Bà sinh con trai. 08/09 – Thứ Hai tuần 23 thường niên – SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA. Lễ kính.
"Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần".
* Sinh nhật của Đức Maria vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gioan, vị Tiền Hô. Sinh nhật của Đức Maria loan báo Sinh Nhật của Đức Giêsu, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà Anna và ông Gioakim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét, thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ. Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng! Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác, bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được, thì Ngài đã làm cho em. Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao, sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Em bé ấy tên là Maria. Hôm nay Hội Thánh mừng sinh nhật của Đức Maria. Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao. Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn. Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi. Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu. Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ. Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do, không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn, dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ. Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse. Chị Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái. Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người, nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn của Chị. Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài. Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Chị ước mơ. Khác với bà Evà, Chị tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng. Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới. Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường. Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng. Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội. Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét. Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình. Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria. Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy. Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha, và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng. Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta. Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới. Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán. Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi, để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen. --------------------------------
Sứ điệp: Như Mẹ Maria, ta đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa vì Ngài luôn điều khiển mọi biến cố để thực hiện chương trình cứu độ loài người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xác tín về sự khôn ngoan tuyệt vời mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa cho Mẹ được sinh ra và chuẩn bị cho Mẹ mọi điều thiện hảo, để qua tiếng xin vâng của Mẹ, Chúa nhập thể nơi cung lòng Mẹ. Chính Thiên Chúa đã can thiệp và khởi đầu công trình cứu chuộc loài người hoàn toàn tốt đẹp. Trinh nữ Maria đã trở thành người Mẹ hoàn hảo mà vẫn trong trắng vô ngần. Phần thánh Giuse, dù với bao lo lắng, ưu tư, đã nên công chính hơn nhờ sự quyết tâm thi hành mọi lệnh truyền của sứ thần. Con xin thờ lạy sự khôn ngoan và quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Mẹ Maria đã vâng nghe Thánh Ý Thiên Chúa, đã đón nhận và sống thân mật với Chúa cả xác hồn. Nhưng Mẹ không giữ hạnh phúc cho riêng mình. Mẹ đem Chúa và hạnh phúc đến cho mọi người: Mẹ đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét để trao hồng phúc cho cả nhà; tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ giúp cho buổi tiệc trọn niềm hân hoan…
Xin cho con noi gương Mẹ, biết đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, sống thân mật với Chúa, và hơn nữa biết giới thiệu Chúa và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Xin cho con luôn kết hợp mật thiết với Thánh Thể, luôn gắn bó với Lời Hằng Sống, để rồi chia sẻ hạnh phúc với mọi người bằng đời sống bác ái yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con luôn làm theo Ý Chúa để niềm tin của con như Mẹ Maria, được trọn vẹn và hân hoan trong Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ. Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những trang đầu của Tin Mừng Thánh Matthêô. Qua những trang Tin Mừng đặc biệt này chúng ta có dịp suy niệm về Ơn gọi Thiên Chúa dành cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Thánh Sử Matthêô đã mở đầu chứng từ về Đức Giêsu Con Thiên Chúa với những lời sau đây: gia phả đức Giêsu Kitô, Con Vua Đavit, Con của Abraham..." (Mt l.l).
Đây là những lời loan báo về lòng từ bi Chúa đang và sẽ trải dài từ đời này sang đời khác, "vì lòng từ bi của ngài tồn tại muôn đời" (Cf Tv 100,5; l36).
Đọc lại đoạn Tin Mừng này hôm nay chúng ta thấy việc Chúa gọi Đức Maria để công tác vào chương trình cứu độ của Người thật là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này đã khởi sự và trải dài qua suốt dòng lịch sử của loài người.
1. Mầu nhiệm của tiếng Chúa gọi.
Vâng điều đầu tiên chúng ta gặp khi đọc bản văn này là mầu nhiệm tiếng Chúa gọi. Sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương, không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí, và nhiều khi còn là điều gây gương mù nữa.
Chẳng hạn, trong sách gia phả Đức Giêsu Kitô, chúng ta thấy Abraham thay vì chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac, con của lời hứa, con của bà Sa-ra, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc lại chúc lành cho Gia-cóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Gia-cóp cũng không trực tiếp thông truyền sự nối dõi giòng giống dẫn tới Đấng Messia. Ông đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, người giỏi giang hơn tất cả các anh em, người đã tha thứ cho anh em mình và cứu họ thoát khỏi nạn đói ở Ai Cập. Nhưng lại chọn Giuđa, người con thứ tư, người đã cùng với các anh em khác chịu trách nhiệm về việc bán Giuse cho các lái buôn để họ đưa cậu sang Ai Cập.
Nếu việc Thiên Chúa chọn lựa các tiền nhân của Đấng Messia là một mầu nhiệm làm cho chúng ta chú ý thì việc Chúa chọn Đức Maria để cộng tác với Người lại càng làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn. Để chuẩn bị cho Con của Người nhập thể, Thiên Chúa đã không chọn những bậc cung vương quyền thế, đã không chọn những con người giỏi giang xuất chúng…. nhưng Người đã chọn một cô thôn nữ bình thường, một người con gái sống ở một nơi chẳng ai màng tới, một thiếu nữ nhà quê nghèo nàn lạc hậu. Vâng đó là công việc của Chúa.
Xét như vậy thì chúng ta thấy chẳng ai trên trần gian này xứng đáng để được Thiên Chúa chọn, chẳng ai được chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi của Chúa. Chúng ta hãy nghe lại lời của tiên tri Giêrêmia như một kinh nghiệm: Chúa đã nói: "Ta đã yêu thương con bằng tình yêu đời đời" (Ger 3,1,3). Hay như lời tiên tri Isaia "Từ lòng mẹ, Chúa đã gọi tôi" (Is 49,1). Như vậy điều làm cho một thụ tạo hãnh diện, đó là ý thức mình được gọi và được chọn vì tình thương.
2. Mầu nhiệm của tội lỗi và ân sủng
Rồi nếu chúng ta đi xa hơn một chút nữa: khi xét tên của các Vua ở trong sách gia phả Đức Giêsu, chúng ta lại có thể nhận ra rằng chỉ có hai vị là trung thành với Thiên Chúa, đó là Ezechiel và Geroboam. Những vua khác đều là những kẻ thờ thần tượng, vô luân, sát nhân... Cả trong thời kỳ sau cuộc lưu đày, trong số các vua được kể tên, chúng ta chỉ thấy có hai người còn trung thành với Chúa, đó là Salathiel và Zorobabel. Những vua khác đều là những kẻ tội lỗi hoặc không được biết đến.
Riêng đối với Đavid, người nổi danh nhất trong các vua vì từ dòng dõi này Đấng Messia đã được sinh ra thì sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: Ngài đã công khai xưng thú các tội ngoại tình và sát nhân trong các Thánh Vịnh do Ngài viết. Hẳn anh chị em đã có lần nghe những lời được viết trong nước mắt và cay đắng trong Thánh Vịnh 50, một Thánh vịnh đã trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của Giáo Hội.
Cả những phụ nữ, những người mà Mathêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động.
Tất cả họ đều là những phụ nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mãi dâm, Rut là một người ngoại bang và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói "đó là vợ của ông Uria" . Người đàn bà đó chính là bà Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Tuy nhiên, từ dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác này đã phát sinh ra một nguồn nước trong, và khi càng đến thời gian của Chúa thì giòng nước ấy càng trở nên sung mãn. Đến Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Đấng Messia thì tất cả đã trở nên kỳ diệu đến lạ lùng.
Như vậy danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy phải tuyên dương mầu nhiệm từ bi của Thiên Chúa. Chúng ta thấy trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối Ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài. Vậy mà các vị lại trở nên những cột trụ của Giáo Hội. Chúng ta thấy ở thế gian này, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, thì họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng nổi danh, hoặc sự cao cả của mình... Còn đối lịch sử ơn Cứu độ thì đây quả là một trường hợp duy nhất, thật đáng ngưỡng mộ, khi thấy một dân tộc không hề muốn dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sự chính thức của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về những công trình kỳ diệu Chúa đã thực hiện giữa chúng ta đặc biệt qua việc tuyển chọn một người phụ nữ ở giữa loài người chúng ta để Người trở thành Mẹ của Thiên Chúa và Mẹ của cả loài người.
Với biến cố nhập thể, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm cho Nước của Người hiện diện giữa chúng ta. Và như Đức Giêsu đã nói Nước ấy đang tăng trưởng từ từ, âm thầm, như một hạt cải… . Giữa sự viên mãn của thời gian và tận thế, Giáo Hội đang hành trình như một Dân tộc hy vọng. (HY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận)
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa --------------------------------
Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria nhằm hướng tới ngày trọng đại: sinh ra Đấng Cứu Thế. Tiếp đến “Đấng được sinh ra làm con một người đàn bà và sống dưới Lề luật” (Gl 4,4) đã cho chúng ta được sinh lại làm con cái Chúa. Đức Maria sinh ra trong ơn thánh, không vướng mắc nguyên tội. Còn chúng ta được khỏi tội tổ tông nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta mới được sự sống mới.
Chúng ta mừng Sinh nhật Đức Mẹ với niềm hạnh phúc vì luôn có Mẹ trong cuộc sống, như “Trong tiệc cưới Cana có thân mẫu Đức Giêsu” (Ga 2,1). Với Mẹ Maria chúng ta có được bông hồng cài áo. Đây là tập tục dễ thương của người Nhật, để tôn kính hiền mẫu, đã sớm du nhập vào Việt Nam.
Mừng Sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta cũng nhớ đến ngày sinh của chúng ta, để “Sao được cho ra cái giống người” (Tú Xương), hơn nữa cho ra người con Chúa. Cũng là lúc chúng ta nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, cố gắng làm vui lòng các ngài, như gương sáng của Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
Thánh lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria xuất phát từ Giáo Hội Đông Phương, có lẽ từ thánh lễ cung hiến thánh đường dâng kính thánh Anna tại Giêrusalem; địa điểm của ngôi thánh đường được cung hiến được các tín hữu tin rằng đó là nơi sanh Đức Mẹ. Theo truyền thuyết khác thì Đức Maria được sinh tại Galilê.
Vào cuối thế kỷ thứ VII bên Giáo Hội Tây Phương, Giáo Hoàng Sergius (687-701) xác nhận có 4 thánh lễ được cử hành trong năm để kính Đức trinh nữ Maria trong phụng vụ Rôma:
- lễ Truyền Tin
- lễ Hồn xác về trời
- lễ sinh nhật và
- lễ “Gặp gỡ” (tức lễ nến ngày 2.2)
Từ ngày Sinh Nhật này (đương nhiên không có một chứng cứ khoa học nào cả!) người ta xác định ngày thụ thai là ngày 8.12.
Sự kiện cụ thể là thánh lễ này được cử hành long trong phụng vụ, cho chúng ta thấy rõ, các tín hữu lúc đó đã xác tín rằng Đức Maria khi được sinh ra đời không vương chút tội nào (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh).
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này (và toàn bộ Tân Ước) không cung cấp cho chúng ta những chi tiết cần thiết để chúng ta biết lý lịch của Đức Maria, chỉ có vài chi tiết liên quan tới Chúa Giêsu thôi:
- Người là Mẹ của Chúa Giêsu
- Người thụ thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần.
- Người được Thánh Giuse mang về nhà để chăm sóc.
Từ sự kiện Thánh Kinh không quan tâm tới lý lịch Đức Maria, chúng ta có thể hiểu rằng: Maria chỉ là một con người tầm thường, sở dĩ Người được nên cao trọng là hoàn toàn do vận mạng của Người đã gắn liền với vận mạng của Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Một khối đá chẳng là gì cả, nhưng nếu được giao trong tay một nhà điêu khắc tài ba thì nó sẽ trở thành một kiệt tác nghệ thuật. Con người cũng chẳng là gì cả nhưng nếu để cho Chúa hướng dẫn đời mình thì người đó sẽ trở thành một kiệt tác của Chúa. Đức Maria là như thế. Xin Chúa và Đức Mẹ giúp con biết để cho Chúa xử dụng con như xưa đã xử dụng Đức Mẹ.
2. Có những người sinh ra trên đời đã thực sự là một diễm phúc cho đời, chẳng hạn Đức Maria. Nếu không có Người thì công trình cứu độ của Thiên Chúa đã không được thực hiện. Có những người khác sinh ra chỉ làm hại cho đời, “thà nó đừng sinh ra còn hơn”.
Phần con, lạy Chúa, xin cho con biết việc con sinh ra trên đời này có đem lại lợi ích gì cho anh chị em con không, hay con chỉ làm chật đất, tốn cơm và khổ sở cho họ.
3. Trong đoạn Tin Mừng này, số phận Đức Maria đang như ngàn cân treo sợi chỉ: nếu thánh Giuse rước Người về nhà thì mọi việc khác được giải quyết êm thắm, nhưng nếu thánh Giuse tố giác Người thì Người sẽ bị ném đá. Thế mà chúng ta không thấy Người làm gì và nói gì cả. Người phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho Người mang thai Ngôi Hai thì Thiên Chúa sẽ lo liệu cho Người.
Lạy Chúa, xin thêm cho con tinh thần phó thác trong khi thi hành nhiệm vụ Chúa giao.
4. Một nông dân trồng bụi tre nơi góc vườn. Thân tre mỗi ngày mỗi cao lớn, thẳng đuột. Ngày kia, người ấy đến nói với cây cao nhất: “Này bạn, ta cần bạn. ”Cây tre nói: “Thưa ông, tôi sẵn sàng, ông cứ sử dụng tôi theo ý ông”
- Được, ta sẽ xẻ anh ra làm đôi.
Nghe thế, cây tre phản đối:
- Xẻ tôi? Sao vậy? Trong vườn có cây nào đẹp hơn tôi đâu? Xin ông đừng...Ông dùng tôi thế nào cũng được, nhưng xin đừng xẻ tôi ra...
- Nếu không xẻ anh ra thì anh chả được việc gì.
Một làn gió nhẹ thổi qua, cây tre cúi đầu thở dài: “Thưa ông, nếu chỉ còn cách đó, thì xin ông cứ làm theo ý ông”.
Người nông dân nói tiếp: “Ta sẽ tước bỏ hết các cành của ngươi”
- Ông tước cành tôi? Như vậy còn gì là vẻ đẹp của tôi? Lạy Chúa, xin ông thương đừng làm thế...
- Nếu không tước cành, anh chả được việc gì.
Gió thổi mạnh hơn. Cây tre quằn quại trong gió và nắng. Rồi nó mạnh dạn thưa: “Thưa ông, xin ông chặt tôi đi”.
Ông chủ nói: “Bạn thân mến, thực thì ta buộc lòng phải làm bạn đau, phải tước cành, khoét đốt bạn; nếu không, ta không thể dùng bạn”.
Cây tre cúi rạp xuống đất nói: “Thưa ông, xin ông cứ việc chặt, dùng tôi theo ý ông”.
Người nông dân chặt tre, tước cành, xẻ đôi và lóc ruột làm thành cái máng chuyển nước từ dòng suối vào cánh đồng. Và sau đó, người nông dân có một vụ mùa bội thu. (Góp nhặt)
Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha mẹ của ngài là thánh Gioankim và thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioankim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria đã chào đời là để thực hiện ý Thiên Chúa, Mẹ đã mở rộng cửa trời để đón nhận mọi người và lời xin vâng làm Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúng ta cử hành lễ sinh nhật Đức Mẹ, vì từ nơi ngài đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính, là Đức Kitô, Thiên Chúa chúng ta (Ca nhập lễ, lễ sinh nhật Đức Mẹ). Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ, nhân loại được hạnh phúc vì công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã ló rạng qua việc chào đời của người nữ tử Sion mang danh Maria.
Câu chuyện
Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, khách hành hương thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (x. Ga 5,1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của thánh Gioakim và thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra.
Giáo hội Đông phương cũng như Tây phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ từ thế kỷ VI. Đến thế kỷ X, lễ được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này… Khi canh tân phụng vụ, Đức Piô X bỏ lễ vọng và tuần tám ngày và truyền lễ sinh nhật Đức Mẹ như hiện nay.
Suy niệm
“Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nảy sinh từ gốc Giêsê” (Phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Giáo hội Ðông phương).
Sự son sẻ được sinh con của Anna gợi lên chủ đề quen thuộc trong Cựu ước, theo đó con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa. Điều này được nhấn mạnh đặc biệt trong truyền thống về các tổ phụ Isaac, Giacob và Giuse… Định mệnh của Thiên Chúa chỉ bởi Thiên Chúa mà thôi. Sách Nguỵ thư của thánh Giacôbê có ghi: Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: Bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Maria trong đền thờ cho Thiên Chúa khi Maria được 3 tuổi, song thân dẫn Maria lên đền thờ tại Giêrusalem như một món quà dâng lên Chúa.
Đức Maria, người thiếu nữ Sion, một thiếu nữ Nadarét, qua lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay ai cũng biết Bà là Mẹ Đấng Cứu Thế (x. Mt 1,18-23). Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị Maria cho sứ mạng trở nên Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Thế nhân gian. Ngài cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là con người trọn vẹn và Maria được chọn để làm người mẹ ấy. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao, ngày Maria chào đời chan chứa mừng vui và hy vọng.
Chính vì Maria là cung lòng, là ngai cho Con Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên thai nhi, Maria còn trong bụng mẹ được Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc Maria trong tình yêu: Được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Maria đã lớn lên thành một thiếu nữ, đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái: Lập gia đình khi đính hôn với Giuse. Tuy nhiên tình yêu và hôn nhân với Giuse mang ý nghĩa mới: Cộng tác vào chương trình cứu độ. Maria luôn đáp trả xin vâng và tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào thánh ý Ngài. Cuộc đời của Maria như một bài ca bất tận: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 13,6).
Chúng ta mừng sinh nhật Đức Maria trong lời cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương sắp đặt cho nhân loại có một người Mẹ tuyệt vời, cùng hiệp lòng dâng lên Mẹ Maria những lời ngợi khen vì Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ muôn vàn ân phúc… “vì Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30).
Ý lực sống:
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).
Hôm nay chúng ta mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ. Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những trang đầu của Tin Mừng Thánh Matthêô. Qua những trang Tin Mừng đặc biệt này chúng ta có dịp suy niệm về Ơn gọi Thiên Chúa dành cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Thánh Sử Matthêô đã mở đầu chứng từ về Đức Giêsu Con Thiên Chúa với những lời sau đây: gia phả đức Giêsu Kitô, Con Vua Đavit, Con của Abraham..." (Mt l.l).
Đây là những lời loan báo về lòng từ bi Chúa đang và sẽ trải dài từ đời này sang đời khác, "vì lòng từ bi của ngài tồn tại muôn đời" (Cf Tv 100,5; l36).
Đọc lại đoạn Tin Mừng này hôm nay chúng ta thấy việc Chúa gọi Đức Maria để công tác vào chương trình cứu độ của Người thật là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này đã khởi sự và trải dài qua suốt dòng lịch sử của loài người.
1. Mầu nhiệm của tiếng Chúa gọi.
Vâng điều đầu tiên chúng ta gặp khi đọc bản văn này là mầu nhiệm tiếng Chúa gọi. Sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương, không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí, và nhiều khi còn là điều gây gương mù nữa.
Chẳng hạn, trong sách gia phả Đức Giêsu Kitô, chúng ta thấy Abraham thay vì chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac, con của lời hứa, con của bà Sa-ra, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc lại chúc lành cho Gia-cóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Gia-cóp cũng không trực tiếp thông truyền sự nối dõi giòng giống dẫn tới Đấng Messia. Ông đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, người giỏi giang hơn tất cả các anh em, người đã tha thứ cho anh em mình và cứu họ thoát khỏi nạn đói ở Ai Cập. Nhưng lại chọn Giuđa, người con thứ tư, người đã cùng với các anh em khác chịu trách nhiệm về việc bán Giuse cho các lái buôn để họ đưa cậu sang Ai Cập.
Nếu việc Thiên Chúa chọn lựa các tiền nhân của Đấng Messia là một mầu nhiệm làm cho chúng ta chú ý thì việc Chúa chọn Đức Maria để cộng tác với Người lại càng làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn. Để chuẩn bị cho Con của Người nhập thể, Thiên Chúa đã không chọn những bậc cung vương quyền thế, đã không chọn những con người giỏi giang xuất chúng…. nhưng Người đã chọn một cô thôn nữ bình thường, một người con gái sống ở một nơi chẳng ai màng tới, một thiếu nữ nhà quê nghèo nàn lạc hậu. Vâng đó là công việc của Chúa.
Xét như vậy thì chúng ta thấy chẳng ai trên trần gian này xứng đáng để được Thiên Chúa chọn, chẳng ai được chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi của Chúa. Chúng ta hãy nghe lại lời của tiên tri Giêrêmia như một kinh nghiệm: Chúa đã nói: "Ta đã yêu thương con bằng tình yêu đời đời" (Ger 3,1,3). Hay như lời tiên tri Isaia "Từ lòng mẹ, Chúa đã gọi tôi" (Is 49,1). Như vậy điều làm cho một thụ tạo hãnh diện, đó là ý thức mình được gọi và được chọn vì tình thương.
2. Mầu nhiệm của tội lỗi và ân sủng
Rồi nếu chúng ta đi xa hơn một chút nữa: khi xét tên của các Vua ở trong sách gia phả Đức Giêsu, chúng ta lại có thể nhận ra rằng chỉ có hai vị là trung thành với Thiên Chúa, đó là Ezechiel và Geroboam. Những vua khác đều là những kẻ thờ thần tượng, vô luân, sát nhân... Cả trong thời kỳ sau cuộc lưu đày, trong số các vua được kể tên, chúng ta chỉ thấy có hai người còn trung thành với Chúa, đó là Salathiel và Zorobabel. Những vua khác đều là những kẻ tội lỗi hoặc không được biết đến.
Riêng đối với Đavid, người nổi danh nhất trong các vua vì từ dòng dõi này Đấng Messia đã được sinh ra thì sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: Ngài đã công khai xưng thú các tội ngoại tình và sát nhân trong các Thánh Vịnh do Ngài viết. Hẳn anh chị em đã có lần nghe những lời được viết trong nước mắt và cay đắng trong Thánh Vịnh 50, một Thánh vịnh đã trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của Giáo Hội.
Cả những phụ nữ, những người mà Mathêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động.
Tất cả họ đều là những phụ nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mãi dâm, Rut là một người ngoại bang và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói "đó là vợ của ông Uria" . Người đàn bà đó chính là bà Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Tuy nhiên, từ dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác này đã phát sinh ra một nguồn nước trong, và khi càng đến thời gian của Chúa thì giòng nước ấy càng trở nên sung mãn. Đến Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Đấng Messia thì tất cả đã trở nên kỳ diệu đến lạ lùng.
Như vậy danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy phải tuyên dương mầu nhiệm từ bi của Thiên Chúa. Chúng ta thấy trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối Ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài. Vậy mà các vị lại trở nên những cột trụ của Giáo Hội. Chúng ta thấy ở thế gian này, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, thì họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng nổi danh, hoặc sự cao cả của mình... Còn đối lịch sử ơn Cứu độ thì đây quả là một trường hợp duy nhất, thật đáng ngưỡng mộ, khi thấy một dân tộc không hề muốn dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sự chính thức của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về những công trình kỳ diệu Chúa đã thực hiện giữa chúng ta đặc biệt qua việc tuyển chọn một người phụ nữ ở giữa loài người chúng ta để Người trở thành Mẹ của Thiên Chúa và Mẹ của cả loài người.
Với biến cố nhập thể, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm cho Nước của Người hiện diện giữa chúng ta. Và như Đức Giêsu đã nói Nước ấy đang tăng trưởng từ từ, âm thầm, như một hạt cải.. . Giữa sự viên mãn của thời gian và tận thế, Giáo Hội đang hành trình như một Dân tộc hy vọng.(HY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận)
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa --------------------------------
ôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ.
Lễ Sinh Nhật Mẹ đã được Đức Giáo Hoàng Sergiô I sống vào thế kỷ thứ VlI đưa vào trong Phụng vụ Giáo Hội. Cuộc đời của Mẹ Maria luôn luôn gắn liều với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Lúc bước vào thế gian với hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã là một khởi đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu rỗi. Vì thế, nếu chúng ta vui mừng với biến cố Nhập Thể và Sinh nhật của Chúa Giêsu trong lịch sử nhân loại, thì chúng ta cũng phải vui mừng và sung sướng đón mừng ngày Sinh nhật của Mẹ Maria, một người phụ nữ đã được chào chúc là Đấng “Đầy tràn ơn sủng”, và luôn "được Thiên Chúa ở cùng".
Mừng sinh nhật có nghĩa là chúng ta mừng ngày Mẹ được Chúa cho sinh ra trên cõi đời này. Việc Mẹ được sinh ra xét về phương diện trần thế thì chẳng có gì khác với mọi người. Mẹ cũng được cưu mang, cũng cất tiếng khóc chào đời. Mẹ cũng được nuôi nấng và lớn lên từ những giòng sữa của người đàn bà. Đó là bà Anna. Điều khác ở nơi Đức Mẹ là vì Đức Mẹ đã được Chúa tiền định cho Mẹ có một vai trò rất đặc biệt trong chương trình cứu độ của Người.
Với hai tiếng Xin Vâng, Mẹ đã trở thành dụng cụ trong trong bàn tay kỳ diệu của Thiên Chúa. Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã cho con của mình được trở thành một Con Người, một con người bằng xương bằng thịt giữa loài người. Mẹ đã dùng những dòng máu, và chia sẻ xương thịt của mình để làm nên xương thịt của Chúa Giêsu. Mẹ đã dùng những giòng sữa quí báu của mình để Chúa Giêsu được lớn lên. Bằng sự chăm lo của một người Mẹ dành cho một người con, Mẹ đã làm cho Chúa Giêsu được trở thành một Con Người, một con người như mọi người ở giữa, ở với loài người để rồi từ đó Chúa thực hiện chương trình cứu độ Chúa Cha trao cho Người.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã cho Mẹ được sinh ra làm người.
Chúng ta cám ơn Chúa đã chọn Mẹ Maria để cộng tác với Chúa trong chương trình Cứu Độ.
Chúng ta cám ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria thật nhiều đặc ân để Mẹ có thể chu toàn được sứ mệnh Chúa trao phó trong chương trình cứu nhân độ thế của Chúa.
Ngày nay Mẹ đã về trời. Mẹ được về trời với cả hồn xác nghĩa là Mẹ về trời bằng cả con người mà Mẹ đã sống trên trần gian. Mẹ về trời vừa để làm mẫu gương cho chúng ta, vừa làm Đấng phù trợ đắc lực và đầy uy quyền cho cả loài người.
2. Vậy nhân dịp mừng lễ Sinh Nhật của Đức Mẹ hôm nay, một đàng chúng ta hãy cảm tạ Chúa. Nhưng đàng khác chúng ta cũng hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được biết sống thế nào cho tốt để mai sau chúng ta được cùng với Mẹ hưởng hạnh phúc đời dời.
Thế nhưng phải sống thế nào đây? Đó là một câu hỏi mà mỗi người phải tự tìm ra cho mình một câu trả lời.
Vào thứ bảy 19/09/1989, ông John Ivan mừng lễ sinh nhật thứ 112, và người con trai duy nhất của ông lúc đó cũng đã 78 tuổi. Hai cha con sống yên lành tại một thành phố nhỏ Lancashire, miền tây Anh Quốc. Và nhân dịp mừng sinh nhật thứ 112 này, trả lời cho hãng thông tấn ASB đến phỏng vấn, ông John Ivan đã trình bày bí quyết sống lâu của ông bằng một bảng lề luật "bốn không một có". Bốn không là:
- Không hút thuốc. - Không uống rượu. - Không giận ghét chửi rủa kẻ khác. - Không bài bạc gian tham.
Và một có là: Có tinh thần hòa hợp với mọi người.
Trước đó không lâu, ông John Ivan cũng đã lãnh được giải thưởng "người có quả tim vàng" vì lòng tốt đại độ của ông đối với mọi người xung quanh.
Nếu để kéo dài cuộc sống trên trần gian này dài thêm thì ông John Ivan vẫn phải thực hiện bí quyết sống "bốn không một có" như ông đã làm. Vậy thì thử hỏi nếu cuộc sống trên trần gian mà còn phải có những quy luật như vậy thì để được có sự sống đời đời chúng ta càng phải có những quy luật khắt khe như thế nào?
Chúng ta hãy nhớ lại câu truyện chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Anh ta đã đến hỏi Chúa về bí quyết để được sống đời đời: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Trước hết Chúa Giêsu nhắc lại cho anh ta những điều kiện căn bản, trong đó cũng bao gồm cả những bí quyết giống như bí quyết "bốn không một có" của ông John Ivan trên đây, đó là:
- Không gian dâm, - Không giết người, - Không làm chứng gian, - Không làm hại ai - và một có là hãy thảo kính cha mẹ.
Đó là bí quyết "bốn không một có".
Chàng thanh niên đã trả lời cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi đã giữ cẩn thận các điều ấy từ thuở nhỏ". Đối với cuộc sống ở đời được như vậy đã là quí lắm. Nhưng cuộc sống đời đời đòi hỏi một điều gì hơn nữa.
Tin Mừng Marcô ghi tiếp: "Bấy giờ Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh rồi bảo: anh còn thiếu một điều nữa là hãy đi bán tất cả gia tài và lấy tiền làm phúc cho kẻ nghèo khó, anh sẽ được một kho báu trên trời rồi đến đây theo Ta". Anh ta đáp lại thế nào? Tin Mừng ghi: "Nghe lời ấy anh buồn rầu và chán nản bỏ đi vì anh có nhiều của cải lắm". Anh ta đã chọn của cải trần gian hơn là chọn đi theo và sống kết hiệp với Chúa Giêsu. Anh ta đã đặt giá trị vật chất lên trên cả việc đi theo Chúa để làm môn đệ cho Ngài.
Có thể chúng ta ngày hôm nay, nhiều người chúng ta cũng hành động giống như thế. Chúng ta không dám chọn Chúa và đặt Ngài làm chỗ nhất trong đời sống chúng ta. Và nếu không làm nổi việc này thì chúng ta khó mà sống an vui trên trần gian này và khó mà hưởng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, như Mẹ Maria thuở xưa, mỗi người Kitô chúng con đã được Chúa mạc khải cho biết bí quyết sống hạnh phúc, sống an vui, sống đời đời. Ðó là sống theo Chúa, kết hiệp với Chúa và sống như Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con thực hành điều Chúa đã truyền dạy và cố gắng sống như Mẹ Maria đã sống thuở xưa để mai ngày chúng con được về huởng hạnh phúc cùng Mẹ trên trời. Amen.
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã được cứu thoát.
Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy?
Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
Hôm nay, lễ sinh nhật Ðức Mẹ, quyển gia phả của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và trong ngày sinh của Ðức Mẹ có một ý nghĩa đặc biệt. Quyển gia phả này được chia thành 3 phần: Phần thứ nhất kể tên các vị tổ phụ, phần thứ hai nhắc đến các vua trước thời lưu đày bên Babylon, và phần thứ ba dành cho các vua sau thời lưu đày.
Tất cả những tên tuổi được nhắc đến trong quyển gia phả của Chúa Giêsu gợi lên cho chúng ta chương trình và sự lựa chọn vô cùng lạ lùng của Thiên Chúa.
Quả thật, gia phả của Chúa Giêsu như được thánh Máthêu dựng lại là một dòng sông lịch sử được dệt bởi rất nhiều tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại cũng là lịch sử của tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu cũng đã hành xử theo cung cách ấy của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Phêrô là kẻ đã chối Ngài, Ngài đã chọn Phaolô là kẻ đã bách hại Giáo Hội của Ngài.
Thông thường, khi viết về lịch sử của dân tộc, người ta thường che dấu những thất bại để chỉ đề cao những chiến thắng, các bậc anh hùng và những hành động lẫm liệt của họ. Lịch sử của ơn cứu độ đã không được viết như thế, Thiên Chúa đã viết thẳng bằng những đường cong, Ngài đã chọn viên đá bị loại ra làm viên đá góc tường, Ngài đã chọn những con người yếu đuối và tội lỗi để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Chính trong dòng sông đầy tội lỗi ấy mà Mẹ Ngài đã được sinh ra để chuẩn bị cho Ngài một chỗ trong lịch sử nhân loại. Chính vì là thành phần của một nhân loại tội lỗi mà Mẹ mới có thể sinh ra Chúa Giêsu như một con người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính vì sinh ra trong một gia đình tội lỗi mà Mẹ mới có thể cảm thông với những yếu đuối bất toàn của kiếp người. Chính vì gắn liền với một lịch sử đầy những phản bội hất ngã mà Mẹ mới là nơi nương tựa cho những người tội lỗi. Còn lời kinh nào xứng hợp để dâng lên Mẹ trong ngày sinh của Mẹ cho bằng lời kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".
Ma-ri-a là nguồn cậy trông vì lý do tối cao của Mẹ để sống chính là Thiên Chúa. Mẹ sống vì Chúa. Mẹ khao khát làm theo thánh ý Chúa “Này tôi là tôi tớ Chúa, mong sao lời Chúa đến với tôi”. Mẹ sống vì con để chia sẻ ước muốn của con cứu độ thế giới để giải thoát mọi người khỏi áp chế của sự dữ. Mẹ cộng tác vào sứ vụ của Con. Mẹ dâng lời cầu nguyện hiến lễ cho nước Chúa ngự đến. Mẹ kết hiệp những đau đớn của Mẹ với đau đớn của Con.
Thiên Chúa là nguồn hy vọng của Ma-ri-a
Ma-ri-a hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Mạnh mẽ hy vọng, Mẹ có thể đương đầu với mọi hoàn cảnh đau khổ, dù thật bi đát. Mẹ chịu đau khổ khi Đức Giê-su bị hiểu lầm, bị oán ghét. Lòng Mẹ bị xâu xé, khi mẹ đứng dưới chân thánh giá để chứng kiến con hấp hối.
Mẹ trong lòng lời trối cuối cùng của con khi Người phó Mẹ cho Gioan: “Thưa Bà, này là con Bà... Này là mẹ con...”
Trước xác con mẹ không một chút nghi ngờ lời Người đã nói: “Ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”. Con Mẹ đã sống lại và hằng sống ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Mẹ vui mừng về hạnh phúc và vinh quang của con Mẹ: “Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc”.
Hy vọng của chúng ta là gì?
Hy vọng của chúng ta bị suy nhược vì nó không đặt vững chắc trên nền tảng tốt lành và toàn năng của Thiên Chúa.
Mẹ Ma-ri-a là mẫu mực của lòng trông cậy. Mẹ mời gọi chúng ta đặt tất cả nguồn trí tri của chúng ta, con tim của chúng ta, ý chí của chúng ta làm theo lời kêu gọi trở về với Chúa, nâng cao cái nhìn của chúng ta vượt trên trái đất này để đến với ánh sáng lời Chúa, đến với nguồn an ủi trong tình yêu của Chúa, đến với nguồn sức mạnh toàn năng của Chúa.
“Sống giữa trần gian đầy bất công, chia rẽ, đói khổ, người Kitô hữu cẫn phải trở nên niềm hy vọng cho trần gian. Đây thật là một thách đố lớn lao; thách đố quét sạch mọi hận thù. Sự hiện diện của người Kitô đem lại Tin Mừng xây dựng. Thách đố này đang thiêu đốt con tim đem yêu thương mạnh mẽ vào nơi thất vọng”. (Schutz R... Violence despacifiques P. 158)
Ngày lễ sinh nhật Mẹ Maria hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc lại gia phả của Chúa Giêsu. Ta thấy, trong suốt chiều dài lịch sử thấy Thiên Chúa đã tuyển chọn gia tộc cho Người cách đặc biệt.
Hình ảnh bốn phụ nữ được Kinh Thánh nói đến như là một tiên báo cách kín đáo về Đức Kitô, Đấng sẽ đến để cứu độ những người tội lỗi, và đón nhận mọi dân mọi nước vào vương quốc của Người. Việc tuyển chọn những nhân vật này không phải là điều đáng tự hào vì lý lịch của họ. Nhưng tiêu chuẩn của Thiên Chúa khác với con người. Người chọn sự yếu kém để nói lên lượng từ bi của Người.
Đây là "gia phả của đức tin và ân sủng". Vì cho dẫu gia phả này được đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót Chúa, được chính Thiên Chúa can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt, khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài, không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người. Chính vì một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã sinh ra để cưu mang Chúa Giêsu Đấng cứu độ chúng ta
Mẹ Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang lầm lỗi. Mẹ đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Mẹ Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Mẹ đã làm cho có sự sống viên mãn.
Hôm nay là lễ sinh nhật Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu và là Mẹ chúng ta, chúng ta không thể không vui, và cùng nhau chúc mừng tuổi Mẹ. Ngày này phải là ngày vui chung của toàn thế giới, chứ không phải riêng cho một dân tộc hay một nhóm người nào. Bởi ngày sinh của Mẹ có liên quan trực tiếp đến biến cố Ngôi Lời Nhập Thể. Ngày Mẹ chào đời đánh dấu sự nối kết giữa Tân ước và Cựu ước, chấm dứt thời kỳ chờ đợi và những lời hứa, khai mở một thời kỳ mới, thời kỳ ân sủng và ơn cứu độ trong Đức Kitô. Mẹ thật xứng: "Đức Mẹ làm cho chúng con vui mừng".
Maria! Mẹ Ngôi Hai Con Chúa Chúc tụng Mẹ! Mừng Sinh nhật hôm nay Chúa thương Mẹ ban ơn phúc dư đầy Hình ảnh Mẹ, ngàn đời con ca tụng.
Quả thật, ngày sinh nhật của Mẹ đã khai mở lời hứa của Thiên Chúa bước đầu thành sự, đồng thời, Mẹ là Nữ Tử Sion, là hy vọng của nhân loại. Mẹ ra đời để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có cuộc sinh nhật của Mẹ, mới có sự ra đời của Đức Giêsu, có Đức Giêsu mới có Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, ngày sinh nhật của Mẹ đã được đặt vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, cứu độ. Mẹ như Sao mai dẫn lối đưa đường, Mẹ chính là hừng đông, là ánh bình minh báo trước Mặt trời công chính là Đức Kitô.
Vì thế trong ngày Đức Maria chào đời Giáo Hội đã kêu lên: "Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường nay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh".
Thánh Gioan Đamatsô đã dâng lời ca tụng: "Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!"
Vậy, hôm nay, mọi loài trên trời dưới đất hãy cùng nhau hoan hỷ và đồng ca, nhảy múa biểu lộ niềm vui bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như ở trên trần gian hãy họp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thọ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.
Khi mừng sinh nhật nhau, chúng ta thường tặng nhau những bó hoa, những món quà. Mừng ngày sinh nhật của Mẹ hôm nay: "mãi mãi nhân loại sẽ khơng ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa:
Chúng con tại thế tưng bừng, Cùng nhau ca hát vang lừng bốn phương. Tạ ơn Thiên Chúa tình thương, Chọn người Trinh Nữ ngát hương ngàn đời.
Chúng ta hãy quyết hái nhiều hoa xinh đẹp để dâng kính Mẹ, tỏ lòng mến yêu Mẹ bằng những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính Mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền tin, nguyện kinh cầu, một cách phi thường. Có nghĩa là miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Đức Giêsu cũng được thể thể hiện trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ. Với những lời chúc tốt lành nhất dâng về Mẹ cuộc sống hiện tại, quá khứ và tương lai làm món quà mừng Mẹ tuổi mới.
Mẹ sinh ra giữa muôn hoa hương ngát Với màu sắc lộng lẫy đẹp đất trời Mẹ rạng ngời trong hào quang vời vợi Cùng Triều Thần con Chúc khen mừng Mẹ. Amen.
Lễ Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria có liên hệ với việc cung hiến một đại giáo đường xây ở Jérusalem hồi thế kỷ V, tại nơi truyền thống vẫn xem là địa điểm nhà ông Gioakim và bà Anna, cạnh hồ tắm Bethzatha (Ga 5, 1-9). Từ thế kỷ XII, ngôi nhà thờ này, buổi đầu dâng kính Sinh nhật Đức Maria, được gọi là đền thờ thánh Anna. Lễ này, truyền sang phương Đông vào thế kỷ VI, được Đức giáo hoàng Serge I (+ 701) thiết lập tại Roma cùng với kiệu rước. Cuộc kiệu bắt đầu ở Saint-Adrien-au Forum đi đến đại giáo đường Libêrô, tức đền thờ Đức Bà Cả.
Tài liệu đầu tiên về lễ Sinh nhật Đức Maria có lẽ một bài ca vẫn còn của Romanos le Mélode (kh. 556), một bài thơ ca ngợi việc Đức Maria sinh ra, theo Ngụy phúc âm của thánh Giacôbê. Vào thế kỷ VII, thánh Jean de Damas đã có bài giảng lừng danh về sinh nhật Đức bà tại đại giáo đường thánh Anna. Có những cuốn ngụy thư khác kể về sinh nhật Đức Maria như Ngụy thư theo thánh Matthêu và phúc âm về sinh nhật Đức Bà, là tác phẩm sau này, được gán cho thánh Hiêrônimô. Ở phương Đông, lễ sinh nhật Đức bà mở đầu cho năm phụng vụ Byzantin bắt đầu vào đầu tháng chín. Tại Roma, lễ này có tuần tám ngày theo sau (quyết định của Đức Innocenl IV) và có lễ vọng (Đức Grégoire XI, năm 1378).
2. Thông điệp và tính thời sự
Tất cả phụng vụ lễ sinh nhật Đức bà đều tìm cách tạo cho lễ một nền tảng Thánh kinh
Lời nguyện trong ngày đặt quan hệ giữa việc đức Maria sinh ra với tư cách Mẹ Thiên Chúa vốn là “khởi đầu sự cứu rỗi chúng ta”. Tư tưởng đó cũng đã xuất hiện trong Điệp ca mở đầu: chúng ta hãy hân hoan mừng sinh nhật Đức trinh nữ Maria; “qua Mẹ, Mặt trời công chính đã đến với chúng ta…”. vậy nên đối tượng của lễ là chính Đức Giêsu. “Chúng ta hãy mừng Đức Trinh nữ Maria: hãy tôn thờ Con của Người” (ca dẫn nhập). “Chúng ta hãy ca tụng vinh quang của Đức Kitô hết tâm hồn khi cử hành lễ Mẹ rất thánh của Thiên Chúa” (Điệp ca giữa ngày). Điệp khúc ca vịnh Zacharie cũng ca ngợi như thế khi dịch từ apolitikion trong kinh chiều theo phụng vụ Byzantin: “Ôi Maria, ngày sinh của Mẹi loan báo niềm vui cho thế giới. Từ nơi Mẹ mặt trời công chính đã mọc lên. Đức Kitô đã biến tội lỗi thành ân sủng, sự chết thành cõi sống vĩnh hằng”. Cùng với lễ sinh nhật Đức Maria, đã mở ra thời kỳ các lễ sinh nhật trên trời (Ga 3,7) mang lại bình an. Vậy nên chúng ta cầu xin cho lễ này “mang lại bình an sung mãn cho chúng ta” (lời nguyện trong ngày), bởi vì lễ này “mang sự cứu rỗi thế giới một cách âm thầm, máu Chúa Kitô cứu chuộc Mẹ / nhưng chính Mẹ là nguồn gốc” ( Ca vãn Phụng vụ bài đọc). Lời nguyện tạ lễ lấy tinh thần từ sách lễ Paris, cũng trở lại đề tài này: “sinh nhật Đức Maria là nguồn vui, vì chính Mẹ cho thế giới được cậy trông và là bình minh của sự cứu rỗi”.
Đức giám mục Gortine là André de Crête (kh. 660 – 670) trong bài giảng lễ sinh nhật Đức Bà (phụng vụ bài đọc) cho chúng ta hiểu ý nghĩa hân hoan của lễ hôm nay: “Mọi tạo vật hãy ca hát và nhảy múa, hãy góp mình hết sức mình vào niềm hoan lạc của ngày hôm nay. Tất cả những gì hiện hữu trong thế giới hãy cùng phối hợp vào bản hòa tấu ngày lễ này. Vì hôm nay thánh đài đã được tạo tác làm nơi Đấng sáng tạo vũ trụ sẽ ngự, đang tới: và một thụ tạo, do sự sắp xếp hoàn toàn mới mẻ đó, đã được chuẩn bị để dâng lên Đấng tạo hóa một nơi cư ngụ thánh thiêng”.
Tông Huấn Marialis cultus (số 7) xếp lễ sinh nhật Đức Maria trong số các lễ “kỷ niệm những biến cố cứu rỗi trong đó Đức Trinh nữ đã phối hợp chặt chẽ với Con mình”. Vì quả thực, việc Người sinh ra đã là “bình minh báo hiệu ngày sắp tới” (Thánh thi phụng vụ bài đọc).
Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta. Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”. Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng. Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô. Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân. Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống. Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.
Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã dấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng. Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và Mẹ của toàn thể chúng sinh. Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng”. Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.
Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.
Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính... phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại. Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa. Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc. Và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Bà Êlisabét hạnh phúc khi được Đức Trinh Nữ Maria tới thăm, Tin Mừng của thánh Luca cho thấy bà Êlisabét vừa nghe lời Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:” Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc…” (Lc 1, 41-42). Việc bà Êlisabét tung hô mẹ Maria có một ý nghĩa rất đặc biệt. Mẹ là người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian này vì Mẹ đã đắc sủng nơi Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế và làm Mẹ của toàn thể nhân loại.
Thiên Chúa đã tô điểm cho công trình sáng tạo tuyệt vời của Ngài. Evà thứ nhất đã phản bội lại tình thương cao vời, tuyệt đối của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đuổi ông bà nguyên tổ ra khỏi vườn địa đàng. Nơi vườn diệu quang này, đáng lẽ ông bà tổ tiên của nhân loại sẽ vô cùng hạnh phúc vì ông bà nguyên tổ luôn diện đối diện với Thiên Chúa, được Thiên Chúa trò chuyện mỗi buổi chiều. Nhưng rồi, cái tên Evà đã bị lu mờ vì tội sa ngã: ”ăn trái cấm do sự xúi giục của ma quỉ”. Evà đã mang sự chết vào trần gian. Tuy nhiên tình thương của Thiên Chúa vẫn vượt trội trên mọi sự, mọi việc ở trần gian này. Ngài lại tô điểm lịch sử cứu độ của Ngài bằng cách chọn lựa một người nữ có tên là Maria, Evà mới. Maria, Evà mới nói lên tất cả. Vườn địa đàng từ nay thuộc về người nữ tử Sion. Evà mới điểm tô cho vườn địa đàng mà bà Evà cũ đã làm hư đi. Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang sa cơn nguy lầm. Maria đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm cho nó bị hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Evà mới đã làm cho nó có sự sống viên mãn.
Trình thuật của thánh Matthêu 1, 1-16.18-23 nói về gia phả của Chúa Giêsu. Quyển gia phả ấy nói lên một lịch sử đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lịch sử này được đan kết bằng biết bao sự kiện, biết bao vụ việc vừa tội lỗi, vừa u tối, nhưng lịch sử ấy lại được chính Thiên Chúa ghé mắt đoái thương và can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt và khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài. Thiên Chúa đã không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người, của loài người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người một. Chính vì sống trong một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã cảm thông và hiểu được tình trạng của con người. Chính vì sống trong một thế giới u sầu vì phản bội mà Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu hoàn toàn giống như mọi người và đặc biệt ngoại trừ tội lỗi. Maria tên đẹp tuyệt vời gói ghém tất cả lịch sử loài người, Mẹ đã cảm thông với mọi yếu hèn, tội lỗi của nhân loại, của con người, nên Mẹ đã trở thành nơi nương tựa vững chắc của nhiều người.
Mừng lễ sinh nhật của Mẹ Maria, mãi mãi nhân loại sẽ không ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa: ”Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta luôn tôn kính, mến yêu Mẹ và những tràng hoa Mân Côi, những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Còn lời kinh nào đẹp bằng lời kinh kính mừng chúng ta dâng lên Mẹ: ”Kính mừng Maria đầy ân phước Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giêsu Con lòng bà gồm phước lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: ”Lạy Mẹ, Mẹ Thiên chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”.
NGUỒN GỐC: Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, chúng ta thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (Gioan 5: 1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của Thánh Gioakim và Bà Thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra. Lễ kính Sinh Nhật Đức Maria có thể đã được mừng từ đầu thế kỷ thứ VI cùng với việc xây cất đền thờ gọi là Đền Sinh Nhật Đức Mẹ. Đền thờ này vào thế kỷ XII lại được đổi tên là Đền Thờ kính Bà Thánh Anna. Ngày nay, Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là “Lễ Kính” (có kinh Vinh Danh, có kinh Tiền Tụng riêng) trên toàn thể Giáo Hội.
Ý NGHĨA: Trong ngày Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, “chúng ta hãy hân hoan với tất cả tâm hồn, mừng kính việc sinh ra của Đức Trinh Nữ Maria, từ nơi Người đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Ca nhập Lễ).
Câu xướng trước Phúc Âm cũng ca tụng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, Mẹ diễm phúc, Mẹ xứng đáng mọi lời ca tụng; vì từ nơi Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” Theo Thánh Gioan Damascene, thì hôm nay chúng ta “muôn người như một, vui niềm vui của toàn thể nhân loại, ngày giao hoà của đất trời, ngày khởi đầu Ơn Cứu Độ nhân loại…”
Bài Đọc I trích trong sách tiên tri Mica (5: 1-4) nói đến thời một người nữ sẽ sinh ra… và cũng nói “hỡi Belem-Ephrata, ngươi là nơi thật nhỏ bé trong toàn cõi Giuđê, nhưng từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng Chăn Dắt Israel!” (Bài Đọc I cũng có thể lấy đoạn trích từ thơ Rôma (8: 28-30).
Bài Phúc Âm trích trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu (1: 1-16, 18-23) kể lại gia phả của Chúa Giêsu từ thời Abraham; đồng thời cũng kể lại việc Đức Maria chịu thai Chúa Giêsu (bởi quyền phép Chúa Thánh Thần), và việc Thánh Giuse vâng lời Sứ Thần truyền, rước Đức Maria về nhà như người vợ của mình.
SUY NIỆM: Ngày mừng Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria cũng là dịp để chúng ta nhớ đến ngày sinh ra của mỗi người chúng ta, để chúng ta nhìn vào cuộc đời của chính mình, tự nói với chính mình: “Tôi đã mừng sinh nhật thứ bao nhiêu? Tôi đã sinh ra đời được bao nhiêu năm? Tôi đã sống thế nào trong những năm tháng vừa qua như những người con của Chúa, của Mẹ Maria trong việc thánh hoá bản thân, trong việc phục vụ gia đình, xã hội và Giáo Hội Chúa? Tôi đã chu toàn thế nào bổn phận của người chồng, người vợ, của người Cha, người Mẹ, của những người con hiếu thảo? Tôi đã sống thế nào để xứng đáng là những người đã được Chúa yêu thương, gọi và chọn vào hàng Giáo Phẩm, vào đời sống tu trì như những Linh mục, Tu sĩ nam, nữ?
LỜI CẦU NGUYỆN: Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau khiêm tốn dâng lời cầu nguyện, xin Chúa thương thánh hóa đời sống mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết noi gương đời sống của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những Đấng đã luôn sống đẹp lòng Chúa, để chúng ta có thể sống một cuộc sống cao đẹp, biết quên mình, khiêm tốn phục vụ Chúa qua mọi người, nhất là những người đau khổ. Xin cho chúng ta luôn biết chung tay xây dựng gia đình, xã hội và thế giới, cũng như góp phần vào việc rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày trong cuộc sống.
Hôm nay mừng sinh nhật Đức Maria. Có thể nói: ngoài sinh nhật Chúa Giêsu, không có sinh nhật nào quan trọng, cần thiết và ích lợi cho nhân loại bằng sinh nhật của Đức Mẹ. Tuy nhiên, sinh nhật của Đức Maria chỉ diễn ra âm thầm. Về ngày sinh nhật của Đức Mẹ, kinh thánh không cho biết gì, Thánh truyền cũng không ghi lại gì cả, chỉ có một câu chuyện do một vị ẩn sĩ kể lại, được Thiên Chúa cho biết ngày 8 tháng 9 là ngày sinh nhật của Đức Mẹ. Có lẽ Giáo hội đã dựa vào câu chuyện này mà mừng sinh nhật Đức Mẹ vào ngày 8 tháng 9 chăng?
Về giáo lý và lòng tôn sùng đối với Đức Mẹ, lễ sinh nhật Đức Mẹ nhắc nhớ chúng ta hai điều. Thứ nhất, sinh nhật Đức Mẹ là rạng đông cứu rỗi. Chúng ta biết rạng đông đi trước mặt trời và báo hiệu mặt trời đến. Rạng đông là một khoảnh khắc tuyệt vời trước khi mặt trời mọc. Chúa Giêsu là mặt trời công chính, Mẹ Maria là rạng đông báo hiệu và đi trước mặt trời cao cả ấy; nghĩa là ròng rã bao nhiêu thế kỷ, nhân loại còn ở trong tối tăm, cho tới khi Đức Maria sinh ra, báo hiệu hừng dông cứu độ đã đến, báo hiệu ngày cứu chuộc sắp tới. Vì thế, trong kinh nguyện hôm nay, Giáo Hội nói lên rằng: “Lạy Nữ Vương, sinh nhật của Mẹ loan báo niềm vui cho toàn trái đất, vì mặt trời công chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, đã từ lòng mẹ sinh ra”. Do đó, chúng ta có thể nói: cũng như khúc nhạc dạo trước một bài hát, sinh nhật Đức Mẹ là dạo khúc của sinh nhật Chúa Giêsu.
Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta hôm nay, là hãy sống khiêm nhường và âm thầm như Đức Mẹ. Chúng ta thấy, người đời tin rằng: mỗi khi có một thánh nhân ra đời, thường có những chuyện lạ, và người ta hay thêu dệt những chuyện ly kỳ chung quanh đời sống của một vĩ nhân anh hùng.
Thế nhưng, ngày sinh nhật của Đức Maria, một thánh nhân trên mọi thánh nhân, lại không có chuyện lạ nào xảy ra. Đức Mẹ sinh ra hoàn toàn âm thầm và bình thường như mọi người.
Vì thế, sinh nhật Đức Mẹ cũng như cuộc đời Đức Mẹ dạy chúng ta đức khiêm nhường và thầm lặng. Thánh lễ chúng ta mừng kính Mẹ hôm nay là lời mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, thầm lặng. Ai muốn là kẻ lớn trước mặt Thiên Chúa thì phải ở ẩn khuất trước mặt mọi người. Công việc thực hiện cho Thiên Chúa càng lớn nếu người ta càng làm trong thầm lặng. Đó là gương mẫu và là bài học khôn ngoan Đức Mẹ dạy chúng ta.
Viết về Mẹ, nói về Mẹ sẽ không bao giờ cạn vơi ý tưởng, sẽ không bao giờ ngập ngừng, miễn cưỡng. Mẹ trần thế là niềm an ủi cho cuộc đời của con người gian trần. Nhưng, người Kitô hữu luôn hãnh diện vì có một người Mẹ trên trời, Mẹ thiêng liêng mà gần gũi mỗi người, mỗi con người. Mẹ có tên gọi Maria. Cái tên sao êm dịu và dễ mến. Maria gói trọn cả ý nghĩa loài người. Mừng sinh nhật của mẹ Maria, nhân loại sẽ không ngớt lời ca ngợi Mẹ.
I.MARIA, NGƯỜI LÀ AI?
Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha của Người là thánh Gioakim, mẹ của Người là bà thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioakim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria là người con duy nhất của thánh Gioakim và thánh Anna. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, xứ Galilêa, thuộc mạn Bắc Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn, thì kết hôn với Giuse thuộc chi họ vua Ðavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét.
Chính trong thời kỳ đính hôn, sứ thần Gabrien thừa lệnh Thiên Chúa đến với Maria khi Maria đang trong phòng cầu nguyện. Thiên Thần loan báo cho Maria hay cô sẽ thụ thai và sinh ra Ðấng Cứu Thế. Dù đã đính hôn, nhưng Maria đã quyết dâng trọn cuộc đời cho Thiên Chúa, nên Maria rất bối rối vì cô không biết đến người nam. Trước lời giải thích của sứ thần Thiên Chúa rằng" Cô sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nên sinh con, cô vẫn trọn đời đồng trinh". Tuy chưa hiểu hết,nhưng Maria đã thưa với sứ thần Gabrien: "Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền". Và chính lúc ấy, Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong cung lòng Ðức trinh nữ Maria.
Maria là Mẹ Ðấng cứu thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu.
II. SINH NHẬT CỦA ÐỨC TRINH NỮ MARIA CÓ Ý NGHĨA GÌ?
Dù Mẹ Maria được sinh ra trong một hoàn cảnh nghèo khó, tầm thường trước mặt người đời,trước mặt thế gian. Cuộc đời của Mẹ bao trùm bởi biết bao sự lạ. Maria đã được Thiên Chúa để ý, chọn lựa ngay từ trong cung lòng bà thánh Anna để sau này kết hôn với thánh Giuse, sinh ra Ðấng cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần, vẫn trọn đời đồng trinh và không bị người đời, xã hội nghi ngờ. Chính vì thế, ngày sinh ra của Ðức trinh nữ Maria là một ngày trọng đại, ngày vui mừng của toàn nhân loại, của thế giới, của lịch sử cứu độ. Hội Thánh đã cất vang lời chúc tụng Mẹ: "Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Ðức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu".
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong năm 1987 và năm 2002 khi về thăm quê hương Ba Lan của Ngài, thì cử chỉ đẹp nhất, đáng trân trọng nhất là việc Ngài viếng mộ song thân của Ngài. Viếng mộ song thân, Ðức Thánh Cha muốn gióng lên tiếng nói thâm sâu hãy hiếu thảo với cha mẹ, hãy bảo vệ gia đình. Có cha mẹ, mới có con cái. Thế cho nên, bảo vệ gia đình, làm cho gia đình hạnh phúc là điều Ðức Thánh Cha kêu gọi. Qua cử chỉ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mọi người Kitô hữu trên thế giới hãy tỏ lòng biết ơn cha mẹ, đấng sinh thành nên mình và hãy bảo vệ gia đình, vì gia đình là nền tảng của xã hội và là Giáo Hội nhỏ. Con cái là hoa quả của tình thương yêu của cha mẹ. Cây tốt sinh trái tốt. Maria là hoa quả đầu mùa và quí giá nhất của hai thánh Gioakim và Anna.
Ngày sinh của Mẹ Maria là niềm vui, hạnh phúc của toàn thể nhân loại, mặc cho nhân loại ý nghĩa cứu độ và hồng phúc.
Lạy Ðức trinh nữ Maria đầy ơn phước, xin cầu bầu cho chúng con trước toà Chúa, để chúng con luôn một niềm trung tín và cậy trông vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con luôn biết nói lời xin vâng làm theo ý Chúa.
Xin cho chúng con cùng với Mẹ hát bài Magnificat ngợi khen Thiên Chúa.
Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8 tháng 9 năm 2006 vừa qua, Hội đồng Giám mục Việt Nam, sau khi họp Hội nghị thường niên tại Huế, đã công bố Thư mục vụ với đề tài: Sống đạo hôm nay. Thư mục vụ viết: “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em” (số 1). Chúng ta sẽ cùng nhau xem Đức Mẹ đã thực hành hai điểm đó thế nào và dạy chúng ta sống thế nào.
I. Gắn bó với Thiên Chúa
Đức Mẹ đã hết lòng gắn bó với Thiên Chúa, nghĩa là vâng theo ý Chúa Cha và sống với Chúa Giê-su.
1. Vâng theo ý Chúa Cha
a) Khi nghe thiên sứ truyền tin, báo cho Đức Mẹ là Đức Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà vẫn còn đồng trinh, Đức Mẹ đã bối rối. Nhưng khi được thiên sứ giải thích rằng đó là việc Thiên Chúa làm, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng phục và thưa: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói” (Lu-ca 1,28-38). Từ đó, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc đời, kể cả khi theo Con mình đến tận chân Thánh giá.
b) Chúng ta cũng phải noi gương Đức Mẹ để biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Như vậy chúng ta sẽ đáng được Chúa Giê-su khen là có phúc và nhận chúng ta là anh em của Chúa (Lu-ca 8,21; 11,28). Nhờ lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta đọc trong Kinh Thánh hoặc nghe đọc trong Phụng vụ, chúng ta sẽ có thể nhận ra ý Chúa muốn chúng ta làm gì trong mỗi hoàn cảnh của cuộc đời, và hoàn toàn vâng theo ý Chúa khi vui cũng như lúc buồn. Xưa trong tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ đã nói với các gia nhân: “Ông Giê-su bảo gì, các anh cứ làm theo” (Gio-an 2,5); nay Đức Mẹ cũng nói với chúng ta như vậy: “Đức Giê-su bảo gì, các con cứ làm theo.”
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi:
– Đức Mẹ đã vâng theo ý Chúa khi nào?
– Chúng ta nghe và tuân giữ Lời Chúa thế nào?
2. Sống với Chúa Giê-su
a) Từ khi thụ thai Chúa Giê-su trong lòng, Đức Mẹ đã luôn luôn gắn bó với Chúa Giê-su, sống với Chúa. Mọi suy nghĩ và việc làm của Đức Mẹ đều nhằm phục vụ người Con yêu quí, như sách Tin Mừng cho chúng ta thấy, nhất là trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Giê-su: Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giê-su, đã dâng con trong đền thờ, đã đưa con trốn sang Ai-cập, đã ba ngày tìm con bị lạc trong đền thờ. Từ khi Chúa Giê-su ra giảng đạo, chúng ta ít thấy Đức Mẹ xuất hiện, có lẽ vì Đức Mẹ tôn trọng, không muốn gây cản trở cho hoạt động của Chúa Giê-su. Nhưng trong giờ hãi hùng nhất, là giờ Chúa Giê-su chịu thương khó, khi các môn đệ đã bỏ trốn hết, chỉ còn một mình ông Gio-an, thì chúng ta thấy Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá để cùng chịu đau khổ với Con (Gio-an 19,25-27).
b) Như vậy Đức Mẹ nêu gương cho chúng ta. Nhờ bí tích thánh tẩy, chúng ta đã trở nên một thân thể mầu nhiệm với Chúa Giê-su và được sống sự sống thần linh Chúa ban. Vì thế mỗi người chúng ta cũng có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Ga-lát 2,20). Chúng ta cần ý thức điều đó để nhớ rằng: Có Chúa Giê-su luôn luôn ở với ta trong mọi giây phút cuộc đời, Chúa không bao giờ bỏ ta. Vì thế ta luôn sống với Chúa và có thể cầu nguyện với Chúa mọi nơi mọi lúc. Đặc biệt trong những giờ phút gặp khó khăn, đau khổ, ta biết rằng Chúa luôn ở bên ta, để ban ơn giúp sức cho ta vượt qua thử thách.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi:
– Đức Mẹ đã sống với Chúa Giê-su thế nào?
– Chúng ta phải sống với Chúa Giê-su thế nào?
II. Đến với anh chị em
Đức Mẹ luôn gắn bó và sống với Chúa, nhưng vẫn sinh hoạt như bao người khác khi sống trong gia đình Na-da-rét, đồng thời để ý đem Chúa đến cho người khác.
1. Sống đời sống gia đình
a) Thánh Gia Chúa Giê-su, Đức Mẹ và Thánh Giu-se là một gia đình không như những gia đình khác. Thế nhưng tại Na-da-rét Thánh gia đã sinh hoạt bình thường như những người khác. Đức Mẹ là một người nội trợ; Thánh Giu-se là một người thợ, lao động để nuôi sống gia đình, và cũng đã truyền nghề lại cho con, nên Chúa Giê-su khi ra giảng đạo cũng được gọi là “bác thợ” (Mác-cô 6,3), “con của bác thợ” (Mát-thêu 13,55). Thánh Gia không sống xa cách với người khác, nên ai ai cũng biết (Gio-an 6,42). Đặc biệt, Thánh Gia chú trọng đến việc giữ đạo như lề luật Chúa dạy: khi sinh con được tám ngày thì làm phép cắt bì (Lu-ca 2,21); đến thời gian luật định thì đem con lên đền thờ để tiến dâng con cho Chúa và dâng lễ vật (2,22-24); khi trẻ Giê-su được mười hai tuổi thì cả gia đình đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem nhân lễ Vượt Qua (2,41-42). Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật, nhưng cũng là người thật, nên chắc hẳn Thánh Giu-se và Đức Mẹ đã có vai trò quan trọng trong việc giáo dục Chúa Giê-su về mặt nhân bản và đạo đức (x. Lu-ca 2,51).
b) Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ để sống với Chúa trong đời sống gia đình và trong những liên lạc với người khác. Ngày nay có nhiều ảnh hưởng bên ngoài có thể gây nguy hại cho sự đoàn kết trong gia đình cũng như cho việc giáo dục con cái. Noi gương Thánh Gia, mỗi gia đình công giáo phải luôn luôn đặt ý Chúa trên hết, và như vậy giữ vững được tình yêu giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh em chị em, đồng thời giáo dục con cái nên những con người tốt trong xã hội, những tín hữu tốt trong Giáo Hội.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi:
– Tại Na-da-rét Đức Mẹ đã sống đời sống gia đình thế nào?
– Mỗi gia đình chúng ta phải sống thế nào?
2. Đem Chúa Giê-su đến cho người khác
a) Đức Mẹ có Chúa Giê-su nhưng không ích kỷ giữ riêng cho mình, mà Đức Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Như khi thiên sứ truyền tin đã cho Đức Mẹ biết là bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng, tuy già rồi mà đã có thai con đầu lòng, thì lập tức Đức Mẹ đi đến miền núi xa xôi để thăm bà, chia vui với bà; Đức Mẹ cũng đem Chúa Giê-su khi đó còn đang ở trong lòng Đức Mẹ đến cho bà, khiến cho người con ở trong lòng bà đã nhảy lên vì vui sướng (Lu-ca 1,36-44). Rồi khi Chúa Giê-su sinh ra, Đức Mẹ cũng đưa Chúa ra cho các người chăn chiên và các nhà chiêm tinh bái lạy (Lu-ca 2,16; Mát-thêu 2,11). Sau khi Chúa Giê-su lên trời, chúng ta thấy Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ và một số người khác để trông đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như Chúa Giê-su đã hứa (Công vụ 1,13-14). Đây là lần cuối cùng Tân Ước nhắc đến “thân mẫu Đức Giê-su”: vào lúc Hội Thánh khởi đầu, Đức Mẹ có mặt, và chắc Đức Mẹ cũng đồng hành cách thiêng liêng với các tông đồ trong những bước đường truyền giáo, để cũng như Đức Mẹ, các ông đem Chúa Giê-su đến cho thế giới. Vì thế Hội Thánh quen kêu cầu Đức Mẹ là “Nữ Vương các thánh tông đồ”.
b) Đức Mẹ cũng là người hướng dẫn và đồng hành với chúng ta, để chúng ta ra đi đem Chúa Giê-su đến cho người khác. Ngày nay trên thế giới, và ngay bên cạnh chúng ta, vẫn còn vô số người chưa biết Chúa Giê-su. Chúng ta phải là những tông đồ làm chứng cho Chúa, đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ. Khi mỗi người chúng ta làm ăn lương thiện, biết để ý đến người khác và giúp đỡ những người thiếu thốn, những người đau khổ về thể xác cũng như về tinh thần, khi mỗi gia đình chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau và cởi mở với những người xung quanh, là chúng ta làm chứng cho Chúa và làm cho Chúa hiện diện trong xã hội. Đặc biệt trong một thế giới đầy bóc lột, hận thù, khủng bố, người tín hữu phải làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi:
– Đức Mẹ đã đem Chúa đến cho người khác khi nào?
– Ngày nay chúng ta làm chứng cho Chúa cách nào?
Bài này có lẽ hơi dài. Chúng ta (cá nhân, gia đình, nhóm nhỏ, giáo xứ) có thể đọc mỗi lần một phần, suy nghĩ, cầu nguyện, rồi trao đổi, tìm cách áp dụng cho đời sống.
Xin Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu hơn Đức Mẹ đã sống đạo thế nào, và xin Đức Mẹ giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay trong lòng xã hội Việt Nam. Như vậy chúng ta sẽ thực hiện như Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam mong ước, là “làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mọi người” (số 11).
Sau khi tìm hiểu lịch sử lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cũng đã tìm hiểu lịch sử và chỗ đứng của Kinh Mân Côi trong cuộc sống Kitô hữu, đặc biệt là trong cuộc đời các Thánh. Tiếp tục trình bầy các lễ còn lại về Đức Mẹ, hôm nay chúng ta tìm hiểu lễ Sinh Nhật Đức Maria.
Liên quan tới biến cố Đức Maria sinh ra Đức Hồng Y Ildefonso Schuster, Tổng Giám Mục Milano, đã viết một trong những trang ý nghĩa như sau: “Như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, cũng thế Đức Maria tất cả rạng ngời sự sống và sự vô tội, sáng chói và vô nhiễm, bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu, là Đấng do công trình của Chúa Thánh Thần, như phụng vụ dậy chúng ta, muốn chính Người nhào nặn thân thể và linh hồn ấy một ngày kia phải dùng làm nhà tạm và đền thờ cho Người. Mẹ là bình minh loan báo ngày đã mọc lên đàng sau các ngọn đồi vĩnh cửu; Mẹ là chồi thần bí nảy sinh từ gốc Giêssê đáng kinh; Mẹ là con sông mới vọt ra từ thiên đàng và sắp tưới gội toàn thế giới; Mẹ là tấm khăn biểu tượng được trải trên mặt đất để đón sương điềm lạ; Mẹ là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống, mà trong ngày này sinh ra cho những kẻ đã có Evà như là mẹ của tội lỗi và của cái chết” (I. Schuster, Liber sacramentorum, Marietti, Torino. Edd. divv. VIII, in fine).
Đức Maria là “ngôi sao báo trước mặt trời và là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể”. Biến cố Đức Maria sinh ra được diễn tả một cách tổng kết trong điệp ca Benedictus Kinh Thần vụ của ngày lễ: “Việc Mẹ sinh ra, hỡi Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, đã báo trước niềm vui cho toàn thế giới: từ Mẹ đã sinh ra mặt trời công chính, là Chúa Kitô Chúa chúng con: Người đã cất án phạt và đã đem tới ân sủng, đã chiến thắng cái chết và ban lại cho chúng ta sự sống”.
Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là một thời sự gây kinh ngạc, bởi vì nó trực tiếp gắn liền với đề tài Chúa Kitô ánh sáng, là một đề tài rất cổ xưa (Giustino, Apl., I,57) và đã được phát triển sau đó, đặc biệt bởi các giáo phụ thuộc thế kỷ thứ IV. Và nó đã được đào sâu trong các tuần lễ phụng vụ quốc gia. Chẳng hạn tuần lễ phụng vụ tại Pescara, trung Italia năm 1977, về đề tài “Chúa nhật ngày của Chúa và Chúa của các ngày”. Kết qủa nó là một đề tài tu đức cũng như đề tài mục vụ, bởi vì nó gắn liền mật thiết với đề tài phục sinh. Hoc giả J. A. Jungmann so sánh cuộc sống của Kitô hữu, coi phục sinh như biến cố của qúa khứ, với một loại hiện hữu khó hiểu, trong đó các thực tại Kitô như bị che kín bởi một làn sương dầy đặc. Trái lại, cuộc sống của Kitô hữu đặt để mầu nhiệm phục sinh vào trung tâm sự hiện hữu của mình, học giả Jungmann so sánh nó với “một cuộc tạo dựng mới, bị xâm chiếm bởi ánh sáng rạng ngời của buổi sáng ngày phục sinh.
Trong phụng vụ lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ liên tục được đặt để trong tương quan với ánh sáng: nếu Chúa Kitô là “mặt trời công chính”, thì Mẹ Maria là bình minh, là ngôi sao báo trước mặt trời, là điểm khởi hành, là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể.
Lịch sử cứu độ có một “dẫn nhập” và đẫn nhập đó có tên là Maria: lời nguyện thánh lễ Sinh Nhật Đức Mẹ nói rõ điều đó: “Chức làm mẹ của Đức Trinh Nữ ghi dấu khởi đầu ơn cửu rỗi của chúng con”.
Chính ý niệm này về Đức Maria như là khởi đầu ơn cứu độ của chúng ta đã khiến cho dân chúng đốt các đống lửa lớn trong đêm ngày mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 9, chẳng hạn như tại đền thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, để soi sáng các đường phố và quảng trưởng, hầu diễn tả niềm tin yêu của tín hữu đối với Mẹ Maria Ngôi Sao báo trước Mặt Trời, như ở Mitello Val di Catania, nơi có đền thánh kính Đức Bà Ngôi Sao.
Thế chúng ta có các dữ kiện lịch sử và thần học nào chứng minh cho ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ không? Cần phải nói ngay rằng khác với trường hợp của ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử Luca kể lại trong Phúc Âm chương 1,57-66, sách Phúc âm không cho chúng ta biết gì về ngày sinh của Đức Mẹ.
Tài liệu đầu tiên kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria là mạo thư “Phúc Âm của thánh Giacôbê”, cho biết Đức Maria sinh ra tại Giêrusalem, tại nơi, trên đó trong các năm 400 tới 600 người ta nói tới một vương cung thánh đường dâng kính Đức Mẹ gần hồ tắm Bếdatha có năm hành lang trong thành cổ, ở mạn bắc Đền Thờ Giêrusalem. Sau năm 603 Đức Thượng Phụ Sofronio khẳng định rằng đây là nơi Đức Mẹ đã sinh ra. Sau đó ngành khảo cổ đã xác nhận truyền thống này. Vương cung thanh đường được xây trên ngôi nhà của hai ông bà Gioakim và Anna, thân phụ và thân mẫu của Đức Mẹ, và là nơi Đức Trinh Nữ đã chào đời.
Lễ sinh Nhật Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria đã bắt đầu bên Đông Phương, và chắc hẳn là tại Giêrusalem vào thế kỷ thứ V, nơi lưu giữ truyền thống sống động tin rằng có căn nhà nơi Đức Maria đã chào đời. Ngày lễ hẳn đã nảy sinh từ việc thánh hiến một nhà thờ cho Đức Maria gần hồ Bếdatha có năm hành lang, để kỷ niệm biến cố này. Và các truyền thống này gắn liền với đền thánh hiện nay kính thánh Anna, thân mẫu Đức Maria.
Tại sao lại mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ vào ngày mùng 8 tháng 9? Lễ này được cử hành vào ngày mùng 8 tháng 9 chắc hẳn bởi vì Mẹ Maria giữ nhiệm vụ là khởi đầu công trình cửu độ, vì thế thật là thích hợp cử hành sinh nhật của Mẹ vào đầu năm của Giáo Hội theo tác phẩm Monologium Basilianum. Có một chuyện mạo thư tựa đề “De ortu Virginis” Về ngôi vườn của Đức Trinh Nữ, cho rằng thánh Anna thân mẫu Đức Maria thụ thai vào đầu tháng 5 và chỉ sau bốn tháng mang thai đã cho con chào đời.
Tài liệu đầu tiên về lễ sinh nhật Đức Mẹ xem ra là một bài thánh thi của Romano il Melode, là người chuyên chép thánh thi giữa các năm 536-566. Thánh thi kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ theo Phúc Âm thánh Giacôbê, và đề cập đến sự kiện ngày lễ được cử hành long trọng. Bên Đông phương lễ này mau chóng có tầm quan trọng lớn. Năm 701 Đức Giám Mục đảo Creta đã viết bốn bài giảng về lễ này (PG 97, 1046-1110).
Bên Tây phương lễ sinh nhật Đức Mẹ được du nhập vào hồi thế kỷ thứ VII. Bên Pháp chúng ta thấy lễ được nói đến trong lịch của Sonnatius là Giám Mục thành Reims giữa các năm 614-631. Tại Roma tác phẩm Sacramentario gelasiano (II, 54; ed. Mohlberg, nn. 1016-1019), ghi lại ba lời nguyện của thánh lễ. Tác phẩm Liber pontificalis (ed. Duchesne, I,376), thuộc hậu bán thế kỷ thứ VII, coi nó như đã có, và kể lại rằng Đức Giáo Hoàng Sergio I người Siro-siciliano, cai trị Giáo Hội giữa các năm 687-70i, muốn rằng lễ được cử hành với một cuộc rước kiệu đi từ nhà thờ thánh Adriano cho tới đền thờ Đức Bà Cả, y như cho các lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, lễ Truyền Tin và lễ Đức Mẹ ngủ.
Từ thế kỷ thứ XI lễ sinh nhật Đức Mẹ ngày càng có tầm quan trọng hơn nữa, đến độ có tuần bát nhật đi trước. Đây là điều đã được Đức Giáo Hoàng Innnocenzo IV thiết định năm 1243 theo sau một lời khấn hứa do các Hồng Y đưa ra trong Mật nghị Hồng Y đoàn năm 1241, khi các Hồng Y bị hoàng đế Federico II giam giữ trong vòng ba tháng trời. Năm 1378 Đức Giáo Hoàng Gregorio XI thiết định buổi canh thức vào hôm trước, sau này chính Đức Giáo Hoàng cử hành lễ trọng thể.
Song song trong lãnh vực nghệ thuật người ta cũng thường thấy có hàng loạt các bức khảm đá mầu diễn tả sinh nhật Đức Mẹ. Điển hình như loạt bức khảm đá mầu rất đẹp do ông Pietro Cavallini vẽ mẫu cho vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere ở Roma trong hai thế kỷ XIII-XIV, rồi bức tranh nổi tiếng “sinh nhật Đức Maria”, của vị thầy chuyên thực hiện các bức tranh về cuộc đời Đức Mẹ khoảng năm 1460, được giữ trong viện bảo tàng tranh ảnh ở Monaco.
Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đã được thiết định vào ngày mùng 8 tháng 9 trước thời Đức Giáo Hoàng Sergio I đã không bị điều kiện hóa bởi lễ trọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12. Vì ý niệm về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội đã chỉ có mãi sau này. Nhưng chính lễ sinh nhật Đức Mẹ lại điều kiện hóa lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12.
Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là lễ của sư tràn đầy và vơi nhẹ, vì nó được mừng bắt đầu vào mùa thu, nghĩa là sau cái nóng bức của mùa hè, khi khí hậu mát mẻ và dễ chịu hơn, và khi nho và nhiều thứ trái cây khác bắt đầu chín mọng. Do đó lễ Sinh Nhật Đức Mẹ diễn tả hai ý niệm rất đẹp: thứ nhất là ý niệm về sự “tràn đầy viên mãn của thời gian” và ý niệm sự vơi nhẹ mà Mẹ Maria đếm đến cho loài người. Là thụ tạo tuyệt vời được Thiên Chúa tuyển chọn từ đời đời để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế biến cố Đức Maria chào đời mở màn cho việc thực hiện công trình cứu cuộc của Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolo diễn tả thời điểm quan trọng biến cố Chúa Giêsu Kitô nhập thể như sau: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4). Nhưng trước khi Chúa Cứu Thế có thể sinh ra, đã phải có ngày Mẹ của Người là Đức Trinh Nữ Maria chào đời, đã phải có ngày Sinh Nhật của Mẹ. Vì vậy có thể nói thời gian viên mãn ấy đã bắt đầu với biến cố Đức Maria chào đời. Mẹ vào đời để bắt đầu hiện thực chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Mẹ là nước mát từ Trời đổ xuống trên trái đất khô cằn nứt nẻ vì tội lỗi của loài người, để cùng Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ lại biến nó trở thành vườn địa đàng, nơi ngày ngày Thiên Chúa gặp gỡ và chuyện vãn thân tình với con người.
Giáo Hội mừng kính ngày sinh nhật Ðức Maria từ thế kỷ thứ sáu. Ngày sinh nhật được chọn trong tháng Chín vì Giáo Hội Ðông Phương bắt đầu niên lịch phụng vụ từ tháng Chín. Ngày mùng tám là vì lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội là ngày 8 tháng Mười Hai (chín tháng trước).
Kinh Thánh không đề cập gì đến việc sinh hạ Ðức Maria. Tuy nhiên, bản văn mà người ta cho là phúc âm nguyên thủy của Thánh Giacôbê có đề cập đến sự kiện này. Bản văn này không có giá trị lịch sử, nhưng nó cho thấy quá trình sùng đạo của Kitô Hữu. Theo bản văn, bà Anna và ông Gioankim vì hiếm muộn nên cầu xin cho được một đứa con. Họ được hứa cho một người con mà trẻ này sẽ giúp hình thành kế hoạch cứu chuộc trần gian của Thiên Chúa. Câu truyện trên (cũng như nhiều câu truyện khác trong phúc âm) cho thấy sự hiện diện quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời Ðức Maria ngay từ đầu.
Thánh Augustine nối kết việc sinh hạ của Ðức Maria với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thánh nhân nói trái đất hãy vui mừng và bừng sáng vì việc sinh hạ Ðức Maria. "Ngài là bông hoa trong cánh đồng mà từ đó đã nẩy sinh hoa huệ quý nhất vùng châu thổ. Qua sự sinh hạ của ngài, bản chất mà chúng ta thừa hưởng từ cha mẹ đã thay đổi."
Lời Bàn
Chúng ta có thể xem việc sinh hạ của mỗi một người là lời mời gọi đem hy vọng đến cho thế gian. Qua tình yêu, hai cha mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo. Họ có thể đem lại hy vọng cho một thế giới lao nhọc. Vì mỗi một đứa con đều có thể trở nên máng chuyển tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến cho thế giới.
Ðiều này thật đúng với Ðức Maria. Nếu Ðức Giêsu là sự biểu lộ tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa thì Ðức Maria là điềm báo của tình yêu ấy. Nếu Ðức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu chuộc thì Ðức Maria là bình minh hé mở của công trình ấy.
Việc mừng sinh nhật đem lại niềm vui cho chính cá nhân cũng như gia đình, bạn hữu. Ngoài việc giáng trần của Ðức Giêsu, việc sinh hạ Ðức Maria đã đem lại niềm vui lớn lao nhất cho nhân trần. Mỗi khi chúng ta cử mừng sinh nhật của ngài, chúng ta có thể hy vọng chắc chắn là sự bình an trong tâm hồn chúng ta và trong thế giới sẽ gia tăng.
Lời Trích
"Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse" (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).
Lễ Sinh nhật Đức Mẹ ngày 8 tháng 9; đúng 9 tháng sau lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 8 tháng 12. Ngày Đức Trinh Nữ Maria chào đời là khởi đầu cho mùa cứu rỗi, như bình minh báo hiệu một ngày tươi sáng cho nhân loại. Mẹ như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời.
Ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ. Đến thế kỷ X, lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử cai quản có 18 ngày nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.
Giáo Hội hân hoan mừng ngày sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Chúc tụng, cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho nhân loai một người Mẹ tuyệt mỹ là Đức Maria. “Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse” (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).
Đức Maria “là con ông thánh Gioakim và bà thánh Anna. Cả hai ông bà đều bởi dòng dõi vua Đavít, và gia đình thầy cả thượng phẩm Aaron. Thiên Chúa đã cho hai ông bà sinh được một người con quý báu trên đời là để thưởng công đức của hai ông bà. Nếu việc Đức Maria sinh ra làm cho thế gian vui mừng, thì cũng biết là gia đình ông thánh Gioakim vui sướng biết chừng nào. Sau khi sinh con được tám ngày, theo thông lệ, ông bà song thân đã đặt tên con gái là MARIA, nghĩa là Sao Biển” (Sách hạnh các thánh).
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét, thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ. Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng! Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác, bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được thì Ngài đã làm cho em.
Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao, sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Em bé ấy tên là Maria. Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao. Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn. Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi. Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu. Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ. Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do, không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn, dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.
Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse. Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái. Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người, nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn. Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài. Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Maria ước mơ. Khác với bà Evà, Maria tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng. Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới. Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường. (Mana). Cuộc đời của Mẹ như một bài ca bất tận: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 12). Mẹ được Thiên Chúa yêu thương với muôn vàn ân lộc: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).
Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ là dịp để mỗi người con cảm ơn người mẹ sinh thành của mình.
Cám ơn mẹ đã cưu mang và sinh hạ ra con. Cám ơn mẹ đã nuôi dưỡng và bảo bọc che chở cuộc đời con. Cảm ơn mẹ đã cho con sự cân bằng trong cuộc sống. Cảm ơn mẹ đã dạy con tình thương mẫu tử là bất diệt. Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị của sự cần cù. Cảm ơn mẹ đã dạy con chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vật. Cảm ơn mẹ đã dạy con biết tôn trọng mọi loài. Cảm ơn mẹ đã cho con biết nuôi dưỡng những cảm xúc. Cảm ơn mẹ đã dạy con rằng cuộc sống luôn biến chuyển đổi thay. Cảm ơn mẹ cho con phương thế để trưởng thành. Cảm ơn mẹ đã dạy con biết nhìn mặt sáng của sự việc. Cảm ơn mẹ đã dạy con sống mạnh mẽ dịu dàng. Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trắc ẩn cảm thông. Cảm ơn mẹ đã dạy con giá trị hợp tác trong công việc. Cảm ơn mẹ đã dạy con biết quý trọng trời nắng và cả cơn mưa. Cảm ơn mẹ đã dạy con biết ẩn nhẫn mà không chịu khuất phục. Cảm ơn mẹ đã cho phép con sáng tạo. Cảm ơn mẹ đã dạy cho con sống trung thực. Cảm ơn mẹ đã mở mắt cho con trước vũ trụ bao la. Cảm ơn mẹ đã dạy con biết trân quý những điều đơn giản. Cảm ơn mẹ đã dạy con tin vào chính mình.
Mẹ là tuyệt tác tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho con. Không có mẹ, con đâu cảm được vị ngọt của tình yêu “như chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau”. Không có mẹ con đâu có “lớn nổi thành người”.
Không có gì trên đời này cao quý hơn tình yêu của người mẹ.
Không có tình mẫu tử nào cao quý hơn tình yêu của Mẹ Maria. Mẹ Maria chính là bảo ngọc châu báu mà Thiên Chúa trao ban cho nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ. Xin Mẹ che chở, gìn giữ hồn xác chúng con trong tình thương của Mẹ. Xin cho chúng con được nép mình trong vòng tay từ ái của Mẹ. Amen.
Phụng Vụ trong Hội Thánh chỉ có hai lễ Sinh Nhật của người được Chúa cứu độ: thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Ma-ri-a, còn các thánh khác, ngày Sinh Nhật được mừng khi các ngài mãn cuộc đời về với Chúa (xem Lời Nguyện Đầu Lễ của Các Thánh).
Lý do có lễ Sinh Nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong loài người, chỉ có ông Gioan lúc tượng thai cho đến chết có những điểm song đối với Đức Giê-su nhằm dọn đường cho người ta đón nhận Đấng Cứu Thế; còn lễ Sinh Nhật của Đức Ma-ri-a chỉ vì Mẹ đã sinh Chúa Giê-su. Từ thuở đời đời Chúa đã nhắm mời Đức Ma-ri-a cộng tác với Ngài thực hiện chương trình cứu độ loài người, bởi đó, sứ mệnh của Đức Ma-ri-a là:
- Mẹ thực hiện lời tiên báo Đấng Cứu Thế sinh tại Bê-lem. - Con Mẹ thuộc dòng dõi vua Đavid. - Con Mẹ đến xóa bỏ giai cấp. - Mẹ là Trinh Nữ báo trước Hội Thánh là Hiền Thê Chúa Ki-tô. - Mẹ là mẫu gương cho loài người biết nghe Lời Chúa.
1/ MẸ THỰC HIỆN LỜI TIÊN BÁO ĐẤNG CỨU THẾ SINH TẠI BÊ-LEM.
Qua lời ngôn sứ Mikha: “Phần ngươi hỡi Bê-lêm Ep-ra-tha, ngươi nhỏ nhất trong các chi tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh Israel, nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa, vì thế Đức Chúa sẽ không bỏ mặc Israel cho đến thời Đẻ sinh con (bản dịch NTT: là Đức Ma-ri-a, là Hội Thánh)…Người sẽ đưa vào quyền lực Đức Chúa mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng đến toàn cõi đất. Chính Người sẽ đem lại hòa bình” (Mk 5,1-4a: Bài đọc).
Vậy nhờ Chúa Giê-su, Con Đức Ma-ri-a nâng kẻ bé nhỏ lên hàng khanh tướng.
2/ CON MẸ THUỘC DÒNG DÕI VUA ĐAVID.
Đavid thuộc gốc tổ Giacop, chi họ Giuđa, là người đã được Giacop chúc phúc vì ông Giu-đa có công ngăn cản anh em không được giết Giuse, ông bày mưu để anh em bán Giuse cho người Ai-Cập với hy vọng Giuse thoát chết, bời vì các anh em ông đã quyết định giết em Giuse (x St 37,26-27). Chúa đã dùng miệng các ngôn sứ hứa cho nhà Israel một vị vua – Đấng Mêsia – là hiện thân vua Đavid. Đó là vị vua tài đức nhất trong các vua của Israel (x 2Sm 7,12; Ed 37,24-35; Is 44,28).
Để minh chứng Đức Giê-su thuộc dòng vua Đavid đến thực hiện lời hứa cứu độ, ông Mat-thêu mở đầu Tin Mừng giới thiệu Đức Giê-su là Con vua Đavid (x Mt 1,1: Tin Mừng), và kết thúc Tin Mừng, ông khéo léo nhấn mạnh vai trò quan trọng của vua Đavid mới là Đức Giê-su: Đó là lý do ba lần ông Mattheu nhắc đến tên Đavid bằng cách chơi chữ: 14 đời. 14 đời là tổng số 3 phụ âm của tên Đavid: DaWiD (D = 4; W = 6), như thế tên của Đavid viết bằng số là: 4a6i4 = 14 (x Mt 1,17: Tin Mừng).
Vậy những gì Chúa đã hứa cho chúng ta, không bao giờ Ngài quên thực hiện, như Lời Ngài đã nói: “Trời đất qua đi, nhưng Lời tôi nói không bao giờ qua” (Mt 24,35).
3/ CON ĐỨC MARIA ĐẾN XÓA BỎ GIAI CẤP.
Người Do-thái khinh dể phụ nữ, đến nỗi họ tưởng nghĩ phụ nữ là loài không có linh hồn, cho nên truyền thống của Do-thái khi viết gia phả của ai, không bao giờ người ta đưa tên phụ nữ vào danh sách đó. Thế mà ông Mat-thêu một người Do-thái, viết Tin Mừng cho người Do-thái, khi ông đề cập đến gia phả của Đức Giê-su, thì ông đã xé truyền thống Do-thái: tự đưa vào gia phả Đức Giê-su năm tên người phụ nữ: Bà Thamar, bà Rahab, bà Rut, bà Bat Shêba là vợ tướng Uria, và bà Maria là Mẹ Đức Giê-su (x Mt 1,3.5.6.16).
Vậy sống tâm tình con cái Thiên Chúa, không ai được khinh dể người khác. Thánh Phao-lô nói: “Trong Chúa không nam thì cũng chẳng có nữ, không nữ thì cũng chẳng có nam” (1Cr 11,11).
4/ MẸ LÀ TRINH NỮ BÁO TRƯỚC HỘI THÁNH LÀ HIỀN THÊ CHÚA KI-TÔ.
Ta biết truyền thống Do-thái thời Cựu Ước không mong Đấng Cứu Thế sinh ra bởi một trinh nữ. Đối với họ, “trinh” là một sự tủi nhục, như con gái ông Giép-tê than khóc suốt hai tháng vì cô còn trinh, không xứng đáng để cha sát tế làm hiến vật tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cha cô thắng quân thù! (x Tp 11, 29-40).
Thực ra, lời ngôn sứ I-sai-a (7,14) theo nguyên bản bằng tiếng Hipri chỉ nói người nữ ấy là “Almah” có nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác định là còn hay mất trinh); nhưng Bản 70, viết bằng tiếng Hy-lạp lại xác định người nữ ấy là “Parthenos” (trinh nữ). Đức Giê-su và các Tông Đồ dùng bản văn này để giảng dạy, và sau này thánh Giê-rô-ni-mô dịch bản văn này sang tiếng Latinh, ông cũng xác định là Trinh Nữ như bản 70, bản này được Hội Thánh dùng trong Phụng Vụ.
Vậy đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a báo trước Hội Thánh là một Trinh Nữ, Hiền Thê của Chúa Ki-tô (x Mt 25,1t; Ga 3,29; 2 Cr 11,2).
5/ MẸ LÀ MẪU CHO LOÀI NGƯỜI BIẾT NGHE LỜI CHÚA.
Ta biết, Đức Mẹ được truyền tin sinh Con Thiên Chúa trong một hoàn cảnh éo le, vì lúc ấy Mẹ đã đính hôn với ông Giuse, tuy chưa về chung sống một nhà, nhưng đã là vợ chồng chính thức trước pháp luật. Theo sách Ngụy kinh kể lại cho chúng ta: Cô Maria rất xinh đẹp và đầy nhân đức, cho nên chàng trai nào cũng muốn lấy làm vợ, vì quá đông các chàng theo đuổi, nên họ xin với vị thượng tế cầu nguyện, và chàng nào cũng mong mình trúng số lấy được cô Maria. Vị thượng tế có sáng kiến, bảo các chàng trai mỗi người cầm cây gậy và cùng đến cầu nguyện, gậy cậu nào nở bông là ý Trời muốn cậu đó se duyên với cô Maria. Thật là may mắn cho Giuse, gậy của ông đã nở hoa huệ. Cũng vì lý do đó mà hôm nay các tượng thánh Giuse, người ta thấy ngài cầm bông huệ. Thế mà khi Thiên thần báo tin cho Đức Ma-ri-a thụ thai, thì Thiên thần lại nói Mẹ Maria là một trinh nữ, có nghĩa là Maria không trở thành vợ của ông Giuse như những người phụ nữ khác có đời sống lứa đôi! Điều ấy có trái với định mệnh cho ông Giuse và Maria lấy nhau hay không? Vì gậy của ông đã được Chúa cho nở bông? Và như vậy Đức Ma-ri-a cũng đã xác định rằng: mình là vợ chính thức của Giuse, vì đã được tiền định, bây giờ không ăn ở với ông Giuse mà lại mang bầu, thì biết ăn nói thế nào với xã hội, và dù có tâm sự với Giuse, thì liệu ông có tin hay không? Chính ông Giuse khi biết Maria có thai, ông “đã định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (x Mt 1,18t: Tin Mừng).
Vậy Mẹ Maria vâng nghe Lời Chúa để sinh Con Đấng Tối Cao vào đời, đối với Mẹ là một đau khổ hơn là vinh dự, bởi vì Mẹ phải đối phó với bao nghịch cảnh luật Do Thái thời bấy giờ.
Đặc biệt hơn nữa là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su, tất cả lời Thiên Chúa hứa trong ngày Truyền Tin: “Con Bà là Con Đấng Tối Cao, Ngài sẽ làm Vua, triều đại của Ngài vô cùng tận” (Lc 1,32-33), và “Bà là người có phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42). Chắc chắn những lời ấy đâm tim Mẹ Maria khi Mẹ đứng nhìn Con bị treo trên thập giá (x Ga 19,25). Cứ như suy nghĩ của người đời thì Thiên Chúa đã dối gạt Mẹ Maria, thế mà Mẹ vẫn vững tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, Mẹ đứng nhìn Con như một dũng tướng giữa chiến trường, Mẹ đứng lèo lái con thuyền Hội Thánh đang gặp sóng gió của niềm tin kinh hoàng nhất!
Bởi vậy Mẹ Maria là mẫu cho những người biết nghe Lời Chúa hầu được cứu độ, Mẹ là hình ảnh Hội Thánh viên mãn trong ngày cánh chung. Nhờ Con Thiên Chúa làm người, Ngài đến thực hiện những lời chúc phúc cho dòng giống của ông Abraham, mà trong gia phả Đức Giê-su, tác giả Mat-thêu đã ghi nhận, để Ngài làm cho chúng ta trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, cùng một xương thịt, cùng một sự sống, cùng vinh hiển trong Chúa Giê-su, Con Đức Ma-ri-a (x Dt 2,11; Ga 6,57; Gl 2,20; 2Tm 2,10).
Thánh An-rê, Giám mục Cơ-rê-ta nói: “Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đem lại cho chúng ta hai mối lợi: Một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và lý do gì? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giới giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ”
Vì vậy, những người được Chúa cứu độ trong niềm hân hoan tạ ơn nói: “Tôi mừng rỡ muôn phần vì Đức Chúa” (Is 61,10: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Đức Ma-ri-a nói với loài người một lời duy nhất: “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5)
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ. Giáo Hội tuyên đọc bài Tin Mừng theo thánh sử tông đồ Mátthêô với những câu của chương đầu tiên cho chúng ta nghe về gia phả và hoàn cảnh giáng sinh của Chúa. Qua đó, chúng ta thấy Chúa thuộc dân tộc Do Thái, tổ phụ của Chúa là ông Abraham, Đức Mẹ là mẹ của Chúa, thánh Cả Giuse là cha nuôi của Chúa, đất nước của Chúa là Palestine, vùng Trung Đông.
Chúa được sinh ra ở trần gian là nhờ Đức Mẹ. Sự sinh ra của Chúa là niềm vui cho tất cả chúng ta. Niềm vui này là chúng ta được làm con Chúa, được giải thoát khỏi tội lỗi, được hưởng ơn cứu độ, được thông phần vào sự sống thần linh của Chúa. Đây là niềm vui quá trọng đại và lớn lao không gì sánh bằng. Để hưởng trọn niềm vui này, Chúa còn cho chúng ta có một niềm vui nữa đi trước, đó là niềm vui Mẹ của Chúa sinh ra trong trần gian. Quả thật, Chúa đã chọn Mẹ để Mẹ được làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Vua muôn đời.
Mẹ chào đời. Mẹ sinh ra Chúa. Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến gặp Chúa là ánh sáng, chân lý, sự thật, sự sống, là nguồn ân sủng. Nếu không có ngày lễ sinh nhật của Mẹ hôm nay, có lẽ chúng ta vẫn còn đi trong bóng tối tội lỗi, vẫn còn nô lệ cho những đam mê thể xác và trần thế.
Bởi thế, ý nghĩa của ngày lễ hôm nay như trong bài giảng của thánh Anrê, Giám mục Cơrêta: “Vậy, mọi loài thụ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Hôm nay, mọi loài trên trời dưới đất hãy cùng nhau hoan hỷ và bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như bên trên trần gian hãy hợp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thụ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hóa Công”.
Lạy Chúa, hôm nay chúng con hân hoan mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng con xin được cùng Mẹ tạ ơn Chúa trong ngày trọng đại này. Xin Mẹ cho chúng con được giống như Mẹ là khi chúng con được Chúa cho sinh ra trong trần gian này là để chúng con làm theo ý Chúa và làm sáng danh Chúa nơi cuộc sống vâng phục của chúng con “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10, 7). Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng ta hưởng bình an. Sinh nhật của Đức Maria vượt hẳn cả sinh nhật của thánh Gioan, vị tiền hô. Sinh nhật của Đức Maria loan báo Sinh Nhật của Đức Giêsu, là khúc dạo đầu của Tin Mừng. Một người con gái ra đời trong gia đình bà Anna và ông Gioakim đã làm cho “niềm hy vọng và bình minh ơn cứu độ mọc lên chiếu soi thế giới”. Chính vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành ngày lễ này trong tâm tình hân hoan.
Chúa rộng ban muôn phúc lộc, và cho ta hưởng bình an, vì thế, ta hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Sáng Thế: Sau khi tổ tông loài người phạm tội, Thiên Chúa hứa ban ơn cứu độ… Hôm nay là ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Người xuất thân từ dòng tộc Đavít. Nhờ Người, Đấng cứu độ trần gian đã xuất hiện cho những ai tin tưởng vào Thiên Chúa. Cuộc sống của Người là ánh vinh quang rạng soi trần thế. Chúng ta hãy đem hết tình yêu mến mà họp mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa rộng ban muôn phúc lộc, và cho ta hưởng bình an, vì thế, ta hãy đem hết tình con thảo mà ca ngợi Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Anrê Cơrêta: Cái cũ đã qua, này đây mọi sự đều đổi mới… Chúng ta hãy đem hết tình con thảo mà cử hành sinh nhật Đức Mẹ Chúa Trời. Cuộc đời sáng chói của Mẹ chiếu soi Hội Thánh khắp nơi. Trong ngày đại lễ kính Đức Mẹ Chúa Trời, ta hãy đem hết tâm hồn mà ca ngợi vinh quang Chúa Kitô.
Chúa rộng ban muôn phúc lộc, và cho ta hưởng bình an, vì thế, ta hãy cùng với Mẹ vui mừng hớn hở, tin cậy vào Người Con, mà Mẹ đã cưu mang, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Mikha: Sẽ đến thời người sản phụ sinh con. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 12 cho thấy: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Đức Maria tinh tuyền thánh thiện, Mẹ diễm phúc dường bao, xứng muôn lời khen ngợi. Vì Mẹ đã sinh hạ Đức Kitô, là mặt trời công chính, là Thiên Chúa chúng con. Trong bài Tin Mừng, sứ thần nói: Người Con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Nơi Người Con ấy, Lề Luật được hoàn tất, bởi vì, sau khi kiện toàn và kết thúc mọi sự, thì chính Đấng lập Luật đã chuyển chữ viết sang tinh thần. Người thâu hồi tất cả nơi bản thân và sống theo luật ân sủng. Luật thì Người bắt phục tùng, còn ân sủng, thì Người phối hợp và liên kết với Luật. Đặc tính của bên này, Người không trộn lẫn và hòa tan với bên kia, nhưng, hoán chuyển cách thần kỳ, khiến điều xưa kia nặng nề, nay, trở nên nhẹ nhàng và tự do. Đây là hồng ân cao cả nhất Đức Kitô ban cho chúng ta, đây là mặc khải mầu nhiệm cứu độ, đây là sự trút bỏ vinh quang, khi Thiên Chúa làm người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Khi Thiên Chúa vinh hiển và rất mực quang minh đến với nhân loại, thì, cần phải có Đức Mẹ là niềm vui đi trước, để, chuẩn bị ơn cứu độ lớn lao cho chúng ta. Ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là mốc phân ranh giữa hai điều đó, bởi vì, lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ. Ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, ước gì Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng ta hưởng bình an. Ước gì được như thế!
Nhưng trong lịch sử phụng vụ Công giáo, chúng ta thấy có ba lễ mừng sinh nhật: của chính Đức Giêsu, của Trinh Nữ Maria và của thánh Gioan Tẩy giả. Đối với thánh Gioan Tẩy giả, vì được thánh hoá ngay từ khi còn trong lòng mẹ, việc chào đời của ngài là một biến cố vui mừng đặc biệt. Riêng với Đức Trinh nữ Maria, những lễ kính ngài là "Những lễ kính nhớ biến cố sinh ơn cứu rỗi, trong đó Giêsu và Mẹ Maria đi liền với nhau, như lễ sinh nhật Đức Maria, ngày mà hy vọng và vầng cứu rỗi ló dạng trên trần gian" (Marialis cultus. 7): Bởi vậy, nhưng ngày lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, Giáo Hội hân hoan ca tụng.
- "Lạy Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, việc Mẹ sinh ra loan báo niềm vui cho cả thế gian. Vì từ lòng mẹ phát sinh mặt trời công chính là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Đấng xóa bỏ án phạt mà ban chúc lành, tiêu diệt sự chết và ban sự sống đời đời cho chúng con" (ad Bened, ad Laudes).
Niềm vui mừng trong ngày sinh của Đức Trinh Nữ Maria phát xuất từ niềm mong đợi lâu đời của nhân loại tội lỗi. Chính Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chúng ta niềm hy vọng này khi Chúa phán với con rắn cám dỗ:
- "Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng dõi ngươi và giòng giống nó. Giòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân" (St 3,15).
Lời hứa ấy còn được lập lại nhiều lần để nuôi dưỡng niềm tin của dân Chúa. Chẳng hạn Isaia báo trước hình ảnh Đấng sẽ sinh ra Đấng cứu thế:
- "Này cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên là Emmanuel" (Is 7,14).
Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh (x. Lc 1,27). Như vậy Thiên Chúa đã dự liệu cho con Ngài. Một người mẹ đặc biệt. Maria còn được giữ cho khỏi vương nhiễm tội nguyên ngay từ buổi hình thai, để xứng đáng tước vị Mẹ Thiên Chúa. Theo truyền sử, cha mẹ ngài là ông Joanchim và bà Anna, những người đạo đức thuộc dòng dõi vương giả Đavid, và tư tế Aaron, nhưng lại son sẻ.
Dầu sao đi nữa, chính Maria có một nét đẹp lạ lùng của ơn thánh. Giáo Hội ca tụng Mẹ:
- Ôi Maria ! Mẹ đẹp tuyệt vời. Hơn hết mọi người.
Ngày Đức Trinh Nữ Maria chào đời, mọi người thán phục. Hơn nữa biến cố này còn là khởi đầu cho ngày cứu rỗi, vì ngài như "sao mai" dẫn lối loài người, như "rạng đông" báo hiệu mặt trời. Vì vậy ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng Sinh nhật Mẹ. Đến thế kỷ X lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng Y họp mật nghị để bầu Giáo Hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật, để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo Hoàng Célestinô V đắc cử cai quản có 18 ngày nên chưa thực hiện được lới hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.
Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria loan báo niềm vui cho toàn thế giới, chúng ta cùng chiêm ngắm và tha thiết nguyện cầu cho được niềm vui thiêng liêng từ biến cố này.
Từ khi cửa địa đàng đóng lại, trần gian, theo ngôn ngữ của Kinh Lạy Nữ Vương, đã trở thành một “chốn lưu đày…một thung lũng đầy nước mắt”: “…Chúng con ở chốn khách đày kêu đến cùng Bà…Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khấn Bà thương…”.
Và nếu ngược dòng thời gian, trở về “quê hương Cựu Ước”, khi chiêm ngắm thân phận bi đát của một Thánh Gióp, ta lại nghe chính vị “Thánh Nhân đau khổ” này nguyền rũa chính ngày sinh nhật của mình: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi chào đời, cũng như đêm đã báo: “đứa con trong bụng mẹ là một nam nhi”!” Sao tôi không chết đi từ lúc vừa mới chào đời, không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ?...” (G 3,3.11).
Vâng, thân phận con người sinh ra và đi qua cuộc sống dương gian tự cổ chí kim, hình như buồn nhiều vui ít, nước mắt nhiều hơn nụ cười; và nếu đọc lại cuộc đời của chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, ít ra là trong 3 năm rao giảng Tin Mừng, chúng ta cũng nhận ra rằng: chỉ một lần duy nhất “Ngài hân hoan trong Thánh Thần…” (Lc 10,21), nhưng lại nhiều lần Ngài đã khóc: Khóc thương thành Giêrusalem (Lc 19,41-44), ngài đã hai lần khóc trước cái chết của người bạn La-da-rô (Lc 11,33.38)…
Thế nhưng, ngược lại với tất cả những “giai điệu buồn”, tối tăm, ảm đạm trên, Phụng Vụ lễ Sinh Nhật Đức Mẹ hôm nay, lại chuyển tải một “sứ điệp vui mừng”, một niềm hân hoan tươi sáng.
Để diễn tả niềm vui đặc biệt nầy, ngay từ bài ca nhập lễ, Phụng Vụ đã hát lên: “Chúng ta hãy hân hoan mừng ngày Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng sẽ sinh ra Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô, Chúa chúng ta”.
Đó chính là tin vui trọng đại mà ngay từ thuở xa xưa trong Cựu ước, sứ ngôn Mikêa đã loan báo cho dân tộc Ít-ra-en: “Hỡi Bêlem-Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Ít-ra-en…Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con…”
Và Hội Thánh hôm nay đã mượn lời Thánh vịnh 12 để hát lên cung điệu vui mừng trước Tin Vui cứu độ đó: “TÔI SẼ HỚN HỞ VUI MỪNG TRONG CHÚA.
Xin cho lòng tôi hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, tôi sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho tôi.”
Nhưng sứ điệp vui mừng của ngày lễ hôm nay được minh hoạ tròn đầy và sâu xa nhất phải chăng đó chính là lời vinh tụng Magnificat của chính nhân vật mà chúng ta mừng “Birthday” hôm nay: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi…” (Lc 1,46-55).
Quả thật, niềm vui đã tràn ngập tâm hồn của Mẹ Maria và chính niềm vui sâu thẳm đó đã dẫn dắt cuộc đời của Mẹ theo sát bước chân Con cho đến ngày Mẹ hát bài Magnificat khi vinh quang tiến vào thiên quốc với cả xác hồn.
Riêng Thánh Phêrô Đamianô thì đã liên kết dấu chỉ tiên báo là đền thờ Giêrusalem được cung hiến long trọng và mừng vui thời vua Salômôn với cung lòng Đức Trinh Nữ Maria chính là đền thờ cực thánh. Ngày sinh nhật của Mẹ chính là ngày cung hiến ngôi đền cực thánh đó nên chúng ta phải hân hoan vui mừng:
“Vua Salômôn và dân Chúa mừng ngày cung hiến đền thờ bằng lễ hiến tế uy linh và long trọng thế nào, thì chúng ta cũng vui mừng trong ngày Đức Maria chào đời như vậy. Cung lòng Mẹ là đền thờ cực thánh. Ở đó, Thiên Chúa đã tiếp nhận nhân tính và đi vào thế giới con người một cách hữu hình.”
Vâng, niềm vui chính tiêu đích của công trình cứu độ. Cho dù phải chấp nhận “trở nên hạt lúa mì gieo xuống và mục nát”, chấp nhận “con đường khổ nạn thương đau”… thì điều quan trọng nhất, cần thiết nhất Đức Kitô mang lại cho thế giới chính niềm vui, là Tin Mừng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi… để tôi loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn,… cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt…” (Lc 4,18-19). Ngài đã đoan chắc với các môn sinh ngay trước ngưỡng cửa của con đường khổ giá: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui…” (Ga 16,20-22).
Sở dĩ chúng ta dừng lại “sứ điệp niềm vui” hơi nhiều vì quả thật, thế giới hôm nay, cuộc sống hôm nay quá cần đến điều nầy. Thật vậy, xã hội chúng ta đang sống gần như bị bao vây quá nhiều bởi những lắng lo, xao xuyến, bực dọc và đầy dẫy nỗi buồn: buồn cho đất nước quờ quạng trong một cơ chế chính trị bệnh hoạn thối nát, buồn cho giới trẻ tha hoá, mất định hướng, buồn cho các gia đình gia tăng đổ vỡ, ly tán, buồn cho trong chính Giáo Hội vẫn đầy dẫy gương mù gương xấu, buồn cho tương lai xã hội, Giáo Hội đầy bóng tối hơn là ánh sáng, hy vọng…
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay, sứ điệp ngày Sinh Nhật Mẹ không cho phép chúng ta dừng lại nơi những nỗi buồn cho dù “rất chính đáng” đó. Bởi vì, như Vị tôi tớ Chúa, Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận phát biểu: “trong tự điển của người Kitô hữu không có từ buồn”. Riêng Đức Thánh Cha Phanxicô thì Ngài muốn tất cả những ai đang tham dự vào công cuộc rao giảng Tin Mừng phải ngập tràn niềm vui Tin Mừng, chứ không thể là kẻ rầu rĩ chán nản:
“Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, có thể nhận được tin mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô”. (EG 10)
Không những thế, ĐTC trong tông huấn gọi mời nên thánh (Gaudete et Exultate), ngài còn xác tín rằng: một trong những “nét tiêu biểu về sự thánh thiện trong thế giới ngày nay” đó là “VUI VẺ VÀ BIẾT ĐÙA”:
“Các thánh vui tươi và rất biết đùa. Mặc dù không xa rời thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Sống đời Kitô hữu là sống “hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “tình bác ái nhất thiết sẽ đem lại niềm vui; hễ đã yêu thì bao giờ cũng vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu mến... hoa quả của lòng bác ái là niềm vui”. (GE 122)…
“Vẫn có những lúc khó khăn, những thời khắc của thập giá, nhưng không gì có thể huỷ diệt niềm vui siêu nhiên là niềm vui “tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm xác tín của ta, tin chắc rằng, bất luận thế nào, chúng ta vẫn được Thiên Chúa thương yêu vô cùng”. Niềm vui ấy đem lại một sự vững tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng đem lại một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.” (GE 125).
Cộng đoàn dân Chúa Giáo phận chúng ta mới vừa kết thúc Năm Thánh hồng ân trong tâm tình tri ân cảm tạ và cam kết “mở một trang mới” cho cuộc lên đường Tân Phúc Âm hoá.
Trong ngày mừng Sinh Nhật Mẹ hôm nay, cũng là ngày mừng kỷ niệm 2 biến cố cột mốc quan trọng của Legio Mariae: 70 năm tại Việt Nam và 10 năm tái lập Comitium Qui Nhơn, xin Mẹ Maria tiếp tục viếng thăm và đồng hành với anh chị em chúng ta trên con đường phục vụ Chúa và Hội Thánh trong niềm vui và tràn đầy hy vọng.
Đó cũng chính là ước nguyện của cả Hội Thánh trong ngày lễ hôm nay được phản ảnh qua chính lời kinh nguyện Hiệp Lễ:
“Lạy Chúa, ước chi Giáo Hội của Chúa được đổi mới trong Thánh lễ nầy cũng được tràn đầy niềm vui trong ngày sinh của Đức Trinh Nữ Maria, Người đã đem đến bình minh hy vọng và ơn cứu độ cho thế giới”. Amen.
Trong cuộc đời, chúng ta luôn có những mốc thời gian quan trọng, đặc biệt là ngày sinh nhật, vì nó đánh dấu ngày chúng ta được sinh ra trên trái đất này. Đó là ngày đầu tiên chúng ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài, là một khoảnh khắc thiêng liêng có ý nghĩa rất lớn đối với tất cả mọi người. Hôm nay, ngày lễ sinh nhật của Mẹ Maria, chúng ta cùng hòa chung niềm vui với toàn thể Giáo hội hân hoan mừng ngày ngày chào đời của Mẹ – công trình tuyệt hảo của Thiên Chúa.
* Lễ sinh nhật của Mẹ Maria có ý nghĩa gì?
Lễ sinh nhật của Mẹ Maria mang một ý nghĩa rất quan trọng cho nhân loại, vì từ nơi Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính, là Đức Kitô, Thiên Chúa chúng ta. Hôm nay, mừng sinh nhật Mẹ Maria, nhân loại thật hạnh phúc vì công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã đến qua việc chào đời của Mẹ Maria. Dầu việc Mẹ được sinh ra xét về phương diện trần thế thì chẳng có gì khác với mọi người, Mẹ cũng được cưu mang, cũng cất tiếng khóc chào đời; Mẹ cũng được nuôi nấng và lớn lên từ dòng sữa của người phụ nữ, đó là bà Anna. Nhưng điều khác ở nơi Đức Mẹ là đã được Chúa tiền định cho có một vai trò rất đặc biệt trong chương trình cứu độ của Ngài: làm mẹ Đấng Cứu Thế. Cuộc đời của Mẹ Maria luôn luôn gắn liền với Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ. Từ lúc bước vào thế gian với hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã là một khởi đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu rỗi. Bởi vậy mà chúng ta hãy vui mừng đón mừng ngày Sinh nhật của Mẹ, một người phụ nữ đã được Sứ thần chào là Đấng “Đầy tràn ơn sủng”, và luôn “được Thiên Chúa ở cùng”.
Trong bài đọc I, được trích từ sách ngôn sứ Mikha: “Phần ngươi hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các chi tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh Israel, nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thưở xa xưa, vì thế Đức Chúa sẽ bỏ mặc Israel cho đến thời người sản phụ sinh con… Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng đến toàn cõi đất. Chính Người sẽ đem lại hòa bình” (Mk 5,1-4). Ngôn sứ Mikha đã tiên báo ngày chào đời của Mẹ Maria, đó là Rạng đông của ơn Cứu chuộc.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy kế hoạch của Thiên Chúa từ muôn thưở: “Những ai Người đã biết từ trước, thì người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng hình đồng dạng với con của người”. Người đã nắn đúc họ nên giống hình ảnh Con của Người, kế hoạch của Thiên Chúa rất minh bạch, đó là những kẻ mà Người đã tiền định, đã kêu gọi, đã công chính hoá, thì Người sẽ đem họ vào hưởng phúc vinh quang. Kế hoạch tiền định này liên quan tới số phận tươi sáng của Mẹ Maria.
* Mẹ Maria là ưu phẩm mà Thiên Chúa ban cho nhân loại
Mẹ Maria chính là ưu phẩm, là bảo vật mà Thiên Chúa đã dấu kín từ lâu, là hình ảnh đã được tiên báo, là Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể và cũng là Mẹ của toàn thể nhân loại. Vì thế, Mẹ chính là quà tặng của Thiên Chúa ban cho nhân loại, việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này mà Mẹ đã góp phần của mình vào việc cứu độ loài người. Điều này cho thấy ở Tin Mừng (Mt 1,1-16.18-23), qua gia phả của đức tin và ân sủng, quyển gia phả này nói lên một lịch sử đan dệt với biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho con người. Lịch sử này đã để lại biết bao sự kiện, biết bao vụ việc vừa tội lỗi, vừa u tối, nhưng lịch sử ấy lại được chính Thiên Chúa ghé mắt đoái thương và can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt và khác thường, cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài, Thiên Chúa đã không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người. Trái lại Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, là chọn một thụ tạo để cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài, đó là Mẹ Maria. Chính trong dòng sông đầy tội lỗi này mà Mẹ Maria đã được sinh ra để chuẩn bị cho chương trình cứu độ nhân loại, hơn nữa chính vì sinh ra trong một gia đình nhân loại tội lỗi mà Mẹ mới có thể cảm thông với mọi yếu hèn, bất toàn của con người.
* Mẹ Maria – mẫu gương lắng nghe Lời Chúa
Chúng ta biết rằng, Đức Mẹ được truyền tin sinh Con Thiên Chúa trong một hoàn cảnh éo le, vì lúc này Mẹ đã đính hôn với Giuse, tuy chưa về chung sống một nhà, nhưng đã là vợ chồng chính thức trước pháp luật, vậy mà chưa ăn ở với nhau mà đã có thai, theo cái thường tình của con người thì không thể chấp nhận được, và nếu Mẹ có nói rõ lý do liệu Giuse có đón nhận không? Nhưng Mẹ Maria không tính toán theo kiểu con người, mà Mẹ hoàn toàn tin tưởng, lắng nghe và vâng theo thánh ý Chúa. Chính niềm tin của Mẹ mà Thiên Chúa đã ra tay (cho sứ thần đến báo cho Giuse biết thánh ý của Thiên Chúa). Vậy chúng ta là con của Mẹ, chúng ta có nét gì giống Mẹ chưa? Mừng sinh nhật mẹ cũng là lúc chúng ta có cơ hội nhìn lại đức tin và cung cách sống đạo của chúng ta.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của chúng con, chúng con cảm ơn Mẹ vì nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và bình an, hơn nữa nhờ cung lòng của Mẹ mà mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người đã kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu. Và cùng với Mẹ, chúng con xin dâng lời ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,49-50).
Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Đó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Đức Giêsu là con người cầu nguyện: đây là nét nổi bật của Tin Mừng Luca. Ngài cầu nguyện suốt cuộc đời trần thế, từ khi nhận phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Lc 3, 21) đến khi hấp hối trên thập giá (23, 34. 46). Đối với Ngài, cầu nguyện là chuyện Con đi gặp Cha, là cuộc chuyện trò thân mật giữa Cha và Con. Chính vì thế các lời cầu nguyện của Ngài (10, 21; 22, 42; 23, 34. 46). đều bắt đầu bằng hai tiếng Abba, Cha ơi, thân thương. Cần một không gian tĩnh lặng và riêng tư để gặp Cha (9, 18), nên Đức Giêsu thường lên núi (6, 12; 9, 28) hay vào chỗ hoang vắng (5, 16). Nhưng có khi Ngài cầu nguyện tự phát trước mặt môn đệ (10, 21), hay dẫn các môn đệ đến nơi mình sắp cầu nguyện (9, 28; 22, 39). Gặp Cha là hơi thở đem lại sự sống và hạnh phúc cho Đức Giêsu. Ngài múc lấy toàn bộ ý nghĩa đời mình qua các cuộc gặp gỡ đó. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Đức Giêsu. Ngài đã thức suốt đêm nơi một ngọn núi (c. 12). Ngài cố ý đến ngọn núi này để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của Ngài. Đức Giêsu có điều cần hỏi ý Cha trước khi đi tới một quyết định. Và đây là một quyết định quan trọng. Đã có một đám đông môn đệ theo Ngài (Lc 6, 17), bây giờ Đức Giêsu muốn tuyển chọn một nhóm nhỏ để họ ở gần Ngài hơn và cộng tác với Ngài sát hơn. Đức Giêsu không muốn tự chọn cho mình những cộng sự viên. Ngài muốn đặt việc chọn lựa này trong bầu khí cầu nguyện. Ngài coi nhóm đặc biệt này là “những kẻ Cha đã ban cho Con,” “những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian” (Ga 17, 6. 9). Đức Giêsu chỉ muốn chọn những người Cha đã chọn cho mình. Đến sáng Ngài mới rõ ý Cha, mới làm xong việc chọn lựa. Như thế cả Đức Giêsu cũng phải vất vả tìm kiếm ý Cha. Cuối cùng Ngài đã chọn được Mười Hai ông mà Ngài gọi là tông đồ. Đời người được đan kết bằng những chọn lựa lớn nhỏ. Có những trường hợp dễ phân biệt trắng đen. Nhưng có khi tôi phân vân không rõ điều nào tốt hơn, và đâu thực sự là điều Chúa muốn cho đời tôi. Gặp gỡ Chúa trong lặng lẽ cô tịch, với tâm hồn tự do thanh thoát, chúng ta có cơ may nhận được ánh sáng từ trên cao. Nếu tôi làm theo ý Chúa, đời tôi sẽ được hạnh phúc, dù phải hy sinh. Nếu tôi cương quyết làm theo ý mình, dù biết ngược với ý Chúa, thì lòng tôi sẽ chẳng được bình an. Thiên Chúa muốn vén mở cho tôi biết ý định của Ngài về tôi, nhưng Ngài đòi tôi cất công tìm kiếm. Hạnh phúc cho ai tìm thấy ý Chúa sau những đêm dài trăn trở! Cầu nguyện:
Lạy Chúa, con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ. Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào. (gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)
Chúa Giê-su từ trời xuống. Mang theo năng lực thần thiêng. Chữa lành hết mọi bệnh tật. Xua trừ hết mọi ma quỉ. Nhưng Người chỉ ở trần gian một thời gian. Cần phải có người kế tục sự nghiệp. Người chỉ khai mào trận chiến với ma quỉ và thế lực sự dữ. Cần phải có một đạo quân tiếp tục trận chiến cho đến thành công. Vì thế Người đã tuyển chọn các tông đồ. Đây là một việc hết sức quan trọng. Vì dùng người phàm để tiến hành cuộc chiến thiêng liêng. Người phàm nhưng phải có tinh thần Nước Trời. Cần phải kết hợp với Giê-su. Cần phải mang tinh thần Giê-su. Nên Người thao thức suốt đêm. Cầu nguyện để tìm được những con người xứng đáng. Cân nhắc để xem ai có thể đem tinh thần của Người thấm nhập trần gian.
Tình thần Giê-su là phải kết hợp chặt chẽ với Chúa. Xây dựng đời mình trên nền tảng Giê-su. Trước hết phải tách lìa thế gian. Không mê theo những hứa hẹn giả dối của thế gian ẩn trong “mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ”. Sâu xa hơn nữa, phải phá tung xiềng xích trói buộc của tà thần. Bằng cách chết cho con người cũ. Khi đó ta được “cùng mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người”. Khi đó “Người truất phế các quyền lực thần thiêng” Và cho ta được “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” nơi Người. Ta được sung mãn vì trở nên chi thể kết hợp với “Người là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (năm lẻ).
Tinh thần Giê-su khiến ta chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ của nước thế gian. Ta sẽ làm chủ bản thân. Không còn tranh giành kiện cáo. Vì không màng những lợi lộc của thế gian. Sẵn sàng chịu mọi bất công thiệt thòi ở đời này. “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?”. Khi chiến thắng thế gian. Ta trở thành người xét xử thế gian. “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ sét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc đời này” (năm chẵn).
Khi mọi người theo Chúa sống theo tinh thần Giê-su. Kết hợp với Chúa. Chết cho thế gian. Ta sẽ được Nước Trời. Có một đạo quân Nước Trời. Sẽ chiến thắng ma quỉ và thế lực sự dữ. Xin cho tinh thần Giê-su ngự trị trong ta. Lan toả đến mọi người. Đem lại chiến thắng cho Nước Trời.
Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn. Ở khởi đầu lịch sử này, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà địa, Thiên Chúa đã chọn Abraham; trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; và trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Yacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel. Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môsê làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục một đường hướng: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavít làm vua, thay thế cho Saul; Ngài đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
Trong đoạn Phúc Âm trên thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta một cộng đoàn quanh Chúa Giêsu. Cộng đoàn này là hình ảnh loan báo trước trong cộng đoàn Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ thành lập và trao phó cho sứ mạng sau khi Người đã phục sinh từ cõi chết. Tất cả mọi thành phần của cộng đoàn này đều quy về một trung tâm duy nhất là Chúa Giêsu, lắng nghe lời Người giảng dạy và được quyền năng Người chữa lành khỏi bệnh tật cũng như được bảo vệ khỏi những quyền lực của ma qủy. Chúng ta nhìn thấy rõ ràng những thành phần của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu lúc đó. Trước hết là nhóm Mười Hai tông đồ vừa được tuyển chọn sau một đêm dài cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, rồi đến các môn đệ và cuối cùng là đám đông dân chúng từ nhiều nơi trong và ngoài lãnh thổ dân Israel. Từ Giuđêa, Giêrusalem, nằm trong lãnh thổ của dân Chúa, và từ miền duyên hải Tia và Xiđon là miền nằm ngoài lãnh thổ của Do Thái Giáo.
Ðọc lại đoạn văn, chúng ta có thể lưu ý đến hai đặc điểm chính của cộng đoàn quanh Chúa Giêsu, tiêu biểu cho cộng đoàn Giáo Hội Chúa trong tương lai. Trước hết, có thể nói đây là một cộng đoàn phổ quát, vượt ra bên ngoài ranh giới của dân tộc Do Thái. Sự độc quyền nhờ ân sủng Chúa nơi một dân tộc đã chấm dứt. Mọi người, mọi dân Chúa đã mời gọi gia nhập vào cộng đoàn này.
Ðặc tính thứ hai là trật tự mới của cộng đoàn được thiết lập qui về Chúa là trung tâm và có mười hai tông đồ được Chúa Giêsu chọn riêng ra, được Người huấn luyện và trao cho sứ mạng, chăm sóc, hướng dẫn cộng đoàn mới.
Tông đồ Phêrô được nhắc đến trong đoạn văn là kẻ đứng đầu nhóm Mười Hai: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con". Các tông đồ và cộng đoàn theo Chúa đã nghe lời Ngài nhiều hơn sau những biến cố vượt qua của Chúa, khi Giáo Hội được khai sinh. Chúa Giêsu đã chuẩn bị để nhóm Mười Hai tông đồ này trở thành nền tảng cho toàn thể Giáo Hội mới của Chúa. Hơn nữa, con số mười hai tông đồ là biểu hiện thứ nhất có ý nghĩa nhắc đến mười hai chi tộc của toàn dân Do Thái trong thời Cựu Ước. Dân mới của Chúa thời Tân Ước được mở rộng đón nhận toàn thể nhân loại không ai bị loại ra khỏi chương trình cứu rỗi của Chúa.
Lạy Chúa,
Chúng con tin và cảm tạ Chúa vì đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn qui tụ dân Chúa, một cộng đoàn có tổ chức được các tông đồ hướng dẫn qua mọi thời đại. Chúa không ngừng tuyển chọn những con người mới trong dòng lịch sử để tiếp tục sứ mạng của Chúa trên trần gian này. Sự yếu đuối của con người có thể xảy ra như đã xảy ra với Giuđa Ítcariốt, kẻ phản bội Chúa, nhưng chương trình cứu rỗi của Chúa không vì thế mà bị hư mất. Xin thương qui tụ chúng con lại trong tình yêu Chúa và củng cố đức tin chúng con.
Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ. (Lc. 6, 12-13)
Đây là một ngày đặc biệt với Đức Kitô. Đã đến giờ Người nghĩ phải tiến lên. Người sẽ phải ra đi, ngày đó không còn xa lắm. Cần phải bảo đảm tiếp tục công việc của Người. Cần cho lời Người được loan truyền đến tận cùng thế giới. Cần cho sứ điệp cứu độ đến chúc phúc cho mọi người. Vậy cần có những sứ giả đem giao ước Tin Mừng được Thiên Chúa quyết định hoàn tất cho loài người. Một giao ước mới vượt trên mọi giao ước đã có từ trước đến lúc này.
Ai có thể bảo đảm lãnh trách nhiệm này? ai xứng đáng trong những chàng thanh niên đang đi theo Người? Người biết những giới hạn và lòng quảng đại của họ. Người lên núi cầu nguyện suốt đêm cùng Thiên Chúa để biết rõ chọn lựa chắc chắn. Tin Mừng Thánh Lu-ca kể Đức Giêsu cầu nguyện mười một lần, những lần đó luôn luôn là những lần quan trọng trong cuộc đời của Chúa: ở sông Gióc-đan trước lúc Thánh Thần ngự xuống trên Người, khi đông đảo dân chúng đến nghe Người giảng, trước khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, lúc Chúa biến hình, trước khi loan báo về cái chết của Người, lúc các môn đệ đi truyền giáo lần thứ nhất về, lúc dạy kinh lạy cha, trước khi chịu thương khó, cầu cho đức tin của Phê-rô đứng vững, lúc hấp hối trong vườn cây dầu, trong lúc treo trên thánh giá, lúc phó linh hồn trong tay Chúa Cha.
Khi chọn muời hai tông đồ, Người hướng về Đấng đã sai Người mà cầu nguyện xin ơn soi sáng và sức mạnh. Rồi xuống với các môn đệ và chọn mười hai người, ai sẽ chối Người và ai sẽ phản bội Người. Một đội quân biệt động! vô học thức, vô giáo dục, vô trường lớp, chẳng ai biết tiếng tăm họ. Họ thuộc loại phó thường dân, quá tầm thường, phần đông là dân chài. Chính trên đó Đức Giêsu xây Giáo Hội. Thật nghịch lý! một ông thầy sau khi đã dạy như điên về thập giá, sẽ chịu đóng đinh treo trên thập giá. Và các tông đồ cũng chẳng có vẻ gì nổi, họ tiếp tục cuộc mạo hiểm mâu thuẫn, vẫn kéo dài và sẽ kéo dài vô cùng.
Cầu nguyện là bản chất của người Công Giáo. Không cầu nguyện, chúng ta khó lòng nhận ra đâu là ý Chúa và đâu là thiển ý của ta. Khi cầu nguyện, ta như được kín múc nguồn năng lượng từ Thiên Chúa, để mọi lời nói, hành động của ta được Thiên Chúa soi dẫn và chúc lành, hầu chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.
Hôm nay, Tin Mừng nhắc lại việc Đức Giêsu thức suốt đêm cầu nguyện trước khi gọi và chọn 12 người mà Ngài gọi là Tông Đồ.
Khi Đức Giêsu cầu nguyện như vậy, Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng: sứ vụ của Ngài luôn gắn bó với Chúa Cha, và những người được gọi, chọn cũng phải gắn bó với Ngài như vậy.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên ngôn sứ của Chúa, có trách nhiệm loan truyền tình yêu của Ngài cho mọi người. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể thành công khi biết gắn bó với Đức Giêsu và đón nhận thánh ý của Ngài để thi hành.
Thật vậy, để lời mời gọi của Đức Giêsu thực sự trở thành hữu hiệu, và sứ vụ chúng ta đón nhận được thi hành cách tốt đẹp theo ý hướng của Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ được phép bỏ qua việc cầu nguyện.
Chính Đức Giêsu đã làm gương về chuyện này.
Ví dụ như khi sắp ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã ăn chay cầu nguyện 40 ngày trong sa mạc; khi chọn các môn đệ, Ngài thức suốt đêm; khi sắp chịu nạn chịu chết, Ngài đã lên núi Cây Dầu cầu nguyện ...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt để mọi công việc của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Vì nhờ cầu nguyện với Chúa, chúng ta biết được thánh ý Ngài. Cầu nguyện để biết được phương cách thi hành tốt đẹp nhất. Cầu nguyện để phó thác nơi Chúa mọi sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được giá trị của lời cầu nguyện và luôn biết gắn bó với Chúa như Chúa luôn kết hợp với Thiên Chúa Cha. Amen.
Sứ điệp: Ngoài Nhóm Mười Hai tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn đặc biệt, còn có số đông các môn đệ. Người môn đệ là người đi theo Chúa Giêsu, lắng nghe và tuân giữ Lời Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con là người giáo dân sống giữa đời, được Chúa kêu gọi làm môn đệ Chúa. Giữa một thế giới hơn sáu tỷ người, Chúa đã tách riêng con để con thuộc về Chúa. Trong một thế giới quay cuồng phức tạp, người theo đạo này, kẻ theo giáo phái nọ, người chọn lý tưởng này, kẻ theo thần tượng khác. Phần con, con được làm môn đệ Chúa. Dù con không được ơn gọi và ân sủng như các tông đồ, nhưng được làm môn đệ Chúa, đó thật sự là niềm hãnh diện và hạnh phúc của con. Được theo Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đó thật sự là đặc ân cho con, đặc ân mà bao nhiêu anh chị em chung quanh không được.
Con xin dâng lời tạ ơn Chúa vì Chúa đã yêu thương con. Con là Kitô hữu, không phải chỉ vì cha mẹ đã đưa con đến nhà thờ chịu rửa tội, không phải vì một sự kiện đã rồi, không phải vì áp lực xã hội, không phải vì cha truyền con nối, không phải vì tập quán, nhưng đích thực vì Chúa đã để ý tới con, tuyển chọn con và mời gọi con.
Lạy Chúa, qua đoạn Tin Mừng, con nhìn thấy quang cảnh đoàn người đông đảo tấp nập đến với Chúa để nghe Chúa giảng. Cả một bầu khí hứng khởi nồng nhiệt phát ra từ tâm hồn các môn đệ. Xin Chúa giúp con tìm lại nguồn hứng khởi nồng nhiệt này. Xin ban cho con cảm nghiệm được niềm vui theo Chúa. Xin giúp con sống đạo trong tâm tình tạ ơn, tự nguyện, không miễn cưỡng.
Là môn đệ Chúa, con sẽ lắng nghe Lời Chúa và trung thành bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Suốt đêm, Người cầu nguyện, Người chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ”.
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.
- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu đi lên một ngọn núi và cầu nguyện: Chúa Giêsu là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Ngài cầu nguyện tha thiết trong những lúc quan trọng (3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện “suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
- Đó là việc gì? Là việc tuyển chọn từ số đông môn đệ ra 12 người mà Ngài gọi là tông đồ.
- Khi ghi nhận các tông đồ được tuyển chọn khỏi hàng ngũ môn đệ, Lc tỏ ra quan tâm tới các tác vụ trong Giáo Hội. Quan tâm này sẽ được khai triển nhiều hơn nữa trong quyển Công vụ (chẳng hạn Cv 6,1-7). Môn đệ là tất cả những ai “đi theo” Chúa Giêsu; còn tông đồ là những môn đệ được tuyển lựa kỹ để làm “cán bộ”. Điều kiện để được tuyển là:
a/ Đã từng sống với Chúa Giêsu và chứng kiến việc Ngài chết và sống lại;
b/ Được “sai đi” (đây là ý nghĩa của chữ “tông đồ” apostolos) để loan báo Tin Mừng sống lại ấy.
Lc dành riêng danh hiệu “tông đồ” cho nhóm 12 vì chỉ có họ mới hội đủ 2 điều kiện này. Ngay cả với Phaolô, Lc cũng không gọi ông này là “tông đồ”, vì Phaolô là tông đồ theo một nghĩa khác hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm. Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.
2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.
- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.
- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.
3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)
1. Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trước khi chọn các Tông đồ. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn các Tông đồ rât quan trọng, vì các ngài tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa gọi và chọn họ chứ họ không cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do Chúa chọn. Các môn đệ lại với Ngài, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
2. Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có những người ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ. Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến Lời Ngài.
Đối với Chúa Giêsu, con số 12 có một giá trị tượng trưng: các Tông đồ là 12 viên đá sống thay thế cho 12 viên đá lấy ở sông Giorđan (Gs 4,1-6) cho đến thời mới. Các ngài là tổ phụ cho dân tộc mới và là quan xét để xét xử các công dân của vương quốc tương lai.
Ngày nay, tiếp nối sứ vụ của thánh Phêrô là Đức Giáo hoàng, và tiếp nối sứ vụ của các Tồng đồ là các Giám mục, và Linh mục là đại diện của Giám mục trong việc chăm sóc và điều khiển dân Chúa. Ý nghĩa này khơi dậy cho người Kitô hữu có lòng yêu mến, vâng phục và trung thành với Đấng Bản quyền của mình trong Hội thánh, và nhiệt tình góp phần mình vào việc xây dựng và phát triển Hội thánh
3. Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.
Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.
Chính vì thế mà chúng ta nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật gọn:
“Tất cả là hồng ân”.
4. Lịch sử cứu độ đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn... Tất cả những sự lựa chọn của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội của Ngài. Nền tảng của Giáo hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
5. Thấy thái độ cầu nguyện sốt sắng của vị giáo sư toán nổi tiếng Blaise Pascal trước Thánh Thể, một sinh viên đã hỏi ông: “Làm thế nào mà một nhà toán học vĩ đại như giáo sư lại có thể tin và cầu nguyện khiêm nhường như vậy được”? Mỉm cười, vị giáo sư ôn tồn: “Này con, chẳng có ai là vĩ đại cả, và con người chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện với Thiên Chúa, vị Chúa tể trời đất mà thôi”.
Quả vậy, cầu nguyện là chuyện trò, là kết hợp với Thiên Chúa, và người cầu nguyện đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta một tấm gương sáng về cầu nguyện: “Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”(5 phút Lời Chúa).
6. Truyện: Sự lựa chọn chẳng giống ai.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc một doanh nghiệp định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
- 2 với 2 là mấy?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4.
Cô thứ hai: có thể là 22.
Cô thứ ba: có thể là 22 và có thể là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.
Vâng! Việc Chúa tuyển chọn cũng như thế! Chẳng giống một kiểu nào ở trần gian.
Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.
1. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn.
+ Ở khởi đầu, từ trong đám dân du mục vô danh tại miền Lưỡng hà, Thiên Chúa đã chọn Ap-bram; và trong những người con của ông, Ngài chỉ chọn Isaac; trong những người con của Isaac, Ngài chỉ chọn Giacob làm người cha của mười hai chi tộc Israel.
Ðể thực hiện cuộc giải phóng con cái Israel ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Ngài đã chọn Môisen làm thủ lãnh. Sau khi Israel đã được Ngài chọn làm dân riêng và qua đó thực thi chương trình cứu rỗi, Thiên Chúa cũng tiếp tục đường hướng đó: Ngài chọn lựa một số người và trao cho họ một trách vụ đặc biệt: Ngài đã chọn Ðavid làm vua, thay thế cho Saulô; Ngài cũng đã chọn một số người làm ngôn sứ cho Ngài.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người.
Chúa gọi Abraham lúc ông và vợ ông đang sống trong cảnh vui hưởng tuổi già Chúa chọn Môisen từ một bụi cây đang bốc cháy. Chúa chọn Đavid đang lúc ông chăn cừu ngoài đồng. Chúa chọn những môn đệ đầu tiên lúc họ đang làm việc chài lưới.
Lạ lùng hơn là Chúa chọn một kẻ đang đi lùng bắt những người theo Ngài trên con đường Đamas. Người đó chính là Phaolô sau này.
Tóm lại là họ được chọn hết sức bất ngờ. Và họ được chọn không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Abraham là một người bình thường. Môisen chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavid là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Giêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Khi suy nghĩ về ơn gọi của mình, mẹ Têrêsa đã viết: “Tại sao Chúa chọn chúng ta ? Tại sao Chúa chọn tôi ? Đó là một mầu nhiệm. Để làm được một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa chúng ta cần có Đức Giêsu. Đức Giêsu đã trở thành Bánh để các bạn và tôi, cũng như một đứa trẻ cũng có thể nhận lãnh Ngài để được sống. Mỗi người chúng ta cần phải gặp gỡ Đức Giêsu. Không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.”
2. Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài. Ngài chọn theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu rất độc đáo.
Ngài không chọn những môn đệ đang phục vụ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời.
Ngài không chọn những người nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang vất vả tất bật bận rộn làm việc.
Ngài không chọn những bậc trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài đơn sơ cục mịch.
Khi chọn họ Ngài đã thổi vào trong tâm hồn họ ý định truyền giáo của Ngài.
Ngài chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự.
Ngài chọn những người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ được đi theo Chúa.
Chúa hoàn toàn tự do chọn những ai Ngài muốn.
Đang cần một thư ký mới, giám đốc công ty doanh nghiệp quyết định thẩm vấn những người xin việc qua một nhà tâm lý. Ba cô gái được phỏng vấn.
Nhà tâm lý hỏi:
-2 với 2 là mấy ?
Cô thứ nhất trả lời cách chắc chắn: 4 Cô thứ hai: Có thể là 22. Cô thứ ba: Có thể là 22 và có thể là 4.
Khi các cô ra về, nhà tâm lý quay sang giám đốc và nói:
- Đó là những biểu hiện tâm lý. Cô thứ nhất nói điều hiển nhiên. Cô thứ hai nghi ngờ. Cô thứ ba có cả hai: ông sẽ chọn cô nào ?
Giám đốc không ngập ngừng:
- Tôi sẽ chọn cô có mái tóc vàng với cặp mắt xanh.
Vâng! Việc Chúa tuyển chọn chẳng giống một kiểu nào ở trần gian. Tuy nhiên Chúa cũng thấy được những người Chúa muốn tuyển chọn là những người như thế nào.
Đọc trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy Chúa yêu thích những tâm hồn rộng mở, biết sống hài hoà, biết đón nhận anh em.
Ngài yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, thích sống cuộc đời khiêm nhường bình dị.
Ngài yêu thích những trái tim nồng nàn yêu thương luôn biết đón nhận Thánh ý Chúa.
Ơn Chúa gọi là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu.
Chính vì thế mà chúng ta thường nghe người ta diễn tả về ơn của Chúa bằng một cụm từ thật vắn gọn: “Tất cả là một hồng ân”.
Lạy Chúa, xin cho con biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng các đóng góp nhỏ bé trong đời sống hàng ngày của con. Con yếu kém tài năng và nhân đức, con chẳng làm được những điều vĩ đại để rao giảng về Chúa cho kẻ khác, con chỉ xin góp phần bằng việc âm thầm khiêm tốn, dù người đời không ai biết, nhưng con tin rằng: Chúa biết và chúng có giá trị trước mặt Chúa. Amen.
Chúa đến trần gian để thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó là Chúa rao giảng Tin Mừng để cứu độ muôn dân. Đây là một sứ mạng linh thánh, thiêng liêng, quá cao vời của Chúa. Chúa có thể thực hiện một mình và Chúa không cần ai phụ giúp cho Chúa. Thế nhưng, lúc nào Chúa cũng nghĩ đến con người chúng ta. Chúa mong muốn điều tốt đẹp nhất đến với con người chúng ta. Vì thế mà Chúa tạo nghiệp cho chúng ta để chúng ta được Chúa cho thừa hưởng nước thiêng đàng với Chúa sau này. Do đó mà trước tiên là Chúa chọn mười hai tông đồ, rồi đến mỗi người chúng ta qua mọi thời đại.
Vì Chúa chọn các tông đồ là một việc rất hệ trọng, cho nên Chúa thức suốt đêm để Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, bàn hỏi với Chúa Cha, lãnh ý Chúa Cha và cuối cùng Chúa quyết định là sáng hôm sau, Chúa gọi các môn đệ tới và chọn mười hai vị mà Chúa gọi là mười hai tông đồ (Lc 6, 12 – 13): Đó là Simon mà Chúa đặt tên là Phêrô và anh ngài là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philípphê và Batôlômêô và Tôma, Giacôbê con ông Alphê, và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê, và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.
Chọn chọn gọi mười hai tông đồ với tên tuổi cụ thể không phải để các ngài ngồi chơi xơi nước, mà việc chọn gọi này gắn liền với sứ mạng và được sai đi rao giảng Tin Mừng giống như Chúa. Vì thế, bài học đầu tiên Chúa dạy các tông đồ và cũng là bài thực tập trước hết cho các ngài là tình yêu. Dường như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay là các ngài vừa học vừa thực tập. Chúa chấp nhận điều này vì các ngài không có tài cán gì, còn khả năng thì quá giới hạn bởi các ngài là những ngư phủ, một nắng hai sương, đầu tắt mặt tối, làm bữa nào xào bữa đó. Bởi vậy, khi Chúa dẫn các ngài đi xuống và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, dân chúng có đạo cũng như không có đạo đến với Chúa quá đông đảo, Chúa thương dạy dỗ họ, làm các phép lạ chữa lành những chứng bệnh khác nhau trong dân, Chúa xua trừ ma quỷ. Có một điều chúng ta thấy là dân chúng đến sát bên Chúa, đụng chạm tới Chúa, nghĩa là dân chúng quá gần gũi với Chúa mà Chúa vẫn không ngại ngùng gì hết. Chúa chấp nhận mất thời gian với dân chúng, thậm chí Chúa chấp nhận dân chúng quấy rầy Chúa là vì Chúa yêu thương dân chúng và để cho dân chúng thỏa mãn những khát khao của họ khi họ được ở kề bên Chúa: “…có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Chúa giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm đến Chúa, vì tự nơi Chúa phát suất một sức mạnh chữa lành mọi người” (Lc 6, 17 – 19). Ngày hôm nay, Chúa cũng dạy chúng ta bài học yêu thương người khác như Chúa đã dạy các tông đồ ngày xưa. Chúa chẳng những dạy chúng ta một hoặc hai ngày, mà Chúa dạy suốt cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con ca ngợi, chúc tụng Chúa vì Chúa yêu thương chúng con, cho nên Chúa rất vui khi ở giữa chúng con, Chúa chấp nhận chúng con làm phiền hà quấy rầy Chúa, nhất là mỗi khi chúng con ngỗ nghịch phạm tội mất lòng Chúa. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ cùng tha thứ tội lỗi cho chúng con và giúp chúng con luôn học ở Chúa bài học của sự yêu thương để lúc nào chúng con cũng thể hiện tình yêu ấy khi chúng con sống cảm thông, tha thứ, bỏ qua những lầm lỗi, những thiếu sót của nhau, đồng thời biết giúp nhau, san sứt sẻ chia những gì chúng con có cho những người nghèo khổ thiếu thốn để: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít cũng không thiếu” (2Cr 8, 15). Amen.
Trước khi làm việc gì, nhất là những việc hệ trọng, Chúa luôn cầu nguyện với Chúa Cha. Chúa cầu nguyện để lãnh ý Chúa Cha. Như vậy tất cả những lời rao giảng Tin Mừng và những việc Chúa làm đều có sự đồng ý của Chúa Cha, được Chúa Cha chúc lành.
Chúa cầu nguyện suốt đêm và sáng hôm sau Chúa chọn mười hai tông đồ: “Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An- rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội” (Lc 6, 12 – 16). Đây là một con số hết sức nhỏ bé để Chúa thiết lập nên Hội Thánh của Chúa ở trần gian. Chọn gọi xong rồi, Chúa dẫn các ngài xuống núi và Chúa dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ và đoàn người đông đảo từ khắp các nơi tuôn về nghe Chúa giảng và để được chữa lành bệnh tật kể cả những người bị quỷ ám cũng được chữa khỏi: “Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu- đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành. Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6, 17 – 19). Đây là bài học đầu tiên Chúa dạy dỗ và huấn luyện các ngài. Bài học rất thực tế, cụ thể, rõ ràng, mà các tông đồ cần phải khắc ghi, đó là:
- Hội Thánh của Chúa là một công đoàn, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, giai cấp, địa vị, giàu, nghèo, sang, hèn…
- Đối tượng phục vụ của Hội Thánh là tất cả mọi người, nhất là những người nghèo, người bị bỏ rơi, người bệnh tật, người đau khổ…
- Hội Thánh dùng chính Lời Chúa để rao giảng, để hướng dẫn, dạy dỗ, giúp con người sống tốt và tìm về với Chúa.
- Chúa là thủ lãnh của Hội Thánh, Chúa ban cho Hội Thánh có sức mạnh thần linh can đảm phục vụ hết mọi người qua mọi thời đại.
- Cốt lõi của bài học là tình yêu thương, Hội Thánh phải lấy tình yêu thương mà phục vụ mọi người qua mọi thời.
Đám đông tìm cách chạm đến Chúa, và họ đã được ơn, Hội Thánh là chỗ để con người tìm về gặp Chúa, nhất là những lúc con người gặp khủng hoảng, hoạn nạn, đau khổ, thất bại, tuyệt vọng.
Lạy Chúa, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền tảng các tông đồ. Xin cho chúng con biết luôn cộng tác với nhau để xây dựng Hội Thánh Chúa bằng lời cầu nguyện, và những hy sinh đóng góp tài lực theo khả năng của bản thân để làm phát triển Hội Thánh Chúa ở trần gian này. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 23 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, xin Chúa lấy tình Cha, mà âu yếm đoái nhìn chúng ta là những kẻ tin kính Đức Kitô, thì, xin Chúa cho chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, tin tưởng Chúa sẽ giải cứu ta khỏi tay quân thù, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Khabacúc: Lời cầu xin khi gặp tai họa. Ai trung thành với Giao Ước, mà không nhìn chiến thắng của quân xâm lược Canđê, như chiến thắng của sự dữ, làm cho kế hoạch của Thiên Chúa phải thất bại? Nhưng Chúa đã mặc khải cho ngôn sứ của Người ý nghĩa sâu xa của thử thách: Nếu dân Chúa nhất mực trung thành, thì, Người sẽ quay trở lại mà thi ân giáng phúc… Chỉ còn ít lâu nữa, chỉ một ít nữa thôi, Đấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn. Người công chính sẽ được sống nhờ lòng tin. Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống của mình.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, bước theo đường lối thánh chỉ của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Bênađô: Tôi sẽ ra đứng ở chòi canh, canh chừng xem Người nói với tôi điều gì… Mọi quyết định của Chúa luôn ở trước mặt tôi, thánh chỉ Người truyền, tôi không hề bỏ. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Hễ ai giữ lời Thiên Chúa dạy, thì nơi người ấy tình yêu Thiên Chúa đã thật sự tới mức hoàn hảo.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, ca ngợi tình yêu và lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê: Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 144 cho thấy: Chúa tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện. Người đã chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện, chính Chúa đã chọn các Tông Đồ. Chúa luôn đi bước trước, luôn ở thế chủ động: Mọi quyết định của Chúa luôn ở trước mặt chúng ta; huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng; Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời. Nếu chúng ta giữ lời Chúa dạy, thì, nơi chúng ta, tình yêu Chúa đã thật sự tới mức hoàn hảo. Chúng ta sẽ ra đứng ở chòi canh, đứng gác trên tường lũy, canh chừng xem Người nói với chúng ta điều gì, và chúng ta phải trả lời làm sao cho Đấng hạch hỏi chúng ta. Chúng ta hãy trở về với lòng mình là nơi Đức Kitô ngự, mà ăn ở cho thẳng thắn và khôn ngoan, nhưng, đừng đặt tin tưởng vào cách ăn ở đó, cũng đừng dựa vào chòi canh mỏng mảnh là sự cảnh giác của mình, bởi vì, chính Chúa, mới là người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta, chính Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Chính Người đã chọn chúng ta, luôn tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta. Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, ước gì chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế. "Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được. Một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo. Một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch. Một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao... Một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ. Giữa cuộc sống khó khăn, vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền. Họ chọn sống trong cảnh nghèo, lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn. Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, Vì Nước Trời là của anh em”. Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt. Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với lối đánh giá khác, làm chúng ta ngỡ ngàng. Ngài cho các môn đệ của Ngài biết rằng: họ là những người có phúc, khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Ngài. Nước Trời đã thuộc về họ từ đây, và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết. Đức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta. Ngài là một người thợ thủ công nghèo, Ngài biết đến sự dày vò của cơn đói, Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem, và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết. Nhưng Đức Giêsu là con người hạnh phúc, vì biết mình luôn sống cho Cha và con người. Chúng ta cần có kinh nghiệm của Đức Giêsu: Nghèo của cải mà thật giàu Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu chúc phúc cho những môn đệ nghèo của Ngài, nhưng Ngài không ca ngợi sự bần cùng, lạc hậu. Cả cuộc đời Ngài là một hành vi cúi xuống để nâng dậy những ai nghèo sức khoẻ, nghèo niềm vui. Hôm nay Ngài muốn chúng ta đến với khu lao động, với lớp học tình thương, xóa đi cái nghèo tri thức, nghèo những ước mơ cao cả. Sự no đủ và niềm vui phải bắt đầu từ đời này. Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô, tự nguyện trở nên nghèo hơn để làm giàu cho người khác (2 Cr 8,9). Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con. Bất cứ ai cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ. Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa. Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác. Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng. Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó, ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có. Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ. Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen. ---------------------------------
Con người luôn khao khát hạnh phúc. Vì Thiên Chúa tạo dựng để con người được hạnh phúc. Con người luôn khao khát. Vì hạnh phúc là có thật. Nhưng con người lại chưa từng gặp được. Cứ mòn mỏi chờ mong. Cứ miệt mài tìm kiếm. Hôm nay Con Chúa xuống thế làm người chỉ cho con người đường đến hạnh phúc. Và vạch rõ những nẻo đường dẫn đến bất hạnh.
Đường đến hạnh phúc ngược với suy nghĩ của phàm nhân. Vì hạnh phúc thật không có ở trần gian. Chỉ có trong Nước Chúa. Ai càng gắn bó với đời này càng thất vọng. Ai càng bám víu vào những giá trị đời này càng bất hạnh. “Khốn cho các người, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”. Chỉ có người biết dứt bỏ tham, sân, si mới đạt tới hạnh phúc. Chỉ có người vượt lên trên những ham muốn tầm thường ti tiện của loài người mới đạt tới Nước Trời. “Phúc cho anh em là kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Hạnh phúc thật chỉ có trong Chúa. Là chính Chúa. Ai dứt bỏ mọi cám dỗ vì Chúa sẽ tìm được Chúa. Nhất là ai dám liều mạng sống vì Chúa sẽ được phần thưởng là chính Chúa. Đó là hạnh phúc thật, viên mãn, vĩnh cửu. “Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên tời thật lớn lao”.
Hạnh phúc thật không có ở đời này. Chỉ có ở đời sau. Nên thánh Phao-lô khuyên nhủ ta đừng bám víu vào đời này. Hãy hướng lòng về đời sau. Coi mọi sự đời này như không có. Vì chúng rất mau qua. “Tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (năm chẵn).
Hạnh phúc không thuộc hạ giới. Nên ngài khuyên ta: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”. Và phải dứt khoát: “giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em”. Hạnh phúc không có nơi thủ lãnh thế gian. Nên ta phải sống cho Chúa. Vì”Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (năm lẻ).
Thật lạ lùng con đường của Chúa. Chịu bất hạnh để được hạnh phúc. Từ bỏ tất cả để được lại tất cả. Chết cho trần gian để sống cho Chúa. Vượt qua hạ giới để vươn lên thượng giới. Chối từ thế gian để đạt tới Nước Trời.
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những kẻ bây giờ phải đói khát, phúc cho những kẻ bây giờ đang phải than khóc, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không phải là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo; đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: "Phúc cho những kẻ nghèo khó", Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Ðược lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
“Phúc cho anh em những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, Vì anh em sẽ được vui cười. (Lc. 6, 20-21)
Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo lý luận con người. Chúng làm ta phát điên. Nhưng chúng lại làm ta kinh ngạc và chúng ta không dám từ bỏ chúng vì nghĩ đến những bao nhiêu quả phúc chúng đã sinh ra qua những thế hệ. Những hạnh phúc theo Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều gây kinh ngạc, tuy hai Thánh có viết khác nhau, nhưng cùng một mục đích là hạnh phúc nước trời. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó, đến thái độ con tim. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến nghèo khó thật sự, nghèo khó của giai cấp xã hội chẳng có gì hết trơn hết trọi, giai cấp xã hội nghèo khó này đang qui tụ lại thành tín đồ của Tin Mừng Đức Giêsu. Thánh Mát-thêu kêu mời từ bỏ bên trong. Thánh Lu-ca kêu gọi cải tạo cơ cấu xã hội để giảm bớt những khổ đau trong xã hội.
Chính trong thảm trạng cụ thể của lịch sử mà Đức Kitô nói: “ Các bạn là những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc, bị khinh bỉ, ghen ghét, bị bắt bớ, bị nhục nhã, phúc cho các bạn. Vì nếu bây giờ các bạn chịu được như thế, ngày kia tất cả sẽ đổi lại, các bạn sẽ giầu có, no nê, vui cười, được mến chuộng trong nước Thiên Chúa”.
Có thật không hay trò đùa? Đức Kitô nói thế nào? có phải Ngài nói dỡn để cho những kẻ khốn khổ thể xác, tình cảm, tinh thần được vui chút ư? có phải Ngài là chú hề đã nói đến sự đền bù ở tương lai mơ hồ giả định ư? có phải chỉ là giấc mơ hạnh phúc có thể giúp cho người ta chịu khổ bây giờ để đè nén cho nguôi đi những đau đớn và uất ức chăng? hiểu sai lầm các mối phúc thật, như thế là độc ác và vô liêm sỉ. Đức Kitô không bao giờ phong thần đau khổ và bất hạnh. Người không ngừng làm giảm bớt nỗi đau khổ của con người suôt đời Ngài đã cứu chữa, an ủi những bệnh nhân, tật nguyền, nghèo khổ và tha thứ cho những tội nhân, giải phóng những kẻ bị ma quỷ xiềng xích. Ngài muốn chúng ta hiểu và chấp nhận thập giá như Ngài. Vì mến Chúa và yêu người. Lúc đó thập giá trở nên lời hứa thực hiện ơn cứu độ. Như vậy khác xa những thứ mỵ dân!
Xem lại CN 4 TN A, CN 6 TN C, thứ Hai tuần 10 TN và lễ Các Thánh Nam NỮ
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai nghèo, đói, khổ đau, và vì Chúa mà bị thù ghét. Những người có phúc trên đời này: giàu có, no nê, sung sướng, danh giá… không đón nhận được phúc lành của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, có lẽ không có gì làm cho tâm trí con bị giằng co, bị phân vân cho bằng các mối phúc của Chúa. Bởi vì những gì con nghĩ là bất hạnh thì được Chúa cho là phúc lành; còn những gì con ao ước có thì Chúa lại cho là bất hạnh. Con xin thú thật, trong cuộc sống của con, lắm khi con không dám đón nhận các mối phúc của Chúa. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay luôn nhắc nhở bên tai con khiến con phải suy nghĩ, phải đặt lại vấn đề. Chính Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời. Lời Chúa là chân lý, là đuốc sáng soi dẫn đời con. Chúa đã hứa ban sự sống đời đời cho những ai đón nhận Lời Chúa. Chúa đã hứa ban Nước Trời cho những ai sống theo các Mối Phúc Thật. Con muốn chọn Chúa, muốn sống cho Chúa. Xin Chúa cho con xác tín vào Chúa mạnh mẽ hơn để con có thể bước vào con đường hẹp và gồ ghề của các Mối Phúc.
Những khi gia đình con gặp túng cực, những khi con phải chịu thiệt thòi, những khi con gặp khó khăn, dở khóc dở cười… con thường nghĩ con bị Chúa bỏ rơi, con đang phải cô đơn, vô vọng.
Lời Chúa hôm nay đã nâng đỡ và khích lệ con. Con không bị bỏ rơi khi con phải khổ đau. Con không xa Chúa khi con túng bấn. Chúa đang ở bên con, đang hướng dẫn con về Nhà Chúa, Chúa đang chúc phúc cho cuộc sống nhiều chật vật gian nan của con. Lạy Chúa, xin cho con bước theo Chúa trong trung thành và bền chí. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Khi hoàng đế Napoléon của Pháp, người hùng chinh phục cả Âu châu, bị đày sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?”. Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rãi nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi rước lễ lần đầu”.
Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giàu sang và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa (Theo Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr. 91).
Suy niệm
Thiên Chúa luôn mong cho con người hạnh phúc dù giàu hay nghèo, tất cả đều nằm trong sự yêu thương quan phòng của Người. Hạnh phúc là điều Thiên Chúa muốn nơi con người và cũng là niềm mơ ước của tất cả mọi người cho dù họ là ai, đang ở vị trí nào đi chăng nữa.
Chúa Giêsu không lên án hay có ý chúc dữ những người giàu có làm ra từ đôi tay chăm chỉ, đi từ gốc của lòng lương thiện và sống trong ánh sáng đức ái của Lời Chúa. Những người giàu biết sử dụng của cải Chúa ban một cách hợp lý, biết chia sẻ cho những người túng nghèo như Giakêu - người thu thuế giàu có, hoán cải khi tiếp đón Chúa, được Chúa biến đổi để tin nhận Ngài là phần phúc và tự tâm biết chia sẻ với những người nghèo, với những người mà ông đã làm thiệt hại.
Chúa nói “khốn thay” cho những người giàu tức là Ngài muốn chỉ trực diện những người giàu có nhưng ích kỷ, keo kiệt. Những người nhiều tiền lắm bạc, của cải tràn lan làm từ sự bất công và phi pháp, họ lại không biết san sẻ cho những số phận hẩm hiu như người phú hộ giàu sang dửng dưng coi như không có Ladarô nghèo nàn, ghẻ lở bên cổng nhà mình…
Những mối phúc mà Chúa Giêsu nhấn mạnh quả là niềm an ủi nâng đỡ cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức... Cái phúc cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức, bị oan ức, bị bách hại là chính Con Thiên Chúa đến để giải thoát họ, Ngài được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần được sai đi đem Tin Mừng cho những người nghèo khổ, những kẻ bị giam cầm và bị áp bức, Ngài giải thoát và dẫn họ đến tự do, hạnh phúc (x. Lc 4,14-21). Người sống trong thân phận nghèo khó, tù đày, bị áp bức để được đón nhận hồng ân cứu độ như nguồn phúc mà Chúa Giêsu loan báo, họ phải ý thức thân phận nghèo khó, thân phận bị áp bức của chính mình. Trong tâm thức đó, họ để cho Ngài và cùng với Ngài hành động giải thoát trong niềm tin và sự phó thác. Những lo âu, những khốn khó, những giọt nước mắt sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác và như thế người nghèo khó, người bị áp bức tù đày được cùng với Ngài giải thoát ngay trong chính niềm tin, đó là cái phúc cho người nghèo.
Phúc hay họa cho người giàu cũng như người nghèo không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình.
Dù giàu hay nghèo Thiên Chúa đều chúc phúc miễn là sống trong tin cậy và thể hiện niềm xác tín ấy trong cuộc sống như Thánh vịnh đã khuyên: “Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa” (Tv 39,5c).
Ý lực sống:
“Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn” (Gr 17,7-8).
Trong Tin mừng hôm nay, thánh Luca nêu lên bốn mối phúc và bốn mối hoạ, như một lời báo trước cuộc phán xét của Đức Giêsu trong ngày cánh chung. Bốn mối phúc như là những đòi buộc của Chúa đối với các môn đệ chân chính. Bốn mối hoạ không phải là lời nguyền rủa nhưng là lời khuyến cáo và tha thiết kêu gọi thống hối ăn năn. Chúng ta đã sống thế nào trước lời nhắn nhủ chân thành của Chúa?
Bài giảng được kể là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI trong Tin mừng Mátthêu kể ra 8 cái phúc (Bát phúc), hôm nay đến lượt Tin mừng Luca thu lại chỉ còn 4 cái phúc và 4 cái khốn. Theo Mátthêu, đây là bài giảng trên núi, bao gồm 8 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Còn Luca, đây là bài giảng ở chỗ đất, bằng trình bấy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 cái khốn, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giàu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết, để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người, để nó thống trị và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ khó nghèo”, Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người (Mỗi ngày một tin vui).
“Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước trời là của anh em” (Lc 6,20).
Xoá đói giảm nghèo là mục tiêu chung của cả toàn cầu, đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Nghèo đói thường đi với cực khổ và cũng thường gắn liền với tự ti mặc cảm. Do đó, đối với nhiều người, coi nghèo khó là hạnh phúc như lời Đức Giêsu thật là điều nghịch lý! Thật ra, Chúa không đề cao tình trạng khố rách áo ôm hay chạy ăn từng bữa, nhưng cổ võ cho lối sống phó thác cậy trông nơi Thiên Chúa, trong tinh thần liên đới với người lân cận. Nghèo khó mà Đức Giêsu muốn dạy chúng ta là tinh thần nghèo khó, lấy Chúa làm nền tảng của mọi giá trị, cùng đích cho cuộc đời mình, chứ không dựa vào của cải. Đức Giêsu đã sống triệt để mối phúc nghèo khó qua cuộc sống hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (5 phút Lời Chúa).
Vậy hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:
Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi! lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó trong Chúa và tình yêu Chúa”.
Truyện: Hạnh phúc của dân làng Aman
Không có dấu hiệu bên ngoài nào chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:
- Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo những lời quở trách.
- Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
- Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
B.... nẩy mầm.
1. Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó… Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có…”: Có một truyện phim được chiếu trên truyền hình, kể chuyện một gia đình nghèo nhưng hạnh phúc, về sau khi họ giàu lên thì không còn hạnh phúc nữa. Có lẽ dụng ý của Đài khi chiếu phim này là để đưa ra một lời cảnh giác cho mọi người trong thời kỳ đất nước đang mở cửa theo hướng kinh tế thị trường. Nghèo chưa hẳn là khổ, và giàu chưa hẳn là sướng. Sướng hay khổ là do lòng người, hay nói cho đúng hơn, do những giá trị mình theo đuổi. Như gia đình ấy khi còn nghèo thì mọi người biết lo lắng và hy sinh cho nhau; đến khi giàu thì mạnh ai nấy lo hưởng thụ một cách ích kỷ.
2. Trong bài Tin Mừng này, thánh Luca chú ý ghi rõ những chữ “bây giờ” và “sẽ”. Nghĩa là có thể có sư thay đổi tình trạng. Bây giờ đang khổ nhưng sau này có thể sẽ hạnh phúc; ngược lại bây giờ đang sung sướng nhưng sau này có thể sẽ khổ. Người đang khổ vật chất nhưng biết tìm kiếm những giá trị siêu nhiên thì sẽ hạnh phúc; ngược lại kẻ đang sung sướng với những giá trị vật chất nhưng cứ bám vào chúng mà không vươn lên những giá trị siêu nhiên thì sẽ bất hạnh.
3. Chúa rất yêu thương và rất công bình: ngay cả những người đang khổ, Chúa cũng ban cho họ hạnh phúc, một thứ hạnh phúc lạ lùng mà sự khôn ngoan thế gian không nghĩ ra được.
Xin cho con đừng bi quan chán nản trong những cái khổ hiện tại của con, nhưng biết tìm trong đó nguồn hạnh phúc siêu nhiên.
4. Lời cầu nguyện của người nghèo:
Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và thương yêu vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn cho con. Trước hết, với cuộc sống nghèo, Chúa đã tích cực chia sẻ cộc đời túng thiếu của con. Chúa chia sẻ thực sự bằng cách sống với người nghèo, trong cảnh nghèo, như người nghèo và cho người nghèo. Nhìn vào cuộc đời Chúa, con thấy Chúa còn nghèo hơn con. Nhưng nhờ đó con cảm thấy Chúa gần con như một người bạn, như một người thân. Chẳng ai dám chia sẻ đời nghèo của con đề sống gần con như thế. Có Chúa, con cảm thấy bớt cô đơn buồn tủi.
Ngoài ra, việc Chúa chọn phận nghèo còn dạy con giá trị cao quý của đau khổ. Chúa đã dùng đau khổ để cứu con và cứu nhân loại. Con không thể lên trời bằng con đường khác. Hiện giờ, đau khổ không thiếu, chỉ cần con chịu những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa và khao khát tìm Chúa, tức khắc đau khổ sẽ trở thành con đường đưa con về hạnh phúc bất diệt. Cũng nhờ đó, con mới nhận ra rằng cảnh nghèo không kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ tạm thời rồi nó sẽ qua đi. Nếu nó có thể dùng vào việc mở cửa thiên đàng, thì nó không chỉ biết gây đau thương và bất hạnh. Tất nhiên, con sẽ cố gắng xoay sở làm ăn để đủ sống xứng đáng con người, nhưng nếu cảnh nghèo cứ bám chặt lấy đời con thì con phải lợi dụng để biến nó thành một phương tiện làm giàu thiêng liêng (Chờ đợi Chúa)
5. “Khốn cho các ngươi hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ than khóc” (Lc 6,25)
Mày mò mấy tháng trời, tôi mới khám phá ra được cách chép nhạc bằng máy vi tính. Một mình trước máy vi tính, tôi thấy mình thật vui với một chút kiêu hãnh: mình vượt mấy thằng bạn trong lớp rồi.
Nhưng tôi cảm thấy như có cái gì đó “không ổn” trong kiểu suy nghĩ của mình. Tôi quyết định tận tình chỉ lại cho bạn bè như một sự chia sẻ niềm vui. Và kìa, lòng tôi sao hạnh phúc quá!
Thiên Chúa chắc chắn không thể chúc dữ chỉ vì tôi giàu có, no nê, vui cười; nhưng nhất định Ngài sẽ chỉ trích khi tôi không biết chia sẻ những gì mình có cho anh em.
Giêsu ơi! Con vẫn cảm thấy hạnh phúc, bình an và vui tươi khi chia sẻ và trao ban cho tha nhân. Nhưng để chia sẻ cách thật tình hơn với những người ít thân hơn thì con lại ngần ngại. Lạy Chúa xin hãy dạy con, xin hãy dạy con. (Hosanna).
1. Tin Mừng hôm nay nói về hạnh phúc. Trong khi Thánh Mátthêô ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi lại có 4 lời và điều đáng chúng ta lưu ý là ngài còn kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những người bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
Vâng, hạnh phúc là mối bận tâm sâu thẳm nhất của con người. Nhưng làm sao để có hạnh phúc thì điều đó không phải dễ trả lời.
Vua Abder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:
- Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.
Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!
2. Vậy thì hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do Thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở Paris, ngài nói:
- Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp... Ôi lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy bây giờ ở đâu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng”.
Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa”.
Đây là tâm sự của một người đã cố gắng sống như Chúa: “Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và yêu thương vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn thân phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn lao cho con.
Lạy Chúa Giêsu, Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui của người được lành bệnh. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen. (Rabboni)
Theo sách Giảng Viên chương ba, mọi sự dưới ánh mặt trời nầy đếu có thời có lúc của nó. Nghĩa là có một thời sinh ra thì cũng có một thời chết đi, có một thời để vun trồng để xây dựng nhưng cũng có một thời để phá hủy…. Bất cứ điều gì trên trần gian này cũng đều có giới hạn và có hai mặt là mặt phải và mặt trái của nó. Ví dụ như có hạnh phúc thì cũng có khổ đau, có mạnh khỏe thì cũng có bệnh tật, có thành công thì cũng có thất bại, có yêu thì cũng có ghét, có cười thì cũng có khóc, có vui thì cũng có buồn, có vinh thì cũng có nhục….Vì thế mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nói về mặt phải, mặt trái trong đời sống làm người chúng ta.
Chúa nói mặt phải mà chúng ta có phúc là khi chúng ta nghèo, thì Chúa lại ban cho chúng ta được hưởng nước thiêng đàng. Chúng ta có phúc là Chúa cho chúng ta no đủ khi chúng ta đói khát Chúa, đói khát chân lý, đói khát tình yêu, đói khát thiếu trước hụt sau về của ăn thức uống. Cái phúc của chúng ta khi chúng ta đau buồn khóc lóc vì phải sống tốt với anh chị em chúng ta theo ý Chúa thì Chúa lại an ủi chúng ta, cho chúng ta vui cười, vì Chúa thương chúng ta. Cái phúc của chúng ta khi vì Chúa mà bị người đời không ưa không thích, thù ghét chúng ta, trục xuất, phỉ báng chúng ta, loại trừ chúng ta như là một kẻ bất lương tội phạm, Chúa sẽ thưởng công chúng ta và chúng ta hãy hân hoan vui mừng. Đó là mặt phải của cuộc sống khi chúng ta làm theo ý Chúa.
Mặt trái của cuộc sống khi chúng ta không làm theo ý Chúa mà cứ làm theo ý riêng của mình và ý của thế gian. Đó là cái khốn cực cho chúng ta. Khốn cho chúng ta khi chúng ta ra sức làm giàu, tích trữ của cải vật chất mà không giữ đạo Chúa. Người đời sẽ khen chúng ta là người thành công, ăn nên làm ra, có của dư của để, là do tài năng của mình. Chúng ta đã được an ủi rồi, chúng ta sẽ không cần Chúa. Chúa không nâng đỡ chúng ta nữa. Khi chúng ta được no nê đầy đủ, hưởng thụ, tìm khoái lạc mà không biết chia sẻ cho người nghèo khổ, đói khát, đó là nỗi khốn cho chúng ta, chúng ta sẽ phải đói khát mãi sau này (xLc 16, 19 – 31). Khốn cho chúng ta ngày hôm nay, chúng ta vui cười, sung sướng trên những nỗi đau, nỗi khổ của người khác, chúng ta phải ưu sầu khóc lóc sau này, vì chúng ta không biết vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12, 15). Khốn cho chúng ta khi chúng ta sợ người đời hơn sợ Chúa, chúng ta không chịu dấn thân để giữ đạo, để phục vụ, nhưng thích người đời ca tụng, tung hô, khen tặng chúng ta để ru ngủ chúng ta trong hào quang giả tạo, làm cho chúng ta xa rời Chúa, yêu thế gian hơn yêu Chúa. Chúng ta nghe Chúa nói các mặt trái này để chúng ta tránh đi, chúng ta phải làm theo ý Chúa để Chúa cứu giúp chúng ta.
Cuộc sống chúng ta ở trần gian này là vô thường, không có gì tồn tại mãi, chỉ có Chúa mới là cùng đích và vĩnh viễn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi chúng ta được ở trong những cái phúc của Chúa ban, chúng ta cần phải tạ ơn Chúa, cộng tác với Chúa để làm cho ơn Chúa phát triển nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng biết rằng nếu chúng ta không biết ở trong mặt phải Chúa ban, chúng ta sẽ rơi vào những cái khốn, và chúng ta sẽ đau khổ đời đời.
Lạy Chúa, nhờ ơn Chúa thương ban, chúng con được bước đi trong tình yêu của Chúa, được nối gót của cha ông, và tất cả anh chị em chúng con đang sống đây làm thành một cộng đoàn dân thánh của Chúa, bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa để chúng con đạt đến hạt phúc đời đời. Xin Chúa gìn giữ đỡ nâng chúng con. Amen.
- Nghèo khó: Người nghèo là người không có sản nghiệp, gia tài, chúng ta chẳng muốn nghèo khó, chỉ muốn giàu có, sang trọng: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6, 20).
- Đói khát: Những người đói khát là những người đói ăn, khát uống, chúng ta sợ mình đói và khát: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6, 21a).
- Khóc lóc: Những người khóc lóc là do đau buồn, bệnh tật, thất bại, thất vọng, chán nản, chúng ta không muốn mình khóc lóc: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6, 21b).
- Bị thù ghét vì Chúa, những người vì Chúa mà bị người đời phỉ báng, trục xuất, loại trừ, gạch tên, ghép tội bất lương, chúng ta sợ những cực hình, không dám đối diện với nó” (Lc 6, 22 – 23).
Người trần gian chẳng ai muốn cam chịu những điều như trên. Nhưng Chúa nói đó là cái phúc, cái phúc này là ở trong tinh thần, được Chúa chúc lành, được Chúa ở với chúng ta, được Chúa ban ơn thêm sức để chúng ta mạnh mẽ, can đảm chấp nhận vui vẻ, vì đó là thánh ý của Chúa, là thập giá chúng ta vác theo Chúa.
*Những cái khốn:
- Giàu có, nghĩa là có nhiều của cải, vật chất để rồi hưởng thụ, được an nhàn, được an ủi, không biết chia sẻ, cho đi: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6, 24).
- No đủ, dư đầy tràn trề, không biết cảm thông, ích kỷ: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6, 25a).
- Vui cười, sung sướng, không quan tâm đến người khác, chỉ biết mình mà thôi, lo tìm thú vui trần thế: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” (Lc 6, 25b).
- Được mọi người ca tụng, thích thú được mọi người tung hô, khen ngợi, lo tìm danh lợi, thú vui: “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6, 26).
Người đời cho những điều như trên là một sự thành công, nhưng đối với Chúa đó là những cái khốn, chúng ta sẽ bị Chúa bỏ rơi vì chúng ta xem đó như là cùng đích của đời mình mà quên mất Chúa mới là cùng đích đời chúng ta.
Chúa nói về cái phúc và cái khốn của con người chúng ta trong cuộc sống. Nghĩa là cuộc đời chúng ta luôn luôn có hai mặt như đồng tiền kia mặt phải và mặt trái. Khi chúng ta đang ở trong mặt phải, hạnh phúc, chúng ta tạ ơn Chúa và cố gắng duy trì hạnh phúc ấy bằng việc luôn làm theo thánh ý Chúa. Nếu chúng ta đang ở trong mặt trái, trong các cái khốn, chúng ta phải biết cầu xin Chúa giúp chúng ta sống khiêm nhường, không tự cao tự đại, khoe khoang, khoác lác, và cậy dựa vào Chúa để Chúa giúp chúng ta thoát các nỗi khốn đó.
Lạy Chúa, chúng con ước ao được phúc của Chúa ban. Do đó, để được như vậy, chúng con xin Chúa cho chúng con tập sống khắc khổ, hy sinh, hãm mình, đi vào con đường hẹp và chấp nhận vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong tinh thần vâng phục để chúng con đạt đến hạnh phúc đời đời sau này. Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 23 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, xin Chúa lấy tình Cha, mà âu yếm đoái nhìn chúng ta là những kẻ tin kính Đức Kitô, thì, xin Chúa cho chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, vững tin vào Chúa, Chúa sẽ có cách của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Khabacúc: Quân áp bức bị chúc dữ. Dưới bàn tay của Thiên Chúa, người áp bức có thể đóng vai người thi hành công lý đối với dân đắc tội, nhưng rồi ra, chính người áp bức cũng sẽ bị trừng trị thôi. Đó là xác tín và hy vọng của ngôn sứ cũng như của chúng ta, khi chung quanh chúng ta, mọi sự có vẻ như sụp đổ hết rồi… Những người không biết Luật Môsê mà cứ phạm tội, thì sẽ bị diệt vong, nhưng không phải là chiếu theo Luật đó. Còn những người biết Luật Môsê mà cứ phạm tội, thì sẽ bị xét xử theo Luật đó. Mọi người đã phạm tội, và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, vâng theo thánh ý Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Bênađô: Các bậc thang chiêm niệm… Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan. Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy. Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ luật Người. Khôn ngoan là biết kính sợ Thiên Chúa.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, chú tâm vào những gì thuộc thượng giới, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê: Anh em đã chết cùng với Đức Kitô; anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 144 cho thấy: Chúa tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có. Phúc cho những kẻ nghèo khó, không biết nương tựa vào ai, ngoài một mình Chúa, họ không ngừng suy xét xem Chúa muốn gì, điều gì làm Người vừa ý và điều gì được Người chấp nhận. Tính kiêu hãnh của chúng ta đối nghịch với thánh ý Người, nên, chúng ta phải hạ mình xuống dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa Tối Cao; hãy lo tỏ mình ra là những kẻ khốn nạn, để Người thấy mà động lòng trắc ẩn. Trong hết mọi sự, không có gì hữu ích và thuận lợi cho chúng ta hơn là điều hợp ý Chúa. Vì vậy, chúng ta lo duy trì sự sống cho linh hồn mình bao nhiêu, thì, cũng phải hết sức lo đừng trệch xa ý Chúa bấy nhiêu. Toàn bộ đời sống thiêng liêng thu gọn lại trong hai yếu tố này: một là khi nhìn vào mình, chúng ta lo buồn xao xuyến cho ơn cứu độ của mình; hai là khi nghĩ đến những sự thuộc về Chúa, chúng ta lấy làm an ủi vì được Thánh Thần ban cho niềm vui: một đàng, chúng ta sợ hãi và thấy mình khó nghèo, hèn mọn; một đàng, chúng ta mến yêu và trông cậy vào lòng nhân hậu vô bờ của Đấng đáng muôn loài ca tụng: triều đại Người: thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Người vạn đại trường tồn. Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, ước gì chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được thứ tha. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Ðức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ. Chắc chắn Ðức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân. Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược. Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới. Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo. “Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần. Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Ðó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Ðó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi. Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi. Ðức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28). Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Ðó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Ðó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng. Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên... Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha. Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện. Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương. Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con. Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con. ---------------------------------
Yêu người thân cận như chính mình đã là khó lắm rồi. Nay Chúa lại đòi hỏi phải yêu cả kẻ thù. Ai có thể làm được? Nhưng Chúa đưa cho ta một phương thế: Hãy nhân từ như Chúa Cha.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa luôn yêu thương. Không có mảy may thù ghét nào nơi Người. Người là tình yêu. Chỉ là tình yêu mà thôi. Tình yêu luôn phát ra tình yêu. Bất kể đối tượng thế nào. Có đón nhận hay không. Có yêu thương hay không. Có tốt hay xấu. Người không bị đối tượng qui định. Chính Người qui định đối tượng. Tình yêu Người mạnh hơn tất cả. Người yêu thương tất cả. Tha thứ tất cả. Nhân từ với tất cả.
Tôi thường bị đối tượng qui định. Gặp người tốt thì tôi yêu. Gặp người xấu thì tôi ghét. Tôi làm ơn cho người làm ơn cho tôi. Tôi trả oán cho kẻ làm hại tôi. Tôi yêu vì đối tượng dễ yêu. Hôm nay Chúa muốn tôi phải là tình yêu nguyên tuyền. Không bị đối tượng qui định. Nhưng tình yêu phát xuất từ đáy tâm hồn. Luôn yêu thương tất cả. Kể cả người làm hại, vu cáo, hành hạ mình. Điều này có thể được khi tôi kín múc được nguồn tình yêu nơi Chúa Cha. Để có thể yêu dù đối tượng có thế nào.
Khi qui chiếu về Chúa, ta đạt đến yêu thương như Chúa. Tha thứ như Chúa: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”. Để Chúa điều khiển tâm hồn. Nên nói gì, làm gì cũng theo ý Chúa: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su”. (năm lẻ).
Yêu thương khiến ta luôn nghĩ đến người khác. Không làm gì cho tha nhân sai lỗi. Không gây cớ vấp phạm. Kể cả những việc vô tội, được phép làm, nhưng vẫn không làm. Vì yêu thương, sợ người khác sa ngã. Như vấn đề ăn thịt cúng: “Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (năm chẵn).
Nhân từ như Chúa Cha, chúng ta xứng đáng là con của Người. Ta sẽ kiến tạo một thế giới mới. Thế giới của những người con của Cha Nhân Từ. Thế giới của lòng nhân từ. Một thế giới tràn đầy tình yêu thương. Một thế giới đáng sống.
Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.
Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.
Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: "Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.
Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:
"Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng".
Những lời tâm sự của bà Ressa Marita hướng chúng ta đến những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà tác giả Phúc Âm thánh Luca đã ghi lại nơi chương 6.
Mức độ đo lường của tình yêu thương chúng ta là không có mức độ nào cả, hay đúng hơn là chính mẫu gương trọn tốt trọn lành vô cùng của Thiên Chúa Cha. Bao lâu còn sống trên trần gian này, chúng ta còn cần tiến thêm mãi trên con đường yêu thương. Không ai dám tự phụ cho rằng mình đã thành toàn, đã đạt đến mức độ trọn lành như Thiên Chúa rồi. Những hành động yêu thương được Chúa Giêsu nhắc đến mà tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại là những hành động yêu thương thiết thực, yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
"Hãy ra đi mà không tính toán hơn thiệt, đừng xét đoán, hãy tha thứ". Ðó là những chân trời mới, bao la, rộng mở tình yêu thương nơi tâm hồn người môn đệ Chúa. Chúng ta không thể nào chỉ nói ngoài môi miệng mà còn cần phải thực hiện tình yêu thương như Chúa đã nêu gương bằng những hành động cụ thể. Nếu không, ta sẽ bị xét xử như là những kẻ giả hình, nói mà không làm, không sống thật Lời Chúa dạy.
Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: "Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình".
Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: "Thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa".
Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.
Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù va làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc. 6, 27-28)
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Kitô dẫn chúng ta tới đỉnh cao của bác ái, càng đi theo Người càng dốc hết hơi, leo lên cao mãi, cao mãi liên tục.
“Hãy yêu thương kẻ thù”, Chúa dạy thế, không lý thuyết xuông nhưng rất cụ thể. Người cho thấy những công việc rõ ràng trước mắt, không để chúng ta phải tưởng tượng. “Hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em...”. Tất cả những kẻ đó không phải là ảo ảnh ma quái, nhưng là con người bằng xương bằng thịt mà lý tự nhiên mình phải xa lánh, ghét bỏ. Chính những kẻ đó phải được nâng đỡ, phải sẵn lòng mỉm cười với họ.
Đức Kitô nói thêm: “Ai vả má bên này, thì hãy giơ má bên kia. Ai đoạt áo ngoài đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin hãy cho, ai lấy gì của anh thì đừng đòi lại...”.
Có lẽ chúng ta sẽ thẳng thắn trả lời: “Lạy Chúa, Chúa đã đi quá mạnh, không thể tới được”. Nhưng, Đức Kitô vẫn tiếp tục không khoan nhượng: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân nghĩa? cả kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay để được trả lại sòng phẳng.
Không thể tới được bác ái Kitô giáo, chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ. Làm sao sống vượt mức như thế! sống yêu thương tột độ! nhiều môn đệ của Chúa đã sống vượt mức như thế và còn sống vượt mọi mức tới tột độ nữa. Họ đã theo Đức Kitô Đấng giầu lòng thương xót và tha thứ. Đức Kitô sẽ hài lòng và âu yếm nhìn Phê-rô và tất cả mọi người đã nên giống Người.
Xem lại CN 7 TN A và C - thứ bảy tuần 1 và thứ Hai tuần 2 C, thứ Ba tuần 11 TN.
“Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình”. Đây là lệnh truyền của Đức Giêsu và là nội dung của Luật Thiên Chúa. Khi sống theo tinh thần này của Đức Giêsu, chúng ta đã đi vào cốt lõi của tình yêu, bởi vì nếu yêu thì đâu còn ranh giới giữa bạn và thù!
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ của mình yêu thương kẻ thù. Lấy cái thiện mà thắng cái ác.
Đức Giêsu không chấp nhận sự dữ, lòng gian ác, cũng như tội lỗi. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài loại bỏ họ, vì sứ mạng của Ngài đến để cứu người tội lỗi ra khỏi sự gian ác, biến người tội lỗi thành người công chính. Điều này đã được chứng minh qua hình ảnh nhân từ của Đức Giêsu với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, hay như Giakêu, người thu thuế, như Phêrô kẻ chối Chúa, như người trộm lành bị đóng đinh cùng... Đỉnh cao của sự tha thứ chính là lời cầu xin Chúa Cha tha tội cho kẻ giết mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta một định luật căn bản rằng: muốn được yêu thế nào thì hãy yêu người khác như vậy. Ai lại không muốn được kẻ khác yêu thương? Ai lại muốn kẻ khác ghét mình bao giờ?
Nếu yêu được cả kẻ thù thì hẳn sẽ không còn chuyện mắt đền mắt, răng đền răng... Không còn ranh giới giữa bạn và thù, không còn chuyện phe tả phe hữu. Đồng thời, khi có tình yêu với ngay cả kẻ thù, chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng mong muốn ơn huệ theo kiểu có qua có lại như: “Ông mất chân giò, bà thò nậm rượu”. Mặt khác, chúng ta sẽ dễ vượt qua chuyện xét đoán, vì ý thức rằng mình cũng đâu hơn gì người khác, thế mà mình đã được Chúa yêu thương bỏ qua, đến lượt mình, hãy tha thứ để được thứ tha, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con sẵn sàng đi vào và sống tận căn của Lề Luật, đó là yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét chúng con. Xin cũng cho chúng con hiểu rằng, đây là điều kiện cần để được Thiên Chúa thứ tha. Amen.
Sứ điệp: Lòng nhân từ, nhất là yêu kẻ thù, là điểm đặc biệt của đạo Chúa Kitô. Ta hãy có lòng quảng đại như Cha trên trời để biết yêu thương chân thành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hằng ngày chung quanh con, và trên báo chí, truyền hình, con vẫn nhìn thấy và đọc thấy nhiều cuộc đánh nhau, chửi nhau, thậm chí cả chém giết nhau. Nhiều lúc không xô xát to tiếng thì cũng là giận hờn, lườm nguýt, không nhìn mặt nhau, ghét nhau và ghét cay ghét đắng.
Như thế, chúng con đã không sống đúng với phẩm giá con người. Tất cả chỉ bởi con sống thiếu tình yêu. Con chỉ yêu những người yêu con và ghét những ai ghét con, làm hại con. Vì thế, cuộc sống vẫn đầy đau khổ, hận thù chồng chất hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con phải yêu thương tất cả mọi người. Tình yêu của con phải vượt ra ngoài biên giới thân thuộc, giáo xứ, cộng đoàn thân quen. Nhưng quả tim con quá nhỏ hẹp, chưa thực hiện được điều Chúa dạy. Xin Chúa ban cho con quả tim của Chúa, một quả tim quảng đại, biết vươn mình lên cao, vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường: không xét đoán, không lên án, nhưng biết mặc lấy tâm tình bao dung, tha thứ. Xin cho con biết vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho quả tim con đủ lớn để có thể yêu người con không ưa, biết cầu nguyện và làm ơn cho họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để con có thể ôm cả những người thù ghét con. Xin cho con biết noi gương Chúa Cha là Đấng trọn lành và giàu lòng thương xót, để tình yêu lan toả trong cuộc sống con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót”.
Sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, bà đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng, vào một Chúa nhật nọ, sau khi bà kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc: dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác ở trại tập trung. Tiếng than khóc, cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà.
Người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của bà kêu gọi sự tha thứ. Xin bà tha thứ cho tôi”. Coritanbun như chết điếng người, trước đây bà cầu nguyện và quyết tha thứ, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể bắt tay người đến xin bà tha thứ. Sau này vào năm 1971 khi kể lại: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa (Trích “Món quà Giáng sinh”).
Suy niệm
Để đạt tới đức ái tuyệt hảo thì Đức Kitô lại mong muốn sự thứ tha trong mọi tương quan, với những người mình không thích và với những kẻ mình ít ưa, thậm chí với cả kẻ thù: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình… ” (Lc 6,27-28). Với kẻ thù trước khi yêu thì phải có sự tha thứ.
Đức Kitô đã gợi mở cho chúng ta tinh thần vị tha tuyệt hảo và mời gọi chúng ta bước vào, “Tha thứ tới bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22), tha thứ không ngừng. Chúa Giêsu dạy con người là tha thứ mãi, vì tha thứ cũng là trao ban cho chính kẻ mình ghét cay ghét đắng bằng đức ái như chúng ta đã trao cho người thân, bạn bè… Chúa Giêsu còn nhấn mạnh tha thứ là điều kiện để được thứ tha như Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện mỗi ngày: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Tuy nhiên, sẽ không có được sự tha thứ vĩ đại như Chúa Giêsu tha thiết: “Tha thứ cho kẻ thù của mình” nếu chúng ta không có một quá trình học biết tha thứ. Sự tha thứ mà Chúa Kitô mời gọi chúng ta sẽ chỉ hiện hữu nếu chúng ta biết đào luyện cho mình một tiến trình tiệm tiến: Từ bản thân, đến những người thân lầm lỗi, những người ta không thích - không ưa… và tất cả sự tha thứ đều bắt nguồn từ đỉnh cao của đức ái.
Tha thứ cho anh em trong gia đình, bạn bè để nơi tâm hồn chúng ta luôn chan chứa tình huynh đệ bao dung, gia đình đầy ắp tiếng cười. Nhưng tha thứ cho người hãm hại mình quả là điều rất khó khăn. Đó là một bài học có lẽ khó nhất và là bài học thể hiện lòng yêu thương trọn vẹn nhất trong cuộc đời. Đó cũng là đỉnh cao của lòng vị tha Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Lời di chúc này gợi trong lòng tôi và bạn: yêu thương tha thứ như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động trả thù và luôn luôn sẵn sàng đối thoại, lập lại sự giao hảo với người ghét mình, với kẻ hại mình. Sẵn sàng chia sẻ và quảng đại làm ơn cho họ: “Thi ân xóa bỏ thù hận”, cách hành xử yêu thương này là luật vàng của lòng bác ái.
Ý lực sống:
“Cuộc sống là học biết tha thứ, tha thứ tất cả” (Paul Toupin).
Chúa Giêsu dạy ta hãy yêu thương địch thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ chúng ta. Yêu người xa lạ đã là rất khó, nhưng yêu địch thù còn khó gấp bội. Chúng ta yêu người yêu chúng ta, yêu người đem lại niềm vui cho chúng ta... tình yêu ấy vẫn còn vị kỷ. Tình yêu trọn nghĩa phải là tình yêu vô vị lợi. Yêu như Chúa yêu ta khi ta còn là tội nhân. Chúa đã chịu chết để ta được cứu độ. Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu vô điều kiện, vô vị lợi, một tình yêu chân chính.
Trong Cựu ước, chúng ta chỉ thấy luật căn bản là mến yêu Thiên Chúa hết lòng và thương yêu tha nhân như chính mình. Ngoài ra, không có luật nào buộc phải thương yêu kẻ thù, bởi vì chúng ta thấy trong đó có luật báo oán: mắt đền mắt, răng đền răng. Đây là một lề luật xây trên luân lý tự nhiên, ai cũng có thể chấp nhận (x.Xh 21,23-25; Lv 24,17-21).
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo lý tuyệt vời về đức bác ái: hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân mình. Tha nhân có thể là người yêu thương chúng ta, nhưng cũng bao gồm những người không thương, lại còn ghét chúng ta, thậm chí cả những người làm hại chúng ta nữa. Đó là luật yêu thương kẻ thù. Đây là một luật có tính cách siêu việt.
Để thực hiện luật yêu thương này, Đức Giêsu đơn cử ra hai việc phải thực hành:
a) “Hãy làm lành cho kẻ ghét các con”: Ở đây muốn nói: Tình yêu thương tha nhân không phải thôi không giận hờn, không báo oán nữa, nhưng phải tỏ ra bằng hành động cụ thể qua những cử chỉ rõ ràng là những việc lành như giao tiếp, giúp đỡ, cầu nguyện...
b) “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đây là thái độ biểu lộ tình yêu tha nhân cách tích cực: lấy điều lành đền đáp lại điều dữ.
Ta có bổn phận phải yêu thương bạn hữu. Song chỉ yêu bạn thì có gì đáng thưởng. Vì cho được thưởng đời đời thì nhân đức phải bắt nguồn từ suối siêu nhiên. Vì thế:
- Làm sự dữ để trả ơn lành là ma quỷ. - Làm sự lành để trả ơn lành là nhân loại. - Làm sự lành để trả sự dữ là Thiên Chúa.
Vậy người Kitô hữu không được đứng ở chỗ nhân loại, mà phải tiến xa hơn đến chỗ Thiên Chúa. Như thế mới xứng đáng là con cái Chúa, Đấng làm ơn lành cho kẻ ghét Ngài.
Ngày xưa, nhiều người cũng có chủ trương như Chúa Giêsu đã dạy:
a) Học thuyết của Khổng Tử: Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Tử giống luật báo oán của Cựu ước. Ngài dạy học thuyết: “Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đệ tử của ngài muốn đi xa hơn, họ đã thêm vào học thuyết của ngài câu: “Dĩ đức báo oán”.
b) Đức Phật Thích Ca: Ngài tìm phương thế giải thoát con người ra khỏi vòng đau khổ. Ngài chủ trương giáo thuyết TỪ BI, lấy từ bi làm phương châm cho mọi hoạt động, mà đã từ bi thì phải hỉ xả, do đó, ngài không chấp nhận luật công bình, mà chỉ chấp nhận luật tha thứ. Ngài nói: “Lấy oán báo oán, oán ấy chồng chất. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.
c) Ông Mahatma Gandhi nói: “Luật vàng của xứ thế là tha thứ lẫn nhau”. Ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi ách thống trị của người Anh.
d) Mục sư Luther King: Trong tác phẩm của ông “Chỉ có một cuộc cách mạng”, ông nói: “Trong Tân ước, chúng ta thấy từ “Agapè” được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn lên đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ, chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ”.
Truyện: Tha thứ cho kẻ thù
Một ông bố giàu có, cảm thấy già yếu gần đất xa trời, bèn gọi ba đứa con trai lại chia gia tài đồng đều cho chúng, duy còn lại một viên kim cương gia bảo quý giá không thể chia cắt được.
Ông ta giải quyết bằng cách nói với các con rằng: “Ta sẽ trao viên kim cương cho đứa nào thực hiện một việc lành tốt đẹp nhất. Vậy các con hãy ra đi và thực hiện cho được điều kiện đó”.
Ba đứa con lên đường và ba tháng sau trở về. Người con cả nói với bố:
- Một người ngoại quốc đã giao toàn bộ tài sản cho con và con đã thủ tín trả lại đầy đủ.
Người cha tuyên bố:
- Con đã làm phận sự của con rất tốt đẹp.
Đến lượt đứa con thứ trình:
- Thưa cha, con đã xả thân cứu được một em bé chết đuối.
Người cha khen anh ta. Rồi quay sang nhìn đứa con út. Cậu ấp úng bẩm:
- Thưa cha, trong một cuộc hành trình con thấy địch thù con đang ngủ say bên một bờ vực sâu. Con nghĩ con có thể xô nó xuống vực dễ dàng, nhưng con không làm. Trái lại con đánh thức nó dậy và cứu nó.
Nghe xong, người cha ôm hôn cậu út và tuyên bố:
- Viên kim cương gia bảo thuộc về con, vì con đã làm một việc lành vĩ đại biểu lộ một tấm lòng nhân ái chân thực là yêu thương tha thứ cho kẻ thù mình.
1. Những lời Chúa Giêsu dạy về cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
- Đừng thù ghét lại nhưng hãy yêu thương, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ.
- Đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.
2. Những lời dạy về cách đối xử va tha nhân cách chung:
- Làm ơn và cho đi mà không cần đáp trả.
- Cư xử nhân hậu
- Đừng xét đoán và kết án.
- Hãy tha thứ.
3. Lý do của tất cả những cách cư xử trên là vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”; “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán, hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con…”
B.... nẩy mầm.
1. Những chữ “vì” trong tương giao:
- Nếu “vì tôi”, thì tương giao sẽ ích kỷ.
- “Vì người ấy” thì tương giao sẽ vụ lợi hoặc thất thường (người ấy tốt thì tôi sẽ tốt, ngược lại…)
- Khi biết “vì Chúa”, các tương giao sẽ vô cùng cao thượng và tốt đẹp.
2. “Các con muốn người ta làm gì cho các con thì các con hãy làm cho người ta như vậy”: Tôi thường đòi hoặc mong người ta làm cho tôi thế này thế nọ. Đó là cách tương giao lấy mình làm trung tâm qui chiếu. Cách tương giao này khiến người khác nặng nề và cũng thường làm tôi thất vọng. Hôm nay tôi thử cách tương giao quên mình để nghĩ đến người khác xem: chắc là mọi người đều sẽ vui, phần tôi cũng sẽ cảm thấy một niềm vui sâu xa khó tả.
3. “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán… Hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; Hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con”: những thứ mà người khác dùng để đáp lại tôi chắc chắn không tốt bằng chính Thiên Chúa đáp lại, vì Ngài rất quảng đại, Ngài “sẽ lấy đấu hảo hạng đã dằn, đã lắc mà đổ vào vạt áo các con”.
4. “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27)
Lần nọ trong một ngôi thánh đường, hàng ngàn người say sưa ngồi lắng nghe vị mục sư giảng về lòng yêu thương. Khi bài giảng đã kết thúc, vị mục sư bước ra khỏi ngôi thánh đường. Bỗng một người tiến lại và chìa tay về phía ông. Đó chính là người đã hại ông khi xưa. Ngập ngừng hồi lâu, vị mục sư ngượng ngùng đưa tay bắt.
Sự ngập ngừng của vị mục sư cũng chính là thái độ của tôi trong cuộc sống hôm nay. Tôi không dễ dàng tha thứ để đón nhận và yêu thương kẻ thù. Tôi đã quay lưng lại khi phải đối diện với họ.
Lạy Chúa, xin cho con con tim của Chúa, để con bao dung, yêu thương và tha thứ cho hết mọi người như chính Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng con. (Hosanna).
Luật yêu thương không phải thời Chúa Giêsu mới có. Luật này đã được nói tới từ lâu nhưng nó mới chỉ có tính cách tiêu cực.
Hillel một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò cò trên một chân, ông bảo:
“Điều gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp, các sự khác chỉ là giải thích”.
Philô, một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm cho bất cứ ai”.
Socrates, một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”.
Các triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”.
Khi người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời sống con người không?”. Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.
Tóm lại, tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mình đừng làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.
Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật yêu thương đã có một khuôn mặt mới. Nó có tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho kẻ khác những điều như chúng ta muốn kẻ khác làm cho chúng ta.”(Lc 6,31)
Tại Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh?” thì người thanh niên này nhất định không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao con không khai người đánh đập con với cảnh sát?
- Thưa mẹ, - cậu ta trả lời - nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính con!
Có lẽ phải can đảm lắm mới có được cách ứng xử như vậy. Nào có ai muốn khổ cho mình đâu. Vậy thì đừng làm cho người khác. Ai mà lại không muốn cho mình được yên hàn bình an, hãy cố mà làm cho người khác như vậy. Đó là điều Chúa muốn.
2. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. (Lc 6,31)
Lời Chúa chẳng có gì khó hiểu.
Ông chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra vào.
Một cậu bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:
- Ông định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ?
- Cũng tùy, từ 30 - 50 đô-la, cháu ạ.
Cậu bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:
- Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.
Người chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:
- Con chó nhỏ ấy làm sao thế ạ?
- Bác sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.
- Đây chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.
- Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng cho cháu đó.
Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:
- Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi tháng đến khi nào đủ tiền.
- Cháu sẽ không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.
Cậu bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:
- Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với nó ông ạ!
Nhìn lại cuộc đời của Chúa ta thấy Chúa đã không chỉ nói suông nhưng những điều Ngài dạy thì Ngài đã làm trước.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
là Lời Chúa, Lời linh thiêng, Lời uy quyền, Lời hằng sống,
Tình yêu là bản chất của con người chúng ta. Hễ là người, ai trong chúng ta cũng biết yêu, nếu chúng ta không biết yêu, thì chúng ta không phải là con người nữa. Chúng ta được Chúa tạo dựng giống hình ảnh Chúa là chúng ta giống về tình yêu. Nhưng tình yêu của chúng ta đầy mùi ô uế, tội lỗi, vì thế, để tình yêu này tinh ròng, trong sáng, không còn hoang dã, rừng rú nữa, Chúa đã đến trần gian ở với chúng ta, dạy dỗ chúng ta để chúng ta biết yêu và đặt tình yêu đúng chỗ, đúng mục đích mà Chúa muốn.
Nếu Chúa không dạy dỗ chúng ta về cách yêu thương thế nào cho đúng ý của Chúa thì chúng ta sẽ yêu thương theo kiểu “Bánh ít cho đi, bánh quy trao lại”. Nghĩa là người nào yêu tôi thì tôi yêu lại, nếu ai ghét tôi, tôi sẽ ghét lại. Người nào chào hỏi tôi thì tôi chào hỏi lại. Người nào nguyền rủa, vu khống, chiếm hữu tài sản của tôi, tôi sẽ loại trừ họ ra khỏi cuộc sống của tôi. Nếu ai đánh tôi, tôi sẽ đánh lại, nếu họ có xin tôi, có mượn gì của tôi, tôi sẽ khước từ, không cho, như là tôi trả thù lại những gì họ đã gây ra cho tôi.
Đó là những cách thức chúng ta yêu thương theo bản chất tự nhiên của chúng ta. Nhưng chúng ta là con cái của Chúa, Chúa dạy chúng ta về cách thức chúng ta yêu thương cho đúng điều răn mới của Chúa. Trước khi chúng ta theo Chúa, trái tim của chúng ta là những trái tim bằng đá, bây giờ theo Chúa rồi, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta một trái tim bằng thịt như lời của tiên tri Giêrêmia đã nói để chúng ta yêu như Chúa yêu. Chúa đã từng yêu và bây giờ Chúa dạy chúng ta về kinh nghiệm tình yêu Chúa đã trải qua trong cuộc sống của Chúa. Đó là chúng ta yêu kẻ thù, làm ơn cho người ghét mình, cho người khác vay mượn mà không mong đòi lại, người nào muốn chiếm đoạt của cải chúng ta thì chúng ta cứ để họ làm, không kháng cự, không xét đoán người khác, nhất là biết tha thứ cho người anh chị em của chúng ta.
Chúng ta thực hiện như lời Chúa dạy trên đây, tình yêu của chúng ta sẽ được Chúa thanh lọc để cho nó tinh ròng hơn, và rồi chúng ta tiến đến một bước quan trọng vô cùng, đó là: “Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31). Nghĩa là chúng ta phải luôn luôn đi bước trước trong tình yêu đối với anh chị em của chúng ta. Chúa sẽ không quên chúng ta làm điều này cho anhn chị em của chúng ta. Chúa sẽ trả công bội hâu cho chúng ta: “Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6, 37 – 38). Nhất là Chúa ban nước Trời cho chúng ta, đây là cách thức Chúa thưởng công chúng ta khi chúng ta yêu theo ý Chúa muốn.
Lạy Chúa, Chúa yêu chúng con, cho nên Chúa tạo dựng chúng con một cách lạ lùng và cho chúng con sống trên trần gian này, Chúa biết rõ chúng con hơn ai hết, Chúa biết rõ chúng con khi chúng con ngồi hay đứng, khi chúng con đi hay nằm nghỉ, khi chúng con thức hay ngủ…Chúa biết rõ chúng con từ xa. Vì thế, khi chúng con đi trệch đường lạc lối của Chúa, xin Chúa hãy dẫn chúng con đi đúng đường lối của Chúa để chúng con đạt đến đời sống đời đời. Amen.
Kẻ thù của chúng ta là những người ghen ăn tức ở, vu khống nguyền rủa, đánh đập tàn nhẫn, vả má bẽ răng, làm ô nhục, muốn tước đoạt áo ngoài, chiếm lấy tài sản chúng ta… : “Hôm ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6, 27 – 29).
Chúa dạy chúng ta yêu họ bằng cách làm ơn, chúc phúc, cầu nguyện cho họ, mong điều tốt đến với họ.
Những người cần chúng ta giúp đỡ, Chúa dạy chúng ta đừng từ chối, ai xin thì chúng ta cho, ai lấy của chúng ta thì chúng ta đừng đòi lại. Hãy làm điều tốt đẹp cho anh chị em chúng ta trước khi chúng ta làm cho chính bản thân mình. Làm điều tốt cho anh chị em chúng ta, không phân biệt bạn hay là thù: “Ai xin hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 20 – 21).
Đàng khác, trong cuộc sống chung, Chúa dạy chúng ta đừng xét đoán, đừng kết án, và biết cảm thông tha thứ cho nhau, hãy biết sẻ chia, cho đi những gì chúng ta có: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 37).
Chúng ta thực hiện tất cả những điều trên đây là do Chúa dạy chúng ta “Các con hãy ăn ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36). Chúng ta ăn ở nhân từ giống như Chúa không phải dễ thực hiện đâu. Chúng ta cần phải cầu nguyện, xin ơn mỗi ngày. Xin Chúa cho chúng ta có trái tim nhân hậu như Chúa, yêu cho đến tận cùng, tha thứ cho những người làm hại mình như Chúa cầu xin Chúa Cha tha cho những người giết Chúa trong cuộc khổ nạn: “Bây giờ Chúa cầu nguyện rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Chúng ta đối xử với anh chị em mình như thế nào thì Chúa cũng đối xử với chúng ta như vậy, kết quả của sự đối sử này là do chúng ta “Các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6, 38). Chúng ta đối xử tốt với anh chị em mình thì Chúa cũng đối xử tốt với chúng ta, chúng ta đối xử xấu với anh chị em mình thì Chúa cũng xử với chúng ta như vậy.
Lạy Chúa, Chúa xót thương chúng con vô cùng, Chúa đau buồn khi chúng con sống ác với nhau. Xin Chúa cho chúng con có lòng thương xót như Chúa để chúng con đối xử tốt với nhau, cảm thông với nhau và tha thứ cho nhau. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 23 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, xin Chúa lấy tình Cha, mà âu yếm đoái nhìn chúng ta là những kẻ tin kính Đức Kitô, thì, xin Chúa cho chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, chấp nhận chịu bị phạt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Ai Ca: Khóc thương Thành Thánh hoang tàn. Giêrusalem thú tội với Chúa, nhìn nhận hình phạt mình đang chịu là đích đáng. Chấp nhận sự thật là khởi đầu của mọi cuộc trở lại… Tôi khóc ròng khóc rã nên cặp mắt đỏ ngầu, vì Đấng an ủi tôi đã lìa xa tôi. Hỡi tất cả các dân tộc, hãy nhìn xem: Có nỗi đau khổ nào sánh được với nỗi đau tôi phải chịu! Hỡi tất cả những ai qua lại trên đường, xin để ý, xin hãy nhìn xem.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, hy vọng được trở nên giống Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài diễn giải Thánh Vịnh của thánh Bơrunô: Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi… Hiện giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhưng, chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được hiển hiện. Chúng ta biết rằng: Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ được thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô, thì sẽ cố sống trong sạch như Người là Đấng trong sạch.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, sống tình bác ái đối với nhau, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê: Anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 150 kêu gọi: Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng Chúa đi nào! Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa, ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh. Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ, ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Hãy có lòng nhân từ như Cha trên trời, hãy yêu thương nhau, đó là lệnh truyền của Đức Giêsu. Hiện giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhưng, chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được hiển hiện. Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ được thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô, thì, sẽ cố sống trong sạch như Người là Đấng trong sạch. Người hạnh phúc là người có Chúa làm sức mạnh, vì Đấng lập pháp là Đức Kitô đã ban luật cho chúng ta, thì, Người cũng đang ban và sẽ luôn ban phúc lành là muôn vàn ân sủng, nhờ đó, Người giáng phúc cho những kẻ thuộc về mình, nghĩa là, nâng họ lên tới hạnh phúc. Nhờ các phúc lành đó, chúng ta sẽ đi từ nhân đức này tới nhân đức khác mà tiến lên, và trong tương lai ở thành Xion trên trời, chúng ta sẽ được nhìn thấy Đức Kitô, Thần các thần, nghĩa là, vì Người là Thiên Chúa, nên, Người cũng làm cho những kẻ thuộc về mình thông phần thần tính của Người. Nói cách khác, nơi chính những kẻ sống ở Xion, Thần các thần, tức là Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ được nhìn thấy bằng con mắt thần thiêng. Nói như thế, có nghĩa là, tâm trí chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa ở nơi mình, Đấng mà ở đời này, ta không thể nhìn thấy, vì Thiên Chúa sẽ là tất cả nơi mọi người. Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, ước gì chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi. “Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi. Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”.
Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán. Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu. Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan. Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37), Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định. Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa. Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp, đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân. Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa. Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa. Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ, dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh. Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39). Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình, biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình. Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình. Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác. “Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy-lạp. Như thế biết mình không phải là chuyện dễ. Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình. Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi. Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật. Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi. Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41). Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang. Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín, tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình, Những người dưới quyền cũng không dám góp ý, nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo. Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt, vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt. Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ, bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình. Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước, nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em. Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình, đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau. Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt, nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ. Cầu nguyện
Như thánh Phaolô trên đường về Ðamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt. Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải. Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con. Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do. ---------------------------------
Ở đời ai cũng muốn làm thầy người khác. Vì tự hào mình khôn ngoan giỏi giang. Biết hết mọi sự. Nhưng lại không biết chính mình. Vì thế thường mâu thuẫn. Nói mà không làm. Chúa Giê-su gọi đó là “mù lại dắt mù”.
Chúa dạy ta phải khôn ngoan. Khôn ngoan phải đi trong ánh sáng. Ánh sáng là phải biết mình. Biết lỗi lầm của mình. Biết khuyết điểm của mình. Biết giới hạn của mình. Thấy cái xà trong mắt mình. Phải lấy ra thì mắt mới thấy rõ. Thấy đường rồi mới có thể hướng dẫn người khác. Biết mình rất khó. Nhận mình sai sót lỗi lầm còn khó hơn. Và sửa chữa lỗi lầm lại càng khó lắm.
Chỉ có Chúa là sự khôn ngoan. Là sự sáng. Ở trong Chúa ta sẽ có ánh sáng. Sẽ được khôn ngoan. Soi vào Chúa ta sẽ được biết mình. Nhìn lên Chúa ta sẽ biết đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chỉ có Chúa là Thầy. Vì Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Thánh Phao-lô là người hiểu rõ điều đó. Nên dù bổn phận phải hướng dẫn người khác, thánh nhân luôn tự biết mình là người tội lỗi, yếu hèn. Phải khuyên dạy Ti-mô-thê-ô là người con tinh thần, nhưng thánh nhân khiêm nhường tự nhận: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót”. Và thánh nhân biết ngài có làm Tông Đồ chính vì “theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su” (năm lẻ).
Chính vì thế, trong khi rao giảng cho người khác, thánh nhân tỏ ra lòng khiêm nhường sâu xa. Nhận đó là bổn phận: “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”. Vì thế ngài hạ mình “trở thành nô lệ của mọi người”, “trở nên tất cả cho mọi người”. Vẫn chưa đủ, ngài không ngừng xét mình, răn mình, sửa mình để có thể giúp đỡ người khác: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (năm chẵn).
Ngài trở nên người khôn ngoan. Vì ngài sống trong Chúa Giê-su. Ngài trở thành người sáng suốt. Vì đã tự lấy cái xà trong mắt mình trước. Ngài trở thành người hướng dẫn. Vì đã tự biết mình.
Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.
Tin Mừng hôm nay không chỉ là một bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. "Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã", nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người cũng đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân. "Hỡi người, hãy tự biết mình", đó là khẩu hiệu mà nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate thường đề ra như bài học vỡ lòng cho các môn sinh, có lẽ cũng được Chúa Giêsu nhắc lại theo một công thức khác: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". "Hãy sám hối" trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn của mình, để từ đó sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.
Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi". Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.
Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.
Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.
“Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em!” (Lc. 6, 42)
Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.
Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.
Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?
Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.
Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!
Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.
Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!
Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình...
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.
Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.
Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác... để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.
Sứ điệp: Người đạo đức chân thật biết xét mình trước khi đoán xét khuyết điểm, lỗi lầm của anh em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho con đôi mắt. Nhờ đôi mắt, con nhìn thấy các công trình kỳ diệu trong thiên nhiên Chúa đã dựng nên. Nhờ đôi mắt, con giao tiếp với mọi người, cùng mọi người xây dựng bổ túc cho nhau, để xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Và đôi mắt sẽ luôn giúp con nhận ra các điều Chân, Thiện, Mỹ, giúp con suy nghĩ đúng và hành động khôn ngoan. Con hết lòng tạ ơn Chúa vì đôi mắt tuyệt vời Chúa ban cho con. Xin hướng dẫn con luôn biết dùng đôi mắt cho đẹp lòng Chúa.
Lạy Chúa, con còn được Chúa ban cho một đôi mắt khác là đôi mắt tâm hồn, là trí phán đoán để nhận ra phải trái, thực hư. Trong con, hai đôi mắt ấy có tương quan mật thiết với nhau. Nhìn đúng, con sẽ phán đoán đúng và hành động khôn ngoan. Nhìn lầm, con sẽ suy nghĩ lệch lạc và hành xử ngu đần. Nghiệm lại trong đời sống, con thường cho mình là đúng, là hay, và đã nhiều lần cố chấp với những sai sót, lỗi lầm của mình. Còn với tha nhân thì ngược lại: con dễ xét nét, bắt bẻ đủ điều và chẳng vui khi họ trổi vượt, thành công hơn con. Con dễ bất công với mọi người, thích nhìn “cái rác trong mắt của anh em” hơn là thấy “cái đà to tướng trong mắt con”. Và vì thế, con đi xa đường lối Chúa, đánh mất lòng đạo đức chân thật của mình.
Lạy Chúa, xin giúp con khiêm nhường để cả hai đôi mắt của con được sáng mãi trong ánh sáng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng?”
“The Pursuit of Happyness” là một bộ phim xúc động mang tới những thông điệp đầy tính nhân văn về ý nghĩa thực sự của từ “hạnh phúc”. Được dựa trên một câu chuyện có thật, nhân vật chính của phim là Chris, một nhân viên bán máy soi xương luôn gặp thất bại trong việc kinh doanh. Quá bức bối với việc nợ nần của gia đình, vợ Chris đã bỏ đi và để lại cậu con trai nhỏ Christopher Jr. Điều tồi tệ nhất xảy ra khi hai cha con anh bị đuổi ra khỏi căn hộ do không đủ tiền trả và trở thành những kẻ lang thang.
Đi phiêu bạt khắp nơi để kiếm sống, có lúc Chris và con trai đã phải ngủ qua đêm trong nhà vệ sinh bẩn thỉu của một ga tàu điện. Tuy nhiên, với nỗ lực phi thường, anh không ngừng mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc cho chính mình và con trai... (Theo afamily.vn).
Tình cha là thế, lo lắng và cùng con bước vào đời với bao gian nan. Tình Chúa dành cho con người được phác họa bằng hình ảnh của tình Cha: Ngài như người cha hiền luôn đồng hành và lo lắng cho con cái ở dưới nhân gian. Dù rằng nhân loại “thuộc hạ giới” (Ga 8,23).
Suy niệm
Lời kinh “Abba” mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ cầu nguyện diễn tả tâm tình đơn sơ phó thác của cả một cuộc sống thường ngày. Đầu tiên “nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”, vì Cha là tình yêu, khi danh Cha tỏa sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất, nơi những người con của Cha hiện hữu. Tiếp đến là những nhu cầu cấp thiết nhất của cuộc sống, những thực tế của thân phận con người, sự vấp ngã, đối diện với cám dỗ và hiểm nguy cuộc sống. Trong danh Cha tỏa sáng và tình yêu Cha trải dài, con tha thiết mong Cha ở bên con vượt khó:
Lương thực hàng ngày trong lời cầu là cơm bánh và những gì cần cho sự sống của thân xác. Lương thực cũng được hiểu là Lời Chúa, là bí tích Thánh Thể, thứ lương thực thiêng liêng cho phận người. Đời sống của chúng ta cần được Cha trên trời nuôi dưỡng. Chúng ta cần cơm bánh nuôi thân xác, nhưng cũng cần thức ăn nuôi đời sống tinh thần. Của ăn tinh thần đó là tình yêu của Cha hiện diện bên con, dù con có hờ hững làm ngơ.
Tha nợ: Nợ là tượng trưng cho thân phận yếu đuối của con người. Đời sống của con cái Cha vẫn còn dính bén đến tội, vì xuất phát từ bụi tro. Ai cũng có tội, tôi phạm tội và cũng có người lỗi phạm đến tôi. Con mong được Thiên Chúa tha thứ, là tình yêu của Cha được tỏa sáng trải dài trên thế gian. Khi yêu cầu tha thứ, con cũng tha thứ cho anh em vì con học nơi Cha tình yêu tha thứ.
Khỏi sa chước cám dỗ: Cám dỗ trong đời sống hàng ngày là điều không sao tránh khỏi trong kiếp người, Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ và đã vượt qua (x. Mt 4,1-11), Ngài cũng mong chúng ta vượt qua (x. Lc 22,40-46). Con người với những cám dỗ từ ngoài vào và những nghiêng chiều theo từ bên trong tâm hồn chính mình. Con không xin mình khỏi bị cám dỗ hay thử thách, chỉ xin được vượt qua chước cám dỗ mà vẫn giữ vẹn lòng tín trung, vững vàng trưởng thành trước những phong ba cuộc đời.
Cha luôn đồng hành với con trong cuộc sống. Chúa Giêsu khuyến khích con hãy kiên trì trong lòng trông cậy Cha bằng dụ ngôn người láng giềng xin bánh giữa đêm khuya để tiếp khách, chủ nhà nếu không vì lòng nhân nhưng vì bị quấy rầy nên phải thức dậy mà cho bánh anh láng giềng (x. Lc 11,5-8). Cha chúng ta, Người không để chúng ta thiếu thốn kia mà... Ngài luôn cho chúng ta những gì tốt nhất cho cuộc đời mình, hãy vững tin dù những lúc thử thách nhất, thử thách đó chẳng phải là “hòn đá”, “rắn rết” hay “bọ cạp” của Cha ban đâu. Ngài sẽ ban Thánh Thần để chúng ta vượt qua đồi Canvê mà tiến tới Phục sinh cùng với Đức Giêsu.
Ước chi con luôn “nhớ” về Cha và thể hiện “hiếu” cùng Cha, cũng là lúc con thành “người”, người quân bình và phát triển nhân cách và tâm linh cho chính mình.
Ý lực sống
“Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6).
1. Hôm nay Đức Giêsu kêu gọi mọi người, nhất là những người có trách nhiệm, những bậc làm cha mẹ phải sáng suốt và khôn ngoan khi sửa lỗi cho anh chị em mình. Chúng ta thường chỉ nhìn thấy lỗi lầm của tha nhân, mà không nhìn ra những lỗi lầm của chính mình. Nhiều khi chính những khuyết điểm ấy lại đang làm cản trở, gây gương mù, gương xấu cho anh chị em, con cái mình. Theo gương mẫu tuyệt vời là Đức Giêsu và lời dạy của Ngài, chúng ta hãy thường xuyên tự kiểm điểm để biết mình và biết cách hướng dẫn người khác.
2. Những lời trong bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
Chúa Giêsu muốn nói rằng muốn hướng dẫn, muốn dạy dỗ người khác, thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù cả hai sẽ rơi xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình. Bởi thế, điều kiện để trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.
3. Tin Mừng hôm nay không chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, Ngài còn mời gọi chúng ta đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử củaThiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: ”Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
4. Trong một ngụ ngôn hài hước của thi sĩ La Fontaine kể rằng: thần Jupiter khi dựng nên con người thì ngài đeo cho họ hai cái túi: một cái trước ngực đựng những lỗi lầm của người khác, một cái sau lưng đựng những lỗi lầm của mình. Như vậy, người ta chỉ nhìn thấy những lỗi lầm của người khác mà không nhìn thấy những lỗi lầm của mình.
Bài học dạy đời của ngụ ngôn này đúng như câu tục ngữ của chúng ta: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng” do câu “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”.
Hoặc:
Chân mình thì lấm lê mê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Và đây cũng là bài học Chúa Giêsu dạy chúng ta: ”Cái xà trong mắt mình mà lại đòi gảy cái rác nơi mắt anh em”.
5. Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi chúng ta. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ của con người.
Vậy để tâm hồn, để con mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy cái rác trong đó, hay bới lông tìm vết để xét đoán chỉ trích họ vì một vài lỗi lầm nào đó, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy cái đà của ích kỷ, của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng hơn.
Vì con người xưa có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi Kitô hữu, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Như triết gia Chilon và cũng là của nhà hiền triết Socarate: “Hãy tự biết mình”. Chúng ta cũng nên học gương thánh Augustinô mà thưa cùng Chúa: “Noverim Te, noverim me”: Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
6. Truyện: Lắng nghe lời phê bình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần cho biết một tin khẩn như sau:
- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời:
- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
- Nếu ta mù quáng thì ta sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. - Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
B.... nẩy mầm.
1. Thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình. Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải. Những người ưu tú nhất thời Chúa Giêsu là biệt phái và luật sĩ đã mắc phải một cách nặng nề đến vô phương cứu chữa…. Huống chi tôi. Chắc chắn tôi đang bị hai thứ bệnh mù quáng và giả hình này. Chỉ cần xét mình một chút là tôi sẽ nhận ra ngay.
2. Tôi xét đoán anh chị em tôi hầu như suốt ngày, còn thời gian dành để tự xét đoán mình chỉ chừng 10 phút, mà nhiều khi tôi cũng để nó trôi qua một cách trống rỗng.
3. Một chiếc đồng hồ chạy sai có thể do rất nhiều nguyên nhân bên trong bộ máy. Muốn xét đoán đúng, thì chẳng những xem hiện tượng bên ngoài mà còn phải hiểu rất rõ những nguyên nhân bên trong. Bởi vậy, có thể nói, kẻ “có gan cùng mình” mới dám xét đoán. Thiên Chúa thấu hiểu mọi ngọn nguồn nhưng cũng không muốn xét đoán: trong chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói “Tôi không kết án chị đâu”; trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng, Ngài nói Ngài vẫn chờ đến phút cuối cùng mới đưa ra lời xét đoán của Ngài.
4. Tôi dễ đưa ra những lời xét đoán, nhưng tôi có nghĩ tới hậu quả của việc tôi làm không? Một quan tòa kết án sai thì sẽ khiến nạn nhân chịu khổ oan trong một thời gian lâu dài. Khi xét đoán, tôi cũng là quan tòa, sao tôi không nghĩ tới nỗi oan của người khác nếu tôi sai?
5. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6,41)
Truyện kể về một viên tướng, sau khi xông pha trận địa và lập được nhiều chiến công, được nhà vua mở yến tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, viên tướng vì quá vui đã xúc phạm đến một trong các cung phi. Thế là mọi người đua nhau lên án. Lúc đó, mọi công trạng của ông hầu như biến mất. Trước mắt mọi người, ông chỉ là một tội nhân.
Nói xấu anh em thật dễ lỗi phạm biết bao. Những người ở đó quên rằng chính họ lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Và chính bản thân tôi vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.
Lạy Cha, con xin đến với Cha như những gì con là, chứ không “tô sơn điểm phấn” (Hosanna).
Những lời trong bài Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Dothái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.
Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng những người không ưa mình nói về mình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:
- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
- Thưa ngài, người nầy là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời:
- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lẫn của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.
2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến dũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. “Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42)
Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì thì Chúa đã làm trước.
Các việc ở đời cũng vậy.
Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. “Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” thì không được.
Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:
Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.
Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói: - Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.
Einstein thản nhiên đáp lại bố: - Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?
Bố ân cần nói với Einstein: - Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sách sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tướng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dính đầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tường rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.
Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.
Ý lược chính của bài Tin Mừng hôm nay là mù dẫn mù sẽ lăn cù xuống hố, nghĩa là bản thân mình không thấy đường đi rồi mà còn dám dẫn đường cho người mù nữa thì chúng ta sẽ bị gặp hoại cho bản thân của mình và cho người khác giống như mình nữa.
Chúng ta mù loà khi nào? Chúng ta mù loà khi trong con mắt của chúng ta (con mắt đức tin, con mắt tâm hồn) có một cái xà rất lớn, nó che khuất chúng ta, khiến chúng ta không nhìn thấy gì cả. Cái xà đó là những tội lỗi chúng ta đã phạm đến Chúa. Trong đó, cái xà lớn là những tội nặng, cái xà nhỏ là những tội nhẹ. Tội nặng, tội nhẹ, nó sẽ làm cặp mắt đức tin của chúng ta ra mù tối, che khuất tầm nhìn của chúng ta, làm chúng ta không thấy con đường để chúng ta đi đến với Chúa, không thấy tội để mà xa tránh. Đồng thời, khi chúng ta mù loà, chúng ta sẽ không thấy những nỗi thống khổ đói khát của anh chị em chúng ta mà chúng ta giúp đỡ, chúng ta không thấy được những cảnh đẹp của muôn tạo vật do Chúa dựng nên mà chúng ta ca ngợi, chúc tụng Chúa.
Chúng ta là con cái của Chúa, chúng ta theo Chúa, Chúa đã thương xót chúng ta, dù chúng ta tội lỗi mà Chúa vẫn cho chúng ta có cặp mắt đức tin trong sáng như thế này để chúng ta bước theo Chúa, chúng ta cảm tạ ơn Chúa vô cùng: “Môn đệ không hơn Thầy, nếu môn đệ được giống như Thầy thì đó là hoàn hảo rồi” (Lc 6, 40). Chúng ta biết ơn Chúa và sống cho xứng đáng với sự biết ơn đó bằng cách chúng ta đừng xét đoán anh chị em của chúng ta, mà cụ thể là: “Sao ngươi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấ? Sao ngươi có thể nói với người anh em: Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi” (Lc 6, 41 – 42). Như vậy, sống biết ơn Chúa là chúng ta phải luôn tự xét mình, luôn nhìn nhận mình yếu đuối, tội lỗi, bất xứng, bất toàn để lo ăn năn sám hối, hoán cải bản thân, chừa tội lỗi, lo sống tốt và rồi chúng ta mới giúp anh chị em chúng ta chừa tội được, chúng ta mới có thể dẫn anh chị em chúng ta đến với Chúa mà không bị vấp ngã trên đường đời, không bị rớt hố sâu bởi những đam mê xác thịt, tham sân si, danh lợi thú: “Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi mới thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi” (Lc 6, 42).. Do đó, chúng ta phải nghe lời Chúa, phải tu thân tích đức trước đã, rồi mới có thể giúp đỡ cho mọi người, trong gia đình, ngoài xã hội mà cùng nhau sống theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con, Chúa rộng ban ân sủng cho chúng con để rồi chính Chúa là nơi chúng con nương tựa, là thuẫn đỡ, khiên che, là thành lũy bảo vệ chúng con. Lạy Chúa, loài chim kia cũng được Chúa cho làm tổ bên bàn thờ Chúa, cánh nhạn kia cũng được Chúa cho tìm được mái ấm để ấp ủ con của nó thì huống chi chúng con là con cái của Chúa (Tv 83, 4). Ôi lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con tôn thờ, chúng con được hạnh phúc được ở trong nhà của Chúa, chúng con ca ngợi Chúa muôn đời, xin Chúa nghe lời chúng con khẩn nguyện, ban ơn giúp chúng con sống khiêm nhường trước nhan thánh Chúa. Amen.
Trên phương tiện truyền thông báo chí, internet, mạng xã hội…hàng ngày chúng ta đọc thấy các quốc gia lên án chỉ trích nhau, các chế độ lên án chỉ trích nhau, con người cũng lên án chỉ trích nhau. Sở dĩ có tình trạng này vì con người chúng ta không thấy lỗi của mình mà chỉ thấy lỗi của người khác. Như tục ngữ cha ông chúng ta thường nói: “Việc mình thì quáng, việc người thì sáng”, lỗi của chúng ta, chúng ta không thấy, dù lỗi đó rất lớn, nhưng lỗi của người khác, dù là nhỏ bé thôi, qua cái nhìn của mình, chúng ta thấy nó rất lớn, như lời Chúa nói: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi” (Lc 6,42).
Bài học Chúa dạy chúng ta hãy lấy cái đà trong con mắt mình ra trước đã. Nghĩa là chúng ta hãy trở về với chính bản thân mình, xét mình để thấy những tội lỗi, tính hư tật xấu, những khuyết điểm mà sửa bản thân trước rồi từ đó mới có thể giúp đỡ người khác sửa lỗi. Muốn làm được điều này, chúng ta phải noi gương Chúa, sống khiêm nhường, hạ mình xuống và cần sự giúp đỡ của mọi người, nhất là ơn Chúa để chúng ta sửa mình mỗi ngày sống tốt hơn: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6, 42b).
Chúng ta là môn đệ của Chúa, là con cái của Chúa, chúng ta cần giúp nhau sửa lỗi để sống mỗi ngày tiến bộ hơn, đặc biệt là giúp nhau nên thánh. Tự bản thân mình, chúng ta phải sống thánh trước rồi mới giúp đỡ người khác, kẻo không thì như Lời Chúa nói: “Khi ấy, Ðức Giêsu kể cho môn đệ dụ ngôn này: Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?” (Lc 6, 39 – 43a).
Lạy Chúa, xin Chúa dạy chúng con biết sống khiêm nhường, biết đấm ngực nhìn nhận tội lỗi của mình “ Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng, vì vậy tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và cùng anh chị em khẩn cấu cho tôi trước tòa thiên Chúa, Chúa chúng ta” (Kinh cáo mình), mà sửa đổi trước và xin cho chúng con lấy tình thương đối xử với nhau, cảm thông với nhau, cầu nguyện cho nhau, tha thứ cho nhau, không phê bình chỉ trích anh chị em chúng con khi họ có những thiếu xót, lầm lỗi. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 23 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, xin Chúa lấy tình Cha, mà âu yếm đoái nhìn chúng ta là những kẻ tin kính Đức Kitô, thì, xin Chúa cho chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, thật lòng quay trở về với Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Ai Ca: Âm thầm khát khao ơn cứu độ. Từ vực sâu khốn cùng, thi nhân ca hát niềm hy vọng: Dù mọi sự xem ra đã mất, ân tình của Chúa vẫn chẳng hề vơi. Trong dụ ngôn quen gọi là đứa con phung phá, Đức Kitô gửi đến chúng ta cùng một sứ điệp: Thiên Chúa chỉ chờ đợi nơi ta có một điều thôi, là quay gót trở về… Lạy Chúa, những người thù ghét con vô cớ, đuổi xua con như thể đuổi chim. Con thốt lên: Chết mất! Và Ngài đã nghe tiếng con van nài. Lạy Đấng cứu chuộc con, Ngài đã phán: Đừng sợ hãi! Và chính Ngài đã biện hộ cho con. Tôi sẵn sàng không những chịu trói, nhưng còn chịu chết nữa vì danh Chúa Giêsu.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, hiệp nhất nên một trong Hội Thánh của Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của Chân Phước Ixaác, Viện Phụ đan viện Sao Mai: Chúa Kitô không muốn tha tội mà không qua Hội Thánh… Lạy Cha, xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha. Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.
Tin kính Đức Kitô, trở nên người tự do đích thực, để được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, nhưng tôi đã được Chúa thương xót. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 15 cho thấy: Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng. Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa, Lời Chúa là sự thật. Xin Chúa lấy sự thật mà thánh hiến chúng con. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Mù mà lại dắt mù được sao? Mù không thể dắt mù, chỉ có Lời Chúa là sự thật, mới có thể soi sáng dẫn đường cho chúng ta. Như Chúa Cha đã sai Đức Giêsu, thì, Đức Giêsu cũng sai chúng ta, để tất cả được nên một trong Hội Thánh của Đức Kitô, như Đức Kitô nên một với Chúa Cha. Chúng ta đừng tách đầu ra khỏi thân, kẻo Đức Kitô không toàn vẹn. Quả vậy, chẳng bao giờ có Đức Kitô toàn vẹn, nếu, không có Hội Thánh, cũng như, chẳng bao giờ có Hội Thánh toàn vẹn, nếu, không có Đức Kitô. Đức Kitô toàn thể và trọn vẹn gồm đầu và thân. Vì thế, Hội Thánh không thể tha tội nào, mà, không có Đức Kitô. Đức Kitô cũng không muốn tha tội nào, mà, không có Hội Thánh. Hội Thánh chỉ có thể tha tội cho kẻ sám hối, nghĩa là, cho kẻ đã được Đức Kitô đụng tới, khi họ kêu xin Người cứu chữa. Chúng ta hãy tin tưởng cậy trông vào Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Người sẽ ban cho chúng ta đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của những kẻ được kết hợp với Người. Mù không thể dắt mù, vì thế, chúng ta phải biết quy hướng về Đức Kitô, như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Chúa cứu chuộc và nhận chúng ta làm nghĩa tử, ước gì chúng ta được trở nên những người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!
Thứ Bảy 13/09/2025 – Nhà xây trên đá = khôn ngoan. tuần 23 thường niên. – Thánh Gioan Kim Khẩu, gm, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. “Tại sao các con gọi Thầy 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
* Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tụy, lo chấn chỉnh phong hóa cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý công giáo và huấn luyện đời sống Kitô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra. Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề”.
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người. Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn. Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo. Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật: “Xem quả thì biết cây” (c. 44). Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm. Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai. Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ. Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon. Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ, qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến. Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa. Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ. Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho. Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp. Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu. Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46). Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ: Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy? Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu, lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47). Nghe thôi thì chưa đủ. Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta, chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn. Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà. Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay, nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó? Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc. Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền. Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau. Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt. Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành. Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng. Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện. Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống, vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng. Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững. Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta. Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, Vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy, Nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con Đừng hời hợt khi nghe lời Chúa, Đừng để nỗi đam mê làm lời Chúa trở nên xa lạ. Xin giúp chúng con dọn dẹp mãnh đất đời mình, Để hạt giống lời Chúa được tự do tăng trưởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con Được xây trên nền tảng vững chắc, Đó là lời Chúa Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. ---------------------------------
Thời gian là lời phán xét chính xác. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu cây nào tốt khi chúng ra quả. Cứ xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả.Người thật hay người giả. Đừng tin ngay vào lời nói, cứ chờ xem họ làm thế nào. Thời gian sẽ chứng nghiệm công trình xây dựng. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa Giêsu cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Người môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt. Người môn đệ tốt là người không chỉ nói ngoài miệng nhưng tin thật trong lòng. Người môn đệ trung tín là người thực hành niềm tin đã lãnh nhận được. Khó khăn thử thách là tự nhiên trong đời sống. Cũng như bão lụt là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nhà xây vững chắc sẽ bền vững qua thời gian. Người nghe và thực hành Lời Chúa đứng vững trong mọi gian nan thử thách. Người ấy đã chọn Chúa thì trung tín suốt đời.
Nhưng chọn lựa không chỉ một lần mà trải dài suốt cuộc đời. Có bao nhiêu năm tháng là có bấy nhiêu chọn lựa. Để trung tín với Chúa và với chính mình, với niềm tin, với lời tuyên xưng, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng. Chúa mời ta dự tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Nhưng thế gian cũng có những bàn tiệc hấp dẫn. Ma quỉ cũng biết bày ra những bàn tiệc lạc thú thịnh soạn, cũng biết nâng những chén rượu danh vọng hấp dẫn mời mọc. Lại còn thêm thói đời, người đời thân thiết lôi kéo. Nhất là khi chung quanh ta ai cũng làm giống nhau. Ta sống khác được sao? Ta phải cảnh giác để giữ lòng trung tín như thánh Phao-lô khuyên dạy: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỉ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỉ được” (năm chẵn).
Một cách giữ lòng trung tín với Chúa là nhớ lại thuở ban đầu. Thánh Phao-lô luôn nhắc nhở về thời chìm đắm trong tội lỗi để thấy ơn Chúa thương xót hoán cải ngài, tuyển chọn ngài và ban cho ngài được làm môn đệ Chúa. Vì thế ngài luôn nhớ ơn Chúa, luôn tận tâm phục vụ Chúa, sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Chúa. Hãy chọn lựa Chúa. Vì chỉ có Người thương yêu ta. Hãy tạ ơn Chúa. Vì chính Người hạ cố đến cứu độ ta. Hãy thờ lạy Chúa. Vì chỉ có Người là vua thật thống trị vũ trụ. Hãy noi gương thánh Phao-lô mà xưng tụng: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (năm lẻ).
Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Ðức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có bền vững và đẹp đẽ hay không là tùy ở con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm nếm được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngay từ đời này. Và nhận được gấp trăm ngay từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của Tin Mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?
Một nhóm truyền đạo của một giáo phái đến ngay trước cửa một nhà thờ để chiêu dụ các tín đồ, họ giảng thao thao bất tuyệt về giáo lý của họ. Vị mục sư cai quản nhà thờ rất kiên nhẫn, ông đứng nghe giảng một hồi lâu rồi đưa tay ra hiệu và nói với các nhà truyền đạo:
- Thưa quí ông, tôi xin được đưa ra một đề nghị: tôi hiện đang có một ly thuốc độc, nếu các ông uống ly thuốc độc này mà vẫn còn sống thì không những tôi mà tất cả mọi người giáo dân đang có mặt ở đây cũng sẽ bỏ đạo của chúng tôi để gia nhập vào giáo phái của các ông; nhưng nếu các ông không uống ly thuốc độc này thì tôi chỉ có thể kết luận là các ông chỉ là những nhà truyền đạo giả hiệu của Tin mừng bởi vì các ông không tin tưởng ở Chúa là Ðấng, như các ông vừa mới loan báo, sẽ không bao giờ để các ông phải chết.
Nghe thế, các nhà truyền đạo không biết phải làm như thế nào. Họ liền kéo nhau đến một góc và bàn bạc với nhau: Chúng ta phải làm sao đây?
Cuối cùng, sau một lúc họ đã quyết định, họ trở lại trước mặt vị mục sư và nói: chúng tôi vừa nghĩ ra một kế hoạch, xin mời ông cứ uống thuốc độc, chúng tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông sống lại.
Giữa những điều chúng ta tuyên xưng và những gì chúng ta sống; giữa những gì chúng ta rao giảng và những gì chúng ta làm chứng luôn có khoảng cách. Ðạt được thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa tin và sống, giữa nhà thờ và cuộc sống không phải là chuyện dễ. Mỗi ngày chúng ta vấp phạm đến bao nhiêu lần, mỗi ngày chúng ta chối bỏ đức tin của chúng ta biết bao nhiêu lần.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều ấy, mượn hình ảnh của cây và trái, của ngôi nhà và nền móng Ngài kêu gọi chúng ta sống điều chúng ta tin, thực hành điều chúng ta rao giảng. Thánh Giacôbê tông đồ đã diễn đạt một cách tuyệt hảo lời dạy của Chúa Giêsu khi ngài nói: "Ðức tin không có thực hành là đức tin chết". Tin mà không sống điều mình tin thì cũng chẳng khác nào không có đức tin.
Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân". Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
Chúng ta đang sống trong thời đại của bùng nổ thông tin. Con người thời đại đang choáng ngộp vì lượng thông tin, họ mệt mỏi vì những lời nói suông. Thời đại của thông tin cũng là thời của khủng hoảng về lời nói, đây chính là thách đố của người tín hữu Kitô. Nếu cuộc sống của họ không là một thể hiện của niềm tin của họ, nếu cuộc sống đời thường của họ hoàn toàn cách biệt và xa lạ với những gì tuyên xưng trong nhà thờ thì cộng đồng của họ dù có được tập trung trong một nhà thờ dù nguy nga đồ sộ đến đâu cũng vẫn là một đám ma buồn tẻ hơn là một cộng đồng có sức sống.
Sống đạo và truyền đạo là một ơn và là một nghĩa vụ của người tín hữu Kitô. Chúng ta cảm tạ Chúa đã trao phó cho chúng ta một nhiệm vụ cao cả như thế.
Nguyện xin Ngài ban ơn giúp sức cho cuộc sống mỗi ngày của chúng ta trở thành lời tuyên xưng và rao giảng sống động cho mọi người.
Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Thầy, Lạy Chúa! mà anh không làm điều Thầy dạy?
“Ai đến với Thầy, và nghe những điều Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em người ấy ví được như ai. Người ấy được ví như một người khi xây nhà, đã cuốc đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây cững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành.” (Lc. 6, 46-49)
Những bài thuyết trình càng hay, càng đáng thở dài, hứa nhiều làm ít: Lạy Chúa, lạy Chúa, kêu dễ dàng và bao nhiêu cũng được, nhưng vào việc lại chậm trễ ươn hèn chẳng làm điều cam kết chi cả. Đức Kitô phải khó chịu khi nói ra điều này và không nhịn được nên kêu gọi người ta phải chú ý đến nó.
Nói hay làm dở, ai trong chúng ta cũng không nhiều thì ít, rất đơn giản, có đầy trong thực tế hằng ngày. Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rõ điều đó khi so sánh nói mà không làm giống như xây nhà trên cát không có nền chắc chắn. Mưa sa lũ lụt và bão làm nhà sụp đổ. Nói và làm, thì như người xây nhà trên đá, nước dâng lên, sóng vỗ, nhà vẫn không lay chuyển. Cũng như trồng cây trên đất tốt, sẽ gặt được mùa bội thu hoa trái tốt đẹp.
Chỉ đến nghe Đức Kitô giảng thì không đủ. Phải sống lời Chúa. Cầu nguyện nhiều không đủ, phải cải tạo cách nghĩ và cách làm. Chỉ chấp nhận những đòi hỏi vác thập giá Đức Kitô xuông chưa đủ. Phải biết kết hiệp với Người khi gặp gian nan, thử thách, gặp đau khổ, nghịch cảnh. Phải biết đón nhận những đau khổ trong mầu nhiệm sự chết để hy vọng tràn trề được sống lại vui mừng.
Chỉ nhận biết cần thiết phải hy sinh vì lý do đức tin đòi chấp nhận sự vô lý, thì không đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh liên lỉ, dầu phải chiến đấu cam go để giải thoát những tấn công của những khuynh hứng xấu xa tàn bạo.
Chỉ kêu gào công lý và bác ái không đủ, phải chính mình đương đầu với những bất công, bất nhân, dù biết rằng mình không luôn luôn chiến thắng. Như thế, chúng ta có thể nuôi hy vọng trở nên người không nói hay, nhưng làm hay.
Người xưa thường coi việc: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà” là ba việc hệ trọng trong đời người. Thật vậy, nếu không kinh nghiệm về việc xem trâu, người nông dân dễ bị mua phải con trâu lười hay không biết làm việc. Cũng vậy, nếu không tìm hiểu cho kỹ, không chừng khi lấy vợ, chúng ta lấy phải cô vợ “cảnh” thì thật là tai họa cả đời. Tương tự như hai việc trên, công việc làm nhà cũng rất quan trọng. Nếu không biết tính toán, suy xét và nhất là nơi chốn, chúng ta dễ bị hậu quả nặng nề là căn nhà siêu vẹo do sức nặng và độ lún chênh lệch nên dễ làm cho căn nhà bị đổ nát, hoặc không đón được hướng gió tốt, sẽ dễ dàng gây nên sự ngột ngạt ...
Hôm nay, Đức Giêsu nói đến việc xây dựng cuộc đời của mỗi người ngang qua hình ảnh xây dựng căn nhà.
Không ai dám cả gan để xây nhà trên nền cát! Cũng vậy, không có người nào dại dột đến độ phó dâng cuộc đời của mình cho kẻ chẳng hơn mình là bao? Hay đi tin một người mà do chính mình tưởng tượng rồi bịa ra để tôn thờ!
Khi Đức Giêsu nói đến độ bền chắc của đá, hay xây nhà trên nền móng bằng đá, Ngài muốn nói đến sự bền vững nơi những ai biết đặt đời mình trong bàn tay của Chúa, biết xây dựng cuộc sống trên nền tảng Tin Mừng.
Thật vậy, những người đón nhận, lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa thì được ví như người khôn ngoan xây nhà trên nền đá vững chắc. Ngược lại, những người nghe rồi bỏ bê không thực hành thì được ví như người ngu xây nhà trên cát và hệ quả là bị nước cuốn trôi và tòa nhà sẽ sụp đổ tan tành.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn biết khát khao lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Sẵn sàng để Lời Chúa chi phối và là kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Được như thế, chúng ta mới thực sự trở thành người khôn ngoan vì đã xây căn nhà cuộc đời của mình trên nền tảng vững chắc là chính Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những viên đá sống động nhờ biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn ý thức mình cũng cần phải chung tay cộng góp để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính những gương sáng của mình trong đời sống. Amen.
Sứ điệp: Đời sống đạo của mỗi Kitô hữu tựa như ngôi nhà thiêng liêng. Ngôi nhà đó phải được xây dựng trên nền đá vững chắc là lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, từ ngày con được lãnh nhận bí tích Rửa tội là con được đặt chân vào con đường làm môn đệ Chúa. Đó là ngày con bắt đầu hành trình tiến lên đỉnh trọn lành. Đó là ngày Chúa mời gọi con xây dựng ngôi nhà thiêng liêng đời con. Từ đó, hằng ngày Chúa dạy con từ bỏ bản thân để biến mình trở nên giống Chúa hơn. Từng khoảnh khắc con biết sống theo đường lối Chúa, đó là nền đá vững chắc để xây nhà thiêng liêng cho con. Mang danh là Kitô hữu mà con không biết sống Tin Mừng hằng ngày thì ngôi nhà của con không có nền móng. Một chút thử thách, một cơn cám dỗ, một sự đau khổ, cũng đủ làm con nghiêng ngả và sụp đổ. Ngược lại, biết lắng nghe Lời Chúa và can đảm thực hành trong cuộc sống, đó là những bậc thang chắc chắn giúp con ngày càng tiến lên gần Chúa hơn.
Lạy Chúa, con tin Chúa đang hẹn gặp con hằng ngày trong mỗi khoảnh khắc cuộc đời con. Điểm hẹn là tiếng lương tâm, điểm hẹn là Mười Giới Răn, là Thánh Kinh và là giáo huấn của Hội Thánh. Xin cho con biết đến gặp gỡ Chúa để biến đổi cuộc đời con: gặp Chúa đích thực qua việc biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.
Xin cho con đừng nhẫn tâm bỏ qua tiếng lương tâm, đừng để con giả điếc làm ngơ khi nghe Lời Chúa, đừng để con bịt tai coi thường giáo huấn của Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con được thiết tha hơn trong hành trình theo Chúa, và tích cực hơn trong việc xây dựng ngôi nhà thiêng liêng đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các con gọi Thầy “Lạy Chúa, lạy Chúa”, mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
Ngày 15 và 16/10/2010, đợt mưa lớn gây lũ lịch sử chưa từng thấy trong 50 năm qua đã nhấn chìm nhiều tỉnh ở Bắc Trung Bộ Việt Nam: Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An trong biển nước… Cơn lũ đã làm hàng trăm người chết, bị thương và mất tích vì bị cuốn trôi, cô lập nhiều vùng dân cư, nhiều nhà cửa bị trôi, sập, đường sá hư hỏng nặng nề, phá hủy tài sản, mùa màng và gia súc gia cầm của hàng chục ngàn người…
Phong ba bão tố, lũ lụt xảy ra bất cứ ở nơi đâu trên trái đất và bất cứ lúc nào, luôn để lại những hậu quả tai hại nếu chúng ta không chuẩn bị thật kỹ để trụ vững vàng… Ngay cả các nước tiên tiến như Australia và Brasil lũ lụt cũng gây thiệt hại nặng nề với trên 500 người chết và 13.500 người lâm vào cảnh vô gia cư vào thời điểm tháng 1/2011…
Suy niệm
Chúa Giêsu nói đến hình ảnh của đời sống sẽ luôn vững vàng nếu được chuẩn bị như nhà xây trên đá là người nghe và thực hành Lời của Đức Kitô. Ai nghe và thực hành Lời là người khôn xây nhà trên đá; luôn vững vàng trước mọi hoàn cảnh dù gặp nghịch cảnh hay bị thử thách qua hình ảnh Chúa Giêsu nhấn mạnh: Mưa sa có đổ xuống, nước ngập, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà, nhà vẫn không sập… Còn ai nghe mà không thực hành Lời Chúa thì giống như xây nhà trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn.
Với hình ảnh xây nhà trên đá luôn vững và trên cát sẽ sụp đổ, Kinh Thánh nhấn mạnh sự tương phản giữa hành động của hai người một cách trái ngược nhau: Nếu ai khôn thì đời người đó thật vững vàng như bàn thạch, còn ai dại thì chịu cảnh sụp đổ, tiêu tan trước phong ba bão tố.
Chúa Giêsu nhấn mạnh qua động từ chủ động “làm” hay “thi hành” Lời của Ngài, là lời mời gọi thể hiện sự sống động của đức tin được nuôi dưỡng bằng Lời trong đời sống hằng ngày ở mọi khía cạnh cuộc sống: gia đình, lao động, dấn thân xã hội, Giáo hội đều gắn chặt trên đá tảng với đức tin sâu sắc.
Trong cuộc sống hàng ngày, Chúa không hề hứa với chúng ta là sẽ tránh né được nghịch cảnh, phong ba bão tố trong cuộc đời, nhưng Ngài khẳng định rằng cuộc sống của người nghe, dựa và thực hiện vào Lời Ngài sẽ như ngôi nhà xây trên đá: Không bị mưa sa, bão táp làm tan hoang, trái lại sẽ vững vàng.
Ý lực sống:
“Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn
Vì Chúa là đá tảng, là chiến luỹ của con” (Tv 31,3b).
1. Tất cả lời giảng dạy và dụ ngôn hôm nay nhấn mạnh đến tiêu chuẩn của một người môn đệ đích thực: không phải cần một niềm tin trên lý thuyết, trên môi miệng... nhưng điều cần thiết nhất là phải thi hành ý Thiên Chúa, sống theo lời Đức Giêsu dạy. Chúng ta không thể nói rằng mình tin yêu Chúa, mà cuộc sống của chúng ta lại không theo giáo huấn của Người. Mỗi tín hữu cần xác tín rằng chỉ có Đức Giêsu và ánh sáng Lời Người là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu. Ngoài Đức Giêsu, không ai có thể cho chúng ta sự sống đích thực.
2. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn cây và trái: “Không có cây nào tốt mà sinh quả sâu...”. Chúa muốn dạy rằng: muốn có trái thì phải chăm sóc cây. Đó là một qui luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Cây tốt thì sinh trái tốt. Cây xấu không thể sinh trái tốt được. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”(Lc 6,45).
Tất cả những điều Đức Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng có ích lợi gì, và những người như thế cũng chẳng đáng làm môn đệ của Chúa. Họ chẳng khác gì một ngôi nhà được xây trên cát. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành, thì người đó mới xứng đáng là môn đệ Ngài. Họ như ngôi nhà dược xây trên đá vững chắc.
3. Điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuyên xưng hay kêu cầu danh Chúa ngoài môi miệng, mà là việc thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa nghĩa là đem những lời Chúa dạy trong Tin Mừng ra thực hành trong đời sống. Và ai thực hành Lời Chúa thì có một nền tảng vững chắc trong đức tin và lòng yêu mến.
Tình yêu mà chỉ dừng lại nơi đầu môi chót lưỡi thì là thứ tình yêu giả dối. Đức Giêsu đã nói: ”Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Như thế, việc tuân giữ Lời Chúa là thể hiện lòng yêu mến đích thực. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại không giữ Lời Ngài, vì như thế là nói dối. Thật vậy, giữa tin có Chúa và yêu mến Chúa phải là một khi tuân hành ý Chúa.
4. Người ta vẫn thường nói “con đường dài nhất là từ tai đến tay” nghĩa là dễ nghe, dễ hiểu nhưng để đem ra thực hành thì khó biết là ngần nào. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khiển trách các môn đệ chỉ nghe Lời Chúa và thưa: “Lạy Chúa! Lạy Chúa” nhưng không thi hành Lời Ngài dạy. Biết bao điều Chúa đã dạy, đã nêu gương và nhắc nhở mỗi ngày thế mà uổng phí công lao: ”Ta trông mong nó thực hành điều chính trực nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5,7). Hãy để Lời Chúa sinh nhiều hoa trái tốt lành thánh thiện nhờ khám phá ra sự hiện diện của Chúa trong mọi người (5 phút Lời Chúa).
5. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đang sống theo chủ trương tách biệt niềm tin và cuộc sống? Phải chăng chúng ta không đo lường niềm tin theo một vài biểu dương bên ngoài? Bao lâu cái cốt lõi của đạo là niềm tin, tình yêu thương, chưa ăn sâu vào từng sinh hoạt cuộc sống chúng ta, thì quả thực chúng ta chỉ là những kẻ nói: “Lạy Chúa! Lạy Chúa”, mà không hề thực thi Lời Chúa. Sống như thế chỉ là làm ô danh sự đạo và phạm đến giới răn cấm kêu tên Chúa vô cớ (R.Veritas).
Trong một xã hội mà qui luật sống là dối trá, thì Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống trung thực hơn bao giờ hết. Chúng ta phải sống thế nào để mọi người cảm nhận rằng Chúa Giêsu đang thực sự hiện diện và tác động trong cuộc sống chúng ta, và lời của Ngài có sức cải tạo con người và xã hội.
6. Truyện: Triệt để thi hành luật pháp.
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đúng 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xẩy ra cho ông, là ngươi đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xứ lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh mẹ. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về cách đối xử. Đoạn này gồm 3 lời dạy:
1) Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
3) Phải thi hành (cc 46-49): Tất cả những lời Chúa Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng ích lợi gì, và người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ Ngài. Họ chỉ như một cái nhà được xây trên cát mà thôi. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành thì mới xứng đáng là môn đệ Ngài, họ như cái nhà được xây trên đá vững chắc.
B.... nẩy mầm.
1. Về dụ ngôn cây và trái: muốn có trái thì phải chăm sóc cây, đó là một qui luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Thế nhưng tôi thường chỉ lo đến những thể hiện bề ngoài chứ không lo bồi dưỡng chính tâm hồn mình.
2. Về kho tàng trong lòng: tôi cũng thường “kiểm kê tài sản” xem mình đang có bao nhiêu tiền, bao nhiêu món đồ v.v. Hôm nay tôi hãy kiểm kê kho tàng trong lòng xem hiện giờ có được những gì.
3. Về dụ ngôn xây nhà: tôi đang xây ngôi nhà cuộc đời mình trên nền cát hay nền đá? Nền cát là những thứ mà người đời thường theo đuổi (danh, lợi thú), nền đá là Lời Chúa và Ý Chúa.
4. Một người nhà giàu nọ cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho ông một ngôi nhà sang trọng với những vật liệu đắt giá nhất và do những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng để mua những vật liệu rẻ nhất, ông mướn những người thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành.
Khi ông chủ về, người quản lý giao ngôi nhà cho chủ. Ông chủ tỏ vẻ hài lòng và cho biết ông bảo làm ngôi nhà ấy để tặng cho người quản lý. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa những chỗ hư của ngôi nhà, người quản lý vô cùng hối tiếc: giả như trước đây tôi biết đây là ngôi nhà ông chủ tặng cho tôi thì tôi đã không xây cất một cách xoàng xĩnh như thế ("Mỗi ngày một tin vui").
A. Chúa Giêsu tiếp tục dạy các môn đệ về cách ứng xử. Đoạn này gồm 3 lời dạy:
1) Qua Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43,44): Chúa muốn nói đến những hành động của ta. Bên ngoài phải phù hợp với bên trong. Đối với những người biệt phái và luật sỹ thì một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với luật.
Còn đối với Chúa Giêsu thì một hành động được coi là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt. Một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu coi cõi lòng con người như một kho tàng, nơi xuất phát ra những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Kho tàng tốt thì sẽ phát sinh ra những lời nói và việc làm tốt. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt.
Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu. Hay nói một cách chính xác hơn là chính Chúa Giêsu.
3) Phải thi hành (cc 46-49): Tất cả những lời Chúa Giêsu dạy đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng có ích lợi gì, và những người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ của Chúa. Họ chẳng khác gì một ngôi nhà được xây trên cát. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành, thì người đó mới xứng đáng là môn đệ Ngài. Họ như ngôi nhà được xây trên đá vững chắc.
B. Như vậy, qua dụ ngôn Cây và Trái: Chúa muốn dạy rằng: Muốn có trái thì phải chăm sóc cây. Đó là một quy luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Cây xấu không thể sinh trái tốt được. “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6,45)
Đây là câu chuyện có thật ở Nhật Bản. Chuyện kể rằng, khi sửa nhà, một anh thanh niên đã nhìn thấy một con thằn lằn bị kẹt bên trong khe hở nhỏ giữa hai bức tường bằng gỗ. Một sự tình cờ nào đó đã khiến chân chú thằn lằn tội nghiệp bị cây đinh ghim vào tường. Nhưng lạ lùng hơn nữa là căn nhà đã được xây dựng hơn mười năm, điều đó đồng nghĩa với việc chú đã sống trong tình trạng này suốt thời gian qua.
Quá ngạc nhiên với những gì đang diễn ra trước mắt, chàng trai bèn ngưng làm việc, tò mò theo dõi xem chú thằn lằn đã sống ra sao trong tình trạng bị “cầm tù” như vậy. Không lâu sau đó, anh nhìn thấy một con thằn lằn khác xuất hiện, miệng ngậm đồ ăn đến bên con thằn lằn bị ghim vào tường.
Một cảnh tượng thật cảm động. Con thằn lằn bị ghim đinh đã được một con thằn lằn khác nuôi ăn trong suốt 10 năm qua. Không ngờ loài vật tưởng chừng không suy nghĩ, không cảm xúc lại có thể có những việc làm như vậy. Có lẽ, chỉ có tình yêu mới tạo nên nghị lực sống và tinh thần phục vụ kỳ diệu đến thế. Lev Tolstoy nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống.”
Phải thi hành: Lý thuyết có hay cách mấy đi nữa nhưng nếu không đem đến thi hành thì cũng chẳng ích lợi gì. Chúa Giêsu ví những nghười nghe mà đem ra thực hành thì giống như người xây nhà của mình trên đá. Đá đây chính là Lời Chúa và Ý Chúa.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Caucase ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một quốc vương Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xảy ra cho ông, là người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của mình. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên sắp quất xuống trên người mẹ thì nhà vua chạy đến bên cạnh bà. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc trừng phạt bằng roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thận mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói:
- Bây giờ thì các ngươi có thể ra về. Luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội lỗi này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
Chúng ta là những người Kitô của Chúa, không phải là Kitô hữa trên danh nghĩa, lý thuyết, giấy tờ, chữ viết, mà chúng ta phải là những Kitô hữu trong thực tế của Chúa. Nghĩa là chúng ta không phải “Hữu danh vô thực” mà là “Hữu danh, hữu thực”. Chúng ta phải sống lời Chúa, phải đem lời Chúa ra thực hiện trong cuộc sống, cho dù có thuận tiện hay không thuận tiện, vì như Chúa đã nói: “Tại sao các con gọi Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo” (Lc 6, 46). Điều quan trọng nhất khi theo Chúa là chúng ta phải thực hiện lời Chúa dạy.
Do đó, khi chúng ta thực hiện lời Chúa dạy, chúng ta sẽ sống tốt, sống có đức, có hạnh. Chúng ta sống tốt, có đức, có hạnh là do lời Chúa chất chứa trong kho tàng trí óc, con tim của chúng ta, biến đổi chúng ta, định hướng cho những hành động việc làm của chúng ta: “Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng của lòng mình” (Lc 6, 45). Còn khi chúng ta không để cho lời Chúa định hướng cho cuộc đời chúng ta, thì lúc đó chúng ta phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của lòng chúng ta (Lc 6, 45b).
Chúng ta sống tốt, chúng ta sinh hoa quả tốt đẹp cho Chúa là các nhân đức chúng ta làm trong cuộc sống “Cây tốt sinh trái tốt”, vì vậy mà không có cây nào tốt mà sinh trái xấu được. Lúc đó, chúng ta được Chúa ví như chúng ta xây tòa nhà đức tin của chúng ta trên đá tảng vững chắc. Chính lời Chúa mà chúng ta sống là đá tảng, sẽ làm cho chúng ta vững vàng mạnh mẽ vượt qua được mọi gian nan thử thách trong cuộc sống. Tòa nhà đức tin của chúng ta không bị sụp đổ tan tành khi thử thách xảy đến. Anh chị em của chúng ta nhìn thấy những điều tốt đẹp chúng ta thực hiện mà ngợi khen Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời (xMt 5, 16), “Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người đó giống ai. Người đó giống như người xây nhà, ông ta đào sâu và đặt móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được xây trên đá” (Lc 6, 47 – 48).
Nhưng nếu chúng ta không sống lời Chúa dạy, chúng ta là những bụi gai, cây dâu đất, người khác không thấy các việc tốt chúng ta làm, chúng ta sẽ không làm gương sáng cho họ noi theo. Lúc đó tòa nhà đức tin của chúng ta được Chúa ví như xây trên cát, những thử thách gian nan xảy đến trong đời sống đạo, tòa nhà đức tin chúng ta sẽ bị đổ nát. Và rồi chúng ta sẽ mất đức tin, chúng ta sẽ bỏ Chúa, chúng ta sẽ đi theo tiếng gọi của khoái lạc, hưởng thụ, tiền tài, danh vọng. Chúng ta sẽ là những người khờ dại, bắt bóng bỏ hình, ham mê cái hư vô, chóng qua mà bỏ điều trường tồn vĩnh cửu. Chúng ta sẽ phải đau khổ suốt đời: “Trái lại, kẻ nghe mà không thực hành lời Chúa, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ và nhà đó bị hư hại nặng nề” (Lc 6, 49).
Lạy Chúa, nhiều lúc trong cuộc sống, anh chị em của chúng con tìm nơi chúng con các gương sáng trong đời sống đạo để noi theo mà chỉ thấy toàn gương xấu. Chúng con đã không sống điều Chúa dạy bảo. Chúng con làm hoen ố hình ảnh của Chúa. Xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con cùng ban ơn nâng đỡ giúp chúng con vượt thắng sự lười biếng của bản thân, làm theo lời Chúa dạy để chúng con tốt hơn. Amen.
Chúng ta còn tranh chấp hơn thua, ganh tị, hận thù, chia rẽ, chém giết nhau …là vì chúng ta chưa thực hiện trọn vẹn thánh ý Chúa. Chúng ta nghe Lời Chúa nói rất nhiều như mỗi lần chúng ta tham dự lễ, chúng ta nghe công bố Lời Chúa, chúng ta nghe chia sẻ Lời Chúa nhưng rồi Lời Chúa chẳng thấm nhập chúng ta bao nhiêu cả. Nghe lời Chúa rồi, chúng ta quên mất vì khả năng trí óc chúng ta có giới hạn. Lại thêm bao nỗi lo toan cơm áo gạo tiền, danh, lợi, thú nó choáng hết tâm trí chúng ta, không còn chỗ cho Lời Chúa đọng lại.
Khi nghe Lời Chúa, chúng ta nghe bằng trí óc và cả con tim. Nghĩa là chúng ta nghe bằng tình yêu, bằng cả con người chúng ta, và rồi chúng ta yêu mến Lời Chúa, chúng ta ấp ủ Lời Chúa , để Lời Chúa đi vào trong máu thịt xương cốt của chúng ta. Chúng ta có chất Lời Chúa bên trong rồi để bây giờ chúng ta mới đem Lời Chúa ra thực hiện trong cuộc sống. Lời Chúa lúc này sẽ điều khiển suy nghĩ, việc làm của chúng ta, giúp chúng ta chỉ làm điều lành, điều thiện, điều tốt mà thôi. Những người khác khi thấy các việc lành, việc thiện, việc tốt chúng ta làm, họ sẽ tìm đến với Chúa là nguyên nhân của các việc lành, việc thiện, việc tốt chúng ta làm “Khi ấy, Ðức Giêsu nói với môn đệ rằng: Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho. Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6, 43 - 45).
Chúng ta nghe và thực hiện Lời Chúa thì giống như người xây nhà đặt nền móng trên đá. Khi lũ lụt, giông bão, nước tràn vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển. Điều này có nghĩa là khi chúng ta gặp những gian nan thử thách, truân chuyên, ngặt nghèo, hiểm nguy…. trong đời sống đạo, chúng ta vẫn đứng vững. Vì tòa nhà đức tin của chúng ta được xây trên Lời Chúa. Trái lại, khi chúng ta nghe Lời Chúa mà chúng ta không tuân giữ, không thực hiện thì như Chúa đã nói chúng ta giống như người xây nhà ngay trên mặt đất, không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ; và nhà đó bị hư hoại nặng: “Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy? Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành” (Lc 6, 46 – 59).
Như vậy, Chúa muốn dạy chúng ta phải sống đạo. Chúng ta có đạo trên danh nghĩa, điều ấy chưa đủ, chúng ta phải thực hành đạo Chúa dạy. Chúa dạy chúng ta “Mến Chúa, yêu người” (xLc 10, 25 – 28), chúng ta không yêu thương trên miệng lưỡi, mà phải thể hiện cụ thể ra bên ngoài. Như thánh Giacôbê đã nói: “Thưa anh chị em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2, 14 – 16).
Lạy Chúa, Lời Chúa là nền tảng cho đời sống đạo của chúng con, xin cho chúng con luôn biết sống những điều Chúa dạy bảo để rồi dù có thử thách xẩy đến, chúng con không bị vấp ngã, chúng con vẫn trung thành với Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Gioan Kim Khẩu hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là nguồn sức mạnh cho những kẻ cậy trông, Chúa đã ban cho Giáo Hội một khuôn mặt sáng chói là Thánh Giám Mục Gioan Kim Khẩu, nhờ tài hùng biện lạ lùng và lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách. Xin Chúa cũng ban cho chúng ta được thấm nhuần lời thánh nhân giảng dạy và có sức chịu đựng như người. Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại Antiôkhia. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm Giám Mục Côngtăngtinốp. Người là mục tử tận tuỵ, lo chấn chỉnh phong hoá cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cômana, Pontô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích Giáo Lý Công Giáo và huấn luyện đời sống Kitô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.
Lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách, với niềm hy vọng sẽ được cứu thoát, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Ai Ca: Tha thiết nài xin ơn cứu độ. Đối với người Giuđa, sống thân phận tù đày tại Baben hay tại chính quê hương mình, không chỉ có nghĩa là thấy mọi niềm hy vọng tiêu tan, nhưng còn là chịu nỗi thống khổ triền miên của những người cùng khốn, ngày ngày bị hạ nhục. Nhưng chính nỗi lầm than khốn cùng này lại là nền tảng niềm hy vọng của Ítraen. Làm sao Thiên Chúa để cho con cái Người sống thế này mãi mãi… Lạy Đức Chúa, Ngài tồn tại muôn đời. Sao Ngài đành quên chúng con mãi mãi? Xin đưa chúng con về với Ngài, để chúng con trở về. Lạy Chúa, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!
Lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách, sẵn sàng chịu khổ vì Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Gioan Kim Khẩu: Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi… Vì Tin Mừng tôi phải chịu khổ, và còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa không bị xiềng xích. Vì thế, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn. Chúa là nguồn ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào?
Lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách, chúc tụng danh thánh Chúa, vì tình thương cứu độ của Người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 112 kêu gọi: Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời! Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa, mà anh em không làm điều Thầy dạy? Thánh ý Chúa là đồn lũy bảo vệ ta, là đá tảng kiên cố cho ta nương tựa, là cây gậy giúp ta vững bước. Vậy, dại gì, ta không làm điều Chúa dạy, để được hưởng hạnh phúc muôn đời. Chúa đã ban cho Giáo Hội một khuôn mặt sáng chói là Thánh Giám Mục Gioan Kim Khẩu, nhờ tài hùng biện lạ lùng và lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách. Ước gì chúng ta được thấm nhuần lời thánh nhân giảng dạy và có sức chịu đựng như người. Ước gì được như thế!