Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 17-2024 Thường Niên

Thứ sáu - 02/08/2024 20:15
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 17-2024 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 17-2024 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
Xếp gọn trong Tuần 17-2024 Thường Niên
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 29/07 Th. Mát-ta, Maria và Ladarô. 3
Lời Chúa: Lc 10, 38-42. 4
Lời Chúa: Ga 11, 19-27. 4
Suy niệm 1. Đón Người vào nhà. 5
Suy niệm 2. Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng. 6
Suy niệm 3. Thánh nữ Mát-ta. 8
Suy niệm 4. Thánh nữ Mát-ta ở Bêtania. 9
Suy niệm 5. Thánh Mát-ta. 11
Suy niệm 6. Thánh Mát-ta. 14
Suy niệm 7. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi 15
Suy niệm 8. Thánh Mát-ta. 17
Suy niệm 9. Thánh Mát-ta. 18
Suy niệm 10. Thánh Mát-ta, con người của phục vụ. 20
Suy niệm 11. Thánh Mát-ta. 22
Suy niệm 12. Thánh Mát-ta. 23
Suy niệm 13. Thánh Mát-ta. 24
Suy niệm 14. Thánh nữ Mát-ta. 24
Suy niệm 15. Thánh Mát-ta, một con người phục vụ. 28
Suy niệm 16. Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô. 30
Suy niệm 17. Thánh nữ Matta. 31
Suy niệm 18. Ba chị em Mát-ta, Maria và Ladarô được mừng kính chung vào ngày 29/7. 32
Suy niệm 19. Gia Đình Chị Em Maria. 33
Suy niệm 20. Thánh Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. 34
Suy niệm 21. Xác loài người ta sẽ sống lại 36
Suy niệm 22. Chúa muốn tình yêu, Ngài không màng lễ vật 36
Suy niệm 23. Không ngại nói “CÓ". 39
Suy niệm 24. Niềm tin của Mát-ta. 41
Suy niệm 25. Chết để được sống. 42
Suy niệm 26. Phục vụ và tin tưởng như Mát-ta. 45

Thứ 3: 47
Lời Chúa: Mt 13, 36-43. 47
Suy Niệm 1: Chói lọi như mặt trời 48
Suy Niệm 2: Thiên Chúa nhân hậu và từ bi 49
Suy Niệm 3: Bài học kiên nhẫn. 50
Suy Niệm 4: Kiên nhẫn chờ đợi 51
Suy Niệm 5: Màn chung cuộc vĩ đại 52
Suy Niệm 6: Có nên chăng khi nhổ cỏ lùng sớm?. 53
Suy Niệm 7: Chúa kiên nhẫn chờ đợi sự hoán cải 55
Suy Niệm 8: Quyết chừa tính xấu. 56
Suy Niệm 9: Ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng. 57
Suy Niệm 10: Giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng. 59
Suy Niệm 11: Chúa nhẫn nại trước tình trạng lúa và cỏ lùng. 60
Suy Niệm 12: Lòng nhân từ của Chúa. 63

Thứ 4: Ngày 31/07 Th. Phêrô Đoàn Công Quý- Emmanuel Lê Văn Phụng & Ignatio Loyola. 64
Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng: chứng nhân đời thường của Đức Kitô  67
Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quý. 69
Suy Niệm 3: Kho tàng – ngọc quý. 70
Lời Chúa: Mt 13, 44-46. 71
Suy Niệm 4: Vui mừng bán tất cả. 71
Suy Niệm 5: Kho tàng trong ruộng. 73
Suy Niệm 6: Kho Tàng Quý Giá. 74
Suy Niệm 7: Kho Tàng Và Viên Ngọc Quý. 75
Suy Niệm 8: Hai Thái Độ. 77
Suy Niệm 9: Kho tàng và viên ngọc quý. 78
Suy Niệm 10: Nước Trời - giá trị cao quý. 79
Suy Niệm 11: Nước Trời - giá trị tuyệt đỉnh. 80
Suy Niệm 12: Dụ ngôn kho tàng và ngọc quí 82
Suy Niệm 13: Nước Trời rất quý giá. 83
Suy Niệm 14: Viên ngọc quí giá nhất 85
Suy Niệm 15: Anh bán tất cả những gì anh có, mà mua thửa ruộng ấy. 87
Suy Niệm 16. Thánh Inhatio Loyola. 89
Suy Niệm 17: Thánh IGNATIÔ LOYOLA.. 90

Thứ 5: 01/08 Th. Anphong Maria Ligôri 92
Lời Chúa: Mt 13, 47-53. 92
Suy Niệm 1: Cá tốt cho vào giỏ. 93
Suy Niệm 2: Tấm lưới nước trời 95
Suy Niệm 3: Thái Ðộ Bao Dung. 95
Suy Niệm 4: Tự do. 96
Suy Niệm 5: Chúa yêu hết mọi người 98
Suy Niệm 6: Hội Thánh vẫn còn người tội lỗi 98
Suy Niệm 7: Đời sống đức tin gương mẫu. 99
Suy Niệm 8: Dụ ngôn về chiếc lưới 100
Suy Niệm 9: Thanh lọc người tốt và kẻ xấu trong Nước Trời 102
Suy Niệm 10: Thanh lọc người tốt kẻ xấu để vào Nước Trời 103
Suy Niệm 11: Người ta chọn lựa cá tốt mà thôi 106

Thứ 6: 107
Lời Chúa: Mt 13, 54-58. 107
Suy Niệm 1: Đức Giêsu về quê. 107
Suy Niệm 2: Yêu thương và khước từ. 109
Suy Niệm 3: Tâm Thức Thời Ðại 110
Suy Niệm 4: Nghĩa Vụ Ngôn Sứ. 111
Suy Niệm 5: Vẫn chỉ có từ chối. 112
Suy Niệm 6: Loan báo trng mọi hoàn cảnh. 113
Suy Niệm 7: Mở mắt đức tin. 114
Suy Niệm 8: Con người từ khước Thiên Chúa. 115
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu về thăm Nazareth lần thứ hai 116
Suy Niệm 10: Hành trình đi đến đức tin. 118
Suy Niệm 11: Thành kiến về Chúa Giêsu. 120
Suy Niệm 12: Chúa khôn ngoan vô cùng. 122

Thứ 7: 123
Lời Chúa: Mt 14, 1-12. 124
Suy Niệm 1: Vì đã trót thề. 124
Suy Niệm 2: Nhân từ và độc ác. 126
Suy Niệm 3: Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu. 127
Suy Niệm 4: Chết Cho Sự Thật 128
Suy Niệm 5: Chân Lý. 128
Suy Niệm 6: Chứng nhân cho sự thật 129
Suy Niệm 7: Sự thiện và sự ác đấu tranh. 131
Suy Niệm 8: Rao giảng bằng lời nói và cuộc sống. 131
Suy Niệm 9: Cái chết của Gioan Tẩy Giả. 133
Suy Niệm 10: Can đảm khác nhau. 135
Suy Niệm 11: Định hướng khả năng cho đúng. 137
Suy Niệm 12: Vua Hêrôđê giết chết Gioan Tẩy giả. 139

----------------------------------
 

Thứ 2: 29/07 Th. Mát-ta, Maria và Ladarô

Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng.
– Thứ Hai tuần 17 thường niên – Thánh nữ Mát-ta, Maria và Ladarô. Lễ nhớ.
“Mát-ta đã đón Chúa vào nhà mình, Maria đã chọn phần tốt nhất”.

* Mát-ta là chị của cô Maria và ông Lagiarô ở Bêtania. Trong sách Tin Mừng, thánh nữ xuất hiện ba lần: lần thứ nhất trong bữa ăn ở Bêtania, khi cùng với cô em là Maria tiếp đãi Đức Giêsu; lần thứ hai khi ông Lagiarô được Chúa cho phục sinh, lúc đó thánh nữ đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu; và lần cuối trong bữa tiệc đãi Chúa Giêsu sáu ngày trước lễ Vượt Qua.

Trong cả ba câu chuyện, ta luôn thấy thánh nữ đóng vai trò chủ nhà.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Lc 10, 38-42


Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Mát-ta rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.
Mát-ta bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”. Nhưng Chúa đáp: “Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất”.

Hoặc:

 

Lời Chúa: Ga 11, 19-27


------- tgpsaigon.net 2021.07.29.tn17 t5

“Con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, nhiều người Do-thái đến nhà Mát-ta và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Mát-ta đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà.

Mát-ta thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Mát-ta thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”.

Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1. Đón Người vào nhà


--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy niệm:

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khuôn mặt Maria khá nổi bật.
Chúng ta dễ thấy là Thầy Giêsu nghiêng về cô em hơn.
Mát-ta đón Thầy vào nhà trong tư cách là chị.
Còn Maria sau đó là người tiếp Đức Giêsu.
Maria thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.
Còn chị Mát-ta thì ngược lại.
Hẳn là chị phải xuống bếp ngay để lo bữa ăn.
Cuộc viếng thăm của Thầy Giêsu và các môn đệ là khá bất ngờ.
Làm sao để đãi một số vị khách như thế?
Đó là mối lo chính đáng của chị Mát-ta.
Mát-ta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn.
Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.
Rõ ràng là Mát-ta bị cuống lên vì thấy mình có nhiều việc phải làm gấp.
Chị không muốn khách phải chờ đợi lâu,
và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn.
“Xin Thầy bảo em giúp con một tay!”
Đó là ước mơ của Mát-ta, rất đỗi bình thường.
Tiếc thay, Thầy Giêsu lại đang kể chuyện cho Maria,
và cô này đang lắng nghe một cách thích thú (c. 39).
Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy.
Mát-ta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có.
Chị quên rằng Thầy Giêsu không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn.
Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.
Thầy Giêsu nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mát-ta.
và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng.
Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mát-ta, Mát-ta.
Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá.
“Chỉ cần một chuyện thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn” (c. 42).
Thầy Giêsu không bảo rằng điều Mát-ta làm là điều không tốt.
Chắc chắn Thầy và trò đều cần bữa ăn ngon sau những ngày rong ruổi.
Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.
Vì thế Thầy sẽ không kêu cô em xuống bếp để phụ giúp cô chị.
Điều mà Maria đã chọn, chẳng ai có thể lấy đi.
Chị Mát-ta là thánh nữ được tôn kính trong Giáo Hội.
Chúng ta phải bắt chước chị qua công việc tận tụy và đầy trách nhiệm.
Nhưng chúng ta phải làm một cách an bình, khiêm tốn, vui tươi,
không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác.
Cuộc sống hôm nay dễ làm ta trở nên Mát-ta, bị đè nặng bởi công việc.
Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.
Phải thu xếp để khỏi phải ở dưới bếp quá lâu, để có người thay mình.
Đời sống của người Kitô hữu là kết hợp của Mát-ta và Maria.
Vừa đón, vừa tiếp; vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa;
nhưng dù hoạt động hay cầu nguyện, lúc nào cũng hướng về Chúa.
 
Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
 
--------------------------------

 

Suy niệm 2. Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng


--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

“Mát-ta, con lo lắng chi nhiều việc chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi”. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mát-ta đáng cho chúng ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm:

Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của việc đón rước Chúa mà Mát-ta đang làm, nhưng Ngài trực tỉnh Mát-ta về nguy hiểm mà chị đang lao vào đó là thái độ ganh tị. Kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Người nói.

Việc lắng nghe có ưu tiên hơn “vì con người không chỉ sống nguyên bởi bánh mà thôi nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Vì thế hãy tìm Nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy” (Mt 4,4). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không đề ra một sự chọn lựa giữa một trong hai điều hoặc thái độ làm việc của Mát-ta hoặc thái độ chiêm niệm của Maria để rồi chỉ chấp nhận có một thái độ duy nhất của Maria thôi.

Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống của người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là Lời Chúa và cùng hướng đến một việc, một mục tiêu là phục vụ Nước Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật “lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”. Ðó là khi trả lời cho người phụ nữ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng Mẹ Chúa cũng như khi trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có Mẹ và anh em Chúa đang chờ, nhưng Chúa trả lời “những kẻ nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành, kẻ đó mới là Mẹ Ta và anh em Ta” (Mt 12, 50).

Hai chị em Mát-ta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô qua mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau. Ðể tiếp nhận Lời Chúa hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm mà thôi, cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích luôn được kết hợp với nhau của cùng một chức vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng đi được trong việc theo Chúa.

Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo hoàn cảnh ấy, người đồ đệ Chúa có thể hòa hợp việc làm một cách cụ thể giữa cầu nguyện và hoạt động theo một chương trình riêng. Nhưng thật là sai lầm nếu chúng ta muốn canh tân Giáo Hội mà không cầu nguyện, nghĩa là không lắng nghe Lời Chúa, không đối thoại với Ngài, ngõ hầu để hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả. Người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe Lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này chiêm niệm là phần tốt nhất mà Maria đã chọn, nhưng không phải tách rời ra khỏi việc làm. Ðức tin phải có sức tác động qua đức bái ái. Ðàng khác, cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người, nhưng ngược lại cầu nguyện làm cho người đồ đệ có thêm sức mạnh hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.

Lạy Chúa,

Xin giúp chúng con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực là làm việc và cầu nguyện. Ước chi việc chúng con làm đều phát xuất từ lời cầu nguyện là việc lắng nghe Lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh trao ban trong những giây phúc chúng con trở về lắng nghe Chúa nói.

--------------------------------

 

Suy niệm 3. Thánh nữ Mát-ta


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Với tư cách là con người, Chúa Giêsu đến viếng thăm để an ủi. Với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài còn đến để phục sinh: phục sinh tâm hồn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã dựng nên con người có trái tim biết yêu thương. Nhờ đó, chúng con biết chung chia vui buồn với nhau. Khi chung vui, niềm vui như được nhân tăng và khi chia buồn, nỗi buồn như vơi nhẹ. Tuy thế, đôi lúc sự chia buồn của chúng con gần như vô nghĩa khi đứng trước nỗi đau quá lớn lao. Chúng con bó tay, chúng con ngọng miệng trước những đau khổ vượt sức chịu đựng của con người.

Loài người bó tay, loài người ngọng miệng nhưng Chúa thì không. Hoàn cảnh của chị Mác-ta hôm nay thật đáng thương: Gia đình có 3 chị em mà em trai duy nhất lại qua đời. Chúa đến không phải chỉ an ủi mà còn khơi lại niềm tin, niềm hy vọng cho chị em Mác-ta. ”Em chị sẽ sống lại” là lời phục sinh niềm tin cho chị Mác-ta. Lời quyền năng của Chúa đã dẫn chị ra khỏi nỗi buồn thất vọng để tới niềm vui tin tưởng. Chị đã thưa với Chúa: ”Con biết em con sẽ sống lại”.

Lạy Chúa, vì chúng con đến với nhau mà không mời Chúa đi theo, nên chúng con chưa giúp nhau được nhiều. Giúp nhau bằng sức người, có những lúc chúng con bó tay. Cần phải giúp nhau bằng sức Chúa, bằng cầu nguyện, bằng hy sinh. Động viên, hướng dẫn nhau bằng Lời Chúa mới không làm chúng con bí lối. Cần phải có Chúa Phục sinh đến thăm, chúng con mới sống lại thật về phần linh hồn.

Và lạy Chúa, mỗi khi chúng con gặp gian nan, xin cho chúng con biết khôn ngoan tìm đến Chúa. Rồi khi thấy anh em khốn khó, xin cho chúng con biết dẫn anh em đến với Chúa. Đến được với Chúa là chúng con đã tìm được địa chỉ tốt nhất để được bình an. Amen.

Ghi nhớ: ”Con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

 --------------------------------

 

Suy niệm 4. Thánh nữ Mát-ta ở Bêtania


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Hai chị em Mát-ta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu tại làng Bêtania, nơi mà Chúa Giêsu đã quen biết hai chị em. Lúc Chúa tới nhà, Mát-ta lo lắng chuẩn bị bữa ăn trong lúc Maria ngồi yên bên Chúa để nghe lời Ngài. Câu trả lời của Đức Giêsu trước đề nghị của Mát-ta không có nghĩa là Ngài phủ nhận tất cả sự quan tâm lo lắng của Mát-ta. Nhưng Đức Giêsu muốn cho thấy một điều cao quý hơn là: lắng nghe Lời Chúa. Lo lắng cho Chúa là điều đáng quý, nhưng để hết tâm trí lắng nghe và thi hành Lời Chúa lại càng quý giá gấp bội.

Theo truyền thống của các giáo phụ, Mát-ta và Maria trong Tin mừng hôm nay là đại biểu của hai lối sống về người môn đệ Chúa Kitô. Mát-ta đại diện cho những người thích lối sống hoạt động. Còn Maria đại diện cho lối sống chiêm niệm và cầu nguyện. Lời trách móc của Mát-ta như gián tiếp cho rằng việc của mình làm là đúng, là tốt hơn người khác. Nhân cơ hội này Chúa Giêsu chỉ cho Mát-ta và chúng ta một bài học về sự lượng giá một công việc. Chúa bảo: “Chỉ có một chuyện cần mà thôi”, đó chính là ngồi nghe Lời Chúa dạy. Chúa không phủ nhận những việc bác ái, phục vụ cộng đoàn. Nhưng tất cả những hoạt động phục vụ sẽ trở thành vô ích, nếu không khởi đi từ tinh thần Tin mừng. Việc bác ái, tông đồ chỉ thực sự mang lại ơn ích cho người khác khi nó xuất phát từ một tâm hồn cầu nguyện, thích nghe Lời Chúa (5 phút Lời Chúa).

Hoạt động và cầu nguyện là hai trạng thái luôn đi đôi với nhau trong đời sống của người Kitô hữu. Đôi khi chúng ta cảm thấy thành công vì những hoạt động bên ngoài, nhưng chúng ta quên đi điều vô cùng quan trọng là đời sống cầu nguyện. Chính những lúc đó chúng ta đang tìm chính mình. Để hoạt động có hiệu quả, chúng ta cần lắng nghe tiếng Chúa trong cầu nguyện. Chính những giây phút ấy, chúng ta được tiếp thêm sức mạnh để dấn thân và hoạt động hăng say hơn. Chúa không chê trách Mát-ta nhưng Chúa mời gọi bà  hãy biết nghỉ ngơi bên Chúa, Người sẽ bổ sức cho.

Trong Tông huấn Lời Chúa (Verbum Domini) số 3, Đức Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhấn mạnh vai trò của Lời Chúa: “Xuyên suốt dòng lịch sử, Dân Chúa gặp thấy sức mạnh nơi Lời Chúa và ngày nay cũng vậy, Giáo hội tăng cường nhờ nghe, cử hành và học hỏi Lời Chúa”.

Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khẳng định vai trò quan trọng bậc nhất của Lời Người. Mát-ta tất bật công việc phục vụ là tốt, nhưng Maria đã chọn phần tốt nhất, là ngồi dưới chân và lắng nghe Lời Chúa. Ngày nay, nhiều người chẳng đoái hoài, thậm chí còn thấy chán ngán với việc lắng nghe Lời Chúa, bởi vì Lời Chúa luôn thách thức và đòi hỏi con người thay đổi não trạng, hành vi của mình để sống đúng phẩm giá hơn. Ước gì chúng ta luôn có được niềm vui khi lắng nghe Lời Chúa, và có động lực để thực thi Lời ấy trong cuộc sống hằng ngày (Học viện Đa Minh).

Chắc hẳn Chúa Giêsu đã đánh giá cao sự hy sinh bận rộn của Mát-ta. Đó là biểu hiện lòng mến cao độ. Tuy nhiên, qua cử chỉ của cô Maria, Chúa Giêsu đã nhận được một tâm tình cao đẹp hơn. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đặt Ngài vào chỗ nhất trong cuộc sống, chọn Ngài làm tất cả. Chúa Giêsu muốn lấy cử chỉ đó làm biểu tượng nói lên sự chọn lựa đúng đắn của con người. Đó là chọn Ngài làm cơ nghiệp, là đặt Ngài vào trọng tâm của cuộc sống.

Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta thống nhất đời sống. Có những giây phút ưu việt dành cho cầu nguyện, thờ phượng, còn phần lớn thời giờ được dành cho những sinh hoạt khác. Đối với người Kitô hữu phải biến mọi sinh hoạt thành lời cầu nguyện kéo dài, thành những hy tế trên bàn thờ. Chính qua những sinh hoạt ấy, chúng ta gặp gỡ, lắng nghe, thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Truyện: Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Frederic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viện đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và vừa khi đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

- Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.

Chàng sinh viên liền hỏi:

- Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

--------------------------------

 

Suy niệm 5. Thánh Mát-ta


--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Mát-ta. Tôi xin nói về tình thương của Chúa đối với gia đình này.

A. Sự kiện:

Chúa thương gia đình này cách đặc biệt. Tình thương của Chúa được biểu lộ ra trong những việc rất cụ thể này:

1. Đây là một gia đình mà mỗi khi Chúa có dịp lên Giêrusalem Chúa hay lui tới.

Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa đã tuyên bố rất rõ: “Con chim có tổ, con cáo có hang. Con người không có nơi gối đầu” (Mt 8,20). Cả cuộc đời công khai của Chúa, dường như Chúa sống ở ngoài đường hơn ở trong nhà. Việc Chúa ghé nhà nọ nhà kia quả là một việc rất họa hiếm: Thí dụ ghé nhà bà nhạc mẹ vợ ông Phêrô, ghé nhà Giakêu lùn, ghé nhà để chữa con gái ông Giairô. Khi lập Bí tích Thánh Thể Chúa ghé một nhà sang trọng.

Vậy mà chúng ta thấy địa chỉ của Mát-ta - Lazarô - Maria đã trở thành địa chỉ quen thuộc với Chúa và các Tông Đồ. Đó là một ưu ái Chúa dành cho gia đình này.

2. Chúa thương gia đình đình này cách đặc biệt bằng cách Chúa dành cho mấy chị em những tình cảm nhiều khi được bộc lộ ra cả bên ngoài... đến mức dân chúng cũng ngạc nhiên về điều đó. Thí dụ như khi nghe tin Lazarô chết, Chúa đã xúc động... Rồi khi đứng trước mộ Lazarô Chúa đã bật khóc.

3. Đặc biệt nhất là Chúa đã làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết. Đọc lại câu truyện này chúng ta thấy thật lạ lùng. Chính Mát-ta và cả gia đình cũng không bao giờ dám tin vào điều đó. Vậy mà nó đã xẩy ra.

B. Lý giải: Tại sao thế?

1. Phải chăng vì gia đình này đã có đóng góp vào việc truyền giáo của Chúa?

Cắt nghĩa như thế tôi tưởng không ổn bởi vì trên con đường truyền giáo của Chúa, còn có những người đóng góp nhiều hơn. Thí dụ như trường hợp bà Chusa vợ của ông quản lý của Vua Hêrôđê. Không những Bà dâng cúng mà bà con đi theo để phục vụ Chúa nữa. Vậy mà không có chỗ nào trong Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa ghé thăm gia đình bà.

Hơn nữa lấy lý do tiền bạc ra mà đánh giá một hành động của Chúa thì quả là không đẹp tí nào. Chúa đâu cần đến mức độ như thế.

2. Hay vì Mát-ta khéo xử. Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ?

 Tôi cho là cũng không phải. Tầm cỡ như Chúa thì có thiếu gì người mời. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của ông Giakêu... Chúa vừa mới ngỏ ý thôi là ông ấy đã cảm thấy hạnh phúc như chưa bao giờ mơ thấy. Trong bữa tiệc ông đã biểu lộ niềm vui ấy ra bên ngoài như thế nào thì mọi người chúng ta đều biết.

3. Tôi cho là hoàn toàn do lòng Chúa yêu thương. Vâng! Tất cả là vì lòng Chúa yêu thương. Bởi vì Ngài là tình yêu. Chúa yêu thương và Chúa cứu gia đình này. Tại sao tôi dám nói như thế? Có nhiều giả thuyết cho rằng: Maria em của Mát-ta chính là Maria Madalena, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Đàng khác chúng ta thấy cả ba chị em đều không có gia đình. Đây là một sự kiện bất thường trong xã hội Do thái lúc đó. Lý do là vì lúc đó người ta có một quan niệm rất khắt khe về vấn đề gia đình. Người con trai lớn lên thì phải lấy vợ. Người con gái lớn lên thì lấy chồng. Trai lớn, gái đến tuổi mà không có gia đình thì người coi đó như là bị Thiên Chúa phạt.

Chính vì những lý do đó mà chúng ta có thể coi đây là một gia đình có vấn đề. Đối với xã hội con người thì không thể chấp nhận được nhưng với Chúa thì sự thể lại khác.

Chúa làm thế vì Người có lý do của Người.

Một em bé gái mồ côi sống với bà ngoại trên một căn gác nghèo nàn. Một đêm nọ, căn gác bị hỏa hoạn, bà ngoại đã thiệt mạng khi cố gắng cứu đứa cháu. Chẳng mấy chốc, lửa lan xuống tầng dưới của căn nhà những người láng giềng. Em bé gái xuất hiện trên cửa sổ của căn gác và kêu cứu, nhưng đội cứu hỏa vẫn chưa tới. Đột nhiên có một người đàn ông xuất hiện với một chiếc thang, ông leo vào căn gác và một lúc sau ông trở ra với em bé gái trên cánh tay, ông trao đứa bé cho đám đông rồi biến mất.

Qua một cuộc điều tra, người ta biết rằng đứa bé không biết có bất cứ một thân nhân nào. Một tuần lễ sau đó, ông trưởng khu phố cho tổ chức một cuộc họp để xem có ai nhận em bé về nuôi nấng dưỡng dục không? Một cô giáo đã giơ tay xin nhận em bé về nhà và hứa sẽ dạy dỗ em nên người. Một người chủ nông trại giàu có cũng ngỏ ý nhận em làm con nuôi. Nhiều người khác cũng giơ tay biểu lộ cùng một ý tưởng. Cuối cùng, người giàu có nhất của khu phố phát biểu: “Tôi có thể mang lại cho em bé này tất cả những tiện nghi mà quí vị vừa nêu lên, cộng với tiền bạc và tất cả những gì tiền bạc có thể mua được”.

Em bé gái lắng nghe tất cả những lời hứa hẹn trên đây, nhưng không để lộ một phản ứng nào, mắt em chỉ muốn cúi nhìn xuống đất. Cuối cùng, người chủ trì lên tiếng hỏi:

- Còn có ai muốn nói điều gì nữa không?

Lúc bấy giờ, từ cuối hội trường có một ông từ từ tiến lên, đến gần em bé, ông giang cánh tay ra, mọi người đều thấy những vết cháy xám trên hai cánh tay của ông. Em bé gái bỗng thét lên:

 - Đây là người đã cứu tôi.

Và em nhảy lên bá lấy cổ người đàn ông, áp mặt vào vai ông và thổn thức, rồi ngước mắt nhìn lên mỉm cười với ông. Chứng kiến cảnh tượng đó người chủ trì phiên họp tuyên bố giải tán.

--------------------------------

 

Suy niệm 6. Thánh Mát-ta


--nguoitinhuu.com

“Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô”. Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mát-ta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.

Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mát-ta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.

Nhiều người dễ nhận ra Mát-ta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mát-ta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mát-ta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mát-ta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mát-ta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mát-ta. Ðức Giêsu thấy Mát-ta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mát-ta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mát-ta, chúng ta nhận ra chính chúng ta -- thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mát-ta như Maria.

Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mát-ta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.

Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mát-ta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.

Hình ảnh sau cùng của Mát-ta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mát-ta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mát-ta lo hầu hạ.” Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.

Thánh Mát-ta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

Lời Bàn

Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mát-ta nói với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô Hữu phải vâng theo. “Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em.” Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh -- mà sự phục sinh ấy hiện có trong đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.

--------------------------------

 

Suy niệm 7. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi


--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên OP

2.1/ Em Maria chọn ngồi bên chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy: Nhiều người chắc cũng nghĩ như chị Mát-ta: con bé này lười quá hay “mồm miệng đỡ tay chân!” Nhưng đây là một lựa chọn rất tính toán và khôn ngoan, như Chúa Giêsu đã phải khen Maria bên dưới. Một số lý do có thể Maria đã dựa vào để làm sự lựa chọn này:

+ Cô biết rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: phải chọn Thiên Chúa trước hết. Maria biết chẳng có ai có những lời khôn ngoan và mang lại sự sống như Chúa Giêsu; vì thế, cô phải hoãn tất cả các việc khác để lắng nghe những gì Ngài muốn truyền đạt.

+ Cô biết nắm lấy cơ hội khi nó xảy đến: Một người bận rộn rao giảng như Chúa không dễ gặp. Cô biết cơ hội để đàm đạo với Chúa không thường xảy ra: nếu không biết nắm lấy ngay, cô không biết có còn cơ hội nào khác không! Chúng ta phải học nơi Maria điều này, để khi Chúa gởi những nhà rao giảng đến, chúng ta biết sắp xếp công việc hàng ngày để nghe những gì họ rao giảng. Đừng giả sử cơ hội sẽ có mãi, kẻo phải tiếc nuối sau này!

+ Khách đến nhà không chỉ để ăn, nhưng còn để chuyện vãn, tâm sự. Maria thấy chị bận rộn nấu nướng; cô chọn để trò chuyện với Chúa. Nhiều người chúng ta không chịu để ý đến khía cạnh tế nhị này; nên đã để cho khách ngồi một mình trong phòng khách chờ đợi trong khi chúng ta chuẩn bị thức ăn dưới bếp. Hiểu như thế, quyết định của Maria thật sáng suốt: chị lo nấu ăn, em lo tiếp khách.

2.2/ Chị Mát-ta chọn để vất vả lo việc phục vụ Chúa Giêsu: Khi một thượng khách như Chúa Giêsu đến nhà, đó là lúc để chủ nhà biểu tỏ tài nội trợ, nấu nướng, và tính hiếu khách. Chúng ta không lạ gì khi Mát-ta quá vất vả lo lắng tới độ cô tiến lại Chúa Giêsu và than phiền với Ngài: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Ngược lại với những gì Mát-ta mong đợi, Chúa Giêsu đáp: “Mát-ta! Mát-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi từ câu trả lời của Chúa Giêsu:

+ Mát-ta không hiểu rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: Chúa Giêsu sữa chữa lỗi lầm cho cô khi Ngài nói: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Thức ăn có ngon mấy chăng nữa rồi cũng qua đi; nhưng Lời Chúa sẽ ở lại trong tâm hồn và soi sáng cho con người biết cách sống thế nào để có hạnh phúc trong cuộc đời.

+ Mát-ta không quan tâm đến người khác: Cô có thể nghĩ chỉ có việc của cô mới đáng làm, việc của Maria không quan trọng! Đây là một lỗi lầm mà nhiều người chúng ta mắc phải. Chúng ta đừng bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như mình, vì mỗi người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Chúng ta cũng không hiểu đủ để xác quyết việc nào là việc tốt nhất, cho đến khi được tuyên bố rõ ràng bởi Thiên Chúa.

+ Mát-ta không biết sắp xếp thời giờ: Có thể Mát-ta không biết khi nào Chúa đến, vì ngày xưa không có thói quen có giờ hẹn như thời nay. Dù sao chăng nữa, Mát-ta không nên lo lắng quá nhiều đến chuyện ăn uống, vì khách tới nhà để thăm viếng chứ không chỉ để ăn! Các gia đình Việt-nam chúng ta cần chú trọng điều này, để đừng làm quá nhiều thức ăn mỗi khi tiếp khách. Hầu hết trong các bữa tiệc, khách không dùng hết một nửa các thức ăn của chủ nhà bày ra. Hậu quả là gia chủ phải ăn đồ thừa hay phải lãng phí thức ăn cách không cần thiết.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải dành ưu tiên hàng đầu cho mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa bằng cách dành thời giờ để cầu nguyện, lắng nghe, học hỏi, và thực hành những gì Chúa dạy.

- Lời Chúa soi sáng cho chúng ta biết cách lựa chọn những điều xảy ra cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa; đồng thời cũng cung cấp cho chúng ta sức mạnh để làm theo.

---------------------------------

 

Suy niệm 8. Thánh Mát-ta


Chúng ta biết chắc về thánh Mát-ta qua 2 giai thoại trong Tin Mừng. Khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu (Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của Laxarô (Ga 11,1-44). Mát-ta, theo tiếng tramêô, có nghĩa là bà chủ. Bà hai anh em Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu. Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc.

Mát-ta đóng vai gia chủ, đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch, bà nói: - Thưa Thày, Thày không màng nghĩ tới sao, em tôi để cho tôi một mình phục dịch? Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần tôi.

Chúa Giêsu đáp lại: - Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất.

Như thế Chúa Giêsu đã cho Mát-ta biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư cầu nguyện, Mát-ta đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần. Bà nhắc tin cho Chúa Giêsu: - Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.

Vượt đường xa, Chúa Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết. Đức tin của Mát-ta vẫn không thay đổi.

- Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết.

Và bà thêm: - Nhưng ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy.

Khi Chúa Giêsu cho biết Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống, rồi Người hỏi: - Con có tin thế không?

Mát-ta đã mau mắn tuyên xưng: - Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải đến trong thế gian.

Và bà đã không lầm. Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.

Tin Mừng không nói rõ các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao. Chắc chắn Mát-ta có mặt trong số phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức xác Người trước khi mai táng.

Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp. Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Mát-ta Ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. Một huyền thoại còn kể thêm việc thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque. Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm phun lửa, đuôi cắn xé. Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói chặt nó lại. Quái vật bị hạ sát và nó bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.

---------------------------------

 

Suy niệm 9. Thánh Mát-ta


(http://giaoxutanviet.com)//GPVL)

Gương Thánh nhân: Thánh Mát-ta là chị của Ma-ri-a và La-da-rô ở Bê-ta-ni-a. Ngài là chị cả trong gia đình, nên điều khiển quán xuyến mọi việc: Ngài đối xử dịu dàng thân ái đối với hai em, nhân lành bác ái đối với người nghèo khổ, bệnh tật, và ân cần tiếp đón Chúa Giê-su với các môn đệ Người, vì đây là nơi Chúa thường trú ngụ sau những ngày truyền giáo mệt nhọc:

“Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mát-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô nầy cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy. Còn cô Mát-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: – Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao! Xin Thầy bảo nó giúp con một tay.

Chúa đáp: – Mát-ta, Mát-ta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. (Lc. 10, 38-42)

Mát-ta tận tụy phục vụ Chúa. Nhưng Chúa muốn dạy cho Mát-ta biết: việc sống gần gũi thân mật và cầu nguyện với Chúa cao quý hơn. Tốt nhất phối hợp cả hai, vừa phục vụ vừa cầu nguyện.

Thánh Giám mục Au-tinh đã diễn giảng việc nầy như sau:

“Lời Đức Giê-su Kitô Chúa chúng ta khuyên chúng ta, đang khi lo lắng nhiều công việc ở trần gian nầy, phải vươn tới một đích điểm. Chúng ta đang vươn tới đó bao lâu chúng ta còn là lữ khách chứ chưa phải là cư dân; còn đang trên đường đi chứ chưa ở quê thật; còn đang khát vọng, chứ chưa được an hưởng. Tuy nhiên chúng ta phải vươn tới không ngừng, không biếng nhác để có ngày có thể đạt tới…

“Hỡi bà Mát-ta, xin bà để yên cho tôi nói, bà có phúc trong công việc phục vụ tốt, nhưng phần thưởng mà bà tìm được cho công việc lo lắng nầy là sự nghỉ ngơi. Bây giờ bà đang lo trăm công nghìn việc; bà muốn nuôi nấng thân thể con người cho dù là của bậc thánh nhân; nhưng khi đã tới quê thật, hỏi bà có còn gặp lữ khách để tiếp rước nữa không? Có còn gặp người đói để chia sẻ cơm bánh nữa không?…

“Nơi quê thật không còn những sự đó nữa. Vậy sẽ có gì? Có điều mà Ma-ri-a đã chọn: nơi đó ta sẽ được nuôi nấng chứ không phải nuôi nấng ai nữa. Thế nên điều mà Ma-ri-a chọn bây giờ, sau nầy ở nơi quê thật sẽ được đầy đủ và hoàn toàn…”

Khi La-da-rô bệnh nặng, thánh nữ đã báo tin cho Chúa Giê-su. Nhưng Người bảo: “Bệnh nầy không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh nầy, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga. 11,4).

Và La-da-rô đã chết. Cái chết của La-da-rô là dịp để Chúa khơi dậy niềm tin cho các môn đệ và dân chúng, vì khi được tin La-da-rô chết, Chúa và các môn đệ đến với anh.

‘‘Vừa được tin Đức Giê-su đến, Mát-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. Cô Mát-ta nói với Đức Giê-su: – Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.

Đức Giê-su nói: – Em chị sẽ sống lại… Chị có tin thế không?

Cô Mát-ta thưa: – Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.

Và Chúa đã làm phép lạ cho La-da-rô chết chôn 4 ngày được sống lại trước sự kinh ngạc của mọi người, nhờ lòng tin và nhiệt tâm của Thánh nữ.

Quyết tâm: Noi gương Thánh Mát-ta, tôi hết lòng tin tưởng Chúa, và tận tâm phục vụ Người hằng ngày, qua các anh chị em nghèo khó bệnh tật xung quanh tôi.

Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã nhận lời mời và đến trú ngụ tại nhà Thánh nữ Mát-ta. Nhờ lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con hết tình phục vụ Đức Ki-tô hiện diện trong mọi người để mai sau được Chúa đón nhận vào nhà Chúa.

------------------------------

 

Suy niệm 10. Thánh Mát-ta, con người của phục vụ


--Maria Nguyễn Thái

Thế giới ngày nay đang rất cần những con người biết quên mình phục vụ tha nhân. Trước nhu cầu đó, có biết bao vị thánh đã hy sinh phục vụ vì lợi ích của người khác; cũng như xã hội ngày nay, có nhiều tấm gương quảng đại dấn thân trong hoạt động tông đồ. Trong Kinh Thánh, khi nhắc đến hai từ “phục vụ”, chúng ta liên tưởng ngay đến thánh nữ Mát-ta, một con người phục vụ. Thánh nữ Mát-ta là người phục vụ như thế nào? Chúng ta cùng nhìn trong hai giai thoại trong Tin Mừng Luca (Lc 10, 38 – 42).

Khi đọc đoạn Tin Mừng trong trình thuật thánh Luca, chúng ta nhận ra, Mát-ta là một người rất hiếu khách. Ngài đã đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ rất nhiệt tình.

Tin Mừng Luca (Lc 10, 38) kể lại rằng: “Khi Đức Giêsu vào làng kia, có một người phụ nữ tên là Mát-ta đón người vào nhà”, và ngay sau đó, Mát-ta tất bật chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách nơi Mát-ta, có thế nói là rất quan trọng trong vùng Trung Đông, tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, Mát-ta rất bất bình với em cô là Maria, khi cô em không chịu giúp chị mình trong việc bếp núc. Thay vì giúp chị, Maria cứ ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe Người giảng. Đáng lẽ ra, lúc đó, Mát-ta có thế đến nói với em mình một cách tế nhị (nói nhỏ, nói khéo) để Maria giúp mình một tay, thế nhưng, Mát-ta lại xin Đức Giêsu can thiệp: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao?”  Phải chăng Mát-ta đang tìm sự cảm thông nơi Thầy mình? Muốn Thầy bênh vực cho mình? Nhân cơ hội này Chúa Giêsu dạy bài học, Ngài muốn mời gọi Mát-ta hướng một mối tương giao sau xa hơn nên đã trả lời rằng: “Mát-ta Mát-ta! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất mà không bị lấy đi” (Lc 10, 38 - 42). Quả thật, lo lắng của Mát-ta là làm sao chuẩn bị cho Thầy và các môn đệ một bữa ăn ngon. Điều đó đã khiến cho Mát-ta không còn thực sự biết đến Thầy đang hiện diện ở đây nữa. Sự nhiệt tình phục vụ của Mát-ta đã làm cho cô không còn thực sự thấy được điều gì là quan trọng nhất, mà cô chỉ vì nghĩ đến phục vụ. Thật vậy, Chúa Giêsu không chối từ sự phục vụ của Mát-ta, Ngài đề cao tinh thần đó, nhưng điều đó chỉ là phần thứ yếu cho cuộc sống vật chất mà thôi. Ngài muốn Mát-ta chọn cho mình một bữa ăn tinh thần, đó là việc lắng nghe Lời Chúa dạy với tâm hồn khiêm hạ.

Đến giai thoại thứ hai trong trình thuật Gioan (Ga 11, 1-53), chúng ta sẽ nhận ra một nét rất riêng, một hình ảnh đặc biệt nơi thánh nữ Mát-ta. Tin Mừng Gioan kể lại mà ta có thể tóm tắt như sau: Đức Giêsu rất quý mến cô Mát-ta, cùng hai người em là cô Maria và anh Lazarô. Và vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mát-ta liền ra đón Người. Một sự đón tiếp mau mắn, Mát-ta muốn Chúa Giêsu vào nhà mình mà đã quên đi mất người em yêu quý, đã bỏ lại những người bà con lối xóm đến chia buồn với gia đình cô, trong khi đó cô là chủ nhà. Thêm nữa, Mát-ta gạt đi mọi thương tiếc, đau buồn, lưu luyến... để chạy đến với Đức Giêsu. Cuộc đối thoại giữa Mát-ta với Chúa Giêsu cho ta thấy: Mát-ta có một niềm tin rất vững mạnh vào quyền năng của Chúa về sự phục sinh và nhất là về niềm tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Hình ảnh sau cùng của thánh nữ Mát-ta theo Tin Mừng Gioan (Ga 12, 1-9) đã toát lên căn tính phục vụ nơi con người của Thánh nữ. Tin Mừng kể lại: ít lâu sau, Đức Giêsu trở lại Bêtania để thăm ba chi em cô Mát-ta, trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt đó là: Em trai cô Mát-ta là Lazaro người đã được Chúa làm cho sống lại từ cõi chết, tạo nên cả một sự chấn động lớn trong làng cũng như những vùng lân cận. Người thứ hai là cô Maria, Tin Mừng Gioan kể: cô đã dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Đức Giêsu, đã gây lên một cuộc tranh luận trong bữa tiệc. Nhưng về phần Mát-ta, ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản và ngắn gọn: “Cô Mát-ta lo hầu bàn”. Cô không làm gì nổi bật, cô chỉ làm một việc đơn thuần là phục vụ Đức Giêsu. Một việc tuy rất tầm thường, nhưng với Mát-ta cô đã làm vì tình yêu mến của mình dành cho Đức Giêsu và các môn đệ. Mát-ta không đòi hỏi Đức Giêsu làm cho mình nhưng cô chỉ làm một cách phục vụ âm thầm với tình yêu.

Nơi Thánh nữ Mát-ta, chúng ta thấy ngài là một người phục vụ Chúa hết tình, hết mình. Mát-ta vừa là một người có niềm tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, vừa có tình yêu mến Đức Giêsu cách đặc biệt. Quả thật, gương sáng của ngài làm cho chúng ta rất cảm phục bởi tình yêu âm thầm phục vụ.

Trong sinh hoạt đời thường của chúng ta, có nhiều điều xem ra rất cần thiết, từ chuyện mục vụ, giáo dục, huấn luyện phục vụ. Vậy, đã có bao lần chúng ta tự hỏi mình rằng: chúng ta đã làm điều đó vì lòng yêu mến Chúa hay chưa, hay chỉ làm tròn bổn phận được giao mà thôi? Chúng ta cần xem lại thái độ của mình. Với công việc phục vụ hằng ngày, tôi và bạn đã bao lần hỏi ý kiến của Chúa hay chưa? Hay chúng ta có nhờ Chúa can thiệp vào trong việc phục vụ của đời sống thường ngày chúng ta? Trong những mối tương quan với Chúa và tha nhân, hay trong những quyết định...chúng ta có tìm ý Chúa không hay vẫn muốn làm theo ý mình? Chúng ta đã tế nhị thành thật khi được người khác sửa lỗi hay khi sửa lỗi cho người khác hay chưa?

Mời bạn cùng tôi, chúng ta vào nơi thinh lặng của tâm hồn, để tìm ra ý Chúa muốn chúng ta phục vụ Chúa và tha nhân bằng cách nào; với thái độ nào; theo tinh thần của ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và hỏi lòng mình rằng: tôi có cảm nhận được niềm vui, bình an và hạnh phúc khi phục vụ Chúa và tha nhân không?

Ước mong rằng tôi và bạn, chúng ta mang tâm tình phục vụ như thánh nữ Mát-ta, phục vụ Chúa cách âm thầm với lòng yêu mến bởi: “Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ là không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng”.

------------------------------

 

Suy niệm 11. Thánh Mát-ta


—Susan Helen Wallace FSP

Thánh nữ Mát-ta là chị ruột của Maria và Lazarô. Các ngài sống tại một ngôi làng nhỏ bé tên Bêtania gần thành phố Giêrusalem. Các ngài là những người bạn rất thân của Đức Chúa Giêsu, và Đức Chúa Giêsu cũng thường hay đến thăm các ngài. Thật vậy, sách Tin mừng nói cho chúng ta biết: “Chúa Giêsu yêu Mát-ta, Maria và Lazarô.” Chính thánh nữ Mát-ta đã phục vụ Chúa Giêsu cách rất âu yếm khi Người đến thăm gia đình Mát-ta.

Một ngày kia, thánh nữ Mát-ta đang bận sửa soạn bữa ăn cho Chúa Giêsu và các tông đồ của Người. Thánh nữ nhận thấy rằng công việc sẽ dễ dàng hơn nếu cô Maria em ngài phụ giúp ngài một tay. Mát-ta thấy Maria đang ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người. Mát-ta liền đề nghị: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con với!” Chúa Giêsu rất hài lòng với công việc phục vụ dễ thương của Mát-ta. Tuy vậy, Người muốn cho Mát-ta hiểu rằng việc nghe lời Chúa và cầu nguyện thì có tầm quan trọng hơn. Vì thế, Chúa Giêsu đã dịu dàng nói: “Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện! Chỉ có một chuyện cần mà thôi! Maria em con đã chọn phần tốt nhất!”

Lòng tin tưởng mãnh liệt vào Chúa Giêsu của thánh nữ Mát-ta còn được biểu lộ khi em trai Lazarô qua đời. Ngay lúc nghe tin Đức Chúa Giêsu đang đến Bêtania, Mát-ta đã đi ra tiếp đón Người. Mát-ta tin tưởng vào Chúa Giêsu và thốt lên cách rất tự nhiên: “Lạy Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết!” Sau đó, Chúa Giêsu nói với Mát-ta rằng em Lazarô sẽ sống lại. Người nói: “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống. Con có tin điều đó không?” Và Mát-ta thưa: “Lạy Thầy, vâng con tin rằng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian.” Hôm ấy, Chúa Giêsu đã làm một phép lạ vĩ đại cho Lazarô sống lại từ cõi chết!

Sau đó, Chúa Giêsu lại đến dùng bữa với Lazarô, Mát-ta và Maria. Thánh nữ Mát-ta phục vụ bàn ăn như thường lệ. Tuy nhiên, lần này với thái độ đáng yêu hơn: Mát-ta đã phục vụ với một trái tim thật vui tươi!

Thánh nữ Mát-ta đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng hiếu khách. Khi chúng ta chào đón hay phục vụ ai, Đức Chúa Giêsu coi đó như là chúng ta làm cho chính bản thân Người. Thánh nữ Mát-ta cũng nêu gương sáng về lòng tin tưởng và niềm trông cậy. Ngài là bạn thân của Đức Chúa Giêsu và ngài biết có thể tin tưởng vào lời Đức Chúa Giêsu đã nói. Xin thánh nữ Mát-ta cũng giúp chúng ta biết tạo mối tương quan thân thiện với Đức Chúa Giêsu như ngài.

------------------------------

 

Suy niệm 12. Thánh Mát-ta


--5phutloichua.net

Suy niệm: Qua việc cho La-da-rô sống lại, Chúa Giê-su dẫn đưa Mác-ta tiến sâu vào con đường đức tin, giúp cho cô vững tin Ngài chính “là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (c.27). Đối với Mác-ta, niềm vui này còn lớn hơn niềm vui tìm lại được người em đã chết, bởi vì niềm tin ấy đưa cô đến sự sống đời đời: “Ai tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (c.26). Tin vào con người Đức Ki-tô thì cũng đồng thời là tin vào Lời của Ngài, bởi vì Ngài chính là Ngôi Lời (Ga 1,1), và Lời Ngài là Lời hằng sống, Lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6,68).

Mời Bạn: Giữa cơn thử thách lớn lao, Mác-ta đã gặp Đức Ki-tô, và lời Ngài đã vực chị dậy để chị đứng vững trong niềm tin. Bạn đã làm gì khi gặp thử thách trong đời sống, trong đức tin? Trong năm Sống Lời Chúa, bạn được mời gọi năng đọc, và sống Lời Chúa. Việc này phải dẫn bạn đến chỗ tin tưởng vào Ngài mỗi ngày một hơn.

Chia sẻ: Khi gặp thử thách mới thấy niềm tin của mình như thế nào! Bạn hãy cùng bạn bè, người thân chia sẻ kinh nghiệm cá nhân khi đối diện thử thách, dựa vào  gương của Mác-ta trong câu truyện Tin Mừng hôm nay, và hãy khích lệ nhau vững tin vào Chúa hơn.


Sống Lời Chúa: Bạn hãy tập thói quen khi gặp thử thách lớn nhỏ, nhớ đến một câu Lời Chúa, để tâm niệm, và xin ơn kiên vững trong niềm tin.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con bài học về đức tin của Mác-ta. Ước gì những thử thách con gặp phải, không đẩy con xa Chúa, nhưng giúp con thêm vững tin vào Chúa, và dẫn con đến sự sống đời đời.

------------------------------

 

Suy niệm 13. Thánh Mát-ta


--5 phút Lời Chúa tháng 07/2022

Tảng đá lấp cửa ngôi mộ còn chưa xanh rêu, những người thân còn chưa hết đau xót bàng hoàng vì sự ra đi của người em thân yêu, những tiếng khóc chưa dứt, những giọt lệ vẫn chưa khô, và chính Đức Giê-su cũng không tránh khỏi xúc động đến rơi lệ, chính khi ấy, Chúa Giê-su lại đặt vấn đề nhạy cảm này với Mác-ta: “Chị có tin như thế không?” Tin gì? Tin rằng: “Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Thế mà em mình đã chết, đã chôn rồi đây! Tin thế nào bây giờ!!! Lòng mến yêu kính phục dành cho Thầy khiến Mác-ta sẵn sàng thưa: “Thưa Thầy có. Con vẫn tin.” Thế nhưng cô không thể tưởng tượng được Đức Giê-su lại truyền cất phiến đá đậy ngôi mộ để gọi La-da-rô người đã chết chôn bốn ngày sống dậy từ trong mộ bước ra. Thêm một lần nữa Đức Ki-tô rao giảng mầu nhiệm phục sinh, mầu nhiệm trung tâm điểm của đời sống ki-tô giáo. Quả thật, đúng như thánh Phao-lô nói: “Nếu Đức Ki-tô đã không chỗi dậy thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14).

Còn Bạn, Đức Giê-su vẫn không ngừng hỏi bạn: “Bạn có tin như thế không?” Bạn trả lời thế nào với Ngài đây? Hành vi nào trong cuộc sống của bạn có thể làm chứng rằng bạn tin vào Đấng Phục Sinh, rằng bạn sẽ được sống lại với Ngài? Mời bạn chia sẻ về kinh nghiệm sống đó.

Sống Lời Chúa: Tìm cách thích hợp để diễn tả niềm tin phục sinh của bạn mỗi khi bạn tham dự một đám tang.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng phải đến trong thế gian.

 ------------------------------

 

Suy niệm 14. Thánh nữ Mát-ta


Thánh nữ Mát-ta cùng sống với em gái là Maria và em trai là Ladarô tại làng Bêtania, gần Jerusalem. Vào cuối quãng đời công khai, Chúa Giêsu thường ghé thăm nhà của ba người bạn thân thiết này. Những mối cảm tình thắm thiết đã liên kết ba vị với Chúa Giêsu.

Tình yêu Thầy Chí Thánh và niềm tin vào sự giúp đỡ của Người.
Ngày lễ kính thánh nữ Mát-ta là dịp để chúng ta đi vào ngôi nhà thường được diễm phúc đón tiếp sự hiện diện của Chúa Giêsu tại Bêtania. Tại đây, gia đình của Mát-ta, Maria, và Ladarô, Chúa tìm được sự nghỉ ngơi sau những chuyến rao giảng mệt nhoài qua những thị thành. Chúa Giêsu đã tìm đến nương ẩn nơi những bạn bè của Người, nhất là trong những ngày sau cùng khi Người thường xuyên gặp hiểu lầm và khinh bỉ, đặc biệt là từ những người Biệt Phái. Những tình cảm Thầy Chí Thánh dành cho những người bạn của Người tại Bêtania đã được thánh Gioan ghi lại trong Phúc Âm: Chúa Giêsu yêu thương Mát-ta, hai người em của bà là Maria và Ladarô. Quả thật, họ là những người bạn thiết của Chúa!

Phúc Âm thánh lễ hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình này vào bốn ngày sau khi Ladarô qua đời. Trước đó, khi Ladarô đang bệnh nặng, hai người chị, đầy lòng tin tưởng, đã gửi tin báo cho Thầy Chí Thánh: Lạy Thầy, người Thầy yêu đang ốm nặng. Khi ấy, Chúa Giêsu còn ở tại Galilê, cách Bêtania một vài ngày đàng. Khi nghe tin Ladarô lâm bệnh, Chúa vẫn lưu lại nơi ấy thêm hai ngày nữa. Sau đó, Người nói với các môn đệ: ‘Nào chúng ta cùng trở lại Judaea.’ Nhưng khi Chúa đến nơi, Ladarô đã chết và chôn trong mồ được bốn ngày.

Lúc nào cũng lưu tâm sốt sắng, nên Mát-ta đã nhận ra Chúa Giêsu khi Người còn ở đàng xa, và đã kịp ra chào đón. Mặc dù phản ứng của Chúa xem ra không chiều theo ước nguyện của Mát-ta, nhưng tình yêu và niềm tin của thánh nữ vẫn không suy giảm. Mát-ta thưa với Chúa – Nếu Thầy có mặt ở đây, thì em con không chết. Bà đã tế nhị trách Chúa vì đã không đến sớm hơn. Mát-ta hy vọng Chúa chữa lành cho em bà khi còn đang bệnh. Nhưng Chúa Giêsu, với một cử chỉ thân thiện, có lẽ mỉm cười, đã làm bà phải ngạc nhiên: Em con sẽ sống lại. Mát-ta đón nhận những lời an ủi ấy, nhưng hiểu về ý nghĩa của ngày phục sinh, nên đã đáp lại: Con biết em con sẽ sống lại trong ngày sau hết. Câu đáp của thánh nữ đã mở đường cho lời tuyên bố của Chúa Giêsu về thần tính của Người: Ta là sự Sống Lại và là Sự Sống; ai tin nơi Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và bất cứ ai sống mà tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ. Rồi Chúa hỏi thẳng Mát-ta: Con có tin không? Ai có thể phản kháng uy quyền tối thượng của lời tuyên bố: Ta là sự Sống Lại và là Sự Sống…  Ta là nguyên nhân hiện hữu của mọi vật hiện hữu. Chúa Giêsu là Sự Sống, không chỉ là Sự Sống đời sau, mà còn là Sự Sống hiện tại, trong đó, ơn thánh hoạt động trong linh hồn chúng ta đang khi chúng ta đang chiến đấu. Những lời ngoại thường này trấn an và lôi kéo chúng ta đến gần Chúa Kitô hơn nữa. Những lời ấy cũng đưa chúng ta đến chỗ nhận những lời đáp của thánh nữ Mát-ta như của chính chúng ta: Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống thế gian. Sau đó một lúc, Chúa Giêsu đã làm phép lạ, cho Ladarô sống lại từ cõi chết.

Chúng ta thán phục đức tin và muốn noi gương thánh Mát-ta trong mối tương quan tín thác của thánh nữ vào Thầy Chí Thánh: Bạn đã nhìn thấy tình cảm và niềm tin mà những người bạn thân của Chúa Kitô đã xử đối với Người hay chưa?  Một cách hết sức tự nhiên, hai người chị của Ladarô đã ‘trách’ Chúa Kitô vì đã đi vắng: ‘Nếu như Thầy có mặt ở đây!’

Bạn hãy thưa với Chúa trong niềm tin tưởng an bình: “Xin dạy chúng con biết đối xử với Chúa bằng tình thân thắm thiết như Mát-ta, Maria, và Ladarô, như mười hai Tông Đồ đầu tiên đã đối xử với Chúa, ngay cả như thời gian ban đầu, khi các ngài theo Chúa có lẽ không vì những lý do siêu nhiên nào cả.”

2. Nhân tính rất thánh của Chúa Giêsu.

Một thời gian sau, gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lại ghé thăm các người bạn: Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến Bêtania, nơi Ladarô đã chết, người đã được Chúa Giêsu cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, họ dọn bữa tối thết đãi Chúa Giêsu; Mát-ta lo hầu bàn, còn Ladarô là một trong những người cùng dự tiệc với Người.

Mát-ta lo hầu bàn… Chắc hẳn thánh nữ đã thực hiện điều này với một lòng tri ân. Đấng Cứu Thế đang có mặt tại nhà; Thiên Chúa cần được thánh nữ phụng sự. Thánh nữ được phụng sự Thiên Chúa. Thiên Chúa làm người để đồng hóa với những nhu cầu nhân loại, thành ra chúng ta có thể học biết yêu mến Người qua Nhân Tính Rất Thánh của Người và có thể trở nên những bạn thân của Người. Chúng ta thỉnh thoảng hãy nhớ lại chính Chúa Giêsu đã từng ở Nazareth, ở Capharnaum, từng ở Bêtania xưa, cũng đang nóng lòng đợi chờ chúng ta tại nhà tạm gần nhất. Người đang cần sự quan tâm và phục vụ của chúng ta. Quả thật, tôi luôn luôn gọi nhà tạm của chúng ta là nhà Bêtania. Bạn hãy trở nên một bạn thân của Thầy Chí Thánh – như Ladarô, Mát-ta, và Maria – và rồi bạn đừng hỏi tôi tại sao tôi lại gọi các nhà tạm là nhà Bêtania nữa. Chúa Kitô đang hiện diện một cách bí tích tại đó. Chúng ta đừng hờ hững với Người. Hằng ngày, chúng ta hãy đến kính viếng và bầu bạn với Người, không hấp tấp, không lo ra, nhất là trong những giờ phút quí báu sau khi được lãnh nhận Thánh Thể. Thời gian ấy lợi ích biết bao cho chúng ta!

Theo thánh Thomas, đối với Thiên Chúa, nhập thể là phương thức hữu hiệu và lợi ích nhất trong việc cứu độ nhân loại. Thánh nhân nêu ra các lý do sau: đối với đức tin – điều ấy dễ tin hơn, bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng phán dạy; đối với đức cậy – ý chí cứu độ của Thiên Chúa được biểu trưng qua bằng chứng lớn lao này; đối với đức ái – bởi vì không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu; và đối với chính các hành vi của tình yêu – bởi vì Thiên Chúa trở nên gương mẫu cho chúng ta. Qua việc nhập thể, Thiên Chúa đã tỏ ra giá trị lớn lao của từng con người.. Qua sự khiêm nhượng, Thiên Chúa đã chà đạp tính kiêu ngạo của chúng ta…

Qua Nhân Tính thánh thiện Chúa Giêsu, tình yêu Thiên Chúa đã mặc lấy hình hài nhân loại vì chúng ta. Hành vi này mở ra cho chúng ta một cánh cửa dẫn đến chỗ kết hợp với Thiên Chúa, Cha của chúng ta. Do đó, cuộc sống Kitô hữu hệ tại ở việc yêu mến, noi gương, và theo bước Chúa Kitô. Chúng ta được phấn khích nhờ tấm gương đời sống Chúa Kitô và nhờ tình thân ái giữa chúng ta với Người.

Mục tiêu chính của việc nên thánh không phải là cuộc chiến chống lại tội lỗi, không phải là vấn đề tránh lánh điều xấu, nhưng là việc yêu mến, noi gương Thầy Chí Thánh, Đấng đi khắp nơi thi ân giáng phúc… Cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống đầy nhân tính. Trái tim chúng ta có một vai trò quan trọng trong việc nên thánh bởi vì Thiên Chúa đã đoái thương trở nên con người. Nếu chúng ta không quan tâm đến phương diện tình cảm trong đời sống đạo đức, và dễ dãi trao gửi con tim chúng ta cho các thụ tạo, tình thân giữa chúng ta với Thầy Chí Thánh sẽ gặp nguy hại, và sức mạnh ý chí của chúng ta không đủ sức giúp chúng ta vươn lên trên con đường hẹp của sự thánh thiện. Vì vậy, chúng ta luôn luôn phải nỗ lực ý thức rằng Chúa đang gần bên chúng ta. Chúng ta có thể dùng trí tưởng tượng để hình dung Chúa Kitô, Đấng đã giáng sinh tại Bêlem, đã lao động nhọc nhằn tại Nazareth, đã có những người bạn thân thiện, và đã quí trọng cuộc sống trần gian của Người.

Ước chi chúng ta biết học từ nơi những người bạn của Chúa Kitô để đối xử với Người trong niềm tôn kính sâu xa, bởi vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng hãy tìm đến nương tựa nơi Chúa với một niềm tin tưởng vô bờ, bởi vì Chúa là Người Bạn của chúng ta, mỗi ngày Người hằng tìm kiếm và ước ao sống gần gũi với chúng ta.

3. Tình thân với Chúa làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng.

Một lần kia, Chúa Giêsu và các môn đệ ghé lại nhà các bạn của Người tại Bêtania trên đường lên Jerusalem. Mát-ta và Maria đã thết đãi và chuẩn bị những thức cần thiết để chứng tỏ lòng hiếu khách với Thầy Chí Thánh và những môn đệ của Người. Nhưng Maria - có lẽ khi ấy Chúa Giêsu vừa đến chưa bao lâu - đã ngồi lại dưới chân Chúa và lắng nghe Người, trong khi Mát-ta bận bịu một mình. Maria quên tất cả để chỉ lắng nghe lời Thầy Chí Thánh. Tình yêu đã lôi cuốn Maria ở lại dưới chân Chúa. Tập quán lắng nghe Chúa và sự đói khát lời Người minh chứng rằng đây không phải là cuộc gặp gỡ lần đầu, nhưng là một sự đồng cảm hiếm thấy.

Mát-ta chắc chắn không hững hờ với lời Chúa. Thánh nữ nóng lòng muốn nghe, nhưng vì phải bận bịu công việc. Không có Mát-ta, Chúa Giêsu vẫn hướng câu chuyện của Người về bình diện trên cao. Điều ấy, đối với Mát-ta, càng làm Chúa trở nên lôi cuốn hơn nữa. Vì thế, Mát-ta cảm thấy khó chịu và bực bội vì gánh nặng công việc. Trong lúc đó, thánh nữ lại thấy em mình dưới chân Chúa. Theo trình thuật Phúc Âm thánh Luca: Hơi khó chịu, nhưng đầy tin tưởng, thánh nữ đến và thưa Chúa: Lạy Thầy, Thầy không thấy em con để con phục vụ một mình sao?  Xin Thầy bảo em con giúp con với. Mát-ta đã đến với Chúa trong niềm tin tưởng!

Chúa Giêsu đã đáp lại một cách nói thân mật bằng cách lặp đi lặp lại tên thánh nữ: Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện quá; chỉ có một điều cần mà thôi. Maria có lẽ cũng sẵn lòng giúp đỡ chị, nhưng đã không quên điều thiết yếu: đó là chọn Chúa Giêsu làm tâm điểm chú ý và trung tâm cuộc sống của mình. Chúa Giêsu đã đề cao điều ấy – tức là tình yêu của Maria.

Ngay cả những công việc của Chúa cũng đừng làm chúng ta quên mất Chúa. Mát-ta sẽ không bao giờ quên được lời nhắc nhở thân thiết ấy của Chúa. Công việc là điều không thể lơ là, nhưng đừng vì công việc mà hạ Chúa Kitô xuống hàng thứ yếu.

Những hoạt động và lo toan của chúng ta mặc dù trực tiếp qui hướng về Chúa, nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ vì chúng mà quên lãng điều duy nhất cần thiết: đó là chính Chúa Kitô. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cần nhớ: đừng bao giờ để những điều xem ra hết sức quan trọng, chẳng hạn như công việc, thu nhập tài chánh, những tương giao xã hội, vượt quá địa vị của cuộc sống gia đình. Những điều ấy không đáng buộc cuộc sống gia đình phải chịu tổn thiệt. Chỉ trong những hoàn cảnh ngoại thường, người gia trưởng mới phải làm việc xa nhà, chẳng hạn như những người di cư hoặc thủy thủ. Nếu người cha hoặc người mẹ trong gia đình kiếm được nhiều tiền mà thiếu sót bổn phận đối với con cái, thử hỏi kết quả sẽ như thế nào?

Đức Thánh Trinh Nữ, Đấng muôn đời được hưởng sự hiện diện hồng phúc của Chúa Kitô trên thiên quốc, sẽ nài xin cho chúng ta ơn biết trân trọng hơn nữa mối thân tình thắm thiết với Thầy Chí Thánh. Mẹ sẽ dạy chúng ta biết chuyên cần những công việc của Chúa mà không quên mất Chúa. Trước mặt Chúa Giêsu, Mẹ sẽ cầu bầu cho chúng ta biết coi trọng giá trị gia đình hơn những mối lợi khác.

-------------------------------

 

Suy niệm 15. Thánh Mát-ta, một con người phục vụ


--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng: “Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một phụ nữ tên là Mát-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria, cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mát-ta thì tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10, 38-40 ). Tin Mừng cũng cho thấy, Mát-ta cũng đón Chúa dùng bữa với gia đình sáu ngày trước lễ phục sinh. Trong hai bữa ăn đó, Mát-ta tỏ ra tất bật, lo lắng cho Chúa Giêsu và các môn đệ. Cô Mát-ta có lòng hiếu khách một cách triệt để: thánh nữ bận rộn với việc bếp núc, cố gắng làm những món ăn ngon, hợp khẩu vị để thết đãi Chúa Giêsu và các môn đệ. Lần khác, Chúa Giêsu tới Bêtania và làm cho Lazarô chết bốn ngày, đã nặng mùi, được sống lại. Trước khi làm phép lạ, Mát-ta đã tuyên xưng lòng tin của mình: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” ( Ga 11,27) Lòng tin của Mát-ta đưa nhân loại liên tưởng tới lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Chính lời tuyên xưng đức tin của vị tông đồ trưởng làm cho Ngài trở nên tảng đá vững chắc, Chúa xây dựng Giáo Hội của Người trên ấy. Mát-ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Điều này nói lên, chính Thiên Chúa đã mạc khải cho thánh nữ và Thánh Thần đã tác động trong thánh nữ để Mát-ta nhận ra Chúa là Đấng thiên sai phải đến trong thế gian. Mát-ta bận rộn, lo lắng và trong sự mệt mỏi, thánh nữ đã than phiền về việc Maria không chịu giúp cô làm bếp để hầu hạ và phục vụ Chúa Giêsu cùng các môn đệ: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay” (Lc 10, 40 ). Sự thực Chúa Giêsu rất trân trọng thái độ hiếu khách của Mát-ta, tuy nhiên, Ngài cũng trách Mát-ta quá lo âu, lo lắng mà quên đi việc chính yếu là lắng nghe lời Chúa: “Mác ta! Mát-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”( Lc 10, 41-42 ).

Thái độ nào cần phải có?

Maria em cô Mát-ta đã lấy thuốc thơm xức cho Chúa, đã ngồi bên chân Chúa mà nghe Chúa giảng dạy (Lc 10,39). Cả hai thái độ của Mát-ta và Maria đều đáng trân trọng, nhưng phải làm sao để đời sống hoạt động và đời sống chiêm niệm, cầu nguyện trở nên hài hòa. Lo lắng, băn khoăn, náo động mà quên đi phải có những lúc tĩnh, những lúc yên nghỉ để lắng đọng tâm hồn, kết hợp với Chúa, là điều thiếu xót, chưa hoàn hảo. Chúa Giêsu muốn con người vừa phục vụ nhưng phải biết hồi tỉnh để cầu nguyện. Maria và Mát-ta sẽ bổ túc cho nhau để đời sống trở nên hoàn hảo.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã nhận lời mời và đến trú ngụ tại nhà thánh nữ Mát-ta. Nhờ lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin Chúa cho chúng con hết tình phục vụ Đức Kitô hiện diện trong mọi người để mai sau được Chúa đón nhận vào nhà Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh nữ Mát-ta).

-------------------------------

 

Suy niệm 16. Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô


(http://giaoxutanviet.com)

“Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô”. Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mát-ta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.

Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mát-ta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.

Nhiều người dễ nhận ra Mát-ta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mát-ta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mát-ta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông, và Mát-ta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mát-ta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mát-ta. Ðức Giêsu thấy Mát-ta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mát-ta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mát-ta, chúng ta nhận ra chính chúng ta – thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mát-ta như Maria.

Lần thăm viếng thứ hai cho thấy, Mát-ta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.

Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mát-ta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.

Hình ảnh sau cùng của Mát-ta trong Phúc Âm, đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mát-ta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mát-ta lo hầu hạ.” Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.

Thánh Mát-ta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

Lời Bàn

Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mát-ta nói với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô hữu phải vâng theo. “Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em”. Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh – mà sự phục sinh ấy hiện có trong đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.

-------------------------------

 

Suy niệm 17. Thánh nữ Matta


-- Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Lễ Thánh Nữ Matta, chị của Maria và Ladarô, được cử hành tám ngày sau lễ kính Thánh Nữ Maria Mađalêna và đã phổ biến dưới thời Trung Cổ do ảnh hưởng cuốn Các truyền thuyết ở Pronvence. Tuy nhiên thật đáng tiếc vì không có một lễ chung kính ba vị thánh của Bêtania như trong phụng vụ dòng Phan Sinh ở thế kỷ XVIII và trong niên lịch dòng Biển Đức vốn vẫn thường mừng vào ngày 2 tháng Chín.

Quyển Cuộc đời Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) có kể lại một truyền thuyết rằng ba chị em Matta, Maria, Ladarô đã bị người Do Thái tống xuống một chiếc thuyền nhỏ không buồm, nhưng đã lên bờ được ở Marseille và tại đây bà Matta được đặc biệt kính trọng. Còn theo những truyền thuyết khác thì Thánh Nữ Matta đã truyền giáo ở miền Provence và đã giải thoát miền này khỏi một con quái vật tên là Tarasque. Người ta thấy sự tích đó được khắc trong Nhà thờ Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) ở Tarascon.

2. Thông điệp và tính thời sự

Các lời nguyện trong Thánh Lễ cũng như các điệp ca nhập lễ (nhắc tới bữa ăn ở Bêtania) và hiệp lễ (nhắc tới việc Ladarô sống lại) đưa ra ba giai đoạn nổi bật của Thánh Nữ Matta, được chọn làm bổn mạng các bà nội trợ và các dưỡng đường.

Lời nguyện trong ngày ca tụng tính hiếu khách của thánh nữ, và dạy chúng ta biết “phụng sự Đức Kitô trong mỗi người anh em chúng ta”. Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh “sự vội vã tận tụy” của thánh nữ trong việc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà (Lc 10, 38).

Bài Phúc Âm Luca đọc trong Thánh Lễ (Lc 10, 38-42) nhắc lại lời Đức Kitô: ”Matta, Matta ơi, chị lo lắng, sắp xếp nhiều chuyện. Nhưng duy nhất chỉ có một điều là cần thiết… ” Bởi thế, trong lời nguyện tạ lễ, chúng ta xin Chúa ”đừng để chúng ta hướng về những gì hay hư nát”. Cũng vậy, bài giảng của Thánh Augustinô và Phụng vụ Bài đọc trích dẫn nhắc nhở chúng ta rằng “lời của Đức Giêsu Kitô mời gọi chúng ta chỉ nhắm một mục đích duy nhất khi chúng ta ngụp lặn giữa bao công việc của trần gian này”.

Điệp ca bài Benedictus: Lạy Chúa, Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã đến trong thế giới này, được trích dẫn từ Phúc Âm Thánh Gioan (11, 27) mà ta có thể đọc trong Thánh Lễ. Những lời này của Thánh Nữ Matta là một lời tuyên xưng đức tin rất vững chắc, đã được Giáo Hội giữ lại trong nghi thức khai tâm kitô giáo cho người trưởng thành và trong phụng vụ lễ tang.

-------------------------------

 

Suy niệm 18. Ba chị em Mát-ta, Maria và Ladarô được mừng kính chung vào ngày 29/7


--xbvn

(Tý Linh (theo ZENIT)

Đức Phanxicô đã quyết định từ nay trong lịch phụng vụ của Giáo hội Công giáo Rôma, toàn thể Giáo hội sẽ mừng lễ thánh nữ Mátta, thánh nữ Maria và thánh Ladarô vào ngày 29/7 hằng năm. Qua đó, Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh ”chứng tá Tin Mừng quan trọng mà các ngài đã mang lại khi tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình, lắng nghe Ngài cách chăm chú và tin rằng Ngài là sự sống lại và là sự sống”.

Cho đến nay, chỉ thánh nữ Mátta được mừng vào ngày này trong lịch phụng vụ của Giáo hội, do thiếu sự chắc chắn về căn tính của thánh nữ Maria (đôi khi được đồng hoá với thánh nữ Maria Mađalêna, được mừng vào ngày 22/7). Nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy đây là hai người khác nhau, và sách các thánh tử vì đạo của Rôma hiện nay cũng như một số lịch riêng đều kính nhớ ba chị em cùng ngày với nhau.

Trong sắc lệnh được công bố hôm 2/2/2021, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã giải thích rằng: ”trong ngôi nhà ở Bêtania, Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được tinh thần gia đình và tình bạn”, ”Mátta đã quảng đại bày tỏ lòng hiếu khách đối với Ngài, Maria đã chăm chú lắng nghe lời Ngài và Ladarô đã nhanh chóng ra khỏi mồ theo lệnh của Đấng đã chiến thắng sự chết”.

Lễ nhớ các ngài giờ đây sẽ nằm trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ các Giờ Kinh.

 -------------------------------

 

Suy niệm 19. Gia Đình Chị Em Maria


--Lm Giacôbê Tạ Chúc 2010

Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa, cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).

Làng Bêtania

Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria(Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khỏang 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng hồ”.

Mátta và Maria

Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng với các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho người chị thì có lẻ tốt hơn.

Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11, 21). Lazarô đã chết, thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên Chúa tặng ban cho nhân lọai.

Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy

Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con người của Mát-ta và Maria.

Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của một tình yêu Giê-su.

-------------------------------

 

Suy niệm 20. Thánh Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô


--Lm. Giu-se Vũ Công Viện

Hôm nay, Giáo hội kính nhớ các thánh Mát-ta, Ma-ri-a và La-da-rô là 3 chị em ở làng Bê-ta-ni-a. Lễ này đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thêm vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Rô-ma, ngày 2/2/2021. Ngày này trước đây, chỉ được sử dụng để kính nhớ duy nhất thánh Mát-ta.

Sắc lệnh của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã giải thích rằng Đức Thánh Cha thêm ba vị thánh vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Rô-ma “vì chứng tá Phúc âm quan trọng của họ trong việc đón rước Chúa Giê-su vào nhà họ, chăm chú lắng nghe Người, tin rằng Người là sự sống lại và là sự sống.”

Sắc lệnh khẳng định: “Trong ngôi nhà ở Bê-ta-ni-a, Chúa Giê-su cảm nghiệm tình gia đình và tình bạn của Marta, Maria và La-da-rô, và vì lý do này, Phúc âm thánh Gio-an khẳng định rằng Chúa yêu thương họ. Bà Mát-ta đã rộng lượng tiếp đãi Người, bà Ma-ri-a ngoan ngoãn lắng nghe lời Người và ông La-da-rô nhanh chóng đi ra khỏi mộ theo lệnh của Đấng đã chiến thắng sự chết.”

Bài Phúc âm trích đọc trong thánh lễ này (Lc 10, 38-42) minh chứng tình cảm mà chị em nhà này đã dành cho Chúa. Họ tận tình tiếp đãi Chúa mỗi người một cách thế. Dầu vậy, Bài Phúc âm cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ về trật tự của những việc chúng ta làm cho Chúa.

Mát-ta đón thầy trong tư cách chị cả. Chị tất bật trong bếp lo bữa ăn để tiếp đãi Thầy, chị lo lắng phải làm sao để tiếp đón Thầy cho xứng. Còn Ma-ri-a đón tiếp Chúa bằng cách thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.

Mát-ta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn. Nhưng chị không muốn khách phải chờ đợi lâu, và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn. Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.

Chị đề nghị: “Xin Thầy bảo em giúp con một tay !” Ước mơ của Mát-ta rất đỗi bình thường. Tiếc thay, Thầy Giê-su lại đang kể chuyện cho Ma-ri-a, và cô này đang lắng nghe một cách thích thú. Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy. Mát-ta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có. Chị quên rằng Thầy Giê-su không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn. Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.

Thầy Giê-su nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mát-ta. và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng. Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mát-ta, Mát-ta. Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá. “Chỉ cần một chuyện thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt hơn”.

Thầy Giê-su không bảo rằng điều Mát-ta làm là điều không tốt. Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.

Cuộc sống hôm nay dễ làm chúng ta bị cuốn vào chọn lựa của Mát-ta, bị đè nặng bởi công việc. Chúng ta quên mất: điều cần hơn là dành thời giờ để gặp Chúa, ở bên chân Chúa mà lắng nghe.

Đời sống của người Ki-tô hữu là kết hợp hài hoà giữa chọn lựa của Mát-ta và Ma-ri-a. Vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa.

------------------------------

 

Suy niệm 21. Xác loài người ta sẽ sống lại


--PM Cao Huy Hoàng

“Con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Gia đình ba chị em Matta, Maria và Lagiaro được Chúa Giê-su rất quý mến. Lần nọ, Người đến thăm nhà, Matta đã nhiệt tình lo bữa cơm tiếp đãi Người. Người lại đãi gia đình bữa tiệc Lời Chúa. Maria ngồi dưới chân Người, nghe Lời người dạy.

Tin Mừng kể lại việc Lagiaro ốm liệt. Matta và Maria có báo tin cho Người đang khi Người đi giảng dạy, nhưng Người có ý không về thăm. Và cuối cùng Lagiaro đã qua đời, đã được an táng. Bốn ngày sau, Người mới ghé về thăm gia đình Matta, lúc mọi người đang đau thương tiếc nuối. Matta đón Người và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết!”. Bởi chị tin chắc rằng Người sẽ chữa lành cho em chị. Chị không thể hiểu ý định diệu kỳ của Thiên Chúa trong Chúa Giê-su. Khi Người nói: “Em con sẽ sống lại”. Matta lại bất ngờ tuyên tín: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”. Chúa Giê-su nói: “Con có tin Thầy là sự sống lại và là sự sống, và ai tin Thầy, dầu có chết cũng sẽ được sống không?”. Chị trả lời: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

Hai câu nói của Matta hôm nay, là lời tuyên tín phát xuất từ ân sủng mạc khải của Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng Matta vào chương trình cứu rỗi của Người, để xác tín của chị trở thành xác tín của mỗi chúng ta hôm nay: Ai tin vào Chúa Ki-tô, thì dẫu có chết cũng sẽ sống lại trong ngày sau hết vì Chúa Ki-tô là Con Thiên Chúa hằng sống.

Mừng lễ Thánh Matta, lạy Chúa, xin cho các gia đình không chỉ noi gương Thánh Nữ tận tình phục vụ anh em, mà còn luôn vững tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là sự sống, là sự sống lại, và là sự sống đời đời, để luôn vui sống bình an hạnh phúc trong niềm hy vọng “xác loài người sẽ sống lại với Chúa Giê-su”. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 22. Chúa muốn tình yêu, Ngài không màng lễ vật


--Lm Giuse Đinh Quang Thịnh

Dựa vào Tin Mừng của Lc 10, 38-42, và Ga 11.12, cho ta có cái nhìn về đời sống đạo của thánh nữ Matta. Ta thấy có điều phải tránh, và có điều phải học nơi chị.

I. ĐIỀU TA PHẢI TRÁNH.

Như Chúa đã xác định: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật” (Hs 6,6b), thì hai lần chị Matta phục vụ Đức Giêsu đều làm cho Ngài buồn hơn là vui, vì chị phục vụ theo tâm tình, tình cảm loài người.

+ Lần I: Theo Lc 10,38-42: Hai chị em Matta và Maria đón Đức Giêsu vào nhà, chị Maria cứ mải ngồi dưới chân Đức Giêsu để nghe giảng Lời, làm chị Matta bực tức với Đức Giêsu và cô em, vì để cho chị một mình phục vụ bữa ăn, khiến chị sấn lại bên Đức Giêsu lên tiếng trách: “Thầy không màng nghĩ tới sao: em tôi để tôi một mình phục dịch? Vậy xin Ngài bảo nó đỡ đần tôi với” (Lc 10,40). Như thế thái độ và lời nói của chị Matta đã làm phiền lòng Thầy Giêsu không ít. Bởi vì nếu chị Matta phục vụ bữa ăn cách vui vẻ, tạo điều kiện cho cô em được đón nhận Lời, như cách tiếp đón ba người khách của vợ chồng Abraham và Sara thì chị đáng được Đức Giêsu chúc lành, như ba người khách đã chúc phúc cho cho vợ chồng Abraham và Sara sinh con trong tuổi già! (x Lc 10,38-42  so với St 18,1-10a).

Như thế:

- Chị không hiểu sứ mệnh Đức Giêsu đi vào trần gian “không phải để người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người” (Mt 20,28). Đối với Đức Giêsu, Ngài lấy việc phục vụ theo ý Cha trên trời làm của ăn, cần thiết hơn của vật chất, cả lúc Ngài đang đói khát (x Ga 4,34). Bởi vì, Ngài là Thiên Chúa đã nói: “Ta mà đói, Ta đâu thèm nói cho ngươi hay, vì trái đất với muôn loài chính Ta dựng nên.Thịt bò há là thức Ta ăn ? Máu chiên há là đồ Ta uống? Nhưng chính ngươi lại ghét điều Ta sửa dạy. Lời Ta truyền, đem vất sau lưng” (Tv 50/49,12.13-17: Bản văn NTT).

- Chị Matta tự cho việc dọn bữa của mình là quan trọng nhất, thì càng nghịch với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Bởi vì “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong  Thánh Thần” (Rm 14,17). Người nào chỉ chú ý tìm lương thực nuôi thân xác, thì Đức Giêsu khuyến cáo: “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27). Bởi vì “người ta sống không nguyên bởi bánh,nhưng bởi mọi Lời Thiên Chúa phá ra” (Mt 4,4).

+ Lần II: Ga 11,45-12, 1-11: Sau khi Đức Giêsu làm cho anh Ladarô, em của Matta và Maria đã chết bốn ngày được sống lại, chị Matta lại tổ chức tiệc mừng, mà không quan tâm đến các đối thủ Đức Giêsu đang phẫn uất và ghen tức, vì có nhiều người tin theo Đức Giêsu, chúng đang rình rập quanh nhà chị, chúng muốn xông vào chẳng những muốn giết Đức Giêsu mà còn cả anh Ladarô nữa để mất tang chứng phục sinh ! Như thế, nếu chị Matta không tổ chức tiệc mời Đức Giêsu đến dự, thì các đối thủ của Ngài đâu có dịp tìm mưu tính kế thâm độc để hại Ngài. Với bầu khí ngột ngạt mùi tử thần như thế, hỏi Đức Giêsu làm sao có thể dùng bữa ngon miệng ! Rõ ràng cách phục vụ của Matta chẳng đoán ý muốn Đức Giêsu để đáp ứng, mà chị chỉ phục vụ theo tình cảm bộc trực của mình.

II. ĐIỀU TA PHẢI HỌC.

Có hai điều ta cần học theo gương sống Đạo của thánh Matta:

1/ Ta học Đức Tin của chị Matta. Ta biết mục đích chính và là cùng đích ơn cứu độ Đức Giêsu thực hiện cho loài người, là Ngài làm cho ai tin theo và kết hợp nên một với Ngài, thì dù họ có chết cách nào, chết bao lâu, Ngài cũng làm cho người ấy được sống lại vinh hiển trong Ngài. Thế mà suốt đời phục vụ của Đức Giêsu, rất nhiều người chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng dưới ngòi bút của thánh sử Gioan, chưa từng có ai tuyên xưng Đức Tin vào Đức Giêsu như chị Matta: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Vì vậy “nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết” (Ga 11, 24.32: Tin Mừng). Và Đức Giêsu đã từng nói: “Đức Tin của con đã cứu con”  (Mc 5,34; Lc 7,50).

Vậy chính nhờ Đức Tin của chị Matta mà Đức Giêsu đã làm cho Ladarô, em chị được sống lại.

2/ Học phục vụ vì lòng mến. Hai lần chị Matta phục vụ bữa ăn hầu Đức Giêsu, đã không làm cho Ngài hài lòng, dù chị dọn tiệc cũng vì phát xuất bởi lòng mến bộc trực của chị, tưởng đó cũng còn là lý do thứ hai Đức Giêsu làm cho em của chị được sống lại, vì Ngài không thua ngôn sứ Êlya và Êlysê. Hai vị này đã cứu sống con bà góa Sarepta và bà lớn thành Shunem, chỉ vì hai bà đều tận tình phục vụ người của Thiên Chúa, do đó Chúa đã nhận lời cầu của hai ngôn sứ đáp ứng khát vọng của hai bà có con mới chết ! (x 1V 17,17t; 2 V 4,18t). Thánh sử Gioan đã đề cao Đức Tin và lòng Mến của hai chị em Matta và Maria, nên ông đã đặt trước phép lạ Đức Giêsu cho anh Ladarô sống lại.

Quả thật, “người công chính sống bởi Đức Tin” (Rm 1,17), và “đức Mến làm cho con người tồn tại” (1Cr 13,13c). Anh Laladô được sống lại là nêu giá trị Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công. Không phải chỉ thông công với Đức Tin và lòng Mến của các thánh, mà nhất là còn được thông công với lòng Mến của Thiên Chúa. Thánh Gioan nói về tình yêu của Thiên Chúa như thế này: “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian. Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4, 7-16: Bài đọc).

Vì vậy Đức Giêsu khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12: Tung Hô Tin Mừng). “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy” (Tv 34/33,9a:Đáp ca).

THUỘC LÒNG

‘’Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời’’ (Cl 3,23).

------------------------------

 

Suy niệm 23. Không ngại nói “CÓ"


--Lm. Minh Anh
 

“Con có tin điều đó không?”; “Thưa Thầy, vâng, con tin!”.

Một nhà tu đức nói, “Niềm tin, về nhiều mặt, giống như chiếc xe cút kít. Cách đơn sơ, bạn phải thực sự thúc đẩy nó để nó có thể hoạt động. Nếu không sống nó; bạn không tin nó!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Nếu không sống nó; bạn không tin nó!”. Lời Chúa lễ các thánh Matta, Maria và Lazarô đặt ra một câu hỏi căn bản: “Con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi và Matta nhanh nhẩu đáp, “Vâng, con tin!”. Hôm nay, Ngài hỏi bạn và tôi, “Con có tin tất cả những điều đó không?”; và thách thức của chúng ta trong thời hậu hiện đại này, là ‘không ngại nói “Có!”’ với Ngài!

Nhưng tất cả những điều đó là điều gì? Trước hết, bạn có tin loài người đã phải gánh chịu hậu quả thảm khốc cách bí ẩn khi nguyên tổ mình bất tuân lệnh Chúa? Bạn có thực sự tin các tín điều trong Kinh Tin Kính? Và quan trọng nhất, bạn có tin Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, thắng tội lỗi, sự chết và đang sống để lôi kéo mọi người về với Ngài như Đấng Cứu Độ? Phải, thách thức lớn nhất của Kitô hữu là thưa lên, “Vâng, con tin!”.

Một trong những thách đố lớn của chúng ta là giữ cho đức tin mình thật đơn sơ như tuyên xưng rất mực chơn chất của Matta! Khuynh hướng của chúng ta là hướng tới sự tinh vi và phức tạp. Và dẫu suy nghĩ và lập luận tốt là một quà tặng, nhưng cần ý thức rằng, khuynh hướng chủ nghĩa duy lý bẩm sinh có thể không phải là khởi đầu tốt cho một đức tin chân chính. Một đức tin đơn sơ rất đẹp lòng Chúa, bởi Ngài có nhiều thời giờ hơn để làm một điều gì đó ‘trong và qua’ chúng ta. Nghĩa là Ngài không cần mất thời giờ để thuyết phục chúng ta tin như đã không mất thời giờ với Matta, người đã ‘không ngại nói “Có!” với Ngài.

Đức tin đơn sơ này được gặp lại trong thư thánh Gioan hôm nay, “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa”. Thế thôi! Đó là những ai ‘không ngại nói “Có!”’ với Thiên Chúa và đơn sơ sống giới răn yêu thương của Ngài! “Chúng ta tin vào tình yêu Ngài, vì Thiên Chúa là tình yêu”. Thánh Vịnh đáp ca cũng phảng phất nét giản dị đó, “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy!”.

Anh Chị em,

“Thưa Thầy, vâng, con tin!”. Đức tin đơn sơ của Matta có thể thúc bách chúng ta hướng về phía trước và hướng ra các chân trời; đồng thời, khơi dậy và biến chúng ta thành những chứng tá của Vương Quốc trước nhu cầu cấp bách cứu các linh hồn. “Niềm tin đó như chiếc xe cút kít, và bạn phải thực sự thúc đẩy nó để nó có thể hoạt động!”. Như vậy, đức tin của những ai ‘không ngại nói “Có!”’ và quyền năng của Thiên Chúa đã tìm kiếm nhau; và cuối cùng, gặp nhau! Chính đức tin đơn sơ của Matta đã đưa Lazarô ra khỏi mồ khi Con Thiên Chúa trao lại cho em cô sự sống. Qua sự kiện kỳ vĩ này, hẳn Matta đã lôi kéo không ít người tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban cho họ không chỉ sự sống ngắn hạn như đã ban cho Lazarô, nhưng còn ban cho họ sự sống dài hạn, đời đời, sự sống miên viễn thiên đàng.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, loại khỏi con bao phức tạp, cho đức tin con thật đơn sơ hầu nôn nả đem Giêsu đến cho người khác, nhất là cho những ai đang cố nán lại trong ‘nấm mồ’ riêng của họ!”, Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 24. Niềm tin của Mát-ta


--Lm Trầm Phúc
Chúa Giêsu đã cho những người chết được sống lại như con trai bà goá thành Na-in, con gái ông Giairô và sau cùng là Ladarô. Biến cố Ladarô sống lại được xem như phép lạ có tầm quan trọng đặc biệt và là một  sứ điệp cho mọi người. Chúa Giêsu chứng tỏ mình là chủ của sự sống và là sự sống lại.

Chúa Giêsu xem chị em Matta, Maria và Ladarô như người thân và mỗi khi đi ngang Bêtania, Ngài thường cư ngụ ở nhà đó. Hai cô cho người đến báo tin cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Nghe tin đó, thay vì trở về Bêtani-a, Chúa Giêsu lại nói: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

Lời cầu của hai chị em này giống như lời cầu của Mẹ Maria ở tiệc cưới Cana. Chỉ nói lên nhu cầu của mình rồi để cho Chúa quyết định. Chúa nói bệnh này không đến nỗi chết, nhưng Ladarô đã chết. Chúa Giêsu biết mọi sự và Ngài vẫn không về ngay, mà ở lại hai ngày sau. Ngài biết phải làm gì và Ngài dùng cái chết của Ladarô để chứng tỏ vinh quang của Ngài.

Khi Ngài về đến Bêtani-a thì Ladarô đã nằm trong mồ bốn ngày. Trước đó, Ngài lại nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó để anh em tin”. Thầy mừng vì Ladarô chết? Không, Thầy mừng vì nhờ đó anh em tin. Những diễn biến tiếp theo sẽ cho chúng ta thấy cái chết của Ladarô là một dịp để các môn đệ mở mắt ra và nhìn nhận Thầy của mình là ai và tin vào Thầy hơn. Ngài nhờ cái chết của Ladarô để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ.

Khi về đến Bêtani-a, Ngài được đón tiếp bằng những giòng lệ đau xót. Cô Macta ra đón Ngài bằng những câu nói xé lòng: “ Nếu có Thầy ở đây chắc em con không chết. Nhưng con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy”. Chúng ta cần đọc lại nguyên vẹn đoạn này. Đức Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Cô Mác-ta thưa: “Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống . Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Con có tin thế không?” Cô Mac-ta đáp: “Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kytô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian.” Đây là một lời tuyên xưng đức tin rõ rệt nhất. Chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin như thế. Hãy nhìn lại xem, chúng ta có tin thât không hay chỉ tin bên ngoài thôi. Dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng.

Matta tin cho em là Maria biết Thầy đến. Maria tiếp đón Thầy bằng những giọt lệ đau đớn, và những lời như chị Matta: “Nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết.” Thấy hình dáng đau khổ của Maria, Chúa Giêsu thổn thức. Ngài đã để cho nàng phải đau đớn đến mức độ như thế vì vinh quang của Chúa.

Ngài đi ra mộ. Ngài không vội vàng và nhiều người đang ở đó tưởng rằng Ngài chỉ ra thăm một mà thôi. Đứng trước cửa mộ, Ngài bảo người ta lăn cửa mộ ra. Chị Matta can thiệp: “Thưa Thầy, đã bốn ngày rồi, nặng mùi lắm rồi”. Chúa bảo: “Nào Thầy đã không bảo rằng, nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Người Do thái có tục lệ là khi một người trong gia tộc về trễ, thì có thể ra mộ và mở ra để nhìn mặt người quá cố lần cuối. Nhưng hôm nay đã bốn ngày rồi, vì thế chị Macta ngăn cản. Nhưng Chúa Giêsu bảo người ta dẹp cửa mộ. Chắc chắn mùi hôi thối lan tràn, nhưng Chúa vẫn đứng đó. Ngài cầu nguyện với Cha ttrên trời: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Ngài kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mộ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải. Và thánh Gioan đã kết luận: “Những người chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, nhiều người đã tin vào Ngài. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là sự sống lại và là sự sống.

Chúng ta có thực sự tin như thế không? Niềm tin của chúng ta có ảnh hưởng gì trên cuộc sống hôm nay của chúng ta không? Chúng ta đang sống cho cái gì? Cho tiền bạc, cho thú vui trần gian, hay cho Chúa? Chúa Giêsu đang đợi chờ chúng ta. Ngài đang khát mong những tâm hồn dám sống cho Ngài, dám tin vào sự sống lại.

Để nuôi dưỡng lòng tin vào sự sống lại, Chúa Giêsu không quảng ngại trở nên tấm bánh để chung sống với chúng ta những ngày sống trần gian này. Ngài chỉ mong chúng ta cho Ngài một chỗ đứng trong cuộc sống chúng ta, trong quả tim nhỏ hèn của chúng ta. Chúng ta có sẵn sàng cho Ngài cuộc sống hôm nay của chúng ta không?

--------------------------------

 

Suy niệm 25. Chết để được sống


--Lm. Đaminh Lê Minh Cảnh

Xem những cuốn phim hiện đại, như bộ phim: “Bàn tay nhân ái”, “Bằng chứng thép”, hoặc “Hảo tâm tác quái”..., ta sẽ thấy cảnh, sau khi bác sĩ đã làm hết sức mình để cấp cứu cho bệnh nhân, mà không cứu được mạng sống của họ, thì sẽ nghe bác sĩ nói với người nhà của bệnh nhân một câu quen thuộc rằng là: “Xin lỗi, chúng tôi đã cố gắng hết sức!” Thì điều duy nhất người nhà có thể làm, đó là chuẩn bị lo hậu sự cho người thân.

Ấy thế mà ngày 18/04/2011, tại Bệnh viện Seberang Jaya, Malaysia: Sau khi bác sĩ tuyên bố ông Swee Hock, 65 tuổi đã chết, đang khi gia đình làm thủ tục nhận xác về chôn, thì bỗng dưng đột ngột ông sống lại. Thế nên, sau đó, các Bác sĩ cho xét nghiệm lại và nói: ông chỉ mới chết lâm sàng thôi (chưa chết thật), cho nên mới có thể hồi sinh như thế vậy!!!

Và một trường hợp khác, ngược lại: Vào đêm 17/9/2011, một nam học sinh đang chơi ở Công viên La Hồ, thành phố Thâm Quyến (Trung Quốc), bị điện đèn đường hở mạch giật, được đưa đến bệnh viện, và bác sĩ cũng đã nói: Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng vì thương con, nên cha mẹ cậu bé không chấp nhận là con mình chết. Nên họ theo cách chữa trị dân gian: đem thi thể con chôn dưới cát, để hở phần đầu, vì họ tin rằng cách làm này có thể cứu sống con mình. Mãi đến đến mấy ngày sau, người dân vẫn còn nhìn thấy cha mẹ của cậu bé, vẫn ngồi chờ trong vô vọng... chờ cậu bé sống lại !!!.

Nhân dịp nói đến chuyện chết đi-sống lại, thì Tin Mừng thánh Gioan cũng đề cập đến chuyện sống lại của Lazarô, một người bạn thân của Chúa Giêsu.

Anh Lazarô đang khỏe mạnh, bỗng dưng bị bệnh nặng, rồi tử vong. Sự ra đi của anh khiến cho hai người chị Mátta và Maria rất đau buồn. Và sau khi lo an táng cho em được 4 ngày, thì Giêsu mới xuất hiện. Điều đó có nghĩa là khi Lazarô hấp hối, cũng như lúc an táng cho Lazarô, Chúa Giêsu không có mắt ở đó. Vì Chúa đến khá muộn, nên các bà chị này có vẻ hơi trách: “Nếu Thầy sớm có mặt ở đây thì em con sẽ không chết.” Từ lời trách đó, ta có thể suy luận thêm rằng: Khi em con hấp hối, lúc còn nước còn tát, khi tình hình còn có thể cứu vãn được, thì Thầy đã ở đâu và đang làm gì vậy nhỉ? Phải chi Thầy đến sớm hơn, có lẽ mọi chuyện sẽ khác, sẽ không có cảnh tang thương đau buồn này.

Tin Mừng kể lại câu chuyện rõ từng chi tiết: Khi nghe tin Lazarô đau nặng, Chúa Giêsu trì hoãn thêm 2 ngày nữa rồi mới đến nhà Lazarô. Sao vậy? Sự chậm trể này không phải là vì Chúa không thương chị em Lazarô, mà Chúa muốn để cho họ trải qua nỗi đau mất mát càng nhiều, thì sẽ tận hưởng được niềm vui càng lớn, vì Thầy sẽ làm cho anh bạn Lazarô sống lại ngoạn mục.

Cô Mátta trách Chúa, nhưng trong lòng vẫn tin rằng: Ngài có thể làm được điều kỳ diệu, nên tự tin cô lên tiếng: “Bây giờ con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Chúa Cha, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Trong nỗi đau mất em, cô Mátta vẫn hy vọng và mong rằng lời hứa của Thầy Giêsu sớm trở thành hiện thực, mặc dù, cô chưa hiểu và cũng không biết ý Thầy muốn nói là: ngay bây giờ Lazarô được sống lại hay phải chờ đến ngày tận thế mới được sống lại như bao nhiêu người khác?

Thực sự Mátta chưa rõ, nên ấp úng với giọng trầm buồn rằng: “Con biết em con sẽ sống lại, khi mọi người sống lại trong ngày sau hết.” Đến lúc này, Chúa Giêsu mới “bật mí” một điều mà cả hai chị em chưa từng nghe Chúa nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin thì cho dù có chết cũng sẽ được sống, các chị có tin điều đó không?”

Nghe lời đó, cả hai chị em như được tăng thêm đức tin đã có sẵn trong lòng, để rồi Mátta lên tiếng đáp: “Thưa Thầy có, con rất tin ạ!”

Nhờ có đức tin, mà hai chị cùng với dân làng Bêthania mới được chứng kiến tận mắt một phép lạ hoành tráng, sau tiếng hô to của Chúa Giêsu: “Lazarô..., Lazarô…!”

Chúa kêu tên Lazarô thật to, như một mệnh lệnh đòi buộc ông thần chết phải trả lại sự sống cho anh bạn Lazarô của Ngài. Thế là anh Lazarô từ trong hang mộ bước ra, thân thể còn quấn khăn liệm, trước sự ngạc nhiên của những người xung quanh.

Qua câu chuyện sống lại của anh Lazarô, tôi có suy nghĩ thêm rằng: Sau khi sống lại, có lẽ cuộc sống của anh Lazarô có một sự thay đổi nhẹ: Anh sẽ không còn sợ chết nữa. Sự sống đối với anh bây giờ là tình yêu thương. Và cái chết đối với anh sẽ là cơ hội được về với Cha trên trời, giống như Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng đã cảm nghiệm rằng là: “Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn và cũng đừng lo, bởi vì Cha của chúng ta, là Thiên Chúa, đã đến đón tôi đi về với Ngài. Đơn giản thế thôi!”

Hoặc đúng như lời xác tín của thánh Phaolô đã được ghi lại trong thư gửi tín hữu Philípphê (Pl 1,21) rằng: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” Đàng nào cũng đẹp và cũng hay.

Còn chúng ta thì sao? Mỗi lần đọc kinh Tin Kính đến câu “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại,” ta có suy nghĩ gì về sự phục sinh của chính mình?

Để giúp cho suy nghĩ của ta thêm thấu đáo, tôi xin mượn một hình ảnh khá mới lạ, để chia sẻ với anh chị em:

Ở bên Thái lan, cách thủ đô Bangkok khoảng 100 km về phía Đông, tại ngôi đền Wat Prommanee, có một dịch vụ rất kỳ lạ: Bất cứ ai, chỉ với một số tiền nhỏ, cũng có thể thử “Một lần được chết” (chết giả vờ), để rồi sẽ được trải nghiệm với một cảm giác thú vị, như được sống lại sau lần chết thử đó.

Mỗi ngày, có đến hàng trăm người tham gia nằm vào chiếc quan tài, giả vờ chết và mỗi người chỉ có 90 giây nằm trong đó thôi. Nhưng trước khi nằm xuống, mỗi người khách sẽ cầm trên tay một cành hoa và miệng thì thầm một lời khẩn cầu nào đó, rồi “chết!” Họ tin rằng với cách này, những điều xấu, những điều chưa tốt sẽ được tẩy xóa và cuộc sống của họ nhờ đó sẽ được tốt hơn.

Câu chuyện ý nghĩa này được kể trong Mùa chay thánh, với một mục đích duy nhất là nhắc nhớ cho ta rằng: Mỗi một ngày trôi qua, ta nên biết tập “chết đi”, biết tự “xóa đi” những tật xấu của bản thân, để mỗi ngày, ta được hoàn thiện hơn, như Cha của ta ở trên Trời, là Đấng Thánh thiện.

Lạy Chúa Giêsu, ngày xưa Chúa đã làm cho thân xác đã chết của Lazarô sống lại, thì hôm nay, xin Chúa cũng giúp cho tâm hồn khô héo của chúng con được tái sinh, để từ nay, chúng con không còn sống cho chính mình nữa, mà hoàn toàn sống cho Chúa và cho anh chị em chúng con. Amen.

--------------------------------

 

Suy niệm 26. Phục vụ và tin tưởng như Mát-ta


--Huệ Minh

Lễ Thánh Nữ Matta, chị của Maria và Ladarô, được cử hành tám ngày sau lễ kính Thánh Nữ Maria Mađalêna và đã phổ biến dưới thời Trung Cổ do ảnh hưởng cuốn Các truyền thuyết ở Pronvence. Tuy nhiên thật đáng tiếc vì không có một lễ chung kính ba vị thánh của Bêtania như trong phụng vụ dòng Phan Sinh ở thế kỷ XVIII và trong niên lịch dòng Biển Đức vốn vẫn thường mừng vào ngày 2 tháng Chín.

Quyển Cuộc đời Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) có kể lại một truyền thuyết rằng ba chị em Matta, Maria, Ladarô đã bị người Do Thái tống xuống một chiếc thuyền nhỏ không buồm, nhưng đã lên bờ được ở Marseille và tại đây bà Matta được đặc biệt kính trọng. Còn theo những truyền thuyết khác thì Thánh Nữ Matta đã truyền giáo ở miền Provence và đã giải thoát miền này khỏi một con quái vật tên là Tarasque. Người ta thấy sự tích đó được khắc trong Nhà thờ Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) ở Tarascon.

Bêtania là một làng nhỏ, Chúa Giêsu lâu lâu thường lui tới Bêtania vì có nhà của chị em Matta, Maria và Lagiarô. Những lúc đi đường phục vụ nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu hay ghé thăm gia đình bé nhỏ thân thương này. Sở dĩ Chúa Giêsu yêu mến chị em Matta, Maria và Lagiarô vì gia đình này đã sống thân tình với Chúa, đã biết lắng nghe và thực thi lời của Người. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có một cảm tình rất đặc biệt đối với gia đình ba chị em Matta. Tin Mừng đã cho thấy Matta đã xuất hiện ba lần trong các trình thuật của các thánh sử. Lần thứ nhất, Matta và em mình là Maria đã đón Chúa vào nhà và mời Ngài dùng bữa tại Bêtania.

Chính Matta đã phục vụ Chúa Giêsu qua các bữa ăn ngon, khi Người đến thăm gia đình Matta. Chúng ta có thể nhận thấy Matta đã phải bận rộn sửa soạn bữa ăn cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Người như thế nào. Đến nỗi Matta phải xin Chúa Giêsu nhắc cho cô em Maria phụ giúp mình một tay, vì Maria đang ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con với!” Chúa Giêsu rất hài lòng với công việc phục vụ dễ thương của Matta. Tuy vậy, Người muốn cho Matta hiểu rằng việc nghe lời Chúa và cầu nguyện thì có tầm quan trọng hơn. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện! Chỉ có một chuyện cần mà thôi! Maria em con đã chọn phần tốt nhất!” (Lc 10, 42).

Trước khi làm phép lạ cho Lazarô chết bốn ngày được sống lại, Matta đã tuyên xưng Chúa là con Thiên Chúa (Ga 11, 27). Lời tuyên xưng này thật diệu kỳ, nó giống lời tuyên tín của thánh Phêrô (Mt 16, 16). Do đó, Chúa Giêsu rất yêu thương Matta…Và sau này, chính Maria đã được Chúa trao sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các Tông đồ. Matta còn tuyên tín Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 11, 27), trong bữa tiệc sáu ngày trước lễ phục sinh. Cả hai bữa ăn này, Matta rất bận rộn với việc bếp núc để thết đãi Chúa Giêsu và các môn đệ. Maria không hề lo lắng, không hề bận rộn với việc bếp núc, cô cứ lấy thuốc thơm xức cho Chúa và ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng dậy (Lc 10, 39) . Matta vì bối rối, lo cho bữa ăn, cô than phiền Maria, em cô không giúp đỡ cô (Lc 10, 40). Chúa Giêsu không từ chối sự nhiệt thành phục vụ của Matta, nhưng Ngài cũng trách khéo cô là quên phần chính yếu: “nghe lời Ngài giảng dậy và ở bên Ngài” (Lc 10, 41- 42). Chúa mời gọi Matta hãy dẹp bỏ những bận rộn, lo lắng để tâm hồn mình thinh lặng mà lắng nghe lời Ngài và ở bên Ngài như Maria đã chọn phần tốt hơn là lắng nghe lời Chúa và ở gần kề Chúa.

Trang Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ (Lc 10, 38- 42) nhắc lại lời Đức Kitô: “Matta, Matta ơi, chị lo lắng, sắp xếp nhiều chuyện. Nhưng duy nhất chỉ có một điều là cần thiết…” Bởi thế, trong lời nguyện tạ lễ, chúng ta xin Chúa “đừng để chúng ta hướng về những gì hay hư nát”. Cũng vậy, bài giảng của Thánh Augustinô và Phụng vụ Bài đọc trích dẫn nhắc nhở chúng ta rằng “lời của Đức Giêsu Kitô mời gọi chúng ta chỉ nhắm một mục đích duy nhất khi chúng ta ngụp lặn giữa bao công việc của trần gian này”.

Điệp ca bài Benedictus: Lạy Chúa, Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã đến trong thế giới này, được trích dẫn từ Phúc Âm Thánh Gioan (11, 27) mà ta có thể đọc trong Thánh Lễ. Những lời này của Thánh Nữ Matta là một lời tuyên xưng đức tin rất vững chắc, đã được Giáo Hội giữ lại trong nghi thức khai tâm kitô giáo cho người trưởng thành và trong phụng vụ lễ tang.

Matta đã có một lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa dù rằng em cô là Lazarô đã chết: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy “(Ga 11, 21- 22).

Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại !” (Ga 11, 23). Cô Matta thưa: “Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11, 24). Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống..” (Ga 11, 25). Matta đã tuyên tín, đã tin vào Chúa và như thế Matta quả xứng đáng vì được chính Chúa Cha mạc khải để bà nói lên lời tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa.

Mừng lễ thánh nữ Matta hôm nay, chúng ta nguyện xin Chúa qua lời cầu bầu của thánh Matta, ban cho chúng ta sống theo mẫu gương của thánh nữ, luôn ân cần đón tiếp Chúa và sẵn sàng hy sinh phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đón tiếp Chúa bằng việc lắng nghe lời Chúa, suy gẫm và cầu nguyện. Đón tiếp Chúa Giêsu Thánh Thể để có sự sống của Ngài hun đúc tinh thần tông đồ, nuôi dưỡng đời sống đạo. Đón tiếp Chúa với lòng yêu mến chân thành, sẽ giúp chúng ta được gần bên Chúa, gần gũi tha nhân. Đồng thời, theo gương thánh nữ Matta, chúng ta sống đức tin mạnh mẽ giữa những cơn thử thách của cuộc sống. Nhờ đó, chúng ta cố gắng vượt qua những thử thách hiện tại và hướng đến sự phục sinh vinh quang với Chúa Kitô.

---------------------------------

 

Thứ 3:

Bài học kiên nhẫn.
Thứ Ba tuần 17 thường niên.
"Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy".

 

Lời Chúa: Mt 13, 36-43


Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe".
Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần.
Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chói lọi như mặt trời


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

“Chẳng phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao?
Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” (Mt 13, 27).

Có lẽ một số Kitô hữu trong Hội Thánh sơ khai đã đặt câu hỏi tương tự
khi họ thấy có những phần tử xấu trong cộng đoàn của mình.
“Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không?”
Ông có muốn chúng tôi trục xuất họ ra khỏi cộng đoàn không?
Có người tưởng rằng một Hội Thánh phải gồm toàn những thánh nhân.
Hội Thánh không có chỗ cho tội nhân, cho con cái Ác Thần (c. 38).
Lời từ chối của ông chủ ruộng cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa.
“Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa.
Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (Mt 13, 28-29).
Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa,
con cái Nước Trời sống chung với con cái Ác Thần cho đến tận thế.
Nhẫn nại và bao dung là dấu hiệu của sự thánh thiện đích thực,
sự thánh thiện này biết chờ đợi, biết tôn trọng tự do của con người.
Đôi khi chúng ta cũng có thái độ nóng nảy của Giacôbê và Gioan,
khi đòi đốt cả làng người Samari khi họ không chịu đón Chúa (Lc 9, 54).
Chúng ta vẫn sống trong một thế giới vàng thau lẫn lộn.
Có khi không phân biệt được lúa với cỏ lùng,
vì trong cái tốt vẫn ẩn hiện bóng dáng của cái bất toàn,
và trong cái xấu thi thoảng cũng lóe lên những tia sáng của chân lý.
Một người tốt có thể trở nên cỏ lùng.
Một người xấu có thể trở nên gié lúa trĩu hạt.
Chúng ta chưa thể nói gì về một con người khi người ấy chưa nhắm mắt,
và khi chưa nghe lời phán xử cuối cùng của Thiên Chúa.
Người đầu tiên được bảo đảm vào Nước Trời lại là một tên gian phi.
Nhiều vị thánh hôm nay là những người trước đây đã làm điều gian ác.
Nếu tôi tự đặt câu hỏi: Tôi là lúa hay cỏ lùng?
Tôi sẽ thấy lúng túng khi tìm câu trả lời.
Nơi trái tim tôi, tôi thấy có sự giằng co giữa chọn Chúa và Ác Thần.
Có lúc tôi thấy mình như đã thuộc trọn về Chúa,
có lúc lại thấy thế gian và xác thịt như hoàn toàn thống trị mình.
Ngay trong điều tốt tôi làm, vẫn có điều gì không tuyệt đối trong suốt.
Tôi hiểu rằng cỏ lùng vẫn có chỗ trong thửa ruộng của lòng tôi.
Thiên Chúa vẫn chấp nhận tôi như thế đó.
Nếu Ngài nghiêm phạt tôi thì tôi đâu còn sống đến nay.
Dụ ngôn trên nhắc chúng ta không được tiếm quyền xét xử của Thiên Chúa,
không đòi xóa sạch sự dữ trong một sớm một chiều.
Nhưng chúng ta lại không được để mặc cho sự dữ thao túng.
Chúng ta dám hy sinh mạng sống để xây dựng một thế giới công bình.
Đức Giêsu đã bị sự dữ nuốt chửng, nhưng cuối cùng Ngài đã chiến thắng.
Cuộc đời Kitô hữu là một nỗ lực không ngừng để nhổ cỏ lùng nơi mình,
và khao khát vươn tới sự thánh thiện của chính Thiên Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thiên Chúa nhân hậu và từ bi


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nhân hậu và từ bi là tên của Thiên Chúa. Chính Người đã mặc khải cho Mô-sê. Biết bao lần dân Ít-ra-en phản bội. Mỗi khi bỏ Thiên Chúa,họ liền gặp tai ương hoạn nạn: “Tôi bước ra đồng nội: này kẻ chết vì gươm, quay trở lại đô thành: nọ bao người đói lả”. Họ tỉnh ngộ và trở về xin Chúa tha thứ: “Lạy Chúa, chúng con nhận rằng mình gian ác và cha ông sai lỗi đã nhiều. Quả chúng con đều đắc tội với Chúa! Vì Danh Thánh, xin Chúa đừng chê bỏ chúng con”. Họ kêu cầu Danh Thánh Chúa vì biết Danh Thánh Chúa là nhân hậu và từ bi. Và Chúa luôn rộng lượng tha thứ (năm chẵn).

Danh Thánh nhân hậu và từ bi được chính Thiên Chúa ngỏ với Mô-sê. Khi dân phản loạn đúc tượng bò vàng, Mô-sê nổi giận đập vỡ bia đá giao ước. Và ông tha thiết xin Thiên Chúa tha tội cho dân: “Lạy Chúa…Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài”. Quả thật Thiên Chúa đầy nhân hậu và từ bi. Trước một tội lỗi tầy đình như thế, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ. Vì Người là Thiên Chúa nhân hậu từ bi: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi” (năm lẻ).

Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi. Người đã thực hiện điều đó trong dụ ngôn lúa đồng và cỏ lùng. Nhân hậu và từ bi nên không cho nhổ ngay cỏ lùng. Chịu đựng lỗi lầm nên kiên nhẫn chờ đợi cho đến cùng. Nhân hậu và từ bi nên sợ phải trừng phạt oan uổng: “Sợ khi nhổ cỏ sẽ làm tổn thương lúa”. Nhân hậu và từ bi vì tin tưởng kẻ xấu sẽ nên tốt. Chờ đợi kẻ xấu ăn năn hối cải. Cho họ thời giờ, cơ hội. Chờ đợi cho đến khi hết thời gian. Thật lạ lùng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Chỉ tìm tha thứ. Tìm thông cảm. Tìm điều tốt đẹp cho con người. Dù con người luôn phản bội. Có thể nói con người hư đi là do tội lỗi của chính mình. Chúa cho ta đủ cơ hội, đủ thời giờ. Cho đến khi hết thời gian, Chúa mới chịu xét xử.

Hãy tin tưởng nơi Chúa. Hãy mau ăn năn hối cải. Tội nào Chúa cũng có thể tha thứ. Và hãy ăn năn sám hối. Vì thời giờ có hạn. Ta không biết giờ nào kẻ trộm đến.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Bài học kiên nhẫn


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ngày 13/5/1917 Ðức Mẹ hiện ra với ba trẻ mục đồng tại Fatima và cho biết Nước Nga sẽ trở lại. Cũng chính năm đó, Lénine đã thực hiện cuộc cách mạng tháng mười để xóa bỏ mọi bất công của chế độ quân chủ và xây dựng thiên đàng tại thế. 80 năm trước đây, lắng nghe và tin vào những lời tiên báo của ba trẻ Fatima thật là phi lý. Nhưng thời giờ của Thiên Chúa không phải là thời giờ của con người. Lucia, một trong ba trẻ đã được diễm phúc chứng kiến sự ứng nghiệm của lời tiên báo; các bức tường đã sụp đổ, bạo động và máu nhường chỗ cho sự tha thứ, lòng nhân từ, tinh thần hòa giải.

Kiên nhẫn là một trong những bộ mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới là Ðấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Ngài. Ðó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.

Dụ ngôn về cỏ lùng thoạt tiên gợi lên cho chúng ta một trong những thảm kịch lớn của nhân loại. Ở thời đại nào cũng có những người muốn thanh tẩy xã hội bằng các cuộc sàng lọc không tiếc xót: từ Tần Thủy Hoàng đến Hitler, Pônpốt qua các cuộc chiến hiện nay. Khi người ta muốn loại bỏ cỏ lùng, thì người ta cũng nhổ đi cả cây lúa tốt tươi.

Qua dụ ngôn cỏ lùng, có lẽ Chúa Giêsu còn muốn nói đến một thảm kịch khác sâu sắc hơn, đó là thảm kịch của lòng người. Trong đáy thẳm tâm hồn, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co xâu xé giữa một bên là khả năng hướng thiện và một bên là sức mạnh của tối tăm. Cỏ lùng vẫn cố gắng vươn lên trong cánh đồng tâm hồn chúng ta. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy một cách chính xác khi Ngài nói: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, còn sự ác không muốn thì tôi lại làm". Sức mạnh của tội ác, của ma quỷ, của sự dữ trong tâm hồn mỗi người chúng ta là một thực tại không thể chối cãi được. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã chẳng dạy chúng ta cầu nguyện: Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ đó sao?

Cảm nghiệm sâu sắc về nỗi yếu hèn và khốn khổ của mình, con người mới cảm thấy cần cảm thông, kiên nhẫn và tha thứ cho người khác hơn. Ðó là bài học thực tiễn mà có lẽ mỗi người chúng ta cần đào sâu, đồng thời cầu xin để mỗi ngày chúng ta phát hiện ra những tia sáng tình thương của Chúa và chia sẻ tình yêu với những người xung quanh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Kiên nhẫn chờ đợi


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Sách Xuất Hành chương 33,7-11; 34,5-9 nhắc đến việc ông Môsê nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như người với người, đó là mẫu gương cho việc cầu nguyện của mọi người Kitô hôm nay. Cầu nguyện là nói chuyện trực tiếp với Chúa. Chúng ta có thể xét mình xem đời sống cầu nguyện của tôi hiện nay ra sao? Cái gì giúp tôi dễ dàng cầu nguyện tiếp xúc với Thiên Chúa?

Một người Kitô mà mất liên lạc với Thiên Chúa thì giống như là sống nơi ngõ hẽm cụt, giống cùng hoàn cảnh như kẻ chối bỏ Thiên Chúa. Hơn nữa, càng cầu nguyện chúng ta càng được biến đổi, trở nên giống như Chúa, nhất là bắt chước được thái độ kiên nhẫn và nhân từ của Thiên Chúa đối với từng tật xấu của anh chị em chung quanh. Thái độ kiên nhẫn nêu gương của Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải qua dụ ngôn Cỏ Lùng trong ruộng lúa được kể lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu hôm nay.

Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho tới ngày cuối cùng Ngài mới ra tay phán xét phân biệt kẻ lành người dữ trong khi đó thì các tôi tớ không có đủ kiên nhẫn chờ đợi, muốn nhổ bỏ cỏ lùng ngay khi vừa phát hiện ra chúng. Phải, mỗi người chúng ta cần noi gương kiên nhẫn của Thiên Chúa và người Kitô học được sự kiên nhẫn đó nhờ qua việc cầu nguyện.

Lạy Chúa,

Chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa nhân từ và kiên nhẫn bởi vì Chúa tuy là Ðấng toàn năng nhưng lại phán xét con người một cách đại độ, nhân từ. Chúa dạy chúng con sống nhân từ, kiên nhẫn như Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng yêu thương tha thứ những sơ sót lỗi lầm của anh chị em chung quanh.

Lạy Chúa,

Xin dạy chúng con biết chấp nhận những giới hạn của chính mình cũng như của anh chị em chung quanh như chính Chúa đã chấp nhận chúng con. Xin dạy con biết dấn thân làm việc cho Chúa nhưng đồng thời biết kiên nhẫn chịu đựng chờ đợi tới ngày hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt lành nơi chính chúng con và trong xã hội chung quanh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Màn chung cuộc vĩ đại


“Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cò lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” Người đáp: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các Thiên Thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế thì cũng xảy ra như vậy.” (Mt. 13, 36b. 37-40)

Phúc Âm trình bày cho ta màn chung cuộc vĩ đại của Tấn Tuồng Nhân Loại. Lần cuối cùng người ta được gặp lại Con Người, các người lành và kẻ dữ. Các Thiên Thần được phái xuống ngay để thi hành lệnh chọn lựa!

Tôi mừng vì biết rằng nếu tôi thi hành đúng từng chữ một mà bài học Phúc Âm dạy tôi thì tôi chẳng phải dục lòng tin về thực tại những hình ảnh thánh sử dùng.

Lại nữa tôi không thể sử dụng Phúc Âm mà áp đặt những phạm trù của tôi để phân loại người lành kẻ dữ, làm như vậy có lẽ sẽ gây những ngạc nhiên, vả lại, nhiều nơi trong Phúc Âm, Chúa cũng lưu ý tôi về điều này:

Tôi nhớ hai điều Chúa gợi ý cho chúng ta.

Điều thứ nhất.

Chúa Giêsu nói: “Ai có tai hãy nghe!” không phải là lần đầu, Chúa nhắc nhở chúng ta điều này. Chúng ta có tai nghe để nghe, có mắt để nhìn, có trí khôn để hiểu biết! Chúa ngỏ lời với những người nghèo khó của Nước Trời. Người không để mình chìm đắm trong những suy nghĩ trừu tượng và không và không hiểu nổi. Ta không viện cớ biện minh cho sự ta không biết. Bởi lẽ, hết thảy chúng ta đều biết Chúa đòi hỏi nơi ta điều gì, chúng ta hiểu biết cả đấy. Nhưng ta cũng giống những người Do-thái xưa nói rằng: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi.” Hoặc giống như những người Co-rin-tô nói với thánh Phao-lô: “Thôi để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói”

Điều thứ hai.

Chúa Giêsu nói: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”. Người không sợ hãi gương xấu, không tôn trọng lề luật họ sẽ nhận ra những nỗi khủng khiếp của hành động chối từ tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì làm gương xấu là hành động phản bội tình yêu, đi ngược với sự thật, và ai không tôn trọng luật pháp, người ấy chối bỏ những giới răn của Chúa, những giới răn của tình yêu! Một tình yêu cũng gây tổn thương như tình yêu Đức Kitô đối với ta vậy. Một tình yêu vốn tra vấn ta trong từng giây phút cuộc đời ta. Nếu yêu mến, ta không thể sống lì trong gương xấu làm cớ cho người khác sa ngã; nếu yêu mến Chúa, ta tuân giữ lệnh truyền của Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Có nên chăng khi nhổ cỏ lùng sớm?


Ở đời, người ta thường nguyền rủa những người ác độc, bất nhân. Họ cũng không ngừng đặt ra với Chúa những vấn nạn như: “Tại sao ông này bà nọ tội lỗi như vậy mà vẫn được Chúa thương, sao Chúa không phạt quách đi cho rồi?”; Hay “tại sao buôn gian bán lận, ăn trên ngồi trước, tham nhũng, bóc lột mà không gặp phải tai ương, ngược lại, họ vẫn suôn sẻ, chót lọt và thành công? Trong khi mình đạo đức, liêm chính, tốt lành thì lại không được may mắn như thế?”.

Tin Mừng hôm nay trình thuật việc các môn đệ xin Đức Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng cho các ông hiểu thêm.

Trước khi đi vào nội dung của phần giải thích, chúng ta lược qua bản chất của cỏ lùng để thấy được tại sao Đức Giêsu lại kể dụ ngôn trên.

Cỏ lùng là một loại cỏ dại thường mọc chung với lúa. Lúc còn nhỏ, chúng giống và rất khó phát hiện. Đến ngày đơm bông thì chúng mới lộ rõ ra, bởi vì thân chúng thường cao và nhỏ hơn lúa, hạt chúng cũng nhỏ và râu dài hơn. Tuy nhiên, đã nhận ra, nhưng để nhổ cũng khó, vì rễ nó và lúa đã ăn quyện lại với nhau, khi nhổ cỏ lùng, không chừng lúa cũng lên theo. Người ta chỉ có thể tách biệt giữa cỏ lùng và lúa khi thu hoạch. Nhưng lý do tại sao lại phải tách biệt như vậy? Thưa vì hạt cỏ lùng là một loại rất độc, ăn nhiều sẽ gây chóng mặt, đau ốm, nếu nặng sẽ hôn mê.

Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy khởi đầu là thuần chủng, tốt lành, nhưng sau có sự pha tạp. Lý do là vì kẻ thù phá hoại nên đã gieo trộm cỏ lùng vào ruộng lúa. Điều này cho thấy: Giáo Hội và mỗi người chúng ta luôn gặp phải những chống đối, thù nghịch, thế lực tội lỗi luôn tìm cách để làm hại linh hồn ta.

Mặt khác, dạy cho ta bài học về sự kiên trì, đừng nóng vội. Nếu nóng vội, nhiều khi chúng ta nông nổi và vô tình làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời ta và tha nhân.

Sự thật đã nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy: có nhiều người tội lỗi tầy trời, nhưng vào một thời điểm nhất định, họ nhận ta tình thương của Thiên Chúa và tội lỗi của họ quá nhiều. Vì thế, họ đã sẵn sàng thay đổi cuộc đời, nên lối sống của họ đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại. cũng không thiếu gì nhiều người một thời được mệnh danh là “thánh sống”, nhưng kết cục lại chìm đắm trong tội do bị sa đà và nằm lỳ trong kiêu ngạo.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quay trở về với Thiên Chúa vì Ngài rất nhân từ và khoan dung, trừ khi chúng ta không đón nhận sự tha thứ của Ngài mà thôi. Mặt khác, Lời Chúa khuyên răn chúng ta hãy bình tĩnh trong việc xét đoán anh chị em mình. Hãy để cho anh chị em ta có cơ hội hoán cải, hầu trở nên con người tốt lành. Cần nhớ rằng: sự phán quyết cuối cùng thuộc về Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn sám hối với chính mình và sự khoan nhân, kiên nhẫn đối với anh chị em chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa kiên nhẫn chờ đợi sự hoán cải


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa kiên nhẫn chờ đợi kẻ dữ hoán cải để được cứu độ. Ta cũng hãy bắt chước Chúa để sống nhân từ bao dung với nhau.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, chậm giận và giàu lòng thương xót. Dù chúng con tội lỗi, Chúa vẫn không muốn tiêu diệt chúng con. Chúa chờ đợi và tìm kiếm chúng con là những người lầm đường lạc lối trở về với Chúa.

Lạy Chúa, trên thế giới và ngay cả trong Hội Thánh, người xấu việc xấu còn đó rất nhiều. Không ai muốn chấp nhận cái xấu. Vì vậy loài người chúng con luôn muốn tiêu diệt nhau, đối xử tàn ác với nhau, nóng giận xua đuổi nhau. Chúng con muốn nhổ sạch cỏ lùng ngay tức khắc. Và ngay chính tâm hồn con cũng vừa tồn tại lúa tốt, vừa tồn tại cả cỏ lùng. Con luôn có ơn Chúa đỡ nâng và thánh hóa, nhưng tâm hồn con lại để cỏ lùng của tội lỗi, của tính mê tật xấu phát triển. Chúa vẫn yêu thương và kiên nhẫn đợi chờ con sống tốt hơn.

Hôm nay, con nghe Lời Chúa và nhìn lên gương Chúa, để học với Chúa lòng bao dung nhân từ và kiên nhẫn. Con thấy chính con là cỏ lùng đã được Chúa cho tồn tại đến hôm nay. Xin ban cho con luôn biết chấp nhận người khác, cảm thông và chịu đựng lẫn nhau. Khi thấy người khác lầm lỗi, xin giúp con kiên nhẫn nhắc bảo, cầu nguyện cho nhau, khích lệ nhau. Xin Chúa đừng để con vì nóng giận mà đối xử tàn nhẫn với anh em. Chúa bao dung và kiên nhẫn chờ đợi con, xin cho con biết bao dung và kiên nhẫn chờ đợi anh em. Chúa hy vọng con sẽ hoán cải nên tốt, xin cho con biết hy vọng về người khác. Amen.

Ghi nhớ: “Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Quyết chừa tính xấu


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Không ai trọn lành thánh thiện toàn diện được đâu. Ai ai cũng có tật xấu, không nhiều thì ít. Người lành thánh mỗi ngày ít nhất cũng có bảy tám lần lầm lỡ, sai sót.

Chúng ta hãy học tập nơi Benjamin Franklin. Mỗi khi đêm về, ông xét mình về từng tật xấu của ông, rồi ông lập chương trình đánh tỉa từng tật xấu: Mỗi tuần, ông quyết thắng cho được một tật xấu.

Chúng ta hãy quyết chừa tính xấu, quyết diệt tính xấu, nhất là những tính xấu nổi bật nhất của mình.

Và chúng ta đừng bao giờ dại dột để rước thêm một tính xấu mới nào vào trong cuộc đời của mình.

Suy niệm

Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng: Lúa tốt là con cái nước Trời và cỏ lùng là con cái ma quỷ…

Khi đến mùa gặt là ngày tận thế, ngày Chúa phán xét chung, ngày Chúa Giêsu lại đến một cách vinh quang để hoàn tất chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Cỏ dại, con cái bóng tối bị quăng vào lửa, hỏa ngục và lúa tốt, con cái ánh sáng được cất vào kho, tham dự vinh quang nước Trời...

Cho nên trong tiến trình gieo trồng và chăm sóc lúa, cần phát triển lúa để thu hep cỏ lùng và chúng phải bị tận diệt dần dần bằng việc thiện... Tối và sáng không thể cùng hiện diện; thiện và ác không thể cùng tồn tại trong cộng đoàn, giáo xứ, gia đình... Và cả trong mỗi người chúng ta, đôi lúc làm theo sự thiện, lại có lúc chiều theo quyền lực của sự dữ.

Cuộc sống trần thế là cuộc lữ hành, đó là thời gian thanh luyện. Chúng ta cầu xin Thánh Thần, để Ngài đến kết án tội lỗi trong chúng ta: Cỏ lùng phải được tiêu diệt để lúa thêm tốt tươi và Thánh Thần đổi mới địa cầu; để Giáo hội và mỗi người chúng ta được tinh tuyền trong ngày đón Ðức Giêsu trở lại trong vinh quang.

Ý lực sống:

“Nhưng dầu Chúa là chủ tể sức mạnh, Chúa xét xử nhân hậu, và Chúa cai trị chúng con với nhiều khoan dung”... (Kn 12,16).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài Tin mừng hôm nay là chuyện các môn đệ xin Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng. Một dụ ngôn chỉ ra nguyên nhân của sự thiện ác từ đâu và chứng minh một thực tế là thiện và ác cùng tồn tại song hành với nhau.

Dụ ngôn này cho biết trong các công việc của Nước Thiên Chúa, vẫn có xen lẫn những công việc của ma quỉ, mà trong giai đoạn sống ở trần gian, người ta không thể nào triệt bỏ hết được, chỉ đến ngày tận thế sự phân định mới rõ ràng. Vì thế, dụ ngôn cỏ lùng có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền xét xử.

Chúa Giêsu đích thân giải thích cho các Tông đồ về ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng: Người đi gieo giống tốt là Chúa Giêsu, hạt giống tốt là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi con người sinh sống làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỉ, mùa gặt là ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần. Lúa tốt thì được thu vào kho lẫm tức là những người lành, thánh thiện thì được thưởng. Còn cỏ lùng thì được thu lại và đốt đi, tức là những người xấu thì bị tống vào hoả ngục.

Dụ ngôn này dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người, đó là cánh đồng lúa mì mà trong đó cỏ lùng mọc lẫn lộn bên cạnh cây lúa tốt. Còn đối với con người, xấu tốt ở xen lẫn với nhau, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, hoặc đôi khi đánh giá lầm mà coi người tốt ra người xấu, hoặc người xấu ra người tốt.

Ở đâu cũng có anh hùng

Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên.

Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác, đó là điều không thể tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chết, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.

Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như cho cỏ lùng và lúa cùng mọc lên, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt chiên ra khỏi dê, người lành khỏi kẻ dữ. Trong khi chờ đợi ngày phân xử, chúng ta được mời gọi yêu thương mọi người, nhất là tạo điều kiện cho những kẻ tội lỗi biết sám hối trở về đường lành, còn việc xét xử thì dành cho Thiên Chúa.

Giữa thế gian vàng thau lẫn lộn, giữa biển đời cá tốt cá xấu, giữa cuộc đời kẻ lành người dữ cùng chung sống với nhau và chỉ được Chúa phân định trong ngày ra trước toà phán xét, để thưởng công hay luận phạt. Ngày đó, như nông dân gom lúa vào lẫm và đốt cỏ lùng, thì Thiên Chúa cũng thưởng công Nước trời hạnh phúc cho kẻ lành và ném vào hoả ngục những kẻ gian ác tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).

Qua dụ ngôn cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng thương xót, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”. Ngài không chỉ trì hoãn đến ngày tận thế mới “nhổ cỏ lùng” trừng phạt kẻ tội lỗi. Ngài “đợi chờ đến mùa gặt” để con người có thời gian hoán cải, biến đổi từ cỏ lùng trở thành lúa tốt. Trong khi đó, phải chăng vì kiếp người quá vắn vỏi, con người không có đủ kiên nhẫn với nhau, luôn tìm cách bới ra khuyết điểm của nhau để loại trừ nhau, tiêu diệt nhau.Thiên Chúa rất mực công minh đồng thời Ngài lại đầy lòng nhân từ, thương xót. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án con người. Nhưng Ngài lại chờ đợi “cho tới mùa gặt” mới thực thi quyền xét xử ấy. Và một khi xét xử Ngài lại xét xử khoan dung. Trong khi Chúa sẵn sàng chờ đợi để cho cả cỏ và lúa mọc lên cho tới mùa gặt, thì chúng ta làm gì? Phải chăng chúng ta vội vàng “nhổ cỏ” bằng những cư xử nghiệt ngã, tàn nhẫn với tha nhân? Hay chúng ta khoanh tay, trố mắt ngồi chờ “thi gan” với Chúa? Là con cái Chúa, chúng ta hãy sống bao dung nhẫn nại, quảng đại, tha thứ để góp phần làm cho “cỏ lùng” được “biến đổi gien” trở thành “lúa tốt” (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Để thành ngọc trai

Trong tập nhật ký của một sinh viên, người ta đọc được câu chuyện này: Tôi ở cùng phòng với một người Nhật Bản. Cô ấy có một viên ngọc. Mẹ cô đã tặng cô ấy viên ngọc ấy trước khi lên đường sang Mỹ du học. Gia tộc cô từ đời này sang đời khác làm nghề nuôi trai lấy ngọc. Trước khi cô đi, mẹ đã gọi cô vào phòng, đưa cho cô viên ngọc và nói:

- Khi người ta nhét hạt cát vào bên trong vỏ con trai biển, nó cảm thấy rất khó chịu, nhưng lại không có cách nào đẩy hạt cát ra ngoài. Lúc đó, con trai phải đối mặt với hai sự lựa chọn, hoặc là phải quyết một trận sống còn với hạt cát đó, hoặc là tìm cách đồng hoá nó để hai bên có thể chung sống hoà bình với nhau. Con trai biển đã lựa chọn cách làm thứ hai. Nó dùng cơ thể mềm mại của mình ôm lấy hạt cát, đồng thời tiết ra chất xà cừ từng lớp lớp bao bọc lấy hạt cát. Vì thế sự hình thành của ngọc trai là hành trình từ đau khổ đến sự tròn trịa đầy đặn.

Có lẽ nhiều người đã từng nghe câu chuyện này, nhưng rất ít người biết dùng quan điểm của con trai biển để nhìn nhận nghịch cảnh. Trong cuộc sống có rất nhiều những sự việc không như ý, làm thế nào để bao dung, đồng hoá chúng, chấp nhận chúng như một phần của cuộc sống, để cuộc sống bớt đi phiền muộn, có lẽ đó là bài học cần thiết nhất đối với con người trong xã hội hôm nay.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng.

B- Suy gẫm (... nẩy mầm)

1. Ta hãy suy gẫm về thái độ kiên nhẫn của Chúa đối với những người xấu. Chúa kiên nhẫn vì:

a/ Nhân từ chờ kẻ xấu ăn năn. “Cây lau bị dập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét Ngài chẳng nở tắt đi”; “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”;

b/ Vì tôn trọng tự do mà Ngài đã ban cho mỗi người.

Trách nhiệm mỗi người:

a/ Sử dụng tự do để chọn điều tốt;

b/ Tác động lên những người chung quanh để kêu gọi họ về phía tốt.

2. Với thời gian, lúa có thể lớn mạnh lấn át cỏ lùng, nhưng đồng thời cỏ lùng cũng có thể lớn mạnh làm chết lúa. Do đó, sự kiên nhẫn chờ đợi của Chúa vừa là cơ hội mà cũng vừa là nguy cơ cho mỗi người chúng ta. Hôm nay tôi còn xấu, nhưng ngày mai tôi có thể trở thành tốt. Ngược lại hôm nay tôi tốt, nhưng ngày mai có thể tôi sẽ xấu.

Bởi đó, tôi chớ nên vội đánh giá người khác, và cũng chớ nên tự mãn về mình. Mọi người đều phải tận dùng thời giờ và cơ hội của Chúa để ngày càng trở nên hoàn thiện như Cha trên trời.

3. Một giám mục chúc mừng viên quản lý gian hàng điện khí về công việc tốt đẹp của anh. Ngài nói rằng không bao giờ hết ngạc nhiên về khoa điện năng tuyệt vời.

- Đúng, và con cũng chưa bao giờ nghĩ về điều đó mà không ngạc nhiên về sự kiên trì của Chúa.

- Sự kiên trì của Chúa? Anh muốn nói gì?

- Ngài có bao giờ tự hỏi sao Đấng sáng tạo phải đợi hàng thế kỷ mới có một vài người khám phá nguồn điện phong phú trong vũ trụ chỉ chờ được sử dụng? (Góp nhặt)

4. “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước Cha họ” (Mt 13,43)

Trên đường về quê trời, từ xa chúng ta đã thấy thấp thoáng đích đến. Kìa, tại sao bạn dừng lại? Không, không thể được! Đừng dừng lại bạn nhé!

Tôi biết bạn đang chao đảo vì nắng gắt của dư luận. Tôi biết gối bạn đã chồn, chân bạn đã mỏi đã nát vì chông gai, nay lại hụt hẫng do những vực thẳm của bất công và những khúc quanh của lòng người. Đừng cố làm ra vẻ thản nhiên, đừng cố che dấu cái tôi đầy đau khổ thất vọng. Bạn hãy cùng tôi đọc lại câu Phúc Âm này để san sẻ cho nhau niềm hy vọng. Quãng đường còn lại chắc chắn sẽ vui vẻ hơn, đỡ vất vả hơn.

Bạn hãy nhìn về phía trước và cùng tôi dấn bước tiến lên. Tôi đã thấy nghị lực và khát vọng hạnh phúc trong mắt bạn. Chúng ta sẽ cập bến.

Lạy Chúa, được nên công chính trong bí tích Thánh Tẩy, xin cho chúng con biết nâng đỡ nhau trên con đường công chính, con đường về nhà Cha. (Hosanna)

---------------------------------.

 

Suy Niệm 11: Chúa nhẫn nại trước tình trạng lúa và cỏ lùng


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng.

Với dụ ngôn này, Chúa muốn cho chúng ta thấy Ngài sẵn sàng chấp nhận tình trạng pha trộn tốt xấu trong Nước của Thiên Chúa trong giai đoạn trần thế.

1. Chúa muốn chúng ta cũng hãy biết chấp nhận nhau.

Đây là câu chuyện có thật. Chuyện này cho chúng ta thấy việc chấp nhận nhau trong cuộc sống sẽ đem lại nhiều niềm vui và hạnh phúc cho nhau: Học giả Lâm Ngữ Đường nổi tiếng là người chiều vợ. Để cho vợ vui, ông thường ngồi trên chiếc ghế tựa, miệng hút xì gà lắng nghe vợ nói chuyện, thỉnh thoảng lại phụ họa vài câu. Nếu vợ tức giận, ông sẽ chẳng nói một câu nào. Tuyệt chiêu của ông là: nói ít tốt hơn nói nhiều. Ông cho rằng, vợ chồng cãi cọ nhau chẳng qua là do bất đồng ý kiến, tức giận, nói thêm một câu càng làm cho tình hình thêm căng thắng. Ông thường dùng sự khôi hài để “điều hòa âm dương”. Ông còn khuyên người khác: “Lúc vợ vui, bạn nên chiều theo ý cô ấy. Lúc vợ tức giận, bạn nên nhường nhịn cô ấy”.

Vợ ông chúa ghét người khác nói cô ấy mập, thích nhất được người khác khen cô ấy có chiếc mũi dọc dừa vừa cao vừa thẳng. Vì thế, mỗi khi vợ không vui, Lâm Ngữ Đường đến gần vuốt chiếc mũi của vợ, khiến cô ấy phải bật cười. Có nhiều khi, sau bữa ăn, ông còn giúp vợ rửa bát. Vợ ông rất sợ tiếng bát vỡ cùng với sự vụng về của ông trong công việc bếp núc, nhưng nghĩ đến sự thành tâm của chồng, cô ấy để mặc cho ông “biểu diễn”.

Đối với việc trang điểm của phụ nữ, ông không hề bủn xỉn chút nào. Ông biết vợ rất coi trọng giày dép, nên mỗi khi đi ngang qua tiệm giày, ông thường để cho vợ vào chọn mua giày, còn mình thì dắt con đi xem những cửa hàng bên cạnh.

Học giả Lâm Ngữ Đường nói: “Những ký ức trong những ngày tháng gian khổ là những ký ức ngọt ngào nhất”.

Mặc dù hai vợ chồng ông lúc còn trẻ rất nghèo, nghèo đến nỗi không có tiền đến rạp xem phim, nhưng tuần nào họ cũng đến thư viện mượn một chồng sách về. Hai người cùng nằm bên ngọn đèn dầu đọc sách thâu đêm. Thú vui này của họ được duy trì đến lúc già. Ông Lâm Ngữ Đường đã chứng tỏ cho mọi người thấy: khi vợ chồng chung sống hòa thuận với nhau thì nghèo túng không đồng nghĩa với “khổ”. Hai vợ chồng luôn cảm nhận được những niềm vui mình dang có và cố gắng cùng nhau tận hưởng niềm vui đó.

Schopenhauer đã nói thật chí lý: “Chúng ta ít khi nghĩ đến những cái chúng ta có, mà chỉ nghĩ đến những cái mà ta không có. Đó là nguyên nhân hầu của hết những thảm trạng đời ta. Chính nó đã gây ra nhiều sự đau khổ hơn bất cứ cuộc chiến tranh hay bệnh thiên thời nào trong lịch sử trái đất này.”

2. Bài học kiên nhẫn.

Kiên nhẫn là một trong những bộ mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm nên lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Người. Đó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.

Ta hãy tập kiên nhẫn như Chúa đối với những người xấu. Schopenhauer bảo: “Trên đường đời, hành lý quan trọng nhất phải mang theo là lòng nhẫn nhục”.

Chúa kiên nhẫn vì:

a/ Ngài chờ kẻ xấu ăn năn. “Cây lau bị dập Ngài không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét Ngài không nỡ tắt đi”(Mt 12,20); “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”(Ed 33,11)

b/ Vì tôn trọng tự do mà Người đã ban cho mỗi người.

Một trong những câu chuyện dân gian hay nhất ở vùng cận Đông còn truyền tụng lại là câu chuyện về ông Abraham:

Abraham là người rất tốt bụng. Ông thường dời bữa ăn sáng lại chờ đến khi có một người đói đến để cùng chia sẻ bữa ăn với ông. Một ngày nọ, có một cụ già đi ngang qua và được ông mời vào và được dùng bữa.

Nhưng trước khi dùng bữa, Abraham nghe thấy cụ già thì thầm đọc lời kinh của người ngoại đạo, ông liền mời cụ già đi nơi khác. Cụ già chưa đi khuất, thì Abraham nghe tiếng Chúa trách:

- “Abraham! Abraham! Ta đã cung cấp lương thục để nuôi sống cụ già trên 80 năm qua, mặc dù cụ không phải là người tin thờ Ta, thế mà con không đủ kiên nhẫn và nhân từ để chia sẻ một bữa ăn với cụ sao?”

Thư 2 Phêrô 3,15: “Và anh em hãy biết rằng, Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ, như ông Phaolô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông”.

Lời của mẹ Têrêsa: “Hãy thật chân thành khi tiếp xúc với nhau và có lòng can đảm để chấp nhận lẫn nhau. Hãy luôn ghi nhớ cộng đồng của chúng ta không bao gồm những người đã nên thánh, mà gốm những người đang cố trở thành thánh nhân. Vì vậy, chúng ta hãy thật kiên nhẫn với lỗi lầm và thất bại của nhau”. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Lòng nhân từ của Chúa


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Thế giới mà chúng ta đang sống đây gồm có người lành kẻ dữ, người thánh thiện kẻ ác độc, người tốt kẻ xấu. Tất cả cùng sống chung với nhau dưới ánh mặt trời.

Người lành, người thánh thiện, người tốt được Chúa ví như lúa tốt,. Họ là con cái Nước Trời. Còn kẻ dữ, kẻ độc ác, kẻ xấu thì Chúa ví họ như là cỏ lùng. Họ là con cái của sự gian ác.

Do lòng nhân từ của Chúa mà Chúa để cho tất cả chúng ta cùng sống chung với nhau trên trần gian này. Mục đích là Chúa muốn cho người lành, người thánh thiện, người tốt hãy cố gắng duy trì sự sống tốt lành thánh thiện của mình mà làm gương sáng cho những người tội lỗi, xấu xa, ác độc noi theo mà quay về với Chúa. Đàng khác, những người dữ, những người tội lỗi, những người ác độc có thời gian sống bên cạnh người lành để mà biết hoán cải cuộc sống mà trở thành người tốt lành, thánh thiện theo như ý Chúa mong muốn. Mặt khác, vì cũng do lòng nhân hậu của Chúa, Chúa không muốn một ai phải hư mất đời đời, để rồi ngày này qua ngày khác, Chúa vẫn đợi, Chúa vẫn chờ trong sự nhẫn nại của Chúa đối với những người tội lỗi. Vì thế mà các thiên thần là những thợ gặt của Chúa cũng phải học sự nhẫn nại như thế. Còn chúng ta, chúng ta cũng học sự nhẫn nại của Chúa trước những người anh chị em dữ dằn, ác độc, hãm hại chúng ta, bởi chúng ta biết chính Chúa là chủ mùa gặt, chủ của thế giới. Chúng ta hãy phó thác cuộc sống của chúng ta, mọi sự của chúng ta trong tay của Chúa để Chúa định đoạt, giải quyết: “Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”. Người đáp lại rằng: “Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần” (Mt 13, 36 – 39).

Chúa nhẫn nại, Chúa chờ đợi chúng ta sám hối với thời gian bao lâu, chúng ta không biết, nhưng Chúa cho chúng ta biết, rồi cũng sẽ đến ngày đó, ngày tận thế, ngày tận cùng của thế giới này. Lúc bây giờ Chúa mới tính sổ cho con người chúng ta về công với tội, về thưởng với phạt, về phúc với họa..: “Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (Mt 13, 39 – 43). Vì thế, bao lâu khi chúng ta sống ở trần gian, chúng ta phải luôn xét mình dưới sự soi sáng của ơn Chúa để chúng ta biết mình là lúa tốt hay cỏ lùng. Nếu chúng ta là lúa tốt, chúng ta tạ ơn Chúa và cố gắng sống theo lời Chúa dạy để chúng ta mãi mãi là người tốt của Chúa. Còn nếu chúng ta là cỏ lùng, chúng ta phải lo hoán cải đời sống, sớm trở về với Chúa, và chúng ta cần phải loại bỏ tư tưởng ỷ y, vô tư, chưa đến lượt mình đâu, cho nên không phải lo, đừng để nước tới chân rồi mới chạy, mất trâu rồi mới làm chuồng, bởi thời gian chúng ta có hạn định trên đời này rồi. Vì thế, chúng ta có đôi tai, chúng ta phải nghe Chúa, chứ không được bịt tai, nhắm mắt.

Lạy Chúa, xin Chúa nghe lời chúng con khẩn nguyện, vì chúng con là kẻ tội lỗi, bất xứng vô cùng, nhưng mà dù sao đi chăng nữa, chúng con là thần dân của Chúa, là đoàn chiên của Chúa chăn nuôi, xin Chúa mở lượng từ bi hải hà, tha thứ tội lỗi, đón nhận chúng con, chúng con nguyện sẽ ca tụng, loan truyền Chúa mãi muôn đời. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 4: Ngày 31/07 Th. Phêrô Đoàn Công Quý- Emmanuel Lê Văn Phụng & Ignatio Loyola


Hai Thánh Tử đạo tại Long Xuyên.

31/07 – Thứ Tư tuần 17 thường niên. – Thánh Phêrô Đoàn Công Quý và thánh Emmanuel Lê Văn Phụng

Bổn mạng HĐMVGX Giáo Phận Long Xuyên.
Bổn mạng Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo Phận Long Xuyên.
"Ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".

---------------------------------

* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí

Ngài là con của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương).

Ngay từ nhỏ, cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.

Cùng với lòng nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở.

Về nhiệm sở mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày 31/07/1859.

---------------------------------

Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng

Ngài sinh năm 1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An Giang, thuộc Trấn Châu Đốc.

Là một gia đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2 người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc.

Với tinh thần tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây dương đạo trưởng).

Ngoài ra, ông còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn.

 Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859, Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị điệu về Châu Đốc giam giữ.

Gương sáng tử đạo

Trong suốt 7 tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với Giáo Hội.

Không thuyết phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng Phúc âm.

Để tuyên dương công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh).

Sau đó, vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam.

Các ngài đã nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đây còn là mẫu gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi.

Cũng còn đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng: chứng nhân đời thường của Đức Kitô


Lúc sinh thời, thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.

Trước hết, là một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường, đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.

Thứ đến, ngài có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.

Trong thời gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú  thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ, với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.

Đồng thời, nhờ lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa. Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.

Ngoài ra, lòng bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời  dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày, ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ ngài bị bắt và bị  giam giữ, cùng với cha sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán phục người tông đồ của Chúa.

Sau cùng, với sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.

Và như thế, với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài. Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng bào của ngài.

Noi gương của Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.

Hãy sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…

Nên nhớ rằng, qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.

Ngoài ra, tinh thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần, tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách. Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài, trong vinh quang Thiên Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng & thánh Phêrô Đoàn Công Quý


Tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Hội Thánh

(Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu 31-07-2010)

Thật tự hào cho giáo phận Long Xuyên, khi mô hình Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm đã được thực hiện trước công đồng Vaticanô II cả trên 100 năm tại họ Đầu Nước, nay là Cù Lao Giêng, một trong những họ đạo cổ kính và điển hình của giáo phận, do cha sở họ đạo là linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, và đại diện giáo dân là ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.

Thật vậy, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm trong sự cộng tác với nhau để điều hành sinh họat của họ Đầu Nước - Cù Lao Giêng. Đặc biệt là ông câu Phụng đã dâng hiến tài sản của gia đình mình cho Giáo Hội, để xây cất cơ sở vật chất như chủng viện, nhà dòng. Hơn nữa, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự đoàn kết với nhau trong chức linh mục của Chúa Kitô, để mỗi người theo sứ mạng của mình, phục vụ nhiệm thể Chúa Kitô. Riêng ông câu Phụng đã biến gia đình mình trở thành một Hội thánh tại gia, nơi mà trong thời bách hại, hàng giáo sĩ thường lui tới để trú ngụ, để ẩn náu và thi hành tác vụ linh mục, cụ thể là cử hành các bí tích cho giáo dân trong vùng. Nhất là cha sở Phêrô cùng với ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong cuộc tử đạo của mình. Máu của hai thánh đã hòa trộn với Máu Thánh của Chúa Kitô, cùng thấm đẫm tại phần đất của vùng Châu Đốc, An Giang. Như vậy, sự cộng tác, sự đoàn kết và hiệp thông là những bài học cho giáo phận Long Xuyên, cho hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, về tinh thần đồng trách nhiệm được biểu hiện từ cuộc đời và cuộc khổ nạn của hai thánh Quí - Phụng.

Thực ra, không phải là do hai thánh Quí - Phụng, cũng không phải là do công đồng Vaticanô II đưa ra những bài học về tinh thần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu. Chính Chúa Kitô đã sống và đã dạy bài học này cho những người theo Chúa trong bầu khí của cộng đoàn các Tông đồ. Chúa đã muốn các ông cộng tác với nhau và với mọi người nên sai các ông đi từng hai người một. Chúa muốn các ông đoàn kết với nhau và với mọi người nên đề ra chương trình hành động chung là làm chứng và loan báo Tin mừng bình an. Và Chúa muốn các ông hiệp thông với nhau và với mọi người trong lý tưởng của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.

Chúa Kitô đã dạy bài học tinh thần đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticanô II và Liên Hội đồng Giám mục Á Châu trở về nguồn với tinh thần tham gia và hiệp thông. Như vậy, giáo phận Long Xuyên không có con đường nào khác ngoài con đường trở về xây dựng giáo phận thành một Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.

Sẽ rất hài lòng cho hai thánh tử đạo nếu giữa anh chị em và cha sở đã có những hợp tác chặt chẽ trong mục vụ, và đã có những nỗ lực giải quyết những chia rẽ, những bất hòa, để tránh tình trạng kình chống nhau trong họ đạo. Và ước mơ rằng họ đạo Cù Lao Giêng sẽ là nơi hành hương cấp giáo phận để tinh thần đồng trách nhiệm của hai đấng Thánh được suy tư, chiêm ngưỡng và được tiếp tục học hỏi như bài học cho các cộng đoàn Kitô hữu trong và ngoài giáo phận.

Xin hai thánh tử đạo là cha sở Phêrô và ông câu Phụng chúc lành cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con biết học bài học xây dựng Nước Thiên Chúa bằng tinh thần đồng trách nhiệm. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Kho tàng – ngọc quý.


31/07– ThứTư tuần 17 thường niên. – Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la, linh mục. Lễ nhớ.

"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".

 

* Sinh năm 1491 tại Lôiôla miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên, Inhaxiô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học thần học ở Pari. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập dòng Chúa Giêsu, thường gọi tắt là Dòng Tên (1534). Nhưng chính tại Rôma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân phục Đức Giáo Hoàng.

Phương pháp linh thao của người vạch ra một con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa ngày một sáng ngời hơn.

Người qua đời ở Rôma năm 1556.

 ---------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 13, 44-46


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.

Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Vui mừng bán tất cả


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ
tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời,
có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau:
ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua...
Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc
hay ngần ngại giằng co.
Tất cả diễn ra thật nhanh
và tràn ngập niềm vui thanh thản.
Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào
khi chiếm được kho báu và viên ngọc.
Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường.
Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được,
có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn.
Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng,
nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất,
chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này
là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc.
Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững,
Ðức Giêsu là viên ngọc quý đích thực,
chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ,
xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật.
Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ,
dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Ðức Giêsu là viên ngọc quý,
và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình
và ngây ngất trước giá trị của chúng,
người ấy mới hồn nhiên và vui tươi
đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này
để lấy kho báu bất diệt trên trời (x. Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn,
qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm,
tôi chợt gặp Ðức Giêsu như viên ngọc ngời sáng,
hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường:
tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình
để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả
thì chỉ vì ta chưa thấy.
Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi,
ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
 
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Kho tàng trong ruộng


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có thể ngồi yên không khi biết trong vườn ruộng nhà có một kho tàng chôn giấu. hắc chắn ai cũng phải tức khắc đào xới tìm cho bằng được. Nước Trời là kho tàng, à ngọc đẹp quí giá không gì so sánh được. Ai biết được giá trị thì sẽ dành hết thời giờ để đi tìm cho đến khi gặp được. Tìm được rồi sẽ bán tất cả những gì mình có để mua cho bằng được kho tàng đó.

Nước Trời quí giá như thế nhưng lại không ở xa, ở rất gần ta, ngay trong vườn trong ruộng nhà ta. Có lần Chúa đã nói: “Nước Trời đang ở giữa anh em”. Nước Trời ở gần để ai muốn tìm có thể thấy. Nước Trời ở gần vì vừa tầm tay mọi người. Trẻ, già, lớn, bé, giầu, nghèo, sang, hèn, quan quyền, thứ dân, thông thái, dốt nát đều có thể tìm thấy.

Nước Trời quí giá không phải vì đem đến cho ta mối lợi vật chất. Ta không chiếm được của cải nhưng được chính Chúa là nguồn hạnh phúc, là kho tàng quí giá không gì so sánh được. Chiếm được Chúa, ta trở nên một người khác, đầy tràn hạnh phúc cao quí như khuôn mặt sáng láng của Mô-sê. Chả trách Mô-sê đã từ bỏ tất cả để chỉ tìm Chúa và thánh ý Chúa thôi. Ông đàm đạo với Chúa không bao giờ chán. Đến 40 đêm ngày tức là không còn thời gian.

Nước Trời ở thật gần. Mô-sê chỉ cần đến lều Hội Ngộ là có Chúa ở đó rồi. Chúa ở đâu thì nơi ấy thành thiên đàng, thành Nước Trời. Như Phê-rô say sưa xin Chúa cho dựng 3 lều trên núi Tabor vì muốn ở lại đó vĩnh viễn sau khi được chiêm ngắm thiên đàng hạnh phúc qua cuộc Chúa hiển dung. Khi tâm hồn ta có Chúa thì thiên đàng ở trong ta. Khi trong cộng đoàn có tình yêu thương thì Thiên Chúa ở trong anh em.

Có lẽ ta giống như Giê-rê-mi-a lang thang đau khổ vì chưa gặp được Chúa. Sống lạc lõng giữa thù địch Giê-rê-mi-a nghĩ rằng hạnh phúc Chúa hứa chỉ là ảo mộng. Nhưng Chúa đã thương dẫn đường chỉ lối cho ông đến hạnh phúc là được ở trước tôn nhan Chúa: “Nếu ngươi trở về, ngươi sẽ được ở trước nhan Ta”. Hạnh phúc đó là Chúa “sẽ giải thoát ta khỏi tay kẻ dữ” và mọi người “sẽ trở lại với ngươi chứ không phải ngươi trở lại với chúng”. Và hạnh phúc tột đỉnh là khi nghe Lời Chúa, cuộc đời ta sẽ hân hoan vì được nên giống Chúa: “gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng con, vì con được mang danh Ngài”.

Còn chần chờ gì nữa. Hãy đi tìm kho tàng Nước Trời. Đừng tìm đâu xa, Nước Trời ở gần ngay bên.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Kho Tàng Quý Giá


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài thơ "Viên Ngọc Quý Giá Nhất" của thi hào Tagore có nội dung như sau:

Sanathan cầu nguyện đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, bỗng có một thanh niên tiến đến và thành khẩn van xin ngài bố thí. Nhà hiền triết đáp: "Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi".

Người thanh niên tiếp tục nài nỉ: - Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp ngài, vì chỉ có ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.

Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng biết đâu viên ngọc này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Ông liền chỉ cho người thanh niên nơi cất giấu viên ngọc.

Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quý. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm. Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và khẩn khoản nài xin:

- Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quý hơn mọi viên ngọc quý. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải.

Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.

Bài thơ trên đây có thể minh họa cho chúng ta cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất mát là được lợi lộc, cho là được nhận lãnh, chết là được sống. Ðó là cái nghịch lý mà Chúa Giêsu đã quảng bá và sống cho đến tận cùng: cái chết trên Thập giá và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài là một thể hiện của cái nghịch lý ấy.

Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: "Hãy theo Ta" và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: "Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta".

Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quý giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào". Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.

Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.

Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: "Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ". Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.

Nguyện xin Chúa Kitô, Ðấng chúng ta đã chọn làm gia nghiệp, luôn gìn giữ chúng ta trên bước đường theo Chúa, và củng cố chúng ta trong nghịch lý mà Ngài đã sống: mất mát là lợi lộc, cho là lãnh nhận, chết là được sống.

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Kho Tàng Và Viên Ngọc Quý


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài dụ ngôn về kho tàng và viên ngọc quý có thể gợi lên cho chúng ta những qui luật về đầu tư hay kinh tế thị trường.

Có một số yếu tố mà kinh tế thị trường cần phải tuân thủ mới mong thành công.

Trước hết và quan trọng hơn cả là động lực và sự hy sinh của con người. Ðây là qui luật cơ bản để cho kinh tế thành công. Thiếu sự cần cù siêng năng của con người, kinh tế không thể nào tiến.

Kế đó là sự thanh liêm và chữ tín của con người. Người đầu tư cũng như công nhân cần phải tôn trọng các khế ước mà họ đã cam kết thi hành.

Yếu tố thứ ba giúp cho kinh tế được thành công là tinh thần kỷ luật. Thời gian và những cố gắng đầu tư vào trong các dự án có khi chỉ được đền đáp trong tương lai.

Nhưng một yếu tố khác không kém phần quan trọng để giúp cho kinh tế được vững mạnh đó là sự cộng tác giữa các công nhân. Dĩ nhiên, chỉ có cộng tác thực sự khi con người biết tôn trọng nhau và lấy sự tử tế mà đối xử với nhau mà thôi.

Cuối cùng, các nhà làm luật phải thông qua luật đầu tư một cách công bình và hợp lý.

Tựu trung, kinh tế thị trường tùy thuộc rất nhiều vào các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức không nằm bên lề của kinh tế mà là linh hồn và nền móng của kinh tế.

Tìm kiếm và xây dựng những giá trị đạo đức là nền tảng cho cuộc sống con người. Gia tài quý giá nhất để lại cho con cái không phải là của cải vật chất mà chính là chuẩn bị cho chúng một vốn liếng tri thức và đạo đức đầy đủ. Với hình ảnh của kho tàng được chôn giấu trong thửa ruộng hay một viên ngọc quý mà người ta phải bán tất cả để mua cho bằng được. Chúa Giêsu muốn nói tới tính cách triệt để của niềm tin. Tin là đầu tư và đầu tư là sẵn sàng hy sinh tất cả. Một nền kinh tế lành mạnh là một nền kinh tế được xây dựng trên chuẩn mực đạo đức. Một niềm tin vững mạnh là một niềm tin đòi hỏi con người phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì mình có.

Sức sống của một Giáo Hội không được đánh giá dựa trên những ngôi thánh đường nguy nga, các cuộc biểu dương rầm rộ hay ngay cả con số đông các linh mục mà Giáo Hội chỉ có thể phong chức nhờ mặc cả bằng quà cáp hay lót đường. Nếu cốt lõi của một nền kinh tế lành mạnh là những giá trị đạo đức thì chắc chắn sức sống đích thực của một Giáo Hội sẽ chẳng bao giờ được đánh giá dựa trên những sự kiện bên ngoài, có khi chỉ là những thỏa hiệp với kết quả của trần đời và những sức mạnh của tăm tối. Sẵn sàng đánh mất tất cả vì Tin Mừng của Chúa Kitô phải chăng đó không là đòi hỏi mà qua bài dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho Giáo Hội và các tín hữu Kitô chúng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Hai Thái Độ


“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.”

“Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt. 13, 44-46)

Hai thái độ của con người đối với Nước Trời. trong trường hợp kho báu bị chôn vùi, đó là thái độ của một người tình cờ nhận ra được một giá trị; khá nhiều người có thái độ này đối với Đức Giêsu; họ chẳng mấy bận tâm đến chuyện gặp Chúa Giêsu; họ không đi tìm Người. Thế mà bỗng dưng họ bị Người nắm bắt, cuốn hút dường như bởi một sức mạnh không sao cưỡng lại được. Còn trong dụ ngôn viên ngọc quý, đó chính là tâm trạng của một người đang đi tìm chân lý, giống như phần đông chúng ta, như Đi-cô-đê-mô đi tìm Chúa trong đêm tối.

Hai hạng người.

Không phải chỉ là hai thái độ, hai tâm trạng mà cũng là hai “Hạng” người nữa. Trong con người cày ruộng phát hiện ra được kho báu vùi dấu trong ruộng, chúng ta gặp được hình ảnh con người của sinh hoạt đời thường; đó là con người không thắc mắc đặt vấn đề, con người “nghèo khó” chỉ biết rất ít về Chúa. Tình cờ người ấy khám phá ra Thiên Chúa và có một cái gì làm thay đổi đời sống của người ấy mà người chung quanh không hiểu biết được, người ấy “Vui mừng bán đi tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.” Ai có thể hay chăng tại sao người ấy lại có cử chỉ như vậy?

Còn người thương gia đi tìm ngọc đẹp gợi nhớ lại hình ảnh một người buôn bán một thứ gì quan trọng lắm, một người buôn đồ nữ trang có một vụ buôn bán quan trọng, người ấy biết đúng giá cả những mặt hàng.

Niềm vui khám phá.

Bao lâu chưa tìm gặp, con người phải mang tâm trạng xao xuyến lo âu. Nhưng khi đã gặp được rồi, thì người ta sẵn lòng cho đi tất cả miễn là dành được sự thiện vô giá ấy. Chính kho báu ấy đòi người ta phải hy sinh tất cả những gì mình có, hy sinh tất cả con người của mình thì mới có được kho báu ấy. Đó phải là một sự dấn thân hoàn toàn, một đòi hỏi triệt để. Chúa Giêsu không nhượng bộ chút nào, nhưng Người cũng tỏ cho thấy sự hấp dẫn lạ lùng của ơn cứu độ, và niềm vui vô biên dành cho người tìm gặp được ơn cứu độ ấy.

Hai dụ ngôn này còn gợi cho ta một suy nghĩ khác. Khi đã tìm được kho báu kia, viên ngọc đẹp ấy, người ta đều cảm nhận được niềm vui vô biên, khôn tả, và chính niềm vui ấy mới khiến người ta dấn thân hết sức, hết mình. Có nghĩa là phải làm tất cả để giữ mãi được niềm vui và phấn khởi của sự khám phá này.

Có được Thiên Chúa là có được tất cả, chỉ mình Chúa là đủ rồi. Người ta có thể hiểu được chân lý này nhờ kinh nghiệm mà thôi.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Kho tàng và viên ngọc quý


Xem lại CN 17 TN A

Thánh Phanxicô X. là con một người giàu có. Ngài thuộc thành phần quý tộc. Vì thế, không lạ gì khi còn trai trẻ, thánh nhân ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian! Tuy nhiên, nhờ người bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo Lời Chúa vào tai Phanxicô: “... được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).

Nhờ câu Lời Chúa trên mà ngài được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ con người ham mê của cải trần thế trở thành một tu sĩ nghèo khó. Từ một người ham mê khoa bảng trần gian trở thành một người chỉ biết rao giảng chân lý Tin Mừng.

Hôm nay, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta hãy xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo Đức Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin Mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin Mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quý” hôm nay.

Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước Trời là “kho tàng” bền vững và Ðức Giêsu là “viên ngọc quý” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước Trời; chiếm hữu được “viên ngọc quý” là chính Đức Giêsu thật là điều không dễ! Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.

Lạy Chúa Giêsu, có Chúa là có tất cả, không có Chúa kể như không có gì. Xin cho chúng con hiểu được điều đó, quyết tâm và đánh đổi bằng mọi giá để có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Nước Trời - giá trị cao quý


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Nước Trời có một giá trị cao quý vô cùng đến độ có thể đánh đổi tất cả những gì ta có. Thế nhưng điều quan trọng hơn, đó là con người phải nhận ra giá trị cao quý ấy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con hiểu rằng Nước Trời thật giá trị cao quý, cao quý đến độ người ta có thể đánh đổi tất cả để chiếm đoạt và có thể từ bỏ tất cả để giành lấy. Nước Trời thật giá trị cao quý, bởi vì Nước Trời là chính Chúa, là được sống trong tình yêu của Chúa, được chia sẻ chính sự sống của Chúa.

Xin Chúa giúp con học hỏi, tìm hiểu không ngừng, để con khám phá giá trị cao quý của Nước Trời, để mỗi ngày con lại càng nhận ra Chúa thật là cần thiết cho con. Lúc đó con sẽ bỏ tất cả, đánh đổi tất cả, để chiếm đoạt Nước Chúa cho bằng được, và lòng hân hoan vui sướng vì được cả một kho tàng.

Người đi tìm ngọc quý, người thương gia, là những người sành sỏi, biết nhận định hơn hay kém, thật hay giả… để có thể quyết định chọn lựa dứt khoát. Cũng vậy, để có thể dấn thân hoàn toàn sống cho Chúa, con cũng phải nhận định. Xin giúp con nhận ra rằng Chúa trổi vượt hơn mọi sự ở đời này. Chúa là lẽ sống và là hạnh phúc của con. Được Chúa là được tất cả, mà mất Chúa là mất tất cả.

Trong cuộc sống thường ngày, khi mua một món hàng, con hỏi những người thông thạo để mua món hàng nào tốt nhất và đẹp nhất. Cũng thế, để nhận ra giá trị Nước Trời, xin cho con biết siêng năng học hỏi nơi Lời Chúa, nơi các thánh, nơi giáo lý của Hội Thánh, con sẽ không chọn lầm và không có gì phải nuối tiếc khi chọn Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Nước Trời - giá trị tuyệt đỉnh


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ignatiô sinh tại Lôyôla miền Cantabria nước Tây Ban Nha trong một gia đình giàu sang, phú quý và đầy thế giá vào năm 1493. Ignatiô đã nhập ngũ và bị thương khi quân đội Tây Ban Nha giao tranh với quân đội Pháp ở Pampelune vào năm 1523.

Thời gian nằm bệnh viện dưỡng bệnh lâu dài. Sau khi đã đọc rất nhiều sách vở, người ta đưa cho chàng cuốn sách Hạnh các thánh. Chính gương mẫu đời sống các thánh đã thúc giục Ngài: “Hãy bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu”, ngài tự hỏi: Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phanxicô và Đôminicô đã làm chăng?

Ơn trên thúc đẩy, Ignatiô bắt đầu khám phá ra mầu nhiệm nước Trời trong ơn gọi của mình, Ngài đã bỏ thanh kiếm quý tộc của mình ở bàn thờ Đức trinh nữ Maria tại Mont-Serrat. Ngài sống một đời sống họa lại tình yêu của Chúa Giêsu, Ngài đã sống khó nghèo như một người ăn mày, Ngài đã viết nhiều sách rất có giá trị về mặt đạo đức và thiêng liêng. Cùng với các cộng sự viên ngài đã sáng lập Dòng Chúa Giêsu tức là Dòng Tên, châm ngôn của Dòng là: “Tất cả cho vinh danh Chúa hơn”.

Ignatiô thường cầu nguyện: “Xin ban cho con tình yêu và ơn thánh Chúa, thế là con giàu rồi, con không xin gì nữa”.

Suy niệm

Chúa Giêsu dùng hình ảnh kho báu và ngọc quý, nói lên giá trị tuyệt đỉnh của nước Trời, theo Chúa Kitô đó là mục đích lớn nhất của đời người. Muốn đạt tới nước Trời, con người phải nỗ lực đi tìm và hy sinh tất cả để gìn giữ khi tìm thấy. Nếu như giá trị của kho tàng, vàng, ngọc, kim cương vượt lên trên mọi giá trị của con người mà họ hăng say tìm kiếm ở trần gian, qua hình ảnh này, Chúa Giêsu cũng nói về niềm vui, giá trị nước Trời vượt trên tất cả. Tuy nhiên, kho tàng nước Trời, ngọc quý của Thiên quốc là những của cải không hề bị mất đi trong lúc vàng, kho tàng, ngọc, kim cương sẽ chỉ có giá trị ở đời này, còn kho tàng nước Trời là vĩnh cửu, nên nước Trời sẽ vượt lên trên mọi thứ vật chất, vui sướng của trần thế.

Để hiểu thêm ý nghĩa của dụ ngôn kho tàng và ngọc quý mà Chúa Giêsu muốn truyền dạy, chúng ta tìm hiểu chi tiết hoàn cảnh xã hội Do Thái đương thời. Thời đó, do tình trạng chính trị với sự đe dọa xâm lăng của ngoại bang ở vùng Trung Đông, chôn giấu của cải là việc thông thường để gìn giữ nó trước biến động, giống như Việt Nam chúng ta vào thời chiến tranh, chôn giấu của cải để bảo vệ nguyên vẹn trước những biến động. Theo luật người Rôma thời ấy, ai tìm được bảo vật thì họ có quyền sở hữu. Nhưng theo luật Do Thái thì quyền sở hữu thuộc về chủ thửa đất. Dụ ngôn này cho thấy Đức Giêsu rất thông thạo về luật lệ và phong tục Do Thái. Trong dụ ngôn kho báu, tìm được báu vật là một sự tình cờ; nhưng trong dụ ngôn tìm ngọc quý đó là một chủ tâm, chủ tâm làm mọi sự để đạt được nước Chúa.

Ngày hôm nay, con người vẫn mải mê tìm kiếm vật chất mà quên đi những giá trị của nước Trời, con người lo lắng mọi sự thế gian: Làm tất cả để giàu, để đẹp, chính vì mải mê đó mà quên đi những thực tại quê Trời mà họ cần phải tìm kiếm. Con người hôm nay đặt tất cả mọi lo toan, lo lắng, mà quên Đức Kitô và nước Ngài như thánh Âugustinô đã nhìn thấy trong cách sống con người: “Chúa Giêsu không đáng giá chútnào, nếu Ngài không được coi trọng hơn tất cả”. Phải chăng, Chúa Giêsu không phải là kho tàng, nước Trời mà Ngài rao giảng không có giá trị gì với chúng ta chăng?

Chúa Giêsu đã hứa với những ai dành trọn tâm cho việc tìm kiếm nước Chúa: “Trên hết, hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Bạn để tâm hồn mình định hướng tìm kiếm nước Thiên Chúa, mình sẽ có được tất cả, vì nước Thiên Chúa mà bạn tìm được sẽ chiếm hữu bạn. Chính lúc đó, bạn sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc có nước Trời. Nước Trời bắt đầu ở trong tâm hồn của bạn như lời nguyện Giáo hội xác định: “Và cho chúng con được nếm trước những ân huệ Cha sẽ ban cho chúng con ở đời sau” (Lời tiền tụng các thánh Trinh Nữ và các thánh Tu Sĩ) “bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt”(Pl 3,12).

Xin cho con xác định đời con để con luôn nỗ lực tìm kiếm nước Trời.

Ý lực sống:

Để tâm toàn ý tìm nước Trời
Con vui tiến bước vì ngày mai.

------------------------------

 

Suy Niệm 12: Dụ ngôn kho tàng và ngọc quí


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Hai dụ ngôn “kho tàng” và “ngọc quí” mà Tin mừng hôm nay thuật lại qua lời rao giảng của Chúa Giêsu là một lời mời gọi chúng ta đừng để mất cơ hội khi Nước Thiên Chúa đến. Nước Thiên Chúa đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng là một thực tại bị ẩn giấu như kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng và như viên ngọc lẫn lộn trong số các loại ngọc giữa chợ đời. Vì thế, phải thao thức đi tìm, biết phân định chọn lựa, dám dấn thân và từ bỏ tất cả để đổi lấy nó.

Ý nghĩa của dụ ngôn

Dụ ngôn kho tàng không đặt vấn đề luân lý về hành động của người mua thửa đất. Dụ ngôn chỉ muốn đề cao giá trị của Nước trời, nên nhấn mạnh niềm sung sướng của người kia thôi. Theo luật Rôma thời ấy, thì kẻ gặp được báu vật chôn giấu như vậy, có quyền chiếm hữu. Còn theo luật Do thái, trong văn mạch của dụ ngôn này thì quyền sở hữu báu vật thuộc về chủ thửa đất, vì thế người kia khi tìm thấy, đã chôn giấu rồi về nhà bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng ấy.

Dụ ngôn đi tìm ngọc quí cũng mang ý nghĩa tương tự như dụ ngôn kho tàng. Nước trời cao quí hơn tất cả mọi sự con người có thể có, nên con người phải sẵn sàng hy sinh tất cả, để chiếm được nước ấy. Có người hiểu thương gia là Chúa Giêsu, và viên ngọc quí là con người: Con Thiên Chúa đã hy sinh tất cả vì loài người chúng ta (2Cr 8,9; Pl 2,6-11) (Giải thích của Lm. Trần Hữu Thành).

Dụ ngôn kho báu và viên ngọc quí nói tới sự cao quí tột bực của Nước trời mà không có thứ giá trị nào sánh bằng. Tựa như khi phát hiện ra khó báu hay tìm được viên ngọc quí, người ta bán hết tất cả những gì mình có để tậu cho được, thì khi những ai khám phá ra Nước trời, mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ và họ sẵn sàng đánh đổi tất cả để dành cho được nước ấy.

Theo cách diễn đạt của dụ ngôn, thì thường là Thiên Chúa “chôn giấu lại” kho tàng sau khi đã chỉ cho chúng ta thấy. Nó chỉ thuộc về chúng ta sau khi đã bền bỉ kiên trì và chịu đựng khổ đau, để có khả năng lãnh nhận kho báu ấy. Hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quí” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết giá trị của chúng thì quí hoá, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn trong đó. Nước trời có đó nhưng mấy ai khám phá ra và mấy ai nhận thấy được giá trị vĩnh cửu để đầu tư đời mình. Kho báu được chôn giấu nên phải tìm kiếm và đào bới, muốn có ngọc đẹp phải bôn ba đây đó tìm mua. Nước trời là một thực tại siêu việt nên phải vất vả tìm kiếm với cả lòng khao khát và hy sinh (Hiền Lâm).

Kitô giáo thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát (Mỗi ngày một tin vui).

Hôm nay, Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo Chúa Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quí” hôm nay.

Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước trời là “kho tàng” bền vững và Chúa Giêsu là “viên ngọc quí” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước trời; chiếm hữu được “viên ngọc quí” là chính Chúa Giêsu thật là điều không dễ! Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.

Truyện: Cần phần rỗi linh hồn

Attila xâm chiếm nước Italia với các binh đoàn hùng hậu của ông. Khi đã chiếm đóng làm chủ khắp mọi nơi thuộc đế quốc Rôma, ngày kia quân lính đến báo cáo với ông ta rằng: “Ở vùng ông ta đang trú đóng có một vị ẩn tu rừng”. Attila, ông vua hiếu chiến, hung dữ, rất kiêu căng này luôn muốn mọi người run sợ sụp lạy trước mặt mình, nên ông ta nảy ra ý định thử đến gặp vị ẩn sĩ xem sao.

Tưởng rằng vị tu hành sẽ sợ hãi khi phải đối diện với nhà chinh phục khét tiếng này, không ngờ, người của Thiên Chúa chẳng những không run khiếp, trái lại còn tỏ ra ung dung tự tại khiến Attila vừa nể phục vừa cảm mến. Sau khi trò chuyện với một người khôn ngoan, có tài đáp ứng mau lẹ, Attila bèn hứng chí nói: “Ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi có thể ước muốn trong vương quốc của ta”. Lúc đó, vị tu sĩ vừa ngửa tay chìa về phía Attila vừa nói: “Thưa ngài, trong toàn vương quốc của ngài tôi chỉ ước muốn một điều duy nhất: Phần rỗi của linh hồn ngài”.

------------------------------

 

Suy Niệm 13: Nước Trời rất quý giá


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Hai dụ ngôn này có cùng một ý nghĩa: Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả những gì mình có để đổi lấy.

Hai dụ ngôn này chẳng qua cũng là nhấn mạnh thêm một tư tưởng chủ yếu mà Matthêu đã nhiều lần nói tới những chỗ khác, như: Chúa Giêsu nói với anh thanh niên nhà giàu “Hãy bán hết những gì anh có, đem chia cho người nghèo, bấy giờ anh sẽ được kho tàng Thiên quốc, rồi hãy cầu nguyện và theo Ta” (x. Mt 19,16-22); để được Nước Trời, phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả nếu cần thì chặt tay, chặt chân, móc mắt (x. Mt 18,8-9). Tóm lại, để được Nước Trời, chẳng có hy sinh nào được kể là quá lớn cả.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Nước Trời quý giá hơn tất cả. Bởi vì chỉ có Nước Trời là tồn tại vĩnh viễn. Còn mọi giá trị khác thì có ngày sẽ mất. ”Được lời lãi cã thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Mt 16,26)

2. Ngày xưa, người ta chưa biết tới dịch vụ ngân hàng, nên cất dấu của cải bằng cách đem cất dấu ở một nơi người khác không biết. Nhưng cất dấu quá bí mật đến nỗi lắm khi chủ nhân chết đi thì không ai khác biết. Kho tàng trở thành vô chủ. Ta thử nghĩ, nếu có ai tình cờ biết được kho tàng ấy, người đó sẽ sung sướng thế nào! Mà có ai biết nó mà lại thờ ơ không tìm cách lấy nó bằng được hay không?

Tôi là người được biết kho tàng Nước Trời đó. Vậy tôi phải cảm ơn Chúa. Nhưng tôi có quá ngu dại khi không tha thiết gì tới kho tàng ấy không? Tại sao tôi lại không dám bỏ những thứ khác để đổi lấy kho tàng ấy?

3. Nhiều khi tôi tiếc vì phải từ bỏ thứ này thứ nọ. Tôi không nhớ rằng Chúa Giêsu đã hứa sẽ bù lại cho tôi một kho tàng vô giá.

4. Một người nông dân đang nghe John Wesley giảng về việc sử dụng của cải. Trong phần thứ nhất, nhà giảng thuyết quảng diễn tư tưởng ”Hãy thu hoạch (làm giàu) tối đa”. Người nông dân thúc cùi chỏ người bên cạnh và nói ”Một bài giảng tuyệt vời”. Wesley khai triển điểm thứ hai ”Hãy tiết kiệm tối đa”. Người nông dân lại khen: ”Chưa bao giờ tôi được nghe một bài giảng hay như vậy”. Wesley sang điểm thứ ba: ”Hãy chia sẻ tối đa”. Người nông dân mất hứng, rút lui khỏi nhà thờ và buồn bã về nhà. (Góp nhặt)

5. Người nông dân bán đi tất cả để mua cho được thửa ruộng vì biết rằng trong đó có kho tàng đang ẩn giấu. Người thương gia cũng vội vã đầu tư mọi gia sản mình vào viên ngọc quý.

Vì lợi nhuận, các nhà doanh nghiệp chẳng ngần ngại đầu tư tiền bạc vào các công trình. Chỉ vì chiến thắng, các vận động viên đầu tư mọi sức lực vào việc luyện tập. Vì tưong lai, người trẻ sẵn sàng đầu tư chất sám và thời gian cho sự học hỏi.

Tôi tự hỏi: ”Vì Nước Trời, tôi đã dám nghĩ đến chuyện đầu tư cho Đức Tin chưa nhỉ?”

Lạy Chúa, xin thúc đầy con luôn biết đầu tư tất cả cho đức tin bằng việc đặt Chúa vào trọng tâm cuộc sống, và biến lời thương mến thành hành động tin yêu. (Hosanna)

6. Khi bước vào trần gian , chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Thế nhưng khi nắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng.

Xuất thân từ bụi tro rồi chúng ta cũng sẽ trở về tro bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng tình yêu sẽ là giá trị mãi mãi tồn tại, và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết và tất cả những gì trói buộc chúng ta trong cuộc sống này.

Lạy Chúa, cuộc sống của con được dệt bằng một chuỗi của vui tươi và sầu khổ, thành công và thất bại, sum hợp và ly tán. Chúa dùng những điều đó nhắc nhở con rằng cuộc sống này chóng qua và mời gọi con nghĩ đến giá trị vĩnh cửu. Trong mọi sự, xin cho con biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, và biết sống những giây phút hiện tại như chính giờ phút con phải đến gặp Chúa. (Hosanna)

 ------------------------------

 

Suy Niệm 14: Viên ngọc quí giá nhất


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Hai dụ ngôn này có cùng một ý nghĩa: Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả những gì mình có để đổi lấy.

Nước Trời quý giá hơn tất cả. Bởi vì chỉ có Nước Trời mới tồn tại vĩnh viễn, còn mọi giá trị khác có ngày sẽ mất. “Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Mt 16,26).

Thi hào Tagore có viết một bài thơ với tựa đề là “Viên ngọc quí giá nhất”. Bài thơ có nội dung như sau:

Đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, vừa đi vừa cầu nguyện thì nhà hiền triết Sanathan bỗng thấy một thanh niên tiến đến với mình. Chàng thanh niên thành khẩn van xin Ngài bố thí cho anh một cái gì đó.

Nhà hiền triết đáp: - Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi.

Người thanh niên tiếp tục nài nỉ: - Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp Ngài, vì chỉ có Ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.

Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng, biết đâu viên ngọc quí này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Nghĩ vậy cho nên ông liền chỉ cho người thanh niên nơi ông đã cất giấu viên ngọc.

Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quí. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm.

Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và lại khẩn khoản tiếp tục nài xin: - Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quý, quý hơn mọi viên ngọc quý nữa cơ. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải. Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.

Một viên ngọc quý, quý hơn mọi viên ngọc quí. Viên ngọc ấy là viên ngọc nào? Thánh Nữ Têrêsa Avila cho chúng ta biết đó chính là Chúa. Chỉ có Chúa mới là giá trị tuyệt đối cho mọi cuộc tìm kiếm.

Thánh Augustino sau bao nhiêu năm trời ngụp lặn trong đam mê lạc thú, những thứ mà ông tưởng rằng, chúng sẽ đem lại cho ông niềm vui và hạnh phúc, nhưng cuối cùng cũng đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, linh hồn con khắc khoải sao xuyến cho đến khi con tìm được Chúa”. Và tìm được Chúa như lời thánh Têrêsa Avila là đã quá đủ rồi. “Một mình Chúa là đủ”.

2. Bán tất cả để sở hữu thửa ruộng. Bán tất cả để mua viên ngọc quý.

Người nông dân bán đi tất cả để mua cho được thửa ruộng vì biết rằng, trong đó có kho tàng đang ẩn giấu. Người thương gia cũng vội vã đầu tư mọi gia sản mình vào viên ngọc quý.

Vì lợi nhuận, các nhà doanh nghiệp chẳng ngần ngại đầu tư tiền bạc vào các công trình. Chỉ vì chiến thắng, các vận động viên đầu tư mọi sức lực vào việc luyện tập. Vì tương lai, người trẻ sẵn sàng đầu tư chất xám và thời gian cho sự học hỏi.

Một em học sinh thuộc câu lạc bộ Sainta Clara ở Hoa Kỳ. Mỗi ngày em thức dậy lúc 5g30 sáng ra hồ bơi luyện tập suốt hai giờ đồng hồ rồi vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, em lại ra hồ tập luyện thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới học bài và đi ngủ đúng 9 giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình tập luyện và kỷ luật của mình. Em chỉ nhận tham gia một vài sinh hoạt xã giao với bạn bè khi nào chương trình đó không cản trở việc học và tập luyện bơi lội của em. Một hôm có người tò mò hỏi: “Tại sao em làm như vậy? “.

Em trả lời xác tín: “Tôi muốn đoạt giải vô địch môn bơi lội trong thế vận Hội Thể thao sắp đến”. Thái độ hy sinh mọi sự cho mục tiêu duy nhất mà em học sinh kia đã nói lên: “Tôi muốn đoạt giải bơi lội trong thế vận Hội Thể thao sắp đến”.

Nếu phần thưởng dành cho vận động viên đoạt giải trong các cuộc thi đấu tại thế vận hội ngày xưa chỉ là một ngành lá ô liu, hay ngày nay là những huy chương vàng, bạc, đồng... nghĩa là những thứ mau qua, kèm theo chút danh vọng chóng tàn, mà con người còn sẵn sàng đầu tư tất cả cuộc đời cho những thứ ấy, thì tại sao người Kitô hữu chúng ta, lại không dám làm như thế đối với một phần thưởng vô cùng cao quí, đó là Nước Trời?

Qua hai dụ ngôn “Kho Báu” và “Viên Ngọc Quí”, được kể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hẳn muốn nói với chúng ta rằng, cần phải đầu tư cuộc đời của chúng ta cho Đức Tin.

Lạy Chúa,
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 15: Anh bán tất cả những gì anh có, mà mua thửa ruộng ấy


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Kho tàng, viên ngọc, nó là biểu hiện cho sự vật quý giá nhất trên trần gian này. Vì là vật quý, cho nên nó không nằm lộ thiên để mà bất cứ ai muốn sở hữu nó thì cũng sở hữu nó một cách dẽ dàng đâu. Vì nếu như vậy thì nó đâu còn là vật quý hiếm nữa. Nhưng đây, muốn sở hữu nó, con người chúng ta cần phải cất công đi tìm kiếm. Chưa chắc gì mà suốt đời chúng ta lại tìm thấy được nó: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13, 44 – 46). Khi tìm thấy được rồi thì người đi tìm đó sẽ về sẵn sàng bán tất cả những gì mình có mà mua cho được nó, hoặc dù nó có nằm trong thửa ruộng thì cũng vì nó mà mua thửa ruộng đó luôn.

Như vậy, Chúa ví Nước Trời giống như kho tàng, như viên ngọc quý, nghĩa là Nước Trời quý giá nhất trong cuộc đời của người tín hữu chúng ta. Chúng ta cũng sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có vì Nước Trời. Ở đây chúng ta không phải mất công tốn sức để đi tìm Nước Trời. Chúa đã ban Nước Trời cho chúng ta rồi. Chúng ta chỉ còn có việc sống và thực hiện lời Chúa dạy là chúng ta sẽ được Nước Trời làm sở hữu, làm gia nghiệp cho riêng mình. Còn nếu chúng ta không chịu sống theo lời Chúa dạy, thì quả thật việc chiếm hữu Nước Trời quá khó vô cùng với chúng ta.

Vì Nước Trời được Chúa ban nhưng không cho tất cả mọi người chúng ta, không phân biệt một ai cả. Do vậy mà chúng ta thấy được tình thương và lòng quãng đại vô bờ bến của Chúa. Vì thế, chúng ta có bỏ đi của cải vật chất, có bỏ đi quyền cao chức trọng, có bỏ đi bổng lộc phú quý giàu sang, có bỏ đi sự hưởng thụ bản thân…. thì cũng không thể nào sánh ví với Nước Trời mà Chúa ban cho chúng ta được. Do đó, sự khôn ngoan nhất của chúng ta là hàng ngày, chúng ta hãy vác thập giá theo Chúa trong tinh thần tin tưởng, vui tươi, cậy trông, phó thác cho Chúa.

Nước Trời là chính Chúa, chúng ta được sống trong Nước Trời là chúng ta được sống trong Chúa, được tình yêu Chúa bao bọc, chở che, nâng đỡ. Do đó, chúng ta phải có một thái độ mạnh dạn, dứt khoát để dấn thân, để chọn lựa, sẵn sàng hy sinh tất cả những gì làm cản trở chúng ta đến với Chúa. Chúng ta cần cầu xin Chúa là kho tàng quý giá nhất đời chúng ta, giúp đỡ chúng ta, cho chúng ta là công dân của Nước Trời.

Lạy Chúa, Chúa là sức mạnh của chúng con, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con ca ngợi quyền năng Chúa từng ngày sống của chúng con, xin Chúa thương xót chúng con, xin Chúa nên là đồn lũy bảo vệ chúng con, làm chỗ cho chúng con nương thân, nhất là trong những ngày tháng chúng con khổ sở, cơ cực, xin Chúa thương đừng để chúng con làm những điều gian ác tội lỗi, kẻo chúng con mất Chúa, mất Nước Trời. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 16. Thánh Inhatio Loyola

Ngy 31/7

Mỗi vị thánh đều mang một sắc thái khác biệt, đều có một lối sống riêng biệt, nhưng tựu trung, họ đều có một mẫu số chung là trở nên giống Chúa Kitô. Chẳng hạn, thánh Phanxicô Assisiô sống khó nghèo, thánh Phanxicô Salêsiô về nhân đức hiền lành, thánh Anphongsô sống khiêm nhượng lo cho những người bơ vơ tất bạt, những kẻ đầu đường xó chợ, thánh Phanxicô Xaviê hy sinh, lo việc phần rỗi cho các linh hồn, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu , sống tình yêu , cầu nguyện cho công việc truyền giáo. Mỗi thánh mỗi vẻ, mỗi thánh sống, luyện tập nhân đức để nên giống Chúa Kitô. Chúa truyền cho cac môn đệ, cho mọi người phải theo gương Chúa: " Các con hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" ( Mt 11,29 ). Nơi khác Chúa Giêsu nói: " Nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau "( Ga 13,14-15 ). Xem ra các thánh là những Đấng đã bắt chước tuyệt đối lối sống và các nhân đức của Chúa Giêsu, các Ngài đã trở nên công chính, trọn lành theo mẫu Chúa Giêsu.

Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la đã biến cuộc đời mình hòa tan trong Chúa Giêsu, Ngài đã cởi bỏ con người cũ, mặc lấy chính Đức Kitô. Vì rằng, được sinh ra trong một gia đình quí phái,giầu sang tại miền Cantabria, nước Tây Ban Nha vào khỏang năm 1493. Dù rằng với căn bản của gia đình cha mẹ sẵn có tiền tài, vật chất, danh vọng và đủ mọi thứ phú quí ở trần gian, thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la đã quyết tâm rũ bỏ bụi hồng trần để theo Đức Kitô.

Đọc lại tiểu sử của Ngài, ta như bắt gặp thấp thoáng đâu đó lời Chúa mời gọi Ngài qua một biến cố kỳ diệu: "Số là thánh nhân gia nhập quân đội và bị thương khi tác chiến với quân Pháp ở Pampelune . Đường Chúa vạch ra ai nào biết trước, Chúa chọn ai thì tự ý Ngài. Biến cố dưỡng bệnh như tỏ lộ ý Chúa khi Ngài đọc được nhiều sách đạo đức và như có một tiếng gọi cao sau, từ rất cao và rất xa, Ngài đã nhất quyết bước theo Đức Kitô ".

Cử chỉ diễn tả sự quyết tâm của thánh nhân là Ngài đã treo khí giới ở bàn thờ Đức Mẹ và bắt đầu thời kỳ tu tập. Với 9 người bạn cùng chí hướng, thánh nhân đã đặt nền móng Dòng Tên trên ngọn đồi Montmartre nước Pháp, với tôn chỉ , mục đích là tìm vinh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thánh nhân đã vạch ra con đường nên thánh cho các sĩ tử của Dòng Ngài là dựa theo ba lời khuyên của Phúc Âm, ngoài ra Ngài còn thêm một lời khấn nữa và buộc các sĩ tử phải hiến mình cho công cuộc truyền giáo theo ý của Đức Thánh Cha. Với gương sáng, lòng nhiệt thành giảng dạy lời Chúa, sự sống thánh thiện, Ngài đã mở rộng nước trời và đem biết bao linh hồn về cùng Chúa. Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la đã biến giây phút đời mình thành giây phút hiện tại của ơn cứu độ . Qua ơn cứu độ của Chúa, thánh nhân đã làm cho nhiều người nhận biết Chúa. Dù rằng , thánh nhân chỉ sống ở trần gian có 63 năm, nhưng tất cả đời Ngài chỉ tìm vinh danh Chúa. Thánh nhân đã sống tận cùng cái phúc Ngài đã lãnh nhận nhưng không nơi Chúa, nên Ngài đã trao ban lại cho nhân loại cũng chính cái phúc, tức tình yêu mà Ngài đã nhận nơi Đức Kitô . Thánh nhân đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và Ngài cũng ước ao mọi người trở nên như Ngài đúng như lời thánh Phaolô tông đồ đã nói: " Anh em hãy bắt chước Thầy, như là Thầy đã bắt chước Đức Kitô " ( 1 Co 11, 1 ).

Thánh nhân đã xứng đáng được Đức Thánh Cha Urbanô VIII tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh . Năm 1922, Đức Giáo Hoàng Piô XI phong Ngài làm Đấng bảo trợ những tuần tĩnh tâm. Một cuộc đời. Một con người đã hoàn toàn trở nên giống Chúa Kitô : I-nha-xi-ô Lôi-ô-la.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

---------------------------------

 

Suy Niệm 17: Thánh IGNATIÔ LOYOLA


Don Inigo Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1481 tại miền đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho một người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là những ngày lễ duyệt binh.

Trong cuộc chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna. Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ỏ Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu đựng cơn đau. Thời gian dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các thánh. Gương mẫu  đời sống các thánh làm mủi lòng Ignatiô. Ngài nói:

- Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?

Năm 1522, sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin, đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã thoát hiểm  nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa, Ngài được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà một người công giáo phải theo để “điều khiển đời sống mình” một đời sống nhằm ca tụng Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một giáo thuyết của mình về “sự chọn lựa” và đòi hỏi để làm mọi sự để “vinh danh Chúa” (Ad Majorem dei gloriam).

Thánh nhân ở lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma. Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.

Năm 1528, Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1524 bảy anh em đã long trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn ngoại giáo.

Ignatiô trở về Tây Ban Nha. Năm1535, tu hội đã lên tới 10 người. Họ gặp nhau ở Vienitia, định cùng đáp tàu đi hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiôtại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho Ignatiô và 6 anh em được thụ phong linh mục. Một năm sau, thấy rằng: không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu “dòng Chúa Giêsu” dưới quyền xử dụng của toà thánh. Họ đi Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến pháp của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát biểu khi gặp họ:

- Đây là bàn tay Thiên Chúa.

Và trong sắc lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời, trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo hoàng.

Trong hiến pháp đầu tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7 tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm 1543.

Ignatiô khó rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày 3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101 nhà và gần 1000 phần tử.

Thánh Ignatiô được tôn phong hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622.

---------------------------------

 

Thứ 5: 01/08 Th. Anphong Maria Ligôri

Tự do chọn lựa.
01/08 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 17 thường niên. – Thánh Anphong Maria Ligôri, gm tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".

* Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 13, 47-53


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Cá tốt cho vào giỏ


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Dụ ngôn chiếc lưới được coi là dụ ngôn cuối cùng
trong một chuỗi bảy dụ ngôn của chương 13 theo Tin Mừng Mátthêu.
Dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng với dụ ngôn lúa và cỏ lùng.
Cả hai đều nói đến sự tách biệt kẻ xấu và người tốt vào ngày tận thế,
và kẻ xấu sẽ bị Thiên Chúa luận phạt nghiêm minh (cc. 42. 50).
Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi để nói về Nước Trời.
Có khi là hình ảnh nông nghiệp như dụ ngôn người gieo giống,
dụ ngôn lúa và cỏ lùng, hay dụ ngôn hạt cải.
Có khi là hình ảnh về chăn nuôi như dụ ngôn về người mục tử.
Có khi là hình ảnh về ngư nghiệp như trong dụ ngôn chiếc lưới.
Một số môn đệ của Ngài đã sống bằng nghề chài lưới ở hồ Galilê.
Thời xưa việc đánh cá ở hồ này cũng đơn giản như ở quê ta ngày nay.
Những ngư phủ đi trên những chiếc thuyền nhỏ.
Họ quăng lưới vào những nơi thấy dấu hiệu có cá đang đi.
Lưới với những hòn chì nặng sẽ chụp xuống đàn cá và họ chỉ cần kéo vào bờ.
Một chi tiết đáng chú ý ở đây là họ gom được mọi loại cá, cả tốt lẫn xấu.
Hình ảnh này gợi cho ta về việc mọi người, bất luận tốt xấu,
đều được mời gọi tham dự bàn tiệc Nước Trời (Mt 22, 9-10).
Trong Hội Thánh, cũng có sự pha trộn giữa người tốt, kẻ xấu,
như được ám chỉ trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng.
Ở các tỉnh ven hồ Galilê, ta dễ thấy cảnh tượng các ngư phủ ngồi trên bờ,
gom cá đánh được trong ngày, giữ lại cá tốt, quăng đi cá xấu.
Chỉ khi lưới đầy, họ mới làm công việc lựa cá như vậy (c. 48).
Tương tự như trên, chỉ khi đến ngày tận thế, các thiên thần mới xuất hiện
để tách biệt kẻ xấu ra khỏi người công chính (c. 49).
Như thế tình trạng hiện nay của Hội Thánh vẫn là chưa hoàn hảo.
Không phải mọi Kitô hữu đều đã sống tinh thần Bài Giảng trên núi.
Có những Kitô hữu không sinh trái, vì hạt giống nhận được đã bị thui chột,
bởi thử thách gian nan hay mối lo toan vật chất (Mt 13, 18-22).
Có những Kitô hữu tuy vẫn kêu Đức Giêsu là Lạy Chúa! (Mt 7, 21-23),
vẫn nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ quỷ hay làm phép lạ,
nhưng lại không thi hành ý muốn của Cha trên trời và làm điều gian ác.
Có những Kitô hữu dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới (Mt 22, 11-13).
Có những Kitô hữu là muối nhạt, đã trở thành vô dụng (Mt 5, 13).
Như thế gia nhập Hội Thánh không phải là một bảo đảm để được cứu độ.
Còn cần sống hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5, 48).
Thời nay chúng ta không thích nghĩ đến những chuyện bị coi là xa xôi,
như chuyện tận thế, chuyện Thiên Chúa phán xét và luận phạt.
Chúng ta thích sống yên ổn với một Thiên Chúa nhân hậu vô cùng,
đến độ có vẻ như hỏa ngục chỉ là chuyện viển vông để dọa con nít.
Nhưng dù sao cũng không tránh được ngày cỏ lùng bị tách khỏi lúa,
cá xấu bị tách khỏi cá tốt, kẻ bất lương bị tách khỏi người lành.
Cuối cùng Nước Trời sẽ không còn chút bóng dáng của sự dữ,
và Thiên Chúa sẽ là mọi sự cho mọi người (1 Cr 15, 28).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
 
------------------------------

 

Suy Niệm 2: Tấm lưới nước trời


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lưới trời lồng lộng. Thưa mà không lọt. Ngày tận thế, các thiên thần sẽ kéo một mẻ lưới cuối cùng trên biển trần gian. Rồi sẽ chọn cá tốt tức là người lành để được cho vào Nước Trời hưởng hạnh phúc, chọn cá xấu tức người dữ để ném vào Hỏa ngục chịu hình phạt muôn đời.

Muốn chắc chắn được tuyển chọn, ta phải kéo lưới hằng ngày trong mảnh ao tâm hồn ta. Vì trong mảnh ao tâm hồn bé nhỏ cũng có cá tốt lẫn cá xấu và cả rác rưởi nữa. Lưới của ta là Lời Chúa soi dẫn cho ta biết đường ngay nẻo chính. Là tiếng lương tâm giúp ta phân biệt phải trái, đúng sai trong những việc ta làm hằng ngày. Là lời giáo huấn của Bề trên hướng dẫn ta cách cụ thể trong môi trường ta sống. Là quyết tâm chọn Chúa, chọn lề luật Chúa, chọn đường nên thánh. Là ý chí diệt trừ điều xấu ngay khi phát hiện. Là ước muốn nên thánh, nên trọn lành, nên người con hiếu thảo của Cha trên trời. Nếu ta kéo lưới tâm hồn hằng ngày, dứt khoát loại bỏ những con cá xấu, những rác rưởi khỏi tâm hồn, thì đến ngày tận thế, khi các thiên thần kéo mẻ lưới cuối cùng, ta đã được thanh luyện trở nên cá tốt rồi.

Để trở nên cá tốt, ta phải noi gương Mô-sê. Mô-sê không làm gì theo ý riêng. Nhất nhất đều theo ý Chúa, từng chi tiết trong việc xây dựng lều Hội Ngộ. Từng chi tiết trong việc trang hoàng Hòm Bia. Từng chi tiết trong các nghi lễ tế tự dành cho Chúa. Càng nghe lời Chúa, ông càng đi trên đường trọn lành và lại càng được Chúa tiếp tục hướng dẫn. Không những hướng dẫn cho cá nhân ông, Chúa còn hướng dẫn cho cả dân Israel, dẫn đường chỉ lối cho họ đi vào Đất Hứa, tránh xa mọi nơi nguy hiểm, thù nghịch (năm lẻ).


Để trở nên cá tốt ta phải noi gương Giê-rê-mi-a, để Chúa nhào nặn đời mình như người thợ gốm nhào nặn đất sét thành chiếc bình quí giá. Hoàn toàn vâng phục. Hoàn toàn để Chúa thực hiện chương trình của Chúa trong đời ta. Mọi sự sẽ tốt đẹp. Và khi ta lầm lỗi, Chúa có thể đập nát chiếc bình dang dở, để làm lại từ đầu. Đó là việc sửa phạt sẽ khiến ta đau đớn. Nhưng chính nhờ thế, Chúa vứt bỏ cá xấu, gạt bỏ rác rưởi khỏi tâm hồn ta, biến ta thành loài cá tốt, thành chiếc bình hoàn hảo không còn tì vết.

------------------------------

 

Suy Niệm 3: Thái Ðộ Bao Dung


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có một Bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục cao niên và tuyên bố: "Thưa Ðức Cha, con đến để thông báo cho Ðức Cha biết con đang nghĩ đến chuyện ra khỏi Giáo Hội, Ðức Cha nghĩ sao?".
Vị Giám mục yêu cầu ông cho biết một vài lý do khiến ông có ý định đó. Viên Bác sĩ nhìn thẳng vào mắt vị Giám mục và nói: "Thưa Ðức Cha, Ðức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này 2,000 năm nay, thế mà con người có khá hơn không?".
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: "Bác sĩ nói thật chí lý, nhưng Bác sĩ hãy thử nghĩ lại: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay, vậy mà ngày nào Bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay".
Nghe thế, viên Bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy có thái độ kiên nhẫn bao dung hơn đối với Giáo Hội của Ngài. Qua hình ảnh chiếc lưới thả xuống biển, kéo lên với đủ loại cá, trong đó người ta giữ lại những con cá tốt và ném đi những con cá xấu, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người chỉ được thực hiện trọn vẹn vào ngày cánh chung mà thôi, trong khi chờ đợi, thì người môn đệ của Ngài cần có thái độ kiên nhẫn, bao dung.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô. Tự bản chất, Giáo Hội là thánh thiện, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, nhưng Giáo Hội thánh thiện ấy lại gồm những con người tội lỗi. Ý thức cơ bản và quan trọng nhất của người Kitô hữu chính là luôn nhận biết mình là tội nhân, để từ đó kêu cầu lòng thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em. Thiếu ý thức ấy, người Kitô hữu sẽ rơi vào thái độ kiêu căng giả hình của những người Biệt phái bị Chúa Giêsu lên án gắt gao. Ðồng hành với nhân loại, mang đến cho nhân loại Tin Mừng cứu rỗi, cũng như Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, Giáo Hội chỉ có thể thực thi sứ mệnh của mình với thái độ kiên nhẫn, cảm thông, yêu thương, tha thứ mà thôi. Không ngôn ngữ nào hùng hồn hơn, không sứ điệp nào có tính thuyết phục hơn lòng nhân từ, sự khoan dung và tha thứ. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là tuyệt đỉnh của hành động cứu rỗi của Ngài và lôi kéo mọi người lên với Ngài.
Luôn ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, không ngừng cảm thông với những thiếu sót bất toàn trong Giáo Hội, cố gắng thực thi lòng nhân từ bao dung với mọi người, đó là thách đố đang đặt ra cho người Kitô hữu chúng ta hơn bao giờ hết. Xin Chúa khơi dậy trong tâm hồn chúng ta lòng yêu mến Giáo Hội được thể hiện bằng những cử chỉ cảm thông bao dung, kiên nhẫn mỗi ngày.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Tự do


“Nước Trời còn giống như chuyện một chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các Thiên Thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính. Và quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 13, 47-50)

“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Đó là loại câu hỏi chỉ có thể gây bối rối. Khi ta hiểu biết rồi, mà sau đó lại không hành động theo, thì người ta có quyền chất vấn ta. Nếu hiểu biết sao anh lại làm ngược lại điều anh biết? Anh không chữa mình được. Nếu không hiểu biết sao anh không nói ra điều đó? Vì thế hiểu biết là điều quan trọng, chính sự hiểu biết biện minh họăc kết án cho thái độ, hành vi của ta.

Tôi chọn lựa.

Giống như trong các dụ ngôn khác, ta phải lưu ý điều này là ttc không xét xử cũng chẳng kết án: Người nhìn thấy mọi sự, Người biết hết tất cả rồi, và theo thiển ý tôi, “đương nhiên” có sự tách biệt hạt giống tốt với cỏ lùng, thì phải chăng chính sự thể rõ ràng như vậy rồi trước khi ông chủ có ý kiến? Trong mớ cá đủ loại có cá tốt cá xấu. Nhưng không phải Thiên Chúa xét xử và phân loại; cỏ lùng và cây lúa chúng đã khác nhau và phân biệt nhau rồi. Cũng vậy đến ngày tận thế, kẻ xấu sẽ bị tách ra khỏi hàng ngũ những người công chính, thì cũng không phải là do Chúa lên án, là bởi vì chính hành động của con người đã biết sống tự do hay nô lệ cho một chúa tể nào đó mà họ sùng bái.

Chúa hỏi chúng ta: “Anh em có hiểu không?” Hiểu cho rõ để rồi lựa chọn và lựa sự thiện bằng tất cả lòng thành tâm, thiện chí và trung thành. Đó chính là ý nghĩa thực của đời ta!

Tôi hiểu biết.

Chúa kết thúc dụ ngộn với lời: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” Cái cũ đó là chủ đề về vương quyền của Thiên Chúa, chủ đề lớn thống lĩng toàn bộ lịch sử của dân Ít-ra-en. Chúa Giêsu đã đến cùng với Tin Mừng của Người làm cho vương quyền của Thiên Chúa nên trọn, đó là cái mới.

Như vậy truyền thống vẫn luôn luôn được sống động, như thường phải được giải thích theo sự am hiểu sâu xa hơn để có thể đạt cái mới đích thực và việc thực hiện luôn được hoàn hảo hơn.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chúa yêu hết mọi người


“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8), vì thế, Ngài luôn yêu thương hết mọi người không phân biệt tốt xấu, giàu nghèo hay chức vị cao thấp.

Bản chất đó hôm nay được Đức Giêsu mặc khải qua dụ ngôn “chiếc lưới”.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: chiếc lưới như là Nước Trời. Chụp xuống biển là hành động Lời Chúa được trao ban. Bắt được đủ mọi thứ cá chính là mọi người đều được Lời Chúa dạy dỗ. Cá tốt, là những người nghe và thực hành Lời Chúa. Cá xấu là những người không nghe, hay có nghe nhưng Lời Chúa không biến đổi được họ vì sự ích kỷ và kiêu ngạo. Tuy nhiên, cá tốt và cá xấu đều tồn tại! Chỉ khi chiếc lưới chụp xuống và được kéo lên, lúc ấy chúng mới bị phân biệt. Cá tốt thì cho vào giỏ. Cá xấu thì quăng ra ngoài.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy là cá tốt trong chiếc lưới của Ngài. Đồng thời cũng dạy ta bài học về sự kiên nhẫn và sẵn sàng yêu thương hết mọi người. Biết mở lòng để đón nhận sự bất toàn của anh chị em mình, hầu chờ cơ hội để Chúa và cả chúng ta cải hóa anh chị em.

Cuối cùng chúng ta cần xác định quyền xét xử là của Chúa và do Chúa. Bổn phận của chúng ta là tin tưởng, cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng, phó thác nơi Chúa, cậy dựa vào ơn Chúa để can đảm biến đổi. Xin cho chúng con được trở thành cá tốt trong ngày sau hết để được Chúa cho vào giỏ của Chúa là Nước Trời. Amen.

Ngọc Biển SSP

 --------------------------------

 

Suy Niệm 6: Hội Thánh vẫn còn người tội lỗi


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hội Thánh là thánh nhưng vẫn bao gồm những con người tội lỗi. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền xét xử thanh lọc. Và phải đợi đến tận thế mới là lúc thanh lọc chung cuộc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã quy tụ chúng con vào Hội Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã thiết lập một Giáo Hội thánh thiện, và Giáo Hội phải thánh để làm cho mọi người nên thánh. Nhưng trong thực tế con thấy Giáo Hội vẫn phải cưu mang trong lòng mình những con người tội lỗi, trong đó có con. Đôi khi chính trong lòng Giáo Hội vẫn còn nhiều tội lỗi, nhiều tiêu cực, nhiều cách sống thế tục. Điều đó đã trở nên một gương mù và làm cho nhiều người thắc mắc, công kích: tại sao Giáo Hội lại còn nhiều tội lỗi thế?

Lạy Chúa, Chúa cho con hiểu rằng bao lâu còn ở trần gian, Giáo Hội cũng như chiếc lưới bắt cả cá tốt lẫn cá xấu. Đến ngày chung thẩm chiếc lưới mới được kéo lên, và lúc đó chính Chúa sẽ tách biệt cá tốt khỏi cá xấu.

Con cảm tạ Chúa luôn nhân từ kiên nhẫn chờ đợi con. Xin cho con biết tận dụng những ngày con đang sống ở trần gian để nhờ ơn Chúa, con tự thanh luyện mình trở nên thánh thiện như bản chất của Giáo Hội.

Đứng trước những thực tế trong Giáo Hội, xin giúp con đừng nản lòng, và càng không bao giờ phê bình chỉ trích, trái lại, xin cho con càng yêu mến và cầu nguyện cho Giáo Hội nhiều hơn, đồng thời cho con biết tích cực cộng tác để làm cho bộ mặt Giáo Hội ngày càng xinh đẹp trong sáng hơn. Amen.

Ghi nhớ: “Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài”.

--------------------------------

 

Suy Niệm 7: Đời sống đức tin gương mẫu


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Các bổn đạo đầu tiên trong Giáo hội sơ khai thiếu tất cả mọi yếu tố để thành công: thông thái, giàu sang, chức quyền, lợi khẩu… Họ chỉ có một điều: Sống đời sống đức tin rất gương mẫu. Nhờ đó, họ đã đem được rất nhiều người ngoại giáo trở lại đạo Chúa.

Gương tốt đánh tan bóng tối, đem lại ánh sáng linh động và vạch rõ con đường ngay chính.

Gương tốt làm cho người ta tuân giữ luật Chúa và xa lánh tội lỗi.

Tertulianô viết về các bổn đạo đầu tiên này: “Chỉ có sự hiện diện của mình, các bổn đạo đầu tiên cũng đủ làm cho tính xấu phải hổ thẹn”.

Suy niệm

Cũng giống như dụ ngôn lúa và cỏ lùng, dụ ngôn chiếc lưới cá đề cập cuộc phán xét của Thiên Chúa trong ngày tận thế. Dụ ngôn nhấn mạnh việc ngư phủ tách cá tốt và cá xấu ra khỏi nhau khi lưới được kéo lên: Cá tốt cho vào giỏ tượng trưng cho người công chính được Chúa cho hưởng vinh quang Thiên quốc, cá xấu bị ném ra ngoài tượng trưng cho kẻ xấu bị trừng phạt nơi hỏa ngục.

Hình ảnh của chiếc lưới đầy cá mà Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn, cho thấy nước Trời bao gồm đủ mọi hạng người đi tìm nước Trời và chỉ có những người tìm kiếm được mới được Thiên Chúa đón rước vào nước Ngài. Người được chọn là người biết kiên tâm đời mình muốn gì và tìm kiếm như tìm kiếm nước Trời. Bổn phận của người tìm kiếm Nước Trời được dùng bằng hình ảnh mà Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13,52).

Thiên Chúa quăng lưới tình yêu nước Trời xuống biển trần gian bắt được mọi thứ cá, Ngài chỉ lượm cá tốt là những người công chính, nghĩa là Thiên Chúa chỉ đón nhận những ai muốn được Thiên Chúa biến đổi và làm cho ra tốt. Còn những ai chối bỏ Ngài chính là cá xấu bị loại ra khỏi vòng yêu thương của Thiên Chúa sẽ ở ngoài vòng dây yêu thương và bất hạnh muôn đời.

Ý lực sống:

“Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Dụ ngôn về chiếc lưới


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Dụ ngôn chiếc lưới này gần giống như dụ ngôn cỏ lùng. Cả hai dụ ngôn đều nói tới vần để kẻ tốt và kẻ xấu sống chung với nhau, và sự phân biệt rõ ràng dứt khoát, mỗi kẻ một nơi, chỉ xảy ra vào ngày tận thế, ngày phán xét cuối cùng.

Như chiếc lưới quăng xuống biển bắt được mọi thứ cá, Thiên Chúa cũng căng lưới tình yêu ra và chụp vào mọi người, không ai bị loại ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Thế nhưng, Chúa chỉ lựa cá tốt. Thiên Chúa chỉ đón nhận những ai muốn được Ngài biến đổi và làm cho tốt, còn những ai chối bỏ, thì sẽ bị loại ra khỏi vòng tay yêu thương và sẽ chịu hình phạt muôn đời.

Dụ ngôn lưới cá thời Chúa Giêsu không giống cách đánh cá công nghiệp thời nay. Cách đánh cá này giống như cách đánh cá của người dân quê miền bể chúng ta. Đây là thứ lưới vét (lưới giùng) dài và rộng. Dân chài chia thành hai nhóm kéo hai đầu lưới, bao vây cả một vùng biển mà dân chài tưởng là có đàn cá, từ từ vòng vào bờ, kéo lưới lên bãi, xum nhau lại nhặt cá.

Theo giải thích của nhiều giáo phụ thì biển là thế gian, cá là nhân loại, dân chài là các tông đồ, lưới là Hội thánh và là việc rao giảng Tin mừng, nhặt cá tốt và cá xấu là phân biệt kẻ lành kẻ dữ trong ngày phán xét.

Theo cánh đánh cá ở trên, các ngư phủ sau khi kéo lưới vào bờ, họ thường ngồi lựa cá tốt và cá xấu. Cá tốt thì thu gom lại còn cá xấu thì loại bỏ đi. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh lưới cá này để chỉ Nước Chúa, tức là Hội thánh của Chúa, có nhiều thành phần khác nhau, tốt xấu khác nhau. Ai cũng có thể ở trong Giáo hội, không phân biệt, không kỳ thị chủng tộc, màu da, tiếng nói, văn minh, giàu nghèo. Tuy nhiên sẽ có ngày Chúa phân xử là lựa chọn kỹ càng, lúc ấy Thiên Chúa sẽ quyết định ai là người tốt, ai là người xấu, ai là con cái thật của Chúa, ai là thứ giả hình giả mạo. Chúa Giêsu còn nói rõ: các thiên thần sẽ tách biệt kẻ xấu và người công chính. Kẻ xấu sẽ bị ném vào lò lửa không hề tắt, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng, còn người công chính sẽ chói sáng như mặt trời.

Dụ ngôn cái lưới có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền xét xử. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như để cho các tốt cá xấu sống chung trong biển cả, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt cá tốt ra khỏi cá xấu, người lành khỏi kẻ dữ.

Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.

Một lần nữa chúng ta được nghe Chúa Giêsu mạc khải về ngày tận thế qua dụ ngôn chiếc lưới đầy cá và sự lựa chọn của ngư dân. Trong ngày sau hết cũng vậy, Thiên Chúa sẽ tách biệt người công chính ra khỏi kẻ gian ác. Kẻ gian ác thì chịu án phạt, còn người công chính được ân thưởng trong Nước trời.

Vì thế, Hội thánh ở trần gian giống như chiếc lưới, mời gọi mọi người không trừ ai. Thế nhưng, trong Hội thánh, mọi tín hữu đều hướng tới mục tiêu là nên thánh, nên công chính để được Chúa tuyển chọn vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong ngày sau hết. Trở nên người công chính, đó là ước mong của mọi người chúng ta khi làm môn đệ Chúa Kitô. Và chính điều mong ước này là động lực thúc đẩy chúng ta sống công chính theo gương Ngài để được chọn vào trong Nhà Chúa. Lời Chúa mời gọi “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Nhờ bí tích Rửa tội chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, chúng ta nên sống công chính thánh thiện để mỗi ngày một nên giống Chúa hơn (5 phút Lời Chúa).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Thanh lọc người tốt và kẻ xấu trong Nước Trời


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Dụ ngôn này nói về sự thanh lọc người tốt và kẻ xấu để cho vào hoặc loại khỏi Nước Trời.

Trong dụ ngôn, có 3 sự so sánh:

a) Thế gian (như biển cả) là nơi người tốt và kẻ xấu lẫn lộn nhau
b) Người xấu và kẻ tốt (như cá tốt và cá xấu – nghĩa là cá ăn được và cá không ăn được)
c) Sự thanh lọc (như lựa cá).

Điều đáng lưu ý là chính Thiên Chúa ấn định thời điểm thanh lọc vì chính Thiên Chúa ấn định lúc nào kéo lưới lên. Một chi tiết nữa đáng lưu ý là đến lúc thanh lọc thì chỉ còn hai hạng người dứt khoát: hoặc là người tốt, hoặc là người xấu, không có hạng lừng khừng đứng giữa.

B.... nẩy mầm.

1. “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá”: Thay vì bực tức và khó chịu vì có những người xấu ở trong Giáo Hội và trong cộng đoàn của mình, sao tôi không nghĩ đến tình thương của Chúa khi Ngài khoan dung cho những người xấu ấy vào Giáo Hội và cộng đoàn để có cơ hội hoán cải họ?

2. Trong chiếc lưới có cả cá tốt và cá xấu. Trong Giáo Hội có người tốt lẫn người xấu. Chúa khoan dung để như thế vì Ngài muốn cho kẻ xấu có thời giờ hoán cải thành người tốt.

Gợi ý cầu nguyện: cầu cho Giáo Hội, cầu cho cộng đoàn mình. Xin ơn biết khoan dung và kiên nhẫn như Chúa…

3. Thân phận của Giáo Hội dưới thế cũng giống như thân phận của mỗi con người: có tốt và xấu lẫn lộn. Đừng lên án Giáo Hội, đùng lên án ai cả. Cũng đừng bực tức bất mãn với Giáo Hội hay với bản thân mình. Thái độ phải có là khiêm tốn nhìn nhận thực tế và kiên trì sửa đổi để ngày một nên tốt hơn.

4. Một bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục và tuyên bố: “Con đến cho Đức Cha hay con đang muốn ra khỏi Giáo Hội. Đức Cha nghĩ sao?” Vị Giám mục xin ông cho biết lý do. Ông nói: “Đức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này gần 2000 năm rồi, thế mà con người có khá hơn không?”. Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: “Bác sĩ nói chí lý. Nhưng bác sĩ cũng hãy nghĩ coi: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay. Vậy mà sao ngày nào bác sĩ cũng như tôi cũng đều phải rửa tay?”. Nghe thế, vị bác sĩ thinh lặng ra về, không còn nghĩ tới chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa. ("Mỗi ngày một tin vui").

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Thanh lọc người tốt kẻ xấu để vào Nước Trời


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Dụ ngôn này nói về sự thanh lọc người tốt kẻ xấu để cho vào hay loại bỏ khỏi Nước Trời.

Điều đáng chú ý là chính Thiên Chúa ấn định thời điểm thanh lọc. Chính Ngài ấn định lúc nào lưới được kéo lên. Lúc Ngài thanh lọc thì dứt khoát chỉ còn lại hai hạng người: hoặc là người tốt, hoặc là người xấu, không có hạng người lưng chừng đứng giữa.

Trong khi chờ đợi ngày Chúa hoàn thành việc thanh lọc, chúng ta hãy bắt chước Chúa: nhân từ, khoan nhân dung thứ và kiên nhẫn. Ngài đã kiên tâm chờ đợi hơn 40 năm mới có được Giám Mục Augustino thánh thiện. Có những người mà Thiên Chúa phải chờ đợi cả đời để đến giờ phút cuối cùng, họ mới trở về với Chúa. Chắc anh chị em không ai mà không biết câu chuyện của người trộm lành. Anh đã trở về vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời mà không ai ngờ tới.

Một thanh niên mới học nghề thợ mộc, vừa cưa gỗ, vừa bào ván, cậu vừa thắc mắc tự hỏi: Làm sao Thiên Chúa là Đấng thánh vô cùng lại có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại được? Làm sao Ngài không khỏi đau lòng trước những tội lỗi của con người?

Không tìm được câu trả lời, cậu đến giãi bày với một vị tôn sư. Vị này âu yếm nhìn chàng thanh niên ngay thẳng, ngoan đạo, và nói:

- Con thuộc dòng dõi thứ ba của một gia tộc chuyên nghề đóng bàn ghế. Thầy hỏi thật con nhé: nếu như một cái bàn do chính ông nội con đóng bằng gỗ quí, con có đem quăng nó đi không?

Chàng thanh niên đáp:

- Dĩ nhiên là không, bởi vì đôi chút vệt trầy không thể nào hủy bỏ giá trị của một bảo vật được.

Vị tôn sư lại hỏi:

- Nếu vì chưa thạo nghề, con trật tay làm trầy đôi chút trên mặt gỗ lim, con có đập phá cái bàn mà con đã khó công làm nên không?

Chàng thanh niên không chút ngần ngại trả lời:

-Thưa thầy, không, bởi vì những đường trầy, những vết cọ sát không làm thuyên giảm bản chất của gỗ qúi và của cái bàn đẹp.

Vị tôn sư mỉm cười và nói:

- Tốt lắm! Con suy nghĩ giống như một người thợ mộc lão luyện và có lương tâm, biết nhận định giá trị của công việc và của bảo vật. Con đã được ban tặng tinh thần của Đấng sáng tạo trời đất muôn vật và luôn tiếp tục bảo vệ sự sống của mọi thụ tạo, cả đến những vi khuẩn bé tí ti mà mắt con không thể trông thấy. Nếu con chỉ là một chú thợ mộc mà còn quí trọng sản vật vô lương tri, vô cảm giác chính tay con làm nên, thì thử hỏi làm sao Thiên Chúa lại không quí trọng con người là tạo vật quan trọng nhất trong các loài thụ tạo của Chúa. Bởi vậy, cho dù con người có bị tội lỗi làm hoen úa, khác nào những vết trầy trên mặt bàn gỗ quí, làm sao Ngài nỡ lòng quên đi giá trị thiêng liêng của con người để tiêu diệt nó chỉ vì những nhơ bẩn tội lỗi của nó được.

Thiên Chúa yêu thương con người cho nên không bao giờ Ngài làm thế.

2. Trong chiếc lưới có cả cá tốt và cá xấu. Trong Giáo Hội có người tốt lẫn người xấu. Chúa khoan dung với lòng mong mỏi cho những kẻ không tốt có thời giờ để hoán cải thành người tốt.

Đừng lên án Giáo Hội, đừng lên án ai cả. Cũng đừng bực tức bất mãn với Giáo Hội hay với bản thân mình. Thái độ phải có là khiêm tốn nhìn nhận thực tế và kiên trì sửa đổi để ngày một nên tốt hơn.

Một bác sỹ nọ tìm đến với một vị Giám Mục và tuyên bố:

- Con đến cho Đức Cha hay con muốn ra khỏi Giáo Hội. Đức Cha nghĩ sao?

Vị Giám Mục xin ông cho biết lý do.

Ông nói: “Đức Cha nghĩ coi: Giáo Hội có mặt trên trần gian này hơn 2000 năm rồi, thế mà con người có khá hơn không?”.

Vị Giám Mục bình tĩnh trả lời: “Bác sỹ nói chí lý. Nhưng bác sỹ cũng hãy nghĩ coi: nước đã xuất hiện trên mặt đất này bao nhiêu triệu năm rồi. Vậy mà sao ngày nào bác sỹ cũng như tôi cứ phải rửa tay?”

Nghe thế, vị bác sỹ thinh lặng ra về, không còn nghĩ tới chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa. (Mỗi ngày một tin vui).

Để chấm dứt mấy phút suy niệm hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em lời của mẹ Têrêsa Calcutta nói với các chị em nữ tu trong Gia đình Bác ái của mẹ:

“Hãy chiếu giãi và sống một cuộc sống của Chúa Kitô.

Hãy là một thiên thần an ủi đối với người bạn đau yếu.

Hãy là bạn hữu đối với các trẻ nhỏ.

Hãy yêu mến người khác như Chúa đã yêu thương mọi người chúng ta bằng một tình yêu bao la và đặc biệt.

Hãy sống nhân từ với nhau, nói tử tế với người khác.

Thà mắc một chút sơ suất đang khi hành động tế nhị còn hơn là làm một phép lạ trong lúc cư xử bất nhã.”

Hãy noi gương cuộc đời Chúa Giêsu để biết sống kiên trì, nhẫn nại và nhiệt thành để tâm hồn luôn được thanh thản và bình an.

-------------------------------

 

Suy Niệm 11: Người ta chọn lựa cá tốt mà thôi


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúng ta được Chúa ví như những người thầy thông giáo am hiểu về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia hay lợi dụng những cái cũ, cái mới trong kho mình (Mt 13, 52). Nghĩa là, Chúa ban cho chúng ta được tự do để làm chủ bản thân của chúng ta, đó là làm chủ thời gian, làm chủ sức khỏe, làm chủ các mối quan hệ, giao tiếp….chúng ta phải tận dụng tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta để chúng ta suy nghĩ, để chúng ta phận định, để chúng ta chọn lựa và sau đó chúng ta phải loại bỏ hết tất cả những gì không phù hợp với thánh ý Chúa, chúng ta chỉ làm những gì Chúa muốn mà thôi.

Khi chúng ta làm theo ý Chúa, chúng ta giống như cá tốt được người ta cho vào giỏ, tức là người lành thánh, chúng ta được sẽ Chúa cho vào Nước Trời. Còn nếu chúng ta không làm theo ý Chúa, mà làm theo ý riêng của bản thân mình, nuông chiều xác thịt, buông thả tự do quá đáng…chúng ta sẽ là những con cá xấu, là kẻ dữ và bị ném vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

Tất cả chúng ta đang sống dưới bầu trời này. Bầu trời đây được người trần gian xem như là một chiếc lưới “ Lưới trời lồng lộng “. Chúng ta không thể tự mình vẫy vùng, giãy giụa chui ra khỏi chiếc lưới trời này đâu: “Đi mãi dâu cho thoát khỏi trần trí Ngài, lẫn nơi nao cho khuất được Thánh Nhan. Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài” (Tv 139, 7 – 8). Vậy là số phận của tất cả chúng ta ở trong tay Chúa. Chúa yêu thương tính toán mọi thứ cho chúng ta rồi, chúng ta không phải lo, còn lại bây giờ là của mỗi người chúng ta. Chúng ta muốn được Chúa cho vào Nước Trời hay bị Chúa ném ra ngoài, quăng vào hồ lửa là tùy vào sự tự do lựa chọn của mỗi chúng ta. Mỗi người chúng ta chỉ có một ít thời gian sống ở đời này thôi. Chúng ta đừng để thời gian qua đi trong sự vô bổ, tiêu tan, nuối tiếc mà chúng ta phải tận dụng nó một cách tối đa, hiệu quả nhất trong việc thực hiện những điều Chúa truyền dạy, kẻo Chúa rời đi nơi khác. Một khi Chúa rời đi nơi khác, chúng ta sẽ không có Chúa ở với chúng ta, chúng ta sẽ bị đau khổ, sẽ bị mất mát, sẽ hối hận mãi mãi: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?” Họ thưa: “Có”. Người liền bảo họ: “Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình”. Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy” (Mt 13, 47 – 53).

Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng lẽ ra Chúa sẽ loại bỏ chúng con ra khỏi tình yêu của Chúa, nhưng Chúa lại không làm điều đó, Chúa vẫn giữ lòng thành tín với chúng con muôn đời và sẵn sàng ban ơn khi chúng con khẩn nài kêu xin. Do đó, chúng con xin Chúa cho chúng con biết luôn biết làm theo thánh ý Chúa để những niềm hy vọng, những mơ ước, những dự định của chúng con được trở thành hiện thực, được Chúa chúc phúc, được Chúa cho vào Nước Chúa sau này. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 6:

Tin nhận hay không tin nhận.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 17 thường niên.
"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"

 

Lời Chúa: Mt 13, 54-58


Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Đức Giêsu về quê


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Yêu thương và khước từ


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa quá yêu thương con người. Tình yêu biểu lộ qua dân Ít-ra-en. Yêu thương nên đến giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Để giải thoát họ Chúa phải trừng phạt người Ai-cập. Yêu thương nên ban cho họ miền Đất Hứa. Xua đuổi các dân khác để họ có nơi cư ngụ. Yêu thương nên thiết lập họ thành dân riêng của Chúa. Yêu thương nên ban lề luật. Dạy họ từng li từng tí trong tổ chức đời sống, trong cử hành phụng vụ. Từ lễ Vượt Qua đến lễ Bánh Không Men. Từ lễ Xá Tội đến Lễ Lều. “Đó là các đại lễ của Đức Chúa, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta”. Quả thật, chẳng có dân tộc nào được Chúa yêu thương như vậy (năm lẻ).

Nhưng dân vốn hay quên. Nên hay phản bội. Quen quá hóa nhàm. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Đứng núi này trông núi nọ. Chúa yêu thương gần gũi nên họ coi thường. Họ chạy theo thần tượng của chư dân. Họ phản bội Chúa. Nhưng Chúa vẫn yêu thương, cử tiên tri Giê-rê-mi-a đến cảnh tỉnh họ. Mong họ hối lỗi để được tha thứ. Tránh được tai họa: “Ngươi hãy công bố mọi lời của Ta đừng bớt lời nào. May ra chúng sẽ nghe và mỗi người sẽ bỏ con đường xấu xa của mình mà trở lại, bấy giờ Ta sẽ hối tiếc về tai họa chính ta đang định giáng trên chúng”. Không những họ không nghe mà còn muốn bắt Giê-rê-mi-a giết đi (năm chẵn).

Chúa vẫn tiếp tục yêu thương. Đến thời sau hết, sai Con Một đến để trực tiếp ngỏ lời với dân Chúa.Con Chúa sinh xuống làm người. Sống giữa dân Chúa. Để yêu thương. Để dạy dỗ. Để hoán cải. Mong họ nên tốt hơn. Nhưng càng gần gũi họ càng coi thường. Hôm nay Chúa về làng quê thăm viếng và mặc khải cho họ biết tình yêu thương và ơn cứu độ của Chúa. Họ rất thán phục lời lẽ khôn ngoan. Nhưng lại không tin. Vì họ cho rằng họ biết rõ gốc gác nghèo hèn của Chúa: “Ông không phải là con bác thợ sao?...Và họ vấp ngã vì Người”. Họ còn muốn giết Người nữa.

Ai có thể đáp lại tình yêu thương của Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong thời đại ngày càng lìa xa Chúa này?

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Tâm Thức Thời Ðại


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.

Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.

Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?

Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Nghĩa Vụ Ngôn Sứ


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu về sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô đều tham dự vào. Sau một thời gian rao giảng làm phép lạ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi trở về làng cũ, những người quen biết với Ngài lại chỉ dành cho Ngài một sự tiếp đón lạnh nhạt. Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng là ở chính quê hương mình và gia đình mình. Ðây là lần đầu tiên áp dụng cho mình tước hiệu ngôn sứ; vị ngôn sứ mà Ngài tự đồng hóa là một ngôn sứ bị ngược đãi.

Ý niệm về ngược đãi và ngay cả bị bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước. Ðược Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các ngôn sứ trong Cựu Ước không chỉ nói bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của mình. Ðộc đáo nhất hẳn phải là cung cách của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị ngôn sứ này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.

Riêng tiên tri Hôsê thì lại triệt để hơn trong sứ mệnh của mình khi ông đi cưới một cô gái điếm về làm vợ. Với hành động này ông cũng muốn nói với dân Do Thái rằng họ đã bất trung với Thiên Chúa. Không thể chọn lựa thái độ thinh lặng, thỏa hiệp hay sợ hãi, ông đã lên tiếng tố cáo bất công, tội ác hay bạo quyền và hành động của ông đã gây nên phẫn nộ trong dân.

Chính vì thế và cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước; cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, và nhất là cũng như chính Chúa Giêsu, tất cả những ai dám lên tiếng nói lên sự thật cũng đều được liên kết chung với nhau trong cùng một số phận là bị khinh rẻ, ngược đãi, oán ghét, sỉ vả và khai trừ.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Vẫn chỉ có từ chối.


Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Simon và Giu-đa sao?” (Mt. 13, 54-55)

Người ta không còn cảm thấy giật mình khi nghe tư tưởng này: “Giả như hôm nay Chúa Giêsu trở lại với chúng ta…”

Tôi nghĩ rằng, nếu hôm nay Chúa Giêsu trở lại, thì Người cũng sẽ chẳng có được may mắn hơn với những người đồng hương của Người đâu.

Chẳng có được may mắn đâu.

Giả như hôm nay Người trở lại làm người Do-thái? Liệu Người có được những đồng bào của mình ở Giê-ru-sa-lem hay ở Tel-Aviv lắng nghe không? Liệu Người có được các thành viên Liên Hiệp Quốc hay các nghị viện trong các thượng hạ viện của chúng ta lắng nghe không?

Liệu Người có phải dành một chỗ ở sân thế vận hội để công bố sứ điệp của Người không. Còn chúng ta, những người có đức tin, những người tin vào Chúa Giêsu liệu chúng ta có chấp nhận để cho Người thôi thúc ta, chấp nhận sống triệt để sứ điệp của Người chăng?

Chúa có cần đến một bộ máy tuyên truyền để thu hút quần chúng? Có lẽ Người phải làm những phép lạ hoàn toàn “giật gân” như có người nói. Rồi sau màn “trình diễn” và những phép lạ, người ta có nghe Chúa không?

Bởi vì có lẽ Chúa sẽ nói cho ta hay, dù rằng chúng ta chọn sống chế độ nào: tư bản, dân chủ, độc tài, quân phiệt, thì Người cũng sẽ nói: “Lệnh truyền của tôi là anh em hãy yêu thương nhau” Dù anh em là người Phật Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Công Giáo “Anh em hãy yêu thương nhau”

Dù anh em là công nhân của một nghiệp đoàn nào đó, hay dù là ông chủ của xí nghiệp “Anh em hãy yêu thương nhau.” Rồi có lẽ Người sẽ nhắc nhở ta nhớ đến Mười Điều Răn y như Người đã dạy ta vậy.

Giả như Người trở lại.

Người có trở lại không? có lẽ người ta sẽ gọi vấn đề này là một Xì-căng-đan! Ngay trong chúng ta, có nhiều người không tin điều này, họ muốn chúng ta sống trung thực.

Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Người đã gửi Thần Khí Người đến với ta để nhắc nhở ta tình yêu Cha Người dành cho ta! Như vậy mà còn không đủ thúc đẩy ta sống yêu thương, thì giả như Chúa Kitô có trở lại, Người cũng chẳng hoán cải nổi chúng ta đâu.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Loan báo trng mọi hoàn cảnh


Xem lại lễ Thánh Giuse Thợ ngày 1/5

“Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Đức Giêsu và có tính tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Đức Giêsu qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm.

Hôm nay, chính Đức Giêsu cũng đã trải qua sự thật đó khi về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Khi biết rõ về thân thế, gia cảnh của Đức Giêsu, những người Dothái sinh thời với Ngài đã không thể chấp nhận được, và như một lẽ tất yếu, họ không tin và cũng chẳng tôn trọng Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã không làm được phép lạ nào tại quê hương của mình vì sự cứng lòng tin nơi họ.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ cho chúng ta rằng: trong cuộc đời và trên hành trình loan báo Tin Mừng của người môn đệ, chúng ta cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thất bại và chống đối, hiểu lầm và cô đơn… Tuy nhiên, hình ảnh Đức Giêsu lướt qua họ khi những người này muốn xô Ngài xuống vực đã dạy cho chúng ta một bài học: bổn phận của chúng ta là loan báo Lời Chúa, nên chúng ta cứ can đảm và sẵn sàng loan báo cho dù có những cản trở, khó khăn đến từ mọi phía…

Chúng ta không bận tâm đến quá nhiều kết quả, vì thành công hay không là việc của Chúa. Chúng ta chỉ là người thợ trong bàn tay Chúa và chỉ biết làm những việc phải làm mà thôi. Có được tâm tình ấy, chúng ta sẽ rao giảng Lời Chúa: “... lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2).

Lời Chúa hôm nay còn nhắc cho chúng ta biết: hậu quả của sự thành kiến đã làm chúng ta bỏ lỡ hay cố tình không chấp nhận nhiều việc tốt của người khác. Hoặc nhất định không làm việc hữu ích chỉ vì điều đó được khởi xướng từ một người mà chúng ta không ưa.


Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vững tin rằng: Chúa là tất cả đời con, nên mọi khó khăn thử thách sẽ không làm cho chúng con chùn chân bước theo Chúa. Xin cho chúng con xóa bỏ thành kiến để công cuộc loan báo Tin Mừng đạt được nhiều kết quả. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Mở mắt đức tin


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người. Ngài đến với chúng ta trong những cái tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống. Muốn nhận ra Chúa, chúng ta cần có ánh sáng của niềm tin.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những kẻ đồng hương đã khước từ Chúa vì họ chỉ nhìn Chúa bằng con mắt tự nhiên. Họ thiếu lòng tin. Vâng, con người tự nhiên là thế đó. Với lối nhìn hẹp hòi, con thường đánh giá người khác qua dáng vẻ bề ngoài, qua tiền bạc, nghề nghiệp, học lực… mà không nhìn thấy giá trị thật bên trong con người họ. Hoặc đối với những người thân, con thường đánh giá thấp, vì con sống theo kiểu “gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Và nhiều lúc có thể con đã đánh giá chính Chúa như vậy.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt đức tin cho con để con nhận ra Chúa nơi vẻ bề ngoài khiêm tốn của bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội. Xin Chúa mở mắt đức tin cho con, để con có thể nhìn thấy Chúa nơi những người tầm thường nhất. Cũng như những người Na-da-rét, nhiều lúc con đâu ngờ rằng “con người tầm thường” ấy lại là chính Con Thiên Chúa làm người.

Xin Chúa mở mắt đức tin cho con để con nhận biết Chúa vẫn hiện diện với con trong những bất hạnh của cuộc sống. Những khi con gặp rủi ro, những lần con thiếu may mắn, Chúa cùng chia sẻ niềm đau với con. Chính trong những hoàn cảnh éo le ấy, Chúa đến với con thật bất ngờ. Xin Chúa giúp con biết khám phá bóng dáng Chúa trong cuộc đời bình thường, biết lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, biết nhìn thấy Chúa nơi bất cứ ai và biết sống với Chúa trong cảnh đen tối nhất của cuộc đời. Amen.

Ghi nhớ: “Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?”

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Con người từ khước Thiên Chúa


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đức Giêsu lôi cuốn kẻ khác một cách lạ lùng: Dân chúng, quên ăn, quên uống, quên công việc nhà cửa, say mê đi theo Chúa Giêsu để nghe lời Ngài giảng dạy.

Các bà mẹ ngợi khen ai đã sinh ra được một người con như thế.

Giới trẻ theo Chúa Giêsu và mong được Ngài chỉ cho con đường thăng tiến.

Các em bé ùa chạy đến với Chúa Giêsu và đòi cho được Ngài bồng ẵm và chúc lành.

Nhưng ở quê hương Ngài thì khác hẳn…

Suy niệm

Chúa Giêsu trở về Nadarét quê hương Ngài. Ngày Sabát Ngài vào hội đường, Ngài được mời lên đọc Sách Thánh và cắt nghĩa Kinh Thánh một cách rành mạch, sự khôn ngoan của Ngài làm cho mọi người phải ngạc nhiên: Bởi đâu ông Giêsu được khôn ngoan như vậy. Vì Ngài là người đồng hương với họ, cha Ngài là bác thợ mộc tầm thường và mẹ Ngài là bà nội trợ Maria như bao phụ nữ khác và Ngài đã cùng chơi, cùng học và lớn lên giữa họ. Cho nên với họ, Ngài không thể là vị ngôn sứ được, vì thế họ không tin phục Ngài.

Trước sự cố chấp, không tin vì thành kiến: Ngài cũng là người Nadarét như họ. Vì vậy, Đức Giêsu kết luận: “Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Chính vì thái độ cứng lòng ấy, nên ở Nadarét Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ…

Sự từ khước Chúa Giêsu ở Nadarét của những người đồng hương là hình ảnh báo trước trong lịch sử vẫn còn tồn tại trong con người mọi thời đại, mọi nơi từ khước Thiên Chúa. Con người hôm nay cứng lòng cố chấp, đang nghe, đang thấy Đức Giêsu qua Giáo hội là thân thể của Ngài, vẫn còn đó những cố chấp, cứng tin, khước từ… là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới mọi thời, mọi nơi những người cố chấp không tin vào Chúa Giêsu. Sự từ khước của con người hôm nay, làm hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định kiến…

Ý lực sống:

“Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu về thăm Nazareth lần thứ hai


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Khi xong xuôi cuộc truyền giáo ở Galilê, Chúa Giêsu trở về thăm quê hương Nazareth và đến giảng dạy trong Hội đường. ”Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài: vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Messia. Do người ta không tin, nên Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ.


“Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu và có tính cách tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Chúa Giêsu qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm. Chúa Giêsu trở về quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào đền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài con người phải chọn lựa hoặc tin nhận hoặc từ chối.

Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu về giảng tại quê hương của mình cũng làm dấy lên những thông tin trái chiều về Ngài. Những người đồng hương Nazareth có lẽ đã nghe đồn thổi về Ngài và càng ngạc nhiên hơn khi nghe chính Ngài phát biểu trong Hội đường của họ. Những thành tích về sự khôn ngoan và phép lạ Ngài làm đã dấy lên trong họ câu hỏi: “Phải chăng Ngài không phải là Đấng Cứu tinh mà Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc?” Và họ bắt đầu tra cứu với một phương pháp rất khoa học: họ mở Kinh thánh ra và thấy rằng Đấng Cứu tinh xuất thân từ một nơi khác, chứ không phải từ ngôi làng nghèo nàn tăm tối như Nazareth. Họ điều tra về nguồn gốc Chúa Giêsu và thấy rằng cha mẹ và anh em Ngài đều là những người nghèo hèn mà họ biết rõ ngọn nguồn. Với lối suy luận và lý luận rất khoa học ấy, những người đồng hương với Chúa Giêsu đã khước từ Ngài. Nguồn gốc tăm tối của Chúa Giêsu đã là mạng chắn khiến họ không tin nhận nơi Ngài (Mỗi ngày một tin vui).

Qua bài tường thuật, tác giả Mátthêu muốn nêu bật cung cách và số phận của một vị tiên tri đích thực nơi Chúa Giêsu. Ý tưởng về ngược đãi và ngay cả bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống tiên tri trong Cựu ước. Được Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các tiên tri trong Cựu ước không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị tiên tri này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.

Tác giả của đoạn Tin mừng hôm nay đã ghi lại một chi tiết đáng chú ý: “Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ không có lòng tin”. Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin của con người, hay đúng hơn, với lòng tin con người có thể nhận ra phép lạ trong mọi sự và trong từng giây phút cuộc sống. Phép lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện là đã hoá thân làm người và tự đồng hoá với mọi người nhất là với những kẻ thấp hèn bé mọn. Chỉ trong đức tin, con người mới có thể đón nhận phép lạ cả thể ấy.

Truyện: Thần Vit-nu trong tất cả mọi sự

Người ta kể rằng Vit-nu là một trong những vị thần rất được những người theo Ấn giáo thờ kính, những người có niềm tin sâu sắc đều nhận ra thần Vit-nu trong tất cả mọi sự. Một tín đồ kia sống rất siêu thoát, nhưng ông ta lại bị những người khác coi như một người khờ dại. Một hôm, sau khi đi khất thực ở một làng kia, người tín đồ thánh thiện này ra trước cổng làng và ngồi bên vệ đường để ăn những thực phẩm người ta bố thí. Đang lúc ông dùng bữa thì một con chó đói ở đâu chạy tới. Người tín đồ bèn dành đồ ăn của mình cho chó ăn, không mấy chốc người và vật trở nên thân thiện với nhau. Thấy cảnh kỳ lạ, dân chúng trong làng kéo nhau đến xem.

Nhưng một người trong đám đông lên tiếng: “Có gì lạ khiến chúng ta phải mất thì giờ đến xem, người này chỉ là một tên khờ khạo, bởi vì hắn không phân biệt được người với thú vật”.

Nghe thế nhiều người phá lên cười chế giễu.

Người tín đồ thánh thiện ấy điểm tĩnh trả lời: “Tại sao các ngươi lại cười? Các ngươi không thấy rằng Vit-nu đang cho ăn và Vit-nu đang được cho ăn sao? Tại sao các ngươi lại cười, hỡi Vit-nu?”

Nếu có niềm tin thì họ nhận ra thần Vit-nu trong tất cả mọi sự. Vậy tại sao họ không nhận ra Vit-nu nơi một người mà họ cho là khờ dại này.

Truyện: Xin rời bỏ Giáo hội

Một bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục và tuyên bố:

- Con đến cho Đức Cha hay con muốn rời khỏi Giáo hội. Đức Cha nghĩ sao?

Vị Giám mục xin ông cho biết lý do. Ông nói:

- Đức Cha nghĩ coi: Giáo hội có mặt trên trần gian này hơn 2000 năm rồi, thế mà con người có khá hơn không?

Vị Giám mục bình tĩnh trả lời:

- Bác sĩ nói chí lý. Nhưng bác sĩ cũng hãy nghĩ coi: nước đã xuất hiện trên mặt đất này bao nhiêu triệu năm rồi. Vậy mà sao ngày nào bác sĩ cũng như tôi cứ phải rửa tay?

Nghe thế, vị bác sĩ thinh lặng ra về, không còn nghĩ tới chuyện rời bỏ Giáo hội nữa.

Vâng! Hãy biết sống kiên trì, nhẫn nại và nhiệt thành để tâm hồn luôn được thanh thản và bình an.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Hành trình đi đến đức tin


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

1. Đặt trong Sơ đồ chung của thánh Mátthêu: Với 7 dụ ngôn trong phần diễn từ (13,1-52), Mátthêu đã đặt người ta trước một sự lựa chọn dứt khoát có đáp lại lời mời Nước trời hay không. Ai đáp lại thì được kể là môn đệ của Chúa Giêsu. Dần dần những môn đệ này làm thành một cộng đoàn nhỏ, một “Giáo hội phôi thai”.

Sang phần tường thuật (13,53-16,12; từ hôm nay cho đến thứ tư tuần 18), Mátthêu cho thấy Chúa Giêsu huấn luyện từng bước trong cho cộng đoàn Giáo hội này để đưa họ đến đức tin. Radermakers đặt tên cho phần tường thuật này là “hành trình đi đến đức tin của Giáo hội”.

Thực vậy, trong phần này ta thấy rõ cuộc hành trình đi đến đức tin. Hai thuật ngữ được dùng nhiều trong phần này là: TIN và HIỂU.

2. Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác, Chúa Giêsu trở về quê hương Nazarét và giảng dạy trong hội đường. “Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất xứ của Ngài: Vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Đấng Messia. Do người ta không tin nên Chúa Giêsu không làm phép lạ nhiều.

Suy gẫm

1. Những người Nazarét đã ngạc nhiên và thán phục Chúa Giêsu. Họ đã tiến gần đến đức tin. Nhưng rất tiếc hành trình ấy bị chặn lại vì thành kiến. Họ nghĩ: một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ nghèo nàn và tầm thường như thế không thể nào là Đấng Messia được.

Có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.

Phải chăng nhiều lần tôi cũng đánh giá người khác theo những thành kiến: Anh ấy, chị ấy không thể nào khác được! Con người như thế đó mà làm được cái gì!

2. “Nào ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?”: Trong số các thành kiến của chúng ta, có thứ thành kiến quái dị này là “Cha nào con nấy”, cha mẹ dở thì con không thể giỏi, cha mẹ xấu thì con không thể tốt. Đành rằng di truyền cũng ảnh hưởng một phần nào đó, nhưng không phải là tầt cả. Có biết bao nhiêu tấm gương về những đứa con tài giỏi thánh thiện xuất thân từ cha mẹ tầm thường và tội lỗi.

3. Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thứ Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không hể bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới cầu nguyện chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Giáo Hội Đông Phương khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin, và chấp nhận những gì các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì ở nhà còn hơn.

4. “Ngài không làm nhiều phép lạ ở nơi đó, vì họ chẳng có lòng tin”: Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin và với lòng tin của con người. “Nếu chúng con có đức tin chỉ bằng hạt cát, chúng con có thể bảo núi này dời xuống biển”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Thành kiến về Chúa Giêsu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Những người Nazareth đã ngạc nhiên và thán phục Chúa Giêsu. Họ đã tiến gần đến đức tin. Nhưng rất tiếc hành trình ấy bị chặn lại vì thành kiến. Họ nghĩ: một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ nghèo nàn và tầm thường như thế thì làm sao lại có thể là Đấng Messia được.

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.

Với tựa đề: “Người Mở Hàng”, tác giả Trọng Nhơn đã chia sẻ trong mục tạp bút của báo Tuổi Trẻ một câu chuyện có thật như sau:

Từ ngày khai trương, shop quần áo của tôi luôn đông khách. Sáng nay như thường lệ, vừa mở cửa tôi đã có khách. Một cô gái khoảng 17, 18 tuổi đứng tần ngần ra đó.

Nhìn thoáng qua bộ quần áo bà ba sờn bạc ở vai và gấu, tôi nghĩ ngay trong đầu: Ngữ này chắc là không mua bán trao đổi gì rồi, mới sớm mai mở cửa đã bị ám. Kéo thanh sắt lên tôi hỏi gắt:

- Em cần gì?

Như sợ tôi quay vào, cô gái đáp ngay giọng nhỏ nhẹ:

- Anh gì ơi! Em dưới quê thồ rau lên thành phố bán, nhưng vừa đến đây, xe em bị nổ vỏ mà sáng sớm dậy đi, em lại không mang theo tiền. Theo hướng cô gái chỉ, bên mé đường là một chiếc xe đẩy rau: su hào, bắp cải, hành, hẹ, rau dền.v.v…

Bao năm sống ở thành phố, mọi gian trá lường gạt tôi đã gặp nhiều, nên bây giờ tôi chỉ biết có chính bản thân tôi mà thôi. Vậy mà không hiểu tại sao tôi lại đưa em tờ giấy năm ngàn đồng.

Ngày hôm sau không thấy em đến, các bà bán đồ bên cạnh được dịp phô đủ thứ kiểu lường gạt cả tin để rồi cuối cùng quay lại chuyện của tôi và bảo tôi là ngu.

Bẵng đi vài hôm, vào một buổi sáng, vừa thắp xong cho mẹ một nén hương, tôi ra cửa và lại thấy em. Vẫn cái dáng lưng tôm, mạnh khỏe tựa vào chiếc xe rau nặng cồng kềnh:

- Dạ em xin lỗi, em cám ơn, xin hoàn lại anh số tiền. Rồi cùng với nụ cười tươi tắn, em còn biếu tôi hai bó rau tươi và ngượng ngập thanh minh về lý do em không lên như đã hứa. Vẫn cái lối gập đầu cám ơn, em thong thả đẩy chiếc xe rau đi cho kịp buổi chợ.


Ngày hôm đó tôi thật vui, vui với cái lối chân chất thật thà của cô gái quê. Có lẽ gương mặt tôi toát lên niềm vui nên hôm đó tôi bán hàng đắt khách.

2. “Ngài không làm nhiều phép lạ ở nơi đó, vì họ chẳng có lòng tin” (Mt 13,58). Rõ ràng là những người ở Nazareth đã đánh mất đi một cơ hội bằng vàng để được chứng kiến những điều kỳ diệu của Chúa, chỉ vì đầu óc của họ quá hẹp hòi và thiển cận.

Đây là một câu chuyện từ Internet:

Hôm ấy, tôi mặc thường phục đi tuần trên phố. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên tóc dài đang bám theo sau một phụ nữ trung niên. Dựa trên trực giác của người cảnh sát, tôi đoán gã kia là một tên trộm. Quả nhiên đúng như sự dự đoán của tôi, ở chỗ rẽ gần siêu thị, hắn ta thò tay vào túi của người phụ nữ. Tôi nhanh chóng xông đến nắm chặt cái tay đang chuẩn bị rụt lại của hắn. Khi tôi rút chiếc còng từ phía sau lưng, thì hắn lùi lại một bước, bất ngờ dùng tay kia đấm thẳng vào mặt tôi, rồi co chân bỏ chạy.

Tôi vừa đuổi vừa kêu: “Cướp! Cướp!”. Lúc bấy giờ, trên đường phố có rất đông người, nhưng ai nấy đều hốt hoảng tránh ra hai bên, sau đó bàng quan đứng nhìn. Tên trộm chạy mỗi lúc một xa, nhưng chẳng có ai chịu giúp tôi một tay. Đúng lúc tôi bắt đầu nản chí, thì trước mặt tôi xuất hiện một cảnh tượng kịch tính. Từ trong đám đông, một người ăn mày chạy ra, giơ ngang chiếc gậy cản đường tên trộm. Bị tấn công bất ngờ, tên trộm ngã sõng xoài xuống đường. Người ăn mày lại xông đến, ôm chặt lấy chân tên trộm. Tên trộm thấy vậy liền bò dậy, rút dao đâm người ăn mày. Đúng lúc đó, tôi chạy đến, đấm thẳng vào mặt tên trộm.

Người ăn mày được đưa vào bệnh viện. Một lúc sau, bác sỹ từ trong phòng cấp cứu bước ra nhìn tôi, lắc đầu thất vọng. Người ăn mày được đưa ra khỏi phòng cấp cứu, hơi thở anh ta yếu dần. Tôi nắm chặt lấy tay anh ta, nghẹn ngào nói:

- Tôi xin lỗi anh.

Người ăn mày mở to mắt, dùng chút sức lực cuối cùng, thều thào nói với tôi:

- Tôi phải cảm ơn anh. Trước đây, tôi cứ nghĩ mình sẽ lặng lẽ chết đi giống như một con chó. Chính anh đã giúp tôi có cơ hội để trở thành một người đàn ông thực sự. Tôi cảm thấy mình không sống uổng phí.

Mọi người có mặt ở đó đều rơi nước mắt.

Rất tiếc là những người ở Nazareth, không được như vậy. Họ đã bỏ qua một cơ hội làm cho đời sống của họ tốt hơn khi Chúa trở về với họ.

Lạy Chúa, xin cho con mắt chúng con mở rộng để thấy những việc tốt lành Chúa làm. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa khôn ngoan vô cùng


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Người Việt Nam chúng ta thường nói: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”, trong bài Tin Mừng hôm nay, dân làng của Chúa cũng có thái độ giống như thế.

Chúa được thánh Cả Giuse và Mẹ Maria nuôi nấng, dưỡng dục lớn lên trong môi trường làng quê Nazarét cùng với biết bao nhiêu con người khác, giống như Chúa. Họ quen biết, gặp gỡ Chúa thường ngày. Khi Chúa lớn lên được ba mươi tuổi đời. Tuổi ba mươi là tuổi mà theo quan niệm nho giáo là: “Tam thập nhi lập “, Chúa bắt đầu xuất hiện công khai trước mặt muôn người để Chúa rao giảng Tin Mừng. Vô số người nghe Chúa rao giảng Tin Mừng và tận mắt nhìn thấy Chúa làm phép lạ cứu chữa những chứng bệnh khác nhau trong dân. Dân chúng theo Chúa đông đảo. Hôm nay, Chúa trở về quê nhà, Chúa cũng rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu chữa dân chúng như vậy. Chúa cứ tưởng rằng dân làng quê của Chúa cũng giống như dân chúng ở các nơi khác, là họ sẽ sẵn sàng đón nhận Chúa, cộng tác với Chúa để Chúa ban ơn cho họ. Chúa dành cho dân làng của Chúa một tình cảm đặc biệt, vì nơi đây đầy ắp những kỷ niệm thân thương trong cuộc đời của Chúa, nhất là những kỷ niệm tuổi thơ ấu. Vì Chúa thương họ nên chúng ta có thể nói như những người xưa: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần“. Chúa dành ưu tiên cho họ, nhưng rồi Chúa rất ngỡ ngàng trước sự từ chối, cứng lòng, không đón nhận Chúa của họ. Chúa rất thất vọng về họ: “Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: “Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?” Và họ vấp phạm đến Người” (Mt 13, 54 – 57).

Nhưng tại sao họ không nghe Chúa như thế? Có lẽ vì Bụt nhà không thiêng. Nhưng quan trọng hơn hết là vì Chúa sống ở đây với họ từ nhỏ đến lớn, Chúa biết rõ các tội lỗi, các tính hư tật xấu, các đam mê xác thịt, các tệ nạn xã hội… của họ, cho nên khi rao giảng lời Chúa, Chúa xoáy vào các vấn đề này để họ từ bỏ đi, lời Chúa lúc này như lưỡi gươm cắt bỏ các khối ung nhọt này để họ trở nên tốt hơn, nhưng họ không thực hiện theo ý Chúa mà còn nói Chúa thế này, Chúa thế kia: “Lời của Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, và sắc bén hơn gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng con người“ (Dt 4, 12). Dó đó mà Chúa phải não nề nói lên điều đau thương này: “Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: “Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình”. Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin” (Mt 13, 57 – 58). Chúa không làm nhiều phép lạ, vì họ chẳng có lòng tin ngay trong lúc này, nhưng vì lòng nhân từ, chắc Chúa sẽ cầu nguyện cho họ, và Chúa hy vọng họ suy nghĩ lại, ăn năm sám hối để một ngày gần đây nhất, Chúa trở lại và họ lại nghe lời Chúa hơn.

Lạy Chúa, những người làng quê, bà con ruột thịt, anh chị em của Chúa không đón nhận Chúa, coi Chúa như người dưng nước lã, ngoại lai, xa lạ. Nhưng điều này không ảnh hưởng sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa. Có tội nghiệp chăng là dân làng của Chúa đã bỏ qua cơ hội nên lành nên thánh này. Xin Chúa thương đừng để chúng con có tư tưởng giống như họ mà biết tận dụng mọi ơn lành Chúa ban để chúng ta biết sửa mình, biết chỉnh đốn lối sống theo thánh ý của Chúa truyền dạy để Chúa cho chúng con được hưởng sự sống đời đời sau này. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 7:

Chết vì sứ vụ.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 17 thường niên.
"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".

 

Lời Chúa: Mt 14, 1-12


Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy".
Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy.
Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Vì đã trót thề


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Theo các sách Tin Mừng, Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc.
Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ với mình.
Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được.
“Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự.
Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Hêrôđê hẳn đã lặng người khi nghe cô bé xin điều ấy.
Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Làm sao chúng ta có can đảm nhận ra mình sai lầm và dừng lại?
Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác?
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi.
 
Cầu nguyện:

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Nhân từ và độc ác


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa vô cùng nhân từ. Thiên Chúa nhân từ với ta. Người mong muốn ta cũng nhân từ với đồng loại. Vì thế Người ra luật cử hành Năm Toàn Xá. Năm Toàn Xá là năm thể hiện lòng nhân từ. Chúa truyền cho dân phải nhân từ với người nghèo khổ. Không được ỷ mạnh hiếp yếu. Nhưng phải tôn trọng những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì thế trong Năm Toàn Xá phải trả người nô lệ về tự do. Phải trả ruộng đất cho người vì túng thiếu đã phải bán. Phải giữ luật Chúa chứ không theo luật rừng. PHải sống theo ý Chúa chứ không theo dục vọng: “Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng các ngươi phải kính sợ Thiên Chúa” (năm lẻ).

Con người ta thường theo thú tính. Ở đời mạnh được yếu thua. Vì thế Giê-rê-mi-a gặp nạn. Ông yếu thế hơn tư tế và các thủ lãnh. Nên họ muốn giết ông. “Bấy giờ, các tư tế và ngôn sứ nói với các thủ lãnh và toàn dân rằng: “Con người này đáng lãnh án tử, vì ông ta đã tuyên sấm chống lại thành này, như chính tai các ông đã nghe”. Họ tức giận vì Giê-rê-mi-a lên án lối sống sa đoạ của họ. Nếu họ chưa giết ông chỉ vì họ sợ Chúa phạt như lời Giê-rê-mi-a ngăm đe: “Nếu các người giết tôi, thì chính các người sẽ phải chuốc lấy máu vô tội cho mình, cho thành này và dân cư trong thành” (năm chẵn).

Hê-rô-đê hoàn toàn cư xử theo thú tính. Ông ỷ quyền thế cướp vợ của anh mình. Ông cậy mạnh nên bắt giam Gio-an Tẩy giả. Vì Gio-an dám lên án tội lỗi của vua. Ông nhẹ dạ vì điệu múa của cô gái nên hứa liều. Vì sĩ diện nên ông không dám rút lại lời hứa liều, dù ông biết làm thế là sai. Vì dục vọng ông phải giết thánh Gio-an Tẩy giả, dù biết ngài vô tội: “Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã tró ththeef, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an”.

Các môn đệ của Chúa như Gio-an được sai đến để xây dựng xã hội công bằng. Không còn mạnh hiếp yếu. Và xã hội bác ái. Phải nghĩ đến người bé nhỏ nghèo hèn. Mua bán gì đến Năm Toàn Xá phải trả lại chủ cũ. Xã hội sống theo Lời Chúa sẽ tạo hạnh phúc. Con người kính sợ Thiên Chúa sẽ biết kính trọng và yêu thương đồng loại. Xã hội chống lại Thiên Chúa sẽ sống theo dục vọng và thú tính. Xã hội ấy sẽ tràn đầy bất công và bất hạnh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong Tin Mừng hôm nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với Chúa Giêsu.

Ở khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: "Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài". Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.

"Các con sẽ làm chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.

Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".

Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.

Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chết Cho Sự Thật


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có chiến tranh, lúc nào cũng có hận thù. Khi thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu cách đây hai ngàn năm, người ta cũng xôn xao bàn tán về cái chết của ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mátthêu đã ghi lại hoàn cảnh cái chết của vị tiền hô. Ngài chết vì đã nói lên sự thật. Ngài chết cho sự thật. Tín hữu Kitô là những người đã đi theo Ðấng đã từng tuyên bố: "Ta là sự thật". Họ phải là những người sẵn sàng chết cho sự thật ấy.

Trong một cuộc thăm dò do viện Galup thực hiện, sáu mươi chín phần trăm người dân Mỹ cho biết họ tin là không có những chuẩn mực luân lý tuyệt đối. Trong một cuộc thăm dò khác, bảy mươi mốt phần trăm nói rằng không hề có một chân lý tuyệt đối. Không có chân lý tuyệt đối, cho nên theo họ chỉ có chân lý của số đông. Tiêu chuẩn của chân lý là số đông. Ðiều gì đám đông nghĩ, đám đông tin, đám đông bỏ phiếu, đám đông tán thành, là đúng. Chính vì tiêu chuẩn của chân lý là đám đông, nên có biết bao nhiêu hành động tội ác được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã tán thành. Còn gì độc ác dã man cho bằng hành động phá thai, nhưng nó đã được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã đồng tình.

Ðấng là sự thật đã chết trơ trụi một mình trên thập giá. Tuyên xưng mình là sự thật, sống cho sự thật, thường cũng đòi hỏi người tín hữu Kitô phải lội ngược dòng. Sự thật không có tính vụ lợi. Sự thật không được đánh giá bằng những lợi lộc hay đổi chác. Sự thật đòi hỏi con người phải hy sinh tất cả để nói lên sự thật và trung thành với sự thật. Sống chết cho sự thật, không có phần thưởng nào khác hơn là chính sự thật, bởi lẽ vì sống cho sự thật có thể mất hết mọi sự nhưng không đánh mất chính mình.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chân Lý


Thời ấy tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” (Mt. 14, 1-2)

Đoạn này kề về cuối đời của thánh Gio-an Tiền Hô, một con người bảo vệ chân lý. Ngài đã trung thành sống với Lời Ngài giảng. Đó chính là đức tính của vị ngôn sứ.

Ngôn sứ là ai?

Ngày nay quá nhiều kẻ tuyên bố sự thật. Họ rêu rao sự thật đến rát cổ mỏi miệng.

Có kẻ tách khỏi Giáo Hội và xỉ nhục điều này điều kia của Giáo Hội, phỉ nhổ vị này vị kia. Kẻ đó không phải là kẻ chân chính.

Gio-an Tiền Hô thành chướng ngại vật, là lời khiển trách sống động đới với Hê-rô-đê và với chúng ta nữa. Ngài không nói: “Hãy làm như tôi!” nhưng Ngài nói: “Đó là huấn lệnh của Chúa!” Thính giả nghe Ngài, nhưng còn phải nhìn kỹ Ngài sống thế nào! cần phải chiêm ngắm chân lý của sứ ngôn và đời sống của Ngài, thì họ sẽ không còn dám sống ích kỷ nữa.

Ngày nay thì sao?

Ngày nay có nhiều ngôn sứ không?

Ngôn sứ là người loan báo Đức Giêsu Kitô. Ông phải làm chứng về Đức Kitô.

Đức Giêsu là ai? Ngôn sứ phải nói về Người như thế nào cho thế hệ hiện tại: trước hết chúng ta phải nói đến quá khứ, kể lại Tin Mừng: nói về sự sống lại của Người, về con người mới mà Người đã làm chúng ta trở lên con người mới đó.

Ngôn sứ không được vì mình, nhưng phải là chứng nhân cho thế hệ hiện tại.

J.M

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Chứng nhân cho sự thật


Khi xem các chương trình nhạc kịch, khán giả thường có những nhận xét đúng – sai cũng như đặc điểm của vai diễn qua các nhân vật. Ngoài ra, độc giả còn nhận thấy hình ảnh của mình thông qua con người và diễn xuất của các nghệ sĩ…

Hôm nay, trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy xuất hiện 4 nhân vật, mỗi nhân vật mang một nét đặc trưng riêng cả về nhân thân và lối sống. Các nhân vật đó là: Gioan Tẩy Giả; vua Hêrôđê; bà Hêrôđia; và, con gái bà Hêrôđia. 4 nhân vật đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

Thứ nhất là Gioan Tẩy giả:

Gioan Tẩy giả là ngôn sứ vĩ đại, đến để loan báo về Đấng Cứu Thế và chuẩn bị lòng dân đón nhận Ngài. Vì thế, ông đã biểu lộ vai trò ngôn sứ bằng một thái độ sống hết sức khiêm tốn, hy sinh, can đảm, mạnh mẽ và bất khuất trước bạo lực, cho dù phải chịu tù đày và chết tróc.

Thứ hai là vua Hêrôđê:

Ông được biết đến như một kẻ ác nhân. Ông đã lộng hành khi dùng quyền. Coi thường đạo lý và buông theo sắc dục mà bất chấp đúng - sai. Ông đã làm trái với lương tâm khi truyền lấy đầu ông Gioan để thỏa mãn điều thề hứa bất chính của mình.

Thứ ba là Bà Hêrôdia:

Vì ưa thích điều bất chính, nên đã không chấp nhận sự thật mà Gioan loan báo. Vì thế, lòng thù ghét nổi lên như nước thủy triều. Thay vì dạy dỗ con mình làm điều tốt, bà lại xúi con mình làm điều bất chính khi xin vua lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Sự ác tâm này là con đẻ của hận thù và ghen ghét vì mối lợi trước mắt.

Thứ tư là con gái bà Hêrôdia:

Cô gái trẻ này được biết đến như một nhân vật có tài mà không có đức. Vì thế, thay vì sử dụng tài của mình để làm việc thiện, cô ta đã dùng nó như là một thứ mua vui thuần túy và phá hoại. Tệ hơn nữa là cô không hề áy náy khi biết rõ rằng việc mình làm chỉ là để thỏa nãm sắc dục của vua quan và phục vụ sự hận thù của mẹ cô với Gioan Tẩy giả.

Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu gì những hình ảnh của Hêrôđê đang hiện ra qua những hành động của những người chỉ thích ham mê sắc dục, bất chấp sự thật để làm những điều lỗi lầm ghê tởm.

Cũng vẫn còn đó nơi ta hình ảnh của bà Hêrôdia. Nhiều lúc, thay vì dạy con làm điều tốt, thì lại chỉ vẽ cho trẻ những điều sai trái, miễn sao đạt được điều bất chính nơi ta mà thôi. Và cũng không thiếu những sự ngộ nhận nơi ta như con gái bà Hêrôdia…

Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang trong mình hình ảnh và đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Luôn tìm mọi cách để Lời Chúa được loan báo mọi nơi, mọi lúc. Sẵn sàng chấp nhận hy sinh và ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự thật về Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Lời Chúa và sẵn sàng rao giảng Lời ấy cho mọi người, dù có phải hy sinh. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 7: Sự thiện và sự ác đấu tranh


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hoa trái của Xa-tan là tội lỗi. Hoa trái của Thánh Thần là công chính và tình yêu mến. Tư tưởng, lời nói, việc làm của ta phải do Chúa Thánh Thần thúc đẩy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Tin Mừng hôm nay cho con thấy hai hạng người. Hạng người thứ nhất suy nghĩ và hành động theo tinh thần xác thịt. Bà Hê-rô-đi-a vì ham danh, ham quyền, ham lợi lộc, đã bỏ chồng đuổi theo vua Hê-rô-đê. Hơn nữa, vì nuôi lòng hận thù, bà đã dạy con gái mình phạm tội ác là xin được đầu thánh Gio-an đặt trên đĩa. Còn vua Hê-rô-đê vì ham sắc dục đã cướp vợ của anh mình. Hơn nữa, vì sợ mất mặt, vua Hê-rô-đê đã liều giết thánh Gio-an Tẩy Giả cách bất công. Tội ác kéo theo tội ác.

Ngược lại thánh Gio-an Tẩy Giả đã để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Ngài đã can đảm nói lên sự thật, đã chấp nhận chết cho sự thật, chết cho công lý.

Lạy Chúa, con hiểu rằng cuộc đời là một cuộc chiến. Sự thiện và sự ác đấu tranh nơi con, giành giật từng tư tưởng, từng lời nói và từng việc làm của con. Chúa dạy con nghĩ điều thiện, nói những lời tốt đẹp và làm việc lành. Chúa ban ơn để đời con sinh ra hoa trái thánh thiện. Chúa động viên con và hé mở cho con thấy phần thưởng thiêng liêng nếu con biết sống theo Thánh Ý Chúa.

Xin Chúa đừng để con chạy theo lợi lộc, danh vọng, sắc dục, hận thù, để rồi gây ra tội ác. Xin Chúa chớ để con sa chước cám dỗ. Amen.

Ghi nhớ: “Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Rao giảng bằng lời nói và cuộc sống.


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bà Eva sinh được hai con trai, là Cain và Aben. Lớn lên, Cain làm nghề trồng trọt, còn Aben chuyên nuôi chiên cừu. Aben dâng lên Chúa những con cừu đầu lứa béo tốt. Chúa nhận của lễ của Aben, mà không nhìn đến lễ vật của Cain. Cain tức giận, sầm mặt xuống...

Thấy vậy, Chúa hỏi ông: “Sao ngươi tức giận? Nếu ngươi làm điều tốt việc phải, sao chẳng ngửa mặt lên?”...

Cain đã chẳng biết nhận lỗi, đã chẳng nghe Lời Chúa dạy mà sửa mình, lại còn thêm tức giận, ghen ghét Aben và giết hại em, lại chối và dối gạt Thiên Chúa là không biết em đâu khi Chúa hỏi: “Em ngươi đâu?”.

Cain bị phạt phải lang thang lưu lạc trên mặt đất, cực khổ cày cấy, nhưng đất sẽ chẳng sinh hoa màu, phải đói khổ...

Suy niệm

Chúa Giêsu với lời giảng uy quyền và làm được những việc vĩ đại như chữa lành bệnh, cho kẻ chết sống lại... nên danh tiếng Ngài lừng lẫy khắp nơi, vang đến tai vua Hêrôđê. Ông cho rằng Ðức Giêsu là Gioan Tẩy giả mà ông đã giết chết nay sống lại. Ông nghĩ thế vì bị lương tâm cắn rứt khiến ông sống bất an...

Thật thế, Gioan, vị ngôn sứ bộc trực, thẳng thắn thi hành sứ vụ lên tiếng phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu và đối mặt với cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa: Ông đã ngăn cản vua Hêrôđê cướp vợ của anh trai vua khi người anh trai này vẫn còn sống, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia, người tình của vua đã tìm cách ám hại ông (Mc 6,17-29). Chính vì ích kỷ, tự ái, ghen ghét... Hêrôđia tìm dịp ám hại Gioan Tẩy giả và Hêrôđê đã thực hiện điều ấy.

 Người quân tử Gioan chính trực không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì Thiên Chúa muốn ông nói và làm, ngay cả khi phải trả giá bằng cái chết.

Gioan minh chứng cho sự trung thực, thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nghĩa bất nhân.

Gioan luôn mãi là tấm gương cho chúng ta học tập và noi theo. Ông không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả hy sinh cuộc sống.

Ý lực sống:

« Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 15,18-19)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Cái chết của Gioan Tẩy Giả


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Vua Hêrôđê nghe danh Chúa Giêsu thì tưởng là Gioan Tẩy Giả đã chết mà nay đã sống lại. Chính Gioan là người trước kia đã cấm không cho vua cướp vợ của anh là Hêrôđia. Bà này bực tức nên xúi giục nhà vua tống Gioan vào ngục... Và ngày nọ nhân dịp nhà vua ăn tiệc mừng ngày sinh nhật, con gái bà ta nhảy múa làm cho nhà vua vui thích, nên vua hứa ban cho nó bất cứ điều gì nó muốn. Nghe tin đó, bà Hêrôđia muốn trả thù, nên xúi nó xin cái đầu của Gioan. Nhà vua nghe lời xin đó rất lấy làm buồn, vì ông kính nể Gioan, nhưng đã trót hứa nên phải sai người đi chém đầu ông mà giao cho con bé.

2. Ông vua Hêrôđê này là người có tính thích của lạ và khoái nghe hùng biện. Vì thế, ông nghe đồn Gioan giảng dạy rất hay, nên ông cho mời Gioan đến thuyết trình trong triều, nhưng không phải để nghe diễn thuyết về chân lý mà là để thưởng thức tài hùng biện của Gioan. Thánh Gioan liền chộp lấy cơ hội này để thức tỉnh lương tâm tội lỗi của Hêrôđê và Hêrôđia. Ngài kịch liệt khuyến cáo nhà vua không được phép cưới vợ của anh mình, Hêrôđê giật mình và phản công bằng cách ra lệnh tống giam Gioan vào ngục. Phần Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở hành động sai trái của bà, nên bà tìm mọi cách để giết được Gioan mới thôi (Phạm Văn Phượng).

3. Một ông vua Hêrôđê ham mê tửu sắc lại muốn giữ thể diện vì đã lỡ thề với cô gái trước mặt bá quan văn võ, một bà Hêrôđia lăng loàn đem lòng oán hận đối với người  đã lên tiếng tố giác mối quan hệ bất chính của bà, những người này ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy đen tối của Satan mà dấn bước không chút đắn đo vào hành vi tội lỗi. Còn Gioan thực thi sứ mệnh Thiên Chúa trao ban, dọn đường cho Đấng Messia, dám một mình bênh vực lẽ phải, không khuất phục trước bạo quyền, ông mạnh mẽ lên án nhà vua: ngài không được phép lấy vợ của anh mình. Gioan đã sống và chết cho sứ mệnh. Ông làm tròn bổn phận Thiên Chúa giao phó (5 phút Lời Chúa).

4. Phải biết nghe tiếng nói của lương tâm, vì lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa. Bao lâu lương tâm chưa được thanh thản, con người sẽ chưa có bình an thực sự.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ vụ ông Nguyễn Thanh Chấn (ở tỉnh Bắc Giang) bị kết án oan ở tù 10 năm (từ tháng 8/2003 đến tháng 11/2013).  Vụ án đi vào ngõ cụt khi công an bức cung dùng nhục hình ép buộc ông Chấn nhận tội giết chị Nguyễn Thị Hoan để cướp của. Thế rồi sau 10 năm, anh Lý Nguyên Chung đã ra đầu thú chính anh mới là thủ phạm giết người. Lý Nguyên Chung sau khi trốn vào Gia Lai, đã thay tên đổi họ và không còn ai biết gì về anh nữa, nhưng rồi bỗng dưng anh lại về đầu thú, chỉ vì lý do 10 năm trời anh không khi nào ăn ngon ngủ yên vì tội lỗi của mình ám ảnh. Thật đúng như dân gian có câu:

Hổ giết người hổ lăn ra ngủ
Người giết người thức đủ năm canh.

Cũng thế, vua Hêrôđê vì một chút sĩ diện và ham mê nhục dục đã ra tay giết hại thánh Gioan Tẩy Giả. Bây giờ khi nghe dân chúng đồn đoán Gioan đã sống lại nơi Đức Giêsu thì ông đã phân vân lo lắng vì hành động của mình.

5. Giáo hội tiếp tục sứ mệnh của các tiên tri, Giáo hội phải trở thành tiếng nói của Chúa Kitô. Như Gioan Tẩy giả đã dùng cái chết của mình để dọn đường cho Chúa, người Kitô hữu cũng có sứ mệnh làm chứng cho Chúa Kitô. Trong những dòng cuối cùng của thông điệp Hòa Bình dưới thế, Đức Gioan XXIII đã nói: “Mỗi Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa anh em mình, và người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò ấy khi càng sống kết hợp với Chúa”.

6. Truyện: Gương can đảm tuyệt vời.

Năm 1028, khi thấy mình gần đất xa trời, vua Constantin IX ở Rôma đã cho mời nhà quí tộc Romanus đến. Vua muốn cùng một lúc vừa truyền ngôi, vừa gả công chúa Theodora cho ông.

Nhưng Romanus tâu vua, mình hết lòng cảm ơn lòng thương của vua, song ông đã có vợ.

Không đếm xỉa gì đến lời tâu, vua truyền cho ông, nếu không lấy con vua thì sẽ bị khoét hai con mắt, muốn chọn đằng nào thì chọn. Rồi nhà vua cho ông một ngày để suy nghĩ.

Sau một ngày, ông Romanus vào chầu. Hoàng đế cho gọi công chúa đến, một công chúa tài sắc vẹn toàn. Nhưng Romanus can đảm tâu vua:

- Dây hôn phối ràng buộc hạ thần với vợ do Thiên Chúa ràng buộc. Thế gian không ai có quyền tháo cởi.

Vua ra sức ép nhưng vô ích.

Ông Romanus cam lòng chịu khoét mắt hơn là lỗi lề luật Thiên Chúa.

Đó là một con người đã hướng sự can đảm của mình vào những mục tiêu thật chính đáng.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Can đảm khác nhau


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Qua chuyện này ta biết được đôi điều về Gioan và Hêrôđê.

1. Gioan Tẩy giả:

Một ngôn sứ trung thành với sứ mạng.
Một con người can đảm dám nói thật.

Con người ngôn sứ đó được dân chúng kính nể, kể cả giết Ngài cũng phải nể sợ Ngài.

2. Hêrôđê:

Một con người dám làm tất cả tội lỗi để thoả mãn những ước muốn xấu của mình.

Nhưng trong thâm tâm, con người này có nhiều nỗi sợ: sợ lương tâm (nên tưởng Chúa Giêsu là Gioan sống lại), sợ dư luận, và sợ vợ.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Cả hai nhân vật Gioan và Hêrôđê đều can đảm nhưng mỗi người có một cách khác nhau: Gioan can đảm làm điều tốt cho dù phải hy sinh tính mạng. Hêrôđê can đảm dám phạm bất cứ tội lỗi nào.

Không riêng gì tính can đảm, mà nhiều khả năng khác của con người (như trí thông minh, sức mạnh…) Phải được định hướng cho đúng mới tốt được. Kẻ càng can đảm, thông minh và mạnh khỏe mà sử dụng những khả năng đó để làm điều xấu thì tai hại càng lớn.

Cám ơn Chúa đã ban cho con những khả năng. Nhưng xin dạy con biết dùng chúng cho đúng hướng.

2. Xét đến tâm trạng thì Hêrôđê tuy là vua nhưng lòng luôn áy náy lo âu, còn Gioan tuy là một tử tội nhưng lúc nào lòng cũng thanh thản. Vì Gioan làm đúng lương tâm còn Hêrôđê làm trái lương tâm.

3. Khi thấy hai con trai của mình đã lớn, người cha bảo chúng đi học nghề để tự lực cách sinh. Ba cha con thu xếp rồi lên đường đến một ngôi làng nọ. Người anh chọn nghề thợ rèn rồi vui sống với nghề nghiệp của mình. Người cha và đứa em tiếp tục đi đến một ngôi làng khác. Một hôm, hai cha con đi ngang một cánh đồng và thấy một con bò đang gặm cỏ, người chăn ở đâu không thấy mà làng mạc thì xa. Đứa con nói với cha: “Con thích làm nghề ăn trộm vì công việc nhẹ nhàng mà thu hoạch lại lớn”. Người cha nhăn mặt nhưng vẫn gật đầu nói “Con hãy đợi cha ở ven rừng. Cha cần vào làng có công việc”.

Người cha vừa đi khuất thì người con đã vội lùa đàn bò về nhà trọ. Khi người cha về đến nhà hai cha con bắt tay vào việc làm thịt bò. Nhưng trước khi thưởng thức món thịt bò, người cha nói: “Ta hãy đoán xem ai trong chúng ta sẽ béo lên vì thịt bò này”.

Hai cha con phải mất nhiều ngày mới ăn hết thịt bò, Trong khi người cha cứ ăn thì người con cứ đứng lên ngồi xuống không yên, chốc chốc anh lại ra ngoài xem có ai theo dõi mình không. Sau một tuần lễ, hai cha con kiểm tra xem ai béo hơn ai. Quả thật, người cha đã lên cân thấy rõ, còn người con ngày một gầy thêm. Lúc bấy giờ người cha mới giải thích: ”Con biết không, thịt bò con ăn là thịt bò ăn trộm, còn thịt bò cha ăn là thịt bò cha đã bỏ tiền ra mua hẳn hoi. Trong khi con ở ven rừng nhìn ngắm con bò thì cha đã vào làng thương lượng với chủ bò để mua nó. Con thấy chưa, của ăn trộm chẳng bao giờ để ta ăn ngon ngủ yên được”. (Trích: “Chờ đợi Chúa”).

4. Bất kỳ ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa ban cho đặc ân cao quý là có quyền tự do lựa chọn. Chúng ta được quyền chọn bất cứ điều gì, hành động thế nào, cư xử ra sao như chúng ta muốn. Nhưng chúng ta đừng quên phải sử dụng quyền đó như thế nào. Vua Hêrôđê đã cho mình quyền “tự do” của một ông vua, nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết. Nhưng đâu biết rằng chính lúc ông thực hiện quyền tự do ấy cũng là chính lúc ông bị ràng buộc bởi một sức mạnh khác; đó là lời thề và danh dự của ông trước mặt các khách dự tiệc.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết sử dụng quyền tự do mà Ngài đã ban tặng cho con trong ánh sang của Lời Ngài. (Hosanna).

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Định hướng khả năng cho đúng


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Cả hai nhân vật Gioan và Hêrôđê đều can đảm nhưng mỗi người hướng về những mục đích khác nhau: Gioan can đảm làm điều tốt cho dù phải hy sinh tính mạng. Hêrôđê can đảm dám phạm bất cứ tội lỗi nào.

Không riêng gì tính can đảm, mà nhiều khả năng khác của con người (như trí thông minh, sức mạnh, quyền lực…) cũng phải được định hướng cho đúng mới tốt được.

Cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta những khả năng, quyền lực v.v… Nhưng xin dạy chúng ta biết sử dụng chúng cho đúng hướng.

Năm 1028, khi thấy mình gần đất xa trời, vua Constantin IX ở Rôma cho mời nhà quí tộc Rômanus đến. Vua muốn cùng một lúc vừa truyền ngôi, vừa gả công chúa Theodora cho ông.

Nhưng Rômanus tâu vua, mình hết lòng cám ơn lòng thương của vua, song ông đã có vợ.

Không đếm xỉa gì đến lời tâu, vua truyền cho ông, nếu không lấy con vua thì sẽ bị khoét hai con mắt, muốn chọn đàng nào thì chọn. Rồi nhà vua cho ông một ngày để suy nghĩ.

Sau một ngày, ông Rômanus vào chầu. Hoàng đế cho gọi công chúa đến, một công chúa tài sắc vẹn toàn. Nhưng Rômanus can đảm tâu vua:

- Dây hôn phối ràng buộc khanh với vợ do Thiên Chúa ràng buộc. Thế gian không ai có quyền tháo cởi.

Vua ra sức nài ép song vô ích.

Ông Rômanus cam lòng chịu khoét mắt hơn là lỗi lề luật Thiên Chúa.

Đó là một con người đã hướng sự can đảm của mình vào những mục tiêu thật chính đáng.

2. “Vua muốn giết ông Gioan, nhưng sợ đám đông vì họ coi ông là ngôn sứ” (Mt 14,5).

Bất kỳ ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa ban cho đặc ân cao quý là có quyền tự do lựa chọn. Chúng ta được quyền chọn bất cứ điều gì, hành động ra sao, cư xử như thế nào. Nhưng chúng ta đừng quên cách chúng ta phải sử dụng quyền đó cho chính đáng. Vua Hêrôđê đã cho mình quyền “tự do” của một ông vua, nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết. Nhưng đâu biết rằng, chính lúc ông thực hiện quyền tự do ấy cũng là chính lúc ông bị ràng buộc bởi một sức mạnh khác. Đó là lời thề và danh dự của ông trước mặt các khách dự tiệc. Ngược lại, Gioan đã sử dụng những khả năng Chúa ban cho mình để bênh vực cho lẽ phải. Cho nên dù có bị giam cầm và bị chặt đầu nhưng lòng ông cũng thanh thản vì ông làm đúng lương tâm.

Tờ New York Times ngày 17.3.1994 có đăng câu chuyện có thật của một phạm nhân:

Ông Ricardo Caputo, một tội phạm nghiêm trọng của tòa án liên bang đã giết chết bốn người vợ trong thời gian 20 năm. Bằng nhiều thủ đoạn khéo léo, ông đã trốn thoát khỏi mọi mạng lưới pháp luật bao vây lùng bắt của tòa án liên bang. Tuy nhiên, sau 20 năm, ông ta đã tự ra đầu thú tại một sở cảnh sát ở Mineola, New York bởi vì lương tâm ông cắn rứt không còn chịu nổi. Khi ra đầu thú, ông cho biết, ông thà bị giam cầm trong ngục còn sướng hơn bị lương tâm cắn rứt và tội lỗi dày vò.

3. Chúng ta đừng coi thường tiếng nói của lương tâm vì đó là tiếng nói của Chúa.

 Trong cuốn sách có tựa đề là “Chờ đợi Chúa” người ta đọc được câu chuyện này: Một người cha kia có hai người con. Khi thấy hai con trai của mình đã lớn, người cha bảo chúng đi học nghề để tự lực cánh sinh. Ba cha con thu xép rồi lên đường đến một ngôi làng nọ. Người anh chọn nghề thợ rèn rồi vui sống với nghề nghiệp của mình. Người cha và đứa em tiếp tục đi đến một ngôi làng khác. Một hôm, hai cha con đi ngang một cánh đồng, thấy một con bò đang gặm cỏ, người chăn ở đâu không thấy mà làng mạc thì xa. Đứa con nói với cha:

- Con thích làm nghề ăn trộm vì công việc nhẹ nhàng mà thu hoạch lại lớn.

Người cha nhăn mặt nhưng vẫn gật đầu nói:

- Con hãy đợi cha ở ven rừng. Cha cần vào làng có công việc.

Người cha vừa đi khuất thì người con đã vội lùa con bò về nhà trọ. Khi người cha về đến nhà, thì hai cha con bắt tay vào việc làm thịt bò. Nhưng trước khi thưởng thức món thịt bò, người cha nói:

- Ta hãy đoán xem ai trong chúng ta sẽ béo lên vì thịt bò này.

Hai cha con phải mất nhiều ngày mới ăn hết thịt bò. Trong khi người cha ăn thì người con cứ đứng lên ngồi xuống không yên, chốc chốc anh lại ra ngoài xem có ai theo dõi mình không. Sau một tuần lễ, hai cha con kiểm tra xem ai béo hơn ai. Quả thật, người cha đã lên cân thấy rõ, còn người con ngày một gầy thêm. Lúc bấy giờ người cha mới giải thích:

- Con biết không, thịt bò con ăn là thịt bò ăn trộm, còn thịt bò cha ăn là thịt bò cha đã bỏ tiền ra mua. Trong khi con ở ven rừng nhìn ngắm con bò thì cha đã vào làng thương lượng với chủ bò để mua nó. Con thấy chưa, của ăn trộm chẳng bao giờ để ta ăn ngon ngủ yên được.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Vua Hêrôđê giết chết Gioan Tẩy giả


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Vua Hêrôđê phạm một tội trọng nặng nề là giết chết thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Chúa. Đây cũng còn là một tội ác cho nên nó đã làm cho lương tâm của ông dày vò, cắn rứt, bất an, đau khổ bao lâu ông chưa xưng tội ra với Chúa.

Chúng ta đừng tưởng rằng ông sẽ xưng tội của mình ra với Chúa, không có chuyện này đâu. Ông đã chai lỳ, cứng cỏi trong con đường tội lỗi của mình. Thế nhưng, khi ông đứng trước danh tiếng của Chúa thời bấy giờ như là việc có vô số người theo Chúa, nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, chứng kiến các phép lạ Chúa làm để cứu chữa những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị quỷ ám: “Chúa giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sỹ” (Mc 1, 22), ông bị đánh động, buộc ông phải suy nghĩ lại việc làm tội lỗi tày trời của ông. Vì thế ông mới nói: “Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy” (Mt 14, 1 – 2).

Nguyên nhân dẫn đến việc ông phạm tội ác này mà theo tường thuật của thánh sử tông đồ Mátthêô trong bài Tin Mừng hôm nay là vì ông muốn lấy bà chị dâu làm vợ mà thánh Gioan can ngăn, không cho phép: “Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: “Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ”. Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Ðược mẹ nó dặn trước, nên nó nói: “Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con”. Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy. Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu” (Mt 14, 3 – 12). Như vậy, không phải ông phạm tội trọng trong lúc bồng bột, thiếu suy nghĩ đâu. Ông phạm tội này vì ông đã nuông chiều dục vọng, đam mê xác thịt quá đáng. Chính điều này đã làm cho suy nghĩ của ông lệch lạc, phán đoán của ông ra tăm tối, băng họa, trác táng trong cách sống. Cơ hội phạm tội đến là ông sẽ phạm tội liền, ông không có khả năng chống cự, chế ngự lại tội lỗi.

Thánh Gioan Tẩy Giả chấp nhận cái chết đau thương này vì ngài dám làm chứng cho sự thật, mà Chúa là đường, là sự thật và là sự sống (xGa 14, 6), cho nên ngài chứng nhân, là vị tử đạo của Chúa. Đàng khác, ngài là vị chứng nhân quá khiêm nhường của Chúa: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30). Vì thế, Chúa yêu thương ngài và đề cao ngài: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa ai từng cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả” (Lc 7, 28). Chúng ta hãy noi gương bắt chước ngài là luôn sống thành thật, làm chứng Chúa là sự thật trong một thế giới đầy sự gian dối này.

Lạy Chúa, chúng con cơ hàn, chúng con khốn đốn, chúng con bần cùng, chúng con kêu lên Chúa trong nỗi đau thương của chúng con, xin Chúa thương nhận lời chúng con, và đừng để chúng con vì thế mà phản bội Chúa, nhưng cho chúng con luôn trung thành làm chứng cho Chúa như thánh Gioan Tẩy Giả của Chúa hôm nay. Amen.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây