ ơn Thiên Chúa. Mẹ đã hát, ngợi ca sự vĩ đại và vinh quang của Thiên Chúa bởi Mẹ nhận ra lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa dành cho Mẹ. Mẹ cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã đổ tràn tình yêu, bình an, niềm vui và sự công chính của Ngài trên Mẹ. Mẹ đã sống sự thanh khiết, để làm đẹp đền thờ Thiên Chúa nơi Mẹ. Trái tim thanh khiết của Mẹ đã được Chúa chúc phúc và ngự đến.
Còn chúng ta, phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thực sự là cung điện để Thiên Chúa ngự đến? Những bất trung, tội lụy, những yếu đuối và đam mê, những hận thù và chia rẽ… đã khiến chúng ta không thể sống thánh trong mỗi phút giây đời mình? Đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ uế? Đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu không bờ bến của Thiên Chúa trong cuộc đời của mỗi người? Chúng ta có theo Mẹ để đón nhận sứ vụ của mình bằng một niềm tin và thái độ vâng phục tuyệt đối hay không? Mẹ đã tin cậy vững vàng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời Mẹ. Còn chúng ta, phải chăng chúng ta chỉ sống bằng niềm tin nửa vời, một sự phó thác nửa vời nơi cuộc đời Kitô hữu của mình?
Lạy Thiên Chúa chí thánh,
Chúa đã làm cho Đức Trinha Nữ Ma-ri-a nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần.
Vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự. Amen.
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Pio IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria, hoặc các kiểu nói tương tự.
Nhưng nhầt là sau khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima bên Bồ Đào Nha năm 1917 với ba trẻ mục đồng Lucia, Phanxicô và Giacinta, và viêc phát hành các bút tích của chị Lucia, kiểu nói ”trái tim vô nhiễm nguyên tội” Mẹ Maria chiếm ưu thế trong thói quen của Giáo Hội và trong phụng vụ. Nó đạt tột đỉnh giữa các năm 1942-1952, vì ảnh hưởng của các biến cố tại Fatima đã xác định việc thánh hiến thế giới cho Trái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ và nhiều cuộc thánh hiến từ phía các cơ cấu giáo hội, và đôi khi cả từ các tổ chức dân sự. Phong trào tôn sùng Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ đạt tột đỉnh vào năm 1944 với việc cử hành lễ kính trong toàn Giáo Hội Latinh. Các năm đó cũng là thời điểm lòng sùng kính Đức Mẹ nở hoa, và việc tôn sùng Trái Tim vô nhiễm Mẹ Maria đạt cường độ mạnh mẽ chưa từng thấy.
Tuy nhiên, rất tiếc các năm trước khi Công Đồng Chung Vaticăng II khai mạc, và nhất là thời gian hậu Công Đồng, lòng tôn sùng Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria gặp khủng hoảng, cũng giống như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong Thông điệp ”Haurietis aquas” ”Các con sẽ kín múc nước” về lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, công bố ngày 15 tháng 5 năm 1956, Đức Giáo Hoàng Pio XII đã viết rằng: ”Thật đáng than phiền rằng trong qúa khứ cũng như trong ngày nay, việc phụng tự rất cao qúy này đã không có được vinh dự và sự trân trọng nơi một số Kitô hữu, và đôi khi cả nơi một số người nói rẳng họ được linh hoạt bởi sự nồng nhiệt chân thành đối với các lợi ích của đạo công giáo và việc thánh hóa chính mình”.
Ngay trong năm 1956 Thông điệp đã duyệt xét các lý do qua đó, theo ý kiến của vài tác giả, việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã gặp khủng hoảng. Đối với họ việc tôn sùng Thánh Tâm là điều không thời sự và không thích hợp, là ”ít đáp ứng, nếu không nói là làm hại cho các nhu cầu tinh thần cấp thiết nhất của Giáo Hội và của nhân loại trong giờ phút hiện tại này”; là ”siêu tưới gội, vô ích và nguy hại” đặc biệt đối với những chiến sĩ của Nước Thiên Chúa, lo lắng thánh hiến điều tốt nhất trong các năng lực tinh thần của họ để gia tăng các thực hành và các việc đạo đức, mà họ coi là cần thiết hơn cho thời đại ngày nay”; là ”suy tàn và tình cảm”, nghĩa là ”một hình thức tôn sùng thấm nhuần tình cảm hơn là các tư tưởng cao qúy và các trìu mến, và vì thế phù hợp với phái nữ hơn là với các người có học thức”; là có dấu vết ”yếu đuối thụ động”, bởi vì họ cho rằng ”việc tôn sùng này qúa bị cột buộc vào các hành động hãm mình, đền tội và các nhân đức mang dấu vết thụ động, vì thiếu các hoa trái rõ ràng bề ngoài, và do đó ít thích hợp với việc củng cố tinh thần tu đức tân tiến, mà bổn phận hoạt động công khai phải có”.
Đây là các thành kiến đích thật được nuôi dưỡng bởi chủ thuyết duy tự nhiên và khuynh hướng tình cảm gia tăng. Để giải thích chúng một vài tác giả đã đưa ra các lý do sau đây. Chẳng hạn như sự không chính xác của nền thần học liên quan tới việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu; việc ”đền bù” bị hiểu sai và thực hành lại còn sai hơn nữa; tinh thần tu đức suy đồi được khích lệ trong một vài hiệp hội đạo đức; biểu tượng bị áp dụng lệch lạc và được giới thiệu như là một bức màn chắn giữa Chúa Kitô và tín hữu; một vài sự không hài hòa giữa các hình thái việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và các hình thức sâu xa hơn của lòng đạo đức trong thời đại chúng ta; các hình thức được gợi hứng bởi giáo hội học, bởi giáo thuyết về thân mình mầu nhiệm, kinh nghiệm về cuộc sống của Thiên Thúa Ba Ngôi. Thế rồi còn có sự vỡ mộng và cụt hứng không thể biệm minh, nhưng thực sự đối với vài ”lời hứa” vén mở cho thấy chúng vô ích, khi nhằm bảo đảm cho các cá nhân và xã hội chống lại các tai ương: thí dụ như ”Ta sẽ thống trị bên Tây Ban Nha với nhiều tôn sùng hơn các nơi khác”; khuynh hướng tôn sùng ích kỷ và duy lợi ích xem ra xúi dục sự tôn sùng này, trong khi nó bị hiểu sai; nghệ thuật các ảnh tượng chưa gặp được các hình thái diễn tả giá trị, vì nó đã không thành công trong việc cống hiến nhiều hơn là vài kiểu mẫu gợi hứng mòn mỏi hay một sở thích gây chán nản. Và những nhận xét đại loại kéo dài vô tận, trong các nguyệt san đạo đức, trong các sách báo tôn giáo, các bài giảng vô vị và tuyệt đối, trái nghịch với các khuynh hướng tân tiến ngày càng đòi hỏi sự đơn sơ và chân thật.
Ở đây không phải là chỗ để bênh vực lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ, cũng đã chịu cuộc khủng hoảng như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, tuy trong các tỷ lệ ít hơn. Các phương thức giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng này trước hết thuộc trật tự tổng quát, và cũng là những phương thức cho phép thoát khỏi cuộc khủng hoảng gọi là ”cuộc khủng hoảng thời hậu công đồng”. Tuy nhiên, không thể coi Công Đồng Chung Vaticăng II là nguyên do của cuộc khủng hoảng này. Nó đã chỉ là dịp, vì các văn bản giáo huấn tuyệt hảo của Công Đồng đã chỉ được đọc và áp dụng bởi một vài lãnh vực trong Giáo Hội. Nói cách khác, chính sự kiện đại đa số Kitô hữu đã không đọc, không hiểu biết, thấm nhuần, áp dụng và sống các giáo huấn của Công Đồng nên mới có các lệch lạc gây ra cuộc khủng hoảng đó.
Bởi vì, nếu thực sự Công Đồng Chung Vaticăng II đã hướng lòng đạo đức của tín hữu tới việc thờ phượng có tính cách phụng vụ, thì Công Đồng đã không hề lơ là trong việc nhắn nhủ họ về các cung cách sống đạo bình dân chân thực. Bằng chứng là số 67 Hiến chế về Giáo Hội viết rõ ràng như sau: ”Giáo Hội khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn Mẹ và đã được Huấn Quyền Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Nữ Trinh và các Thánh.
Công Đồng cũng hết lòng khuyến khích các nhà thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm giá phi thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng đại sai lầm, cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi qúa đáng... nhưng hãy làm sáng tỏ đúng mức những vai trò và đặc ân của Đức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân này luôn luôn quy hướng về Chúa Kitô là nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự đễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Như thế, chúng ta phải công nhận rằng cần canh tân việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ theo các tiêu chuẩn sau đây.
Thứ nhất, trở về với các nguồn mạch đích thật của việc tôn sùng là Thánh Kinh, Truyền Thống, Huấn Quyền và suy tư thần học được cập nhật. Dĩ nhiên, không thể bỏ qua vài ”nguồn mạch” có tính cách thần bí và đặc sủng, khi chúng chân thực như các mạc khải trong các lần Đức Mẹ hiện ra ở Helfta, Paray-le-Monial, Fatima vv... Tuy nhiên, các nguồn mạch có tính cách đặc sủng này phải được minh giải và đặt để dưới các nguồn mạch chính của lòng đạo đức Kitô.
Thứ hai, canh tân các thực hành ”cổ điển” sùng kính Trái Tim Mẹ Maria và các cơ cấu đã mất tính thời sự. Điều này đòi hỏi phải duyệt xét nền tảng phê bình lịch sử các ”lời hứa”, bằng cách nhận ra nơi chúng ý nghĩa sâu xa, mà chúng có trong lãnh vực thần học về ơn thánh, và tránh đừng để bị lôi kéo bởi cơ chế của các công thức.
Thứ ba, cần có giải thích thần học ý niệm nền tảng về việc đền tạ để thiết lập một mối dây sâu xa giữa các việc sùng kính này và các mầu nhiệm cao cả nhập thể và cứu chuộc như lời thánh Jean Eudes đã nói: ”Tôi muốn cho thấy một cách rõ ràng rằng việc tôn sùng này không phải là không có nền tảng cũng như lý do, mà nó dựa trên các nền tảng vững vàng và chắc chắn đến độ tất cả mọi quyền lực của trái đất và của hỏa ngục cũng không có khả năng phá hủy... và điều này để khơi dậy một sự trân qúy khác đối với việc tôn sùng Trái Tim rất thánh của Mẹ Thiên Chúa, như là việc tôn sùng rất vững chắc và rất có nền tảng...” (x. S. De Fiores, Maria presenza viva nel popolo di Dio, Roma 1980, 86-88).
Tóm lại, có thể nói lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria luôn đi song song với nhau. Bởi vì trong gia đình nhân loại đã không hề có hai trái tim nào và sẽ không bao giờ có hai trái tim nào khác đập cùng nhịp yêu thương cứu chuộc như Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria. Phúc cho các Kitô hữu nào có lòng yêu mến và tôn sùng Hai Trái Tim Cực Thánh ấy, vì Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria sẽ đặc biệt che chở và không bao giờ để cho họ bị hư mất đời đời.