Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi”.
Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác. Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ. Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích. Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau. Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác. Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc? Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay. “Anh em đừng xét đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán. Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15), phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11), biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6). Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt, mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều. “Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2). Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em. Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta. Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy. Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi. Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài, để nói về chuyện người đạo đức giả. Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình. Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được. Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười. Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi. Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em, nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình. Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã, rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em. Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình. Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy. Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình. Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm, càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình. Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi, chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác, hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa, thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng. Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu: “Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…” Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha, nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác. Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy. Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được. Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con. Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen. ---------------------------------
Ai cũng thích xét đoán. Nhưng thường sai lầm. Có hai sai lầm cơ bản. Sai lầm vì chủ quan. Không xét mình nhưng luôn xét người. Xét mình thì nặng thành nhẹ. Xét người lại nhẹ thành nặng. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’. trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”. Sai lầm khác nguy hiểm hơn. Đó là quên Thiên Chúa mới có quyền xét đoán. Vì Thiên Chúa là chủ. Không chỉ xét đoán bâng quơ. Nhưng ấn định số phận đời đời của ta. “Anh đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. Nhưng Thiên Chúa rất công bằng và nhân hậu. Người xét đoán ta theo cách ta xét đoán anh em. “Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”. Chính ta tự tạo thước đo và bàn cân cho mình. Nên hãy cẩn thận.
Tổ phụ Áp-ra-ham không xét đoán ai. Và cũng chẳng coi trọng xét đoán của người đời. Chỉ quan tâm đến Thiên Chúa. Nhất nhất thi hành mệnh lệnh của Chúa không sai chạy. Vững tin vào Lời Chúa hứa. Dù trải qua những giây phút thật khó khăn. Vẫn tin cả khi không còn gì để tin. Luôn để Chúa làm chủ đời mình. Luôn cư xử hoà nhã tốt lành với đồng loại. Vì thế ông được chúc phúc. Và muôn dân cũng nhờ ông mà được chúc phúc. “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Nhờ trung tín với Chúa, Áp-ra-ham trở thành chuẩn mực. Phúc cho ai chúc phúc cho ông. Thiệt cho ai nguyền rủa ông (năm lẻ).
Ít-ra-en, đặc biệt vào thời vua Hô-sê thì không được như thế. Nên bị thua vào tay Át-sua. Và bị lưu đầy. Vì phản bội Chúa. “Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác”.
Chúa làm chủ lịch sử. Làm chủ thế giới. Làm chủ vận mệnh bản thân ta và dân tộc ta. Chúa mới có quyền phán xét. Và phán xét mới quyết định số phận. Hiểu biết như thế ta sẽ không còn e ngại những bậc quyền cao chức trọng. Sẽ biết kính sợ Thiên Chúa. Vì Chúa sẽ phán xét ta. Nhưng ta cũng tin tưởng. Vì Người phán xét ta theo cách ta đoán xét người khác. Sẽ khoan dung với ta. Nếu ta biết khoan dung với anh em.
Khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán đó là một lệnh truyền khắt khe, có nghĩa: đừng bao giờ xét đoán không tốt cho kẻ khác, đừng kết án ai. Sự xét đoán này là công việc của một mình Thiên Chúa. Không ai được thay thế cho Thiên Chúa. Hơn nữa mỗi người phải xác tín rằng mình không được quyền lưu ý kẻ khác về tội của họ, vì ai nấy đều là kẻ có tội.
Chúng ta hãy đưa ra đây một nhận xét của khoa tâm lý cổ điển để làm sáng tỏ câu: người ta sẽ đong cho các ngươi đấu nào mà các ngươi đã đong cho họ. Lời nói này của Chúa vượt quá sự khôn ngoan của các giáo sĩ Do thái thời Ngài; chính họ cũng đã nói những điều tương tự. Người ta thấy trên kia lệnh truyền đặc biệt của Chúa là không được ‘đong đấu’ nào cả. Nhưng ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: kẻ khác sẽ ‘đong đấu’ cho chúng ta, xét đoán chúng ta về tật xấu này nọ mà chúng ta có, và họ xem thấy nhưng chúng ta lại là những người duy nhất không trông thấy. Thật vậy, đặc tính của khuynh hướng xét đoán kẻ khác là làm cho con người hóa ra mù quáng về mình. Người ta biết rằng: tật xấu nào ta ghét nơi kẻ khác, tật xấu đó đáng ghét, vì người ta cũng có nơi mình. Kẻ xét đoán không ý thức rằng người khác cũng sẽ xét đoán lại họ căn cứ trên việc xét đoán họ làm. Người khác thấy điều mà chính họ không thấy. Người ta cũng có thể lật ngược lời của Chúa và quả quyết như sau: hãy tự xét đoán mình theo cách thức mình xét đoán kẻ khác.
Việc cấm xét đoán kẻ khác và việc kêu mời hãy tự xét mình, hãy lấy cái xà nơi mắt mình, quả là chính yếu trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Tại sao? Bởi vì khi ta xét đoán ai, ta tự tách lìa khỏi họ. Và tất cả chiều hướng của Phúc Âm là dẫn đến việc hợp nhất và thông hiệp. Hơn nữa, xét đoán là tự cướp đoạt cho mình cái thuộc về Chúa, điều này không chính trực.
Có những trường hợp người ta bị bó buộc phải phê phán về một người nào. Đó là vấn đề khác. Dầu sao đi nữa, sự phê phán này phải được lồng trong sự kính trọng và tình yêu.
Tôi có nghĩ tới cách tìm hiểu mình, căn cứ vào cái mà tôi chán ghét nơi kẻ khác không?
Augustin Goden trong khi còn là sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài điêu khắc. Có một người đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ Goden thiết kế một bức tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức tượng nhằm lúc ông đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra xưởng vẽ thấy Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao, Goden trả lời: "Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui mừng, vì biết rằng tác phẩm của tôi có giá trị".
Mỗi lần chấm thi một bộ môn nào đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ môn ấy cho biết nhận xét. Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận xét xác đáng, nếu không chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã không muốn những kẻ theo Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa hiểu được mình, vì con người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những gì được phô diễn bên ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp cái hình thức bên ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những tín hiệu gửi đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.
Bởi thế, con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu.
Ước chi lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử các đại lượng với chúng ta.
“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong măt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không để ý tới?” (Mt. 7, 1-3)
Không có những tiêu chuẩn
Chúa phán: “Đừng xét đoán”. Câu nói vắn gọn và rõ ràng. Câu nói có tính truyền lệnh. Câu nói không dành phần cho một tranh cãi nào hết. Ta không được xét đoán tha nhân về mặt luân lý. Định đọat ai tốt ai xấu không phải là việc của ta. Chuyện đó không liên hệ tới ta.
Lý do để biện minh rất đơn giản. Chúng ta không có được những tiêu chuẩn lẽ rá phải có để xét đoán. Chúng ta chỉ có những tiêu chuẩn yếu kém và ở mức thấp. Chỉ vì khi nói rằng: “Người này xấu. Điều anh đã làm là xấu”, ta chỉ có thể nói được cái bề ngoài mà thôi. Xét cho cùng, ta không biết rõ thật sự. Ta không thể nhìn thấy từ bên trong, nơi nội tâm con người. Ta không thể biết tại sao người ấy làm điều xấu; người ấy có làm điều xấu thật sự hay không, ta cũng chẳng biết được. Trước hết phải khẳng định rằng sự xấu tiềm ẩn trong lòng người. Và tim người ta rung động phập phồng điều gì, ta đâu có biết được. Chỉ mình Thiên Chúa biết được mà thôi. Thế nên chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán. Còn chúng ta thì không.
Trước khi xét đoán
Mặc dầu Chúa bảo ta “Đừng xét đoán”, Chúa biết rõ ta vẫn cứ xét đoán. Ta hay xét đoán người khác. Điều xấu có ở nơi người khác như cái gai đâm thẳng vào mắt ta và kích thích ta. Thế nên Chúa nói thêm: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em”.
Ta chẳng mấy tin vào chuyện cái xà ở trong mắt ta và cái rác ở trong mắt người anh em. Mà ta lại tin điều ngược lại. Ta đâu đến nỗi xấu như vậy. Không kể một vài điều ngoại lệ, người khác vốn xấu hơn ta. Đúng là ta thường có suy nghĩ như vậy đó.
Chúa Giêsu nghĩ gì về điều ta suy nghĩ ấy? Người chỉ đơn giản nghĩ rằng cách ta suy nghĩ như vậy là dấu chứng tỏ rõ ràng rằng chính trong mắt ta đang có cái xà đấy.
Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình”. Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời”.
Trong thực tế, có rất nhiều người hăng say, vội vã sửa lỗi cho anh em, dù là lỗi nhỏ, nhưng thực tế, lỗi mình thì lớn hơn rất nhiều mà không thấy hay cố tình che lấp để như một ngụy biện nhằm khẳng định mình là người đạo đức hơn người.
Đức Giêsu không có ý cấm chúng ta sửa lỗi cho anh em, bởi vì sửa lỗi cho anh em bằng việc nêu gương sáng và chân tình thì đây là đức ái. Tuy nhiên, vì hiềm khích thì lại trở thành gương mù và phản tác dụng.
Vì thế, nguyên tắc hữu lý và đạt tình chính là bao dung với tha nhân, và nghiêm khắc với chính mình. Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình. Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, theo Lời Chúa dạy hôm nay, chắc có lẽ chúng con sẽ bị xét đoán thật nhiều vì lối sống thiếu bác ái khi hay xét đoán anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con luôn biết thưa với Chúa: xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để yêu mến Chúa. Biết con để sống khiêm tốn. Chỉ khi nào chúng con biết sống như thế, chúng con mới yêu thương anh chị em cách thật lòng. Amen.
Sứ điệp: Một trong những đòi hỏi của lòng bác ái là đừng bao giờ xét đoán và lên án anh em mình. Hơn nữa, ta xét đoán anh em thế nào, thì Thiên Chúa cũng xét đoán ta như vậy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bản tính tự nhiên của con người là muốn hơn người khác, nên khi thấy ai hơn mình, thì tìm đủ mọi cách để hạ họ xuống: vạch trần những khuyết điểm hay thổi phồng những lỗi lầm của họ.
Lạy Chúa, bản tính tự nhiên đó cũng tồn tại trong con. Con vẫn nhìn anh em sống chung quanh con bằng một cái nhìn dò xét đầy nghi ngờ. Con đã đóng khung anh em con trong một cái nhìn đầy thành kiến và ghen ghét. Vì quá chủ quan, nên con không thấy cái xà trong mắt con, mà chỉ nhìn thấy cái rác trong mắt anh em. Con đã đeo một cái bị gồm những tật xấu của con ở đàng sau lưng, nên không thấy được những lỗi lầm to lớn của mình, nhưng lại dễ trông thấy những khuyết điểm nhỏ bé của người anh em. Con luôn dễ dãi với chính mình mà lại khắt khe với người khác.
Lạy Chúa, khi nhìn một sự việc, người ta có nhiều đoán xét khác nhau. Nếu tâm hồn con rộng lượng, con sẽ nhìn người khác với ánh mắt cảm thông. Nếu tâm hồn con xấu xa, con sẽ dễ kết án người khác cách bất công.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết sáng suốt nhận ra những lỗi lầm của mình. Xin ban cho con một tình yêu bao dung để con không bao giờ vạch lá tìm sâu hoặc phê bình người khác một cách ác ý. Xin cho con biết tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin cho con một tâm hồn quảng đại để luôn nghĩ tốt về người khác. Amen.
Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!”. Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Anh làm việc dù bị tật nguyền.
Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: Thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.
Suy niệm
Chúa Giêsu phán: “…đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thế nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Như thế, khi phải phán xét, chúng ta xét đoán trong bao dung thương mến như Ngài. Vì chúng ta sẽ “được” hay “bị” Thiên Chúa xét xử, đều do chính cách xét đoán của chúng ta đối với người khác: Quảng đại vị tha hay hẹp hòi ích kỷ, khoan dung độ lượng hay “bới lông tìm vết”, “chẻ sợi tóc làm tư” khi xét đoán người khác.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường có khuynh hướng nhìn thấy lầm lỗi của tha nhân mà không biết nhận ra những khuyết điểm của mình. Có những khuyết điểm của bản thân mình rất lớn, công khai gây gương mù, gương xấu cho anh chị em. Thiên Chúa - Ðấng thấu suốt mọi sự, Ngài mời gọi chúng ta phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em: Hãy nhìn vào bản thân mình trước như Chúa nhấn mạnh: “Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi”, cái đà được hình thành từ bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý trong suốt chiều dài lịch sử của cá nhân. Lấy được cái đà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật. Chúa muốn chúng ta phải nhận ra khuyết điểm của mình và sửa đổi.
Sửa đổi bản thân là lấy được cái đà trong mắt mình. Không có cái đà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ…
Thật thế, khi sửa đổi chính mình, ý thức được sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác mang niềm tin yêu, hy vọng cho các hối nhân. Chính Chúa đã và sẽ đối xử đại lượng với chúng ta.
Ý lực sống:
“Có một sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ nơi bóng tối những điều không tốt đẹp của người anh em mình” (Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận).
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: anh em không được xét đoán lên án kẻ khác, vì việc đó thuộc quyền của Thiên Chúa. Anh em xét đoán kẻ khác thế nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Sao anh em thấy cọng rác nhỏ trong con mắt kẻ khác, còn cái xà trong mắt anh em, mà anh em không thấy, nghĩa là lỗi lầm nhỏ mọn của người khác thì anh em thấy rõ rồi phê bình lên án đủ thứ, còn tội nặng nề của anh em, anh em lại không chịu thấy, không chịu nhận, không lo sửa chữa. Hãy lo từ bỏ sửa chữa tội lỗi của anh em trước đã rồi anh em mới giúp được kẻ khác chừa bỏ lỗi lầm của họ.
Xénophon, nhà hiền triết Hy lạp sống vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN đã nói như sau: “Thượng Đế đặt trên vai con người hai cái bị: một cái đằng trước, một cái đằng sau. Cái bị đằng sau chứa đựng tất cả những cái xấu của chính con người mình, còn cái bị đằng trước thì đầy rẫy những cái xấu của người khác. Do đó, con người khó mà thấy được những thiếu sót của mình, nhưng lại dễ dàng nhìn thấy những khuyết điểm của người khác”.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là dễ dàng kết án người khác, nhưng lại tỏ ra dễ dãi với mình. Chúa Giêsu đến để chỉnh đốn khuynh hướng lệch lạc ấy. Ngài mời con người hoán cải, nghĩa là quay trở lại với mình, nhìn thẳng vào thực chất của mình, để từ những yếu đuối, bất toàn của mình để dễ dàng thông cảm và tha thứ cho người khác hơn. Đó là nội dung những lời khuyên của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Dân gian có câu:
Chân mình thì lấm lê mê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Hay: Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê (Việc mình thì quáng, việc người thì sáng).
Chúa Giêsu vạch rõ tính cách của nhiều người trong chúng ta thường thì không thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại soi mói dò xét cái lỗi của người khác mà lắm khi cái lỗi của chúng ta còn lớn gấp trăm lần cái lỗi của tha nhân.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?” Cái lỗi nhỏ như cái rác của tha nhân thì mình dễ nhìn thấy, nhưng cái lỗi lớn như xà nhà của mình thì lại không thấy. Chúng ta dễ dàng kết án cái lỗi nhỏ nhặt của tha nhân, nhưng lại không ý thức về những tội tầy đình của bản thân...
Con người không thể tự cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào đó, cái xà được kết tinh bằng lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Giakêu, người thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải, Madalena đã dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).
Tóm lại, như lời Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng đong bằng đấu ấy cho anh em” (Mt 7,1-2), nghĩa là khi chúng ta dùng lăng kính chủ quan của mình để xét cho anh em thế nào, thì chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa thể ấy. Vậy nên, nếu khi xét đoán, chúng ta cần biết nhìn lại chính mình, nhất là trong lời xét đoán về anh em có thực sự khách quan hay không, có thực sự vì yêu thương anh em và vì sự thật hay không.
Truyện: Biểu diễn trồng táo
Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.
Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần nhận thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.
Nhà vua đưa mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc con nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ vì lỡ lấy thức ăn của người khác cho đỡ đói, thế mà các ngài đã kết án treo cổ hạ thần.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
1. Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta tùy theo cách chúng ta xét đoán người khác. Trong những câu sau đây ta phải luôn hiểu ngầm chữ Thiên Chúa:
- “Các con đừng xét đoán để khỏi bị (Thiên Chúa) xét đoán.”
- “Các con xét đoán thế nào thì cũng bị (Thiên Chúa) đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong cho người ta thì (Thiên Chúa) cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.”
2. Thay vì xét đoán người khác, mỗi người hãy lo xét đoán chính mình: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi. Hãy lấy cái đà trong mắt ngươi ra trước đã.”
Suy gẫm
1. Tại sao tôi thích xét đoán người khác?
- Lý do “có vẻ chính đáng” là tôi yêu thích sự thiện, do đó khi thấy người khác không thiện thì tôi lên án.
- Nhưng ngoài lý do “có vẻ chính đáng” ấy ra, còn nhiều lý do không chính đáng chút nào mà khoa tâm lý có thể vạch trần ra:
a/ do cái tính ác nằm sẵn trong người tôi thích “hạ” kẻ khác và ngầm sung sướng một cách vô ý thức khi người khác bị “hạ”;
b/ Đó là một cạnh tranh kiểu tiểu nhân: hạ người khác để nâng tôi lên. Khi tôi nói rằng người đó không tốt thì một cách gián tiếp tôi nói rằng tôi tốt.
2. Đức Giám mục Fulton Sheen đưa ra một tiêu chuẩn như thế này: tôi thường xét đoán người khác về nhiều khuyết điểm gì, đó là dấu tôi có chính khuyết điểm đó.
3. “Phê và tự phê” đó là một khẩu hiệu rất hay vì nó nhắc ta không nên chỉ làm một việc là phê người khác, nhưng phải làm thêm việc phê phán chính mình nữa. Tuy nhiên khẩu hiệu này vẫn chưa hay bằng giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài dạy tự phê trước rồi sau đó mới phê người ta.
4. Một hôm satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương vô cùng kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nhìn vào tấm gương cũng xấu xí, ghê rợn. Satan nghĩ có thể đưa tấm gương lên thiên đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần.
Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Nhưng càng bay tới thiên đàng thì hắn càng thấy gương mặt hắn xấu thê thảm. Cứ thế chưa tới cửa thiên đàng thì hắn không chịu vẻ thô bạo xấu xí của hắn nữa. Tay hắn run lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ tan từng mảnh và lan tràn khắp trên mặt đất. Đó là khởi đầu đại họa cho con người: từng hạt cát nhỏ bám vào mắt ai thì nằm mãi ở đó, và người đó chỉ thấy cái xấu trên thế gian này thôi.
Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người, đó là một cái nhìn của quỷ.
Nơi mỗi người vẻ đẹp của Thiên Chúa vẫn còn chiếu sáng. Chính cái nhìn này mới là nền tảng cho đức ái Kitô giáo.
5. Sở dĩ ta nên tránh việc phê phán và nghĩ xấu cho người là vì đoán xét của ta thường sai lạc, ít khi ta phê phán người khác một cách khách quan, mà thường phê phán theo cảm tính và ý nghĩ chủ quan của ta. Câu chuyện sau đây trong sách Liệt Tử vừa nghe thì thấy rất tầm thường nhưng nó chứa đựng một chân lý sâu xa về sự phê phán chủ quan của ta.
Có người đánh mất cái búa. ngờ cho đứa con nhà láng giếng lấy trộm.
Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, cử động, không một tí gì, là không rõ ra đứa ăn trộm búa cả.
Được một lúc, người ấy tìm thấy chiếc búa trong hố thì hôm sau trông thấy con người láng giềng: ngôn ngữ, cử chỉ, lại không còn một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa.
Câu chuyện này được viết ra hằng ngàn năm trước đây, vừa nghe thì có vẻ nhạt nhẽo vô duyên, nhưng đọc kỹ thì thấy nó phản ứng thật trung thực tâm lý của đa số con người đã sống từ ngàn năm trước cũng như hiện đang sống bây giờ. Sở dĩ phán đoán của chúng ta sai lạc là vì lý trí của ta thường bị chi phối bởi trăm ngàn yếu tố: như tiền bạc, danh vọng, lợi, hại, yêu, ghét, thân, sợ…
Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta tùy theo cách chúng ta xét đoán người khác.
- “Các con đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1).
- “Các con xét đoán thế nào thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (Mt 7,2).
Tại sao tôi thích xét đoán người khác?
- Lý do “có vẻ chính đáng” là tôi yêu thích sự thiện, do đó khi thấy người khác không thiện thì tôi lên án.
- Nhưng ngoài lý do “có vẻ chính đáng” ấy ra, còn lý do không chính đáng chút nào mà khoa tâm lý có thể vạch trần ra: Đó là cái tính ác nằm sẵn trong người tôi, làm cho tôi thích “hạ” kẻ khác và cảm thấy sung sướng một cách vô ý thức khi người khác bị “hạ”;
Một hôm, Satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương cực kỳ kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nào nhìn vào tấm gương cũng trở thành xấu xí, ghê tợn. Satan nghĩ, có thể đưa tấm gương lên Thiên Đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần. Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú hơn khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Càng bay tới gần Thiên Đàng thì khuôn mặt của hắn càng xấu xa thê thảm. Và cứ như thế, chưa tới cửa Thiên Đàng mà hắn đã không còn chịu được cái vẻ thô bạo xấu xí của hắn. Thế rồi, tay hắn run lên lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ ra từng mảnh, nát ra như những hạt cát và tung bay tràn lan trên khắp mặt địa cầu. Từ đó trở đi, hễ hạt cát nhỏ đó bám vào được mắt ai thì cứ nằm lỳ mãi ở đó, khiến người ấy chỉ còn thấy toàn là những cái xấu trên thế gian này mà không thấy được điều gì tốt đẹp khác. Đại họa cho con người khởi đầu từ đó.
Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người. Tổ tiên chúng ta thường nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Như vậy, mọi cái xấu, cái ác đều là do ma quỷ mà ra. Bởi vậy, chúng ta hãy coi chừng!
Đức Giám Mục Fulton Sheen nói: “Tôi thường xét đoán người khác về khuyết điểm gì, thì đó là dấu chính tôi có khuyết điểm đó”.
2. Thay vì xét đoán người khác, mỗi người hãy tự lo xét đoán chính mình: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái xà trong mắt ngươi. Hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước đã” (Mt 7,3).
Chúa bảo, trước khi xét đoán thì hãy tự xét mình trước đã: Hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước đã. Hãy tự phê trước rồi sau đó mới phê sau. Tốt hơn là đừng xét đoán.
Trong kho tàng truyện các thánh tu hành, có câu chuyện rất hay của ẩn sĩ Macariô. Ngài qua đời năm 300 ở Ai Cập.
Macariô sống ẩn dật 30 năm trong phòng mình. Suốt trong thời gian đó, có một vị linh mục vẫn đến cử hành thánh lễ trong phòng của Ngài. Để cám dỗ và quấy rầy vị tu hành này, ma quỷ xúi giục một người kia đến gặp vị ẩn sĩ Macariô và nói:
- Vị linh mục đến làm lễ mỗi ngày đó chính là một kẻ tội lỗi vì thế không nên cho ông ấy cử hành thánh lễ nữa.
Ẩn sĩ Macariô đáp lại:
- Hỡi con, Kinh Thánh dạy rằng: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Nếu linh mục ấy là người tội lỗi, thì Chúa sẽ tha thứ cho cha ấy”.
Sau khi nói như vậy, ẩn sĩ Macariô bắt đầu cầu nguyện và đã giải thoát cho người kia khỏi bị quỷ ám.
Khi vị linh mục đến làm lễ, cha ấy vẫn được tiếp đón vui vẻ như thường. Và Thiên Chúa thấy lòng nhân hậu của ẩn sĩ Macariô nên muốn khích lệ ngài bằng một dấu hiệu. Khi vị linh mục tiến lên bàn thờ, thì Macariô thấy một thiên thần từ trời xuống và đặt tay lên đầu vị linh mục và vị này biến thành một cột lửa trước lễ vật thánh.
Trong khi ẩn sĩ Macariô còn ngây ngất trước thị kiến này, thì ngài nghe có tiếng nói:
- Hỡi con người, tại sao ngươi lại ngạc nhiên ngỡ ngàng. Nếu một vua chúa trên trần gian này còn không cho phép thần dân mình xuất hiện trước mặt mình với quần áo nhơ bẩn, thì làm sao quyền năng của Thiên Chúa lại chấp nhận cho người cử hành Mầu Nhiệm Thánh mà ô uế trước vinh quang trời cao. Ngươi đáng được chứng kiến sự kiện này vì ngươi đã không chỉ trích vị linh mục.
Viện phụ Pineng, trong truyện các thánh tu hành, cũng đã trả lời cho một đan sĩ hỏi ngài xem có cần phải che tội cho người anh em mình không? Ngài đáp:
- Chính trong lúc chúng ta che tội cho người anh em chúng ta, thì Chúa cũng che tội cho chúng ta như vậy.
Mẹ Têrêsa bảo: “Đức Giêsu khuyến khích ta đừng xét đoán ai. Cố đừng xét đoán người khác. Nếu bạn xét đoán người khác thì bạn không thể nào yêu họ được”.
Tục ngữ của người Việt Nam chúng ta có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng “.
Việc của người khác gồm những việc tốt, việc xấu, việc lành, việc dữ, việc thiện, việc ác… đan xen với nhau, chúng ta thấy rất rõ ràng, chúng ta có thể giúp đỡ anh chị em của chúng ta nhận diện nó, xử lý nó rất hiệu quả, rất tốt, vì chúng ta là người ở ngoài cuộc.
Việc mình bao gồm các việc cũng giống những việc của người anh chị em chúng ta, nhất là những lầm lỗi, những tính hư tật xấu, những đam mê xác thịt, những khuyết điểm, những thiếu sót, những hạn chế…, những điều ấy chúng ta có đầy mình, nhưng chúng ta lại không thấy, không để ý tới, mà người khác lại thấy.
Mỗi người chúng ta chỉ có hai con mắt mà thôi. Chúng ta chỉ nhìn được phía trước, còn phía sau lưng chúng ta không thấy gì cả. Vì thế, chúng ta biết mình bị giới hạn rất nhiều mặt, chính vì thế mà chúng ta cần người anh chị em của chúng ta giúp đỡ để chúng ta mới thấy cái bóng tối trong cuộc đời chúng ta mà chúng ta không nhận ra.
Vì chúng ta bị giới hạn đủ điều, bị thiếu xót nhiều thứ, ngay cả trong tầm nhìn, trong suy nghĩ, trong phán đoán, trong lời nói, trong việc làm, cho nên Chúa nói với chúng ta: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7, 1 – 2). Vì thế, chúng ta đừng đoán xét anh chị em của mình. Nếu chúng ta làm như thế, chúng ta dễ bị lầm tưởng và đôi khi làm tội nghiệp và oan ức cho anh chị em của chúng ta. Do vậy, chúng ta hãy luôn nghĩ tốt, nghĩ tích cực cho anh chị em của chúng ta. Khi chúng ta sống tốt với người khác, Chúa không sẽ đối xử tốt với chúng ta.
Như vậy, trong cuộc sống chung trên trần gian này, chúng ta cần sự giúp đỡ lẫn nhau để sửa lỗi cho nhau mà mỗi ngày sống tốt hơn. Nhưng trước khi sửa lỗi người khác, chúng ta phải tự xét mình của mình trước, phải sửa những lỗi phạm của mình trước, rồi sau đó chúng ta mới giúp anh chị em chúng ta: “Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em. Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi” (Mt 7, 3 – 5). Trong lúc sửa những lỗi phạm của mình, chúng ta cần phải có lòng khiêm nhường, tự hạ mình xuống và nhờ anh chị em của chúng ta giúp chúng ta nhìn thấy lỗi phạm của chúng ta, biết đón nhận những đóng góp của người khác để mà chúng ta mỗi ngày sống mạnh mẽ hơn, sống tốt hơn, nhất là cố gắng cộng tác với ơn Chúa ban để vươn lên, không bao giờ thụt lui, không bao giờ bỏ cuộc.
Lạy Chúa, anh chị em của chúng con giúp chúng con nhận ra cái đà trong mắt chúng con và lấy ra để chúng con thấy rõ hơn, tuy là rất cần thiết, không thể thiếu được, nhưng ơn Chúa ban để giúp đỡ chúng con sữa lầm lỗi thì quan trọng hơn. Vì vậy, chúng con cần ơn Chúa rất nhiều, xin Chúa giúp chúng con biết làm lại những gì do tội lỗi chúng con làm đỗ vỡ, làm phân tán, cho dù chúng con có gặp những thử thách, cả những thử thách cam go nhất trong cuộc đời này, xin Chúa cho chúng con được mau chóng phục hồi để chúng con sống tốt hơn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 12 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, sẽ được Chúa ban sức mạnh chiến thắng quân thù, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Samuen Quyển I nói về: Đavít tình nguyện chiến đấu chống lại người Philitinh. Ai cũng biết câu chuyện Đavít với Goliát: ta được chứng kiến một bên là sự khôn ngoan của con người chỉ dựa vào chính mình, vào sức lực và khí giới, bên kia là sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa. Đức Chúa đã giật tôi khỏi nanh sư tử và vuốt gấu. Chính Người sẽ giật tôi khỏi tay quân thù. Chúa Trời đã gửi xuống tình thương và lòng thành tín của Người, Người đã cứu mạng tôi khỏi bầy sư tử.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, sẽ được Chúa bảo vệ chở che, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nítxê nói: Người Kitô hữu là một Kitô khác… Lạy Chúa, những người trú ẩn bên Chúa, ước chi họ đều được hỷ hoan và reo vui mãi tới muôn đời. Chúa bảo vệ những người mến yêu Danh Thánh: Nhờ Ngài, họ phấn khởi mừng vui. Nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy Chúa, nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, sẽ được Chúa trông nom và nuôi sống, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Sáng Thế nói: Ông Ápram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 32, vịnh gia kêu gọi: Hạnh phúc thay dân nào Chúa chọn làm gia nghiệp. Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lời Thiên Chúa là lời sống động và hữu hiệu, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã. Lời Chúa là ánh sáng, là đèn soi, sống động và hữu hiệu, phơi bày ra ánh sáng tất cả những gì thầm kín trong lòng ta, ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ sự thật, để ngước mắt trông lên Chúa, đợi chờ Người đến bữa cho ăn. Chúng ta là gia nghiệp của Chúa được Chúa chọn như Người đã chọn Ápraham, Chúa hằng để mắt trông nom gia nghiệp của Người. Trú ẩn bên Chúa, chúng ta sẽ hoan hỷ và reo vui đến muôn đời, bởi vì, Chúa hằng bảo vệ những ai mến yêu Danh Thánh, nhờ được nghe Danh Chúa, chúng ta sẽ phấn khởi mừng vui. Thánh Phaolô vừa biết Đức Kitô là Đấng nào, vừa biết kẻ đã được mang Danh Người, thì phải ăn ở làm sao. Thánh nhân đã cặn kẽ noi gương Chúa, đến độ, có thể diễn tả được Chúa nơi chính bản thân mình. Thật vậy, nhờ tận tình noi gương Đức Kitô như thế, người đã biến tâm hồn mình nên giống mẫu mực là Đức Kitô, đến nỗi, không phải là Phaolô nói nữa, nhưng là, chính Đức Kitô. Chúa nhân lành đã thông ban cho chúng ta một danh hiệu cao quý nhất, linh thiêng nhất, trọng đại nhất, vượt trên mọi danh hiệu, đến độ, chúng ta được vinh dự mang chính Danh của Đức Kitô, khi được gọi là “Kitô hữu”. Vì thế, mọi danh xưng dùng để giải thích tên gọi trên, nhất thiết, phải được tỏ rõ nơi con người chúng ta. Chúng ta đừng để mình bị xem là “Kitô hữu” giả, nhưng, phải dùng đời sống mình mà minh chứng cho tên gọi ấy. Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ mình là ai, mang danh xưng gì, để rồi, chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu đó, cho dù, có phải trả giá, chúng ta hãy vững tin rằng: Nếu chúng ta không rời xa Danh Thánh, thì, Chúa cũng sẽ chẳng rời bỏ chúng ta. Ước gì chúng ta hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Ước gì được như thế!
Gioan Tiền Hô. 24/06 – Thứ Ba tuần 12 thường niên – SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ. Lễ Trọng. “Nó sẽ gọi tên là Gioan”.
* Hội Thánh hân hoan mừng ngày thánh Gioan Tẩy Giả chào đời. Sứ mạng của người là “làm chứng cho ánh sáng”đang đến khai mạc thời đại mới: đó là Đức Giêsu Kitô. Khi đề cập đến vai trò có một không hai của vị tiền hô, chính Đức Giêsu đã nói: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”.
Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.
Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng. Ngày vui ấy thường đi với quà, tiệc mừng và những lời cầu chúc. Thật ra mừng sinh nhật có thể là một hành vi mang nhiều tính tôn giáo. Tôi nhớ đến ngày tôi được sinh ra, một sinh linh bé nhỏ chào đời, mang hình ảnh của Thiên Chúa, mang khuôn mặt của Đức Giêsu. Ngày ấy quan trọng và đáng nhớ ngay cả đối với chính Thiên Chúa. Dù thế giới có hơn 6,7 tỷ người thì một hài nhi mới sinh cũng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa. Thiên Chúa có những ước mơ và dự tính riêng về từng con người. Chẳng ai chào đời một cách tình cờ và ngẫu nhiên. Mỗi người đều cần cho kế hoạch lớn của Thiên Chúa. Mừng sinh nhật một cách nghiêm túc lại trở thành một lễ tạ ơn. Tạ ơn Chúa đã cho tôi được làm người ở đời. Bất chấp những khổ đau vấp ngã, những thất bại đắng cay, tôi vẫn xin được yêu mảnh đời Chúa dệt cho tôi. Hôm nay Giáo Hội mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả. Chỉ có Đức Giêsu và Mẹ Maria mới được mừng ngày sinh trong phụng vụ. Điều đó cho thấy sinh nhật của Gioan là biến cố có ảnh hưởng lớn. Bài Tin Mừng hôm nay nói vắn gọn về chuyện sinh hạ và cắt bì Gioan, nhưng kể dài hơn về chuyện đặt tên cho em. Chúng ta có thể cảm được niềm vui lớn lao của người mẹ là bà Êlisabét. Niềm vui này đã bắt đầu từ khi bà có thai Gioan. Chẳng biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bà đã cao niên lại không sinh con. Hiếm muộn thời xưa thường bị coi là do người vợ. Đó là một sự sỉ nhục (St 30, 23) và là một hình phạt của Chúa (2 Sm 6, 23). Nhưng bà Êlisabét lại là người công chính thuộc dòng tư tế Aharon, “sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì”(Lc 1,6). Bà đã sống với nỗi đau này trong nhiều năm, sau bao lần chờ đợi và thất vọng. Khi biết mình có thai trong lúc tuổi già, bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước người đời (Lc 1,25). Ngày sinh của Gioan là ngày vui đặc biệt cho bà, người làm mẹ lần đầu. Niềm vui ấy còn được nhân lên vì bà sinh một cậu con trai. Láng giềng, thân thích đến chung vui với bà vì bà được Chúa thương. Chúng ta không rõ bởi đâu mà Êlisabét đòi phải đặt tên cho con mình là Gioan. Chỉ biết bà đã phản ứng quyết liệt chuyện đặt tên con là Dacaria. Nhưng quyết định của người cha mới là quan trọng, vì người cha thường là người có quyền đặt tên cho con, qua đó nhìn nhận người con ấy là của mình (x. Mt 1, 21). Ông Dacaria chẳng những bị câm, lại còn điếc nữa, nên người ta phải làm hiệu để hỏi ý ông. Khi ông viết trên bảng tên “Gioan”thì mọi người chưng hửng. Chính lúc ấy một phép lạ xảy ra: ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa. Gioan là tên mà sứ thần đã dặn ông lúc dâng hương trong Đền thờ. Gioan (Yôkhanan) có nghĩa là ĐỨC CHÚA thi ân. Gioan thật là một ơn của Chúa và sẽ đóng một vai trò trong lịch sử cứu độ. Chúng ta để ý đến vai trò của bà con láng giềng trong bài Tin Mừng này. Họ đến chung vui, can thiệp ít nhiều vào chuyện đặt tên đứa trẻ. Họ bỡ ngỡ với cái tên Gioan, và kinh sợ khi ông Dacaria nói lại được. Việc sinh hạ Gioan quả đã được vây bọc bởi nhiều chuyện lạ lùng. Tiếng vang không chỉ nơi láng giềng thân thích, mà còn được loan truyền khắp vùng đồi núi xứ Giuđê (c. 65). “Rồi đây đứa trẻ này sẽ ra thế nào?” Đó là câu hỏi mà ai cũng để tâm suy nghĩ sau khi nghe câu chuyện. Hẳn là em này sẽ có một định mệnh và ơn gọi đặc biệt. Có thể sau đó mọi sự lại lắng xuống, còn cậu Gioan thì vẫn lớn lên, tinh thần vững mạnh. Cậu không lập gia đình và sống trong hoang địa, chờ ngày đến với Ítraen. Mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta thấy được sự khiêm tốn của Thiên Chúa. Để giới thiệu Con của Người là Đức Giêsu cho dân Ítraen, Thiên Chúa cần đến Gioan, một người dọn đường. “Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối”(Cv 13, 24). Và Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc sinh hạ của con người này. “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi”(Is 49,1). Hình ảnh người Tôi Trung trên đây trong Isaia khá hợp với Gioan. “Người là đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người Tôi Trung đem nhà Giacóp về cho Người…”(Is 49,5). Hóa ra việc Thiên Chúa chọn, gọi và giao sứ mạng đã diễn ra ngay từ con người chỉ mới là phôi thai trong lòng mẹ. Điều này đúng với Gioan: “Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít raen về với Đức Chúa… và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”(Lc 1, 15-17). Gioan đã được gọi để làm ngôn sứ cho dân tộc của ngài, giúp cho dân Ítraen đón nhận Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông. Ơn gọi ấy đã làm cho ông hiện hữu ở trên đời. Cuộc sinh hạ của Gioan được coi là kỳ lạ. Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng. Khi rửa tội một em bé mới sinh, chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao? Đâu là định mệnh tương lai của em? Đâu là con đường riêng mà Chúa muốn em đi? Chúng ta chỉ mong bàn tay Chúa ở với em (Lc 1, 66). Những thai nhi, những hài nhi, những trẻ thơ hôm nay ở quanh ta cũng được hiện hữu và được trao một sứ mạng. Mừng sinh nhật một vị thánh, chúng ta thêm trân trọng sự sống nơi các em, và thấy mình có bổn phận nâng đỡ để các em đi con đường Chúa muốn và trở thành những người đưa dân tộc Việt Nam đến với Chúa.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
"Thiên Chúa đa gọi tôi từ bụng mẹ, từ thân xác mẹ tôi, Người đa đặt tên cho tôi”(Is 49:1).
1. Hôm nay chúng ta mừng kính le sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng lời của tiên tri Isaia rất thích hợp để dien tả nhân vật trọng đại này của Thánh kinh, người là một gạch nối giưa Cựu Ước và Tân Ước. Trong hàng ngu các vị đại tiên tri và số nhưng người công chính thi Gioan “Phép Rửa”đa được sự quan phòng Thiên Chúa đặt để đi trước Đấng Thiên Sai (Messiah) hầu sửa soạn con đường trước cho Ngài bằng cách giảng dậy và làm chứng nhân cho cuộc sống của Đức Kitô.
Trong tất cả các thánh nhân, chỉ riêng có thánh Gioan Tẩy Giả mới được Lich Phụng Vụ của Giáo Hội mừng ngày sinh nhật mà thôi. Chúng ta nghe từ Sách Thánh, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi Tôi Tớ của Ngài “từ trong bụng mẹ”. Lời xác nhận này trong ý nghĩa đầy đủ nhất nói về Chúa Kitô, nhưng trong một ý nghĩa rộng hơn cung có thể áp dụng vào trường hợp của Vi Tiền Hô đi trước Ngài. Cả hai đều được sinh ra do kết quả sự can thiệp từ Thiên Chúa: một Đấng được sinh ra bởi một Trinh Nư, Đấng khác sinh ra bởi một bà lao hiếm muộn. Ngay cả khi còn trong lòng mẹ, Gioan đa chỉ điểm cho thấy Đấng se mặc khải cho thế giới về chương trinh yêu thương của Thiên Chúa.
2. "Từ trong bụng mẹ Ngài đa kêu gọi tôi" (Thánh vinh đáp ca)
Hôm nay chúng ta có thể dùng câu của Thánh Vịnh này áp dụng vào chính chúng ta. Thiên Chúa biết và yêu thương chúng ta ngay cả trước khi chúng ta mở mắt chào đời để chiêm ngắm kỳ công của thọ tạo. Khi sinh ra con người nhận được một tên gọi trần gian. Nhưng ngay trước đó, moi người đa có một tên thần thánh: tên mà Thiên Chúa Cha biết và yêu thương họ từ thuở đời đời cho đến muôn thuở. Điều này đúng cho hết mọi người, không trừ ai cả. Không ai là người vô danh trước nhan Thiên Chúa! Tất cả đều có giá tri binh đẳng trước mắt Ngài: tất cả đều khác nhau, nhưng tất cả binh đẳng, và tất cả đều được gọi là con cái của Thiên Chúa.
"Tên con trẻ là Gioan" (Lk 1:63). Trước sự bơ ngơ và kinh ngạc của người thân và láng giềng, ông Zechariah xác nhận đây là tên con trai của ông ta, khi ông viết tên đó lên chiếc bảng nhỏ. Chính Thiên Chúa, qua trung gian thiên thần đa ban tên đó cho Gioan và tên đó theo nguyên nghĩa Do thái có nghĩa là: “Thiên Chúa có lòng từ tâm”. Thiên Chúa tốt lành với mọi người: Ngài muốn họ được sống; Ngài muốn họ được cứu chuộc. Thiên Chúa tốt với dân của Ngài: muốn họ trở nên sự chúc phúc cho toàn thể các quốc gia địa cầu. Thiên Chúa thương yêu nhân từ với nhân loại: Ngài hướng dan con cái Ngài trên con đường hành hương về đất hứa nơi mà hòa bình và công chính se thống trị. Tất cả nhưng điều này đều chứa trong tên của Gioan!
Anh chi em thân mến, thánh Gioan Tẩy Gỉa là một ‘người đưa tin’, một sứ giả, một người đi trước dọn đường: Người được sai đến để sửa soạn đường cho Đấng Kitô. Nhân vật Gioan Tẩy Gỉa se nói thế nào cho chúng ta tại đây, ở Kyiv này, ngay chính lúc khởi đầu của cuộc hành hương của tôi tới quê hương anh chi em? Đây lại không phải là do đường lối Chúa Quan Phòng mà nhân vật Gioan này nói với chúng ta đúng vào thời điểm hôm nay tại Kyiv này sao?
3. Chính Tại Kyiv mà phép Thanh Tẩy cho người Nga đa khởi điểm. Từ nơi này mà đời sống đức tin Kitô giáo đa bắt đầu lan tràn, Phúc Am đa được mang đến cho mảnh đất của Rus cổ xưa. Thế rồi nhưng lanh thổ của Đông Au và sau này qua vùng Urals, trong các lanh thổ của Châu Á. Trong một nghĩa nào đó, thi chính Kyiv đa đóng vai trò là “người tiền hô của Thiên Chúa”giưa nhiều dân tộc để rồi Phúc Am được tuyên giảng và phát xuất từ nơi đây.
Thánh Volodymyr và nhưng cư dân của nòi giống ‘Rus’ đa được rửa tội bởi các nhà truyền giáo từ thành Constantinople, một trung tâm vĩ đại nhất của thế giới Thiên Chúc giáo thuộc Đông phương thuở đó. Do vậy mà Giáo Hội mới khai sinh đa đi sâu và được sự che chở trong đức tin và văn hóa của Giáo Hội truyền thống Byzantine. Đó là thời kỳ cuối của thiên niên kỷ thứ nhất. Đang khi sống theo hai truyền thống khác nhau, Giáo Hội Constantinople và Giáo Hội Roma thời đó còn hiệp thông trọn vẹn. Như tôi đa viết trong tông thư “Đi vào thế giới”(Euntes in Mundum) rằng: "chúng ta phải cùng nhau cám tạ Thiên Chúa vi sự kiện này, mà hôm nay nó là một điềm báo tốt và là một hy vọng. Thiên Chúa đa muốn rằng Giáo Hội Mẹ, được hiệp nhất cách hưu hinh, cần chào đón vào lòng của Giáo hội người con mới sinh ra trên dòng bờ sông Dnieper đây, dù rằng Giáo Hội đa rất sung túc vi bao gồm rất nhiều quốc gia và dân tộc khắp nơi, và trong lúc mà sự lan rộng của cánh đồng tuyền giáo đang mở rộng tại Tây phương và Đông phương”. (No. 4).
Khi chúng ta cử hành Tiệc Thánh Thể hôm nay theo nghi thức truyền thống Roma, nếu chúng ta nhớ lại cái giây phút thật sâu đậm mà trước đây nó đa liên kết trước truyền thống Byzantine, nên chúng ta cử hành thánh le với lòng tri ân. Chúng ta hiện đang cử hành thánh le nhớ tới cùng một phép rửa, mà tất cả chúng ta đều chia sẻ, điều này se giúp chúng ta tái tạo trinh trạng thông công trước đây, khi đó dù có khác biệt truyền thống nhưng đa không là cản trở cho sự hiệp nhất đức tin và đời sống giáo hội.
4. Bí tích Rửa Tội đa xẩy ra tại Kyiv, đa khai mào lịch sử một ngàn năm Kitô giáo tại các lanh thổ mà ngày nay là quốc gia Ukraine và trong toàn vùng này. Hôm nay, có được ân huệ đi đến nơi lich sử này, tư tưởng của tôi đi ngược dòng về quá khứ hơn 10 thế kỷ, trong đó món quà mà Phép Rửa tiên khởi van còn tuôn chảy trên các thế hệ nối tiếp nhau, và trên con trai con gái nhưng người con của Đất Nước này. Thực là một cuộc sống tinh thần, phụng vụ và cuộc sống giáo hội cứ tiếp tục cuồn cuộn tuôn chảy biết bao! Nó đa hòa trộn từ nhưng nền văn hóa và truyền thống tín ngương khác biệt mà thành nên. Di sản sáng ngời này ngày nay đa được ký thác cho quí vi, các anh chi em thân yêu của Đất Nước này. Trong nhưng ngày tôi thăm viếng quí quốc, tôi cùng quí vi cầu nguyện cho thế hệ riêng của qúi vi hôm nay, từ khởi đầu của thiên niên kỷ mới này, quí vi se chứng tỏ xứng đáng với nhưng truyền thống vĩ đại của quá khứ.
Từ Thành Tri nôi sinh của đức tin Kitô giáo cho Ukraine và cho toàn vùng, tôi chúc mừng và với lòng quí yêu tôi ôm ấp mọi người đang sống trong giải đất này. Một cách đặc biệt tôi chào mừng các đức hồng y Marian Jaworski và Lubomyr Husar, cùng với đức giám mục quí yêu của Kyiv-Zhytomyr là đức cha Jan Purwiski, các huynh đệ đáng kính thuộc Hội Đồng Giám mục Ukrainia và Thượng Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukrainia. Tôi chào mừng hàng giáo sĩ, các nam nư tu sĩ và giáo dân thuộc các Giáo Hội đa trải qua nhiều thách đố và nay khải hoàn; với một lòng can trường họ đa có thể nêu cao ánh sáng đức tin ngay cả trong nhương giờ phút đen tối của bách hại.
5. Hỡi toàn thể Dân Chúa, anh chi em là nhưng người có đức tin, hy vọng và tinh yêu đối với mảnh đất Ukraine, anh chi em hay một lần nưa hay hân hoan làm sống lại món quà Phúc Am mà anh chi em đa nhận lanh từ một ngàn năm trước đây! Hôm nay hay nhin vào thánh Gioan Tẩy Gỉa, một mau gương trung thành kiên quyết đối với Chúa và Lề Luật của Ngài. Thánh Gioan đa sửa soạn con đường cho Đức Kitô bằng chứng tá lời nói và đời sống của ngài. Hay bắt chước ngài với một lòng quảng đại tin tưởng và vâng phục.
Trên hết thánh Gioan là mau mục đức tin. Theo gương của vi đại tiên tri Elia, hầu có thể lắng nghe lời của Đấng ban sự sống, Ngài đa từ bỏ tất cả mọi sự và rút lui vào hoang đia, từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi vang vọng là sửa soạn đường cho Thiên Chúa (xem Mt 3:3).
Ngài là mậu guơng khiem cung, bởi vi đối với nhưng ai coi ngài không nhưng chỉ là một vi Tiên tri mà còn là Đấng Thiên Sai (Messiah), ngài đa trả lời họ rằng: “Các bạn nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Ngài. Không, Đấng mà đến sau tôi, ngay cả việc cởi giây giầy cho Ngài tôi cung không xứng đáng”(TĐCV 13:25).
Ngài là mậu gương chính trực và can đảm trong việc bảo vệ sự thật, và sẵn sàng trả giá bằng chính con người minh, ngay dù bi tù tội và chính cái chết của minh.
Hơi mảnh đất Ukraine, thấm máu đào của các vi tử đạo, cám tạ các vi vi mau gương trung thành đối với Phúc Am mà quí vi đa dâng hiến cho các Kitô hưu khắp nơi trên hoàn cầu! Đa có biết bao nhiêu người con yêu của Đất Nước này đa tiến đi trên con đường hoàn toàn trung thành với Chúa Kitô; nhiều người còn kiên quyết dầu phải hy sinh đến tận cùng. Ước chi chứng tá của họ là mau gương và là sự htôi thúc cho các Kitô hưu của thiên niêm kỷ thứ ba.
6. Trong trường đào luyện của Chúa Kitô, theo chân thánh Gioan Tẩy Gỉa, các vi thánh nhân và các thánh Tử đạo của quốc gia này, ước chi cả anh chi em yêu qúi nưa, cung có can trường đủ mà luôn luôn đặt ưu tiên cho các giá tri tinh thần trong cuộc sống.
Các hiền huynh giám mục, các linh mục, nam nư tu sĩ, quí hiền huynh là nhưng người đa từng hành trinh trung thành cùng với dân chúng ở đây và sẵn sàng trả bất cứ giá hy sinh nào, quí hiền huynh đa nâng đơ họ trong nhưng giờ phút đen tối nhất của cơn hai hùng Cộng sản, tôi cám ơn qúi hiền huynh, xin quí hiền huynh tiếp tục làm c hứng nhân nhiệt tinh cho Đức Kitô và là nhưng mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người trong quê hương quí yêu Ukraine.
Các bạn trẻ thân mến, hay can trường và tự do! Đừng để lòng các bạn bi nhưng hinh ảnh hỏa mù của một hạnh phúc de dàng chiếm mất. Hau đi theo con đường của Đức Kitô: Chắc chắn là Người đòi hỏi nơi bạn nhiều, thế nhưng cung chỉ có Người là người duy nhất có thể giúp bạn cho bạn ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và thỏa man ước nguyện sự binh an của con tim.
Hoi các bậc làm cha mẹ thân mến, hay sửa soạn đường nẻo của Thiên Chúa cho con cái. Hay nuôi chúng lớn lên với tinh yêu, và là nhưng tấm gương tốt bằng cách sống theo nhưng nguyên tắc mà chính quí vi dậy con cái minh. Quí vi là nhưng bậc thầy và là lanh đạo của xa hội, hay đào sâu thêm sự dấn thân hầu khích lệ sự phát triển hoàn toàn về con người nhân bản, khích lệ nơi giới trẻ ý nghĩa sâu sắc về công lý và tinh liên kết đối với nhưng người kém may mắn trong cuộc sống.
Ước chi từng người và tất cả là “ánh sáng của muôn dân”(Is 49:6)!
7. Hơi thành Kyiv, ước chi thành này là "ánh sáng cho Ukraine".
Vi từ đây mà các vi truyền bá Phúc Am qua các thế kỷ đả là nhưng “Gioan Tẩy Gỉa”cho các dân tộc sống trong các mảnh đất nơi đây. Có biết bao các vi đó, như thánh Gioan, đa chiụ khổ để làm chứng cho sự thật, và với máu đào của họ đa trở thành hạt giống cúc các Kitô hưu mới. Ước chi các thế hệ tương lai không bao giờ thiếu các nam thanh nư tú nối tiếp truyền thống hào hùng theo gương các tiền nhân vinh quang của anh chi em.
Xin Đức Trinh Nư rất thánh, Quan Thầy của Ukraine, Mẹ luôn luôn hướng dan con cái trên đường lư hanh trần thế. Xin Mẹ tiếp tục để mắt đoái nhin đoàn con Mẹ. Xin giúp họ đừng bao giờ quên “tên”, cái danh xưng tinh thần mà họ đa nhận được trong Bí tích Rửa Tội. Xin giúp họ biết vui mừng luôn mai trong an huệ vô giá là nhưng người theo chân Chúa Kitô (Jn 3:29). Uớc gi Mẹ là người dan lối cho từng người một. Oi, Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng con!
Sứ điệp: Thánh Gioan được sinh ra trong ơn thánh với sứ mạng loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu cũng được sinh ra trong ơn thánh để trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, cả Giáo Hội mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, con cũng nghĩ đến sứ mạng con đã lãnh nhận từ ngày con được rửa tội, được trở nên một người con trong Giáo Hội, được vinh dự thông phần vào sứ mạng của Giáo Hội. Con chính là dấu chỉ của tình yêu Chúa.
Thánh Gioan đã thực hiện sứ mạng tiền hồ với những sự kiện phi thường khiến mọi người xung quanh kinh ngạc, thán phục, khiến dư luận xôn xao lan rộng. Đời con chẳng có những sự kiện phi thường. Cứ xét bề ngoài thì con cũng giống như những anh em không công giáo, chẳng có gì trổi vượt. Nhưng chính Chúa đã xếp đặt điều đó. Con vẫn là dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa mọi người. Tình yêu Chúa luôn hiện diện khắp nơi và đang hiện diện trong chính thân phận nhỏ bé của con.
Đôi khi con lãng quên vai trò chứng nhân của mình, và khi ấy con chỉ là một dấu chỉ lu mờ của tình Chúa. Mọi người không nhận ra dấu ấn của Chúa trong cách sống của con. Khi thiếu lòng nhân ái, là lúc dấu chỉ tình yêu bị xóa nhòa. Khi con sa ngã trong tội, là lúc dấu chỉ tình yêu tắt ngấm. Bản thân con vốn yếu đuối, con để mất liên lạc với Chúa nên không thể là dấu chỉ về Chúa.
Xin Chúa giúp con luôn ý thức vai trò chứng nhân của mình. Con đã được sinh ra trong ơn thánh, được mang tên thánh, ước gì tên thánh con nhận chính là tên gọi cho cả cuộc sống của con. Amen.
Ghi nhớ: “Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan”.
Trong năm phụng vụ chỉ có ba lễ mừng Sinh nhật. Đó là giáng sinh của Đức Giêsu (25/12), sinh nhật của Đức Maria (8/9) và sinh nhật của Gioan Tẩy giả.
Như vậy, ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật của mình, ngày sinh ra trong trần thế: các đấng khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24/6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh nhật của Chúa Cứu Thế. Ngoài ra ngài còn được mừng một ngày nữa vào ngày 29/8 tức là ngày ngài bị chém đầu.
Nhân ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cùng kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm chứng cho Chúa như thế nào.
Có người Kitô hữu nào lại không được mời gọi làm chứng cho Chúa Kitô? Và làm sao có thể làm chứng nhân cho Chúa Kitô, nếu không kiên trì sống chết cho Đấng mình rao giảng. Nếu Gioan Tẩy giả cũng như các tiên tri đã nhận một ơn gọi rõ rệt và trực tiếp của Thiên Chúa, thì mỗi người chúng ta sinh vào đời và được tái sinh làm con Thiên Chúa qua bí tích Thánh tẩy, đều có chung một ơn gọi, một sứ mạng như các ngài, là loan báo Chúa Kitô cho mọi người và dọn đường chuẩn bị cho mọi người đến với Chúa Kitô bằng một đời sống âm thầm cầu nguyện, khiêm tốn phục vụ và nhiệt thành trong hoạt động tông đồ. Chúng ta cũng cần nhớ rằng: sứ mạng tiên tri thời nào cũng thế. Đức Giêsu, vị tiên tri làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đanh vào thập giá. Các thánh Tử đạo cũng làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đi, cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Thánh Gioan Tẩy giả được sinh ra và lớn lên trong bàn tay của Thiên Chúa đã sống đúng vai trò tiên tri dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Trong vai trò làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta phải biết quên mình để chỉ tìm vinh quang Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho anh chị em đồng loại, làm cho Chúa lớn lên trong mọi người. Tất cả mọi hoạt động của chúng ta đều phải nhằm mục đích làm chứng cho tình thương của Thiên Chúa, cho sự giải phóng của con người. Điều này có nghĩa là phải làm sao cho mỗi hành động của chúng ta làm nổi bật lên khuôn mặt của Chúa Kitô, chứ không phải tư lợi, hư danh hay uy tín của bản thân.
Thi sĩ Nguyễn công Trứ là một người có chí khí hào hùng, thúc giục thanh niên phải phấn đấu không ngừng trong cuộc sống, phải lấy cái danh làm đích để ngắm, phải tạo lấy cái danh để lại cho hậu thế, đừng để uổng phí cuộc đời mình. Chính thi sĩ đã phải vật lộn với cuộc đời mình, từ ông quan đã phải xuống làm lính, rồi phấn đấu lại trở thành ông quan, mở mang ruộng đất giúp cho dân chúng miền Kim Sơn, Tiền Hải có một đời sống ấm no. Ông đã thành công. Danh của ông đã được vinh hiển và còn lưu lại mãi nơi người dân. Ông đã khẳng định:
Đã mang tiếng sống trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ)
Trong việc phụng sự Chúa, chúng ta không cần làm vinh danh mình mà chỉ cần làm vinh danh Chúa. Thánh Inhaxiô Loyola, ông tổ của dòng Tên, đã nêu lên một khẩu hiệu rất ý nghĩa cho các tu sĩ của Dòng mình bằng mấy chữ viết tắt: AMDG (Ad Majorem Dei Gloriam): làm cho Chúa được vinh hiển hơn.
Trong khi rao giảng Chúa cho người khác, chúng ta phải giới thiệu chính Chúa cho anh chị em, chứ không phải để phô trương bản thân mình. Để được như vậy, đòi hỏi nơi chúng ta nhiều can đảm, kiên trì và hy sinh. Phải sẵn sàng sống chết cho sứ mạng đã lãnh nhận. Gioan Tẩy giả chính là gương mẫu của người làm chứng và người dọn đường cho Chúa Kitô, gương mẫu của mỗi người Kitô hữu, của toàn thể Giáo hội trong vai trò làm chứng và rao giảng Đức Kitô của mình.
Ngài là con của ông Dacaria và bà Êlizabet, sinh trước Chúa Giêsu chừng sáu tháng (x. Lc 1,5-36; 1,39-80). Ngài được sinh ra khi cha mẹ ngài đã cao niên, đây là một hồng ân mà Chúa ban cho gia đình ngài. Có một thời gian ngài sống trong sa mạc, mời gọi mọi người hoán cải đời sống để chuẩn bị cho nước Trời gần đến. Ngài là người chuẩn bị con đường cho Ðức Giêsu đến. Với lòng khiêm hạ, ngài nhận mình không xứng để xách dép cho Chúa... Ngài bị tống ngục và chém đầu, vì đã chỉ trích vua Hêrôđê Antipas về việc đã cưới người vợ của anh trai ông ta (x. Mt 14,4; Lc 3,19). Ngài có tầm ảnh hưởng trong Giáo hội Công giáo lẫn Chính Thống giáo. Ngài được coi là vị ngôn sứ cuối cùng cũng như là vị ngôn sứ lớn nhất của Cựu ước.
Câu chuyện
Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc tử giám, là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần, cảm thấy xót xa trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại bởi vua ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Trong lúc quân thần ai cũng sợ mất ghế, sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình, nên không có ai dám nói gì, chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng, chỉ có cụ Chu Văn An dám kháng nghị qua bản Thất trảm sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông xin chém bảy tên gian thần vì giang sơn đất nước. Vua Trần Dụ Tông chỉ xem qua mà không thi hành.
Cụ Chu Văn An xin treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc, đó là khí tiết dũng cảm của người quân tử.
Suy niệm
Nhìn dưới góc độ văn hóa phương Đông, Gioan Tẩy giả được giới thiệu như là người quân tử xuyên suốt mọi thời đại, người mà Chúa Giêsu khen ngợi: Ngôn sứ “hơn cả ngôn sứ”(Mt 11,9), người được Thiên Chúa sai đến tiền hô dọn dường cho Đấng Cứu Thế đến với nhân loại. Người sống “tu thân”trong hoang địa và rao giảng sự sám hối. Thẳng thắn, dám tố cáo những sai phạm, can đảm đương đầu với quyền lực đen tối.
Chúa Giêsu đã xác nhận vai trò ngôn sứ của ông và là một ngôn sứ đặc biệt có mối tương quan gắn bó không thể chia tách với Đấng Cứu Thế: “Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”(Mt 11,10). Vị sứ giả đó đã xuất hiện trong Thánh Kinh bằng một sinh nhật lạ kỳ mà Giáo hội mừng kính đặc biệt vào ngày 24/6 hàng năm.
Sự chào đời của Gioan như là tín hiệu báo trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Sự vui mừng hoan hỉ được thánh Luca ghi lại: Bà con láng giềng vui mừng hân hoan trước biến cố đứa trẻ mới được chào đời và chia sẻ cùng Êlisabéth: “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà”(Lc 1,58). Bà con láng giềng muốn lấy tên cha mà đặt cho cậu bé sơ sinh, nói lên căn cội của cậu và nói lên mối liên hệ bà con với những người thân thuộc. Nhưng bà Êlisabéth và ông Dacaria xác tín rằng tên của cậu theo lời của Chúa truyền dạy cho, được thiên thần bảo cho trước đó: “Vợ ông sẽ sinh một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”(Lc 1,13).
Gioan, cái tên được Thiên Chúa đặt cho là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa, căn tính quân tử của Gioan đã được ngôn sứ Isaia nói trước: “Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong bụng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay Người... biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người”(Is 49,1-2).
Sứ mạng ngôn sứ và ơn thánh đã nuôi dưỡng Gioan: “Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh”(Lc 1,80). Vì thế, vị quân tử này không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, luôn biết sống trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm. Gioan bộc trực, thẳng thắn phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu đối mặt với cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa dù ông phải trả giá bằng cái chết. Gioan sống chính danh quân tử vì là người luôn sống trung thành và tỏa sáng với nhiệm vụ tiền hô. Có thời điểm, dân chúng suy tôn tung hô ông như là Đấng Cứu Thế nhưng ông đã minh xác: “Tôi không phải là Ðấng Cứu Thế, sẽ có một Đấng đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày Người”(Lc 3,16).
Chính Gioan xác nhận vai trò của ông trong tương quan với Đấng Cứu Thế: ”Ngài phải nổi bật lên; tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30). Ông chỉ là một ngôn sứ, là tiền hô và là chứng nhân cho Thiên Chúa như Tin Mừng thứ tư đã khẳng định: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, người đó tên là Gioan, ông đến để làm chứng cho ánh sáng”(Ga 1,6-7a).
Xã hội ngày nay nói chung và đất nước Việt Nam chúng ta nói riêng rất cần có những chính danh quân tử như Gioan, người sống chính danh phận sự, chức năng của mình trong công vụ để xây dựng đất nước và con người ngày càng thăng tiến. Chúng ta cần những Gioan của thời đại mới xuất hiện và loan báo tinh thần quân tử Phúc Âm và mong sao chúng ta cũng là những chính danh quân tử dấn thân xây dựng xã hội không vì quyền lợi bản thân như Gioan.
Ý lực sống:
Gioan quân tử Phúc Âm Nên gương chói sáng cho đời noi theo.
A. Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ”(Mt 11,11)
Vâng! Một con người đã được sinh ra trên trần thế.
Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ, trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ… đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Bỗng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà già nua son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày được tái sinh của mỗi người chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài tóm góm trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”(Ga 3,30).
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin”có thuật lại câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau:
Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.
Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết: “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến danh, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa trao cho.
Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì cho cậu: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.
Phải đặt tên cháu là Gioan: khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn đặt tên con là Gioan. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.
“Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.
Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gi hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống thi khổ cực. Cách sống thi khắc khổ. Cho ở thì thô sơ. Lúc thì ở rừng rú, lúc thì ở sa mạc, nay đây mai đó.
Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.
Điều đó chứng tỏ nhưng vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá tri con người. Thước đo giá tri con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh nhưng chân thiện mỹ vĩnh hằng.
Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.
Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu, để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp thực sâu, để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.
Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân, mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vịi, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.
Khi phong hoá bi suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ, nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.
Vì thế, đối với tôi,
Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.
Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”(Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian... Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài... Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn”(Ga 1,29-34).
Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.
Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.
Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.
Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “ “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”(Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.
Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.
Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.
1. Thánh Gioan Baotixita biết mình có liên hệ với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đang đến sau Ngài. Liên hệ đó là đi trước dọn đường. Trách nhiệm đó rất cao cả. Chính Thiên Chúa đã gọi Ngài, đã chọn Ngài, đã thánh hóa Ngài, đã sai Ngài, đã trao trách nhiệm cho Ngài. Mục đích để cứu nguy phần rỗi.
Gioan Baotixita vâng theo thánh ý Chúa. Nhưng Ngài nói: “Tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Cứu Thế”(Ga 1,27).
2. Với lời trên đây, Gioan Baotixita muốn nói lên sự khó nghèo của Ngài.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết Chúa thì vô cùng cao sang, còn mình thì hết sức hèn hạ. Ngài cảm nhận mình không xứng đáng được Chúa chọn.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình sẽ phải giới thiệu một Đấng Cứu Thế yêu thương hết mực khiêm tốn. Hình ảnh đó khó được dân chúng chấp nhận. Chính Ngài cũng chẳng hiểu nổi. Ngài cảm nhận mình không có khả năng giới thiệu Đấng Cứu Thế như vậy.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình được sai đến với một xã hội tội lỗi cứng lòng. Mà Ngài thì không có chức tước địa vị, không có tiền bạc, không có hậu thuẫn. Ngài cảm nhận mình không có cơ may dọn đường cho Chúa.
Ngài thấy mình nghèo khó, vì biết mình phải nói nhân danh Đấng thiêng liêng vô hình. Mà Ngài chỉ như là tiếng kêu trong sa mạc. Ngài cảm nhận mình không có tài đức.
Sự khó nghèo, mà Gioan Baotixita cảm nghiệm về mình, thực là sâu thẳm. Ngài nhận mình bất xứng khó nghèo, thế mà lại được Chúa yêu thương. Nên Ngài cảm tạ Chúa với tất cả lòng khiêm tốn.
Tuy nhiên, Chúa cho Ngài biết chính vì Ngài nghèo khó, nên Chúa đã chọn Ngài. Chúa dạy Ngài hãy thi hành ơn gọi một cách đơn giản, như một người nghèo khó.
3. Thi hành ơn gọi một cách đơn giản là đi vào những gì căn bản một cách đơn sơ.
Thực vậy, thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc giới thiệu con đường phần rỗi linh hồn. Ngài giới thiệu bằng chính cuộc sống của Ngài. Một cuộc sống nhấn mạnh đến căn bản tu đức dựa trên Lời Chúa. Ngài sống cầu nguyện, nghèo khó, khổ hạnh, gần gũi với mọi người, vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh Gioan Tiền Hô đã đơn sơ trong việc dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Đối với Ngài, dọn đường là bỏ tội lỗi. Ngài cho biết tội là làm sai luật Chúa, nhất là trong lãnh vực công bình bác ái đối với tha nhân. Phải bỏ đường tội bằng sám hối và sửa lại nếp sống. Nếu không, sẽ bị Chúa phạt. Hình phạt nặng nhất là mất linh hồn, phải sa hỏa ngục đời đời. Ngài nói về cơn thịnh nộ của Chúa (x. Lc 3,7). Ngài đưa ra hình ảnh cây xấu bị chặt đi và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Những gì Ngài nói về tội, thì rất căn bản và dễ hiểu. Đối với Thánh Gioan, biết sợ Chúa phạt là khởi đầu tốt cho việc bỏ đàng tội lỗi.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”(Ga 1,29). Ngài nhấn mạnh đến việc phải tin cậy vào Chúa Giêsu, để được cứu khỏi tội. Nói thế là rất căn bản và dễ hiểu.
Thánh Gioan Tiền Hô đơn sơ trong niềm tin. Ngài biết mình chẳng là gì, chẳng đáng gì. Ngài không bám vào điểm tựa nào nơi trần thế. Ngài chỉ cậy tin vào lòng Chúa xót thương mà thôi. Ngài vững tin vào sức mạnh ân sủng của Chúa. Vững tin như thế là rất đơn sơ mà cũng rất căn bản.
4. Tóm lại, đơn giản của Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.
Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.
Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.
Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.
Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.
5. Hôm nay, sứ điệp cứu nguy phần rỗi đang được Chúa gởi vào tình hình Việt Nam bằng nhiều cách. Vấn đề cần đặt ra là người ta có đón nhận sứ điệp đó hay không? Địa chỉ, mà câu hỏi quan trọng về sứ điệp cần gởi tới, không phải là người ta chung chung, mà là mỗi người con Chúa, nhất là mỗi người có trách nhiệm dẫn dắt cộng đoàn.
Có thể nói như Thánh Gioan Tiền Hô và như Đức Mẹ ở Fatima là: Tai họa khủng khiếp cho phần rỗi sẽ đổ xuống, nếu không sám hối, nếu không trở về với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót ban ơn cho chúng con biết đón nhận sứ điệp cứu nguy phần rỗi. Bởi vì phần rỗi của chúng con rất dễ bị lâm nguy. Cũng xin Chúa xót thương nâng đỡ những người được Chúa sai đi rao giảng sứ điệp cứu nguy phần rỗi tại Việt Nam hôm nay. Bởi vì trách nhiệm của họ rất nặng nề rất khó khăn, rất khẩn cấp.
Khi nhìn thánh Gioan Baotixita, tôi thấy vẻ bề ngoài của Ngài không có gì hấp dẫn cả. Y phục thì khó nghèo. Ăn uống khổ cực. Cách sống khắc khổ. Chỗ ở thô sơ. Lúc ở rừng rú, lúc thì sa mạc, nay đây mai đó.
Thế mà, con người như vậy lại được Phúc Âm gọi là đấng dọn đường cho Chúa, là đấng làm phép rửa cho Đức Kitô, là đấng giới thiệu Chúa Cứu thế, là đấng trọng hơn mọi người nam trên thế gian này.
Điều đó chứng tỏ những vẻ đẹp bề ngoài chưa hẳn là thước đo giá trị con người. Thước đo giá trị con người chính là cái đẹp bên trong, cái đẹp nội tâm, cái đẹp phản ánh những chân thiện mỹ vĩnh hằng.
Riêng đối với tôi, thánh Gioan Baotixita lôi cuốn tôi do mấy điểm sau đây của Ngài.
Điểm thu hút thứ nhất là nếp sống tu thân. Việc tu thân của Ngài không phải chỉ là từ bỏ đời sống sung túc, dễ chịu để chọn cuộc đời nghèo khó, khắc khổ. Nhưng nhất là ở chỗ Ngài rất khiêm nhường. Ngài ví mình như tiếng kêu trong sa mạc. Ngài coi mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa. Ngài nhận mình hèn mọn thấp kém, đến nỗi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu thế. Ngài mong muốn bước xuống thực thấp, thực sâu để Đấng Cứu thế được nổi lên thực cao, sao cho mọi người biết đến mà tôn kính tôn thờ.
Nếp sống tu thân của thánh Gioan Baotixita rất xa lạ với lối tu thân nơi một lớp người tôn giáo thời đó và thời nay. Họ tu thân mà vẫn lo tìm thăng tiến địa vị, hưởng thụ quyền lợi, lạm dụng chức tước.
Khi phong hoá bị suy đồi, tôn giáo bị tha hoá, nhân tố có sức cải cách sẽ phải là người tu thân đích thực ở trình độ cao. Thánh Gioan Baotixita được đào tạo suốt mấy chục năm tu thân trong sa mạc. Với nét tu thân dày dạn đó, Ngài vào đời với đầy ơn Chúa Thánh Thần và một uy tín rất lớn. Chính nét tu thân đầy uy tín đó đã lôi cuốn những người thiện chí, để họ sẵn sàng nghe lời Ngài giảng. Đề tài giảng của Ngài là rất đơn sơ nhưng rất căn bản. Đó cũng chính là một sức thu hút rất mạnh.
Vì thế, đối với tôi,
Điểm thu hút thứ hai là đề tài giảng của Ngài.
Đề tài giảng của Gioan Baotixita được tóm lại trong một lời thôi. “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”(Mt 3,2). Có sám hối, thì mới tránh được cơn thịnh nộ của Chúa (Mt 3,7). Có sám hối thì công việc ta làm mới sinh được kết quả tốt (Mt 3,8). Sám hối là một cách rửa tâm hồn cho sạch, để nên người tốt, để nên con Chúa, và để đón nhận Nước Trời đang tới. Nước Trời chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Khi thấy Chúa Giêsu đang tiến lại về phía mình, thánh Gioan Baotixita nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian… Tôi đã thấy Thánh Thần từ trời xuống ngự trên Ngài… Ngài là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn”(Ga 1,29-34).
Một điều đáng chú ý, là khi Đức Kitô đã xuất hiện công khai, thì thánh Gioan Baotixita tìm cách lui vào bóng tối. Ngài muốn dồn hết danh dự cho Đấng Cứu thế. Ngài như muốn mọi người quên Ngài đi, để tập trung vào một Đức Giêsu Kitô thôi.
Tôi thấy sám hối và tập trung vào Đức Kitô là đề tài giảng rất cần thiết, để cải cách tôn giáo thời đó. Thời nay thiết tưởng cũng rất cần đề tài như vậy. Nhất là khi lương tâm nhiều người đang mất dần ý thức về tội, và khi Công giáo nhiều nơi đang đặt trọng tâm vào quá nhiều thứ cứu độ, còn chính Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất, thì bị lu mờ. Các thứ trung gian thi nhau che khuất Ngài. Sự kiện đáng buồn đó là một tiếng báo động. Chúng ta nên thức tỉnh trở về với gương thánh Gioan Baotixita.
Điểm thu hút sau cùng nơi thánh Gioan Baotixita là sự vững vàng phó thác trong những thử thách.
Thánh Gioan Baotixita đã gặp nhiều thử thách nặng nề, nhất là về mặt đức tin. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng: “Khi Gioan đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”(Mt 11,2-3). Chi tiết trên đây cho ta thấy: Có thể Gioan Baotixita bị cám dỗ về con người của Đức Kitô cũng như về sứ mạng của chính Gioan. Sứ mạng của mình là giới thiệu Đấng Cứu thế. Mình đã giới thiệu Đấng đó. Nhưng Đấng đó có thực sự là Đấng Cứu thế không đây? Cơn cám dỗ như vậy có thể xảy ra cho Gioan. Trong cảnh tù cô đơn, cơn cám dỗ đó làm Gioan ray rứt, đắng cay. Nếu mình sai, thì mình sẽ bị coi như giả dối và vô dụng.
Nhưng Gioan đã vững vàng phó thác vào Chúa. Phó thác bằng cách sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô. Phó thác bằng cách chấp nhận câu trả lời của Đức Kitô. Phó thác bằng cách vui lòng chết trong tù, mà không xin Đức Kitô làm phép lạ cứu Ngài ra khỏi cảnh bất công đó, để tiếp tục ra đi dọn đường phục vụ Đấng Cứu thế. Ngài dâng mình làm của lễ cho chính tình yêu.
Với ba nét thu hút trên đây, thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của cõi vĩnh hằng. Ngài nhìn về phía trước. Ngài sống cho phía trước. Phía trước có cõi đời đời. Trong cõi đời đời đó có Thiên Chúa hằng sống đang chờ đợi các con cái Người. Con cái Người sẽ đến được với Người nhờ tu thân, nhờ sám hối, nhờ tin cậy Đức Kitô, nhờ vững vàng vượt qua thử thách. Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân như thánh Gioan Baotixita, tại Việt Nam này, ở địa phương này, trong hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta rất yếu đuối, nhưng chính trong sự yếu đuối đầy khiêm nhường và tin cậy, Chúa sẽ tỏ sức mạnh của Người.
--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm (Giải Nghĩa Lời Chúa)
Trong ngôn ngữ phụng vụ, chữ sinh nhật có hai nghĩa trái ngược nhau. Dùng để nói về Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Gioan Tẩy giả, sinh nhật chỉ ngày các Ngài chào đời, tức là sinh ra ở trần gian. Còn khi nói về mọi thánh khác, sinh nhật lại là ngày các ngài ra khỏi đời này và sinh ra ở trên trời. Có sự phân biệt như vậy cũng là điều dễ hiểu. Vì có gì đáng mừng khi sinh ra trong tội lỗi; chính lúc chết đi cho thế gian mới là sinh ra cho sự sống muôn đời. Hết mọi thánh sinh ra ở đời đều mắc tội Ađam; nên ngày chào đời của các ngài không có gì đáng mừng. Ngược lại khi các ngài chết thánh thiện mới là lúc thật sự sinh ra cho hạnh phúc trường cửu và chúng ta phải vui mừng. Hội Thánh mừng ngày các ngài sinh ra ở thiên đàng chứ không tôn kính ngày các ngài sinh ra ở trần gian. Ngược lại, vì không dính bén nguyên tội hay vì được khỏi nguyên tội trước khi sinh ra, Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả là ba vị duy nhất được mừng ngày sinh ra ở đời, nên ngày đản sinh của các ngài là ngày đáng mừng vì nó tô đẹp cho thế giới và đem hân hoan cứu độ đến cho loài người. Nhất là khi chúng ta nghĩ đến vai trò đặc biệt của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Gioan Tẩy giả trong mầu nhiệm cứu thế. Ngày các Ngài sinh ra đem hạnh phúc đến cho chúng ta nên chúng ta phải hân hoan.
Nhưng tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.
Đối với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy đi". Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.
Những điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu.
Ba bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm theo sứ mạng.
A. Ơn gọi tiền định
Chúng ta đã biết truyện Gioan nên khi nghe đọc những câu: "Chúa đã gọi tôi từ dạ mẹ... Người đã nhắc đến tên tôi... Người nắn tôi từ dạ mẹ nên tôi tớ của Người...", chúng ta thấy dường như Isaia đã báo trước về việc sứ thần loan tin cho Zacarya biết ông bà sẽ có con và phải đặt tên con trẻ là Gioan; và con trẻ ấy khi còn ở trong dạ mẹ đã được ơn Chúa viếng thăm qua lời chào của Đức Maria; và đã được khỏi tội Ađam cùng trở nên tiên tri của Chúa. Chính Zacarya trong ngày sinh nhật của hài nhi đã được tháo gỡ miệng lưỡi để có thể nói được, cũng đã chúc tụng Gioan là tiên tri của Đấng Tối cao để làm cho Yacob và Israel trở lại với Chúa và để trở nên ánh sáng cho các dân tộc. Tức là Zacarya cũng đã lấy lại nhiều lời trong bài sách Isaia hôm nay để nói về Gioan.
Tuy nhiên chúng ta vẫn không được coi lời sấm của Isaia đã nhằm nói đến Gioan. Người ta có thể áp dụng những lời đó vào Gioan; nhưng Gioan không phải là đối tượng của những lời ấy. Và việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của những lời này còn làm tăng giá trị Gioan hơn nữa.
Thật vậy, đoạn tiên tri hôm nay nằm trong Isaia II (gồm các chương 40-55), là những lời của Chúa nói với Israel và nói về Israel Dân Chúa lúc được đưa ra khỏi cảnh lưu đày Babylon (năm 538). Chúa phán: mặc dầu Israel thất tín, Chúa vẫn trung thành với lời hứa. Người sẽ gửi đến một người Tôi tớ. Đoạn sách hôm nay nói đến ơn gọi của Người Tôi tớ đó. Nó là một trong bốn đoạn Isaia mà người ta quen gọi là bốn khúc ca về Người Tôi tớ. Và chúng ta biết chẳng ai trong lịch sử đã thể hiện những lời sấm về Người Tôi tớ này bằng chính Đức Giêsu Cứu thế. Chính Người sẽ là Người Tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa đến hy sinh cứu độ Dân Người. Do đó, lời sách Isaia hôm nay chủ yếu muốn nói về Đức Giêsu Kitô. Chỉ có Người mới thật là Vị Tiên tri của Đấng Tối cao sẽ làm cho Israel quay đầu về với Thiên Chúa; và Người sẽ là ánh sáng đích thực cho các dân tộc.
Nhưng Người đã được tất cả Cựu Ước chuẩn bị. Thành ra Người Tôi tớ đích thực cũng đã được nhiều người tôi tớ đi trước loan báo. Gioan là tiền hô của Đức Giêsu Kitô Cứu thế.
Người đáng được áp dụng những sấm ngôn kia. Và chúng ta đã thấy việc áp dụng này rất may mắn vì lời sách Isaia hôm nay quả thực có thể gợi lên nhiều sự kiện trong cuộc đời của Gioan: từ việc người được chọn từ trong lòng mẹ, đến việc được kêu tên từ ngày ấy và việc được chỉ định làm tiên tri.
Tuy nhiên, chính Isaia cũng đã không "dựng đứng" lên một hình ảnh về Người Tôi tớ từ hư vô, tức là không dựa vào các yếu tố đã có sẵn. Không, có thể nói ông đã dùng tất cả phần sách Cựu Ước có trước ông để xây dựng hình ảnh Người Tôi tớ này. Ông dùng những Lời Chúa nói về Israel và Yêrusalem tản mác trong tất cả các sách Cựu Ước để vẽ ra khuôn mặt Người Tôi tớ. Bởi vì Người Tôi tớ đầu tiên của Thiên Chúa chính là Israel Dân Người. Người đã gọi Israel từ trong dạ mẹ, đã đặt tên cho nó, đã săn sóc nó như mũi tên quý báu mà người chiến sĩ cẩn thận giữ gìn trong bao. Người dùng Israel để tỏ hiện vinh quang của Người. Người nhờ thánh điện Yêrusalem để quy tụ nhà Yacob. Người tỏa sáng vinh quang trên Dân Người để nó trở thành ánh sáng cho các dân tộc. Nói đúng ra, khi viết đoạn sách hôm nay, "Isaia" chỉ muốn nói đến Yêrusalem và Israel sắp được cứu độ để ra khỏi cảnh lưu đày, vì ơn gọi tiền định, để rồi nó sẽ chiếu tỏa ơn cứu độ của Chúa cho muôn dân. Có như vậy chúng ta mới hiểu được câu 4 ám chỉ đến thân phận lưu đày kiệt quệ... Và có như vậy chúng ta mới dễ được an ủi: bởi vì điều đã viết về Dân Chúa nói chung cũng có thể hiểu được về từng người con Chúa nói riêng, cho dù điều đó chỉ thể hiện hoàn toàn nơi Đức Giêsu Cứu thế là Dân Chúa đích thực và là Con Một Thiên Chúa. Và dĩ nhiên điều ấy áp dụng cho các thánh nhân sẽ đúng hơn khi áp dụng cho chúng ta. Nhưng chúng ta không được coi mình như đứng ở ngoài. Những lời nói về ơn gọi tiền định của Gioan cũng phải được hiểu về chúng ta để chúng ta tham dự hơn vào sự vui mừng trong ngày người đản sinh hôm nay.
B. Sinh Nhật Gioan
Tin Mừng theo thánh Luca viết rằng hôm Gioan chào đời, bà con láng giềng đã đến chung vui với ông bà Zacarya. Cả hai người đã già mà nay có con lại không đáng mừng sao? Lẽ ra chính hôm ấy người ta phải đặt tên ngay cho con trẻ (Kn 4,1; 21,3...). Nhưng từ thời sau Lưu đày, người ta bắt chước phong tục Hylạp để việc đó lại sau. Và như vậy cũng tôn vinh ngày làm lễ cắt bì hơn, cử hành 8 ngày sau sinh nhật.
Đó là ngày đánh dấu việc con trẻ từ nay thuộc Dân Chúa. Bạn hữu thân thích đến đông hơn. Người ta muốn gọi con trẻ bằng tên của cha nó để tôn trọng ông. Vì theo tục lệ, lẽ ra phải lấy tên của ông nội mà đặt cho đứa bé. Nhưng Zacarya cũng đã "lão rồi"; và nay ông mới có con; nên để ông vui, người ta muốn gọi đứa bé là Zacarya. Thế nhưng mẹ nó không chịu. Người ta nói thế nào bà cũng không nghe. Người ta phải nại đến cha nó. Nhưng ông lại câm. Phải lấy bút giấy cho ông. Ông viết: hãy đặt tên nó là Gioan. Thật là lạ lùng! Không ai bảo ai mà cả cha lẫn mẹ đều muốn gọi nó là Gioan, một tên không có trong họ hàng thân thuộc. Gioan có nghĩa là Chúa chạnh thương, Chúa đoái nhìn, Chúa muốn cứu độ. Cái tên thật hay, nhưng ai bảo hai ông bà biết mà chọn? Người ta chưa kịp hết ngạc nhiên thì Zacarya đã bật miệng hát lên bài ca chúc tụng. Phải chăng 9 tháng câm đã cho ông thời gian suy nghĩ về lòng Chúa nhân ái, chạnh thương, muốn nhìn lại Israel để ra tay cứu độ như lời đã hứa cùng tổ phụ Abraham và cho đến muôn đời?
Thánh Luca đã tỏ ra lỗi lạc trong bài tường thuật hôm nay. Người không chú ý đến ngày sinh nhật của Gioan. Người mời chúng ta tham dự nghi lễ cắt bì, tức là nghi thức tiến dâng hài nhi lên làm con Chúa. Nói đúng hơn, người chỉ nhắc đến tên lễ nghi này để đưa mắt chúng ta hướng về Chúa để thấy Chúa đang đoái nhìn, chiếu cố, chạnh thương và muốn cứu độ Dân Người. Thánh Luca dùng mọi yếu tố có thể tìm thấy để làm nổi bật tên Gioan khiến người ta thấy rõ Chúa đang thể hiện Lời hứa cho Israel và các dân tộc. Đó không phải là tên của ông nội đứa bé, cũng chẳng phải là tên của ai trong họ hàng thân thuộc. Làm sao cả cha lẫn mẹ không đồng ý trước mà lại nói ra cùng một tên? Và tên này chỉ có thể bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa đoái thương hai ông bà cũng như hài nhi và toàn dân.
Nếu được phép tìm hiểu thêm nữa, chúng ta hãy để ý: ở đây, chính uy quyền của người cha giải quyết vấn đề đặt tên cho con trẻ; còn trong trường hợp Hài nhi sẽ sinh ra ở Bêlem, chính Đức Maria là người trước hết có nghĩa vụ phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu. Phải chăng Gioan dù sao cũng còn là con cái của xác thịt nên thuộc quyền cha; còn Cha của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nên quyền đặt tên cho Người tùy ở Đức Mẹ Đồng trinh?
Dù sao, hôm nay Giáo Hội rất vui mừng vì được Gioan, tức là được ơn Chúa chạnh thương, đoái nhìn, muốn cứu độ Dân Người. Chính người Dothái thời Gioan đã nghĩ như vậy, nên họ nóng lòng chờ đợi xem Chúa sẽ ra tay thế nào nơi hài nhi mới sinh.
C. Hành động của Gioan
Cũng một tác giả sách Tin Mừng thứ ba đã viết về Gioan như hôm nay chúng ta nghe đọc trong sách Công vụ các Tông đồ. Ông để cho Phaolô nói với những người kính giới Thiên Chúa và đang chờ đợi Lời cứu thoát. Dù không sống ở đất Dothái, nhưng họ chia sẻ mọi tâm tình tôn giáo của đồng bào nơi cố hương. Sống giữa dân ngoại và trong nền văn hóa Hylạp, những người Dothái "thiên cư" (diaspora) đang nghe Phaolô giảng trong hội đường vào ngày sabbat. Họ đã nghe biết về Gioan và đang chờ các hậu quả của việc người xuất hiện. Người đã rao giảng phép rửa thống hối. Nhưng nghe đâu người đã bị bắt và bị giết vì đã khẳng khái lên án tội loạn luân của vua Hêrôđê. Người là Đấng thánh chắc rồi. Các môn đệ của người đang hoạt động. Không biết rồi sẽ ra sao. Nay Phaolô đến cho họ biết: khi vận nghiệp gần mãn, Gioan đã nói: "Các người tưởng tôi là gì, thì không phải tôi đâu. Nhưng này đang đứng sau tôi, Đấng tôi không đáng cởi dép chân Người". Rồi Phaolô tiếp tục nói với người ta về Đức Giêsu. Người đã làm công việc của Gioan, vì tựu trung hoạt động của Gioan cũng là giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế là tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Phép rửa mà Gioan đã làm, tuy quan trọng vì từ đó đã khiến người được mệnh danh là Tẩy giả, cũng chỉ nhằm mục đích giúp chúng ta thống hối tội lỗi để đón nhận Đức Giêsu Kitô. Gioan đúng thật là tôi tớ, khiêm tốn và chăm chỉ làm việc để tôn vinh Chủ mình. Ông không lợi dụng lòng phấn khởi lầm tưởng của người ta khi họ muốn coi ông như cứu thế. Ông công nhận không đáng cởi giầy cho Đấng ấy, tức là không đáng làm môn đệ của Người.
Chính vì Gioan đóng đúng vai trò của vị tiền hô mà ngày nay hơn hết mọi vị thánh, người còn sống động trong sinh hoạt của Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng cử hành mầu nhiệm cứu độ, nên luôn luôn nhắc đến Gioan. Hội Thánh mừng sinh nhật của người để biết hừng đông ơn cứu thế đã nổi lên ở chân trời trong đời sống của Dân Chúa. Hội Thánh nghe tiếng người trong mùa vọng Phụng vụ để thanh tẩy tâm hồn và đời sống hầu chuẩn bị ngày Chúa đến. Hội Thánh kính nhớ sự chết của người để được báo tin về cuộc tử nạn cứu thế của Đức Kitô. Thánh Gioan là tiên tri được sai đi trước mặt Đức Giêsu Cứu thế thì người còn sống mãi trong tâm tư của Hội Thánh đang đi đón Đức Kitô trở lại. Có thể nói Hội Thánh phải gặp thánh Gioan trước, tức là phải thanh tẩy, chuẩn bị nên Dân tốt lành hầu đón nhận ơn Chúa đến viếng thăm. Và như vậy thiết tưởng đã đủ để nói lên điều này, là cho đến ngày Đức Giêsu Kitô trở lại, chúng ta phải nghe lời Gioan giảng, phải thi hành việc người truyền, phải hành động và trở nên như người.
Chúng ta hãy làm công việc này nhờ những bài Kinh Thánh hôm nay đã nói về thánh Gioan. Chúng ta luôn nhớ ơn gọi tiền định; chúng ta luôn suy ngày được hiến dâng cho Chúa và nhận tên là Kitô hữu, một danh hiệu nói lên tình thương cứu độ của Chúa. Nhất là chúng ta bắt chước thánh Gioan có đời sống thanh tẩy tội lỗi và luôn khiêm tốn giới thiệu Đức Giêsu Cứu thế cho mọi người.
Giờ đây chính Chúa sẽ đến gặp chúng ta trong thánh lễ. Chúng ta hãy có lòng thống hối như muốn cúi xuống cởi giầy cho Người... Chúng ta sẽ được Người nâng lên như có lần Người đã tôn vinh thánh Gioan trước mặt mọi người: Thầy bảo thật trong muôn vàn con cái mà đàn bà sinh ra không ai quý trọng hơn Gioan, nhưng kẻ bé nhất trong Nước Trời còn hơn ông. Vì Gioan chỉ là vị tiền hô, còn chúng ta từ nay là bạn hữu, là Kitô hữu. Ước gì chúng ta hiểu như vậy để từ nay sống xứng đáng hơn với danh hiệu này. Và như thế, chúng ta sẽ tôn vinh Chúa, sẽ tiếp tục làm công việc của thánh Gioan là giới thiệu Chúa cho mọi người.
Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót!
1.- Ngữ cảnh
Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu. Nhưng ngài là tác giả duy nhất đề cập đến thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả.
Phần tường thuật về Thời thơ ấu có hai cánh:
- Cánh các lời loan báo (1,5-56),
- Cánh các cuộc chào đời (1,57-2,52).
Truyện Gioan chào đời được đặt song song với biến cố Đức Giêsu giáng sinh.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Gioan chào đời (1,57-58);
2) Gioan được cắt bì và đặt tên (1,59-66);
3) Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (1,80).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe biết (58): Khi biết mình có thai, bà Êlisabét đã ẩn mình (x. 1,24), nên láng giềng và những bà con khác (trừ Đức Maria) không biết gì về tình trạng của bà, cho đến khi đứa bé chào đời.
- cắt bì (59): Theo St 17,11, cắt bì là ghi "dấu giao ước" cho cậu bé trai. Thường người cha sẽ cắt bì cho con (x. St 21,4).
- lấy tên cha... mà đặt tên cho em (59): Theo bản văn Lc, em bé được đặt tên khi cắt bì. Tuy nhiên, người Do Thái Paléttina có thói quen đặt tên con ngay vào lúc chào đời (x. St 4,1; 21,3; 25,25-26), và thường do người mẹ (St 29,31-30,24; 1 Sm 1,20), đôi khi do người cha (x. St 16,15; Xh 2,22) (xem R. de Vaux). Do đó, có những nhà chú giải nghĩ rằng tác giả Lc đã đưa vào đây một cách thực hành của người Hy Lạp, bởi vì tại Hy Lạp cổ thời, người ta thường đặt tên cho con vào ngày thứ bảy hoặc thứ mười sau khi sinh.
- Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả (61): Tuy nhiên, "Gioan" đã từng là tên của các thành viên dòng họ tư tế thời hậu Lưu đày (x. Nkm 12,13.42; 1 Mcb 2,1-2).
- bàn tay Chúa (66): Đây là một kiểu nói như nhân của Cựu Ước (x. 1 Sb 28,19; 4,10) nhằm diễn tả rằng Thiên Chúa uy quyền che chở và hướng dẫn Gioan. Thế nhưng Ngài vẫn không tránh cho Gioan khỏi tù và khỏi chết bởi tay Hêrôđê Antipa (x. Lc 3,20; 9,8).
- lớn lên (80): Đây là một điệp khúc của tác giả Lc (x. 2,40.52). Câu văn được phỏng theo Tl 13,24-25 và 1 Sm 2,26.
- sống trong hoang địa (80): Dựa vào đây, các chuyên viên đề ra giả thuyết là Gioan đã qua thời trai trẻ tại cộng đoàn Êxêni tại Qumran. Đây là giả thuyết không bảo vệ được và cũng không phi bác được.
4.- Ý nghĩa bản văn
* Gioan chào đời (57-58)
Đoạn tường thuật ngắn ngủi này kể lại cuộc chào đời của Gioan và niềm vui do biến cố này đưa lại. Tác giả Lc kể lại truyện này với hai sắc thái. Trước tiên, biến cố cho thấy lòng từ bi thương xót của Đức Chúa đối với dân Ngài khi cất khỏi bà Êlisabét nỗi ô nhục son sẻ. Truyện cũng nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi thương xót ra khi chơi chữ trên tên "Gioan". Ân huệ mà Ngài tỏ ra như thế không chỉ nhằm chiếu cố đến bà Êlisabét mà còn chiếu cố đến dân Ngài là Israel như một toàn thể. Đứa bé này, sinh ra từ những cha mẹ son sẻ, trở thành nguồn đưa lại niềm vui cho láng giềng và bà con thân thích, như sứ thần đã tiên báo.
* Gioan được cắt bì và đặt tên (59-66)
Đứa trẻ sinh ra được tám ngày thì phải làm phép cắt bì (x. Lv 12,3). Khi được cắt bì, em bé được ghi "dấu giao ước" (St 17,11) và được tháp nhập vào Israel (Gs 5,2-9). Từ nay, em được chia sẻ cách phúc lành Thiên Chúa hứa cho dân Ngài (Gs 5,6-7), nên có thể cử hành lễ Vượt Qua với họ (Xh 12,44-49). Cắt bì cũng có nghĩa là buộc phải tuân giữ Luật Môsê. Còn về việc đăt tên, đối với người Do Thái, cái tên rất quan trọng, vì nói lên tương lai của em bé. Có nhiều truyện trong Cựu Ước giải thích ý nghĩa của các tên: "Isaác", trong tiếng Híp-ri, có nghĩa là "sẽ cười / sẽ mỉm cười" và yếu tố "mỉm cười" này thường xảy ra: Sara mỉm cười trong lều; Isaác cười với Ítmaên. Tên "Giacóp" báo điềm gở là "sẽ hất cẳng", và sau này ông đã "hất cẳng" Exau. Khi Giacóp đã bỏ tính lọc lừa và trở nên đàng hoàng, Thiên Chúa đã cho ông một tên mới là "Israel", như một dấu chuẩn nhận và đón tiếp. Cũng thế, sau này Đức Giêsu đã cho Simôn một tên mới là "Phêrô", để dùng ông làm đá tảng xây dựng Hội Thánh.
Bà Êlisabét không đồng ý cho người ta lấy tên Dacaria mà đặt cho em bé, dù đây là tập tục; bà yêu cầu đặt là "Gioan". Người ta mới hỏi ý kiến ông Dacaria, lúc này vẫn bị câm. Ông "đã xin một tấm bảng nhỏ và viết" tên Gioan (1,63). Hai ông bà đang tỏ ra vâng lời sứ thần khi chọn một tên cho đứa con, bất chấp truyền thống của dòng họ. Sứ thần đã bảo tên bé là Gioan, thì bây giờ phải đặt tên bé là Gioan! Đây cũng là cách tác giả Lc cho thấy các lời ngôn sứ được hoàn tất: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện.
Tên "Gioan", Yơhô[k]anan (hoặc: Yô[k]hanan), có nghĩa là "Đức Chúa (ya = yhwh) đã tỏ lòng ưu ái (khanan = charis)" (x. 1,13). Tên này tạo thêm một đường nối giữa hai gia đình, vì nhắc lại lời sứ thần chào Maria, "bà được đẹp lòng (charis) Thiên Chúa" (1,30). Tên "Gioan" như thế có hiểu rằng Israel là đối tượng được Thiên Chúa đặc biệt chiếu cố, và Ngài có một sự quan tâm đặc biệt đến cũng như có một chương trình đặc biệt cho.
* Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (80)
Sau khi chấm dứt bài Benedictus (chúng ta không đọc), tác giả Lc kết thúc hoạt cảnh bằng một ghi nhận nói rằng cậu bé ngày càng lớn lên mọi mặt, và báo trước việc Gioan vào sống trong hoang địa (3,2), chờ ngày "ra mắt dân Israel".
+ Kết luận
Khi đặt bản văn này vào ngữ cảnh, ta thấy rõ ý hướng của Tin Mừng Lc. Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu được so sánh và đạt đối nhau, nhưng sự cao trọng của Đức Giêsu được nêu bật trong từng chi tiết. Rõ ràng Đức Maria cao trọng hơn ông Dacaria, và con của Đức Maria vô cùng cao trọng hơn con của ông Dacaria. Cốt lõi đầu tiên là thời thơ ấu của Đức Giêsu, và rõ hơn, là truyện Truyền Tin. Rất có thể câu truyện về thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả chỉ là một phần mở do tác giả Lc sáng tác ra để vị Tiền hô giới thiệu Đấng Mêsia.
Chương 1-2 Lc có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đn 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Ml 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài Benedictus và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo, được viết theo ngôn ngữ Kinh Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót! Bởi vì bà Êlisabét, mẹ của Gioan, bị hiếm muộn (x. Lc 1,7.36) và hoàn toàn nhưng-không - do ân sủng - mà bà đã được Chúa ban cho ơn phi thường là cưu mang một người con trong lúc tuổi già (x. Lc 1,36). "Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà".
Nhưng đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!
2. Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?
3. Chúng ta Suy niệm về thánh Gioan dựa theo ý kiến của một vài vị thánh. Trước tiên, ta có ý kiến của linh mục Origiênê (Các bài giảng về Tin Mừng Luca, số 4,4-6): "Phần tôi, tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Gioan đang được hoàn tất trong thế giới cho tới nay. Người nào được nhắm cho tin vào Đức Kitô Giêsu, thì trước đó tinh thần và sức mạnh của Gioan phải đến trong tâm hồn người ấy để "chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa" (Lc 1,17) và trong những nơi lồi lõm của con tim, "khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng" (Lc 3,5). Không phải chỉ vào thời đó các "khúc quanh co, mới phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, mới phải san cho bằng", nhưng hôm nay cũng còn như thế. Tinh thần và sức mạnh của Gioan đi trước việc Chúa Cứu thế hiển ngự".
4. Thánh Ephrem đã dạy (Bài thánh ca được gán cho thánh Ephrem [khoảng 306-373]: "Chính là ngài, thánh Gioan, mà chúng con nhìn nhận như là một Môsê mới, bởi vì ngài đã thấy Thiên Chúa, không phải trong dạng biểu tượng, nhưng hoàn toàn rõ ràng. Chính ngài mà chúng con coi như là một Giôsuê mới: ngài không đi từ bờ này sang bờ bên kia của sông Giođan, nhưng, với nước sông Giođan, ngài đã đưa người ta đi từ thế giới này sang thế giới khác... Chính ngài là Samuen mới đã không xức dầu cho Đavít, nhưng đã ban phép rửa cho con Đavít. Chính Ngài là Đavít mới, đã không bị vua Saun xấu xa bách hại, nhưng đã bị Hêrôđê giết chết. Chính ngài là Êlia mới, được nuôi dưỡng trong hoang địa không phải bằng bánh một con quạ mang đến, nhưng bằng châu chấu và mật ong do Thiên Chúa ban cho. Chính ngài là Isaia mới đã không nói: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và sinh con" (7,14), nhưng đã công bố trước mặt mọi người: "Này đây bà đã sinh ra Con Chiên Thiên Chúa, Đấng mang tội trần gian" (Ga 1,29)...
"Lạy thánh Gioan, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài thật có phúc, vì ngài đã đặt tay trên Chủ của ngài, ngài đã nắm lấy trong tay ngọn lửa có ánh sáng làm các thiên thần phải run sợ! Là ngôi sao mai, ngài cho thế gian thấy Buổi Ban mai chân thật; là bình minh tươi vui, ngài đã cho thấy ngày vinh quang; là ngọn đèn cháy sáng, ngài đã chỉ cho thấy Ánh sáng có một không hai! Là sứ giả mang ơn hòa giải của Chúa Cha, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã được cử đến trước mặt ngài để loan báo cho Dacaria về ngài, như là một hoa quả vượt quá sự chờ đợi của ông... Là người cao trọng nhất trong số các con cái loài người (Mt 11,11), ngài đến đón trước Đấng Emmanuel, ngài đón trước Đấng vượt quá mọi thọ tạo; là con đầu lòng của bà Êlisabét, ngài đi trước Trưởng Tử của toàn thể thọ tạo!"
5. Mỗi người có ơn gọi của mình. Gioan có ơn gọi của riêng ông, ơn gọi không mấy thông thường. Cũng như mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi, Gioan đã chuẩn bị trong lòng sứ mạng được ký thác cho ông. Ông chuẩn bị bằng đời sống ẩn dật. Đó chính là đời sống của ông với Thần Khí Đức Chúa. Đó chính là điều bí mật của ông. Phải chăng đây là một sự mô phỏng, khá mờ nhạt, của sự chuẩn bị của Đức Maria hầu đón tiếp Đức Chúa đến với Bà vào ngày Truyền tin? Bởi vì Đức Maria cũng đã nhận một tên mới do Thiên Chúa ban: thiên thần Gabriel đã gọi Bà bằng cái tên "Đấng đầy ân sủng" (Lc 1,28).
Ngoài Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, nghĩa là lễ Chúa Giáng Sinh, trong lịch phụng vụ của Giáo Hội, chỉ có hai ngày lễ mừng sinh nhật: sinh nhật của Đức Maria (ngày 8/9) và sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả (ngày 24/6). Chúng ta có thể hỏi: tại sao cùng với Giáo Hội chúng ta chỉ mừng lễ sinh nhật của Đức Maria và của thánh Gioan mà thôi, chứ không mừng sinh nhật của các vị thánh khác?
Đó là bởi vì, sự sinh ra của Đức Maria và của thánh Gioan có liên quan đặc biệt đến sự sinh ra của Đức Giêsu: Đức Maria được Thiên Chúa chuẩn bị cách đặc biệt, ngay trong lòng mẹ, để sau này cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế; còn sự sinh ra của thánh Gioan nhắc nhớ cách Thiên Chúa hành động trong lịch sử cứu độ, và cách hành động này sẽ trở nên viên mãn nơi Đức Kitô, ngay từ biến cố Giáng Sinh của Người.
1. Thánh Gio-an và lịch sử cứu độ
Như chúng ta đều biết, theo lời kể của thánh Lu-ca, thánh Gioan là ơn huệ Thiên Chúa ban, khởi đi từ cung lòng hiếm muộn và già cỗi của mẹ Elizabeth, như chính ông Zacharia thú nhận: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng cao niên”(Lc 1, 18); và chính sứ thần Gabriel loan báo cho Mẹ Maria: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”(c. 36).
Sự kiện bà Elizabeth với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, đó là vì “Chúa đã rộng lòng thương xót bà”(c. 58). Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với bà Elizabeth nhắc nhớ lòng thương xót của Thiên Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ: Thiên Chúa làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người vẫn chưa xuất hiện và ở những hoàn cảnh mà con người hoàn toàn bất lực. Thật vậy, trong công trình sáng tạo, từ mặt đất trinh nguyên, Thiên Chúa làm trào vọt ra sự sống, sự sống phong nhiêu của muôn loài muôn vật, và nhất là sự sống của con người, được hình thành theo hình ảnh của Thiên Chúa; và trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn làm trào vọt ra sự sống ở nơi không còn hi vọng gì: đó là cung lòng đã chết của tổ phụ Abraham và bà Sara, đó là biến cố Xuất Hành: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Người rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Người”(Tv 77, 20), đó là sự sống, ngang qua ơn huệ lương thực, Chúa ban cho Israel trong hành trình trong sa mạc, đó là sự khai sinh ra vương quốc khởi từ những xung đột chết chóc, đó là niềm hi vọng, được nuôi dưỡng bằng lời ca tụng, khi không còn gì để hi vọng: “Tôi đã tin, cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề…”. Và Đức Kitô sẽ đến để lấp đầy niềm hi vọng này.
Bà Elizabeth vừa già cỗi và và hiếm muộn, không thể sinh con, là hình ảnh nói lên chính tình cảnh bi đát của Israen, của nhân loại và của từng người chúng ta, bất lực trong việc xây dựng sự sống của chúng ta trong hiệp nhất và tình yêu, và vì thế để cho bầu khí chết chóc làn tràn và để cho Sự Dữ ngự trị. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với bà Elizabeth, khi cho bà cưu mang và sinh con, người con mang tên Gioan, nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”, thì chắc chắn, Thiên Chúa cũng đã và đang thương xót nhân loại chúng ta, Hội Dòng và cộng đoàn chúng ta, gia đình chúng ta và từng người chúng ta.
2. Thánh Gioan và Đức Kitô
Sự sống của thánh Gioan là một tuyệt tác của Thiên Chúa, diễn tả quyền năng ban sự sống của Người; nhưng Đức Giêsu, sinh bởi Đức Maria, là tuyệt tác còn lớn hơn và là tuyệt tác duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, trong ngày sinh nhật của thánh Gioan và nhất là của Đức Giêsu, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Trong đời sống dâng hiến, các nam nữ tu sĩ được mời gọi sống “trinh nguyên”(trinh nguyên, tiên vàn không phải thể lý, nhưng là một con tim ước ao sống bởi và sống cho một Thiên Chúa), chính là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh, bền vững và phong phú, bằng quyền năng sáng tạo của Ngài.
Ngoài ra, tên gọi “Gioan”nghĩa là “Thiên Chúa Thi Ân”; trong khi tên gọi “Giêsu”nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”, là Ơn Huệ của mọi ơn huệ, là Ơn Huệ mà mọi ân huệ khác hướng tới và chỉ là dấu chỉ, và là Ơn Huệ một lần cho tất cả. Như thế, thánh Gioan không chỉ loan báo Đức Giêsu bằng cuộc đời và cái chết của mình, nhưng còn bằng chính biến cố sinh ra và tên gọi nữa.
Xin cho chúng ta cũng hướng về Đức Kitô như thánh Gioan, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, ngang tất cả những gì chúng ta là, được chất chứa trong “tên gọi”của chúng ta; và xin cho Người nổi bật lên trong cuộc đời, ơn gọi và từng ngày sống của chúng ta.
3. “Chúc tụng Đức Chúa…”
Về chuyện ông Zacharia, cha của thánh Gioan, bị câm, nhưng ngay sau khi đặt tên cho con là “Gioan”, thì ông nói được, cũng rất có ý nghĩa. Bởi vì, sự kiện ông không nói được, là một dấu chỉ nhắc nhớ ông rằng, có một lúc ông đã không tin vào quyền năng Thiên Chúa có thể thi ân ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, có thể làm phát sinh sự sống nơi cung lòng hiếm hoi và già cỗi của bà Elizabeth.
“Không nói được”, không chỉ là không nói được ngôn ngữ, nhưng nhất là không thể ca tụng Chúa được. Thật vậy, khi người ta không tin, không nhận ra ơn Chúa ban cho mình và người khác, thì không thể ca tụng Chúa được. Chính khi ông đặt tên cho con là Gioan, “Thiên Chúa Thi Ân”, thì ông “lưỡi ông lại mở ra, ông nói được”và lời nói đầu tiên là lời chúc tụng Thiên Chúa: Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
Đó là lời tán tụng Benedictus bất hủ, vang lên mỗi ngày trong Giờ Kinh Sáng của chúng ta. Ước gì, khi đọc hay hát lời chúc tụng này, chúng ta mặc lấy tâm tình của ông Zacharia, bố của thánh Gio-an. Xin cho chúng ta tin tưởng và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, để có thể cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”. Nếu không, dù chúng ta có nói bi bô suốt ngày, thì cũng như là “người câm”vậy thôi!
Nhưng chúng ta được mời gọi đi xa hơn, bằng cách định hướng đời mình và từng ngày sống theo năng động chúc tụng Thiên Chúa. Và để được như thế, chúng ta cần tín thác và nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban, cần đặt đời sống, ngày sống và hành động trên nền tảng tâm tình biết ơn đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, được bày tỏ cho chúng ta một cách thật hữu hình, có thể nhìn thấy được, đó là Thánh Tâm của Chúa bị đâm thâu.
“Lạy Thiên Chúa, là Cha của chúng con, xin thương xót chúng con, để chúng con đón nhận và xây dựng sự sống của chúng con như ân huệ và theo ơn gọi Chúa ban, bằng cách gắn bó mật thiết và nên một với Đức Giêsu Kitô, Con của Cha, từ lúc chúng con sinh ra cho đến lúc chúng lìa bỏ cuộc đời này, theo gương thánh Gioan Baotixita. Amen”.
Lễ Trọng Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả là một lễ lâu đời từ Thế Kỷ thứ bốn. Câu hỏi "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào?" được những người đương để bụng suy nghĩ, ngày hôm nay, con trẻ này vẫn còn nhiều câu hỏi, cụ thể như: Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể làm vậy?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6?
Lý do tại sao lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends( ngày mùng 1), ides(ngày 15) và nones(ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Elizabeth chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói: Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên nước Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo Hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong bụng mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo Hội cử hành lễ sinh nhật của ngài.
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn Sứ Isaia và Thánh Vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: "Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người." (Is 49, 1-3) Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con...Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. (Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta: "Con mới là bao thai, mắt Ngài đã thấy." (Tv 138,16)
Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: "Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người." (Lc 1, 76)
Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa.
Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ chối hay biếng nhác nhận lãnh bí tích đi nghịch lại lương tâm của mình, gây lâm nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường, khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo Hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu thuộc về một bản tính khác.
Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: " Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời" (Lk 1:13-14). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ 21, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ này.
Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Elizabeth và ông Giacaria, đang chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen.
Mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, khi đọc lại cuộc đời của thánh thánh Gioan Tẩy Giả từ lúc sứ thần truyền tin cho ông Dacaria đến ngày cắt bì, đặt tên cho con trẻ là Gioan (x. Lc 1,60), chúng ta khám phá ra dấu ấn của Đấng Tạo Hóa trên cuộc đời của mỗi con người.
Chúng ta không tự mình mà có
Muốn khám phá con người từ đâu đến, trước hết ta hãy hỏi: Ta có thể tự nhiên có được chăng? Câu trả lời chắc chắn là chẳng bao giờ có được. Vì mọi người đều có cha có mẹ, không ai ở lỗ nẻ mà chui lên.
Hỏi: Ai tạo dựng con người? Thưa, Đấng đã tạo dựng cả đất trời đất. Đấng toàn tri, toàn năng, khôn ngoan vô cùng, phép tắc vô cùng. Đấng ấy là Thiên Chúa. Sách Sáng Thế mô tả: “Thiên Chúa dùng bụi đất nặn nên con người, rồi hà sinh khí vào lỗ mũi, con người bèn trở nên một sinh vật có linh hồn”(St 2,7). Như vậy con người có là bởi Thiên Chúa. Ngài đã dựng nên cách trực tiếp và thổi sinh khí vào lỗ mũi để con người sống, bởi vậy con người khôn ngoan hiểu biết khác hẳn loài vật. “Vậy Thiên Chúa dựng nên loài người theo hình ảnh Chúa. Ngài đã tạo dựng loài người có nam có nữ”(St 1,27). Con người có một phẩm giá cao trọng trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia và Thánh vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: “Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người”(Is 49, 1-3). Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con…Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu”(Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Cuộc đời của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người”(Lc 1, 76). Tất cả những ơn gọi ấy làm nên một lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa tác động trong lịch sử con người. “Này ông Dacaria, đừng sợ, vì ông đã được nghĩa với Chúa”(Lc 1,13). Đó là lời Sứ Thần nói với ông Dacaria. Ông đã được nghĩa với Chúa. Được nghĩa với Thiên Chúa là được Thiên Chúa yêu thương. Chúa yêu đến ngỡ ngàng, bản thân Giacaria là bằng chứng. Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, nhưng bởi vì Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử cuộc đời và ơn gọi của Gioan nói riêng và của mỗi người chúng ta nói chung.
Hiện hữu trong sự quan phòng
Giáo lý Hội Thánh dạy: “Sau khi sáng tạo, Thiên Chúa không bỏ mặc các thụ tạo của Ngài. Ngài không chỉ ban cho chúng hữu thể và hiện hữu, Ngài còn luôn gìn giữ chúng hiện hữu, cho chúng khả năng hành động và đưa chúng đến cùng đích”. Sự gìn giữ, sắp xếp và tác động thúc đẩy các tạo vật để chúng đi đến cùng đích ấy được gọi là việc Thiên Chúa quan phòng. (x. SGLHTCG, số 301). Như vậy, theo Giáo lý của Hội Thánh thì Thiên Chúa không chỉ sáng tạo nên vạn vật rồi bỏ mặc chúng, mà Ngài còn quan tâm chăm sóc và điều hành chúng bằng ý định đầy quyền năng của Chúa.
Thánh Gioan Kim Khẩu viết: “Chúa lưu ý đến từng điều cho con người. Phần ta, ta không thêm được gì cho thân ta, nhưng Chúa quan phòng làm hoàn toàn đầy đủ mọi việc cho ta. Nếu không có Chúa quan phòng, thì mọi sự lo lắng vất vả của chúng ta đều vô ích”.
Thánh Basiliô dùng kiểu nói ví von: “Chúa cho bò ngựa có cỏ, thì lại cho con người có của cải sinh sống. Chúa tạo nên mọi thứ là dự bị cho con người có đủ thức ăn… Không có gì là không có lý do hay tình cờ, nhưng là kết quả của tài khôn ngoan vô cùng”.Thánh Augustinô thì đưa ra một nhận xét chí lý: “Thượng Đế không phải như một kỹ sư xây nhà xong có thể bỏ đấy đi, vì nếu Ngài ngơi tay ra thì tất cả vũ trụ sụp đổ”. Thánh nhân viết tiếp: “Sao tôi lại xin để Chúa ở trong tôi, trong khi tôi không thể tồn tại nếu Chúa không ở trong tôi?”Theo ngài, đúng hơn phải nói: “Tôi không thể tồn tại nếu tôi không ở trong Chúa, mà do đó, nhờ đó và trong đó tất cả mọi vật tồn tại”.
Gioan Tẩy là kiểu mẫu điển hình cho sự quan phòng của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa can thiệp cụ thể trong lịch sử đời người. Mang danh hiệu là Tiền hô của Đấng Cứu Thế, Gioan có sứ mạng “đem nhiều con cái Ítrael trở về cùng Chúa”(Lc 1, 16). Gioan đã sống xứng danh người loan báo về Đấng Cứu Thế. Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa tạo dựng và an bài trong ý định nhiệm mầu cao siêu của Thiên Chúa.
Sứ mạng của mỗi người chúng ta
Sinh ra sống ở trên đời, mỗi người trong chúng ta đều có một sứ mạng trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Hết thảy chúng ta đều được sáng tạo trong yêu thương với ơn gọi làm người giống hình ảnh Chúa là Chân, Thiện, Mỹ, được chính Thiên Chúa gọi trong tình yêu và mong một ngày nào đó người ấy nghe được tiếng Chúa gọi và đáp lại với tình yêu. Thiên Chúa cũng trao cho mỗi người một sứ mạng, dù sang hay hèn, bất tài, hay chống đối Chúa.
Mỗi người chúng ta được tạo dựng một cách độc đáo, không ai giống ai, cả thể xác lẫn tâm hồn, tính tình và năng khiếu. Bởi đó, không có ơn gọi nào giống ơn gọi nào. Mỗi người là tác phẩm nghệ thuật độc đáo và độc nhất vô nhị của Thiên Chúa. Theo tư tưởng thần học về Nhiệm Cục Cứu Độ của Von Balthasar, thì cuộc hành trình ơn gọi của mỗi chúng ta như một kịch bản. Thiên Chúa Cha đã cài đặt một chương trình. Chúa Thánh Thần là huấn luyện viên. Thiên Chúa Con là gương mẫu. Bản thân ta thực hiện chương trình, và cộng đoàn là những môi trường.
Cuộc sống con người tự nó đã là một huyền nhiệm, huyền nhiệm vì con người được tạo dựng trong ý định của Thiên Chúa: “chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta”(St 1, 26-28). Như thế, nơi sâu thẳm thân phận con người đã có một huyền nhiệm và con người không tồn tại do chính ý định của mình.
Để khám phá ra mục đích đời ta, ta phải qui chiếu về Lời Chúa. Qua miệng Phaolô, Chúa chỉ cho chúng ta thấy: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Chúa Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”. (Ep 2,10).
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh Gioan Tiền Hô giúp chúng con quyết tâm sống sao cho xứng với ơn gọi là Kitô hữu. Amen.
Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Đây là một lễ rất lâu đời xét về mặt thời gian. Nếu như câu hỏi mà những người đương thời để bụng suy nghĩ “con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? “Thì ngày nay người ta vẫn không ngừng đặt ra những câu hỏi, chẳng hạn như : Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6 ? Và lý do gì mà Giáo hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể như thế ?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6 ?
Lý do lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức là theo calends( ngày mùng 1), ides(ngày 15) và nones(ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh hạ của Chúa Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Isave chị họ của ngài đang có thai trong tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói: “Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên Trời. Riêng thánh Gioan Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong lòng Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo hội tin rằng Gioan Tẩy Giả đã được thánh hoá trong dạ mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ sinh nhật của ngài “.
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn sứ Isaia và Thánh vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: “Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người”(Is 49, 1-3). Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con…Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu”(Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ.
Lời mời gọi bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ khi còn trong lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta : “Con mới là bao thai, mắt Ngài đã thấy “(Tv 138,16).
Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người”(Lc 1, 76).
Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa.
Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ chối hay lười biếng nhận lãnh bí tích, đi nghịch lại với lương tâm của mình, gây lâm nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường, khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu thuộc về một bản tính khác.
Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: “Isave vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời “(Lc 1,13-14). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ XXI, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ này.
Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Isave và ông Giacaria, đang chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen.
Bài Tin mừng hôm nay tập trung vào lễ nghi cắt bì và đặt tên con trẻ Gioan. Khi được chứng kiến những sự lạ lùng, nhất là sự kiện Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm, mọi người đều bỡ ngỡ và thắc mắc về sứ mệnh của em nhỏ sau này. Về sau Gioan đã vào sống trong hoang địa cho đến trước khi Đức Giêsu ra giảng đạo, Gioan đã đến vùng sông Gio-đan thi hành sứ mệnh tiền sứ để giúp dân Ít-ra-en chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu sắp đến.
2. CHÚ THÍCH: Phép cắt bì trong đạo Do Thái
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (x Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (x Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (x Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (x Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (x Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
3. CÂU HỎI:
1- Tại sao bà Êlisabét không đồng ý đặt tên cho con trẻ là Da-ca-ri-a mà là Gioan?
2- Hãy cho biết những sự lạ nào đã xảy ra trong nghi lễ cắt bì và đặt tên của Gioan Tẩy giả?
3- Cắt bì là gì? Những ai được chịu phép cắt bì? Phép cắt bì nhằm mục đích gì?
4- Tại sao ngày nay khi theo đạo công giáo, lương dân không còn phải chịu phép cắt bì trước khi chịu phép rửa tội để gia nhập vào Hội thánh?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: "Đức Kitô phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi" (Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM: Cuộc đời của Gioan Tiền Sứ
Gioan là vị Tiền hô của Chúa Giêsu (x.Mt 3,3). Gioan là con của ông Da-ca-ri-a và bà Êlisabét. Cả hai thuộc dòng tộc tư tế. Bà Êlisabét là chị họ của Đức Maria, nên Gioan là anh bà con của Đức Giêsu. Cha mẹ của Gioan sống ở miền núi xứ Giu-đê (x Lc 1,39). Từ nhỏ, Gioan đã sống cuộc đời ẩn tu khổ hạnh trong sa mạc. Đến năm thứ 15 thời Hoàng đế Tibêria, Gioan mới xuất hiện tại vùng hoang địa miền Giuđê cạnh sông Giođan để rao giảng và làm phép rửa sám hối cầu ơn tha tội (x.Mt 3,1). Phép rửa của ông là một nghi thức thống hối kèm theo việc xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gioan đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người với các môn đệ: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,29). Có lần đức Giêsu gọi Gioan là Ê-li-a khác, là người lớn nhất trong Cựu ước, là tiên tri loan báo Nước Trời (x.Mt 11,2 -19; Lc 7,18-33).
Cuộc đời của Gioan kết thúc bằng hình khổ bị chém đầu trong nhà tù, do ông can đảm bênh vực cho công lý, dám lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được lấy bà chị dâu Hêrôđiađê làm vợ. Do đó ông đã bị tống giam vào ngục và sau đó còn bị giết hại (x. Lc 9,7-9).
3. THẢO LUẬN: Chúng ta cần làm gì để noi gương các nhân đức của Gioan như: khiêm nhường (x Ga 3,30), khó nghèo (x Mc 1,6-8), vâng phục (x Mt 3,13-15), trung tín (x Ga 1,35-37), thật thà (x Ga 1,20-23), dũng cảm (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9).
IV. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã thực hiện sứ mệnh tiền hô kèm theo những dấu lạ, khiến mọi người phải bỡ ngỡ thán phục. Đời con chẳng có những dấu lạ như thánh Gioan. Cũng như bao người khác, Chúa muốn con trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. Xin cho con trở thành dấu chỉ để người đời nhận biết Chúa, qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân và khiêm nhường phục vụ, nhất là phục vụ những người nghèo đói noi gương Chúa xưa.
- LẠY CHÚA. Thánh Gioan Tẩy giả đã nêu gương khiêm tốn và làm chứng cho Chúa. Làm chứng trong cuộc sống hôm nay chính là: Tự làm mình lu mờ đi bằng việc ít nói về mình, không khoe khoang thành tích của mình, để Chúa được lớn lên nơi tha nhân. Làm chứng cho Chúa hôm nay cũng là: sống điều độ chừng mực, tránh thói tiêu xài xa hoa lãng phí và sự chè chén say sưa. Làm chứng cho Chúa hôm nay còn là chỉ đường giúp nhiều người nhận biết và theo làm môn đệ của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống đơn sơ khó nghèo, can đảm làm chứng cho sự thật và không bao giờ chịu lùi bước trước những khó khăn trở ngại gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria - Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. (59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an. (61) Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng có ai có tên như vậy cả”. (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. (63) Ong xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”. Ai nấy đều rất bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi của ông lại mở ra. Ong nói được và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?”Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. (80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào mặc khải diệu kỳ của cái tên Gio-an trong nghi lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ. Bà con láng giềng tụ tập trong ngày này đã được chứng kiến sự lạ lùng ấy. Rồi việc ông Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm khiến mọi người có mặt đều bở ngỡ và đặt dấu hỏi về sứ mệnh của con trẻ sau này. Sau đó Gio-an đã vào sống trong hoang địa cho đến khi thi hành sứ mệnh tiền hô giúp dân Do thái nhận biết Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su Na-da-rét.
3. CHÚ THÍCH:
-C 57-59: +Láng giềng và thân thích đều chia vui với bà: Bài tường thuật tập trung vào việc mặc khải diệu kỳ của tên Gio-an và biến cố cắt bì đặt tên. Bà con láng giềng tụ tập lại trong sự chia sẻ niềm vui với đôi vợ chồng già. Nhờ đó tiếng đồn về sự cố lạ lùng nơi con trẻ lại càng lan rộng. +Khi con trẻ được tám ngày: Tám ngày là thời gian Luật định để làm phép cắt bì (x St 17,12; Lv 12,3; Pl 3,5). +Và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em: Người ta thường lấy tên ông nội hay một người trong họ hàng mà đặt cho cháu. Ở đây người ta lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho con.
-C 62-63: +Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”: Hai ông bà đã thống nhất chọn tên Gio-an cho con, đúng như sứ thần đã truyền cho Gia-ca-ri-a khi truyền tin cho ông trong Đền thờ (x Lc 1,13). +Ai nấy đều rất bỡ ngỡ: Phải chăng sự thống nhất ý kiến của hai ông bà về việc đặt tên khác thường cũng là một dấu lạ khiến mọi người ngạc nhiên.
-C 65-66: +Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ: Trong Kinh Thánh, chữ “tâm”hay “lòng”chỉ nơi phát xuất ra tư tưởng, tình cảm, hòai niệm, quyết định và ước muốn của con người giống như Đức Ma-ri-a “suy đi nghĩ lại trong lòng”(x Lc 2,19). Ở đây để tâm nghĩa là ra sức tìm hiểu ý nghĩa của lời sấm hay sự việc xảy ra. +Có bàn tay Chúa phù hộ em: Kiểu nói “bàn tay Chúa”mô phỏng Cựu ước, cho thấy Thiên Chúa bảo vệ những ai tin cậy vào Người, mà Gio-an là một trong số đó (x Tv 80,18; 139,5).
4. CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả có liên hệ họ hàng thế nào với Đức Giê-su? 2) Tại sao láng giềng bà con lại phải đến nhà thăm khi bà Ê-li-sa-bét sinh con? 3) Phép cắt bì là gì? Được cử hành thế nào? 4) Tại sao hai ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét lại thống nhất lấy tên Gio-an mà đặt cho con?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Đức Ki-tô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”(Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CUỘC ĐỜI VỊ TIỀN HÔ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ
Gio-an là vị tiền hô của Chúa Giê-su (x.Mt 3,3), là con của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Cả hai ông bà thuộc dòng tộc tư tế. Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Ma-ri-a, nên Gio-an là anh bà con của Đức Giê-su. Cha mẹ của Gio-an cư ngụ tại miền núi xứ Giu-đê (x.Lc 1,39). Từ nhỏ, Gio-an đã vào trong sa mạc sống tu hành nhiệm nhặt. Đến năm thừ 15 thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô, Gio-an bắt đầu xuất hiện tại vùng ven sông Gio-đan miền Giu-đê rao giảng và làm phép rửa sám hối (x.Lc 3,1). Phép rửa do ông thực hiện là một nghi thức tỏ lòng thống hối kèm theo việc xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gio-an cũng công nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người là “chiên Thiên Chúa”với hai môn đệ của mình (x. Ga 1,35). Có lần Đức Giê-su xác nhận Gio-an là Ngôn sứ Ê-li-a, là người lớn nhất thời Cựu ước, có sứ mệnh đi trước dọn đường cho Người (x. Mt 11,9-19; Lc 7,24-30). Cuộc đời của Gio-an kết thúc với cái chết bị chém đầu trong nhà ngục, do ông đã can đảm ngăn cản vua Hê-rô-đê không được lấy chị dâu làm vợ, nên ông bị tống ngục, cuối cùng ông còn bị bà Hê-rô-đi-a đó giết hại (x.Lc 9,7-9).
2) TRÁNH TRÈO CAO ĐỂ KHỎI TÉ ĐAU:
Tác giả La-phông-ten đã viết nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có câu chuyện về con ếch và con bò để dạy chúng ta bài học là đừng quá tự cao như sau:
Ngày kia có một con ếch thấy một con bò to lớn vĩ đại nên rất ngưỡng mộ và mong sao cho mình cũng được trở nên vĩ đại như vậy. Từ tư tưởng biến thành hành động, con ếch liền xuống ao để uống nước cho bụng phình to ra sao cho bằng con bò kia. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài mà vẫn không sao to được bằng con bò. Nó lại cố uống thêm… cho đến khi một tiếng “Bốp”nổ vang lên và con ếch đã bị chết banh xác.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu trong cõi lòng, hầu như ai cũng muốn được người khác nể phục ca tụng. Ai cũng muốn tự nâng mình lên chứ không thích hạ mình xuống. Nhưng chúng ta ý thức giá trị của đức khiêm tốn và tập luyện nhân đức ấy, để việc tông đồ chúng ta làm được đẹp lòng Chúa và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.
3) GIẢI THOÁT KHỎI CÁI BÓNG CỦA MÌNH:
Có một anh khờ nọ muốn được giải thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn chạy bao nhiêu thì cái bóng đó lại càng đeo đuổi phía sau không dứt ra được. Anh lăn lộn trên đất, nhảy xuống sông… nhung dù đi đâu, làm gì, thì cái bóng của anh vẫn luôn ở phía sau.
Một cụ già khôn ngoan nghe biết chuyện đã cố vấn cho anh khờ như sau: "Để thoát khỏi cái bóng của mình, anh chỉ cần đến núp dưới bóng của một cây lớn là được". Anh khờ nghe lời đến núp dưới một cây lớn và từ ngày đó đã không còn bị cái bóng theo đuổi phía sau nữa.
Chỉ khi biết khiêm tốn nép mình dưới bóng cây Thập giá Chúa Giê-su, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của các thói hư, chạy theo hư danh, khoái lạc, lợi lộc… trong cuộc sống.
Hôm nay Hội Thánh mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng đến nép mình dưới cây Thập giá Chúa Giê-su. Con người ấy chính là Gio-an Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Ông đã luôn khiêm hạ nép mình dưới bóng Chúa Giê-su và hiến cả cuộc đời phụng sự Người như ông đã nói với các môn đệ: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi: (Ga 3,28-30).
3. SUY NIỆM:
1) So sánh giữa thánh Gio-an Tẩy Giả và vua Hê-rô-đê:
Đây là hai khuôn mặt hoàn toàn đối lập nhau: Gio-an là người có chí khí mạnh mẽ đang khi Hê-rô-đê lại yếu đuối nhu nhược. Gio-an có lối sống khắc khổ giản dị, đang khi Hê-rô-đê lại sống xa hoa hưởng thụ. Hê-rô-đê đã tống giam Gio-an vì dám lên tiếng tố cáo tội loạn luân của ông với bà chị dâu. Thật ra vua Hê-rô-đê cũng kính trọng Gio-an và coi ông là một nhà tiên tri. Nhưng nhà vua là người nhu nhược thiếu ý chí, dễ bị đam mê dục vọng khuất phục. Do áp lực của bà Hê-rô-đi-a-đê, nên Hê-rô-đê đã sai quân lính đến bắt Gio-an tống ngục. Rồi trong một bữa tiệc, do hài lòng về điệu múa của Sa-lô-mê là con gái của bà kia, nên nhà vua đã cao hứng hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin. Đứa con gái do mẹ xúi đã xin vua cho cái đầu của Gio-an Tẩy Giả, Vua Hê-rô-đê dù không muốn, nhưng phải giữ lời hứa nên đã sai lính vào ngục chém đầu Gio-an.
Vua Hê-rô-đê tiêu biểu cho những người để cho thú tính trong bản thân lấn lướt. Mặc dù lý trí và lương tâm luôn kêu gọi vươn lên, nhưng tiếng nói ấy vẫn không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn tội lỗi, vì đã quen chạy theo lạc thú thấp hèn. Còn thánh Gio-an Tẩy Giả là một người sống có lý tưởng, luôn ý thức chu toàn trách nhiệm, chống lại sức lôi kéo của bản năng.
2) Đức Giê-su đã đề cao con người và sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả: Người nói: “Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: "Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến" (Lc 7,24-27). Gio-an chính là vị ngôn sứ, được Thiên Chúa sai đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Với sứ mệnh đó, Gio-an đã trở nên một nhân vật lớn nhất trong lịch sử cứu độ như Đức Giê-su đã khen ngợi: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả…”(Mt 11,11).
3) Cần chu toàn sứ mệnh chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời:
Ngày sinh của Gio-an Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày chúng ta được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa. Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta đã trở thành ngôn sứ của Chúa Ki-tô và cần chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Người. Ngọn nến Hội Thánh trao cho chúng ta khi chịu phép rửa tội tượng trưng cho đức ái phải giãi sáng trước mặt người đời. Dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng hãy làm các việc tốt, để người đời khi nhìn thấy các việc lành chúng ta làm sẽ ngợi khen Cha chúng ta trên trời (x. Mt 5,16).
4) Làm gì cụ thể để dọn đường giúp tha nhân đón nhận ơn cứu độ của Chúa?
+ Khiêm hạ trong cách ăn nói như: Nói năng nhỏ nhẹ, tôn trọng tha nhân, năng khen các ưu điểm để khích lệ hơn là phê phán chỉ trích nhằm hạ giá những ai hơn mình. Tránh thói tự cao nhưng luôn làm mọi việc để tôn vinh Thiên Chúa như thánh Gio-an đã làm cho Đức Giê-su: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”(Ga 3,28.30).
+ Khó nghèo: Tránh thói đua đòi thích mua sắm quần áo giày dép xe cộ mới, nhưng luôn sống đơn sơ khó nghèo trong cách ăn ở noi gương thánh Gio-an: “Mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và uống mật ong rừng”(x Mc 1,6-8).
+ Vâng phục: Sẵn sàng bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa, noi gương thánh Gio-an đã vâng lời làm phép rửa cho Đức Giê-su tại sông Gio-đan (x Mt 3,13-15).
+ Trung tín: Luôn chu tòan sứ vụ tiền hô, giúp người đời nhận biết Đức Giê-su, noi gương thánh Gio-an đã giới thiệu và khích lệ hai môn đồ ưu tú bỏ mình để theo làm môn đệ Đức Giê-su (x Ga 1,35-37).
+ Trung thực: Trung thực để nhìn nhận khuyết điểm của mình và tu sửa, như Gio-an đã tự nhận là tiếng người hô trong hoang địa: ”Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”như lời ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm. Gio-an thừa nhận phép rửa của ông chỉ giúp người ta sám hối, còn Đấng đến sau quyền thế hơn ông, mà ông không đáng xách dép cho Người. Đấng ấy sẽ “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11; Ga 1,20-27).
+ Can đảm: Luôn can đảm làm chứng cho Chúa noi gương thánh Gio-an đã mạnh dạn can ngăn vua Hê-rô-đê không được lấy chị dâu làm vợ mình (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9). Dù vì thế mà ngài đã bị vua Hê-rô-đê hãm hại.
4. THẢO LUẬN: Hôm nay mỗi người cần làm gì để mình lu mờ đi hầu Chúa được người đời nhận biết tin yêu, noi gương thánh Gio-an?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con hôm nay biết làm chứng cho Chúa bằng những việc làm cụ thể: không khoe khoang thành tích ưu điểm của mình, sống đơn giản điều độ trong cách ăn mặc, tránh chè chén say sưa, can đảm bênh vực những người thấp cổ bé miệng, chấp nhận bị thua thiệt vì danh Chúa… Xin cho chúng con trở thành những người tiền hô, những đầy tớ trung tín hầu giúp người đời nhận biết và tin yêu Chúa noi gương thánh Gio-an.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời" của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.
Con người của một sứ mạng
Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là "bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính tình Yêu của Chúa "gọi" họ vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng đớ là một "ơn gọi". Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là tiêu biểu vả rõ ràng.
Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv..Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạlùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nới hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ "dọn đường". Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ "dọn đường”và "làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.
Gioan và Hêrôdê
Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.
Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.
Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.
Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.
Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta.
Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên "theo hình ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa" và "chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).
Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố...
Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta. Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?
Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo. Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.
Theo "ơn gọi" và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.
Chúa Giêsu đề cao những con người hèn mọn khi gọi Thánh Gioan Tẩy Giả là người cao trọng nhất: “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông”(Lc 7:28).
Thánh Gioan sống khổ hạnh trong hoang địa, bắt đầu rao giảng Nước Trời và kêu gọi mọi người canh tân đời sống. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Ngài nói rằng Phép Rửa của ngài bằng Nước là để ăn năn sám hối, nhưng Đấng đến sau ngài sẽ làm Phép Rửa bằng Lửa và Thánh Thần. Ngài tự nhận mình không đáng cởi quai dép cho Đấng đó. Thái độ của ngài đối với Chúa Giêsu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”(Ga 3:30).
Thánh Gioan đã thu hút vô số người đến bờ sông Giođan, nhưng ngài luôn làm theo ý Chúa Giêsu, ngay cả việc sai một số những người theo Chúa trở thành các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Khi ở trong tù, ngài đã sai một số môn đệ của ngài đến hỏi xem Chúa Giêsu có phải là Đấng Thiên Sai hay không. Chúa Giêsu trả lời rằng Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Và rồi chính Thánh Gioan cũng đã thông phần đau khổ là chịu chém đầu vì nữ tỳ Hêrôđia.
Thánh Gioan là người giảng lưu động và là VIP (Very Important Person – nhân vật quan trọng) được nói tới trong các Phúc Âm và kinh Koran (Qur’an). Phúc Âm theo Thánh Luca diễn tả ngài có họ hàng với Chúa Giêsu và đã làm Phép Rửa cho Ngài tại sông Giođan. Thánh Gioan được coi là Ngôn sứ (Tiên tri) trong Kitô giáo, Hồi giáo, Bahai giáo (Bahá’í Faith, tôn giáo độc thần – monotheistic religion).
Thánh Gioan Tẩy Giả sống khiêm nhường, chỉ nhận mình là “tiếng kêu trong hoang địa”(Mt 3:3), đồng thời ngài cũng rất “bụi đời”trong cuộc sống hàng ngày, quần áo “te tua”, ăn uống đạm bạc, đúng là một lãng tử chính hiệu: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn”(Mt 3:4).
Nhưng ngài cũng rất thẳng thắn, trái tai gai mắt là “phang”liền. Chẳng hạn, khi thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ngài nói thẳng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham’. Tôi nói cho các anh hay: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham đấy nhá”(Mt 3:7-9). Vừa độc đáo vừa đáo để. Mà cũng phải thế mới được!
Theo Tân ước, Thánh Gioan biết trước Đấng Thiên Sai sẽ cao trọng hơn mình, và Chúa Giêsu đã xuất hiện đúng như Thánh Gioan tiên báo. Thánh Gioan là sứ giả hoặc người tiên phong của Chúa Giêsu, một vai trò quan trọng được Thiên Chúa trao. Thánh Gioan còn được đồng hóa với Ngôn sứ Êlia. Thời sơ khai, một số người theo Chúa Giêsu cũng đã từng là môn đệ của Thánh Gioan. Thậm chí một số học giả còn cho rằng chính Chúa Giêsu cũng là môn đệ của Thánh Gioan một thời gian, nhưng điều này bị bác bỏ.
Tân ước nói về Thánh Gioan trong cương vị sứ giả: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”(Lc 1:17), và trong cương vị người tiên phong: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người”(Lc 1:76).
Có vài đoạn trong Cựu ước được các Kitô hữu hiểu Thánh Gioan Tẩy Giả trong vai trò Ngôn sứ. Chẳng hạn trong sách Malakhi nói về một Tiên tri dọn đường cho Chúa Giêsu: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến”(Mlk 3:1). Hoặc: “Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt”(Mlk 3:23-24).
Trong trình thuật Ga 1:29-30, Thánh sử Gioan cho biết: Khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?”. Ông nói: “Không phải”. Họ lại hỏi: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”. Ông đáp: “Không”. Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”. Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”.
Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”. Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa. Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”.
Trước đó, khi nghe đồn về Chúa Giêsu, các môn đệ báo cho Thánh Gioan Tẩy Giả biết tất cả những việc ấy. Thế rồi chính ngài cũng ngạc nhiên nên liền sai hai đệ tử đến hỏi Chúa: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”(Lc 7:18-19). Họ đến gặp Đức Giêsu và nói: “Ông Gioan Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy có thật là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”(Lc 7:20). Lúc ấy, Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và làm cho nhiều người mù được thấy. Chắc hẳn Ngài cũng lắc đầu và cười, nhưng Ngài không nói thẳng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng”(Lc 7:22).
Cả bốn Phúc Âm đều nói về việc Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng và làm Phép Rửa tại sông Giođan. Thánh Gioan Tẩy Giả nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Phép Rửa đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Phúc Âm theo Thánh sử Máccô, Matthêu và Luca (rõ nhất) thuật lại rằng Chúa Giêsu đến từ Galilê đến với Thánh Gioan ở Giuđê và được Thánh Gioan làm Phép Rửa, có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu và có tiếng nói từ trời nói Ngài là Con Thiên Chúa. Phúc Âm theo Thánh sử Gioan không trực tiếp cho biết về Phép Rửa, nhưng sau đó mới được mô tả (x. Ga 1:32-33). Và Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với các môn đệ của ngài rằng Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”(Ga 1:29-36).
Khi Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực từ chối vì ông đã biết Đấng Thiên Sai là ai: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”(Mt 3:14). Nhưng Chúa Giêsu nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”(Mt 3:15).
Chính Chúa Giêsu đã gọi Thánh Gioan Tẩy Giả là “ngọn đèn cháy sáng và muốn vui hưởng ánh sáng ấy trong một thời gian”(Ga 5:35). Sách Công vụ phác họa các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả là những người theo Chúa Giêsu (x. Cv 18:24–19:6), về trường hợp của Thánh Anrê, anh của Thánh Phêrô, là người đầu tiên được gặp Chúa Giêsu (x. Ga 1:35-42).
Về cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả, vua Hêrôđê đã bỏ tù và xử trảm ngài vì “tội”ngăn cản cuộc hôn nhân loạn luân của vua. Chuyện là Thánh Gioan Tẩy Giả phản đối vua hêrôđê kết hôn với nàng Hêrôđia (vợ của Philip, anh của Hêrôđê, và cũng là cháu của Hêrôđê), tức là vi phạm luật Cựu ước. Sau đó, con gái của Hêrôđia là Salome (vừa là cháu nội của Hêrôđê, vừa là con gái riêng) múa cho Hêrôđê xem. Hêrôđê khoái chí nên hứa thưởng cho bất cứ thứ gì, dù là nửa đất nước. Bó tay! Biết vua mê mẩn mình nên Hêrôđia nói với con gái cố xin cho được cái thủ cấp của Thánh Gioan Tẩy Giả. Hêrôđê buồn lắm, nhưng lỡ hứa rồi, thôi cũng đành cho chém đầu Gioan và đặt lên dĩa làm “quà”cho mẹ con “Tấm Cám”ác độc kia (Mc 6:14-29).
Về sinh nhật của Thánh Gioan tẩy Giả, cha mẹ ngài là ông Dacaria (tư tế Do Thái) và bà Êlidabet. Hai ông bà không có con cái và đã luống tuổi, ngoài tuổi sinh sản. Đến phiên trực của ông Dacaria trong Đền thờ Giêrusalem, và đến giờ ông dâng hương. Tại bàn thờ ở Nơi Thánh, Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã hiện ra với ông và thông báo rằng vợ chồng ông sẽ sinh con trai, tên nam nhi đó sẽ là Gioan. Ông không tin sứ điệp của Sứ thần Gabriel là sự thật, thế nên ông bị câm cho tới khi Thánh nhi Gioan ra đời (Lc 1:5-25). Lúc đó, mọi người trong gia tộc muốn đặt tên cho con trẻ theo tên cha, nhưng ông Dacaria xin tấm bảng và ghi: “Tên cháu là Gioan”(Lc 1:63). Ai cũng thấy lạ. Rồi ông nói được như trước. Mọi người càng kinh ngạc hơn!
Ông Dacaria liền dâng lời chúc tụng Thiên Chúa bằng Bài ca Chúc tụng (Benedictus), nói về thiên chức tiên tri, sứ giả và tiên phong của con trẻ Gioan (Lc 1:67-79).
Thánh Gioan sinh trước Chúa Giêsu khoảng 6 tháng, nên lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào ngày 24-6, trước lễ Giáng sinh đúng 6 tháng. Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong số ít các thánh được Giáo hội mừng sinh nhật, không chỉ vậy, ngài còn được Giáo hội nhớ giỗ vào ngày 29-8 hàng năm.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.
Thánh Gioan là “dấu cộng”của Cựu ước và Tân ước, được gọi là Tiền hô (người dọn đường cho Chúa Giêsu), là Tẩy giả (người làm phép rửa cho Chúa Giêsu), và là người rất… “bụi đời”– vì ông “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn”(Mt 3:4). Thế nhưng “kẻ bụi đời”đó lại được mệnh danh là “ngôn sứ của Đấng tối cao”[Lc 1:76 – Thánh ca Chúc Tụng (Benedictus)] và “nên cao cả trước mặt Chúa”(Lc 1:15). Tuy vậy, ông Gioan vẫn khiêm hạ, nhận mình là người “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu”(Lc 3:16).
Cuộc đời Thánh Gioan Tẩy giả có nhiều “điểm lạ”. Mẹ ông mang tiếng là son sẻ (ngày nay gọi là “vô sinh”), nhưng Thiên Chúa đã thương nhậm lời cầu xin và cho bà mang thai khi bà đã luống tuổi. Còn cha ông, vì không tin vợ mình mang thai nên bị câm cho đến khi bé Gioan chào đời và chịu phép cắt bì. Khi đó, mọi người cũng thấy lạ nên để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”(Lc 1:66).
Và rồi đứa trẻ ấy “càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh”(Lc 1:80). Thánh Gioan Tẩy giả còn khiêm nhường hơn khi ông nói về Đức Giêsu: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3:30).
Bác Gioan nhà ta thật lạ. Gọi là “bác”cho thân thiện, đúng cấp bậc dòng họ, và cũng hợp với ngôn ngữ Việt Nam, vì ông là anh họ của Thầy Giêsu.
Cái gì cũng có nguyên nhân và hệ quả. Công minh và công bằng rạch ròi: Trời sinh một bậc kỳ tài là để dùng vào một sứ mệnh nào đó, nhưng trước khi trao sứ mệnh đó, trời bắt người đó phải trải qua trăm cay ngàn đắng.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng không ngoài quy luật đó. Cuối cùng, ông còn phải chết nhục nhã bằng cách bị chém đầu vì một vũ nữ lăng loàn trắc nết (x. Mt 14:3-11; Mc 6:17-19), chứ không được chết hiên ngang ngoài pháp trường như những vị tử đạo khác. Mà cũng tại ông vua nhu nhược Hêrôđê, vì mê gái, đã lỡ hứa cho cô gái đó bất cứ thứ gì, dù là nửa quốc gia. Khiếp thật! Thế nhưng cô ta không cần nửa đất nước mà chỉ khoái cái thủ cấp của Bác Gioan thôi.
Tuy nhiên, ông Gioan Tẩy giả vẫn được Đức Kitô đề cao: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”(Mt 11:11).
Lễ trọng mừng kính Gioan Tẩy giả, Giáo hội đưa ra hình ảnh Thánh Gióp, một người chịu nhiều đau khổ và mất mát đến tột cùng. Giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài”(G 38:8-10). Rồi Ngài cho ông biết: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!”(G 38:11). Tự do cũng phải có giới hạn ngay trong sự tự do.
Tiếng sóng vỗ ngàn năm vẫn thế, chỉ mạnh và nhẹ khác nhau. Tiếng sóng có lúc da diết, có lúc êm đềm, có lúc lãng mạn, có lúc sôi nổi, và có lúc lại thét gào dữ dội. Khi biển lặng, sóng vỗ rì rào êm đềm thật thú vị; nhưng khi biển giận dữ, không ai biết sóng thần nổi lên lúc nào, có chạy cũng không kịp!
Thánh vịnh 107 nói: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Ngài thực hiện giữa dòng nước lũ”(Tv 107:23-24). Thiên Chúa không là người thích đùa dai, con người quá quắt nên Ngài mới ra tay uy lực, không phải để triệt hạ mà để tỉnh thức lương tâm con người: “Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn”(Tv 107:25). Lúc đó, “họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc”(Tv 107:26). Khủng khiếp quá, chịu gì nổi!
Nhưng “khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Ngài đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng”(Tv 107:28-29). Thiên Chúa “hay quên”lắm, thế nên Ngài không hề nhớ tới lỗi lầm người ta xúc phạm tới mình trước đó. Thật may cho chúng ta! Thấy vậy, “họ vui sướng, vì trời yên bể lặng, và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ”(Tv 107:30). Tuy nhiên, như người Việt có câu: “Bình thường chẳng nhớ đến tai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Có ai bị nóng tay mà không sờ vô trái tai? Con người là thế. Chúng ta là vậy. Bạc bẽo vô cùng. Thế nên tác giả thánh vịnh thốt lên: “Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần”(Tv 107:31).
Sau khi ngã ngựa và được Chúa thức tỉnh, Thánh Phaolô phải nói ra: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi”(2 Cr 5:14a). Ông giải thích: “Nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”(2 Cr 5:14b-15). Đó mới là cách sống ý nghĩa. Ý nghĩa vì không còn ích kỷ, không còn sống cho riêng mình nữa. Ông nói thêm: “Từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Ngài như vậy nữa”(2 Cr 5:16). Tại sao? Thánh Phaolô giải thích: “Ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”(2 Cr 5:17).
Thật vậy, tất cả chúng ta đều trở nên thụ tạo mới trong Đức Giêsu Kitô, vì chúng ta được tắm gội trong chính Máu và Nước tuôn trào ra từ Thánh Tâm Ngài, tức là chúng ta được hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Ngài. Biển tình của Chúa luôn vỗ sóng, chúng ta phải lắng nghe tiếng-sóng-mời-gọi-tha-thiết ấy để có thể mau mắn đáp lại. Chúng ta hãy noi gương Thánh Gioan Tẩy giả luôn lắng nghe và hành động theo Ý Chúa, luôn khiêm nhường và đề cao Chúa một cách tuyệt đối.
Thánh sử Mác-cô kể rằng, chiều hôm ấy, Đức Giêsu bảo các môn đệ cùng sang bên kia sông. Các ông chở Ngài đi, vì Ngài đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Ngài. Nhưng bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các ông thấy Sư phụ tỉnh rụi như không có chuyện gì, thế nên các ông vội đánh thức Ngài dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”(Mc 4:38).
Đức Giêsu thức dậy, vẫn điềm tĩnh. Nếu là chúng ta, chắc hẳn chúng ta bực mình và càu nhàu dữ lắm. Nhưng Ngài không nói gì, không hề trách các đệ tử. Rồi Ngài ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4:39). Lạ thay, gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Ngài bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4:40). Ngài hỏi nhẹ nhàng mà các ông đau điếng. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”(Mc 4:41).
Con người yếu đuối và kém đức tin thế đó. Không thể nói “ngon”. Các môn đệ tận mắt chứng kiến Sư phụ làm nhiều phép lạ mà vẫn chưa đủ lòng tin, thậm chí còn hoang mang ngay khi ở bên Thầy mình. Thật vậy, “nói trước thì bước không qua”. Chúng ta cũng vậy, e rằng còn tệ hơn nữa kìa!
Xin Thánh Gioan Tẩy cầu thay nguyện giúp chúng ta biết dành cho Chúa vị trí ưu tiên số một.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con (Lc 17:5), xin dạy chúng con biết lắng nghe Tiếng-Sóng-Chúa và xin làm sóng lòng chúng con yên lặng dù biển đời vẫn động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Trong âm nhạc, dấu nối là ký hiệu có dạng đường cong, nối các nốt nhạc cùng cao độ, để kéo dài trường độ âm thanh. Dấu nối là cách kết nối các sự kiện với nhau. Các lĩnh vực khác cũng có dạng tương tự. Về tâm linh, dấu nối cũng có nghĩa là giải hòa.
Mỗi con người là một kỳ công của Thiên Chúa. Đa số sinh ra rất bình thường, nhưng có một số người khá đặc biệt ngay từ khi lọt lòng mẹ, bằng cách này hay cách nọ, theo Thánh Ý của Thiên Chúa quan phòng và tiền định từ thuở đời đời, mỗi người có một danh phận và được đặt ở một vị trí theo ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta muốn cách này nhưng Thiên Chúa muốn cách khác: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
Ngày xưa, Thiên Chúa phán với ông Giêrêmia: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”(Gr 1:5) Ông lo sợ không biết ăn nói, nhưng Thiên Chúa bảo ông đừng sợ, rồi Ngài chạm vào miệng ông và đặt lời Ngài vào miệng ông. (Gr 1:8-9) Khi thấy sự lạ ở ông bà Dacaria và hài nhi Gioan, người ta thắc mắc: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”(Lc 1:66) Ngôn sứ Gioan được Thiên Chúa tác tạo để làm người tiền phong cho Đấng Cứu Thế, là “dấu nối”giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người.”(Is 49:1-2) Ông Isaia xác định về ơn gọi của ông được Thiên Chúa tiền định từ khi ông chưa ra đời. Đó là sự thật mà phàm nhân không thể hiểu được. Không có gì là tình cờ hoặc ngẫu nhiên.
Chính Thiên Chúa xác định ông là người tôi trung và dùng ông để “biểu lộ vinh quang của Ngài,”(Is 49:3) còn ông nói ông đã “vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì.”(Is 49:4a) Cảm nhận những sự kiện đã qua, ông xác tín: “Nhưng sự thật, đã có Đức Chúa minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng.”(Is 49:4b) Vì vinh danh Thiên Chúa, ông xứng đáng được tận hưởng niềm hạnh phúc đó.
Và rồi ông cho biết thêm: “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Giacóp về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.”(Is 49:5) Thiên Chúa thấu suốt mọi sự từ đời đời, đồng thời quan phòng và tiền định mọi thứ từ đời đời. Chính vị Thiên Chúa toàn năng đó đã trao thêm trọng trách cho ông: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.”(Is 49:6) Thiên Chúa giao cho ai việc gì thì Ngài biết kinh nghiệm của người đó rồi.
Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.”(Tv 139:1-3) Ngài biết rõ chúng ta vì Ngài tạo dựng nên chúng ta. Tác giả biết rõ tác phẩm của mình.
Thiên Chúa tỏ tường mọi sự – cả vô hình và hữu hình, cả điều lớn lẫn điều nhỏ nhất: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.”(Tv 139:13-15) Ai đau xác hoặc khổ hồn thì Thiên Chúa cũng thấu suốt, Ngài có để cho chúng ta chịu đau khổ là vì lợi ích của chính chúng ta. Thật vậy, Thánh Madeleine Sophie Barat nói: “Một thanh sắt được thành hình trên một cái đe và nhờ ngọn lửa thế nào, thì dưới sức nặng thử thách và trong ngọn lửa đau khổ, linh hồn chúng ta cũng sẽ thành hình đúng như Thiên Chúa muốn về nó như vậy.”Chúng ta không thể nào hiểu nổi, vì Thánh Ý Chúa mầu nhiệm.
Rất thường xuyên, Chúa Giêsu nhắc nhở mọi người về việc chịu đau khổ: Vác Thập Giá hằng ngày và vào cửa hẹp. Trên hành trình đức tin, bất cứ ai cũng phải cố gắng thi hành hai điều đó.
Về việc “vào cửa hẹp,”Thánh Phaolô đã nhắc lại lời Chúa Giêsu khi ông rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!”thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!”(Cv 13:25-26)
Chẳng dễ gì khi đi vào cửa hẹp, vừa khó khăn vừa khó chịu. Chịu đau khổ là đi vào cửa hẹp, vào được thì sẽ trở nên mạnh mẽ và chiến thắng. Những người sống khắc khổ như vậy thường bị người ta cho là dại dột hoặc ngu xuẩn, thế nhưng đó chính là những người can đảm. Các Kitô hữu là những người có lối sống “không giống ai”nên ở đâu họ cũng bị bách hại, đủ kiểu và đủ mức. Tại sao người ta không bách hại các đạo khác mà chỉ bách hại Kitô giáo – nhất là Công giáo? Đó là cách chúng ta nhận ra chính đạo.
Một sự kiện quan trọng được đề cập trong trình thuật Lc 1:57-66 và 80: Sinh nhật Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Đấng Cứu Thế. Láng giềng chia vui nhưng cũng vô cùng ngạc nhiên về sự kiện này. Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlidabét sinh hạ một con trai. Mọi người chia vui với bà vì Chúa đã thương bà cách đặc biệt.
Theo tục lệ, con trẻ chịu phép cắt bì vào tám ngày sau. Người ta muốn lấy tên cha Dacaria mà đặt cho con trẻ, nhưng bà mẹ liền phản đối, bắt phải đặt tên con là Gioan. Ai cũng bảo dòng họ chẳng ai có tên như vậy. Người ta làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên gì cho con. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan.”Thật lạ lùng! Ý Chúa kỳ diệu, và mọi người đều bỡ ngỡ.
Điều lạ khác xảy ra: “Ông câm”Dacaria lại nói được. Và ông liền chúc tụng Thiên Chúa. Hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ, chuyện lạ về gia đình ông Dacaria được đồn ra khắp miền núi Giuđê rất nhanh. Ai nghe cũng nhíu mày và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”Đó là tác động của bàn tay Thiên Chúa, hài nhi Gioan được Ngài phù hộ để làm “dấu nối”trong kế hoạch của Ngài.
Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả cũng là lời nhắc nhở chúng ta về việc bảo vệ sự sống, bảo vệ thai nhi và thai phụ. Theo Thánh sử Luca, Cậu Bé Gioan càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh và sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel. (Lc 1:80) Lối sống của Chàng Gioan cũng rất khác người, phong cách “bụi đời”nhưng nghiêm túc.
Đối với con người, sinh nhật là một ngày đáng nhớ, dù số phận có thế nào hoặc không ai giống ai. Giáo Hội xác định: “Mọi người đều có quyền hưởng một nền giáo dục đầy đủ và xứng hợp với thiên chức làm người của mình, mỗi ngày một tham gia vào đời sống xã hội, nhất là về kinh tế và chính trị, một cách tích cực hơn, hầu có thể hưởng dụng di sản văn hóa thiêng liêng của nhân loại một cách dễ dàng hơn, hợp với chức vị là người con của Thiên Chúa.”(Tuyên Ngôn Giáo Dục, Công đồng Vatican II) Một con người sinh ra là một tặng phẩm của Thiên Chúa – với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, đặc biệt là quyền làm con của Chúa. Rất đáng nhớ.
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin cảm tạ Ngài ban cho con quyền làm người và làm con cái Ngài, xin nâng đỡ và che chở con trong sự quan phòng của của Ngài. Xin Thánh Gioan Tẩy Giả đồng hành và giúp con dám sống thẳng và làm thật để Thiên Chúa được vinh danh. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
ĐỜI LẠ
Gio-an Tẩy Giả khác người
Ngay lúc ra đời đã khác người ta Bé Gio-an cũng oe oe Mà ai cũng thấy hài nhi lạ lùng. Cha câm bỗng nói như thường Ai cũng vui mừng và cũng ngạc nhiên Nhiều điều lạ cứ tiếp liên Hài nhi này chắc là con khác thường. Lớn lên thì sống trong rừng Mật ong, châu chấu, chỉ dùng thế thôi Rượu không một giọt chạm môi Sống kiểu bụi đời nhưng rất công minh. Nói năng nghiêm túc, chân thành Chỉ mong Thiên Chúa vinh danh rạng ngời Gio-an Tẩy Giả lạ đời Cuộc sống khác người nhưng rất chính tâm. ---------------------------------
"Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa" (Ga 1, 6-7; Lc 1, 17).
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Êlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên (Lc 1, 5-7). Thánh Luca kể tiếp: “ Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ "(Lc 1, 8-9). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria,đứng bên phải hương án (Lc 1, 11). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1,12) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông: “ Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ông cầu xin: bà Êlisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan (Lc 1, 13) và "Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời"(Lc 1, 14-15). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ (Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói: “ Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói: “ Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ". Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng: “...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi"(Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái:xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết: “ Sự thật sẽ giải phóng con người ". Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
Việc lạ lùng của Gioan Tẩy Giả đã được đánh dấu ngay từ lúc cha mẹ của Gioan đặt tên cho ông. Thường dân Do Thái tên của người cha, tên của họ hàng nội phải được đặt tên cho đứa bé mới sinh ra. Ở đây, cái huyền diệu, linh thánh đã xẩy ra ngay lúc cắt bì cho con trẻ. Lúc cắt bì cũng là lúc đặt tên cho đứa bé. Mọi người cứ tưởng lấy tên cha Giacaria đặt tên cho bé, nhưng bà Êlisabét lên tiếng: “ Không, phải đặt tên cháu là Gioan " (Lc 1, 60). Đây là cái tên do chính Thiên thần đã báo trước cho Giacaria biết ông và vợ ông sẽ sinh được một cháu trai dù hai ông bà đã luống tuổi, cao niên không thể nào sinh con nếu không có bàn tay Thiên Chúa can thiệp...
Mở đầu Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan viết: "Có một người Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng cho ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa"(Ga 1, 6-7). Địa vị và vai trò của Gioan Tẩy Giả rất quan trọng và lớn lao trong hàng ngũ các ngôn sứ của lịch sử dân Chúa. Bởi vì việc mang thai con trong lúc tuổi già củavợ chồng ông Giacaria và Elisabét đã nói lên việc kỳ diệu của Thiên Chúa nơi con trẻ Gioan. Tên con trẻ trong ngôn ngữ Do Thái là "Jehohanan". Chữ này có nghĩa " Thiên Chúa là ân sủng ". Vì con trẻ là hồng ân nhưng không,cao vời Thiên Chúa dành cho Gioan Tẩy Giả, cho toàn dân và cho ông bà Giacaria, nên ai nấy đều bỡ ngỡ (Lc 1, 63). Sau khi đứa trẻ được đặt tên, Giacaria dâng lên Thiên Chúa một lời ngợi khen tuyệt vời, Ông đã dâng con ông cho Thiên Chúa và nói: " Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên"(Lc 1, 76-77). Tới tuổi trưởng thành, khôn lớn Gioan Tẩy Giả từ giã gia đình đi vào hoang địa, đi vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện, chuẩn bị sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tin Mừng thuật lại, đời sống của Gioan Tẩy Giả rất khổ hạnh: " Thức ăn của Người là châu chấu và mật ong rừng". Tuy thân xác khổ hạnh, nhưng tinh thần của Người tràn đầy niềm vui. Do đó, Gioan Tẩy Giả quả thực nắm một vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa.
Mình Gioan được đặc ân dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Gioan Tẩy Giả đã trình bầy và giới thiệu Chúa Cứu Thế như là hồng ân cao quí tuyệt vời Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho nhân lọai, cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa là chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa tội gian trần. Tin Mừng viết: “ Năm thứ mười lăm dưới triều Hòang Đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít...có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong hoang địa...rao giảng,kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội và sửa sọan cho ngày Đấng Cứu Thế tới "(Lc 3, 1-6). Mọi người dân Do Thái tuôn đến để nghe Gioan rao giảng và tin vào Người nhưng Gioan đã vội minh xác: “ Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giầy Người "(Lc 3, 16). Chính Chúa Giêsu cũng tới xin Gioan làm phép rửa cho mình. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa Giêsu và chỉ cho các môn đệ của mình biết Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã đề cao vai trò cứu thế của Chúa: “ Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại"(Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã thi hành sứ mạng dọn đường rất nghiêm ngặt và công minh. Ngài không sợ thế gian, nên Ngài đã quở trách nặng lời Hêrôđê vì vua đã lấy vợ em mình. Ngài đã bị tống giam vào ngục và bị chém đầu vì một lời hứa khờ dại của vua Hêrôđê.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an. Người hằng sống và hiển trị muôn đời (Lời nguyện nhập lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả).
“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”(Ga 1, 6-7; Lc 1, 17).
Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế.
TRUYỀN TIN CHO DACARIA LÀ MỘT SỰ LẠ LÙNG:
Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.
Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Êlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên (Lc 1, 5-7). Thánh Luca kể tiếp: ”Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ“ (Lc 1, 8-9). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria, đứng bên phải hương án (Lc 1, 11). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông (Lc 1,12) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông: “Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Ông cầu xin: bà Êlisabét, vợ Ông sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Ông phải đặt tên cho con là Gioan (Lc 1, 13) và “Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời”(Lc 1, 14-15). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ (Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
NGÀI PHẢI LỚN LÊN, CÒN TÔI PHẢI NHỎ LẠI:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói: “Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại“. Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng: “...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1, 15). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái: xin gì Ông cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ LÀM GƯƠNG CHO TA:
Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không? Thánh Gioan đã viết: “Sự thật sẽ giải phóng con người“. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả).
Ngoại trừ Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy Giả là vị thánh được mừng ngày sinh nhật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các Đấng Thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày qua đời. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24/6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Gioan Tẩy giả là ai?
Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhà giảng thuyết người Do-thái. Tin Mừng theo Thánh Lu-ca cho biết, Ngài là con của tư tế Da-ca-ri-a, thuộc nhóm A-vi-a, dòng tộc A-ha-ron, và chào đời tại vùng Judea, Do-thái, chỉ trước Chúa Giêsu chừng sáu tháng (xc. Lc 1,5-36; 1,39-80). Khoảng năm 28 sau Chúa Kitô, Thánh Gioan đã xuất hiện công khai tại Galilea và tại Judea để rao giảng và mời gọi người ta thống hối. Bên cạnh việc rao giảng sám hối, Ngài còn cử hành nghi thức Thanh Tẩy cho tất cả những ai đến với Ngài, bằng cách dìm họ xuống nước. Vì thế, Thánh Nhân được gọi là Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân hoạt động trong cả vùng Do-thái lẫn Palestina, và cũng đã có nhiều người nhận mình là môn sinh của Ngài. Lịch sử tính của Ngài đã được xác nhận bởi sử gia người Do-thái Flavius Josephus.
Các Kitô hữu nguyên thủy đã trình bày Thánh Gioan Tẩy Giả như là vị Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, và là người dọn đường cho Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, Ngài cũng còn được gọi là Gioan Tiền Hô, tức vị tiền trạm của Chúa Kitô. Thánh Nhân không chỉ được tôn kính bởi Giáo hội Công giáo, nhưng còn được tôn kính bởi nhiều Giáo hội khác. Người Hồi giáo coi Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong ba vị Ngôn Sứ cuối cùng, trước Chúa Giêsu và Mohammmed.
1. Các nguồn tài liệu xưa nhất về Thánh Gioan Tẩy Giả:
Các nguồn tài liệu xưa nhất cung cấp thông tin về Thánh Gioan Tẩy Giả, đó là 4 cuốn Tin Mừng của Tân Ước, sách Công Vụ Tông Đồ của Lu-ca, và chương XVIII 5, 2 trong tác phẩm Antiquitates Judaicae của sử gia người Do-thái Flavius Josephus. Các nguồn tài liệu này trình bày về Thánh Gioan theo những cách thức rất khác biệt, tùy theo quan điểm của mỗi tác giả.
Theo Mc 1,2-15, Thánh Gioan xuất hiện với tư cách là người tiền trạm cũng như là người dọn đường cho Chúa Giêsu.
Theo Mt 3,7 và Lc 3,7-9, Thánh Gioan xuất hiện với tư cách là nhà rao giảng sám hối.
Lc 1,5 – 2,29 đã trình bày một cách song song các biến cố trước hai cuộc sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả lẫn của Chúa Giêsu. Cuộc sinh nhật của hai vị đều được công bố bởi một Thiên Thần; và cả hai vị đều được công bố như là những người được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi để giải phóng toàn bộ dân Israel một cách chung cuộc. Nhưng những sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu thì được trình bày là trổi vượt hơn hẳn so với những sự kiện liên quan đến Thánh Gioan Tẩy Giả.
Theo Ga 1,7-18.19-36, nói chung Thánh Gioan xuất hiện như là vị chứng nhân đầu tiên và quan trọng nhất của Chúa Giêsu – Ngôi Lời trở thành xác phàm.
Trong tác phẩm của sử gia Flavius Josephus, Thánh Gioan xuất hiện như một mẫu gương về đời sống khổ hạnh. Ông tuân giữ các mệnh lệnh của Kinh Tora dành cho một người Nasir, và là người chỉ cho người Do-thái cách thức thực hành nghi thức Thanh Tẩy.
2. Sinh nhật và thời niên thiếu của Thánh Gioan
Những trình thuật về cuộc sinh nhật và về thời niên thiếu của Thánh Gioan Tẩy Giả được tìm thấy trong chương 1 và chương 2 của Tin Mừng theo thánh Lu-ca không có trọng lượng lớn xét về khía cạnh sử tính. Một số chuyên gia giả định rằng, đó là những truyền thuyết xuất phát từ giới những người tôn sùng Thánh Gioan Tẩy Giả. Những người này muốn đặt tầm quan trọng của Thánh Nhân vào trong những biến cố xung quanh cuộc sinh nhật và thời niên thiếu của Ngài, cũng như muốn minh họa tầm quan trọng của Ngài bằng cách sử dụng các mô-típ của Cựu Ước để tô điểm thêm. Tuy nhiên, đối với một sự tái hiện lịch sử, những bản văn của Thánh Lu-ca vẫ có những giá trị hiển nhiên của chúng, tuyệt nhiên không bị coi là vô bổ. Có lẽ Thánh Gioan xuất thân từ giới tư tế. Theo cách trình bày của Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, Ngài là con trai của tư tế Da-ca-ri-a, thuộc nhóm A-vi-a, cũng như là con của bà Elisabeth, thuộc dòng tộc A-ha-rôn (xc. Lc 1,5tt). Vì nhóm A-vi-a là một trong 24 nhóm tư tế không có tầm quan trọng (1 Sbn 24,19tt), nên những gì được công bố về Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca xem ra rất đáng tin cậy. Theo Lc 1,5tt, Thánh Gioan được sinh ra “dưới thời vua Hê-rô-đê, vua Giu-đa“. Vị vua này cai trị dân Do-thái từ năm 38 trước Chúa Kitô cho tới năm thứ 5 trước Chúa Kitô. Trong Lc 1,39, độc giả biết được nơi ở của bà Elisabeth: “Một thành miền núi thuộc chi tộc Giu-đa“. Dựa vào Lc 1,80: “Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Is-ra-el”, nhiều người đã suy đoán về một thời gian cư trú của Gioan lúc còn trẻ tại Qumran. Tuy nhiên, những suy đoán này không thể tự xác nhận về khía cạnh sử tính. Thực ra Lc 1,80 chỉ có ý trình bày Gioan như là một vị Ngôn Sứ đã từng cư ngụ và hoạt động tại sa mạc trong một thời gian trước khi Ngài được kêu gọi thực thi sứ vụ.
3. Thời gian và nơi hoạt động
Theo cách trình bày của Tin Mừng Lu-ca, hoạt động công khai của thánh Gioan bắt đầu vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô“ (Lc 3,1tt), tức vào khoảng từ năm 26 tới năm 29 sau Chúa Kitô. Còn về nơi hoạt động của Thánh Gioan thì có nhiều công bố khác nhau. Theo Mc 1,3-5 thì Gioan hoạt động tại sa mạc Jordan. Nhưng theo Mt 3,1 thì Gioan lại hoạt động tại sa mạc Judea. Còn theo Ga 1,28 và 10,40, thì Gioan hoạt động tại Bê-ta-ni-a, phía bên kia sông Gio-đan; hay theo Ga 3,23 thì Gioan lại hoạt động tại Ê-nôm, gần Sa-lêm. Có lẽ lý chứng cho rằng, Gioan hoạt động ở phía Đông bờ sông Gio-đan là có lý hơn cả, vì Hê-rô-đê An-ti-pas – người đã ra lệnh tống giam Gioan vì bị Ngài chỉ trích cách dữ dội về lối sống – chỉ có quyền trên khu vực đó (xc. Mc 6,17–29; Jos Ant XVIII 5,2); truyền thống Cựu Ước xem ra cũng có vẻ ủng hộ việc Gioan hoạt động tại bờ Đông sông Gio-đan (xc. Gs 3 và 4; 2 V 2,1–18). Chỉ nhiều thế kỷ sau, nơi làm Phép Rửa của Gioan mới được xác định là thuộc bờ Tây sông Gio-đan; bằng chứng sớm nhất của truyền thống cho rằng, Gioan hoạt động tại bờ Tây sông Gio-đan, chính là bức tranh khảm nổi tiếng của Madaba (tk 6), nó được coi là bức bản đồ cổ nhất của Palestina.
4. Hoạt động công khai và bị hành quyết
a. Hoạt động công khai
Khoảng từ năm 26 tới năm 30 sau Chúa Kitô, Thánh Gioan Tẩy Giả đã bắt đầu những hoạt động công khai của mình. Khu vực hoạt động chính của Ngài là vùng Pê-rê hồi đó, tức bờ bên kia sông Gio-đan, nằm đối diện với Giê-ri-cô. Ngài thực hiện một cuộc sống đề cao sự khổ hạnh. Theo Mc 1,6tt, Thánh Gioan chỉ sống bằng châu chấu và mật ong rừng; còn theo Mt 11,18 thì Thánh Nhân không ăn và cũng chẳng uống gì cả. Thánh Nhân giảng dậy theo phong cách của các Ngôn Sứ Cựu Ước, và làm Phép Rửa. Trong các bài giảng của mình, Thánh Nhân kêu gọi người ta sám hối, và công bố cho mọi người biết rằng, Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, cũng như công bố “một Đấng Quyền Thế hơn“ sẽ đến để thực hiện cuộc phán xét cuối cùng (xc. Mt 3,1-12< Lc 3,4-17). Vì thế, trong Kitô giới, Ngài được coi là người dọn đường trực tiếp cho cuộc xuất hiện của Đấng Messias, và được ví như Ngôn Sứ Ê-li-a.
Những người đến với Gioan Tẩy Giả khá đông, trong đó cũng có cả Chúa Giêsu thành Nazareth. Chính Ngài đã để cho ông thực hiện Phép Rửa cho mình (Mt 3,13-15). Với sứ điệp về ngày phán xét do các Ngài loan báo, cả Chúa Giêsu lẫn Gioan tẩy Giả đều thuộc về truyền thống Ngôn Sứ của Israel, và đứng ngoài các nhóm Do-thái khác trong thời các Ngài. Những nhóm đó không nhìn nhận Phép Rửa. Có vẻ như chính Chúa Giêsu, sau khi được Gioan làm Phép Rửa cho, cũng thực hiện nghi thức này cho những người khác với sự tán thành của Gioan (xc. Ga 3,25-36). Trong các câu chuyện sau này, người ta lại thấy các môn đệ của Gioan dưới danh xưng Man-đê. Một phần trong số các môn đệ của Thánh Gioan đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu sau khi Thánh Nhân bị giết (xc. Cv 19,1-7).
Một số người lính Do-thái phục vụ trong triều đình vua Hê-rô-đê đã đến với Thánh Gioan và hỏi Ngài rằng: Chúng tôi phải làm gì? Thánh Nhân trả lời: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình“ (Lc 3,14). Nhiều trong số những người lính này đã trở thành môn đệ của Thánh Gioan.
b. Hê-rô-đê Antipas và Aretas
Vua Hê-rô-đê Antipas đã kết hôn với bà Phasaelis, công chúa của vua Aretas, nước Nabate. Sau này ông còn kết hôn với bà Herodias, vợ của Herode Boethos, tức người anh cùng cha khác mẹ với ông, mà Tân Ước gọi là “Philippus“ (có lẽ là một biệt danh). Theo sử gia Flavius Josephus thuật lại trong Jud. Alt. XVIII,5,1-2, thì Hê-rô-đê Antipas đã có nhiều căng thẳng với bà vợ đầu của mình, tức bà Phasaelis. Vì thế bà này đã dời nơi ở tới Machaerus, tức một pháo đài biên phòng của Antipas tại Biển Chết. Và từ đó, bà trốn về nhà thân phụ của mình. Mối tương quan giữa Hê-rô-đê Antipas và Aretas đã sẵn bị ảnh hưởng xấu bởi những tranh chấp về lãnh thổ, nên cuộc hôn nhân của Hê-rô-đê với Herodias càng gây thêm tổn thương cho Aretas. Và vì thế, một cuộc xung đột vũ trang đã không thể tránh khỏi.
c. Thánh Gioan bị bắt giam
Theo các sách Tin Mừng, Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị tống ngục chỉ một thời gian ngắn sau khi Ngài đã làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, có nghĩa là sau khi Chúa Giêsu bắt đầu hoạt động công khai (Mt 4,12; Mc 1,14; Lc 3,19-20). Sở dĩ Ngài bị tống ngục, là vì – theo các sách Tin Mừng – Ngài đã chỉ trích Hê-rô-đê Antipas về việc đã cưới người vợ của anh trai ông ta (xc. Mt 14,4; Lc 3,19). Nhưng theo sử gia Flavius Josephus thì nguyên nhân nằm ở chỗ là, Hê-rô-đê lo sợ trước “uy tín của người mà lời khuyên của người ấy có vẻ như rất được nhiều người nghe theo, nên có thể vì ông ta mà dân chúng sẽ thực hiện một cuộc nổi dậy“ (Ant. Jud. 18,5,2). Hê-rô-đê đã nhốt Thánh Gioan Tẩy Giả trong pháo đài Machaerus nằm bên bờ Biển Chết. Sau một thời gian tù đầy lâu dài, Thánh Gioan đã bị Hê-rô-đê hành quyết trong lúc Chúa Giêsu còn sinh thời (xc. Mt 14,6-12; Mc 6,21-29). Nhiều sử gia cho rằng, Thánh Gioan đã bị nhốt tù vào khoảng những năm từ 28 tới 31 sau Chúa Kitô, và bị hành quyết vào khoảng những năm từ 28 tới 32. Giống như các tác giả Tin Mừng, sử gia Flavius Josephus kể lại rằng, Hê-rô-đê Antipas đã ly dị vợ của mình để cưới người vợ của anh trai ông ta, nhưng người vợ bị ly dị đã trốn về được với thân phụ mình, tức vua Aretas của Nabate. Vì sự nhục nhã của con gái mình, và cũng vì đang có sẵn những tranh chấp về lãnh thổ, nên Aretas đã phát động một cuộc chiến để chống lại Hê-rô-đê sau khi thủ hiến Philippus qua đời (vào khoảng năm 33 hoặc 34 sau Chúa Kitô). Trong cuộc chiến này, quân đội của Hê-rô-đê đã bị thua trận, và người Do-thái coi cuộc thua trận này là một hình phạt của Thiên Chúa giáng trên Hê-rô-đê vì đã dám hành quyết Gioan Tẩy Giả. Như vậy, lý do Thánh Gioan bị tống ngục và bị chém đầu vì dám chỉ trích vua Hê-rô-đê về lối sống vô luân của ông ta, như các sách Tin Mừng đưa ra, xem ra có vẻ hợp lý hơn.
d. Thánh Gioan bị hành quyết
Theo Mc 6,17-29 và Mt 14,3-12, sở dĩ Thánh Gioan đã bị chém đầu là vì cô con gái của Herodias – vợ vua Hê-rô-đê – muốn có được cái đầu của Ngài như là phần thưởng do cô đã trình diễn một điệu nhảy khiến cả vua Hê-rô-đê lẫn toàn bộ triều đình lấy làm mãn nhãn. Cô ta đã được đáp ứng ngay lập tức, vì trước đó, vua Hê-rô-đê đã thề nguyền trước bá quan văn võ rằng, sẽ tặng cho cô bất cứ điều gì cô muốn, dù là một nửa quốc gia. Các sách Tin Mừng không nhắc tới tên của cô gái nhảy này, nhưng sử gia Flavius Josephus cho biết, cô ta có tên là Salome (Jud. Alt. XVIII 5,4), nhưng ông lại không cho biết, Thánh Gioan đã bị hành quyết vào dịp cụ thể nào. Về phía mình, dù cho biết Thánh Gioan bị trảm quyết vào dịp nào, nhưng các sách Tin Mừng đã không nhắc tới địa điểm Thánh Nhân bị trảm quyết, mà chỉ nói một cách chung chung rằng, viên thị vệ đã đi vào ngục và chặt đầu Ngài ở đó. Còn theo Josephus, cuộc hành quyết đã diễn ra tại pháo đài Machaerus nằm bên bờ Biển Chết. Đó là pháo đài biên phòng nằm tại biên giới giữa lãnh thổ của Antipas và lãnh thổ Aretas (Jud. Alt. XVIII 5,2). Các sách Tin Mừng cho biết rằng, cuộc hành quyết Thánh Gioan Tẩy Giả đã diễn ra nhân dịp mừng sinh nhật của vua Hê-rô-đê Antipas, vào khoảng năm 28/29 hoặc năm 31/32. Tuy nhiên, ngày sinh nhật của ông ta là ngày nào thì cho tới tận ngày nay, cũng vẫn chưa ai biết. Giáo hội cử hành Lễ Kính Nhớ “Cuộc trảm quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả“ vào ngày 29 tháng 08. Tuy nhiên, không rõ ngày này nên tương ứng với ngày chết có tính lịch sử của Thánh Gioan Tẩy Giả hay tương ứng với ngày cung hiến Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Tẩy Giả theo lối kiến trúc Byzantin tại Samaria, mà trong ngôi Thánh Đường này được cho là có ngôi mộ của Thánh Nhân.
5. Việc tôn kính Thánh Gioan Tẩy Giả
Thánh Gioan Tẩy Giả được coi là một trong những vị Thánh có tầm quan trọng nhất trong cả Giáo hội Công giáo lẫn Chính Thống giáo. Ngài cũng được coi là vị Ngôn Sứ cuối cùng cũng như là vị Ngôn Sứ lớn nhất của Cựu Ước. Bên cạnh đó, Ngài còn được coi là người dọn đường cho Chúa Giêsu và là mẫu gương của những người sống đời khổ hạnh. Mỗi khi Mùa Vọng đến, hình ảnh Thánh Nhân lại được làm nổi bật một cách đặc biệt bởi các bản văn Phụng Vụ.
6. Đại Lễ kính Thánh Gioan Tẩy Giả
Đại Lễ mừng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả được cử hành vào ngày 24 tháng 06. Đây là Đại Lễ được cử hành trong hầu hết các Giáo hội Kitô, chứ không phải chỉ riêng Giáo hội Công giáo. Ngoài Chúa Giêsu và Đức Mẹ ra, Thánh Gioan là vị Thánh duy nhất được Giáo hội Công giáo cử hành ngày Sinh Nhật với bậc Lễ Trọng. Sở dĩ Giáo hội mừng Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan vào ngày 24 tháng 06, là vì, Lễ Sinh Nhật của Chúa Giêsu được cử hành vào ngày 25 tháng 12, mà theo Tin Mừng Lu-ca, Thánh Nhân lớn tuổi hơn Chúa Giêsu đúng sáu tháng.
Ngày kính Thánh Gioan bị trảm quyết cũng nằm trong lịch cố định của hầu hết các Giáo hội Kitô. Nhưng ngày Lễ này có tầm quan trọng ít hơn so với ngày Lễ Sinh Nhật của Ngài. Giáo hội Công giáo cử hành Lễ Kính Nhớ cuộc trảm quyết của Thánh Gioan Tẩy Giả ở bậc Lễ Nhớ buộc vào ngày 29 tháng 08.
Tháng sáu, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, Giáo Hội đã chọn ngày 24/6 hằng năm, để mừng kính một trong những biến cố quan trọng trong công cuộc cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Đó là lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Nhân đã được Thiên Chúa sắp đặt sinh ra trước Chúa Giêsu 6 tháng để trở thành người dọn đường và giới thiệu cho dân Do Thái hình ảnh và vai trò của Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Quả thật, trong muôn vàn vị thánh được Giáo Hội tôn phong, mừng kính theo niên lịch phụng vụ. Như ta đã biết, ngoại trừ Đức Kitô và Mẹ Maria, chưa có thánh nhân nào có lễ mừng sinh nhật như thánh Gioan Tẩy Giả. Vì sao thế? Xin thưa rằng:
Thứ 1: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, được khởi đi từ chương trình và LTX vô biên của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Sau khi ông Adong và bà Eva nghe lời dụ dỗ đường mật của con rắn, hiện thân của quyền lực sự dữ lỗi nghịch cùng Thiên Chúa, từ sự lỗi nghịch ông Adong và bà Eva đã đánh mất đi mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, đánh mất sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là đấng từ tâm, nhân hậu, Ngài không bỏ mặc con người do chính Ngài tác dựng, qua lời Ngài đã phán với con rắn: “ Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy”(St.3,16). Thánh Gioan Tẩy Giả, một trong những thành viên sáng giá nhất, thuộc dòng giống người đàn bà là Đức Trinh Nữ Maria.
Thứ 2: Gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét luôn sống trong sự tủi hổ với người cùng thời. Vì tuy đã cao niên, nhưng hai ông bà không có lấy một mụn con để “nối dõi tông đường”. Hai ông bà đã chuyên chăm cầu nguyện và luôn tín thác tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình ông Dacaria và bà Êlisabét, là niềm vui cho hai ông bà trong lúc tuổi già, và cho toàn nhân loại như lời truyền tin của Sứ Thần: “ Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời”(Lc.1,13-14). Là dấu chỉ Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương và lắng nghe lời cầu nguyện, như lời bộc bạch của bà Êlisabét: “ Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi khổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời”(Lc.1,25). Đây là bài học quý giá cho nhân loại nói chung và cho người Kitô hữu nói riêng, trong đời sống cầu nguyện, đời sống tín thác vào tình thương của Thiên Chúa.
Thứ 3: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại, ứng với lời tiên báo của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia về thánh Nhân: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi …”(Is. 49,1), và qua lời tiên tri của chính phụ thân ngài: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha cho họ hết mọi tội khiên”(Lc.1, 76-77). Đây là dấu chỉ Thiên Chúa quan phòng, hoạch định chương trình cho mỗi cá nhân con người theo Thánh Ý của Ngài.
Thứ 4: Sự hiện diện của thánh Gioan Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Thiên Chúa dần tỏ lộ cho nhân loại mầu nhiệm “Chúa Ba Ngôi”và mầu nhiệm “Nhập Thể và nhập Thế”của Đức Kitô qua bài ca “Chúc Tụng”(Benedittus) của phụ thân ngài là ông Dacaria: “Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần liền nói tiên tri rằng: Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ítraen đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần vua Đavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta…Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta…”(Lc.1,67-79).
Thứ 5: Sự hiện diện và đời sống khởi đầu của thánh Gioan Tẩy Giả như trình thuật của Tin Mừng của thánh sử Luca: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen”(Lc.1,80). Đây là hành trang giúp cho thánh Nhân chu toàn sứ vụ mà Thiên Chúa đã chọn và mời gọi trong đời sống chứng nhân, đời sống dọn đường, mở lối cho Đấng Cứu Thế. Đời sống của thánh Nhân đã được chính Đức Kitô giới thiệu: “Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em xem gì? Một người mặc gấm vóc lục là ư?.... Thế thì anh em xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này ta sẽ sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho con đến”(Mt.11,7-10).
Trong ngày cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioa Tẩy Giả. Ta cùng hiệp lòng dâng lời cảm tạ, tri ân Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi con người nhân loại cộng tác vào công cuộc sáng tạo và cứu độ của Ngài. Với truyền thống “ uống nước nhớ nguồn ”, ta tri ân thánh Dacaria và Êlisabét, các ngài đã hiến dâng cho Thiên Chúa người con duy nhất, niềm vui duy nhất, để chương trình của Thiên Chúa được thành sự. Đặc biệt, ta tri ân Thánh Gioan Tẩy Giả đã hy sinh và dành trọn cuộc đời trai trẻ của mình cho Thiên Chúa trong sứ vụ giới thiệu Chúa cho mọi người, hiến thân bảo vệ “luân thường, đạo lý”, bảo vệ sự thật, chấp nhận gian khó, hiểm nguy, không chùng bước trước những áp đặt của quyền lực sự dữ…. Ta cũng xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Nhân giúp ta:
- Giữa một thời đại đầy những cạm bẫy, cám dỗ; đầy những lạc thuyết chống đối Thiên Chúa và Giáo Hội; đầy những thử thách, lo âu, buồn phiền do bệnh tật, đói nghèo, nợ nần, thất nghiệp, bất hòa, chia rẽ… Ta luôn biết noi gương song thân của thánh Gioan Tẩy Giả trong đời sống cầu nguyện, để nhờ ơn Chúa giúp, ta có sức mạnh lướt thắng và vượt qua.
- Là những bậc làm cha, làm mẹ. Ta biết noi gương song thân của Thánh Gioan Tẩy Giả trong nhiệm vụ hướng dẫn, giáo dục con cái theo đường lối của Thiên Chúa và Giáo Hội, hy sinh và hướng ý cho con cái hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đặc biệt luôn quan tâm và nhắc nhở con cái biết dùng thời sức khỏe, tài trí cộng tác vào những hoạt động, sinh hoạt của cộng đoàn, giáo xứ và Gióa Hội.
- Trong hoàn cảnh luôn khát khao, ước mong, chờ đợi hoa trái của tình yêu đôi lứa là những đứa con để trở thành cầu nối, để “ nối dõi tông đường”. Ta biết noi gương bà thánh Êlisabét luôn tín thác vào Chúa trong đời sống kiên nhẫn cầu nguyện.
- Ta đang sống trong một xã hội ồn ào, náo động, giữa một xã hội luôn chạy theo chủ nghĩa“ hưởng thụ, hiện sinh và vô thần”. Ta biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả lui vào hoang địa trong chay tịnh và cầu nguyện. Để trong cõi thinh lặng, gặp được Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, bình an và hạnh phúc. Nhất là ta nhận ra được lời mời gọi của Thiên Chúa.
- Hiện nay rất nhiều người chưa nhận biết, khước từ và chối bỏ Thiên Chúa. Ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả hy sinh, hiến thân, để trở thành những ngôn sứ, chứng nhân giới thiệu Chúa cho mọi người qua đời sống thường nhật bằng yêu thương, tha thứ, cảm thông và sẻ chia…
- Giữa một xã hội luôn nói sai sự thật, sống sai sự thật, khước từ và bưng bít sự thật, từ trong chính mái ấm gia đình trở đi. Ta noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả luôn sống và nói sự thật, mạnh dạn là chứng cho sự thật…
- Giữa một thời đại đạo đức, nhân bản bị xem thường, tệ nạn xã hội lan tràn, đưa đến việc tước đoạt mạng sống của nhau một cách dã man, nạn phá thai lan tràn, nhiều người coi việc phá thai là mối lợi, là sự tự do, là thành tích, để cân bằng dân số…Qua sự hiện diện của Thánh Gioa Tẩy Giả nơi gia đình nhân loại. Ta nhận thức và ý thức sự sống là do Thiên Chúa an bài sắp đặt, là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Từ đó ta mạnh dạn lên tiếng, hành động một cách cụ thể, để bảo vệ sự sống của con người, nhất là các thai nhi.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa! Trong ngày mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, con cảm tạ Chúa, vì Chúa đã yêu thương, an bài và sắp đặt ngài như một quà tặng và là tấm gương cho con và mọi người. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Nhân, xin Chúa ban cho các chị em đang khao khát được làm mẹ được thỏa lòng ước mong, xin cho các cháu bé đã và sắp sinh ra được tràn đầy sức mạnh và tình yêu của Chúa. Xin Chúa cho con biết noi gương Thánh Nhân luôn hy sinh, khiêm nhường và hăng say trong sứ vụ loan báo tin Mừng mà Chúa đã yêu thương ban tặng và mời gọi. Amen.
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể vào 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin (Forerunner/Herald), người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là "ngày tái sinh trên trời." Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời, vào Chúa nhật như Chúa nhật tuần nầy vì cuộc đời Thánh Gioan gắn liền với cuộc đời Ngôi Hai Thiên Chúa: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giesu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giesu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lk. 1:5 & 1:26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá;
Chúa Giêsu cần Gioan loan báo trước khi đến như Thánh Gioan cần cha là Zachariah khỏi câm để xác nhận tên và nhiệm vụ Chúa giao phó cho mình (Lk. 1:64); Đức Mẹ cần thăm viếng bà Elizabeth để hài nhi Gioan giới thiệu hài nhi Giesu trong cung lòng các bà mẹ được chúc phúc.
Cuộc đời tiền hô và làm chứng của T. Gioan được tóm gọn lại trong 3 điểm:
1) Một Ngôn sứ đã làm phép rửa, rao giảng và giới thiệu Chúa Kitô đến với mọi người.
Sau khi xong nhiệm vụ giới thiệu, Ông tránh sang một bên để Chúa trực tiếp liên hệ với người ta.
2) Khiêm nhường nhưng cương quyết:
theo Phúc âm thuật lại sau khi làm phép rửa cho Chúa Giesu tại sông Jordan, chính mắt Ông đã thấy Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Con và nghe trên trời có tiếng phán: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài." (Mk. 1:9) Ông giới thiệu đến toàn dân: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian....Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài." (Jn. 1:15) Lần kia khi đứng với hai môn đệ thì bắt gặp Chúa Giesu đi qua, Ông chỉ cho môn đệ: "Đây chính là Đấng Messiah-Thiên sai." Sau đó hai môn đệ đã bỏ Ông và theo làm môn đệ Chúa Giesu (Jn. 1:35). Lần khác Ông tuyên bố: "Chúa Kitô phải được nâng lên, còn tôi phải hạ xuống." (Jn. 3:30) Ông cương quyết nhất định không nhượng bộ hành động trái luân lý và luật Chúa của vua Hêrođê dù việc đó dẫn đến cái chết (Lk. 3:19).
3) Tính cách nhân bản rất người của Gioan:
Sinh ra bởi một cặp vợ chồng rất già là một sự lạ; Cha bị câm suốt thời gian mẹ mang thai cũng lạ; Nhảy mừng trong lòng khi được hài nhi Giesu trong cung lòng Đức Mẹ tới thăm càng lạ hơn; Lớn lên được tràn đầy Chúa Thánh Thần khi chứng kiến biến cố rửa tội ở sông Jordan với Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không vì thế mà Gioan không có những thao thức, trăn trở về đức tin, về tâm linh theo Thánh ý Chúa. Một hôm lúc đang bị giam trong tù chỉ vì dám nói lên sự thật đã chỉ trích Vua Herode cướp vợ của anh mình, sống với chị dâu tên Herodia, Gioan đã phái môn đệ đến hỏi Chúa Giesu: "Thưa Thầy, Thầy chúng tôi muốn biết Thầy có phải là Đức Kitô Đấng đến để cứu nhân loại hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác?" Chúa Giesu đáp: "Yes! Hãy về nói cho Gioan biết những điều mà các con thấy: người mù được thấy, người què được đi, người cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng..." (Lk. 7:19)
Suy nghĩ về cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta tìm được 3 ý niệm để cùng nhau suy nghĩ trong những ngày tới:
1/ Sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải nói sự thật và cương quyết sống sự thật, cho dù điều đó đôi khi làm chúng ta thiệt thòi, đau khổ hoặc dẫn đến cái chết như Gioan. Thánh Gioan chỉ vì nói lên sự thật, cố gắng giúp đỡ cho vua Hêrôđê tốt hơn, nhưng hậu quả dẫn đến cái chết tức tưởi trong tù vì bị bà Herodia chị dâu sống bất hợp pháp với Herođe hãm hại.
2/ Là Kitô hữu chúng ta phải sống khiêm nhường: "Chúa phải lớn lên trong ta và cái tôi trong ta phải hạ xuống." Sau khi giới thiệu Chúa cho người ta rồi thì đừng có nhận làm "tổng đại lý" của Chúa mà hỏng việc Chúa! Bổn phận chúng ta gieo còn Chúa cho ai gặt tuỳ Chúa, đừng thắc mắc, cũng đừng kể công mà mất phúc.
3/ Trong đời sống đức tin đôi lúc chúng ta có thể đặt câu hỏi nhưng đừng ngã lòng mất lòng trông cậy nơi Chúa. Phó thác không có nghĩa là gặp cái gì cũng tin, hoặc gặp cái gì cũng đòi phải được chứng minh. Đức tin và Đời sống người Kitô hữu là một bí nhiệm mà chỉ có Tình thương và lòng trông cậy vào Lời Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả mới giải đáp được.
Xin Thánh Gioan Tiền Hô giúp Kitô Hữu chúng con dám can đảm Tin và cương quyết Làm Chứng cho Chúa cho dù nơi trần thế chúng con chưa thấy được Chúa tỏ tường. Amen.
Trong niên lịch Phụng vụ, nếu không nói đến ngày lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, thì chỉ có hai đấng được nhắc đến ngày sinh của mình: một là Mẹ Maria, được mừng sinh nhật vào ngày 8/9, và người thứ hai là thánh Gioan Tiền Hô được toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể ngày sinh nhật của ngài vào ngày hôm nay.
Tuy nhiên, không phải chỉ có Mẹ Maria và thánh Gioan mới có ngày sinh nhật, nhưng tất cả mỗi người trong chúng ta đây, ai cũng có một ngày sinh. Chúng ta đã được sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ và sự quan phòng của Thiên Chúa. Việc chúng ta xuất hiện trên cõi đời này không phải là một sự ngẫu nhiên, nhưng cũng giống như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa gọi vào đời và giao cho một nhiệm vụ phải chu toàn.
Do đó, nhân ngày lễ Sinh nhật của thánh Gioan Tiền Hô, chúng ta cùng suy nghĩ về hai điểm: bổn phận của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, và ơn gọi của mỗi người kitô hữu.
1. Bổn phận giáo dục con cái của cha mẹ:
Điều đầu tiên mà các bậc làm cha mẹ là giúp cho con cái mình can đảm sống theo hướng dẫn của Lời Chúa, cho dù điều đó có đi ngược lại với thói quen của mình, đòi hỏi chúng ta một sự cố gắng hy sinh. Chúng ta phải can đảm sống đúng với giáo huấn của Chúa trong mọi việc lớn nhỏ.
Các bậc cha mẹ cần giáo dục cho con cái một lương tâm ngay thẳng, để rồi trong bất cứ hoàn cảnh nào, gặp bất cứ điều gì, cho dù là một việc nhỏ và có được sự ủng hộ của nhiều người, nhưng nếu không đúng với Lời Chúa thì chúng ta vẫn không làm.
Tất cả những điều trên, các bậc phụ huynh chỉ có thể làm được không phải bằng lời nói mà bằng chính đời sống gương mẫu của cha mẹ. Chúng ta có thể học được bài học này từ cha mẹ của thánh Gioan Tiền Hô. Tin mừng thuật lại, khi con trẻ đã được tám ngày, bà con đến để chúc mừng và “cắt bì cho con trẻ, và họ đã lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được tên nó là Gioan”. Cả ông Giacaria, dù không nói được, nhưng cũng đã ra hiệu đồng ý như vậy. Cả hai ông bà đã đặt tên con trẻ theo như ý của Thiên Chúa, chứ không phải theo phong tục tập quán hay ý riêng mình.
Sống đúng theo ý Chúa, chu toàn mọi bổn phận của mình, đó chính là lúc chúng ta đang sống trọn vẹn ơn gọi của người kitô hữu.
2. Ơn gọi của người kitô hữu
Trong nghi thức diễn giải sau khi đã được rửa tội, người đỡ đầu thay mặt cho em nhỏ đã nhận cây nến sáng được thắp lên từ cây nến Phục Sinh của Chúa Kitô, để rồi từ đây, theo dòng thời gian, em nhỏ này phải dùng chính cuộc sống của mình để chiếu toả ánh sáng Tin mừng của Chúa Kitô Phục Sinh cho mọi người. Trong bài đọc một, trích từ sách ngôn sứ Isaia nhắc lại lời của Giavê Thiên Chúa nói về người tôi tớ của Người rằng: “Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; nầy đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc”.
Như thế, nhiệm vụ của mỗi người kitô hữu là phải trở nên ánh sáng để dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta phải chiếu giãi ánh sáng của yêu thương và tha thứ vào trong thế giới đang đầy dẫy những hận thù, ganh tỵ. Thông thường, chúng ta vẫn thường thích để người khác đến với mình, khen ngợi mình, nhưng đây không phải là mục đích cuối cùng của người kitô hữu. Một người kitô hữu chân chính phải luôn ý thức mình chỉ là người dọn đường để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Chúng ta phải hãm dẹp cái tôi ích kỷ, phải dùng chính cuộc sống tự hạ, khiêm tốn của mình để dẫn đưa mọi người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Nhiệm vụ của chúng ta là dẫn đưa con người đến gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, chứ không phải dừng lại ở nơi chúng ta.
Về điều này, thánh Gioan Tiền Hô mà chúng ta mừng kính hôm nay là một mẫu guơng hết sức sống động cho chúng ta. Lúc ấy, sau khi bắt đầu cuộc rao giảng của mình, toàn dân đã kéo nhau đến với thánh nhân rất đông. Nhiều người trong số họ, kể cả Chúa Giêsu cũng đã bước vào dòng sông Giođan để được ngài thanh tẩy. Danh tiếng của ngài đã vang dội khắp nơi. Mọi người đều coi ngài là một vị ngôn sứ đến từ Thiên Chúa. Thậm chí, họ còn lầm tưởng thánh nhân chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã báo trước. Lúc đó, thánh nhân chỉ cần im lặng thôi là có thể tận hưởng bao vinh dự dân chúng dành cho ngài. Thế nhưng, thánh nhân đã không làm như vậy. Ngài ý thức rõ vai trò của mình. Mình chỉ là người dọn đường, chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế. Thánh nhân đã can đảm nói lên sự thật: “Tôi không phải là người anh chị em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi, mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Đây quả là bài học hữu ích cho mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống thường ngày, nhiều khi chỉ vì để chứng tỏ mình, để biện hộ cho mình, chúng ta thường ngụy biện để che đậy lỗi lầm, lôi kéo mọi người về phe mình để chống đối người khác. Và chính những điều đó đã gây ra biết bao hiềm khích, chia rẽ trong cộng đoàn.
Bài học thánh Gioan để lại là mỗi người phải tự xoá mình, để cho Chúa lớn lên. Nhờ đó cộng đoàn được hiệp nhất. Thiên Chúa được tôn vinh. Hay nói theo cách nói của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một, nhiệm vụ của người kitô hữu, đó là “đem Giacob về cho Người, và quy tụ Israel chung quanh Người”chứ không phải quy tụ mọi người chung quanh chúng ta. Chính vì sống như vậy, thánh Gioan đã được “vinh hiển trước mặt Chúa”và đã nhận được phần thưởng muôn đời “ở nơi Thiên Chúa”.
Thánh Gioan đã sinh ra trong niềm vui của cha mẹ và mọi người, thánh nhân đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để rồi lúc ra đi, thánh nhân đã để lại một mẫu gương khiêm nhường, thánh thiện cho muôn đời. Phần mình, mỗi người chúng ta đã có một ngày được sinh ra. Trong ngày đó, chúng ta khóc, còn mọi người cười vui. Vậy thì giờ đây, chúng ta hãy sống thế nào để khi Chúa gọi chúng ta về, chúng ta có thể hân hoan mỉm cười, còn mọi người phải khóc vì thương, vì nhớ chúng ta. Amen.
Giáo Hội thường mừng lễ các thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên Chúa Tình Yêu, ngày sinh nhật trên thiên quốc.
Đối với thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo hội mừng kính cả ngày ngài sinh ra và cả ngày ngài tử đạo. Ngày qua đời mừng ở bậc lễ nhớ. Ngày sinh nhật với bậc lễ trọng.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12). Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6). Như vậy trong hàng ngũ các thánh, chỉ có thánh Gioan được vinh dự lớn nhất là được mừng ngày chào đời của mình. Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt lễ mừng Sinh nhật Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Gioan ra đời là niềm hạnh phúc cho cha mẹ, người thân và láng giềng. Một niềm vui quá lớn vì ông bà son sẻ. Mọi người đến chúc mừng người mẹ sinh con lúc tuổi già mà được “mẹ tròn con vuông”. Ai cũng trầm trồ khen bé trai thật dễ thương thật đáng yêu. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Ông Bà Giacaria mong chờ con trai nối dõi tông đường và sẽ như cha, làm tư tế. Gioan có đủ điều kiện để tiến thân, giàu có, vinh dự thuộc giai cấp thượng lưu. Nhưng Gioan lại nghe tiếng gọi từ trời cao đi làm Ngôn sứ. Gioan vào hoang địa sống một mình. Cuộc sống khắc khổ, đơn sơ, nghèo nàn.
Từ đó, Gioan trở thành Ngôn sứ với đời sống cao đẹp và đã chết hào hùng.
1. Cuộc sống cao đẹp
Gioan sống đẹp trong cương vị sứ giả: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”(Lc 1,17), và là người tiên phong: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người”(Lc 1,76).
Sống đẹp vì Gioan đã từ bỏ đời sống giàu sang uy thế của gia đình, đi vào trong sa mạc hoang vắng sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện thánh ý Ngài.
Sống đẹp vì Gioan có một số môn đệ, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã giới thiệu cho họ (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Sống đẹp vì Gioan đã thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, nhưng Gioan chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài (Ga 1, 27).
Gioan sống đẹp vì đã luôn tâm niệm rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3, 30).
2. Cái chết hào hùng
Cái chết của Gioan đau thương mà rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu. Người theo Đạo Hồi giáo Islam rất sùng kính Thánh Gioan ở giáo đường bên Syria. Theo tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden có phần mộ chôn đầu của Gioan. Người Hồi giáo Syria gọi ngài bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với những người Hồi giáo tại đó.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói về ông: “ Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Chúa Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết, bởi lẽ: “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”( Ga 15,18 - 19 ).
3. Hồng ân ngày sinh nhật
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò Ngôn sứ, dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người nhớ đến ngày sinh nhật của mình. Ngày đó, cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc mừng vui. Ai cũng cười tươi nhìn trẻ thơ, ai cũng muốn bồng ẵm chúc lành và đặt nhiều hy vọng nơi con trẻ. Rồi mỗi người được cha mẹ đặt tên, được đưa đến Nhà thờ để nhận phép thanh tẩy với một tên Thánh và trở nên con của Thiên Chúa.Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.
Ngày nay, nhiều gia đình có truyền thống kỷ niệm và mừng ngày sinh nhật của các thành viên trong gia đình. Đó là một việc làm thật ý nghĩa và nhiều niềm vui. Bởi vì, đã sinh ra trong đời, dù ở cảnh ngộ nào, ai cũng được Đấng Tạo Hóa ban tặng chức phận quý giá, đó là làm người. Qua mạc khải Kinh thánh và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Như vậy, mỗi người trong nhân loại đều được mời gọi theo một hướng đi nhất định để hoàn tất một định mệnh tươi đẹp và một cuộc sống cao cả.
Là Kitô hữu, chúng ta vui mừng tạ ơn và hy vọng về ơn gọi, định mệnh, hướng đi của mình.Thánh Gioan là một mẫu gương tuyệt vời, sống cao đẹp và chết hào hùng.
Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12), Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6) .
Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.
Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
1 .Sinh nhật kỳ diệu
Thánh Luca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gioan “Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời”( Lc 1,14).
a. Dacaria bị câm
Thân phụ của Gioan bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình ( Lc 1,5- 23)
b. Khỏi Tội Nguyên tổ
Bà Isave có thai được 6 tháng, Đức Maria đã đến viếng thăm, vừa nghe lời của Đức Maria chào thì thai nhi Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ ( Lc 1,41) và được đầy tràn Thánh Thần(Lc1,15). Hồng ân này được Giáo hội hiểu là Gioan đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Maria, cả nhân loại không ai có được.
c. Son sẻ mà có con
Hai ông bà Dacaria và Isave là người công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng họ lại không con, vì Bà Isave là người hiếm hoi, cả hai đều đã cao niên ( Lc 1,6- 7).
Vậy mà Bà đã sinh con “Bà sinh hạ một con trai, nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,57-58). Trong Cựu ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy. Bà Sara mẹ Isaac ( St 11,30;21,1- 7). Bà Rebecca mẹ của Esau và Giacop ( St 25,21- 26). Bà Rakhel mẹ của Giuse ( St 29,21; 30,22- 24). Bà Anna mẹ của Samuel ( 1Sm 1,2- 20).
d. Tên Gioan và hết câm
Gioan sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Dacaria nhưng bà mẹ lên tiếng “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả. Khi Dacaria viết tên Gioan trên tấm bảng tức thì miệng lưỡi ông được mở ra, ông hết câm và nói lại được như trước kia ( Lc 1,59- 65).
Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gioan vì “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”( Lc 1,66).
Sinh nhật Gioan kỳ diệu cũng đúng thôi vì Gioan sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
2 . Ơn Gọi kỳ diệu
a Ngôn sứ Isaia loan báo
‘‘Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Is 40,3- 5; Mc 1,3; Lc 3,4-6; Mt 3,3). Isaia đã giới thiệu về Gioan như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.
b. Ngôn sứ Malakia tiên báo
“Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu”( Ml 3,1- 24; Mt 1,10; Lc 1,17;7,27). Lời Ngôn sứ Malakia nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gioan như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
c. Sứ Thần Truyền Tin xác nhận
Sứ Thần của Chúa hiện ra với Dacaria, đứng bên phải hương án, xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gioan Tẩy Giả “Sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” ( Lc1,17).
e. Thân phụ Dacaria
Dưới tác động của Thánh Thần, Dacaria đã hát lên bài ca chúc tụng “Benedictus”về ơn gọi của người con trai mình “Hài Nhi hỡi, con sẽ đi trước mặt Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết, Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên”( Lc 1,76- 77).
f. Gioan khẳng định
Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và một người Do thái về việc thanh tẩy, tại Enon, gần Salem thuộc miền Giuđê, chính Gioan đã xác nhận ơn gọi của mình: “Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói : Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài”( Ga 3,28).
Qua sinh nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gioan,Thiên Chúa đã đặt Gioan làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương, bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay. Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả” (Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống. Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Đức Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi, cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”( Ga 15,18 – 19 )
Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa. Gioan đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.
Người Kitô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách ngôn sứ chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu. Với tư cách là Tẩy Giả, chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đọa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cụôc sống. Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gioan: Ngài phải lớn lên,còn tôi phải lu mờ đi.
Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.
Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: "Để thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".
Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là Goan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được... Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.
Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu... Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa... Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Đức Kitô trong chúng ta?
Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Trong lịch Phụng Vụ, ngoài Chúa Giêsu và Đức Maria, thì chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được Giáo Hội mừng lễ Sinh Nhật; và đây là một vinh dự vô cùng to lớn mà Giáo Hội dành cho ngài.
Từ thế kỷ thứ 4 cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh, Lễ Sinh nhật sẽ rơi vào tháng 6, cụ thể 24/6. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin, người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày tái sinh trên trời.”Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời,: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giêsu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giêsu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.
Riêng thánh Gioan Tẩy Giả có 2 ngày Lễ kính trong năm:
+ Ngày 24/6: Mừng Sinh nhật Gioan Tẩy Giả.
+ Ngày 29/8: Lễ kính Gioan Tầy Giả bị chém đầu.
Khi nhắc tới Thánh Gioan Tẩy Giả là nhắc tới “người dọn đường”: Dọn đường cho chính Chúa, dọn đường cho các tâm hồn đến với Chúa và dọn đường cho Chúa đến với các tâm hồn. Và ngài đã chu toàn sứ mạng này cho đến chết.
Nhìn về cuộc đời thánh Gioan, với con mắt phàm trần, có thể nói rằng, ngài đã thất bại, một thất bại chua chát, một cuộc đời kết thúc không có hậu. Thế nhưng với cái nhìn đức tin và theo chương trình và ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa thì đây là một kết thúc quá mỹ mãn.
Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên “theo hình ảnh của Thiên Chúa”, “có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa”và “chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa”. Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: “Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu.
Theo gương Gioan, ta hãy sống gắn chặt với sứ mạng của Chúa Giêsu, để làm cho sự kiện chào đời của mình trở thành thực sự là “hồng ân sự sống”. Amen.
LƯỚT QUA CÁC BÀI ĐỌC:
Các Bài Đọc trong ngày Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy sự sắp xếp nhiệm mầu của Thiên Chúa trong việc sửa soạn cho nhân loại một Người Tôi Trung để chuộc tội và mang lại ơn cứu độ cho con người.
TRONG BÀI ĐỌC I Trích sách Tiên tri Isaia, Bài Ca Thứ Hai của Người Tôi Trung Thiên Chúa, tiên tri Isaia tường thuật việc Thiên Chúa chuẩn bị cho nhân loại một Người Tôi Trung và trao cho Ngài một sứ vụ gồm hai phần: mang vinh quang cho dân tộc Israel và trở nên ánh sáng cứu độ cho các dân tộc.
TRONG BÀI ĐỌC II Trích sách Tông đồ Công vụ, Sách CVTĐ tường thuật một phần Bài Giảng của Phaolô tại Antiokia, Pisidia. Phaolô muốn cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đã được tường thuật bởi các tiên-tri và Thánh Vịnh: Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một Đấng Cứu Độ từ giòng dõi Vua David, và ông Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị, làm chứng, và chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô để lãnh nhận ơn cứu độ.
TRONG BÀI TIN MỪNG theo thánh Luca, thánh-sử Luca tường thuật những biến cố lạ lùng xảy ra chung quanh việc chào đời của Gioan Tẩy Giả. Tất cả những biến cố này chỉ cho thấy Thiên Chúa đã dùng ông để đi tiên phong dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô, và Gioan đã dùng cả cuộc đời ông để chu toàn sứ vụ và làm chứng cho Đức Kitô.
ĐI VÀO BÀI TIN MỪNG:
“KHI ĐẾN NGÀY SINH, BÀ ÊLISABETH SINH HẠ MỘT CON TRAI”
Vâng, mọi sự diễn ra đúng như lời Sứ thần Gabrien đã truyền tin. Kế hoạch của Thiên Chúa phải được thực hiện vì Giờ cứu độ đã đến. Chương trình Cứu độ của Thiên Chúa như một dòng chảy, nó phải được liên tục, không một lực nào có thể cản được. Luca viết: “Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai”.
Gioan là Vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, ông phải đi trước Đấng Cứu Thế, đi trước về nhiều mặt: đi trước sự kiện truyền tin, mang thai và hạ sinh. Trên thực tế, ngày Gioan sinh ra cách ngày sinh của Hài nhi Giêsu 06 tháng.
“LÁNG GIỀNG BÀ CON NGHE BIẾT CHÚA ĐÃ TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO ĐỐI VỚI BÀ LIỀN ĐẾN CHÚC MỪNG BÀ”.
“Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà”có nghĩa, người ta không bao nghĩ đến việc bà Êlisabth có thai trong lúc tuổi già và lại sinh đẻ mẹ tròn con vuông, vì ai cũng nghĩ số phận của bà đã được an bài, không còn hy vọng gì nữa. Người ta thương hại bà, chứ không dám chì chiết, vì 02 ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì. Luca viết: “Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì.”(Lc 1, 5-6).
Như vậy việc bà Êlisabeth có thai và sinh con, đó là hồng ân Chúa ban. Ta hãy để ý cụm từ “TỎ LÒNG NHÂN HẬU LỚN LAO”, Luca muốn nhấn mạnh, không phải là Thiên Chúa thương, mà là quá thương. Vâng từ “lớn lao”muốn nói đến một hồng ân vĩ đại, nó đã vượt qua mọi giới hạn và tuôn đổ xuống cho một con người, giải tỏa tất cả mọi bế tắc vẫn tồn đọng bấy lâu.
“Láng giềng và thân thích liền đến chúc mừng bà”. Đứng trước hồng ân vĩ đại này, mọi người, vâng tất cả mọi người (láng giềng + thân thích) đều đến chia vui, chia vui có nghĩa họ cũng muốn vui với niềm vui của bà, như thánh Phaolô đã viết trong thư Rôma: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.”(Rm 12, 15). Niềm vui của bà Êlisabeth đã lan tỏa cho mọi người, để ai cũng cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa ban cho mình.
“NGÀY THỨ TÁM, NGƯỜI TA ĐẾN LÀM PHÉP CẮT BÌ CHO CON TRẺ, VÀ HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ..”
PHÉP CẮT BÌ TRONG ĐẠO DO THÁI
+ Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì: Cắt bì là một nghi lễ có từ lâu đời trong đạo Do thái, do lệnh Thiên Chúa truyền (Gs 5,2). Đây còn là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (Lc 2,21).
+ Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, để các Kitô hữu gốc lương dân khỏi phải chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê mà họ không chu tòan được (Gal 6,12.15), thì Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (x Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Kitô là đủ (x Gl 5,6).
“Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì”. Khi Gioan được 08 ngày, họ (những người thi hành phận sự) đến để cắt bì cho con trẻ theo luật định.
“HỌ LẤY TÊN DACARIA CỦA CHA NÓ MÀ ĐẶT CHO NÓ”.
Tại sao những người làm việc cắt bì này lại có quyền làm việc đặt tên cho em? Quyền đặt tên phải thuộc về người cha, ông Dacaria. Họ muốn qua mặt ông Dacaria sao? thưa: Không phải vậy, vì ông Dacaria lúc này đang bị câm không nói được, họ muốn làm luôn việc này và lấy tên cha đặt cho con là điều hết sức bình thường. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp qua người mẹ. Cho dù người cha vì khiếm khuyết không thực hiện được việc đặt tên, thì còn người mẹ.
“NHƯNG BÀ MẸ ĐÁP LẠI RẰNG: “KHÔNG ĐƯỢC, NÓ SẼ GỌI TÊN LÀ GIOAN.”
Bà Êlisabeth đã am tường sự kiện ông Dacaria được Sứ thần truyền tin và những gì Sứ thần đã nói với ông, nên bà phải làm theo lời Sứ thần truyền, bà lên tiếng không đồng ý việc này. “nó sẽ gọi tên là Gioan”, có nghĩa mặc dù bà chỉ là phụ nữ, không có quyền đặt tên cho con khi người cha còn sống, nhưng bà có quyền lên tiếng phản đối trong việc này và đòi phải đặt tên là Gioan.
“HỌ BẢO BÀ RẰNG: “KHÔNG AI TRONG HỌ HÀNG BÀ CÓ TÊN ĐÓ”.”RỒI HỌ LÀM HIỆU HỎI NGƯỜI CHA, XEM ÔNG MUỐN ĐẶT TÊN CHO EM BÉ LÀ GÌ.”
Cái tên Gioan, nghĩa là “Chúa thương”. Luca thật sâu sắc khi viết: “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy”, không ngờ cái tên Gioan lại nói lên tình thương của Thiên Chúa đã dành cho bà Êlisabeth, thật là sự trùng hợp có ý nghĩa.
Nhưng cái tên Gioan lại gây bất ngờ cho những người đang có mặt, nếu không lấy tên cha thì chí ít cũng phải lấy tên ai đó trong dòng họ, đàng này, cái tên Gioan rất xa lạ. Bây giờ tất cả sẽ do người cha quyết định, nhưng vì ông bị câm (có lẽ ông Dacaria cũng bị điếc luôn, vì thường câm đi với điếc) nên họ ra hiệu hỏi ông Dacaria.
“ÔNG XIN MỘT TẤM BẢNG VÀ VIẾT: “TÊN NÓ LÀ GIOAN”. VÀ MỌI NGƯỜI ĐỀU BỠ NGỠ.”
“Tên cháu là Gioan”, đó là quyết định cuối cùng và là quyết định của người cha. Ông đã đặt tên cho hài nhi đúng theo tên mà Sứ thần đã truyền cho ông. Như vậy, hài nhi Gioan là người Chúa thương.
Tên Gioan còn mang thêm một ý nghĩa nữa: Tên John (hay Gioan), là chữ viết tắt của tiếng kép Do-thái “Jeho-hannah;”có nghĩa “quà tặng của Jehovah,”hay “hồng ân Thiên Chúa.”Cả hai, ông Dacaria và bà Elisabeth, đều muốn đặt tên con như thế, vì ông bà biết đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ.
TÊN LÀ NGƯỜI.
Tùy vào ước vọng cha mẹ muốn cho con ra sao, trở thành gì, hay kỷ niệm biến cố gì; họ sẽ đặt tên con như thế. Ngày xưa, người ta thường chọn tên cho con với cái tên khó nghe, vì họ quan niệm sai lầm và mê tín, tên càng xấu bao nhiêu thì thần thánh càng chê bấy nhiêu nên được sống lâu. Vấn đề có được sống lâu hay không, điều đó không thể khẳng định, nhưng rõ ràng nó có tác hại về mặt tâm lý, người ta sẽ không tự tin cho đủ khi bước vào đời sống xã hội với một cái tên khó nghe như vậy.
Ngày nay, người ta chú trọng việc đặt tên. Phần tên họ: thường có sự lắp ghép giữa họ cha và họ mẹ, còn tên gọi, người ta có khuynh hướng chọn tên nói lên: nhân nghĩa lễ trí tín, nói lên cái đẹp, hoặc hướng tới sự thành công. Dù là tên xấu hay tên đẹp, nguyên việc đặt tên, nó đã nói lên quyền của cha mẹ trên con cái. Đây là một trong những điều mà NGƯỜI CON KHÔNG CÓ QUYỀN CHỌN LỰA, cho dù xã hội có đề cao sự tự do đến đâu. Sau này người ta có thể chọn thêm cái tên khác cho mình, ví dụ bút hiệu, nickname (trên facebook) … nhưng cái tên cha mẹ đặt vẫn luôn đi với mình cho đến hết cuộc đời này, không ai có quyền thay đổi và cơ chế xã hội sẽ bảo vệ quyền hợp pháp của cha mẹ.
“AI NẤY ĐỀU BỠ NGỠ. NGAY LÚC ẤY, MIỆNG LƯỠI ÔNG LẠI MỞ RA, ÔNG NÓI ĐƯỢC, VÀ CHÚC TỤNG THIÊN CHÚA.”
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được”. Những người đang hiện diện muốn biết lý do ông Dacaria đặt tên con trẻ là Gioan, thì một sự lạ đã xảy ra trước mắt họ, ông Dacaria đã nói được. Ai nấy đều kinh ngạc..
Luca muốn lặp lại lời Sứ thần Gabrien đã nói với ông trong lúc truyền tin: “Sứ thần đáp: “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.”(Lc 1, 19-20)
“Cho đến ngày các điều ấy xảy ra”, đó là ngày hài nhi được sinh ra và lúc Dacaria đặt tên cho con trẻ là Gioan. Như vậy, thời gian ấn định cho hình phạt của Sứ thần đã kết thúc.
“Và chúc tụng Thiên Chúa.”Khi ông Dacaria nói được, việc đầu tiên ông làm là chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải khoe khoang với mọi người. Luca không nói Dacaria đã chúc tụng những gì, nhưng ai cũng hiểu được: ông chúc tụng Thiên Chúa vì đã thương ông bà quá bội, Ngài đã ban cho 02 ông bà một người con trong lúc tuổi già, cất đi sự tủi nhục của họ, đàng khác đứa con này là sẽ là vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.
Ông nhớ lại lời Sứ thần đã nói với ông: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.”(Lc 1, 15-17).
Chúng ta cũng gặp nhiều ơn Chúa ban cho mình, ơn Chúa ban không thể nào kể hết, nhưng có bao giờ ta nhận ra chưa? Ơn Chúa rất nhiều và chúng đan xen vào nhau đến nỗi ta khó lòng nhận ra chúng. Chúa đâu có hiện ra để nói cho ta biết ơn này ơn nọ mà ta đã nhận. Chính vì Chúa không nói, nên Ta cứ nghĩ mình gặp may mắn. May mắn làm sao được, khi nó xảy ra quá trùng hợp và rất kịp lúc, phải có bàn tay vô hình nào đó nhúng vào. Nếu đời ta cứ cắt nghĩa là do may mắn, thì ta không thể tiến lên được trên đàng nhân đức, con người của ta cứ ì ạch, ẫu trĩ.
Có bao giờ ta biết chúc tụng Chúa chưa? Mà cứ ngửa tay xin hết ơn này đến ơn khác, cứ y như Chúa có bổn phận phải ban ơn cho ta. Ta hãy nhắm mắt lại để lắng đọng tâm tư mình, ta bất chợt nhớ lại những sự kiện xảy ra mà ta không thể nào cắt nghĩa được, cứ y như có bàn tay ai đó can thiệp vào đời ta vậy. Ta hãy học nơi ông Dacaria bài học hôm nay: “miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.”
“LÁNG GIỀNG AI NẤY ĐỀU KINH SỢ. VÀ CÁC SỰ VIỆC ẤY ĐƯỢC ĐỒN RA KHẮP MIỀN NÚI GIU-ĐÊ. AI NGHE CŨNG ĐỂ TÂM SUY NGHĨ VÀ TỰ HỎI: “ĐỨA TRẺ NÀY RỒI RA SẼ THẾ NÀO ĐÂY?”VÀ QUẢ THẬT, CÓ BÀN TAY CHÚA PHÙ HỘ EM.”
“Láng giềng ai nấy đều kinh sợ”, vâng họ sợ vì chung quanh việc hài nhi Gioan sinh ra có quá nhiều sự lạ, liên kết nhau cách tuần tự, sự lạ này nối tiếp sự lạ kia. Trước hết là ông Dacaria bị câm khi từ Đền thờ bước ra khi xong việc tế tự. Không ai biết điều gì đã xảy ra vì ông bị câm (có lẽ cũng bị điếc luôn, vì câm và điếc là 02 bệnh phải đi với nhau do 02 dây thần kinh liên quan đến nhau). Thứ đến là việc bà Êlisabeth có thai trong lúc tuổi già. Thứ ba là việc đặt tên không theo truyền thống và cuối cùng ông Dacaria nói được sau khi đặt tên cho con là Gioan. Họ kinh sợ vì những sự lạ ấy không thể nào giải thích được.
Thử hỏi rằng có ai giải thích được việc Chúa làm chưa? Trước những sự lạ, hay còn gọi là phép lạ ta chỉ còn biết chiêm ngưỡng, chúc tụng, không giải thích. Vì khi giải thích, ta đã đưa mình vào chỗ kiêu ngạo và lố bịch. Ta chỉ còn biết kinh ngạc như những người trong nhà ông Dacaria hôm nay.
“Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê.”Nhà ông Dacari ở miền núi Giuđêa, nơi có Thành thánh Giêrusalem và Đền thờ Giêrusalem. Chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rất lớn, và các phái lãnh đạo Do Thái: Kinh sư, Pharisêu sẽ để tâm đến.
“Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.”Vâng đã có nhiều sự lạ xảy ra cho hài nhi Gioan, nó cho phép người ta đặt dấu hỏi về tương lai của em. Chắc chắn em không thể là người bình thường được. Luca nhấn mạnh: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”, như vậy bàn tay Thiên Chúa sẽ dẫn dắt Gioan đi đúng hướng mà Thiên Chúa đã định. Tiền hô cho Đấng Cứu Thế.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng. Khi Rửa tội một em bé mới sinh, chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi: Em này rồi sẽ ra sao? Đâu là định mệnh tương lai của em?… Tất cả những câu hỏi đó đang nằm ở phía trước mà với thời gian sẽ lần lượt bóc trần thánh ý Chúa dành cho mỗi người.
Nhưng với Gioan Tảy Giả người ta đã thấy được phần nào trong ngày Sinh nhật này rồi, vì thế Luca viết: “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.
Câu chuyện ngày Gioan chào đời bắt đầu bằng niềm vui của láng giềng và kết thúc bằng một dấu hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”Dễ hiểu niềm vui này: vui vì một con người được sinh ra, hơn thế nữa, vui vì em bé này là đứa con của lòng dạ son sẻ. Và còn một niềm vui nữa mà láng giềng chỉ mới cảm nhận lờ mờ: Em bé này có một sứ mạng gắn liền với Đấng Mê-si-a, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Thế nhưng nếu như biết trước được rằng Gioan sẽ kết thúc cuộc đời bằng những ngày tăm tối và cái chết bi thảm trong tù ngục, thì liệu niềm vui chào đời này có trở thành vô duyên, hụt hẫng không? Câu hỏi “đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây”đưa chúng ta đến chỗ cảm nghiệm đầy đủ ý nghĩa của niềm vui trong toàn bộ đời sống và sứ mạng của Gioan: đó là sinh ra để thi hành sứ mạng ngôn sứ dọn đường cho Đức Kitô và chết đi cũng là để hoàn thành sứ mạng ấy.
Những người đang hiện diện hôm nay, sẽ đáp ứng mau lẹ lời kêu gọi của Gioan trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”(Lc 3, 4-6).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con chỉ biết sống và chết cho Chúa, vì đó là cách tốt nhất để con sống đời con. Amen.
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng...
Một người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.
Thế rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn không sót một con!
Niềm vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia đình.
Một niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời. Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em" (Lc 1,66).
Thế rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng. Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực hiện ý Người.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, thì người cũng không ngần ngại giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: "Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Đời sống cao đẹp của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu nhìn nhận: "Trong các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan" (Mt 11, 11).
Không những thánh Gioan sống đẹp mà chết cũng rất hào hùng. Thời bấy giờ không ai dám đả động đến hành vi loạn luân của vua Hê-rô-đê với người chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê. Chỉ mình Gioan dám đứng lên tố cáo tội lỗi nhà vua cho dù phải lãnh lấy án chết. Gioan anh dũng chấp nhận chết để bảo vệ giềng mối đạo đức cho tôn giáo và xã hội. Đó là cái chết đẹp vô cùng.
Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy nhớ lại ngày sinh nhật của chúng ta. Đó là giây phút lịch sử đáng ghi nhớ nhất đời. Ngày ấy, cha mẹ, ông bà, cô bác đều mừng vui vì ta được sinh ra đời. Ai cũng muốn nhìn ta, ai cũng mỉm cười với ta, ai cũng muốn bồng ẵm ta... và ai cũng đặt nơi ta một niềm hy vọng: "Trẻ nầy rồi sẽ nên như thế nào?" Cha mẹ và bà con hy vọng ta sẽ có tương lai xán lạn, hy vọng ta sẽ đem lại danh giá cho gia đình và họ hàng. Nhưng mãi cho đến hôm nay, chúng ta đã đáp ứng được niềm hy vọng đó chưa?
Nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta sống sao cho đẹp như Gioan để không làm cho gia đình họ hàng thất vọng đồng thời để dọn đường cho Chúa đến với mọi người.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp ta chết sao cho đẹp, để lại tiếng thơm cho đời như thánh Gioan.
Chúng ta vừa được nghe những bài đọc lời Chúa. Những bài đọc đó xác tín về ơn gọi của vị ngôn sứ. Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Isaia. Qua bài đọc này, chúng ta bắt gặp cảm nhận cũng như kinh nghiệm về ơn gọi của Isaia. Isaia đã xác tín: Đức Chúa gọi tôi, từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời. Ơn gọi không phải là sự bất chợt nhưng là một sự xác tín sâu xa. Thiên Chúa đã chọn gọi vị ngôn sứ của Người, Thiên Chúa đã thánh hiến vị ngôn sứ bằng chính than hồng để ngôn sứ ra đi loan báo lời của Đức Chúa.
Chắc hẳn khi phụng vụ chọn lựa bài đọc này, muốn chúng ta nhìn về ơn gọi của vị tiền hô Gioan. Thánh Gioan cũng được chọn lựa ngay từ khi còn trong lòng mẹ để trở nên một đấng đi trước dọn lối cho Đấng Mesia. Thánh Gioan cũng xác tín vào ơn gọi của mình, để suốt cuộc đời của mình, Gioan đã trở nên tiếng hô loan báo Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã khắc họa hình ảnh của một vị ngôn sứ thật sống động trong lời nói và đặc biệt trong đời sống của mình. Ông đã giới thiệu Chúa Giêsu trong con người của mình. Qua cảm nhận về ơn gọi của Isaia, cảm nhận về ơn gọi của Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để xác tín về ơn gọi của mỗi chúng ta trở thành nhân chứng của Lời. Để lời giảng của chúng ta có sức biến đổi, có sức diễn tả về Chúa cho anh chị em của mình. Xưa kia Isaia đã chuẩn bị những con đường cho Đức Chúa đến với dân. Hãy dọn con đường trong hoang địa, những con đường ấy dẫn Chúa đến với dân tộc lưu đầy.
Và rồi nếu ta đọc Tin Mừng Luca, ta cũng sẽ bắt gặp những lời như vậy được diễn tả cho Gioan. Trong hoang địa, có tiếng hô hay có tiếng người hô trong hoang địa hãy dọn con đường cho Đức Chúa. Thánh Gioan đã dọn con đường để giới thiệu Chúa Giêsu: đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngày hôm nay, chúng ta giới thiệu về Chúa như thế nào cho anh chị em của chúng ta? Làm sao ta có thể như Isaia, đem Chúa đến cho một dân tộc lưu đầy? Ngày hôm nay, chúng ta được mời gọi đến với anh chị em không phải trong hoàn cảnh lưu đầy về địa lý, mà có thể đang lưu đày trong những hoàn cảnh khác nhau: đang thiếu thốn tình thương, đang thiếu thốn sự công chính, đang thiếu thốn sự nhận biết Thiên Chúa. Đó phải là những biên cương mà ngôn sứ cần loan báo. Cũng như thánh Gioan đã chấp nhận trở nhận trở nên nhỏ bé, đã khiêm tốn:không đáng cởi dây dép cho Đấng Cứu Thế. Chính sự khiếm tốn ấy đã giúp Gioan hạ mình để cho Chúa được lớn lên.
Khi giới thiệu Chúa cho anh chị em của mình, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi mỗi ngày trở nên khí cụ sống động đẻ loan báo nước Chúa cho anh chị em. Xin Chúa củng cố lời giảng của mỗi người chúng ta bằng những chứng từ sống động. Amen.
Theo lời Chúa Giêsu, ông Gioan là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
LỊCH SỬ
Lễ kính thánh Gioan Tẩy Giả có từ thế kỷ thứ V, và được đặt vào ngày 24/6, 6 tháng trước lễ Giáng Sinh. Thánh Gioan là vị Thánh được đạc biệt mừng kính vào ngày sinh nhựt thực sự của mình. Toàn thể các Thánh khác đều được mừng vào ngày tứ trần, tức là ngày sinh nhựt trên nước trời.
Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối.
Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan.
Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến.
Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14).
(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
CHIA SẺ VÀ SUY NIỆM
Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Khi cậu bé Gioan Tẩy Giả chào đời, người ta cũng đã hỏi tương tự: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?”( Lc 1, 66 ). Với câu hỏi ấy chúng ta đã có câu trả lời. Cậu bé Gioan càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-el. Gioan đã đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái khi nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Thánh Gioan Tông Đồ đã tóm tắt cuộc sống của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Dưới cái nhìn của con người, như có lần Chúa Giêsu đã khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị Ngôn Sứ được xem là cao cả nhất trong lịch sử Ít-ra-el ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị nào trước ngài đã quy tụ được… Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và chấp nhận bị chém đầu.
Gioan nhỏ lại trong cái chết, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong mầu nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về cái chết của Chúa Giêsu… Nhưng cũng trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa… Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào việc mạc khải diệu kỳ của tên Gioan và biến cố cắt bì đặt tên, hơn là biến cố chào đời của ông Gioan Tẩy Giả. “Yôhannan”( Gioan ) có nghĩa là: “Đức Chúa tỏ lòng nhân hậu”; “Đức Chúa tỏ lòng xót thương”; “Đức Chúa ban ơn”. Ngang qua cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng từ bi nhân hậu và giàu lòng xót thương. Thiên Chúa đã, đang và sẽ thi thố quyền năng của Ngài cho mọi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta đều được cha mẹ đặt tên, khi đặt tên cho con cái cha mẹ nào cũng muốn qua cái tên ấy con cái mình được dễ nuôi, khi lớn lên có cuộc sống thành đạt. Ngày chúng ta chịu phép Rửa Tội, chúng ta lại có một tên mới, gọi là tên Thánh. Khi chọn một vị Thánh làm bổn mạng là ta muốn vị Thánh ấy cầu bầu và che chở chúng ta và chúng ta noi gương bắt chước vị Thánh ấy trên đường nhân đức để nên Thánh.
- Vậy sự hiện diện của chúng ta đã thực sự là “niềm vui và hy vọng”cho chính mình và cho người khác hay chưa?
- Con cái có là niềm vui và hy vọng cho bố mẹ hay không?
- Bố mẹ có là niềm vui và hy vọng cho con cái hay không? Hay là bố mẹ vẫn còn ích kỷ chỉ biết lo cho chính mình, vẫn biện minh cho những hành động sai trái và tội lỗi của mình, sống buông thả theo rượu chè, cờ bạc, ngoại tình và hưởng thủ và nhất là nạo phá thai, tức là nhẫn tâm giết con của mình khi chúng mới được hình thành trong dạ mẹ. Vợ chồng ly dị để con cái bơ vơ. Ai là vợ là chồng đã biết mang lại niềm vui và hy vọng cho người bạn đời của mình chưa? Hay là vợ chồng trở thành gánh nặng cho nhau, bạo hành trong gia đình, lừa dối và phản bội nhau, không còn thuỷ chung.
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta có tên Thánh, nhưng thực sự cuộc sống của chúng ta đã soi lấy tấm gương vị Thánh bổn mạng của mình hay chưa. Hay nói cách khác cuộc sống của chúng ta đã nói lên được rằng: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, Thiên Chúa tỏ lòng xót thương và Thiên Chúa ban ơn hay chưa? Để rồi mỗi người chúng ta cũng là món quà để trao ban cho người khác và nhất là chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, ngõ hầu chúng ta là hiện thân của lòng nhân hậu, lòng xót thương của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là “tôi phải nhỏ lại để Ngài được lớn lên”. Chúng ta có nhỏ đi trong khiêm tốn để tránh được cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chính mình, chúng ta có chấp nhận teo tóp lại tất cả những ham muốn ganh tỵ bất chính của chính mình, chúng ta có mong muốn vỡ vụn tan biến tất cả những hận thù nhỏ nhen của chính mình, thì lúc đó Đức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.
Chúng ta cầu nguyện sao cho bản thân và cho mọi người được luôn là cầu nối giữa Thiên Chúa với con người, là cầu nối giữa con người với nhau, như một bài hát đã diễn tả: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô nẩy sinh tình đệ huynh”.
Chúa Giêsu đã gọi thánh Gioan Tẩy Giả là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối: “Tôi nói cho anh em biết, trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông”(Lc 7:28).
Thánh Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria (tư tế Do Thái) và bà Êlisabet. Hai ông bà không có con cái dù đã cao niên và quá tuổi sinh con. Thế nhưng Thiên Chúa đã ra tay uy quyền và thương ban cho hai ông bà một người con trai, là chính Gioan. Trong phiên trực của ông Dacaria ở Đền thờ Giêrusalem, thì Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã hiện ra với ông và thông báo rằng vợ chồng ông sẽ sinh con trai, tên con trẻ đó sẽ là Gioan. Ông không tin sứ điệp của Sứ thần Gabriel là sự thật, thế nên ông bị câm cho tới khi Gioan ra đời (Lc 1:5-25). Lúc đó, mọi người trong gia tộc muốn đặt tên cho con trẻ theo tên cha, nhưng ông Dacaria xin tấm bảng và ghi: “Tên cháu là Gioan”(Lc 1:63). Ai cũng thấy lạ. Rồi ông nói được như trước. Mọi người lại càng kinh ngạc hơn. Ông Dacaria liền dâng lời chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca Chúc tụng (Benedictus), nói về thiên chức tiên tri, sứ giả và tiên phong của con trẻ Gioan (Lc 1:67-79).
Thời gian đầu của cuộc đời rao giảng, thánh Gioan sống khổ hạnh trong hoang địa, sau đó ngài bắt đầu rao giảng Nước Trời và kêu gọi mọi người canh tân đời sống. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu đến qua việc làm phép rửa bằng nước để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, còn Đấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Ngài tự nhận mình không đáng cởi quai dép cho Đấng đến sau ngài, là chính Đức Giêsu. Đồng thời ngài cũng đã tỏ thái độ của mình đối với Chúa Giêsu khi nói rằng: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”(Ga 3:30).
Sự cao trọng của thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của thánh Gioan. Cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai, nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Khi còn ở trong tù, thánh nhân đã sai một số môn đệ đến hỏi xem Chúa Giêsu có phải là Đấng Thiên Sai hay không. Và ngài đã nhận được câu trả lời rằng Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Không chỉ vậy, chính thánh Gioan cũng đã thông phần đau khổ với Đức Giêsu khi ngài bị chém đầu vì sự trả thù của Hêrôđia.
Thánh Gioan sinh trước Chúa Giêsu khoảng 6 tháng, nên lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào ngày 24-6, trước lễ Giáng sinh đúng 6 tháng. Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong số ít các thánh được Giáo Hội mừng sinh nhật; không chỉ vậy, ngài còn được Giáo Hội nhớ giỗ vào ngày 29-8 hàng năm.
Lạy Thánh Gio-an Tẩy Giả, xin ban cho chúng con lòng can đảm để chỉ biết nói lên sự thật và làm chứng cho sự thật và sống theo sự thật. Xin ban cho chúng con cũng biết nhỏ lại với sự yếu hèn và tội lỗi của mình, để Chúa được lớn lên trong chúng con mỗi ngày. Cũng như xin ban cho chúng con tâm hồn và sức sống của các vị ngôn sứ để chúng con biết làm chứng về Chúa trong cuộc đời chúng con.
Trước lễ Chúa Giáng Sinh 6 tháng, tức ngày hôm nay, cả Giáo Hội hân hoan mừng kính sinh nhật vị thánh đặc biệt có tên là Gioan Tẩy Giả. Đây là điều ngoại lệ trong phụng vụ Giáo Hội, bởi lẽ, không có một vị thánh nào được mừng sinh nhật ngoại trừ Mẹ Maria và Đức Giêsu. Các vị thánh khác thường được mừng kính ngày sinh nhật của các ngài trên trời, tức là ngày mất. Sự kiện đặc biệt này cho thấy điều cao trọng nơi con trẻ có tên là Gioan. Bởi vì, chính con người, ơn gọi và sứ vụ của Gioan gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu Thế, hay nói cách khác, sứ vụ ngôn sứ của ngài nối liền giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chính vì điều này mà Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ sinh nhật của ngài hôm nay.
Dấu gạch nối giữa Gioan và Đức Giêsu
Mang trong mình sứ vụ tiền hô, nên Gioan đã trở thành người loan tin, chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sứ vụ của ông gắn liền với sứ vụ Đức Giêsu. Vì thế, Gioan đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho nhân loại về Đức Giêsu, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là nội dung Tin Mừng. Gioan là tiếng hô trong hoang địa, còn Đức Giêsu chính là Đấng hiện diện như những gì đã loan báo. Gioan chuẩn bị lòng dân nhớ lại lời hứa bằng việc nhắc cho biết những điều đã được tiên báo về Đấng Mêsia, Đức Giêsu đến đã làm cho những lời tiên trưng về Ngài được ứng nghiệm. Gioan kêu gọi sống công bằng bác ái, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực hiện rõ nét tình thương của Thiên Chúa trên dân của Ngài. Gioan làm phép rửa thống hối và kêu gọi người ta ăn năn, Đức Giêsu đến, Ngài ban ơn tha thứ và cứu chuộc hết mọi người bằng chính máu của Ngài đổ ra trên thập giá.
Tắt một lời, nếu Gioan là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài chính là con đường. Nếu Gioan là tiếng hô trong hoang địa, thì Đức Giêsu chính là nội dung tiếng hô đó.
Như vậy, cuộc đời và sứ vụ của Gioan gắn liền với con người và sứ vụ Đấng Cứu Thế. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi việc truyền tin cho Đức Maria và bà Êlisabét đều chung một sứ thần Gabriel; Gioan và Đức Giêsu là anh em họ hàng với nhau. Cả hai được sinh ra bởi những người phụ nữ rất đặc biệt đã được tiền định. Được đặt tên ngay khi mới truyền tin: Gioan, nghĩa là Tiền Hô; Giêsu nghĩa là Cứu Thế. Gioan chịu tử đạo vì sứ vụ làm chứng cho sự thật, công bằng. Đức Giêsu cũng chết vì lẽ công chính và sự thật để cứu chuộc nhân loại.
Tuy hai cuộc đời gắn liền với nhau, nhưng Gioan luôn ý thức mình chỉ là vai phụ trong một thước phim vĩ đại. Khi đã hoàn tất sứ vụ, ông đã khiêm nhường lui vào hậu trường để cho nhân vật chính xuất hiện.
Gioan là con người khiêm nhường
Chính vì sự khiêm nhường của Gioan đã làm cho ngài trở thành vĩ đại, bởi lẽ, nhân đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức. Nếu cuộc đời và sứ của Gioan luôn gắn liền với cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu, thì đức tính khiêm nhường cũng luôn theo sát Gioan an như hình với bóng.
Chính vì điều này, mà mỗi khi nói về Gioan, người ta không thể không nhắc đến sự khiêm nhường nơi ông.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể như:
Sau khi đã hoàn tất việc loan báo, Gioan đã: “Để Chúa lớn lên, còn ông nhỏ lại”; bởi vì ông luôn ý thức: “Tôi chỉ là tiếng hô…”.
Hay khi uy tín của ông nổi lên như cồn, nhiều người đã thầm nghĩ đây phải là Đấng Cứu Thế mà bấy lâu dân đang mong ngóng đợi chờ… Lẽ ra ông phải tự hào và khẳng định thân thế, vai trò của mình một cách “hoành tráng!”. Không! Với ông, điều này không thuộc bản chất, vì thế Gioan đã tìm dịp thuận tiện để hướng sự kính trọng của dân về Đức Giêsu, vì thế, khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông đã nói cho các môn đệ của mình về Đức Giêsu rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian…. Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài”(Ga 1,15).
Cũng chính vì sự khiêm nhường thẳm sâu, nên Gioan đã không sử dụng uy tín của mình để phục vụ hay đứng về điều bất chính, vì thế, ngài đã sống một cuộc đời ngay thẳng, cương trực, không chấp nhận nhu nhược trước tội lỗi cho dù có được trọng thưởng tiền bạc và chức quyền. Vì thế, Gioan đã chấp nhận chết dưới lưỡi gươm của Hêrôđê khi dám đứng lên phản đối hành vi bất chính của vị vua này.
Với tất cả những ưu điểm ấy, nên Gioan đáng được Đức Giêsu trọng thưởng khi nói: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”(Mt 11, 11).
Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về bổn phận ngôn sứ của mình đã lãnh nhận ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Ngày ấy, chúng ta được mời gọi trở nên Ánh Sáng cho mọi người, tức là chiếu dọi Ánh Sáng của Đức Kitô cho anh chị em chúng ta.
Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều được mời gọi trở nên sứ giả cho Đức Kitô.
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
Bên cạnh đó, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên sứ giả Tin Mừng trong sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, sứ vụ bị phá hoại.
Mỗi người cần thuộc nằm lòng và đem ra áp dụng trong cuộc sống câu nói và lựa chọn của Gioan khi xưa: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Hơn nữa, Giáo Hội cũng nhắc lại cho chúng ta sứ điệp mà Gioan đã loan báo, đó là: sám hối. Hành vi sám hối là động thái cho mọi người mọi nơi. Không sám hối thì không được cứu độ.
Cuối cùng, noi gương Gioan, chúng ta không có con đường nào khác để trở nên chứng nhân cho Chúa thực sự nếu không sống sự thật. Bởi vì Tin Mừng và con người Đức Giêsu chính là sự thật toàn vẹn. Nếu không sống sự thật, chúng ta loan báo lệch lạc sứ vụ Tin Mừng nếu không muốn nói là phản bội sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ý thức được vai trò quan trọng của mỗi người khi được Chúa cho xuất hiện trên trần gian này. Xin cũng ban cho mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận trong lòng mến và khiêm nhường như Gioan khi xưa. Amen.
Nếu có ai đã từng đến đất nước Philippines, hẳn sẽ thấy điều đặc biệt trong ngày mừng sinh nhật. Tại đất nước này, ngày sinh nhật là một ngày trọng đại. Vì thế, dù nghèo hay giàu, họ đều tổ chức rất trang trọng. Trong dịp mừng đó, điều ấn tượng nhất có lẽ không phải là tiệc to hay nhỏ, đông người hay ít người, nhưng điều làm cho người tham dự cảm động và nhận ra giá trị cao quý của ngày sinh nhật, đó là: người mừng sinh nhật hôm đó, hiện diện giữa đám đông, mọi người đứng chung quanh và giơ hai tay hướng về nhân vật mừng sinh nhật kèm theo lời kinh nguyện để xin Chúa chúc lành cho đương sự. Thật cảm động và ý nghĩa!
Hôm nay, chúng ta mừng kính trọng thể lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, Mẹ Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hiểu được tầm quan trọng của Gioan Tẩy Giả trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; đồng thời, cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương vị Tiền Hô vĩ đại của Chúa để là chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống thường ngày của mình, ngõ hầu sống xứng đáng sự hiện diện cao quý của mỗi người trên trần gian.
1. Sự xuất hiện của Gioan là một điều vĩ đại
Con người được hiện hữu trên trần gian này là một mầu nhiệm lớn lao mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại. Hiểu được giá trị của mình và sống giá trị ấy bằng những lựa chọn tốt là một hồng ân.
Vì thế, chúng ta tin nhận chắc chắn rằng: sự xuất hiện của mỗi người trên trái đất này không phải là một sự tình cờ, ngẫu nhiên. Không! Mỗi người sinh ra đều mang đậm dấu ấn yêu thương của Thiên Chúa từ đời đời. Người đã có cả một kế hoạch đầy yêu thương riêng biệt cho chúng ta. Tác giả sách Isaia đã thốt lên: “Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người”(Is 49, 1-2). Vua thánh Đavít cũng đã cảm nghiệm sâu xa về sự hiện diện của mình trong chương trình của Thiên Chúa, nên ngài đã viết: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con… Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu”(Tv 139, 13).
Như vậy, trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi người đều mang trong mình một sứ vụ. Thánh Gioan Tẩy Giả chính là một trong những người đó.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, và sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho ông về việc bà Êlisabet vợ ông sẽ mang thai trong lúc tuổi đã xế chiều. Hơn nữa, sứ thần còn truyền cho ông phải đặt tên cho con trẻ là Gioan. Tiếp ngay sau đó, sứ thần đã báo cho ông biết sứ vụ của người con mà ông và người vợ son sẻ cao niên sẽ sinh ra. Sứ thần nói về Con Trẻ là người: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”(Lc 1,17). Điều này cũng đã được Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy ông Dacaria, để ông nói tiên tri về con của mình rằng: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người”(Lc 1,76).
Như vậy, sự xuất hiện của Gioan là một hồng ân kỳ diệu mà Thiên Chúa đã tỏ hiện lòng thương xót của Người cho cha mẹ Gioan cũng như cho họ hàng dòng tộc. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, nhưng tình thương ấy được trải dài và lưu truyền cho muôn ngàn thế hệ khi Gioan thi hành sứ vụ ngôn sứ của Đấng Tối Cao trong vai trò là Tiền Hô.
2. Thực thi sứ vụ trong tinh thần khiêm nhường
Quả thật, Gioan đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa, vì ngài đã trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sau thời gian sống ẩn dật trong rừng vắng, Gioan đã ra đi và thi hành sứ vụ. Ngài đã trở thành tiếng hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi hố sâu phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, đường quanh co phải uốn cho ngay… (x. Lc 3, 4-6).
Như vậy, Gioan nắm một vai trò trực tiếp có một không hai là dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, khi ông công khai xuất hiện trước toàn dân và làm phép rửa, dân chúng đã tưởng là Đấng Cứu Thế! Lúc đó, nhiều người đã đến để thăm dò, chất vấn xem ông có phải là Đấng Kitô mà bao ngôn sứ đã loan báo, nay xuất hiện hay không? Khi đặt vấn đề ấy với ông, ông hoàn toàn phủ nhận và không những thế, Gioan còn đề cao Đấng Cứu Thế khi nói: “Có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dép cho Ngài”(x. Lc 3, 16). Ngài cũng nói rõ vai trò của mình là người dọn đường, vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến thì: “Ngài phải lớn lên còn tôi, tôi phải nhỏ đi”(x. Ga 3, 30). Khi uy tín của ông lên đến đỉnh điểm, có nhiều môn đệ đi theo, lẽ ra, lúc này, ông phải tự hào và hãnh diện cũng như củng cố uy tín…! Không! Khi thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông sẵn sàng chỉ về phía Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của mình, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”(Ga 1, 29).
Quả thật, Gioan là một người khiêm tốn. Điều này được chứng minh qua thân thế của ông như sau: sinh ra trong một gia đình có truyền thống Tư Tế, thượng lưu, Gioan có quyền được hưởng một cuộc sống sung túc và trưởng giả. Thế nhưng, cuộc đời của ông lại âm thầm và gắn liền với sa mạc. Thức ăn của ông là châu chấu và uống mật ong rừng. Ông sống nghèo đến độ lấy da thú làm áo che thân. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã ân thưởng cho Gioan xứng với vai trò của ông, nên Ngài đã khen ngợi, công nhận Gioan là người vĩ đại khi nói: “Anh em vào sa mạc để xem gì? Một cây lau phất phơ trước gió ư?… Anh em xem thấy gì? Một vị ngôn sứ? Đúng thế, tôi nói cho anh em biết, trong con cái của người phụ nữ, không ai lớn hơn Gioan”(x. Lc 7, 28).
Cuối cùng, cuộc đời của Gioan được kết thúc bằng cái chết trong ngục tù. Tuy nhiên, tưởng chừng như âm thầm chốn lao tù tối tăm! Nhưng không, cái chết của ngài đã được muôn đời ca ngợi vì vẻ cao quý hào hùng của bậc vĩ nhân.
3. Sứ điệp ngày lễ
Mừng lễ sinh nhật thánh Gioan hôm nay, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra ý nghĩa về sự hiện diện của mình trong trần gian. Hãy biết đặt ra cho mình câu hỏi: tôi sinh ra trên trần gian này để làm gì? Sự hiện hữu của tôi có đem lại lợi ích gì cho Thiên Chúa và anh chị em đồng loại không?
Khi đặt ra cho mình những câu hỏi như thế, hẳn chúng ta sẽ thấy được sứ mệnh của mỗi người trong trần gian này.
Vậy, nếu sứ mệnh của Gioan là: dọn đường cho Đấng Cứu Thế bằng việc ăn chay, hãm mình và kêu gọi lòng dân sám hối quay về với Thiên Chúa, thì sứ mệnh của chúng ta sẽ là gì nếu không phải chính mình thi hành tinh thần sám hối và dạy người ta biết ăn năn để trở về nẻo chính đường ngay?
Tuy nhiên, muốn sám hối để quay trở về với Chúa, chúng ta phải noi gương Gioan Tẩy Giả, đó là sống khiêm nhường thẳm sâu.
Cuối cùng, khi đã khiêm nhường và sám hối, chúng ta nhớ lại sứ vụ mà mỗi người đã được trao trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Sứ vụ ấy là trở thành ngôn sứ và chứng nhân cho Đức Giêsu giữa cuộc sống hôm nay.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã cho thánh Gioan Tẩy Giả xuất hiện trên trần gian. Ngài chính là mẫu gương cho chúng con về việc thi hành sứ vụ. Xin cho chúng con biết quý trọng sự hiện hữu của mình và biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả để sống đời chứng nhân cách nhiệt thành và anh dũng. Amen.
Khi nhắc đến thánh Gioan Tẩy Giả, có thể điều đọng lại nơi tâm trí chúng ta là tâm tình của Mùa Vọng với tiếng kêu đầy chất vấn trong hoang địa và cuộc tử đạo hào hùng của một con người luôn đứng về phía chân lý.
***
Hai hình ảnh nhưng cùng một hướng đi và có cùng một điểm xuất phát. “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”(Is 1,5). Chúng ta đang muốn nói đến ngày sinh của Gioan Tẩy Giả, với bậc Lễ trọng mà hàng năm Giáo hội cử hành, bên cạnh lễ sinh nhật của Chúa Giêsu và Mẹ Maira.
Không phải ngẫu nhiên mà Giáo hội lại cử hành trọng thể lễ sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả. Bởi lẽ chính biến cố này đem lại cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta muôn hồng phúc phát xuất từ Thiên Chúa. Thánh nhân là vị ngôn sứ cuối cùng, đúng hơn là ngôn sứ “gạch nối”giữa Cựu ước và Tân ước, là người trực tiếp chỉ cho muôn dân nhận biết Đấng là Chiên Thiên Chúa (x Ga 1,29), để ai tin sẽ được cứu độ. Hơn nữa, Thánh nhân gợi lại trong mỗi một kitô hữu chúng ta điểm xuất phát và hướng đi của cuộc đời mình.
Cả ba bài đọc trong thánh lễ hôm nay như là sợi chỉ xuyên suốt, không những cùng hướng về ơn gọi của Gioan mà còn xuyên suốt từ thời của Ngài đến thời đại chúng ta hôm nay. Bài đọc thứ nhất nói về ánh sáng của người tôi tớ Thiên Chúa. Bài đọc thứ hai cho ta thấy hình ảnh của một ngôn sứ. Và bài Tin Mừng, thi vị hơn, gần gũi hơn, khi nhắc đến cái Tên. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đặt tên cho ai thì cuộc đời người đó gắn liền với một sứ mạng cao cả. Gioan là cái tên được Thiên Chúa đặt cho đứa trẻ được sinh ra trong một hoàn cảnh đặc biệt khi cha mẹ đã cao niên, tức ông Giacaria và bà Êlisabet. Từ đó một vị ngôn sứ cao cả xuất hiện, một ngọn đèn luôn tỏa sáng.
Trong sách tiên tri Amốt có lời chép:
“Sư tử đã gầm lên: ai mà không sợ hãi
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?”(Am 3,8)
Chúa đã đặt tên cho Gioan, cũng có nghĩa là Chúa mời gọi, Chúa đã phán. Và Gioan đã mở lời. Tiếng nói của Gioan không chỉ là tiếng nói của lương tâm cá nhân mà còn là tiếng nói của chính Thiên Chúa. Tiếng đó có thể kêu to như tiếng kêu trong hoang địa (x Lc 3, 4-5), nhưng cũng có thể âm thầm đi sâu, chạm thấu vào lòng người như cái ngày bên dòng sông Giođan (x Lc 3, 10-18). Tiếng đó có thể được mọi người kính trọng (x Mc 6, 17- 20; 11,32) mà cũng có thể đụng chạm đến sự ganh ghét, thù oán của người khác. Nhưng dẫu trong hoàn cảnh nào, tiếng đó phải được định hướng bởi một tiếng nói của ơn gọi, của cái tên: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”(Ga 3,30). Đúng vậy, cũng như tiếng kêu, ngọn đèn mang tên Gioan không bao giờ tắt nhưng chiếu sáng mãi mãi dù xung quanh tiềm ẩn nhiều bóng tối, dù còn đó những ngọn gió muốn thổi tung tất cả từ tứ phía. Ánh sáng đó vẫn chiếu tỏa cho nhân loại nhưng vẫn luôn hạ mình trước quyền năng Thiên Chúa: “Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.
Con người và tiếng nói của Gioan trong ngày mừng sinh nhật cách trọng thể hôm nay, đã vang vọng và đụng chạm đến mọi thời của nhân loại, đến cuộc sống của từng người chúng ta hôm nay. Cũng như Gioan, ai trong chúng ta cũng đều có một điểm xuất phát với cái tên, và theo đó là một ơn gọi và một đích nhắm để bước đi. Cái tên không hẳn theo nghĩa đen như mong muốn của cha mẹ nhưng tên mỗi người được Thiên Chúa khắc ghi, gắn liền với con người độc đáo, với ơn gọi, từ trước khi được thành hình trong dạ mẹ, trước khi chúng ta chào đời. Điều quý giá nơi con người không hệ tại ở cái họ CÓ, cái họ LÀM mà chính yếu nơi cái họ LÀ. Chúng ta là ánh sáng, là phát ngôn của Thiên Chúa. Ánh sáng của chúng ta không phải là ánh sáng nhân tạo, do chính ta hay ai đó làm ra nhưng là ánh sáng phát xuất từ Thiên Chúa chân thật. Tính cách ngôn sứ nơi chúng ta không là sự tùy hứng, không lập lờ nước đôi theo kiểu gió hướng nào ngả về hướng đó, cũng càng không phải là cái cớ để trục lợi nhưng được gắn liền với công lý. Có như thế tên của chúng ta được tinh tuyền từ khởi sự cho đến hoàn thành và mãi mãi được khắc ghi trong tình yêu của Thiên Chúa. Dẫu cho “tôi đã vất vả mất công vô cớ, tôi đã phí sức vô ích; nhưng công lý của tôi ở nơi Chúa, và phần thưởng của tôi ở nơi Thiên Chúa”. (Is 49, 3)
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
“Đứa Trẻ này rồi sẽ thế nào đây?”
Câu chuyện minh họa: Còn nhớ lần đầu tiên vào thăm mấy người bạn ở Long Khánh (Xuân Lộc), tôi được họ dẫn đi tham quan vườn sầu riêng. Đứng giữa vườn sầu riêng mênh mông, ngước nhìn lên những thân cây sầu riêng cao lớn đang đeo những chùm trái to tướng và đầy gai nhọn, tôi thốt lên với nhóm bạn:
- Trái sầu riêng này mà lỡ rụng xuống trúng đầu ai thì chắc là người đó... chết tươi ăn năn tội chẳng kịp quá!
Mấy đứa bạn nhìn tôi cười và giải thích thế này:
- Bạn đừng lo! Khi dựng nên cây sầu riêng, Thiên Chúa đã tính toán kỹ rồi. Ngài trao cho nó sứ mạng dâng tặng vị ngọt thơm cho đời. Còn việc rụng, Ngài chỉ cho phép trái của nó được rụng vào ban đêm thôi, nếu rụng ban ngày thì chắc gì ông bà Adam - Eva còn sống mà sinh ra con cháu tụi mình bây giờ!
Câu trả lời dí dỏm này khiến tôi suy nghĩ: Dựng nên một cây ăn trái mà Chúa còn tính toán lợi hại kỹ như vậy, thì khi dựng nên con người, chắc chắn là Chúa phải có chương trình hẳn hoi!
Kính thưa cộng đoàn!
Người đời thường hay quan niệm rằng mỗi người đều có một số phận hay định mệnh. Trước định mệnh ấy, người ta đành bó tay, may nhờ rủi chịu. Quan niệm này đã ăn sâu vào não trạng nhiều người, đến nỗi họ thường lấy nó để tự an ủi mình trong những lúc gặp gian truân và an ủi những người kém may mắn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, người Công Giáo chúng ta tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta vào cuộc sống, Ngài đã có ý định và chương trình cho từng người. Đây không phải là một kế hoạch để áp đặt, nhưng là một sứ mạng để mỗi người hoàn thành trong tự do và trách nhiệm, hầu được vui hưởng hạnh phúc. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một minh chứng điển hình.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Vì ý thức sứ mạng cao cả này, Gioan đã can đảm chu toàn để làm chứng cho Ánh Sáng và Sự Thật, dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phần chúng ta, khi cho chúng ta được hiện diện trên cõi đời này, Thiên Chúa đặt hết niềm tin và sự kỳ vọng nơi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn ngắm cuộc đời và cách sống của Gioan để noi theo trong việc thi hành sứ mạng của mình giữa cuộc sống hàng ngày.
- Thứ nhất là tinh thần can đảm: Thánh Gioan Tẩy Giả đã dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến bằng cách chuẩn bị tâm hồn mọi người cho xứng hợp để tin nhận Người. Trong hành trình rao giảng, Gioan đã không ngần ngại, không sợ sệt khi lên tiếng phản đối sự sai trái của kẻ cầm quyền lúc bấy giờ là vua Hêrôđê, dù biết rằng mình phải chuốc lấy những hậu quả khôn lường, thậm chí bị chém đầu.
Là những Gioan Tẩy Giả của thời đại hôm nay, chúng ta có bổn phận góp phần làm cho xã hội được phát triển, cuộc sống con người được thăng tiến, phẩm giá con người được tôn trọng, công bình và bác ái được thể hiện; chúng ta có trách nhiệm cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống, làm giảm bớt sự hận thù, chia rẽ, bạo lực và chà đạp nhân phẩm, ngay trong môi trường mình đang sống.
- Thứ hai là sự khiêm tốn: Khi thi hành sứ mạng, thánh Gioan được mọi người rất kính nể, đến nỗi người ta cứ lầm tưởng Gioan là Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, Gioan không lợi dụng sự tin tưởng của họ để mạo danh. Ngược lại, Gioan khiêm tốn bộc bạch với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì cao trọng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Người”.
Phần chúng ta, vừa can đảm thực thi sứ mạng của người Công Giáo trong cuộc sống, nhưng chúng ta cũng cần phải khiêm tốn nhìn nhận mình là “đầy tớ vô dụng”, được Chúa sai đi làm công việc của Chúa. Nhờ đó, chúng ta vừa tránh được tính khoe khoang tự mãn với những thành quả đạt được, vừa luôn phấn đấu để hoàn thiện con người của mình, hầu chu toàn sứ mạng được tốt hơn.
Lạy Chúa, cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như của mỗi người chúng con đều do bàn tay Chúa can thiệp, đưa dẫn và sai đi. Xin Chúa cho chúng con nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực của Chúa giữa dòng đời, để những người chung quanh nhìn cách sống của chúng con mà tin vào Chúa. Amen.
Hôm nay mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Bài Phúc Âm nói cho biết ngày thứ 8, làm lễ cắt bì và bà con lối xóm bàn định đặt tên cho em. Tên tuổi có gì quan trọng không? William Shakespear hỏi, nếu chúng ta gọi hoa hồng bằng một tên khác, hương hoa hồng có thay đổi không? Có lẽ nhiều người như Shakespear nghĩ rằng nội dung mới quan trọng chứ hình thức hay danh hiệu có gì quan trọng. Ngày nay nhất là tại Âu Mỹ, tên tuổi ít quan trọng và đôi khi chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tên Bill hay tên Donald hay tên gì khác có gì khác biệt đâu. Quả thực, tên tiếng Tây thì rất ít ý nghĩa. Người ta bảo xưa Tây đâu có tên họ đâu. Đến khi nhà nước đòi phải có tên họ, thì đa số chọn ngay nghề nghiệp làm tên họ cho tiện lợi. Baker chỉ vì ông tổ nướng bánh mì, Farmer chỉ vì ông tổ làm nghề nông, Smith chỉ vì ông tổ làm các ổ khóa, Taylor có ông tổ làm thợ may. Muốn may quần áo thì cứ việc đến với ông Taylor là có ngay.
Tên tiếng Việt đôi khi còn có một ý nghĩa nào đó. Tôi nhớ hồi nhỏ có anh bạn mang họ Phạm. Anh ta thắc mắc tại sao lại họ Phạm bởi vì khi mang họ phạm tên càng hay, càng tốt đẹp lại càng xấu. Trung Thành là điều tốt nhưng Phạm Trung Thành là điều xấu rồi. Phạm chỉ có phạm tội trọng là nổi tiếng thôi …
Tên trong Thánh Kinh thường mang nhiều ý nghĩa hơn. Chúa nhấn mạnh con của ông Zacaria và bà Elizabeth phải được gọi là Gioan vì một lý do tốt lành dù điều này không đúng theo truyền thống gia đình, dù trong họ hàng chẳng có ai lấy tên Gioan đi nữa. “Gioan,”theo tiếng Do Thái Yohanan (hay y’hohanan), có nghĩa là “Đức Chúa khoan dung”“Thiên Chúa thương xót.”Gioan Tẩy Giả là Tiên Tri cuối cùng của Cựu Ước và theo một nghĩa ông tóm tắt trong mình mọi ơn lành Chúa dành cho dân riêng Do Thái. Mọi sự Chúa làm trong Cựu Ước hướng về Người mà Gioan làm tiền hô là Đức Giêsu. Gioan được thụ thai cách lạ và sinh ra là bước cuối cùng tiên báo Đức Kitô trong việc sửa dọn cho sứ mạng Cứu thế của Đức Kitô. Gioan với ý nghĩa cái tên là Chúa xót thương để loan báo Đấng Messia quả là hợp lý. Con trẻ Gioan là một biểu lộ lòng Chúa thương xót, cách riêng cho ông bà Zacharia và Elizabeth, vì Chúa đã cất đi sự tủi nhục cho người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Ngay Việt Nam cũng có câu: “Cây khô không có lộc – Người độc không có con”hay”Cây khô không có trái – gái độc không có con.”Gioan xuất hiện để làm tiền hô dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến với dân Ngài, một niềm vui mà đã bao ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chẳng hồ nghi, những người có mặt bữa đó đều biết nghĩa chữ Gioan hay Yohanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Tuy nhiên thực tế, họ không nhìn ra lòng Chúa thương xót trong biến cố nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ bị ràng buộc bởi những suy nghĩ trần tục, của các thói đời, của tập quán cổ xưa: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.
Chúng ta có nhìn ra lòng Chúa xót thương trong thực tại của cuộc sống không? Một niềm vui nho nhỏ, một chuyện buồn vô lý nhưng Chúa chất vào đấy nhiều ý nghĩa của lòng Chúa xót thương. Lạy Chúa xin giúp con nhìn ra lòng Chúa xót thương trong biến cố nho nhỏ của đời con hôm nay.
Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc đà. Một hình ảnh nổi bật được nhà điêu khắc Rôbin tạc về Gioan là vị Tiền Hô! Một người đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ: xông pha làm chấn động như một lực sĩ vô địch chạy nước rút. Một hình ảnh cường tráng, nhưng dịu dàng. Một đời sống ngắn ngủi, vì bạo lực đã kết thúc đời Ngài. Nhưng Ngài coi bình thường, một đời sống không khoan nhượng!
Đàng khác Ngài rất khiêm nhường, cảm thương mọi người, được kính trọng đồng thời bị ghét bỏ! người ta không lạ gì khi nghe Ngài tuyên bố: “Tôi không đáng cởi dép cho Người!”
Gioan hẳn đã biết Đức Giêsu, người anh em bà con mình, là Thiên Chúa là tổ phụ Abraham, Isaác và Israel, mà Ngài được gặp hằng ngày trong kinh nguyện và trong lời rao giảng? Gioan không phải là Thánh tử đạo (Người ta không xử tử ông vì đức tin), Ngài không phải là chứng nhân của Thiên Chúa, chỉ là tiếng kêu trong Samạc...
Vì đó là người nhập cuộc hành trình trên con đường trong Samạc.
Con người sống ngoại lệ.
Từ rất sớm, Gioan phải kham khổ, vì do sinh ra khác thường, bởi cha mẹ già cả, mang một tên không theo dòng họ. Ông bố bị câm, được nói như trước. Tất cả những thứ đó đè trên vai đứa trẻ, đứa thanh niên. Tiểu sử đó đã lan ra khắp xứ ngay sau khi đứa trẻ ra đời, nó phải chịu cái nhìn tò mò của mọi người, của bạn bè, chắc chắn nó đã chế nhạo ông bạn ngây thơ của chúng. Câu cuối của đoạn Tin Mừng này nói lên sự đau khổ lớn lao của Gioan: “Cậu bé càng lớn lên tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel!”
Trong hoang địa...
Đó là một người được chiếu cố! không phải để trở nên ngôn sứ, không phải do Thiên Chúa lạm dụng, nhưng vì đồng hương từ chối cậu, cậu không được quyền sống như người khác! Họ muốn cậu phải trung thành với ơn gọi mình, họ không biết thánh ý Thiên Chúa, nhưng đẩy cậu đi vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa....
‘‘Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.”(Lc 1, 57-58).
Ngày sinh nhật Gioan Tẩy Giả là một ngày vô cùng trọng đại, vui mừng và hạnh phúc. Bởi vì bà Êlisabeth đã cao niên mà vẫn không có lấy một mụn con. Nay Thiên Chúa đã cất nỗi nhục của bà, cho bà sinh một bé trai kháu khỉnh. Gia đình bà vui, cả làng đều vui và đến chia vui niềm hạnh phúc vì Chúa đã quá thương bà như vậy. Vào lúc mà người ta không thể sinh con, thì Thiên Chúa lại tặng ban cho bà người con ấy.
Sinh nhật của trẻ Gioan thật nhiệm lạ, làm cho mọi người đều bỡ ngỡ. Ngay từ lúc em đầu thai trong lòng mẹ đã gây “chấn động”nơi gia đình, ông Dacaria không tin vợ có thai thì đã bị câm. Ra như ông bị Chúa khóa miệng, không thể nghe và nói, không hỏi han bàn luận. Và như một thời gian tĩnh tâm, cho đến ngày đặc biệt con trẻ được đặt tên lại xảy ra những biến cố lạ lùng. Theo tục lệ thì phải lấy tên cha mà đặt cho con, nhưng ở đây bà mẹ đòi phải đặt tên cháu là “Gioan”, nghĩa là “Thiên Chúa thi ân”, mặc dù trong họ hàng của bà không có ai tên như vậy. Ý Chúa kỳ diệu thay! khi làm hiệu hỏi người cha đang bị câm, ông viết ý mình lên tấm bảng nhỏ: “Tên cháu là Gioan”. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ vì ngay lúc ấy, lưỡi ông lại mở ra, ông nói được và cứ thế chúc tụng Thiên Chúa, chứ không oán trách Chúa đã “khóa”miệng ông trong thời gian qua.
Tất cả những người đã chứng kiến mọi sự nơi gia đình Dacaria đều từ vui mừng, bỡ ngỡ, đến kinh sợ, bởi vì chẳng có ai trên thế gian có thể thực hiện những điều kỳ diệu cho ông bà già này, ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Sự việc ấy được đồn ra khắp miền Giuđê. Ai nghe cũng phải suy nghĩ và tự hỏi đứa trẻ rồi sẽ ra sao? Và quả thật, có “bàn tay Thiên Chúa”phù hộ em. Trong bài đọc I ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.”(Is 49,1b). Sự lạ lùng khi có mặt Gioan Tẩy Giả trên đời mang đến cho cuộc đời ông sứ mạng cao cả và đặc biệt, là dọn đường và khiêm nhường làm chứng cho Đấng Cứu thế: “Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Israel chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gioan đã tuyên bố: ‘Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho người’.”(Cv 13,24-25). Ông như là vị ngôn sứ giao thời cho Cựu Ước và Tân Ước, rao giảng bằng đời sống, bằng lời và bằng chính mạng sống của mình.
Lạy Chúa! Thánh Gioan đã thực hiện sứ mệnh tiền hô kèm theo những dấu lạ, khiến mọi người phải bỡ ngỡ thán phục. Đời con chẳng có những dấu lạ như thánh Gioan. Cũng như bao người khác, Chúa muốn con trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. Xin cho con trở thành dấu chỉ để người đời nhận biết Chúa, qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân và khiêm nhường phục vụ đến quên mình. Amen.
Ngay từ trong lòng mẹ, Ngài đã được đặc ân riêng biệt. Ngài mặc áo lông lạc đà. Một hình ảnh nổi bật được nhà điêu khắc Rôbin tạc về Gioan là vị Tiền Hô! Một người đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ: xông pha làm chấn động như một lực sĩ vô địch chạy nước rút. Một hình ảnh cường tráng, nhưng dịu dàng. Một đời sống ngắn ngủi, vì bạo lực đã kết thúc đời Ngài. Nhưng Ngài coi bình thường, một đời sống không khoan nhượng!
Đàng khác Ngài rất khiêm nhường, cảm thương mọi người, được kính trọng đồng thời bị ghét bỏ! người ta không lạ gì khi nghe Ngài tuyên bố: “Tôi không đáng cởi dép cho Người!”
Gioan hẳn đã biết Đức Giê-su, người anh em bà con mình, là Thiên Chúa là tổ phụ Abraham, Isaác và Israel, mà Ngài được gặp hằng ngày trong kinh nguyện và trong lời rao giảng? Gioan không phải là Thánh tử đạo (Người ta không xử tử ông vì đức tin), Ngài không phải là chứng nhân của Thiên Chúa, chỉ là tiếng kêu trong Samạc…
Vì đó là người nhập cuộc hành trình trên con đường trong Sa mạc.
Con người sống ngoại lệ.
Từ rất sớm, Gioan phải kham khổ, vì do sinh ra khác thường, bởi cha mẹ già cả, mang một tên không theo dòng họ. Ông bố bị câm, được nói như trước. Tất cả những thứ đó đè trên vai đứa trẻ, đứa thanh niên. Tiểu sử đó đã lan ra khắp xứ ngay sau khi đứa trẻ ra đời, nó phải chịu cái nhìn tò mò của mọi người, của bạn bè, chắc chắn nó đã chế nhạo ông bạn ngây thơ của chúng. Câu cuối của đoạn Tin Mừng này nói lên sự đau khổ lớn lao của Gioan: “Cậu bé càng lớn lên tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel!”
Trong hoang địa…
Đó là một người được chiếu cố! không phải để trở nên ngôn sứ, không phải do Thiên Chúa lạm dụng, nhưng vì đồng hương từ chối cậu, cậu không được quyền sống như người khác! Họ muốn cậu phải trung thành với ơn gọi mình, họ không biết thánh ý Thiên Chúa, nhưng đẩy cậu đi vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng dõi theo ơn gọi của thánh Gioan Tẩy giả. Đó là một ơn gọi huyền nhiệm, tràn đầy tình thương của Chúa.
Theo truyền thống Hội Thánh, thánh Gioan sinh khoảng năm 6 trước Công nguyên, qua đời khoảng năm 36 trong thời Chúa Giêsu bắt đầu hoạt động công khai.
Theo Tân Ước, trước khi thực hiện vai trò là người chuẩn bị tâm hồn con người đón nhận Đấng Cứu Thế, thánh Gioan có một thời gian tĩnh tâm sống kết hợp với Chúa trong thinh lặng, trong không gian hoàn toàn chìm lắng của hoang địa.
Thánh nhân đêm ngày sốt sắng cầu nguyện cho sứ mạng cao cả của mình bằng cách sống khổ hạnh, chay tịnh nghiêm ngặt. Thời gian này, thánh nhân chỉ mặc áo lông thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng.
Thánh Gioan là vị tiên tri cuối cùng của Cựu ước, nhưng lại là tiên tri lớn. Đúng hơn, thánh Gioan là vị tiên tri chuyển giao giữa Cựu và Tân ước. Thánh Gioan xuất hiện công khai vào giai đoạn cuối của cả một hành trình Cựu Ước dài, như tiếng kêu trong sa mạc, giữa lúc nhân loại ngóng đợi Đấng Cứu Thế, đòi mọi người phải thống hối để bước vào chương trình cứu chuộc mà Đấng Cứu Thế sẽ thực hiện.
Sau thời gian tĩnh lặng trong ơn nghĩa Chúa, theo ý định thánh thiện và quyền năng của Chúa, thánh Gioan trở thành nhà giảng đạo du mục lừng danh kêu gọi lòng người ăn năn sám hối.
Thánh Gioan dẫn đầu phong trào chứng minh lòng sám hối bằng việc thực hành phép rửa tẩy giả tại sông Jordan. Nhờ sự khiêm nhường, lời rao giảng nghiêm túc, và phép rửa lôi cuốn, đặc biệt với ơn Chúa phù trợ, thánh Gioan thu hút một số lượng môn đệ lớn nhằm tiên báo cho sứ vụ hoạt động của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà loài người mong đợi, sẽ xuất hiện trong nay mai.
Chính thánh Gioan, qua thánh ý quan phòng của Thiên Chúa, đã thực hiện nghi thức tẩy giả cho Chúa Giêsu trên dòng sông Jordan. Bằng hình thức chấp nhận dìm toàn thân xuống dòng nước, Chúa thiết lập bí tích rửa tội, thánh hóa nước thánh tẩy và nêu gương ăn năn sám hối cho mọi con người.
Chính Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện uy nghi sau khi dòng nước thánh tẩy đã được Chúa Giêsu thánh hóa: Chúa Cha phán dạy để xác nhận Chúa Giêsu: “Này là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”(Mc 9, 7). Chúa Thánh Thần xuất hiện bên trên Chúa Giêsu bằng hình tượng chim bồ câu.
Thánh Gioan hoàn tất sứ mạng bằng cái chết oan nghiệt ngay khi Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân đợi trông, bắt đầu sứ mạng cứu thế của Chúa.
Huyền nhiệm và tình thương của Chúa thể hiện trong chính ơn gọi mà thánh Gioan đảm trách, dễ dàng nhận thấy qua từng giai đoạn của cuộc đời ngài: được thiên thần truyền tin để làm người, sinh ra bởi người mẹ và người cha già nua, được Chúa sai dọn đường cho Đấng Cứu Thế xuất hiện giữa trần gian và ngự trị tâm hồn con người, dọn đường tâm hồn con người ăn năn tội chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế.
Chúa sai thánh Gioan. Ngài lên đường bằng một đời vâng phục đến giây phút hoàn tất hành trình trần thế, nhằm chứng minh Tin Mừng sự sống của Chúa Kitô.
Từ ngàn xưa, Chúa đã chọn các tiên tri. Việc tuyển chọn không bao giờ dừng lại. Chúa tiếp tục chọn gọi mỗi tín hữu hôm nay làm tiên tri, nhân danh Chúa loan tin mừng cứu độ, tin mừng tình yêu, cũng là tin mừng sự sống cho muôn người.
Noi gương các tiên tri, nhất là gương thánh Gioan, đồng thời ý thức cao bổn phận ngôn sứ đã lãnh nhận trong ngày rửa tội, từng người, tùy trách vụ, quyền hạn, ảnh hưởng, hoàn cảnh, chức bậc... của mình mà hăng say làm chứng cho Chúa. Nếu cần, dám sống, dám chết cho Tin Mừng của Chúa, cho phần rỗi của anh chị em.
Ra đi dấn thân cho Tin Mừng không hề dễ, nhưng đầy bất trắc, chông gai, thách đố. Hành trang người tông đồ, ngoài gương đổ máu của các tiên tri, nhất là cái chết oan nghiệt của thánh Gioan, ta cần ghi sâu lời Chúa Giêsu: "Anh em hãy ra đi, Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói" (Lc 10, 3), mà nung nấu sức mạnh, sự kiên cường, nghị lực, quyết tâm để Chúa lớn lên trong linh hồn anh chị em.
Người tông đồ phải luôn hiểu: càng khó khăn, càng tín thác vào Chúa. Chúa từng lưu ý: "Không có Thầy, các con không làm gì được" (Ga 15, 5). Hãy ngã mình vào tay Chúa. Phó thác không bao giờ ngơi vào quyền năng và ân sủng của Chúa.
Thánh Gioan bắt đầu ơn gọi với hình ảnh Chúa Cứu Thế. Ngài kết thúc sứ mạng trong mong muốn: Chúa phải lớn lên, còn chính ngài phải được nhỏ đi (x.Ga 3, 30).
Cũng vậy, các tín hữu hôm nay, những môn đệ mới của Chúa phải luôn thâm tín: Chính Chúa là động lực thúc đẩy ra đi. Cũng chính Chúa là cùng đích để quay về.
Nếu Gioan Tiền Hô là người giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Israel, thì chính Chúa Giêsu cũng là người nhận xét về Gioan một cách tường tận và sâu xa nhất. Tin Mừng Matthêô đã thuật lại những lời của Chúa Giêsu như sau: “Quả thật, tôi bảo các ngươi, trong hàng những kẻ sinh bởi người nữ, chưa từng xuất thân một người nào lớn hơn Gioan Tẩy Giả…” (Mt 11,7-11).
Thế nhưng Gioan Tẩy Giả là ai và cuộc đời của ngài mang theo sứ điệp gì quan trọng để đến nỗi Phụng vụ của Hội Thánh đã mừng ngày Sinh Nhật của Ngài trong bậc Lễ Trọng, cao hơn cả ngày lễ Sinh Nhật của Đức Mẹ, chỉ là bậc Lễ Kính!
Qua các chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta biết Gioan Tẩy Giả là con của hai vợ chồng Êlizabet và Giacaria, có họ hàng với Đức Mẹ Maria nhưng định cư ở miền Nam tức xứ Giuđêa của nước Do Thái. Riêng trích đoạn Tin Mừng Luca mà chúng ta vừa nghe đã mô tả khá chi tiết về ngày sinh của ngài: Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó.
Nhưng, ngày sinh nhật của Gioan không phải “thường tình” như bao ngày sinh nhật khác, mà là một “sinh nhật được báo trước”, “sinh nhật tiền định”, như Tin Mừng Luca tường thuật lời của sứ thần báo cho ông Giacaria trong một cuộc tế tự nơi đền thờ: “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan…” (Lc 1, 13).
Quả thật, biến cố được “khải thị” trong đền thờ, ông Giacaria bị câm, rồi bà Êlisabet mang thai khi tuổi đã cao, với cái tên Gioan lạ hoắc, cùng với việc miệng lưỡi ông Gacaria được mở ra dịp lễ Cắt bì…, tất cả những “sự kiện” trên đã bao trùm lên cuộc đời của Gioan cả một “mầu nhiệm vĩ đại” đã khiến mọi người vùng sơn cước Giuđêa kinh ngạc: Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”.
Qua một vài gợi ý của Lời Chúa liên quan đến ngày sinh của Gioan Tẩy Giả, chắc chắn Chúa muốn nói với chúng ta hay với cả nhân loại rất nhiều điều. Ở đây, xin đan cử hai điều:
- Thứ nhất: được sinh ra, được làm người đó chính là một “ân ban”, một sự biểu lộ tình thương của Thiên Chúa. Tên Gioan trong tiếng Do Thái có nghĩa “Thiên Chúa ban ơn”, “Thiên Chúa biểu lộ tình thương” hay “Thiên Chúa viếng thăm”. Vâng, không ai, không tạo vật nào có mặt trong đời nầy một cách ngẫu nhiên, tình cờ. Vì thế, mỗi sự sống, mỗi cuộc đời đều là “ân ban lạ lùng” của Thiên Chúa và đã được Thiên Chúa “tiền định” ngay tự thuở đời đời, như lời của ngôn sứ Giêrêmia (Bđ 1 Lễ Vọng): “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1,4); hay như lời của ngôn sứ Isaia trong Bài đọc 1 vừa được công bố: ‘‘Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, đã nhớ đến tôi khi tôi còn ở trong bụng mẹ’’. Và đứng trước biến cố nhân sinh đặc biệt nầy, Lời Chúa nhấn mạnh khía cạnh hân hoan vui mừng không chỉ của một người, một gia đình mà rất nhiều người: “Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” (Lc 1,14). Lý do đơn giản: “Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Thiên Chúa” (Lc 1,15).
Đứng trước ý nghĩa nầy của Lời Chúa, chúng ta hãy cầu nguyện cho bao thai nhi đã chết đi khi chưa kịp nhìn thấy ánh sáng mặt trời, cho bao nhiêu em bé, khi cất tiếng khóc chào đời đã không được đón nhận bằng niềm hoan hỷ vui mừng nhưng đã bị bỏ rơi nơi đầu đường góc phố hay trong những viện cô nhi xa lạ lạc loài. Chúng ta không quên cầu nguyện cho bao nhiêu thân phận con người, đáng lẽ được sống cái ý nghĩa cao cả của phận người, nhưng rồi do bao nhiêu áp lực và hoàn cảnh đa đoan, lại biến cuộc đời thành tăm tối, bất hạnh và đôi khi bị vất bỏ đi không chút xót thương. Đặc biệt, trong cuộc chiến tranh tàn khốc đang diễn ra từng ngày ở Ukraina và nhiều nơi trên thế giới, tệ nạn buôn bán trẻ em, những cuộc di cư đầy bấp bênh và liều lĩnh của những người nghèo, những cuộc đàn áp sắc tộc, tôn giáo… có biết bao mạng sống bị tàn sát, hủy hoại, chà đạp…
- Thứ hai: mỗi một cuộc đời là một ơn gọi và gắn liền với một sứ mệnh cao cả:
Người Mỹ có câu ngạn ngữ rằng: “Mỗi một em bé được sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Vâng, mỗi một cuộc đời, một sự sống đều được Thiên Chúa trao ban một sứ mệnh, một ơn gọi. Điều quan trọng không phải là chúng ta làm lớn hay nhỏ, làm người có chức quyền cao trọng hay bé nhỏ thấp hèn; mà chính là chúng ta trung thành và chu tất trách nhiệm làm người cách hoàn hảo trong chính thân phận hiện tại của mình.
Với lễ mừng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay, sứ điệp phụng vụ còn muốn khơi gợi lên trong chúng ta tâm tình yêu mến và nhiệt tâm nhiều hơn với sứ mệnh ngôn sứ theo con đường của Thánh Gioan Tẩy Giả; đó là con đường dấn thân can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu, cho chân lý cứu rỗi, cho sự thật của lề luật Thiên Chúa, dù phải trả giá đắt như Thánh Gioan, hy sinh chính mạng sống mình để Chúa được lớn lên như chính ngài đã xác quyết: “Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,29-30).
Thật vậy, nếu cuộc đời đã là một hồng ân vĩ đại, thì cuộc đời linh mục lại là một hồng ân cao cả; và một trong ba sứ vụ gắn liền với thánh chức linh mục đó chính là “ngôn sứ’’. Vâng, mỗi một linh mục đều là một “tiền hô” cho Chúa; hay nói theo ngôn ngữ đầy hình tượng của Đức cố Hồng y Roger Echegaray: “là một con lừa cõng Chúa trên lưng”.
Hôm nay, ở giữa chúng ta, cũng đang có một “con lừa” như thế, sẵn sàng chấp nhận trở thành dụng cụ để phục vụ Chúa Kitô và Hội Thánh; và chắc chắn, sẵn sàng sống sứ mệnh ngôn sứ cũng là biết từng ngày khiêm hạ, lu mờ đi, nhỏ lại cái tôi, để Chúa được lớn lên trong anh em, để Tin Mừng của Chúa được vang lên trong mọi ngỏ ngách đời thường cuộc sống; đó là sống và ứng xử cách khiêm hạ như sách Công Vụ Tông đồ làm chứng về Gioan Tẩy Giả nơi Bài đọc 2: “Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người” (Cv 13,26); nhưng cũng là cuộc đời đầy ắp niềm vui sâu lắng của người sẵn sàng để Chúa lớn lên: “niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,29-30).
Xin Thánh Gioan Tẩy Giả cầu thay nguyện giúp cho toàn thể cộng đoàn, đặc biệt, cho cha Tân Chánh xứ kiêm Hạt trưởng Giuse được luôn trở thành những “tiền hô” của Chúa, của Tin Mừng trong giáo xứ Quảng Ngãi; hay lớn hơn, rộng hơn nữa, trong vùng đất “Núi Ấn Sông Trà” mà số những người biết Chúa và tin Chúa vẫn còn quá ít oi, thiểu số. Amen.
Phải thú thật là Thiên Chúa của chúng ta hay làm những chuyện... “ngược đời”. Cứ sự thường thì phải thế này hoặc thế kia, nhưng Chúa lại chọn một cách khác, hoàn toàn theo ý định nhiệm màu của Người. Người đảo lộn mọi toan tính lập trình cho dẫu hợp lý và quy mô đến đâu đi nữa của trần gian. Như trong một trò chơi cút bắt, Người vuột thoát khỏi vòng vây của con người chỉ những mong chộp lấy Người để huy động”Người theo ý muốn ích kỷ của mình.
Chúng ta cứ xem cách thức Thiên Chúa chọn Đức Ma-ri-a để làm thân mẫu của Đức Giêsu Nhập Thể. Chỉ là một thôn nữ nghèo, vậy thôi! Đến nỗi Đức Ma-ri-a phải thốt lên: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...”Sao lại không chọn một mệnh phụ, một bà hoàng, một phu nhân tổng thống, một nữ viện sĩ Hàn Lâm, hay một siêu người mẫu? Vậy là tiêu chuẩn của Chúa trổi vượt mọi lượng giá tầm thường, thấp lè tè sát đất của con người.
Lại đến chuyện vợ chồng Da-ca-ri-a và Ê-li-da-bét. Dẫu ông cụ là một tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, dẫu bà cụ cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron (x. Lc 1, 5), nghĩa là cũng môn đăng hộ đối đấy chứ, nhưng đã đáng là gì đâu giữa một dân tộc Ít-ra-en chẳng thiếu gì kẻ vênh vang con ông cháu cha, em vua chị chúa? Lại còn thêm hiếm hoi son sẻ, gần đất xa trời rồi mà chẳng được một mụn con nối dõi tông đường! Vậy mà Thiên Chúa lại can thiệp để một Gioan Tẩy Giả vĩ đại sẽ được chào đời, “sẽ đi trước mặt Chúa,...để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. (Lc 1, 17) Đến phiên bà cụ Ê-li-da-bét tự nhủ lòng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời”(Lc 1, 25).
Rồi sau này, tới phiên Đức Giêsu, Người cũng sẽ có đường lối tuyển chọn “ngược đời”y như thế. Hóa ra Thiên Chúa chỉ muốn “chấm”những con người hiền lành, khiêm tốn, có tấm lòng chất phác mộc mạc, có một nỗi khao khát cháy bỏng, một ngong ngóng chờ đợi khôn nguôi hướng về Đấng Mê-si-a.
Trước sự kiện em bé Gioan Tẩy Giả chào đời, rồi ông Da-ca-ria mở miệng nói được mà chúc tụng Thiên Chúa, hàng xóm láng giềng và dân chúng khắp miền núi Giu-đê, ai cũng phải “kinh sợ”, “để tâm suy nghĩ và tự hỏi: Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”Còn tác giả sách Tin Mừng Lu-ca thì kết gọn một câu: “Quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em!”(Lc 1, 68)
Đối với chúng ta hôm nay thì sao nhỉ? Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả chung chung hời hợt như vậy rồi xong chuyện hay sao? Giáo Hội muốn gửi cho chúng ta thông điệp nào đây, khi mà một năm Phụng Vụ chỉ có 3 Lễ mừng Sinh Nhật của 3 người?
Với Đức Giêsu thì đương nhiên phải mừng trọng thể tưng bừng bằng cả một mùa Noel rồi.
Với Đức Ma-ri-a vào ngày 8.9 hằng năm cũng không lạ.
Nhưng với Gioan Tẩy Giả thì đáng cho chúng ta lắng lòng suy niệm.
Trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ xin đề nghị dừng lại ở xác quyết “Có bàn tay Chúa phù hộ”để tự mỗi người tự đặt ra cho mình một câu hỏi: “Ấy vậy, bản thân tôi, có bàn tay Chúa phù hộ đời tôi hay không?”Hỏi là đã có sẵn trả lời được rồi đó...
Lại một câu hỏi khác không thể không được đặt ra tiếp: “Về phần mình, chúng ta sẽ đáp trả như thế nào đây khi đã xác quyết mình luôn được bàn tay Chúa hộ phù?”Cần phải nói ngay rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ có ý đồ đầu tư trước mắt để sẽ trục lợi về lâu về dài, một vốn mà bốn lời. Tất cả chỉ là do lòng yêu thương: Người tuyển chọn, rồi không ngừng hộ phù gìn giữ để chúng ta cứ thế mà tăng trưởng, đi cho đúng tuyến, sống cho đúng đạo.
Mọi sự đã rõ, được sinh ra và lớn lên trong bàn tay hộ phù của Thiên Chúa, chúng ta cứ nghiệm xem: sau này Gioan Tẩy Giả sống vai trò Ngôn Sứ và chết vì Chân Lý như thế nào, để rồi chính Đức Giêsu đã phải khẳng định về ông anh họ của mình là: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan...”(x. Lc 7, 28).
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn”của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán bằng những cơn mưa Ơn Cứu Độ.
Mà thôi, khoan hãy nói đến chuyện lớn lao cả thể mà chỉ cần nghiệm sinh về sự Quan Phòng của Thiên Chúa đối với những con người bé nhỏ nghèo hèn ngay trước mắt chúng ta đây cũng đã quá đủ.
Đã nhiều lần, ngồi trước computer, nhận về cho GOSPELNET những E-Mails từ khắp mọi nơi muốn chia sẻ trợ giúp bằng cả tấm lòng, scan những tấm ảnh chụp những em bé bị tim bẩm sinh, những em bé bị bại liệt, những học sinh nghèo ở nông thôn... và gõ lên bàn phím những giòng chữ thông tin về những thai nhi vừa được giành lại cho sự sống..., tự nhiên thấy thấm thía vô cùng, rằng: “Có bàn tay Chúa phù hộ!”
Thằng nhỏ này rồi sẽ ra sao, vì bàn tay Thiên Chúa ở cùng nó.
Bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, nghĩa là Thiên Chúa đã ban nhiều đặc ân cho Gioan:
- Đặc ân thứ nhất, là Thiên Chúa cho Gioan sinh ra bởi một người bà già, bà Elisabeth, mà bà già này lại mắc bệnh từ tuổi thanh xuân, đến nỗi chính ông Giacaria cũng không thể tin được là bà Elisabeth sẽ sinh con, nên ông đã bị Thiên Chúa phạt cho mắc bệnh câm.
- Đặc ân thứ hai: là chính Thiên Chúa đã đặt tên cho Gioan, mà thiên thần Gabriel đã phán với ông Giacaria tại bàn thờ dâng hương trong đền thánh Giêrusalem. Nhưng họ hàng lại nói với bà Elisabeth rằng: trong họ, có ai tên như thế đâu?
- Đặc ân thứ ba: đến khi Gioan sinh ra, đã được khỏi tội tổ tông ba tháng rồi. Vì thánh Ambrosiô giám mục thành Milan đã nói: các thánh khác chỉ được mừng lễ, sau khi đã lập nhiều công phúc ở thế gian mà về trời. Còn thánh Gioan lại được mừng lễ sinh nhật như Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.
Vậy khi ban những đặc ân trên, Thiên Chúa cũng đòi Gioan phải đến đáp bằng cách chu toàn những nhiệm vụ Chúa đã trao phó
1. Nhiệm vụ thứ nhất là tiền hô, là người đi trước, loan báo cho dân chúng biết Chúa cứu thế sắp đến. Mà thực thế mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng nuí Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây da, lương thực là châu chấu nướng, chấm với mật rừng, tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Giodanô, nên hội đồng cộng tọa của người Do thái đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là đấng Kitô không?
Thày tu hành Gioan trả lời: tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ mạng dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Rồi hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: đây là đấng cất tội thiên hạ, người này là con Thiên Chúa (Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ bỏ thày mà theo Chúa Giêsu. Đó là Anrê và Gioan
Hôm nay mừng kính sinh nhật thánh Gioan, Chúa cũng muốn ta trở nên tiền hô cho Chúa: rao giảng Chúa Giêsu cho người khác, đem Chúa Giêsu cho người khác, và đem người khác đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là mục đích đời ta, Chúa Giêsu cũng là mục đích của người khác. Còn tôi chỉ là người môi giới, là phương tiện Chúa dùng, để đem người khác đến với Chúa chứ không phải đem người ta đến với tôi mà quên Chúa, cũng không phải đem người ta đến với tôi mà xa Chúa.
2. Nhiệm vụ thứ hai Chúa cậy nhờ Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho Chúa. Vậy theo Tin mừng thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mạng mạng dọn đàng cho Chúa cứu thế đến: là bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, uốn thẳng đường quanh co, nghĩa là Gioan dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái,
Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn độc, bò quanh co, không thể thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Với những người có lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, dùng việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội lỗi.
Với bọn thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, mà chỉ cần giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm hỗ.
Với quân nhân, Gioan kêu họ đừng hà hiếp bóc lột ai, đừng dọa nạt ai, nhưng phải bằng lòng về số lương của mình.
Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa tỏ lòng khiêm tốn ăn năn để được ơn tha thứ, được thấy ơn cứu độ.
Bởi thế, khi thấy Gioan làm phép rửa, những người biệt phái đã đến hỏi: Nếu không phải là đức Kitô, tại sao ông lại làm phép rửa? Thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy sẽ rửa các ông bằng nước và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, mừng lễ sinh nhật thánh Gioan, Thiên Chúa cũng muốn tôi trở nên những tẩy giả. Vậy những người đến với tôi, tôi có làm cho họ trở nên trong sạch hơn không? Tôi có làm cho họ tới gần Chúa hơn không? Hay tôi lại làm cho họ dơ bẩn hơn, mà không đáng đến gần Chúa.
3. Nhiệm vụ thứ ba, Chúa cậy nhờ Gioan là làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi Gioan nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.
Thánh Augustinô tiến sĩ, giám mục giáo phận Hippon còn thể tư tưởng này: Gioan phải thấp bé đi, là vui lòng chịu Herođê chặt đầu, để bắt chước Chúa Giêsu được lớn lên, là bị treo trên thánh giá. Còn tôi, tôi có sẵn sàng chịu nhục mạ để Chúa được vinh danh không? Tôi có sẵn sàng chịu tử đạo thiêng liêng bằng thiếu thốn về thể xác, bị hiểu lầm về phương diện tinh thần, để bắt chước Chúa đã được lớn lên bằng treo trên thập giá không?
Kết
Thằng nhỏ này sẽ ra thế nào, vì có bàn tay Thiên Chúa ở với nó. Lạy Chúa bàn tay Chúa đã ban đặc ân cho thánh Gioan tiền hô, thì bàn tay Chúa cũng đã nâng đỡ đời sống hy sinh của Gioan. Xin bàn tay Chúa cũng nâng đỡ chúng con như thế, vì xác thịt chúng con yếu đuối nặng nề.
Ngoại trừ Đức Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, chỉ còn có thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh được mừng vào ngày sinh nhật thật của mình, ngày sinh ra trong trần thế; các đấng thánh khác đều mừng vào ngày sinh nhật trên trời, tức là ngày chết. Lễ này đã có từ thế kỷ thứ V và đặt vào ngày 24.6, có nghĩa là 6 tháng trước ngày sinh của Chúa Cứu Thế.
Theo tường trình của Phúc Âm thánh Luca, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, khi Trinh Nữ Mẹ Chúa Cứu Thế chào bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan. Sự kiện đặc biệt ở ngày sinh ra hướng ý cho chúng ta thấy ý nghĩa của Gioan trong lịch sử cứu độ.
So với Tân Ước, Gioan vẫn còn thuộc về Cựu Ước; ngài được Thiên chúa gọi để chuẩn bị dân chúng đón Đức Giêsu đến bằng các bài giảng nói về nước Thiên Chúa và lời kêu gọi sám hối. Chính Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa thống hối từ tay ông ta và những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu cũng xuất thân từ đám môn đệ của Gioan. Chính Gioan tự giới thiệu mình là tiếng kêu trong hoang mạc, người Tiền Hô cho Đấng vĩ đại đang đến. Còn Đức Giêsu gọi ông là kẻ lớn nhất do người nữ sinh ra trong thời Cựu Ước và là ngôn sứ Ê-li-a đã trở lại (Mt 11,8.11.14). (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Tường thuật Gioan Tẩy giả sinh ra nhấn mạnh đặc biệt vào việc đặt tên:
- Đây là một cái tên đặc biệt (c 61: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”)
- Nhưng lại được cả bà Êlisabét và ông Dacaria nhất trí mặc dù trước đó Dacaria bị câm không nói chuyện được với vợ.
- Tên Gioan có nghĩa là “Chúa thương”và là tên do thiên thần bảo phải đặt (Lc 1,13).
Như thế, Gioan tẩy giả là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ trong bụng mẹ, để trở thành ngôn sứ loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Khi cho một người sinh ra, Thiên Chúa đã có sẵn một sứ mạng dành cho người đó. Sứ mạng của Gioan là làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và Gioan đã làm tròn sứ mạng đó, cho nên dù chết sớm, Gioan cũng hoàn thành tốt đẹp ý nghĩa và sứ mạng của đời mình.
Còn tôi, sứ mạng của tôi là gì? Sống bao nhiêu năm nay, tôi có nghĩ đến đều đó không? Có quan tâm thi hành sứ mạng ấy không? Nhà thơ Nguyễn công Trứ viết: “Đã mang tiếng sống trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Tôi không màng đến “danh”, chỉ muốn chu toàn sứ mạng Chúa giao cho đời mình.
2. Nhà kia có ba cậu con trai. Một cậu nổi tiếng là ‘phá gia chi tử’, tiêu xài phung phí, phá của. Cậu khác quanh năm làm ăn quần quật, không dám tiêu xài một xu nào. Cậu thứ ba tuy không phá của nhưng cũng chẳng chịu làm gì hết. Một ngày nọ ba cậu đều hấp hối. Trước khi chết ba cậu lần lượt nói rõ lý do tại sao mình sắp chết. Cậu ‘phá của’ nói rằng nhà này (ý nói cha mẹ cậu) kiếp trước nợ nần tôi nên kiếp này tôi đầu thai vô để đòi nợ. Nay đòi xong, tôi ra đi. Cậu ‘làm quần quật’ nói rằng kiếp trước tôi mắc nợ nhà này, nay đầu thai để trả nợ, đã trả xong nay tôi ra đi. Còn cậu cuối cùng nói rằng tôi chẳng dính dáng nợ nần gì với nhà này. Tôi đầu thai vô đây để làm nhân chứng. Nay chứng kiến hai đứa kia đã đòi xong nợ, đã trả hết nợ, vậy tôi ra đi.
Chúng ta không tin vào quan niệm đầu thai để đi vào một định mệnh nghiệt ngã, nhưng chúng ta tin vào một sứ mệnh riêng, có tính cách mời gọi và thôi thúc, mà Chúa gửi gắm cho mỗi người chúng ta.
3. “Khi con trẻ được 8 ngày, họ đến làm phép cắt bì (cho cậu)”: cắt bì là dấu chỉ từ nay đứa trẻ thuộc về Chúa và dân của Chúa. Hồi còn bé, mỗi người chúng ta cũng được lãnh nhận Phép Rửa và được dâng hiến cho Chúa, được thuộc về Giáo Hội. Hôm nay suy gẫm về phép cắt bì của Thánh Gioan, chúng ta hãy nhớ lại ngày mình được dâng hiến cho Chúa và Giáo Hội. Ngày ấy cha mẹ dâng hiến ta, hôm nay chúng ta hãy tự dâng hiến mình một cách ý thức và đầy lòng yêu mến.
4. Cô bé nói với anh trai: nhân ngày sinh nhật ba, em se tặng ba đôi dép. Người anh nói: “Nhưng em lấy tiền đâu mà mua?”Cô bé tròn mắt nhìn anh nói: “Ba cho em tiền mà!”Người anh lặng thinh nghĩ: ba cậu muốn có quà tặng trong ngày sinh nhật. Và vì yêu con gái, ông muốn nhận quà tặng từ tay đứa con yêu quí.
Chúng ta cũng chẳng có gì là của riêng mình để dâng cho Chúa. (Góp nhặt)
5. “Phải đặt tên cháu là Gioan”(Lc 1,60b)
Khi đặt tên cho con mình, bà Êlisabét và ông Dacaria đều muốn “đặt tên con là Gioan”. Cả hai đã chọn cho con một cái tên thật lạ trong họ hàng. Việc này cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa. Gia đình Dacaria đã đón nhận sự can thiệp này trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Chúa cũng can thiệp vào đời sống của tôi. Nhưng tôi đã không nhận ra ý Ngài; hoặc tôi đã gạt Chúa ra khỏi đời mình chỉ vì ý Ngài ngược lại ý của tôi và đảo lộn cả cuộc sống của tôi.
Lạy Chúa, xin cho con lòng tin vững mạnh, để con có thể nhận ra sự can thiệp của Chúa trong đời con (Hosanna)
6. “Ngay lúc ấy, miệng ông mở ra, ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa”: Ông Dacaria đã bị phạt câm hơn 9 tháng. Hôm nay ông mở miệng, và lời đầu tiên của ông là chúc tụng Thiên Chúa. Ông chúc tụng vì ông hết câm, vì ông được có con, nhưng cũng còn vì Chúa đã sửa dạy ông, nhờ đó hôm nay ông không còn hồ nghi Chúa nữa nhưng vững tin hơn vào quyền năng Thiên Chúa.
Noi gương ông Dacaria, con cũng dâng lời chúc tụng Chúa vì những sự việc và biến cố Chúa dùng để sửa dạy con.
A. Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ; trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ…đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Nhưng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- “Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy”.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ”(Mt 11,11)
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo ấy mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày tái sinh của chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài góm tọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin”có thuật lại câu chuyện một cụ già An Đo như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “ Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
C. Gioan còn có tước hiệu là Tẩy Giả. Ngài đã kêu gọi mọi người sám hối và làm phép rửa sám hối cho những kẻ thật lòng ăn năn.
Đến phiên chúng ta cũng vậy, không thể khác được. Cũng không cần chúng ta phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan Tẩy Giả, nhưng với tư cách là Tẩy Giả, là “những chuyên gia tẩy sạch vết bẩn”của ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để góp một chút bột giặt tình yêu và tha thứ mà làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ rác rưởi dầu mỡ của vụ lợi ích kỷ, của hưởng thụ sa hoa, của ghen tức hận thù, của dối trá lưu manh... Và như thế chính là giúp mở đường dọn lối cho Chúa đến với những mảnh hồn đang hạn hán đang cần đến những cơn mưa tình thương và Ơn Cứu Độ của Chúa.
Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.
Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:
- Luật cấm bắt tay.
Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:
- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?
Ông giám đốc bối rối trả lời:
- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.
Ông Ra-un liền kết luận:
- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.
Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.
Xin nhắc lại ở nơi đây một lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói lời này để kết thúc một dụ ngôn nổi tiếng của Chúa. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu: “Anh hãy đi và làm như thế”Chúng ta hãy đi và làm như thế. Amen.
Mỗi người sinh ra, đều được cha mẹ đặt cho một tên gọi. Trong Kinh Thánh, tên gọi các nhân vật lớn thường rất giàu ý nghĩa, tên gọi ấy có khi phản ánh tình trạng của tập thể gia đình, hoặc phản ánh tình trạng của chính cá nhân đương sự, hoặc nói lên số phận hay hoạt động của người mang tên. Thế nên, cùng với tên gọi là hàm ý một dự phóng cho tương lại, có khi chỉ một ước vọng, đôi khi gợi lên tình cảm lúc sinh ra hoặc tương lai mà cha mẹ thấy được, và thường khi là cả một sứ mạng, sứ mạng đó nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn thực hiện giữa dân Người. Trường hợp của Gioan Tẩy Giả là một ví dụ, khi sinh ra được cha mẹ đặt tên theo lời Sứ thần đã loan báo. Danh xưng Gioan có nghĩa là Thiên Chúa biểu lộ tình thương.
Mừng lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng là dịp đi từ tên gọi ấy, để mỗi người nhận ra hướng đi của tình thương Thiên Chúa, tình thương ấy bước xuống đời sống nhân loại, để rồi một khi con người nhận ra tình thương của Đấng đã yêu thương mình.
1. Tình thương Thiên Chúa bước xuống với con người. Nhìn vào lịch sử cứu độ, nhiều lần trong lịch sử, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Người qua những kỳ công sáng tạo hay những chiến tích lẫy lừng. Và hôm nay, Tin Mừng cho Chúng ta thấy tình thương ấy đã đi vào số phận đời thường của một con người để biến đổi họ nên dấu chỉ lạ thường cho ơn Cứu độ.
Tình thương ấy đã bước xuống nỗi sầu khổ của một gia đình, để biến nỗi tủi nhục ở đó trở thành niềm vui. Chính dấu ấn tình thương ấy đã biến đổi lòng dạ son sẻ của Elisabét thành tấm lòng hoan hỷ nhảy mừng của thai nhi ở tháng thứ sáu. Để rồi, cũng chính tình thương Thiên Chúa đã biến đổi gia đình Dacaria héo hon từ lâu, bổng trở nên rộn rã kẻ ra người vào với tiếng cười, lời chúc mừng ngày con trẻ cắt bì và đặt tên là Gioan, tên gọi ấy là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa.
Thế nhưng, tình thương Thiên Chúa không dừng lại, không chỉ bước xuống nơi gia đình Dacaria sầu khổ, mà còn đi xuống, xuống với một dân tộc và với toàn thể nhân loại. Có lẽ trong suốt thời gian câm lặng, ông Dacaria đã hiểu và khám phá ra được tình thương của Thiên Chúa muốn thực hiện nơi dân tộc của mình. Vì thế, khi người ta hỏi ông đặt tên cho con trẻ là gì, ông ra hiệu người ta mang bảng để ông viết, tên nó là Gioan. Khi ấy lưỡi ông mở ra và chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người". Như thế, chính trong tên gọi Gioan, tên gọi tình thương, cho ta thấy Thiên Chúa đã bước xuống với dân tộc và với toàn thể nhân loại.
2. Tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Thế nên, mừng ngày sinh nhật của Gioan Tẩy Giả hôm nay, không chỉ nhắc lại một khía cạnh quá khứ, mà còn là một lời mời gọi cho các thế hệ tương lai. Đây là dịp để mỗi Kitô hữu nhận ra mình đang sống trong tình thương của Thiên Chúa. Nhìn lại cuộc đời của mổi chúng ta, mỗi người từ khi hình thành dù mới ở dạng của một mầm sống, tất cả là ân huệ tình thương của Thiên Chúa.
Vả lại, trong ơn gọi làm người, mầm sống ấy có một vận mệnh, một sứ mạng dù không ai biết trước tương lai nó thế nào. Thế nhưng, nó cần được tôn trọng để sinh và sống trong những điều kiện phù hợp với phẩm giá con người. Do đó, bóp nghẹt một sự sống tự nhiên của một mầm sống đang hình thành là đi ngược lại với tình thương của Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, trong đời sống làm con Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được lãnh nhận sự sống siêu nhiên từ Thiên Chúa và cả sứ mạng mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người. Sự sống đó cần được bộc lộ ra trong cả cuộc đời; thế nên, sự sồng ấy cần phải được kính trọng và kiện toàn hơn nữa. Nếu ta từ chối, hay bóp nghẹt sự sống siêu nhiên là ta đi ngược lại tình thương của Thiên Chúa.
3. Hãy vun trồng tình thương Thiên Chúa nơi gia đình. Mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa là sự sống con người. Đồng thời trang Tin Mừng hôm nay còn cho thấy khung cảnh gia đình đầm ấm, nơi đó mọi tương quan được thể hiện cách tích cực. Tương quan vợ chồng là một tình yêu chung thủy của hai ông là Dacaria và Elisabét, dù nhiều năm son sẻ vẫn trung tín sắt son. Tương quan cha mẹ con cái là một tình yêu biết trách nhiệm, để rồi, từ nơi đây sẽ tỏa ra môi trường lân cận, xóm giềng. Nên ở đó lộ ra một thông điệp về đời sống gia đình.
Gia đình như chúng ta vẫn thường nói là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, nơi đó con người được sinh ra và lớn lên. Gia đình là một cộng đoàn, nơi đó mọi phần tử yêu thương tận hiến cho nhau. Gia đình là một trường học, nơi đó nhân cách được phát triển tự nhiên và lành mạnh nhất. Gia đình là nền tảng của xã hội, là nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ, và gia đình tín hữu còn là một Giáo hội thu nhỏ, khi biết sống những giá trị Tin mừng, qua việc thường xuyên chu toàn những nhiệm vụ bổn phận bậc sống của mình.
Thế nên, tìm lại ý nghĩa đời sống gia đình, chúng ta hiểu rằng đó không chỉ là một định chế xây dựng xã hội loài người, mà còn là một cộng đoàn mang lấy ơn gọi trong sứ mạng vui trồng tình thương Thiên Chúa.
Nhận ra giá trị của sự sống và gia đình nhân ngày lễ sinh nhật Gioan Tẩy Giả hôm nay, cũng chính là lúc mỗi Kitô hữu nhận ra sứ mạng của chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Một sứ mạng bảo vệ và phát triển sự sống có trách nhiệm. Một sứ mạng biết thể hiện tình thươmg của Thiên Chúa bằng sự trung tín trong đời sống gia đình...Đồng thời xây dựng một tình thương huynh đệ trong khu phố, nơi công sở, để mọi người luôn nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã được nghe câu chuyện ngụ ngôn của Lafontiane về con ếch và con bò. Câu chuyện ngụ ngôn ấy đại khái như thế này:
Ngày kia con ếch nhìn thấy một con bò thật to lớn và vĩ đại, thật cực kỳ và hết ý. Thế là con ếch liền mong sao cho mình cũng được to lớn và vĩ đại, cực kỳ và hết ý như vậy.
Từ tư tưởng biến thành hành động, từ ước muốn đi tới việc làm, con ếch bắt đầu uống nước cho bụng mình được phình to. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài, nhưng vẫn chưa to được bằng con bò. Nó lại tiếp tục uống. Và rồi một tiếng nổ vang lên. Bụng nó vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu cõi lòng, ai cũng muốn được người khác để ý tới và lên tiếng ca tụng. Ai cũng muốn nâng mình lên chứ chẳng ai lại thích hạ mình xuống. Ai cũng ươm mơ giấc mộng của Adong Evà, đó là được trở nên bằng Thiên Chúa.
Có một câu danh ngôn đã xác quyết như sau:
- Tham vọng của các nhà chính trị là được để lại một vài dòng về mình trong lịch sử.
Nếu so sánh với Gioan Tiền hô, chúng ta thấy thái độ của chúng ta hoàn toàn trái ngược với thái độ của thánh nhân, bởi vì lập trường của thánh nhân đó là: Ngài cần phải lớn lên còn mình phải nhỏ đi.
Trong khi đó, chúng ta lại dồn mọi nỗi lực, mọi cố gắng vào việc làm cho bản thân mình được to lớn, được vĩ đại, được cực kỳ, được hết ý, còn Thiên Chúa thì bị nhỏ đi, bị cho ra rìa và bị đứng bên lề cuộc đời của chúng ta.
Thánh Gioan Tiền hô đã nói và đã làm. Trước hết, để Thiên Chúa được lớn lên trong tâm hồn mình, thì như Tin mừng đã ghi lại: ngay từ thời niên thiếu, thánh nhân đã vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng, để có đủ thời gian và thinh lặng cần thiết hầu kiết hiệp với Thiên Chúa.
Một khi đã có Thiên Chúa ở trong lòng, thánh nhân còn đem Ngài đến cho người khác và muốn cho Ngài cũng được lớn lên trong tâm hồn của họ.
Chính vì thế, thánh nhân đã xuất hiện bên bờ sông Giócđan, rao giảng việc sám hối ăn năn, chỉ bảo cho dân chúng biết những sai lỗi và khuyết điểm của họ, để họ cố gắng uốn nắn sửa đổi, nhờ đó cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, cũng như nhờ đó dọn đường đón mừng Đấng Cứu Thế.
Và khi Đức Kitô đi ngang qua, thánh nhân đã long trọng giới thiệu Ngài cho đám đông:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.
Mặc dù đã qui tụ được nhiều môn đệ và đông đảo dân chúng, thánh nhân cũng đã sẵn sàng để cho họ bước theo Đức Kitô, không hề ngăn cản, không hề buồn phiền, không hề tức tối.
Và khi Đức Kitô bắt đầu rao giảng Tin mừng, thì vai trò của thánh nhân thực sự nhỏ đi, bản thân của thánh nhân thực sự chìm vào kiếp sống tù dày và tăm tối, để rồi cuối cùng đã kết thúc bằng một cái chết đau đớn.
Còn chúng ta thì sao?
- Là người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận phải có Chúa trong tâm hồn và phải mang Chúa đến cho người khác.
- Là người Kitô hữu, chúng ta phải trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như trong cuộc đời người khác.
Vì thế, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để Đức Kitô thực sự lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như thực sự lớn lên trong tâm hồn những người chung quanh?
“Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa”(Lc 1, 64).
Đời sống con người là một cuộc liên lỉ tìm kiếm sự thiện và quy hướng về sự thiện. Ai cũng muốn sự tốt lành và bình an trong đời. Mong ước đó luôn thôi thúc con người sống một đời tốt lành. Đối với người Kitô hữu, quy hướng về sự thiện là hướng về Thiên Chúa, Đấng là Sự Thiện Tuyệt đối, bằng một đời sống công chính và thánh thiện theo đường lối của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một mẫu gương về đời sống công chính của ông Dacaria và bà Elisabeth.
Hai ông bà được Tin mừng thánh Luca nhắc đến như những người có đời sống công chính vì đã “sống đúng theo mọi giới răn và mệnh lệnh của Thiên Chúa, không ai chê trách được điều gì”(Lc 1, 6). Trong Cựu ước, người công chính là người luôn chu toàn luật Chúa và làm việc bác ái, là người sống đời phó thác, tin yêu dù cho những khó khăn thử thách có làm cho chao đảo. Suốt cuộc đời phải chịu nỗi tủi hổ vì son sẻ, cùng những ánh mắt dèm pha của người đời, hai ông bà vẫn luôn trung thành tuân giữ luật Chúa và không xao lãng việc phụng thờ Thiên Chúa. Ngay cả khi phải đối diện với những truyền thống khắt khe của người đời, hai ông bà luôn lấy sự trung thành với luật Chúa làm kim chỉ nam cho mình. Kết quả như chúng ta được biết: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho hai ông bà, khi Ngài ban cho bà Elisabeth được thụ thai và hạ sinh thánh Gioan Tẩy Giả.
Là những người Kitô hữu, sống đời công chính phải là mục tiêu hàng đầu mà chúng ta hướng tới. Chỉ khi sống kiên trì trong đức tin vào Đức Kitô, chúng ta mới trở nên những người công chính và được sống trong bình an của Người (x.Rm 5, 1). Nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô khi chết cho tội và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới. Tất cả là do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Chính vì thế, ơn công chính hoá đòi buộc nơi chúng ta sự tự do đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, qua việc tuân giữ những điều Chúa Giêsu đã dạy, hết lòng tôn thờ Thiên Chúa và yêu mến tha nhân, chu toàn tốt bổn phận của một Kitô hữu và bổn phận của công dân trần thế. Nếu chúng ta một lòng trung thành tuân giữ điều Chúa dạy, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui và bình an. Đó chính là phần gia nghiệp Chúa hứa ban cho những ai sống công chính trước Thánh nhan Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã chết và đã phục sinh để chúng con được sống một đời sống mới. Xin ban thêm sức mạnh giúp chúng con luôn kiên tâm tuân giữ lời Chúa chỉ dạy, để đời sống chúng con được nên công chính mỗi ngày, hầu xứng đáng lãnh nhận phần thưởng cao quý mà Chúa đã dành cho chúng con trên thiên quốc. Amen.
Thế nào là một người cao trọng? Để đánh giá sự cao trọng của bản thân, chúng ta thường có ba cách:
Cách thứ nhất là bằng cặp mắt của mình
Nghĩa là dựa trên những suy nghĩ và nhận định của chính con người chúng ta. Cách thức này thường không mấy xác thực, bởi vì cái nhìn của chúng ta thường chủ quan, chúng ta thường đưa ra 1001 lý do để biện minh cho những sai lỗi của chúng ta. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với những người chung quanh, vì tự thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng có một chút khuynh hướng kiêu căng, muốn được ca tụng, muốn được để ý tới. Đánh giá bản thân bằng chính cặp mắt của mình là cân đo bằng một loại thước bị thiếu hụt, không chính xác...
Cách thứ hai là bằng cặp mắt của người khác
Nghĩa là dựa trên dư luận, dựa trên những phán đoán của những người chung quanh. Cách thức này cũng thường không đem đến sự thật, vì dư luận là dư luận. Cùng một sự kiện mà mỗi người nhìn một cách thức tùy theo cảm tình của mình:
- Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Chính vì thế mà dư luận thường thổi phồng và bóp méo, không mấy khi được thống nhất:
- Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.
Cách thứ ba là bằng cách nhìn của Chúa
Đây mới là một cách thức vừa cần thiết vừa trung thực nhất. Vậy thì ai là người cao trọng dưới mắt Chúa. Tôi xin thưa, đó là người khiêm nhường không chút kiêu căng.
Sự khiêm nhường ấy được biểu lộ trước hết là trong tư tưởng, nhận đúng thân phận của mình chỉ là tôi tá của Chúa. Đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý bởi vì nhiều khi sự khiêm nhường của chúng ta chỉ là một thứ khiêm nhường giả hiệu, che lấp thói kiêu căng của chúng ta.
Tiếp đến là biểu lộ qua lời nói. Không đề cao bản thân, bởi vì chúng ta chỉ là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa, sở dĩ chúng ta làm được việc nọ việc kia, tất cả đều do ơn lành của Chúa.
Sau cùng, biểu lộ qua việc làm. Sẵn sàng chấp nhận những hy sinh gian khổ, những địa vị thấp kém, miễn sao phục vụ Chúa và anh em. Khiêm nhường như thế chính là mẹ của các nhân đức, chính là cội nguồn thánh thiện.
Với những tiêu chuẩn kể trên thánh Gioan Baotixita quả thực là một người khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Mặc dù không làm được việc chi vĩ đại, nhưng Gioan đã được Chúa Giêsu khen tặng:
- Trong số những người nam không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sở dĩ như vậy là vì Gioan đã sống tâm tình khiêm nhường. Mặc dù được mọi người ngưỡng mộ, ông đã hạ mình xuống và nói:
- Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.
Ông đã làm mọi việc để cho Chúa được nhận biết và tôn vinh. Ông đã để cho các môn đệ thân yêu bước theo Chúa Giêsu và đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông:
- Đây Chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian. Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi.
Thân phận của ông chỉ là thân phận của một tiếng kêu trong sa mạc. Gioan càng khiêm nhường thì lại càng được Chúa mến yêu như lời Mẹ Maria đã nói:
- Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao mọi người phận nhỏ.
Suy nghĩ về thánh Gioan Tiền Hô, tôi nhận thấy Ngài có một chỗ đứng quan trọng, một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh cũng như trong phụng vụ.
Trước hết là trong Kinh Thánh.
Thực vậy, không có một vị thánh nào mà cuộc đời được Kinh Thánh diễn tả một cách đầy đủ cho bằng thánh Gioan Tiền Hô. Kinh Thánh đã kể lại từ việc ông Giacaria dâng hương trong đền thờ đến việc bà Isave thụ thai. Từ việc Đức Maria tới thăm viếng đến việc bà Isave sinh nở. Từ ngày mở mắt chào đời với những sự việc kỳ diệu của Chúa, đến những năm tháng xuất hiện công khai với một cuộc sống khắc khổ. Từ những lời rao giảng gắt gao cho đến lúc bị tống nục và cái chết anh dũng dưới lưỡi gươm của Hêrôđê. Ngài là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, nhưng đồng thời lại là một vị thánh lớn của Tân Ước. Ngài chính là một nhịp cầu thông cảm nối liền Cựu Ước với Tân Ước, đến nỗi Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ngợi khen: "Trong số những kẻ được sinh ra bởi người nữ, không có ai cao trọng hơn Gioan".
Tiếp đến là trong phụng vụ.
Đối với tất cả các thánh, chúng ta thường mừng kính vào ngày chết, tức là ngày các ngài được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được bước vào quê hương Nước Trời. Ngoài Chúa Giêsu, thì Giáo Hội chỉ mừng kính ngày sinh của Mẹ Maria và thánh Gioan Tiền Hô mà thôi. Bởi vì tất cả chúng ta, dù là các thánh thì khi mở mắt chào đời, cũng đã mang lấy dấu vết nhơ bẩn của tội nguyên tổ, cũng đã sống trong một tình trạng thù địch với Thiên Chúa. Trong khi đó thì Mẹ Maria được đặc ân vô nhiễm, còn thánh Gioan thì được tẩy sạch nhờ sự thăm viếng của Mẹ Maria, khi còn là một thai nhi trong lòng bà thánh Isave.
Như thế Gioan Tiền Hô đã là thánh kể từ khi lọt lòng mẹ, kể từ khi bắt đầu cuộc sống trần thế. Sở dĩ như vậy vì Chúa muốn cho Gioan được chuẩn bị để báo trước sự xuất hiện của Ngài.
Đúng thế vai trò của Gioan là vai trò của người tiền hô, chuẩn bị cõi lòng mọi người đón nhận Đấng cứu thế, vai trò của người đi trước dọn đường Chúa đến. Nếu Đức Kitô là mặt trời rực sáng thì Gioan Tiền Hô là hừng đông và một khi mặt trời đã xuất hiện ngày mới khởi đầu thì hừng đông không còn nữa. Ý thức được vai trò của mình nên Gioan đã xác quyết với đám đông: "Ngài cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi".
Với chúng ta cũng vậy ngay từ khi chúng ta mở mắt chào đời, Thiên Chúa cũng đã nhìn chúng ta bằng một ánh mắt trìu mến, và nhất là Ngài đã dành cho chúng ta một ơn gọi, ơn gọi ấy là trở nên như những vị tiền hô, chuẩn bị và dọn đường Chúa đến trong tâm hồn những người chung quanh. Thế nhưng chúng ta đã thực sự là những vị tiền hô của Chúa hay là bằng một đời sống bê tha và tội lỗi, gian tham và thù oán, chúng ta đã nhẫn tâm dập tắt ngọn lửa nhỏ bé của những tâm hồn thiện chí, đang muốn tìm gặp Chúa.
Gioan Tiền hô là người của Thiên Chúa. Ông đã được sinh ra một cách lạ lùng từ một người mẹ thuộc hàng son sẻ và đã cao niên. Son sẻ là một nỗi, tủi nhục đối với người phụ nữ Do Thái vào thời bấy giờ. Bởi vậy, bà Êlisabéth khi biết mình mang thai đã thốt lên:
- Chúa đã làm cho tôi như thế, vào thời Ngài cất nỗi khổ nhục của tôi giữa người đời. Bởi vì lòng dạ không mang thai là một lòng dạ đã chết. Nhưng chính nơi những cái chết ấy mà Thiên Chúa thi thố quyền năng của Ngài.
Lịch sử cũng cho thấy từ những người đàn bà hiếm muộn, Thiên Chúa đã cho trỗi dậy những khuôn mặt lỗi lạc.
Tư tưởng và đường nẻo của Thiên Chúa thì khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Chẳng hạn từ cung lòng Đức Trinh nữ Maria, vị cứu tinh muôn dân mong đợi sẽ ra đời. Và từ cái chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm nảy sinh sự sống mới. Công trình cứu chuộc hoàn toàn là một sáng kiến của Thiên Chúa xuất phát từ tình thương bao la của Ngài.
Ông Giacaria, cha của Gioan Tiền hô, trong lúc hứng khởi vì được chứng kiến những việc lạ lùng Thiên Chúa làm khi khởi đầu thời cứu độ, đã nói về vai trò của Gioan trong bài ca chúc tụng:
- Con sẽ là tiên tri của Đấng Tối cao. Con sẽ loan báo việc Thiên Chúa và dọn đường cho Ngài.
Dọn đường để chào đón một nhân vật quan trọng là một hình ảnh quen thuộc. Đường sá thì ghồ ghề khó đi, dân làng được huy động để san bằng những chỗ lồi lõm. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ đi trên những con đường xứ Palestine, mà Ngài còn muốn đến với cõi lòng của mỗi người. Và như thế, công việc dọn đường của Gioan có nghĩa là rao giảng sự hoán cải trong dân để được tha thứ: lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh hoa kết trái thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa.
Tin mừng đã mô tả Gioan như một vị tiên tri. Ông được xức dầu một cách thiêng liêng ngay từ trong lòng mẹ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Ông được đầy tràn Thánh Thần và có được những đặc điểm của một vị tiên tri. Và như các vị tiên tri khác, ông có nhiệm vụ rao giảng sự sám hối ăn năn. Và theo cái nhìn của Chúa Giêsu, ông còn hơn cả vị tiên tri nữa, bởi vì ông là sứ giả của Thiên Chúa:
- Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt ngươi.
Và Chúa Giêsu còn lớn tiếng khẳng định:
- Trong những kẻ bởi người nữ, thì không có ai lớn hơn Gioan. Nhưng người nhỏ hơn trong nước Thiên Chúa, lại lớn hơn ông.
Điều đó có nghĩa là Gioan thuộc về giai đoạn chuẩn bị và trong giai đoạn chuẩn bị này, thì ông là người lớn hơn cả. Nhưng người đến sau ông, tức là Đức Kitô Con Thiên Chúa làm người, vị cứu tinh của thời buổi sau hết, lại lớn hơn ông. Cái lớn lao của ông là cái lớn lao của công việc chuẩn bị, dẫn người ta đến với Đức Kitô, vì thế khi Đức Kitô bắt đầu xuất hiện trước công chúng để rao giảng Tin mừng, thì lập tức ông lui vào bóng tối vì vai trò của ông đã hoàn tất như lời ông đã nói:
- Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Còn chúng ta thì sao? Mỗi người chúng ta cũng phải là một Gioan Tiền hô giữa lòng cuộc đời, nghĩa là chúng ta cũng phải dẫn đưa mọi người đến tìm gặp Chúa. Bởi đó, với một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta cũng sẽ là những tiền hô, giới thiệu khuôn mặt đích thật của Đức Kitô cho những người chung quanh chúng ta.
1. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan sẽ là đấng tiền hô của Chúa cứu thế. Sứ mệnh tiền hô của Gioan, đã được Giáo hội nhắc đến trong kinh tiền tụng II của mùa vọng, bằng vài tư tưởng sau đây:
“Gioan là đấng tiền hô, Loan tin về Chúa Kitô giáng trần, Chúa khi truyền đạo xuất thân, Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài” “Gioan là tiếng dẻo dai, “Tiếng kêu”thánh thót lọt tai mọi người,
Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi, Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta Vậy mà kẻ đứng gần xa Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
Mà thực thế, mùa thu năm 27 sau kỷ nguyên, trong miền rừng núi Nam phần nước Do thái, thấy xuất hiện một thày tu hành đi truyền đạo, sống đời khắc khổ, mình khoác áo choàng rộng, bằng lông lạc đà, lưng thắt dây đang, lương thực là châh chấu nướng, châm với mật rừng tức là nhựa cây thủy ty liễu, mọc ở bờ sông Gior-đa-nô, nên hội đồng công tọa của người Do thái, đã cử mấy thày tư tế đến hỏi: ông có phải là Đấng Kitô không? Thày tu hành trả lời:
“Tôi không phải là đấng Kitô, nhưng tôi chỉ là tiếng kêu trên rừng, có sứ nạng dọn đàng cho Chúa Kitô đến“.
Nhưng người biệt phái cũng hỏi: “Nếu không phải là đấng Kitô, tại sao ông làm phép rửa? thày tu hành Gioan trả lời: “Tôi rửa người ta bằng nước, song có một đấng ở giữa các ông, mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi một tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”(Gioan 1,19). Hôm sau, thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan liền nói: “đây là chiên Thiên Chúa, đây là đấng cất tội thiên hạ”. “Người này là con Thiên Chúa”(Gioan 1,34). Nghe thế, có hai môn đệ đã xin phép bỏ thày là Gioan để đi theo Chúa Giêsu (Gioan 1,37). Vậy đọc lại những câu phúc âm trên đây, chúng ta thấy thánh Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô mà Thiên Chúa đã trao phó:
“Gioan là đấng tiền hô, Loan tin về Chúa Kitô giáng trần, Chúa khi truyền đạo xuất thân, Gioan lại chỉ cho dân thấy Ngài. Gioan là tiếng dẻo dai, “Tiếng kêu”thánh thót lọt tai mọi người. Rằng Chúa cứu chuộc tới nơi, Đang sống trên đời, ở giữa chúng ta” Vậy mà kẻ đứng gần xa, Chẳng ai để ý nhận ra được Ngài”
2. Thưa anh chị em, bàn tay Thiên Chúa ở cùng Gioan, vì Gioan còn phải thi hành sứ mệnh tẩy giả nữa:
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả, Vì Ngài đã lấy nước sông Gio-dan, Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian, Những con người, đã thành tâm thống hối” Vậy Gioan, đã biến người có tội, Trở nên người công chính có đức nhân, Biết mến Chúa bác ái với nhân dân, Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Vậy theo Phúc âm thánh Luca (3,1-18) Gioan có sứ mệnh dọn đường cho Chúa cứu thế đến: bạt đồi núi xuống, lấp thung lũng đầy, nắn thẳng đường quanh co. Nghĩa là Gioan tẩy giả dạy người ta ăn năn hối cải và làm việc đạo đức bác ái. Với những người biệt phái giả hình gian dối, thánh Gioan gọi họ là loài rắn lục, không thể thoát cơn thịnh nộ của Chúa, vì cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh hoa trái, sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Với những người lòng ngay, Gioan khuyên họ phải giàu lòng thương xót, lấy việc bố thí tiền của mà rửa sạch tội mình. Với bạn người thâu thuế, Gioan bảo họ không cần phải đổi nghề, nhưng phải giữ đức công bình, đừng hối lộ, đòi lỡi ngãi, không được phù thu lạm bổ. Với quân nhân, Gioan khuyên họ đừng hà hiếp ai, đừng dọa nạt ai, nhưng bằng lòng về số lương của mình. Với tất cả mọi người, Gioan khuyên họ chiụ phép rửa, để tỏ lòng khiêm tốn ăn năn được ơn tha thứ, được ơn sống một đời đạo đức bác ái hơn, và được thấy ơn cứu độ của Chúa cứu thế. Vậy
“Gioan cũng được gọi là tẩy giả, Vì Ngài đã lấy nước sông Gior-dan Để rửa sạch, tội lỗi của dân gian Những con người, đã thành tâm thống hối, Vậy Gioan, đã biến người có tội, Trở nên người công chính có đức nhân, Biết mến Chúa, bác ái với nhân dân, Để đón chờ, Chúa Kitô đang đến”
Kết
Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa. Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.
Lời nguyện giáo dân
Thưa anh chị em, hôm nay dạy chúng ta tôn kính thánh Gioan tiền hô và tẩy giả của Chúa, Giáo hội có ý khuyên chúng ta biết trở nên tông đồ đem các linh hồn về cho Chúa.
1. Vậy xin Chúa cho chúng ta biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa, và Chúa cứu thế đã đến trong thế gian.
2. Xin Chúa cho chúng ta biết sốt sắng dự thánh lễ chủ nhật, để trở nên tiền hô loan báo cho tha nhân biết có Thiên Chúa và Chúa cứu thế đã đến chiụ tội loài người.
3. Xin Chúa cho chúng ta biết dâng lên Chúa những mồ hôi nước mắt của chúng ta khi lao động mà đền tội, để trở nên tẩy giả cầu cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng chiụ phép giải tội, nhất là mùa phục sinh, để trở nên tẩy giả làm cho tâm hồn ta nên trong sạch để cầu nguyện cho các tội nhân và anh em ngoại giáo được trở về với Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Chúa trong ngày lễ hôm nay, Chúa đã đặt thánh Gioan tiền hô và tẩy giả làm gương mẫu cho chúng con bắt chước. Xin Chúa cho chúng con biết cầu nguyện hàng ngày tại gia đình, biết vui lòng lao động nuôi sống gia đình, biết giữ luật xưng tội rước Chúa mùa phục sinh để trở nên Gioan tiền hô.
Nhân ngày sinh của Gioan Tiền hô, tôi muốn chia sẻ một điểm nổi bật trong cuộc sống của thánh nhân, đó là Gioan Tiền hô đã nói và đã làm.
Thực vậy, cách đây hơn mười năm với phong trào đổi mới tại Việt Nam, người ta thấy trên báo chí xuất hiện những bài viết ký tên NVL. Người ta bảo đó là của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Nhưng đồng thời, người ta cũng suy diễn ba chữ viết tắt ấy là nói và làm, chứ không phải là nói và lờ hay nghe và lỉnh. Việc làm mới thực sự là quan trọng, hơn hẳn những lời nói suông bội phần.
Nhìn vào cuộc sống của Gioan tiền hô, chúng ta thấy lời nói của thánh nhân luôn đi đôi với việc làm. Thánh nhân luôn làm những điều mình nói, thực thi những điều mình dạy. Lời nói và việc làm của Gioan tiền hô luôn đi đôi với nhau, luôn ăn khớp với nhau, chứ không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, đúng như người xưa đã bảo:
- Ngôn hành hợp nhất.
Đồng thời, thánh nhân còn luôn chịu trách nhiệm về những điều mình đã nói, cho dù có phải chết.
Thực vậy, trên bờ sông Giócđan, thánh nhân đã rao giảng một cuộc sống khắc khổ, để sám hối ăn năn, hầu dọn đường đón mừng Chúa đến. Và chính bản thân thánh nhân cũng đã sống khắc khổ và sám hối ăn năn như vậy.
Phúc âm đã ghi lại: thánh nhân vào trong hoang địa, mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Chính vì thế, thánh nhân đã nhận ra Đấng Cứu Thế và giới thiệu Ngài cho mọi người.
Vai trò của thánh nhân là vai trò của một sứ giả, của một tiền hô chuẩn bị tâm hồn mọi người đón nhận Đấng Cứu thế và khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, thánh nhân đã không ngần ngại tuyên bố:
- Đây chiên Thiên Chúa, đây đấng gánh tội trần gian…Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi…tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Kể từ tuyên bố ấy, thánh nhân đã chìm vào quên lãng, chìm vào bóng tối và để cho chính những môn đệ thân tín của mình bước theo Chúa Giêsu.
Thánh nhân cũng đã mạnh dạn tố giác tội lỗi của Hêrôđê. Chính vì những lời nói thẳng thắn ấy, thánh nhân đã bị tống ngục và đã bị chém đầu.
Còn với chúng ta thì sao?
Kinh nghiệm cho thấy:
- Nói thì dễ mà làm thì lại khó.
- Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Chúng ta nói xong rồi lờ đi, hay nghe xong rồi lỉnh mất, chẳng đoái hoài chi đến những gì mình đã nói hay đã nghe, như tục ngữ đã diễn tả:
- Trăm voi không được một bát nước xáo.
Chẳng hạn mỗi khi giáo xứ có dịp bàu ban hành giáo, chúng ta nói thì rất hay, nào là người ấy phải thế nọ thế kia. Thế nhưng, khi phiên họp được triệu tập để đề bạt những ứng cử viên, thì chúng ta lại tính chuyện lờ, chuyện lỉnh, chuyện lặn.
Và khi phên họp kết thúc, một người nhiều thiện chí, nhưng hơi thiếu khả năng về mặt này mặt khác, được đề cử, thì chúng ta lại vội vã khua môi múa mỏ, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ. Quả thực, chúng ta đáng được người đời diễn tả:
- Trùm khu, trùm giáp thì chúng ta không dám, chứ trùm chăn, trùm mền thì chúng ta lại ăn đứt thiên hạ.
Hãy ra tay xây dựng bằng hành động, chứ đừng chỉ xây dựng bằng nước bọt, có nghĩa là hãy biểu lộ thiện chí của chúng ta bằng những việc làm cụ thể, nhờ đó lời nói và việc làm của chúng ta luôn đi đôi với nhau, như lời thánh Giacôbê tông đồ đã xác quyết:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Hay như thánh Gioan tông đồ cũng đã viết:
- Anh hãy chỉ cho tôi một tình yêu không việc làm. Còn tôi, tôi sẽ dùng những việc làm để chỉ cho anh thấy một tình yêu đậm đà thắm thiết như thế nào.
Ngôn hành phải hợp nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm, chứ không phải là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nói một đằng làm quàng một nẻo. Thậm chí nói một chuyện, nhưng làm lại là chuyện khác. Nhiều khi còn làm ngược lại những điều mình đã nói. Nói vậy mà không phải vậy đâu.
Căn cứ vào những việc làm cụ thể ấy, người ta sẽ nhận biết thiện chí của chúng ta, cũng như đáng giá chúng ta có phải là những sứ giả, những tiền hô đích thực của Chúa hay không?
Ngài là con của thày tư tế Dacaria và bà Êlisabét, chị họ của Đức Maria. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Cả hai không ngừng cầu khẩn xin Chúa ban cho một người con nối dõi tông đường. Nhận thấy lòng đạo đức của họ, Chúa dủ lòng thương sai sứ thần đến báo: "Này Dacaria! đừng sợ, Chúa đã nghe lời khẩn nguyện của ngươi. Vợ người sẽ sinh một con trai và người sẽ đặt tên là Gioan..."
Dacaria hoài nghi, vì thế Chúa để ông bị câm trong suốt 9 tháng trời, cho đến ngày đặt tên cho Gioan. Gioan lớn lên và được giáo dục trong bầu không khí đạo đức. Đến năm thứ 5 đời hoàng đế Tibêriô, tức năm 28 sau công nguyên, có tiếng Chúa gọi Gioan trong hoang địa, tức vùng đồi núi Giuđê Gioan sống khắc khổ: ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thất dây da. Cuộc đời Gioan thật gương mẫu.
Có lần Chúa Giêsu đã công khai nói với dân Do thái: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả".
Gioan đã làm gì?
Ngài đi khắp vùng sông Giođan rao giảng và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Lời nói và nếp sống khổ hạnh của ngài đã lay chuyển cả những tâm hồn cứng cỏi nhất. Họ đã đến với ngài thật đông đảo để được nghe giảng dạy và được nhận phép rửa. Có người đã lầm tưởng ngài là Đấng Thiên Sai mà dân Do thái hằng mong đợi, nhưng ngài khiêm tốn trả lời: "Phần tôi, tôi rửa anh em bằng nước, sẽ có một Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Ngài sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và lửa.
Thánh Gioan đã chết thế nào?
Trong khi ngài dang rao giảng sám hối thì một vụ tai liếng đã xảy ra tại cung điện Hêrôdê Antipa. Nhà vua đã cưới con gái của Arêta phương nam làm hoàng hậu. Thế nhưng, trong một chuyến đi Rôma, ghé thăm người em cùng cha khác mẹ là Hê-rô-đê Phi-lip-phê, nhà vua lại say mê sắc đẹp của Hêrôdia, người em dâu và tìm cách chiếm đoạt. Hêrôđia có một người con riêng là Salômê có tài múa hát. Câu chuyện tới tai vị Tẩy giả. Với tất cả lòng cương nghị của một người công chính, Gioan cảnh cáo Hêrôđê: "Nhà vua không được cướp vợ em mình”Câu nói đó đã khiến Hêrôđê phải giam Gioan vào ngục. Nhưng Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà. Bà lìm cách đế giết Gioan. Chính vì thế, trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, lợi dụng khi nhà vua đã ngà ngà say, bà xúi Salômê xin chiếc đầu của Gioan.
Thế là Gioan đã phải chết.
Câu hỏi chia sẻ:
Anh chỉ em nghĩ gì về câu tin Mừng: "Cậu bé (Gioan) càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh?
Số phận của Gioan là số phận của các ngôn sứ, vì giảng dạy điều ngay chính mà phải chịu thiệt đến thân. Nhưng "Phúc cho ai phải chịu đau khổ vì sự công chính.
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài là vị tiền hô của Chúa. Ngài đi trước để dọn đường cho Chúa ngự đến, và ngài chỉ cho con người chúng ta biết Chúa là Đấng Cứu Thế.
Biến cố ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả là một biến cố trọng đại, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho :
-Trước tiên là cho cha mẹ của ngài là ông Zacaria và bà Isave, các ngài tuổi đã cao rồi mà nay lại có con?(xLc 1, 5 – 25), nhờ đó mà người thế gian loại bỏ câu nói: “Cây độc không trái, gái độc không con “,đồng thời cha của ngài mở miệng nói được trong ngày làm phép cắt bì và đặt tên cho ngài sau chín tháng mười ngày bị nín câm?(Lc 1, 64).
-Dân Do Thái là dân tộc của ngài, trong đó có những người bà con thân tộc họ hàng của ngài, họ cùng nhau đến nhà cha mẹ ngài để chung chia niềm vui trọng đại trong ngày làm phép cắt bì và họ đã đặt tên cho ngài là Gioan hôm nay?(Tên mà thiên thần Gabriel đã nói trong ngày truyền tin cho ông Zacaria) “ Và ông phải đặt tên cho con là Gioan” (Lc 1, 13).
Cuộc đời của ngài được ví như ánh sáng của cây đèn: “Gioan là đèn cháy sáng, và các ngươi trong một lúc đã vui mừng vì ánh sáng đó” (Ga 5, 35), ngài đem lại niềm vui cho dân Do Thái trong vai trò sứ mạng là tiền hô của Chúa. Ngài rao giảng sự thống hối. Ngài chuẩn bị lòng dân để đón Đấng Cứu Thế đến bằng việc sám hối, chịu phép rửa ở sông Giođan bởi tay ngài và ngài chỉ cho họ biết Chúa chính là Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi hàng bao thế kỷ nay.
Biến cố thánh Gioan Tẩy Giả sinh ra báo trước biến cố Chúa giáng sinh làm người?(Lc 2, 1 – 20). Biến cố làm phép cắt bì và đặt tên cho ngài báo trước biến cố làm phép cắt bì và đặt tên cho Chúa?(Lc 2, 21). Biến cố ngài bị chém đầu báo trước biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa (Lc 22 – 23).
Vì ngài là vị tiền hô, là sứ giả của Chúa, vì thế ngài đóng một vai trò rất quan trọng là chỉ cho chúng ta thấy Chúa, để chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta làm theo thánh ý Chúa muốn thì khi chúng ta thấy Chúa, chúng ta hân hoan vui mừng vô cùng ?(xLc 2, 22 – 38). Còn nếu chúng ta không làm theo ý Chúa, khi chúng ta thấy Chúa, chúng ta sẽ sợ hãi vô cùng, như trường hợp của vua Hêrôđê (xMc 6, 17 – 29).
Thánh Gioan Tẩy Giả trở nên giống Chúa, nhất là trong cái chết của ngài là bị vua Hêrôđê chém đầu để làm chứng cho Chúa là là sự thật: “Chúa là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14, 6), và chính sự thật này đã giải thoát thanh nhân: “Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8, 32), để rồi một khi chúng ta được ngài giúp cho nhận biết Chúa, chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa là sự thật, và trở nên giống Chúa trong mọi sự, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, nhất là giống Chúa chịu khổ nạn để Chúa giải thoát chúng ta, cho chúng ta được sống lại với Chúa sau này.
Một cách khác nữa, nhìn vào ngày sinh nhật của ngài, chúng ta thấy mình được Chúa cho sinh ra ở trần gian này là do tình thương của Chúa. Nếu chúng ta làm theo Lời Chúa dạy, chúng ta sẽ là niềm vui cho mọi người trong môi trường chúng ta sống. Ngược lại, nếu không nghe Lời Chúa dạy, chúng ta sẽ là nỗi buồn, sự sợ hãi cho mọi người.
Lạy Chúa, thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra ở trần thế này là do lòng từ bi nhân hậu của Chúa. Ngài sống trọn vẹn ơn gọi tiền hô của Chúa dù phải đón nhận cái chết đớn đau bị trảm quyết. Ngài thủy chung sắt son với Chúa dù phải đổ màu mình ra để rồi ngài là mẫu gương cho chúng con noi theo: Không bao giờ chúng con đổi thay sứ mạng làm chứng nhân Tin Mừng cho Chúa, trung thành giữ đạo Chúa đến cùng cho dù gặp phải những gian nan thử thách kể cả sự hy sinh mạng sống của chúng con cho Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Ðức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho Dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin Chúa rộng ban cho chúng ta được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và hướng dẫn ta bước vào con đường cứu độ và bình an. Hội Thánh hân hoan mừng ngày thánh Gioan Tẩy Giả chào đời. Sứ mạng của người là “làm chứng cho ánh sáng” đang đến khai mạc thời đại mới: đó là Đức Giêsu Kitô. Khi đề cập đến vai trò có một không hai của vị tiền hô, chính Đức Giêsu đã nói: Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả.
Đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, để đón nhận sứ mạng Chúa trao, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Giêrêmia nói về: Ơn gọi ngôn sứ. Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân. Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước.
Đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, để dọn đường cho Chúa đến, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói về: Tiếng người hô trong hoang địa… Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên.
Đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, để mang ơn cứu độ của Chúa đến tận cùng trái đất, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Isaia nói: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 138, vịnh gia kêu xin: Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng. Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công vụ Tông Đồ nói: Ông Gioan đã rao giảng để dọn đường cho Đức Giêsu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người. Trong bài Tin Mừng, ông Dacaria viết: Tên cháu là Gioan. Ông Gioan đã được thánh hiến từ trong dạ mẹ, để trở thành ngôn sứ dọn đường cho Đấng Cứu Độ và chuẩn bị cho Dân Chúa đón nhận ơn cứu độ. Ông Dacaria bị câm, không nói được cho đến khi Gioan, vị tiền hô của Chúa chào đời, nhờ đó, ông nói lại được. “Sự câm lặng” của ông Dacaria có nghĩa là: lời ngôn sứ tạm ngưng, tức là, bị che giấu và đóng lại, cho tới khi, Đức Kitô đến rao giảng. Khi ông Gioan đến, thì lời ngôn sứ được mở ra, và khi Đấng được tiên báo đến, thì lời ngôn sứ trở nên rõ ràng. Việc ông Dacaria nói lại được vào thời Gioan sinh ra, cũng giống như, tấm màn trong đền thờ xé ra vào ngày Đức Kitô bị treo trên thập giá. Nếu ông Gioan loan báo chính mình, thì, đã không mở được miệng cho thân phụ. Lưỡi được mở vì tiếng ra đời. Khi ông Gioan tiên báo về Chúa, thì, người ta hỏi ông rằng: Ông là ai? và ông trả lời: Tôi là tiếng, còn Đức Kitô, ngay từ nguyên thủy đã là Lời. Ông Gioan là tiếng trong thời gian, còn Đức Kitô, ngay từ khởi đầu, đã là Lời vĩnh cửu. Chúa cũng đã thánh hiến chúng ta, khi ta chịu Phép Rửa Tội, để, ta trở thành tiếng nói: mang lời cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Ước gì đời sống của chúng ta trở thành tiếng nói trong trẻo, để, lời cứu độ của Chúa được vang vọng đến tận cùng trái đất. Chúa đã sai thánh Gioan Tẩy Giả đến chuẩn bị cho Dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Ước gì chúng ta được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, để tiến bước vào con đường cứu độ và bình an. Ước gì được như thế!
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe tường thuật lại biến cố Thánh Gioan Tẩy Giả được sinh ra. Biến cố này không chỉ là niềm vui cho ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, mà còn là niềm vui cho cả dòng tộc và làng xóm láng giềng xung quanh. Thánh sử Luca cho ta biết, khi Gioan được sinh ra,“láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà”(Lc 1,58). Đoạn Tin mừng hôm nay cũng kể lại việc đặt tên cho con trẻ sau biến cố Gioan được sinh ra tám ngày. Đây cũng là một việc lạ lùng và thể hiện sự quan tâm của ông bà và anh em họ hàng. Thánh Luca kể lại: “Họ lấy tên Da-ca-ri-a của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan. Họ bảo bà rằng: Không ai trong họ hàng bà có tên đó. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: Tên nó là Gioan. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”(Lc 1,59-66). Sau đó, Thánh Luca tóm gọn cuộc sống ẩn dật của Thánh Gioan Tẩy Giả trong câu kết của đoạn Tin mừng: “Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel”(Lc 1, 80).
Cả hai biến cố trên đây (ngày sinh và ngày đặt tên) và việc “con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng”cho chúng ta thấy niềm vui mừng và sự quan tâm săn sóc không chỉ của vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét mà còn là niềm vui và sự quan tâm của cả dòng tộc, của láng giềng đối với sự chào đời và lớn lên của trẻ Gioan. Vậy, thử hỏi phải chăng con trẻ nào cũng được đón chào và quan tâm như thế không? Chắc chắn là không! Thời nào cũng vậy, chúng ta có thể thấy được điều này xuyên qua ba thái độ sau:
Thái độ vui mừng và đón nhận đầy tinh thần trách nhiệm: Mới đây có một đôi vợ chồng trẻ nói với tôi: Chúng con đã cưới nhau được mấy năm rồi mà chưa có “dấu hiệu”gì cả. Xin cha cầu nguyện cho vợ chồng con sớm có em bé. Ước mong của đôi vợ chồng trẻ trên đây cũng là mong ước của rất nhiều cặp vợ chồng khác. Khi mới cưới nhau họ mong muốn sớm có em bé. Vì thế, họ vui mừng khi biết có em bé đã hình thành trong lòng mẹ. Nhất là khi việc đó đến với những cặp vợ chồng hiếm muộn. Chính bà Ê-li-sa-bét, khi biết mình có thai đã vui mừng thốt lên rằng: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời”(Lc 1,25). Tâm trạng của các bậc làm cha mẹ lúc này là: Họ vui mừng chờ đợi ngày em bé chào đời. Họ lo lắng làm thế nào để đứa trẻ chào đời được khỏe mạnh. Cũng vì thế, nên họ tạo mọi điều kiện cho đứa trẻ được lớn lên trong môi trường tốt nhất. Khi đứa trẻ được sinh ra, họ cho đứa trẻ được ăn uống điều độ. Họ giáo dục đứa trẻ một cách toàn diện: nhân bản, tri thức và đạo đức. Họ giúp đứa trẻ vui chơi lành mạnh. Nhờ thế, đứa trẻ lớn lên trở thành người tốt, có ích cho gia đình, cho Giáo hội và xã hội.
Thái độ vô trách nhiệm hoặc dửng dưng: Rất nhiều bậc cha mẹ thiếu trách nhiệm trong việc chuẩn bị cho đứa trẻ trước khi sinh ra. Vô trách nhiệm khi đứa trẻ được chào đời. Họ không sẵn sàng đón nhận đứa trẻ chào đời. Họ không quan tâm giáo dục đứa trẻ nên người. Họ không làm gương sáng. Thậm chí, họ còn làm gương mù gương xấu, đó là lối sống bất hòa, ly thân, ly dị…Để lại hậu quả là: có những đứa trẻ không được chào đời; có những đứa trẻ không được giáo dục về đời sống nhân bản, tri thức và đạo đức; có những đứa đứa trẻ phải trở thành bụi đời, bị băng hoại bởi môi trường xấu; có những đứa trẻ trở thành nạn nhân của sự lạm dụng: lạm dụng tính dục; lạm dụng sức lao động; lạm dụng để làm những điều bất chính. Cuối cùng, chúng trở nên ghánh nặng cho gia đình, Giáo hội và xã hội.
Thái độ khước từ sự sống: Nhiều cặp vợ chồng muốn hạn chế việc sinh con cái. Họ muốn theo chủ trương của xã hội là sinh 1 đến 2 con. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do trên hết là vì họ ích kỷ không muốn hy sinh. Vì thế, khi vỡ kế hoặch, họ quyết định phá thai. Ngoài ra, có những trường hợp phá thai vì hậu quả của những quan hệ bất chính. Theo thống kê của WHO mỗi năm trên thế giới có khoảng 46 triệu phụ nữ phải nạo phá thai, chỉ có 27 triệu ca nạo phá thai hợp pháp và số còn lại là 19 triệu ca bất hợp pháp. Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ nạo phá thai đứng đầu Đông Nam Á và xếp thứ 5 trên Thế giới. Bình quân mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, chủ yếu là ở độ tuổi từ 15 - 19, trong đó 60% - 70% là học sinh, sinh viên (Nguồn: internet). Thái độ của những người trên đây là thái độ từ chối sự sống. Thái độ của những người này cướp đi quyền sinh tử của Thượng Đế.
Thái độ của chúng ta thì sao? Giáo hội luôn mời gọi mọi người kitô hữu, nhất là những bậc làm cha mẹ phải biết tôn trọng sự sống ngay từ khi mới hình thành trong lòng mẹ. Không được phép phá thai dưới bất cứ hình thức nào. Vì phá thai là giết người và đó là một tội ác. Giáo luật dạy: “Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết”(Đ. 1398). Không chỉ tôn trọng sự sống ngay khi còn ở trong lòng mẹ, mà còn cần phải có trách nhiệm bảo vệ các trẻ em vị thành niên. Phải quan tâm giáo dục chúng nên người, không để chúng rơi vào các tệ nạn xã hội. Không để chúng bị lạm dụng tính dục, sức lao động hay bị lợi dụng để làm những điều bất chính. Thư chung của HĐGM Việt Nam năm 2013 dạy rằng: “Gia đình là cộng đoàn phục vụ sự sống, được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng Sống. Vợ chồng Kitô hữu yêu thương nhau bằng một tình yêu mở ra với sự sống, tôn trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai, cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách nhiệm, giáo dục con cái nên người tốt và nên con cái Chúa. Gia đình phải là ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của mình”(x. số 6).
Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ.”Chúng ta có thể biến hóa câu nói trên thành: “Mỗi đứa trẻ sinh ra có thể là Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh mục, thầy dòng, bà Sr…của Giáo hội hay trở thành người kitô hữu tốt, một công dân tốt.”Khi có cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng như thế, chắc hẳn ai cũng biết tôn trọng sự sống, biết bảo vệ và quan tâm săn sóc các trẻ em. Vì mỗi đứa con sinh ra không đơn giản chỉ là kết quả của tình yêu “tự nhiên”, nhưng là hoa trái, là món quà, và là tặng phẩm mà Thiên Chúa đã thương ban cho chúng ta trong đức tin. Mỗi đứa trẻ còn được Thiên Chúa giao phó cho một sứ mạng tương tự như trẻ Gioan mà chúng ta mừng sinh nhật hôm nay. Ước mong rằng, các bậc cha mẹ luôn biết tôn trọng sự sống của con cái ngay từ khi bắt đầu hình thành trong lòng mẹ. Đồng thời, tất cả các trẻ em ra đời được sự quan tâm và bảo vệ của mọi người.
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tôn trọng sự sống, quan tâm bảo vệ các trẻ em và giúp chúng nên người. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả. Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa. Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo. Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15). Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này. Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa. Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi. Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa. Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ. Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh quả và cây. Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến. “Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16). Hẳn là không rồi. Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17). Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định: cây tốt không thể sinh quả xấu, và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18). Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây. Cứ nhìn những công việc do một người làm, ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20). Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt, đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi. Còn những ngôn sứ giả bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ. Chuyện ngôn sứ giả đã có từ xưa trong Cựu ước. Ở Côrintô, thánh Phaolô đã phải vất vả đối đầu với những kẻ mà ngài gọi là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô. Ngài còn thêm: “Lạ gì đâu! Vì chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11, 13-14). Như thế các tín hữu phải cảnh giác để phân biệt chân và giả, đặc biệt trong thời Hội Thánh gặp khủng hoảng khó khăn. Họ phải tỉnh táo để khỏi bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc. Điều cần lưu tâm là đời sống công chính của vị ngôn sứ. Trong thư gửi tín hữu Galata, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22). Đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín… Những điều ngược lại, ngài gọi là những hành động của xác thịt, như hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20). Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người Kitô hữu hôm nay chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh chóng, bởi nhiều nguồn thông tin, đến từ nhiều người. Những tiêu chuẩn của Đức Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị. Nhưng chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt. Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên. Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt. Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải. Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con. Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do. -------------------------------
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi thời gian. Khi cây chưa ra quả chưa phân biệt được tốt xấu. Có những cây cành lá um tùm nhưng lại không có quả như cây vả bị Chúa chúc dữ. Có những cây khẳng khiu nhưng lại sinh hoa thơm trái ngọt. Vì thế phải kiên nhẫn. Kiên nhẫn chờ đợi và kiên nhẫn vun trồng. Khi ta xét đoán người hãy biết chờ đợi cho đến thời đến buổi, đừng sớm xét đoán. Khi ta xét mình ta hãy biết kiên nhẫn để không nản lòng nhưng vẫn luôn vươn lên dù những yếu đuối khiếm khuyết. Sẽ có ngày Chúa cho sinh hoa quả tốt lành.
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi đức tin kiên vững như tổ phụ Áp-ra-ham. Ra đi khi tuổi đã cao nhưng vẫn tin lời Chúa hứa. Chưa thấy đất chẩy sữa và mật nhưng vẫn tiến bước trong sa mạc. Chưa thấy con cháu nối dõi, đã phải chọn gia nhân làm người thừa kế theo thói thế gian nhưng vẫn tin vào lời Chúa hứa. Và quả thật Chúa đã giữ lời hứa cho Áp-ra-ham thành tổ phụ những người tin ngày càng đông đúc và kéo dài cho đến tận thế. Đức tin kiên vững là một cây tốt sinh hoa trái xum xuê, như cây trồng bên bờ suối, cho hoa trái quanh năm và cây không bao giờ tàn úa (năm lẻ).
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi sự trung thành với giao ước. Đã ký kết giao ước rồi Chúa luôn trung thành. Lời Chúa hứa là một thân cây có khi gai góc, có khi khẳng khiu, có khi èo uột tưởng chừng tàn lụi trong mùa đông lạnh giá. Đó là những thử thách từ hoàn cảnh khó khăn, từ những vấp ngã của con người, từ những thế lực trần gian luôn nhũng nhiễu quấy phá. Nhưng rồi đến thời điểm Chúa định, một mùa xuân bừng dậy, cây lời hứa đơm hoa kết trái phúc lộc man vàn. Chỉ cần con người kiên tâm, trung thành vượt qua mùa đông lạnh giá, Chúa trung thành chờ đón tôi trung vào mùa xuân vĩnh cửu.
Cây tốt sinh quả tốt đòi hỏi can đảm dấn thân ký kết giao ước như vua Khít-ki-gia. Biết Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống và sức mạnh. Biết tổ tiên đã sai lỗi khi phế bỏ giao ước nên đã đi vào tiêu vong. Vua thống hối và lập tức ký kết giao ước với Thiên Chúa. Đó chính là vun trồng cây tốt. Đó chính là trồng cây trên đất tốt. Đó chính là chọn mặt gửi vàng (năm chẵn).
Xin cho con biết phân biệt cây tốt với cây xấu. Xin cho con đừng trở thành cây xấu sống giả dối. Chỉ có hình thức bề ngoài đẹp đẽ nhưng linh hồn xấu xa. Chỉ có lời nói đẹp đẽ nhưng ý hướng đen tối. Xin cho con trở thành cây tốt. Sống chân thật. Nói lời chân thật. Để sẽ có hoa trái là hạnh phúc đích thật.
Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ ngôn:
Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị tiên tri trả lời: "Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có con".
Thế nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm, có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.
Vị giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười trả lời: "Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa".
Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác. Ðó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: "Không phải những ai đã nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi". Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi ngài viết: "Ðức tin không có việc làm là đức tin chết tận gốc rễ".
Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình; trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc: chúng ta làm ố danh sự đạo. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: Những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị, là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời lại sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin yêu khiến chúng ta cởi mở với tha nhân, có lòng từ bi đối với những người sống trong túng thiếu và quẫn bách.
Ước gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể. Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ đối với những người xung quanh.
“Anh em hãy coi chừng những ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt, thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” (Mt. 7, 15-17)
Những tiếng chào mời khắp nơi
Thời nay càng không thiếu những người nói hay nói khéo. Người ta gặp họ nhan nhản ở trong các nhà thờ. Nhưng họ cũng có mặt đông đảo ở những nơi công cộng, trên vô tuyến, trên truyền hình. Những kẻ ba hoa này thích được người ta coi mình là những thày dạy đời, những nhà tiên tri. Mỗi người đều có những ngón nghề riêng để nói hay về hạnh phúc. Vấn đề là họ không nói chung cùng một tiếng nói. Kẻ nói trắng, người nói đen.
Mỗi ngày, những người công dân bình thường đều bị chới với vì những làn sóng thông tin, sứ điệp ùa tràn từ mọi phía. Những Kitô hữu cũng được người ta mời chào đón nhận những lý thuyết mới lạ và chạy theo những con đường rất trái ngược nhau. Phải tin ai đây? Phải coi chừng ai? Có cách nào để biết được ai là tiên tri thật, ai không phải?
Cây tốt, trái tốt
Có một cách rất đơn sơ mà không sợ sai lầm. Đó là đừng để cho những lời nói hay nói khéo kia mê hoặc mình và phải xét xem đâu là hậu ý. Đó là để mắt kỹ coi xem những nhà “giảng thuyết” ấy sống điều họ giảng như thế nào. Ta còn phải kiểm chứng cụ thể để biết những lý thuyết hay ho kia gây được những hiệu quả thực tiễn nào
Cây tốt thì sinh trái tốt. Ý tưởng tốt chỉ có thể dẫn tới những hành vi tốt. Tiên tri thật thì giúp con người sống hạnh phúc hơn, hiệp nhất hơn, phát triển hơn. Nếu thực hành điều họ dạy chỉ làm ta chia rẽ, dẫn đến hận thù thay vì yêu thương, gieo rắc bạo lực và ương ngạnh thay vì hiền từ và hiểu biết, thì rõ ràng là chúng ta phải xem xét lại những vị tiên tri giả này. Cứ xem hoa trái của họ thì biết được ai là tiên tri tốt, ai là tiên tri giả. Không có gì đơn giản hơn vậy.
Nhiều người tỏ ra bị sốc khi nghe câu tuyên bố của Đức Giêsu: “... cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt”. Thật ra, trong thực tế, vẫn có nhiều người “gần mực mà không đen”, hay “gần đèn mà chẳng rạng”!
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu nói ở đây đó là hãy biết cách nhận định khôn ngoan chứ không phải xét đoán hời hợt hay mang sẵn lòng hận thù hoặc tính kiêu ngạo. Nhận định tức là căn cứ vào kết quả để biết con người một cách khách quan. Tiêu chuẩn là: “Xem quả biết cây”.
“Cây” ở đây chính là mình, còn “hoa, lá, cành” chính là những việc đạo đức như: dâng lễ, kinh sách, cầu nguyện, tham gia các hội đoàn và những việc lành khác.... Còn “quả” ở đây chính là gương sáng, hy sinh, yêu thương, tha thứ..., tức là từ bi - bác ái, yêu Chúa hết lòng và thương yêu anh chị em cách chân thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người trong chúng ta lại có quá nhiều “hoa, lá, cành”, mà “quả” thì không có, hay có nhưng lại bị “sâu”. Tức là hăng say làm việc chỉ vì ham danh, huênh hoang, tự phụ, ích kỷ nên không thể sinh ra “quả” tốt được. Những người đó họ làm mọi việc vì thực dụng cá nhân, không vì yêu mến Chúa và tha nhân, nên họ chẳng khác gì chiếc phèng la kêu inh ỏi, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thánh Phaolô cũng khuyên dạy tín hữu thành Corintô như sau: "Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3). Vì thế: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi”.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải trở nên những tiên tri thật của lòng mến, chứ đừng trở nên tiên tri giả của tham sân si. Hãy trở nên con chiên hiền lành của Chúa chứ đừng trở nên sói dữ. Không được mang danh và hình ảnh của chiên, nhưng thực ra chỉ là mặt chiên, mà là dạ sói!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn gắn chặt cuộc đời của chúng con vào Chúa, để như một sự tác sinh, chúng con được trở nên giống Chúa, hầu trở nên những hoa trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
Sứ điệp: Xem quả thì biết cây. Định luật đó được Chúa Giêsu áp dụng cho hành vi của con người. Việc làm tốt cho thấy người tốt, việc làm xấu biểu lộ một con người xấu. Thưởng phạt sẽ tùy đó mà định đoạt.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước mặt Chúa, mọi hành vi của con đều được phơi bày một cách trung thực, hoặc đó là một việc tốt, hoặc đó là một việc xấu. Các việc làm của con đều biểu lộ con người thật của con. Qua ví dụ về cây vả, Chúa muốn con trở nên người tốt, sống tốt, sống ngay lành, để hoa quả cuộc đời con là những trái ngon, quả ngọt.
Với kinh nghiệm thông thường về trồng cây, con biết rằng muốn có trái ngon, quả ngọt, người làm vườn phải tốn bao công sức để phun thuốc, cuốc xới, bón phân, tưới tắm. Cũng vậy, để cho cuộc đời con được tốt đẹp, con cũng cần rất nhiều công chăm sóc. Là một học sinh, con sẽ phải hy sinh các thú giải trí để chăm chú vào việc học tập. Là người công nhân, con sẽ phải thể hiện tốt vai trò và trách nhiệm của bậc mình. Là người Kitô hữu, con sẽ phải sống tốt ơn gọi của mình theo tinh thần phúc âm.
Lạy Chúa, tất cả những điều ấy, sao con thấy nặng nề, khó khăn, cực nhọc, và có lúc con đã đặt ra câu hỏi: “Tại sao lại phải phấn đấu như vậy?”. Lời Chúa hôm nay đã đem lại cho con câu trả lời: “Muốn có quả tốt, đòi hỏi cây phải tốt; không thể có quả tốt nơi cây xấu được!”
Xin Chúa cho con biết xác tín vào Lời Chúa dạy để đời con không ngừng sống tốt trước mặt Chúa. Amen.
1. Chúa Giêsu bảo các môn đệ phải coi chừng tiên tri giả: bề ngoài thì họ giả bộ hiền lành như con chiên, nhưng thật sự họ ác ôn như sói dữ. Muốn biết họ thật giả, cần phải xem cách sống họ có phù hợp với giáo huấn của Chúa không? Vì cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cũng vậy, người tốt thì lời nói việc làm của họ cũng tốt, còn kẻ bê tha thì lời nói việc làm của họ cũng bê bối. Vì lòng đầy tràn thì sẽ thố lộ ra bên ngoài bằng lời nói, việc làm và đời sống hằng ngày.
2. Lời Chúa hôm nay dạy cách nhận định khách quan. Nhưng trước hết ta cần lưu ý rằng lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng đoán xét người khác.. Đoán xét là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và kết án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết con người. Đoán xét dễ chủ quan, còn nhận định thì phải khách quan. Đoán xét đưa đến việc lên án người khác, còn nhận định chỉ để rút ra suy nghĩ và chọn lựa cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên đoán xét nhưng phải khôn ngoan nhận định cách khách quan.
Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả biết cây” (Carôlô).
3. Tiên tri theo đúng nghĩa là người nói thay Thiên Chúa, là người chỉ nói những gì Thiên Chúa truyền, và đôi khi biến cả đời mình thành sứ điệp của Thiên Chúa. Đó là trường hợp của Giêrêmia khi ông khoác vào người một cái ách và đi giữa phố chợ để gây ý thức nơi dân Israel về cái ách tội lỗi đang đè nặng trên họ. Đó cũng là trường hợp của Hôsê khi ông cưới một cô gái điếm để tố cáo sự bất trung của dân chúng.
Tiên tri giả là người nhân danh Thiên Chúa để nói những gì không phải là của Chúa và có cuộc sống không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Chúa Giêsu đã so sánh tiên tri giả với một thứ cây xấu, cây xấu chỉ có thể sinh trái xấu, và người ta có thể xem quả để biết cây.
4. Để phân định ai là tiên tri giả, ai là tiên tri thật, chúng ta hãy dựa vào tiêu chuẩn này: Có tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa như đức tin tông truyền từ các Tông đồ dạy không? Càng ngày càng xuất hiện nhan nhản những kẻ xưng mình là “thị nhân”, là “con gái yêu”, là tiên tri thật”, là “được Chúa sai đi” rồi tự cho mình được “mạc khải” nhưng thực tế lại rao truyền điều đi ngược lại với đức tin tông truyền mà Chúa Giêsu giao cho các Tông đồ truyền lại cho Giáo hội. Chẳng hạn, trong những năm gần đây có cái gọi là “sứ điệp từ trời” của một phụ nữ tự xưng là “con gái yêu” của Chúa, rao truyền những điều nghịch đức tin, dựa theo những con số tượng trưng trong Thánh Kinh rồi giải thích theo nghĩa đen, lên án Giáo hội trong công đồng Vatican II, bất phục và không tin vào sự kế vị hợp pháp của Đức Thánh Cha... Như thế, chính cái gọi là sứ điệp ấy tự mâu thuẫn với lời Chúa dạy (Hiền Lâm).
5. Người Kitô hữu nhờ phép rửa cũng tham dự vào chức vụ tiên tri của Đức Kitô. Một cách nào đó, qua ngôn từ và hành động, cuộc sống của họ cũng phải là một sứ điệp của Thiên Chúa cho những người chung quanh. Nếu cuộc sống người Kitô hữu không đủ sức là một sứ điệp của Thiên Chúa, thì hẳn người đó cũng có thể bị coi là một tiên tri giả. Như vậy, tiên tri giả hay Kitô hữu giả là người thiếu sự thống nhất hòa hợp giữa niềm tin và cuộc sống. Người Kitô hữu giả là người mang danh hiệu Kitô, nhưng lại không sống những cam kết của mình. Đó là người chỉ đóng khung niềm tin của mình trong bốn bức tường nhà thờ, mà không thể hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hằng ngày qua những gặp gỡ với tha nhân. Đó là người không muốn sống như Đức Kitô, nhưng chỉ buông theo con người cũ của những xu hướng tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).
6. Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên mà bên trong là lòng dạ của sói dữ. Họ trưng bầy một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Về vấn đề này, cha ông chúng ta đã có kinh nghiệm và thường nói:
Mua cá thì phải xem mang, Mua bầu xem cuống, mới toan khỏi lầm. Con người muốn biết thâm tâm, Nhìn vào công việc, chẳng lầm mảy may.
7. Truyện: Xem quả biết cây.
Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:
- Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?
Người xem tướng thưa rằng:
- Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem “bạn người ta” mà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cần, biết giữ phép nước thì thần đoán người ấy là người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.
Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.
Nếu thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hay dở.
Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở cường thịnh nhất đời Chiên Quốc.
Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?
Lời Chúa hôm nay dạy cách nhận định khách quan. Nhưng trước hết ta cần lưu ý rằng lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng xét đoán người khác. Đoán xét là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và lên án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết con người. Đoán xét dễ chủ quan, còn nhận định thì phải khách quan. Đoán xét đưa đến việc lên án người khác, còn nhận định dễ đưa tới suy nghĩ và chọn lựa cho chính mình. Trong cuộc sống ta không nên xét đoán nhưng phải khôn ngoan nhận định một cách khách quan.
Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn “Xem quả biết cây.”
Suy gẫm
1. Hãy xem “cây” đạo đức của chính bản thân mình. Hoa lá cành là những việc dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện, lời tôi nói và dạy người khác. Còn “quả” là lòng yêu mến chân thành đối với Thiên Chúa và tha nhân thể hiện qua việc bác ái, là cách ứng xử của tôi trong những lúc khó khăn, là cách tôi lựa chọn. Phải chăng tôi là một cây hoa lá cành rất xum xuê mà “quả” thì không có được bao nhiêu.
2. Ta hãy nhớ bài ca bác ái của Thánh Phaolô: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn tiên tri như tôi có đem hết tài sản mà bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng có ơn ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3).
3. “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7, 15).
Hồi lãnh nhận Bí tích rửa tội để trở thành người Kitô hữu, tôi được tham dự vào chức vụ: Tư tế, Vương Giả và Ngôn Sứ của Đức Kitô.
Một khi mang trong mình chức vụ Ngôn Sứ, tôi phải truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa cho những người chung quanh qua lời nói, hành động và cuộc sống của tôi.
Lắm lúc tôi chỉ là một tiên tri giả. Đó là lúc tôi không hòa hợp được niềm tin vào cuộc sống; mang danh Kitô nhưng không sống theo những cam kết của mình; đóng khung niềm tin của mình trong bốn bức tường Nhà thờ thay vì thể hiện niềm tin ấy qua những tiếp xúc hằng ngày với tha nhân.
Giờ đây, Lạy Chúa, xin giúp chúng con trở thành những ngôn sứ đích thực của Chúa, luôn biết nói những điều Chúa truyền dạy và sống những điều đó.
3. Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác. Đó có thể là ý tưởng nổi bật trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến trái tốt từ cây tốt. Qua kiểu nói này, hẳn Chúa Giêsu muốn nói đến những thể hiện đích thực của lòng tin: một đức tin chân thật luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Chính Ngài đã nói: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời, mà chỉ những ai thực hành ý Chúa mới được vào mà thôi.” Thánh Giacôbê đã lấy lại giáo huấn này khi Ngài viết “Đức tin không việc làm là đức tin chết tận gốc rễ.”
Chúa Giêsu đã tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những yếu hèn và vấp ngã của con người, nhưng Ngài không hề dung chấp cho thái độ giả hình của những người Biệt phái. Ngài gọi họ là những tiên tri giả, những người đội lốt chiên, nhưng bên trong là lòng dạ của sói dữ; họ trưng bày một bộ mặt đạo đức, nhưng cuộc sống của họ gồm toàn những hành động xấu xa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước thói giả hình. Bao lâu giữa niềm tin và cuộc sống còn có khoảng cách, thì bấy lâu chúng ta vẫn còn là những kẻ giả hình: trên cây đức tin của chúng ta chỉ có những quả xấu; cuộc sống chỉ còn là những phản từ, hay nói theo ngôn ngữ quen thuộc; chúng ta làm ố danh sự đạo.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ tín hữu Côrintô: những người rước Mình Thánh Chúa mà vẫn tiếp tục sống trong chia rẽ và kỳ thị là những người sống trong mâu thuẫn không thể chấp nhận được, và họ rước Mình Thánh Chúa một cách bất xứng. Bí tích Thánh Thể không thể tách rời khỏi giới răn yêu thương: người ta không thể rước Mình Thánh Chúa mà đồng thời sống xa lạ với anh em đang bị đói khát, đau yếu, tù đày. Từ việc rước lễ phải nẩy sinh trong chúng ta sức mạnh của niềm tin với những người sống trong túng thiếu và quẫn bách.
Ước gì chúng ta luôn biết thể hiện đức tin của chúng ta bằng những hành động cụ thể. Ước gì hoa trái của đức tin chúng ta trở thành của ăn có sức nuôi dưỡng bồi bổ đối với những người xung quanh.
1. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta về cách nhận định khách quan. Trước hết, ta cần lưu ý lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng xét đoán người khác.
Xét đoán là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và lên án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết nguyên nhân..
Xét đoán thì dễ chủ quan, còn nhận định thì khách quan.
Xét đoán thường dễ đưa chúng ta đến việc lên ánngười khác, còn nhận định thì giúp chúng ta suy nghĩ và lựa chọn ra những bài học sống cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên xét đoán nhưng phải khôn ngoan nhận định một cách khách quan.
Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn "Xem quả để biết cây".
Cha Ông chúng ta thường nói:
"Mua cá thì phải xem mang, Mua bầu xem cuống, mới toan khỏi lầm. Con người muốn biết thâm tâm, Nhìn vào công việc, chẳng lầm mảy may"
Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:
- Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?
Người xem tướng thưa rằng:
- Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn người tamà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cẩn, biết giữ phép nước thì thần đoán người dân ấylà người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.
Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.
Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hoặc dở.
Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc.
Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?
2. Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện dụ ngôn: Hai vợ chồng kia lấy nhau đã nhiều năm mà không được một đứa con nào cho vui cửa vui nhà. Năm ấy có một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp đỡ nhiều lần. Sau khi đã cho vị tư tế ăn uống no nê, hai vợ chồng đã xin với ông:
- Khi ngài lên Đền thờ, làm ơn cầu nguyện với thần cho vợ chồng tôi có được đứa con.
Sau đó, vị tư tế lên đền thờ. Ông cầu nguyện cho vị ân nhân như sau:
- Tâu lạy Thần Linh, vợ chồng người đó rất tử tế với con, xin ngài thương xót họ và cho họ có con để cho vui cửa vui nhà.
Vị thần trả lời một cách nghiêm nghị và dứt khoát:
- Theo như số phận đã định, thì gia đình đó không bao giờ có con.
Năm năm sau, vị tư tế đó lại lên đường đi hành hương một lần nữa và cũng dừng lại ở gia đình ấy. Thấy có hai đứa bé đang nô đùa trước cổng nhà, ông hỏi:
- Con ai vậy?
Và người cha đáp:
- Con chúng tôi đấy.
Thấy vị tư tế bỡ ngỡ, người đàn ông nói:
- Năm năm trước, khi ngài từ biệt chúng tôi thì có một vị nổi tiếng thánh thiện đã đến làng này, chúng tôi đón tiếp ông, ông đã chúc lành cho hai vợ chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành đó.
Nghe thế vị tư tế hối hả lên Đền thờ và trách vị thần:
- Tại sao ngài đã bảo tôi là số họ không con, mà bây giờ họ có hai đứa?
Vị thần nghe xong thì cười và nói:
- Có lẽ một thánh nhân nào đã làm như thế, các thánh nhân có thể làm thay đổi số mệnh người đời.
Mẹ Têrêsa nói: "Hãy cố gắng làm sao để cho ân sủng Chúa tác động trong linh hồn chúng ta, bằng cách chấp nhận tất cả những gì Ngài trao ban cho và dâng cho Ngài tất cả những gì Ngài muốn lấy đi. Sự thánh thiện đích thực hệ tại ở chỗ thi hành Thánh Ý của Thiên Chúa với nụ cười trên môi".
Vâng, cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác. Một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động mọi người. Chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện, tốt lành để đem lại những hoa trái tốt đẹp cho gia đình chúng ta, cho giáo xứ chúng ta. Trái tốt sinh từ cây tốt; cây tốt sinh trái tốt là lẽ đương nhiên.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng cho tình yêu Chúa. Amen.
Những kẻ giả hình là những kẻ nói một đàng, nhưng làm một nẻo. Chúng ta hiểu rõ ý nghĩa này theo như Chúa đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé” (Mt 7, 15).
Như vậy, những người biệt phái và luật sỹ là những hạng người sống giả hình mà Chúa đã nói rất nhiều lần với họ về vấn đề giả hình này: “Các con phải coi chừng những ông kinh sư kia ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những ngưới ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12, 38 – 40). Do đó, bên ngoài họ là đạo đức, bên trong là ham mê của cải tiền bạc, bên ngoài là trái nho, bên trong là bụi gai, bên ngoài là trái vả, bên trong là cây găng, bên ngoài là chiên, bên trong là sói dữ. Vì thế, chúng ta rất dễ lầm tưởng đối với những người sống giả hình này: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sỹ và biệt phái giả hình: Vì các ngươi giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết mà mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác.” (Mt 23, 27 – 28). Chúng ta phải có một thái độ tỉnh táo để mới có thểnhân ra sự giả hình nơi những người khác và nơi cả chúng ta nữa để chúng ta tránh sống giả hình, vì chúng ta lừa được người đời, nhưng không đánh lừa được Chúa, bởi Chúa biết hết mọi: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con mà ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả” (Tv 139, 1 – 3).
Do đó để nhận ra người nào có lối sống giả hình hay không, Chúa nói với chúng ta xem quả thì biết cây, xem hành động của họ có tốt thì biết tâm hồn của họ mới tốt, còn hành động xấu thì tâm hồn họ xấu: “Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng” (Mt 7, 16 – 20). Thât là rất khó để mà nhận ra, để mà phân định một người đó có lối sống bề ngoài, giả hình, giả bộ. Nếu một người nào đó có lối sống giống như các biệt phái, luật sỹ, chúng ta khó nhận ra vô cùng. Vì thế, chúng ta cần ơn Chúa giúp chúng ta để chúng ta mới phân định một cách chính xác và có hiệu quả nhất.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con trên con đường theo Chúa, chúng con đừng ngã vào chỗ tìm lợi danh thú, xin cho chúng con đi đúng đời lối của Chúa và giúp chúng con ngoảnh mắt đừng nhìn thấy cảnh thế sự phù hoa tro bụi, chóng qua để lòng chúng con khỏi vương vấn sự đời giả tạo này. Xin Chúa hãy hướng dẫn dạy dỗ chúng con và giúp chúng con tuân giữ sao cho vẹn toàn đẹp ý Chúa để chúng con vui sướng mãi muôn đời trong nhà Chúa sau này. Amen. ------------------------------
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 12 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, sẽ sống được giới luật yêu thương của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Samuen Quyển I nói về: Gionathan yêu Đavít như yêu chính mình. Tình bạn giữa Đavít và Gionathan dễ làm ta mủi lòng. Tình bạn đó làm nổi bật ảnh hưởng cực kỳ lớn lao của một người có sức thu hút, ngay cả, với những ai lẽ ra phải chống lại mình. Bè bạn thương nhau mọi thời mọi lúc, vào ngày hoạn nạn mới thấy rõ ai là anh em. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, sẽ điều khiển được các tham vọng, ham muốn của mình, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Chân Phước Enrêđô Viện Phụ nói: Tình bằng hữu chân thật, hoàn hảo và vĩnh viễn… Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc; ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Người kính sợ Đức Chúa điều khiển được tình bạn của mình; vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, sẽ trung thành tuân giữ những gì đã kết ước cùng Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Sáng Thế nói: Ông Ápraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính. Đức Chúa lập giao ước với ông. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 104, vịnh gia cho thấy: Giao ước đã lập ra, muôn đời Chúa nhớ mãi. Hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân. Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa, và suy gẫm mọi kỳ công của Người.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Ai ở lại trong Thầy, thì sinh nhiều hoa trái. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Giao ước đã lập ra muôn đời Chúa nhớ mãi, nếu chúng ta ở lại trong Chúa như Chúa ở lại trong chúng ta; nếu chúng ta trung thành với Chúa như Chúa luôn trung thành với chúng ta, thì, chúng ta sẽ sinh được nhiều hoa trái. Cứ xem cách hành xử của ông Gionathan đối với ông Đavít, thì chúng ta sẽ biết ông là ai. Hoa quả trung thành của ông được sinh ra từ lòng trung thành tuân giữ những gì ông đã kết ước với ông Đavít. Ông Ápraham được coi là người công chính vì đã tin Đấng sẽ thực hiện những gì Người đã hứa với ông. Ông Gionathan đã trung thành với Đức Chúa, ở lại trong lòng kính sợ Đức Chúa, vì thế, ông không hề nao núng trước những lời kích thích đầy tham vọng của vua Saun, nhằm, khơi dậy lòng ghen ghét, thổi bùng lửa ghen tuông và gia tăng nỗi cay đắng trong ông. Ông vẫn giữ trọn lời kết ước, vẫn mạnh mẽ trước những tiếng doạ nạt, vẫn nhẫn nhục trước những lời nguyền rủa. Vì tình bằng hữu, ông coi rẻ ngai vàng, chỉ nhớ đến tình thân mà không màng danh lợi. Tình bằng hữu của ông thật cao cả, chân thật, hoàn hảo, và vững bền: không ghen tuông nào có thể hủy hoại, không ngờ vực nào có thể làm suy giảm, không tham vọng nào có thể phá tan. Bị thử thách đến vậy, mà ông vẫn không nao núng; bị xô đẩy đến thế, mà ông vẫn không ngã quỵ; bị nguyền rủa thế nào, ông cũng không lay chuyển; bị lăng mạ ra sao, ông cũng không đổi thay. Ước gì chúng ta cũng biết bắt chước ông Gionathan để sống tình bằng hữu với Chúa như vậy. Ước gì chúng ta cũng như Ápraham hằng tin tưởng vào Đấng luôn trung thành tuân giữ những gì Người đã kết ước với ông. Ước gì chúng ta hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta". "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn". Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài, để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22), chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin, vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận. Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính. Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16). Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa! cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21). Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định. Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó. “Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21). Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c. 24). Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không, có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không. “Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm. Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu, khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận. Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui. Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23). Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa. Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha, nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền. Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay. Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ. Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng, ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng. Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt, mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát. Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang, trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ. Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà. Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm? Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình. Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ---------------------------------
Thật đáng ngạc nhiên. Và đáng sợ hãi. Những người đã từng “nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ”. Nhưng Chúa nói với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”. Chúa không biết họ. Vì họ không từ Chúa mà đến. Chúa không sai họ. Họ làm điều gian ác. Vì làm do lòng kiêu ngạo, phô trương. Vì bản thân. Không phải vì Chúa. Họ không tuân giữ Lời Chúa. Họ là những ngôi nhà xây trên cát. “Ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”.
Khi lên ngôi vua, Giơ-hô-gia-khin đã từ bỏ Lời Chúa. “Vua đã làm điều dữ trái mắt Đức Chúa hệt như vua cha”. Vì thế mà triều đại nhà vua mau chóng tàn lụi. Na-bu-cô-đô-nô-xo tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Phá huỷ đền thờ. Và các đồ thờ bằng vàng. “Vua đày Giơ-hô-gia-khin sang Ba-by-lon; vua đày mẹ vua này, các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ, sang Ba-by-lon. Tất cả những người có thế giá, bảy ngàn người, thợ rèn và thợ làm khoá, một ngàn người, và tất cả các binh lính” (năm chẵn). Đó là xây nhà trên cát. Sụp đổ tan tành.
Áp-ra-ham xây nhà trên đá. Vì ông luôn tuân giữ Lời Chúa. Chúa hứa cho ông một dòng dõi đông đúc. Nhưng 80 tuổi vẫn chưa có con. Ông toan chọn người quản gia làm người thừa kế. Nhưng Chúa không đồng ý. Bà Xa-rai thấy mình không có con đề nghị ông đi lại với nàng hầu A-ga của bà. A-ga có thai. Khinh thường bà chủ. Nên bà hành hạ. Đến độ A-ga phải bỏ trốn. Nàng sinh con. Nhưng Chúa không đồng ý cho Ít-ma-en thừa kế. Phải chính là con ruột của Áp-ra-ham mới được. Áp-ra-ham vẫn tin tưởng vào Chúa. Và cuối cùng lời Chúa hứa được thực hiện. Bà Xa-ra đã sinh ra I-sa-ác. Đó mới thật là dòng dõi của Áp-ra-ham. Đó là Chúa thực hiện lời hứa. Nhờ Áp ra-ham kiên trì tin tưởng vào Lời Chúa Hứa. Ông thực hành Lời Chúa. Ông trở thành ngôi nhà xây trên đá tảng vững bền. Lời Chúa hứa với ông đã được thực hiện (năm lẻ).
Xin cho con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Để khi khó khăn thử thách xảy đến, con vẫn vững vàng. Như nhà xây trên đá.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.
Tin Mừng phải được thể hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai ngôi nhà: ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể làm lay chuyển, đó là hình ảnh người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên cát, đó là hình ảnh của những người nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực hành.
Tin Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.
Không thể có Kitô giáo và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ Chúa Kitô mà không đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng những lời nói suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên hoàn thiện như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn là những kẻ nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm một nẻo là kẻ lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ bằng cuộc sống trung thực mà thôi.
Nguyện xin Chúa gia tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng trên môi miệng được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho đức ái luôn chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt. 7, 21)
Để xứng đáng là một Kitô hữu đích thực, tin vào những điều Hội thánh dạy, không đủ. Đọc Phúc âm, cảm mến giáo huấn của Chúa, và tâm trí, ngay cả tự thâm tâm, vẫn thiết tha trìu mến Phúc âm và lời Chúa dạy, vẫn không đủ. Phải hơn thế nữa: thực hành điều mình tin, tức là đưa đạo vào cuộc sống, đó mới là điều căn bản. Thế mà có nhiều Kitô hữu vẫn vỗ ngực nói rằng mình tin Chúa, nhưng họ lại không sống đạo như vậy. Họ là những người không thực hành đạo.
Những người giữ đạo ngày Chủ nhật
Khi chúng tôi nói những người không sống đạo, chúng tôi nghĩ ngay đến những người không đi lễ ngày chủ nhật. Cách họ giữ đạo như vậy, rõ ràng là có vấn đè. Quả là điều bất thường, khi đã đi theo một Giáo hội, mà lại không hề tham dự một buổi hội họp nào của Giáo hội ấy. Nhưng trong số những người không đi lễ ngày chủ nhật này, còn có nhiều người vẫn thực hành đạo trong đời sống, và thực hành tốt. Họ yêu mến những người thân cận. Họ vẫn cầu nguyện Chúa; khi phải lựa chọn việc phải làm, thái độ phải cư xử, họ thường lấy Phúc âm để soi sáng cho những lựa chọn của mình, và đôi khi họ làm còn nhiều hơn và tốt hơn cả những người vốn thấy có mặt đều đặn ở nhà thờ.
Còn những người khác
Những người đến nhà thờ ngày chủ nhật, người ta gọi họ là những người còn giữ đạo. Đúng. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ chỉ tới để dự lễ mà thôi. Chỉ có thế thôi. Ở bên ngoài nhà thờ, họ cũng chỉ hoàn toàn là những người không sống đạo vậy.
Những Kitô hữu đi lễ ngày chủ nhật mà không thực hành Phúc âm thì cùng chính là những người không sống đạo mà còn tệ hơn. Mỗi ngày chủ nhật, họ có kêu cầu Chúa “Lạy Chúa, lạy Chúa”, cũng sẽ vô ích thôi. Chúa sẽ không nhân từ với họ. Người sẽ nói với chính họ rằng: “Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!”.
Chúng ta vẫn thường đi lễ. Tốt lắm. Nhưng ta có phải là những người sống đạo thực sự không?
Gần cầu Bình Triệu, quận Thủ Đức – Sài gòn, nơi ven sông có một căn nhà biệt thự rất đẹp. Người người nhìn thấy đã trầm trồ, khen ngợi công trình tuyệt mỹ này. Hai tháng sau, người dân thấy lạ kỳ đến ngỡ ngàng vì không còn thấy nó đâu nữa! Hóa ra, trong hai tháng vừa qua, căn nhà mà người ta đã từng thích thú, giờ đây, nó đã bị nước cuốn trôi ra xa bờ khoảng 15m. Phải chăng ngôi nhà này móng không vững, hay ở dưới đã có dòng nước xoáy ngầm lớn làm cho đất bị sụt?
Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.
Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.
Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức vì hình thức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: "Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ" (ÐHV. 44).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc đời của mình trên nền tảng Lời Chúa chứ không phải thuần túy qua công việc của Chúa. Như thế, chúng con sẽ đứng vững ngay cả khi thử thách dồn dập đến với chúng con. Amen.
Sứ điệp: Muốn vào Nước Trời phải biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Đó mới là người khôn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng ai dại dột chọn bãi cát để xây nhà. Tuy thế, nhiều khi con lại dại dột nghe Lời Chúa mà chẳng thực thi. Người khôn khi xây nhà biết đặt đá làm nền để căn nhà vững vàng, an toàn và bền lâu. Khôn ngoan là thế: tốn tiền nhưng không tốn tiền vô ích; nghe Lời Chúa nhưng không nghe vô ích, biết thực thi Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, hằng ngày Chúa ban cho con những vật liệu thiêng liêng là Lời Chúa. Xin thêm ơn khôn ngoan cho con, đừng để những vật liệu quý giá đó trở nên vô ích, đừng để lòng thương của Chúa nên phí phạm nơi con, đừng để công lao nghe Lời Chúa nên uổng công.
Chúa dạy con: “Không phải cứ thưa: lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời”. Con hiểu rằng dù đọc kinh cho dài, nghe lời Chúa hằng ngày, mà con chẳng thương nhau: cứ cãi lộn, cứ trộm cắp, cứ đổ vạ cáo gian, cứ nói xấu nhau…, thì chưa có gì để bảo đảm cho con được vào Nước Trời. Xin Chúa giúp con biết kéo dài lời cầu nguyện vào trong cuộc sống, và biết áp dụng luật Tin Mừng vào cách ăn nết ở của con.
Nước Trời là nơi Chúa tình yêu ngự trị và là nơi quy tụ những người biết sống yêu thương. Xin cho con biết luyện tập yêu thương mọi ngày để con nên người đầy tớ khôn ngoan, đáng được vào dự hội yêu thương thiên đàng. Amen.
Ghi nhớ: “Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát”.
Đầu tháng 5/2009, cơn bão Nargis đổ bộ vào châu thổ Irrawaddy của Miến Điện (Myanma) với những cơn lốc xoáy làm nước dâng lên sau bão với mức 3,5 m. Nước tràn vào khu vực đồng bằng làm cho hàng triệu ngôi nhà sụp đổ và gây ra cái chết cho 78.000 người.
Theo Đài BBC, ngày 19/5/2009, ý kiến của các chuyên gia cho rằng: Châu thổ Irrawaddy của Miến Điện có nhiều nét tương đồng với đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá dễ bị thiệt hại nặng nề trong trường hợp các cơn bão mạnh cấp 14 đổ bộ vào, châu thổ rộng lớn này đa số là nhà cửa sơ sài, tạm bợ với những mái tranh, vách đất, không có nhiều các công trình kiên cố như đổ móng, cột bê tông…
Suy niệm
Chúng ta muốn xây nhà thì phải có nền móng, cột bê tông để nhà thêm vững chắc, trước phong ba bão tố, lụt lội có thể trụ vững... Cho nên, ông bà ta có dạy: “Nhà có nền ắt phải vững” (Tục ngữ).
Lời khuyên của cha ông về nhà xây trên nền vững đưa chúng ta về với bối cảnh Tin Mừng Mt 7,21-27: “Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát”. Nhà ở đây tượng trưng cho cuộc đời, tượng trưng cho ý nghĩa nơi nương thân cả cuộc sống trong Chúa. Nếu như ngôi nhà vật chất cần được xây dựng trên nền móng bê tông bền vững như đá tảng để có thể đứng vững trước phong ba, bão tố, lũ lụt…, thì cuộc sống nhân sinh cũng phải được xây dựng trên nền móng đá vững chắc, nền móng đó là niềm tin, tin vào chính Thiên Chúa. Tin tưởng vào Ngài là lắng nghe lời Ngài và đem ra thực hành như Chúa Giêsu đã dạy: “Ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá” (Mt 7,24-25). Nghe Lời Thầy đem ra thực hành là tạo nền móng vững chắc cho cuộc sống, vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Phúc cho ai nghe lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28).
Tin Mừng nhắc nhớ chúng ta hãy tìm lại Đức Kitô là nơi nương náu, là nền móng để chúng ta xây cuộc đời như Thánh Vịnh đã cất tiếng ca nguyện: “Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn” (Tv 30,3b). Xây nhà của kiếp nhân sinh trên đá là khi nghe và sống Lời Chúa, chúng ta hãnh diện xác tín vào Đức Kitô - Đá tảng. Với niềm tin mà chúng ta sống khởi sắc vui tươi. Dựa trên chính Đức Kitô không thể hoài nghi là tiến bước hy vọng trong cuộc đời, không hề thất vọng trước những chờ đợi nơi Thiên Chúa.
Xây cuộc sống của kiếp nhân sinh trên Đá tảng đó là đứng vững trong đức tin. Tất cả những hoài nghi, ngập ngừng của niềm tin đặt vững vàng trên Đá tảng - Đức Kitô - “Người là đá tảng vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62,8). Chính vì thế, chúng ta đặt nền móng đời của kiếp nhân sinh nơi Đức Kitô như thánh Phaolô đã dạy: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Ðức Giêsu Kitô” (1Cr 3,11).
Ý lực sống: “Duy Người là Đá tảng, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng”. (Tv 62,3.7)
Tất cả lời giảng dạy và dụ ngôn hôm nay nhấn mạnh đến tiêu chuẩn của một người môn đệ đích thực... không phải cần một niềm tin trên lý thuyết, trên môi miệng... nhưng điều cần thiết nhất là phải thi hành ý của Thiên Chúa, sống theo lời Chúa Giêsu dạy. Chúng ta không thể nói rằng mình tin yêu Chúa, mà cuộc sống của chúng ta lại không theo giáo huấn của Người. Mỗi tín hữu cần xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu là ánh sáng Lời Người là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu. Ngoài Chúa Giêsu, không ai có thể cho chúng ta sự sống đích thực.
Bài Tin mừng hôm nay nói lên điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuyên xưng hay kêu cầu danh Chúa ngoài môi miệng, mà là việc thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa nghĩa là đem những lời Chúa dạy trong Tin mừng ra thực hành trong đời sống. Và ai thực hành Lời Chúa thì có nền tảng vững chắc trong đức tin và lòng yêu mến.
Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà mà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn ai xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.
Hình ảnh của người xây nhà trên đá chính là hình ảnh của những người trung thành với giáo huấn của Chúa và tuân theo. Họ gắn bó ngôi nhà cuộc đời của họ trên nền tảng Lời Chúa, gắn bó trong Chúa, nên không có gì và không ai có thể phá đổ được họ.
Còn hình ảnh những người xây nhà trên cát, chính là những người làm việc đạo đức, chiếu lệ, chứ không dựa trên nền tảng Lời Chúa, vì thế, họ là những người thất bại tan tành. Đức Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: ”Đường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm “thánh lâm thời”: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ” (Đường Hy vọng, 44).
Căn nhà bền vững, chắc chắn trước thời tiết khắc nghiệt qua năm tháng là nhờ được xây trên một nền móng vững chắc. Thời Chúa Giêsu, cái nền móng ấy thường được xây bằng đá tảng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đời thường quen thuộc ấy để áp dụng trong đời sống đức tin. Với Ngài, nền móng đá tảng cho cuộc đời cá nhân, gia đình, cộng đoàn, xã hội là nghe và thực hành Lời Chúa: thi hành ý muốn của Chúa Cha, qua lời giảng dạy của Chúa Con. Thiếu việc thực hành Lời Chúa, chúng ta đang xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên cát, không nền móng: ngôi nhà ấy sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khó khăn, thử thách. Các gia đình ngày nay có nhìn nhận và giải quyết mọi vấn đề của mình dưới ánh sáng Lời Chúa, mới có thể bền vững trước những khó khăn, thách đố (5 phút Lời Chúa).
Người Kitô hữu phải sống theo căn tính của mình là “Sống đạo”. Sống đạo rất cần sự thể hiện ra thực tế, nhưng không ít những người tự cho mình “giữ đạo tại tâm”, không còn tham gia các hoạt động sinh hoạt Công giáo, không tham dự các bí tích, nhất là Thánh lễ, bỏ xưng tội rước lễ lâu năm... hành động ngược lại với giáo huấn của Chúa và Hội thánh. Đặc biệt, vì lo bon chen cuộc sống hằng ngày, chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa, bỏ bê các việc đạo đức.
Điều mà chúng thường gặp phải đó là “ngôn hành bất nhất”, nói mà không làm, hoặc làm nửa vời cho qua lần chiếu lệ. Nói lời Chúa thì hay mà sống thì chẳng ra gì. Điều này được Chúa ví như xây nhà trên cát, nghĩa là không có móng, là mất gốc, mất căn bản của niềm tin, vì không bám sâu vào Lời Chúa, gặp khi thử thách xảy đến sẽ buông xuôi ngã lòng...
“Lạy Chúa, lạy Chúa”, đó là công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa khẳng định rằng ngay cả việc đọc kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để đưa tôi vào Nước trời; có một việc quan trọng hơn, thậm chí quan trọng nhất, đó là thực hành ý Chúa Cha. Muốn được thế cần phải nghe Lời Chúa và vâng theo những lời Chúa chỉ dạy.
Truyện: Phải biết vâng lời
Cách đây ít lâu, có một thuỷ thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị nghiêm phạt vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận dân chúng cho rằng quá khắt khe. Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong ngành hải quân đã trả lời rằng: Theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng, ông cho rằng kỷ luật là biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh khống thắc mắc, và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.
Ông kể lại một kinh nghiệm khi cẩu chiếc tàu rất nặng đang bị biển động. Chiếc tàu hư được cặp vào tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!” Tức khắc đoàn thuỷ thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chết ngay tại chỗ, nhưng thuỷ thủ đoàn đã vâng lệnh nên tất cả thoát hiểm. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Quả thật, vâng lời đã cứu mạng.
Từ thứ Hai tuần 9 Thường Niên đến hôm nay, chúng ta lần lượt đọc bài giảng trên núi trong đó Chúa Giêsu công bố hiến chương Nước trời, rồi dạy cho những người muốn làm công dân Nước trời biết cần phải có những đức tính và những điều kiện nào. Bài Phúc Âm hôm nay là phần kết của bài giảng trên núi ấy. Trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng cơ bản: phải đem ra thực hành những điều đã nghe:
“Không phải tất cả những ai nói với Thầy: ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời”.
Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây nhà trên đá vững chắc, kẻ chỉ nghe mà không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Lạy Chúa, Lạy Chúa” đó là công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa Giêsu khẳng địng rằng ngay cả việc đọc kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để tôi được vào Nước trời; có một việc quan trọng hơn, thậm chí qua trọng nhất đó là thực hành ý Chúa Cha trên trời.
Hằng ngày tôi lấy làm thỏa mãn khi đã tham dự đầy đủ các giờ đọc kinh cầu nguyện.
Nay trong lúc tôi đọc kinh, cầu nguyện tôi cũng không quan tâm tìm hiểu xem ý Chúa muốn tôi làm gì.
2. Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ mỉm cười không đáp. Sau cùng ông Nhân Danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói thật như sau:
Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa hơn, lúc đó tôi khó mà cám dỗ ông được. (Góp nhặt)
3. Người đã đọc kinh cầu nguyện nhiều nhưng không làm theo ý Chúa thì cũng giống như xây nhà trên cát. Khi gặp hoàn cảnh thử thách khó khăn, tòa nhà đạo đức của người đó sẽ bị sụp đổ tan tành.
4. “Ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá”. (Mt 7,24)
Bầu khí ồn ào của nhà bên cạnh tôi làm tôi chú ý:
“Mẹ nói hoài sao con không nghe, bây giờ phải ráng chịu. Thật đúng là cá không ăn muối cá ươn”.
Lát sau, tôi mới hiểu cô bé nhà bên mới thi rớt vì ham chơi, đua đòi với chúng bạn nên cô đã không nghe lời mẹ khuyên bảo, hay có nghe nhưng rồi đâu cũng vào đấy, chứng nào tật đó.
Cũng như cô bé này, tôi nghe Lời Chúa mỗi ngày nhưng tôi chẳng có để tâm thi hành.
Xin Thánh Thần Chúa xuống trên con, dạy con biết lắng nghe Lời Chúa, nhận ra Thánh ý Ngài và cố thi hành trong đời sống con. (Hosanna).
1. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng: phải đem ra thực hành những điều đã nghe:
"Không phải những người nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai thực hiện ý Cha Thầy trên Trời thì mới được vào Nước Trời” (Mt 7,21).
Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây nhà trên đá vững chắc, kẻ chỉ nghe mà không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát.
Mới đây, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ nói về sức khỏe con người đã đồng ý với nhau rằng, để sống khỏe, sống an vui thì mỗi ngày phải tập thể dục đều đặn, ăn uống cách quân bình, và nhất là thực hành việc tốt cho kẻ khác. Đó là quan điểm căn bản mà hiện nay các bác sĩ Hoa Kỳ thường khuyên các thân chủ đến khám bệnh.
Chính vì thế mà hiện nay, để đề phòng bệnh, các bác sĩ, những nhân viên phụ trách về sức khỏe, đang cố gắng cổ võ một phong trào sống và làm việc tốt, quan tâm đến việc phục vụ tha nhân để phòng bệnh. Các nhà nghiên cứu quan sát thêm, tại sao làm việc tốt cho kẻ khác lại giúp cho chính đương sự sống an vui không bệnh hoạn.
Bác sĩ Highchery vừa qua đời, đã kể lại kết quả công việc nghiên cứu lâu dài của ông về điểm này như sau: khi đương sự làm việc để phục vụ kẻ khác thì nhận lại niềm vui, lòng biết ơn nồng nhiệt của người thụ ân. Cảm nghiệm được niềm vui và lòng biết ơn này, tạo ra nơi cơ thể người thi ân một cảm giác ấm áp. Cảm giác ấm áp này lại kích thích cơ thể bài tiết ra thêm nhiều chất kháng tố, chống lại những xâm nhập của vi trùng bệnh và làm cho đương sự cảm thấy rất thoải mái, quên hết những ưu phiền.
Để thử nghiệm nguyên tắc làm việc tốt để chữa bệnh và phòng bệnh, bác sĩ Horis tại bệnh viện của đại học California ở San Francisco đã khuyến khích các bệnh nhân hãy làm việc tốt giúp đỡ lẫn nhau để mau lành bệnh. Kết quả trông thấy được là những bệnh nhân nào sẵn sàng làm việc tốt cho kẻ khác thì mau lành bệnh hơn là các bệnh nhân ích kỷ, sống khép kín trong những âu lo phiền muộn riêng mình.
2. "Những ai thực hiện ý Cha Thầy trên Trời thì mới được vào Nước Trời” (Mt 7,21).
Năm 1971, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã loan báo việc trao giải thưởng Gioan 23 cho mẹ Têrêsa thành Calcutta với những lời lẽ như sau: "Giải thưởng được trao cho một nữ tu khiêm tốn, âm thầm, nhưng không lọt qua được đôi mắt quan sát của những ai đã chú ý đến công việc phục vụ bác ái cho những người nghèo. Nữ tu có tên là Têrêsa thành Calcutta. Từ 20 năm đã qua, trên khắp các nẻo đường đất nước toàn cầu, nữ tu thực hiện một cách tuyệt diệu sứ mạng tình thương đối với những người cùi, những kẻ già lão bị bỏ rơi và những trẻ em mồ côi".
Đây là bí quyết phục vụ người nghèo của mẹ: "Bí quyết đời sống tôi rất đơn sơ. Đó là cầu nguyện. Trong lời cầu nguyện, tôi được phúc say mê yêu mến Chúa Kitô và tôi hiểu được rằng, cầu nguyện là yêu mến Chúa và thực hành Lời Chúa. Cầu nguyện giúp tôi nhớ lại và sống Lời Chúa phán: "Ta đói, các con cho Ta ăn, Ta đau yếu, bị cầm tù, các con đã đến viếng thăm.” (Mt 25,35).
Có lần mẹ đã phát biểu: tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa tươi nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng, công việc mẹ và các nữ tu của mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan.
Vâng! Tin Mừng phải được thể hiện qua cuộc sống, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là tấm Bánh Thánh nuôi dưỡng cho con, Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là Chén Máu Thánh bổ sức cho con, Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới thật sự là đường Nhưng con lại có thể chỉ đường cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là ánh sáng, Nhưng con lại có thể làm cho ánh mắt anh em con thêm sáng ngời long lanh. Amen.
Đạo Công Giáo của chúng ta là đạo do Chúa thiết lập. Đạo của chúng ta là đạo nhập thế, là đạo thực hành, chứ không phải là một thứ đạo trên giấy tờ, sách vở, văn bản, lý thuyết, hay là trên môi miệng, lời nói của chúng ta.
Chúng ta sống đạo là chúng ta phải đem lời Chúa ra thực hành. Chúng ta nói chúng ta là người có đạo Chúa mà chúng ta không bao giờ đến nhà thờ để tham dự các giờ cử hành phụng vụ của Giáo Hội, thì đâu phải chúng ta là người mến Chúa, là người sống đạo. Chúng ta nói chúng ta yêu người như Chúa đã dạy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con?(Ga 15, 12), mà khi thấy những người nghèo đói khốn khổ, chúng ta nghoảnh mặt làm ngơ thì chúng ta đâu phải là người yêu người như chính Chúa đã yêu chúng ta: “Nếu ai có của cải thế gian, và thấy anh chị em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 3, 17).
Mặt khác, chúng ta thường nói; “Nhất thân, nhì thế“, nhiều người ngoài xã hội thành công trên đường đời nhờ điều này. Nhưng đối với Chúa, không có vấn đề này xảy ra đâu, Chúa cũng sẽ loại trừ chúng ta ra bên ngoài, ra khỏi gia đình của Chúa nếu chúng ta không thực hiện lời Chúa dạy, cho dù chúng ta là những người có đạo, là những người thân thiết, quen biết với Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không phải tất cả những ai nói với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa”, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: “Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”?(Mt 7, 21 – 23). Như vậy, chúng ta phải sống lời Chúa dạy để Chúa thương và ban phần thưởng cho chúng ta sau này.
Khi chúng ta thực hiện lời Chúa dạy, chúng ta phải từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa, và rồi chúng ta mới sống đàng hoàng tử tế hơn. Sống và thực hiện lời Chúa dạy, Chúa sẽ giúp chúng ta cắt bỏ những khối ung nhọt do tội lỗi gây ra trong con người chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ đau đớn lắm. Điều ấy cũng giống như Chúa nói: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình, nhưng khi sinh rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chứa chan niềm vui vì một con người đã sinh ra trong trần gian” (Ga 16, 21). Vì thế, chúng ta hãy cố gắng thực hiện lời Chúa dạy, Chúa sẽ ban ơn nâng đỡ chúng ta thực hiện. Khi đó, đức tin của chúng ta sẽ phát triển cách vững mạnh, đời sống đạo của chúng ta sẽ được bắn rễ sâu trong Chúa, gian nan thử thách, chúng ta cũng sẽ vượt qua. Còn nếu chúng ta không thực hiện lời Chúa dạy, đời sống đức tin chúng ta sẽ bị sụp đỗ hoàn toàn, chưa kể đến những gian nan thử thách xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta sẽ bỏ Chúa để chạy theo thế gian, xác thịt, ma quỷ: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn. Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ” (Mt 7, 24 – 29).
Lạy Chúa, Chúa giảng dạy chúng con như Đấng có uy quyền, Chúa giảng dạy chúng con bằng chính kinh nghiệm đời sống của Chúa, xin Chúa ban ơn giúp chúng con luôn làm theo thánh ý Chúa như Chúa làm theo thánh ý Chúa Cha để Chúa thương xót và cứu chúng con sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 12 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho chúng ta hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, gắn bó với Chúa, và phục vụ Chúa theo tinh thần mới, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Samuen Quyển I nói về: Đavít tìm đường trốn thoát. Bị vua Saun xua đuổi vì ganh tị, Đavít tìm nơi hoang dã mà lẩn trốn, và trở thành thủ lãnh của một băng nhóm. Ông đâu biết Thiên Chúa đang chuẩn bị cho ông lãnh sứ mạng trong tương lai. Những mẩu chuyện sau đây cho ta thấy người bị săn đuổi phải biết kiên trì, và phải khôn ngoan khéo léo mới có thể lãnh đạo những người thô lỗ không mấy văn minh. Nay chúng ta không còn bị Lề Luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối với cái vẫn giam hãm chúng ta. Chúng ta hãy phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của Lề Luật. Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách Thánh sao? Vua Đavít đã làm gì khi vua đói? Vua đã vào nhà Thiên Chúa và ăn bánh tiến.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, gắn bó với Đức Kitô để được Người tỏ cho biết Chúa Cha, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nítxê nói: Thiên Chúa như núi đá cao vời, không thể đạt tới… Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; Đấng là Con Một của Thiên Chúa, và hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Tôn kính và ái mộ Thánh Danh, gắn bó với Chúa và chờ đợi thánh ý Chúa, chứ không như bà Sarai nóng vội, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Sáng Thế nói: Haga sinh cho ông Ápram một con trai. Ông đặt tên cho nó là Ítmaên. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 105, vịnh gia kêu gọi: Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ. Hạnh phúc thay người giữ đức công minh và hằng thực thi điều chính trực! Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nhà xây trên đá và nhà xây trên cát. Yêu mến Chúa, thì tuân giữ Lời Chúa, thi hành thánh ý Chúa là xây nhà trên đá. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi làm theo ý Chúa, mà thánh ý Chúa lại quá cao vời, làm sao ta biết mà vâng theo, nhưng đừng lo, chúng ta đã có Ngôi Lời, Người sẽ tỏ chúng ta biết. Không một người nào đã thấy hay có thể thấy Thiên Chúa. Người như vách đá trơn nhẵn và dựng đứng, không có chỗ nào cho trí khôn con người có thể bấu víu được. Khi ra những chỉ thị cho Dân, ông Môsê cũng tuyên bố Thiên Chúa là Đấng không ai đạt tới, nên, trí khôn chúng ta không tài nào hiểu thấu, cho dầu, đã cố gắng nắm bắt được đôi điều, hoặc đã vươn tới chỗ nào đó, trên vách đá trơn trượt kia. Quả thế, ông nói: Không ai thấy Chúa mà vẫn sống, vậy mà, sự sống đời đời lại chính là thấy Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là sự sống, thì, ai không thấy Thiên Chúa là không thấy sự sống. Thiên Chúa, không ai thấy được, nhưng, có Đức Kitô nâng đỡ niềm hy vọng của chúng ta, như Người đã kéo ông Phêrô lên, cho ông bước đi vững vàng trên mặt nước. Vậy, nếu Ngôi Lời cũng đã đưa tay nâng đỡ chúng ta, và bàn tay ấy đã giúp ta đứng vững, khỏi chao đảo giữa bao dòng suy tư sâu nhiệm nào đó, thì, chúng ta đừng sợ hãi chi cả: hãy ôm chặt lấy Ngôi Lời, Đấng vẫn đưa tay dẫn dắt ta; hãy mau mắn thực thi lời Người. Ước gì chúng ta hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Ước gì được như thế!