Hãy báo tin cho anh em Ta hay. 22/07 Th. Maria Madalêna, Lễ Kính. "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
* Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa Giêsu ban ơn tha thứ, Maria Mađalêna đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc thương khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, cùng với Đức Maria, tông đồ Gioan và một số phụ nữ khác. Đức Giêsu đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn sơ của thánh nữ khi hiện ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho thánh nữ trách nhiệm loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ của Người. Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương đã gọi thánh nữ là”tông đồ của các tông đồ”.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở đâu".)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Mối tương quan thân thiết giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna đã được một vài tác giả khai thác và dựng thành truyện. Từ tiếng nức nở của Maria Mađalêna bày tỏ tình yêu với Thầy Giêsu trong vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar của thập niên 70, đến chuyện Đức Giêsu bị đóng đinh mà còn mơ lấy Maria làm vợ, đẻ con, trong truyện Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Nikos Kazantzakis. Gần đây nhất là cuốn Mật mã Da Vinci đã hấp dẫn cả triệu người, dù câu chuyện giữa CGS và Maria Mađalêna hoàn toàn hư cấu. Theo các sách Tin Mừng, Maria Mađalêna không hề là gái gọi. Chị không phải là cô Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe (Lc 10, 39), hay cô Maria xức chân Chúa ở Bêtania bằng dầu thơm hảo hạng (Ga 12, 3). Chị cũng không phải là người phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Pharisêu (Lc 7, 36). Maria Mađalêna là người quê ở vùng Mácđala, gần bên hồ Galilê. Chị đã được Đức Giêsu trừ bảy quỷ, và đã đi theo Thầy từ Galilê cùng các bà khác (Lc 8, 1-3; 23, 49. 55). Chị đã theo Thầy đến tận Núi Sọ và đứng bên Thầy bị đóng đinh (Ga 19, 25). Chị là người đầu tiên ra viếng mộ buổi sáng ngày thứ nhất (c. 1). Không thấy xác Thầy, chị hốt hoảng chạy về báo cho 2 môn đệ khác (c. 2). Sau đó chị lại đến mộ lần nữa để tìm xác Thầy (c. 11). Nếu không mến Thầy, chị chẳng thể can đảm theo đến cùng như vậy. Ngôi mộ tự nó là nơi buồn, buồn hơn vì xác Thầy cũng không còn đó. Những giọt nước mắt của chị làm ai cũng phải mủi lòng. Thiên thần và Đấng phục sinh đều hỏi một câu giống nhau: Sao chị khóc? Maria khóc vì thấy mình mất đi một điều quý báu. Bận tâm duy nhất ám ảnh chị là tìm lại được xác Thầy. “Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” Ba lần chị đã nói lời tương tự như thế (cc. 2.13.15). Đấng Phục sinh đến với chị với dáng dấp của một ông làm vườn. Ngài chạm đến nỗi đau của chị: Sao chị khóc? Ngài chạm đến khát vọng của chị: Chị tìm ai? Ngài gọi tên của chị bằng tiếng gọi quen thuộc: Maria. Với giọng nói ấy, chị nhận ngay ra Thầy và reo lên: Rabbouni. Đức Giêsu đã lau khô những giọt lệ của chị và cho tim chị vui trở lại. Chị chỉ mong tìm được xác Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống. Maria Mađalêna là người phụ nữ được thấy Chúa đầu tiên (c. 18), và được Chúa sai đi loan Tin Mừng phục sinh cho chính các tông đồ (c. 17). Đời chúng ta nhiều khi như ngôi mộ, mất mát và trống vắng. Chúng ta đau đớn vì mất Chúa, mất những gì mình yêu quý xưa nay. Nhưng nếu ngôi mộ không trống thì làm sao có Tin Mừng phục sinh? Chỉ mong chúng ta tìm kiếm Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria, vì biết mình sẽ gặp được điều quý hơn cái mình đã mất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn. Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ. Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh. Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, *** là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.(Chân phước Têrêxa Calcutta) ---------------------------------
Sứ điệp: Yêu mến Chúa là sức mạnh, là động lực, là lẽ sống và là niềm hy vọng của cuộc sống người Kitô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa mà bà Maria Ma-đa-lê-na đã can đảm có mặt dưới chân thập giá khi Chúa chịu chết. Vì yêu mến Chúa mà bà đã vội vã viếng thăm mộ Chúa, để rồi được diễm phúc gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Cũng vì yêu mến Chúa, mà bà đã sốt sắng, mau mắn loan báo cho các môn đệ về Tin Mừng Chúa đã sống lại.
Lạy Chúa, vì con chưa yêu mến Chúa nồng nàn, nên con còn cảm thấy đời sống đạo là một gánh nặng chồng chất của lề luật. Vì con chưa yêu mến Chúa thật tình, nên con chưa thể quên mình để sống bác ái với mọi người. Vì chưa yêu mến Chúa hết lòng, nên con vẫn sống hời hợt, không lý tưởng, con vẫn chưa thay đổi cuộc sống. Con vẫn bước đi trên lối mòn của con đường cũ, con đường lấy của cải vật chất làm mục đích, lấy hưởng thụ làm hạnh phúc, lấy ích kỷ làm niềm vui.
Lạy Chúa, vì yêu mến Chúa mà bà Maria Ma-đa-lê-na làm được tất cả. Xin cho con có được một lòng mến Chúa thiết tha như thế, để con là nhân chứng cho tình yêu Chúa trong xã hội nhân loại hôm nay, để con can đảm và say mê loan báo Tin Mừng của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, và để con đem Chúa đến cho những ai đang cần sự hiện diện của Chúa, bằng chính cuộc sống của con khi biết hy sinh, quảng đại, chia sẻ và phục vụ họ. Amen.
Thánh nữ Maria thành Magđala (Mácđala hay Mađalêna) là người được gọi đầu tiên trong số các phụ nữ được Chúa Giêsu chữa bệnh, nay theo và phục vụ Người (x. Lc 8,2).
Trong Phúc Âm có nói nhiều về những người mang tên Maria, cũng được Chúa chú tâm đặc biệt, ít nhất là có ba người, đó là các bà Maria thành Béthania (miền Giuđê), bà Maria thành Magđala (miền Galilê) và người đàn bà tội lỗi vô danh trong Phúc Am Thánh Luca (x. Lc 7).
Phụng vụ Giáo Hội La Mã, kể từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, đều coi Maria này là người đàn bà tội lỗi, rửa chân cho Chúa Giêsu (x. Lc 7,36-50) và là chị của Mátta và Lagiarô (x. Lc 10,38,50; Ga 12,1-8). Thế nhưng khoa Thánh Kinh ngày nay không xác tín điểm này.
Điểm chắc chắn không ai tranh cãi là Maria Magđala đã đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu (x. Mc 15,40-41). Bà hiện diện nơi cuộc táng xác Chúa (x. Mc 15,47) và vào buổi sáng phục Sinh, bà cùng mấy phụ nữ đã đi ra mồ Chúa (x. Mc 16,1-8). Chính bà là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra và sai đi báo cho các Tông Đồ tin mừng Phục Sinh (x. Mc 16,9; Ga 14-18).
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài tường thuật của Gioan, cũng về những chuyện sáng ngày Phục sinh, đặc biệt về Maria Mađêlêna:
1. Khi thấy ngôi mộ trống, Maria Mađêlêna”khóc” và”tìm” xác Chúa Giêsu.
2. Hai thiên thần hỏi lý do bà khóc. Hai vị chỉ hỏi chứ chưa nói Chúa Giêsu sống lại.
3. Chính Chúa Giêsu hiện ra với bà: ban đầu bà không nhận ra Ngài, khi Ngài gọi tên bà thì bà liền nhận ra. Ngài giải thích ý nghĩa việc sống lại:”Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha của các con, về cùng Thiên Chúa cũng là Thiên Chúa của các con.”
4. Maria Mađêlêna báo tin Phục sinh cho các môn đệ.
B. Suy gẫm (... nảy mầm)
1. Việc Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩa và tình cảm của con người; bà Maria Mađalêna chính là đại diện; trước cái chết: nếu không tin việc Phục sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng đã quá cố. Người này thân hành trở bà đến sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói:”Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs.” Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:”Ông nhà thật xứng đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp:”Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!”
2. Tình cảm của bà đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa, sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
3. Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại.”Ta biết các chiên Ta… các chiên Ta biết Ta …” Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không?
Một sinh viên cao đẳng đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh ta nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả các học sinh thân yêu tụ tập xung quanh anh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tôi cả các em đều được gọi nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng. Tên người thân thật quan trọng.
4. Chúa Giêsu đã hỏi Maria:”Tại sao con khóc?” và từ đó bà đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui.
5. Vì yêu mến Chúa, đôi khi tôi cũng thấy buồn vì không thấy Chúa: chung quanh tôi hình như không có chỗ cho Chúa ở, trong xã hội, trong những công việc và những con người. Xin cho thêm nhiều người biết Chúa, xin cho người ta biết dành chỗ cho Chúa trong việc làm và trong cuộc sống.
6.”Đức Giêsu gọi bà:”Maria” bà quay lại và nói:”Rapbuni” nghĩa là lạy Thầy.” Đức Giêsu bảo:”Thôi đừng giữ Thầy lại… nhưnhg hãy đi gặp anh em Thầy.”
“Này các chị có nghe điện thoại reo không? Sao tôi gọi mãi mà không có ai nhấc máy lên nghe vậy?” Từ dưới sân lầu, giữa trời nắng gắt, tiếng chị H, trực phòng khách lanh lảnh vang lên. Thật ra không phải chúng ta không nghe, nhưng ai cũng ngại nhấc máy. Vì đã nghe rồi thì sau đó phải”thông tin” lại cho người có liên quan hay phải đi gọi người dùm cho chị H.
Nhưng hôm nay, lời chị đánh động tôi rất nhiều. Vì đối với Chúa tôi cũng có thái độ như thế. Biết bao lần tôi đã dửng dưng trước những”cú phone” Chúa gọi cho tôi. Tôi không muốn nghe vì ngại phải thi hành những”Sứ điệp” của Chúa sẽ truyền dạy tôi. Cũng có thể nhiều lần Chúa gọi tôi ở đầu dây bên kia, nhưng tôi bận nghe hay nói với người khác ở đầu dây bên này. Như thế làm sao tôi có thể nghe được”điện” của Chúa?
Hôm mai táng Đức Giêsu, vì ít thời gian, người ta đã xức thuốc thơm cách hối hả. Sáng ngày sau, mấy bà đã đưa thuốc thơm đến mồ để làm lại cách chu đáo hơn. Khi đến nơi, các bà thấy ngôi mộ trống vì xác Ngài không còn nữa. Và Chúa hiện ra để củng cố đức tin cho các bà và sai họ đi báo tin cho các Tông đồ. Bài tường thuật của thánh Gioan hôm nay, ghi lại việc Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với bà Maria Madalena.
Khi thấy mồ Chúa mở toang, xác Chúa không còn trong mồ, bà Maria Madalena chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Mặc dầu bán tín bán nghi, hai ông Phêrô và Gioan cũng chạy ra mộ xem thực hư thế nào. Maria Mađalêna cũng chạy ra theo, ông Phêrô và Gioan, sau khi quan sát kỹ và thấy rõ xác Chúa không còn, hai ông ra về, một mình bà Maria Mađalêna ở lại mộ, ngậm ngùi, khóc lóc, thương nhớ Chúa, và Chúa đã hiện ra với bà, lúc đầu bà không nhận ra, nhưng sau một vài câu trao đổi, bà nhận ra Chúa và Chúa bảo bà hãy mau về kể lại cho các môn đệ hiện đang ở trong nhà Tiệc ly.
Bà Maria tức tốc chạy về nhà gặp các môn đệ đang nóng lòng chờ đợi. Họ vây quanh bà và hỏi:”Maria, chị hãy nói đi, chị đã thấy gì?” Bà Maria đáp:”Tôi đã thấy Chúa, Chúa đã hiện ra với tôi, Chúa gọi tên tôi và Chúa phán: ‘Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con, về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con’”. Những lời bà Maria nói đã phá tan mọi lo lắng, nghi ngờ nơi các Tông đồ, và lòng các ông tràn ngập vui mừng.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Đấng Phục sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Điều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Đức Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Đấng Phục sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay.
Để tin nhận Ngài, con người luôn làm bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng (Mỗi ngày một tin vui).
Lúc này lúc khác – qua những biến cố, những dữ kiện – Chúa vẫn lên tiếng gọi thẳng tên chúng ta nhằm để chúng ta biết Người sống lại và hằng sống... Những lần gọi thẳng tên như thế sẽ giúp chúng ta bình an và đi tới để nói cho mọi người rằng: chúng ta có Chúa sống lại cùng đi…
Cô bé đi học về muộn... Ở nhà bố mẹ rất lo... Thấy cô về, bố mẹ hỏi xem cô đã đi đâu và làm gì?
- Con dừng lại giúp bạn con... Xe đạp của bạn con bị hỏng. - Nhưng con đâu có biết sửa xe? - Đúng ạ! Nhưng con dừng lại để cùng khóc với bạn ấy.
Truyện: Cần biết tên từng người
Dù bà Maria không còn thấy gì và không nhận ra ai nữa cả, nhưng khi Đức Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại,”Ta biết các chiên Ta... Chiên Ta biết tiếng Ta...”. Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận ra tiếng Ngài không?
Một sinh viên Cao đẳng sư phạm đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả những học sinh thân yêu của anh tụ tập xung quanh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tất cả các em đều được gọi, nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng.
Maria Mađalêna, là con một gia đình phú quý sang trọng.
Sau khi cha mẹ mãn phần, Ngài được hưởng một lâu đài kếch sù ở Magdala, miền Galilê, do đó người ta gọi Ngài là Maria Mađalêna. Với cái gia tài to tát nầy, Maria sống xa hoa, đài các, sa đọa, làm cớ cho cả vùng Galilê gièm pha khinh dể. Nàng sa đọa, trụy lạc đến nỗi trở nên nô lệ ma quỷ, bị ma quỷ ám hại?
2. Sau khi theo Chúa: Can đảm điều chỉnh lại cuộc đời
Nhưng Chúa Giêsu thương Maria, khiến cho nàng ước muốn gặp Người. Và đây cơ hội thuận tiện đã đến. Nàng nghe tin Chúa dự tiệc tại nhà ông Simon biệt phái, nàng chạy đến để gặp Người:
Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pharisiêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng:”Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông! Ông ấy thưa:”Dạ, xin Thầy cứ nói”. Đức Giêsu nói:”Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?. Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo:”Ông xét đúng lắm.”
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm. mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít. Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ:”Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7,3 7-48)
Từ đó, Maria Mađalêna nhiệt thành đi theo giúp việc Chúa, sống đời đạo đức thánh thiện. Khi Chúa chết, Ngài đứng dưới chân thập giá. Trong lúc mai táng Chúa, Thánh nữ cũng có mặt với các môn đệ, chính Ngài đã chứng kiến ngôi mộ trống và là người đầu tiên nhận ra Chúa phục sinh và loan báo Tin mừng phục sinh cho các môn đệ.
3. Sau khi Chúa về Trời: Hết lòng loan báo Tin Mừng Phục Sinh
Thánh Giáo Hoàng Ghêgôriô Cả đã khen ngợi lòng yêu mến thiết tha của thánh nữ như thế này:
“Maria Mađalêna, sau khi ra mồ và không thấy xác Thầy mình ở đây nữa, liền tưởng là người ta đã mang Thầy mình đi rồi và chạy đi đưa tin cho các môn đệ. Các môn đệ tới, thấy như vậy và tin lời người phụ nữ đã nói. Sách Thánh đã viết về họ rằng: Vậy các môn đệ trở về nhà. Nhưng tiếp theo: Còn Maria thì đứng lại ở ngoài cứa mồ mà khóc lóc.,,
Trong câu chuyện này, ta phải thấy tình yêu đã làm cháy lòng người phụ nữ kia đến thế nào. Chúng ta thấy dù các môn đệ đã ra về, nhưng chị vẫn không rời bỏ mồ Chúa. Chị còn muốn tìm Đấng mà người ta không thấy. Chị khóc lóc mà tìm. Và bởi cháy lửa tình yêu mến đối với Chúa, chị càng nồng nàn ao ước tìm được Đấng mà chị tưởng là người ta đã mang đi: chính vì vậy mà chỉ có một mình chị đã thấy Người vì chị đã ở lại mà tìm. Ở đây chúng ta nhớ lời của Chúa đã nói xưa được ứng: Ai kiên trung đến cùng sẽ được cứu rỗi”.
B. Bài học
1. Yêu mến và tha thứ luôn có họ hàng với nhau
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là”ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến có thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình bàn tán về ý nghĩa của câu chuyện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng:
- Bấy giờ trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói:
- Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng yêu thương tha thứ cho con cái tôi.
2. Sự trung kiên đến cùng bao giờ cũng mang lại những kết quả tốt đẹp
Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến làm việc với một số anh em khác, công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn, trên đó mỗi người ngày ngày dệt phần được trao phó, việc làm xem ra độc điệu và vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế. Người tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:
Trước khi tôi được sai đến đây, người ta nói với tôi về một công trình nghệ thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần vào. Bây giờ tôi chỉ thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái máy, tôi không thấy đâu là nghệ thuật cả.
Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với thầy như sau:
Con ơi làm sao con thấy được công trình nghệ thuật mà chúng ta đang cộng tác để thực hiện bởi những gì con đang thấy là mặt trái của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ trong công trình mà thôi.
Khi tấm thảm đã hoàn thành, người ta lật tấm thảm lại. Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào một tuyệt tác. Đó là bức tranh của Ba Vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường kim mà người tu sĩ trẻ ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói trên đầu Chúa Hài Nhi. Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất giờ đây hiện lên như một kỳ công.
Maria Mađalêna hay còn gọi là Maria. Sau khi được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ, ngài đã theo Chúa trên hành trình đi rao giảng (x. Mc 16,9; Lc 8,1-3) Thánh nhân là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (x. Ga 20,1-18) kể lại những gì Chúa nói với ngài (x. Ga 20,18). Ngài đặt cho tước hiệu Apostolorum Apostola - Tông đồ của các Tông đồ. Vì ngài đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
Câu chuyện
Maria Mađalêna, hay”Maria Mácđala”, người được Ðức Kitô chữa khỏi bảy quỷ (x. Lc 8,1-3). Maria Mađalêna bị”nhận diện sai lầm” trong 20 thế kỷ vì người ta cho rằng cô là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu (x. Lc 7,36-50). Và người ta cũng lầm lẫn Maria Mađalêna với Maria thành Bêtania, em của Martha. Ba người tên Maria (Ngoài Đức Maria - Mẹ của Chúa Giêsu) mà Tân ước đề cập là ba nhân vật khác nhau.
Maria Mađalêna là một trong những người đã giúp đỡ Ðức Giêsu và nhóm Mười hai bằng các phương tiện của họ (x. Lc 8,2-3). Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Ðức Giêsu với Ðức Mẹ và Gioan tông đồ. Khi táng xác Chúa, Maria Mađalêna và Maria vợ ông Clêôphas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa Giêsu. Maria là một trong những nhân chứng”chính thức” đã được chọn để chứng kiến sự Phục sinh và loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh.
Suy niệm
Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi tâm hồn lạnh lẽo đang than thở khóc lóc… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì gặp Ðấng Phục Sinh…
Bà quá vui mừng và muốn giữ Ngài lại cho riêng mình. Nhưng Ðức Giêsu thúc giục bà hãy loan tin Ngài đã phục sinh:”Ðừng giữ Ta lại... hãy đi gặp anh em Ta và hãy báo tin.”...
Theo mệnh lệnh của Đấng Phục sinh, Mađalêna hoan ca reo vui ra đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và”Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18).
Sứ điệp tin mừng Phục sinh là niềm vui khôn tả nhưng luôn khẩn cấp không thể chần chừ trì hoãn vì Ðức Giêsu đã chết, sự chết làm tiêu tan tất cả và Ngài đã Phục sinh thông ban cuộc sống mới cho chúng ta: Cuộc sống được ra khỏi bóng tối của thế gian và những sự ràng buộc của nó, ra khỏi mùa đông lạnh lẽo đầy sự chết của ngôi mồ biểu tượng quyền bính của thần chết và bước vào ánh sáng của mặt trời công chính vừa bừng dậy sau giấc ngủ của đêm dài, bước trong sự ấm áp của nắng xuân Phục sinh.
Chúa Kitô Phục sinh về cùng Cha. Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta. Ngài về để mở đường đón chúng ta cùng về bên Cha.
Maria Mađalêna hoan ca loan báo tin mừng Chúa sống lại tựa những bông hoa tươi nở của mùa xuân Phục sinh, tâm hồn của chúng ta cũng bừng tỉnh đâm chồi, nảy lộc, kết những bông hoa của niềm tin vào Đấng Phục sinh:
Con muốn sống mùa xuân tươi trong Chúa Để tình con với Thầy chẳng hề phai Như hoa tươi tô đậm mãi Thiên ngai Xuân phục sinh, Nguồn sống mãi bất tận. (Cao Trí Dũng, Mùa xuân phục sinh).
Ý lực sống:
‘‘Nếu miệng bạn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa và con tim bạn tin rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết thì bạn sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,9).
Ngoại trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay.
Tuy nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7 của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến nhiều.
Ngày nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Ðó là Maria làng Bêtania, chị bà Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi "7 quỷ dữ". Cách nói "7 quỷ dữ" này không thể hiểu là Maria Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng nề.
Ðoạn 8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một ít phụ nữ khác như sau: "Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao giảng... Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và Gioanna... cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài".
Và con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa, cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: "Hãy đi gặp anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của ta và Thiên Chúa của anh em".
Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời.
Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi. Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: "Sự mạo nhận này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta".
Maria Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng ngoài và khóc.
Chúa Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai thành tâm tìm Chúa.
Chúng ta hãy noi gương Maria luôn đi tìm Chúa. Tìm Chúa trong lời cầu nguyện ngõ hầu cuối cùng chính Chúa mạc khải chính mình ra cho kẻ tìm Ngài, ngõ hầu chúng ta có thể nhận ra Ngài và loan báo cho anh chị em chung quanh: tôi đã gặp Chúa, tôi đã nhìn thấy Chúa.
Lạy Chúa,
Xin cho con được gặp Chúa. Xin đừng để con phải rời xa Chúa là Thiên Chúa mãi mãi.
Thánh Maria Mađalêna (hoặc Maria Mácđala, Mai Đệ Liên) được cả Công giáo, Chính thống giáo, Anh giáo, và Tin lành Luther tôn kính là một vị thánh, lễ nhớ ngày 22-7 hằng năm. Các Giáo hội Tin lành khác tôn kính bà là nữ anh hùng đức tin. Chính thống giáo Đông phương cũng kính nhớ bà vào Chúa nhật Myrrh-bearers (người mang dầu thơm).
Tên”cúng cơm” của Thánh Maria Mađalêna là Μαρία (Maria), và người ta thường chấp nhận ở dạng Latin được viết là Μαριὰμ (Mariam). Tên Maria rất phổ biến trong thời Chúa Giêsu vì liên quan việc cai trị thời Hasmonea và các triều đại Hêrôđê.
Tuy nhiên, bà bị tai tiếng vì bà bị hiểu lầm là”người phụ nữ tội lỗi” đã khóc và xức dầu thơm chân Chúa Giêsu.
Thực ra Maria Mađalêna (Hy ngữ: Μαρία ἡ Μαγδαληνή) là một phụ nữ đạo đức và can đảm. Trong Tân ước, Thánh Maria Mađalêna được coi là người phụ nữ quan trọng thứ nhì sau Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Bà đồng hành với Chúa Giêsu cùng với các Tông đồ. Bà hiện diện trong hai thời điểm quan trọng nhất của Chúa Giêsu: Chịu đóng đinh và phục sinh. Trong 4 Phúc Âm, tài liệu lịch sử cổ xưa nhất nhắc đến tên bà, ít nhất 12 lần, hơn cả các Tông đồ khác. Phúc Âm diễn tả bà là người đủ can đảm nên mới có thể đứng bên Chúa Giêsu trong thời gian Ngài chịu khổ nạn, chịu chết và sau đó.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ và chữa bệnh cho bà (x. Lc 8:2; Mc 16:9), đôi khi được hiểu là các chứng bệnh phức tạp. Bà nổi bật nhất trong những ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên thế gian. Khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, bà có mặt ở đó với Ngài, trong giây phút khủng khiếp nhất, và bà đã than khóc Ngài. Sau khi các Tông đồ”bỏ của chạy lấy người”, trừ Thánh Gioan Tông đồ, bà vẫn ở bên Chúa Giêsu. Khi an táng Chúa Giêsu, bà là người duy nhất được kể tên trong cả 4 Phúc Âm khi biết Chúa Giêsu phục sinh và chính bà là nhân chứng đức tin. Ga 20:11-18 và Mc 16:9 xác nhận bà là người đầu tiên gặp Chúa Giêsu phục sinh. Bà có mặt vào ngay giây phút đầu tiên mà sau đó biến đổi Tây phương. Bà là”Tông đồ đối với các Tông đồ”, một cách nói kính cẩn mà thần học gia Augustine (Chính thống giáo, thế kỷ IV) đã dành cho bà, và những người thời Giáo hội sơ khai cũng nói về bà như vậy.
Mặc dù ngày xưa bà bị mang tai tiếng khi người ta mô tả trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, và cả những cuốn sách và các bộ phim mới đây, như The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci), ngày nay người ta cũng đồng ý điều này:”Không có chứng cớ Kinh Thánh nào chứng tỏ bà là gái điếm, người vợ, người mẹ, hoặc người yêu bí mật”.
Trong cả 4 Phúc Âm, Thánh Maria Mađalêna hầu như luôn được phân biệt với các phụ nữ khác tên là Maria bằng cách thêm chữ Mađalêna vào tên bà. Theo truyền thống, điều này có nghĩa bà là người vùng Mađalêna, một thành phố thuộc Tây duyên hải Galilê. Lc 8:2 nói rằng bà thực sự được gọi là Mađalêna. Theo tiếng Do thái, Mađalêna (Migdal, מגדל) nghĩa là”tháp”,”thành lũy”; theo tiếng Aram, Mađalêna nghĩa là”tháp” hoặc”được nâng lên, cao cả, nguy nga”. Các bản văn truyền thống Do Thái nói:”Miriam, hamegadela se’ar nasha” – Maria, người bện tóc phụ nữ (Hagigah 4b; x. Shabbat 104b), có thể nói Maria Mađalêna phục vụ như một người thợ làm tóc (kiểu làm đầu, uốn tóc ngày nay).
Trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, Thánh Maria Mađalêna cũng được nhắc tới bằng tên Maria ít nhất là 2 lần. Các văn bản không chính thức khác thì dùng tên Maria, Maria Mađalêna, hoặc Mađalêna.
Ngày nay, hầu như người ta đồng ý điểm quan trọng: Người ta cho rằng Thánh Maria Mađalêna là”gái điếm sám hối”, đó là vô căn cứ. Tuy nhiên, Thánh Maria Mađalêna vẫn bị lầm lẫn với các phụ nữ khác cũng tên Maria và vài phụ nữ nặc danh vẫn bị coi là phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người ta đồng hóa Maria Mađalêna với nữ tội nhân vô danh nào đó (thường biết đến là phụ nữ ngoại tình) trong trình thuật Lc 7:36-50. Mặc dù Thánh Maria Mađalêna được nhắc tên trong cả 4 Phúc Âm, nhưng không lần nào nói bà là gái điếm hoặc tội nhân. Tân ước không hề có”gợi ý” nào nói bà là một cô gái làng chơi hoặc một phụ nữ trắc nết. Các học giả đương đại đã phục hồi”danh tiếng” cho Thánh Maria Mađalêna là người dẫn dắt quan trọng của Kitô giáo thời sơ khai.
Nhiều thế kỷ qua, Công giáo Tây phương dạy rằng Thánh Maria Mađalêna là người được nói tới trong các Phúc Âm vừa là Maria ở Bêthania vừa là”người đàn bà tội lỗi” xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Lc 7:36-50). Khái niệm về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm sám hối đã phổ biến qua nhiều thế kỷ, ít là từ Ephraim người Syria (thế kỷ IV), Thánh GH Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), nhiều họa sĩ, văn sĩ và các nhà chú giải Kinh Thánh cũng theo xu hướng đó. Từ thế kỷ XII, Abbot Hugh ở Semur (qua đời năm 1109), Peter Abelard (qua đời năm 1142), và Geoffrey ở Vendome (qua đời năm 1132) đều nhắc tới Thánh Maria Mađalêna là người tội lỗi và được tặng danh hiệu”apostolarum apostola” (Tông đồ đối với các Tông đồ), danh hiệu này trở thành phổ biến trong các thế kỷ XII và XIII.
Do đó, hình ảnh cô-gái-điếm-sám-hối trở thành”đặc điểm” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna trong nghệ thuật và văn chương tôn giáo ở Tây phương. Vì hiểu sai về bà nên trong nghệ thuật, người ta thường vẽ bà mặc áo hở cổ, lả lơi, thậm chí có họa sĩ còn vẽ bà khỏa thân bên chiếc sọ đầu lâu với bình dầu thơm, và một tay cầm Thánh Giá, hoặc là một phụ nữ xa lánh mọi người để sám hối nơi hoang địa.
Sự đồng hóa đó là do Công giáo Tây phương, có trong bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả vào khoảng năm 591. Thánh GH Grêgôriô Cả được coi là một trong những người ảnh hưởng nhất và trở thành giáo hoàng. Trong các bài giảng nổi tiếng của ngài về Thánh Maria Mađalêna, giảng tại Rôma, ngài đã xác định Mađalêna không chỉ là phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca, mà còn là Maria ở Bêthania, chị của Matta và Ladarô; chính bảy quỷ được Chúa Giêsu trục xuất”đã tạo thành 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bắt đầu bị kết án không chỉ vì tội dâm dục mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam”. Bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả về Phúc Âm theo Thánh Luca đã tạo thành cách hiểu chính thức của Giáo hội về Thánh Maria Mađalêna, cho rằng bà là phụ nữ”alabaster jar” (gái điếm).
Trong bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả nói:”Bà [Maria Mađalêna] là người mà Thánh Luca gọi là phụ nữ tội lỗi, Thánh Gioan gọi là Maria, chúng ta tin là Maria được trừ bảy quỷ trong Phúc Âm theo Thánh Máccô. Bảy quỷ này biểu hiện điều gì, nếu không phải là các thói hư? Anh chị em thân mến, rõ ràng là phụ nữ này trước đó đã xức thơm thân xác cô bằng những hành động bị cấm. Do đó điều cô biểu hiện càng khiếm nhã hơn, nhưng nay cô dâng cho Chúa bằng động thái đáng khen. Cô đã ham muốn bằng con mắt trần tục, nhưng nay cô ăn năn bằng nước mắt. Cô đã xõa tóc che mặt, nhưng nay cô dùng tóc lau khô nước mắt. Miệng cô đã nói những điều kiêu ngạo, nhưng nay cô dùng miệng hôn chân Chúa, cô đặt miệng mình lên chân Đấng Cứu Thế. Do đó, đối với mỗi niềm vui, cô đã có trong lòng, nay cô hy sinh chính mình. Cô biến tội lỗi thành nhân đức để phục vụ Thiên Chúa hoàn toàn trong sự ăn năn”.
Với điều này, tác giả Susan Haskins viết trong cuốn”Mary Magdalene: Myth and Metaphor” (Maria Mađalêna: Huyền thoại và Ẩn dụ):”Cuối cùng, hình ảnh xung đột của Thánh Maria Mađalêna cũng được sáng tỏ… sau gần 140 năm”.
Năm 1969, trong triều đại giáo hoàng của Chân phước Phaolô VI, Tòa Thánh không phê bình về nhận xét của Thánh GH Grêgôriô Cả, mà chỉ bỏ điều đó bằng cách tách biệt người phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca với bà Maria ở Bêthania và Maria Mađalêna qua Sách lễ Rôma.
Do đó, tai tiếng vẫn cứ”lờn vờn” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna. Sau thời gian quá lâu, cách tin này trở thành”thâm căn cố đế” không chỉ trong Giáo hội Tây phương mà còn trong một số Giáo hội Tin lành đã từng theo truyền thống Công giáo Rôma.
Cách hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là cô-gái-điếm-sám-hối vẫn được nhiều văn sĩ và họa sĩ hồi thập niên 1990. Thậm chí ngay cả ngày nay, cách hiểu sai đó vẫn được truyền bá. Điều đó được phản ánh trong bộ phim của Martin Scorsese – phỏng theo tiểu thuyết”Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Đức Kitô” (The Last Temptation of Christ) của Nikos Kazantzakis, trong phim”Phúc Âm theo Chúa Giêsu Kitô” (The Gospel According to Jesus Christ) của José Saramago, trong”Siêu Sao Giêsu Kitô” của Andrew Lloyd Webber, trong”Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô” của Mel Gibson, trong”Màu Thập Giá” (Color of the Cross) của Jean-Claude La Marre và trong”Sách Sự Sống” (The Book of Life) của Hal Hartley.
Vì hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm nên người ta mới chọn bà làm bổn mạng của”các phụ nữ hư hỏng”, vì có một truyền thuyết lâu đời trong Giáo hội nói rằng bà là người phụ nữ tội lỗi vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu được thuật lại trong Lc 7:36-50, và Viện tế bần Mađalêna đã được thành lập để”cứu vớt” các chị em từ nhà thổ. Bà còn được coi là bổn mạng của những người bị vu khống.
Thánh sử Luca cho biết:”Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8:1-3).
Lúc Chúa Giêsu chịu khổ hình và phục sinh, Thánh Maria Mađalêna đã có mặt bên Chúa Giêsu. Trong số những người theo Chúa Giêsu chỉ có bà được nói rõ tên là nhân chứng 3 sự kiện quan trọng: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, Chúa Giêsu chịu mai táng, và ngôi mộ trống. Mc 15:40, Mt 27:56 và Ga 19:25 nói đến Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, cùng với các phụ nữ khác. Thánh Luca không nêu tên nhân chứng, nhưng nói:”Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giêsu cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Galilê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23:49). Thánh Máccô nói:”Còn bà Maria Mađalêna và bà Maria mẹ ông Giôxết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người” (Mc 15:47), và Thánh Matthêu nói:”Còn bà Maria Mađalêna và một bà khác cũng tên là Maria ở lại đó, quay mặt vào mồ” (Mt 27:61). Lc 23:55 cho biết:”Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào”. Ga 19:39-42 mô tả:”Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó”.
Thánh Máccô, Matthêu và Gioan đều nói Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng đầu tiên đối với việc Chúa phục sinh. Ga 20:1 cho biết Thánh Maria Mađalêna mô tả việc thấy ngôi một trống. Mc 16:9 nói:”Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ”. Thánh sử Mátthêu cho biết:”Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ” (Mt 28:1).
Sau khi thuật lại cho các Tông đồ biết Chúa Giêsu đã phục sinh, Thánh Maria Mađalêna không được nhắc đến trong Tân ước nữa. Bà cũng không được nhắc tên trong sách Công vụ, và”số phận” bà vẫn không được tài liệu ghi lại và không được”minh oan”. Có phải vì vậy mà bà cứ bị hiểu lầm là”người phụ nữ tội lỗi” chăng?
Đa số các học giả Kinh thánh ngày nay đều chứng tỏ rằng không có nền tảng Kinh thánh nào để lẫn lộn hai phụ nữ này. Maria Magđalêna, nghĩa là Maria ở Magđalêna, là người mà Chúa Giêsu đã đuổi”bảy quỷ” (Lc 8:2). Maria Mađalêna là một trong những người”giúp Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai”. Bà là một trong những người đứng bên Thánh giá với Đức Mẹ.
LM W.J. Harrington, Dòng Đa Minh, viết trong cuốn”Chú giải Công giáo mới” (New Catholic Commentary):”Bị bảy quỷ ám không có nghĩa là Thánh Maria Mađalêna đã sống cuộc đời vô luân, một kết luận chỉ đạt được bằng cách lầm lẫn với phụ nữ vô danh trong Lc 7:36”. LM Edward Mally, Dòng Tên, viết trong cuốn”Chú giải Kinh thánh của Thánh Giêrônimô” (Jerome Biblical Commentary):”Bà (Maria Mađalêna) KHÔNG là phụ nữ tội lỗi trong Lc 7:37, mặc dù có truyền thống lãng mạn Tây phương đã nói về bà”.
Hy vọng Thánh Maria Mađalêna sẽ không còn bị”mang tiếng” và không còn bị chúng ta hiểu lầm như xưa nay nữa!
Lạy Thánh nữ Maria Mađalêna, xin thương nguyện giúp cầu thay. Amen.
Trong chiều hướng duy trí (intellectualism) và duy ngã (egoism) của thời hiện đại, ồn ào nhất là nhóm muốn phục hồi tín lý của Ngộ Giáo (Gnosticsm); tín lý này cho rằng khi trí huệ của một người nào đó đạt tới mức thượng trí, người ấy có thể tự cứu độ cho mình. Định hướng đề cao trí thức và năng lực cá nhân của mô thức sống đạo này có sức hút rất mạnh nơi giới thanh niên. Một phần nó phù hợp với nếp sống phóng túng của người đương thời, phần khác nó rất gần với những niềm tin dễ dãi vào cõi huyền bí. Những vị sư phụ”đắc đạo” thần thông gặp thời xuất hiện khắp nơi. Đã có nhiều bạn Việt gọi sư phụ của mình là Thượng Đế, mặc dù họ thuộc những nhóm tu khác nhau. Trong giới lãnh tụ Tây Phương, hai nhà khoa bảng Robert Langdon và Leigh Teabing (1) là hai tay nổi bật nhất. Việc làm của hai vị này có chủ trương và hệ thống chặt chẽ. Trước hết hai ông phủ nhận vị thế Đấng Cứu Độ của Đức Giêsu. Nếu con người có thể tiếp xúc thẳng với Thương Đế thì đâu cần Đấng trung gian là Đức Giêsu. Sau đó họ phủ nhận Giáo Hội Công Giáo vì hệ thống này không còn giá trị và không cần thiết. Để hạ uy tín Đức Giêsu, hai ông vin vào kinh điển Ngộ Giáo và 2 sách Phúc Âm theo Philíp và Maria [Mađalêna] của ngụy kinh, để đưa ra luận chứng rằng Đức Giêsu đã có mối tình trần thế với bà Maria Mađalêna. Nhà văn Dan Brown phụ họa theo sáng tác ra truyện Da Vinci Code. Brown viết rằng bà Mađalêna đã có con với Đức Giêsu. Brown khéo léo viết truyện theo dạng tài liệu nghiên cứu nên cũng đã nổi danh khắp thế giới một thời. Điện ảnh Hollywood chộp cơ hội làm thương mại, họ tung ra phim cùng tên Da Vinci Code để ăn có, nhưng không tạo ra thêm một tiếng vang nào.
Sách và phim Da Vinci Code đã bị rất nhiều người lột trần sự sai lầm của chúng nên xin miễn nhắc lại. Vấn đề muốn nêu ra ở đây là ý đồ họ muốn dùng bà Maria Mađalêna làm đòn bẩy để hủy bỏ vị thế”Đấng Cứu Thế Giêsu”. Thánh Maria Mađalêna trở thành vấn nạn cho”đức tin tôn giáo” khi càng ngày càng có nhiều người lợi dụng sự mờ nhạt lịch sử, cố ý đưa ra những nhận định hàm hồ (2). Vô tình, bà là vị tông đồ duy nhất chịu rất nhiều ngộ nhận từ phía thế tục và, đáng tiếc, cả từ Giáo Hội.
Bà Maria Mađalêna Trong Ngụy Thư
Các học giả công giáo cho rằng hai sách phúc âm của Philíp và Maria [Mađalêna] được viết vào khoảng cuối thế kỷ II hay đầu thế kỷ III. Điều đáng nói là sách không do Philíp và Maria viết, vì lúc đó họ đã qua đời. Susan A. Calef (3) có công khảo sát hai quyển sách trên để tìm hiểu về mối tình giữa Đức Giêsu và bà Maria Mađalêna. Trong sách của Philíp, bà chỉ thấy có chữ”cảm thương” khi diễn tả lòng nhân từ của Đức Giêsu dành cho bà Maria Mađalêna. Một lối bộc lộ tình cảm rất bình thường. Trong sách của Maria có một đoạn nói rõ hơn. Đó là lần các tông đồ khiếu nại với Đức Giêsu rằng,”Tại sao Thầy lại yêu bà ấy hơn chúng tôi?” Câu nói này không đủ chứng cớ để đưa ra những nhận xét ác ý. Ngoài ra nếu phân tích kỹ câu nói, người ta sẽ thầy nhiều điểm vô lý của nó. Nếu thật sự Đức Giêsu và bà Maria có tình nghĩa vợ chồng, không lẽ các Tông Đồ lại ganh tị với bà.
Bà Maria Mađalêna Trong Chính Kinh
Cả bốn sách Phúc Âm chính kinh đều viết về bà Maria Mađalêna, nhưng lại không làm sáng tỏ vị thế đặc biệt của bà. Maria Mađalêna là ai? Tên thật của bà là Maria, bởi sinh trưởng ở xứ Mađala nên được gọi là Maria Mađalêna. Maria là một tên nữ rất thông dụng của dân Do Thái. Ngay mẹ của Đức Giêsu cũng có tên là Maria. Đa số các bà theo Đức Giêsu đều có tên là Maria. Thánh Kinh khi nhắc đến họ thường chỉ nói là”bà Maria.” Vì vậy người đọc hầu như không thể xác định được người được nhắc đến là bà Maria nào.
Theo các giáo phụ Hy Lạp, trong số những môn đồ nữ của Đức Giêsu, có ba vị trùng tên là Maria:
Bà Maria tội lỗi, người lấy nước mắt rửa chân cho Đức Giêsu (Luca 7:36-50). Bà Maria chị của Martha và Lazaru (Gioan 11:1-3 và Luca 10:38-42). Bà Maria xứ Mađala, tức Maria Mađalêna, người bị 7 quỉ ám (Luc 8:2).
Theo truyền thống Protestant chỉ có hai bà Maria.
Bà Maria xứ Bêthani, tức người đàn bà tội lỗi, cũng là chị em của Martha và Lazaru.
Bà Maria xứ Mađala, tức người bị 7 quỉ ám.
Theo truyền thống Latin ba nhân vật nói trên chỉ là một người, đó là bà Maria Mađalêna. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói tới một cô gái giang hồ, tức người đàn bà phạm tội ngoại tình (Gio 8:1-11). Cũng theo truyền thống Latin, Maria Mađalêna bị đồng hóa với cô gái này.
Chúng ta hãy lần theo sử liệu để thấy rõ tại sao lại có vấn đề bất nhất về sự nhận diện về bà. Trước hết theo thánh sử Luca, Đức Giêsu gặp bà Maria lần đầu tiên tại miền Galilê. Bà Maria này được nhận diện là người đàn bà tội lỗi, người rửa chân cho Đức Giêsu (Luc 7:36-50). Kế đó Đức Giêsu rời Galilê đến một tỉnh nào đó và Ngài đã làm phép đuổi 7 quỉ ám ra khỏi bà Maria Mađalêna (Luc 8:1-3). Tuy Thánh Kinh không nêu địa danh nơi Đức Giêsu làm phép đuổi quỉ, nhưng căn cứ vào địa danh Mađala, người ta có thể biết Đức Giêsu đã đi về hướng Bắc của xứ Galilê. Thánh Luca không nói gì đến sự đồng nhất giữa bà Maria bị quỉ ám và bà Maria”tội lỗi” ở Galilê. Sau đó Đức Giêsu đến một tỉnh khác, ta có thể phỏng đoán là tỉnh Bêthani. Tại đây Ngài gặp bà Maria chị em của Martha và Lazaru (Luc 10:38-42). Căn cứ vào 3 địa điểm khác biệt và cách quãng, nên đã có khuynh hướng tin rằng có 3 nhân vật Maria khác nhau. Tuy nhiên thánh sử Gioan lại khảng định 3 nhân vật trên chỉ là một người, đó chính là bà Maria Mađalêna (Gio 11:1-3; 12:1-3). Vì vậy sự lẫn lộn hàm hồ bắt đầu từ đấy.
Đã có nhiều giả thuyết giải thích về sự khác biệt của sử liệu, nhằm mục đích thống nhất những cá biệt về một mối. Chẳng hạn có thuyết cho rằng Bà Maria Mađalêna vốn là người xứ Mađala nhưng sinh sống ở Bêthani và có một thời cư ngụ ở Galilê. Thần học gia Elizabeth A. Johnson phủ nhận ý này vì nó đầy vẻ gượng ép. Elizabeth nhận xét rằng vì thánh Gioan khẳng định 3 nhân vật nói trên là một người, nên tín hữu đã có khuynh hướng uốn nắn lối nhìn theo chiều hướng ấy.
Theo Elizabeth, thánh Gioan viết Phúc Âm khoảng 50-80 năm sau khi Đức Giêsu chịu nạn. Thời gian 50-80 năm đủ để làm phai nhạt trí nhớ về độ chính xác của sự kiện. Hơn nữa thánh sử đặt trọng tâm vào sứ mạng truyền bá đạo lý hơn là việc ghi chép sử liệu. Do đó mọi tình tiết phụ thường chỉ dựa vào truyền thuyết mà viết lại chỉ cốt cho câu truyện được đầy đủ mà thôi. Vào lúc ấy bà Maria Mađalêna đã qua đời. Những gì viết về bà dù không được chính xác cũng không còn ai đính chính nữa. Một dẫn chứng về độ chính xác của thánh sử Gioan là biến cố bà Maria Mađalêna rửa chân cho Đức Giêsu. Cả hai thánh Máccô và Mátthêu đều nhất trí cho biết trước ngày lễ Vượt Qua 2 ngày, Đức Giêsu ở trong nhà ông Simon thuộc tỉnh Bêthani. Tại đây bà Maria Mađalêna đã rửa chân cho Đức Giêsu (Mac 14: 1-3; Mat 26: 1-8). Tuy nhiên thánh Gioan lại kể rằng sự kiện rửa chân xảy ra tại nhà bà Martha trước lễ Vượt Qua 6 ngày (Gio 12: 1-3). Nếu không muốn chấp nhận có hai lần rửa chân, chúng ta đành phải lựa một bỏ một. Trong trường hợp này sử liệu của hai thánh Máccô và Mátthêu chính xác hơn của thánh Gioan. Bởi vì hai vị đều tường thuật như nhau. Hơn nữa sách của họ được viết sau biến cố phục sinh khoảng 10 – 20 năm, thời gian rất gần với biến cố nêu ra và còn được hỗ trợ bởi nhiều nhân chứng còn sống.
Đi tìm Chân Dung Thánh Maria Mađalêna
Như vậy những gì chúng ta có thể biết chính xác về bà Maria Mađalêna là: bà là người xứ Mađala và là người bị 7 quỉ ám (Mac 16:9). Bà phụ giúp Đức Giêsu trong mọi hành trình rao giảng tin mừng (Luc 8:2-3). Bà là người đứng dưới chân Thập Tự giá lúc Đức Giêsu từ trần (Mac 15:40; Mat 27:56; Luc 23:49; Gio 19:25). Bà chứng kiến cảnh táng xác Đức Giêsu (Mac 15:47). Bà là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (Gio 20:1-18). Với những sự kiện này, xét theo cương vị môn đồ, bà phải là một vị Tông Đồ có một vị thế rất cao trọng.
Sáu trăm năm sau, đại chúng dựa vào truyền thuyết cho rằng bà Maria Mađalêna là”người đàn bà tội lỗi” và là”người đàn bà ngoại tình.” Sự kiện này được hợp thức hóa bởi Giáo Hoàng Gregory Cả (590-604). Lỗi lầm về sự ngộ nhận này có thể hiểu là do sự vô ý hơn là chủ ý. Vào thời đó giáo hội không có lợi điểm lãnh hội sự đa dạng thâm sâu của thần học như ngày nay. Nhận định của Giáo Hoàng Gregory Cả chỉ là phản ảnh niềm tin của đại chúng. Theo truyền thống, tín hữu công giáo tin rằng người bị 7 quỉ ám phải là người tội lỗi nặng nề. Giáo hoàng Gregory Cả nhận định 7 quỉ tượng trưng cho 7 tội, trong đó nặng nhất là tội dâm ô. Trong chiều hướng ấy giáo lý về 7 mối tội đã được giáo hội khai triển ra. Nghiên cứu về lịch sử, các học giả thấy rằng vào thời đó giáo hoàng Gregory Cả khởi xướng chương trình cải tổ nền luân lý Kitô giáo. Vì nhu cầu lợi ích cho giáo dân, giáo hoàng đặt bà Maria Mađalêna vào địa vị gương mẫu cho chủ thuyết của ngài. Ngài muốn đại chúng thấy một bằng chứng điển hình để chứng minh kẻ tội lỗi nhất cũng có thể cải hóa.
Trên thực tế Thánh Kinh nói rất nhiều về trường hợp đàn ông bị quỉ ám, nhưng không có trường hợp nào nam nạn nhân bị gán là kẻ tội lỗi. Các thánh sử không hề đồng hóa sự việc bị quỉ ám với tội lỗi. Thần học cũng không thấy có sự liên hệ giữa hiện tượng quỉ ám và tội lỗi. Tại sao lại có thành kiến xấu về phía nữ nạn nhân bị quỉ ám. Thánh Kinh ghi rằng Đức Giêsu chữa lành bệnh quỉ ám cho bà Maria Mađalêna chứ không nói tha tội cho bà. Về vấn đề cô gái giang hồ, không hề có phúc âm nào, kể cả Phúc Âm theo thánh Gioan, cho biết người đàn bà ngoại tình là bà Maria Mađalêna (Gio 8:1-11). Tại sao chúng ta phải gán cho bà những tội mà chứng cớ sử liệu không có. Các giáo phụ thời giáo hội sơ khai không hề nói bà Maria Mađalêna là người tội lỗi, trái lại các ngài rất tôn trọng bà. Câu tuyên bố nổi tiếng của bà với các Tông Đồ:”Tôi đã thấy Chúa” (Gio 20:18) khiến các Tông Đồ cho bà là kẻ nói sảng (Luc 24:11). Nhưng chính câu tuyên bố ấy là nền móng xây dựng giáo hội Kitô và là bản tuyên xưng khải hoàn của giáo hội phục sinh. Cảm phục thành tích của bà, thánh Hippolytus Thành Lamã (khoảng năm 200) đã đặt cho bà tước hiệu”Apostolorum Apostola” (Tông Đồ của các Tông Đồ). Hợp lòng với thánh Hippolytus, thánh Augustine (354-430) nói,”Chính Chúa Thánh Thần đã khiến bà Maria Mađalêna trở nên Tông Đồ của các Tông Đồ.”
Với một vị thế như vậy, tại sao Maria Mađalêna không được Kinh Thánh lưu ý một cách đúng mức? Thực ra Thánh Kinh đã có nêu tên bà một cách đặc biệt, nhưng vẫn còn vướng mắc trong vấn đề văn hóa trọng nam khinh nữ. Vào thời đó người phụ nữ không có chỗ đứng trong xã hội. Ngay cả mẹ Đức Giêsu cũng ít được nhắc đến. Họ không được nêu tên ra trước công chúng. Các thánh sử thường dùng cách nói trống như”có mấy người phụ nữ” để gọi họ (Luc 23:55). Nếu có nhắc đến một cá nhân đặc biệt nào, người ấy thường được xác nhận nương vào tên của người đàn ông. Chẳng hạn”bà Maria vợ của Clôbát”,”bà Maria mẹ của Giacôbê” (Gio 19:25; Mac 15:40; Luc 24:10). Tuy thế tên của bà Maria Mađalêna đã được các thánh sử nhắc đến nhiều lần. Điều đó chứng tỏ bà là người nổi bật không thể bỏ qua. Nhiều khi có nhiều bà hiện diện, nhưng thánh sử vẫn chỉ nêu danh của riêng bà:”có bà Maria Mađalêna và những bà Maria khác” (Mat 28:1).
Các học giả và thần học gia Công Giáo kêu gọi tín hữu hãy có một nhận định mới về thánh Maria Mađalêna (4). Xưa kia bà đã là nạn nhân của sự ngộ nhận gán cho bà là kẻ đầy tội lỗi. Ngày nay bà lại là nạn nhân trong sự lợi dụng của phong trào đề cao cá nhân và giải phóng phụ nữ. Chủ thuyết Ngộ Giáo đề cao năng lực cá nhân, nhưng con người không thể nào là chính mình. Ta là một cá nhân bất toàn, tội lỗi, một con người chưa trọn vẹn. Muốn vươn lên để hòa nhập với Thiên Chúa, con người cần sự cứu chuộc của Đức Giêsu để trở nên hoàn hảo. Về vấn đề nữ quyền, gần đây đã có phòng trào yêu cầu giáo hội Công Giáo phong chức linh mục cho nữ giới. Sự yêu cầu, phần nào liên hệ đến chủ đề bình quyền giới tính, nhưng phần lớn đặt căn bản trên nhu cầu thiếu hụt nhân số trong giới chức phụng vụ. Giáo hoàng Gioan Phaolô II và tiếp nối là Giáo Hoàng Bênêđic XVI cho rằng việc truyền chức linh mục cho nam giới là một cổ tục thuộc lãnh vực truyền thống, vốn do Đức Giêsu lập ra. Nghi thức này không đặt trên sự kỳ thị giới tính, nhưng vì Giáo Hội không đủ tư cách để thay đổi thể thức của Đức Giêsu.
Bà Maria Mađalêna đã được các học giả và thần học gia Công Giáo nhận diện là một trong những vị sáng lập ra giáo hội sơ khai. Bà là người duy nhất chia sẻ với Đức Giêsu trong hành trình giảng đạo từ Galilê, trung thành với Ngài cho đến phút cuối cùng của cuộc khổ nạn, và đón chào Ngài lúc phục sinh. Đó là những kho tàng ẩn dấu cần khai quật hơn là trưng bày những gán ghép lấy từ dã sử và truyền thuyết.
Theo truyền thống Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, thánh Maria Mađalêna cùng thánh Gioan và Đức Mẹ Maria di chuyển về miền Êphêsô, Tiểu Á. Thánh Maria Mađalêna sống một cuộc đời sám hối đúng với chân lý Phúc Âm rồi qua đời ở đó. Lễ kính thánh nhằm ngày 22 tháng Bảy. Từ năm 1970, Giáo hội Công Giáo đã điều chỉnh bài phúc âm trong thánh lễ kính thánh Maria Mađalêna. Bài đọc về câu truyện”người đàn bà ngoại tình” được thay thế bằng câu truyện bà gặp Đức Giêsu phục sinh (Gio 20:11-20). Đáng tiếc sự sửa sai này đã không được đại chúng chú ý đúng mức. Đại chúng vẫn thấy bà vốn là một cô gái giang hồ, người bị 7 quỉ ám, hơn là một vị Tông Đồ, người đần tiên gặp Đức Giêsu phục sinh. Kitô hữu chúng ta hãy rửa chân cho sạch bụi bặm của những bước đi lạc đường, để đứng cúi đầu tôn kính một vị thánh cao cả.
______ (1) Robert Langdon là gíáo sư môn Ký Hiệu Tôn giáo (Religious Symbology) tại Harvard University. Leigh Teabing là nhà sử học của hoàng gia Anh (2) Phim”the Last Temptation of Christ” của Hollywood và sách”The Da Vinci Code” của Dan Brown có thể coi là tiêu biểu cho khuynh hướng sai lạc hiện nay. (3) Susan A. Calef, Ph.D. thành viên trong ban giám đốc khoa thần học tại Creighton University, Omaha, bang Nebraska. (4) Xin coi sách”Cracking The Da Vinci Code: Theologian Elizabeth Johnson on Mari Magdalene”
"Vì bà đã yêu mến nhiều nên bao nhiêu tội của bà được tha hết" (Lc 7,47). Phải, chúng ta không còn hồ nghi gì về lòng mến Chúa của bà Mađalêna. Chính lòng mến yêu nồng nhiệt ấy đã lôi kéo Bà từ tình trạng tội lỗi của một phụ nữ giang hồ về một đời sống thánh thiện gương mẫu.
Mađalêna sinh trưởng trong một gia đình đạo đức. Không ai biết rõ bà chào đời vào năm nào, nhưng Phúc âm đã nói nhiều tới bà, vậy bà đã sống đồng thời với Chúa Cứu Thế. Tuy thuộc về một gia đình đạo đức, nhưng chẳng may tính đa sầu đa cảm của bà đã khiến bà dấn thân vào con đường nhơ nhớp.
Trong lúc vùi mình trong con đường lạc lõng ấy thì một ánh hào quang xuất hiện. Ánh hào quang ấy soi thấu tận đáy lòng bà khiến bà tỉnh ngộ và quyết tâm quay về đường ngay nẻo chính, trở thành một chiến sĩ hảo hạng của Phúc âm. Ánh hào quang đó chính là Chúa Cứu Thế vậy. Như một chiên non lạc đàn khi nghe tiếng chủ chăn thì vội vã về đàn, Mađalêna cũng vậy, vừa nghe lời kêu gọi tha thiết của Chúa chiên lành, bà liền mau mắn trở về không chút luyến tiếc cuộc đời phóng túng xưa.
Nhưng, bao ngày tháng qua, những vết nhơ tội lỗi còn đó, biết lấy chi gột rửa cho sạch! Mađalêna quyết một lòng thống hối lấy nước mắt để lau sạch tội xưa. Thánh Luca đã kể lại cho ta cái quang cảnh vô cùng cảm động ấy: "Một người biệt phái mời Chúa đến dự tiệc. Chúa đến và ngồi vào chỗ đã dọn, chợt bước vào một phụ nữ là người tội lỗi trong thành ai cũng biết. Nghe nói Chúa dùng bữa tại nhà ông biệt phái, bà liền mang đến một bình thuốc thơm. Ngồi dưới đất đàng sau Chúa, bà khóc lóc, tưới nước mắt lên chân Ngài rồi lấy tóc mình mà lau, hôn chân Ngài và xức thuốc thơm. Thấy thế, ông biệt phái đã mời Chúa nghĩ bụng rằng: "Nếu ông này là tiên tri chắc biết người đàn bà đang chạm tới mình là ai, là hạng người nào, là một đứa tội lỗi mà". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này, ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông". Ông trả lời: "Dạ, xin Thầy cứ hỏi". "Một chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm, một người nợ năm mươi đồng. Vì họ không có gì để trả, nên chủ tha nợ cho cả hai. Ai trong hai người ấy đã yêu mến ông chủ hơn?". Simon trả lời: "Theo thiển ý tôi, người đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu đáp: "Ông luận đúng lắm". Rồi quay lại phía người đàn bà, Ngài bảo Simon:
"Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi vào nhà ông, ông đã chẳng cho tôi nước rửa chân, bà ta, trái lại, đã lấy nước mắt mình mà rửa chân tôi và lấy tóc mình mà lau. Ông không hôn tôi, còn bà, từ lúc tôi vào đã hôn chân tôi không ngừng. Ông không đổ dầu thơm trên đầu tôi, nhưng bà ta, đã đổ thuốc thơm trên chân tôi. Vì thế tôi bảo ông, tội lỗi bà ta, dù hằng hà sa số, đã được tha cả vì bà ta đã tỏ ra yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu ít". Rồi Chúa bảo người phụ nữ đó: "Tha các tội cho bà". Những khác đồng bàn nghĩ bụng: Ông này là ai mà lại tha được tội. Nhưng Ngài bảo người đàn bà: "Lòng tin của bà đã cứu bà, hãy đi bằng an" (Lc 7,36-50).
Phải, đức tin đã cứu Mađalêna. Ngay từ giây phút đầu tiên bà đã cảm mến Chúa và, một cách mặc nhiên, bà tin rằng: Đấng mà bà cảm mến là vị Cứu tinh. Nay sự tin tưởng đó lại được củng cố thêm và đã trở thành toàn vẹn vì Đấng đó đã trực tiếp tha tội cho bà. Trước kia tội lỗi làm bà đỏ như son thì nay bà được gội sạch và nên trắng như tuyết.
Cuộc đời của bà từ nay đã định hướng, bà quyết tâm tự hiến để giúp việc truyền bá tin Hạnh phúc. Lòng nhiệt thành của bà đã được các Phúc âm gia ghi lại nhiều lần. Gia đình của bà chỉ còn có một chị một anh là Matta và Lagiarô đã trở nên như trụ sở của Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Bêtania, cái tên êm ái, nơi bà sinh trưởng, đã được Phúc âm nhắc đi nhắc lại một cách rất đáng yêu. Chính tại đây, vì tình thương nên gia đình Mađalêna mà Chúa đã thổn thức rơi lệ trước khi cho Lagiarô sống lại. Chính tại đây, một lần nữa, Mađalêna đã tỏ ra hâm mộ lời Chúa. Phúc âm thuật lại rằng: "Khi đi đường, Chúa Giêsu vào một làng kia (Bêtania) và có một bà tên là Matta đón Ngài vào nhà mình. Bà này có người em gái tên là Maria, cô này ngôi dưới chân Chúa, lắng nghe Ngài nói. Còn Matta thì bận rộn với bao công việc săn sóc, hầu hạ. Bà đến thưa Chúa: "Thưa Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy cũng không coi sao ư? Xin Thầy bảo nó giúp tôi một chút". Nhưng Chúa đáp: "Matta, Matta, con lo lắng bận rộn nhiều quá. Thật ra chỉ cần ít thôi, chỉ một việc thôi. Chính Maria đã chọn phần tốt hơn cả, phần ấy không ai cất lấy được" (Lc 10,38-42). Thái độ của Mađalêna đã được Chúa công khai khen ngợi, mặc dầu bà đã không giúp đỡ chị trong việc hầu hạ Chúa. Chúa khen bà vì bà đã biết nghe lời Chúa nói. Lời Chúa là chân lý đưa tới sự cứu rỗi mà Mađalêna đã chăm chú nghe lời đó, bà quả đã chọn lấy phần tốt nhất thật. Và cũng chính tại Bêtania thân yêu này, Mađalêna một lần nữa, lấy một cân cam tùng hương nguyên chất rất đắt xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau (Ga 12,3). Với lòng mến Chúa tận tình, Mađalêna đã dùng tất cả những gì có thể biểu lộ tấm lòng yêu mến ấy.
Trên bước đường truyền giáo của Chúa Giêsu, Mađalêna cùng với một số bà đạo đức khác hầu như lúc nào cũng đi tới Chúa để giúp đỡ Ngài. Đặc biệt là những ngày cuối đời Chúa, nhất là trong giây phút thương đau nhất trên Núi Sọ, Mađalêna lúc nào cũng có mặt, trong khi các môn đệ Chúa quá sợ hãi đã bỏ Thầy chạy trốn cả. "Đứng gần khổ giá Chúa Giêsu, có Mẹ Người, chị Mẹ Người, là Maria vợ ông Clêopha và có Maria Mađalêna" (Ga 19, 25). Rồi, "sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần (Chúa nhật) Maria Mađalêna đến mồ khi trời còn tối và bà thấy tấm đá đã cất khỏi mồ. Bà bèn chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu yêu dấu, và nói với họ rằng người ta đã lấy mất xác Chúa khỏi mồ rồi và chúng tôi không biết họ để đâu" (Ga 21,1-2). Thật không còn lời nào hùng hồn hơn nói lên lòng trung thành yêu mến của Mađalêna đối với Chúa Giêsu. Bà hăng hái nhiệt thành, can đảm và trung thành hơn cả các Tông đồ. Chính vì thế mà bà đã được Chúa ân thưởng bội hậu. Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra với bà trước khi tỏ mình cho các Tông đồ. Quang cảnh cảm động ấy đã được sử gia Gioan mô tả khéo léo như sau: "Còn Maria đứng gần mộ ở ngoài mà than khóc, vừa khóc bà vừa cúi đầu nhìn vào một. Bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng, ngồi một vị ở đàng đầu, một vị ở đàng chân, tại chỗ đã đặt xác Chúa Giêsu.
Các đấng ấy nói cùng bà rằng: "Bà kia, sao mà khóc?" Bà đáp: "Vì người ta đã lấy xác Chúa tôi đi mà tôi không biết họ để ở chỗ nào". Nói đoạn bà quay lại, thấy Chúa Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Chúa, Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia sao mà khóc? Bà tìm aỉ". Bà tưởng đó là người coi vườn nên nói rằng: "Thưa ông, nếu ông có lấy xác Người đi, thì xin ông cho tôi biết ông để ở chỗ nào để tôi đến lấy". Chúa Giêsu gọi tên bà Maria. Bà nhận ra Người nên vội nói bằng tiếng Hi bá rằng: "Rabboni nghĩa là: Lạy Thầy". Chúa Giêsu nói: "Đừng giữ Thầy lại như thế vì thầy chưa về cùng Cha Thầy và cũng là Cha các con". Maria Mađalêna đi loan báo cho các môn đệ biết bà đã thấy Chúa và Ngài đã nói với bà như thế" (Ga 20,11-18). Bà đã làm tròn sứ mệnh Chúa trao là đi báo ngay cho các tông đồ tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với bà. Chính vì thế mà bà đã được tặng danh hiệu cao quý: "Apostola Apostolorum" (Tông đồ của các tông đồ).
Sau khi Chúa về Trời, Mađalêna vốn tiếp tục sống cuộc đời thánh thiện. Cùng với các tông đồ, và cùng với hai anh chị em là Lagiarô và Matta, bà tích cực tham gia mở mang nước Chúa. Không ai được biết bà tạ thế ngày nào, nhưng theo một truyền thuyết đông phương đáng tin cậy thì ông Lagiarô đã tạ thế tại đảo Chyprô vào năm 899, di hài ngài được cải táng về Constantinôpôli. Còn xác thánh Mađalêna khi tạ thế đã được mai táng tại Êphêsô, đến thế kỷ thứ VI cũng được di chuyển về Contantinôpôlị
Để kính nhớ công đức của bà, ngay từ đầu Giáo hội đã tôn kính bà như một vị đại thánh, đồng thời lấy đời sống của bà như một tấm gương trong sáng cho mọi người soi chung.
Kính xin thánh nữ Maria Mađalêna cầu cho chúng con nhất là những ai đã chọn ngài làm thánh bổn mạng, được theo gương ngài mà ăn năn thống hối tội xưa, đồng thời quyết một lòng sắt đá bước theo Chúa Giêsu vì Ngài là chân lý, sự sống, và là đường dẫn nhân loại tới hạnh phúc vô biên.
Vào thế kỷ thứ X, ở Constantinople, tại tu viện Thánh Ladarô, người ta đã cử hành lễ này, vì người ta tin rằng hài cốt của bà đưa từ Ephèse về chôn cất tại đây vào năm 899, sau khi bà theo Thánh Tông Đồ Gioan đến đó (Mađalêna có nghĩa là người thị trấn Magdala ND). Magdala là tên một thành phố nằm trên bờ hồ Galilée về phía Tây Bắc, giữa đường từ Tibériade đến Capharnaum. Từ thế kỷ XI, lễ Thánh Nữ Maria Mađalêna được cử hành ở Roma và ở phương Tây; đến thế kỷ XII, sách lễ Latran vẫn lẫn lộn xem Maria thành Magdala và Maria làng Bêtania (mà phụng vụ Hy Lạp mừng lễ ngày 18 tháng Ba), và cả nữ tội nhân vô danh (phụng vụ Byzantin mừng lễ ngày 31 tháng Ba), người mà theo Luca 8, 2, được giải thoát khỏi bẫy quỉ trước khi theo phục vụ Đức Giêsu: cả ba phụ nữ được nêu danh trong Thánh Kinh được xem như một người. Thời Trung Cổ, việc tôn kính Thánh Nữ Maria Madalenna cũng phát triển ở Vézelay và Sainte Baume gần Marseille, vì tại đây có truyền thuyết rằng bà đã lui ẩn trong một hang núi sau khi lên bờ ở miền Provence.
2. Thông điệp và tính thời sự
Tất cả các bản văn trong Thánh Lễ và Phụng vụ giờ kinh (gồm 8 điệp ca, một số đáp ca và hai ca vãn riêng) đều nhắc đến Maria thành Magdala, người đầu tiên được Thầy”giao việc loan báo tin sống lại” (lời nguyện của ngày). Maria đã thấy Chúa phục sinh (Ga 20, 18), nhận sứ mệnh báo tin đó. Chúa bảo bà:”Hãy đi tìm các anh em của Thầy...” (cách Đấng Phục Sinh gọi môn đệ là anh em chỉ thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan [20, 17]). Đức Giêsu hiện ra trước tiên với Maria thành Magdala (Mc 16, 9), đã giao cho bà sứ mệnh làm chứng nhân và là tông đồ của sự phục sinh. Nên bà trở thành mẫu gương cho chúng ta, vì chúng ta cũng được kêu gọi để”loan báo Đức Kitô Phục Sinh” (lời nguyện của ngày).
Bài Phúc Âm Gioan đọc trong Thánh Lễ (20, 1-18) nhấn mạnh một khía cạnh khác trong nhân cách của Maria Madalenna: bà là một tâm hồn đi tìm Chúa giữa đêm tối đức tin. Trời còn tối khi bà tới mộ. Bà khóc vì thấy mộ trống. Buồn bã, bà hỏi kẻ mà bà tưởng là người giữ mồ...Bấy giờ, Đức Giêsu mới tự tỏ lộ khi gọi tên bà: Maria!”Bà liền thưa với Người: Rabbouni, nghĩa là Thầy ơi, bởi vì Đấng bà tìm bên ngoài là chính Đấng từ bên trong dạy bà đi tìm kiếm” (Bài giảng Thánh Grêgoriô Cả, Phụng vụ Bài đọc).
Maria thành Magdala, người được giải thoát khỏi bẫy quỉ (Mc 16, 9; Lc 8, 2) đã dâng mình phục vụ Đức Kitô. Bà đứng đầu trong danh sách các phụ nữ theo Chúa Giêsu (Lc 8, 2; Mc 15, 47; Mt 27, 56) và đứng gần Thập Giá (Mc 15, 40). Bà là biểu tượng của các dân trong giao ước mới.
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ thánh Maria Mađalêna, một Vị Thánh vừa được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nâng lễ nhớ Thánh nữ thành lễ kính. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh nữ như là”Tông đồ của các Tông đồ”.
Thông báo viết: ”Qua một bức thư thông báo việc thay đổi này – quy định trong Sắc lệnh ký ngày 03 tháng Sáu năm 2016, nhằm ngày lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu -, Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự thánh và Kỷ luật các Bí tích, viết: quyết định trên đây muốn nói rằng chúng ta”phải suy tư sâu xa hơn về phẩm giá của phụ nữ, về Tân Phúc âm hóa, và về sự cao cả của mầu nhiệm Lòng Chúa thương xót”.
Thánh Maria Mađalêna là chứng nhân đầu tiên của việc Chúa sống lại, và là người loan báo Tin mừng ấy cho các Tông đồ.
Thánh nữ Maria Mađalêna là một người phụ nữ rất đặc biệt, bởi vì theo Tin Mừng thánh Máccô thuật lại”Khi Chúa Giêsu bị kết án tử hình trong một phiên tòa hết sứ bất công, người ta bắt Chúa vác thập giá lên đồi Gongôtha, lúc đó các môn đệ như rắn mất đầu, các ông sợ sệt, nhát đảm, lẩn trốn, họ chỉ đứng xa xa để không ai có thể nhận ra họ. Trên núi Sọ, trên đồi Gongôtha, thánh Máccô viết: ”Nhưng cũng có mấy người phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mađalêna, bà Maria Mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilêa. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem,cũng có mặt tại đó” (Mc 15, 40-41). Việc các người phụ nữ có mặt trên cuộc hành trình đi lên núi Sọ của Chúa Giêsu, nói lên lòng đạo đức, thánh thiện, nhiệt thành và đồng thời biểu lộ sự can đảm, anh hùng của giới phụ nữ. Các bà không sợ nguy hiểm, không nhát đảm, không thối lui dù rằng các bà biết Thầy mình sẽ phải chết…Tính anh hùng của các người phụ nữ, đặc biệt của Thánh nữ Maria Mađalêna cho chúng ta hay Mađalêna đã được Chúa yêu nhiều, bà hết lòng đáp lại tình yêu vô biên của Chúa. Tội của Thánh nữ lớn lao thật nhưng Tình Thương của Chúa còn to lớn hơn gấp bội, khiến Thánh nữ hết lòng vì Chúa. Ngài không sợ bị bắt bớ, bỏ tù, giết chết nhưng như lời Thánh Phaolô nói:”Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” (2 Co 5, 14), Thánh nữ đã có mặt trên mọi nẻo đường Chúa đi. Thánh nữ Maria Mađalêna là người phụ nữ đầu tiên được Chúa Giêsu phục sinh cho biết Ngài đã sống lại (Mc 16, 9). Thánh nữ theo như Thánh Mác cô nói”đã được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ”. Cụm từ được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ diễn tả bà mắc phải nhiều tội tầy trời, nhiều tội to lớn. Được yêu nhiều, bà phải đáp trả nhiều. Do đó, bà có mặt dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria và Thánh Gioan. Bà đã ngồi trước mộ Chúa Giêsu cùng với bà Maria vợ ông Clêophas. Chính vì yêu nhiều, đáp trả tình thương vô biên của Chúa, Thánh nữ Maria Mađalêna đã được Chúa hiện ra đầu tiên khi Ngài từ cõi chết sống lại và chính Chúa phục sinh trao cho Thánh nữ sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ và nhiều người (Mc 16, 10; Ga 20, 17).
Đức Tổng giám mục Arthur Roche viết:”Thánh Maria Mađalêna là một gương mẫu của việc Phúc âm hóa đích thực. Thánh nữ là một nhà rao giảng đã loan báo tin vui Phục sinh”.
“Quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô được đưa ra ngay trong bối cảnh của Lòng Thương Xót để nói lên tầm quan trọng của Thánh nữ - là người đã bày tỏ tình yêu lớn lao đối với Chúa Kitô và được Chúa Kitô yêu mến nhiều”.
Ngài cũng nhắc lại rằng Thánh Mađalêna đã được Thánh Tôma Aquinô gọi là”Tông đồ của các Tông đồ” (Apostolorum Apostola), vì Thánh nữ đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
“Vì thế, ngày lễ Thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các Thánh Tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Roma, để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của Thánh nữ - một tấm gương và hình mẫu cho mỗi người phụ nữ trong Giáo hội”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương, tha thứ cho Thánh nữ Maria Mađalêna vì bà yêu mến nhiều, xin cho chúng con khi mừng lễ Thánh nữ trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng con càng ngày càng yêu mến Chúa như Thánh nữ Mađalêna đã yêu mến Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Tình yêu bền vững, tình yêu vĩnh cửu đã nối kết Chúa Giêsu và thánh nữ Maria Mađalêna. Thánh nữ Maria Mađalêna được Chúa yêu nhiều, Ngài đã đáp trả tình yêu của Chúa với tất cả con tim, với tất cả tâm hồn.
THÁNH NỮ MARIA MAĐALÊNA, NGƯỜI ĐƯỢC YÊU NHIỀU:
Thánh Maria Mađalêna, người phụ nữ được xem là tội lỗi, đã được Chúa yêu nhiều, Ngài đã sống hết mình cho tình yêu. Tin Mừng thánh Marcô thuật lại rằng: ”Khi Chúa Giêsu bị kết án tử hình, Ngài đã phải vác thập giá tiến lên đồi Gôngatha, các môn đệ tản mác như rắn bị mất đầu, họ không dám tới gần Chúa Giêsu mà chỉ ở đâu xa khuất bóng. Tại Gongôttha thánh Marcô viết: ”Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Gio-xết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilêa. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó” (Mc 15, 40-41). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, thánh Marcô cũng thuật lại rằng: ”… vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16, 9). Thánh nữ Maria Mácđala vì được Chúa yêu thương nhiều, được Chúa ban ơn tha thứ, Người đã theo Chúa trên khắp các nẻo đường loan báo Tin Mừng.
Vì yêu nhiều, vì cảm nghiệm lòng Chúa xót thương, thánh nữ đã có mặt trong nhiều biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu: ”Người đã có mặt dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria và thánh Gioan khi các môn đệ đều sợ sệt chạy trốn. Khi mai táng Chúa Giêsu, thánh nữ và bà Maria vợ ông Cléophas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa. Chính vì thế, thánh nữ đã được diễm phúc là người đầu tiên được Chúa phục sinh hiện ra và trao sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ (Mc 16,10, Ga 20,17). Thánh nữ Maria Mađalêna quả có phúc vì được Chúa thương tha thứ và ban cho bà ơn huệ đặc biệt quay về với Thiên Chúa.
LỜI CẦU NGUYỆN: Đúng như lời thánh Phaolô trong 2Co 5, 14-15: ”Tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống lại vì họ”. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhờ lời nguyện cầu và gương sáng của thánh nữ Maria Mađalêna, ban cho chúng con lòng nhiệt thành và chóng vánh đi rao giảng Tin Mừng cho Chúa sống lại, để sẽ được chiêm ngắm sự vinh quang của Chúa vĩnh cửu.
Maria Mađalêna là người bị chiếm hữu và thao túng bởi quyền lực cực độ của thần dữ - bẩy thứ quỷ.
Maria Mađalêna là người bị chiếm hữu và thao túng bởi quyền lực cực độ của thần dữ - bẩy thứ quỷ. Con số bẩy là con số chỉ sự tối đa, hoàn toàn, trọn vẹn, không còn thiếu sự gì khác, nó được coi là con số hoàn mỹ về cả số lượng lẫn tâm linh; ví dụ bẩy ngày tạo dựng của Thiên Chúa; tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan Thiên Chúa, để đền bù tội lỗi (Lêvi 04: 6); bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, họ phải đi vòng quanh thành bảy lần (Giôsuê 6:8); cụ thể một giá đèn đúng kiểu Do Thái giáo gồm bảy cây đèn, gọi là Menorah; Phêrô đến gần Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." (Mt 18,21-22). Người bị nhập bởi bẩy thứ quỷ là người hoàn toàn nằm dưới quyền thống trị của Satan, của tội lỗi, không còn làm chủ được ngay cả tự do và khát khao vươn lên của mình nữa. Họ cần đến một quyền năng, không phải từ bất cứ phàm nhân nào, mà là từ trời cao để thoát ra khỏi tình cảnh bi đát đó, cả thể xác và tâm linh.
Có lẽ vì thế các vị lãnh đạo Giáo hội sơ khai thường hạ thấp ảnh hưởng của Maria Madalêna bằng cách gọi bà là một người tội lỗi công khai (một cách gọi nhẹ nhàng dành cho cái nghề buôn hương bán phấn) dù các tài liệu ban đầu khác mô tả bà là bạn đồng hành của Chúa Giêsu. Bà là một trong những người theo Chúa Giêsu sớm nhất. Theo Kinh thánh, bà đã đi theo Chúa Giêsu, chứng kiến việc Chúa Giêsu bị đóng đinh và là một trong những người đầu tiên biết về sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Qua nhiều thế kỷ, không kể đến các nhà lãnh đạo giáo hội ban đầu, từ các học giả đến các tiểu thuyết gia và nhà làm phim đã sửa đổi và xây dựng nhiều câu chuyện về Maria Mađalêna. Một mặt, họ hạ thấp tầm quan trọng của bà bằng cách cho rằng bà là một người phụ nữ hư hỏng đã ăn năn và được cứu độ bởi những lời dạy của Chúa Kitô. Mặt khác, một số bản văn Kitô giáo ban đầu mô tả Maria Mađalêna không chỉ là một tín đồ đơn thuần, mà còn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của Chúa Giêsu - một số người còn giải thích bà là vợ của Ngài. Tuy nhiên, mô tả này là không bình thường vì bà không được mô tả liên quan đến một nhân vật nam giới, vì những người phụ nữ vào thời đó được nêu tên kèm theo tên một người đàn ông, thường là: cha, chồng, anh trai. Riêng bà được gọi đơn giản là Maria Mađalêna, nghĩa là người phụ nữ đến từ Magdala, một địa danh ở miền Galilê. Từ mô tả của Luca, chúng ta có thể giả định rằng bà là một phụ nữ tự lập về một số phương diện, là người có khả năng tài chánh để tài trợ, cũng như tham gia vào các biến chuyển chung quanh Chúa Giêsu.
Nhưng có sự thật nào trong hai câu chuyện này không? Chúng ta thực sự biết gì về người phụ nữ bí ẩn nhất trong Kinh thánh, có tên gọi Maria Mađalêna này không?
Kinh thánh nói gì về Maria Mađalêna?
Tất cả bốn sách Tin Mừng Quy điển của Tân Ước (Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan) đều ghi nhận sự hiện diện của Maria Mađalêna khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, nhưng chỉ có Phúc âm Luca nói về vai trò của bà trong cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu, liệt kê bà là một trong”mấy người phụ nữ đã được Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ.”(Luca 8: 1-3).
Theo Luca, sau khi Chúa Giêsu đuổi bảy con quỷ ra khỏi bà, Maria trở thành một phần của nhóm phụ nữ đi cùng Ngài và 12 môn đệ của Ngài,”rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Luca 8: 1). Mađalêna không phải là một cái tên chỉ họ, nhưng là để xác định quê hương cùa Maria: Magdala, một thành phố ở Galilê, nằm ở vùng cực bắc của Palestine cổ đại (nay là miền bắc Israel) [1]
Chúa Giêsu bị đóng đinh, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Gioan và Maria Mađalêna.
Robert Cargill, giáo sư trợ lý nghiên cứu tôn giáo và kinh điển tại Đại học Iowa, đồng thời là biên tập viên của Tạp chí Khảo cổ học Kinh thánh cho biết:”Maria Mađalêna là một trong số những người theo Chúa Giêsu ban đầu. Bà đã được nêu tên trong các sách Phúc âm, vì vậy bà rõ ràng là quan trọng. Rõ ràng có hàng trăm người, nếu không phải hàng ngàn người, theo Chúa Giêsu, nhưng chúng ta hầu như không biết tên của họ. Vì vậy, việc bà ấy được nêu tên là một vấn đề lớn”.
Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh - bà cùng với một số phụ nữ khác đã chứng kiến mọi sự dưới chân thập giá và sau khi tất cả các môn đệ nam giới của Ngài bỏ trốn, trừ Gioan Tông Đồ, môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu, Maria Mađalêna cũng đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện về sự Phục sinh. Theo các sách Tin Mừng, bà đã đến thăm ngôi mộ của Chúa Giêsu vào Chủ nhật Phục sinh, hoặc một mình (theo Phúc âm của Gioan) hoặc với những người phụ nữ khác, và thấy ngôi mộ trống rỗng.
Cargill chỉ ra:”Những người phụ nữ là những người chạy đi và nói với các môn đồ.”Họ là những người phát hiện ra rằng Chúa Giêsu đã sống lại, và điều đó rất quan trọng.”
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu thực sự hiện ra với Maria Mađalêna một mình sau khi Ngài Phục sinh, và yêu cầu bà nói với các môn đệ của Ngài về sự sống lại của Ngài:”Bà Maria Mađalêna đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc? " Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Ngài ở đâu! " Nói xong, bà quay lại và thấy Chúa Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai? " Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về." Chúa Giêsu gọi bà: "Maria! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni! " (nghĩa là "Lạy Thầy"). Chúa Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" Bà Maria Mađalêna đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Ngài đã nói với bà.” (Gioan 20: 11-18).
Maria Mađalêna - tội nhân
Mặc dù - hoặc có lẽ vì - tầm quan trọng rõ ràng của Maria Mađalêna trong Kinh thánh, ảnh hưởng của bà đã bị hạ thấp bằng cách bị mô tả như một người tội lỗi; vì vào thời đó, phụ nữ và trẻ em không thể là nhân tố quan trọng, nhất là trong những vụ việc có tầm ảnh hưởng lớn lao đến cộng đồng xã hội.
Cargill giải thích:”Có nhiều học giả lập luận rằng vì Chúa Giêsu đã trao quyền cho phụ nữ ở một thời điểm sớm như vậy trong sứ vụ của Ngài, nên điều đó khiến một số người lãnh đạo nam giới sau này của Hội thánh sơ khai cảm thấy khó chịu,” Cargill giải thích.”Và do đó, có hai cách diễn giải cho điều này. Một trong hai cách đó là biến bà thành tội nhân công khai”.
Thuở ban đầu người ta coi Maria là kẻ tội lỗi sám hối, họ đã gán ghép bà với những phụ nữ khác được đề cập trong Kinh thánh, bao gồm một phụ nữ giấu tên, được Tin Mừng Luca xác định là tội nhân, là người đã rửa chân cho Chúa Giêsu bằng nước mắt, lau khô và xức dầu thơm trên chân Chúa (Luca 7: 37-38), cũng như một Maria khác, là Maria Bêtania, cũng xuất hiện trong Luca. Vào năm 591 sau Công nguyên, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đã củng cố sự hiểu lầm này trong một bài giảng:”Người mà Luca gọi là người phụ nữ tội lỗi, người mà Gioan gọi là Maria [của Bêtania], chúng tôi tin rằng đó là Maria mà Chúa Giêsu đã đuổi bảy quỷ, theo Tin Mừng Máccô”. Trong bài giảng tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đã xác định Mađalêna được Chúa Giêsu trục xuất khỏi bảy quỷ, đó là 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bị kết án không chỉ vì tội dâm ô mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam. Bài giảng này từ đó đã làm nên cách hiểu chính thức của Giáo hội về Maria Mađalêna. (Bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả).
“Bằng cách biến bà thành kẻ tội lỗi, bà không còn quan trọng nữa. Tầm quan trọng của bà giảm thiểu một phần nào đó. Bà không thể là một người đứng đầu, bởi vì cứ nhìn vào cách bà đã làm để kiếm sống là rõ” Cargill nói.”Tất nhiên, có cách diễn giải khác thực sự đề cao Maria. Một số người cho rằng bà thực sự là bạn đồng hành, thậm chí là vợ của Chúa Giêsu. Bà có một thân phận đặc biệt.”
Maria Mađalêna có phải là vợ của Chúa Giêsu không?
Trong khi một số Kitô hữu ban đầu tìm cách hạ thấp ảnh hưởng của Maria, những người khác lại tìm cách làm nổi bật điều đó. Tin Mừng về Maria, một văn bản có niên đại từ thế kỷ thứ hai sau Công nguyên và xuất hiện ở Ai Cập mãi năm 1896, đã đặt Maria Mađalêna lên trên các môn đệ phái nam của Chúa Giêsu về kiến thức và ảnh hưởng. Bà cũng xuất hiện rất nổi bật trong cái gọi là Tin Mừng Ngộ Đạo, một số văn bản được cho là do những người theo đạo Thiên Chúa ban đầu viết từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, nhưng mãi đến năm 1945 mới được phát hiện, gần thị trấn Nag Hammadi của Ai Cập.
Một trong những văn bản này, được gọi là Phúc âm Philípphê, gọi Maria Mađalêna là bạn đồng hành của Chúa Giêsu và tuyên bố rằng Chúa Giêsu yêu thương bà hơn các môn đồ khác. Kể từ năm 2003, hàng chục triệu độc giả đã ngấu nghiến bộ phim kinh dị bán chạy nhất của Dan Brown”Mật mã Da Vinci”, cốt truyện xoay quanh giả thuyết lâu đời rằng Chúa Giêsu và Maria Mađalêna đã có con với nhau. Ý tưởng này cũng là trọng tâm của cuốn sách The Last Temptation of Christ - Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô - cuốn tiểu thuyết năm 1955 của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis, và phiên bản điện ảnh sau này của cuốn sách đó, do Martin Scorsese đạo diễn.
Sau đó vào năm 2012, giáo sư Karen King của trường Harvard Divinity đã tiết lộ một mảnh giấy cói chưa từng được biết đến trước đây mà bà tin là bản sao của sách Tin Mừng thế kỷ thứ hai, trong đó Chúa Giêsu gọi Maria Mađalêna là”vợ tôi”. Sau khi bảo vệ tính xác thực của tài liệu trước hàng loạt chỉ trích, Karen King cuối cùng đã thay đổi lập trường của mình, kết luận rằng cái gọi là "Tin Mừng về người vợ của Chúa Giêsu" có lẽ là giả mạo .
Maria Mađalêna là môn đồ đáng tin cậy
Về phần mình, cả bốn sách Kinh thánh không cho biết Maria Mađalêna là vợ của Chúa Giêsu. Không có sách nào trong số bốn sách Tin Mừng quy điển ám chỉ mối liên hệ đó, mặc dù bốn sách đó liệt kê những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu và ngay cả một trong số các phụ nữ đó được nêu tên kèm theo tên của chồng mình, đó là bà Maria Clêôpha.
Việc mô tả Maria Mađalêna làm nghề tội lỗi công khai được lưu truyền trong nhiều thế kỷ mặc dù cả Chính thống giáo và Tin lành đều không chấp nhận điều đó khi tách ra khỏi Giáo hội Công giáo. Cuối cùng, vào năm 1969, Giáo hội thừa nhận rằng bản văn Kinh Thánh không ủng hộ cách giải thích đó. Ngày nay, Maria Mađalêna được các Giáo Hội Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương, Anh giáo và Luther coi là một vị thánh, với ngày lễ được tổ chức vào ngày 22 tháng Bẩy.
Cargill kết luận:”Maria Mađalêna có thể là một môn đệ của Chúa Giêsu. Điều quan trọng là Chúa Giêsu có các môn đệ cả nam và nữ trong sứ vụ thánh thiêng của Ngài, điều này không hẳn là điều phổ biến vào thời đó”. Cargill nhấn mạnh:”Giả thuyết coi Maria Mađalêna làm nghề tội lỗi công khai và vợ có thể đã có từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chúng chỉ là những truyền thuyết được truyền miệng và chỉ lưu truyền rất lâu sau khi các sự kiện xầy ra. Cả hai đều không bắt nguồn từ chính Kinh thánh”. [2]
Câu chuyện vể lai lịch của Maria Mađalêna.
Ngày xửa ngày xưa, có một người phụ nữ có một quá khứ tồi tệ. Một quá khứ mà cô không thể tự hào. Và vì vậy, khi Chúa Kitô bước vào đời cô, rực rỡ hơn ngàn kỵ sĩ trong bộ áo giáp sáng chói, cô biết rằng tất cả những gì cô muốn làm là theo Ngài và yêu Ngài. Cô có thể cảm thấy tình yêu của Ngài dành cho cô cháy sáng đến nỗi, nó thiêu rụi tất cả tội lỗi trong quá khứ của cô, và cô đã lấy lại được cuộc đời mình.
Rồi thì, người phụ nữ đó cần chọn một trong những người bạn của Chúa Kitô làm người bảo trợ cho cô, trông chừng cô và cầu nguyện cho cô, và làm bạn của cô, vì vậy cô đã chọn một người phụ nữ mà cô nghĩ có những trải nghiệm tương tự với quá khứ đen tối của cô, là người đã vượt qua bóng tối đó nhờ Tình yêu của Chúa, đó là Thánh nữ Maria Mađalêna.
Nhưng điều buồn cười là, nhiều năm sau, khi người phụ nữ ngồi viết một đoạn về vị thánh bảo trợ yêu quý của mình, người chị tâm linh của cô, cô phát hiện ra rằng rất nhiều điều cô nghĩ rằng cô biết về Mađalêna là… sai, rõ ràng là sai. Và không có gì rõ ràng, điều đó thật khó hiểu.
Trước hết, Dan Brown sai lầm ở một mức độ nào đó khi nói rằng Maria Mađalêna là vợ bí mật của Chúa Giêsu, bị một Giáo hội Công giáo đầy ganh ghét, kỳ thị phụ nữ, che giấu khỏi lịch sử chung. Bác bỏ cái bà Maria đó là chuyện dễ dàng, nhưng bác bỏ doanh số bán sách của Dan Brown thì ngược lại. Doanh thu nhiều khi quyết định sai sự thật lịch sử. Thế thì, có một mức độ sai lầm nào đó từ thời trung cổ: rằng bà là một người tội lỗi ăn năn hối cải, một loại phụ nữ cực kỳ ngỗ ngược. Bà Maria kiểu này thường đi kèm với một thứ ngộ nhận mang giọng điệu rõ ràng là để chống lại Kitô giáo.
Cuối cùng, có một bà Maria Mađalêna khác được thế vào, nghĩa là đem người phụ nữ đã xức dầu thơm lên chân Chúa Kitô, rửa chân bằng nước mắt và mái tóc của mình, cộng với Maria Bêtania, là em Mátta và Ladarô nổi tiếng, rồi thêm vào Maria Mađalêna, là người đã đứng dưới chân thập giá, kết hợp tất cả các Maria đó lại, thế là có một”Maria tổng hợp”.
Dĩ nhiên, độ chính xác của chuyện đó là không rõ ràng. Đây là điều đã bị tranh cãi và nhiều nhà văn trào lưu Thời Đại Mới, cố kiếm lợi từ chuyện này bằng cách tuyên bố rằng cuối cùng họ đã đưa ra được sự thật gây sốc về người phụ nữ bí ẩn này. Những nhà thần học vĩ đại như Thánh Giêrônimô, Augustinô và Tôma Aquinô đều không đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề này.
Tuy nhiên, điều không thể phủ nhận là bà đã được Chúa Giêsu Kitô trừ khỏi bảy quỷ:”Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Ngài trừ cho khỏi bảy quỷ” (Máccô 16: 9), và là một trong số ít những người đã đứng bên cạnh Ngài khi Ngài bị đóng đinh (Máccô 15:40; Mátthêu 27:56; Gioan 19:25; Luca 23:49), Bà là nhân chứng đầu tiên được ghi lại về sự Phục sinh, và chính bà là người đã mang tin tức gây xáo trộn và tuyệt vời này cho các Tông đồ, do đó bà được đặt tên là”Tông đồ của các Tông đồ - Apostolarum Apostola”.
Ở một khía cạnh nào đó, bà ấy giống như nước. Chúng ta nghĩ rằng mình nhìn thấy nước rõ ràng, và đi đến nắm lấy nó, nhưng nó vỡ ra thành trăm mảnh không thể nắm được. Ngay cả cái tên”Mađalêna”, có vẻ là một địa danh hoặc một vị trí đẹp đẽ, cũng trở nên rối mù khi người biết rằng không chỉ Magdala, thị trấn đang được đề cập, đã bị người La Mã phá hủy vì những cư dân ở đó "suy đồi đạo đức" (một lời buộc tội đáng kinh ngạc đến từ người La Mã), nhưng chính trong sách Talmud, từ "Mađalêna" có nghĩa là "người đàn bà ngoại tình". Những manh mối, khi tổng hợp lại, có thể chỉ ra một người phụ nữ có một quá khứ không mấy tốt lành mà vì nó mà bà có lẽ phải gánh chịu đau khổ. Tuy nhiên, cũng có thể không phải như vậy. Có thể Maria Mađalêna là một người phụ nữ tốt lành, chỉ có điều quê quán lại ở một thành phố có lối sống hư hỏng, có nhiều phụ nữ ngoại tình theo thói xấu xa của dân thành thị thời đó, và vì thế bà mắc phải một vụ cám dỗ và bị quỷ ám nặng nề, bị hành hạ day dứt khôn nguôi bởi một sức nặng tối đa của sự dữ - bẩy quỷ, mà ngày nay các nhà y học có thể cho đó là những căn bệnh hiểm nghèo, thực thể hoặc rối loạn thần kinh, gây ra những hậu quả nặng nề cả thể lý lẫn tâm thần.
Nhưng sự thật được các sách Tin Mừng nói đến là có một Vị Thầy quyền năng và nhân lành - chưa từng xuất hiện trong lịch sử dân Israel - đã trừ khử bè lũ bẩy quỷ đó. Thật là một sự giải thoát đẹp đẽ và cảm động khỏi ách của lũ quỷ - một sự chữa lành khỏi mọi bệnh tật, vốn là hậu quả của tội lỗi, bệnh càng trầm trọng thì hậu quả của tội lỗi càng nặng nề, theo quan niệm của Do Thái giáo bấy giờ! Chúa Giêsu đã cứu chữa Maria Mađalêna, đem lại cho bà một cuộc đời tươi mới, an lành mà bà chưa từng vui hưởng. Làm sao mà không thán phục và ngưỡng mộ một Vị Thầy quyền năng và tràn đầy lòng thương xót như thế! Tình yêu của Mađalêna dành cho Chúa Giêsu đã thay đổi cuộc đời của bà, một sự đổi đời tuyệt vời! Thế rồi, Mađalêna lặng lẽ âm thầm theo Chúa sau khi nhận phép rửa vì tình yêu này. Nhờ sự khiêm hạ của mình, bà đã dần trở nên tốt lành, gần gũi Chúa Giêsu hơn các Tông đồ.
Ai còn dám khinh khi tội nhân! Chỉ một khoảnh khắc đủ để biến họ thành những vị thánh vĩ đại. Bao nhiêu người trong số những người vĩ đại nhất đã được Chúa Giêsu Kitô dẫn đưa thoát khỏi vũng lầy tội lỗi: Thánh Phaolô, Thánh Augustinô, và nhiều người khác! Mađalêna mở đường cho họ; bà đã lên đến tận Trái Tim của Chúa Kitô vì bà khởi đi từ rất thấp và biết cách hạ mình xuống. Vậy thì ai có quyền tuyệt vọng? Khi đi xưng tội, chúng ta có nên xem mình là Mađalêna và để cho cuộc sống trong sợ hãi của chúng ta, giống như của Mađalêna, được Chúa Kitô biến đổi vì tình yêu hơn là cứ sống trong sợ hãi?
Tình yêu của Mađalêna trở nên tích cực sau khi bà được chữa lành. Đó là một bài học quan trọng. Nhiều tội nhân hoán cải lại không làm gì khác sau khi được biến đổi. Họ chỉ muốn ở lại trong sự bình an của một lương tâm tốt lành bằng việc trung thành giữ các Giới Răn. Nhưng họ không dám bước theo Chúa Giêsu, và họ kết thúc bằng việc tái phạm tội lỗi. Con người không thể sống chỉ bằng nước mắt và hối tiếc. Một khi người ta đã phá hủy những đồ vật mà cõi lòng người ta đã gắn bó và đã sống cùng thì người ta cũng cần thay thế những thứ đó bằng một điều gì khác và sống cuộc sống của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn ở dưới chân Chúa Giêsu? Vậy nếu Ngài đứng dậy bước đi; chúng ta hãy theo Ngài và bước đi với Ngài. Mađalêna bắt đầu đi theo Chúa Giêsu như vậy; bà sẽ không bao giờ rời bỏ Ngài. Người ta thấy bà đứng dưới chân Thập giá, chứng kiến, lắng nghe những lời trăn trối của Ngài và suy ngẫm chúng trong lòng mình. Đó là cơ duyên của cuộc đời bà. Bà không nói lời nào, chỉ chiêm ngắm, cầu nguyện và mến yêu theo gương mẫu Mẹ Maria mà bà đang quỳ sát bên. Bà đã theo Chúa Giêsu và thực hành các nhân đức của Ngài trong những hoàn cảnh sống khác nhau. Một sự biến đổi không vượt ra ngoài cảm tính thì không lâu bền.
Maria chia sẻ những hoàn cảnh khác nhau của Chúa Giêsu. Trong suốt cuộc hành trình của Ngài, bà đã mua sắm cho Ngài những gì Ngài cần cho sự sống của chính Ngài và của các Tông đồ của Ngài. Mọi hoàn cảnh của cuộc sống đều tốt lành. Chúng ta hãy nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh, và đừng coi thường những người có hoàn cảnh khác.
Một đặc điểm đặc trưng khác của tình yêu chủ động của Mađalêna là sự đau khổ; bà đã đau khổ với Chúa Giêsu Kitô. Không nghi ngờ gì nữa, bà đã biết trước về cái chết của Thầy mình; bạn bè không giấu nhau bí mật. Và nếu Chúa Giêsu tiết lộ Cuộc Khổ Nạn của Ngài cho các Tông Đồ của Ngài là những người mộc mạc như vậy, thì tại sao Ngài lại giấu điều đó với một phụ nữ tinh tế như Mađalêna?
Mađalêna trung tín và kiên trì trong tình yêu mến bà dành cho Chúa Kitô. Bà từ bỏ gia đình thân yêu của mình, bà đi đến nơi mà các môn đệ nam giới sợ đi; bà đi theo Chúa Kitô khổ nạn đến cùng, bà dũng cảm lên đồi Canvê, chung quanh là quân lính Rôma tàn bạo, nhất là những người Do Thái đồng hương của bà đang căm phẫn Vị Thầy của bà, theo sự kích động của các lãnh đạo tôn giáo; bà có thể bị liên lụy, bị quy kết là đồng lõa với tên chống đời phá đạo…Nhưng bà không sợ! Và người ta thấy bà dưới chân Thánh giá, bên cạnh Mẹ Maria. Tin Mừng đề cập đến tên của bà, và chắc chắn bà xứng đáng với điều đó. Bà đã làm gì ở đó? Bà yêu thương và cảm thông. Một người bạn muốn chia sẻ hoàn cảnh của bạn mình. Tình yêu gắn kết hai cuộc sống, hai hiện hữu thành một. Mađalêna không dám đứng; bà luôn nhớ mình đã từng sống dưới ách tội lỗi, đầy bệnh hoạn tật nguyền nhưng đã được Thầy Giêsu cứu chữa, Vị Thầy bây giờ đang bị treo trên thập giá; bà cần phải quỳ xuống, cung kính ôm đôi bàn chân vẫn còn chẩy Máu quý giá của Thầy mình, bên cạnh Mẹ Maria đứng yên, hiến tế Người Con yêu dấu của mình, như Abraham sát tế Isaác, người con duy nhất mà ông yêu thương.
Mađalêna ở đó cho đến sau cái chết của Chúa Giêsu. Bà trở lại vào sáng ngày đầu tuần. Bà đã chứng kiến và biết rất rõ rằng Chúa Giêsu đã được mai táng; nhưng bà vẫn muốn gánh chịu đau khổ và khóc thương để tang cho Thầy của mình. Tin Mừng ca ngợi lòng nhiệt thành của những người phụ nữ khác và sự cao sang của những món quà của họ; nhưng Tin Mừng lại chỉ nói về những giọt nước mắt của Mađalêna. Mađalêna cho chúng ta thấy bà hết lòng tìm kiếm và mong mỏi đáp lại lòng thương xót bao la của Chúa Kitô.
Có lẽ đó là điểm chính. Có thể do một cố ý nào đó mà quá khứ của Maria Mađalêna vẫn còn mù mờ và không ai biết đến, nhưng tình yêu và lòng sùng kính của bà đối với Chúa Kitô thì trong sáng như pha lê. Rốt cuộc, đây chẳng phải là điều mà Chúa Kitô hứa với tất cả chúng ta khi Ngài nói,”Cho nên, phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” ? (2 Côrintô 5: 17).
Chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì, những sai lầm và thất bại đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu đều được rửa sạch, và những gì còn lại là cơ hội để chúng ta bước theo Ngài, là con người sáng chói hơn một ngàn kỵ sĩ mặc áo giáp sáng chói, đến bất cứ nơi nào Ngài đi đến. Đi đến ngay cả chân thập giá đau thương. Đi đến ngay cả phần mộ chết chóc. Chúng ta, giống như Maria Mađalêna, đi đến ngay cả trước Đấng Phục sinh vinh quang choáng ngợp, là Đấng chúng ta khao khát tìm kiếm và yêu mến. [3]
Thánh Nữ Maria Mađalêna cho chúng ta thấy niềm vui của sự phục sinh.
Các tác giả Tin Mừng cho thấy một sự thật đồng nhất rằng Maria Mađalêna là người đầu tiên trong số các môn đồ nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại và loan tin rằng Ngài đã từ cõi chết trỗi dậy. Cả bốn tác giả Tin Mừng đều đề cập rằng vào ngày đầu tuần, ngay sáng sớm, bà đi đến ngôi mộ, nơi có Đấng thương xót chữa lành đời bà.
Theo Tin Mừng Gioan, bà là người đầu tiên loan tin rằng ngôi mộ trống rỗng. Điều này khiến Phêrô và môn đệ yêu dấu phải đi đến ngôi mộ. Maria cũng đi đến đó. Phêrô và môn đệ yêu dấu nhìn vào bên trong ngôi mộ và chỉ thấy trang phục mai táng. Cả hai đều kinh ngạc về những gì đã xảy ra, bước ra khỏi ngôi mộ nhưng vẫn không dám chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại. Cuối cùng Maria ở lại ngôi mộ một mình. Tin Mừng nói rằng”Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân” (Gioan 20: 11).
Có lẽ, bà không trở về cùng với Phêrô và môn đệ yêu dấu kia vì đơn giản là bà quá rối trí không thể đi đâu được nữa. Không rối trí sao được khi người mà mình yêu thương bị hành hạ, giết chết, chôn cất, mình thấy tận mắt tất cả những chuyện đó, thế mà giờ đây thi thể đã biến mất, ngôi mộ bị bỏ trống, chỉ còn những khăn liệm, lại còn được sắp xếp gọn gàng…! Cảm xúc phụ nữ của bà bị chấn động; bà không thể thực hiện chuyến trở về. Vị Thầy của bà đã bị giết chết. Thôi thì chuyện đã rồi! Nhưng sao giờ này lại bị mất cả xác? Ngài là người đã phục hồi bà khỏi bảy quỷ, là người mà bà đã cùng đồng hành trong vài năm qua. Bây giờ tất cả những gì bà muốn làm là xức dầu thơm lên cơ thể Ngài cho đúng phép tắc, như thể nói lời từ biệt sau cùng. Ngay cả điều đó bà cũng không thể làm được, bởi vì dường như ai đó đã mang thi thể của Chúa Giêsu ra khỏi nơi an nghỉ của Ngài.
Trong tiếng khóc không thể kìm nén, bà thấy một người đàn ông xuất hiện, dường như là một trong những người làm vườn. Bà yêu cầu ông cho bà biết nơi ông đã đặt thi thể để bà đến và sửa soạn cho Chúa Giêsu những việc thích hợp mà người Do Thái vẫn thường làm sau việc an táng. Đây là bằng chứng cho thấy bà không hề nghĩ rằng Chúa Kitô sẽ sống lại, bà tin chắc rằng Ngài đã ra đi mãi mãi. Trong tâm trí của Maria, tất cả đã mất, thế là hết! Chính lúc như tuyệt vọng đó, Chúa Giêsu mới lên tiếng kêu tên bà,”Maria!” (Gioan 20:16). Một khi mối tương quan cá nhân được thiết lập giữa bà và Chúa Giêsu, một khi bà nghe thấy giọng nói của Ngài, bà sẽ biết chính xác đó là ai trước mặt mình. Đó không phải là người làm vườn. Đây là Vị Thầy của bà, là Chúa của bà.
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn có cung cách tỏ mình ra như thế cho các môn đệ của Ngài, khi họ dường như chạm đến mức tuyệt vọng, khi họ cảm nhận và hiểu ra rằng mọi thứ trên trần đời nảy đều chấm dứt trong”hữu hạn, vô thường, vô nghĩa”, và Ngài đem lại cho họ, và tất cả những ai tin theo Ngài, một niềm vui òa vỡ, chan chứa, tinh khôi; người đầu tiên là Maria Mađalêna trước ngôi mộ trống, kế đến là các tông đồ trong căn phòng đóng kín, rồi tới hai môn đệ trên đường lui về Emmau, rồi Tôma vốn chủ trương thực chứng, rốt cuộc cũng phải thốt lên trong kinh ngạc và mừng vui vô bờ, đến độ bất giác quỳ xuống sụp lạy một Thầy Giêsu thân quen vô vàn yêu quý, nay tỏ mình ra vô cùng cao cả thần thiêng:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Gioan 20: 28).
Maria Mađalêna là người chứng đầu tiên về Chúa Kitô Phục sinh, trong đoàn lũ con cái phàm nhân của Adam-Evà, vốn phải chết như một số phận tất yếu, nay được hưởng nếm trước niềm hạnh phúc chứa chan của những ai sống trong”cảnh vực thần linh” (Teilhard de Chardin) vì đã hết lòng tìm kiếm, bất kể những gian nan khổ sầu, kiên trì bước theo và yêu mến Vị Thầy Người-Chúa đã tự hiến tế trên Thánh Giá,và vẫn đang thực hiện Lời Ngài phán hứa:”Đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Maria đi tìm Chúa Giêsu, nhưng cuối cùng chính Chúa Giêsu lại là người tìm đến bà. Nhiều người đã hỏi, tại sao không phải là Đức Mẹ, tại sao Mẹ không phải là người đầu tiên gặp Chúa Kitô Phục Sinh, tại sao không phải là Phêrô hay Gioan? Có rất nhiều câu trả lời hợp lý, nhưng có một câu trả lời bắt nguồn từ cách chúng ta nhận ra Maria Mađalêna là ai. Nếu chúng ta biết rõ hơn bà là ai thì chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt hơn về lý do tại sao bà là người được chọn ban cho đặc ân này.
Bất chấp những gì mà hầu hết các kênh truyền hình Lịch Sử trình chiếu và các phim tài liệu khác đã nêu ra, Maria Mađalêna chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Tin Mừng như là một cô gái làm nghề bán thân. Tham chiếu duy nhất mà chúng ta có về danh tính của bà là Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ khỏi bà (Luca 8: 2; Máccô 16: 9). Trong niềm tin của người Do Thái giáo, số bảy là số tượng trưng cho sự hoàn hảo. Vì vậy, khi Chúa Giêsu gặp Maria Mađalêna, bà đã bị quỷ nhập, chứ không chỉ là các vụ quỷ ám thông thường mà Chúa Giêsu đã chinh phục trong cuộc hành trình rao giảng của mình. Maria đã bị héo hon bởi bảy con quỷ, một sự dữ hoàn toàn. Chúa Giêsu phải đối mặt với sự dữ mãnh liệt tối đa trong bà… và Ngài đã chiến thắng nó, nơi một cá nhân.
Cùng với sự đóng đinh và Phục sinh của Chúa Kitô, kế hoạch của Thiên Chúa đánh bại tội lỗi và sự chết, là sự dữ mãnh liệt tối đa, được hoàn thành, nơi toàn thể nhân loại, và nơi toàn thể công trình tạo dựng. Trên đồi Canvê, toàn bộ thực tại của tội lỗi gắn chặt vào Chúa Kitô và với cái chết của Ngài, Ngài đã hủy diệt quyền thống trị của sự dữ trên nhân loại như lời thánh Phêrô:”Tội lỗi của chúng ta, Ngài mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2, 21-24). Sự chết vào thế gian chỉ vì tội lỗi của Ađam và Evà. Thoạt tiên, chúng ta được tạo dựng là để sống và ở với Thiên Chúa mãi mãi trong sự hiệp thông hoàn hảo. Tuy nhiên, với quyết định tự do tự ý, Ađam và Evà đã chọn theo ý riêng phàm nhân hữu hạn của chính mình thay vì chọn tuân theo Thánh Ý thiện hảo của Thiên Chúa, do vậy cái chết từ đây sẽ là một phần của cuộc sống. Nhưng sự dữ tột đỉnh, tức là cái chết, không phải là phán quyết chung cuộc, như lời thánh Phaolô dạy:”Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài.” (II Côrintô 5, 21) và”để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống.” (II Côrintô 5, 4)
Nói một cách thực tế, cái chết là cực điểm của sự ác và tội lỗi. Tuy nhiên, với cuộc khổ nạn, đóng đinh, chịu chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, cái chết, như hậu quả cuối cùng của sự dữ và tội lỗi, không còn thống trị nữa; Chúa Giêsu chiến thắng sự dữ một cách trọn vẹn. Có thể đây là lý do tại sao Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra trước hết với Maria Mađalêna sau khi Ngài sống lại, bởi vì qua kinh nghiệm cá nhân, bà đã hiểu và cảm thấu được thế nào là bị sự dữ độc chiếm hoàn toàn, và bà biết niềm vui sẽ lớn lao như thế nào khi sự dữ đó bị phá hủy. Bà đã trải qua điều đó trong chính cuộc sống riêng tư khi bị ma quỷ thống trị và khi được giải thoát khỏi chúng. Do đó bà có đủ tâm thế để hiểu rõ nhất sự Phục sinh của Chúa Kitô có ý nghĩa như thế nào đối với bà và tất cả nhân loại. Bà có đủ lòng biết ơn chân thành và sự can đảm thực sự để chạy đi loan báo với mọi người về sự Phục sinh của Chúa Kitô, cũng là khởi đầu sự Phục sinh của toàn nhân loại, mà bà là người cảm nhận rõ ràng nhất và trước nhất.
Chúa Kitô đã sống lại cách vinh quang, Ngài đã tìm đến với Maria Mađalêna, tìm đến các Tông Đồ, và tìm đến cá nhân mỗi người chúng ta, nhiều lần nữa, trong nhiều hoàn cảnh cuộc đời, và Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta một mình. Đó là thông điệp của Lòng Chúa Thương Xót. [4]
Tài liệu tham khảo:
[1] Những nghiên cứu khảo cổ đầu tiên tại Magdala được thực hiện vào những năm 1970 dưới sự điều phối của hai nhà khảo cổ dòng Phanxicô, cha Virgilio Corbo và cha Stanislao Loffreda. Năm 2006, dòng Phanxicô tại Thánh Địa, chủ sở hữu của khu đất nơi một phần còn sót lại của thành phố Magdala được tìm thấy, đã tiếp tục lại công việc khai quật. Magdala là một thị trấn nhỏ ở Galilea nằm bên bờ tây của hồ Tiberia. Một phần lớn của thành phố với các dinh thự, đường phố sỏi đá, các vật dụng, đồ gốm, đồ trang sức, tiền xu và các vật dụng khác được tìm thấy, phác họa bức tranh về đời sống hàng ngày của thành phố Magdala vào thời của Chúa Giêsu. Một phần khác của trung tâm thành phố cổ được tìm thấy ở khu vực liền kề, thuộc sở hữu của dòng Đạo binh Chúa Kitô. Một nhà thờ và một trung tâm đón tiếp khách hành hương đã được xây dựng tại đây. Cùng điều phối chương trình này có hai linh mục của giáo phận Vicenza, đó là cha Raimondo Sinibaldi, giám đốc Văn phòng truyền giáo, và cha Gianantonio Urbani, nhà khảo cổ của Học viện Kinh thánh dòng Phanxicô ở Giêrusalem (REI 12/02/2020).
Cuộc đời của bà Maria Mađalêna vẫn còn là đề tài gây tranh luận. Ý nghĩa chủ yếu của cuộc đời Maria Mađalêna là bà đã nhận biết được những gì Chúa Giêsu muốn nói, hiểu được tâm tình và suy tưởng của Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời. Năm 889, Đức Giáo Hoàng Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople. Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị ngộ nhận là người đàn bà tội lỗi. Có lẽ Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng:”Sự hiểu lầm này cũng không có gì là quá đáng, vì tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy đón nhận sứ mạng rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta”.
[2] [3] [4] catholicexchange.com/ st mary magdalene.
1/ Thánh Nữ Maria Madalena quê tại Macdala, gần biển hồ Galile-a. Thánh nữ bị quỷ ám cho tới khi được Đức Yesus trừ quỷ cho/ sau đó bà đi theo Đức Yesus, làm Môn Đệ và là một trong những phụ nữ thánh thiện/ đã đi theo giúp đỡ Chúa Yesus và các Tông Đồ.
2/ Thánh Nữ thuộc nhóm phụ nữ đi theo Chúa Yesus/ và lấy tài sản của mình mà giúp đỡ Ngài. Thánh nữ Maria Madalena có mặt trên đồi Canve khi Chúa Yesus chịu tử nạn, và là người thứ hai sau Đức Mẹ, bà được phúc gặp Đấng Cứu Thế vào sáng ngày Phục Sinh. Thánh Nữ đã gặp được Chúa sau khi Chúa gọi đích danh bà.
3/ Lòng sùng kính của Giáo hội đối với người nữ Môn Đệ hết mực trung thành của Chúa Kito đã được phổ biến khắp thế giới Phương Tây trong thời trung cổ. Thánh Nữ Maria Madalena, không phải là những người phụ nữ trùng tên Maria, hoặc là người đã vì lòng sám hối mà đổ dầu thơm quý giá xức chân Chúa Yesus tại nhà ông Simon tật phong.
4/ Maria Madalena có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài/ là đề tài gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các Thánh nhân và các Môn Đệ của Chúa Kito qua mọi thời đại. Tiếng tăm bà không dễ dàng gì giải thích, mà chỉ dựa vào các thông tin của bà trong Kinh Thánh. Điều mà sách Tân Ước nói về bà thật ít ỏi, dễ gây thất vọng, các tác giả Tin Mừng chỉ đơn giản gọi bà là Maria thành Magdala, nhưng có một chi tiết nhỏ có ý nghĩa , có thể gây kinh ngạc/ vì cả 4 Tin Mừng đều khẳng định bà là người Môn Đệ gương mẫu cho mọi thời đại.
5/ Có điều gì đó mang chút hấp dẫn về tên người phụ nữ này trong các bài Tin Mừng: Một người phụ nữ mà tên riêng lại không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác/ chính vì có nhiều óc tưởng tượng bình dân đã gán ghép bà với người phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một chút rối mù.
6/ Thỉnh thoảng Maria Macdala bị đồng hóa hay nhầm lẫn cách sai lầm với một người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Yesus. Sự đồng hóa này càng thêm phức tạp vì người ta nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô gái điếm. Điều này càng góp phần khiến cho vấn đề càng trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Madalena bị nhầm lẫn với một phụ nữ bị cáo buộc tội phạm ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Yoan, lại nhập nhằng với nhau.
7/ Thánh Marco và Mattheu đưa ra trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Yesus/ Có ý nói về cuộc mai táng sau này của Ngài/ Lúc ấy Chúa Yesus đang ở nhà của ông Simon tật phong, ở Betania, gần Yerusalem. Thánh Yoan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Yesus không lâu trước cái chết của Chúa/ xác định là phụ nữ thành Betania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu sống Lazaro em bà// Bởi vì Maria là cái tên rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà có tên là Maria đã lẫn lộn vào nhau trong truyền thống Kito giáo sau đó.
8/ Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Yesus khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong lúc thực hiện sứ vụ (Lc 7, 26-50)/ chứ không phải ở lúc cuối đời. Lúc ấy, Chúa Yesus đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Phariseu. Có lẽ Maria Madalena đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này, bởi vì bà Maria Madalena lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8,2), góp phần tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên nhẹ nhàng để gọi cho cái nghề làm gái điếm). Người đã đổ nước mắt thống hối và hành động như thế vì lòng hối hận/ thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Yesus là một phụ nữ vô danh trong tin mừng Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì tội lỗi của mình hơn là tình yêu dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa dụ ngôn mà Chúa Yesus vừa mới nói đến trong dịp này, lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể câu chuyện.
9/ Vấn đề càng thêm phức tạp hơn khi có vài đoạn tin mừng của Thánh Yoan (Yn 7,53/ Yn 8,11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình/ và gán ghép chị này với Maria Madalena. Một truyền thống lâu đời trong văn chương, và nghệ thuật Kito giáo đã vẽ nên một Maria Madalena là người tội lỗi ăn năn sau khi gặp được Chúa Yesus/ thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình hoặc tệ hại hơn nữa lại là một cô gái điếm.
10/ Tóm lại, Thánh Nữ Maria Madalena mà Giáo hội kính nhớ ngày 22/07: Bà là một phụ nữ Thánh thiện, bà đi theo Chúa suốt cuộc đời, bà đứng dưới chân Thánh giá/ bà được Chúa Yesus phục sinh hiện ra đầu tiên/ bà không phải là phụ nữ ngoại tình cũng không phải là người đàn bà tội lỗi/ cũng không phải là Maria chị của Lazaro. Bà là gương mẫu cho các Môn Đệ, bà là người duy nhất được Giáo hội công giáo Roma kính nhớ, bà là người được Chúa trừ bảy quỷ. Chúng ta không bao giờ được nhầm lẫn với những bà Maria khác, mà các họa sĩ công giáo đã vẽ lên những hình ảnh, những tác phẩm khiêu gợi, không đúng với nhân phẩm của một vị thánh nữ gương mẫu như bà /
11/ Hôm nay chúng ta suy về tình yêu bùng cháy trong trái tim người phụ nữ đã không hề rời mộ Chúa/ mặc dù các Tông Đồ khác đã bỏ trốn tất cả. Thánh nữ vẫn liên lỉ tìm kiếm đấng mà trước kia bà không tìm được, thánh nữ đã tìm kiếm trong nước mắt và bừng cháy ngọn lửa tình yêu. Bà khao khát tìm thấy đấng mà bà đang tưởng nhớ/ và với hy vọng gặp được Chúa/ và bà là người duy nhất đã gặp được Ngài. Đúng như lời Chúa đã cho chúng ta biết: Ai trung thành đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.
12/ Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Chúa đang ở rất gần bên chúng ta trong những biến cố của cuộc sống/ mặc dù chúng ta không nhận ra Người, nhưng Người vẫn luôn ở bên chúng ta.
13/ Hôm nay chúng ta hãy xin Thánh nữ ban cho chúng ta lòng trung kiên/ và chia sẻ lòng trung kiên của Bà trong việc đi tìm Chúa/ xin Thánh nữ giúp chúng ta vững bước theo Chúa cho đến cùng như Ngài đã từng đứng dưới chân Thánh Giá và theo Chúa trên mọi bước đường của sứ vụ, Bà đưa Chúa đến nơi huyệt đá, đợi chờ để được ướp xác Chúa kỹ hơn. Nhờ thế Thánh nữ đã gặp được Chúa, đã có được niềm vui trọn vẹn cho cuộc đời mình. Xin Chúa Kito phục sinh cũng cho con được gặp Chúa như vậy. Amen.****///
14/ Các bà Maria trong Tân Ước:
Trong Tân Ước, có một số phụ nữ mang tên Maria (Hípri: Miryâm). Có 6 người mang tên Maria:
1. Maria, mẹ Đức Giêsu.
2. Maria, mẹ các ông Giacôbê (Thứ) và Giôxếp. Đôi khi bà này được đồng hóa với bà Maria vợ ông Clôpát, chị thân mẫu Đức Giêsu. Bà này thường được nêu tên cùng với bà Maria Mácđala (Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1; Lc 24,10; Ga 19,25).
3. Maria, ở Bêtania, em của cô Mátta và chị ông Ladarô (Lc 10,39.42). Bà này được tác già Tin Mừng IV đồng hóa với người phụ nữ xức dầu lên chân Đức Giêsu (Ga 11,1; 12,3). Một số người đồng hóa sai lầm bà này với người phụ nữ tội lỗi trong Lc 7,37-50.
4. Maria, Mácđala (mừng lễ ngày 22/7). Bà là người trước đây bị bảy quỷ ám, đã được Đức Giêsu chữa lành. Bà có mặt khi Đức Giêsu tắt thở và đi theo mai táng xác Chúa trong mồ, và là người đầu tiên được gặp mặt Đấng Phục Sinh (Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1.9; Lc 8,2; 24,10; Ga 19,25; 20,1.11.16.18). Bà không phải là Maria Bêtania hay người phụ nữ tội lỗi trong Lc 7,37-50.
5. Maria, mẹ của Máccô: Cv 12,12.
6. Maria, Một Kitô hữu ở Rôma: Rm 16,6. //// Lm FX VŨ PHAN LONG
Ghi chú thêm: Giáo hội Chính thống kính cả 3 bà, nhưng giáo hội Roma chỉ kính có một bà, đó là Thánh nữ Maria Madala, kính ngày 22/7. Bà thánh này không phải là người đàn bà tội lỗi như nhiều người vẫn lầm tưởng. Chúng ta hãy xác định lại cách hiểu và cách kính nhớ, kẻo vô tình chúng ta lại hiểu sai và cứ tiếp tục xúc phạm đến thanh danh và sự thanh sạch của bà. Giuse Luca
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh nữ Maria Mađalêna. Sứ điệp Lời Chúa trong ngày lễ kính nhớ thánh nữ cho chúng ta nhiều góc nhìn. Tuy nhiên, từ sách Diễm Ca trong bài đọc một như mở ra cho chúng ta một hướng nhìn để cùng cảm nhận với chị thánh, khi viết “Suốt đêm trường tôi tìm người lòng tôi yêu dấu … Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu ?” (Dc 3:1-4) Câu này trong sách Diễm Ca đã có thể diễn tả nỗi niềm khắc khoải của Maria Mađalêna. Chị đã khắc khỏai đi tìm Ngài, Đấng đã đi tìm chị và phục hồi cho chị tất cả những gì là cao quý nhất trong phẩm giá của một con người. Cuôc đời của chị sẽ chỉ trở nên trọn vẹn khi có Ngài. Đấng ấy, Đấng mà chị đang khắc khoải kiếm tìm, đã bị chôn vùi trong nấm mộ như chị đã biết. Nhưng tình yêu đã không ngăn được người phụ nữ chân yếu tay mềm kia lên đường tìm kiếm Ngài, với khát mong là được nhìn thấy Ngài, cho dẫu là một thân xác đã bị chôn vùi trong mộ. “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây…” (Mc 16:3). Vâng, dẫu biết Chúa đã được mai táng trong mồ, dẫu biết Chúa đã chết thật, và dẫu biết rằng tảng đá lấp cửa mồ quá to, nhưng Maria vẫn đến. Cái khắc khoải tìm “người lòng tôi yêu dấu” đã đưa Maria lên đường đi tìm Ngài.
Niềm khát mong đó, cộng với nỗi đau đớn sầu buồn mà Maria và các môn đệ Chúa vừa trải qua, đã làm cho chị không còn đủ tỉnh táo để nhận ra Chúa nữa. Dòng lệ sầu buồn đã làm nhòa đi tất cả. Ánh mắt Maria đã chỉ còn chăm chú nhìn vào trong mộ, nơi đã đặt xác Chúa. Có chăng những sầu muộn buồn phiền, khiến mỗi chúng ta cũng giống như Maria đã không còn đủ tỉnh táo để nhận ra tiếng Chúa, nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những khó khăn mà thế giới chúng ta đang phải đối mặt, giữa lúc dịch bệnh vẫn đang hoành hành? Như chính Chúa đã hỏi Maria: “Này bà, sao bà khóc, bà tìm ai?” (Ga 20:15). Dòng lệ nhoà giữa nỗi buồn nặng trĩu trong lòng đã khiến cho Maria thật không còn nhận ra Đấng bà đang tìm kiếm nữa.
Tuy buồn là thế, xong lại có một điều khiến cho Đấng Phục Sinh cũng như tất cả những ai, khi nghe câu nói này của Maria Mađalêna, đều phải rung động trước tình yêu bà dành cho Chúa. “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” (Ga 20:15). Trong cái giờ phút mà Maria đang khắc khoải tìm “Người lòng ‘mình’ yêu dấu” đó, thì tại sao bà không hỏi rõ với “người làm vườn” rằng: “thưa ông, nếu ông đã đem Chúa Giêsu của tôi đi….” mà chỉ đơn giản xưng bằng đại từ “NGƯỜI” xem ra rất chung như thế. Đó chính là vì, đối với Maria thì Đức Giêsu đã trở nên thân thương đến mức tràn ngập tâm hồn, đến mức mà bà nghĩ rằng chỉ cần hỏi về “NGƯỜI” thôi, thì ai cũng biết, ai cũng hiểu, như chính bà hiểu, cảm và biết về NGƯỜI.
Thế đó, tâm hồn Maria tràn đầy lòng mến cho Chúa Giêsu, thế giới trong bà là Chúa Giêsu. Cảm nhận của bà là cảm nhận Giêsu, nó sống động và tràn đầy đến mức như điều mà nhà thơ Tagore đã mong ước: “Chỉ mong tôi thôi chẳng còn chi, cho tôi gọi Người: là tất cả của tôi. Chỉ mong tôi thôi chẳng còn chi, để cảm thấy Người ở mọi chốn mọi nơi. Đến với Người trong mọi thứ mọi điều, và sẵn sàng dâng hiến, dâng trọn tình tôi.” (Thơ Tagore). Vâng đối với Maria thì niềm mong ước đó đã một lần là hiện thực, đã một lần có Thầy Giêsu trọn vẹn là lẽ sống, là tình yêu và “là tất cả”. Và dĩ nhiên, Maria cũng nghĩ “NGƯỜI”, Đấng bao trùm toàn bộ tâm hồn và cuộc đời bà, Đấng ấy, khi chỉ cần xưng “Người” thôi, ai cũng biết bà đang muốn nói về ai.
Vâng, nhờ cảm nhận tình yêu đó, bà xứng đáng được chính Đấng Phục Sinh, “Người giữ vườn” mà bà đang hỏi đó, gọi đích danh “Maria” với tất cả sự trìu mến. Thế giới trong Maria vụt sống lại, như trước đây đã một lần sống lại từ bùn đen tội lỗi và sự chết. Dòng lệ nhòa đôi mắt kia giờ đã được lau khô. Thay vào đó là một tình yêu chữa lành, một tình yêu biến đổi. Biến đổi bóng tối thành ánh sáng, gian dối nên sự thật, hận thù thành yêu thương, và sự chết thành sự sống. Tình yêu đó có tên gọi là Giêsu – “Người lòng tôi yêu dấu.”
Bạn thân mến! Nếu có lúc nào đó trong cuộc đời, chẳng hạn như lúc này đây, khi những nỗi muộn phiền nặng nề của bệnh dịch khiến chúng ta cảm thấy như thể “tảng đá” đang che khuất giữa cuộc đời chúng ta với Thầy Chí Thánh Giêsu, chúng ta hãy cùng bắt chước Thánh nữ Maria Mađalêna, hãy dõi tìm “Người yêu dấu Giêsu” qua nguyện cầu, qua trầm lắng khỏi những biến động của đời. Để khi chúng ta khắc khoải kiếm tìm NGƯỜI, khi chúng ta một lần làm mới lại cảm nhận về NGƯỜI, khát khao NGƯỜI là tất cả cho ta. Để chính NGƯỜI sẽ đến với chúng ta, như đã đến với Maria Mađalêna. Để chính NGƯỜI khơi dậy sức sống trong ta một lần nữa bằng việc NGƯỜI gọi tên từng người trong chúng ta. Trong thinh lặng đức tin, trong thinh lặng tâm hồn, Ngài đã cất tiếng gọi; tiếng gọi được cất lên giữa những biến động của cuộc đời. Trong những khắc khoải kiếm tìm NGƯỜI lòng ta yêu dấu, hãy để cho những thổn thức trong ta vang lên thành tâm tình nguyện cầu, lời kinh thấm đượm:
“Chúa ơi! Con nhớ Chúa nhiều, Nhớ câu ca nguyện, nhớ bài thánh thi. Nhớ khi con lặng bái quì, Nhớ giờ thánh Lễ, cử hành ban mai. Những lần thưa tiếng Amen, Hồn đầy hoan lạc, Chúa tràn tâm tư! Chúa ơi dịch bệnh hoành hành, Bao người sầu khổ, thế trần khóc than! Chúa ơi! cứu giúp trần gian, Chúa thương ngự đến hồn an, xác lành.”
Hôm nay chúng ta hãy hợp nhau, cùng thánh nữ Maria Mađalêna, dõi tìm Đấng lòng ta yêu dấu. Hãy thổn thức với NGƯỜI yêu dấu, trong nguyện cầu, tâm tư ước vọng của chúng ta. Để như xưa ngài đã phục sinh thánh nữ Maria Mađalêna, xin Ngài cũng ban cho chúng ta mỗi người sức sống mới. Để hồn an xác mạnh, chúng ta mỗi người cùng với thánh nữ Maria Mađalêna có đủ sức thưa lên: Rapbuni – Lạy Thầy; và một lần nữa chúng ta lại cảm nhận: “cho tôi gọi NGƯỜI là tất cả của tôi.” Amen.
Đức Giêsu đã nói: “Kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều” (Lc 8, 47b). Người được Chúa tha tội không phải để tạo cho họ một tâm hồn trống rỗng, nhưng Ngài đổ đầy tình yêu của Ngài vào lòng họ. Cụ thể ông Phaolô là người tội lỗi nhất: Đang xông tới Đamas để triệt hạ những người Công Giáo, thì Chúa Giêsu lại chọn ông đi làm Tông Đồ cho Ngài (x Cv 9), và khi ông đã tin theo Chúa Giêsu, được Ngài rót tình yêu đầy lòng, như ông nói: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi. Để từ đây, tôi không còn sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình, để làm cho loài người được trở nên một thụ tạo mới, cũ đã qua đi, mới được tạo thành nhờ được ở trong Chúa Kitô Giêsu” (2 Cr 5, 14-17: Bài đọc).
Cũng thế, bà Maria Madalena là một phụ nữ tội lỗi khét tiếng, thậm chí bà bị bảy quỷ thống trị, nhưng sau khi bà được Đức Giêsu trừ quỷ cho, Ngài cũng đổ tình yêu vào lòng, nên bà đã thể hiện tình yêu đối với Đức Giêsu và đối với đồng loại, bằng những việc cụ thể:
1/ TÀI SẢN CỦA BÀ DÂNG HẾT CHO ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC TÔNG ĐỒ, để cùng với các đấng lên đường truyền giáo (x Lc 8,1-3).
2/ BÀ ĐÃ CHIA SẺ NỖI ĐAU KHỔ CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ CỦA ĐỨC MARIA NƠI ĐỒI SỌ. Đó là lý do bà cùng với Đức Maria đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu (x Ga 19,25).
3/ BÀ SẮM DẦU THƠM VÀ CHẠY RA MỘ ĐỨC GIÊSU vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lúc trời còn tối (x Ga 20,1a). Đây là hình ảnh nói lên con người tội lỗi như bà Maria Madalena, nếu không nhờ Đức Giêsu cứu chuộc, thì chắc chắn bà đi vào sự chết, được biểu lộ qua hình ảnh “trời còn tối”, khác nào ông Giuđa vì tham 30 đồng bạc, nên khi ông đang dự tiệc với Thầy Giêsu và các anh em, ông đã bỏ bàn tiệc băng mình vào đêm tối, để thông đồng với các đầu mục Do Thái và quân Roma bàn mưu nộp Thầy (x Ga 13,30).
4/ BÀ MARIA MADALENA LÀ CHỨNG NHÂN ĐẦU TIÊN CỦA TIN MỪNG CHÚA GIÊSU PHỤC SINH (x Ga 20,18: Tin Mừng). Đây là Tin Mừng bà Maria loan báo:
a- Đức Giêsu bảo đảm sự sống Phục Sinh cho những ai tin theo Ngài.Thánh Gioan ghi nhận: “Bà thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem xác Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” (Ga 20,1b-2: Tin Mừng). Đó là dấu ứng nghiệm lời ngôn sứ Ezekiel tiên báo về ngày Chúa phục sinh dân Ngài: “Này, Ta sẽ mở cửa mộ các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi mồ hỡi dân Ta” (Ed 36). “Maria hỡi, xin kể lại trên đường đi đã thấy gì cô? Thấy mồ trống Đức Kitô, phục sinh vinh hiển thiên thu khải hoàn” (Tung Hô Tin Mừng).
b- Chúa Giêsu Phục Sinh canh tân bộ mặt trái đất. Cụ thể Ngài đã tỏ mình ra cho bà Maria Madalena qua dáng vóc người làm vườn (x Ga 20,15: Tin Mừng), là dấu chỉ Ngài trổi vượt hơn Adam thứ nhất, vì ông được Chúa giao cho việc canh tác vườn (x St 2,15). Có nghĩa là Adam phải tiếp tay với Thiên Chúa để làm hoàn hảo hơn công trình Ngài đã tạo dựng. Nhưng Adam đã phạm tội, thay vì ông cộng tác làm tốt đẹp công việc của Chúa, thì gai góc đã mọc lên, chứng tỏ sự dữ bao trùm trái đất (x St 3,18) ; Nay Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ ra dáng người làm vườn, Ngài là Adam cuối cùng luôn cùng với Chúa Cha làm việc (x Ga 5,17), để canh tân bộ mặt trái đất, khởi đi từ việc Ngài cứu chuộc loài người. Như thánh Phaolô đã nói: “Phàm ai ở trong Đức Kitô, đều là thụ tạo mới, con người cũ đã qua đi, và này con người mới được tạo thành, tức là những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (1Cr 5,17.15b: Bài đọc), như thế Đức Giêsu diệt “cỏ gai” là tội lỗi đưa đến sự chết mà Adam thứ nhất đã gieo vào lòng giống nòi của ông.
Nhưng ta để ý đời sống lao động của Đức Giêsu trên dương thế, với tuổi đời 33, Ngài đã dành 30 năm làm việc tay chân,chỉ có ba năm cuối đời, Ngài lo việc Nước Thiên Chúa đạt tỷ lệ 1/10 (3/33) thời gian trong đời. Thế thì ta được sinh lại bởi Chúa Giêsu, trở nên giống Ngài, liệu ta có giống Chúa Giêsu mỗi ngày dành hai giờ đạt tỷ lệ 1/10 để lo việc linh hồn không ? Nhất là dành giờ đi dự Lễ mỗi ngày, hầu ta được cầm lấy Chúa Giêsu Thánh Thể, là nắm chắc được ơn cứu độ, như bà Maria Madalena vừa nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh, là muốn ôm chầm lấy Ngài, thì Ngài lại nói: “Đừng cầm Ta lại, vì Ta chưa về cùng Cha Ta” (Ga 20,17: Tin Mừng).
Tại sao thế ?
Thưa: để thực hiện chương trình cứu độ loài người, Đức Giêsu đi ba bước:
* Bước I: Ngài tự hủy mình ra như kẻ tôi đòi từ lúc nhập thể và đỉnh cao vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại đồi Sọ.
* Bước II: Ngài Phục Sinh, chiến thắng mọi sự dữ, diệt thần chết.
* Bước III: Ngài về Trời để nhận vương quyền từ tay Chúa Cha (x Mt 28,18). Chính là lúc Ngài thiết lập hoàn hảo Phụng Vụ mới, thay thế cho Phụng Vụ Do Thái giáo và Ngài truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa trong Thánh Lễ mỗi ngày (x 1Cr 11,23-25), để ai tham dự thì được Chúa Giêsu Phục Sinh thông ban phần chiến thắng vinh hiển, đánh gục thần chết.
Như vậy bà Maria Madalena gặp Chúa Giêsu Phục Sinh nơi gần mộ, Ngài mới đi bước thứ hai, chưa hoàn tất ơn cứu độ cho loài người. Bởi vì lúc ấy Ngài sống lại nhưng chưa về cùng Cha, thì không sinh ơn cứu độ cho ai, chỉ khi Ngài về với Cha (bước thứ ba). Đó là lý do Đức Giêsu nói: “Đừng cầm Ta lại vì Ta chưa về cùng Cha Ta”, thì phải hiểu rằng khi Ngài đã phục sinh về cùng Cha, lúc ấy Ngài mới muốn mọi người cầm lấy Ngài (rước Lễ). Khi được rước Lễ, ta cũng nói được như thánh Phaolô: “Điều quan trọng không phải tôi là người hoàn hảo, mà quan trọng vì được Đức Giêsu chộp lấy” (Pl 3,12). Ai đã được Chúa Giêsu chộp lấy, người ấy có sức mạnh trổi vượt hơn ông Samson đi diệt kẻ thù là tội lỗi. Chính vì vậy mà ngày nay Hội Thánh cho phép người tín hữu rước Lễ trên tay, để xác tín mình mạnh hơn ông Samson chỉ cầm hàm lừa. Kìa ông Samson đã bị kẻ thù khoét hai mắt, nhưng nhờ cầu nguyện, Chúa cho ông sức mạnh bứt tung xiềng xích đang cùm trói, rồi ông cầm lấy hàm lừa quại chết hàng ngàn kẻ thù, giải phóng cho dân tộc (x Tp/Qa 15,15).
Chỉ ai tin nhận Chúa Giêsu Phục Sinh, đặc biệt trong Thánh Lễ, người ấy mới bảo đảm được ơn cứu độ cũng như khi Chúa Giêsu gọi chính tên Maria, bà quay lại và thưa: “Rabbuni” (Sư Phụ), tiếng Do Thái là “lạy Thầy” (x Ga 20,15-16: Tin Mừng). sự việc Chúa Giêsu gọi tên bà Maria làm ứng nghiệm Lời Thánh Kinh: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, Ta đã gọi bằng chính tên ngươi, ngươi đã trở thành dân riêng của Ta” (Is 43,1b).
Vậy ta muốn được tình yêu Đức Kitô thúc bách để sống như thánh Phaolô và bà Maria Madalena, hầu tập họp nhiều người về cho Chúa, thì ta phải năng dự Phụng Vụ cất lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, Ngài là Chúa con thờ, linh hồn con khao khát Chúa” (Tv 63/62,2: Đáp ca).
WHĐ (11.06.2016) – Với quyết định nâng bậc lễ Thánh Maria Mađalêna (ngày 22 tháng Bảy) thành “lễ kính”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh nữ như là “Tông đồ của các Tông đồ”.
Trong lịch phụng vụ Giáo hội hiện nay, các Thánh được mừng theo ba bậc lễ: lễ nhớ (buộc hay tự do), lễ kính, hay lễ trọng. Từ nay lễ Thánh Maria Mađalêna sẽ có cùng bậc lễ với Lễ của các Thánh Tông đồ.
Qua một bức thư thông báo việc thay đổi này -quy định trong Sắc lệnh ký ngày 03 tháng Sáu 2016, nhằm ngày Lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu-, Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự thánh và Kỷ luật các Bí tích, viết: quyết định trên đây muốn nói rằng chúng ta “phải suy tư sâu xa hơn về phẩm giá của phụ nữ, về Tân Phúc âm hoá, và về sự cao cả của mầu nhiệm Lòng Chúa thương xót”.
Thánh Maria Mađalêna là chứng nhân đầu tiên của việc Chúa sống lại, và là người loan báo tin mừng ấy cho các Tông đồ.
Đức Tổng giám mục Arthur Roche viết: “Thánh Maria Mađalêna là một gương mẫu của việc Phúc âm hoá đích thực; Thánh nữ là một nhà rao giảng đã loan báo tin vui Phục sinh”.
“Quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô được đưa ra ngay trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương xót để nói lên tầm quan trọng của Thánh nữ – là người đã bày tỏ tình yêu lớn lao đối với Chúa Kitô và được Chúa Kitô yêu mến nhiều”.
Ngài cũng nhắc lại rằng Thánh Mađalêna đã được Thánh Tôma Aquinô gọi là “Tông đồ của các Tông đồ” (Apostolorum Apostola), vì Thánh nữ đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
“Vì thế ngày lễ Thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các Thánh tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Roma, để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của Thánh nữ – một tấm gương và hình mẫu cho mỗi người phụ nữ trong Giáo hội.
Thánh nữ Maria Mađalêna quê ở Magđala, gần biển hồ Galilêa. Thánh nữ bị quỷ ám cho tới khi Đức Chúa Giêsu đến trừ quỷ cho. Sau đó, Maria Mađalêna đi theo Đức Chúa Giêsu làm môn đệ và là một trong những phụ nữ thánh thiện đã giúp đỡ Chúa Giêsu và các tông đồ.
Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, thánh nữ Maria Mađalêna đã đứng dưới chân thập giá. Ngài ở đó cùng với Đức Maria và thánh Gioan, không sợ nguy hiểm gì! Tất cả những điều thánh nữ có thể nghĩ tưởng lúc ấy là: Thiên Chúa của tôi đang phải chịu đau khổ!
Sau khi thân xác Đức Chúa Giêsu được mai táng, Maria Mađalêna đã đến mồ Chúa ngay từ sáng sớm ngày Chúa phục sinh. Thánh nữ rất đỗi bàng hoàng khi nhìn thấy tảng đá to được lăn ra và ngôi mộ trống rỗng. Maria Mađalêna đã vội chạy đi báo tin cho Phêrô và Gioan: “Họ đã lấy mất xác Thầy và tôi không biết họ đã đặt Người ở đâu!” Phêrô và Gioan liền vội vã chạy tới mồ và nhận thấy mọi sự thật đúng như lời Maria Mađalêna đã nói. Rồi Maria Mađalêna ở lại bên mộ sau khi Phêrô và Gioan về nhà. Và Maria Mađalêna bắt đầu khóc! Đột nhiên, Maria Mađalêna thấy một người đàn ông mà ngài tưởng là người làm vườn. Maria Mađalêna liền hỏi người ấy xem có biết nơi để xác Thầy yêu quý của mình không. Và người đàn ông nói bằng một giọng mà Maria Mađalêna nghe rất quen: “Maria!” Và đó chính là Đức Chúa Giêsu, đang đứng ngay trước mặt thánh nữ! Chúa đã sống lại từ cõi chết! Maria Mađalêna liền quỳ phục xuống dưới chân Chúa Giêsu và kêu lên: “Lạy Thầy!”
Các thánh ký cho chúng ta biết Maria Mađalêna đã được Chúa Giêsu sai đi loan báo Tin mừng phục sinh cho Phêrô và các tông đồ. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, lễ mừng kính thánh nữ Maria Mađalêna được cử hành cách long trọng y như lễ kính các thánh tông đồ.
Thánh nữ Maria Mađalêna là người đầu tiên được xem thấy Đức Chúa Giêsu phục sinh và là người đầu tiên đem Tin mừng phục sinh đến cho các tông đồ. Thánh nữ có thể giúp chúng ta loan báo cũng Tin mừng ấy qua việc sống cuộc đời vui tươi và đầy lòng tin tưởng.
Vẽ lại chân dung đích thực của Thánh Nữ Maria Mađalêna 2000 năm về trước quả là một chuyện khó khăn. Tuy nhiên, thiết nghĩ cách hay nhất là chúng tôi sẽ cố gắng dựa vào Thánh Kinh và các tài liệu hiện có để tìm cách giải đáp một số thắc mắc căn bản và trình bày một vài truyền thuyết khả tín liên quan đến những năm tháng cuối đời của Thánh Nữ.
Mađalêna có phải là người đàn bà ngoại tình không?
Phúc âm Thánh Gioan viết: “Lúc đó các luật sĩ và biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa rồi nói với Người: Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang ngoại tình. Theo luật Môi-sen chúng tôi phải ném đá người đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:3-5). Và chúng ta biết được kết cuộc là Chúa Giêsu đã cứu bà thoát chết, tha thứ tội lỗi cho bà và căn dặn: “Thôi, chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.” (Ga 8:11). Người đàn bà vô danh đó ra về và các Phúc âm không hề nhắc đến bà nữa. Câu chuyện nầy xảy ra ở vùng đền thờ Giêrusalem.
Riêng về Maria Mađalêna, Phúc âm ghi rõ bà là em của Martha và là chị của Lazarô, quê ở tỉnh Mađala trong miền Galilê, thuộc gia đình khá giả, rất xinh đẹp, tóc dài và quăn, là người được Chúa yêu thương đến nỗi người chị là Martha phải ganh tị và có lần đã phân trần với Chúa Giêsu khi Ngài đến thăm (Lc 10:38-42). Lúc còn thanh xuân, bà bị “quỷ ám”, có những hành động thiếu tự chủ, và vì thế về sau bà phải thống hối để chuộc lại lỗi lầm. “Mađalêna là người được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16:9). Và, “Cùng đi với Người có nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Maria gọi là Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ...” (Lc 8:1-2). Phúc âm không ghi rõ bảy quỷ đó là những quỷ nào nhưng chắc chắn không có quỷ ngoại tình. Lý do giản dị là từ Galilê thuộc miền cực bắc Do-thái đi về thủ phủ Giêrusalem ở tận miền nam, phải trải qua một đoạn đường bộ chằng chịt đồi núi và sa mạc, dài hằng trăm cây số. Với phương tiện giao thông thô sơ cách đây 2000 năm, thiết nghĩ chẳng có cô gái 16, 17 nào như Mađalêna lại có hứng thú lặn lội đường xa về thủ đô để ngoại tình và để bị bắt quả tang !
Có một điều đích xác là sau khi được Chúa trừ khỏi bảy quỷ, Mađalêna đã hối cải và tỏ lòng yêu thương cảm kích vô cùng đối với Đấng đã cứu vớt mình. Bà đã dùng nước mắt rửa chân cho Ngài, lấy tóc lau khô chân Ngài và dùng bình ngọc đựng dầu thơm xức chân cho Ngài. Đáp lại, Chúa Giêsu cũng bày tỏ lòng yêu thương quý mến đối với bà và dành cho bà những đặc ân như sẽ thấy ở phần sau.
Mấy vấn đề chung quanh Maria Mađalêna
Vấn đề 1 – Sự lầm lẫn giữa các bà mang tên Maria.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội sơ khai, cũng có rất nhiều tin được tung ra để làm hại phẩm giá của người phụ nữ được Chúa yêu thương nầy. Bà là người hăng hái đóng góp của cải để nuôi các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu về trời, là người hăng say kể lại những điều mắt thấy tai nghe về Chúa Giêsu, về những lời giảng dạy của Ngài. Điều nầy cũng làm nẩy sinh nhiều đố kỵ kể cả nơi một số môn đệ nam giới. Lại nữa, theo thói quen của người Do-thái thời bấy giờ, các Phúc âm ít khi nói đến họ của các bà, chỉ gọi tên mà thôi, mà gọi tên thì chúng ta thấy có ít ra là bốn bà mang tên Maria, kể cả Đức Mẹ Maria.
Bà Maria ở Bêthania gần thủ phủ Giêrusalem được gọi là người tội lỗi, phải chăng bà là người phụ nữ ngoại tình đã nói ở trên?
Ngay cả Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, năm 591, cũng có sự lầm lẫn giữa các bà mang tên Maria nầy khi nói về Thánh Nữ Maria Mađalêna, cho rằng Thánh Nữ là người tội lỗi ở Bêthania.
Vấn đề 2 – Có cuốn Phúc Âm mà tác giả Maria Mađalêna không?
Vào những thế kỷ đầu, cũng nghe nói tới Phúc âm do Mađalêna viết. Tuy nhiên ngay từ năm 180, thánh Iraneus đã bài bác về những cuốn Phúc Âm cho là ngụy thư như Phúc Âm của thánh Tôma, Phúc Âm của Thánh Philipê, và Phúc Âm của Juđa cũng như Phúc Âm của Maria Mađalêna. Những Phúc Âm này không được Giáo Hội liệt kê vào Sổ Bộ Thánh Kihnh Tân Ước.
Tuy nhiên, lại cũng có người cho rằng Phúc âm của Thánh Gioan, tác giả chính là Maria Međalêna, vì Thánh Gioan không bao giờ nhắc đến tên mình, chỉ ghi là do người môn đệ Chúa yêu viết.
Giáo hội không hề bao giờ công nhận Maria Mađalêna là tác giả Phúc âm thứ Tư.
Vấn đề 3 – Có gì bí ẩn của bức họa Bữa Tiệc Ly không?
Họa sư Leonardo da Vinci vẽ bức họa nổi tiếng Bữa Tiệc Ly vào năm 1495, trên đó người môn đệ ngồi bên phải Chúa Giêsu lại rất trẻ, không râu, tóc dài và quăn. Nhìn vào bức họa, chúng ta ngay tình nhận ra người môn đệ đó chính là Thánh Gioan. Nhưng không, một số các nhà khảo cứu và rất đông người thuộc phái sùng bái Mađalêna đã cho rằng người môn đệ đó chính là Mađalêna. Và như thế, nhóm người đó quả quyết rằng trong số 12 Tông đồ khởi thủy, đã có một Tông đồ nữ. Điều quả quyết của họ mang lại một vấn đề nghiêm trọng khác: Nếu đã có một Tông đồ nữ, tại sao nữ giới lại không thể làm Linh mục ? Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi nhóm chủ trương Tông đồ nữ cho rằng khi vẽ bức danh họa Bữa Tiệc Ly, da Vinci đã có ẩn ý vẽ người môn đệ Chúa yêu là một môn đệ phái nữ, cho đó là một bí ẩn (code) mà họ quyết tâm khám phá cho bằng được. Nhiều cuốn sách đã được viết do các nhà khảo cứu nổi tiếng, và có tác giả hoan hỉ tri hô lên là đã giải mã được bí ẩn nầy rồi ! Sau đây là những điểm họ căn cứ vào để đoan chắc rằng người môn đệ Chúa yêu trong tranh chính là Mađalêna:
1) Mađalêna được gọi là người phụ nữ Chúa yêu thương vì thế không lý do gì lại thiếu mặt bà trong bữa ăn từ giã của Chúa. Chắc chắn bà đã xức dầu thơm lên đầu, mình và chân Chúa như bà vẫn thường làm. Và vì được Chúa yêu thương nên bà phải được ngồi ở vị trí quan trọng là phía bên phải, sát ngay bên Chúa Giêsu.
2) Tiếng mađala trong thổ ngữ vùng Galilê thời đó (talmudic) còn có nghĩa là cô gái có tóc quăn. Người môn đệ trong bức họa lại có tóc dài và quăn. Họ nói đích thị da Vinci cố tình vẽ Thành Nữ Mađalêna rồi, vừa trẻ, vừa có tóc quăn, lại ngồi ngay bên phải Chúa !
Thực ra, đây toàn là những điều suy diễn gượng ép cố tình áp đặt lên Thánh Nữ với dụng ý dùng ngài làm cớ để mong làm xáo trộn một số giáo huấn của Chúa Giêsu cũng như của Giáo hội, nhất là về thiên chức Linh mục. Phong trào đòi hỏi Giáo hội phải truyền chức Linh mục cho nữ giới trở nên rầm rộ, nhất là sau khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, năm 1995, lên tiếng khẳng định việc “Thánh Kinh ghi rõ Chúa Kitô đã chọn các Tông đồ trong nam giới”, và không chấp nhận cho nữ giới làm Linh mục. Tại Mỹ, ồn ào nhất vẫn là nhóm Ellen Turner ở San Jose, gồm khoảng 30 người đến từ khắp nơi kể cả Oakland. Họ tự nhận là phái Tân Mađalêna (Neo-Magdalenites), tụ họp với nhau vào mỗi buổi chiều ở khu vườn sau nhà, hướng về phía mặt trời lặn mà ca hát, đọc các đoạn Phúc âm nói về Mađalêna, giảng thuyết về Mađalêna, rồi truyền phép bánh rượu và phân phát cho các người tham dự, y hệt như các nghi thức trong Thánh lễ. Ellen tự nhận là người tiếp nối chức Linh mục của Thánh Nữ Mađalêna !
Chúng ta không lạ gì mỗi khi có trận hỏa mù được tung lên, thế nào cũng lôi cuốn được vài con nhạn la đà vô tình hay cố ý chạy theo để cho có người tung kẻ hứng nhịp nhàng và ồn ào dù biết rằng những đòi hỏi quái gở của họ đã và sẽ không bao giờ được Giáo hội chấp nhận.
Những đặc ân Chúa dành cho Thánh Nữ Mađalêna
Phải nói, trong số những người phụ nữ được nhắc đến trong các Phúc âm, ngoại trừ Đức Mẹ Maria, bà Maria Mađalêna là người được Chúa Giêsu dành cho những đặc ân cao quý mà chính một số các Tông đồ cũng phải trầm trồ suy bì. Không kể những gì vì tình yêu và lòng biết ơn mà bà đã làm cho Chúa Giêsu và Chúa đã đáp lại trong suốt thời gian Ngài đi đó đây giảng dạy dân Do-thái, sau đây là một số những đặc ân bà đã nhận được:
1. Bà là người, tuy Phúc âm không nói rõ tên, chắc chắn đã cùng với Mẹ Maria âm thầm lần bước theo các chặng đường tử nạn của Chúa Giêsu, bất chấp những khó khăn nguy hiểm có thể xảy ra cho bản thân bà.
2. Trên đỉnh đồi Golgotha, bà đã cùng Mẹ Maria đau đớn chứng kiến những cực hình mà Chúa Giêsu cam chịu, bị xua đuổi, bị sỉ nhục và cuối cùng chứng kiến cái chết thê lương của Ngài trên thập giá.
3. Bà đã có mặt trong khi thân xác nhuộm máu của Chúa Giêsu được tháo từ thập giá xuống, và chứng kiến việc táng xác Ngài trong ngôi mộ đá mới.
4. Hơn hết, bà là một trong số các phụ nữ nhanh chân chạy đến viếng mộ Chúa vào ngày đầu tuần, là người đầu tiên được Chúa Kitô phục sinh hiện đến, chuyện trò và được Ngài căn dặn phải đi thông truyền Tin mừng Sống lại cho các môn đệ của Ngài (Mc 16:9-11 và Ga 20:11-18). Bản văn In Touch Ministries viết: “Maria là người đầu tiên được nhìn thấy Chúa phục sinh, một phần thưởng vô giá mà bà nhận được do lòng yêu mến không hề lung lay của bà.”
Năm tháng cuối đời của Thánh Nữ Maria Mađalêna
Theo truyền thuyết và chứng từ đáng tin cậy từ các tín hữu thời sơ khai thì sau khi Chúa Giêsu về trời, Thánh Nữ Mađalêna đã gom hết gia sản của mình để nuôi dưỡng các Tông đồ trong những ngày các ông sống ẩn dật để cầu nguyện và trông chờ Chúa Thánh Thần hiện đến. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi vắn tắt: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Ngài.” (Cv 1:14). Và sau đó, cùng với các ông, Thánh Nữ đã lớn tiếng loan truyền những điều bà đã được nghe, được thấy, được chứng kiến nơi Chúa Giêsu trong suốt thời gian bà quen biết và đi theo Ngài.
Các nhà nghiên cứu Thánh kinh nêu lên hai truyền thuyết có phần khả tín hơn kém về những năm cuối đời của Thánh Nữ Maria Mađalêna, như sau:
1) Giáo hội Chính Thống Hy-lạp tin rằng Thánh Nữ đã cùng với Đức Mẹ Maria dời nơi cư ngụ về thành Êphêsô rồi qua đời tại đó. Năm 886 hài cốt của Thánh Nữ được chuyển về mai táng tại thành Constantinople. Truyền thuyết nầy ít được phổ cập.
2) Truyền thuyết khác nói rằng 14 năm sau khi Chúa Giêsu về trời, một số người Do-thái vẫn còn căm tức những người đã theo Chúa Giêsu, bèn bắt Thánh Nữ cùng với chị là Martha và em là Lazarô, người đầy tớ gái là Sara và xác của Bà Thánh Anna (Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria), tất cả bỏ lên một chiếc thuyền con không có mái chèo, thả cho trôi lênh đênh trên biển cả. Thuyền may mắn tấp vào bờ biển miền nam nước Pháp. Tại đây, sau khi đã rao truyền Tin Mừng cho khắp các miền Marseilles và Provence, Thánh Nữ lui về sống biệt cư trong hang động La Sainte-Baume suốt 30 năm trời, hằng ngày có Thiên thần mang Mình Thánh đến làm lương thực duy nhất nuôi dưỡng bà. Bà qua đời năm 72 tuổi, nhưng lúc còn hấp hối, Thánh Nữ được các Thiên thần đưa về nhà nguyện Saint Maxim, ở đó Thánh Nữ được Đức Giám mục sở tại ban các phép bí tích cuối đời và tắt thở. Sau nhiều lần xác Thánh Nữ được phân tán nhỏ để dễ di chuyển vì các biến cố thời cuộc mang tính cách bạo động của nước Pháp, năm 1822 chỉ còn lại xương sọ của Thánh Nữ được trang trọng đặt trong hòm kiếng tại nhà thờ La Sainte-Baume (được xây cất chính nơi hang động Thánh Nữ đã sống biệt cư) để khách hành hương mộ mến Thánh Nữ đến kính viếng.
Nhận chân được công nghiệp cao cả của Thánh Nữ, một người đã được chính Chúa Giêsu yêu thương, một người đã góp phần không nhỏ trong việc rao truyền Lời Chúa và xây dựng các Cộng đoàn tín hữu thời sơ khai, Giáo hội đã tôn phong Maria Mađalêna lên hàng các Thánh tiên khởi và đặt ngài làm Quan thầy của rất nhiều Hội đoàn và Giáo xứ trên toàn thế giới.
Lễ kính Thánh Nữ được long trọng cử hành hàng năm vào ngày 22 tháng Bảy.
Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la mà chúng ta mừng kính hôm nay, sinh ra tại Mác-đa-la, gần biển hồ Ga-li-lê. Mặc dầu từ thế kỷ thứ VI, Giáo hội Tây Phương thường đồng hóa tên của Ngài với một số phụ nữ có tên Ma-ri-a trong Kinh Thánh. Nhưng thực sự Ngài không phải là Ma-ri-a người chị em với Mát-ta và La-za-rô (x. Lc 10,39.42), cũng không phải là người phụ nữ vô danh xức dầu cho Đức Giêsu tại Bê-ta-ni-a mà các sách Tin mừng kể lại (x. Mc 14,3-9; Mt 26, 6-13; Ga 12, 1-8). Ngài không phải là người phụ nữ tội lỗi”đã được tha thứ nhiều nên yêu mến nhiều” trong Tin mừng theo Thánh Luca (x.7,36-50), và càng không phải là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,2-11).
Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la đã được Đức Giêsu trừ cho khỏi 7 qủy (Lc 8,2). Sự việc này không có nghĩa Ngài là người phụ nữ có quá khứ tội lỗi, nhưng chúng ta chỉ có quyền hiểu vì Ngài bị qủy ám. Đây là biến cố hết sức quan trọng trong cuộc đời của Ngài. Vì sau khi được Đức Giêsu chữa lành, Thánh Nhân đã đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu. Ngài có mặt trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Ngài đã lấy của cải mình có để giúp Chúa và các môn đệ trong công việc loan báo Tin mừng. Thánh Luca kể lại:”Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ” (Lc 8,1-3).
Trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, hầu hết các Tông đồ bỏ trốn thì chính Ngài đã trung thành theo Đức Giêsu mãi tới đồi Can-vê, cùng với Đức Maria và Thánh Gioan đứng gần bên Thập Giá Đức Giêsu (x. Mc 15, 40-41). Không những thế, Ngài còn có mặt khi Đức Giêsu được người ta an táng trong hang đá.
Đặc biệt, theo Tin mừng thì Ngài là người đầu tiên gặp được Đức Giêsu phục sinh (x. Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1.9; Lc 8,2; 24,10; Ga 19,25; 20,1.11.16.18). Vì sao Ngài lại được vinh dự đó? Có lẽ nhờ lòng yêu mến và nhiệt thành của Ngài đối với Đức Giêsu.
Tin mừng hôm nay kể lại rằng:”Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ”(Ga 20,1). Ngài nhìn vào trong mộ không thấy xác Đức Giêsu đâu, nên Ngài khóc (x. Ga 20,11). Lúc đó, Đức Giêsu hiện ra với Ngài và gọi chính tên Ngài. Rồi, Đức Giêsu nhắn nhủ Ngài đi báo cho các Tông đồ biết là Người đã sống lại. Ngài đã đi và báo với các môn đệ rằng: Tôi đã thấy Chúa, và bà kể lại những điều Người đã nói với Ngài (x. Ga 20,15-18).
Theo truyền thống Hy Lạp, Thánh Nữ Ma-ri-a Mác-đa-la sống quảng đời cuối cùng ở Êphêsô và qua đời tại đó.
Qua một số chi tiết liên quan đến cuộc đời của thánh Ma-ri-a Mác-đa-la chúng ta có thể rút là những bài học sau đây:
Thứ nhất, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la là một người phụ nữ quảng đại, đã góp công, góp của để giúp Đức Giêsu và các môn đệ trên con đường truyền giáo. Mỗi người chúng ta cần phải có lòng quảng đại giúp đỡ không chỉ trong công việc xây dựng các công trình vật chất của giáo xứ, giáo phận, mà còn đóng góp công của để giúp đỡ các hoạt động truyền giáo của Giáo hội tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Thứ hai, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la là người phụ nữ can đảm và trung thành. Ngài không chỉ theo Chúa khi Người rao giảng, làm phép lạ, được dân chúng tung hô mà Ngài còn trung thành ở bên cạnh Chúa trên con đường khổ giá. Cụ thể khi Ngài đứng bên Thập giá lúc Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng. Khi mọi người đang an giấc thì chính Ngài đã chạy ra mộ để xức thêm dầu thơm cho Thầy mình. Mỗi người chúng ta cũng hãy noi gương Thánh Nhân biết can đảm theo Chúa nhất là những lúc gặp gian nan, đau khổ và gánh nặng cuộc đời, vì”Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” (Mt 16,24).
Thứ ba, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la đã trở thành người đầu tiên loan báo Tin mừng phục sinh. Thần học gia Augustine, Chính thống giáo, thế kỷ IV đã gọi Ngài là:”Tông đồ đối với các Tông đồ”. Tiếp tục sứ mạng của Thánh nhân và các Tông đồ, mỗi người chúng ta cũng hãy cố gắng loan báo Tin mừng phục sinh bằng lời nói, qua các phương tiện truyền thông, qua đời sống cầu nguyện và đặc biệt là bằng đời sống chứng nhân…
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la, xin cho mỗi người chúng con biết luôn trung thành với Chúa, can đảm trước những thử thách gian nan, nhất là nhiệt tâm trong việc loan báo Tin mừng Phục Sinh. Amen.
Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.
Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).
Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đấng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).
Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp”thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).
Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.
Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ, là người nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên”Maria” buổi sáng phục sinh.
Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.
Ngang qua kinh nghiệm của thánh Maria Madalena, xin Chúa ban cho mỗi chúng ta biết cảm nhận được mình tội lỗi để thật lòng sám hối. Đồng thời cũng biết cảm nghiệm sâu xa tình Chúa thương ta vô bờ để chúng ta biết tin tưởng cậy trông vào ơn tha thứ đến từ Thiên Chúa.
“Chúa ở cạnh tôi, nhưng nhiều khi tôi lãng quên người. Chúa ở cạnh tôi, nhưng mà sao nghe quá xa xôi. Chúa ở cạnh tôi, nhưng rồi tôi bưng mắt làm ngơ. Nhưng rồi tôi quay gót thờ ơ.” (Chúa ở cạnh tôi – Hoài Công)
hững lời hát trên như đang đánh động lòng ta rằng đã bao lần ta làm ngơ trước mặt Chúa, Chúa chờ ta nhưng ta lại bận rộn với những nhu cầu của bản thân, dẫu trên môi miệng đều có thể nói: “Chúa ở cùng ta mọi phút giây trong đời.”
Trở lại với bài đọc trên, ta thấy bà Thánh Maria Madalena trong nỗi đau sau khi chứng kiến Chúa chịu đóng đinh và thấy ngôi mộ của Thầy bỏ trống, bà đã không thấy được Chúa sống lại và đang đứng trước mặt mình. Nhưng lời gọi thân thương của Chúa như để phá tan nỗi sầu của bà”Maria”. Bạn ơi, có bao giờ bạn nghĩ rằng Chúa yêu ta bằng cách gọi tên ta trìu mến không?
“Này ông Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,1-19)
“Sa-un, Sa-un, sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv9, 4)
“Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước ‘Samuel! Samuel’ (1Sm 3,10)
Và bằng cách ấy ta nhận ra Ngài, ta được trở về với Ngài và trở nên khí cụ của Ngài.
‘‘Tôi đã thấy Chúa”, lời của thánh nữ với các tông đồ cũng là thông điệp cần thiết cho mọi Kitô hữu. Song, thông điệp sẽ chẳng nên toàn vẹn nếu ta không nhận biết Ngài hiện diện trong cuộc đời. Ta chỉ biết nói về Ngài nhưng sao lại không muốn gặp Ngài?
Trong xác tín rằng Thiên Chúa đã chết, chiến thắng tử thần, và sống lại (Ep 1,18), ta thấy được tình yêu của Ngài và vinh quang muôn đời Ngài muốn chia sẻ với ta; cách riêng là qua bài đọc hôm nay, cũng như qua lời khẳng định của thánh Phêrô: ”Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1Pr 1,8-9)
Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho con vì con đã nhiều lần hờ hững với Ngài và lãng quên lời Ngài dạy trong Tin Mừng. Xin giúp con nhận biết Ngài qua Tin Mừng, qua mọi thụ tạo chung quanh, và qua cách Ngài gọi tên con. Amen!
Lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Mađalêna như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Lazarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên “Maria” buổi sáng phục sinh.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ nhớ Thánh Maria Mađalêna. Khi nhắc đến người phụ nữ này, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ đến người đàn bà tội lỗi. Người phụ nữ đã được Chúa Giê-su cứu thoát khỏi tay những người muốn ném đá cô.
Tuy tội lỗi nhưng cô đã ăn năn hối cải. Sau khi hoán cải cô đã trở nên người tông đồ nhiệt thành của Chúa. Maria đã cùng đồng hành với chúa trên con đường rao giảng Tin Mừng; theo sát chân Chúa đến đồi Can-vê. Một Maria tội lỗi suốt ngày chỉ ở trong bóng tối, giờ đây đã được Chúa giải thoát mang cô ra ánh sáng. Đó chính là ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên cô.
Tin Mừng theo thánh Gioan vừa nhắc đến Thánh nữ Maria Mađalêna, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay. Bà là người nữ được diễm phúc gặp Chúa Giêsu phục sinh đầu tiên. Khi gặp được Chúa, bà vui sướng reo mừng, bà đi báo cho các môn đệ rằng : "Tôi đã thấy Chúa". Rồi bà kể lại cho các ông những điều Chúa đã nói với bà. Tuy nhiên thật tiếc thay, bà Maria Mađalêna đã không nhận ra được Chúa phục sinh, ngay từ phút giây đầu tiên khi Chúa xuất hiện trước mặt bà. Chúa đứng đó nhưng bà đã không nhận ra Chúa, mà phải trải qua một tiến trình với nhiều dấu hiệu, đến khi Chúa gọi tên bà, lúc ấy bà mới nhận ra Chúa.
Chúng ta tự hỏi, điều gì đã ngăn cản cản bà Maria Mađalêna không nhận ra Chúa ngay từ phút đầu tiên ấy. Thánh Gioan cho chúng ta thấy qua các dấu hiệu :
Bà Maria Mađalêna đến mộ từ sáng sớm, bà thấy dấu hiệu đầu tiên đó là “tảng đá lăn khỏi mộ”, bà không còn thấy Chúa. Với suy nghĩ của loài người, bà chỉ nghĩ được rằng "Người ta đem Chúa đi khỏi mộ và các bà chẳng biết họ để Người ở đâu ?” Bà không đủ sáng suốt để nghĩ về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành bà khỏi bảy quỷ, giờ đây hẳn Ngài thực hiện quyền năng của Ngài như đã báo trước. Bà tối tăm sầu buồn đến nỗi đâu còn nhớ Chúa có đủ quyền năng, làm cho đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim cũng như Lazaro chết chôn trong mồ được sống lại. Bà chỉ suy nghĩ và lý giải theo cách hiểu, cách nhìn rất trần thế của bà. Tảng đá được lăn ra, mồ trống, nghĩa là Người ta đem Chúa đi. Với lối suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách suy luận của con người, thật khó để nhận ra Chúa.
Khi bà Maria Mađalêna đến mộ lần thứ hai cùng với hai môn đệ, bà không thấy mọi sự diễn ra như bà suy tính, bà buồn rồi khóc. Bỗng bà thấy dấu hiệu nữa là : hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên Thần hỏi “sao bà khóc”. Thấy Thiên Thần, vậy mà bà chưa mở lòng để suy nghĩ thêm : Thiên Thần đâu dễ xuất hiện trong cuộc sống đời thường, phải có điều gì đó rất đặc biệt Thiên Thần mới xuất hiện chứ ? Rồi bà vẫn trả lời một câu y như lần trước, một câu nói như đã lập trình sẵn trong suy nghĩ kiểu loài người của bà. Bà nói với Thiên Thần : "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !". Với lối suy tính và chờ mong mọi sự diễn ra theo ý mình, mà không chịu mở lòng ra với các dấu hiệu Chúa gởi đến trong cuộc đời, chắc hẳn sẽ không nhận ra Chúa.
Và rồi, khi thấy dấu hiệu là chính Chúa Giêsu đứng đó. Chúa Giêsu nói với bà : "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?" Bà đang vẽ ra trong đầu suy nghĩ của mình về Thiên Chúa. Nên bà tưởng Chúa là người làm vườn, liền nói : "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về". Bà cứ mải miết bám vào các dữ liệu trần thế theo cách nhìn của bà, rằng đã có ai đó lấy xác Chúa. Giờ đây bà thấy ông này dáng vẻ người làm vườn, với suy nghĩ không đổi bà trả lời cũng vẫn bằng một câu trả lời không thay đổi, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết... Với lối tưởng tượng và suy đoán theo cách của con người, làm sao có thể nhận ra Chúa.
Sau khi Chúa về Trời, Mađalêna vốn tiếp tục sống cuộc đời thánh thiện. Cùng với các tông đồ, và cùng với hai anh chị em là Lazarô và Matta, bà tích cực tham gia mở mang nước Chúa. Không ai được biết bà tạ thế ngày nào, nhưng theo một truyền thuyết đông phương đáng tin cậy thì ông Lazarô đã tạ thế tại đảo Chyprô vào năm 899, di hài ngài được cải táng về Constantinôpôli. Còn xác thánh Mađalêna khi tạ thế đã được mai táng tại Êphêsô, đến thế kỷ thứ VI cũng được di chuyển về Contantinôpôlị
Kính xin thánh nữ Maria Mađalêna cầu cho chúng ta nhất là những ai đã chọn ngài làm thánh bổn mạng, được theo gương ngài mà ăn năn thống hối tội xưa, đồng thời quyết một lòng sắt đá bước theo Chúa Giêsu vì Ngài là chân lý, sự sống, và là đường dẫn nhân loại tới hạnh phúc vô biên.
Những ngày Chúa chịu chết là những ngày thánh nữ Maria Madalena đau khổ nhất, buồn thảm nhất. Vì thế mà có lẽ thánh nữ khóc rất nhiều, bởi vì thánh nữ quá yêu mến Chúa, và yêu mến Chúa một cách nồng nàn. Và cũng bởi vì quá yêu mến Chúa nên sáng sớm ngày đầu tuần khi trời còn tối, thánh nữ đã vội vàng ra mộ Chúa và không thấy xác Chúa. Thánh nữ chạy về báo tin cho thánh Phêrô và môn đệ khác được Chúa yêu mến biết điều này để xem thánh Phêrô và môn đệ được Chúa yêu có biết không. Nhưng hai môn đệ này cũng không biết gì cả, và rồi thánh nữ lại tiếp tục ra mộ Chúa, đứng gần mộ Chúa mà than khóc. Thánh nữ khóc vì: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?” (Ga 20, 13).
Vì nỗi đau mất Chúa quá lớn, cho nên thánh nữ đã khóc, và những dòng lệ chảy ra ở hai gò má trên gương mặt thẫn thờ, nó như tấm màn che đôi mắt để rồi thánh nữ không nhận ra Chúa5. phục sinh đang đứng bên cạnh thánh nữ. Chúa lên tiếng hỏi: “Bà kia, sao bà khóc, bà tìm ai?” (Ga 20, 15). Tiếng nói ngày nào của Chúa trước đây thân tình như vậy mà thánh nữ cũng không nhận ra Chúa mà tưởng là người giữ vườn, nên thánh nữ mới nói: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người” (Ga 20, 15b). Điều này cho chúng ta thấy sự quan tâm duy nhất lúc này đây của thánh nữ là biết "Xác Chúa ở đâu để đi lấy Chúa về mà thôi" chứ thánh nữ dường như chưa hiểu cái chết của Chúa đã qua rồi, cơn mưa đã qua rồi, còn bây giờ trời đã sáng, là sự phục sinh của Chúa. Hiện tại là nỗi đau, nước mắt, tìm xác Chúa hòa quyện nhau trong suy nghĩ, trong trái tim thánh nữ, chưa có câu trả lời, thì lại là chính lúc đó Chúa gọi tên thánh nữ: “Maria” (Ga 20, 16). Tiếng gọi trìu mến như ngày xưa của Chúa đối với thánh nữ đã giúp thánh nữ vượt qua nỗi đau tột cùng với những dòng lệ để rồi thánh nữ nhận ra Chúa, và quay hướng nhìn về Chúa chứ không nhìn theo hướng tự nhiên, bản năng của thánh nữ như vừa rồi nữa. Lúc này thánh nữ vui mừng vì biết Chúa đã sống lại, và thánh nữ thưa lên với Chúa: “Lạy Thầy” (Ga 20, 16). Niềm vui thấy Chúa sống lại quá lớn. Nỗi đau, nước mắt không còn nữa. Chúa đã lau khô dòng lệ, cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân (xIs 25, 6 – 10a), và giao cho thánh nữ sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các tông đồ của Chúa. Thánh nữ là người thứ nhất thực hiện sứ mạng cao quý này. Thánh nữ đã thực hiện liền ngay, không chần chừ, do dự, khoan giản. Thánh nữ đi báo tin cho các tông đồ biết: “Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy” (Ga 20, 18).
Lạy Chúa, xin Chúa đừng để những đau khổ về tinh thần, thể xác bởi những bệnh hoạn tật nguyền, thất bại, chia ly, chết chóc… này làm chúng con gục ngã, không còn nhận ra Chúa nữa, mà xuyên qua những điều đó, xin cho chúng con nhận ra Chúa đang ở với chúng con để chúng con tiếp tục sống và loan báo Tin Mừng Chúa phục sinh cho anh chị em chúng con, nhờ đó khơi lên niềm tin vào sự sống vĩnh cửu cho anh chị em chúng con. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: "Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia". Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: "Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy".
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc. Đức Giêsu đang giảng cho một đám người khá đông. Chắc là họ đứng chen chúc nhau đến nỗi khó lòng đến gần Ngài được. Chính vào lúc này thì mẹ và anh em Ngài đến, không rõ lý do. Họ muốn nói chuyện với Đức Giêsu, nhưng đành phải đứng ở ngoài. Có người vào báo cho Ngài về chuyện đó. Chúng ta tưởng Ngài sẽ ngưng ngay bài giảng để ra gặp mẹ và anh em. Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Mẹ Ngài hẳn đã phải đi một đoạn đường xa để đến gặp con trò chuyện. Nhưng lạ thay Đức Giêsu vẫn tiếp tục giảng. Ngài vẫn tiếp tục nói chuyện với đám đông đang nghe Ngài, thay vì đi ra nói chuyện với mẹ. Sự quan tâm của Ngài nhắm vào những người ở trong đây, hơn những người đứng ở ngoài kia. Sau đó Ngài lại đặt những câu hỏi vừa dễ lại vừa lạ: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 48). Dĩ nhiên đó là những người đang đứng ngoài kia, đang chờ được gặp mặt và nói chuyện với Ngài. Nhưng đó không phải là đáp án của Đức Giêsu. Chính Ngài cho ta đáp án bằng cách giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 49). Có một gia đình máu mủ đậm đà đứng ở ngoài kia, và một gia đình mới rất thân thương đứng ở trong này. Đức Giêsu không coi thường tình mẫu tử hay tình họ hàng ruột thịt. Điều Ngài muốn nhấn mạnh ở đây là chuyện Ngài có một gia đình mới. Các môn đệ của Ngài thuộc về gia đình này. Họ là mẹ, là anh chị em của Ngài, vì họ thi hành Ý muốn của Cha Ngài. Chính Đức Giêsu là người Con luôn thi hành Ý muốn của Cha. Ai thi hành Ý Cha trên trời cũng trở nên gần gũi với người Con (c. 50). Chúng ta có họ với Đức Giêsu và làm nên một gia đình bao la rộng lớn. Bỗng nhiên chúng ta thấy mình gần Cha, gần Giêsu và gần nhau. Nước Trời bắt đầu đến khi hơn hai tỉ kitô hữu nhận ra là mình cùng muốn làm trọn Ý Cha, cùng gắn bó keo sơn với Giêsu và cùng coi nhau là anh chị em (Mt 23, 8). Đức Giêsu có nhiều anh chị em trong gia đình của Ngài. Các phụ nữ thật là chị em của Ngài, dù xã hội Ngài trọng nam khinh nữ. Đức Giêsu cũng không chỉ có một người mẹ tên là Maria. Bất cứ ai sống theo ý Cha trên trời trong niềm vâng phục phó thác, bất cứ ai sinh Đức Giêsu ra cho môi trường sống của mình, bất cứ ai làm cho Ngài lớn lên trong trái tim nhân loại, người ấy là mẹ Đức Giêsu. Trong gia đình mới là Giáo Hội của Đức Giêsu, Maria đã là Mẹ Đức Giêsu theo ý nghĩa tuyệt vời nhất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen. ------------------------------
Tình yêu thương của Chúa thật lạ lùng cao sâu khôn lường. Vì yêu thương Chúa tuyển chọn dân Israel. Một nhóm người bé nhỏ, một đoàn người nô lệ, một đám đông ô hợp, nhưng dưới sự dẫn đưa của Chúa, đã trở thành một dân tộc hùng mạnh chiến thắng Pha-ra-ô.
Tình yêu thương dịu dàng qua việc chăm sóc họ. Ít-ra-en là dân riêng, là đoàn chiên được Chúa dẫn đưa. Tình yêu thương mãnh liệt qua việc tha thứ những phản bội bất trung. Mỗi khi gặp khốn khổ, họ ăn năn sám hối kêu cầu: “Lạy Chúa,... Xin đừng giữ mãi cơn giận. Xin lại thương xót chúng con”, thì Chúa lại tha thứ và ban ơn nâng đỡ.
Hôm nay, với lời: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi”, Chúa muốn nối lại tình yêu thương với một Dân Mới trong một liên hệ mới.
Đó là mối liên hệ cao hơn và sâu hơn. Không còn là tuyển chọn một dân, hôm nay Chúa nâng liên hệ lên một tầm cao mới: Cho ta được trở thành gia đình của Chúa, trở thành mẹ và anh em của Chúa. Như Đức Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa, đã cưu mang Lời Chúa trước khi cưu mang Ngôi Lời, nhờ vâng lời Chúa mà trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì tất cả chúng ta, nếu biết lắng nghe và thực hành thánh ý Chúa, cũng sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã vâng lời Đức Chúa Cha nên được Đức Chúa Cha khen tặng là Con Yêu Dấu, bất cứ ai vâng lời Đức Chúa Cha cũng được trở nên Con Yêu Dấu của Đức Chúa Cha, trở thành anh em chị em của Chúa Giêsu.
Đó là mối liên hệ rộng lớn hơn. Cuộc tuyển chọn không còn giới hạn vào dân Israel nữa, nhưng mở rộng trên khắp toàn cầu. Không còn là một dòng dõi theo chủng tộc, huyết thống, nhưng là một dòng dõi thiêng liêng. Bất cứ ai trên thế giới này thi hành thánh ý Thiên Chúa đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Vì thế Dân Mới, gia đình Thiên Chúa sẽ mở rộng trên toàn thế giới, qui tụ đủ mọi người thuộc mọi chủng tộc, ngôn ngữ khác nhau.
Thật lạ lùng tình thương của Thiên Chúa. Thật cao sâu ý định cứu độ của Thiên Chúa. Xin cho con biết thi hành thánh ý Chúa để được trở thành gia đình của Chúa và được góp phần vào công cuộc cứu độ tốt đẹp này.
Mỗi tác giả Tin Mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa. Ðối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn Nhóm Mười Hai. Trong Nhóm Mười Hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nổi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những người có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.
Trong Tin Mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỷ. Ma quỷ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỷ mới có thể lắng nghe được Lời Chúa và thần khí của Ngài. Ðức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỷ. Mẹ luôn luôn lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Chính vì lắng nghe Lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe Lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vị Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa.
Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Mẹ Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do Thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo Hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.
Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.
Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi Lời Chúa của Ðức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống Lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể không làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.
Ước gì chúng ta biết chạy đến với Ðức Maria như mẫu gương của lắng nghe và thực hành Lời Chúa; chạy đến với Người như người Mẹ thân thương của mỗi người, chúng ta cũng hãy đón nhận tha nhân như người anh em trong cùng một gia đình của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho những người đương thời và cho mỗi người chúng ta về mối tương quan mới giữa Chúa và những kẻ thuộc về Người. Dân chúng đến nghe Chúa giảng dạy, có lẽ biết rõ và quan trọng hóa gia đình theo huyết thống của Người. Tuy nhiên, Chúa muốn mở rộng cái nhìn của Người để lắng nghe Chúa, mạc khải cho họ mối tương quan mới quan trọng hơn giữa Chúa và những ai thuộc về cộng đoàn mới mà Người đang thiết lập. Ðó là mối tương quan dựa trên việc thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Ðây là mẹ, là anh em tôi, là những ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời". Ðó là đại gia đình mới của Chúa Giêsu, được mở rộng cho tất cả mọi người, mỗi thành viên trong gia đình mới này liên kết với nhau, không phải bằng mối dây thân tình ruột thịt, nhưng bằng một mối dây thần thiêng, liên kết vững bền và trường tồn, phát sinh từ việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời.
Khi trả lời cho đám đông muốn Chúa dành ưu tiên cho mẹ và anh em đang đến tìm Chúa, cho gia đình tự nhiên của Chúa, một gia đình nhỏ, được xây trên tình thân ruột thịt, Chúa Giêsu không chối bỏ mối quan hệ giữa Chúa và Mẹ Maria cũng như những anh chị em thân thuộc, nhưng Người mạc khải cho thấy mối tương quan quan trọng hơn, trọn vẹn hơn, và trong tương lai sẽ được mở rộng ra cho tất cả những ai chấp nhận thực hành thánh ý Thiên Chúa. Phẩm vị của Mẹ Maria không chỉ hệ tại nơi mối liên hệ ruột thịt với Chúa Giêsu, nhưng còn, và nhất là dựa trên mối dây thiêng liêng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Hơn ai hết, Mẹ Maria đã chấp nhận thực hiện thánh ý Thiên Chúa ngay từ đầu với lời thưa "Xin Vâng" trong biến cố truyền tin. Mẹ là người đã luôn thực thi trọn vẹn thánh ý Chúa, Mẹ đã phó thác cả cuộc đời Mẹ trong hai tiếng "Xin Vâng", và đã để Thiên Chúa dùng Mẹ như khí cụ mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, Mẹ đã được gọi là "Người Ðầy Ơn Phước". Ðầy Ơn Phước đã trở thành tên của Mẹ. Thiên thần đã gọi Mẹ là "Thiếu Nữ Ðầy Ơn Phước".
Có thể nói, Chúa Giêsu đã xác nhận trước mặt mọi người phẩm vị cao cả của Mẹ Maria khi Người trả lời cho đám đông: "Ðây là mẹ, là anh em tôi, là những ai thi hành thánh ý của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời". Và một cách gián tiếp, chúng ta có thể nói thêm rằng chính giây phút đó, Chúa Giêsu như muốn đề ra mẫu gương của Mẹ Maria cho tất cả những ai muốn bước vào sống trong đại gia đình mới của Người, đó là hãy sống vâng phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha như Mẹ Chúa đã nêu gương.
Lạy Mẹ Maria,
Mẹ là Mẹ Ðấng Cứu Thế và là Mẹ chúng con. Mẹ đã thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Xin thương dạy chúng con biết nhận ra thánh ý Chúa trong đời sống và khiêm nhu thực thi trong mọi hoàn cảnh, để chúng con và tất cả những người chúng con gặp gỡ cũng cảm nếm được niềm vui của đại gia đình Chúa hôm nay và cho đến muôn đời.
Người bảo kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Rồi người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt. 12, 48-50)
Để đánh tan mọi hiều lầm, Chúa chúng ta đã không cần bảo cho người ta biết Người là con trai duy nhất của thân mẫu Người. Về vấn đề này, ở Ca-phát-na-um cũng như ở Nagiarét, người ta đã nhất mực cho rằng: Mọi người đều coi Đức Giêsu là “Con bà Ma-ri-a”
Cha chúng ta …
Thiết tưởng là điều thiển cận khi cho rằng Chúa Giêsu coi nhẹ những mối dây liên hệ gia đình tự nhiên. Trái lại, Chúa Giêsu không lãnh đạm với thân mẫu Người, và luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cha mẹ; Người cũng dạy phải luôn luôn tôn trọng những mối tương quan liên hệ giữa các thành viên của cùng một gia đình.
Nhưng trong đại gia đình của Chúa Cha mà Người là Con Một, và chúng ta tất cả đều là nghĩa tử, thì không còn sự phân biệt kỳ thị nữa. Cả điều này chính Chúa cũng giảng dạy nhiều lần.
Luật yêu thương và tôn trọng anh em trong một gia đình tiềm ẩn trong (tư tưởng) thần học trên đây về tình yêu đại đồng, bởi lẽ mọi người bốn bể đều là anh em con một cha: “Tứ hải giai huynh đệ” Bởi vậy chúng ta có hai lý do để tôn kính và yêu mến cha mẹ ta: Các Ngài có quyền được ta tôn kính và yêu mến vì là cha mẹ; Các Ngài cũng có quyền được ta mến yêu và trọng kính vì là thành viên của đại gia đình Thiên Chúa. Đối với người cận thân cũng thế! Người cận thân cũng có thể được gọi là anh em ta một cách chính đáng, vì người ấy thực sự nằm trong ý định của Thiên Chúa. Ta hãy nhớ lại lời thánh Phao-lô nhắc nhở ta là con cái Thiên Chúa, là anh em với Chúa Giêsu Kitô, là người cùng thừa hưởng Nước Trời.
Ý Cha.
Mối dây liên kết ta với Chúa Giêsu Kitô không phải là mối liên hệ tự nhiên theo huyết tộc; liên hệ tự nhiên này dù rất cao quý vẫn không phải là liên hệ tạo lên tình huynh đệ giữa ta, mà chính là sự vâng phục ý Cha trên trời. Trong cuộc sống của tôi, khi tôi từ chối ý Chúa hoặc uốn nắn ý Người theo sở ước của tôi, tôi không thuộc về gia đình của Người. Tôi không được quyền gọi người thân cận tôi là anh em của tôi, nếu tôi không sống và thực thi ý Chúa.
Khi đưa ra điều kiện trên đây để được làm anh em, chị em Người, mẹ Người. Chúa Giêsu quả thực biết rõ và muốn mời gọi ta tham dự vào sự sống vô cùng quý giá, vô cùng phấn khởi: Sự sống Thiên Chúa vậy.
Trong cuộc sống, vì nhiều hoàn cảnh, các thành viên trong gia đình nhiều khi phải phân tán để ra đi đến nơi xa lạ nhằm kiếm miếng cơm manh áo hay học hành hoặc vì sứ vụ... Nỗi lòng nhớ quê hương và người thân hẳn không bao giờ vơi đi trong lòng người xa quê! Như vậy, nếu may mắn có cơ hội gặp được người thân nơi đất khách quê người thì thật là hạnh phúc, nhất là người đó lại là cha mẹ hay anh chị em thân thiện với mình.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy phản ứng ngược lại tình cảm tự nhiên của Đức Giêsu. Khởi đi từ việc Mẹ Maria và anh em của Đức Giêsu đến gặp Ngài. Khi được tin báo, thay vì hồ hởi, tay bắt mặt mừng để ra chào đón Mẹ và anh em của mình, thì Đức Giêsu lại chỉ tay vào các môn đệ và những người đang nghe giảng mà nói: “Đây là mẹ và anh em của ta”. Phải chăng có phũ phàng quá không???
Thực ra, qua câu nói này của Đức Giêsu không có ý hạ thấp, giảm nhẹ vai trò Đức Maria là thân mẫu của mình, cũng như không hề phủ nhận tình nghĩa anh em trong dòng họ. Nhưng mặt khác, Ngài muốn đề cao Đức Mẹ và anh em mình cách cụ thể, bởi vì chính các ngài là những người đã vâng theo thánh ý Chúa cách triệt để. Cũng qua câu nói này, Đức Giêsu đã đưa dân chúng đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt, đó là những người nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa thì đáng được gọi là mẹ hay anh chị em của Ngài hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để trở thành thành viên trong đại gia đình của Chúa thực sự. Chỉ những ai được tháp nhập vào trong đại gia đình này mới là những người được ơn cứu độ, vì con cái thì mới được ở trong nhà.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban ơn thánh của Chúa xuống trên chúng con, để chúng con trở nên những con chiên ngoan ngoãn nhờ biết mau mắn thi hành Lời Chúa. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh là Dân riêng mới. Dân riêng mới được quy tụ không theo tiêu chuẩn huyết thống, nhưng theo tiêu chuẩn tin và thi hành ý muốn Chúa Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, dân riêng thời Cựu ước bao gồm những con cháu của gia đình tổ phụ Gia-cóp. Họ liên kết với nhau nhờ tình máu huyết. Còn Chúa, Chúa quy tụ dân riêng của Chúa theo một tiêu chuẩn khác. Ai sống theo thánh ý Chúa Cha, người đó trở nên dân riêng, trở nên người thân của Chúa. Nhờ đó, tất cả mọi người đều có cơ hội trở nên con cái trong đại gia đình Chúa thiết lập.
Thoáng nghe Tin Mừng hôm nay, con có cảm tưởng dường như Chúa lạnh lùng với thân bằng quyến thuộc. Nhưng suy gẫm thêm, con mới hiểu rằng: tình máu mủ dù có thắm thiết đến đâu cũng không thể chặt chẽ bằng mối tình thiêng liêng được liên kết bằng tình yêu Chúa. Chúa không dạy con bỏ tình ruột thịt, nhưng dạy con biết cùng nhau sống thánh ý Chúa Cha để mọi mối tình nhân loại được vững bền và có giá trị cao cả.
Các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai là tấm gương quý báu cho con. Họ đã trở nên anh chị em vì cùng tin và cùng sống Tin Mừng của Chúa. Họ đã góp tất cả của cải để chia đều cho nhau. Chúng con là anh chị em ruột thịt cũng không thể làm được như vậy.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra ý nghĩa cao cả của Bí tích Rửa Tội, vì nhờ đó, con được dẫn vào mối liên hệ thân thích mới. Nhưng nhất là xin Chúa giúp con sống bí tích Rửa Tội, thực thi Thánh Ý Chúa trong cuộc sống, để nhờ đó con được thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và là anh chị em với nhau. Amen.
Ghi nhớ: “Người giơ tay trên các môn đệ mà nói: Ðây là mẹ Ta và là anh em Ta”.
Đức cha Gioan Baotixita Bùi Tuần chia sẻ hành trình ơn gọi giám mục của Ngài:
‘‘Khi tôi được gọi làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên, đất nước và Giáo hội Việt Nam đang sôi động chuyển biến từng ngày, từng giờ. Tình hình thì rất nghiêm trọng, còn tôi thì rất hèn mọn, yếu đuối.
Tôi vâng lời Toà Thánh trong muôn vàn lo âu. Với tâm tình phó thác, tôi nói với Chúa: “Này con xin đến, để thực thi ý Chúa”.
Suy niệm
Ðức Giêsu không bao giờ coi nhẹ tình cảm gia đình, Ngài càng không hề lãnh đạm với mẹ và anh em của Ngài. Tuy nhiên Ngài luôn đề cao mối liên hệ thiêng liêng trong niềm tin và lòng yêu mến theo Tin Mừng.
Cho nên Ngài khẳng định: “Ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy”, cao hơn mối liên hệ thiêng liêng dựa trên Lời Chúa mà Ngài đang mang sứ mạng rao truyền, sẽ dệt nên niềm tin và lòng yêu mến cho người lãnh nhận. Ngài khẳng định trong tương quan với nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin khi biểu lộ thực thi ý Chúa. Đại gia đình thiêng liêng mà các thành viên đều mang tiêu chuẩn nghe và thi hành ý Thiên Chúa.
Khi khẳng định, Mẹ và anh em Ngài chính là người nghe và thực hành Lời, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy Mẹ Maria chính là người lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành hơn ai hết. Thật thế, Mẹ Maria là người đầu tiên đã lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành khi Mẹ thưa với sứ thần đến truyền thánh ý Chúa trong cuộc đời Mẹ, khi đáp trả: “Vâng, này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài truyền”, lời xin vâng đã khai mở ơn cứu rỗi và sự sống mới cho thế giới. Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người Kitô: Lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Chính Mẹ cũng đã đi trước nêu gương và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống. Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ truyền: “Hãy làm theo lời Ngài truyền”, hành động đó đã dọn sẵn mọi sự để Chúa làm phép lạ mang đến niềm vui cho những người chung quanh… Mẹ luôn suy gẫm trong lòng các biến cố cuộc đời Đấng Cứu Thế, đặc biệt, dưới chân thập tự, Mẹ sống đức tin vào Thiên Chúa mãnh liệt nhất. Cho nên, trên phương diện gia đình đức tin: Nghe và thực hành Lời Chúa, Đức Maria xứng đáng là Mẹ hơn ai hết.
Chúng ta cùng ý thức mình thực sự là anh chị em với Chúa, khi sống: Xin vâng theo thánh ý Chúa (Lc 1,38).
Ý lực sống:
‘‘Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10,7).
Theo Chúa Giêsu, tình huyết nhục là tình rất cần thiết. Chính Ngài là con người nên cũng sống theo tình cảm đó. Tuy nhiên, ở đây, không phải Chúa Giêsu coi nhẹ tình gia đình tự nhiên, cũng không phải Ngài lãnh đạm với Mẹ và anh em của Ngài, nhưng Ngài đề cao mối liên hệ thiêng liêng trong niềm tin và lòng yêu mến. Thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong chuyện này nhằm đề cao những người lắng nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa quí chuộng họ còn hơn những kẻ có liên hệ huyết nhục với Ngài nữa.
Trong cuộc sống, vì nhiều hoàn cảnh, các thành viên trong gia đình nhiều khi phải phân tán để ra đi đến nơi xa lạ nhằm kiếm miếng cơm manh áo hay học hành hoặc vì sứ vụ... Nỗi lòng nhớ quê hương và người thân hẳn không bao giờ vơi đi trong lòng người xa quê. Như vậy, nếu may mắn có cơ hội được gặp người thân nơi đất khách quê người thì thật là hạnh phúc, nhất là người đó lại là cha mẹ hay anh chị em thân thiện với mình.
Hôm nay, bài Tin mừng cho thấy phản ứng ngược lại tình cảm tự nhiên của Chúa Giêsu. Khởi đi từ việc Mẹ Maria và anh chị em của Chúa Giêsu đến gặp Ngài. Khi được tin báo, thay vì hồ hởi, tay bắt mặt mừng để ra chào đón Mẹ và anh em của mình, thì Chúa Giêsu lại chỉ tay vào các môn đệ và những người đang nghe giảng mà nói: “Đây là mẹ và anh em của ta”, phải chăng có phũ phàng không?
Có người khi đọc đoạn Tin mừng này sẽ nghĩ rằng, Chúa Giêsu xem nhẹ sự hiện diện của Mẹ Ngài chăng? Không phải thế, Ngài còn đề cao Mẹ Maria nữa là khác, vì trong việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa thì có ai bằng Mẹ được, bởi: “Đức Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Chúa Giêsu coi việc những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em của Ngài, như thế thật phúc cho ai sống và thực hành Lời Chúa.
Thật vậy, chúng ta trở thành mẹ Chúa – bởi vì đã gián tiếp sinh ra Đức Kitô nơi anh em. Như thánh Phaolô đã chia sẻ cảm nghiệm của mình: “Trong Đức Giêsu Kitô, nhờ Tin mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4,15) (Hiền Lâm).
Thật ra, thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong câu chuyện hôm nay rõ ràng là nhằm đề cao những người biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Chúa quí trọng họ hơn những người có liên hệ huyết nhục với Ngài.
Mátthêu không nêu lên lý do tại sao mẹ và anh em Chúa Giêsu lại đến tìm Ngài. Điều đó có lẽ không cần thiết. Mátthêu chỉ muốn tạo cho Chúa Giêsu một dịp để bộc lộ tư tưởng của Ngài về mối liên hệ mới, mối liên hệ đích thực của mọi người với Chúa: “Ai là mẹ ta và anh em ta?” (Mt 18,48)
Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa người nghe đến một sự so sánh giữa liên hệ huyết thống và liên hệ đức tin. Chúa không phủ nhận Đức Maria là thân mẫu của mình cũng không phủ nhận anh em trong dòng họ của mình, nhưng từ dòng họ huyết thống, Chúa Giêsu đưa mọi người nghe đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em của Ngài: Ngài giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ Ta, đây là anh em Ta”(Mt 12,49). Và Chúa còn giải thích thêm: “Phàm ai thi hành ý muốn của cha Ta, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em Ta, là mẹ Ta” (Mt 12,50). Nói cách khác, quan hệ với Thiên Chúa phải được coi là quan trọng hơn quan hệ huyết thống rất nhiều (Lm. Đinh Tất Quý).
Thánh Mátthêu mô tả “mẹ và anh em” Chúa là những người “đứng bên ngoài” (x. Mt 12,46), còn các môn đệ, những người đang nghe Ngài giảng là những người ở vòng trong. Một cách công khai, Chúa Giêsu cho biết nếu chỉ dựa vào mối liên hệ huyết thống thì chưa phải là người thân thiết chưa thuộc về gia đình Thiên Chúa với Ngài. Đúng hơn, gia đình của ngài gồm tất cả những ai “thi hành ý muốn của Cha”. Đó là một cơ hội cho tất cả mọi người, không phân biệt quốc gia dân tộc, không phân biệt giàu nghèo, đều có thể thuộc về gia đình của Chúa nếu thi hành ý muốn của Cha trên trời. Nhưng ý muốn của Cha là gì? Xin thưa đó là tin vào Chúa Giêsu và làm theo lời Ngài dạy (x.Ga 6,40) (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Bà có phải là Mẹ của Giêsu không?
Vào một buổi tối mùa đông nọ, một người phụ nữ đang ngồi trên xe hơi đi ngang qua một con đường trong thành phố. Bà thấy một em bé trai, đi chân không, áo quần rách rưới, nhìn chăm chú và thèm muốn các đôi giày để sau tủ kính của một hiệu buôn. Bà cho dừng xe lại, bước xuống xe, lại gần vỗ nhẹ vào má em, vừa cười vừa nói:
-Em làm gì ở đây vào giờ lạnh buốt thế này?
-Em xin Chúa Giêsu cho em một đôi giày. Bé trả lời.
-Vậy thì đi theo cô.
Bà vừa nói vừa cầm tay em bé dẫn đi.
Hãy thử xem Đức Giêsu cứu giúp những đứa trẻ như em và làm chúng hạnh phúc không?
Bà đi vào tiệm buôn, một nơi quá quen thuộc đối với bà. Bà mua cho em một đôi tất len dày và một đôi giày chắc chắn rồi tự tay bà xỏ cho em. Em bé đứng há hốc miệng nhìn, chẳng nói được một lời nào. Khi người đàn bà sắp từ giã em, em chăm chăm nhìn bà, nước mắt trào ra, và hỏi bà:
Mỗi tác giả Tin mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa.
Đối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn nhóm mười hai. Trong nhóm mười hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nỗi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những ngưới có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.
Trong Tin mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.
Đoạn Tin mừng Mattêu hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỉ. Ma quỉ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỉ mới có thể lắng nghe được lời Chúa và thần khí của Ngài. Đức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỉ. Mẹ luôn luôn lắng nghe lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Chúa.
Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Đức Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.
Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.
Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi lời Chúa của Đức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.
1. Thái độ và lời nói của Chúa Giêsu trong câu chuyện hôm nay rõ ràng là nhằm đề cao những người biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Chúa quý trọng họ hơn những người có liên hệ huyết nhục với Ngài.
Matthêô không nêu lên lý do tại sao mẹ và anh em Chúa Giêsu lại đến tìm Ngài. Cái đó có lẽ không cần thiết. Matthêô chỉ muốn tạo cho Chúa Giêsu một dịp để bộc lộ tư tưởng của Ngài về mối liên hệ mới, mối liên hệ đích thực của mọi người với Chúa: “Ai là mẹ tôi và anh em tôi?” (Mt 18,48).
Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa người nghe đến một sự so sánh giữa liên hệ huyết thống và liên hệ đức tin. Chúa không phủ nhận Đức Maria là thân mẫu của mình cũng như không phủ nhận anh em trong dòng họ của mình, nhưng từ dòng họ theo huyết thống, Chúa Giêsu đưa mọi người nghe đến một quan hệ khác còn quan trọng hơn tình mẫu tử và tình anh em của Ngài: Ngài giơ tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi”. (Mt 12,49). Và Chúa còn giải thích thêm: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên Trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50). Nói cách khác, quan hệ với Thiên Chúa phải được coi là quan trọng hơn quan hệ huyết thống rất nhiều.
2. Suy gẫm đến đây tự nhiên một câu hỏi được đặt ra cho mỗi người chúng ta là: Vậy thì tôi đã là anh em của Chúa chưa? Trong cuộc sống, tôi đã thi hành thánh ý Chúa chưa? Và ai trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời là có?
Một lần nữa, Lời Chúa lại cật vấn chúng ta, bắt chúng ta phải suy nghĩ lại cách sống của chúng ta, ý nghĩa cuộc sống của chúng ta. Bởi vì, như Chúa nói: “Con cái thì mới được ở trong nhà” (Ga 8,35).
Nhìn lại cuộc sống cụ thể của chúng ta, chúng ta phải thú nhận rằng, thường chúng ta hay làm theo ý ta hơn là ý Chúa. Có những lúc chúng ta biết đó là không hợp ý Chúa vậy mà chúng ta vẫn cứ làm. Cũng có những lúc chúng ta biết Chúa muốn cho chúng ta làm thế này nhưng chúng ta vẫn lại làm thế khác.
Đây là dịp chúng ta phải điều chỉnh lại, củng cố lại mối giây liên hệ của chúng ta đối với Chúa. Cách tốt nhất vẫn là thực hành những gì Ngài muốn.
Thánh François De Sale nói: “Làm theo Thánh ý Chúa chưa đủ, mà còn phải làm một cách vui vẻ và nhiệt tình nữa.”
Abraham Lincoln là tổng thống Hoa Kỳ lần kia vào một bệnh viện, tổng thống thấy một thương binh trẻ, chân bị bó bột trông rất đau đớn. Tổng thống thông cảm và tỏ ra lòng biết ơn đối với người lính trẻ đã hy sinh cho tổ quốc và đồng bào. Tổng thống cúi xuống hỏi:
- Bạn cần tôi giúp gì không?
Người lính không nhận ra người hỏi mình là ai, nhưng cũng khiêm tốn đáp lại rằng:
- Nhờ ông viết dùm cho tôi lá thư, gởi về thăm cha mẹ tôi.
Tổng thống đã viết theo lời đọc của người lính: Ba mẹ kính mến, con là Josepth đã bị thương nặng, nhưng may còn sống. Con gửi lời thăm mến ba mẹ, nhất là con cám ơn ba mẹ đã dạy dỗ, nên con đã biết làm trọn bổn phận của người Công giáo. Bác sĩ bảo: chắc con khó lành hẳn được. Con cầu Chúa chúc lành cho ba mẹ, xin Chúa cho ba mẹ cũng như con được lòng vâng theo thánh ý Chúa. Cho con hôn hai em con là Jean và Marie.
Ký tên: Josepth.
Tiếp đó tổng thống ghi thêm “thư này do Abraham Lincoln viết giùm”. Khi anh thương binh trẻ đọc lại lá thư, anh rất kinh ngạc, vì thấy tên tổng thống ký ở dưới, anh liền nhìn tổng thống với lòng kính phục và hỏi:
- Thưa Ngài, vậy Ngài là tổng thống nước Mỹ?
Tổng thống trả lời:
- Phải.
Rồi tổng thống nói tiếp.
- Bạn đã nhận ra tôi là tổng thống, bạn còn muốn tôi giúp gì nữa?
- Xin Ngài nâng đỡ cẳng chân đau của tôi một chút,
Tổng thống ngồi xuống giường, bên cạnh thương binh với tấm lòng biết ơn của một vị Tổng thống. Tổng thống đã nâng đỡ cẳng chân đau của người thương binh trẻ suốt đêm mà ngủ.
Vâng, một tấm gương quá đẹp.
Để kết thức tôi xin gửi mọi người lời cầu nguyện của một người bệnh nhân:
Lạy Chúa Giêsu, cơn bệnh Chúa gởi đến con, Con xin vâng nhận như một hồng ân từ tay Chúa. Tuy nó hành hạ xác con, nhưng nó làm con nên giống Chúa hơn. Xin dạy con biết cam chịu nỗi đau đớn này như Chúa. và xin biến những đau khổ thành lợi ích cho những người con yêu thương. Một lần nữa, con xin dâng Chúa xác thân, ý chí, ưu tư, thao thức, những chiến đấu, và cả đời sống con. Con tin tưởng đặt quãng đời quá khứ con trong tay Chúa, nó là bạn con để Chúa thanh luyện, còn hiện tại để Chúa thánh hóa và tương lai con để Chúa uốn nắn, chăm lo như lòng Ngài mong ước.
Lạy Chúa, con chỉ còn một ý muốn đó là chu toàn Thánh Ý Chúa. (Ludovic Giraud).
Chúa rất thương Đức Mẹ là Mẹ ruột của Chúa. Chúa rất tôn trọng Mẹ của Chúa, vì cuộc sống của Mẹ quá hoàn hảo, quá tốt đẹp bởi Mẹ luôn luôn làm theo thánh ý của Chúa. Trước đó, từ đời đời, Chúa cũng luôn làm theo thánh ý của Chúa Cha. Chúa đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1, 11). Vì thế, Chúa hiểu Mẹ của Chúa. Chúa thương Mẹ của Chúa nhiều là như vậy.
Đàng khác, khi Chúa xuống thế nhập thể làm người, Chúa giống chúng ta mọi đàng, nhưng Chúa không có tội. Do đó, Chúa vẫn bị giới hạn bởi không gian và thời gian như bao người khác đang sống trên dương thế. Chẳng hạn như từ đời đời, Chúa đã sống khiêm ha, phục tùng Chúa Cha trong mọi sự mà theo như thánh Phaolô trong thư gởi cho tín hữu Philípphê ở chương hai từ câu sáu đến câu mười một đã nói tới, và còn Đức Mẹ khi cưu mang Chúa, Đức Mẹ cũng đã sống khiêm hạ, phục vụ khi Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Isave đang có thai thánh Gioan Tẩy Giả được sáu tháng, Đức Mẹ ở lại chăm sóc, phục vụ người chị họ trong vấn đề sinh nở, khi sinh xong thì Đức Mẹ mới trở về nhà (Lc 1, 46 – 56). Điều này, khi còn nhỏ ở với Đức Mẹ và thánh Cả Giuse, Chúa chưa rao giảng được, mãi hơn ba mươi năm sau, khi mà Chúa lớn lên, Chúa mới rao giảng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35) hoặc là: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20, 28).
Chúa thương, Chúa tôn trọng cũng như Chúa đề cao Mẹ của Chúa trong lúc này giữa mọi người. Nhưng Chúa còn thương, còn tôn trọng những người luôn sống và làm theo thánh ý của Chúa giống như Đức Mẹ. Mặt khác, Chúa cho chúng ta biết Chúa sẽ nhận chúng ta vào trong gia đình thiêng liêng của Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu còn đang nói với dân chúng, thì mẹ Người và anh em Người đứng ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa rằng: “Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng tìm Ngài ngoài kia”. Nhưng Người trả lời kẻ ấy rằng: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Ðây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy” (Mt 12, 46 – 50). Một khi chúng ta được Chúa cho ở trong gia đình thiêng liêng của Chúa, chúng ta sẽ có Đức Mẹ là Mẹ của chúng ta, có Chúa là anh cả của chúng ta, tất cả chúng ta là anh chị em với nhau, là con của cùng một Cha trên trời. Do đó, chúng ta phải sống yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau, giúp nhau sống thánh. Còn về phần của Chúa, Chúa sẽ yêu thương, gìn giữ, bảo vệ, chở che nâng đỡ chúng ta.
Lạy Chúa, khi chúng con được ở trong gia đình của Chúa, Chúa sẽ bớt giận nếu chúng con phạm lỗi với Chúa, chúng con rất hạnh phúc về điều này, bởi Chúa thương chúng con thật nhiều. Xin Chúa cho chúng con biết nhận ra tình yêu của Chúa và xin Chúa ban ơn niềm vui, ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói: "Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt được sáu mươi, hạt ba mươi.
Dụ ngôn người gieo giống đầy tính lạc quan, hy vọng. Ðức Giêsu gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi. Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm. Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ. Có hạt đã thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt. Thực tế đau buồn ấy làm nản lòng nhiều người. Ðức Giêsu đã gặp biết bao chống đối và thất bại. Ngài có thật là Ðấng được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước Trời trên trần gian không? May thay có những hạt rơi vào đất tốt, và đem lại kết quả gấp bội. Nhìn vào khuôn mặt của Giáo Hội hôm nay, nhiều người thất vọng trước những khó khăn, khủng hoảng. Ðức Giêsu khuyên ta hãy vững lòng. Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu. Dụ ngôn người gieo giống đòi chúng ta phải xét mình Có bao hạt Lời Chúa được gieo vào lòng tôi? Ðâu là số phận của chúng? Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường. Tôi nghe mà không hiểu. Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh, bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình. Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai. Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá. Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay, nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt. Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi. Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến, tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài. Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai. Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải. Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái. Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt. Tôi nghe và hiểu. Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời. Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu. Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình. Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi. Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước. Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi. Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt. Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi, cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn. Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới, để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ---------------------------------
Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương nên phải ngỏ lời. Từ tạo thiên lập địa đến tận thế Thiên Chúa không ngừng nói với nhân loại. Bằng những hình thức khác nhau.
Lời quyền năng. Tạo dựng vũ trụ vì yêu thương. Đưa con người từ hư vô trở thành hiện hữu. Ngoài Thiên Chúa không ai làm được. Đó là yêu thương sáng tạo.
Lời giải thoát. Lời Chúa hướng dẫn Mô-sê lập nên kỳ tích chiến thắng quân binh Ai cập, lập nên Dân Chúa. Đó là yêu thương che chở.
Lời chăm sóc. Chúa chăm sóc Dân Chúa từng miếng ăn ngụm uống. Hướng dẫn lấy nước từ tảng đá, thu lượm man-na bởi trời. Đó là yêu thương nuôi dưỡng (năm lẻ).
Lời kết hợp. Yêu thương ngày càng mãnh liệt. Thiên Chúa đặt lời vào miệng Giê-rê-mi-a để cùng vị tiên tri rao giảng. Đó là yêu thương trao ban (năm chẵn).
Lời ân sủng. Đến thời sau hết, Thiên Chúa ban chính Con Một. Là Ngôi Lời nhập thể. Trở nên một với loài người. Chúa Giê-su chính là người đi gieo hạt giống Lời Chúa. Suốt đời lặn lội gieo vãi. Yêu thương của Chúa chờ đợi con người đáp trả.
Tự do của con người thật khủng khiếp. Vì thế Lời Chúa gặp nhiều thất bại. Có những tâm hồn thờ ơ chai lì như con đường bị người ta dẫm đạp lên. Lời ân sủng như nước đổ lá khoai không thấm xuống được. Có những tâm hồn cứng cỏi lạnh lùng như sỏi đá. Lời ân sủng đành héo khô. Có những tâm hồn tràn đầy ham hố dục vọng như những bụi gai xù xì. Ân sủng đành bị bóp nghẹt không trổ sinh hoa trái. Nhưng Thiên Chúa kiên trì quyết đi đến thành công.
Lời yêu thương là lời tự hiến. Chính Chúa Giê-su, người đi gieo Lời Chúa giờ đây trở thành hạt lúa chịu mục nát đi. Mục nát đi để chìm xuống con đường. Mục nát đi để làm mềm đá sỏi. Mục nát đi để tiêu diệt gai góc. Người trở thành hạt giống mục nát đi cho cây đời chúng ta mọc lên lớn mạnh. Người chịu tàn lụi đi để ta trổ sinh hoa trái trăm ngàn. Đó là tình yêu tuyệt đối.
Lời Chúa yêu thương tha thiết muốn ngỏ với ta. Xin cho ta trở thành thửa đất tốt đón nhận. Xin cho ta sẵn sàng đem Lời Chúa đi gieo khắp nơi.
Một em bé 13 tuổi bị phong cùi và bị xua đuổi ra khỏi làng, có nhà truyền giáo nọ đưa em về nhà nuôi dưỡng, săn sóc. Cảm động trước tấm lòng tốt của nhà truyền giáo, em bé hỏi:
- Tại sao ông quan tâm lo lắng cho tôi như vậy?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Bởi vì Thiên Chúa là Cha đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài yêu thương chúng ta và muốn chúng ta yêu thương liên đới với nhau. Ngài đã sai Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để dạy mỗi người chúng ta sống xứng đáng với phẩm giá con người, vì thế vâng lời Ngài dạy, cha săn sóc cho con.
Từ đó, em bé này không bao giờ quên được cử chỉ yêu thương của nhà truyền giáo. Chẳng những thế, em còn xin làm môn đệ Chúa Giêsu và dùng thời gian còn lại để săn sóc cho những người phong cùi khác tại trung tâm của nhà truyền giáo.
"Vâng lời Chúa dạy, tôi săn sóc phục vụ anh chị em". Ðó là điều Thiên Chúa, qua hình ảnh của người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay mong đợi nơi những môn đệ Chúa Kitô, những kẻ đã lãnh nhận hạt giống ân sủng và Lời Chúa trong cuộc đời của mình. Câu chuyện trên đây là một trong muôn vàn sự kiện cụ thể để chứng minh Lời Chúa qua các thế hệ phải trổ sinh hoa trái tốt đẹp trong lịch sử cuộc đời con người. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện công việc của Ngài, nhưng nhiều khi chính con người từ chối chấp nhận Ngài và làm cho hạt giống ân sủng và Lời Chúa không trổ sinh được.
Người Kitô hữu chúng ta có thể biến những cánh đồng xã hội thành những cánh đồng tốt tươi, hoặc làm cho chúng trở thành những cánh đồng hoang, cỏ lác mọc um tùm. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức bổn phận làm cho hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt đẹp, có sức biến đổi cuộc đời mình và làm chứng cho tình yêu Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ.
Hôm nay chúng ta bắt đầu đọc và Suy Niệm chương thứ 13 Phúc Âm theo thánh Mátthêu. Chương 13 này được các nhà chú giải gọi là bài diễn văn thứ ba trong số năm bài diễn văn của Chúa Giêsu được tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại trong sách Phúc Âm của mình. Và mục đích của bài diễn văn dài này được ghi nơi chương 13 là để trình bày một chương trình sống của người đồ đệ của Chúa, người đồ đệ lắng nghe Lời Chúa.
Có tất cả là bảy dụ ngôn được tác giả xếp lại với nhau và hôm nay chúng ta Suy Niệm dụ ngôn về người gieo giống. Dụ ngôn này dài và gồm có ba phần. Phần thứ nhất Chúa Giêsu công bố dụ ngôn người gieo giống. Phần thứ hai Chúa Giêsu giải thích thêm tại sao Ngài dùng dụ ngôn mà giảng dạy. Và phần thứ ba Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của dụ ngôn cho các môn đệ.
Chúng ta hãy Suy Niệm ý nghĩa chung của dụ ngôn. Chúa Giêsu dạy cho các đồ đệ của Ngài ngày xưa và cho chúng ta hôm nay một bài học về tinh thần lạc quan trong đời sống đức tin. Cuối cùng, ơn Chúa sẽ thắng, Lời Chúa sẽ được đón nhận và sinh hoa kết quả tốt đẹp. Những hoa trái đó có thể bù cho những thiệt mất trong thời gian chờ đợi chiến thắng cuối cùng và vĩnh viễn của Lời Chúa và ân sủng cứu rỗi của Ngài.
Bài học về tinh thần lạc quan tin tưởng này được giãi bày trong bốn dụ ngôn về hạt giống, về hạt cải, về men trong bột và về hạt giống tự động mọc lên. Ở những câu đầu công bố dụ ngôn (Mt 13,1-9) chúng ta thấy yếu tố chính mà tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu muốn chúng ta lưu ý đến không phải là mảnh đất, không phải là người gieo giống mà là chính hạt giống. Tuy có bị mất mát, bị thiệt thòi vì những hoàn cảnh môi trường khác nhau, nhưng có hạt giống trổ sinh được hoa trái.
Sau này, khi giải thích về dụ ngôn cho các môn đệ, yếu tố chính không còn là hạt giống nữa mà là các loại đất khác nhau đón nhận hạt giống. Các loại đất tốt xấu là những trạng thái tâm hồn con người đón nhận hạt giống Lời Chúa.
Nhưng hôm nay chúng ta hãy dừng lại chiêm ngắm hạt giống trổ sinh hoa trái. Chúng ta hãy tin tưởng vào sức mạnh của Lời Chúa, không ngã lòng thất vọng trước những nghịch cảnh, những môi trường không thuận lợi cho Lời Chúa. Những người Do Thái chống đối khước từ Chúa đã không làm hư chương trình cứu rỗi của Ngài. Ngày hôm nay cũng không thiếu những hoàn cảnh đối nghịch với Lời Chúa nhưng chắc chắn sẽ không diệt bỏ được sức mạnh trổ sinh hoa trái của Lời Chúa. Ðây là điểm tựa cho niềm hy vọng của người đồ đệ.
Lạy Chúa là niềm hy vọng của con,
Chúa là người gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi. Xin thương mở rộng tâm hồn chúng con đón nhận Lời Chúa, làm cho Lời Chúa được trổ sinh nơi đời sống chúng con, trổ sinh tinh thần kiên trì, phục vụ quảng đại và hoán cải canh tân đời sống mình mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Người nói: “Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: Hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.” (Mt. 13, 3b. 4-8)
Trong chương mười ba này, thánh Mát-thêu gom lại tất cả bảy dụ ngôn. Trong bài Phúc Âm này, ta chỉ đọc bốn là dụ ngôn cỏ lùng, kho bạc, ngọc quý, và chiếc lưới. Còn ba dụ ngôn khác, thì hai dụ ngôn Người gieo giống và hạt cải cùng có chung với Mát-cô và Lu-ca, riêng dụ ngôn men trong bột có chung với một mình Lu-ca mà thôi. Bảy dụ ngôn này quen gọi là: “Những dụ ngôn ven Biển Hồ về Nước Trời”, đã được giảng cho dân chúng trong cùng một ngày hay không thì không rõ, còn đám đông dân chúng, theo như Phúc Âm thứ nhất trình bày, thì rõ ràng vẫn là một đám đông ấy đã nghe Chúa giảng.
Qua những dụ ngôn này, Chúa Giêsu chủ tâm làm rõ nét những đặc tính của Nước Trời, đặc biệt là những tính chất mà truyền thống Do-thái hoặc không biết đến đã làm cho méo mó.
Để diễn tả phát triển của Nước Trời, Chúa Giêsu đã dùng hai hình ảnh tương phản nhau: Ở hai giai đoạn đầu, Nước Trời có vẻ khiêm tốn nhỏ bé, tăm tối, nhưng ở giai đoạn chót thì kết quả lại tuyệt vời, xán lạn. Nước Trời có giá trị cao quý, nhưng được giấu kín theo kiểu kho báu bị chôn vùi mà người ta phải khám phá, hoặc theo kiểu viên ngọc mà chỉ những người biết và kiếm tìm mới lượng giá được. Nước Trời đem lại những kết quả khác nhau tùy thái độ tâm tình và lòng mở ra đón nhận của mỗi người. Giai đoạn hiện tại của Nước Trời là thời kỳ pha trộn, chung sống giữa người lành kẻ dữ đợi ngày phân biệt và lựa chọn cuối cùng này.
Dụ ngôn là gì?
Đó là những câu chuyện được tạo dựa theo những phong tục và nếp sống thường ngày với mục đích trình bày một giáo lý nào đó trong lãnh vực siêu nhiên, tức là những mầu nhiệm về Nước Trời. khi so sánh hình ảnh tự nhiên trong câu chuyện của dụ ngôn. Tóm lại dụ ngôn là một sự so sánh cụ thể cốt để trình bày một giáo huấn trừu tượng.
Nước Trời.
Người ta rất hay bỏ qua ý nghĩa chính dụ ngôn để quan tâm đến những ý nghĩa ám chỉ, quên đi Nước Trời để đem áp dụng vào một hoàn cảnh cá nhân, cụ thể. Làm như vậy không phải là điều sai trái, nhưng khi ta chăm chú nghe lời ấy đúng như Chúa đã phán thì lời lẽ của Chúa cũng có sức mạnh, càng “thúc bách” để ta cố gằng hiểu biết đúng như ý Chúa muốn. Tại sao ta lại cho là khó thực hiện điều ấy, khi mà chính Chúa thực ra muốn nói gì, thì Người đều giải thích rõ cho ta vậy.
Hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “người gieo giống” để giúp cho những người đương thời nhận ra mình đang thuộc thành phần nào trong dụ ngôn, qua đó cần có một thái độ phù hợp với Tin Mừng.
Trước tiên, Đức Giêsu nói: “Có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. Hình ảnh này cho thấy có nhiều kẻ đón nhận Lời Chúa, nhưng Lời ấy không sinh ích lợi cho họ vì sự hời hợt chóng qua, nên Lời Chúa không thấm nhập gì trong lòng, khiến những thứ tội lỗi sớm chiếm hữu tâm hồn họ.
Rồi: “Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên nó khô héo”. Thật vậy, có người đón nhận theo trào lưu, theo sở thích hay hiệu ứng đám đông, chứ không có chiều sâu. Vì thế, khó khăn xảy đến, họ là những người cao chạy xa bay vì sợ liên lụy, không dám can đảm để chấp nhận mình là người thuộc về Chúa nữa. Tâm hồn họ sẽ héo dần theo năm tháng vì không có Chúa ở cùng.
Và: “Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt”. Trong đời sống của con người hiện nay cũng vậy, họ có quá nhiều sở thích, đến nỗi cái chính yếu lại trở thành phụ thuộc, cái bên lề lại đưa vào chính diện. Tin Chúa, nhưng đồng thời cũng tin đủ thứ, đời sống đức tin của họ thuộc dạng người thiếu lập trường, nên: “Gió chiều nào thì ngả theo chiều đó”.
Cuối cùng: “Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả... ”. Tuy nhiên, để trở thành thửa đất tốt theo tinh thần Tin Mừng, mảnh vườn tâm linh của con người phải là một mảnh vườn đơn sơ, chân thành để hạt giống một khi được gieo vãi, thì sẽ có cơ hội phát triển và trổ sinh bông hạt dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là hạt giống tốt và thửa ruộng màu mỡ, để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn chúng con và được phát triển qua hành động tốt chúng con làm hằng ngày. Amen.
Sứ điệp: Qua dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu cho thấy rằng: đời sống của con người phong phú hay cằn cỗi là tùy ở thái độ đón nhận Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi hạt lúa chưa gieo xuống thì mảnh đất còn là mảnh đất hoang, nhưng khi gieo lúa xuống thì mảnh đất biến thành ruộng lúa. Chính hạt lúa đã biến mảnh đất thành ruộng và làm cho nó có một giá trị.
Chúa là hạt giống mà Chúa Cha gieo vào lòng con, con đã đón nhận Chúa và nhờ đó con đã trở nên con Thiên Chúa. Sự hiện diện sống động của Chúa trong con đã hoàn toàn biến đổi con người con, làm cho con có một giá trị mới, một ơn gọi mới, một cuộc sống mới. Một khi đã đón nhận Chúa, tâm hồn con không thể trở về tình trạng đất hoang nữa, mà chỉ còn có thể là mảnh ruộng tốt hay xấu mà thôi. Con trở nên tốt hay xấu không phải tại Chúa, nhưng là do con, tùy con đón nhận Chúa như thế nào, tùy con có sống phù hợp với giáo huấn của Chúa hay không.
Lạy Chúa, con xác tín rằng nhờ ơn Chúa, con đã có một cuộc sống mới, một cuộc sống có giá trị và phong phú. Xin cho con biết cố gắng tận lực phát huy ơn Chúa nơi con, vì đó mới chính là mục đích của đời sống con.
Sống ở trên đời này, con người đã đặt ra cho mình nhiều mục đích: đạt đến đỉnh cao danh vọng, bằng mọi cách tích lũy của cải để được giàu sang, làm sao để lưu danh thơm tiếng tốt lại cho đời… Phần con, Chúa đã cho con sống theo một hướng khác hẳn: đó là làm cho sức sống của Chúa không ngừng lớn lên trong con. Và con có bổn phận phải dọn sạch những gai góc sỏi đá và tội lỗi có nguy cơ bóp chết ơn Chúa. Xin Chúa giúp con. Amen.
1. Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy hình ảnh người gieo giống thật lạ: không những chỉ gieo vào đất tốt, mà còn gieo vào cả những nơi hạt giống khó có thể mọc lên như đá sỏi, bụi gai... Nhưng cuối cùng, chỉ có những hạt gieo nơi đất tốt mới sinh hoa kết trái.
Thiên Chúa của chúng ta cũng vậy, mặc dù con người có tội đến đâu đi nữa, nhưng ơn Chúa vẫn tuôn tràn trên tất cả. Nếu chúng ta để cho ơn Chúa biến đổi, Người sẽ làm cho chúng ta được sinh lợi gấp trăm. Còn nếu chúng ta cố chấp, lười biếng... khiến hạt giống bị chết nghẹt, đó là trách nhiệm về phía chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết tin tưởng vào sức mạnh của Chúa và tích cực cộng tác với ơn Chúa ban.
2. Chính vì lớn lên ở thôn quê, chứng kiến cảnh gieo trồng, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã để nói về Nước Trời. Việc gieo giống là một sinh hoạt rất bình thường và gần gũi của cuộc sống để trình bầy giáo lý của Ngài. Tất cả những sự việc bình thường hằng ngày có thể trở thành đề tài cho chúng ta chiêm ngưỡng và rút ra những bài học bổ ích. Xin Chúa cho chúng ta biết nhìn, biết chiêm ngưỡng và một thiện chí muốn học hỏi từ những việc bình thường trong cuộc sống hằng ngày.
Người gieo giống đã gieo hạt giống khắp nơi, một cách có thể nói là phung phí. Hằng ngày và hàng tuần, Chúa cũng ban Lời Chúa cho chúng ta một cách quảng đại. Khi chúng ta dự Thánh Lễ, khi chúng ta nghe giảng, khi chúng ta đọc sách đạo đức, khi chúng ta nguyện ngắm, khi chúng ta nghe huấn đức, khi chúng ta học...
3. Hạt giống là Lời Chúa và là chính Chúa Kitô. Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống, chịu chôn vùi, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành mầu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.
Thiên Chúa luôn luôn gieo vãi Lời Người khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Người gieo vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho chúng ta thấy lòng quảng đại và hy vọng của Người đối với chúng ta. Người không tính toán hơn thiệt khi ban phát. Ngài không ngần ngại gieo hạt giống “Lời Chúa” và “Ân sủng” vào tâm hồn mỗi người. Người gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu mầu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Người gieo muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn (Hiền Lâm).
4. Quả thật, Thiên Chúa vô cùng quảng đại, mặc dầu Ngài biết chúng ta sẽ lãng phí thật nhiều ân huệ của Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ vung tay ban phát thật rộng rãi. Chúng ta thử tưởng tượng: nếu Chúa so đo tính toán để không uổng phí chút nào những ân huệ của Ngài thì tình cảnh chúng ta sẽ ra sao? Nhưng không bao giờ Thiên Chúa hành động như thế. Sự quảng đại của Thiên Chúa trong việc ban phát các ơn lành cho chúng ta, làm cho chúng ta an tâm và tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Ngài chẳng bao giờ rút lại tình yêu ấy, chỉ có chúng ta có thể từ chối hoặc bóp nghẹt, không cho tình yêu của Ngài triển nở trong chúng ta mà thôi.
5. Chắc chắn thính giả của Chúa Giêsu hôm ấy không điếc, họ đều có tai và nghe được lời Ngài giảng dạy. Thế mà cuối dụ ngôn, Chúa lại thêm một câu “khó nghe”: “Ai có tai thì nghe”. Quả thật, có những tâm hồn bịt tai lại trước Lời Chúa, như trường hợp những mảnh đất mà hạt giống bị chối từ hoặc chết yểu vì không đâm rễ sâu. Không phải Ngài sợ người ta không nghe được câu chuyện, nhưng Ngài muốn nhắc nhở người nghe hãy biến Lời Ngài thành hiện thực. Nghĩa là: nghe thôi thì không đủ, mà còn phải làm theo Lời đó nữa. Lời Chúa chỉ đem lại ơn cứu độ cho những ai biết hoán cải cuộc sống của mình bằng việc thực thi Lời đó.
Muốn cho hạt giống phát triển tốt thì phải bỏ thời gian chăm nom tưới bón đàng hoàng. Muốn cho Lời Chúa sinh hoa kết quả, chúng ta cũng không làm gì khác. Cần phải biết dùng thời giờ để lắng nghe, suy gẫm xem Chúa muốn ta làm gì mới có thể làm đúng ý Ngài và chắc chắn sẽ cho hoa quả tốt: “Hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi” hay không là tùy thuộc mức độ thấm nhuần Lời Chúa trong tâm hồn người tín hữu (5 phút Lời Chúa).
6. Truyện: Không có lối học đế vương.
Cách đây 23 thế kỷ, nhà toán học Euclide, thành Athènes ở Hy Lạp, đến thành Alexandria để mở trường dạy học. Vua Ptolémée nước Ai cập lúc đó dẫn hoàng tử Seronus đến xin học. Nhà vua xin dạy môn toán sao cho thật dễ bởi vì Seronus là hoảng tử.
Euclide trả lời:
- Tâu đức vua, không có lối học đế vương. Mọi môn đồ giàu cũng như nghèo đều phải hết sức tập trung ý chí và cố gắng làm việc hăng say thì mới có kết quả. Cách ngôn nói: “Không bao giờ thời tiết làm nên một thủy thủ” hoặc “Đại dương dễ dàng rơi ra những viên sỏi nhưng giấu kín những hạt ngọc”.
Lời Chúa cũng chỉ có kết quả nơi những tâm hồn biết đón nhận và đem ra thực hành như thế.
Trong chương 13 (Từ hôm nay đến Thứ Sáu tuần 17), Thánh Mat-thêu gom chung 7 dụ ngôn qua đó Chúa Giêsu dạy người ta hiểu về Nước Trời.
Trước những lời Chúa Giêsu giải thích về Nước Trời bằng hình thức dụ ngôn, thính giả phải chọn lựa dứt khoát: hoặc nghe rồi đem ra thực hành để được gia nhập Nước Trời thật, hoặc chỉ nghe suông rồi bỏ qua và do đó không được vào.
A. Hạt giống...
Đây là phần đầu của dụ ngôn người gieo giống: chính câu chuyện dụ ngôn (ngày mai là phần thứ hai, Chúa Giêsu sẽ giải thích lý do tại sao Ngài giảng bằng dụ ngôn; và ngày mốt là phần thứ ba Ngài sẽ giải thích ý nghĩa của dụ ngôn này).
Trong câu chuyện dụ ngôn này, ta hãy chú ý vài chi tiết ban đầu:
- Người gieo giống này rất phung phí, gieo hạt giống ở khắp nơi, kể cả những nơi mà hy vọng nẩy mầm không bao nhiêu: Thiên Chúa rất quảng đại trong việc ban Lời Ngài cho chúng ta.
- Có 4 loại đất nhưng 3 loại đã thất bại: Lời Chúa có kết quả hay không còn tuỳ vào cách đón nhận và đáp ứng của con người.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu đã dùng việc gieo giống, tức là một sinh hoạt rất bình thường và gần gũi, để trình bày giáo lý của Ngài. Muốn thế, Ngài phải có một cái nhìn và sự suy nghĩ rất sâu sắc về những việc bình thường ấy.
Tất cả những việc bình thường hằng ngày đều có thể trở thành đề tài cho tôi chiêm ngưỡng và rút ra những bài học bổ ích. Xin Chúa cho con có cái nhìn chiêm ngưỡng và thiện chí muốn học hỏi từ những việc bình thường.
2. Người gieo giống đã gieo hạt giống khắp nơi, một cách có thể nói là phung phí. Hàng ngày và hàng tuần, Chúa cũng ban Lời Chúa cho tôi một cách rất là quảng đại: khi tôi dự Thánh Lễ, khi tôi nghe giảng, khi tôi đọc Sách đạo đức, khi tôi nguyện gẫm, khi tôi nghe huấn đức, khi tôi học v.v.
Cám ơn về lòng quảng đại của Chúa.
3. Dụ ngôn đầu tiên trong loạt dụ ngôn về Nước Trời là một dụ ngôn về Lời Chúa. Lời Chúa rất quan trọng, cần thiết và hữu ích cho đời sống thiêng liêng. Tôi có ý thức điều này không?
4. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằm chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ tàn úa. (Góp nhặt)
5. “Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả, hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13,8)
Trong Tin Mừng, các thánh sử chẳng bao giờ nói đến Chúa cười. Tuy nhiên con vẫn thầm nghĩ rằng Chúa biết cười. Chúa đã cười khi còn là con trẻ ở Nadarét. Chúa đã cười khi còn là một thiếu niên nghịch ngợm. Chúa đã biết cười rất hân hoan trong lời tạ ơn Cha, và có lẽ trong tiệc cưới rộn rã cùng với các môn đệ. Chúa đã hát, đã vỗ tay, đã chúc mừng… Con cũng bắt gặp nụ cười kín đáo của Chúa trong hình ảnh người gieo giống hôm nay. Cho dù có hạt bị chim trời ăn mất, có hạt bị héo khô, có hạt bị chết nghẹt… nhưng người gieo giống vẫn đầy lạc quan hy vọng để nhìn thất, để mỉm cười trước đồng lúa chín vàng.
Lạy Chúa, giữa những thành bại của cuộc sống, xin luôn khơi dậy trong con niềm hy vọng, lạc quan. (Hosanna)
1. Chúa Giêsu đã dùng việc gieo giống, tức là một sinh hoạt rất bình thường và gần gũi của cuộc sống để trình bày Giáo Lý của Ngài. Ngài có một cách nhìn và những ý nghĩ rất sâu sắc về những sự việc bình thường này.
Tất cả những sự việc bình thường hằng ngày đều có thể trở thành đề tài cho chúng ta chiêm ngưỡng và rút ra những bài học bổ ích. Xin Chúa cho chúng ta biết nhìn, biết chiêm ngưỡng và một thiện chí muốn học hỏi từ những việc bình thường trong cuộc sống hằng ngày.
Người gieo giống đã gieo hạt giống khắp nơi, một cách có thể nói là phung phí. Hằng ngày và hằng tuần, Chúa cũng ban Lời Chúa cho chúng ta một cách rất quảng đại: Khi chúng ta dự Thánh lễ, khi chúng ta nghe giảng, khi chúng ta đọc sách đạo đức, khi chúng ta nguyện gẫm, khi chúng ta nghe huấn đức, khi chúng ta học.
Cám ơn Chúa về lòng quảng đại của Người.
2. "Có những hạt rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả, hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục" (Mt 13,8).
Tại sao lại có sự khác biệt về kết quả như thế?
Có một yếu tố quan trọng mà ít người hiểu. Đó là ngoài yếu tố của con người còn có sự can thiệp của Thiên Chúa: "Phaolô trồng, Apôllô tưới và Chúa cho mọc lên" (1Cr 3,6). Người Việt Nam của chúng ta cũng có một ý tương tự: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Ngày mai và ngày mốt chúng ta sẽ được Chúa giải thích rõ ràng hơn. Theo tinh thần của bài Tin Mừng thì yếu tố con người cũng rất quan trọng.
Người nông dân thường nói: nhất thủy, nhì phân, tam cần, tứ giống. Phải có nước, có phân, phải cày xới thật nhiều thì hạt giống mới mọc được.
Cách đây hơn 23 thế kỷ, nhà toán học Euclide, thành Athène ở Hylạp, đến thành Alexandria để mở trường dạy học. Vua Ptolémée nước Ai Cập lúc đó dẫn hoàng tử Seronus đến xin học và nhà vua xin ông dạy môn toán sao cho thật dễ bởi vì Seronus là hoàng tử.
Euclide trả lời:
- Tâu đức vua, không có lối học đế vương. Mọi môn đồ giàu cũng như nghèo đều phải hết sức tập trung ý chí và cố gắng làm việc hăng say thì mới có kết quả. Cách ngôn nói: "Không bao giờ thời tiết làm nên một thủy thủ". "Đại dương dễ dàng rơi ra những viên sỏi nhưng dấu kín những hạt ngọc".
Nếu kiến thức cũng chỉ có được hiệu quả nơi những người có tim óc thuận lợi, thì Lời Chúa cũng thế. Lời Chúa cũng chỉ có kết quả nơi những tâm hồn biết đón nhận và sẵn sàng.
Trong kho tàng những câu chuyện dạy đời, người ta đọc được câu chuyện vui này: Có một người đi biển tình cờ gặp phải nạn sóng to gió lớn khi thuyền của ông đang vượt biển khơi như các môn đệ trong Tin Mừng. Và trong trận cuồng phong bão tố thập tử nhất sinh ấy, ông cũng thấy Đức Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về phía ông. Nhớ lại đoạn Tin Mừng, ông kêu to: "Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài". Đức Giêsu bảo: "Hãy lại đây".
Nghe thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ, xong xuôi ông nhảy xuống nước tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả. Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón lấy ông và hỏi:
- Tại sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.
Nghĩ mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.
- Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.
Chúa lắc đầu hỏi:
- Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và phao cứu hộ trước khi con tiến về phía Ta?
Nhìn hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:
- Cái này..., những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!
Đây có lẽ cũng là thái độ của rất nhiều người trong chúng ta.
Ngược lại, tại một thôn của người dân tộc. Có một gia đình kia rất nghèo nhưng lại đạo đức. Hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn nên mùa màng gặt về năm nào cũng dư ăn. Ngặt một nỗi là bà con chung quanh thường hay thiếu hụt. Họ chạy đến chị K’Bông vay mượn, hẹn đến mùa sau sẽ trả. Có nhiều người mượn đã mấy mùa rồi mà vẫn chưa có để trả. Gia đình tỏ vẻ không bằng lòng. Một hôm bà mẹ của chị gọi chị lại nói:
- Sao mà mày ngu vậy? Bạ ai cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mày thì lấy gì mà ăn?
Chị mỉm cười trả lời:
- Mẹ này, không sao đâu! Mình nghe Lời Chúa dạy: cho mượn là việc mình phải làm, còn trả lại là việc của người ta!
Như vậy, hạt giống Lời Chúa có sinh hoa kết quả hay không là tuỳ ở mỗi người. Người dám can đảm đem Lời Chúa vào cuộc sống thì kết quả sẽ thật dồi dào, còn những ai chỉ nghe không thôi thì Lời Chúa chẳng khác gì bị rơi vào chỗ đầy gai góc, sỏi đá. Tâm hồn mỗi người chúng ta như thế nào thì mỗi người chúng ta phải tự trả lời trước mặt Chúa.
Lạy Chúa, con tin Chúa, con tin Chúa hết lòng. Amen.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người gieo giống đi gieo lúa, đó chính là Chúa và hạt lúa giống được gieo, đó chính là lời Chúa, những mảnh đất ven đường, đá sỏi, bụi gai, đất tốt, đó chính là tâm hồn của mỗi con người chúng ta.
Khi Chúa ban phát lời Chúa cho tất cả mọi người trên dương thế của chúng ta, Chúa biết tâm hồn của con người chúng ta không như nhau. Có người dễ dàng đón nhận và sống lời Chúa. Có người nghe rồi nhưng vì lo lắng sự đời, ham mê của cải, danh vọng, lạc thú, không sống lời Chúa. Có người đón nhận và sống lời Chúa, nhưng khi thử thách xảy đến thì bỏ Chúa. Có người bưng tai bịt mắt để lời Chúa ngoài tai, khiến cho lời Chúa không thâm nhập vào tâm hồn mình được….Chúng ta, dù là thuộc dạng tâm hồn nào đi nữa, Chúa vẫn ban lời Chúa đến cho tất cả mọi người chúng ta. Chúa không phân biệt một ai, cả thường dân lẫn người quyền quý, hạng phú gia với kẻ cơ bần (Tv 48, 2). Sở dĩ Chúa làm như vậy là vì Chúa yêu thương chúng ta. Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Chúa không bao giờ lấy lại những gì Chúa đã ban cho chúng ta. Nhưng ở đây chúng ta thấy, có lẽ Chúa rất vui khi tâm hồn chúng ta là mảnh đất tốt, sẵn sàng đón nhận lời Chúa và đem ra thực hành trong bất cứ cảnh huống nào của cuộc sống, để rồi lời Chúa mang lại những việc lành phúc đức từ thiện, bác ái nhằm mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và phần lợi cho người khác. Còn nếu tâm hồn chúng ta là dạng đất ven đường, đất sỏi đá, đất bụi gai, Chúa vẫn ban lời Chúa, nhưng Chúa buồn vô cùng, vì chúng ta không biết đón nhận, không biết cộng tác với ơn Chúa mà để lời Chúa qua đi một cách vô bổ, uổng công của Chúa. Nhưng mà có thể Chúa vẫn còn hy vọng, vẫn đợi chờ, biết đâu một ngày nào đó, chúng ta sẽ nghĩ lại mà sửa sang mất đất tâm hồn của mình để lời Chúa đến ở với chúng ta, nảy nở và lớn lên trong chúng ta.
Bổn phận của mỗi người chúng ta, chúng ta phải thường xuyên xét mình dưới ánh sáng của lời Chúa soi sáng, để chúng ta biết mảnh đất tâm hồn mình như thế nào mà chúng ta phải cầu xin ơn Chúa giúp đỡ và rồi chúng ta phải lo điều chỉnh, cày xới, bón phân, tưới tiêu để tâm hồn chúng ta phải là mảnh đất tốt, sẵn sàng cho lời Chúa sinh sôi nảy nở và phát triển mạnh mẽ trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta.
Chúng ta phải cố lên từng ngày sống, đừng làm cho Chúa thất vọng vì lối sống chai đá, cứng cỏi, lỳ lượm của chúng ta trong đời sống đạo. Chúng ta đừng lo tích lũy cho mình của cải, danh vọng, lạc thú. Những thứ này sẽ làm cho chúng ta chết ngạt trong đời sống đạo. Chúng ta chỉ lo tích lũy các nhân đức chúng ta làm được theo sự hướng dẫn của lời Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, Chúa là nơi chúng con nương thân, là chiến lũy, là đá tảng vững chắc trước phong ba bão táp của chúng con. Ngay từ đầu cuộc đời của chúng con, Chúa là Đấng bảo vệ chúng con. Xin Chúa cho chúng con luôn luôn trông cậy vào Chúa. Xin Chúa giúp đỡ, cứu nguy và giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Chúng con nguyện suốt đời cao rao Chúa cho mọi người anh chị em của chúng con. Amen.
Chén đắng theo Chúa. 25/07 Thứ Năm tuần 16 thường niên. THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính. "Các con sẽ uống chén của Ta".
* Giacôbê là con ông Dêbêđê, là anh của thánh Gioan và là bạn của thánh Phêrô. Đây là những người dân chài ở hồ Ghen-nê-xa-rét đã đi theo tiếng gọi của ông Gioan Tẩy Giả trước khi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Người. Thánh Giacôbê đã có mặt trong hầu hết các phép lạ Chúa Giêsu làm, nhất là khi Chúa hiển dung trên núi và khi Người hấp hối ở vườn Cây Dầu. Vua Hêrôđê Ácríppa I cho chém đầu thánh nhân khoảng năm 43 hoặc 44. Thánh nhân được đặc biệt tôn kính ở Compốttela (Tây Ban Nha), nơi có một thánh đường danh tiếng kính người.
Khi ấy, bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì?" Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài". Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em. Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".
Xem ra chức quyền vẫn là nỗi thèm thuồng của con người. Từ những cuộc xung đột giữa con người sống bầy đàn thời nguyên thủy, đến cảnh chiếu trên, chiếu dưới ở làng xã và cảnh chạy chức chạy quyền thời bây giờ. Ngay các môn đệ thân cận của Thầy Giêsu là Nhóm Mười Hai cũng không thoát khỏi sức hút của quyền lực. Họ đã từng cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18, 1). Bây giờ, ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn, họ lại có chuyện xích mích với nhau cũng về chuyện chức quyền. Hai con ông Dêbêđê là hai môn đệ được Đức Giêsu yêu quý hơn. Chẳng rõ có phải vì thế mà họ nuôi tham vọng chiếm được chỗ hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy (x. Mt 19, 28). Họ khéo léo nhờ mẹ của mình xin Thầy Giêsu ban cho ơn lớn đó (cc. 20-21). Đức Giêsu chắc không vui vì môn đệ vẫn chưa được giải thoát khỏi cái trần tục, “Các người không biết các người xin gì!” (c. 22). Các môn đệ quá xa lạ với nẻo đường Thầy sắp đi, dù Thầy vừa mới cho họ biết con đường ấy, con đường bị chế diễu, bị đánh đòn và bị đóng đinh cho đến chết (Mt 20, 18-19). Trong khi hai môn đệ thân tín còn loay hoay với những tham vọng thế gian thì Ngài kéo họ vào hiệp thông với cuộc Khổ nạn gần đến của mình. Thầy Giêsu mời họ chia sẻ với Thầy cùng một chén đắng: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (c. 22). “Thưa uống nổi”, đó là câu trả lời đầy tự tin và mạnh dạn của Giacôbê, Và ông đã thực hiện lời hứa này bằng cái chết (x. Cv 12, 2). Nhưng Thầy cũng khiêm tốn cho biết Cha mới có quyền sắp chỗ ngồi (c. 23). Sự bực tức của mười môn đệ kia khi câu chuyện vỡ lở cho thấy họ cũng thích được ngồi hai bên tả hữu, tuy không tiện nói ra (c. 24). Thầy Giêsu cho thấy cách sử dụng quyền lực của các nhà lãnh đạo ngoài đời. Quyền lực là để thống trị người dân, tìm cách bành trướng cái tôi của mình. Thầy Giêsu khẳng định dứt khoát không có chuyện đó trong Giáo hội của Thầy. “Giữa anh em thì không được làm như vậy” (c. 26). Quyền lực và phẩm trật trong Giáo hội là để phục vụ dân Thiên Chúa. Những người làm lớn, làm đầu trong Giáo hội lại là người hầu bàn, người tôi tớ, noi gương Đức Giêsu, Người Tôi Trung. Chính Ngài đã đưa việc phục vụ đến mức cao nhất là hy sinh tính mạng (c. 28). Cơn cám dỗ về quyền uy, chức tước là cám dỗ muôn thuở cho mọi người. Các cộng đoàn Kitô hữu cứ phải xét mình mãi để khỏi rơi vào thói đời mà Đức Giêsu đã long trọng cảnh báo. Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ. ------------------------------
Sứ điệp: Theo Chúa Giêsu không phải để được địa vị, giàu sang, an nhàn, nhưng là để bước theo Chúa trên con đường hy sinh, phục vụ trong khiêm tốn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không phải chỉ có thánh Gia-cô-bê và thánh Gio-an, mà tất cả chúng con đều mơ ước được địa vị, thống trị người khác, được giàu sang, an nhàn. Có lúc con đã tự hỏi: con theo Chúa và hy sinh cho Chúa, nhưng tại sao đời con vẫn nghèo đói, vất vả, bị chèn ép.
Lạy Chúa, Chúa cho con hiểu rằng theo Chúa là phải chấp nhận uống chén đắng khổ nạn của Chúa, chấp nhận từ bỏ mình chứ không phải để được hưởng thụ hoặc được đặc quyền đặc lợi. Chính Chúa đã đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc loài người. Là môn đệ của Chúa, con không thể sống khác Chúa được. Con không thể có con đường nào khác ngoài con đường phục vụ dâng hiến một cách vô vị lợi cho tha nhân.
Càng tiến sâu vào con đường thập giá, con càng được sàng lọc để nên giống Chúa hơn. Nhưng để được điều đó, con phải vật lộn với chính mình, vật lộn với những cám dỗ của thế gian và nhất là phải chấp nhận thiệt thòi.
Lạy Chúa, dù phải trả giá, dù phải hy sinh, con xin sẵn sàng chấp nhận tất cả. Đường thánh giá này con đã chọn, xin tình yêu Chúa trở nên sức mạnh nâng đỡ con. Và con tin rằng chính Chúa sẽ làm cho những bước chân con trên đường hy sinh và phục vụ, nở thật nhiều hoa yêu thương, để từ đó nhiều người nhận biết Chúa và sẵn lòng bước theo Chúa cách vô điều kiện. Amen.
Lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó sắp tới của Ngài cho các môn đệ, nhưng xem ra các ông chẳng hiểu gì. Họ vẫn còn giữ nguyên quan niệm của người Do thái là chờ đợi một nước vinh quang trần thế theo nghĩa chính trị.
Họ chỉ nghĩ đến địa vị trong nước mà Đức Giêsu sắp lập. Họ lo bàn cãi và tranh luận với nhau, lo chiếm cho mình một chỗ cao hơn trong vương quốc tương lai. Nhưng Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học: ở trong vương quốc của Ngài sự cao trọng thực sự không cốt ở trong uy thế và danh dự, nhưng ở trong sự phục vụ tha nhân đến tột cùng, nếu cần: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giàu sang phú quí, muốn có địa vị cao, thích ăn trên ngồi trước, muốn được người ta hầu hạ… Nhưng những tiêu chuẩn đó không nhất thiết là của Chúa. Tham vọng lo liệu của những con trai ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã là dịp để Đức Giêsu nói rõ: sự cao trong đích thực ở tại cái gì?
Đức Giêsu không đáp ứng lời cầu xin của hai anh em Giacôbê và Gioan vì nó không thích hợp với đường lối của Ngài. Nhân dịp này Ngài dạy cho các ông là môn đệ đặc biệt của Ngài, và cũng là cho chúng ta một bài học: sự cao trọng không cốt ở danh dự, giàu có, chức quyền danh vọng hay sức mạnh… nhưng ở tại sự phục vụ tha nhân. Chính vì vậy, Ngài mới nói: “Ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ mọi người”. Lời giáo huấn này đi ngược lại với lối hành xử của người đời, buộc chúng ta phải động não!
Đức Giêsu là vị thượng tế có thế giá, luôn chuyển cầu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa. Ngài cũng đã trải qua những đau khổ trong đời sống trần thế, đồng thời cũng hé mở cho chúng ta thấy được vinh quang của Ngài sau này khi đã sống lại. Mọi Kitô hữu đều có chức năng tư tế phổ quát, nên cũng phải sống và làm chứng bằng đời sống phục vụ. Và nếu cần, họ cũng phải sẵn sàng hiến mạng sống để chứng tỏ sự trung thực của đời sống phục vụ của mình. Yêu thương là phục vụ, càng phục vụ, tình yêu càng dồi dào thắm thiết.
Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi đi theo Người (x. Mt 4,18-22 ).
Ngài là một trong những môn đệ thân tín của Chúa, được chứng kiến những biến cố quan trọng trong đời của Chúa Giêsu. Ngài chứng kiến cảnh con ông Zairô được Chúa cho sống lại, việc Chúa biến hình trên núi Taborê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài là người tử đạo đầu tiên trong số các tông đồ đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I vào khoảng năm 43 - 44.
Thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho chúng ta tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của ngài.
Câu chuyện
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn Tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta thấy một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này khi lên ngôi Giáo hoàng - Đức Gioan XXIII vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
Suy niệm
Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó của Ngài lần thứ ba, các môn đệ vẫn chưa hiểu hết được mầu nhiệm thập giá, các ông vẫn hy vọng một triều đại Mêssia mà Thầy sắp sửa khai mạc với sự vinh quang của Thầy - Đấng Mêssia - Đấng Cứu Thế. Mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan nhanh chân xin trước hai chỗ danh dự trong nước Ngài: Cho ngồi bên tả và bên hữu Thầy khi vương quốc Mêssia khai mạc. Rõ ràng lời thỉnh cầu này bỏ qua mạc khải hành trình Giêrusalem, bỏ qua thập giá mà Thầy đang mạc khải.
Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?”. Đức Giêsu cố gắng chuyển biến tư tưởng của họ từ “vinh quang của Đấng Mêssia” theo quan niệm con người sang “con đường dẫn đến vinh quang” là xuyên qua khổ giá qua hình ảnh chén đắng. Giacôbê và Gioan dù không hiểu điều các ông xin, nhưng vẫn thưa được. Giacôbê và Gioan đã được Chúa cải hóa tham dự vào chén đắng của Thầy khiến các ông như Thầy sau này đối diện tử nạn: Giacôbê bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44 và là vị tông đồ tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (x. Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrôn, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết bị khổ sai tại đảo Patmos (x. Kh 1,9).
Trong ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá qua hình ảnh chén đắng và phép rửa, Chúa Giêsu dẫn từ sự mộng mơ về quyền bính vinh quang mà các ông mong muốn đến sự hiệp thông đời sống với Ngài: “Ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con…” (Mt 20,26-27). Chúa Giêsu có quyền hạn đầy đủ của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không hành xử như một vị thống trị, mà trở nên như “một người đầy tớ”. Ngài đã không như “lãnh chúa” mà là “gia nhân” (x. Ga 13,13) bằng cách rửa chân cho các môn đệ vào chiều thứ Năm tuần thánh và dạy bài học phục vụ cho các môn đệ. Cho nên, người môn đệ Đức Giêsu được chọn để phục vụ anh em theo lời giảng dạy và mẫu gương của chính Thầy - Đức Giêsu. Ngài đã khẳng định bổn phận phục vụ dựa trên nền tảng là lối cư xử của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Cuộc sống là hành trình thập giá, như hai môn đệ Gioan và Giacôbê, chúng ta được mời gọi uống chén đắng xuyên qua những đối diện mọi gian nan khốn khó của cuộc đời… Là gánh vác cuộc đời như Chúa Giêsu vác thập giá là chén đắng mà Chúa Cha trao, xuyên qua và trỗi dậy.
Ý lực sống:
“Lạy Cha, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).
Thánh Giacôbê (Tiền), con của ngư phủ Dêbêđê và bà Salômê, anh của Tông đồ Gioan. Phúc âm thường nhắc đến hai anh em này. Vì thấy hai anh em có tính nóng nảy, Đức Giêsu đã gọi họ la “Con của thiên lôi” (Mc 3,17).
Giacôbê là nhân chứng cuộc biến hình và những giây phút cầu nguyện của Chúa trong Vườn Cây Dầu. Ngài là người đầu tiên trong Nhóm 12 đã lấy máu đào làm chứng cho Chúa Giêsu: Vua Hêrôđê Antipas đã ra lệnh chặt đầu Ngài vào năm 44 (Cv 12,2 so Mt 20,22-23).
Theo truyền thuyết của Tây ban Nha, xác Ngài được chôn cất tại Santiago de Compostela. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng hôm nay thuật một chuyện không hay lắm về Thánh Giacôbê:
- Ngay sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc chịu nạn sắp tới của Ngài thì hai anh em Giacôbê nhờ mẹ đến xin cho mình hai địa vị ưu tiên trong Nước mà họ tưởng Ngài sắp thành lập: “ngồi bên hữu, ngồi bên tả” không phải chỉ là những chỗ danh dự mà là thực sự thông chia quyền cai trị.
- Trước khi trả lời, Đức Giêsu nhận xét: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì”. Đúng vậy, 3 mẹ con này tưởng “Nước” của Đức Giêsu cũng giống như mọi thứ nước trần gian, trong đó có địa vị và quyền lợi. Họ muốn những chỗ ngồi hai bên tả và hữu của Đức Giêsu nghĩa là muốn hai địa vị ưu tiên trong nước đó.
- Rồi Đức Giêsu hỏi lại: “Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp ống không?” “Chén”: biểu tượng của đau khổ (x. Tv 75,9 Is 51,17-22). Chính Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu đã thốt lên “Xin cho con khỏi chén này” (14,36). Đức Giêsu hỏi 2 ông có thể chịu những đau khổ và sự chết của Ngài không. Hai ông đáp bừa là có thể. Ngài hứa sẽ cho 2 ông thông chia những điều đó. Thực tế sau này Giacôbê đã chịu tử đạo vào khoảng năm 44 (Cv 12,1-2); còn Gioan theo thánh truyền, thì chịu bắt bớ rất đau khổ.
- Khi ấy Đức Giêsu gọi tất cả lại để giáo dục. Trong phần giáo dục, trước tiên Ngài nói tới cách cư xử của các thủ lãnh thế gian (cụ thể là các quan chức của đế quốc Rôma). Họ hay lộng quyền và độc tài. Phần các môn đệ Đức Giêsu, những lãnh tụ tương lai của Giáo hội, thì phải cư xử khác hẳn. Ngài dùng một từ rất đặc biệt là “đầy tớ”: đây là hạng người thấp hèn nhất trong xã hội. Những lãnh tụ Giáo hội phải sẵn sàng phục vụ người ta trong tư thế hèn hạ nhất.
B.... nẩy mầm.
1. Người ta thường nghĩ đến “được” hơn là “mất”. Khi làm một việc gì, người ta tính trước xem việc làm này sẽ cho họ “được” gì; hễ thấy việc gì có thể khiến họ “mất” thì lập tức họ từ chối hoặc tránh né. Lối suy nghĩ đầy tính toán đó cũng ảnh hưởng đến việc người ta đi theo Chúa: theo đạo để “được” sống bình an, sung túc; đi tu để “được” thảnh thơi và người đời coi trọng. Giacôbê và Gioan cũng nằm trong lối suy nghĩ đầy tính toàn đó.
Nhưng Chúa Giêsu dạy một lối sống ngược hẳn: ai muốn theo Ngài thì phải dám mất rồi mới có thể “được” lại sau.
2. “Chúng con không biết chúng con xin gì!”: rất nhiều khi tôi cũng không biết tôi xin Chúa điều gì. Tôi chỉ xin những điều rất phụ tuỳ và là những điều chẳng những không có lợi mà còn có hại cho sự sống đích thực của tôi. Còn những điều quan trọng hơn nhiều và rất cần thiết cho cuộc hành trình đi theo Chúa thì tôi không hề xin.
3. “Chén của Thầy, các con sẽ uống”: lời này Chúa Giêsu không chỉ nói với 2 anh em Giacôbê và Gioan mà nói chung cho 12 môn đệ, và còn nói với tôi nữa. Thế nào chẳng sớm thì muộn tôi cũng sẽ “được” uống “chén” của Chúa. Tôi có chuẩn bị mình sẵn cho lúc đó chưa?
4. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28)
Ngay trong ngày lễ kính thánh Giacôbê tông đồ mà Hội Thánh lại chọn đoạn Tin Mừng thuật lại chuyện ba mẹ con ông Dêbêđê đến gặp và xin Chúa cho được ngồi bên hữu và bên tả Ngài trong Nước Trời thì quả là tội nghiệp cho ông Giacôbê. Nhưng thiết tưởng không chỉ cho Giacôbê mà còn cho 10 môn đệ kia đang tức tối với hai anh em Giacôbê, và cho cả tôi lẫn bạn, những kẻ thích ăn trên ngồi trước, thích chỉ tay năm ngón, thích quyền cao chức trọng, để dùng uy quyền mà sai khiến, để lấy quyền mà thống trị, nói tắt, thích được phục vụ hơn phục vụ.
Lạy Chúa, xin hãy dạy cho con biết chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân (Hosanna)
5. Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi ”sụ” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
Ông tên là Giacôbê, em ông cũng là tông đồ tên là Gioan. Cha ông tên là Zêbêđê, một người ngư phủ. Mẹ ông tên là Salômê, chị họ của bà Maria (có thể là mẹ Đức Giêsu Nazareth). Bà Salômê là một con người độc đáo. Có một lần bà đến gặp Đức Giêsu và thỉnh cầu cho con bà. Bà nói: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây, được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài trong nước của Ngài...” (Mt 20, 21). Đấy, bà xin xỏ cho hai con trai được hai chỗ danh dự, thành hai quan cận thần, chức tước cỡ lớn, áo mão xênh xang.
Hai người con đó là Giacôbê và Gioan. Giacôbê là anh, làm nghề ngư phủ với cha mình. Con người của Giacôbê sôi sục, nóng bỏng, vì thế, Giacôbê dễ dàng làm mồi cho cao vọng. Ông được Chúa gọi là con Của Sấm Sét để thấy rằng ông là người nóng nảy, cuồng nhiệt đến thế nào. Điều này cũng giải thích được phản ứng của ông đối với dân Samaria.
Đức Giêsu về Giêrusalem và phải đi qua miền Samaria. Giữa người Samaria và người Do Thái vốn có sự xung khắc. Đức Giêsu sai người đến một làng gần đó để chuẩn bị chỗ cho Người và các tông đồ nhưng dân Samaria từ chối. Thế là Giacôbê và Gioan nổi giận. Họ nhớ lại có lần tiên tri Êlia gọi lửa từ trời xuống, họ cũng đề nghị với Chứa tương tự:
‘’Thưa Thầy, Thầy cô muốn chúng ta khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt bọn chúng không ?” (Lc 9, 54) Chúng ta chứng tỏ cho bọn họ thấy quyền năng, cho mọi người biết rằng chúng ta có quyền sai lửa xuống cho họ khiếp. Nhưng, Đức Giêsu quở trách họ: “Anh em không biết anh em sống theo Thần Khí nào. Vì Con Người đến không phải để hủy diệt mạng sống người ta mà là để cứu họ...” (Lc, 9,55-56).
Cao vọng của người mẹ đã truyền sang người con đến độ nếu người mẹ không xin thì con cũng tự ý xin. Bằng cớ là thánh Marcô đã kể lại câu chuyện tương tự nhưng lại không nhắc đến người mẹ mà chỉ để cho chính Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra:
‘’Xin Thầy cho chúng con được ngồi một người bên tả, một người bên hữu trong vinh quang của Thầy” (Mc l0,37). Và Chúa đã dạy họ một bài học. Chúa cho họ biết rằng những chỗ danh dự trên Trời không dành cho những kẻ bè phái, nịnh hót, xin xỏ, nhưng dành cho những người xứng đáng:
‘’Anh em không biết anh em xin gì ? anh em có thể uống chén Thầy' uống và chịu thanh tẩy cùng một thứ thanh tẩy mà Thầy chịu không ?” (Mc l0, 38)
Muốn là phải được.
Người có nhiều cao vọng thì hứa thi hành tất cả.
Giacôbê không hiểu mình đã hứa một điều hệ trọng như thế nào khi ông vội vàng đáp lời Chúa là “Thưa Thầy được ạ”.
Và câu trả lời của Chúa tiếp đó quả thật là khó hiểu đối với họ: “Chén của Thầy, anh em sẽ uống, Thanh tẩy Thầy chịu, anh em sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả của Thầy, Thầy không có quyền ban, Nhưng là dành cho ai đã tiền định.” (Mc, l0,39-40)
Mãi sau này, Giacôbê mới hiểu ra.
Đó là chén của đau khổ, của hấp hối.
Chén của khó khăn, của thử thách...
Và sau này, Giacôbê cũng đã uống chén dó: ông chịu tử đạo. Ông là tông đồ đấu tiên đổ máu dưới thời Hêrôđê, ông đã uống cạn chén Chúa đã uống...
2. CÔNG VIỆC CỦA CHÚA
Trong câu chuyện này, ta thấy một sự kiện khiến ta suy tư về chữ “thánh” nằm trước tên các tông đồ như thánh Phêrô, thánh An-rê, thánh Matthêu...
‘’Khi 10 người kia nghe được những lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan. họ phẫn uất với hai anh em. (Mt, 20,24).
Vâng, họ cũng ganh tị, xét cho cùng, họ cũng đầy cao vọng. Họ cũng cao vọng bằng hai anh em nhưng họ không đủ can đảm để xin như những “Đứa Con Của Sấm Sét”.
Phân tích ra như vậy ta mới thấy thật là nản lòng. Hào quang các vị cũng bị vẩn đục ít nhiều chăng?
Họ cũng bất toàn, họ ích kỷ, họ đầy ắp cao vọng, và thêm vào đó, họ còn giả hình nữa.
Nhưng, đây mới là điều đáng nói:
Đức Giêsu đã chọn những người ấy. Và quả thật họ đã thay đổi cả bộ mặt thế giới, họ đã di chuyển cả núi non. Đức Giêsu đã không chọn những con người hoàn hảo. Người không chọn những kẻ thánh thiện ngay từ trong lòng mẹ.
Chúa đã chọn những người có máu ganh tị, ích kỷ, tham lam, cao vọng nhất như Giacôbê.
Ngươi chọn họ vì Người muốn hoán cải họ.
Hoán cải thế nào ?
Thưa, bằng chính đời sống của Người.
Họ noi gương Người, gương của Đấng quỳ xuống mà rửa chân cho họ: “Ai muốn làm lớn trong anh em thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20, 27).
Bằng tình thương của Chúa. Đó là cách Chúa thích dùng.
Một võ sĩ trở lại đạo. Ngày kia người bạn anh gặp hỏi:
Tôi nghe anh mới tòng giáo. Thật tức cười quá ! Sao lại tức cười ? Điều đó tốt nhất mà anh.
Nếu vậy liệu anh có xóa nổi chân tướng du côn cao bồi trước đây của chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo tung tích anh...
Tôi không ngại cho điều đó, những vết sẹo kia nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa chảy vào tâm hồn tôi.
Cũng vậy, những tội ta được tha, tuy còn dấu vết, nhưng là dấu vết tình thương của Chúa vậy.
Tiếp đến Chúa còn hoán cải họ bằng cái chết của Người. Họ biết vì sao Người sống, họ nghe Lời Người dạy. Giờ đây, Người thi hành điều đã loan báo.
Người vâng phục Thánh ý Cha cho đến chết. dù là cái chết nhục nhã trên thập giá:
‘’Con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá cứu chuộc thay cho nhiều người...” (Mt 20, 28)
Cuối cùng Chúa còn hoán cải họ bằng chính Thánh Thần của Người.
Một Thần Khí mới, không phải tinh thần ích kỷ, tham lam, ganh tị và giận dữ, nhưng là Thần Khí của Thiên Chúa.
Thánh Thần ở bên trong họ và thay đổi họ tự thâm sâu... Hình ảnh thành công của con người chúng ta thường là hình tháp. Ta càng lên cao thì càng ít người bằng ta và ta càng có nhiều người ở dưới. Mục đích của chúng ta là đỉnh kim tự tháp. Không ai bằng ta, ta hơn hết mọi người... Giacôbê cũng từng mong muốn như thế. Ông mong được ngồi bên hữu hay bên tả Chúa. Chỉ có Chúa là hơn ông, còn mọi người thì đều ở dưới chân. Chúa đã đến, Chúa đã lật ngược hình tháp. Càng tiến lên, ta càng có nhiều người ở bên trên ta càng có nhiều người để phục vụ. Và Đức Giêsu. đỉnh của kim tự tháp lật ngược đó, Mang lấy tội lỗi thay cho cả nhân loại:
‘’Con Người đến để hầu hạ và thí mạng sống mình làm giá chuộc...” (Mt 20, 28)
Vấn đề của chúng ta là ở đó:
Chúng ta muốn thực hiện cao vọng của ta Hay chúng ta chấp nhận để khát vọng Chúa thể hiện trong ta Chúng ta muốn uống ly rượu ngọt của mình Hay là uống chén mật đắng của Chúa ? Và tự muôn thuở cho đến mãi mãi, Con người chúng ta cứ bị đong đưa giữa ý mình và ý Chúa, giữa cửa hỏa ngục và cửa Thiên đàng.
Giacôbê là con của ông Dêbêđê và bà Salômê, anh của thánh Gioan Tông Đồ, sống nghề chài lưới ở biển Giênêgiaréth, bạn chài với Phêrô và Andrê. Tin Mừng thường nhắc đến hai anh em Giacôbê và Gioan Tông Đồ nhiều lần.
Họ thuộc nhóm những môn đệ tâm giao của Chúa Giêsu (cùng với Phêrô và Gioan). Các ngài được chứng kiến:
* Việc Chúa cho con gái ông Giairô sống lại. * Sự hiển dung của Chúa ở đồi Thabor. * Lúc Chúa cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.
Giacôbê là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã lấy máu đào của mình làm chứng cho Chúa Giêsu: vua Hêrôđê Antipa đã ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 44 (Cv 12,2; Mt 20,22-23). Như thế ứng nghiệm lời Chúa tiên báo cho ông: “ông đã thông chia chén của Chúa”.
2. Tính tình của Giacôbê: Giacôbê được gọi là vị Tông Đồ cao vọng (Mt 20,20).
Giacôbê được Chúa gọi là “con của thiên lôi”, điều này cho thấy rằng ông là con người nóng nảy và cuồng nhiệt đến thế nào. Quả vậy, phản ứng của ông đối với các dân thành Samaria đã giải thích điều đó. Khi Chúa qua con đường Samaria để về Giêrusalem, dọc đường những người Samaria đã từ chối không đón tiếp Chúa, Giacôbê đã đề nghị với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt chúng không?” (Lc 9,54).
Cao vọng của Giacôbê còn được thể hiện qua sự việc bà Salômê, là mẹ của ông, đã thỉnh cầu Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan rằng: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây được ngồi một đứa bên tả, một đứa bên hữu Ngài trong Nước của Ngài” (Mt 20,21).
Cao vọng của người mẹ truyền sang cho người con đến độ người mẹ không xin thì con cũng tự xin. Bằng chứng là Marcô kể lại câu chuyện thỉnh nguyện này mà không nhắc đến người mẹ, nhưng chỉ kể Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra câu ấy (Mc 10,37).
Tuy Giacôbê có cao vọng như vậy, nhưng Chúa vẫn chọn ông và tín nhiệm ông, và Người đã hoán cải ông. Chúa hoán cải các môn đệ:
* Bằng đời sống gương mẫu của ngài: Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Đồ và Người bảo các Tông Đồ hãy rửa chân cho nhau, vì “Ai muốn làm lớn trong anh em, thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20,27).
* Bằng cái chết của Người: con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá chuộc thay cho nhiều người (Mt 20,28). Các Tông Đồ đã lần lượt chịu tử đạo để theo gương Chúa.
3. Bài học:
+ Thánh Giacôbê thuộc giới thợ thuyền, làm nghề chài lưới ít học, tính tình lại nóng nảy, thêm vào đó lại còn có một tham vọng không phù hợp với vai trò và tinh thần của người tông đồ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn ông đi theo Chúa và làm Tông Đồ cho Chúa. Điều này chứng tỏ ơn thánh của Chúa quả có sức mạnh như thế nào mới có thể biến được đổi tâm hồn và cuộc sống của Giacôbê đến độ ông đã trở thành một tông đồ gương mẫu cho anh em mình.
Trong quá trình chinh phục một con người như thế, chắc hẳn chúng ta phải thấy Chúa đã phải kiên nhẫn, chịu đựng và nhất là đã giành cho con người này tình thương lớn lao như thế nào.
Ngay từ khi được Chúa kêu gọi, Giacôbê luôn được ở gần Chúa. Chúa đã cho ông được tham dự vào nhiều biến cố đặc biệt của Chúa. Những biến cố mà các tông dồ khác không được tham dự. Việc được Chúa đối xử như thế chắc chắn đã đem lại nhiều biến đổi trong tâm hồn của Ông. Cuộc biến đổi này không có ngay lập tức khi Giacôbê bắt đầu theo Chúa, nhưng dần dần với thời gian nhất là sau khi với tác động của Chúa Thánh Thần, sau khi Chúa về trời. Vai trò của Giacôbê trong việc quản trị Giáo Đoàn Giêrusalem cho chúng ta thấy điều đó. Quả thực Chúa đã không uổng phí công sức để chọn và giáo dục một con người như Giacôbê trở thành một tông đồ “ruột” của Người. Cái chết của Giacôbê, một cái chết đầu tiên trong số những người theo Chúa đã đủ nói lên điều đó.
+ Hôm nay mừng ngày sinh nhật trên trời của vị tông đồ đáng kính này, chúng ta không thể không nhớ đến quá trình chinh phục và làm biến đổi một con người như Giacôbê trở thành một tông đồ của Chúa. Chắc là Chúa đã phải kiên trì, chịu dựng và đầy lòng yêu thương mới có thể làm cho cuộc chinh phục đạt được kết quả kỳ diệu này.
Sau khi rảo bước qua các dãy phố sầm uất ở Hồng Kông, du khách bước vào một tiệm bán tranh sơn mài. Mắt du khách dừng lại ở một chiếc bàn lớn kê giữa tiệm, màu nước sơn thật tuyệt, màu xanh nước biển của mặt bàn như gợi lên chiều sâu thăm thẳm của đại dương, và một cảm giác man mác dâng lên trong lòng. Chung quanh bàn là những bông hoa trạm trổ bằng xà cừ rất tinh vi trông thật đẹp mắt.
Thấy khách có vẻ bị thu hút, người chủ tiệm đến gần kể lại công phu phải có để làm nên cái bàn tuyệt đẹp đó: Sở dĩ nước sơn tạo nên được những cảm giác như vậy là nhờ 12 nước sơn. Sau mỗi lần sơn, lại được mài bằng tay với giấy cát thật mịn, ngoài ra cần phải kể đến những công phu và thời gian trạm trổ từng mảnh xà cừ nhỏ vào các hình ảnh trên mặt bàn.
Khách du lịch đứng lặng người lắng nghe. Ông ngắm nghía thán phục vẻ đẹp của cái bàn và không ngớt lời khen ngợi tài khéo léo của người thợ trạm trổ cũng như tài vẽ của họa sĩ đã hóa thành cái bàn tuyệt đẹp và quí giá đó. Ông chủ tiệm vui vẻ đáp lại:
+ Kiên nhẫn là yếu tố cần thiết và là con đường ngắn nhất nếu muốn hoàn thành một tác phẩm nào đáng công và đáng giá.
Chúng con cám ơn Chúa đã để lại cho chúng con những bài học thật quí giá cho cuộc sống. Xin cho chúng con biết nhìn vào chính cuộc sống của Chúa để xây dựng cuộc đời của chúng con.
Lạy Chúa Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em. Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em. ------------------------------
Khi đọc bốn Phúc Âm, chắc chắn ai cũng phải thán phục các môn đệ Đức Giêsu chọn, họ đã từ bỏ gia đình, ruộng vườn, nghề nghiệp, để lên đường đi theo Thầy Giêsu, xem ra là để đi học cách sống làm Thánh. Đức Giêsu đã dày công giáo dục huấn luyện họ, muốn nên Thánh phải đi con đường Ngài đã đi (x 1Ga 2,6). Thế mà sau một thời gian, các ông đã hai lần lộ ra mục đích theo Thầy để được quyền cao chức cả.
Lần I: Cả Nhóm Mười Hai cùng trên đường đi với Thầy Giêsu, họ tranh cãi với nhau ai là người làm lớn trong Nước của Thầy? Nghe được, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy phải sống như trẻ thơ (x Mt 18,1-5 ; Mc 9,33-37).
Sống như trẻ thơ phải là
- Phó thác hoàn toàn nơi Chúa, “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131/130,2b).
- Muốn làm gì phải cầu nguyện xin ý Chúa, như trẻ thơ trong gia đình dùng gì phải xin ý cha mẹ (x Gl 4,1-4).
- Không ác tâm với ai, nếu có ác thì như con nít thôi (x 1Cr 14,20).
- Không đòi phải được tôn trọng, cho nên trong bữa tiệc, trẻ con ít được quan tâm, nên không ai mời lên chỗ danh dự (x Mt 14,21).
- Tinh thần cầu tiến ham học hỏi (x 1Cr 13,11).
Lần II : Hai ông Giacôbê và Gioan nhờ mẹ đến thưa với Đức Giêsu dành cho các ông địa vị nhất nhì trong Nước của Thầy (x Mt 20, 20-23 : Tin Mừng). Một khi đạt được khát vọng này, thì các ông muốn bao nhiêu vợ khó gì, muốn bao nhiêu kho báu cũng có ! Như thế, các ông theo Đức Giêsu với mục đích thương mại “thả con tép bắt con tôm”. Nếu thế thì các ông không thể xứng đáng làm Tông Đồ đi tập họp muôn dân về cho Chúa? Nhưng nhờ kiên nhẫn theo Thầy Giêsu, nhất là nhờ hiệu quả mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, các ông mới có khả năng thực thi hai đòi hỏi Thầy dạy để đạt đỉnh cao danh vọng.
· Muốn làm lớn trước nhất phải được uống chén của Thầy Giêsu.
· Phải phục vụ đồng loại bằng tinh thần tôi tớ như Thầy Giêsu.
I. MUỐN LÀM LỚN TRƯỚC NHẤT PHẢI ĐƯỢC UỐNG CHÉN CỦA THẦY GIÊSU.
Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Chúng con muốn được ngồi bên phải hay bên trái Thầy, vậy chúng con có uống chén của Thầy?”. “Uống chén” ở đây các ông hiểu là theo Thầy mà phải gian khổ để được quyền cao chức cả, vì “nằm gai nếm mật” nghĩa là một chút gian khổ có sá gì so với vinh quang Thầy trò sẽ đạt được sau cuộc Cách Mạng thành công đánh đuổi đế quốc Roma. Các ông chỉ mơ ước như thế, thậm chí khi Chúa Giêsu sống lại, các ông còn hỏi : “Thưa Thầy, có phải là lúc Thầy khôi phục vương quyền Israel không ?” (Cv 1,6). Nên khi nghe Thầy hỏi “có uống nổi chén Thầy sắp uống không ?” các ông đáp ngay : “Thưa uống được” (Mt 10,20-23 : Tin Mừng).
Nhưng Đức Giêsu lại muốn các ông phải hiểu “uống chén của Thầy” là hiệp thông Thánh Thể, như Ngài đã nói với các ông trong lúc lập Bí tích này: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,25). Mà ai được hiệp thông Thánh Thể, thì được đồng hóa với Chúa Giêsu (x Gl 2,20). Nguyên việc này đã trở nên con người cao cả nhất trên đời, đến như trổi vượt hơn ông Gioan Bt (x Mt 11,11). Vì kẻ thấp hèn mà có Chúa ở cùng thì được Ngài nâng lên cao (x Lc 1,46-55). Đây là do công nghiệp của Chúa Giêsu, chứ không phải do công đức của ai.
II. PHẢI PHỤC VỤ ĐỒNG LOẠI BẰNG TINH THẦN TÔI TỚ NHƯ THẦY GIÊSU.
Muốn có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu, người ấy phải được Chúa ở cùng, cụ thể phải được hiệp thông Thánh Thể, vì chỉ có Chúa Giêsu Thánh Thể mới ban cho ta nghị lực thực thi giáo huấn Ngài dạy để làm lớn trong Nước Thiên Chúa. Ngài nói : "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,25-28 : Tin Mừng). Đức Giêsu đã sống Lời Ngài dạy để làm gương cho các môn đệ, nó cũng đã trở thành “chén đắng” làm Ngài run sợ đến toát mồ hôi máu, nên xin với Chúa Cha “cất chén ấy đi, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha” (x Lc 22,39-46).
Tông Đồ Phaolô biết mình là người yếu đuối, đầy bất xứng, nhưng nhờ ông có Chúa ở cùng, được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài (x Gl 2,20), ông lại trở nên mẫu người phục vụ như Thầy Giêsu đã dạy, ông nói với giáo đoàn Corinthô : “Chúng tôi mang sứ vụ Tông Đồ nơi mình như chứa đựng kho tàng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em. Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em (đạt quyền cao chức cả). Thật vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người” (2 Cr 4,7-15 : Bài đọc) .
Vậy hết những ai phục vụ như thánh Tông Đồ, thì được Đức Giêsu hứa : “Bất cứ điều gì anh em xin, cứ tin là đã được và sẽ thấy thành” (Mc 11,24). Cụ thể hai anh em Giacôbê và Gioan xin Thầy Giêsu cho ngồi bên phải bên trái – được chức quyền nhất nhì – trong Nước của Thầy, nên sau khi Đức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Nước Thiên Chúa qua Tử Nạn và Phục Sinh, thì Ngài đáp ứng khát vọng của hai anh em :
Ông Giacôbê :
- Dưới cái nhìn của người đời thì ông bị Chúa phạt, dù ông tích cự hoạt động rao giảng Tin Mừng, vẫn bị người ta giết chết vào năm 44 trước 11 anh em trong Nhóm.
- Dưới cái nhìn của Thiên Chúa, ông lại được phúc hơn mọi anh em trong Nhóm,vì ông được phúc Tử Đạo đầu tiên, ông lên Thiên Đàng trước 11 anh em. Lúc ấy ông muốn ngồi bên phải hay bên trái Thầy là tùy ông.
Ông Gioan :
- Dưới cái nhìn người đời, ông được Chúa thương cho sống thọ hơn 11 anh em trong Nhóm Mười Hai, ông không phải chết đổ máu vì Tin Mừng, mà chỉ bị đày sống ở đảo Pasmô, và qua đời tại đây vào cuối thể kỷ thứ nhất. Đảo này chiều dài 12,5 cây số, chiều rộng 9,65 cây số, dân chài lưới đã nhận ngài làm Bổn Mạng, họ đã xây tới 365 Nhà Thờ để kính Thánh nhân.
- Dưới cái nhìn của Thiên Chúa, ông Gioan thua anh em trong Nhóm, vì các anh em kia đều được phúc Tử Đạo, đã lên Thiên Đàng trước, có lẽ những chỗ “tốt lành” họ đã ngồi hết, còn sót lại một “ghế” dành cho ông.
Tác giả thư Do Thái nói : “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng Lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ.” (Dt 13,7).
Vậy chỉ những ai “nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126/125,5 : Đáp ca) ; vì Đức Giêsu đã nói các môn đệ : “Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16 : Tung Hô Tin Mừng).
BÀI THƠ SAU ĐÂY MÔ TẢ CHÂN DUNG NGƯỜI CAO CẢ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA
Nếu tôi không chạy chọt chức quyền, Tôi chẳng sợ người quyền thế hãm hại. (x Lc 13,31-33)
Nếu tôi không mơ ước giàu sang, Tôi chẳng bao giờ bị của cải vần xoay. (x Gc 4,13)
Nếu tôi không chạy theo danh vọng, Tôi sẽ hoán chuyển tủi nhục thành khiêm tốn. Nếu tôi không ghen tỵ với ai, Tôi sẽ bằng lòng với những gì Chúa cho. (x G 1,21)
Nếu tôi không chạy ngược chạy xuôi, Tôi sẽ có giờ làm mọi điều cần thiết. Nếu tôi phục vụ không mong đời đáp đền, Tôi sẽ được Chúa ban ơn bội hậu. (x 2Cr 9,6-8)
Nếu tôi không vướng vào cạnh tranh Tôi sẽ không tìm cách hạ người anh em. (x Ga 19,14-16)
Nếu tôi sống đẹp thời hiện tại, Tôi đã làm chủ được quá khứ, và hy vọng cả tương lai. Nếu tôi biết chấp nhận thất bại, Tôi có trải nghiệm đi đến thành công, giải thoát khỏi thất vọng. Nếu tôi sống yêu thương cả bạn lẫn thù, Tôi sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Nếu tôi theo Đức Giêsu Kitô, mà phải khổ, Tôi sẽ được chia phần vinh quang với Ngài. (x Rm 8,17)
Nếu tôi phục vụ như Mục Tử Giêsu, Tôi sẵn lòng hiến mạng sống mình vì người anh em. (x Ga 10,11)
Nếu tôi nên một trong Chúa Giêsu để làm tôi tớ mọi người, Tôi sẽ được địa vị cao cả trong Nước Thiên Chúa.
(Mt 20,20-28 : Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
Đức Giêsu nói : Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được
Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.
Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Ðược Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Ðiều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là "con cái của sấm chớp" như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?".
Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: "Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?", hai ông đã nhất quyết thưa: "Chúng tôi uống được". Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.
Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Ðồ Công Vụ ghi: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa".
Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.
Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: "Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh".
Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.
"Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái". Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.
Tử đạo là một ơn gọi đặc biệt, nhưng mọi tín hữu Kitô đều được kêu gọi dâng những ốm đau, bệnh tật, những hy sinh nho nhỏ hằng ngày để cầu cho Nước Cha được trị đến.
Đọc lại ơn gọi của các thánh tông đồ, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì tính cách huyền nhiệm và diệu kỳ của Thiên Chúa trên từng con người, trên từng cá nhân. Tin Mừng của thánh Matthêu viết: ”Đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy ông Giacôbê, con ông Dê-bê-đê, và ngươi em là ông Gio-an, cả hai đang vá lưới” (Mt 4,18.21).
ƠN GỌI CỦA THÁNH GIACÔBÊ:
Chúa muốn gọi ai là tùy ý Chúa, không ai có quyền buộc Chúa phải làm thế này, phải làm thế khác. Ơn gọi là một ơn huệ nhưng không của Chúa. Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê. Thánh nhân là bạn đồng nghiệp với thánh Phêrô và thánh Anrê, tất cả đều làm nghề chài lưới và là những tay chài thiện nghệ. Các Ngài đã làm nghề cổ truyền này từ đời cha ông và nay họ vẫn tiếp tục sống bằng nghề đánh cá ở biển hồ Giênêsarét. Thánh Matthêu đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên như sau: “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,18-22). Tin Mừng nói: Chúa gọi và lập tức họ bỏ tất cả mà theo Chúa Giêsu. Đó là một sự lạ lùng vì chỉ một tiếng gọi, các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Giacôbê dù rằng có bị mang tiếng vì bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê đã suy nghĩ theo ý trần gian xin cho một ông ngồi bên tả, một ông ngồi bên hữu Chúa trong vương quốc của Ngài, nhưng với sự tác động của Chúa Thánh Thần và với sự thay đổi của ơn Chúa, thánh Giacôbê và thánh Gioan đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Chúa.
THÁNH GIACÔBÊ TRỞ THÀNH NGƯỜI THÂN THIẾT CỦA CHÚA:
Được Chúa yêu thương, cải hóa, biến đổi, thánh Giacôbê đã trở nên người thân cận của Chúa, cùng với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh nhân đã được chứng kiến con ông Zairô Chúa làm cho sống lại, việc chúa biến hình trên núi Tabôrê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu. Tất cả những điều đó nói lên con người đặc biệt và vô cùng thân tín của Ngài đối với Chúa Giêsu. Chính vì được yêu mến tin tưởng, thánh Giacôbê đã được phước trở thành người tử đạo tông đồ đầu tiên đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu phục sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I năm 43 hoặc 44 trước lễ phục sinh. Chúa đã trao chén đắng cho Ngài và Ngài đã chấp nhận uống chén đắng Thầy trao. Chúa đã thưởng công và trao mũ triều thiên cho Ngài. Thánh nhân đã được tôn kính đặc biệt trên thế giới từ thế kỷ IX và lòng tôn kính thánh nhân toả lan khắp thế giới.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).
Giacôbê là con của ông Dêbêđê và bà Salômê, anh của thánh Gioan Tông Đồ; sống nghề chài lưới ở biển Giênêgiaréth, bạn chài với Phêrô và Andrê. Tin Mừng thường nhắc đến hai anh em Giacôbê và Gioan Tông Đồ nhiều lần.
Họ thuộc nhóm những môn đệ tâm giao của Chúa Giêsu (cùng với Phêrô và Gioan). Các ngài được chứng kiến: Việc Chúa cho con gái ông Giairô sống lại // Sự hiển dung của Chúa ở đồi Thabor // Lúc Chúa cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.
Giacôbê là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã lấy máu đào của mình làm chứng cho Chúa Giêsu: vua Hêrôđê Antipa đã ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 44 (Cv 12,2; Mt 20,22-23). Như thế ứng nghiệm lời Chúa tiên báo cho ông: “ông đã thông chia chén của Chúa”.
2. Tính tình của Giacôbê: Giacôbê được gọi là vị Tông Đồ cao vọng (Mt 20,20).
Giacôbê được Chúa gọi là “con của thiên lôi”, điều này cho thấy rằng ông là con người nóng nảy và cuồng nhiệt đến thế nào. Quả vậy, phản ứng của ông đối với các dân thành Samaria đã giải thích điều đó. Khi Chúa qua con đường Samaria để về Giêrusalem, dọc đường những người Samaria đã từ chối không đón tiếp Chúa, Giacôbê đã đế nghị với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt chúng không?” (Lc 9,54).
Cao vọng của Giacôbê còn được thể hiện qua sự việc bà Salômê, là mẹ của ông, đã thỉnh cầu Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan rằng: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây được ngồi một đứa bên tả, một đứa bên hữu Ngài trong Nước của Ngài” (Mt 20,21).
Cao vọng của người mẹ truyền sang cho người con đến độ người mẹ không xin thì con cũng tự xin. Bằng chứng là Márcô kể lại câu chuyện thỉnh nguyện này mà không nhắc đến người mẹ, nhưng chỉ kể Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra câu ấy (Mc 10,37).
Tuy Giacôbê có cao vọng như vậy, nhưng Chúa vẫn chọn ông và tín nhiệm ông, và Người đã hoán cải ông. Chúa hoán cải các môn đệ:
Bằng đời sống gương mẫu của ngài: Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Đồ và Người bảo các Tông Đồ hãy rửa chân cho nhau, vì “Ai muốn làm lớn trong anh em, thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20,27).
Bằng cái chết của Người: con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá chuộc thay cho nhiều người (Mt 20,28). Các Tông Đồ đã lần lượt chịu tử đạo để theo gương Chúa.
3. Nhận thức và áp dụng:
Thánh Giacôbê thuộc giới thợ thuyền làm nghề chài lưới vất vả; đàng khác lại có tham vọng đi ngược với vai trò và tinh thần của người tông đồ, nhưng Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn ông đi theo Chúa và làm Tông Đồ cho Chúa. Điều này chứng tỏ ơn thánh của Chúa Kitô quả có sức làm biến đổi tâm hồn và cuộc sống của Giacôbê đến độ ông đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa.
Noi gương thánh Giacôbê: người tông đồ không nên tự ty mặc cảm về những hèn kém của mình, nhưng tin tưởng vào tình thương và sức mạnh của ơn Chúa để hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Đi theo Chúa, Giacôbê vẫn còn có những tham vọng phàm trần, song nhờ sự giáo huấn của Chúa và nhất là gương sống của Chúa đã khiến ông từ bỏ mọi sự và từ bỏ chính bản thân mình để hiến mình cho Chúa cách trọn vẹn.
Người tông đồ cần lắng nghe lời Chúa để đón nhận những giáo huấn của Chúa; đồng thời phải biết chiêm ngắm gương sống của Chúa để noi gương bắt chước sống trọn vẹn cho Chúa.
Giacôbê được Chúa dành riêng trong nhóm những người thận cận của Chúa để được chứng kiến những sự việc cần thiết cho sứ mạng làm chứng nhân trong vai trò người Tông Đồ.
Những ai được mời gọi sống đời thánh hiến, cũng được tuyển chọn riêng trong thời gian tu luyện để tìm gặp Chúa, đến với Chúa, ở lại với Chúa và để được biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi Ngài là thánh Giacôbê Tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm giám mục Giêrusalem.
Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Cũng theo Tin Mừng của Marcô thì Giacôbê là một trong bốn môn đệ được Chúa gọi đầu tiên tại biển hồ Galilêa (Mc 1, 16-20). Trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu, vị Tông đồ này luôn có mặt, ông đã chứng kiến phép lạ Chúa chữa nhạc mẫu Phêrô khỏi bệnh (Mt 1, 29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc chúa Giêsu hấp hối ở vười Gietsimani (Mt 26,37). Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá "kêu" là: "Boanergès" có nghĩa là con sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê hơi nóng nảy khi cùng với Chúa Giêsu đi vào làng Samari và dân làng không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị với Chúa rằng: "Thưa thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?" (Lc 9, 54)."
Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng phục sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của Ngài, trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II. Theo sách Công vụ kể lại thì có thể Thánh Giacôbê chịu tử đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I, vào cuối thế kỷ thứ II, khoảng năm 44: "Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan" (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại các Kitô hữu rất dữ dội, trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng xuống sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantianop vào năm 313.
Quả thực, khi xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên hữu và bên tả của Ngài, Giacôbê đã được Chúa báo trước cuộc tử đạo mà những ai muốn theo Chúa phải đón nhận. Chén đắng cùng với mũ triều thiên vinh quang trong nước trời. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu đã làm sáng tỏ chén đắng mà Chúa Giêsu uống, khi Người trao lại cho thánh nhân, và Giacôbê sẵng sàng đón nhận: "Ngay từ phút đầu tiên, Người đã cháy lửa nhiệt tình, và trong sự khinh chê lạ thường các lợi lộc trần gian, Người đã tiến tới đỉnh cao đến độ tức thời bị đem đi giết” (trích bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu trong bài đọc giờ Kinh sách). Giáo hội phương tây mừng kính Ngài từ thế kỷ thứ VIII. Các Giáo hội theo nghi lễ Copte và Byzantin thì mừng lễ Ngài sớm hơn vào một ngày gần lễ Phục sinh.
Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi ngài là thánh Giacôbê tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm Giám mục Giêrusalem. Gọi là "tiền" vì ngài được gọi trước hay vì ngài cao lớn hơn, nhất là vì ngài lớn tuổi hơn.
Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Trong tường thuật này, chúng ta thấy gia đình ông Giêbêđê xem như cũng khá giả và có thuê những người làm công.
Kể từ khi bỏ cha mẹ, chài lưới và những người làm công, anh em Giacôbê và Gioan luôn sát cánh bên Chúa. Họ chia sẻ với Người nếp sống "con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu" và trong những buổi tiệc vui như ở Cana (Ga 2,1). Trong cộng đoàn tông đồ, Giacôbê luôn giữ một chỗ đứng quan trọng sau Phêrô. Bởi vậy ngài được vào số ba môn đệ trong các biến cố phục sinh cho con gái Giarô (Mc 5,37) biến hình (Mc 9,2) và hấp hối ở Gethsemani (Mc 14,33).
Giacôbê hẳn phải hiểu rõ đặc ân của mình và ông đã đáp trả bằng một nhiệt tình cũng đặc biệt. Một lần qua Samaria, ông đã bất mãn vì dân làng không tiếp đón Chúa Giêsu một cách nồng hậu. Ông phát biểu: -Thưa Ngài, Ngài có muốn chúng tôi khiến lửa từ trời giáng xuống mà tiêu diệt chúng không?
Nhiệt tình của ông giống như Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại sửa sai tính nóng nảy ấy của ông: -Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào (Lc 9,52-56). Và người đặt cho Giacôbê và Gioan biệt danh là Boanerghê, nghĩa là con cái của sấm sét (Mc 3,17).
Dĩ nhiên là con người, khi theo Chúa Giêsu, các ông vẫn còn những yếu đuối, khi nghe loan báo về cuộc hoàn thành sứ mạng sắp tới, Giacôbê và em ông không ngần ngại thưa: - Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của thầy.
Không hứa sẽ thỏa mãn ước vọng của họ, Chúa Giêsu đã chỉ hỏi: -Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?
Một lần nữa, các ông bày tỏ nhiệt tình của mình: - Thưa được (Mt 20,20-23; Mc 10,35-40).
Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của ngài. Ngài sẵn sàng chịu chết dưới lưỡi gươm theo lệnh truyền của Hêrôđê Agrippa (Cv 12,2), có lẽ vào năm 42. Thế là Giacôbê đã trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II, Clêmentê thành Alexandria đã làm chứng rằng, chính kẻ tố cáo thánh nhân lại được ngài cải hóa và lãnh phúc tử đạo cùng lúc với ngài.
Truyền thống cho rằng Giacôbê đã mang Tin Mừng đến Tây Ban Nha. Tuy nhiên điều này không được chứng thực rõ ràng. Lần đầu tiên truyền thống này được viết ra vào thế kỷ VII, dựa vào nguồn Hy lạp không đáng tin. Một thế kỷ sau, khi một ngôi sao chỉ cho thấy ngôi mộ của thánh Giacôbê, niềm tin của quần chúng bắt đầu lan rộng.
Nơi hành hương ở Compostella (có lẽ bởi chữ Campustella: cánh đồng sao) là trung tâm rất nổi tiếng dầu chúng ta tin rằng thánh Giacôbê có đi Tây Ban Nha đi nữa thì cũng không thể nói được rằng nơi đây có di tích của thánh nhân.
Con người bị bao vây bởi những yếu đuối về thể xác cũng như tinh thần: về thể xác: nghèo đói, bệnh tật, nguy hiểm, chết chóc; về tinh thần: ghen ghét, hận thù, tội lỗi. Tuy thế, lịch sử Giáo Hội không ngừng chứng minh: sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động nơi những con người yếu đuối. Ví dụ: Phêrô chối Chúa 3 lần thành người điều khiển Giáo Hội, Phaolô nhiệt thành bắt bớ Đạo thành người nhiệt thành rao truyền Đạo, Augustino một thanh niên chơi bời hư hỏng thành thánh Giám-mục loan truyền tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa...
Các Bài Đọc hôm nay muốn làm sáng tỏ tư tưởng Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô so sánh sức mạnh của Thiên Chúa như kho tàng chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm, vì ham muốn quyền bính và địa vị, người mẹ của Giacôbê và Gioan xin với Chúa Giêsu cho hai con mình được một đứa ngồi bên phải và một đứa ngồi bên trái trong vương quốc của Ngài. Điều này gây sự ghen tị và chia rẽ trong hàng ngũ các môn đệ. Chúa Giêsu gọi các ông lại và chỉ dạy các ông con đường lãnh đạo: hy sinh chịu gian khổ và phục vụ mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.
1.1/ Kho tàng chứa đựng trong bình sành: Kho tàng là các hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Đức Kitô. Một sự phân tích những tư tưởng sau cho chúng ta thấy kho tàng của Thiên Chúa chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối của con người:
+ Bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp: Phaolô phải chịu bao áp lực nhưng ông vẫn có thể tìm cách thoát ra. Ví dụ: khi bị giam hãm trong lao tù, ông vẫn có thể cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa muốn, Ngài vẫn có cách để giải thoát ông nhiều lần.
+ Bị hoang mang, nhưng không tuyệt vọng: Nhiều lần trong đời, Phaolô cũng như chúng ta hoang mang không biết đâu là thánh ý Chúa để theo. Thánh Gioan Thánh Giá gọi đây là "những đêm tăm tối," khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa; nhưng chúng ta vẫn dùng đức tin để vượt qua và tiến tới. Khi đã trải qua rồi, chúng ta nhìn lại và nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa.
+ Bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi: Người môn đệ của Đức Kitô sẽ bị người đời ngược đãi: nói hành, bôi nhọ, bắt bớ, tù đày... vì họ không sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Ngài hứa sẽ ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế, và Thánh Thần sẽ giúp họ biết phải nói gì và làm gì khi bị thế gian ngược đãi.
+ Bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt: Phaolô cũng như các tín hữu đã nhiều lần bị quật ngã: hoặc cách thể lý như bị ngược đãi bởi người đời, hoặc cách tâm linh như những lúc sa ngã phạm tội. Nhưng với sức mạnh và ơn thánh của Chúa, họ lại trỗi dậy, giao hòa với Chúa, và tiếp tục phấn đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Hiểu như thế, cuộc đời mỗi tín hữu là cuộc đời luôn vác thánh giá theo chân Đức Kitô, như Phaolô diễn tả: "Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi."
1.2/ Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Đức Kitô là người đi tiên phong mở đường cứu độ bằng cách mặc lấy thân xác yếu đuối của con người để rao truyền Tin Mừng, để huấn luyện các môn đệ trước khi sai đi, và hy sinh chịu gian khổ để chuộc tội cho con người.
Noi gương Đức Kitô, Phaolô và các môn đệ cũng đi theo con đường đó: Các ông được sai đi rao giảng Tin Mừng, thu thập và huấn luyện các môn đệ để tiếp tục sai đi, và cũng phải hy sinh chịu gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô và cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi. Các môn đệ dám hy sinh tất cả cho dẫu phải đổ máu vì các ông biết rằng: "Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho các ông được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt các ông bên hữu Người."
Các tín hữu sau khi đã nhận được đức tin từ Phaolô và các môn đệ lại tiếp tục tiến trình đó, và cứ như vậy cho đến ngày Đức Kitô trở lại. Nếu tất cả đều trung thành với sứ vụ của mình và làm chứng cho Đức Kitô, toàn thế giới sẽ được nghe Tin Mừng và trở thành những môn đệ của Ngài. Lúc đó Nước Chúa sẽ trị đến, như Phaolô hy vọng: "Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người."
2/ Phúc Âm: Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.
2.1/ Tính mỏng giòn yếu đuối của con người:
(1) Lòng ham muốn địa vị: "Bấy giờ bà mẹ của các con ông Zebedee đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: "Bà muốn gì?" Bà thưa: "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy."
Có sự khác biệt giữa hai trình thuật giữa Marcô và Matthew về biến cố này: Theo trình thuật của Marcô, chính hai anh em yêu cầu điều này với Chúa Giêsu. Theo trình thuật của Matthew, lời yêu cầu được làm qua người mẹ. Dù sao chăng nữa, đây cũng là điều yếu đuối rất thường xảy ra nơi con người: ai cũng mong được hơn người, có quyền hành và địa vị, và được người khác kính nể, phục vụ. Hai anh em không ngại đi theo Chúa, nhưng đi theo để đạt mục đích trần thế của mình.
(2) Lòng ghen tị khi thấy người khác hơn mình: "Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó." Điều này cũng là yếu đuối con người nữa: Dưới mắt các ông, chỉ có hai chỗ cao trọng nhất mà hai anh em nhà Zebedee đã giành, còn mình ngồi đâu? Hơn nữa, hai anh em cùng với Phêrô, thường được coi là những người "thân tín" của Chúa!
2.2/ Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
(1) Lãnh đạo bằng hy sinh chịu đựng gian khổ: Đức Giêsu bảo họ: "Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?" Họ đáp: "Thưa uống nổi."
Đức Giêsu bảo: "Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được." Lịch sử chứng minh Giacôbê cũng uống chén đắng của Chúa bằng việc tử đạo tại Jerusalem (Acts 12:1-2), và Gioan uống chén đắng bằng cách sống trung thành với Đức Kitô cho đến tuổi già.
(2) Lãnh đạo bằng khiêm nhường phục vụ tha nhân: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng bao giờ nản chí khi phải đương đầu với yếu đuối của thân xác và sa ngã của linh hồn, vì sức mạnh của Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong chúng ta.
- Chúng ta phải sống theo chỉ đạo và đường lối của Thiên Chúa: lãnh đạo bằng hy sinh và phục vụ. Đừng sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian để đòi danh vọng và chức quyền.
Trong danh sách mười hai Tông đồ mà Chúa chọn, có hai người cùng mang tên là Giacôbê, một người là anh của Thánh Gioan viết Phúc âm, con ông Giêbêđê và một người là con của ông Alphê. Để phân biệt hai Tông đồ này, người ta gọi Thánh Giacôbê Tông đồ hậu và Giacôbê Tông đồ tiền. Phụng vụ vào ngày 25 tháng 7 hằng năm cử hành lễ kính Thánh Giacôbê Tông đồ Tiền.
Thân thế của Thánh Giacôbê
Ông xuất thân trong một gia đình ngư phủ tương đối khá giả tại Betsaiđa, thân sinh là ông Giêbêđê có người làm thuê (Mc 1, 19-20). Cũng theo Tin mừng của Marcô thì Giacôbê là một trong bốn môn đệ được Chúa gọi đầu tiên tại biển hồ Galilêa (Mc 1, 16-20). Trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu, vị Tông đồ này luôn có mặt, ông đã chứng kiến phép lạ Chúa chữa nhạc mẫu Phêrô khỏi bệnh (Mt 1, 29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc Chúa Giêsu hấp hối ở vười Gietsimani (Mt 26,37). Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá “kêu” là: ”Boanergès” có nghĩa là con sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê hơi nóng nảy khi cùng với Chúa Giêsu đi vào làng Samari và dân làng không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị với Chúa rằng: ”Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?” (Lc 9, 54).
Cuộc Tử đạo của Ngài
Theo sách Công vụ kể lại thì có thể Thánh Giacôbê chịu tử đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I, vào cuối thế kỷ thứ II, khỏang năm 44: ”Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan” (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại các Kitô hữu rất dữ dội, trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng xuống sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantianop vào năm 313. Giáo hội phương tây mừng kính Ngài từ thế kỷ thứ VIII. Các Giáo hội theo nghi lễ Copte và Byzantin thì mừng lễ Ngài sớm hơn vào một ngày gần lễ Phục sinh.
Thông điệp của Thánh nhân
Khi xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên hữu và bên tả của Ngài, Giacôbê đã được Chúa báo trước cuộc tử đạo mà những ai muốn theo Chúa phải đón nhận. Chén đắng cùng với mũ triều thiên vinh quang trong nước trời. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu đã làm sáng tỏ chén đắng mà Chúa Giêsu uống, khi Người trao lại cho Thánh nhân, và Giacôbê sẵng sàng đón nhận: ”ngay từ phút đầu tiên, Người đã cháy lửa nhiệt tình, và trong sự khinh chê lạ thường các lợi lộc trần gian, Người đã tiến tới đỉnh cao đến độ tức thời bị đem đi giết” (trích bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu trong bài đọc giờ kinh sách).
Ơn gọi làm môn đệ là một huyền nhiệm, bởi vì chẳng ai được gọi lại cho mình là xứng đáng với sứ vụ. Mặt khác, không ai có quyền buộc Thiên Chúa phải chọn mình vào trong chức này, việc nọ theo ý riêng. Vì thế, Thiên Chúa chọn và gọi ai tùy ý Ngài, miễn sao người được chọn cảm nghiệm và sẵn sàng đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Ngài.
Cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương mình quá đỗi, thánh Giacôbê đã rắp tâm đáp lại lời mời gọi làm môn đệ của Đức Giêsu ngay lập tức. Dẫu biết rằng bản thân mình chỉ là một con người tài thô ý thiển. Thật vậy, thánh nhân làm nghề chài lưới, được truyền từ đời này sang đời khác. Một nghề bình thường trong các nghề của người sinh thời với thánh nhân.
Tuy nhiên, khi được Đức Giêsu yêu thương, gọi và chọn, thánh nhân cũng được Ngài biến đổi, cải hóa để trở thành những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu trong hành trình loan báo Tin Mừng. Từ một môn đệ “tham, sân, si” khi nhờ mẹ đến xin cho mình một địa vị ưu tiên trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập, trở thành một con người say mê Đức Giêsu thực sự, nên được chính Đức Giêsu cho chứng kiến các thời điểm quan trọng trong cuộc đời Ngài.
Thánh Giacôbê đã là nhân chứng cuộc biến hình trên núi Tabor; chứng kiến con ông Zairô được Đức Giêsu làm cho sống lại; chứng nhân trong vườn Cây Dầu lúc Đức Giêsu hấp hối, và là người đầu tiên trong Nhóm 12 đã lấy máu đào làm chứng cho Thầy Chí Thánh của mình.
Vì yêu mến Đức Giêsu hết lòng, ngài hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đấng Cứu Thế, Đấng ấy: “… đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), nên ngài đã từ bỏ hết tất cả những địa vị mà trong tâm tưởng vẫn hy vọng theo kiểu thế gian, chấp nhận mất tất cả để chỉ còn một mối lợi duy nhất là được biết Đức Kitô, và sẵn sàng làm chứng cho Ngài.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính lễ thánh Giacôbê Tông đồ. Giáo Hội muốn nêu bật gương sáng về lòng yêu mến Chúa và trung thành với sứ vụ nơi thánh nhân.
Nhân ngày lễ thánh Giacôbê, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được trở nên giống ngài. Biết nhìn nhận những sự bất toàn của mình để cho Lời Chúa uốn nắn ta theo ý Chúa. Luôn yêu mến và biết tạ ơn Chúa vì những hồng ân đặc biệt Chúa ban cho chúng ta. Đặc biệt, khi đã hiểu được con đường cứu độ của Thiên Chúa và thái độ cần có để được vào số những người Chúa chọn, người môn đệ cần phải khước từ những thứ không phù hợp với Đức Giêsu và sứ vụ của mình như: loại bỏ thái độ ăn trên ngồi trước, chỉ tay năm ngón. Khước từ chức quyền, nếu điều đó không có lợi cho ơn gọi và sứ vụ. Tránh cách làm việc theo kiểu sai khiến mà không cần dùng đến trái tim và tình thương. Từ bỏ thái độ thích được phục vụ hơn là phục vụ.
Lạy Chúa, đã biết bao lần con cũng giống như thánh Giacôbê là tìm mọi cách để đạt được quyền cao chức trọng mà quên đi bản chất của người tôi tớ nơi người môn đệ. Xin Chúa tha thứ cho chúng con, và xin biến đổi chúng con thành môn đệ đích thực như lòng Chúa ước mong. Amen.
Thánh Giacôbê là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Đức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê. Trước đó, Đức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrệ "Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người" (Máccô 1:19-20).
Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Đức Giêsu trong vườn Giệtsimani.
Có hai biến cố trong Phúc Âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến với Đức Giêsu để xin cho hai ôngï được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc (một bên phải, một bên trái Đức Giêsu). "Đức Giê-su bảo: 'Các người không biết các người xin gì. Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?' Họ đáp: 'Thưa được'" (Mt 20:22). Sau đó Đức Giêsu bảo, quả thật họ sẽ uống chén và chia sẻ sự thanh tẩy của Người trong sự đau khổ và cái chết, nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái thì không phải là quyền của Đức Giêsu -- chỗ đó "được dành cho những người đã được Cha Thầy chuẩn bị" (Mt 20:23b).
Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Sau đó Đức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ: Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Đây là vị thế của chính Đức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.
Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Đức Giêsu đặt cho họ -- "con của sấm sét"- thì rất thích hợp với họ. Người Samaritanô không đón tiếp Đức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. "Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: 'Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?' Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông..." (Luca 9:54-55).
Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo. "Vào thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Vua cho chém đầu ông Giacôbê, anh ông Gioan, và khi thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa" (CVTĐ 12:1-3a).
Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với tác giả của Thư Thánh Giacôbê, hoặc vị lãnh đạo của cộng đồng Giêrusalem.
Lời Bàn
Phương cách mà Phúc Âm đề cập đến các tông đồ là một nhắc nhở tốt đẹp về ý nghĩa của sự thánh thiện. Trong Phúc Âm, chúng ta không thấy đề cập nhiều đến các đức tính của các ngài như những sở hữu cố định mà nhờ đó họ được phần thưởng thiên đàng. Thay vào đó, Phúc Âm nhấn mạnh đến Nước Trời, đến quyền năng rao giảng Tin Mừng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Còn về phần đời sống cá nhân của các ngài, chúng ta thấy Đức Giêsu đã thanh luyện họ khỏi những hẹp hòi, nhỏ nhen, bất nhất.
Lời Trích
"... Chúa Kitô, trong Người mà sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa tối cao được hoàn tất (x. 2 Cor. 1:20; 2:16; 4:6), truyền dạy các tông đồ rao giảng Phúc Âm cho muôn dân, đó là nguồn mạch của mọi chân lý cứu độ và lời luân lý, và vì thế thông ban cho họ ơn sủng của Thiên Chúa... Mệnh lệnh này được trung tín thực hiện bởi các tông đồ, là những người, qua lời giảng, qua gương mẫu, và qua các quy định, đã truyền lại những gì họ nhận được từ miệng Đức Kitô, bởi sống với Người, và bởi những gì Người làm hoặc những gì các tông đồ học hỏi được qua sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần" (Hiến Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa, 7).
Trong đời sống tâm linh của mỗi Kitô hữu, việc cầu nguyện xin ơn là chuyện diễn ra hằng ngày và cũng thật thiết yếu. Trước hết là thực hành điều Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (x. Lc 21,36), sau là vì nhu cầu của bản thân, xa hơn là cầu nguyện cho những người thân của mình… Tuy nhiên, tôi và bạn đã bao giờ tự hỏi rằng mình đã xin Chúa điều gì khi cầu nguyện? Và đã biết cộng tác với ơn Chúa chưa?
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu thuật lại sự việc hai anh em Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu để có được hai vị trí cao trọng trong Nước mà họ nghĩ rằng Người sắp thiết lập, “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy” (x. Mt 20,21). Các ông đang mơ tưởng đến Nước Chúa Giêsu thiết lập như mọi nước ở trần gian, nơi đó họ sẽ có được quyền cao chức trọng. Trước lời cầu xin của họ, Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Các người không biết các người xin gì!” (x. Mt 20,22). Thật vậy, các Tông đồ xưa cũng là con người, mà bản tính của con người vốn ham mê quyền lực. Vì thế, các ông đã xin Chúa những điều thuộc về thân xác, những điều thuộc về thế gian – chóng qua và dễ hư nát, chẳng sinh ích lợi gì cho sự sống đích thực mai sau.
Lời Chúa Giêsu dạy các Tông đồ xưa cũng là lời mà Ngài muốn chúng ta phải suy nghĩ mỗi khi cầu nguyện, mỗi khi thưa chuyện với Ngài: “Các người không biết các người xin gì!”. Rất nhiều khi chúng ta cũng không biết xin Chúa điều gì. Hoặc chỉ biết xin những điều rất phụ tùy và là những điều chẳng những không có lợi mà còn có hại cho sự sống đích thực. Còn những điều quan trọng hơn nhiều, rất cần thiết đời sống thiêng liêng và đức tin thì chúng ta lại không hề xin.
Vậy khi xin Chúa điều gì và khi cầu nguyện với Ngài, chúng ta cần có những tâm tình nào? Thiết nghĩ, việc đầu tiên phải là tâm tình tạ ơn, bởi chúng ta đã nhận được biết bao ân huệ Chúa ban do lòng rộng rãi của Ngài. Tiếp đến có thể chúng ta trình bày với Chúa những nhu cầu mà mình đang thiếu thốn để Ngài định liệu và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Hơn nữa, chúng ta cũng dâng lên Chúa những hy sinh là lòng bác ái, tha thứ và thương yêu anh em mình.
Ơn Chúa thì luôn dồi dào, nhưng để ơn Chúa có thể được thực hiện nơi ta thì còn phụ thuộc cả vào cách chúng ta cộng tác với ơn Chúa. Chúng ta thường xin Chúa ơn bình an, điều này thật tốt, vì có bình an con người mới có thể sống vui, hạnh phúc. Chúng ta thường xin Chúa ban cho sức khỏe, điều này cũng thật cần thiết, bởi có sức khỏe mới dễ dàng tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người. Chúng ta thường xin Chúa ban cho con cái ngoan ngoãn, học hành tiến tới điều này cũng thật hợp tình hợp lý. Nhưng…
Bình an sao được khi thường ngày chúng ta thường gây nên những bất hòa. Khỏe mạnh sao được khi chính những việc làm vô bổ của chúng ta làm tổn hại đến sức khỏe của chính mình. Con cái ngoan ngoãn, học giỏi sao được khi chính chúng ta gieo rắc những điều xấu, gây nên gương mù gương xấu cho chúng. Thật vậy, sự cộng tác của chúng ta, mặc dù là nhỏ bé nhưng là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định, bởi vì ơn Chúa chẳng thể xuống trên chúng ta nếu chúng ta không mở lòng đón nhận. Như thánh Augustinô từng nói: “Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con”.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã cầu nguyện liên lỉ để kết hợp mật thiết cùng Chúa Cha. Người chỉ xin hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa Cha trong mọi việc. Xin soi sáng cho chúng con để chúng con học tập nơi Chúa biết xin những gì đẹp lòng Chúa Cha và phó thác hoàn toàn trong tình yêu quan phòng của Chúa, đồng thời chính chúng con cũng phải cộng tác với ơn Chúa để những điều chúng con mong ước sẽ được thực hiện nơi chúng con. Amen.
Đức Giêsu là một nhà giáo dục đại tài, không chọn những nhà thông thái tài giỏi làm tông đồ, nhưng người chỉ chọn những tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn và nhiệt thành. Lòng nhiệt thành của Thánh Giacôbê và thánh Gioan đã khiến Chúa đặt cho cái tên là con của Thiên Lôi.
Thật đẹp thay, xinh thay những bước chân người tông đồ công bố tin vui. Vượt đèo cao, sông sâu, qua núi, qua rừng đem nguồn sống cho mọi nơi. Thánh Giacôbê đã bước theo Chúa suốt ba năm Người công khai rao giảng Tin Mừng, Thánh nhân đã cùng với Đức Giêsu trải qua biết bao gian khó từ khi được gọi làm Tông đồ. Ông là một trong bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu mời gọi.
Với lòng nhiệt thành sẵn có, ông cùng với em mình lập tức bỏ mọi sự mà theo Người. Rồi cùng với Thánh Phêrô và Thánh Gioan, được chứng kiến biến cố Hiển Dung của Chúa trên núiTabor, được cùng đi với Chúa vào vườn Giệtsimani lúc khởi đầu cuộc thương khó.
Phúc âm kể lại một biến cố lạ lùng trong đời sống của Thánh Giacôbê là: khi ấy, bà mẹ của các con ông Dêbêđê đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo, bà bái lạy và kêu xin Người một điều: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi, một người ngồi bên hữu một người ngồi bên tả Thầy trong nước của Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì ư, các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “ Thưa uống nổi”. Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp trả ấy vì lòng quảng đại và nhiệt thành của những người trẻ sẵn sàng làm Tông đồ loan báo Tin Mừng nhưng Chúa phán tiếp: “Chén của Thầy, các ngươi sẽ uống”. Từ lúc này, trong con người của Thánh Giacôbê đã có một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài. Sự nhiệt thành trước kia chống lại những người Samari không muốn đón tiếp Chúa Giêsu, đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn. Tuy không làm mất đi cá tính hăng hái của mình, nhưng thánh Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi. Theo trình thuật Phúc âm, cũng như các tông đồ, thánh nhân cũng có những khuyết điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những khuyết điểm ấy Ngài có một tâm hồn và một con tim vĩ đại. Và vì lòng nhiệt thành cho các linh hồn nên Thánh nhân đã là vị Tông đồ đầu tiên được phúc tử đạo.
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con nguồn sức mạnh từ nơi Chúa để chúng con luôn mang trong mình một trái tim quảng đại, sẵn sàng dấn thân hy sinh nhiệt thành phụng sự Chúa, mưu ích cho các linh hồn. Noi gương Thánh Giacôbê, Chúng con sẽ trở thành những tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng, để nước Chúa ngày càng lan rộng khắp nơi.
Thánh Giacôbê là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Ðức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê. Trước đó, Ðức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrê. "Ði xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người" (Máccô 1:19-20).
Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Ðức Giêsu trong vườn Giệtsimani.
Có hai biến cố trong Phúc Âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến với Ðức Giêsu để xin cho hai ôngï được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc (một bên phải, một bên trái Ðức Giêsu). "Ðức Giê-su bảo: 'Các người không biết các người xin gì. Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?' Họ đáp: 'Thưa được'" (Mt 20:22). Sau đó Ðức Giêsu bảo, quả thật họ sẽ uống chén và chia sẻ sự thanh tẩy của Người trong sự đau khổ và cái chết, nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái thì không phải là quyền của Ðức Giêsu -- chỗ đó "được dành cho những người đã được Cha Thầy chuẩn bị" (Mt 20:23b).
Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Sau đó Ðức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ: Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Ðây là vị thế của chính Ðức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.
Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Ðức Giêsu đặt cho họ -- "con của sấm sét"- thì rất thích hợp với họ. Người Samaritanô không đón tiếp Ðức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. "Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: 'Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?' Nhưng Ðức Giê-su quay lại quở mắng các ông..." (Luca 9:54-55).
Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo. "Vào thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Vua cho chém đầu ông Giacôbê, anh ông Gioan, và khi thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa" (CVTÐ 12:1-3a).
Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với tác giả của Thư Thánh Giacôbê, hoặc vị lãnh đạo của cộng đồng Giêrusalem.
Lời Bàn
Phương cách mà Phúc Âm đề cập đến các tông đồ là một nhắc nhở tốt đẹp về ý nghĩa của sự thánh thiện. Trong Phúc Âm, chúng ta không thấy đề cập nhiều đến các đức tính của các ngài như những sở hữu cố định mà nhờ đó họ được phần thưởng thiên đàng. Thay vào đó, Phúc Âm nhấn mạnh đến Nước Trời, đến quyền năng rao giảng Tin Mừng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Còn về phần đời sống cá nhân của các ngài, chúng ta thấy Ðức Giêsu đã thanh luyện họ khỏi những hẹp hòi, nhỏ nhen, bất nhất.
Lời Trích
"... Chúa Kitô, trong Người mà sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa tối cao được hoàn tất (x. 2 Cor. 1:20; 2:16; 4:6), truyền dạy các tông đồ rao giảng Phúc Âm cho muôn dân, đó là nguồn mạch của mọi chân lý cứu độ và lời luân lý, và vì thế thông ban cho họ ơn sủng của Thiên Chúa... Mệnh lệnh này được trung tín thực hiện bởi các tông đồ, là những người, qua lời giảng, qua gương mẫu, và qua các quy định, đã truyền lại những gì họ nhận được từ miệng Ðức Kitô, bởi sống với Người, và bởi những gì Người làm hoặc những gì các tông đồ học hỏi được qua sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần" (Hiến Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa, 7).
1/ Trong danh sách 12 Tông Đồ Chúa chọn, có 2 người cùng mang tên Giacôbê: Một người là anh của Thánh Yoan Tông Đồ, cả hai cùng là con ông Giêbêđê, ngài có tên là Giacôbê Tiền, còn một người là Giacôbê nữa là con ông Alphê, mang tên là Giacôbê Hậu. Giacôbê Tiền được kính vào ngày 25/07 hàng năm.
2/ Giacôbê Tiền xuất thân trong một gia đình ngư phủ tương đối khá giả ở Betsaida. Thân sinh là ông Giêbêđê (Mc 1,19-20). Giacôbê là một trong 4 Môn Đệ được kêu gọi đầu tiên tại biển hồ Galile (Mc 1, 16-20).
3/ Trong các biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu thì vị Tông Đồ này luôn có mặt. Ông đã chứng kiến Chúa chữa cho bà nhạc mẫu Thánh Phê-rô khỏi bệnh (Mt 1,29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc Chúa Giêsu hấp hối ở vườn cây dầu (Mt 26,37).
4/ Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá nổi là: "Bo-anergès": Có nghĩa là con thần sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê nóng nảy khi Chúa Giêsu và các Môn Đệ đi vào một làng Samari và dân làng này không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị xin Chúa thiêu đốt thành này (Lc 9, 54).
5/ Theo sách Công vụ kể lại thì Thánh Giacôbê chịu tử đạo đầu tiên dưới thời vua Hêrôđê Agrippas I, vào khoảng năm 44 (SC): Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại dữ dội nhất trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantinople vào năm 313.
6/ Thi hài của Thánh nhân được cải táng về Santiago De Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời trung cổ, và là đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.
7/ Giacôbê được Chúa yêu thương cách riêng: Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, Ngài là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương Khó.
8/ Bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng đến gặp Chúa Giêsu. Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang mà Ngài sắp đến. Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không? Và Chúa đề nghị họ uống chung chén với Người. Đây là một dấu chỉ của tình thân hữu. Cả hai người cùng đáp: “Thưa được”.
9/ Thánh Clementê thành Alexandria kể lại: Khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của Ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo Ngài sau đó đã đến xin Ngài tha lỗi. Thánh Giacôbê đã ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”. Hai người sau đó cùng được hưởng triều thiên tử đạo.
10/ Khi suy về cuộc đời thánh Giacôbê: Chúng ta được lợi khi nhìn thấy những khuyết điểm của thánh nhân, cũng như của các Tông Đồ khác. Các ngài thiếu can trường, thiếu khôn ngoan, cũng chẳng đơn sơ. Các ngài cũng ham hố, hiếu thắng, thích tranh cãi và thiếu đức tin. Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông Đồ được tử đạo. Như thế, thì Thiên Chúa cũng có thể ban ơn phù trợ, cũng có thể thực hiện phép lạ nơi chúng ta như vậy .
11/ Ngày nay trên Thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn thánh nhân đi con đường khác với con đường mà ngài đã mơ tưởng trước đó.
12/ Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và tràn đầy yêu thương vượt quá trí hiểu của chúng ta. Trong nhiều trường hợp, Chúa không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin (như thánh Giacôbê xin), nhưng lại ban những điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.
13/ Thánh Gioan Kim Khẩu viết: Chúng ta hãy xem xét cách Chúa Giêsu đặt câu hỏi với Thánh Giacôbê như một lời vừa mời gọi, vừa nói khích. Chúa không nói: “Ngươi có dám chịu đổ máu không?” Nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống chén Ta sẽ uống hay không?”
14/ Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ Nạn của chúa là phép rửa, để nhấn mạnh đến những đau khổ của Người, sẽ là nguyên nhân, là khởi đầu cho cuộc thanh tẩy toàn thể nhân loại. Chúa cũng đang mời gọi chúng ta. Chúa cũng khuyến khích chúng ta đừng đầu hàng, đừng chán nản khi những khuyết điểm, yếu đuối của mình quá lớn, quá rõ rệt. Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin ơn trợ giúp, Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành với sứ mạng, vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta có đủ thời gian cần thiết để cải thiện tính nết xấu và luyện tập nhân đức.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giacôbê vinh dự là Tông Đồ đầu tiên chịu tử đạo, để làm chứng cho Tin Mừng. Xin Chúa ban cho con được ơn sức mạnh nhờ vào lời chuyển cầu của Thánh nhân, con sẽ luôn được ơn nâng đỡ, phù trì. Amen.
Người Việt Nam thường nói "Đồng sàng dị mộng", cùng nằm chung một giường, nhưng có những giấc mơ, suy nghĩ, tư tưởng khác nhau. Các tông đồ cùng đi với Chúa trên con đường lên Giêrusalem để Chúa bước vào cuộc khổ nạn, chịu chết, sống lại, cứu chuộc con người chúng ta mà các tông đồ chẳng hiểu Chúa gì cả. Chúa nói về cuộc thương khó của Chúa, lẽ ra các tông đồ phải biết chia sẻ với Chúa, nhưng đàng này các ông lại tranh dành nhau địa vị chức quyền, ân lộc, trong đó có cả bà mẹ của thánh Giacôbê và thánh Gioan cùng tham gia bênh vực cho hai người con của mình. Bà xin cho một đứa ngồi bên hữu, một đứa ngồi bên tả của Chúa trong nước Chúa. Nghe vậy, các tông đồ còn lại bất bình với hai anh em nhà này. Đây là lần đầu tiên các tông đồ xích mích với nhau. Có lẽ trầm trọng lắm chứ không đơn giản chút nào đâu; bởi dường như Chúa không kiểm soát được tư tưởng, lời nói, hành động của các tông đổ, dẫn đến dễ đỗ vỡ tổ chức Giáo Hội mà Chúa mới bắt đầu qui tụ. Nhưng mà không phải như chúng ta suy nghĩ vậy đâu, vì Chúa là một vị tôn sư đầy lòng từ tâm thương xót hết tất cả mọi người, cách riêng là đối với các tông đồ, nên chúng ta thấy:
Nhưng với Chúa, Chúa không nói ai đúng ai sai, Chúa dạy bài học khiêm hạ, phục vụ "Ai muốn làm lớn thì hãy là người phục vụ, ai muốn làm đầu thì hãy là người đầy tớ của anh em mình". Mẫu gương của bài học này là chính Chúa để các tông đồ noi theo. Chúa quả là vị tôn sư hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Bởi vậy, thánh Giacôbê mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, ngài đã học được bài học của sự khiêm nhường, yêu thương, phục vụ, hy sinh đến chịu chết vì Chúa, vì Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin cho tư tưởng, lời nói, hành động của Chúa là tư tưởng, lời nói, hành động của chúng con. Xin cho chúng con biết hạ mình xuống, cúi mình xuống, phục anh chị em chúng con, như bê một ly nước lã mời anh chị em chúng con uống vì Chúa để chúng con đền bù tội lỗi chúng con đã phạm đến Chúa và mọi người. Nguyện xin thánh Giacôbê cầu thay nguyện giúp cho chúng con trước tòa Chúa. Amen.
Ðền thờ tâm hồn. 26/07 – Thứ Sáu tuần 16 thường niên – Thánh Gioakim và thánh Anna. Lễ nhớ. "Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy".
* Theo một truyền thống cổ xưa, có thể vào thế kỷ 2 Thánh Gioakim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Lòng sùng kính thánh Anna được phổ biến ở phương Đông vào thế kỷ 6, và ở phương Tây vào thế kỷ 10. Còn thánh Gioakim cũng được tôn kính như thế, nhưng muộn hơn, lối thế kỷ 17.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Trong Tin Mừng không thấy tên các Ngài. Truyền thống cho chúng ta biết cha mẹ Đức Ma-ri-a gọi tên là Gioakim và Anna.
Thánh Gioakim không được sùng kính, nhưng thánh Anna thì khác.
Sùng kính quảng đại quần chúng.
Lòng sùng kính thánh Anna rất phổ thông trên đất Mỹ Châu ngay thời kỳ di dân. Lòng sùng kính Thánh Anna có từ lâu đời ở Bretagne. Với số nhà thờ kể không xiết.
Với niềm tin mạnh mẽ, đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Ma-ri-a. Niềm tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Ma-ri-a được sinh ra bởi một người cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác.
Đôi cha mẹ.
Dù cha mẹ Ngài có tên này hay tên khác, không cần bàn đến. Chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta tôn kính các Ngài. Dù các Ngài không có tên trong danh sách chính thức các thánh. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào có được là các Ngài làm cha làm mẹ Đức Ma-ri-a.
Thật là mầu nhiệm đức tin! Thánh Anna và Gioakim không hồ nghi gì về con các Ngài lớn lên là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ Thiên Chúa! các Ngài không thể đoán biết danh tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm, gieo hạt hoa huệ tinh tuyền.
“Lạy Chúa, chúc tụng Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”.
Sứ điệp: Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho chúng ta. Ngài khai mở và đổ tràn sự sống của Người cho tâm hồn khiêm cung và biết lắng nghe. Ai khát khao chân thành, người ấy sẽ nhận được mầu nhiệm Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bao nhiêu vị tiên tri và người công chính trong Cựu ước khao khát được thấy Chúa và nghe Lời Chúa mà không được. Phần con, con được diễm phúc nghe Lời Chúa và đón nhận mầu nhiệm Nước Trời là chính Chúa. Con cảm tạ Chúa.
Nhưng lạy Chúa, Chúa cho con thấy rằng chỉ những tâm hồn khiêm cung, ngay chính và khao khát Chúa, mới thực sự có những điều thiện hảo đó. Vâng, con chỉ có thể được đón nhận Nước Trời nếu lòng con luôn chân thành và thiết tha quy hướng về Chúa. Và nếu con như người lính canh chờ mong bình minh đến từng giờ, từng giây phút trong đời, thì sự sống và tình yêu Chúa chắc chắn sẽ tràn ngập cuộc đời con. Ôi lạy Chúa, con thầm nhủ và mong ước được như thế.
Lạy Chúa, con càng xác tín hơn nữa khi nghe Chúa nói: “Ai đã có, thì sẽ cho họ được dư dật, còn kẻ không có thì cái họ có cũng bị lấy đi”. Khi con loại trừ ra khỏi lòng mình những trăn trở, các thói hư tật xấu và tội lỗi, khi con có thiện chí sẵn sàng đón nhận Chúa, thì ơn Chúa càng dồi dào, dư tràn bao phủ đời con. Ngược lại, con sẽ tự đánh mất tất cả nếu lời mạc khải của Chúa chỉ là tiếng vang động bên ngoài. Đó là khi con cứng lòng khép kín nội tâm, tách rời với anh em, với cộng đoàn và với Giáo Hội. Đó cũng là khi con từ chối của ăn linh hồn là nguồn sống Thánh Thể, các bí tích và chính Lời Hằng Sống. Xin đừng để con sa lầy vào tình cảnh đó.
Xin cho con sống khiêm nhường, bác ái và hiệp nhất với Chúa luôn luôn như lối mở cho con vào Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy”.
Thứ Ba, 26/7/2022, Bài giảng Thánh lễ tại Sân vận động Commonwealth ở Edmonton Canada
Hôm nay chúng ta mừng lễ ông bà ngoại của Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng ta gặp gỡ nhau đông đảo vào dịp rất quý báu đối với anh chị em cũng như đối với tôi. Chính tại nhà của hai thánh Gioakim và Anna, trẻ Giêsu đã biết những người họ hàng lớn tuổi của mình và cảm nhận được sự gần gũi, tình yêu dịu dàng và khôn ngoan của ông bà. Chúng ta cũng hãy nghĩ về ông bà của chúng ta và suy tư về hai khía cạnh quan trọng.
Thứ nhất: chúng ta là những người con của một lịch sử cần được giữ gìn. Chúng ta không phải là những cá nhân biệt lập, những hòn đảo. Không có ai bước vào thế giới này mà không có sự liên kết với người khác. Nguồn gốc của chúng ta, tình yêu đã chờ đợi chúng ta và chào đón chúng ta bước vào thế giới, môi trường gia đình mà chúng ta lớn lên, là một phần của lịch sử duy nhất đã đi trước và trao ban cuộc sống cho chúng ta. Chúng ta không chọn lịch sử đó nhưng đón nhận nó như một ân ban; và lịch sử là một món quà mà chúng ta được kêu gọi để trân trọng. Bởi vì, như Sách Huấn ca đã nhắc nhở, chúng ta là “dòng dõi” của những người đi trước, là “gia tài quý báu” của họ (Hc 44,11). Một gia tài quý báu, ngoài kỳ tích hoặc quyền hạn của một số người, trí thông minh hoặc sự sáng tạo của những người khác trong bài hát hoặc thơ ca, đều tập trung vào sự công bình, trung thành với Chúa và ý muốn của Người. Đây là điều họ đã truyền lại cho chúng ta. Để thực sự đón nhận chúng ta là ai và chúng ta quý giá như thế nào, chúng ta cần phải tiếp nhận những người mà nhờ họ chúng ta hiện hữu. Họ là những người không chỉ nghĩ về bản thân nhưng còn truyền lại cho chúng ta kho báu cuộc sống. Chúng ta có mặt ở đây là nhờ cha mẹ chúng ta, nhưng chúng ta cũng cám ơn ông bà, những người đã cho chúng ta trải nghiệm rằng chúng ta được chào đón trên thế giới. Thường ông bà yêu thương chúng ta vô điều kiện và không mong nhận lại bất cứ điều gì. Ông bà nắm tay chúng ta khi chúng ta sợ hãi, trấn an trong đêm tối, khuyến khích chúng ta trong ánh sáng ban ngày khi chúng ta phải đối diện với các quyết định quan trọng của cuộc sống. Nhờ ông bà, chúng ta đã nhận được sự âu yếm từ lịch sử đi trước chúng ta: chúng ta đã học được rằng lòng tốt, sự dịu dàng và trí tuệ là những cội rễ vững chắc của con người. Trong nhà của ông bà, nhiều người trong chúng ta được hít thở hương thơm của Tin Mừng, sức mạnh của một đức tin làm chúng ta cảm thấy như ở nhà. Nhờ ông bà, chúng ta đã khám phá ra một loại đức tin “quen thuộc”. Bởi vì đức tin về cơ bản được thông truyền qua tình cảm và sự khuyến khích, chăm sóc và gần gũi.
Đây là lịch sử của chúng ta, lịch sử mà chúng ta là người thừa kế vì thế chúng ta được mời gọi gìn giữ. Ông bà đã để lại trong chúng ta dấu ấn duy nhất về cách sống của họ, cho chúng ta phẩm giá, lòng tin tưởng vào bản thân và người khác. Họ đã ban tặng cho chúng ta một điều gì đó không bao giờ có thể lấy đi được, đồng thời đã cho phép chúng ta trở thành những con người độc nhất, nguyên bản và tự do. Từ ông bà, chúng ta học được rằng tình yêu không bao giờ là một sự ép buộc, không bao giờ tước đoạt tự do nội tâm của người khác. Đây là cách Thánh Gioakim và Thánh Anna yêu thương Đức Maria; và đó cũng là cách Mẹ Maria đã yêu Chúa Giêsu, bằng một tình yêu không bao giờ làm nghẹt thở hay giữ lại cho riêng mình, nhưng đồng hành trong việc thực hiện sứ vụ đã đến trong thế giới. Chúng ta hãy cố gắng học điều này với tư cách là cá nhân và với tư cách là Giáo hội. Mong sao chúng ta học cách không bao giờ tạo sức ép lên lương tâm người khác, đừng bao giờ hạn chế tự do của những người xung quanh chúng ta, và trên hết không bao giờ thiếu tình yêu và sự tôn trọng đối với những người đã đi trước và đang được giao phó cho chúng ta chăm sóc. Vì họ là những kho tàng quý giá lưu giữ một lịch sử vĩ đại hơn chính họ.
Sách Huấn ca cũng cho chúng ta biết rằng việc gìn giữ lịch sử đã cho chúng ta cuộc sống không có nghĩa là che khuất “vinh quang” của tổ tiên chúng ta. Chúng ta không được đánh mất ký ức ủa họ, cũng như không quên lịch sử đã sinh ra cuộc sống chúng ta. Chúng ta phải luôn nhớ đến đôi bàn tay âu yếm đã ôm chúng ta trong vòng tay của họ, bởi vì chính trong lịch sử này, chúng ta tìm thấy niềm an ủi trong những lúc nản lòng, một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta và khuyến khích chúng ta can đảm đối diện với những thách đố cuộc sống. Tuy nhiên trân trọng ký ức của họ cũng có nghĩa là luôn quay trở lại ngôi trường đó, nơi lần đầu tiên chúng ta học bài học tình thương. Điều đó có nghĩa là, khi đối diện với những lựa chọn hàng ngày, chúng ta hãy tự hỏi mình rằng những người già khôn ngoan mà chúng ta từng biết và ông bà chúng ta sẽ khuyên chúng ta điều gì?
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tự hỏi: liệu con cháu chúng ta có khả năng bảo vệ kho tàng mà chúng ta đã được thừa hưởng này không? Chúng ta có nhớ những lời dạy tốt đẹp mà chúng ta đã lãnh nhận không? Chúng ta có nói chuyện với những người lớn tuổi và dành thời gian lắng nghe họ không? Và trong những ngôi nhà ngày càng được trang bị hiện đại, đầy đủ và tiện dụng, chúng ta có biết dành một không gian xứng đáng để lưu giữ những ký ức của họ, một vị trí đặc biệt, qua những bức ảnh, vật dụng quý giá cho phép chúng ta nghi nhớ trong cầu nguyện những người đi trước chúng ta không? Chúng ta có biết giữ gìn Kinh Thánh và chuỗi hạt Mân Côi của tổ tiên không? Trong lớp sương mù của sự lãng quên che mờ thời kỳ hỗn loạn của chúng ta, điều cần thiết là phải vun trồng cội nguồn của chúng ta, cầu nguyện cho và với các bậc tiền nhân, dành thời gian để ghi nhớ và bảo vệ di sản của họ. Đây là cách một cây gia đình phát triển, đây là cách tương lai được xây dựng.
Bâu giờ chúng ta nghĩ đến điều quan trọng thứ hai. Ngoài việc là những người con của một lịch sử cần được giữ gìn, chúng ta còn là những người thợ của một lịch sử cần được xây dựng. Mỗi người chúng ta có thể nhận ra mình là ai, được đánh dấu bằng cả ánh sáng và bóng tối, và bằng tình yêu mà chúng ta đã nhận được hay không. Đây là điều bí ẩn của cuộc sống con người: tất cả chúng ta đều là con của ai đó, được ai đó sinh ra và thành hình, nhưng khi chúng ta trở thành người lớn, chúng ta cũng được kêu gọi trao ban sự sống, trở thành cha, mẹ và ông bà của người khác. Vì vậy, nhìn về con người của chúng ta ngày hôm nay, chúng ta muốn làm gì cho bản thân? Ông bà đi trước, những người cao tuổi mơ ước, hy vọng và hy sinh vì chúng ta, hỏi chúng ta một câu hỏi cơ bản: các con muốn xây dựng một xã hội như thế nào? Chúng ta đã nhận được rất nhiều từ bàn tay của những người đi trước. Đến lượt chúng ta, chúng ta muốn để lại điều gì cho những người đến sau? Một đức tin sống động hay "Nước hoa hồng"? Một xã hội được thành lập dựa trên lợi nhuận của các cá nhân hay dựa trên tình huynh đệ? Một thế giới hòa bình hay chiến tranh? Một thụ tạo bị tàn phá hay một ngôi nhà tiếp tục được chào đón?
Chúng ta không được quên rằng nhựa mang lại sự sống đi từ rễ đến cành, đến lá, đến hoa, rồi đến quả của cây. Truyền thống đích thực được thể hiện theo chiều dọc này: từ dưới lên. Chúng ta cẩn thận để không rơi vào bức tranh biếm họa của truyền thống, nó không di chuyển theo chiều dọc - từ rễ đến quả - mà theo hàng ngang - tiến và lùi. Truyền thống hình thành theo cách này chỉ dẫn chúng ta đến loại “văn hóa lạc hậu” nơi ẩn náu ích kỷ, đơn giản là nuôi dưỡng hiện tại, nhốt nó trong não trạng với lý luận “Chúng tôi luôn làm theo cách này".
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng các ông có phúc vì được thấy và được nghe điều mà nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính mong mỏi mà không được (Mt 13, 16-17). Trên thực tế, nhiều người đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, đã dọn đường cho Người và đã loan báo sự xuất hiện của Người. Tuy nhiên, giờ đây, Đấng Cứu Thế đã đến, những ai có thể nhìn thấy và nghe thấy Người được kêu gọi để chào đón và loan báo về Người.
Anh chị em thân mến, điều này cũng áp dụng cho chúng ta. Những người đi trước đã truyền cho chúng ta một niềm đam mê, một sức mạnh và một khao khát, một ngọn lửa mà chúng ta muốn nhóm lại. Vấn đề không phải là bảo quản tro, nhưng là thắp lại ngọn lửa mà họ đã nhóm lên. Ông bà và những người lớn tuổi của chúng ta mong muốn thấy một thế giới công bằng, huynh đệ và liên đới hơn và họ đã chiến đấu để mang lại cho chúng ta một tương lai. Giờ đây, chúng ta không để họ thất vọng. Được những người là cội nguồn hỗ trợ, bây giờ đến lượt chúng ta sinh hoa kết trái. Chúng ta là những cành phải nở hoa và gieo rắc những hạt giống mới vào lịch sử. Vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình một số câu hỏi cụ thể. Là một phần của lịch sử cứu độ, dưới ánh sáng của những người đi trước và yêu thương tôi, bây giờ tôi phải làm gì? Tôi có một vai trò duy nhất và không thể thay thế trong lịch sử, nhưng tôi sẽ để lại dấn ấn gì? Tôi đang truyền lại điều gì cho những người sẽ đến sau tôi? Tôi đang cống hiến gì cho bản thân? Thường chúng ta đo lường cuộc sống dựa trên thu nhập, loại nghề nghiệp, mức độ thành công và cách người khác nhận xét về chúng ta. Nhưng đây không phải là tiêu chí mang lại sự sống. Câu hỏi thực sự là: tôi có đang tạo ra sự sống không? Tôi có đang mở ra cho lịch sử một tình yêu mới mà trước đây chưa có không? Tôi có đang loan báo Tin Mừng trong khu phố của tôi không? Tôi có đang tự do phục vụ người khác như cách mà những người đi trước đã làm cho tôi không? Tôi đang làm gì cho Giáo hội, thành phố và xã hội? Thật dễ dàng để chỉ trích, nhưng Chúa không muốn chúng ta chỉ là những người chỉ trích hệ thống, hoặc khép kín và "lạc hậu". Đúng hơn Chúa muốn chúng ta trở thành những người thợ của một lịch sử mới, những người dệt nên hy vọng, những người xây dựng tương lai, kiến tạo hòa bình.
Xin Thánh Gioakim và Anna cầu bầu cho chúng ta. Xin hai Đấng giúp chúng ta biết trân trọng lịch sử đã cho chúng ta sự sống, và về phần mình, chúng ta xây dựng một lịch sử sự sống. Xin Thánh Gioakim và Anna nhắc nhở chúng ta về bổn phận tinh thần của chúng ta trong việc kính trọng ông bà và những người lớn tuổi, quý trọng sự hiện diện của họ để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Một tương lai nơi người già không bị gạt sang một bên vì “từ quan điểm thực tế họ không còn cần thiết nữa”. Một tương lai không đo giá trị của con người chỉ bằng những gì họ tạo ra. Một tương lai không thờ ơ với nhu cầu cần được lắng nghe và quan tâm của người già. Một tương lai mà lịch sử bạo lực và gạt ra bên lề mà các anh chị em bản địa của chúng ta phải chịu đựng sẽ không bao giờ lặp lại. Tương lai đó là có thể, nếu với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta không cắt đứt mối dây liên kết giữa chúng ta với những người đi trước và nuôi dưỡng cuộc đối thoại với những người sẽ đến sau chúng ta. Già trẻ, ông bà và con cháu cùng nhau chúng ta tiến về phía trước, và cùng nhau chúng ta hãy ước mơ.
Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và là ai người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được nghe.”
Sấm ngôn của tiên tri Isaia làm chúng ta khó hiểu. Tại sao lắng nghe mà không hiểu? Trố mắt nhìn mà chẳng thấy? Phải chăng Thiên Chúa không muốn cho chúng ta hiểu? Nếu tách lời sấm riêng ra thì chúng ta có thể đặt vấn đề như vậy. Nhưng lời sấm này đặt trong mạch văn và trong toàn bộ Thánh kinh thì không thể cắt nghĩa như vậy.
Thiên Chúa luôn yêu thương và muốn cứu thoát con người. Chúa Giêsu được sai xuống trần gian chỉ vì mục đích đó. Thế nên, nếu con người không được ơn cứu độ, không phải vì tại Thiên Chúa, nhưng vì tại con người bưng tai chẳng thèm nghe, bịt mắt không thèm nhìn mà thôi.
Lưu ý quan trọng:
Đoạn Tin mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc, vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.
Thực ra, ở đây Chúa Giêsu trích một câu của tiên tri Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.
Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai), nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước trời hơn, càng sống Lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn (Giải thích của Carôlô).
Hôm nay Chúa Giêsu giải thích cho các Tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy về mầu nhiệm Nước trời. Lý do rất dễ hiểu vì đạo của Chúa là đạo từ trời. Bởi vậy trong lời giảng, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giúp cho dân chúng dễ hiểu hơn. Thực ra khi nói về Nước trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác. Hoặc như thánh Phaolô nói: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm”. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Câu trả lời của Chúa Giêsu, mới nghe thì hình như có vẻ mâu thuẫn. Chúa giảng dạy dân chúng hẳn là có mục đích để cho họ hiểu, và việc Chúa thay đổi cách giảng, dùng hình thức dụ ngôn, cũng không ngoài mục đích đó, vì dụ ngôn là sự so sánh cụ thể làm cho dễ hiểu một giáo huấn trừu tượng, nghĩa là dùng hình ảnh cụ thể trong đời sống để so sánh làm cho người ta dễ hiểu một giáo thuyết trừu tượng. Thế mà Chúa lại nói: Chúa giảng dạy dụ ngôn để cho dân chúng không hiểu được mầu nhiệm Nước trời, mà chỉ dành riêng cho các môn đệ được hiểu thôi. Như thế là tại sao? Sau khi giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, Chúa đã tuyên bố: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chúa đã dùng dụ ngôn mà nói, có ý gợi lên nơi thính giả sự tò mò tìm hiểu, và nếu ai không hiểu mà hỏi Chúa sẽ được Chúa giải thích cho.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ các mầu nhiệm. Còn những kẻ ở ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe” (Mt 13, 16) (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Lời tỏ tình của Thiên Chúa
Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Ông bạn làm gì vậy?
Người Ả rập trả lời:
- Tôi cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học lại hỏi:
- Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được Chúa không?
Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác học nói thêm:
- Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn không bao giờ thấy được, sờ được.
Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét:
- Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi ngang qua đây.
Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà bác học:
- Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?
Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời không ấy, người Ả rập kết luận:
- Ông quả là một người ngu: ông không thấy, không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.
Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính:
- Tôi không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát, đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.
Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói:
- Ông hãy nhìn những dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài.
Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:
Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?
Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. "Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Vâng, Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu chuyện này do Văn sĩ Marie Noel viết:
Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:
"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".
Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: "Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi".
Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.
Kinh Thánh gợi cho ta nhìn vào mọi dân mọi nước trên thế giới trải qua các thế hệ, thì ai cũng phải đồng ý với tác giả sách Đức Huấn ca: “Có những người sinh ra cai trị đất nước nổi danh về quyền lực; có những người nhờ trí thông minh mà giữ vai trò cố vấn cho các bậc vị vọng; có những người dùng lời giáo huấn khôn ngoan dạy dỗ người khác; có những người sáng tác thi ca du dương; có những người giàu sang lắm quyền nhiều thế, sống bình an và hòa thuận trong gia đình, được nhiều người khen ngợi, được vẻ vang lúc sinh thời; có những người lưu danh hậu thế cho người đời tán dương, nhưng rồi có lúc không ai muốn nhớ đến họ nữa, vì khám phá ra họ là kẻ thù của loài người ! Như thế họ sinh ra đời mà như chẳng chào đời, con cháu họ cũng thế thôi.
Chỉ có những người đạo hạnh, công đức họ không bao giờ bị quên lãng, dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu, đó là lũ cháu đàn con, vì dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước Chúa lập, nhờ các ngài mà con cháu một mực trung thành, dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang của các ngài chẳng bao giờ phai mờ, các ngài đã được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44, 1-15: Bài đọc).
Trong số những người đức nghĩa đạo hạnh đó, có vợ chồng thánh Gioakim và thánh Anna, sinh được cô con gái Maria, đây là một gia đình gương mẫu giữ Luật Môsê như những người Do Thái đạo đức khác. Nhưng riêng ông Gioakim và bà Anna trổi vượt hơn mọi người đương thời, vì được phúc liên hệ gián tiếp với Con Một Thiên Chúa vào đời, qua trung gian người con Maria đã thưa với sứ thần: “Xin Chúa làm cho con điều Chúa nói” (x Lc 1,38) trong ngày Truyền Tin, và Chúa đã làm cho Maria sinh Con Đấng Tối Cao. Đó là lý do ông Gioakim và bà Anna được Hội Thánh tôn vinh lên bậc Hiển Thánh nhờ “ăn theo” phúc lộc Chúa ở cùng Maria. Dầu “ăn theo”, nhưng ông Gioakim và bà Anna vẫn là “số một”, thuộc loại “VIP” của nhân loại xét trong thời Cựu Ước. Vì đối với người Do Thái, tổ phụ Abraham, Isaac, Giacob, Đavid, và các ngôn sứ đều có công lớn đối với dân tộc, bởi Chúa đã dùng các ngài làm nhiều điều kỳ diệu cho dân. Nhưng Hội Thánh không phong Thánh cho vị nào, trừ vợ chồng Gioakim và Anna ! Tuy vậy các ngài chưa được hạnh phúc trọn vẹn như người Công Giáo mà Đức Giêsu đã so sánh: “Họ mong điều anh em thấy mà không được thấy, ước được nghe điều anh em nghe mà không được nghe, còn anh em, phúc cho mắt anh em đã được thấy, phúc cho tai anh em đã được nghe” (Mt 13,16-17: Tin Mừng).
Thực vậy, khi tham dự Thánh Lễ, ta được phúc rước Mình Thánh Chúa, thì ta không còn gián tiếp liên hệ với Con Thiên Chúa như ông Gioakim và bà Anna, mà được trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x Dt 1,1-2), và được rước Lễ, thì trở nên cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống, đến như được đồng hóa với Chúa Giêsu, nhờ đó ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Dt 2,11.14; Ga 6,44-58; Gl 2,20; Ga 1,14-17), cho ta được đồng hiển trị với Chúa Giêsu, Vua vũ trụ qua Lời Chúa đã hứa cho dòng dõi vua Đavid tổ tiên Ngài, đúng như lời sứ thần nói với Đức Maria trong ngày truyền tin: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavid tổ tiên Ngài” (Lc 1,32b: Đáp ca). Do đó “các ngài những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên các ngài” (x Lc 2,25c: Tung Hô Tin Mừng).
Vậy vinh dự của vợ chồng Gioakim và Anna, của Đức Maria, của người Công Giáo trổi vượt hơn vinh quang của hết thảy mọi người không thuộc Hội Thánh Chúa Kitô. Nhất là dân Chúa trong thời Tân Ước, vừa có Luật Môsê, vừa được Chúa Giêsu dạy bảo, lại được rước Lễ mỗi ngày, nên được Chúa ban dồi dào ân sủng hơn lòng mong ước (x Ep 3,20). Đúng như Đức Giêsu đã nói: “Ai có sẽ được cho thêm và nên dư dật.Còn kẻ không có thì điều nó có cũng sẽ bị giựt mất!” (Mt 13,12). Ta nhớ rằng câu này là lời kết luận của dụ ngôn gieo giống. Như thế ta phải hiểu rằng kẻ nào được gieo Lời Chúa vào lòng, có Chúa Giêsu ở cùng, người ấy được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa ban ơn dư dật; còn kẻ ở ngoài Hội Thánh, không có Lời Chúa, không được Chúa Giêsu chiếm đoạt, thì mọi sự thuộc về kẻ ấy, kể cả hồn xác cũng bị Satan giựt mất! Thánh Phaolô nói: “Chính bởi Thiên Chúa mà anh em được có trong Đức Giêsu, Đấng do bởi Thiên Chúa đã nên sự khôn ngoan cho chúng ta, sự công chính, sự thánh thiện và cứu chuộc” (1Cr 1,30).
Đừng quên ông Gamaliel đã xác nhận: “Việc gì do tự sức loài người làm, trước sau sẽ ra tro bụi,nhưng công việc nào bởi Thiên Chúa, thì tồn tại muôn đời không ai phá hủy được, kẻ nào phá hủy mang tội chống Thiên Chúa” (x Cv 5,38-39), cũng trong niềm xác tín ấy, thánh Tông Đồ nói: “Dù bạn đem hết gia tài chia sẻ, hiến cả mạng sống vì người khác, mà không có Đức Mến, thì cũng chẳng ích gì cho bạn” (1Cr 13,3). Đức Mến là Thiên Chúa (1Ga 4,8).
Ý hướng Mục Vụ của Hội Thánh trong Lễ Nhớ hai thánh Gioakim và Anna, nhằm nhắc nhở cho mọi người Công Giáo phải ý thức sống Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công:
* Để đền đáp những người ta thụ ơn, không có cách nào hơn là ta phải nên Thánh. Thực vậy, Đức Maria không thể nào đền đáp công ơn cha mẹ đã sinh dưỡng mình, nếu Maria không thuộc trọn về Chúa, không trở nên Mẹ Thiên Chúa.
* Những người có trách nhiệm giáo dục người khác, không thể nào nên Thánh, nếu không làm cho người được trao phó nên Thánh, nhất là cha mẹ không thể nào thoát án trước mặt Thiên Chúa, trừ khi biết quý trọng Thánh Lễ, hằng ngày được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, để làm mọi việc lành cho con cháu noi gương bắt chước, và dạy con cháu Lời Chúa, noi gương Mẹ Maria suy đi nghĩ lại Lời Chúa trong lòng, để con cháu lớn lên trong khôn ngoan và đầy ân sủng (x Lc 2,19.51). Có thế mới thấy đàn con cháu là hồng ân Chúa ban (x Tv 127/126,3). Trái lại cha mẹ làm gương mù cho lũ cháu đàn con, thì thà khoanh cối lừa kéo vào cổ nó mà nhận chìm đáy biển còn hơn (x Mt 18,6).
THUỘC LÒNG
Có những người không còn ai nhớ nữa, họ qua đi như chẳng bao giờ có, họ sinh ra mà như chẳng chào đời, con cháu của họ cũng thế thôi! Nhưng các vị sau đây là những người đạo hạnh,công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. (Hc 44, 9-11)
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” Trong bối cảnh phụng vụ, lời này của Đức Giê-su được ứng nghiệm cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà ngoại” của Người, nghĩa là của hai thánh Gioakim và Anna.
Tuy nhiên, lời này của Đức Giê-su cũng liên quan đến đôi mắt và đôi tai của chúng ta.
Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước đó, Đức Giê-su còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c. 13). Như thế, mối phúc mà Đức Giê-su nói tới, không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh.
1. Phúc vì được thấy
Thật vậy, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi người người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Đức Giê-su về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.
Đôi mắt của thánh Gioakim và thánh Anna, đôi mắt của các môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc, như Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”, bởi vì chúng ta được ơn nhận biết Đức Giê-su Nazareth là Đức Ki-tô, Con Thiên Hằng Sống và Ngôi Lời nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô; và đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô là đôi mắt sống đúng với ơn gọi của mình.
2. Phúc vì được nghe
Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì ‘‘Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành’’ (Ga 1, 3 và St 1):
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm. (Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giêsu Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên, Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng. Thiên Chúa ngỏ sự thinh lặng của Ngôi Lời cho người biết lắng nghe:
Không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. (Tv 19, 4-5)
3. Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa
Thánh Phao-lô trong thư gởi Tín Hữu Roma đã trích Tv 19, nhưng một cách rất lạ lùng. Bởi vì, đối với thánh nhân “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.” (Tv 19, 5) không là gì khác hơn là việc rao giảng Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô! Thật vậy, ngài đã viết trong thư gởi các tín hữu Roma:
Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ!
“Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu,
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Rm 10, 17-18)
Theo thánh Phao-lô, sứ điệp của công trình tạo dựng và sứ điệp của các tác viên Tin Mừng là cùng một sứ điệp, đó là sứ điệp “Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa”. Như thế, điều mà thánh Phaolô cảm nhận thì thật là lạ lùng! Trình thuật, lời công bố và sứ điệp, vốn là lời sáng tạo như là chúng ta nghe được trong sự thinh lặng của Ngôi Lời, nay bỗng dưng vang vọng trong miệng của thánh nhân, cũng như trong miệng của mọi tác viên loan báo Tin Mừng, trong đó có chúng ta hôm nay.
* * *
Như thế, nếu chúng ta nghe ra sứ điệp được truyền đạt “ngày này cho ngày kia” và “đêm này cho đêm kia” kể từ khởi nguyên của thế giới sáng tạo, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Và ngược lại, nếu chúng ta đón nhận sứ điệp Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp của ngày và đêm. Bởi lẽ, cả hai, công trình sáng tạo và Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô,có cùng một nội dung, đó là Ngôi Lời Thiên Chúa; và
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. (Ga 1, 3)
Cây thấy xanh tươi chưa chắc là đã tốt, nhưng phải là cây cho sinh nhiều hoa trái xinh tươi. Mẹ Maria là hoa trái quí hóa, tuyệt vời của ông bà thánh Gio-a-kim và Anna…
Dù rằng Tin Mừng không ghi lại điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng thánh truyền đã đề cập đến vai trò của hai ông bà Gio-a-kim và Anna. Ta đi ngược dòng lịch sử cứu độ để hiểu hơn vai trò của thánh Gio-a-kim và thánh Anna. Thánh Gio-a-kim và thánh Anna có thể là cầu nối giữa Cựu Ước và Tân ước, giữa Israen cũ và Israen mới. Hai vị thánh này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, chúc phúc và ban nhiều ân huệ quí giá, qua đó, các Ngài sinh ra Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Đức Giêsu…
Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay đề cập đến người gieo giống. Gieo giống là dấu hiệu của hy vọng. Nước Trời như mầm non đang chồi lên từ mặt đất khắp đó đây mà hạt giống ở dưới đất ta đâu có thấy được chúng, ta đâu có nghe được tiếng khi chúng đang tí tách vươn mình lên khỏi đất. Đức Hồng y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý: “Người ta dễ nghe tiếng cây đổ, nhưng có hàng triệu triệu hạt mầm đang tí tách vươn mình khỏi đất, nào ta có nghe được tiếng kêu. Thánh Gio-akim và thánh Anna là những cây tươi tốt, đã từng là những hạt giống tốt xinh, đã hiện diện ở cuộc đời này và sinh ra hoa trái rất tốt tươi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Con Thiên Chúa. Quả thực, chính hạt giống là hai thánh Gio-a-kim và Anna đã chịu thối đi trong lòng đất, nên đã sinh ra hoa trái xinh tươi là Đức Giêsu Kitô.
Thánh Gio-a-kim tượng trưng cho người gia trưởng mẫu mực đạo đức, thánh thiện và luôn sẵn sàng bảo vệ, nâng đỡ bà thánh Anna, còn bà thánh Anna được tôn sùng như mẫu gương của các bà mẹ, đồng thời Hội Thánh tặng cho bà danh hiệu Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Sách ngụy thư của thánh Giacôbê có ghi: “Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà, nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Đức Mẹ trong đền thờ cho Thiên Chúa’’.
Hội Thánh đã chọn ngày 26/7 hằng năm kính nhớ hai thánh Gio-a-kim và Anna. Lòng sùng hai vị thánh này đã có từ cổ xưa và ngày nay đã lan tràn khắp thế giới.
‘‘Lạy thánh Gioakim và thánh Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các Ngài, vì nhờ các Ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Đấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa’’ (lời cầu của thánh Đamascênô).
Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chứoc hai thánh Gioakim và thánh Anna luôn hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Amen.
Gia đình là nền tảng của xã hội, là Hội Thánh thu hẹp trong đó đức tin được toả sáng khắp nơi. Chính vì hiểu rõ vai trò của đời sống gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian theo ý Đức Chúa Cha, Ngài cũng chọn một gia đình để sinh ra. Khi có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của gia đình... Ngài chỉ ra rằng gia đình luôn có vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ của Chúa Giêsu là Maria và Cha của Ngài là thánh Giuse. Maria cũng đã xuất thân trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Cha của Người là thánh Gio-a-kim và Mẹ của Người là bà thánh An-na. Hai ông bà Gioakim và Anna đã một mực tuân theo ý Chúa, một mực làm mọi sự theo khuôn mẫu của Chúa.
THÁNH GIO-A-KIM VÀ THÁNH AN-NA LUÔN TRUNG TÍN VỚI CHÚA:
Đức Maria là hoa quả của hai thánh Gioakim và thánh Anna. Cây tốt sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Xem quả biết cây. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài. Đọc lại Kinh Thánh, ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch, và cuộc sống của hai thánh Gioakim va Anna là song thân của Mẹ Maria. Nhưng các Thánh Truyền cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây là hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna. Cái phúc mà song thân của mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà như lời Tv 23, 5 đã viết: “ Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương”. Thiên Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt và Maria là con hai ông bà đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Chính nhờ phúc lành Hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người.
NHÂN LOẠI ĐƯỢC HẠNH PHÚC:
Ngay trong ca nhập lễ, lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, Hội Thánh đã ca rằng: ”Chúng ta hãy ngợi khen thánh Gioakim và thánh Anna nơi con cháu các Ngài, vì qua các Ngài, Chúa đã ban phúc lành cho muôn dân“. Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa: “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe (Mt 13, 16-17). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.
Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.
Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gioakim và thánh Anna được diễm phúc sinh hạ Đức Maria là Thánh mẫu của Đức Kitô, Con Chúa nhập thể. Xin nhận lời hai thánh chuyển cầu cho chúng con được hưởng ơn cứu độ, Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioakim và Anna song thân Đức Maria).
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài. Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:
Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?
Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề, nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách, và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó, để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. “Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con” Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".
Vâng Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu này do Văn sĩ Marie Noel viết:
Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:
"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".
Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: “Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi”.
Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.
Thánh Gioakim và Thánh Anna là song thân của Đức Mẹ, tức là Ông Bà Ngoại của Chúa Cứu Thế Giêsu. (Xin được mở ngoặc: Thấy có một số người thường viết lộn hoặc đọc sai là Gioan-kim).
Tên Gioakim được tạo bởi chữ YHWH (tiếng Do thái: יְהוֹיָקִים Yəhôyāqîm, tiếng Hy Lạp: Ἰωακείμ Iōākeím), nghĩa là “sự chuẩn bị của Gia-vê”.
Thánh Gioakim là Phu quân của Thánh Anna và là Thân phụ của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Chúa Giêsu, theo truyền thống Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Anh giáo. Câu chuyện về Thánh Gioakim and Anne first appears in the apocryphal Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Thánh Gioakim và Thánh Anna không được nhắc tới trong Kinh Thánh.
Hai Ông Bà được Giáo hội kính nhớ vào ngày 26 tháng Bảy hằng năm. Đây là ngày lễ của những người đã làm ông bà (nội hay ngoại). Lễ này nhắc nhớ quý ông bà nội ngoại về trách nhiệm xây dựng các thế hệ tương lai, phải tạo truyền thống gia phong lễ giáo như phần di sản đạo đức làm của hồi môn cho cháu chắt. Tuy nhiên, lễ này cũng là lời nhắn nhủ dành cho thế hệ trẻ: Phải tôn kính người lớn hơn mình, nhất là những người già, phải biết trải nghiệm, đánh giá cao cuộc sống chứ không được coi nhẹ hoặc làm ngơ.
Gia phả của Chúa Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Luca không nói rõ tên cha mẹ của Đức Maria, nhưng có liệt kê tên các người cha của Đức Thánh Giuse, nhiều học giả trong nhóm của John ở Damascus (thế kỷ 8), và đặc biệt là các học giả Tin lành, tranh luận rằng gia phả trong Phúc Âm theo Thánh Luca mới đúng là phả hệ của Đức Mẹ, và Heli là cha. Để giải quyết vấn đề Đức Thánh Giuse có hai người cha – một thuộc dòng dõi Vua Salomom, hậu duệ của Nathan, con Vua Đa-vít, truyền thống từ thế kỷ 7 xác định rằng Heli là anh em họ đầu tiên của Thánh Gioakim.
Theo truyền thống, Bà Anna sinh tại Belem, kết hôn với Ông Gioakim người Nadaret, cả hai đều là dòng dõi Thánh vương Đa-vít. Trong Protoevanggelium of James, Thánh Gioakim được mô tả là người giàu có và đạo đức, thường giúp đỡ người nghèo và tới Đền thờ tại Sepporis. Truyền thống nói rằng cha mẹ của Đức Maria mới đầu sống ở Galilê, sau đó định cư ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Bà Anna là phụ nữ son sẻ, Ông Gioakim bị các thầy thượng tế sa thải và từ chối lễ vật hy sinh của ông, vì việc Bà Anna không có con được hiểu là việc không đẹp lòng Chúa. Ông Gioakim rút vào hoang địa để ăn chay và đền tội 40 ngày. Lúc đó các thiên thần hiện ra hứa với Ông Bà Gioakim và Anna là sẽ có con nối dõi. Sau đó, Ông Gioakim trở lại Giêrusalem và đón Bà Anna tại cổng thành. Có niềm tin cổ cho rằng đứa con sinh bởi người mẹ già là đã được tiền định về điều gì đó kỳ lạ. Trong Cựu ước có trường hợp của Bà Hannah, Thân mẫu của Ngôn sứ Samuel.
Truyền thuyết liên quan Ông Bà Gioakim và Anna có trong “Cổ Tích Vàng” (Golden Legend) và vẫn phổ biến trong nghệ thuật Kitô giáo cho tới khi Công đồng Trentô xác nhận đó là các sự kiện ngụy tạo.
Phụng vụ theo lịch Tridentine không có lễ Thánh Gioakim. Lễ này được thêm vào Công Lịch Rôma từ năm 1584, mừng vào ngày 20-3, ngay sau lễ Đức Thánh Giuse Phu quân Đức Mẹ. Năm 1738, lễ này được chuyển sang Chúa nhật sau tuần bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Với nỗ lực để Phụng vụ các Chúa nhật được ử hành, ĐGH Piô X đã chuyển lễ này sang ngày 16 tháng Tám, sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu, để Thánh Gioakim được kính nhớ trong khi cử hành cuộc khải hoàn của Đức Mẹ. Trong lịch các thánh của Giáo hội Công giáo Rôma (năm 1969), lễ Thánh Gioakim được mừng chung với Thánh Anna vào ngày 26 tháng Bảy.
Giáo hội Chính thống Đông phương và Công giáo Hy Lạp kính nhớ Thánh Gioakim và Thánh Anna vào ngày 9 tháng Chín. Thánh Gioakim và Thánh Anna là thánh bổn mạng của các cha mẹ, các ông bà nội ngoại, những người kết hôn, những người đóng tủ và những người buôn vải. Có một số biểu tượng gắn liền với Thánh Gioakim: Cuốn sách hoặc cuộn giấy tượng trưng người dệt vải, chiếc gậy chăn chiên tượng trưng chữ nghĩa của Kitô giáo, và cái rổ đựng đôi chim bồ câu tượng trưng sự hòa bình. Thánh Gioakim thường có trang phục màu xanh lá cây, màu của niềm hy vọng.
Trong Kinh thánh, hai Thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của Giao ước (những lời hứa). Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả Ông Bà Ngoại Gioakim và Anna cũng chỉ được nhắc tới sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.
Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ bầu khí gia đình liên quan Đức Maria trong Kinh thánh. Dựa vào truyền thuyết thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ của những con người cầu nguyện, chính Đức Mẹ đã say đắm cầu nguyện theo truyền thống tôn giáo.
Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria thể hiện khi quyết định “xin vâng” (Lc 1:38), liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân (Lc 1:39-45) – cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.
Ông Bà Gioakim và Anna biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, sống đức tin và thiết lập môi trường tốt lành cho Đấng Thiên Sai tới.
Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.
Thánh Ðamascênô ca tụng thánh GioaKim và thánh Anna như sau: "Lạy thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài, vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa”.
A. CÁC THÁNH CA NGỢI
Trong tâm tình ngày lễ của thánh Gioakim và thánh Anna, Bác Tài xin mượn mấy lời ca tụng của thánh Đamascênô để chia sẻ với các chị về thánh Gioakim và thánh Anna.
1. Thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc...
Dù là Thiên Chúa thì Ngài cũng vẫn phải có kế hoạch lâu dài để cứu nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi mà tên đầu sỏ là satan, kế hoạch của Thiên Chúa chỉ được rõ ràng nơi hai con người trổi vượt trên tất cả con cái Adong và Eva, đó là Đức Trinh Nữ Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Trong ý định của Thiên Chúa, thánh Gioakim và thánh Anna là hai con người được chọn cách đặc biết để từ nơi các ngài mà chương trình của Thiên Chúa từ từ ló dạng như ánh mặt trời ló dạng ở phương đông. Là con người của Cựu Ước được gọi là người công chính, thánh Gioakim và thánh Anna đã trở nên đôi bạn đời gương mẫu thánh thiện, là nơi ươm mầm sự hoàn thiện của con gái các ngài: Đức Trinh Nữ Maria.
Sự thánh thiện này được gói trọn trong hai chữ hạnh phúc mà các thánh trong Giáo Hội đã ca tụng các ngài, hạnh phúc vì các ngài đã trở nên mẫu gương cho những bậc làm cha mẹ, hạnh phúc vì các ngài đã sống và dạy con cái sống theo ý của Thiên Chúa trở nên những con người biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Sống đôi bạn, cái mà những người vợ người chồng tìm kiếm là sự hạnh phúc thật, hạnh phúc này không xây dựng trên tiền tài danh vọng, không đặt trên nền tảng học thức hay bất cứ công cụ nào của loài người, nhưng được đặt trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu này đã làm cho gia đình trở thành vườn ươm mầm hạnh phúc nơi con cái, và từ nơi hạnh phúc này mà xã hội được bình an vì có những con người thánh thiện phục vụ.
Thánh Gioakim là người cha gương mẫu biết dạy dỗ con cái, là người chồng biết kính sợ Thiên Chúa; thánh Anna là người mẹ hiền lành đầy lòng nhân ái, là người vợ biết phục tùng chồng và cùng với chồng xây dựng hạnh phúc.
Nhờ những đức tình này của cha mẹ mà Đức Trinh Nữ Maria đã trở thành một thiếu nữ đoan trang thánh thiện, và nhờ sự giáo dục theo tinh thần kính mến Thiên Chúa và yêu thương này, mà Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài.
Hạnh phúc thay cho đôi bạn Gioakim và Anna, bởi vì Thiên Chúa đã chọn các ngài để thực hiện mầu nhiệm yêu thương của Ngài là cứu chuộc nhân loại.
2. Tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài...
Giáo Hội thay mặt cho toàn thể nhân loại từ nguyên tổ Adong Eva cho đến hết mọi thời đại tri ân thánh Gioakim và Anna, bởi vì chính nơi gia đình bé nhỏ nhưng rất hạnh phúc vì ngập tràn ân sủng của Thiên Chúa này, đã trổ một cành hoa đẹp tuyệt vời để trở thành Mẹ của Giáo Hội là Đức Trinh Nữ Maria, bởi vì Giáo Hội là gia sản quý báu của Chúa Giêsu tại trần gian, bởi vì Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Giêsu, và hơn tất cả mọi loài thụ tạo, Giáo Hội dâng niềm tri ân kính mến lên Thiên Chúa vì tình thương của Ngài đã ban cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể loài người.
Tất cả mọi tạo vật đều phải cám ơn các ngài, bởi vì tổ ấm gia đình của ngày hôm nay có nguy cơ tan vỡ, có nguy cơ biến thành hỏa ngục khi cha mẹ và con cái “mạnh ai nấy sống”, thì tấm gương sáng cho bậc làm cha mẹ đã có chính là thánh Gioakim và thánh Anna.
Thánh Anna, một bà mẹ “tiền Công Giáo” đã sống đúng với những gì mà Chúa Giêsu đã dạy, bởi vì chính thánh nữ đã sinh đã dưỡng dục Đức Trinh Nữ Maria trở thành một mẫu gương cho mọi người nữ trong nhân loại, ảnh hưởng của người mẹ trên con cái như thế nào, thì hôm nay các nhà khoa học và các nhà đạo đức học cũng như các nhà giáo dục đã chứng minh cho nhân loại thấy rất rõ ràng rằng: người mẹ là thầy dạy và có ảnh hưởng rất lớn trên con cái, từ nhân cách cho đến đời sống nội tâm của đứa trẻ, đa phần là chịu ảnh hưởng của người mẹ...
Nhưng cái quan trọng hơn để cám ơn thánh Gioakim và thánh Anna chính là đã cống hiến cho nhân loại một con người tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria, và nơi cung lòng của người trinh nữ này mà Con Thiên Chúa đã giáng trần cứu chuộc nhân loại. Thật hạnh phúc và cũng thật vinh quang cho toàn thể nhân loại khi được Thiên Chúa đoái mắt nhìn đến mà chọn Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1, 46-56) làm mẹ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu.
Thánh Anna là một người phụ nữ như tất cả những người phụ nữ Do Thái khác thời ấy, ngài cũng lao động, cũng chân chất trong lời nói và việc làm, cũng lo săn sóc chồng con, cũng vui vẻ giao tiếp với mọi người, cũng tuân giữ lể luật cha ông và cũng trông đợi Đấng cứu thế đến như bao người Do Thái khác, nhưng lòng kính mến Thiên Chúa và yêu thương người của bà chắc chắn là trổi vượt trên tất cả những người phụ nữ khác, và chỉ nhờ có thế mà Thiên Chúa đã chọn gia đình của ngài để thực hiện chương trình cứu chuộc nhân loại của Ngài.
Mọi tạo vật đều cám ơn các ngài vì thánh Gioakim và thánh Anna không làm những gì vĩ đại để Thiên Chúa chọn, các ngài chỉ lo chu toàn bổn phận hàng ngày của mình -một linh đạo đơn sơ mà hiệu quả- cách can đảm và là một mẫu gương cho loài người noi theo. Cám ơn vì những việc làm nhỏ mà con người phải làm đã đánh động đến tình yêu Thiên Chúa, cám ơn là vì Thiên Chúa cũng không “kén chọn” cái vĩ đại của con người để thực hiện ý định của mình, nhưng đã chọn cái thấp hèn để làm nên việc vĩ đại của mình như lời Đức Trinh Nữ Maria đã tán dương qua bài Magnificat (Lc 1, 46-49).
3. Vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất không phải là vàng, nhủ hương, mộc dược, nhưng chính là tâm hồn thành tâm thiện chí của chúng ta.
Thánh Gioakim và thánh Anna là những con người bình dân giản dị, thế nhưng đã dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, cao trọng vì trước hết các ngài không đòi hỏi cô con gái cưng của mình phải lập gia đình để sinh con cái và để được Thiên Chúa chúc phúc, cao trọng là vì các ngài đã biết nhìn ra ý Thiên Chúa trong đời sống của cô con gái nhỏ của mình: cuộc sống thánh hiến cách đặc biệt giữa một dân tộc mà truyền thống “ở một mình” thì coi như bị Thiên Chúa chúc dữ bỏ rơi, các ngài đã can đảm và (có lẽ) cũng đã nghe những tiếng bàn tán xì xào về cách sống đồng trinh thánh thiện của con gái mình nơi người hàng xóm, những lời bàn tán ấy sẽ là những lời ca ngợi trước mặt Thiên Chúa của các tổ tông và các thánh tiên tri.
Cao trọng là vì các ngài đã đem “con gái ruột” cục cưng của mình dâng hiến cho Thiên Chúa mà không đòi một điều kiện nào, con gái cưng là núm ruột của hai ông bà, là niểm vui và an ủi của tuổi già cô đơn, chính cái dâng hiến này đã trở thành lễ vật cao trọng làm cho Thiên Chúa không những thưởng công cho hai ngài mà thôi, mà còn thưởng công cho cả vũ trụ được tham dự vào phần phúc vĩnh cữu trên trời với Ngài, đó chính là Thiên Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Đấng Đồng Công cứu chuộc nhân loại với Chúa Giêsu: chịu đau khổ trong tâm hồn khi con mình bị đóng đinh và chết trên thập giá.
Thánh Gioakim và thánh Anna là loại thụ tạo, cho nên có thể nói, các ngài thay mặt cho loài thụ tạo dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng -như lời thánh Đamascenô đã ca ngợi- là Đức Trinh Nữ Maria, và chính nhờ lễ vật nầy mà nhân loại được cừu rỗi, được tham dự vào sự sống đời đời với Thiên Chúa trong Đức Kitô, con của Đức Trinh Nữ Maria.
Tình yêu được đáp trả bằng tình yêu, lễ vật được đáp trả bằng lễ vật, bởi loài thụ tạo -thánh Gioakim và thánh Anna- đã không ngần ngại dâng lên Đấng tạo dựng món quà quý nhất của mình là cô con gái nhỏ bé Maria, đáp lại Thiên Chúa -Đấng tạo dựng- cũng đã không ngần ngại trao ban Con Một của mình là Đức Giêsu cho nhân loại để trở nên của lễ cứu chuộc đẹp lòng Cha mọi đàng. Đây là tinh thần “tiền tu đức” phó thác vào Thiên Chúa mà chính thánh Gioakim và thánh Anna đã sống và thực hiện trong cuộc sống của các ngài, và chắc chắn rằng, sau này sự khiêm tốn và phó thác vào Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria cũng được phát xuất từ nơi song thân của mình...
Đức Trinh Nữ Mẹ Maria là hoa quả tình yêu của thánh Gioakim và thánh Anna, là đóa hoa tuyệt mỹ của trời cao được Thiên Chúa tuyển chọn
B. GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO
Thánh Gioakim và thánh Anna đã trở thành mẫu gương thánh thiện cho các gia đình công giáo, mà cụ thể là đời sống tốt lành của các ngài.
Gia đình hôm nay chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu văn minh và hưởng thụ, nền tảng gia đình có nguy cơ sup đổ vì trong gia đình vắng bóng tình yêu của Thiên Chúa, mặc dù cha mẹ có những lúc biết điều ấy mà không thể nào làm cho hoàn cảnh tốt hơn, vì chính bản thân của họ cũng không thể tốt hơn khi vì công việc làm ăn hoặc vì thích sống cho mình hơn là quan tâm đến con cái và những người trong gia đình, đó chính là nguyên nhân đưa đến sự thờ ơ với đời sống tín ngưỡng cũng nhứ với đức tin mà mình đã lãnh nhận trong Chúa Kitô nơi Hội Thánh của Ngài.
Thánh Gioakim và thánh Anna là người cha và người mẹ của con cái, là người chồng người vợ trong gia đình như tất cả những đôi vợ chồng khác trên thế gian, nhưng các ngài đã trở nên những người có phúc, có phúc vì đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, có phúc vì các ngài đã nuôi nấng và dạy dỗ con cái theo như ý muốn của Thiên Chúa, hạnh phúc vì các ngài đã không tiếc công lao nuôi dưỡng để rồi đem con yêu quý của mình dâng cho Thiên Chúa để Ngài làm theo như thánh ý của Ngài.
Với ba cái hạnh phúc trên, các gia đình Công Giáo có thể noi gương sáng của các ngài để trở nên người hạnh phúc:
1. Sống đẹp lòng Thiên Chúa.
Sống đẹp lòng Thiên Chúa, ngoài việc tuân giữ lề luật của Ngài, thì thánh Gioakim và thánh Anna còn sống đẹp lòng mọi người bên cạnh. Trong gia đình cha mẹ là người thay mặt Thiên Chúa để dạy dỗ con cái, thay mặt Thiên Chúa tức là người của Thiên Chúa và làm theo lời dạy của Thiên Chú, do đó mà cha mẹ có trách nhiệm lớn lao trước mặt Thiên Chúa trong việc quản lý gia đình.
Trong gia đình cha mẹ sống đẹp lòng Thiên Chúa như hai thánh Gioakim và Anna đã sống, tức là tự bản thân mình phải chu toàn lề luật Thiên Chúa cách trọn hảo như là một mẫu mực cho con cái noi theo. Cha mẹ biết yêu mến lời Thiên Chúa thì chắc chắn con cái sẽ yêu mến nghe lời cha mẹ dạy; cha mẹ sống yêu thương và biết giúp đỡ mọi người thì con cái chắc chắn sẽ biết thương yêu nhau và biết phục vụ người khác; cha mẹ biết răn dạy con cái theo tinh thần Phúc Âm thì con cái sẽ trở nên người có ích cho Giáo Hội cũng như cho xã hội...
Sống đẹp lòng Thiên Chúa như hai thánh Gioakim và Anna không phải là cái gì quá cao vời không thể bắt chước, nhưng với ơn Thiên Chúa giúp, với việc năng đón nhận các ơn lành của Thiên Chúa qua việc tham dự các bí tích thì sẽ làm được, và xét cho cùng, chúng ta hơn hẳn hai thánh Gioakim và Anna về mọi phương diện để được sống đẹp lòng Thiên Chúa, đó là các bí tích, nhất là bí tích Giải Tội và bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta là để chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa vậy.
Phải chăng thánh Gioakim và thánh Anna đã thấm nhuần giáo huấn của Sách Huấn ca, nên các ngài đã sống cuộc đời rất đẹp lòng Thiên Chúa:
“Kính sợ Thiên Chúa đem lại vinh quang và tự hào hân hoan và phấn khởi. Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỷ mừng vui Và an khang trường thọ. Ai kính sợ Thiên Chúa sẽ thấy uộc đời kết thúc tốt đẹp, ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành" (Hc 1, 1-13).
Và chỉ những người có lòng kính sợ Thiên Chúa mới biết sống đẹp lòng Ngài, đó chính là gốc rễ của sự ngôn ngoan vậy (Hc 1, 20).
2. Nuôi và dạy dỗ con cái.
Theo truyền thống kể lại thì thánh Gioakim và thánh Anna chỉ có một người con gái, đó là cô Maria, sau này đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu.
Dạy dỗ con cái theo tinh thần của lề luật như hai thánh Gioakim và Anna là điều rất dễ hiểu, bởi vì chính bản thân của hai ngài cũng đã làm gương tuân giữ lề luật của Thiên Chúa cách trọn vẹn nên cô bé Maria đã trở thành một thiếu nữ phẩm hạnh vượt trên tất cả người phụ nữ (Lc 1, 42) của mọi thời đại, đó là một hạnh phúc lớn cho cha mẹ và cho gia đình.
Thời nay, có nhiều bậc làm cha mẹ không mấy chú trọng vào việc dạy dỗ con cái theo tinh thần Phúc Âm nên gia đình thường có nhiều phiền não, cuộc sống xô bồ đã làm cho cha mẹ chỉ chú trọng đến việc ăn mặc của các con mà không chú trọng đến việc con cái mình sống ra sao, cho nên con cái thường đi ra ngoài tầm kiểm soát của cha mẹ mà -đôi lúc- cha mẹ biết con cái đã đi vào con đường xấu mà không dạy dỗ, hoặc có chăng thì cũng chỉ là hỏi qua loa vài chuyện, cùng lắm thì nạt nộ to tiếng rồi thôi, đó chính là bảo ban không đúng lúc như sách Huấn Ca đã nói:
“Bảo ban không đúng lúc tựa như hòa nhạc giữa đám tang,
nhưng roi vọt và lời răn đe là khôn ngoan mọi lúc.
Thánh Gioakim và thánh Anna đã làm tròn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con cái mình, hai ngài đã giáo dục Đức Maria trở nên một thiếu nữ đạo hạnh và biết kính sợ Thiên Chúa.
Hạnh phúc nhất của cha mẹ là khi con cái trưởng thành nên người có ích cho mọi người, hạnh phúc này là một bảo đảm cho tuổi già an vui khi các ngài nhìn thấy con cái cháu chắt sống đùm bọc yêu thương nhau trước ngày mình nhắm mắt về với Thiên Chúa. Đây là một phần thưởng “nhãn tiền” mà Thiên Chúa dành cho những người biết kính sợ Ngài, biết tuân giữ giới răn của Ngài trong cuộc sống của họ.
3. Dâng con cho Thiên Chúa.
Như Abel dâng lên Giavê Đức Chúa những hoa quả đầu mùa tốt tươi với tấm lòng chúc tụng và biết ơn, thánh Gioakim và thánh Anna đã dâng con gái yêu quý của mình cho Thiên Chúa trong niềm tin yêu và phó thác.
Thói quen tốt lành của những cha mẹ Công Giáo là sau khi con mình được lãnh bí tích Rửa Tội thì ẳm con đi thẳng qua bàn thờ Đức Mẹ mà dâng con cho Mẹ, nếu thói quen tốt lành này cha mẹ mỗi ngày đều lập lại dâng con mình cho Thiên Chúa và cho Mẹ Maria thì con cái sẽ không lệ thuộc về thế gian, nghĩa là không trở thành những đứa con hư hỏng nguy hiểm cho xã hội.
Không phải dâng con một lần trong ngày Rửa Tội, nhưng phải dâng con liên lĩ trong suốt cuộc đời của chúng nó. Thánh Gioakim và thánh Anna chắc chắn là đã làm điều này, khi mà đứa con gái mình mới tám tuổi đầu đã quyết tâm hiến dâng cuộc đời phục vụ Thiên Chúa nơi đền thánh, cô Maria sẽ không làm được như thế nếu cha mẹ của cô không có đời sống đạo đức, không có sự thành tâm dâng hiến con mình cho Thiên Chúa...
Dâng con thì cũng giống như dâng cả cuộc đời của mình cho con, có nhiều cha mẹ thời nay đã than thở rằng: “Chúng tôi đã dâng nó cho Thiên Chúa và Mẹ Maria, nhưng sao nó vẫn khong nghe lời chúng tôi nói, cứ theo bạn bè xấu...”- Vẫn có những người con không biết nghe lời cha mẹ, vẫn có những người con thờ ơ dửng dưng với tín ngưỡng mà mình đã đón nhận, thậm chí còn có những người con chối bỏ đức tin của mình, tất cả những điều tệ hại đang xảy ra ấy không phải hoàn toàn vì lỗi chúng nó, nhưng trước hết cha mẹ phải kiểm thảo lại mình đã làm tròn bổn phận của cha mẹ chưa, bổn phận của cha mẹ không phải chỉ nuôi nấng cho con cái ăn học rồi thôi, nhưng còn là phải làm cho chúng nó biết ngoài cái ăn cái mặc cái học còn có một cái cao quý hơn nhiều, đó chính là linh hồn vô cùng cao quý của chúng nó, phải nói cho con cái biết rằng linh hồn chúng nó đã được chuộc lại từ trong tay của ma quỷ bằng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá...
C. DÂNG HIẾN CỦA ĐỜI TU
Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi nên thánh, nghĩa là được mời gọi tham dự vào đời sống của Thiên Chúa ngay tại trần gian này trong bổn phận của mình như hai thánh Gioakim và thánh Anna đã sống.
Mỗi người trong chúng ta, dù ở trong cương vị nào cũng nên học gương lành của các ngài.
Chúng ta cũng đem tinh thần dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna vào trong đời sống tu trì của mình: dâng hiến “đứa con” duy nhất của mình là “”cái tôi” cho Thiên Chúa: “đứa con” này chúng ta yêu quý hơn tất cả mọi thứ trên trần gian, và vì nó mà con người phải bất chấp tất cả, kể cả phạm pháp, để làm thỏa mãn nó, do vậy, khi chúng ta chọn đời sống tu trì là chúng ta đem “cái tôi’ yêu dấu của mình dâng cho Thiên Chúa mà không một chút buồn phiền. “Cái tôi” này chính Thiên Chúa đã để sẵn trong mỗi một con người từ khi tạo dựng để con người được luôn hướng thiện về Thiên Chúa, nhưng sau khi nguyên tổ phạm tội thì “cái tôi” này đã trở thành kẻ phản kháng Thiên Chúa và tất cả những gì tốt đẹp của Ngài đã làm cho loài người.
Đi tu là dâng hiến “cái tôi” đứa con ruột của mình: đứa con này cũng đã nhiều lần nổi loạn trong mỗi người tu sĩ khi mà họ không nhìn thấy lý tưởng trong đời sống tu trì. Đem “cái tôi” dâng cho Thiên Chúa để tùy ý Ngài hoàn thành cho nó theo thánh ý vô biên của Ngài là một hy sinh vô cùng lớn lao, mà hai thánh Gioakim và Anna đã làm khi dâng đứa con ruột của mình là Maria cho Thiên Chúa.
Người đời nhìn vào các tu sĩ nam nữ (nhất là các nữ tu) thì họ nhận ra ngay cái “không” lớn nhất của họ, đó là không gia tài sự nghiệp, nhưng họ thấy ngay cái phong phú trong cái không ấy của các tu sĩ đó là sự dâng hiến toàn vẹn cho Thiên Chúa, người ta bội phục và yêu mến các tu sĩ nam nữ vì họ đã anh dũng can đảm dâng “cái tôi” của mình cho Thiên Chúa (cái tôi mà chính họ cũng có nhưng họ không bao giờ dám dâng hiến) để sống như ý muốn của Ngài tại trần gian này.
Tinh thần dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna đã ảnh hưởng trên Mẹ Maria như thế nào, thì hôm nay cũng ảnh hưởng trên các nữ tu -con cái của Mẹ- như vậy. Bởi vì khi chọn Mẹ Maria là Mẹ của mình và là Bà Hoàng của mình thì các nữ tu cũng sẽ học đòi các nhân đức như Mẹ vậy, bởi vì khi muốn mình trở nên nữ tỳ của Mẹ thì các nữ tu cũng sẽ sống đời tận hiến trong tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria vậy.
Của lễ dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna là Đức Maria con gái độc nhất của mình.
Của lễ dâng hiến của Mẹ Maria là Đức Giêsu con trai độc nhất của mình.
Của lễ dâng hiến của các tu sĩ nam nữ là “đứa con” của mình: cái tôi.
Tuy nhiên tất cả các của lễ dâng hiến trên đây sẽ không được toàn vẹn nếu không có “sự hiến dâng trọn vẹn” của Chúa Giêsu lên Chúa Cha để cứu chuộc toàn thể nhân loại qua mọi thời đại...
D. KẾT
Mỗi năm một lần, cứ đến ngày 26.7 là Giáo Hội mừng lễ kính hai thánh Gioakim và thánh Anna, để ca ngợi tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và quyền năng, đã chọn hai ngài làm nơi âm thầm ươm mầm sự cứu độ cho nhân loại là Đức Trinh Nữ Maria, để qua Mẹ mà nhân loại được đón nhận Ánh Sáng Tin Mừng và ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu.
Mừng lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna chúng ta cần phải học hỏi gương lành của các ngài:
- Các bậc cha mẹ học gương các ngài để chăm sóc và dạy dỗ con cái theo ý của Thiên Chúa.
- Sống bậc vợ chồng noi gương các ngài sống tôn trọng và yêu thương nhau.
- Các tu sĩ nam nữ học nơi các ngài sự dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa, để trở nên của lễ đẹp lòng Ngài.
“Kính lạy hai thánh Gioakim và Anna, xin cầu bàu cho chúng con là những người làm cha làm mẹ trong gia đình, biết nuôi nấng dạy dỗ con cái sống làm người Kitô hữu tốt lành; xin dạy chúng con là những người dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa để phục phục Ngài trong tha nhân, biết quãng đại hy sinh tất cả để trở thành công cụ loan truyền tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người...Amen.
--Nhóm Châu Kiên Long (Chấu Đốc, Kiên Giang, Long Xuyên – GHHV, nhóm dịch thuật và sưu tầm Gp. Long Xuyên)
Mặc dầu Phúc Âm không nói gì đến đời sống của hai đấng, nhưng căn cứ vào thánh truyền, chúng ta có thể đi ngược dòng thời gian để tìm hiểu những dấu tích.
Các ngài đã tạo thành một móc xích, nối kết Israel cũ và Israel mới, nối kết Cựu Ước và Tân Ước. "Các ngài đã nhận lãnh phúc lành của Thiên Chúa" và "nhờ các ngài, phúc lành được hứa cho mọi dân tộc đã đến với chúng ta".
Các ngài đã sinh ra Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Con Thiên Chúa. Vì thế, thánh Ðamascênô ca tụng hai đấng như sau: "Lạy thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài, vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Cha mẹ của Đức Trinh nữ Maria, tức ông bà ngoại của Chúa Giêsu, đã không được nêu lên trong Tân Ước, cũng không có trong bản gia phả của Phúc Âm thánh Mátthêu, cũng như của Thánh Luca.
Danh tánh Gioakim và Anna được gặp thấy lần đầu tiên trong một tác phẩm ngụy thư được viết để tôn kính Đức Trinh nữ Maria vào khoảng năm 200. Danh tánh bà Anna (Hanna) gợi cho chúng ta nhớ đến người mẹ của tiên tri Samuen (x. 1Sm 1); bà được chồng yêu mến và được Thiên Chúa chúc phúc.
Thánh Anna được Giáo Hội Đông Phương tôn kính từ thế kỷ thứ V; và hiện tại, người Hy Lạp hằng năm vẫn kính nhớ trong 3 ngày lễ. Lễ kính thánh Anna được phổ biến ở Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ X. Thánh Gioakim thì mãi đến thế kỷ XVI mới thấy xuất hiện.
Dù vậy, có một sự lên xuống trong thánh lễ mừng kính hai vị thánh này:
- Đức Thánh Cha Piô V (+ 1572) loại bỏ thánh lễ kính thánh Anna;
- Đức Thánh Cha Giêgôriô XIII (+1585) cho tái lập lại;
- Đức Thánh Cha Giêgôriô XV (+ 1623) lại loại bỏ;
- Đức Thánh Cha Lêô XIII (+ 1903) cho tái lập và nâng lên bậc II;
Từ đó phụng vụ có:
- Ngày 26 tháng 7 mừng lễ thánh Anna.
- Ngày 16 tháng 8 mừng lễ thánh Gioakim.
Đức Thánh Cha Phaolô VI (+ 1978) canh tân phụng vụ, từ đó hai vị thánh được mừng chung vào ngày hôm nay: Ngày 26/07 hàng năm.
Ngày lễ song thân Đức Trinh Nữ Maria trùng với ngày cung hiến Đại Thánh Đường Thánh Anna ở Constantinople vào khoảng năm 550. Từ thế kỷ XIII, lễ này đã phổ biến sang phương Tây qua các đoàn thập tự chinh, nhưng mãi đến 1584 mới thấy xuất hiện trong sách lễ Roma. Còn lễ Thánh Gioakim thì mãi 1522 mới thấy nhập vào phương Tây. Việc kết hợp hai lễ riêng lẻ này thành một lễ kính “ông bà” của Đức Giêsu, tức là hai vị “công chính” Gioakim và Anna, đã thấy xuất hiện trong phụng vụ dòng Phan Sinh vào ngày 20 tháng Ba, rồi vào nhiều ngày khác. Tại phương Đông, lịch Byzance mừng kính các Thánh Gioakim và Anna vào ngày 9 tháng Chín, ngày tiếp sau lễ sinh nhật Đức Maria, theo tập quán muốn mừng cha mẹ vì đã sinh con. Từ năm 1968, song thân của Đức Maria được mừng chung. Tất cả những gì chúng ta biết về các ngài là nhờ cuốn Ngụy Phúc Âm của Giacôbê, một bản ngụy kinh thuộc thế kỷ II, trong đó kể rằng, Đức Maria đã được sinh ra cách kỳ diệu do hai cha mẹ son sẻ: sứ thần báo tin cho ông Gioakim sau khi ăn chay bốn mươi ngày, rằng lời nguyện của ông được chấp nhận, trong khi Bà Anna đứng đợi ông nơi Cửa Vàng ở Jérusalem.
Thánh Anna được đặc biệt tôn kính ở làng Sainte Anne d’Auray (Bretagne) và làng Sainte Anne de Beaupré (Canada).
2. Thông điệp và tính thời sự
Cac lời nguyện trong Thánh Lễ lấy từ sách lễ Paris 1738, nhấn mạnh hai điểm cùng có trong những bản văn phụng vụ khác.
Lời nguyện trong ngày và lời nguyện trên lễ vật mừng song thân Đức Maria, Đấng mang ơn cứu rỗi đến cho chúng ta cũng như mang “lời chúc phúc đã hứa cho Abraham và miêu duệ Người”. Đây chính là sự tiếp nối nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa, ý định này đã được thực hiện từ Abraham, qua các tổ phụ trong niềm tin, đến với hai thánh Gioakim và Anna, đến Đức Maria con của các ngài và Đức Giêsu Con Mẹ. Thiên Chúa vẫn trung thành suốt chuỗi dài các thế hệ đó, nhờ thế chúng ta cũng được hưởng những ân huệ trong sự cứu rỗi muôn đời và trong lời chúc phúc đã hứa với Abraham và miêu duệ Ông.
Lời nguyện hiệp lễ nhấn mạnh mầu nhiệm này: Thiên Chúa đã muốn Con Một mình “sinh bởi một gia đình nhân loại”. Quả thế, qua việc chọn dân riêng, Chúa đã tặng cho toàn nhân loại ơn cứu rỗi, nhân loại mà Người là thành viên không thể chia lìa. Vì thế đích thân Thiên Chúa trở thành liên đới với loài người.
Trong Phụng vụ Bài đọc, bài giảng của Thánh Gioan Đamascênô lấy lại tư tưởng đó: “Thánh Gioakim và Thánh Anna là cặp vợ chồng thanh khiết! Khi các ngài tuân giữ sự khiết tịnh trong luật lệ tự nhiên, các ngài đã được thưởng điều vượt quá những gì thiên nhiên ban tặng, đó là đã sinh ra cho thế gian Đấng không ăn ở với chồng nhưng sẽ là Mẹ Thiên Chúa”.
Hôm nay phụng vụ mừng kính song thân Đức Mẹ là thánh Gioakim và Anna. Các ngài là ông bà ngoại của Đức Giêsu. Cuộc đời của các ngài rất âm thầm đến nỗi không có một trang Tin Mừng nào nhắc đến.
Trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, thánh Anna cũng có những lúc thăng trầm trong phụng vụ, tức là ngài được Giáo Hội thiết lập ngày lễ mừng nhưng rồi lại bỏ và cuối cùng, Đức Lêo XIII (+ 1903) cho tái lập lại. Đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI (+ 1978), khi canh tân phụng vụ, ngài mới cho phép mừng chung với thánh Gioakim vào ngày 26-7 như hiện nay.
Mỗi lần nhắc đến song thân Đức Maria, chúng ta có quyền hiểu rằng: các ngài là người công chính, được Thiên Chúa yêu thương, bởi lẽ các ngài là người sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế là Mặt Trời Công Chính.
Các ngài còn là người cha, người mẹ mẫu mực về đời sống đạo đức và trung thành với Thiên Chúa. Tại sao lại nói được như vậy? Thưa, bởi vì chúng ta cứ xem quả thì biết cây. Cây nào sinh trái đó. Cây xấu không sinh được trái tốt và cây tốt không thể sinh ra trái xấu. Quả thật, Đức Maria là người đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương và tiền định cho làm mẹ Đấng Cứu Thế, vì vậy, Đức Giêsu không thể sinh ra bởi một người mẹ bất toàn được.
Mừng lễ Gioakim và Anna hôm nay, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi hai đấng trong mầu nhiệm cứu chuộc, đồng thời cũng biết noi gương các ngài để lại, nhất là gương sáng về đời sống đạo đức và gương mẫu trong đời sống gia đình.
Mong sao, các bậc làm cha mẹ hôm nay, biết giáo dục con cái bằng chính đời sống đạo đức và gương sáng của mình. Luôn biết chọn lọc những điều hay, điều tốt để đưa vào truyền thống gia đình, nhằm giúp cho gia đình được thăng tiến và quân bình trong một xã hội luôn có chiều hướng suy thoái đạo đức.
Tuy nhiên, chúng ta phải cậy dựa đến ơn Chúa rất nhiều, xin Ngài giúp cho chúng ta sáng suốt và khôn ngoan để chọn sao cho trọn, nếu không, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng nhập nhằng giữa đạo đức thật và đạo đức giả trong một xã hội đang mê mẩn chạy theo và thích thú những "viên thuốc đắng bọc đường". Thật vậy, trong cuộc sống của chúng ta hôm nay luôn phải đối diện với những thứ được coi là đạo đức nhưng thực chất không hề đạo đức chút nào.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con Chúa và luôn trung thành với bổn phận của mình. Amen.
Thánh Gioakim và Thánh Anna là song thân của Đức Maria và là ông bà ngoại của Chúa Giêsu. Đây là một cặp vợ chồng hoàn hảo. Bởi vì, cả hai đã nên thánh. Đây cũng là một gia đình hoàn hảo. Bởi vì, không chỉ cha mẹ nên thánh mà người con các ngài sinh ra cũng nên thánh và được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, đó là Đức Maria.
Sách vở không nói nhiều về Thánh Gioakim và Thánh Anna, nhưng chúng ta có thể dựa vào nguyên tắc sau đây để suy đoán về đời sống và nhân đức của các Ngài. Thánh Tôma nói: “Một vật càng tiến gần gốc của nó, thì càng tham gia và chịu ảnh hưởng bởi gốc đó.” Vậy mà ai được gần Chúa bằng Đức Maria là Mẹ Chúa, và ai được gần Mẹ Chúa bằng Thánh Gioakim và Thánh Anna?
Người Việt Nam chúng ta cũng có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Cũng dựa vào nguyện tắc trên, Thánh Gioan Đamát đã ca ngợi hai Đấng bằng những lời vô cùng đẹp đẽ như sau: “Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna là đôi bạn diễm phúc và rất trong sạch, thiên hạ hiểu biết các Ngài nhờ chính hoa quả của lòng các Ngài, như có nơi Chúa nói: cứ xem quả thì biết cây. Các Ngài đã có nếp sống đẹp lòng Thiên Chúa và xứng đáng với Đấng sẽ sinh ra bởi lòng các Ngài. Nhờ cách ăn ở thánh thiện trong sạch, các Ngài đã sinh ra được hạt ngọc quý về đức trinh khiết; Ngài là Đấng đồng trinh trước khi sinh và sau khi sinh con, là Đấng duy nhất luôn luôn trinh khiết trong tâm hồn, trong tâm trí và ngay cả trong thân thể.”
Ở đời, có được cha mẹ mẫu mực là niềm vinh dự và tự hào cho con cái. Chắc chắn, Đức Maria rất tự hào vì có một người cha người mẹ như thế. Có thể nói, nhờ hai Đấng, mà Đức Maria mới được diễm phúc làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Cha ông ta thường nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Bài đọc thứ nhất cũng nói lên điều đó rằng: “Những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44, 10-15).
Có lẽ con cái của chúng ta cũng đang trông mong có được những người cha người mẹ mẫu mực như Thánh Gioakim và bà Thánh Anna. Vậy, để trở thành một người cha người mẹ Công Giáo mẫu mực cần phải làm gì?
Trước hết, cần phải chu toàn bổn phận vợ chồng: đó là yêu thương chung thuỷ với nhau, sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa ban và cùng giúp nhau nên thánh. Bổn phận này đã được hai người thề hứa trước mặt linh mục và cộng đoàn trong ngày lãnh nhận bí tích hôn phối: “Anh (em) là...nhận em (anh) làm vợ (chồng) của anh (em) và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).”
Thứ đến, cần phải chu toàn bổn phận làm cha làm mẹ, đặc biệt là bổn phận giáo dục con cái. Cha mẹ có trách nhiệm giáo dục con cái nên người và nên thánh. Công đồng Vatican II mời gọi: “Cùng với lúc lãnh nhận sứ mệnh cộng tác tạo dựng với Thiên Chúa, cha mẹ đương nhiên lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái, nhất là về phương diện tôn giáo” (x. GS 48). Vì vậy, cha mẹ phải giáo dục con cái theo từng giai đoạn và về mọi phương diện: đức dục, trí dục và thể dục. Nhờ đó, khi lớn lên, con cái mới có thể trở thành những con người hoàn thiện, có ích cho Giáo Hội và xã hội. Nhưng để việc giáo dục con cái có hiệu quả, cha mẹ luôn phải làm gương sáng cho con cái: để dạy con cái sống đức tin, cha mẹ phải siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích; để dạy con cái sống yêu thương, cha mẹ không được ghen ghét ai; để dạy con cái sống hiếu thảo, cha mẹ không được đối xử tệ với ông bà; để dạy con cái sống thật thà, cha mẹ không được lừa dối ai; để dạy con cái làm việc bác ái, cha mẹ phải biết chia sẻ giúp đỡ những nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật...Nghĩa là, cha mẹ luôn phải làm gương trước khi nói.
Nhìn vào Đức Maria chúng ta đoán được rằng, Thánh Gioakim và Thánh Anna không chỉ dạy bảo Mẹ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Vì nhờ gương sáng của các Ngài nên nơi Đức Maria mới có được các nhân đức và một đời sống đức tin mạnh mẽ như vậy. Mẹ đã gắn bó với Chúa một cách mật thiết qua đời sống cầu nguyện: Ba tuổi Mẹ đã dâng mình cho Chúa trong đền thờ; khi sứ thần Truyền tin, chính là lúc Mẹ đang quỳ cầu nguyện; khi bà Êlizabet cất lời ca tụng Mẹ, Mẹ đã hát bài Magnificat. Tất cả những điều đó chứng minh cho chúng ta biết, tâm hồn Mẹ luôn gắn bó với Lời Chúa và với Chúa qua đời sống cầu nguyện.
Nhìn vào các gia đình hôm nay, chúng ta thấy có nhiều gia đình biết chu toàn bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ, nhất là bổn phận giáo dục con cái. Nhờ vậy, không những họ nên thánh mà con cái của họ cũng nên người và nên thánh. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2015, Đức Thánh Cha đã phong thánh cho ông Louis và bà Zélie, là song thân của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chắc chắn sẽ còn nhiều gia đình giống như thế, ước mong mỗi gia đình chúng ta cũng được như vậy.
Nhưng vẫn không thiếu những người chồng người vợ sống vô trách nhiệm, không quan tâm đến nhau, không quan tâm đến bổn phận giáo dục con cái, không làm gương sáng cho con cái. Thậm chí, lời nói và hành động của họ lại làm cớ cho con cái vấp phạm. Vì thế, một số giới trẻ vẫn sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, xì ke, ma tuý, và các trào lưu xấu lùng bắt và giết chết. Đó cũng là hậu quả của một thói quen xấu, một nền giáo dục căn bản thiếu định hướng.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhìn lên mẫu gương của Thánh Gioakim và Thánh Anna để biết sửa đổi những sai sót của mình. Đồng thời, xin các Ngài bầu cử để các bậc làm cha mẹ luôn biết chu toàn bổn phận làm cha làm chồng, làm vợ làm mẹ. Nhờ đó, mọi thành viên trong các gia đình chúng ta đều nên người và nên thánh. Amen.
Trong cuộc đời của người trưởng thành, hầu như ai cũng đã yêu thương một người nào đấy. Khi đã có tình cảm với nhau, họ luôn mong muốn được nhìn thấy và nói chuyện với nhau. Điều ấy mang đến cho họ niềm vui, hạnh phúc và có thêm động lực để sống tốt hơn.
Hôm nay, Giáo hội mừng kính thánh Gioakim và thánh Anna, song thân của Đức Maria. Các ngài có một đời sống đạo đức thánh thiện, hết lòng yêu mến Thiên Chúa và thực thi theo ý Ngài. Các ngài luôn mong ước được gặp Chúa và được nghe tiếng Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều ấy. Người nói với các Tông đồ: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”.
Các Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến và tuyển chọn để trở thành những người tiếp nối sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Các ông được gặp Chúa, được nghe tiếng kêu gọi của Người nên các ông đã yêu mến và đáp lại tiếng gọi của Người. Hàng ngày, nhóm Mười Hai được đi theo Chúa Giêsu, nghe những lời giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Người làm. Nhờ đó, họ càng yêu mến, tin tưởng, phó thác nơi Thầy của mình và dấn thân phục vụ Chúa và Hội Thánh.
Năm xưa, các Tông đồ được trực tiếp nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe tiếng nói của Người. Ngày nay, Kitô hữu gián tiếp thấy Chúa và nghe tiếng Người qua các bí tích và Lời Chúa. Họ không nhìn thấy Chúa theo thể lý nhưng thấy Chúa bằng đức tin. Chính qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện trong tâm hồn các tín hữu. Họ được củng cố đức tin nhờ biết chuyên cần đọc và lắng nghe Lời Chúa. Có được những điều ấy, Kitô hữu đón nhận được hạnh phúc thực sự mà họ không ngừng tìm kiếm. Từ đó, họ ngày càng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người và trở nên tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Mặc dù không nhìn thấy và không được gặp Chúa, nhưng thánh Gioakim và thánh Anna luôn tin tưởng, yêu mến và sống theo lề luật cùa Ngài. Vì thế, Chúa đã ban cho các ngài hạnh phúc lớn lao là được làm song thân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi Kitô hữu biết noi gương thánh Gioakim và thánh Anna hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Chúa. Nhờ đó, họ có thể sớm đạt được hạnh phúc thật sự trong Nước Trời. Amen!
Trong Kinh Thánh, các thánh sử Matthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Ðức Giêsu. Các ngài đi ngược trở về tổ tiên dòng họ của Người chỉ để chứng minh rằng Ðức Giêsu là cực điểm của các lời hứa trọng đại. Nhưng bên ngoại của Ðức Giêsu thì bị lang qun, chúng ta không có một dữ kiện gì về các đấng sinh thành ra Ðức Maria. Ngay cả thánh Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết được viết lại sau khi Ðức Gisu về trời khoảng hơn một thế kỷ.
Tuy nhiên, đức tính anh hùng và thánh thiện của các ngài được suy đoán từ bầu khí của toàn thể gia tộc Ðức Maria. Chúng ta dựa trên truyền thuyết về thời kỳ thơ ấu của Ðức Maria hoặc suy đoán từ các dữ kiện trong Phúc Âm, Ðức Maria là một thể hiện của biết bao thế hệ những người siêng năng cầu nguyện mà chính ngài là một người đắm chìm trong cc truyền thống đạo đức của người Do Thái.
Các đức tính nổi bật của Ðức Maria khi ngài thi hành các quyết định, khi liên lỉ cầu nguyện, khi trung thành với quy luật tôn giáo, khi bình tĩnh trước những khủng hoảng và khi tận tâm với người bà con - tất cả những điều này cho thấy một gia tộc khắng khít, yêu thương nhau biết nhìn đến các thệ hệ tương lai trong khi vẫn duy trì truyền thống tốt đẹp của quá khứ.
Thánh Gioankim vá Thánh Anna, dù những tên tuổi này có thật hay không; đã đại diện cho một chuỗi thế hệ của những người trung tín thi hành bổn phận, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Ðấng Thin Sai, nhưng họ vẫn âm thầm không ai biết đến.
Lời Bàn
Ðây là "ngày lễ của các ông bà". Nó nhắc nhở cho các ông bà về trách nhiệm của họ là phải thiết lập gia phong cho các thế hệ tương lai: Họ phải làm sống lại các truyền thống và trao truyền cho con cháu. Nhưng ngày lễ này cũng có ý nghĩa cho cc thế hệ trẻ. Nó nhắc nhở người trẻ rằng cái nhìn chín chắn, giàu kinh nghiệm của người già là sự khôn ngoan không nên coi thường hoặc bỏ qua.
Lời Trích: "...Gia đình là nền tảng của x hội. Trong đó, nhiều thế hệ đến với nhau để giúp đỡ nhau lớn lên trong sự khôn ngoan và để hịa hợp quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của đời sống xã hội." (Giáo Hội Trong Thế Giới ngày nay, 52).
Truyền thống cổ xưa từ thế kỷ II kể rằng song thân của Đức Trinh Nữ Maria là thánh Gioakim và thánh nữ Anna. Lòng sùng kính hai vị là hiệu quả tất yếu của lòng đạo đức các tín hữu vẫn dành cho ái nữ của các vị là Đức Maria. Đức Lêô XIII đã thiết lập một lễ kính chung thánh Gioakim và thánh nữ Anna, vì trước kia hai ngài được kính riêng, cho đến khi có cuộc canh tân phụng vụ mới đây.
Mái nhà song thân Đức Trinh Nữ.
Phúc thay thánh Gioakim và thánh nữ Anna vì người con các ngài đã sinh ra. Chúa đã ban cho các ngài phúc lành của mọi quốc gia.
Truyền thống rất cổ xưa đã lưu truyền cho chúng ta quí danh của song thân Đức Maria. Trong thời đại và những hoàn cảnh lịch sử, các ngài đã là tảng đá nền quí báu trong việc hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Qua hai ngài, phúc lành Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi đã truyền đến chúng ta, và chúng ta được tiếp nhận Đấng Cứu Thế nhờ sự cộng tác của các ngài.
Thánh Gioan Damascene đã khẳng định chúng ta nhận biết hai đấng thánh diễm phúc này qua hoa quả của các ngài: Đức Trinh Nữ Maria là hoa quả tuyệt vời các ngài đã trao cho nhân loại. Thánh Anna cưu mang Đức Maria rất tinh tuyền vô nhiễm trong cung lòng. Ôi hài nhi rất xinh đẹp, rất khả ái! – Thánh Tiến Sĩ đã reo lên – Ôi, nữ tử của Ađam và Mẹ Thiên Chúa, phúc thay lòng đã cưu mang Mẹ! Và phúc thay cánh tay đã bồng ẵm Mẹ, đôi môi đã được đặc ân hôn yêu Mẹ… Thánh Gioakim và thánh nữ Anna đã được đặc ân chăm sóc Mẹ Thiên Chúa trong mái nhà của các ngài. Thiên Chúa chắc chắn đã trào đổ nhiều ân sủng xuống cho các ngài trong suốt thời kỳ ấy.
Thánh nữ Têrêxa Avila thường đặt các đan viện ngài thành lập dưới sự bảo trợ của thánh Giuse và thánh Anna, vì lý luận rằng: Lòng nhân lành Thiên Chúa rất lớn lao đến độ Người nhất định sẽ ưu đãi những ngôi nhà của bà ngoại tôn quí của Người. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã xuống thế trực tiếp từ họ ngoại.
Chúng ta có thể giao phó cho song thân Mẹ Maria tất cả những nhu cầu, nhất là những nhu cầu liên quan đến đời sống thánh trong gia đình chúng ta. Chúng ta cầu nguyện trong phụng vụ thánh lễ hôm nay, Lạy Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ của chúng con, Chúa đã ban cho hai thánh Gioakim và Anna đặc ân làm song thân của Đức Maria, Thánh Mẫu Con Nhập Thể của Chúa. Ước chi những lời cầu xin của các ngài giúp chúng con đạt được phần rỗi mà Chúa đã hứa ban cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức vì lợi ích của những người Chúa đã ủy thác cho chúng con chăm sóc. Xin dạy chúng con biết tạo lập một sắc thái nhân đạo và siêu nhiên trong những môi trường của chúng con, những nơi chúng con dễ dàng tìm thấy Chúa, vì Chúa là mục tiêu tối hậu, là kho tàng của chúng con.
Đời sống Kitô hữu.
Theo Đức Gioan Phaolô II, thánh Gioakim và thánh nữ Anna là một cảm hứng bất tận cho cuộc sống gia đình và xã hội thường nhật. Đức Thánh Cha kêu gọi: Hãy loan truyền cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, toàn bộ gia sản tinh thần của đời sống Kitô Giáo, gồm cả việc cầu nguyện. Đức Maria tiếp nhận từ song thân của Mẹ những gia sản truyền thống của nhà Đavít, một di sản đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Ở đó, Mẹ học biết thân thưa cùng Thiên Chúa Cha bằng thái độ cung kính sâu xa. Cũng tại mái nhà ấy, Mẹ đã học biết những lời tiên tri nói về ngày đến của Đức Messiah – về nơi sinh của Con Mẹ…
Khi đến giờ phải tạo lập một mái nhà riêng cho Chúa Giêsu sinh ra đời, Đức Maria chắc chắn đã nhớ lại mái nhà của song thân. Và rồi Chúa Giêsu cũng học biết từ nơi Mẹ những cách thế để thân thưa và những lời đầy khôn ngoan mà sau đó Người đã sử dụng trong thời kỳ rao giảng. Hài nhi Giêsu đã thảo hiếu lắng nghe từ môi miệng Đức Maria những lời cầu nguyện đầu tiên, giống như những con trẻ Do Thái ngay khi vừa bập bẹ biết nói đã được nghe cha mẹ dạy cho. Đức Maria chắc hẳn là một người thầy rất mực tốt lành! Mẹ đã phản chiếu sự phong phú nơi linh hồn đầy ân sủng của Mẹ một cách dịu hiền. Chúng ta được tiếp nhận tặng ân đức tin vô giá và vô số tập tục tốt lành từ tổ tiên, những người đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta kho tàng quí giá ấy. Đồng thời, chúng ta cũng có bổn phận phải bảo tồn gia sản sinh động này để truyền lại cho người khác.
Hiện nay có những cuộc tấn công mãnh liệt đang chống lại các gia đình, chúng ta phải can đảm để bảo tồn di sản chúng ta đã được lãnh nhận. Chúng ta được mời gọi để làm giàu thêm những di sản ấy bằng đức tin và sự chiến đấu để sống các nhân đức nhân bản. Bổn phận chúng ta là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà của chúng ta bằng những phương thế truyền thống Kitô Giáo, chẳng hạn đọc kinh trước và sau khi dùng bữa, đọc kinh tối trong gia đình…, đọc Lời Chúa với người cao niên, đọc một lời kinh ngắn cho những người qua đời, nhắc nhớ những ý nguyện của gia đình và của Đức Thánh Cha, cùng tham dự thánh lễ Chúa Nhật, cùng lần chuỗi Mân Côi, kinh nguyện được các Đức Thánh Cha thường xuyên cổ võ cho các gia đình. Kinh Mân Côi rất phù hợp với thời biểu gia đình, kể cả những chuyến du lịch… Không cần dồn nén quá nhiều việc đạo đức trong các gia đình, tuy nhiên, phải có một số nào đó. Các bậc cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái sẽ dễ dàng tìm thấy con đường để hiểu biết tâm hồn chúng. Hơn nữa, những người trẻ sẽ không bao giờ quên được gương sáng của cha mẹ vì đã giúp họ cầu nguyện và đến với Đức Mẹ trong những nhu cầu cần thiết. Chúng ta mang ơn cha mẹ vì các ngài đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể… Chắc chắn, những bài học này là di sản lớn lao mà chúng ta được thừa hưởng.
Những hoàn cảnh xã hội hiện nay đòi các gia đình phải gắn bó với những niềm tin và quảng đại trong cách sống. Việc chúng ta khẳng định quyết tâm của mình sẽ rất đẹp lòng Đức Mẹ. Chúng ta quyết tâm trở nên những khí cụ liên kết các thành phần trong gia đình, nhất là qua các hành động phục vụ vui tươi và những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày để giúp đỡ người khác. Một quyết tâm như thế sẽ đưa chúng ta đến việc cầu nguyện cho thành phần nào cần được cầu nguyện nhiều nhất trong gia đình, giúp đỡ thành viên nào yếu đuối hoặc thành viên nào đang sa sút, và đặc biệt là sống yêu thương đối với thành viên nào đang yếu bệnh hoặc gặp gian truân.
Giáo dục con cái. Việc cầu nguyện trong gia đình.
Chắc chắn hai thánh Gioakim và Anna luôn ý thức Thiên Chúa đang yêu sách ái nữ của các ngài một điều gì đó thật vĩ đại, bởi vì trẻ Maria đã biểu lộ những đặc ân tuyệt vời trên phương diện nhân bản cũng như siêu nhiên. Các ngài đã dâng ái nữ cho Thiên Chúa, như những bậc cha mẹ Do Thái thường làm. Các bậc cha mẹ củng cố tình yêu cho nhau bằng việc cầu nguyện sẽ biết tôn trọng thánh ý Thiên Chúa đối với con cái của họ. Tình yêu giữa cha mẹ càng được củng cố hơn nữa nếu như con cái họ được ơn tận hiến cho Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ thường ước ao và kêu xin Thiên Chúa ơn này, bởi vì như thánh Josemaría Escrivá nói: Dâng con cái để phụng sự Chúa không phải là một hy sinh: đó là một vinh dự và một niềm vui, một vinh dự cao cả và một niềm vui lớn lao. Con cái sẽ nghiệm thấy vẻ đẹp của hành vi hiến dâng những năng lực của chúng cho Nước Chúa, bởi vì bằng nhiều cách, chúng đã học biết thực hiện điều ấy ngay trong nếp sống ở gia đình.
Tình yêu dẫn đến hôn nhân cũng là một con đường thánh thiện, một ơn gọi, một con đường để hiến dâng toàn diện cho Thiên Chúa. Tình yêu này phải hiệu quả và hoạt động nơi hoa trái, tức là con cái. Tình yêu chân thực sẽ biểu hiện trong việc nỗ lực dạy dỗ con cái biết sống chuyên cần, tiết độ, và có giáo dục, theo đúng ý nghĩa của từ ngữ… và trở nên những tín hữu tốt lành. Ước chi các nhân đức nhân bản được phát triển nơi gia đình: nhân cách mạnh mẽ, điều độ trong việc sử dụng vật chất, có tinh thần trách nhiệm, quảng đại, siêng năng… và ước chi mọi người đều biết tiêu dùng một cách kiệm ước, luôn nhớ đến nhiều người trên thế giới vẫn còn đang túng thiếu.
Tình yêu thương con cái đích thực sẽ đưa cha mẹ đến chỗ quan tâm chọn trường học cho con cái, bởi vì điều này ảnh hưởng đến phần rỗi của chúng. Cũng tình yêu ấy sẽ thúc đẩy cha mẹ lo tìm nơi nghỉ ngơi và giải trí lành mạnh cho con cái – thường họ phải hy sinh sở thích và quyền lợi khi tránh những môi trường có thể làm cho việc sống đạo trở nên khó khăn. Cha mẹ đừng bao giờ quên rằng mình là người quản lý một kho tàng quí báu của Thiên Chúa. Là những tín hữu, họ phải tạo lập một gia đình, nơi có Chúa Kitô hiện diện.
Hôm nay, chúng ta nài xin hai thánh Gioakim và Anna giúp chúng ta làm cho mái nhà của chúng ta trở thành một nơi dễ dàng gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cậy nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: Hợp nhất cùng nhau, chúng ta hãy hướng tâm hồn về Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy tỏ ra là Từ Mẫu của chúng ta hết thảy. Xin Mẹ hãy dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên Chúa Kitô, Đấng đã trở nên Con của Mẹ, để Người thương tình chấp nhận.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta mừng kính song thân Đức Mẹ là thánh Gioakim và Anna. Các ngài là ông bà ngoại của Đức Giêsu. Cuộc đời của các ngài rất âm thầm đến nỗi không có một trang Tin Mừng nào nhắc đến.
Trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, thánh Anna cũng có những lúc thăng trầm trong phụng vụ, tức là ngài được Giáo Hội thiết lập ngày lễ mừng nhưng rồi lại bỏ và cuối cùng, Đức Lêo XIII (+ 1903) cho tái lập lại. Đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI (+ 1978), khi canh tân phụng vụ, ngài mới cho phép mừng chung với thánh Gioakim vào ngày 26-7 như hiện nay.
Thánh Gioakim và bà thánh Anna đã sống những giây phút tuyệt vời trong lịch sử làm người. Các Ðấng đã biến giây phút hiện tại trở thành niềm vui, ân sủng và hạnh phúc. Giây phút hiện tại, hai Ðấng đã góp tay với Thiên Chúa trong việc đản sinh Mẹ Ðấng Cứu Thế. Chính cái hồng phúc hiện tại của đời hai Ðấng, đã biến đổi tất cả, thay đổi mọi sự, để lịch sử cứu độ của Chúa được rạng sáng. Lịch sử nhân loại mà trong Luca 1, 32a đã viết: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người”.
Thánh Gioakim và thánh Anna là người cha và người mẹ của con cái, là người chồng người vợ trong gia đình như tất cả những đôi vợ chồng khác trên thế gian, nhưng các ngài đã trở nên những người có phúc, có phúc vì đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, có phúc vì các ngài đã nuôi nấng và dạy dỗ con cái theo như ý muốn của Thiên Chúa, hạnh phúc vì các ngài đã không tiếc công lao nuôi dưỡng để rồi đem con yêu quý của mình dâng cho Thiên Chúa để Ngài làm theo như thánh ý của Ngài.
Mỗi lần nhắc đến song thân Đức Maria, chúng ta có quyền hiểu rằng: các ngài là người công chính, được Thiên Chúa yêu thương, bởi lẽ các ngài là người sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế là Mặt Trời Công Chính.
Nhân loại như được hoàn toàn đổi mới vì chính Mẹ Maria, con một duy nhất của hai Ðấng thánh đã được Thiên Chúa tuyển chọn với muôn vàn hồng ân và muôn vàn tước hiệu. Những đặc ân Mẹ Maria, con của Hai Ðấng đã được Thiên Chúa trao ban, không một con người nào ở trần thế này đã được những ân huệ cao quí ấy, đã chỉ cho nhân loại hay lời Chúa luôn có sức mạnh, luôn biến đổi con người, nhân loại, thế giới vì cái phúc mà Chúa đã ban cho hai Ðấng, cũng như đã trao tặng cho các môn đệ là những người con ưu tuyển của Ngài, phúc ấy Chúa chỉ trao cho những tâm hồn hiền lành, khiêm nhượng, những tâm hồn luôn biết đặt cả sinh mạng và cuộc sống của mình nơi bàn tay uy quyền của Chúa. “Phúc cho mắt các con, vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều Ðấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17).
Thánh Gioakim và thánh Anna là những con người bình dân giản dị, thế nhưng đã dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, cao trọng vì trước hết các ngài không đòi hỏi cô con gái cưng của mình phải lập gia đình để sinh con cái và để được Thiên Chúa chúc phúc, cao trọng là vì các ngài đã biết nhìn ra ý Thiên Chúa trong đời sống của cô con gái nhỏ của mình : cuộc sống thánh hiến cách đặc biệt giữa một dân tộc mà truyền thống “ở một mình” thì coi như bị Thiên Chúa chúc dữ bỏ rơi, các ngài đã can đảm và (có lẽ) cũng đã nghe những tiếng bàn tán xì xào về cách sống đồng trinh thánh thiện của con gái mình nơi người hàng xóm, những lời bàn tán ấy sẽ là những lời ca ngợi trước mặt Thiên Chúa của các tổ tông và các thánh tiên tri.
Hai thánh Gioakim và thánh Anna có một đời sống đạo đức thánh thiện, hết lòng yêu mến Thiên Chúa và thực thi theo ý Ngài. Các ngài luôn mong ước được gặp Chúa và được nghe tiếng Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều ấy. Người nói với các Tông đồ: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”.
Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe( Mt 13, 16-17 ). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.
Ta thấy các Tông đồ được trực tiếp nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe tiếng nói của Người. Ngày nay, Kitô hữu gián tiếp thấy Chúa và nghe tiếng Người qua các bí tích và Lời Chúa. Họ không nhìn thấy Chúa theo thể lý nhưng thấy Chúa bằng đức tin. Chính qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện trong tâm hồn các tín hữu. Họ được củng cố đức tin nhờ biết chuyên cần đọc và lắng nghe Lời Chúa. Có được những điều ấy, Kitô hữu đón nhận được hạnh phúc thực sự mà họ không ngừng tìm kiếm. Từ đó, họ ngày càng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người và trở nên tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Mọi thụ tạo đều cám ơn các ngài vì thánh Gioakim và thánh Anna không làm những gì vĩ đại để Thiên Chúa chọn, các ngài chỉ lo chu toàn bổn phận hàng ngày của mình -một linh đạo đơn sơ mà hiệu quả- cách can đảm và là một mẫu gương cho loài người noi theo. Cám ơn vì những việc làm nhỏ mà con người phải làm đã đánh động đến tình yêu Thiên Chúa, cám ơn là vì Thiên Chúa cũng không “kén chọn” cái vĩ đại của con người để thực hiện ý định của mình, nhưng đã chọn cái thấp hèn để làm nên việc vĩ đại của mình như lời Đức Trinh Nữ Maria đã tán dương qua bài Magnificat (Lc 1, 46-49).
Mặc dù không nhìn thấy và không được gặp Chúa, nhưng thánh Gioakim và thánh Anna luôn tin tưởng, yêu mến và sống theo lề luật cùa Ngài. Vì thế, Chúa đã ban cho các ngài hạnh phúc lớn lao là được làm song thân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.
Và, chuyện quan trọng là ta hãy noi gương các Ngài để lại đời sống mẫu mực cho con cái noi theo.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Đầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Đầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".
Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy? Cỏ lùng trong ruộng khiến các đầy tớ ngỡ ngàng. Thửa ruộng vốn chỉ được gieo giống tốt. Vậy mà khi lúa mọc lên và trổ bông. cỏ lùng lại xuất đầu lộ diện. Bởi đâu mà có cỏ lùng, có người xấu? Bởi đâu mà ở nơi ta tưởng là trong ngần lại bất ngờ có dấu hiệu của sự vẩn đục? Có tác động xấu xa nào của Thần Dữ đẩy đưa? Có sự ưng thuận chiều theo nào của con người? Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không? Chúa có muốn chúng tôi tiêu diệt mọi kẻ xấu không? Ngài có muốn chúng tôi xây dựng một Giáo Hội toàn bích, một xã hội chỉ gồm toàn những người tốt không? Lắm khi chúng ta nóng nảy như Gioan và Giacôbê, đòi đốt cả làng người Samari, vì họ không tiếp Chúa. Ðừng, sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, lại làm hư rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Như thế Thiên Chúa để cho cỏ mọc chung với lúa. Ngài chấp nhận tình trạng vàng thau lẫn lộn. Ngài nhẫn nại với tội nhân, với cỏ lùng. Cỏ lùng chẳng bao giờ thành lúa được. Nhưng người xấu có thể hoán cải nên người tốt. Chính vì thế Thiên Chúa cứ kiên tâm chờ đợi. Chờ đợi vì tin vào sự hoán cải của con người. Chờ đợi vì tôn trọng tự do lựa chọn của họ. Chờ đợi vì nuôi một niềm hy vọng lớn lao. Sự thánh thiện của Thiên Chúa ở nơi sự chờ đợi. Ngài còn chờ đợi cho đến ngày tận thế. Trong thế giới và Giáo Hội không có hai hạng người: hạng cỏ lùng và hạng lúa tốt. Cỏ lùng và lúa tốt nằm ở nơi tim mỗi người. Mỗi người đong đưa giữa cỏ lùng và lúa tốt, giữa cái thiện và cái ác, giữa thiên thần và Satan. Ngay trong những hành vi tốt đẹp nhất của tôi, tôi vẫn thấy có chút vị kỷ, chiếm đoạt. Thiên Chúa vẫn chấp nhận cỏ lùng ở trong tôi. Ngài chờ tôi được thanh luyện dần dần, để rồi mọi sự trong tôi thành lúa tốt. Kitô hữu không dung túng sự dữ, họ dám hy sinh để xây dựng một thế giới yêu thương. Nhưng họ không dùng bạo lực để chống lại ác nhân. Họ nhẫn nại biến đổi trái tim kẻ thù, vì họ tin vào sức mạnh của tình yêu, tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã bị sự dữ nuốt chửng nhưng cuối cùng là Ðấng toàn thắng. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen. ------------------------------
Tình yêu thương của Thiên Chúa thật lớn lao. Luôn có sáng kiến. Luôn đi bước trước. Và luôn trung tín. Chúa đã có sáng kiến và đi bước trước khi tuyển chọn Áp-ra-ham. Chúa vẫn trung tín khi giải thoát dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập. Chúa có sáng kiến đi bước trước khi ban Lề Luật cho dân. Giao ước ký kết trên núi Xi-nai là bằng chứng tình yêu. Cũng là để chính thức xác nhận Ít-ra-en là dân riêng của Chúa. Đó là một giao ước một chiều. Hoàn toàn có lợi cho dân Ít-ra-en. Thấy tất cả những việc Chúa làm, dân Ít-ra-en không ngần ngại ký kết và đoan hứa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (năm lẻ).
Tuy nhiên dân Chúa luôn phản bội. Chúa vẫn trung tín. Lòng trung tín của Chúa đã biến thành lòng khoan dung. Luôn tha thứ. Luôn kiên nhẫn đợi chờ người dân hoán cải. Đó chính là ý nghĩa dụ ngôn “Lúa đồng và cỏ dại”. Lịch sử dân Do thái cũng là lịch sử mỗi người chúng ta. Chúng ta ký kết giao ước với Chúa. Nhưng Chúa luôn trung tín. Còn chúng ta luôn phản bội. Nhưng Chúa vẫn khoan dung, kiên nhẫn đợi chờ. Như ông chủ không nhổ ngay cỏ lùng. Sợ làm hư lúa: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”. Người khắc nghiệt thì bắt lầm hơn bỏ sót. Còn Chúa khoan dung thì bỏ sót hơn bắt lầm. Kiên nhẫn chờ đến mùa gặt. Bấy giờ mới phân biệt rạch ròi giữa cỏ và lúa. Chưa đến mùa thì còn hi vọng con người sẽ hoán cải. Chúa sẽ chờ cho đến ngày cùng tháng tận. Khi không còn có thời gian nữa mới thôi. Lòng Chúa khoan dung biết bao.
Vì thế Chúa luôn mời gọi ta sám hối ăn năn. Ăn ăn sám hối để sống với Chúa bằng tình yêu chân thật. Không phải chỉ giữ đạo bằng hình thức bề ngoài. Coi giao ước như một bùa hộ mệnh. Nhưng tâm hồn xa cách Chúa. Đừng tưởng ở trong Giáo hội cho có danh hiệu là đủ. Nhưng cần phải có đời sống thực sự tốt đẹp. Mới xứng đáng ở trong Nhà Chúa. “Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bằng với nhau, không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, thì Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời” (năm chẵn).
Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai được cứu thoát. Xin ban ơn cho con biết ăn năn sám hối. Và xin thương thân phận yếu hèn của chúng con.
Chứng kiến những tiêu cực trong Giáo Hội xét như là một cơ cấu, nhiều người trong chúng ta dễ rơi vào cơn cám dỗ nổi loạn và tìm những giải pháp cực đoan. Chúng ta muốn rời bỏ Giáo Hội, vì chúng ta không muốn thấy những tệ đoan trong Giáo Hội. Như dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay gợi lên, chúng ta không muốn để cho cỏ lùng được mọc lên bên cạnh lúa tốt, chúng ta muốn phân cách rạch ròi người lành với kẻ dữ.
Truyện thánh Jean d'Arc vào thế kỷ 15 có thể đem lại cho chúng ta bài học thích đáng. Cảm nhận được tiếng gọi đặc biệt của Chúa, cô gái quê 13 tuổi đã đứng lên lãnh đạo quân đội Pháp chống lại cuộc xâm lăng của nước Anh. Nhưng cô bị người Anh bắt giữ và đem ra xử tử như một người lạc giáo. Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó cấu kết với thế quyền để tiêu diệt cô; họ tìm đủ cách để đe dọa và thị oai cô gái; họ buộc cô phải đặt tay trên Phúc Âm và thề rằng cô chỉ nói sự thật mà thôi. Một viên thẩm phán của tòa án tôn giáo lúc bấy giờ đặt câu hỏi: "Cô có nghĩ rằng cô đang ở trong tình trạng sạch tội không?". Cô gái trả lời: "Nếu tôi không ở trong tình trạng ân sủng, thì xin Chúa cho tôi được sạch tội; còn nếu tôi đang ở trong tình trạng ân sủng, thì xin Chúa giữ tôi luôn ở trong tình trạng ấy".
Không bắt bẻ được cô gái, các viên chức của tòa án tôn giáo gồm 1 Hồng y, 6 Giám mục, trên 30 nhà thần học, 7 bác sĩ, hàng trăm nguyên cáo cảm thấy tức tối vô cùng. Họ bảo rằng họ là Giáo Hội, còn cô chỉ là một thứ cỏ lùng. Jean d'Arc trả lời: "Ðối với tôi, ở đâu có Chúa Kitô, thì ở đó có Giáo Hội, không thể có mâu thuẫn giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài".
Tuy không chứng minh được sự lạc giáo của cô gái, tòa án tôn giáo lúc bấy giờ vẫn kết án tử hình cô và ra lệnh thiêu sống cô. Hai mươi lăm năm sau, một tòa án của Giáo Hội đã đảo lộn phán quyết của tòa án tôn giáo nói trên, và năm 1920, Jean d'Arc đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh và được đặt làm quan thày của Nước Pháp. Thánh nữ Jean d'Arc đã hiểu được thế nào là cỏ lùng trong cánh đồng Giáo Hội.
Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện, nhưng lại gồm những con người tội lỗi, đó là ý nghĩa của dụ ngôn mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và Suy Niệm hôm nay. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh, nhưng cũng có vô số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì trở nên thánh thiện hơn; các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta; còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. Người Pháp thường nói: "Ðể hiểu mọi sự, thì cần phải tha thứ mọi sự". Chúng ta luôn được mời gọi để nhìn Giáo Hội như một đoàn người đang lữ hành, trong đoàn người này, có người đang cố gắng tiến đến gần Chúa, có kẻ lại xa rời Ngài.
Làm người Kitô hữu chính là nhập cuộc vào đoàn người lữ hành ấy với cố gắng, với thiện cảm và nhất là với cảm thông. Những kẻ cuồng tín cũng giống như một vụ cháy rừng. Lửa bốc cháy và tiêu diệt cả những mầm non: lửa cần thiết cho cuộc sống, nhưng lửa cần phải được làm chủ và sử dụng vào mục đích. Yêu mến Giáo Hội là luôn thức tỉnh để nhận ra những tiêu cực và tệ đoan trong Giáo Hội. Ðó là sự thức tỉnh của thánh Phanxicô Assisiô thời Trung cổ. Thế nhưng, con đường canh tân mà thánh nhân đã chọn không phải là nổi loạn hoặc lìa bỏ Giáo Hội, mà là canh tân chính bản thân bằng cuộc sống hy sinh, từ bỏ, và nhất là cảm thông. Ðó là cách thế tốt nhất để đương đầu với cỏ lùng chen lẫn lúa tốt trong cánh đồng Giáo Hội.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên đường của các thánh, đó là con đường của yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì có thể cứu chuộc con người, nhưng ơn cứu độ đó không thể phát sinh hiệu năng, nếu mỗi chúng ta không mở lòng ra để đón nhận. Chúa Giêsu đã đến và giải thoát con người, Ngài cũng ban cho con người biết bao phương thức để con người duy trì và thăng hoa tình trạng ân sủng của mình. Vậy, tại sao tội lỗi vẫn ngập tràn? Thưa, đó là tự do của con người, chúng ta không thể trách Chúa là không cứu con người khỏi tình trạng tội lỗi, nhưng hãy tự trách mình sao không muốn đứng dậy để đưa tay cho Chúa và Chúa sẽ dẫn ta thoát ra khỏi vũng bùn đen của tội lỗi.
Thế giới quanh ta có biết bao những cơ hội, phương tiện giúp chúng ta sống và thăng tiến, nhưng nếu chúng ta không muốn thì cơ hội vẫn chỉ là cơ hội như một chuyện tình cờ, một biến cố chợt đến và chợt đi, mọi sự vẫn hoàn nguyên. Cần phải có nỗ lực của bản thân thì mới thoát khỏi những gì là xấu xa, hèn kém, khi đó mọi vật, mọi sự trên thế giới quanh ta mới phát huy tính năng của nó, để giúp ta thăng tiến bản thân cũng như cuộc sống của mình và anh chị em chung quanh. Chúng ta hãy dùng sức mạnh và tình yêu của Chúa để rửa sạch tội lỗi, sự thánh thiêng sẽ lộ rõ trên khuôn mặt tràn đầy ân sủng. Như hạt giống đức tin đã được gieo vãi trong lòng con người cứ âm thầm mọc lên, nó không thể trổ hoa và kết hạt tốt nếu chúng ta không để ý chăm sóc vun trồng.
Nhìn lại tình trạng tội lỗi của con người dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta không thể không thốt ra lời tạ ơn vì tình thương và lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn kiên nhẫn, chờ đợi và mời gọi con người hãy trở về với Ngài để sống sung mãn trong ân sủng, cho dẫu con người cứ giả điếc làm ngơ. Thiên Chúa luôn ở với con người. Tiếng gọi thì thầm của Ngài sẽ có lúc vọng lên nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người, khơi dậy và làm bừng lên ngọn lửa yêu mến Ngài đã gieo trong lòng ta. Ðó là ước mơ và thao thức của Ngài. Chớ gì đừng có một ai trong chúng ta tạo ra bất cứ một ranh giới cản trở hay khó khăn nào để chôn chặt Lời Chúa. "Hãy để cho cả hai mọc lên", với sự tin tưởng và sức mạnh của Lời Chúa, chúng ta hãy để cho Lời Người thấm nhập và hoán cải tâm hồn mình và thế giới chúng ta đang sống, và đừng hỏi vì sao thế giới vẫn ngập tràn tội ác, nhưng hãy tự hỏi: Tôi có thể làm gì với những điều tôi đang có tại đây và ngay trong lúc này, để ơn cứu độ và tình thương của Chúa được lan rộng và lớn lên trong tâm hồn tôi cũng như anh chị em quanh tôi?
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn hân hoan ra đi gieo rắc Lời Chúa một cách quảng đại như Chúa đã nêu gương.
Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất.” (Mt. 13, 24-25)
Ông chủ và các người đầy tớ đã không cảnh giác chăng? Nhưng, ngay cả thời buổi này, ai đòi phải tính đến chuyện canh chừng cho thuở ruộng vừa mới gieo vãi chăng? Chẳng có gì để cho người ta ăn trộm cả… Khi lúa mọc lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện, mọc chung, lớn lên cùng lúc với cây lúa, nhưng không làm cho lúa chết. “Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?” Cứ sự thường người ta đều muốn phải nhổ cỏ, phải diệt cỏ xấu để bảo vệ cho lúa tốt. Nhưng ông chủ lại bảo “Đừng, sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.” Phải biết kiên nhẫn và đợi chờ…
Sự ác
Một khi điều xấu được gieo rắc rồi, thì người xấu không phải ở đó mà chờ đợi. Thực vậy, điều xấu sẽ mau chóng phổ biến. Thực vậy điều xấu sẽ chẳng giấu mặt ẩn mình, ai nấy sẽ dễ dàng nhận ra được cái xấu. Một cách nào đó, sự xấu còn dương dương tự đắc là sẽ thắng thế, nên sẽ trà trộn với cái tốt.
Còn sự thiện …
Ông chủ biết rõ rằng điều tốt ông gieo cũng sẽ lớn lên. Ông có cả một thời gian là quá trình lịch sử nhân loại để thực hiện điều này. Điều ta cần lưu ý là trong dụ ngôn, Chúa không bảo sự ác sẽ lấn lướt và thay thế cho sự thiện. Trái lại, đến ngày tận thế kẻ lành, điều tốt sẽ nắm phần chiến thắng.
Thế nhưng chẳng lễ ta sẽ phải đợi cho đến ngày tận thế, ngày chấm dứt cuộc sống này thì sự ác mới không xuất hiện, và những sự xấu xa của nhân loại mới chấm dứt chăng?
Không, thời gian này cũng chính là thời kỳ gặt lúa rồi đó. Chúng ta đang sống trong những thời điểm cuối cùng, không phải cuối cùng của trần gian, mà theo ngôn ngữ của thơ gởi tín hữu Do-thái, thì đó là thời điểm của Phục Sinh.
Nếu mỗi ngày và trải dài cuộc sống ta đều nhìn thấy sự ác, điều xấu và dễ dàng nhận ra điều tốt, điềuxấu, thì bổn phận của mỗi người chúng ta phải góp nhặt lấy cho thật nhiều điều tốt việc lành, chứ không phải là những điều xấu việc xấu. Ta đừng viện cớ mình không biết hoặc đổ lỗi cho những tập tục của xã hội hay nhún vai phân bua! tôi biết làm sao hơn? quyền chọn lựa là của ta. Ta chọn sự thiện hay sự ác, chọn làm người lành hay kẻ dữ.
Sự bất nhân và không bao dung đã là cha đẻ sinh ra tính ích kỷ, óc bè phái nơi con người. Thật thế, con người luôn tìm dịp để trả thù nhau... Chính vì sự hẹp hòi này mà cái ác đã thắng cái thiện, sự tội đã thắng lẽ công chính! Vì thế, dù đối phương có tốt thế nào, thì trước con mắt của những kẻ muốn trả thù, họ đều là xấu xa.
Quan điểm này hoàn toàn ngược lại ý hướng và mục đích của Thiên Chúa qua hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn cỏ lùng hôm nay.
Câu chuyện khởi đi từ việc gia nhân thắc mắc xem tại sao có cỏ lùng trong ruộng??? Tuy nhiên, ông chủ đã khẳng định rõ rằng: đó là do kẻ thù gieo trộm vào nên mới có! Sau đó, gia nhân đã không kiên trì nổi, nên xin ông chủ cho họ đi nhổ cỏ lùng kẻo nó lấn át lúa! Tuy nhiên, ông chủ đã không đồng ý và đưa ra lý do: "Đừng! Sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi".
Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy toát lên lòng nhân từ, bao dung và kiên nhẫn của Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì thế, đã có lần chính Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến để cứu chuộc những người tội lỗi chứ không phải những người công chính”.
Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha... chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năm thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt... Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, để mọi người được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.
Sứ điệp: Hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng mỗi người. Hạt giống ấy đạt kết quả ra sao là tùy thuộc vào thái độ đón nhận của chúng ta. Để sinh hoa trái dồi dào, chúng ta hãy cộng tác tích cực làm cho hạt giống nảy mầm và phát triển phong phú.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nhọc công vỡ đất và gieo hạt vào hồn con. Hạt giống là Lời Chúa và chính Chúa. Chúa giao cho con quyền coi sóc thửa ruộng hồn mình. Ngày qua ngày, con ao ước trở thành thửa ruộng tốt, một thửa ruộng không có gai góc sỏi đá và những con đường mòn dọc ngang chai cứng. Nhưng thực tế thì khác. Đã có lúc con phí phạm đánh mất ơn Chúa, đã có lần con làm ngơ, bịt tai trước lời mời gọi yêu thương. Lần này qua lần khác, tâm hồn con dần dần trở nên chai cứng, khiến hạt giống Nước Trời èo uột, khô héo.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ điều đó. Nhưng lòng quảng đại của Chúa vẫn ban phát cách rộng rãi và lòng nhân từ Chúa vẫn kiên tâm chờ đợi con đáp lời. Con xin dâng lời cảm tạ vì Chúa vẫn một lòng thương con. Tâm hồn con càng tội lỗi, thửa ruộng con càng chai lỳ, Chúa càng ban ơn dồi dào phong phú, con tin chắc rằng không bao giờ Chúa rút lại tình yêu thương ấy.
Xin Chúa giúp con biết săn sóc tâm hồn đã được Chúa cứu chuộc và thánh hóa. Xin đừng để con bóp nghẹt ơn Chúa, bóp nghẹt tình yêu Chúa đang triển nở trong con. Xin Chúa giúp con biết chăm sóc thửa ruộng hồn mình bằng cách nhổ đi những cỏ dại tội lỗi, đốt cháy đi những rơm rác của thói hư tật xấu, để có thể sinh nhiều hoa trái như lòng Chúa ước mong. Amen.
Ghi nhớ: “Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả”.
1. Dụ ngôn cỏ lùng muốn nói đến Giáo hội ở trần gian lúc nào cũng tồn tại hai hạng người lành – dữ và hai thế lực thiện – ác lẫn lộn. Thái độ của ông chủ trong bài Tin Mừng khi biết trong ruộng lúa của mình có cỏ lùng là cứ để cho lúa và cỏ lùng cùng tồn tại cho đến mùa gặt. Dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và kiên nhẫn chờ đợi những người còn yếu đuối, để cho họ được cứu độ.
2. Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta nóng vội và bất nhân khi chỉ nghĩ đến lỗi của người khác và mong muốn loại trừ họ. Sẵn sàng làm mất thanh danh, tiếng tốt nơi anh chị em mình bằng những lời chửi bới hay dèm pha... chỉ vì họ không làm theo ý chúng ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi như ông chủ. Hãy tạo cơ hội cho anh chị em mình làm lại cuộc đời. Nếu họ không trở lại mà sám hối ăn năn thì hậu quả ắt sẽ đến với họ là bị quăng vào lửa không hề tắt... Đồng thời, cần xác tín rằng: ai cũng là kẻ có tội, vì thế, chính bản thân mỗi người hãy khiêm tốn để trở về với Chúa khi còn có thể. Nếu không, số phận của cỏ lùng trong ngày sau hết cũng là số phận của mỗi người chúng ta.
3. Trong khi chờ đợi ngày cuối cùng đó, mỗi người cần có thái độ của ông chủ trong dụ ngôn. Đây cũng chính là thái độ mà Chúa Giêsu muốn dùng để ám chỉ về lòng kiên nhẫn, cảm thông của Thiên Chúa đối với loài người. Theo dụ ngôn, thì chúng ta thấy, cỏ lùng chẳng hề biến thành lúa tốt, và lúa tốt không bao giờ biến thành cỏ lùng; nhưng nơi con người thì khác, không ai bị coi là xấu mãi mãi, và cũng không ai có thể tự phụ cho mình là tốt hoàn hảo. Nơi mỗi con người chắc chắn cũng có những cỏ lùng, tức là những khuyết điểm mà chúng ta phải cố gắng chừa bỏ để trở nên tốt hơn.
Vậy thì bài học ở đây là phải biết chấp nhận thực trạng đó.
4. Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không thể tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.
Như thế, qua dụ ngôn này, chúng ta đừng có ảo tưởng là có thể có một Hội thánh hoàn hảo ở trên trần gian này, trong đó chỉ toàn những người thánh thiện. Trái lại, kẻ lành người dữ sống chung với nhau. Hội thánh đó tuy có biết bao người tốt lành thì vẫn tồn tại những cá nhân tội lỗi núp bóng Hội thánh. Đó là một sự thanh luyện trường kỳ làm cho Hội thánh ngày càng hoàn thiện hơn cho đến ngày được viên mãn trong Chúa Giêsu quang lâm. Và Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho kẻ dữ ăn năn sám hối để được tha thứ.
5. Bài dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng dạy ta bài học sau đây: mùa gặt, ngày tận thế là thời gian chín mùi để có thể kết án ai là cỏ lùng và tuyên dương ai là lúa tốt thực sự. Sự vội vàng xét đoán người thiện kẻ ác có nguy cơ khiến lúa tốt lại bị coi là cả lùng, cỏ lùng bị nhầm là lúa tốt. Hơn nữa, chính Chúa mới là chủ để đưa ra lời phán quyết chung thẩm. Trước mùa gặt cánh chung ấy, Chúa dạy chúng ta sống nhân từ, nhẫn nại giữa tình trạng lúa tốt xen lẫn cỏ lùng, người tốt kẻ xấu ở chung với nhau, ngay cả trong lòng một hội được gọi là Hội thánh của Ngài. Trong lĩnh vực tự nhiên, lúa tốt vẫn là lúa tốt, cỏ lùng mãi là cỏ lùng; thế nhưng, nơi cánh đồng tâm hồn con người thì không như vậy: người xấu có thể hoán cải trở thành bậc thánh nhân, và coi chừng người đang là tốt đây có thể biến chất mà thành kẻ tội lỗi (5 phút Lời Chúa).
6. Giáo hội là thân thể Đức Kitô. Giáo hội hiện diện trong trần thế như dấu chỉ của lòng kiên nhẫn và khoan dung của Đức Kitô. Sự kiên nhẫn và bao dung ấy được thể hiện qua cuộc sống yêu thương, tôn trọng và tha thứ của người Kitô hữu đối với mọi người, nhất là những người không cùng niềm tin và quan điểm với mình. Qua cuộc sống như thế, người Kitô hữu làm chứng rằng Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là ơn gọi đích thực của con người.
7. Truyện: Cải tà qui chính.
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này”. Tác phẩm thuật lại việc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tệ hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể khóc được... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: “Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: “Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: “Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
1. Vấn đề: Với lời rao giảng của Chúa Giêsu, Nước Trời đã bắt đầu thành lập. Vậy thì có nên để cho Nước Ma quỷ tiếp tục tồn tại không? Tại sao kẻ ác vẫn còn sống mãi bên cạnh người lành và làm hại người lành? Sao không giải quyết dứt khoát cho sớm đi?
2. Giải đáp: Chúa Giêsu trả lời qua dụ ngôn này rằng không nên nóng vội mà đòi cho cuộc thẩm phán diễn ra trước hạn kỳ mà Thiên Chúa đã định. Hiện tại cứ phải kiên nhẫn mà chờ, trong niềm xác tín rằng thế nào rồi cũng có Thẩm phán và khi đó số phận kẻ lành người dữ sẽ được phân định rõ ràng.
3. Ý nghĩa: Dụ ngôn này vừa mời gọi kiên nhẫn vừa mời gọi khiêm nhường.
- Kiên nhẫn: chờ cho đến kỳ hạn Chúa định.
- Khiêm nhường: trong khi chờ đợi Thiên Chúa xét xử ai là kẻ lành ai là người dữ, mỗi người không nên dành quyền xét xử ấy của Thiên Chúa để coi ai là lành ai là dữ, ai là lúa tốt ai là cỏ dại. Mỗi người hãy chỉ lo một việc cần thiết thôi là lo trung thành nghe và thực thi Lời Chúa.
4. Lạc quan: Thái độ của ông chủ ruộng thật là lạc quan.
. Khi tôi tớ đến báo động là có cỏ dại, ông khỏi cần suy nghĩ mà trả lời ngay rằng "kẻ thù đã gieo" (c 27-28).
. Tôi tớ hoảng sợ xin đi nhổ cỏ lùng, ông bảo "Đừng".
Ông chủ rất bình tâm chẳng chút ngạc nhiên và chẳng hề lo sợ, vì ông lạc quan tin vào khả năng của giống lúa, nó chẳng thế nào chịu thua sức mạnh của cỏ dại được.
B.... nẩy mầm.
1. Thế gian hiện tại có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Ngay trong con người tôi cũng có khuynh hướng tốt và khuynh hướng xấu đồng tồn tại. Tôi không nên có thái độ của những người tôi tớ trong dụ ngôn này, là khó chịu, tức bực. Nên có thái độ như ông chủ: bình tĩnh chấp nhận thực trạng, tích cực bồi dưỡng những yếu tố tốt và khắc phục những yếu tố xấu, lạc quan tin tưởng vào sức mạnh của cái tốt.
2. Tôi cũng không nên sốt ruột dành quyền của Chúa mà “nhổ cỏ” những người mà tôi coi là xấu.
3. Tôi nghĩ về những cái tốt và xấu trong con người tôi, nhất là nghĩ về sự kiên nhẫn của Chúa không vội trừng phạt những cái xấu của tôi. Một mặt tôi cám ơn Chúa đã thương cho tôi thời gian chứ không vội xét xử tôi, mặt khác tôi hứa sẽ tận dụng thời gian và cơ hội Chúa ban để dần dần tu sửa con người của mình.
4. Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện nhưng lại gồm những con người tội lỗi. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh nhưng cũng có một số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì có thể trở thành thánh thiện hơn. Các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta, còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Cứ để cả hai cùng lớn lên tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: Hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mt 13,30)
Trong lúc mọi người bận bịu ngoài vườn nho, kẻ trộm đã lẻn vào nhà mà chẳng ai hay. Khi có người biết được và tri hô lên thì bọn bất lương đã bỏ đi mất dạng sau khi đã vơ vét một số tiền lớn.
Thực là nỗi đau cho gia đình Mazarello. Cha mẹ nàng hầu như tuyệt vọng. Mazarello tìm lời ngọt ngào an ủi song thân. Nhưng thỉnh thoảng lòng căm hờn đối với bọn bất lương lại bừng cháy và những lời kết án được thốt lên. Mazarello đã ngăn cản: “Không! Chúng ta không có quyền kết án họ. Tốt hơn, chúng ta hãy cầu xin Chúa đánh động tâm hồn họ và khiến họ ăn năn trở lại. Chỉ vì dốt nát, nếu không họ đã chẳng làm điều đồi bại như thế”
Đức Kitô luôn hiện diện trong Giáo Hội như dấu chỉ của lòng kiên nhẫn và khoan dung. Ngài cũng mời gọi người kitô hữu sống yêu thương, tôn trọng và tha thứ đối với mọi người. Nhưng đã bao lần, tôi ý thức được điều đó?
Lạy Chúa, xin mở rộng cõi lòng của những người trẻ chúng con, để chúng con biết yêu thương thông cảm và luôn biết thứ tha. (Hosanna)
1. Nghe dụ ngôn cỏ lùng nầy, ai trong chúng ta cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói đến tình trạng của Nước Trời hay nói cụ thể hơn, đó là Giáo Hội của Chúa ở trần gian. Giáo Hội này bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu.
Chúng ta hãy nghe một mẩu chuyện nhỏ sau đây:
Susan giơ tay về phía những trẻ bụi đời đang phá phách trên đường phố, nói với người bạn của mình: "Đã hai ngàn năm từ khi Chúa Giêsu đến thế gian, nhưng thế gian vẫn đầy dẫy những người xấu. Ngài chẳng thay đổi được gì".
Người bạn của Susan nhìn qua bên trái, bên phải thấy những trẻ mặt mày lem luốc, liền nói: "Xà bông đã phát minh từ hai ngàn năm nay, vậy mà vẫn còn đầy dẫy những khuôn mặt dơ bẩn".
Vâng! Thế giới xưa cũng như hôm nay luôn hiện hữu một thực tại chẳng mấy hoàn hảo, còn pha trộn cả tốt lẫn xấu. Đòi hỏi một thế giới hoàn toàn tốt đẹp tuyệt đối là một đòi hỏi không tưởng. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu nói đến một ruộng lúa có cỏ lùng. Nói thế, Ngài không cấm chúng ta nghĩ đến một số các loại cỏ dại khác hoặc là những cây lúa không trổ bông, hoặc chỉ là những bông lúa lép. Việc đó cho chúng ta thấy trong Giáo Hội của Chúa chẳng thiếu gì những Kitô hữu, chỉ có tên trong sổ rửa tội, có lẽ chưa đến mức độ đã trở thành "Cỏ lùng" nhưng họ là những "Cây vả không sinh trái". Những con người như thế cũng đâu khác gì cỏ lùng trong ruộng lúa. Nhưng đây mới chỉ là giai đoạn của Nước Chúa trên trần gian.
Chính vì thế mà khi kể dụ ngôn cỏ lùng và lúa, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy tất cả rồi sẽ tới ngày kết thúc cuối cùng. Chúa dùng hình ảnh một mùa gặt để diễn ta ngày sự thật này. Trong ngày ấy, Ngài sẽ làm công việc phân định dứt khoát, sẽ không tình trạng lẫn lộn cỏ lùng với lúa tốt, người lành và kẻ dữ. Mọi sự rồi sẽ được phân định rõ ràng. Người lành sẽ được hưởng hạnh phúc ngàn thu, kẻ dữ sẽ bị quăng vào lửa đời đời.
2. Trong khi chờ đợi ngày cuối cùng đó, mỗi người cần có thái độ như thái độ của ông chủ trong dụ ngôn. Đây cũng chính là thái độ mà Chúa Giêsu muốn dùng để ám chỉ về lòng kiên nhẫn, cảm thông của Thiên Chúa đối với loài người. Theo dụ ngôn, thì chúng ta thấy, cỏ lùng chẳng thể biến thành lúa tốt, và lúa tốt không bao giờ biến thành có lùng, nhưng nơi con người thì khác, không ai bị coi là xấu mãi mãi, và cũng không ai có thể tự phụ cho mình là tốt hoàn toàn. Nơi mỗi con người chắc chắn cũng có những cỏ lùng, tức là những khuyết điểm mà chúng ta phải cố gắng chừa bỏ để trở nên tốt hơn.
Vậy thì bài học ở đây là phải biết chấp nhận thực trạng đó.
Chúng ta cần học lấy bài học cảm thông, kiên nhẫn và bao dung của Thiên Chúa. Vinh quang, thành tựu tốt đẹp chỉ đến sau những nỗ lực cố gắng để vươn lên!
Xin được kết thúc bằng một câu chuyện.
Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến làm việc với một số anh em khác tại một xưởng dệt. Công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn, trên đó mỗi người ngày ngày dệt một phần được trao phó. Việc làm xem ra độc điệu và vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế, người tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:
- Trước khi tôi được sai đến đây, người ta nói với tôi về một công trình nghệ thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần vào. Bây giờ tôi chỉ thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái máy, tôi không thấy đâu là nghệ thuật cả.
Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với thầy như sau:
- Con ơi! Làm sao con thấy được công trình nghệ thuật chúng ta đang cộng tác để thực hiện, bởi những gì con đang thấy chỉ là mặt trái của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ trong công trình mà thôi.
Khi tấm thảm đã hoàn thành, người ta lật tấm thảm lại. Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào một tuyệt tác. Đó là bức tranh của ba vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường kim mà người tu sĩ trẻ ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói trên đầu Chúa Hài Nhi. Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất, giờ đây hiện lên như một kỳ công.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh.
Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8), Chúa yêu thương, quý mến, tôn trọng hết tất mọi người, vì mọi người là con cái của Chúa, Chúa không bỏ rơi một ai, cho dù con người chúng ta có tội lỗi đi chăng nữa, Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Vì thế, Chúa không hận, không ghét, không thù một ai cả, và cho đến muôn muôn đời, sẽ không bao giờ có điều này xảy ra nơi Chúa, muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương (x Tv 135).
Chúa nhân lành như vậy, thế mà khi con người chúng ta không chịu nghe lời dạy của Chúa. Chúng ta là những người con ngỗ nghịch, quậy phá Chúa, thậm chí còn thù ghét Chúa, chống đối Chúa luôn. Chúng ta thấy rất rõ trong bài Tin Mừng của Chúa hôm nay:
-Chúa trở về nhà, Chúa rao giảng Tin Mừng, người ta đến với Chúa quá đông đảo, đến nỗi Chúa và các tông đồ của Chúa không có thời gian để ăn uống, những người thân của Chúa lại đi bắt Chúa về vì cho rằng Chúa mất trí, không được bình thường (Mc 3, 20 – 21). Đây là trường hợp biểu hiện cho những người ghét Chúa.
-Những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão thì Giêrusalem đến chuyên để phá rối Chúa. Họ gieo rắc những suy nghĩ độc hại trong dân. Họ cho rằng Chúa không phải là Thiên Chúa làm người, thậm chí còn độc ác hơn, họ cho Chúa nhờ tướng quỷ Belgiêbum mà trừ quỷ (xMc 3, 22 – 30). Đây là biểu hiện cho những người có chức có quyền chống phá Chúa
-Ma quỉ la lối, hét toáng to tiếng, quậy phá làm cho đám đông theo Chúa ồn ào náo loạn mất trật tự, để người khác không có nghe tiếng Chúa rao giảng Tin Mừng, nhất là làm lộ danh tánh Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa để người ta bắt Chúa lên làm vua, làm ảnh hưởng sứ mạng cứu thế của Chúa (xLc 8, 26 – 39).
Tất cả ba trường hợp trên đây đã được Chúa nói đến trong bài Tin Mừng này: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất” (Mt 13, 24 – 25). Nhưng lòng Chúa thương xót vô cùng. Chúa không trừng phạt thẳng thừng những người chống đối, phá hoại Chúa như xưa Chúa đã phạt ông Adong và bà Evà ăn trái cấm, phản bội Chúa (xSt 3, 9 – 15). Chúa vẫn kiên trì chờ đợi, Chúa vẫn hy vọng tất cả con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa một ngày gần nhất: “Khi lúa lớn lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng lộ ra. Ðầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: “Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?” Ông đáp: “Người thù của ta đã làm như thế”. Ðầy tớ nói với chủ: “Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ”. Chủ nhà đáp: “Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta” (Mt 13, 26 – 30). Riêng ma quỷ thì không bao giờ trở về với Chúa được.
Lạy Chúa, chúng con được ở trong ruộng lúa của Chúa, nghĩa là chúng con được ở trong Giáo Hội của Chúa, chúng con rất an tâm, rất hạnh phúc vì chúng con được Chúa yêu thương, gìn giữ, bảo vệ, chở che chúng con, mặc dù chúng con còn tội lỗi, còn bao nhiêu điều xấu xa, làm ảnh hưởng đến người Chúa, nhưng Chúa vẫn thương chúng con, vẫn nhẫn nại đời chờ chúng con trở về với Chúa. Chúng con tạ ơn lòng Chúa nhân từ với chúng con. Xin Chúa đừng để chúng con sống xa lìa Chúa, xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con. Amen.