Đứng gần thập giá. 15/09 – Thứ Hai tuần 24 thường niên – Đức Mẹ sầu bi. Lễ nhớ. "Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can"
Đức Mẹ sầu bi
Những đau khổ của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn thật vô cùng lớn lao. Tiên tri Isaia đã gọi Ngài là "Con người của đau khổ". Bên cạnh những thống khổ ấy, đau khổ trong đời Mẹ Maria cũng vượt mức chịu đựng của loài người, và chúng ta không làm sao diễn tả đầy đủ được. Nếu Ðức Giêsu đã đau khổ như một Thiên Chúa, Mẹ Maria cũng đã vô cùng đau đớn khi nhìn con Mẹ xuôi tay trước những cực hình phải chịu. Trong một mức độ nào đó, Mẹ đã đóng góp rất nhiều vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu bằng việc liên kết những khổ đau của Mẹ với những đau khổ của Chúa. Giáo Hội suy tôn Ðức Maria là Nữ Vương các thánh tử đạo và đã cụ thể hóa những đau khổ của Mẹ qua các sự kiện sau:
- Lúc nghe lời tiên tri Simêon, khi dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. - Lúc ẵm bế Chúa Hài Ðồng trốn sang Ai Cập. - Lúc lạc mất Chúa tại Giêrusalem. - Lúc gặp Chúa vác thánh giá. - Lúc Chúa chịu đóng đinh. - Lúc hạ xác Chúa xuống khỏi thập giá. - Lúc táng xác Chúa.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta dâng lên Chúa lời nguyện: "Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ðức Mẹ Ðồng Trinh cộng khổ đứng kề bên Con Chúa chịu treo trên thánh giá, xin ban cho Hội Thánh Chúa, khi đã thông phần đau khổ với Chúa Kitô thì cũng đáng được sống lại với Người".
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà". Rồi Người lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con". Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Đó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca. Khi ấy, cha và mẹ Chúa Giêsu đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria Mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".
Chúng ta thường suy ngắm bảy nỗi đau của Đức Mẹ, khi Mẹ nghe lời tiên tri của cụ Simêôn về Con, đưa Con trốn qua Ai Cập, mất Con nơi Đền thờ, cùng Con lên đỉnh Canvê, khi đứng bên Con chịu đóng đinh, hạ xác Con xuống khỏi thập giá, và chôn táng Con trong mộ. Những nỗi đau này đi dọc theo đời của người đã thưa tiếng Xin Vâng. Những nỗi đau trong lòng người Mẹ, đau vì Con và với Con. Ngoài bảy nỗi đau này, còn có bao nỗi đau khác không được kể tới. Chỉ ai yêu mới biết đau. Khi vẽ hay điêu khắc hình Đức Mẹ, các nghệ sĩ thường trình bày một Đức Mẹ với khuôn mặt rất vui tươi. Lễ Đức Mẹ sầu bi nhắc cho ta thấy đời Mẹ cũng có khi buồn. Vui buồn ở đời là chuyện mấy ai tránh khỏi. Cần ngắm nhìn khuôn mặt lo lắng của Mẹ khi mất Con hay đem con đi trốn. Cần chứng kiến khuôn mặt đớn đau của Mẹ khi đứng bên Con trên núi Sọ. Chính khuôn mặt buồn khổ của Mẹ lại làm chúng ta thấy gần Mẹ hơn. Khi chia sẻ mọi đau khổ của kiếp người long đong, Mẹ cảm thông với cái nặng nề của phận người mà ta gánh chịu. Chúng ta vẫn thường nghĩ đau khổ là hậu quả của tội lỗi. Điều đó đúng, nhưng không luôn luôn đúng. Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi vết nhơ của tội nguyên tổ, và Mẹ đã đáp lại ơn Chúa bằng việc luôn trung tín, vẹn tuyền. Nhưng điều đó không làm Mẹ tránh được mọi đau khổ. Thánh giá đã phủ bóng trên đời Mẹ ngay từ tiếng Xin Vâng đầu tiên. Khi chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã bắt đầu phải trả giá. Mẹ yêu mến Người Con mà Thiên Chúa ban cho mình, nhưng đôi tay Mẹ không đủ sức giữ kho tàng quý giá ấy. Mẹ hy sinh để Con Mẹ bước đi trên con đường khúc khuỷu gập ghềnh. Nhưng trong đau khổ của hy sinh, Mẹ bình an vì biết mình sống theo ý Chúa. Hãy đến với Núi Sọ chiều hôm ấy để thấy Mẹ đứng gần thập giá treo Con. Mẹ đã có mặt trong tiệc cưới Cana khi Con khởi đầu sứ vụ (Ga 2, 1-12). Bây giờ Mẹ lại có mặt khi Con hoàn tất sứ vụ ấy (Ga 19, 30). Dù không theo Đức Giêsu trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng, nhưng Mẹ là môn đệ của Ngài còn hơn những môn đệ khác. Mẹ không chạy trốn, nhưng muốn nếm trọn nỗi đau của Con để sẻ chia. Chính vào giây phút này, Đức Giêsu hấp hối làm điều không ai ngờ. Ngài nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài dấu yêu, đặt Mẹ làm mẹ người môn đệ ấy: Thưa Bà, đây là con của Bà (c. 26). và muốn người môn đệ ấy làm con của Mẹ: Đây là mẹ của anh (c. 27). Chính dưới chân thập giá, Đức Giêsu đã lập một gia đình mới. Mẹ là Mẹ của Đức Giêsu ở Cana, bây giờ thành Mẹ của người môn đệ. Nơi người môn đệ này, các Kitô hữu thấy hình ảnh của chính mình. Chúng ta cũng muốn đón Mẹ về nhà và nhận Mẹ làm Mẹ. Mẹ sẽ là người lo cho chúng ta trong ngôi nhà của gia đình mới.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. ---------------------------------
Dịp này Hội Thánh nhắc cho chúng ta nhớ vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ, để chúng ta cũng hiểu vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta.
I. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ
Đức Mẹ phải đau khổ. Đau khổ vì con mình là Chúa Giêsu. Đau khổ vì nhân loại là đàn chiên Chúa muốn cứu chuộc.
Thực vậy, Chúa Giêsu là Tin Mừng đặc biệt cho Đức Mẹ. Nhưng Người cũng là nguyên nhân khiến Đức Mẹ phải đau đớn. Đau đớn vì cảnh nghèo nàn thiếu thốn, khi sinh con trong hang đá Bêlem. Đau đớn vì cảnh đi trốn nhọc nhằn, khi đem con lánh nạn sang Ai Cập. Đau đớn vì cảnh lạc mất con, khi từ đền thánh trở về. Đau đớn vì cảnh lao động lầm than mấy chục năm giữa xóm nghèo ở Nadarét. Đau đớn vì cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ và bị tử hình trên thánh giá ở núi Golgôta.
Những đau đớn đó phải được cắt nghĩa vì lý do cứu chuộc nhân loại. Nhân loại được Chúa đoái thương cứu chuộc. Nhiều người đã đón nhận ơn đó. Nhưng nhiều người đã từ chối ơn đó. Không những thế, họ còn xỉ vả, bắt bớ và kết án chính Đấng Cứu chuộc.
Khi thấy như thế, Đức Mẹ rất đau lòng. Mẹ nhận ra lời tiên tri Simêon xưa đã ứng nghiệm. Chúa Giêsu vừa là duyên cớ cho nhiều người được chỗi dậy, và cũng là duyên cớ cho nhiều người phải vấp ngã (x. Lc 2,34).
Đức Mẹ đã đau đớn thế nào? Tiên tri Simêon tả đau đớn đó bằng một câu rất tượng hình: "Còn chính Bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà" (Lc 2,35).
Khi trái tim bị gươm vật chất đâm thâu, người ta cảm thấy đau đớn như phải chết dữ dằn. Khi tâm hồn bị gươm vô hình đâm thâu, người ta cảm thấy đau khổ cũng như một thứ chết khốn cực.
Để có một cái nhìn đúng đắn về đau khổ nơi Đức Mẹ, chúng ta nên nhớ mấy điều sau đây: a) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói sâu thẳm của tình yêu
Tâm hồn nào càng mến Chúa nhiều, càng cảm thấy đau nhiều, khi thấy tình yêu Chúa bị xúc phạm. Tâm hồn nào càng yêu người nhiều, càng cảm thấy khổ nhiều, khi thấy người khác rơi vào cõi khổ.
Đức Mẹ mến Chúa hết tâm hồn, và yêu thương nhân loại hết lòng. Nên Đức Mẹ dễ nhạy cảm trước bất cứ sự gì xúc phạm đến Chúa và làm hại cho phần rỗi loài người.
Nhạy cảm, nhạy bén là đặc tính cao độ của trái tim Mẹ. Lúc đó, đau khổ nơi Mẹ sầu bi là một tiếng nói sâu thẳm nhất của tình yêu.
Được mến yêu Chúa nhờ ơn Chúa ban, Đức Mẹ cảm thấy một thế giới mới. Xưa thánh Phaolô quả quyết: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi" (Pl 3,7-8).
Thánh Phaolô còn cảm thấy thế. Phương chi Đức Mẹ. Đức Mẹ được ơn hiểu thế nào là tình yêu thương xót Chúa, nên Đức Mẹ sẽ rất đau khổ, khi thấy tình yêu thương xót ấy bị người ta dửng dưng, xa tránh, chối từ, chống đối.
b) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người được ơn hiểu biết ý nghĩa sự tội
Sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng học hỏi giáo lý về tội, nghiên cứu các sứ điệp về sám hối của những lần Đức Mẹ hiện ra, là sẽ hiểu biết thấu đáo ý nghĩa sự tội. Không đâu, ý nghĩa về tội sẽ chỉ hiểu được sâu sắc nhờ ơn Chúa ban, do cầu nguyện, tĩnh tâm, đổi mới tâm hồn thực sự. Thánh Gioan Baotixita xưa đã dành cả đời rao giảng về sự sám hối. Ngài nói: "Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối" (Lc 3,8). Ngài đã răn đe những ai coi thường tội lỗi. Vì Ngài hiểu biết rất rõ tội lỗi sẽ đưa con người xuống cõi khổ cực ghê gớm đời sau.
Chắc chắn Đức Mẹ còn hơn thánh Gioan Tiền Hô, nên Người phải rất đau đớn khi thấy bao người nhởn nhơ đi vào đàng tội.
c) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người biết sự quan trọng trong tuyệt đối của phần rỗi
Xưa cũng như nay, nhân loại để sự tự do lôi kéo mình vào những gì nguy hiểm cho phần rỗi. Phần rỗi không phải là một hạnh phúc trả bằng giá rẻ. Nhưng thực tế cho thấy vô số người không quan tâm đủ đến phần rỗi. Trước cảnh đó, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26).
Với cái nhìn đó, Chúa Giêsu khuyên người có trách nhiệm hãy cố gắng đi tìm một con chiên lạc, hơn là quây quần với 99 con chiên ngoan (x. Mt 16,12-14).
Đức Mẹ rất hiểu thế nào là thiệt mất phần rỗi, nên Người đã rất đau khổ trước cảnh bao người không quan tâm đến phần rỗi.
Như thế, nói chung, đau khổ nơi Đức Mẹ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, đó là làm chứng cho tình yêu xót thương của Chúa. Đức Mẹ sầu bi vì thế sẽ là một an ủi lớn cho chúng ta, khi chính chúng ta cũng bị đau khổ trong cuộc đời.
II. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta
Đời là bể khổ. Riêng những người con Chúa sẽ gặp trong đời mình không thiếu nỗi đau như gươm đâm thấu tâm hồn mình.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm.
Tiên vàn, chúng ta phải có một ý hướng tốt lành này về những đau khổ của ta. Ý hướng tốt lành đó là muốn những đau khổ ta chịu sẽ có sức làm chứng cho tình yêu Chúa.
Để được như vậy, hằng ngày chúng ta dâng mọi thứ đau khổ của ta cho Đức Mẹ sầu bi, xin những đau khổ của Mẹ thanh luyện những đau khổ của ta. Bởi vì rất nhiều đau khổ của ta phát xuất từ tính kiêu ngạo, ghen tương, ham hố và ích kỷ muốn theo ý riêng mình.
Khi đau khổ, chúng ta dễ có khuynh hướng đổ trách nhiệm cho người khác. Nên coi đó là nghịch với đức ái khiêm nhường, tự nó lại gây đau khổ cho chính mình và cho người khác. Ở đây xin phép nhắc lại ba lời khuyên của thánh Augustinô:
a) Chớ tự coi mình là quan toà xét xử kẻ khác.
b) Xét đoán tội người khác thì phải khiêm tốn và trọng sự thật. Rất nhiều lần ta đổ cho người khác những lỗi lầm người ta thực sự không có.
c) Nếu người ta có tội, thì cũng nên nhận người ta có thể có nhiều công phúc, công khai và âm thầm.
Để đào tạo thường xuyên trái tim ta, ta nên để ý xét mình về việc ta có chia sẻ những đau khổ đủ thứ xảy đến cho đồng bào xung quanh không? Nhất là ta có hỏi Chúa về việc Chúa cùng đau khổ với bao người. Chúa đau khổ với họ, mà ta không để ý.
Đức Mẹ sầu bi sẽ cho ta thấy: Thánh giá là duyên cớ của sự vấp ngã, nhưng cũng là căn nguyên của sự vinh quang. Mẹ sầu bi sẽ làm cho những vết thương lòng của ta trở thành dòng sông thiêng liêng chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để thực hiện ơn cứu độ. Con người được mời gọi thông phần thánh giá của Chúa Giêsu để hoàn tất ơn cứu độ nơi cuộc đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa có muôn vàn cách thực hiện ơn cứu độ. Tuy thế, theo Thượng Trí, Chúa đã chọn thập giá làm phương tiện cứu độ con người. Mẹ Maria là người trước tiên được mời gọi cộng tác với Chúa để thực hiện ơn cứu độ.
Lạy Chúa, với tình yêu mến nồng nàn, Mẹ đã ngoan ngùy để Chúa sử dụng đời Mẹ theo Thánh Ý Chúa, miễn sao Ý Chúa được nên trọn. Số phận cuộc đời Mẹ gắn liền cuộc đời Chúa, thăng trầm đời Mẹ dệt họa lại những thăng trầm đời Chúa. Đời Mẹ trở thành bản sao cho cuộc đời lắm thương đau của Chúa. Mẹ được mệnh danh là Đấng- Hiệp- Công- Cứu- Chuộc, nhờ Mẹ tình nguyện đón nhận mọi thánh giá gắn liền với cuộc đời của người Mẹ sinh ra Đấng Cứu Chuộc. Nhờ thánh giá Chúa mà thánh giá đời Mẹ trở nên ý nghĩa. Nhờ công nghiệp Chúa mà đời Mẹ nên giá trị trổ sinh hoa trái thiêng liêng cứu giúp loài người.
Lạy Chúa, những đau khổ trái ý luôn có trong đời người. Nó sẽ trở nên vô ích nếu con cam chịu trong oán hận than trách. Ngược lại nó sẽ nên nguyên nhân để Chúa đổ ơn cứu chuộc nếu con biết vui lòng dâng Chúa.
Xin Chúa đón nhận thánh giá đời con như của lễ góp dâng với hy tế thánh giá của Chúa. Con muốn hoàn tất ơn cứu chuộc nơi con bằng thánh giá đời con. Xin Chúa thương chấp nhận. Amen.
Ghi nhớ: “Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
Việc kính nhớ các sự đau khổ của Đức Mẹ hôm nay liên kết chặt chẽ với ngày lễ Suy tôn Thánh giá ngày hôm qua. Đây cũng là một điều dễ hiểu; y như Thánh lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày xưa vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Thánh lễ “Bảy sự Thương khó” được hình thành vào thời Trung cổ. Ở nước Đức, người ta đã mừng thánh lễ này tùy từng nơi vào thế kỷ 15, như giáo phận Cologne, giáo phận Erfurt... Năm 1667 dòng Serviten bắt đầu phổ biến thánh lễ này. Mãi đến năm 1814 ĐGH Piô VII mới cho phép toàn thế giới mừng kính.
Bảy sự thương khó Đức Bà được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,34-35) Trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-15) Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền thờ (Lc 2,41-52) Con đường lên Golgotha Cuộc đóng đinh Hạ xác Chúa xuống Chôn xác Chúa trong mồ. Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh giá:
- Người không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
- Trong giờ phút đau khổ tột cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ: “Thưa Bà, đây là con Bà”.
Suy gẫm:
Đức Mẹ dưới chân Thập giá được gọi là Đức Mẹ hợp công cứu chuộc, vì những đau khổ của Mẹ do kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Có thứ đau khổ khiến người ta nhìn mà sợ. Có thứ đau khổ làm cho người ta tội nghiệp. Có thứ đau khổ làm cho người ta ngưỡng mộ. Có thứ đau khổ đáng cho người ta kính trọng.
Hôm nay chúng ta nhìn những đau khổ của Đức Mẹ Maria, không phải để sợ, để tội nghiệp mà để ngưỡng mộ, hơn nữa để tôn kính, vì đó là những đau khổ sinh ơn cứu rỗi cho người khác, trong đó có chính chúng ta nữa (Theo Lm. Carôlô).
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn”. Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
Suy niệm
Cuộc đời Đức Maria là cuộc đời của Bà Mẹ sống trong trăm nghìn đau khổ nối tiếp. Chính trong đau khổ Mẹ sống đức tin thông phần mầu nhiệm cứu độ của Con Mẹ.
Mẹ sầu khổ khi bạn đời Giuse cùng thề hứa trinh khiết chưa hiểu Mẹ khi Mẹ mang thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,27-38) theo ý Thiên Chúa. Khi Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Chúa vào đền thánh theo Luật của Môisê, Maria lo âu khi cụ già Simêon nói tiên tri về Chúa Giêsu Con Mẹ, còn Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ trong những tâm hồn khác được phơi bày” (x. Lc 2,33-35).
Mẹ sợ hãi, lo lắng, khổ đau khi cùng thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập tránh sự truy bức của Hêrôđê (x. Mt 2,13-14). Mẹ càng đau khi Con Mẹ ở lại Giêrusalem, khi hai bậc phụ huynh Giuse và Maria cứ tưởng con mình đã bị lạc mất vất vả tìm kiếm đến ba ngày (x. Lc 2,41-50). Mẹ ngạc nhiên đau khổ tột bậc khi nhìn Con Mẹ vác thập giá tiến lên núi Sọ trong cuộc hành trình cứu độ nhân loại. Nhất là còn gì đau đớn hơn khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhìn Giêsu, Con Mẹ chết tả tơi, trần trụi trong tư cách tên tử tội (x. Ga 19,25-28). Khi hạ xác Con xuống khỏi cây thập giá, lòng Mẹ tan nát vì Mẹ chỉ còn ôm một cái xác lạnh ngắt, mình mẩy đầy vết thương bầm tím mà các bức tượng Pièta trong lịch sử đã diễn tả lại.
Khi Con Mẹ được các đồ đệ an táng trong huyệt đá, nấm mồ tuyệt vọng mang khoảng cách trời, đất (x. Ga 19,38-42) làm Mẹ cảm thấy mất tất cả…
Dưới chân thập giá Chúa Giêsu và trong mọi sầu khổ, Mẹ Maria ôm lấy tất cả mọi con cái nhân loại, tất cả đều được ủy thác cho Mẹ như Chúa đã uỷ thác Mẹ cho thánh Gioan (x. Ga 19,25-27). Mẹ đang đứng bên cạnh tất cả những ai đang đau khổ. Mẹ âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi khổ đau của từng người như thể của riêng Mẹ với tình liên đới và cảm thông trong đau khổ.
Mẹ đau khổ, nhắc nhở chúng ta: Ðời của người Kitô hữu gắn liền với thập giá của Chúa Giêsu: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Cùng với Mẹ, chúng ta tin tưởng như thánh Phaolô xác quyết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người” (Rm 8,28).
Ý lực sống:
“Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
A. Hôm qua chúng ta mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ “Mẹ Sầu Bi” Mẹ đau khổ với Chúa Giêsu con của Mẹ. Khi cho con cái mình mừng lễ này, Giáo Hội cho chúng ta thấy có một sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa những sự đau khổ của Đức Maria và đau khổ của Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá. Việc làm như thế cũng là một điều dễ hiểu. Chính vì thế mà ngày xưa người ta mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta cũng phải được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Bảy sự đau thương của Đức Mẹ được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,3435) 2. Trốn sang Ai Cập (Mt 2,1315) 3. Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền Thờ (Lc 2,4152) 4. Con đường lên Golgotha 5. Cuộc đóng đinh 6. Hạ xác Chúa xuống 7. Chôn xác Chúa trong mồ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. Khi mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu, Thánh Gioan viết: Mẹ đứng sát cạnh cây Thánh Giá.
Mẹ không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn, nhưng người “đứng”, trong một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
Đức Mẹ dưới chân Thập giá để được đồng công cứu chuộc, có nghĩa là Mẹ kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu con Mẹ để trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá. Cuộc tử đạo này của Đức Trinh Nữ Maria đã được báo trước nhờ lời tiên báo của ông già Simêôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giêsu, ông già nói rằng: "Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà - ông nói với Đức Maria - bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu" (Lc 2,34-35).
Vâng! Một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng như vậy, Chúa Giêsu, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nhưng nó đã mở sườn Người ra; và chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác.
Thánh Bênađô viện phụ nói: "Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Maria được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ đã quên lời thánh Phaolô nói rằng, một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Maria. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.
Biết đâu lại có kẻ chẳng nói: Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giêsu phải chết sao? – Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao? – Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không? – Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Maria cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giêsu, Con của Người chịu thương khó? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao? Chính tình thương đã khiến Chúa Kitô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Maria cùng chịu thương khó với Con của Người."
Nino Salvaneshi đã thật có lý khi viết “Sung sướng kéo tâm hồn xuống đất, khổ đau nâng tâm hồn lên trời”
Hãy tin tưởng nơi Mẹ. Mẹ đã cùng đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu thì hôm nay trên Thiên Đàng chắc chắn Mẹ cũng được chia sẻ vinh quang quyền uy với Chúa Giêsu con của Mẹ.
Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận lời con cùng. Amen.
Hồi ấy con số các dì chưa đông. Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?
Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi cùng hứa đọc.
Việc kính nhớ các sự đau khổ của Đức Bà hôm nay liên kết chặt chẽ với ngày lễ Suy tôn Thánh Giá ngày hôm qua, đây cũng là một điều dễ hiểu; y như thánh lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày xưa vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Thánh lễ “Bảy sự Thương Khó Đức Bà” được hình thành vào thời Trung Cổ. Ở nước Đức, người ta đã mừng thánh lễ này tuỳ từng nơi vào thế kỷ 15, như địa phận Cologne, địa phận Erfurt... Năm 1667 dòng Serviten bắt đầu phổ biến thánh lễ này. Mãi đến năm 1814 Đức Thánh Cha Piô VII mới cho phép toàn thế giới mừng kính.
Bảy sự thương khó Đức Bà được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,34-35); 2. Trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-15); 3. Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền Thờ (Lc 2,41-52) 4. Con đường lên Golgotha; 5. Cuộc đóng đinh; 6. Hạ xác Chúa xuống; 7. Chôn xác Chúa trong mồ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh Gioan mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá:
- Người không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn. Nhưng người “đứng”, một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
- Trong giờ phút đau khổ tột cùng này, không ai nâng đỡ an ủi Mẹ, trái lại Mẹ còn lãnh thêm nhiệm vụ “Thưa Bà, đây là con Bà”.
B.... nẩy mầm.
1. Đức Mẹ dưới chân Thập giá được gọi là Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc, vì những đau khổ của Mẹ do kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
2. Có thứ đau khổ khiến người ta nhìn mà sợ Có thứ đau khổ làm cho người ta tội nghiệp Có thứ đau khổ làm cho người ta ngưỡng mộ Có thứ đau khổ đang cho người ta kính trọng.
Hôm nay chúng ta nhìn những đau khổ của Đức Mẹ Maria, không phải để sợ, để tội nghiệp mà để ngưỡng mộ, hơn nữa để tôn kính, vì đó là những đau khổ sinh ơn cứu độ cho người khác trong đó có chính chúng ta nữa.
3. Vài ý tưởng về sự đau khổ:
- Sung sướng kéo tâm hồn xuống đất, khổ đau nâng tâm hồn lên trời (Nino Salvaneshi)
- Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài hô lớn trong những cơn đau của chúng ta (C.S. Lewis).
4. “Kể từ giờ ấy, người môn đệ rước Người về nhà mình”. Lạy Mẹ Maria, người môn đệ ấy là chính con. Kể từ hôm nay, con muốn rước Mẹ về ngôi nhà của lòng con và của cuộc đời con, để Mẹ cùng sống với con trong những lúc vui cũng như những lúc buồn, nhất là những lúc buồn; những khi sung sướng và nhất là những khi đau khổ, để Mẹ dạy con biết cách chịu đau khổ thế nào để những khổ đau ấy trở thành nguồn ơn cứu độ cho con và cho anh chị em con.
Hôm qua, Hội thánh suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, tưởng nhớ Chúa chịu chết đau thương trên Thập Giá để cứu chuộc loài người. Hôm nay Hội thánh mời gọi mọi người tưởng niệm sự thương khó của Đức Maria, Mẹ đã thông phần sự đau khổ với Con, Mẹ đã kết hiệp nỗi thống khổ của Mẹ vào sự thương khó của Con, để cộng tác với Người trong công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Mẹ đau khổ biết bao:
- Khi nghe ngôn sứ Simêông tiên báo: lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Mẹ. - Mẹ vất vả biết bao lúc đang đêm Mẹ Con phải chạy trốn sang Ai Cập - Mẹ đau đớn biết bao khi lạc mất Con, Mẹ phải tìm kiếm ba ngày mới gặp lại trong Đền Thờ.
- Mẹ đau xót nhường bao khi Mẹ đi theo Con trên đường lên Núi Sọ, vai vác Thánh Giá mình đầy vết tích máu me.
- Mẹ quạnh lòng đau khổ biết bao khi thấy Con bị quân lính đóng đinh tay chân vào Thập Giá đau đớn xót xa.
- Còn gì sầu não hơn khi thấy môn đệ hạ xác Con xuống khỏi thập giá, Mẹ thấy Con chết đau thương tất tưởi.
- Nói sao cho hết nỗi quặn đau của Mẹ khi đứng nhìn ông Giuse Arimatha và cụ Nicôđêmô chôn xác Con trong mồ, Con và Mẹ từ đây xa cách…
Thật đúng là một cuộc tử đạo trong tâm hồn, như lời Thánh Bênađô đã nói: “Cuộc tử đạo của Đức Trinh nữ được gợi lên trong lời tiên tri của Simêon cũng như trong bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa. Vị thánh tiên tri già đã nói về trẻ Giêsu rằng: “Nầy, Người có mệnh làm dấu gợi lên chống đối, và hướng về Đức Maria ông nói: và hồn Bà mũi gươm sẽ đâm thâu”. Quả thật, ôi Mẹ diễm phúc, lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Nó không đâm thâu lòng Mẹ sao được, khi nó đâm vào thân xác Con Mẹ ! Thật vậy, Đức Giêsu tuy là của mọi người, nhưng phải nói đặc biệt là của Mẹ, khi Người đã trút linh hồn thì lưỡi gươm tàn bạo không còn làm tổn thương gì cho linh hồn Người nữa, nó không tha cho kẻ đã chết mà nó không còn làm hại gì được, nó đâm thủng cạnh sườn Người, nhưng thực ra nó đâm thâu lòng Mẹ. Linh hồn Người không còn ở đó, nhưng tâm hồn Mẹ thì không sao tránh được. Sự đau đớn đã đâm thâu tâm hồn Mẹ, khiến chúng con có thể nói một cách thích đáng rằng: Mẹ còn hơn người tử đạo, vì nơi Mẹ niềm thông cảm đau khổ của Con khiến Mẹ đau đớn hơn cả sự đau đớn trên thân xác.
II. BÀI HỌC
Bài học Đức Mẹ để lại cho mọi người chúng ta nhất là trong hoàn cảnh của xã hội hôm nay, đó chính là bài học về lòng can đảm trước mọi biến cố đau thương của cuộc đời mình.
Đọc Tin mừng của ngày lễ hôm nay. điều làm tôi hết sức cảm mến và thán phục là thái độ của Đức Mẹ trước hoàn cảnh đau khổ tột cùng khi đứng bên cạnh con đang bị treo trên cây Thánh Giá vào giờ phút cuối cùng của con..
Tin Mừng ghi lại làm sao? Tin Mừng ghi: “Lúc ấy, đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người.... Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh”
Chữ ĐỨNG ở đây thật quan trọng
Đức Cha Tihamer Toth có thuật lại một câu chuyện hết sức cảm động về một em bé tên là Barlaam như thế này. Thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
- Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho thần linh chúng ta!
Người ta giục anh như thế.
- KHÔNG! anh trả lời...
Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ hương rơi xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do.
- KHÔNG. Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy... Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa. Một quả tim biết chịu đựng!
Đó là thái độ của những người theo Chúa. Phải sống thật anh hùng. “Đứng thẳng!”
Chúa không muốn chúng ta sống bạc nhược, run sợ trước mọi thử thách ở trên trần gian này. Chúa muốn chúng ta phải biết đứng thẳng. Đứng thẳng là tư thế của những anh hùng.
Nhiều người khi đối diện với những thử thách trên đời đã không giữ được thái độ can đảm như thế. Có nhiều người đã ngã quỵ. Họ không đủ can đảm.
Trong kho tàng những câu chuyện dạy đời, tôi đọc được câu truyện này:
Một người hành hương đang định vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:
- Mi định làm gì ở đó?
- Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải 5000 nhưng là 50.000 người đã chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh dịch:
- Mi nói láo. Mi nói chỉ giết 5000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:
- Tôi chỉ giết có 5000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ” (Góp nhặt).
Trong một bài tường thuật của một thiện nguyện viên - An Bình, C.Ss.R.- đang phục vụ tại bệnh viện bệnh viện Ung Bướu cơ sở 2 ở quận 9,Thủ Đức tác giả đã ghi lại nhận xét của một số Bác sĩ đang tích cực căng mình phục vụ các bệnh nhân như sau: “Bệnh nhân, ai cũng bị cơn khó thở dày vò, lại thêm nỗi lo lắng hoảng loạn khi chứng kiến người cùng phòng trở nặng rồi không qua khỏi. Chính sự hoang mang đó làm người bệnh thở gấp, càng thiếu oxy hơn. Nhiều bệnh nhân biết nghe lời bác sĩ, nằm sấp tập thở đều, phần nhiều dần tốt lên. Còn những ai hay phàn nàn thì phần nhiều trở nặng. Nói nhiều ở đây là cấm kỵ, vì tăng nguy cơ bị lây bệnh. Chúng tôi phải tập nói và thở nhẹ nhàng, không hít sâu, không gắng sức đột ngột để tránh luồng không khí quá mạnh đi qua khẩu trang, dễ lây nhiễm.”
Vâng! Đó là một thực tế mà không phải ai cũng biết. Sự can đảm đối diện với những đau khổ và bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh nhiều khi lại là một liều thuốc rất hữu hiệu có thể đem đến những kết quả không ngờ.
Cách đây mấy năm, tại Hollywood, có một tài tử điện ảnh đột nhiên ngã bệnh. Sau khi khám cho anh, bác sĩ riêng đã thẳng thắn nói cho chàng tài tử đó biết:
- Tình trạng sức khoẻ của anh thật đát lắm! Chúng tôi cần phải thực hiện một cuộc giải phẫu kéo dài 36 tiếng đồng hồ mới may ra cứu sống anh được.
Về sau, chàng tài tử ấy đã thú nhận: “Trong 36 tiếng đồng hồ ấy, tôi đã học được nhiều điều hơn 36 năm trước đó của tôi, và tôi đã cảm nghiệm được niềm vui mà trước đó tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được. Tôi khám phá ra rằng, tôi chẳng hề sợ chết vì trước đó tôi có thói quen mỗi ngày cầu nguyện với Chúa Giêsu và bây giờ khi phút giây cam go xảy đến, tôi cảm nhận được kết quả của lời cầu nguyện ấy. Chính lúc đó tôi mới khám phá ra rằng, nhờ những lần tâm sự, nói chuyện hằng ngày với Chúa Giêsu trước đó, mà giữa Ngài và tôi chẳng xa lạ gì nhau, chúng tôi đã trở nên đôi bạn chí thân”. Amen.
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tooi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
Liền sau lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa được mừng hàng năm vào ngày (14/09) là lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi (15/09), chúng ta không thể nào tách rời Mẹ Maria ra khỏi thập giá Chúa. Danh gọi lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi có thể làm chúng ta dễ hiểu lầm chỉ nghĩ đến khía cạnh sầu bị, đau buồn mà quên đi khía cạnh tích cực được tham dự vào sự đau khổ có sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria âm thầm dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Con, được lãnh nhận đặc ân là tham dự vào cuộc cứu rỗi trở nên người Mẹ của toàn thể nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến khía cạnh Mẹ Maria đứng bên thập giá Chúa và lãnh nhận lời Chúa trăn trối làm Mẹ của Gioan, làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ðoạn Phúc Âm không nhắc tới nỗi sầu bi của Mẹ khi đứng dưới chân thập giá Chúa. Trong số các sách Phúc Âm thì chỉ có Phúc Âm theo thánh Luca có nhắc tới lời loan báo trước của cụ già Simêon, nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ (Lc 2,35). Chắc lúc đứng dưới chân thập giá Chúa hơn mọi lúc khác Mẹ Maria đã đau khổ, niềm đau của một người mẹ nhìn thấy con mình đang hấp hối sau khi đã phải chịu những tra tấn, khổ hình và sỉ nhục. Thái độ của Mẹ đáng chúng ta bắt chước. Mẹ đã không tự ý đi tìm vinh quang được ngồi bên hữu bên tả Chúa như một người nọ đã đón đường Chúa lên Giêrusalem để xin đặc ân này cho hai người con của mình. Mẹ Maria không tránh né đau khổ nhưng sẵn sàng đứng bên cạnh con cùng dâng hiến với con trong âm thầm và như vậy được thông phần vào ơn cứu rỗi. Mẹ đã âm thầm nhưng rất mực trung thành hành trình bên cạnh Con Mẹ luôn luôn trong mọi lúc, lúc Con Mẹ mới bắt đầu công việc rao giảng, trong khi rao giảng Tin Mừng và giờ đây kết thúc quan trọng trên thập giá, trên đồi Golgotha.
Lạy Mẹ Maria, Xin Mẹ hãy đồng hành bên cạnh con như Mẹ hiện diện bên cạnh Con Mẹ. Chúng con cần đến Mẹ nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Xin Mẹ giúp chúng con trung thành với ơn gọi và với Chúa Giêsu Con Mẹ.
Mẹ đứng kề Thánh Giá ! Mẹ đứng đó với Gioan và với cả hai tên trộm cướp ! Mẹ đứng đó, trên đồi Gôlgôtha, không xa mấy, dưới chân đồi, đám dân, những người tò mò, những người vô can, những người kêu khóc, những người sợ hãi đang đứng dưới bóng cây thánh giá, bóng Đức Mẹ và Con Ngài, họ cảm thấy mình hoàn toàn không chịu trách nhiệm về cái chết này. Còn những kẻ thi hành án và những kẻ có quyền thì sao ? Họ không cúi đầu, lại chê cười thất vọng và chua chát !
Đứng kề !
Đức Mẹ không lo nghĩ đến bị rơi vào bất tỉnh trước những sỉ nhục, những kết tội của kẻ thù, những la ó, Mẹ đứng đó, đứng thẳng ! Điều quan trọng hơn đối với Mẹ là Con Ngài là xương là thịt của xương thịt Ngài, Kìa đang bị treo trên thánh giá, Người là sự hy vọng cùng đích bảo đảm cho tất cả, nhờ sự hiện diện của Mẹ, nhờ bà Mẹ này, mọi sự ước muốn và yêu dấu được toại nguyện !
Mẹ đứng đó, đứng thẳng vững chắc, trong thái độ xin vâng ! Mẹ luôn luôn sẵn sàng tiếp tục ơn gọi suốt đường đời, ơn gọi tới tận chân thánh giá. Chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng trọn đời trên thập giá ! vượt trên mọi lượng định nhân loại của Đức Mẹ. Mẹ không được chọn vì cây thập giá, nhưng được chọn cùng với các con cháu loài người để đón nhận vào cuộc sống của Mẹ như bình thánh đựng máu tình yêu của con Ngài mới có sức tắm rửa, thanh tẩy và làm sống lại.
Chăm chú
Đức Mẹ dâng tiến lên Thiên Chúa và cho thế nhân con của Mẹ, đồng thời Mẹ chăm chú lắng nghe con Ngài, Mẹ chú ý lắng nghe tiếng con Mẹ và đã nghe thấy nguyện vọng sau cùng của Người thốt lên.
Ma-ri-a lúc truyền tin, đã chú ý lắng nghe Đấng Messia của Israel, và đã thành bà mẹ.
Bây giờ Mẹ đang chú ý ! Mẹ đoán mọi sự chưa hoàn tất đối với Mẹ ! Ước chi cuộc sống Mẹ còn tiếp tục ! Mẹ sẽ nhận được lời nguyện cuối cùng của Con Mẹ, Mẹ bắt đầu lắng nghe mọi người bởi vì Mẹ đang lắng nghe Thiên Chúa !
Là chứng nhân về tình yêu Con Mẹ, Mẹ được chia sẻ với Người sống đến tột đỉnh của đức tin.
Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”.
Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8). Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15) Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52) Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40) Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ. Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.
Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”. Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ. Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn… , thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ. Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?
Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài. Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu. Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi”.
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ nhớ “Đức Mẹ Sầu Bi”. Như thế, trong đời sống của Đức Mẹ, cũng có những điều sầu bi, như trong đời sống của tất cả mọi người chúng ta. Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ tôn vinh Đức Maria, Mẹ của chúng ta, nhưng hầu như luôn luôn là vì những ân huệ lớn lao Thiên Chúa ban cho Mẹ (chẳng hạn ơn vô nhiễm, ơn lên trời, ơn làm Nữ Vương…), hay là vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ (chẳng hạn Sinh Nhật, Truyền Tin, Thăm Viếng…). Chính vì thế mà, lễ Đức Mẹ Sầu Bi là một ngày lễ rất đặc biệt, bởi vì lễ này mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Mẹ, với một khuôn mặt rất đời thường, và vì thế rất gần gũi với chúng ta: Đức Mẹ Sầu Bi, và chúng ta cũng sầu bi, không phải một lần, nhưng nhiều lần trong cuộc đời!
Vậy chúng ta đã có và đang có những sầu bi nào? Tuy nhiên, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi hướng về Đức Mẹ và “suy chiêm” những đau khổ của Mẹ. Bởi vì, những đau khổ của Mẹ sẽ làm cho chúng ta hiểu biết Mẹ hơn và như thế, yêu mến Mẹ nhiều hơn. Ngoài ra, những đau khổ của Mẹ còn soi sáng và dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống đầy khổ đau này.
2. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ
Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo Hội thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”. Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8). Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15) Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52) Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40) Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ. Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.
Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”. Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ. Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn… , thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ. Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?
Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài. Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu. Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi”.
3. Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà. (c. 19, 26)
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà.
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
* * *
Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.
Mấy năm gần đây, nhiều lúc cả thế giới nín lặng trong sự bàng hoàng trước những tàn ác của Phiến quân Hồi Giáo (IS). Gần đây nhất là tại Philippines. Những kẻ này đã chặt đầu và nã đạn hàng ngàn người vô tội chỉ vì họ trung thành với đức tin Công Giáo và không chịu cải đạo sang nhà nước Hồi Giáo tự xưng. Hàng triệu người phải bỏ quê hương, xứ sở để sơ tán, lánh nạn. Sự ngang tàng, ác độc của Phiến quân Hồi Giáo cực đoan đã làm cho cả thế giới phải ghê rợn! Vì thế, không thể ngồi yên, những nhà lãnh đạo từ mọi phía, đang tìm mọi cách để ngăn chặn sự độc ác này. Đồng thời, nhiều tổ chức, tùy hoàn cảnh, khả năng, đã ra tay giúp đỡ các nạn nhân.
Có lẽ qua sự kiện này, đã để lại trong đầu chúng ta những câu hỏi: tại sao nhân loại lại phải quan tâm đến chuyện của một đất nước khác? Những hình khổ, chết chóc của người dân phải chịu có ảnh hưởng gì với chúng ta?
Câu trả lời hết sức đơn giản, bởi lẽ chúng ta có một mối liên hệ trong tình yêu và đức tin. Vì thế, nỗi đau của người dân ở các nơi bị hại cũng là nỗi đau của chúng ta. Chúng ta không bị đổ máu, nhưng trong mầu nhiệm hiệp thông, chúng ta cũng có một phần trách nhiệm. Chúng ta không phải ly tán, nhưng trong sự liên đới, chúng ta phải cảm thương.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Đây là cơ hội để chúng ta có dịp cảm nghiệm được sự kết hiệp mật thiết giữa hai cuộc đời trong cùng một sứ vụ là cứu chuộc nhân loại.
Khi thiết lập lễ này, Giáo Hội muốn chúng ta cùng nhau chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria trên các chặng đường thương khó của Đức Giêsu. Bởi vì cả cuộc đời của Mẹ luôn theo sát Đức Giêsu, Con của Mẹ trên mọi nẻo đường.
Như vậy, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại của Con cũng là của Mẹ. Mọi đau thương của Con, Mẹ đều ôm trọn vào tim, để rồi suy đi nghĩ lại trong lòng!
Cuộc đời của Mẹ cũng có những lúc vinh quang chan hòa, nhưng cũng không thiếu cảnh đau thương, xót xa.
Vì thế, lần dở lại các chặng đường của Đức Giêsu từ thủa ấu thơ đến khi rao giảng, chịu chết, an táng và lên trời, chúng ta đều thấy dấu ấn của Mẹ Rất Thánh ẩn hiện trong đó.
Những đau khổ ấy được tô đậm qua những sự kiện quan trọng:
Khởi đi từ việc cùng thánh Giuse lên đường trở về Belem để đăng ký nhân khẩu, đêm về, không thể tìm được quán trọ chỉ vì nghèo và bụng mang dạ chửa; rồi sinh Đức Giêsu trong cảnh màn trời chiếu đất nơi máng cỏ bò lừa; chưa hết khó khăn thì lại gặp cảnh khốn đốn khi hay tin vị vua tàn ác là Hêrôđê tìm giết Hài Nhi, nên đã cùng với thánh Giuse chạy trốn sang Ai Cập; chẳng bao lâu, lại long đong đưa Hài Nhi trở về Nazareth, rồi bị lạc mất Đức Giêsu trong đền thờ lúc 12 tuổi; đỉnh cao của cảnh bi thương trần lụy khi chứng kiến người ta đả đảo con mình; thấy được kẻ ác đánh đập tàn bạo, dã man; đau điếng khi thấy con bị những lằn roi chí tử giáng xuống trên mình; chứng kiến cảnh quan tòa vì nhu nhược mà kết luận bản án bất công; chưa hết, buồn tê tái khi môn đệ thân tín bán đứng Con Chí Ái, Phêrô chối không nhận Thầy; xót xa khi thấy con vác thập giá và ngã gục trên đường; xé lòng khi nghe từng tiếng búa chát chúa kèm theo tiếng kêu của Con khi bị quân lính đóng đinh; nín thở nhìn con thoi thóp từng hơi trên thập giá; buốt nhói khi đứng dưới chân thập giá chứng kiến con chút hơi thở cuối cùng; ngất lịm khi nhìn quân lính đâm cạnh nương long và tang thương khi ôm xác con vào lòng; tủi phận khi phải an táng con trong ngôi mồ mượn....
Như vậy, cuộc đời của Mẹ luôn gắn liền với Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu được Mẹ ấp ủ trong lòng. Con đường thập giá mà Đức Giêsu mang trong sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha, cũng được Đức Mẹ “xin vâng” và lưu lại trong trái tim.
Điểm lại những đau thương mà Mẹ Maria phải chịu, chúng ta khám phá ra một người Mẹ can đảm, hiên ngang và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời của mình nơi các biến cố.
Thật vậy, cả cuộc đời của Mẹ, Mẹ đã sống trọn vẹn lời “xin vâng” với Thiên Chúa. Mẹ “xin vâng” cả lúc vui lẫn khi buồn. “Xin vâng” trong mọi hoàn cảnh. “Xin vâng” đến trọn cuộc đời.
Nói khác đi: cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc đời luôn vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, thì cuộc đời của Mẹ Maria là cuộc đời trọn tình vẹn nghĩa với lời “xin vâng”.
Bởi lẽ, nơi cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu cũng chính là cuộc sống của Mẹ, nên không lạ gì nỗi đau của Con cũng là của Mẹ. Chỉ khác một điều là Đức Giêsu thì mang trên thân xác, còn Mẹ thì mang trong tâm hồn.
Thật thế, lời của tiên tri Simêon đã được ứng nghiệm cách trọn vẹn: “... chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2, 35). Như vậy, cách nào đó, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Con Chí Ái.
Mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi hôm nay, chúng ta được an ủi rất nhiều, vì trong cuộc sống của chúng ta, mọi khía cạnh đều có Đức Giêsu đi qua và có Mẹ Maria cảm thông.
Mỗi khi gặp khó khăn, mây mù giăng lối, chúng ta hãy biết ngước nhìn lên Mẹ như Mẹ đã ngước nhìn lên Thánh Giá Chúa khi xưa và sẵn lòng đón nhận mọi nghịch cảnh xảy đến trong đời, ngõ hầu mọi sự đều sinh ích cho người có lòng yêu mến Chúa.
Lạy Mẹ Sầu Bi, xin Mẹ ban cho chúng con hiểu lòng Mẹ, an ủi Mẹ, và sẵn lòng chịu mọi sự khốn khó cho nên vì lòng yêu mến Chúa như Mẹ, để sau cuộc đời này, chúng con được bên Mẹ trong Nước của Con Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô muôn đời. Amen.
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ, hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngẫm nghĩ đến việc mừng lễ Đức Mẹ sầu bi, dường như ta cảm thấy có cái gì đó kỳ kỳ, không ổn thì phải! Đời thuở nhà ai lại đi ăn mừng lễ một người mẹ khi người mẹ đó gặp cảnh sâu thảm, bi thương vì phải chứng kiến cái chết của con mình bao giờ! Ở trong nỗi khổ đau, sầu bi thì làm sao có cái gì để mà ăn mừng?!
Thực ra, hôm nay mừng lễ Đức Mẹ Sâu Bi, Giáo hội nhắc nhớ cho chúng ta biết về giá trị của hạnh phúc, giá trị của niềm hy vọng trong chính nỗi khổ đau và chết chóc. Ngay ở bài đọc 1 trích trong thư gửi tín hữu Do thái hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về niềm hy vọng trong đau thương, hoạn nạn. Tác giả thư Do thái viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”. Suy gẫm đoạn lời Chúa này, bấy lâu nay ta không khỏi thắc mắc: Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà xin Cha Ngài khỏi phải chết và rõ ràng tác giả thư Do thái bảo rằng Ngài đã được nhậm lời! Nhưng thực tế, Đức Giêsu vẫn phải chết tức tưởi trên thập giá! Vậy nghĩa là sao?
Lời kêu xin của Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chấp nhận ở chỗ: Thiên Chúa Cha đã cho Ngài được bình an đón nhận cái chết, và đón nhận cái chết với một niềm tin tưởng, hy vọng, chứ không thất vọng ê chề. Trong đời sống thường ngày, chúng ta đã từng chứng kiến hoặc kinh nghiệm được rằng trước những tai ương, hoạn nạn, khổ đau, nhiều người chưa kịp chết về đàng thân xác, nhưng đã bị hoạn nạn, khổ đau giết chết về đàng tinh thần rồi! Đối với Đức Giêsu thì khác, hoạn nạn, khổ đau có thể giết chết Ngài về đàng thân xác, nhưng tinh thần của Ngài không bao giờ bị vùi dập, bị giết chết. Tâm hồn Ngài vẫn tràn trề niềm cậy trông và phó thác vào Cha Ngài.
Với Mẹ Maria cũng vậy, dù phải đứng dưới chân thập giá và phải chứng kiến cái chết thảm thương của con Mẹ là Đức Giêsu, nhưng lòng mẹ vẫn ngập tràn niềm tín thác vào quyền năng và tình thương của Đấng Tối Cao. Về mặt xác thịt con người, chắc chắn lòng mẹ không khỏi tan nát, buồn đau, nhưng trong lòng tin, Mẹ vẫn có được niềm hy vọng hướng về tương lai tươi sáng của sự phục sinh vinh hiển của con Mẹ. Vì lẽ đó, hôm nay chúng ta mừng lễ với Mẹ: Vui mừng với Mẹ, vì khi gặp nỗi khổ đau tột cùng là phải chứng kiến cái chết thê thảm của con Mẹ, Mẹ vẫn không để nỗi khổ đau ấy bóp chết con tim yêu mến và ngập tràn hy vọng của Mẹ.
Sống ở đời này, ai trong chúng ta cũng phải kinh qua đau khổ. Ta không đau khổ vì điều này thì sẽ đau khổ vì điều khác. Đau khổ vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì bất công, vì thiên tai, vì nhân tai. Đau khổ vì bị tù đầy, bị kỳ thị, bị khinh khi, miệt thị. Và đau khổ lớn nhất của thân phận nhân loại chúng ta đó là vì sự chết chóc đau thương. Nhưng đứng trước mọi nỗi đau khổ, Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hay đón Đức Mẹ về nhà mình, đón Mẹ về với tâm hồn mình để Mẹ dạy cho ta con đường tin yêu, hy vọng ngay trong nỗi đau khổ tột cùng.
“Này con, Đây là Mẹ con” – Lời của Chúa Giêsu đang ngỏ với bạn và tôi! Bạn và tôi hôm nay được mời gọi đón Mẹ Maria về nhà mình ngõ hầu nhờ lời Mẹ cầu thay nguyện giúp, dù đau khổ, nhưng ta không để đau khổ giết chết ta về đang tinh thần. Nói cách khác, hoạn nạn, khổ đau có thể giày vò, giết chết thân xác ta, nhưng tâm hồn ta không thể bị vùi dập trong nỗi cô đơn, thất vọng. Chính trong đau khổ và khi vượt qua được khổ đau với niềm tin yêu tín thác, ta sẽ cảm nếm được hết giá trị của hạnh phúc, của nụ cười sau cơn hoạn nạn, khổ đau.
Trong một thời kỳ có đến hai ngày lễ để tôn kính sự Sầu Bi của Ðức Mẹ: một ngày lễ xuất phát từ thế kỷ thứ 15, ngày lễ kia từ thế kỷ thứ 17. Trong một thời gian cả hai ngày lễ đều được Giáo Hội hoàn vũ cử hành: một lễ vào ngày thứ Sáu trước Chúa Nhật Lễ Lá, một lễ trong tháng Chín.
Những dữ kiện chính yếu trong phúc âm đề cập đến sự sầu muộn của Ðức Mẹ là trong các đoạn của Thánh Luca 2:35 và Gioan 19:26-27. Ðoạn phúc âm theo Thánh Luca, là lời tiên đoán của cụ Simeon về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Ðức Maria; đoạn của Thánh Gioan nói về lời trăn trối của Ðức Kitô với Ðức Maria và người môn đệ yêu dấu.
Nhiều học giả thời Giáo Hội tiên khởi giải thích lưỡi gươm như sự sầu muộn của Ðức Maria, nhất là khi nhìn Ðức Giêsu chết trên thập giá. Do đó, hai đoạn này có liên hệ với nhau, như điều tiên đoán đã được thể hiện.
Ðặc biệt Thánh Ambrôsiô coi Ðức Maria như một hình ảnh sầu muộn nhưng đầy uy quyền ở chân thánh giá. Ðức Maria đứng đó một cách không sợ hãi, trong khi những người khác lẩn trốn. Ðức Maria nhìn đến các thương tích của Con mình với lòng thương cảm, nhưng qua đó ngài nhìn thấy sự cứu chuộc nhân loại. Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập giá, Ðức Maria không sợ bị chung số phận nhưng sẵn sàng nộp mình cho kẻ bách hại.
Lời Bàn
Tường thuật của Thánh Gioan về cái chết của Ðức Giêsu có nhiều ý nghĩa biểu tượng. Khi Ðức Giêsu trao người môn đệ thân yêu cho Ðức Maria, chúng ta được mời gọi kính trọng vai trò Ðức Maria trong Giáo Hội: Ngài tượng trưng cho Giáo Hội; người môn đệ đại diện cho mọi tín hữu. Khi Ðức Maria làm mẹ Ðức Giêsu, ngài là mẹ của tất cả những ai theo Ðức Kitô. Hơn thế nữa, khi Ðức Giêsu chết, Thần Khí của Người thoát ra. Ðức Maria và Thần Khí ấy cộng tác với nhau để sinh ra con cái mới của Thiên Chúa - rất giống như sự tường thuật của Thánh Luca về việc thụ thai Ðức Giêsu. Kitô hữu có thể tin tưởng rằng họ sẽ tiếp tục cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Ðức Maria và Thần Khí Ðức Giêsu trong cuộc đời mình và qua lịch sử.
Lời Trích
"Dù dưới chân thập giá ngài vẫn giữ địa vị của mình, đứng ở đó như một người mẹ thê lương chan hòa nước mắt, để được gần Ðức Giêsu cho đến hơi thở cuối cùng. Qua tấm lòng của người mẹ, sự đau buồn của Ðức Giêsu như được chia sẻ, cũng như mọi thống khổ cay đắng Người phải gánh chịu. Giờ đây, lưỡi gươm đã thâu qua" (Stabat Mater).
Hôm qua Giáo hội đã tôn vinh Thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay Giáo hội lại tưởng nhớ Đức Mẹ với tước hiệu Mẹ Sầu Bi. Đặt hai ngày lễ lại gần nhau bởi vì Giáo hội đã nhận ra rằng thập giá của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ của Mẹ. Con đường thập giá Chúa Giêsu cũng chính là con đường thập giá của Mẹ Maria. Đức Maria là người đầu tiên được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để Người thi thố lòng thương xót trong công cuộc cứu chuộc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã tóm tắt tất cả tâm tình của Đức Mẹ bằng một câu: “Đứng bên thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người” (Ga 19,25). Đức Mẹ đứng bên cạnh con mình, âm thầm, không một lời nói, không một hành động. Nếu thánh giá là biểu hiện tột cùng của lòng Chúa thương xót cho nhân loại tội lỗi, thì việc Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá là để hiệp thông với Con mình trong tình yêu tha thứ và thể hiện lòng tha thứ của Mẹ.
Quả thật, Mẹ đứng dưới chân thập giá trong thinh lặng, không một lời than van, diễn tả thái độ quả cảm phi thường của tình yêu hiệp thông với Chúa Giêsu trong tâm tình tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,24); tâm tình dâng hiến, tin tưởng và phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha.” (Lc 23,46); tâm tình yêu thương đối với môn đệ Gioan là hình ảnh của Giáo Hội, ngay cả trong giây phút đau đớn cùng cực: “Thưa Bà, đây là con của Bà … Đây là mẹ của anh.” (Ga 19,26). Đây còn là sự quảng đại đón nhận đau khổ bất công, mang vào mình sự đau đớn của Chúa Giêsu và của chính mình với tất cả sức mạnh của tình yêu dâng hiến để thông hiệp vào hy lễ của Con Mẹ đền tội cho nhân loại.
Hình ảnh Mẹ “đứng bên Thập giá” còn thể hiện tình yêu tha thứ. Khi nghe Chúa thốt lên lời: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,24), Mẹ đã chứng kiến sức mạnh của tình yêu tha thứ của Chúa, tha thứ cho chính những người đã gây nên đau đớn hãi hùng cho mình. Đức Mẹ đã tham dự vào lòng thương xót đó vì cơn đau đớn hãi hùng của Chúa Giêsu cũng là cơn đau đớn hãi hùng của Mẹ và chính trong sự hiệp thông mật thiết này, Đức Mẹ đã học cách tha thứ cùng với Chúa Giêsu. Nhờ việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong tình yêu dâng hiến và tha thứ, Mẹ đã góp phần vào việc mạc khải lòng Chúa thương xót cho nhân loại tội lỗi.
Mừng lễ Mẹ Sầu Bi hôm nay, mỗi chúng ta được mời noi gương Mẹ cộng tác vào sứ mạng trao ban lòng thương xót của Chúa. Thương yêu, giúp đỡ những người đau yếu bệnh tật và gặp hoàn cảnh khó khăn xung quanh chúng ta là cách diễn tả tòng thương xót của Chúa cho nhân loại đau khổ lầm than. Sứ mệnh truyền thông lòng thương xót của Thiên Chúa đòi hỏi chúng ra phải yêu thương tha thứ ngay cả trong những đau khổ bất công, yêu thương tha thứ cả những người gây đau khổ cho mình, cả khi không thấy dấu hiệu của sự ăn năn hối cải.
Nhờ lời bầu cử và dắt dìu của Mẹ, chúng ta dám can đảm sống tình yêu thập giá của Chúa Giêsu như Mẹ bởi chỉ có tình yêu thập giá mới có khả năng chiến thắng sự dữ và hoán cải lòng người. Xin Mẹ hướng dẫn chúng con trong sứ mạng trao ban lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Amen.
Ngày Chúa giáng sinh, muôn loài trên trời dưới đất vui mừng, các thiên thần ca hát, các mục đồng thờ lạy Chúa. Mẹ vui mừng khôn xiết. Nhưng Mẹ vẫn đau vì sao Con Thiên Chúa sinh ra làm người mà không tấm áo che thân, nằm trong máng cỏ, ở nơi hang bò lừa, giữa đồng không mông quạnh đêm đông giá rét, nhưng dù sao con của Mẹ vẫn nguyên vẹn trong hình hài không có khuyết điểm hay thương tích.
Hôm nay, hình ảnh ấy lại được lập lại trên thập giá ở nơi đồi Calvê. Con của Mẹ chết không mảnh vải che thân, thương tích máu me đầy mình, hình hài con của Mẹ không còn nguyên vẹn, một vị Thiên Chúa lại trở thành tội phạm. Tiếng thiên thần ca hát đâu rồi mà thay vào đó là tiếng chửi bới, lăng mạ xúc phạm Chúa của những người Do Thái là dân tộc của Chúa. Các mục đồng đến thờ lạy Chúa đâu rồi mà thay vào đó là những gương mặt sát khí hằm hằm giận dữ nhạo cười Chúa, thách thức Chúa: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy bước xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40b).
Lúc này đứng dưới chân thập giá, có Mẹ, thánh Gioan, thánh nữ Maria Madalenna... Mẹ chứng kiến tất cả, Mẹ đau với một nỗi đau tột cùng, vô tận không gì có thể diễn tả được nỗi đau này giữa một vũ trụ bao la giăng đầy màu tím buồn héo hắt, trong tiếng gió lay động ngàn mây, cỏ cây, lòng người như bật lên tiếng khóc thương Chúa chịu nạn cho nhân loại. Mẹ vẫn đứng đó. Mẹ hiệp thông với Chúa. Mẹ nghe lời trăn trối của Chúa để nhận thánh Gioan đại diện cho chúng con làm con của Mẹ. Ôi giờ phút lịch sử chúng con không bao giờ quên được. Chúa chết để cứu chúng con và chúng con sung sướng hạnh phúc vì được Chúa cho làm con của Mẹ.
Lạy Chúa, Chúa mang thương tích trên thân thể của Chúa và Chúa chịu chết vì tội lỗi chúng con, Mẹ bị lưỡi đòng đâm thâu tan nát cõi lòng vì tội lỗi chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con biết chấp nhận những thương tích do những thử thách trong cuộc sống của chúng con và vui vẻ vác thập giá cuộc đời theo Chúa mỗi ngày, đó là cách chúng con làm đẹp lòng Chúa, lòng Đức Mẹ nhất. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Mẹ Sầu Bi hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Khi Đức Kitô chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Người đứng kề bên mà thông phần đau khổ. Xin cho Hội Thánh Chúa biết noi gương Thánh Mẫu mà kết hợp với Đức Kitô chịu khổ hình, để mai ngày được phục sinh vinh hiển cùng với Đức Kitô. Đức Maria đã hiệp thông sâu xa với Cuộc Thương Khó của Chúa Con. Vì thế, Mẹ cũng được liên kết một cách độc nhất vô nhị với cuộc Phục Sinh của Người. Chính vì thế, sau ngày Lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta mừng Lễ Đức Maria cùng chia sẻ Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ rằng: dưới chân thánh giá, tình mẫu tử của Đức Maria đã trải rộng ra khắp Thân Thể nhiệm mầu của Chúa Kitô, tức là Hội Thánh.
Kết hợp với Đức Kitô chịu khổ hình, chu toàn sứ mạng được giáo phó, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Ơn gọi của ngôn sứ Êdêkien. Sứ mạng người của Thiên Chúa phải chu toàn chẳng có gì là vui: gặp lúc thuận lợi hay không thì vẫn cứ phải tìm đến với một dân mình biết trước là bất tín bất trung, để loan báo cho họ biết kế hoạch phá hủy và đổi mới của Thiên Chúa tình yêu. Muốn chu toàn sứ mạng này mà không nao núng, thì chỉ có một cách thôi là phải tự nuôi mình bằng chính Lời Chúa, đến nỗi chỉ làm một với Lời Chúa… Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ítraen, ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo lại cho chúng biết. Phần ngươi, đừng sợ chúng, cũng đừng phản loạn. Ta sẽ làm cho mặt ngươi ra chai cứng giống như mặt chúng, làm cho trán ngươi ra chai cứng như trán chúng.
Kết hợp với Đức Kitô chịu khổ hình, cùng Mẹ đứng dưới chân thập giá, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Bênađô: Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá… Khi đến nơi gọi là Cái Sọ, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Đứng gần thập giá, có Thân Mẫu Người. Bà đã bị nát ruột nát gan, như bị một lưỡi gươm đâm thấu.
Kết hợp với Đức Kitô chịu khổ hình, vâng theo thánh ý Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư gửi tín hữu Hípri: Đức Giêsu đã phải học biết vâng phục, và Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 30 cho thấy: Lạy Chúa, xin lấy tình thương mà cứu độ con. Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con, ghé tai nghe và mau mau cứu chữa.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Vinh phúc thay Đức Trinh Nữ Maria, Đấng không phải chết mà được lãnh cành thiên tuế tử đạo gần bên thập giá Chúa. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật: Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người. Cành thiên tuế tử đạo được dành cho những ai đứng gần bên Đức Kitô và thập giá của Người, bởi vì, dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. Chính tình thương đã khiến Đức Kitô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người, và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Maria cùng chịu thương khó với Con của Người. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng: Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì, nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ, chắc chắn, đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác. Khi Đức Kitô chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Người đứng kề bên mà thông phần đau khổ. Ước gì chúng ta biết noi gương Thánh Mẫu mà kết hợp với Đức Kitô chịu khổ hình, để mai ngày được phục sinh vinh hiển cùng với Đức Kitô. Ước gì được như thế!
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ.
Vì là Mẹ của Đức Chúa Giêsu, Mẹ Maria có rất nhiều niềm vui nhưng Mẹ cũng phải chịu nhiều đau khổ. Tình yêu quảng đại đối với Con chí thánh đã khiến Mẹ Maria phải đau khổ khi nhìn thấy Đức Chúa Giêsu bị các kẻ thù đối xử tàn bạo. Mẹ là Nữ Vương các thánh tử đạo vì Mẹ đã trải qua những đau khổ tinh thần mà những đau khổ này khủng khiếp hơn rất nhiều so với những khổ hình thể xác của các thánh tử đạo. Trái tim Mẹ ví tựa bàn thờ khi Mẹ dâng Con yêu quý của Mẹ là Đức Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta trên ngọn đồi Canvê. Thật là đau khổ biết bao khi một người mẹ rất mực đáng yêu phải chứng kiến cảnh tượng con mình chịu chết trên thập giá.
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ. Việc đó sẽ xảy ra khi Đức Chúa Giêsu bị lên án tử. Niềm đau thứ hai là Đức Mẹ và thánh Giuse phải chạy trốn sang Ai Cập với Đức Chúa Giêsu vì quân lính của vua Hêrôđê đang tìm giết Người. Niềm đau thứ ba xảy ra lúc Đức Mẹ tìm kiếm Đức Chúa Giêsu suốt ba ngày tại đền thánh Giêrusalem. Sau cùng, Mẹ đã tìm thấy Chúa trong đền thờ. Niềm đau thứ tư của Mẹ là khi Đức Chúa Giêsu bị quân dữ đánh đòn và đội mão gai. Niềm đau thứ năm là khi Mẹ xem thấy Đức Chúa Giêsu bị treo trên cây thập giá, nơi Chúa tắt thở sau ba giờ hấp hối. Niềm đau thứ sáu của Mẹ là lúc thân xác bất động của Đức Chúa Giêsu được trao phó trong vòng tay Mẹ. Và niềm đau thứ bảy mà Mẹ phải chịu là lúc Đức Chúa Giêsu chịu mai táng trong mồ.
Mẹ Maria đã chẳng hối tiếc hay phàn nàn gì khi phải chịu đau khổ quá nhiều trong suốt cuộc đời Mẹ. Thay vào đó, Mẹ dâng lên Thiên Chúa những thống khổ của Mẹ vì chúng ta. Mẹ chính là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Bởi quá yêu thương chúng ta, Mẹ đã vui sướng cùng chịu đau khổ với Đức Chúa Giêsu Con Mẹ để một ngày kia chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ cùng với Đức Chúa Giêsu trên thiên đàng.
Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ sầu bi, hôm nay chúng ta hãy dâng lên Mẹ vài hy sinh nhỏ mà không phàn nàn chi. Chúng ta cũng hãy suy ngắm từng niềm đau của Mẹ và cảm ơn Mẹ về tình yêu cao cả mà Mẹ đã dành cho mỗi người chúng ta.
Đứng trước vành móng ngựa, người con bị tuyên án tử hình vì những tội tày trời: cướp của giết người, buôn bán ma tuý.
Toà hỏi người mẹ đứng phía dưới: Bà có muốn nói gì với người con không.
Bà thưa: Xin quý toà hãy cho con tôi một cơ hội sống để làm lại con người. Xin cho tôi được chết thay nó.
Suy niệm:
Người mẹ nào mà không thương con. Không ai thương con bằng tình mẫu tử.
Đức Mẹ là người được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước khi trong lòng bà Thánh Anna. Để cùng chịu những đau khổ với Chúa Giêsu trong công cuộc chuộc loài người.
Hôm nay kính nhớ lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Đức Mẹ Sầu Bi có nghĩa là Đức Mẹ đau khổ, thương khó, thống khổ… Đức Mẹ là mẹ Chúa Giêsu, trong cuộc đời 33 năm của Chúa Giêsu, Mẹ đã cảm nhận nhiều nỗi đau thương:
Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2, 34-35); Cuộc chạy trốn sang Ai-cập (Mt 2, 13-21); Lạc mất Chúa ba ngày (Lc 41, 50); Vác thập giá lên đỉnh Calvê (Ga 19, 17); Chúa bị đóng đinh và tử nạn trên thập giá (Ga 19, 18-30); Tháo xác Chúa (Ga 19, 39-40); Táng xác Chúa (Ga 19,40-42).
Và cho đến ngày hôm nay, tuy đã về trời, Mẹ Maria vẫn còn tiếp tục phải chịu bao đau khổ khi chứng kiến biết bao ích kỷ, hận thù, chia rẽ, chiến tranh… giữa đoàn con cái của mình. Nhưng nỗi thống khổ lớn nhất của Mẹ chính là việc trầm luân của biết bao linh hồn đang sống trong tội lỗi và sẽ sa xuống hỏa ngục.
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2, 34-35).
“Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” Lưỡi gươm ấy chính là những lăng mạ, sỉ nhục, lên án và giết Chúa Giêsu trên thập giá. Lưỡi gươm ấy cho đến ngày nay và còn mãi mãi, con người vẫn đang đâm thấu tâm hồn Mẹ, bằng chính đời sống của con người đã loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời sống của họ, bằng muôn ngàn gian dối, tội lỗi, bằng đánh mất niềm tin vào Lòng Thương Xót, lòng nhân từ của Thiên Chúa.
2. Cuộc chạy trốn sang Ai-cập (Mt 2, 13-21)
Trong giấc mộng, Thánh Giuse đã đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Aicập. Trong thế giới hôm qua, hôm nay, có biết bao nhiêu cuộc chạy trốn khỏi tà thần, sự dữ của những cuộc bách hại đức tin Công Giáo. Có biết bao cuộc chạy trốn của sự truy lùng dối trá điêu ngoa vẫn diễn ra hằng ngày, mọi nơi trên toàn thế giới. Có biết bao cuộc chạy trốn khỏi những sự tàn bạo, vô nhân đạo của các chế độ độc tài, không nhận biết Thiên Chúa. Mẹ nhìn con Mẹ chạy trốn mà lòng đau như gươm đâm vậy.
3. Lạc mất Chúa ba ngày (Lc 41, 50)
Ngày nay, có biết bao nhiêu con người đã từng biết Chúa, biết Mẹ nhưng đã lạc đàng đạo đức, xa lìa Niềm Tin, chối bỏ hồng ân của Chúa, sống đam mê, truỵ lạc, hưởng thụ, chỉ biết cho riêng mình, mà quên Thiên Chúa, quen anh em. Còn biết bao người chưa nhận biết Thiên Chúa, họ đang sống bơ vơ lạc lõng nơi trần gian. Không ai đưa dẫn họ về bên Chúa. Mẹ đau đớn vì các con của Mẹ vẫm còn đang lầm lạc.
4. Vác thập giá lên đỉnh Calvê (Ga 19, 17)
Từng ngày từng giờ, những mũi gai nhọn tội lỗi vẫn đâm lên đầu Chúa Giêsu đến rỉ máu; từng ngày từng giờ những xúc phạm xác thịt, những thói hư tật xấu của con người là những roi đòn đánh nát thịt chỉ còn những xương giơ ra. Mẹ vẫn nhìn thấy Chúa từng ngày phải vác thập vì nhân loại.
5. Chúa bị đóng đinh và tử nạn trên thập giá (Ga 19, 18-30)
Chúa Giêsu vẫn chết cho tội lỗi của chúng ta, để chúng ta được cứu rỗi. Nhưng thế gian đâu có từ bỏ tôi lỗi, đóng đinh xác thịt mình để được ơn cứu rỗi. Mẹ vẫn nhìn thấy đoàn con cái của Mẹ chưa từ bỏ xác thịt.
6. Tháo xác Chúa (Ga 19, 39-40)
Con người chưa tháo khỏi khỏi những gông xiềng tội lỗi, mà mỗi ngày mỗi trói buộc mình chính đời sống kiêu căng, tự phụ, ngông cuồng. tự coi như thần thánh. Bao lâu con người chưa nhận biết thân phận mình để tháo bỏ cái xác thịt hư hèn của mình mà về bên Chúa, thì Đức Mẹ còn đau đớn.
7. Táng xác Chúa (Ga 19,40-42)
Mẹ nhìn thấy nhân loại táng xác mình để theo Chúa Giêsu Phục Sinh. Rất nhiều người không tin có đời sau, không tin có sự sống đời đời, họ chỉ coi thế gian này là tất cả. Họ sống cho ngày nay, họ không muốn sự Phục Sinh. Mẹ nhìn thấy họ đang phải lãnh án chết đời đời. Mẹ đau xót vô cùng.
Đức Mẹ dưới chân Thập giá để được đồng công cứu chuộc, có nghĩa là Mẹ kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu con Mẹ để trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Vâng! Một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà không đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm đó không tha cho bất cứ ai khi đã nhận biết Chúa là Thiên Chúa mà vẫn còn vong ơn bội nghĩa. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác.
Cầu nguyện:
Lay Mẹ Sầu Bi, Xin cho con biết nhận ra những lưỡi gươm đời con luôn đâm thâu lòng Mẹ, làm cho Mẹ từng ngày đau đớn, để con nhận ra ơn Cứu Độ và luôn sống xứng đáng là con của Mẹ. Amen.
1. Ghi nhớ: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu…”. (Ga 19, 25)
2. Suy niệm: Theo cách nghĩ thông thường, được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế quả thật là một diễm phúc. Diễm phúc theo nghĩa là người được vinh phúc hơn mọi người theo nghĩa xã hội, được vinh dự, được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, …
Hôm nay ngày 15.09, chúng ta kính nhớ Đức Mẹ Sầu Bi. Đoạn Tin Mừng được Giáo hội chọn cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay ta thấy được rằng: làm Mẹ Đấng Cứu Thế là phải liên kết với con mình cứu độ nhân loại. Và thực tế Mẹ Maria đã hoàn thành việc cộng tác với Con Mẹ cách tuyệt vời. Trong mọi giai đoạn của đời sống Chúa Giêsu chúng ta luôn nhận thấy thấp thoáng bóng hình của Mẹ, đặc biệt trong cuộc thương khó.
Chúng ta suy tôn Đức Mẹ Sầu Bi không phải chúng ta tuyên dương sự đau khổ mà là tuyên dương sự cộng tác tuyệt vời của Mẹ với Đức Giêsu. Học nơi Mẹ chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa làm cho thế giới này ngày một tốt hơn.
3. Sống Lời Chúa: Theo gương Mẹ sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
4. Cầu nguyện:Lạy Chúa, Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Mẹ Chúa. Xin cho chúng con biết nghe lời Mẹ mà cộng tác trong công trình của Chúa để ngày sau chúng con cùng Mẹ ca tụng Chúa trên thiên đàng.
Người chết thành Naim. 16/09 – Thứ Ba tuần 24 thường niên. – Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người.
Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa”. Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim. Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông. Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain. Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra. Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ. Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết. Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng, và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận. Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường. Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết, dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai. Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ. Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa. Bà đã dự đám tang của người chồng. Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất. Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi. Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ. Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất. Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt. Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13). Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác. Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33), Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34). Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15). Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì. Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại. Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn, chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái. Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14). Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh. Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23). Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu? Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ, khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui. Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16). Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44), Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới. Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương. Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim. thì đó là lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi. Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người. ---------------------------------
“Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Quyền năng Chúa biểu lộ rõ ràng qua việc làm cho anh thanh niên người Na-in đã chết được sống lại. Thiên Chúa là sự sống. Chẳng ai có thể ban sự sống. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa. Thiên Chúa là sự sống lại. Ban sự sống đã khó. Ban sự sống lại còn khó hơn. Để ban sự sống, Thiên Chúa chỉ cần ngự trên chín tầng trời phán một lời. Liền có sự sống. Nhưng để chuộc lại sự sống đã mất, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống trần gian. Đây lại biểu lộ quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Để phục hồi sự sống, Thiên Chúa phải xuống thế làm người. Chúa Giê-su mặc lấy thân xác loài người. Trở nên một với loài người. Tình yêu khiến Chúa kết hợp với loài người. Nên một thân thể. Vì thế Chúa vui với người vui. Chúa khóc với người khóc. Chúa chạnh lòng thương người thanh niên vắn số. Chúa chạnh lòng thương người phụ nữ goá bụa. Nay lại mất đứa con là điểm tựa duy nhất.
Đây chính là nguyên lý xây dựng thế giới. Con người cùng với tha nhân và thiên nhiên làm thành một thân thể. Giết người là giết mình. Huỷ hoại thiên nhiên là huỷ hoại chính mình. Thương người là thương mình. Vun trồng thiên nhiên là vun trồng sự sống của chính mình. Ta là một trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Thiên Chúa hợp nhất chúng ta. Thiên Chúa điều khiển chúng ta.
Thư Cô-rin-tô dạy: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy…Tất cả chúng ta… đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể”. Vì thế mỗi người phải cố gắng tối đa. Đạt đến tầm vóc hoàn hảo. Để phục vụ thân thể. Đó là “trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (năm chẵn).
Vì thế, thánh Phao-lô cho biết “ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp”. Vì trong một tổ chức, cần có người lo toan việc chung. Nhưng để lo toan việc chung, người ấy phải lo việc riêng hoàn hảo. Có tu thân được mới có thể tề gia. Có tề gia mới có thể trị quốc. Vậy “giám quản phải là người không ai chê trách được” và “phải được người ngoài chứng nhận là tốt”. Có như thế các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô mới hài hoà với nhau. Và mới phát triển lớn mạnh được (năm lẻ).
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người. Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn": "Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn, Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”Rồi Người lại gần sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!” (Lc. 7, 12-14)
Trong bốn Tin Mừng, chỉ một mình Thánh Lu-ca kể lại câu chuyện cho thanh niên con bà góa thành Naim sống lại.
Hôm đó, hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng Naim: một đoàn có vị dẫn đầu là Đấng ban sự sống và một đoàn tiễn đưa người chết. Người chết là một con trai duy nhất của một bà góa. Tình trạng càng đau khổ hơn nữa cho bà mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự mình trong xã hội trọng nam khinh nữ đó. Đó là lý do đau khổ cùng cực của bà khiến cho đoàn người đông đảo đã cảm thương đến tiễn đưa con bà, như bản văn lưu ý tới.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thương nỗi đau buồn lớn lao này. Người là con Thiên Chúa thấy rõ những khốn cực của loài người, người là con người nên càng vô cùng nhạy bén trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của loài người. Nhiều trang Tin Mừng đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người dừng lại trước bà mẹ tuyệt vọng và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thương nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Bà đừng khóc nữa!”.
Rồi Người tiến về phía quan tài, sờ vào nó, Người kêu gọi với giọng nói lạ lùng: Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy! Người chết liền chỗi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ! một sự thật vô cùng kinh ngạc! không phải chỉ xảy ra lúc này mà còn cho đến tận cùng lịch sử loài người, mãi mãi Đức Kitô còn cho người ta sống lại, mãi mãi sứ điệp sự thật về phục sinh vẫn còn tiếp tục cho loài người. Đức Kitô, nhờ sự sống lại của Người đã mặc khải một sự sống phục sinh muôn đời: Một sự sống không bao giờ phải chết nữa, một sự sống hoàn toàn mới, vượt trên mọi xác phàm trần gian.
“Đức Giêsu đã trao anh ta cho bà mẹ”, Thánh Lu-ca đã đặc biệt chú thích thêm, để nhấn mạnh đến vai trò các phụ nữ trong thế giới đã liệng bỏ phụ nữ vào bóng tối không còn đếm xỉa gì đến công lao của họ. Người ta có thể đoán rằng chính lúc đó, Đức Giêsu đã tha thiết nghĩ đến Mẹ Người biết chừng nào! quyền năng và tâm tình tế nhị cảm thương đi đôi với nhau khi các Ngài bởi Thiên Chúa đến với nhân loại.
Đức Giêsu “chạnh lòng thương” và làm cho con trai bà góa thành Naim đã chết được sống lại. Qua phép lạ này, Đức Giêsu tiên báo về sự phục sinh mai ngày của chính Ngài, đồng thời, Ngài cũng nói lên quyền năng của mình trong vai trò là Con Thiên Chúa, và thể hiện bản chất của Thiên Chúa là Đấng hay thương xót.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Hãy vững tin vào Thiên Chúa, vì không có việc gì mà Chúa không làm được. Hãy học nơi Đức Giêsu bài học về lòng thương xót, để sẵn sàng ra tay cứu giúp người khác. Không bao giờ được phép vô cảm và vô tình trước nỗi khốn cùng của anh chị em.
Sự nhạy bén với nhu cầu của người khác phải là tinh thần sống động nơi tâm hồn chúng ta.
Bên cạnh đó, hình ảnh chỗi dạy của con trai bà góa cho chúng ta một bài học về sự sám hối là: trở về với Chúa thì được sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ. Một tấm lòng biết “chạnh lòng thương” như Chúa khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Trước cái chết của một thanh niên, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và làm cho anh sống lại. Những người trẻ chết trong tội lỗi cũng đang cần đến lòng thương xót của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa nhìn thấy những nỗi đau khổ của chúng con, và Chúa cứu giúp chúng con ngay cả khi chúng con chưa kịp cầu xin với Chúa. Chúa hiểu được nỗi lòng của bà mẹ goá mất người con trai duy nhất. Bà đặt tất cả niềm hy vọng của đời mình nơi người con ấy. Đó là tất cả tương lai của bà, là niềm an ủi và hạnh phúc duy nhất của bà. Người con chết đi là người mẹ cũng mất tất cả. Khi Chúa cho thân xác người con sống lại cũng là lúc Chúa cho tâm hồn người mẹ phục sinh.
Lạy Chúa, xin Chúa nhìn đến bao linh hồn người trẻ đang nằm trong bóng tối sự chết, chết trong tội lỗi. Xin nhìn đến biết bao người mẹ đang than khóc và cũng đang chết đi vì con cái đã chết. Có những người con dù thân xác còn sống đó, nhưng linh hồn đã chết vì xa Chúa. Có những người con chết trong linh hồn, và cả thân xác cũng đang đi dần tới cái chết vì nghiện ngập chơi bời phóng túng.
Xin Chúa tỏ lòng thương xót chúng con. Xin Chúa biểu lộ quyền năng và ban ơn để các thanh niên thiếu nữ được sống lại, được trỗi dậy sống cuộc đời mới. Giới trẻ chúng con sống lại chính là tương lai của cha mẹ, của Hội Thánh và của đất nước được tươi sáng. Xin Chúa thương nhận lời các bà mẹ chúng con đang cầu nguyện trong nước mắt. Có những lúc dường như hết hy vọng, nhưng chúng con tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa. Chúa không bao giờ để chúng con thất vọng bẽ bàng khi tin vào Chúa Phục Sinh. Amen.
Ghi nhớ: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin tha thiết với hoàng đế Napoléon cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.
Nhưng bà mẹ năn nỉ:
- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
- Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà mẹ nói:
- Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
- Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên đó ra (Theo Flor Mc Carthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr. 192).
Suy niệm
Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót người quả phụ có đứa con duy nhất qua đời… mọi người cảm thương và đưa ra nghĩa địa… Bà góa phụ cũng như đang chết. Như đang có hai con người rời bỏ cuộc sống: Người con trai chết được đem ra nghĩa địa chôn cất, người mẹ góa không nơi nương tựa và không người chăm sóc, bảo vệ mình trong đời sống, cho nên bà góa phụ cũng như đang đi vào cõi chết.
Chúa Giêsu nhìn rõ nỗi buồn của người mẹ mất con, Ngài hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa: bà cũng như đang chết, Ngài liền an ủi: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ, Ngài sờ vào quan tài và nói: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy” (Lc 7,14). Chúa Giêsu đã can thiệp mau lẹ: Ngài giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim. Chúa làm sống lại con trai bà góa, như thế Ngài cũng mang lại sự sống tinh thần, niềm hy vọng cho người mẹ.
Đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim được sống lại và chính bà cũng được sống lại. Đức Giêsu đã phục sinh cho cả hai mẹ con bà. Sự việc thật kỳ diệu làm cho mọi người tham dự đám tang đang sầu khổ thành niềm hân hoan, mừng vui cho hai mẹ con bà góa.
Sự kiện con trai bà goá thành Naim được Chúa Giêsu cho sống lại, cũng chính là hình ảnh loan báo trung tâm điểm của Kitô giáo: Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. Thật thế, sự chết và Phục sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta như Ngài quả quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25).
1. Vì tình yêu thương mà Đức Giêsu đem lại niềm an ủi cho bà góa thành Naim. Ngài không đành lòng nhìn bà đau khổ nên đã cho con trai bà sống lại. Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp, Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương. Ngài chạnh lòng thương trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non. Phép lạ cho thấy Đức Giêsu luôn quan tâm đến nỗi khổ của chúng ta. Ngài luôn hiện diện, nâng đỡ, ủi an và cứu giúp chúng ta.
2. Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đau khổ biết bao: một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như người bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy chỗi dậy”! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.
3. “Bà góa” là một trong những thành phần được Đức Giêsu ưu đãi và đặc biệt dành nhiều tình cảm nhất, vì họ thuộc nhóm những người nghèo hèn, cùng khốn của xã hội. Họ là đối tượng được Đức Giêsu quan tâm. Ở đây, trước nỗi đớn đau khốn cùng của bà góa thành Naim về cái chết của đứa con duy nhất. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương. Ngài không trì hoãn. Ngài đã đến an ủi bà và làm tan đi nỗi đau nơi bà bằng cách cho cậu con trai của bà sống lại. Không chỉ con của bà được sống lại, tâm hồn của bà và của mọi người chứng kiến sự sống lại này cũng được sống lại, niềm tin của họ vào Thiên Chúa được nảy sinh. “Bà đừng khóc nữa”. Phải, rất cần một thái độ cậy trông hơn là thái độ than vãn trong khi chờ lòng thương xót của Chúa (5 phút Lời Chúa).
4. Trong Tông thư gửi những người sống đời tận hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô mời họ ra khỏi chính mình và đi về những vùng biên của cuộc đời, về phía những người đang mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, các bạn trẻ đang gặp ngõ cụt trước tương lai và những người già bệnh tật đang bị loại trừ.
Đứng trước sự đau khổ của bà góa thành Naim, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và ra tay làm phép lạ cho anh con trai duy nhất của bà sống lại. Người đã đi bước trước để xoa dịu và cất đi sự đau khổ của bà.
Ngày hôm nay, xã hội tuy phát triển về kinh tế, thông tin... nhưng con người càng ngày càng dửng dưng, vô cảm với nhau. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống cảm thương trước nỗi đau của người khác. Khởi đi từ việc thương cảm, chúng ta thực thi những hành động bác ái cụ thể để nâng đỡ, ủi an những người đau khổ đang cần sự giúp đỡ (Học viện Đa Minh).
5. Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác. Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,15).
Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người. Người Việt nam chúng ta đã có kinh nghiệm về vấn đề này nên đã nói:
Một con ngựa đau cả tầu chê cỏ (Tục ngữ)
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại nơi mình. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác, nghĩa là hãy học biết thông cảm.
6. Truyện: Biết cảm thông và chia sẻ.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một việc kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giảng viên bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị phải luôn gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên chị tạp vụ trong trường: Chị tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
- Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
B.... nẩy mầm.
1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.
- Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.
- Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
- Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội…
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.
2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
3. “Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài”: việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để “tiến lại gần” (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngỏ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
5. “Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy’. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói” (Lc 7,14-15)
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna).
1. Khác hẳn với phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người đầy tớ viên bách quản trong bài Tin Mừng hôm qua, hôm nay chúng ta thấy Chúa làm phép lạ không phải do người ta xin và người được thụ hưởng phép lạ cũng chẳng hề biết gì về việc này vì anh đã chết.
Hoàn cảnh hôm đó rất đặc biệt. Có hai đoàn người gặp nhau ở gần cổng thành: một đoàn người có Đấng ban sự sống dẫn đầu và một đoàn người khác cùng với một người mẹ goá tiễn đưa đứa con trai duy nhất của bà tới nơi an nghỉ cuối cùng. Tình trạng còn đau khổ hơn nữa khi người mẹ góa này không còn người đàn ông nào đứng ra bảo lãnh tài sản mình trước pháp luật và bảo vệ danh dự cho mình trong một xã hội trọng nam khinh nữ nhiều bất công này.
Đức Giêsu đã xúc động và cảm thông với nỗi đau buồn lớn lao ấy. Người là Con Thiên Chúa cho nên Người thấy rõ những khốn cực của loài người và Người là con người nên lại càng nhạy bén hơn trước những nỗi bất hạnh và đau khổ của họ. Người dừng lại trước bà mẹ đang tuyệt vọng và an ủi bà. "Bà đừng khóc nữa!" (Lc 7,13). Việc đó nói lên sự quan tâm của Chúa.
Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì ?". Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự dửng dưng và vô cảm của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình trở thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.
Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui sẽ được nhân đôi và nỗi buổn được chia sẻ là nổi buồn sẽ vơi đi một nửa.
2. Tin Mừng còn ghi tiếp: "Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ" (Lc 7,15).
Rất tế nhị và cũng rất gần gũi. Chúa Giêsu trao...trao người đã chết được Ngài cho hồi sinh vào tận tay người mẹ, Bằng cử chỉ như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng, lúc nào Chúa cũng ở thật gần con người nhất là những ai cần đến Chúa.
Cảm nhận được sự gần gũi của Chúa trong cuộc đời là một cảm nhận rất cần thiết. Nó sẽ đem lại cho con người nhiều nghị lực và niềm vui.
Có một người đàn bà đạo đức nọ, trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống bà, đó là giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận giải phẫu vì hy vọng còn sống cho người con trai của bà. Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến giờ đau khổ của bà. Vào thời mà thuốc tê chưa có, bệnh nhân thường qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà vẫn can đảm chịu đựng. Thế nhưng, vào cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình và kêu: "Lạy Chúa".
Chứng kiến cảnh đau đớn của mẹ, đứa con trai không làm chủ được cảm xúc, đã thốt lên những lời xúc phạm đến Chúa. Lúc đó, người đàn bà nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, im đi, con đã làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ nhiều. Con đã làm sỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ". Nói xong, bà mở tay cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Sau mấy tháng quằn quại đau đớn, người đán bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà trao ảnh chuộc tội đó cho con trai và căn dặn: "Con hãy giữ lấy ảnh này, vì đó sẽ là niềm an ủi cho con".
Cái chết, đối với Chúa, nó chỉ là một giấc ngủ, vì thế mà Chúa mới nói với ông trưởng hội đường Giairô, khi người nhà của ông đến báo với ông là làm phiền Chúa chi nữa, con gái ông đã chết rồi.., và khi đến nhà ông, Chúa nói: “Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy” (Mc 5, 29).
Giấc ngủ ở đây là một giấc ngủ ngàn thu (Ngàn thu vĩnh biệt), nó bị tội lỗi vây bủa tư bề, đè bẹp con người chúng ta. Chúng ta không tự dậy được và cũng không ai có thể đánh thức con người chúng ta tỉnh dậy. Duy chỉ một mình Chúa, là Đấng đánh thức, kêu chúng ta chỗi dậy.
Chúa đánh thức chúng ta chỗi dậy trong ngày phán xét. Khi đó, thiên thần vâng lệnh Chúa, thổi loa, và khi chúng ta nghe hiệu lệnh từ tiếng loa của các thiên thần, chúng ta thức dậy để Chúa phán xét tất cả con người chúng ta từ tạo thiên lập địa cho đến lúc đó. Những người nào sạch tội nặng, tội nhẹ, Chúa cho lên thiêng đàng cả hồn lẫn xác. Những người nào mắc tội nặng, Chúa phạt xuống hỏa ngục cả hồn và xác. Khi ấy, chúng ta hạnh phúc là hạnh phúc đời đời, còn bị phạt là bị phạt đời đời, bị đau khổ là khổ đời đời, bị trầm luân là trầm luân đời đời: “Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người chết trong Chúa Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1Thes 4, 16 – 18).
Hôm nay, Chúa không để đến ngày tận thế, Chúa mới bảo anh thanh niên là người con duy nhất của bà góa thành Naim đã chết và đang được người ta khiêng đi chôn cùng với mẹ của anh đi theo được chỗi dậy, mà Chúa lại dành cho anh một ơn ban đặc biệt là kêu anh chỗi dậy luôn ngay bây giờ. Sở dĩ Chúa làm như vậy là vì Chúa thương anh, và mẹ của anh vì bà quá đau khổ, thất vọng không biết nương vào một ai lúc này cách riêng, và cách chung là Chúa thương tất cả mọi người chúng ta. Bởi vì chúng ta không hiểu về sự chết. Chúng ta tuyệt vọng, bế tắc, không lối thoát khi đứng trước cái chết. Chúng ta chỉ biết là khiêng người chết đi chôn mà thôi. Do đó, Chúa nói mẹ anh thôi đừng khóc nữa, Chúa bảo người khiêng anh dừng lại, Chúa chạm đến quan tài như là một dấu chỉ Chúa thương anh vô bờ bến và Chúa truyền lệnh kêu anh chỗi dạy: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chỗi dậy. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Chúa trao lại cho mẹ nó” (Lc 7, 14 – 15). Để rồi qua phép lạ này, dân Chúa mới hiểu phần nào về sự chết, và Chúa có quyền trên cả sự chết, dân chúng sẽ tin tưởng vào Chúa hơn. Một khi tin tưởng rồi, họ sẽ cao rao quyền năng Chúa khắp nơi: “Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa, và khắp vùng lân cận” (Lc 7, 16 – 17).
Lạy Chúa, tất cả mọi sự trên trần gian này thuộc quyền của Chúa, sự sống, sự chết thuộc quyền của Chúa. Chúng con là con cái của Chúa thuộc sở hữu của Chúa, xin Chúa thương xót chúng con và ban ơn cho chúng con khi chúng con kêu xin Chúa, tìm về Chúa để chúng con nương tựa trong cuộc sống tro bụi này: “Vì nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống, hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả” (Rm 14, 8). Amen.
Trên đường đi rao giảng Tin Mừng, Chúa gặp một đám tang. Chúa thấy và Chúa thương bà góa đang khóc thảm thiết đứa con trai duy nhất qua đời được người ta đang khiêng trên đường đi chôn. Chúa bảo bà: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7, 13). “ Bà đừng khóc nữa” có nghĩa là Chúa đang an ủi bà, Chúa đang cảm thông cho nỗi đau mất mát quá lớn đối với bà mà không có gì trên trần gian này có thể bù đắp lại được. Điều này minh chứng cho chúng ta thấy Chúa có một trái tim của con người. Một trái tim nhân hậu và thương xót vô cùng. Một trái tim mang bao nỗi đau của con người để rồi từ nỗi đau của tình yêu đã được Chúa biến thành hành động thể hiện qua đôi tay và lời nói của Chúa. Chúa tiến đến quan tài, Chúa chạm vào quan tài và những người khiêng dừng lại. Bây giờ Chúa phán: “Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy” (Lc 7, 14), tức khắc người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.
Anh đã trở về thực tại, trở về với cuộc sống bình thường của anh. Sau đó cũng đôi tay đầy yêu thương đó, Chúa trao con của bà lại cho bà. Chúa trao món quá quý giá nhất không gì sánh được của bà cho bà. Chúa trao ân ban sự sống của con bà cho bà. Những người đưa đám tang hôm đó nhận ra tình yêu của Chúa đối với bà và con của bà, họ đã ngợi khen và cao rao loan truyền danh Chúa khắp nơi: “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận” (Lc 7, 16 – 17).
Mặt khác, trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca nói rằng người ta đang khiêng người chết đem đi chôn trong lúc Chúa đi đến đó để rao giảng Lời Chúa. Điều đó có nghĩa là những hoạt động hàng ngày của con người chúng ta như cưới hỏi, ma chay, đám tiệc, nỗi buồn, niềm vui, thành công, thất bại, đau khổ, bệnh tật, chết chóc … vẫn có Chúa bên cạnh chúng ta, ở với chúng ta. Chúng ta kêu cầu Chúa, Chúa sẽ đáp lời và ban ơn. Chúng ta không thất vọng khi phải đối diện với những nghịch cảnh, với những bất trắc, éo le trong cuộc sống. Hãy tin tưởng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Chúa, cái chết của anh thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là cái chết của mỗi người chúng con. Khi chúng con phạm tội trọng là chúng con chết về phần linh hồn. Hội Thánh là mẹ của chúng con khóc thương chúng con, khẩn cầu Chúa cho chúng con, trong đó có cha mẹ và những người thân của chúng con, để xin Chúa cứu chữa chúng con nơi bí tích Giải tội và những bí tích khác. Khi lãnh nhận bí tích Giải tội, chúng con sẽ được Chúa cho sống lại trong ân nghĩa của Chúa. Xin cho chúng con nhận ra tình yêu của Chúa nơi các bí tích trong Hội Thánh, để chúng con thường xuyên lãnh nhận và Chúa sẽ gìn giữ chúng con khỏi chết muôn đời. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Conêliô và Síprianô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Conêliô và thánh Síprianô. Xin Chúa nhậm lời hai thánh chuyển cầu mà ban cho chúng ta can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất.
Can trường giữ vững đức tin, quyết không thờ ngẫu tượng, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Kết án Giêrusalem tội lỗi. Lòng tin tưởng người dân Giuđa đặt vào Đền Thờ là một thứ mê tín. Êdêkien khám phá ra rằng vào thời gian trước lưu đày, Đền Thờ chỉ còn là hang ổ thờ ngẫu tượng. Danh dự của Thiên Chúa không cho phép ông dửng dưng. Ông ghê tởm và giận dữ, nhưng khoan dung với các tín hữu… Khi anh em thấy Đồ Ghê Tởm Khốc Hại được đặt trong nơi thánh, khi ấy sẽ có cơn khốn khổ lớn lao. Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát, nhưng vì những kẻ đã được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn lại. Xin đừng phá hại đất liền và biển cả, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta.
Can trường giữ vững đức tin, chiến đấu bằng sức mạnh của Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích sử liệu về cuộc tử đạo của thánh Síprianô: Việc chính đáng như thế, khỏi cần phải suy nghĩ… Khi chúng ta lâm trận và chiến đấu cho đức tin, có Thiên Chúa chứng giám, có các thiên sứ của Người chứng giám, và cả Đức Kitô cũng chứng giám nữa. Ôi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Kitô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng. Ta hãy vũ trang cho đầy đủ, và sẵn sàng lâm chiến: tinh thần phải vững mạnh, đức tin phải nguyên tuyền, và đức ái nồng nàn mãnh liệt.
Can trường giữ vững đức tin, bảo toàn đức tin tinh tuyền, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Giám quản phải là người không ai chê trách được; các trợ tá cũng vậy, phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 100 cho thấy: Con sẽ sống theo lòng thuần khiết. Lạy Chúa, con xin ca ngợi tình thương và công lý: con đàn hát kính Ngài. Con nguyện chủ tâm theo đường hoàn hảo, bao giờ Ngài mới đến cùng con?
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, Người đã đi vào lãnh địa của kẻ chết, để hồi sinh kẻ chết. Vị Ngôn Sứ Vĩ Đại đã xuất hiện, ai tin vào Người, thì sẽ được sống. Như thánh Conêliô và thánh Síprianô, chúng ta hãy vũ trang cho đầy đủ, và sẵn sàng lâm chiến: tinh thần phải vững mạnh, đức tin phải nguyên tuyền, và đức ái nồng nàn mãnh liệt. Ôi vinh hiển dường bao, hạnh phúc biết chừng nào, khi xông vào cuộc chiến mà có Thiên Chúa hiện diện, có Đức Kitô làm trọng tài và đội triều thiên cho người chiến thắng. Chúng ta hãy ca ngợi tình thương và công lý của Thiên Chúa chúng ta, nguyện chủ tâm theo đường hoàn hảo, sống theo lòng thuần khiết, và việc xấu xa đê tiện, chẳng để mắt trông. Tình thương Chúa quý trọng biết bao, chúng ta hãy tìm bóng Người trú ẩn. Chúa đã ban cho dân Chúa hai vị mục tử nhiệt thành và cũng là chứng nhân bất khuất là thánh Conêliô và thánh Síprianô. Ước gì chúng ta biết can trường giữ vững đức tin, và không ngừng hoạt động cho Giáo Hội được hợp nhất. Ước gì được như thế
Thái độ thiếu nhất quán. 17/09 – Thứ Tư tuần 24 thường niên. "Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: "Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. "Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc". Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám". Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi". Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32). Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau. Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới, thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa. Nhưng nhóm kia đã không tham gia. Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột. Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc. Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy. Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh. Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi. Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài. Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ. Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn, đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30). Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải. Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33). Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến. Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần. Người ta đã coi ông là bị quỷ ám, nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế. Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này, Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa. Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường. Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng, một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng. Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng. Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế. Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa. Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan, bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34). Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này. Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ. Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh. Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý, con người chẳng được tự do. Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ. Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan, mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)? Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau? Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng vào thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen. ---------------------------------
Chúa Giê-su khen ngợi trẻ thơ. Mời gọi ta phải nên như trẻ thơ. Để được vào Nước Trời. Nhưng Chúa dạy ta đừng cư xử như trẻ con. Trẻ con tính khí thất thường. Đòi hỏi theo ý mình. Không vừa ý là phá bĩnh. Không đón nhận người khác. Không cần lý lẽ. Chỉ theo cảm tính. Không hoà hợp với mọi người. Không thích trò chơi đám cưới thì nhất định không nhảy múa, dù bạn bè đã trổi đàn cất hát. Không chịu chơi trò đám ma thì nhất định không than khóc, dù cuộc chơi đã khởi sự tấu bài chia ly buồn thảm.
Người lớn mà cư xử như trẻ con thường hỏng việc. Hỏng cả đời. Nhưng nguy hại nhất là hỏng đời đời. Người Do thái bao năm chờ đợi Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Chúa sai Gio-an đến dọn đường họ cũng không chấp nhận. Chính Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đến họ cũng chối từ. Vì họ không muốn theo ý Chúa. Vì họ theo ý riêng. Không có lý lẽ gì hết. “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.
Thư Cô-rin-tô mời gọi ta phải lớn lên. Đặc biệt trong đời sống thiêng liêng. Đừng mãi mãi là trẻ con: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”. Thành người lớn là biết phân định điều gì là quan trọng, cốt thiết trong đời sống. Như thánh Phao-lô dạy: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Đức mến sẽ giúp ta gặp được Chúa. Và sống hài hoà với anh em. Vì thế phải ưu tiên thực hành đức mến (năm chẵn).
Nhưng điều quan trọng nhất là nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô. Đây là “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”. Nhưng việc nhận biết Chúa Giê-su thật khó khăn.Vì “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm”. Sinh sống, ăn uống, giao tiếp với mọi người và như mọi người. Vì thế khó được chấp nhận như một Đấng Cứu Thế. “Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; được các thiên thần chiêm ngưỡng”. Vì thế để nhận ra Người cần có ơn Chúa Thánh Thần. Để có ơn Chúa Thánh Thần, cần có tâm hồn trẻ thơ. Tâm hồn trẻ thơ như thiên thần. Sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Sẽ nhận ra Đức Ki-tô (năm lẻ).
Cần phải lớn lên. Thoát khỏi thói trẻ con bướng bỉnh. Để có tâm hồn trẻ thơ ngoan ngoãn. Biết mở lòng ra với ơn thánh.
Ngày nay, nhân danh dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.
Mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh, nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta". Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo huấn của Ngài.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội.
“Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.” (Lc. 7, 31-32)
Dù là ai, dù làm thế nào cũng luôn luôn có những kẻ chối bỏ mọi thứ, chối bỏ tất cả. Đó là trường hợp một số những kẻ đồng hương của Đức Kitô, họ mang bệnh kinh niên không tin gì hết, chối bỏ mọi chứng cớ hiển nhiên tới cùng. Đức Kitô gọi họ là “Dòng giống này”, một từ ngữ mang tính chất phán xét. Họ vẫn có ảo tưởng về một dân tộc được tuyển chọn, nhưng trong bốn mươi năm vượt sa mạc dầu được hưởng bao nhiêu phép lạ họ chứng kiến rõ ràng, họ vẫn không muốn theo Chúa.
Đức Giêsu so sánh họ với lũ trẻ ranh con quậy phá cứng đầu ngoài chợ. Chúng chơi dỡn để làm cho nhiều người múa nhảy, mà không ai theo, chúng hát bài đưa ma để làm cho người ta khóc, mà không ai thèm khóc. Chắc hẳn Đức Kitô muốn nói quá về những quậy phá của hạng người tai to mặt lớn quá ngu muội trong dụ ngôn nực cười này.
Khi kém lòng tin, không gì có thể mở tai mở mắt cho họ được. Ngôn sứ Gio-an Tẩy Giả đến và sống khắc khổ đến nỗi không ăn bánh, không uống rượu, họ xử với ông như kẻ bị quỷ ám. Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đến ăn uống như mọi người, không phải để hùa theo kẻ mê ăn uống, nhưng họ coi Người là tay ăn nhậu và họ xỉ nhục tố cáo Người là bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. “Bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” đó là điều Đức Kitô muốn và đó là lý do Người đến trần gian: để cứu chữa những người tội lỗi và tật xấu. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại điều đó, nhất là bằng việc làm. Điều đó làm cho kẻ chống đối và bất tín kinh niên giận dữ cho đến tận thế, những ai muốn theo Đức Kitô trên con đường này, đều vấp phải tâm thức trẻ con cố chấp này. Họ không bao giờ có lòng thương xót tha thứ. Giáo Hội biết rõ thế và đã quyết chí trở về với con đường của Đức Giêsu.
Gioan Tiền Hô là một người cao trọng hơn hết mọi người nam. Đây chính là lời khen ngợi của Đức Giêsu dành cho ông. Tuy nhiên không phải ai cũng là người nghe ông, cụ thể là các người Pharisêu và Luật sĩ đã khước từ lời của Gioan.
Trước tình trạng đó, Đức Giêsu đã nhận định về lập trường và thái độ của các người Pharisêu và Luật Sĩ như sau: họ giống như lũ trẻ ngồi ở ngoài phố chợ, gọi nhau mà bảo:
"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.
"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc"!.
Hình ảnh của lũ trẻ và lời nói của Đức Giêsu, hẳn cho chúng ta thấy Ngài lên tiếng khiển trách nặng nề về sự mập mờ, gian dối và hay đổi trắng thay đen, nói một đàng làm một nẻo của các người Pharisêu và Luật Sĩ. Họ giống như lũ trẻ nơi phố chợ. Vì thế, những lời họ nói chẳng đáng tin tưởng vì không có giá trị.
Hình ảnh của các người Pharisêu và Luật Sĩ hẳn cũng còn đầy dẫy trong xã hội của chúng ta hiện nay. Khi thì chỗ này, lúc chỗ kia, vẫn còn đó những con người luôn tìm mọi cách bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để chụp mũ người lương thiện, công chính. Họ thuộc hạng nói dối chuyên nghề, nên đâu còn chỗ cho Lương Tâm lên tiếng!!! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn thấy xuất hiện những hạng người “nổ” rất lớn với những lời lẽ “đao to búa lớn”; “rất kêu”, nhưng thực ra những lời đó chẳng khác gì lời nói của con nít, không đáng để chúng ta tin tưởng, bởi lẽ họ “nói mà không làm”; hay “nói một đàng, làm một nẻo”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống và làm chứng trong sự thật, có thế, chúng ta mới được người khác tôn trọng, bằng không, chúng ta chỉ như bọn trẻ nơi phố chợ mà thôi!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đừng rơi vào tình trạng của các người Pharisêu và Luật Sĩ khi xưa là: cố chấp, bảo thủ, lập lờ và gian dối. Xin cho chúng con biết sử dụng trí tuệ Chúa ban để phục vụ cho công lý và sự thật. Amen.
Sứ điệp: Chỉ vì ngoan cố và vì thiếu thiện cảm mà người ta đã xuyên tạc cuộc sống và việc làm của Chúa Giêsu. Nhưng dù vậy, chân lý về Ngài vẫn rực sáng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay cho con thấy đã có lần những lời kêu mời của Chúa không được người đời đáp trả. Con người đã tỏ ra dửng dưng với Tin Mừng, không nhận ra Tin Mừng được loan báo cho họ. Người đời đã hiểu sai cách sống của Chúa và của Thánh Gioan Tẩy giả. Cuộc sống khắc khổ nhiệm nhặt bị coi là lập dị lạ đời. Nhưng tiếp xúc, gặp gỡ kẻ khác thì lại bị xem là xu thời nông nổi.
Lạy Chúa, con là người Kitô hữu, là người tin vào Chúa. Thế nhưng đôi khi cuộc sống con đã có những lần làm cho Chúa buồn và thất vọng.
Tuy rằng con không là kẻ đối kháng lại Chúa, nhưng con vẫn không đủ dứt khoát để dấn bước theo Chúa, con chưa đủ xác tín vào Lời Chúa. Con chưa đủ sức bước theo Chúa với cây thập giá trên vai. Con không dám thực hiện các mối phúc mà Chúa đã công bố… Nói chung, cuộc sống con vẫn còn những vướng mắc, ngăn cản con đón nhận sứ điệp cứu độ.
Hôm nay, xin Chúa giúp con xác định thái độ đón nhận Lời Chúa. Con không đủ can đảm để mạnh dạn bước theo Chúa, chỉ biết trông nhờ ơn Chúa. Xin tình yêu của Chúa thấm nhập vào cuộc sống con, để Chúa trở nên sức mạnh lôi kéo con đến với Chúa. Ước gì khi con cảm nhận được những việc kỳ diệu Chúa thực hiện nơi cuộc đời con, con càng vững tin vào Chúa hơn – Lạy Chúa, con tin, xin đón nhận con. Amen.
Ghi nhớ: “Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.
Gioan Tẩy giả sống rất thánh thiện đến nỗi dân chúng cho ngài là chính Đấng Mêssia tức là Đấng Cứu Thế đang đến. Ngay cả những người biệt phái, luật sĩ, tư tế cũng ngạc nhiên, sai người đến hỏi ông có phải là Đấng Cứu Thế không.
Mặc dầu người ta kính nể, Gioan Tẩy giả vẫn luôn khiêm nhượng, mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng, tự xưng mình chỉ là tiếng kêu trên rừng, là người đầy tớ hèn mọn nhất của Đấng Cứu Thế.
Mặc dù bị người biệt phái, luật sĩ, tư tế từ chối không tin, Gioan Tẩy giả vẫn nêu cao con đường ngay chính của Chúa và nói cho họ biết cơn giận của Chúa sẽ đến tiêu diệt những hạng người cố chấp và kiêu ngạo….
Suy niệm
Gioan, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế rao giảng sám hối cho dân chúng, sống rất giản đơn: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da” (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư cùng là những người rao giảng lời Chúa: “Đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5) hay “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng” (Mc 12,38). Gioan khó nghèo, thanh đạm: “Ăn châu chấu và mật ong rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang nhờ “nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Nhưng người biệt phái cho Gioan là: “Người bị quỷ ám!”.
Đức Giêsu hoà mình với mọi người để chia sẻ, kể cả đồng bàn với những người thu thuế, tội lỗi... thì họ lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Cùng đồng bàn với người thu thuế nghĩa là Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia kêu gọi trở về chính lộ. Người biệt phái lại cho là: “Người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi”.
Ðức Giêsu so sánh họ với bọn trẻ ngoài chợ không hiểu biết gì về sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Họ chỉ biết chú trọng đến bản thân, nên không mở tâm hồn đón nhận lời rao giảng của Gioan, không đón nhận lời rao giảng, giáo huấn tình thương của Ðức Giêsu, Ðấng Cứu Thế. Họ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta bướng bỉnh, kiêu căng, không muốn đón nhận Chúa và anh em, luôn chỉ trích phê bình dựa trên suy nghĩ và cảm xúc bản thân.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn sẵn sàng mở ra Lời Chúa mạc khải và tiếp nhận, mở ra với mọi người anh em trong tinh thần sẻ chia…
Ý lực sống:
“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).
Đức Giêsu phê phán sự cứng lòng và kiêu ngạo của người Do thái, đặc biệt các luật sĩ và biệt phái. Họ luôn tìm cách biện minh cho mình và trốn tránh sự thật. Ông Gioan Tẩy giả sống khắc khổ, họ bảo là quỷ ám. Còn Đức Giêsu sống giản dị, gần gũi, hòa đồng với dân, họ lại cho là một tay ăn nhậu, bê tha. Thế nhưng, sự hiện diện và yêu thương của Đức Giêsu càng chứng tỏ cho thấy họ thật ngoan cố và ác tâm. Nếu chúng ta cứng lòng không tin vào Đức Giêsu chúng ta cũng sẽ không nhận ra Người.
Đức Giêsu trách dân chúng thời đó, nhất là các biệt phái và luật sĩ thờ ơ lãnh đạm với Gioan Tẩy giả và đối với Ngài. Vì thế, Đức Giêsu dùng dụ ngôn lũ trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên điều ấy. Cũng giống như ở Việt Nam, trẻ em Do thái thường có những cuộc hát đối hơi khác Việt Nam một chút. Các trẻ em thường chia làm hai phe: một bên xướng tiểu khúc hoặc vui hoặc buồn, còn bên kia hoạ lại điệu vui hay buồn với câu điệp khúc của những bài ca dao có sẵn. Nhưng nhiều khi gặp những kẻ nghịch ngợm, không cứ theo lệ quen, bên xướng, ca hát vui vẻ thì chúng lại phá đám bằng giọng bi ai, than khóc, hoặc ngược lại. Đôi khi có những đứa ương ngạnh đứng đấy mà không chịu làm theo. Thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Đức Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài đường phố, để nói lên thái độ trái nghịch của người Do thái. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Đức Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài đường phố này. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỷ ám; Đức Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại cho rằng Ngài là tên ăn nhậu, hoà nhập với phường thu thuế tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).
Thói thường, con người ta dễ lấy mình làm trung tâm và muốn áp đặt tư tưởng và hành động của mình lên người khác. Vì thế mà qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng áp đặt người khác phải theo tư tưởng của mình.
Giống như bọn trẻ thổi sáo giả bộ đám cưới đòi người khác hát, ca bài đưa đám giả bộ buồn bắt người khác khóc theo... với một hoàn cảnh không thực tế. Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Messia giàu sang, chứ không khắc khổ kiểu Gioan Tẩy giả và làm bạn với bậc đế vương, chứ không phải hoà đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ, kể cả Đức Giêsu (Hiền Lâm).
Lối sống của Gioan Tẩy giả và của Đức Giêsu thật khác nhau. Gioan nhiệm nhặt, còn Đức Giêsu thông thoáng cởi mở. Buồn cười là cả hai đều bị người Do thái chỉ trích, do chính lối sống của mỗi vị. Vạch ra cái “buồn cười” ấy ở đây, Đức Giêsu không chỉ nhằm xác nhận một kinh nghiệm về nhân tình thế thái: Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Phải chăng Ngài còn hàm ý rằng: không có một lối sống duy nhất tốt, mà có nhiều: mỗi người, theo ơn gọi của mình, sẽ đảm nhận một lối sống phù hợp với ơn gọi đó? Điều cốt yếu là cái động lực, cái hồn của lối sống mà mình đảm nhận (5 phút Lời Chúa).
Khi trò chơi Flappy Bird và tác giả của nó trở nên nổi tiếng, được giới truyền thông thế giới quan tâm, thì có hàng loạt ý kiến trái ngược như “ăn may chứ có gì hay” hoặc “game ngớ ngẩn thế mà sao lắm kẻ thích”.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy những người Do thái đã có thái độ ghen tị với Đức Giêsu. Họ không những từ chối sứ điệp Tin mừng của Đức Giêsu, mà còn có những lời chê bai, nhận xét xấu xa về Ngài. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng dễ xét đoán và đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của mình. Tệ hơn nữa, lắm khi vì đố kỵ trước những thành công của người khác mà chúng ta tìm mọi cách để bôi nhọ và làm suy giảm danh tiếng của họ.
Truyện: Chủ quan, phiến diện
Lúc 11 tuổi, đứa bé thường bảo rằng: “Cha mẹ của tôi rất vĩ đại. Không có gì mà cha mẹ tôi không biết. Không có gì mà họ không làm được”. Lên 16 tuổi nó nói: “Cha mẹ tôi không vĩ đại như tôi tưởng, không phải cái gì họ cũng biết hoặc cũng có thể làm”. Ba năm sau, nghĩa là khi lên 19 tuổi, học Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi thường cho rằng họ đúng, kỳ thực, kiến thức của họ so với kiến thức của tôi thì thua kém xa”. Sau khi lập gia đình, nó được 24 tuổi, tốt nghiệp Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi không hiểu tuổi trẻ; thanh niên thì tiến bộ, còn họ lại bảo thủ”.
Năm 30 tuổi, có con cái, nó khám phá ra chân lý sau: “Ở nhiều sự việc, cha mẹ thường có lý”. Đến lúc nó được 50 tuổi, khi cha mẹ nó đều đã qua đời, nó không cầm được lòng và tuyên bố: “Cha mẹ tôi đúng là những nhân vật tuyệt vời! Họ có đầu óc rất minh mẫn, xử sự rất hợp lý, hợp thời. Cha mẹ ơi, cha mẹ là các vị thần!”
- Không chịu nghe lời giảng của Gioan Tẩy giả và của Chúa Giêsu mà hoán cải, - Lại còn viện cớ đổ thừa rằng bởi vì Gioan là người bị quỷ ám, và Chúa Giêsu là tay ăn nhậu, tội lỗi.
B.... nẩy mầm.
1. Viện cớ đổ thừa là điều người ta thường làm để tự biện hộ cho những việc làm xấu xa của mình:
- Chúa nhựt không đi lễ: tại vì trời mưa. - Đi ngủ không đọc kinh tối: tại quên, tại bệnh… - Không giúp đỡ người khác: tại vì nó không nói…
2. Lắm khi, để biện hộ cho mình, người ta không ngại đổ tội cho người khác: “Gioan là người bị quỷ ám”, “Giêsu là tay ăn nhậu”.
3. Chúng ta chỉ mong ước Chúa thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta chán nản buông xuôi thất vọng vì thấy công việc của Chúa không đúng như chúng ta mong muốn. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống hòa hợp với chương trình của Chúa. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Ông Gioan Tẩy giả đến không ăn bánh, không uống rượu thì các ông bảo ‘Ông ta bị quỷ ám’. Con Người đến, cũng ăn cũng uống giống như ai thì các ông lại bảo ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế, phường tội lỗi” (Lc 7,33-34)
Trong làng kia có một nông dân rất khô khan nguội lạnh, không sống đạo theo đức tin của mình. Một sáng Chúa nhựt nọ ông bảo đứa con trai rằng:
- Sáng nay con ra đồng làm việc với ba nhé.
Cậu điềm tĩnh trả lời:
- Thưa ba, hôm nay là ngày Chúa nhựt mà.
- Chúa nhựt thì sao? Bộ Chúa nhựt không làm việc được hả? Ý con thế nào?
- Thưa ba, con muốn nói giới răn thứ ba Chúa dạy phải thánh hóa ngày Chúa nhựt và phải cầu nguyện.
Nghe vậy người cha bực tức gắt lên:
- Giới răn là cái quái gì !
Một ý tưởng loé lên trong trì, cậu con nhanh nhẩu thưa lại:
- Thưa ba, nếu ba nói như vậy thì con không tuân giữ các giới răn của Chúa, kể cả giới răn thứ tư là giới răn Chúa dạy vâng lời cha mẹ !
Lạy Chúa, xin ban cho con có được sức mạnh của lòng tin, để con đón nhận tình yêu của Chúa. (Hosanna)
- Không chịu nghe lời của Gioan Tẩy Giả và của Ngài mà hoán cải.
- Lại còn viện cớ đổ thừa là vì Gioan là người bị quỷ ám, còn Ngài là tay ăn nhậu, tội lỗi.
Viện cớ đổ thừa là điều người ta thường làm, để tự biện hộ cho những việc làm xấu xa của mình:
Chúa nhật không đi lễ: tại vì trời mưa. Đi ngủ không đọc kinh tối: tại quên, tại bệnh. Không giúp đỡ người khác: tại vì nó không nói. Một cha xứ gặp chị đàn bà chồng mới chết mấy tháng, ngài hỏi:
- Chắc con còn nhớ bạn con lắm, con nên xin lễ cầu nguyện cho bạn con. - Thưa cha, con vẫn nhớ bạn con hằng ngày. Nếu bạn con nay đã lên Thiên Đàng rồi, con tưởng chẳng cần phải xin lễ nữa. - Phải, nhưng nếu bạn con chưa lên Thiên Đàng? - Nếu không lên Thiên Đàng, bạn con đã phải sa hỏa ngục. Sa hỏa ngục mà xin lễ, thì vô ích. - Con nói đúng, song nếu bạn con đang phải giam trong luyện tội? - Thưa cha, nhà con rượu chè, bê tha nếu phải giam trong luyện ngục thì cũng đáng lắm.
Thế là cả đời, chị ta không hề xin lễ cho chồng.
Đúng như sách gương phúc đã nói: “Ai sẽ thương con sau khi đã chết. Người ta quên con chóng hơn con tưởng nhiều. Con không thương con thì ai sẽ thương con. Nào được mấy người con mỗi năm xin cho cha mẹ được vài ba lễ. Người ta tưởng mình đã làm đầy đủ nghĩa vụ người con thảo, vợ hiền. Chúa đã ban cho người ta cái quyền cứu thoát, như xin lễ, ngắm đàng Thánh Giá, ân xá, mà người ta không dùng để cứu, thì người ta có phải là con thảo và người vợ hiền chăng”.
2. Lắm khi, để biện hộ cho mình, người ta không ngại đổ tội cho người khác:
“Gioan là người bị quỷ ám”. “Giêsu là tay ăn nhậu”.
Chúng ta chỉ mong ước Chúa thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta chán nản buông xuôi thất vọng vì thấy công việc Chúa làm không như chúng ta mong muốn. Ông Gioan Tẩy Giả đến không ăn bánh, không uống rượu thì các ông bảo “Ông ta bị quỷ ám” (Lc 7,33). Con người đến, cũng ăn cũng uống giống như ai thì người ta lại bảo “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế, phường tội lỗi” (Lc7,34).
Nhà hùng biện Démosthène trổ tài ngôn ngữ hoạt bát vốn có của mình để biện hộ cho một bị cáo. Ông nói năng rất hùng hồn và đưa ra nhiều lý luận rất đanh thép, nhưng những người nghe vẫn không mảy may quan tâm chú ý. Thấy thế ông bèn thuật câu chuyện dưới đây:
Có một du khách kia thuê một con lừa để đi ngoạn cảnh. Lối giữa trưa, mặt trời đứng ngay đỉnh đầu, ông ta không tìm đâu ra một bóng mát để tránh nắng. Bỗng dưng, ông ta nảy ra một ý nghĩ. Ông nhảy xuống khỏi lưng lừa và ngồi dưới bụng của con vật. Nhưng người chủ lừa đi theo để hướng dẫn ông ta trong cuộc du ngoạn, tỏ ý không bằng lòng, viện cớ bóng mát của con lừa không có tính trong giá tiền cho thuê. Hai bên cãi vã, ban đầu nhỏ, sau to dần và rốt cuộc họ đánh đấm với nhau, đến nỗi cả hai phải đưa ra trước quan án để nhờ xét xử.
Démosthène ngưng câu chuyện tại đó và tiếp tục bào chữa cho thân chủ của ông. Những thính giả tỏ ý phản đối. Họ nhất định đòi ông cho biết quan tòa tuyên án thế nào trong vụ bóng của con lừa. Ông chụp ngay cơ hội ấy quở trách họ cách nặng nề rằng, họ giống như con trẻ, chỉ thích để ý đến một câu chuyện phù phiếm về cái bóng của một con lừa mà không chịu để ý lắng tai nghe lời bênh vực của ông đối với mạng sống của một con người.
Chúng ta nói thế nào về những kẻ để thì giờ của mình hơn thua về những việc sẽ qua đi, chỉ tồn tại một thời gian ngắn, mà bỏ quên vấn đề quan trọng hơn tất cả, đó là sự sống đời đời (Croire ét Sevir).
Khi tin vào Chúa Giêsu, thì chúng ta phải biết lắng nghe với lòng chân thành. Có thế, ta mới nhận ra được tiếng của Ngài, bằng không thì Lời Chúa có sức mạnh đến đâu, linh nghiệm đến đâu cũng chẳng sinh ích gì cho chúng ta.
Xin được trích ra đây lời cầu nguyện của một linh mục:
Lạy Chúa, xin ban cho con tính Ngay Thẳng, biết tôn trọng chân lý, để không bao giờ con hiểu theo nghĩa xấu, điều mà có ai đó đã làm phiền lòng con. Xin ban cho con một tấm lòng Khiêm Tốn, để con không trở nên cứng cỏi, bất chấp những lời chỉ dạy, những lời phê bình, những lời kết án khắt khe từ mọi phía. Xin ban cho con một tấm lòng Quả Cảm, chịu đựng anh em con một cách lâu bền, để giúp họ được bình an hạnh phúc, dầu cho họ còn yếu đuối và đầy khuyết điểm. Xin ban cho con ơn Sáng Suốt, đừng dễ tin vào điều xấu mà người ta đã nói về kẻ vắng mặt; và nhất là cương quyết không kể lại cho ai khác những điều xấu đã lọt vào tai con. Amen.
Một điểm đặc biệt của trẻ thơ là chơi chung với nhau, hòa đồng với, chưa biết chia rẽ như người lớn của chúng ta.
Tuy trẻ em đơn sơ như thế, dễ thương như vậy, nhưng các em không hiểu nhau. Bạn mình hiểu như thế này, còn mình thì hiểu như thế khác trong lúc chơi chung, cho nên hay xảy ra mâu thuẫn với nhau: “Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh mà các anh mà các anh không múa nhảy? Chúng tô đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc” (Lc 7, 31 – 32).
Điều Chúa muốn nói ở đây là những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão tuy họ đã là người lớn, đã trưởng thành, có ăn có học hơn những người dân bình thường khác, nhưng đầu óc của họ lại chất chứa những mâu thuẫn nhau. Sự mâu thuẫn này được ví như những trẻ em ngoài đường phố mà Chúa nói ở trên. Vì thế nó dễ dẫn đến bất đồng, chia rẽ, xâu xé nhau. Nơi trẻ em thì không có điều này, nhưng ở họ thì có. Nguyên nhân của nó là vì lối sống giả hình, giả bộ của họ. Họ nhìn nhận những gì xảy ra ở nơi thánh Gioan Tẩy Giả và các môn đệ của Chúa theo chủ quan, ác ý, chua cay, ganh tỵ của họ. Nhưng trên hết và nhất là họ không có đức bác ái. Họ không thương những người nghèo, những người bệnh hoạn tật nguyền, những người tội lỗi. Thái độ của họ là không tiếp xúc, xa tránh những người tội lỗi, cô lập những người tội lỗi, đẩy những người tội lỗi vào con đường cùng, không có lối thoát để hoàn lương, thay đổi cuộc sống mà sống tốt hơn.
Chúa thì khác hoàn toàn đối với họ. Lòng nhân hậu của Chúa bao la hải hà. Chúa thương hết mọi người, nhất là những người tội lỗi. Chúa đến là để cứu chữa những người tội lỗi, vì thế mà Chúa gần gũi với họ. Chúa tiếp xúc trực tiếp với họ. Chúa đồng bàn, cùng ăn cùng uống với họ. Mục đích là Chúa không muốn người tội lỗi sợ Chúa như sợ những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão. Chúa muốn cho họ thấy tình Chúa yêu thương họ mà họ ăn năn trở về với Chúa. Vì thế chúng ta càng tội lỗi thì Chúa lại càng gần gũi với chúng ta, càng thương chúng ta và càng tìm cách dẫn đưa chúng ta về với Chúa hơn: “Bởi vì Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: Người bị quỷ ám. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi nói: Kìa con người mế ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 33 – 34). Họ suy nghĩ, họ nói gì thì kệ họ, Chúa không chấp nhất, vì Chúa thương cứu con người chúng ta. Đây là sứ mạng Chúa lãnh nhận từ nơi Chúa Cha, đã có biết bao nhiêu người theo Chúa, trở về với Chúa, trong đó phải kể đến thánh Mátthêô thu thuế, Giakêu, thánh Mađalenna, ông trộm lành…và còn vô số người đã tin Chúa, nhờ Chúa, họ đã tìm được con đường, hướng đi về với Chúa. Vì thế mà Chúa mới nói tất cả mọi người chúng ta là hãy nhìn vào thức tế để xem thử những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, họ có giống trẻ con hay không? Ai là người thương dân?: “Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chứng bởi tất cả con cái mình” (Lc 7, 35).
Lạy Chúa, chúng con rất hạnh phúc, rất hãnh diện được làm con của Chúa. Chúng con xin Chúa tuôn đổ lòng từ bi nhân hậu của Chúa xuống trên chúng con như lòng chúng con trông cậy kêu xin nơi Chúa, để chúng con ngày ngày ca ngợi Chúa, tôn thờ Chúa. Amen.
Chúa nói đến cả một thế hệ, nghĩa là Chúa muốn nói những người sống cùng thời với nhau mà đứng đầu là những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão. Chúa so sánh họ như những đứa trẻ nhỏ ngồi ngoài đường phố chơi các trò chơi dân gian với nhau. Khi chơi như vậy, chúng hay thay đổi, thích thì chúng làm, không thích thì chúng không làm. Chúng không có thống nhất với nhau, như người Việt chúng ta thường nói: “Ông nói gà, bà nói vịt”, cho nên chẳng biết đâu mà lần: “Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than” (Lc 7, 31 - 32).
Họ giống trẻ nhỏ ở điểm là họ nói những câu thiếu suy nghĩ, ác ý. Thánh Gioan Tẩy Giả đến không ăn bánh không uống rượu thì họ bảo: “Người bị quỷ ám” (Lc 7, 33). Còn Chúa đến có ăn có uống thì họ nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34). Dù họ có suy nghĩ, có nói không đúng sự thật do sự ganh tị thì sự thật vẫn là sự thật,
Chúa so sánh họ như những đứa trẻ cho nên tư tưởng, lời nói, việc làm của họ không đáng để chúng ta tin, vì nơi họ toàn là giả hình, giả dối. Chúng ta chỉ tin Chúa, vì Chúa là chân lý, là sự thật, sự thiện…
Ngày hôm nay, có nhiều người nói xấu Chúa và Hội Thánh của Chúa. Họ cũng giống như những đứa nhỏ Chúa nói trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Chúng ta không tin họ. Nếu theo họ, chúng ta sẽ lạc xa đường lối của Chúa. Chúng ta sẽ hư mất đời đời. Chúng ta chỉ tin và theo Chúa cũng như Hội Thánh của Chúa. Chúa qua Hội Thánh sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong mát, tức là sự sống vĩnh cửu sau này.
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa và chúng con sống những điều Chúa dạy bảo. Xin cho chúng con đi đúng dường lối của Chúa vạch ra cho chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ bị mê hoặc những học thuyết lầm lạc, kẻo chúng con mất đức tin. Xin Chúa ban ơn soi sáng để chúng con phân biệt đâu là ý Chúa, đâu là những điều không phải ý Chúa. Ý Chúa thì chúng con thực hiện, không phải ý Chúa thì chúng con xa tránh. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 24 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin Chúa nhìn đến chúng ta, và cho chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, không bội tín bất trung với Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Vinh quang Đức Chúa rời bỏ Đền Thờ. Một cách nào đó, Thiên Chúa bị dân bất trung xua đuổi, và Người rời bỏ Đền Thờ. Điều này cho thấy: chỉ ít lâu nữa Đền Thờ sẽ bị tàn phá, nhưng Thiên Chúa đâu lệ thuộc vào nơi chốn. Chính Người đã thành Đền Thờ cho người Dothái lưu đày. Người sẽ ban Thần Khí mà đổi mới họ, và Người sẽ trở lại trong Thành Đô Hội Thánh được thanh luyện nhờ ân sủng… Vinh quang Đức Chúa bay bổng lên đến thềm Đền Thờ. Đền Thờ đầy mây phủ, và tiền đình tràn ngập ánh vinh quang Đức Chúa, và từ phía trên thềm Đền Thờ, vinh quang Đức Chúa bay ra. Hỡi Giêrusalem, đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại mà các ngươi không muốn? Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, tìm lợi ích cho Đức Kitô và cho người khác, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Autinh: Ai nấy hãy tìm lợi ích cho Đức Kitô Giêsu, chứ đừng tìm lợi ích cho mình… Được mời chủ tọa, bạn đừng làm cao. Hãy xử sự như những người khác, và quan tâm đến họ. Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa là người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 110 cho thấy: Việc Chúa làm quả thật lớn lao. Ai kính sợ Người, Người ban phát của ăn; giao ước đã lập ra, muôn đời Người nhớ mãi. Sức mạnh việc Người làm, Người cho dân thấy rõ, khi tặng ban cho họ gia sản của chư dân.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống; Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời. Trong bài Tin Mừng, lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: Chúng tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; chúng tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than. Chúa có lời đem lại sự sống đời đời, vì thế, chúng ta phải quy hướng về Chúa, làm theo ý Chúa, chứ không đành hanh khó chiều: bắt Chúa và người khác phải theo ý mình. Ai nấy hãy tìm lợi ích cho Đức Kitô Giêsu, chứ đừng tìm lợi ích cho mình: muốn làm đầu phải hầu thiên hạ, đừng làm cao, nhưng, hãy xử sự như những người khác, và quan tâm đến hết mọi người. Chúng ta hãy bắt chước thánh Phaolô, như Người làm chứng rằng: các tín hữu đã đón tiếp người, như sứ giả của Thiên Chúa, đến nỗi, nếu có thể được, thì, họ đã sẵn lòng móc mắt hiến cho người. Thế nhưng, người đã đến với con chiên yếu nhược, con chiên hôi thối, để mổ xẻ vết thương, chứ không bỏ mặc cho nó hư thối. Người nói: Vậy, tôi đã trở nên kẻ thù của anh em, vì nói sự thật cho anh em sao? Thế đó, người vừa có lương thực là sữa chiên, vừa được vinh dự là mặc áo len, nhưng, Người không để chiên muốn đi đâu thì đi, Người không bỏ bê đàn chiên. Quả thật, người đã không tìm lợi ích cho mình, nhưng, lợi ích cho Chúa Giêsu Kitô và cho các tín hữu. Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, ước gì chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Ước gì được như thế!
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói". "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít". Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa. Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1). Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31). Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu. Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon. Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu, cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34). Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó, các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối, chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn. Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào. Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc. Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố, nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không. Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc. Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ. Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài. Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37). Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở. Nước mắt chị làm ướt chân Ngài. Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ, hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha? Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu. Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa. Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy!). Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm, vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi. Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành. Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.” Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ. Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy, thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa! Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8). Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm. Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi, nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ. Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc. Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình: rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm. Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn. Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến. Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy. Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình. Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ, Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42) Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50. cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả. “Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn?” Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng. Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn. Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít. Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế. Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon. Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46). Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu. Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách, nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia. Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này. Câu này trước đây thường được dịch như sau: “Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,” Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều. Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng. Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều. Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ. Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn. Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42), và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít. Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa. Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia, vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn!!! Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không? Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa? Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn. Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47). Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn. Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới, can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn. Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ. Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc: “Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó. Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ. Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị. Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị. Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin. Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50). Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ: lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn, Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa. Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng, và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu. Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không? Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore) ---------------------------------
Ông Si-mon, một thủ lãnh Pha-ri-sêu, một trí thức phải tâm phục khẩu phục thái độ và lời giải thích của Chúa Giê-su. Tuy hai hướng nhìn khác nhau. Ông nhìn bề ngoài. Chúa nhìn bề trong. Ông nhìn hình thức. Chúa nhìn nội dung.
Về hình thức xã hội thì ông Si-mon hơn hẳn người phụ nữ. Ông trí thức. Người phụ nữ bình dân. Ông nghiêm chỉnh giữ Lề Luật. Người phụ nữ lỗi lề luật. Ông thuộc tầng lớp lãnh đạo, dạy dỗ người khác. Người phụ nữ thuộc tầng lớp cần được dạy dỗ. Ông được mọi người kính trọng. Còn người phụ nữ bị mọi người khinh miệt.
Nhưng thật bất ngờ khi Chúa Giê-su đánh giá người phụ nữ cao hơn ông Si-mon. Vì “chị yêu mến nhiều”. Đạo không phải là bề ngoài nhưng là bề trong. Đạo không là hình thức nhưng là nội dung. Và thật lạ lùng: đạo không là lề luật nhưng là tình yêu.
Thánh Phao-lô là người cảm nghiệm được điều đó. Ông được tha nhiều. Nên ông yêu mến nhiều: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên người môn đệ Ti-mô-thê-ô đừng chú ý đến hình thức. Hãy chú ý đến nội dung. Đừng chú ý đến bề ngoài. Hãy chú ý đến bề trong. Về hình thức bề ngoài thì Ti-mô-thê-ô kém cạnh. Vì ông còn quá trẻ so với chức vị giám mục. Thánh Phao-lô khuyên nhủ người con thiêng liêng hãy vượt qua bằng trau dồi nội dung bên trong. “Hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh” (năm lẻ).
Đó cũng là lời khuyên dành cho tôi. Để tôi chăm lo trau dồi nội dung tình yêu bên trong hơn là chú ý đến hình thức chức vị bên ngoài. Để tôi yêu thật nhiều. Và làm tất cả vì tình yêu. Đó là cốt lõi của đạo. Đó cũng là bí quyết giúp tôi thăng tiến về Chúa Ki-tô. Và được hạnh phúc nơi Người.
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.
Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.
Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.
Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.
Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7, 47-48)
Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.
Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.
Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!”. Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.
Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: “Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm”. Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tội bà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!”.
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật việc cô Mađalêna xức dầu thơm cho Đức Giêsu và lấy tóc mình mà lau. Sự trở lại của cô đã làm cho nhiều người kinh ngạc và hành động của cô cũng gây nên không ít sự tò mò cho mọi người xung quanh!
Tưởng cũng nên nhắc lại, Mađalêna là một cô gái điếm chuyên nghề, nhưng cô đã được Đức Giêsu giải cứu khỏi cái chết trước sự hằm hằm của các người Pharisêu khi họ dẫn giải cô đến để xin Ngài xét xử.
Cô đã được quý nhân phù trợ, Đức Giêsu đã giải thoát cô khỏi chết và phục hồi tinh thần cho cô bằng tình thương xót của Ngài.
Vì thế, cuộc đời của Mađalêna đã thay đổi từ đó.
Nếu trước kia đôi mắt của cô là đôi mắt đa tình, thì nay đôi mắt đó đã đẫm lệ ăn năn.
Nếu trước kia mái tóc là vật để trang điểm thân xác và tạo sự chú ý của các chàng trai khát tình, thì giờ đây đã dùng để lau chân Chúa.
Nếu đôi môi là nơi diễn ra những nụ hôn nồng thắm phục vụ cho những cuộc ăn chơi trác táng, thì giờ đây cô đã dùng vào việc hôn chân Chúa.
Nếu trước kia dầu thơm là mồi câu khách làng chơi, thì giờ đây, cô đã dùng vào việc xức chân Chúa.
Tất cả những hành vi đó của cô đã biểu lộ một đức tin tuyệt đối và lòng yêu mến nồng nàn với Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát cô khỏi tội lỗi và khỏi chết.
Thật vậy, cuộc đời của mỗi con người đều có một quá khứ và tương lai, các thánh là những người cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó! Điển hình là Mađalêna, cuộc đời của ngài từ tội nhân trở thành thánh nhân nhờ ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ lòng bao dung tha thứ của Đức Giêsu, Mađalêna đã được phục hồi giá trị làm người và làm con Thiên Chúa. Bây giờ cô có quyền ra đi trong cuộc sống với một tâm hồn bình an vì đã yêu nhiều nên được tha nhiều.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa trong tâm tình thống hối ăn năn.
Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Vì tội chúng ta có đỏ như son, có thẫm tựa vải điều, thì Thiên Chúa cũng tẩy cho trắng như bông, sạch như tuyết.
Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải quay trở về với Chúa trong sự khiêm tốn, ăn năn, tin tưởng. Tất cả được xây dựng trên lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi tội lỗi, và ban ơn giúp sức để chúng con được ơn trở về với Chúa cách trọn vẹn và trung thành như thánh nữ Mađalêna khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Thái độ ăn năn thống hối thực lòng của người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa thương xót. Ai tin tưởng vào tình yêu Chúa, sẽ được cứu độ và được bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền từ và hay thương xót, tấm lòng bao dung của Chúa là nơi nương tựa cho con là kẻ tội lỗi. Nhờ lòng thương xót của Chúa, một người dù tội lỗi đến đâu, cũng vẫn có cơ may làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa không đánh giá chúng con theo vẻ bên ngoài hoặc dựa vào công nghiệp của chúng con. Trái lại, Chúa xét xử con người theo những tâm tình, suy tưởng sâu kín trong lòng, Chúa thấu suốt tâm tình sám hối chân thành phát xuất từ lòng yêu mến.
Phủ phục dưới chân Chúa, người phụ nữ tội lỗi không nói gì mà chỉ biết khóc. Chị khóc cho tội lỗi của mình, những giọt nước mắt của lòng sám hối ăn năn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy được sự nặng nề của tội con đã xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xin cho con được lòng yêu Chúa để biết khóc tội lỗi mình. Xin đừng để lòng con chai đá, nhưng giúp con biết chân thành sám hối.
Lạy Chúa, Chúa đã tha, đang tha, và mãi mãi tha hết những lỗi lầm con xúc phạm đến Chúa. Chúa yêu con vô bờ. Xin cho con luôn tin tưởng vững vàng và cậy trông vào Chúa, cho con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Hòa Giải, để con được giao hoà lại với Chúa và anh em. Chỉ có Chúa mới có thể làm cho con được tái sinh và có sức mạnh đổi mới đời sống. Chỉ trong Chúa con mới tìm lại được bình an và được sống trong tình yêu. Con được tha nhiều, con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”.
Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho Tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời.
Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đến bên Chúa Giêsu là một người tội lỗi, trong thành ai cũng biết. Theo luật Do Thái thì người tội lỗi không được phép tiếp xúc với người bình thường (thanh sạch), vì nếu tiếp xúc sẽ làm lây lan tội lỗi cho người thanh sạch.
Chị bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bất chấp cả luật cấm, có thể khiến chị bị ném đá, để thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình: Đến quỳ dưới chân Đức Giêsu, vị Thầy rao giảng tình thương, bao dung với người tội lỗi. Chị khóc nức nở, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau và hôn chân Ngài và không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương) xức chân Ngài...
Một hình ảnh khác cũng giống như chị, người thu thuế là một dạng tội nhân công khai khác (x. Lc 7,29), đã nhìn nhận tội lỗi và tin rằng Thiên Chúa công chính, anh ta cũng nhận được ơn tha thứ của Người.
Trước niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mến chân thành, chị đã được Chúa tha thứ dù tội chị rất nhiều, vì sự sám hối và tình yêu tỏ lộ. Ngài nhấn mạnh ý nghĩa hành động của người phụ nữ: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Như vậy niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để được ơn tha thứ và cứu độ.
Xin Chúa cho chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa là Ðấng bao dung và luôn yêu thương khi nhìn nhận ra tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải. Dù tội của chúng ta có thẫm như vải điều, Thiên Chúa vẫn làm cho trắng tinh như tuyết.
Ý lực sống:
“Ai yêu mến nhiều thì được thứ tha nhiều!” (Lc 7,47).
Hôm nay một người biệt phái tên là Simon mời Đức Giêsu đến dùng bữa. Tình cờ có một phụ nữ tội lỗi khét tiếng trong thành đến phục dưới chân Chúa khóc lóc tỏ dấu ăn năn qua một số việc chị làm cho Chúa. Người phụ nữ này tuy có tội nặng hơn mọi người, nhưng chị biết lỗi và tin tưởng vào Đức Giêsu. Chị bất chấp cái nhìn khinh miệt của mọi người để tìm đến với Đức Giêsu. Trước niềm tin mạnh mẽ và lòng mến chân thành, dù tội chị rất nhiều, nhưng chị đã được tha tất cả. Như vậy, niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để chúng ta được ơn tha thứ và cứu độ.
Thường người biệt phái không ưa Đức Giêsu và chỉ tìm cách gài bẫy để ám hại Ngài. Tuy thế, thánh Luca cho chúng ta biết cũng có một thứ biệt phái lễ độ hơn, vẫn có cảm tình với Ngài, họ dám mời Ngài đến nhà dùng bữa. Hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta việc ông Simon, một người biệt phái, mời Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông.
Theo phong tục của Phương Đông, khi nhà có tiệc tùng thì cửa thường bỏ ngỏ, kẻ ra người vào tấp nập. Một người đàn bà, ai cũng biết thường tội lỗi lẻn vào đứng đàng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Rồi quỳ xuống dưới chân Chúa, vì lúc ấy Chúa đang nằm trên đi văng để ăn theo thói quen các thực khách. Bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẵm nước mắt và lấy tóc mà lau. Mọi người trố mắt nhìn cho là một việc quái gở, nhất là ông chủ nhà Simon... Nhưng Đức Giêsu coi như không để ý đến những người chung quanh mà chỉ nói với cô ta: “Tội chị rất nhiều, nhưng đã được tha rồi, vì chị đã yêu mến nhiều”.
Tin mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa, phiên tòa không có luật sư bảo hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quý giá nhất Đức Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Người phụ nữ trong Tin mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người chung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Đức Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất hiện từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có cái nhìn đúng về người và về mình, nghĩa là chúng ta đừng xét đoán người khác dựa trên những tiêu chuẩn của luật lệ, phong tục, và lối sống của chúng ta (Gl 6,4; Rm 2,17-24). Người ta thường nói “Xanh vỏ đỏ lòng”, câu tục ngữ có ý dạy chúng ta phải lưu ý trong việc đánh giá một người hay một sự việc. Nhiều khi bề ngoài là xấu nhưng từ bản chất là tốt. Nếu chỉ đánh giá theo cái vỏ bên ngoài thì sẽ sai lầm.
Trong bài Tin mừng, người biệt phái, cùng những người khách khác ở bàn tiệc, đã không thể nhìn vào người phụ nữ như Đức Giêsu đã nhìn. Những phong tục, luật lệ, thiên kiến và lối sống đã giới hạn họ. Họ đã xếp loại người phụ nữ này là người tội lỗi. Họ đã tự nghĩ rằng bản thân mình tốt hơn người phụ nữ này nhiều.
Truyện: Chiếc đèn cũ kỹ
Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cây đèn cũ đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt lên và nó tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt.Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông: “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú. Ông chồng nói:
- Cái đèn này thật tuyệt. Bà mua nó ở đâu?
Bà đáp:
- Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy!
Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói:
- Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nó như thế này?
Bà đáp:
- Thật ra chẳng tốn gì mấy. Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?
- Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng, “trong thành ai cũng biết”
- Nàng bày tỏ lòng sám hối rất công khai: a/ trong một bữa tiệc, trước mặt nhiều người; b/ không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương); c/ quì gối dưới chân Chúa Giêsu, khóc nức nở, xổ tóc ra (một cử chỉ có thể bị kết án là tự làm ô nhục), lấy tóc lau chân Chúa.
Câu nói của Chúa Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng: “tội nàng nhiều nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều”
B.... nẩy mầm.
1. Cô gái này dạy tôi nhiều điều về sự sám hối:
- sám hối không phải chỉ là một tâm tình kín đáo che dấu bên trong không cho ai biết. Đôi khi, nếu cần, cũng phải bày tỏ ra bên ngoài.
- khi bày tỏ, không nên ngại xấu hổ, sợ dư luận, sợ tốn kém… những xấu hổ, dư luận và tốn kém ấy cũng là cách tôi phải chịu đề đền tội.
2. Có thể nói “nhờ” phạm nhiều tội lỗi, nên nàng đã yêu mến Chúa nhiều, đã sám hối chân thành và được tha thứ nhiều. Phụng vụ gọi đây là “tội hồng phúc” (felix culpa).
Xin cho ý thức bề những tội của con là động cơ khiến con càng yêu mến Chúa nhiều hơn.
3. Nàng được tha nhiều nên sau đó nàng càng yêu mến Chúa nhiều hơn. Ước gì đây cũng là tâm tình của tôi mỗi khi tôi lãnh nhận ơn tha thứ qua bí tích hòa giải.
Yêu nhiều thì được tha nhiều: Yêu là nguyên nhân của tha thứ; được tha nhiều thì càng yêu nhiều: yêu là kết quả của tha thứ.
4. Chuyện này cho tôi thấy được sự liên hệ kỳ diệu giữa tội lỗi / tình yêu / và tha thứ. Tôi là xấu nhưng trở thành tốt khi được đặt trong liên hệ kỳ diệu ấy.
5. “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47)
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ và cũng là cho tôi một kỷ niệm là Thập giá Tình yêu. Vâng, chính Thập giá của Đức Kitô đã xóa muôn vàn tội lỗi của tôi và của bạn, và mở ra cho một cuộc sống mới, cuộc sống Phục sinh.
Hình ảnh người phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ hết nhắc nhở tôi rằng: Thiên Chúa không chỉ có Tình yêu mà Ngài là Tình yêu.
Càng sống yêu thương, tôi càng dễ nhận ra Chúa hiện diện trong tôi. Những lúc từ chối tình yêu, tâm hồn tôi trở nên trống vắng và cô đơn, tôi trở nên ích kỷ, xa rời Thiên Chúa và mọi người.
Lạy Chúa tình yêu, xin cho con không chỉ biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình, mà còn biết bù đắp lại bằng chính tình yêu của con. (Hosanna)
1. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thật hết sức sống động.
Những việc Luca ghi lại diễn ra trong sân nhà ông Simon, một đạo sĩ của người Do Thái. Chúng ta nên biết: Nhà cửa của giới giàu có thời đó thường có khu sân rộng, có khi rộng như một công viên. Trong sân thường có vườn cây và giếng nước. Vào mùa nóng nực người ta thường bày bàn ăn tại đây.
Ở xứ Palestine mỗi khi có một Rabbit đến nhà nào đó dự tiệc, thì mọi người đều được tự do đến nghe những lời khôn ngoan do Rabbit ấy dạy. Thói quen đó giải thích cho chúng ta biết sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Simon là một việc bình thường.
2. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây:
- Trước hết chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một Rabbit danh tiếng.
- Vì đường sá đầy cát bụi và giày chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân khách để rửa sạch bụi và làm mát chân cho khách.
- Và cuối cùng người ta đốt lên một nhúm hương liệu hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách cho thơm.
Những việc đó luôn được coi như là những đòi hỏi của phép lịch sự. Thế nhưng ở đây chúng ta thấy chủ nhà hôm đó đã không làm những việc này.
3. Cũng nên biết điều này: Bên Do Thái khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc, hai chân khách duỗi thẳng về phía sau và không mang dép. Họ dựa người trên những gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, còn tay mặt thì tự do lấy đồ ăn. Với tư thế nằm ăn như vậy thì người đàn bà mới có thể đứng gần chân Chúa Giêsu.
Simon là một đạo sĩ Do Thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái.
Chúng ta không hiểu tại sao một một người như vậy lại dám mời Chúa Giêsu tới nhà mình?
- Có người cho rằng, rất có thể ông là người có lòng mến phục Chúa Giêsu. Nhưng khi nhìn lại bầu không khí thiếu lịch sự của ông Simon, thì người ta không thể chấp nhận ý kiến này được.
- Cũng có thể Simon mời Chúa Giêsu vào nhà mình để gài bẫy ngài, mong bắt gặp một câu nói hay một hành động nào đó để có cớ buộc tội Ngài. Nhưng giả thiết như thế cũng không ổn vì câu 40 trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông đã tôn tặng Chúa Giêsu danh hiệu Rabbit.
- Rất có thể Simon là người thích nổi tiếng. Với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời “chàng thanh niên kỳ lạ này” đến ăn tiệc tại nhà mình. Giả thiết như thế, ta mới hiểu tại sao lại có sự pha trộn giữa thái độ vừa có vẻ tôn kính lại vừa có thái độ khinh khi đối với Chúa khi ông cố tình bỏ qua phép lịch sự đáng ra phải giữ đối với Ngài. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
Khi Chúa Giêsu đang dùng bữa, thì có một phụ nữ bỗng nhiên vào nhà, dù bà ta không phải là khách được mời. Chắc hẳn người phụ nữ này đã có dịp được biết Chúa. Bà muốn xức dầu cho Chúa như một cử chỉ biểu lộ lòng tôn trọng của bà. Vì quá xúc động, bà đã khóc. Nước mắt đã làm ướt cả bàn chân Chúa trong tư thế đôi chân đang duỗi dài ra, lúc nằm chống tay để dùng bữa theo phong tục Do Thái. Rồi bà xõa tóc ra lau chân và hôn chân Ngài như một dấu hiệu của sự tôn trọng và lòng biết ơn sâu xa. Những hành động như thế thường người ta không làm giữa nơi công cộng.
Thấy như thế, ông Simon đã thầm trách Chúa. Ông nghĩ nếu Chúa thực là một tiên tri thì hẳn Ngài phải nhận biết đây là một phụ nữ như thế nào chứ: một người tội lỗi, cần phải lánh xa.
Chúa biết ý của Simon, nên Ngài mới kể câu chuyện về hai người mắc nợ, ngầm cắt nghĩa cho ông Simon biết lý do nào người phụ nữ này đã hành động như thế và đồng thời, cũng cho ông Simon biết dù ông là người đã mời Chúa nhưng ông đã không đón tiếp Chúa cho phải phép và đã không rộng lòng với Chúa như người đàn bà này.
Câu chuyện kết thúc bằng lời của Chúa nói với người phụ nữ:
- Hãy đi bình an.
Chúa luôn quan tâm đối với những kẻ đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Trong câu chuyện những người mắc nợ Chúa Giêsu kể, chúng ta thấy tình yêu thương và sự tha thứ gắn liền với nhau. Nếu chưa bao giờ chúng ta cảm nhận được một cách sâu xa rằng mình cần được Chúa tha thứ thì chúng ta sẽ không thể nào yêu mến Chúa hoặc biết ơn Ngài được. Chúng ta chỉ thật sự yêu Chúa khi nhận ra tình yêu của Ngài dành cho và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Đây chính là điều Gioan đã nói: “Chúng ta yêu Chúa vì ngài đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,19).
Nguyện Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình Chúa yêu để có thể yêu Ngài nhiều hơn. Amen.
Chúa là một con người nổi tiếng lúc này, vì thế mà có một người biệt phái kia danh giá mời Chúa đến nhà ông dùng bữa với mình. Bỗng dưng có một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành, biết được Chúa ở đây, chị đã mạnh dạn, vượt qua sự dị nghị, sợ hãi đến với Chúa.
Chị tiến sát gần Chúa, đứng phía chân Chúa, tay cầm một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm có giá trị to lớn, chị khóc nức nở. Tiếng khóc của chị lúc này là tiếng khóc của một con người mang thương tích đầy tội lỗi, bị bầm dập nát tan bởi dư luận người đương thời đối với chị, cùng với bao ánh mắt ghê tởm xa lánh chị, xem chị như cặn bã, phế thải của xã hội. Có lẽ rất nhiều lần chị đã đến với những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão để xin một lời khuyên, một sự đỡ nâng cứu giúp cho chị thoát cuộc sống nhơ dớp này, nhưng bị từ chối, bị xua đuổi. Con đường đi đến tương lai hoàn lương của chị bị đóng lại.
Trong lúc bế tắc như vậy, chị nghe thiên hạ kể về Chúa, về tình thương, lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi. Do đó, hôm nay chị biết Chúa đến dùng bữa ở nhà ông biệt phái này, chị đã can đảm, vượt qua sự đố kỵ, chị đến với Chúa. Chị khóc nức nở và nước mắt chảy ra đó ướt đẫm chân Chúa. Chị lấy tóc mà lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm chân Chúa..
Theo thánh sử Luca, tội lỗi là một tên thống trị con người chúng ta sau khi nguyên tổ phạm tội, nó kéo dài qua muôn thế hệ. Con người chúng ta bị nó kèm cặp, không thể thoát được, đành bất lực. Đây là tiếng khóc thể hiện sự xót xa cho thân phận thụ tạo bất toàn nô lệ tội lỗi của chúng ta.
Ông biệt phái mời Chúa hôm nay thấy sự việc này xảy ra như vậy, ông cảm nhận tình Chúa quá cao vời với con người chúng ta, nhất là với người tội lỗi, nhân cách của Chúa quá lớn đối với ông, Chúa thật tuyệt vời. Nhưng thay vì tạ ơn Chúa cùng với chị tội lỗi này khi Chúa tha tội cho chị để ông học ở Chúa lòng nhân từ, mà cho mọi người được nhờ, ông lại co cụm người ông lại, trở về thế thủ, không chịu mở lòng ông ra, ông lại lên tiếng trách móc Chúa là Chúa không biết việc Chúa làm đó là một điều không được phép làm, không ai chấp nhận.
Trước thái độ như thế của ông biệt phái, Chúa lấy ví dụ về hai người cùng mắc nợ một ông chủ, họ van xin và ông chủ tha nợ cho họ. Người mắc nợ nhiều sẽ yêu nhiều hơn. Ý Chúa là chị quá nhiếu tội lỗi, Chúa đã tha cho chị, chị yêu Chúa nhiều hơn. Còn những người biệt phái, luật sỹ không nhận mình có tội, nên họ không được Chúa tha, vì họ không có lòng mến Chúa.
Chúng ta học được bài học hôm nay là chúng ta cần phải yêu Chúa nhiều thì chúng ta sẽ cố gắng xa tránh tội lỗi, nếu có lỡ phạm, chúng ta ăn năn sám hối, xưng thú thì Chúa sẽ tha cho chúng ta.
Lạy Chúa, Chúa đã thương xót và tha thứ tội lỗi của chúng con khi chúng con ăn năn sám hối trở về với Chúa, xin Chúa thương đừng đánh phạt chúng con, cho chúng con được sống để chúng con cảm tạ và cao rao Chúa cho muôn người. Amen.
Một người biệt phái mời Chúa dùng bữa và Chúa đã đến nhà ông. Trong lúc vào bàn ăn, bất ngờ có một người đàn bà tội lỗi trong thành đến gặp Chúa. Chị đứng phía chân Chúa khóc nức nở, nước mắt ướt chân Chúa. Chị lấy tóc lau rồi hôn chân Chúa và xức thuốc thơm. Những người trong bữa ăn hôm đó rất ngại ngùng. Họ tự hỏi vì sao Chúa lại để cho một người phụ nữ nổi tiếng trong thành về tội lỗi lại đụng chạm đến Chúa. Đang khi đó, nghe đến chị, mọi người đều xa tránh. Bởi họ coi chị như một thứ cặn bã, bùn nhơ kinh tởm của xã hội. Họ nghĩ rằng Chúa cũng sẽ giống như họ là xua đuổi chị đi chỗ khác. Nhưng họ thấy Chúa không làm như vậy. Chúa chẳng có phản ứng gì mà Chúa còn bênh đỡ cho chị nữa: “Khi ấy, có người thuộc nhóm Pharisêu mời Ðức Giêsu dùng bữa với mình. Ðức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn. Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Ðức Giêsu lên tiếng bảo ông: “Này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói” Ðức Giêsu nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nhiều hơn?” Ông Simon đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn” Ðức Giêsu bảo: “Ông xét đúng lắm” (Lc 7, 36 – 43).
Chúa đứng về phía tội nhân. Chúa đứng về phía chị để bênh vực chở che cho chị bởi sự sám hối ăn năn tội lỗi của chị. Chị khóc vì tội lỗi của chị phạm đến Chúa, chị xin ơn tha thứ và quyết tâm trở về với Chúa. Những điều này xuất phát từ lòng yêu mến Chúa của chị. Có lẽ chị đau khổ vì tội lỗi của chị và bị người đời xa lánh, loại trừ. Hơn một lần chị cũng đã đến với những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, xin họ giúp đỡ để chị hoàn lương, nhưng rồi chị bị họ xua đuổi. Chị chẳng biết tìm đến với ai bây giờ. Trong lúc như vậy, chị nghe rằng Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chị vượt qua nỗi sợ hãi và mặc cảm để đến với Chúa trong giờ phút này. Chị quả là can đảm. Chúa đã tha thứ cho chị: “Tội con đã được tha rồi” (Lc 7, 48), cho nên chị yêu Chúa nhiều lắm: “Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7, 47), và Chúa lại nói với chị một câu hết sức trìu mến của một người Cha nhân từ xót thương: “Rồi Ðức Giêsu nói với người phụ nữ: Tội của chị đã được tha rồi. Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: Ông này là ai mà lại tha được cả tội? Nhưng Ðức Giêsu nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7, 48 - 50).
Cũng giống như chị, ai trong chúng ta cũng phạm tội không nhiều thì ít. Chúng ta bắt chước chị chạy đến với Chúa. Chúa cần lòng ăn năn sám hối của chúng ta. Chúa cần sự quyết tâm trở về với Chúa của chúng ta. Chúa cần lòng mến của chúng ta đối với Chúa và rồi Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta. Chúa tha thứ cho chúng ta vô điều kiện. Hãy mạnh dạn can đảm vượt qua sự sợ hãi, dư luận mà đến với Chúa. Lúc nào Chúa cũng chờ đón sự trở về của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có lòng nhân từ như Chúa để cảm thông với những anh chị em tội lỗi mà cầu nguyện giúp đỡ họ trở về với Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sám hối ăn năn xin Chúa xót thương tha thứ tội lỗi cho chúng con và giúp chúng con mỗi ngày sống biết xa tránh tội lỗi, sống theo ý Chúa để chúng con trở nên tốt hơn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 24 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin Chúa nhìn đến chúng ta, và cho chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, sám hối, quay trở về tuân giữ luật Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Ngôn sứ đóng vai người di cư. Như nhiều ngôn sứ thuở xưa, và còn hơn họ nữa, Êdêkien thích những kiểu làm có tính biểu tượng, tiên báo việc sắp xảy ra. Số phận của Giuđa đã được quyết định, vua cuối cùng sắp đi lưu đày. Người Giuđa không tưởng tượng nổi, nhưng, như Hôsê đã báo trước: trở về hoang địa là cơ may cho dân Chúa tìm lại mối tình đầu… Khi Ta phân tán chúng đi các dân và tung chúng đến các nước, chúng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Nếu con cái nó bỏ không giữ luật Ta, chẳng sống theo điều Ta quyết định, Ta sẽ dùng roi sửa phạt lỗi lầm.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, nên gương sáng cho nhau trong việc tuân giữ Lời Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Autinh: Hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên… Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều. Ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn. Những kẻ có chức quyền sẽ bị hạch hỏi gắt gao hơn người khác.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, tuân giữ đường lối, huấn lệnh Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Anh hãy thận trọng trong lời giảng dạy; anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 110 cho thấy: Việc Chúa làm quả thật lớn lao. Những công trình tay Chúa thực hiện quả là chân thật và công minh. Huấn lệnh Người ban đều chắc chắn, bền vững đến muôn đời muôn thuở, căn cứ vào sự thật lẽ ngay.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy tìm về bên Chúa để được nghỉ ngơi, bồi dưỡng: Người phụ nữ tội lỗi là biết tìm về bên Đấng Cứu Độ của mình để được chữa lành, được nuôi dưỡng, chị nhìn Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, nên, chị đã mở lòng để đón tiếp một vì cứu Chúa, còn, ông Pharisêu chỉ nhìn Chúa như một ngôn sứ, nên, ông không đón tiếp Chúa được như chị. Huấn lệnh Chúa ban đều chắc chắn, bền vững đến muôn đời muôn thuở, căn cứ vào sự thật lẽ ngay. Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan, sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy: hãy nên gương mẫu cho người khác về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch; hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, làm như vậy, chúng ta sẽ cứu được chính mình, lại còn, cứu được những người khác. Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn: những người có trách nhiệm với đoàn chiên phải sống gương mẫu, tuy nhiên, khi họ không sống được như Chúa đòi hỏi, thì, đoàn chiên hãy nhớ rằng: chiên sống và sống khỏe mạnh là nhờ Lời Chúa, nên: Những gì họ nói, thì anh em hãy làm hãy giữ, nhưng, đừng theo hành động của họ mà làm. Chúa là Mục Tử tốt lành, ta chỉ được bình an, no thỏa, khi biết tìm về bên Chúa, bởi vì, tình thương Chúa quý trọng biết bao, phàm nhân tìm bóng Người trú ẩn. Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, ước gì chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc, để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1). Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái. Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ. Các bà đi theo Thầy, rong ruổi trên những nẻo đường của vùng Galilê. Họ như thuộc cùng một nhóm với các môn đệ. Vào thời Đức Giêsu, chuyện phụ nữ đi chung như thế quả là gây sốc. Nếu một phụ nữ cứ tiếp xúc với nam giới ở ngoài họ hàng, thì bản thân chị ấy và gia đình sẽ phải mang tiếng xấu. Vả lại chẳng ông chồng nào chịu để cho vợ mình làm như vậy. Những phụ nữ đã đi theo Thầy Giêsu từ Galilê. Câu này nói lên căn cước của nhóm phụ nữ. Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy chịu đóng đinh (Lc 23, 49). Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy được mai táng (Lc 23, 55). Họ là những người đầu tiên ra thăm mộ vào sáng sớm (Lc 24, 1-3). Theo Tin Mừng Mátthêu (28, 9-10), Máccô (16, 9) và Gioan (Ga 20, 18), chính họ là những người đầu tiên được thấy Đấng phục sinh Hai môn đệ Emmau tuy không tin lời chứng của các phụ nữ về Phục sinh, nhưng hai ông đã gọi họ là những phụ nữ trong nhóm chúng tôi (Lc 24, 22). Những phụ nữ này còn có mặt cùng với nhóm Mười Hai, để cầu nguyện chung, sau khi Thầy Giêsu được cất về trời (Cv 1, 13-14). Như thế nhóm phụ nữ này đã kiên trì và can đảm đi theo Thầy Giêsu, từ Galilê đến Núi Sọ, và từ Núi Sọ đến cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Một cách nào đó, họ xứng đáng được gọi là người môn đệ. Đức Giêsu đã không chỉ thu hút được các môn đệ nam theo Ngài. Qua việc trừ quỷ và chữa bệnh, Ngài đã làm cho nhiều cuộc đời tươi trở lại. Một nhóm phụ nữ khi được chữa lành, đã muốn tỏ lòng biết ơn, trong đó có bà Gioanna, là người đã lập gia đình, giàu có và quyền quý. Họ quyết định đi theo Đức Giêsu và các môn đệ như những trợ tá. Họ dùng của cải mình có để phục vụ các ngài (c. 3). Không nên coi việc phục vụ của nhóm phụ nữ là thấp kém, vì các môn đệ cũng được mời gọi làm người phục vụ anh em (Mc 10, 43). Và chính Thầy Giêsu cũng đã sống như một người phục vụ (Lc 22, 27). Không thấy nói đến việc các phụ nữ này được Thầy Giêsu sai đi rao giảng. Có lẽ vì vào thời đó ở nước Do Thái, người ta còn coi thường phụ nữ, và không coi các phụ nữ như những chứng nhân đáng tin. Khi nhìn Nhóm Thầy Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ, chúng ta thấy Thầy đã táo bạo, dám đi ngược với nền văn hóa thời đó. Ngài mở rộng thế giới của phụ nữ, vốn chỉ giới hạn trong gia đình. Phụ nữ hôm nay được mời gọi tham gia vào những công việc chung. Chúng ta cần thấy sự hiện diện tích cực của các phụ nữ lo việc bác ái, dạy giáo lý, làm việc cho giáo xứ, hay ở trong các tổ chức của giáo phận. Làm sao có được nhiều phụ nữ thánh thiện và năng động như Mẹ Têrêsa? Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Của cải trần gian chẳng có giá trị gì trong Nước Trời. Nhưng của cải lại là phương tiện minh chứng, xây dựng và đạt tới Nước Trời. Các phụ nữ theo Chúa Giê-su đã cảm nghiệm được điều đó. Các bà đã trải qua quá khứ bị ma quỉ và bệnh tật trói buộc. Đã cảm nghiệm được sự mong manh của kiếp người. Nhất là đã cảm nghiệm được Nước Trời. Đã nhận được ơn cứu độ của Chúa. Nên các bà coi thường của cải trần gian. Quảng đại góp phần vào việc loan báo Tin Mừng Nước Trời. Để Chúa Giê-su và các môn đệ có phương tiện đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Các bà đã được hạnh phúc. Và muốn chia sẻ hạnh phúc cho mọi người.
Từ bỏ tiền của. Điều này không dễ dàng. Đó là thế lực trần gian mạnh nhất. Đó là cơn cám dỗ ngọt ngào nhất. Đó là sợi giây trói buộc chặt chẽ nhất. Đó là kẻ thù sau cùng đối địch với Chúa. Thánh Phao-lô ý thức được điều đó. Nên hết sức khuyên nhủ người môn đệ Ti-mô-thê phải tránh xa tiền bạc. vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là long ham muốn tiền bạc”. Hãy chống lại tiền bạc bằng một đời sống công chính. Công chính là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào tiền bạc. Đó là một trận chiến. Cần phải thi đấu hết mình mới mong thắng được. Vì ta sinh ra trần truồng. Ta chết cũng trần truồng. “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được”. Thế nhưng tiền bạc cứ bám lấy ta. Ám ảnh ta. Trói buộc ta. Phải dứt nó ra. Nếu ta thua, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ. Ta trở thành nô lệ. Nó sẽ ném ta vào lửa hoả ngục. Nếu ta thắng. Nó sẽ trở thành nô lệ. Sẽ giúp ta đạt tới Nước Trời (năm lẻ).
Ta thắng được tiền bạc và những cám dỗ đời này nhờ niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh. Ta sẽ sống lại với Người trong Nước Trời. Trong đời sống mới. Đời sống ấy không có tiền bạc. Không cần tiền bạc. Nếu ta thực sự có đức tin. Ta sẽ không gắn bó với tiền bạc. Với đời này. Tiền bạc là một con dao hai lưỡi. Nếu ta luỵ phục nó. Nó sẽ tiêu diệt ta. “Nếu ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Nếu ta sử dụng nó. Nó sẽ là một phương tiện tốt. Là ông chủ, nó ngăn cản ta đến Nước Trời. Là đầy tớ, nó giúp ta mua được Nước Trời (năm chẵn).
Vậy ta hãy noi gương các phụ nữ, quảng đại dâng hiến tiền bạc để làm việc truyền giáo. Siêu thoát của cải. Ta làm chứng cho Nước Trời. Dứt lìa khỏi những của cải đời này. Ta không còn thuộc trần gian. Nhưng thuộc về Nước Trời.
Vào thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một thứ nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và đối xử như thế với phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội, người phụ nữ vẫn còn bị đối xử như chưa bình đẳng với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên cách đối xử với nữ giới còn tệ hơn. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách đối xử của Chúa đối với nữ giới. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến có người đã từng bị quỉ ám, bởi vì họ là đối tượng của những sức mạnh huyền bí gây xáo trộn trong cuộc sống và chức năng của họ: không những họ phải mang nặng đẻ đau mà còn bị nguyền rủa khi son sẻ. Mối quan tâm của Chúa Giêsu đối với nữ giới, nhất là việc Ngài chữa lành cho họ, là dấu chỉ cho thấy họ đã được tự do, không những được giải phóng khỏi sức mạnh tăm tối, mà còn trở nên bình đẳng trước mặt mọi người.
Ðể nói sự bình đẳng ấy, Chúa Giêsu cho các phụ nữ được tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng trong Giáo Hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng họ là những người đồng hàng với các Tông Ðồ trong việc loan báo Tin Mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin Mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Chúa Giêsu đã đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài tái lập con người trong tước phẩm cao trọng của con cái Chúa. Chính tước phẩm ấy là nền tảng sự bình đẳng của con người: nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tất cả đều có một phẩm giá cao trọng như nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy trong thư Galata: "Không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, bởi vì tất cả là một trong Chúa Giêsu Kitô".
Chúa Giêsu đã khẳng định sự bình đẳng của nữ giới không bằng tuyên bố suông, Ngài đã chứng minh điều đó khi để cho các phụ nữ gia nhập vào nhóm mười hai Tông đồ của Ngài. Sự bình đẳng, hay đúng hơn, phẩm giá của con người được thể hiện trước tiên qua hành vi phục vụ: càng phục vụ, con người càng chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình. Thật ra, đây cũng chính là nghịch lý chạy xuyên suốt Tin Mừng: càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất bản thân; trái lại, càng quên mình phục vụ, con người càng tìm lại bản thân và chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình.
Xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá nơi mỗi người, nhất là biết cố gắng thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại phục vụ và yêu thương.
Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng. Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Nguyện xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, nhất là thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại, phục vụ và yêu thương.
Sau đó Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có nhóm mười hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la người đã được giải thoát bảy quỷ. (Lc. 8, 1-2)
Người ta nói, không tiền và không giúp đỡ, chẳng làm được gì. Ngay trong việc rao giảng Tin Mừng cũng thế. Đó là lý do chung quanh Đức Kitô để giúp việc truyền giáo, ngoài các tông đồ ra, còn có các bà tận tâm đi theo giúp đỡ, một thứ giúp đỡ vô vị lợi. Nhờ đó Chúa rảnh tay hoàn toàn hiến thân cho công việc cốt yếu nhất. Những người giúp đỡ này chính là các phụ nữ.
Thánh Lu-ca hơn các Thánh viết Tin Mừng khác, nói đến vai trò các bà đóng góp vào việc chung quanh Thầy chí thánh và trong đoàn truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến công việc nặng nhọc của các bà đã lấy của cải mình giúp đỡ các Ngài. Thánh Lu-ca chắc hẳn lưu tâm đến thời cựu ước và trong nhiều nền văn minh khác, phụ nữ bị coi là thứ cấm kỵ, đối tượng của sức mạnh bí ẩn, bị khuất phục dưới thảm trạng bi đát bên lề. Người phụ nữ Samaria kêu lên ngạc nhiên khi Đức Kitô dám nói chuyện với mình. Tận nền vấn đề, Đức Kitô là Người bảo vệ đầu tiên vĩ đại, là người khởi động đầu tiên thăng tiến giải phóng phụ nữ. Các thầy khác thời Người đã loại bỏ phụ nữ khỏi ảnh hưởng các đồ đệ của họ, và tổ chức Do-thái giáo lúc đó không chấp nhận phụ nữ tham dự cộng đồng. Chỗ đứng của phụ nữ ở giữa dân ngoại và dân Is-ra-el!
Vậy mà truyền thống kể lại những lần hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu sống lại là hiện ra với các bà. Đức Giêsu rất tín nhiệm các bà, và các bà đã chứng tỏ lòng trung thành đặc biệt đối với Người, như: cung cấp nuôi dưỡng các Ngài suốt thời gian truyền giáo, các bà theo Chúa trên đường vác thánh giá lên đồi Can-vê, đứng dưới chân thánh giá, đi ra thăm mồ từ sáng sớm.
Khi người ta nhớ đến vai trò mà Đức Giêsu đã dành cho phụ nữ, và so sánh với Giáo Hội xuyên suốt các thời đại, người ta ngạc nhiên thấy rằng vai trò của phụ nữ bị chìm vào quên lãng, khác hẳn với cách cư xử của Đức Kitô đối với phụ nữ.
Những người được gọi và chọn để thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thường hay có những lý giải như: mình còn trẻ, không biết ăn nói; hay tôi là người tội lỗi, thấp cổ bé họng...; hoặc tôi là dân quê mùa, ít học, nghèo nàn, dốt nát...
Tuy nhiên, nhìn lại hành trình rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng...! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạch đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thủy. Điển hình như Maria Madalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của vua Hêrôđê…
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách trung thành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm ra đi làm chứng cho Chúa, mặc dù cuộc đời ta có bất hảo, kém cỏi về tri thức, vụng về trong cách ăn nói hay tội lỗi có ngập đầu và vẫn còn những tham sân si... Nhưng trong sự thống hối, tin tưởng và yêu mến Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng Ngài sẽ làm được những chuyện lớn lao do tình thương và ân sủng của Ngài trong cuộc đời và sứ vụ của chúng ta.
Điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng ra đi, dấn thân, quảng đại cho sứ vụ Nước Trời hay không mà thôi!
Mặt khác, hình ảnh những phụ nữ đi theo và phục vụ Đức Giêsu trong sứ vụ Thiên Sai của Ngài cho thấy: Đức Giêsu không hề chê bỏ bất cứ ai, dù họ thuộc thành phần nào trong xã hội.
Do đó, không ai có mặc cảm vì mình vô dụng hoặc kém cỏi, nhưng chúng ta phải không ngừng cảm tạ tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã dành cho chúng ta bằng cách mỗi ngày cố gắng sống xứng đáng hơn, yêu thương hơn để cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa chúng con, để chúng con trở thành Tông đồ của Chúa trong môi trường và xã hội hôm nay. Amen.
Sứ điệp: Chúa mời tất cả mọi người cộng tác với Chúa trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Đó là bổn phận của chính chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ngày ấy Chúa rảo qua khắp các thành thị và làng mạc nước Pa-lét-tin. Chúa giảng dạy không ngơi nghỉ, Chúa làm phép lạ cứu chữa tật bệnh cho dân, Chúa loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ngày ấy, cánh đồng truyền giáo rộng mở: đoàn đoàn lớp lớp người đến nghe Chúa giảng, xin Chúa chữa lành. Cả nam, cả nữ, cả thiếu nhi vây quanh Chúa. Tất cả chăm chú lắng nghe ghi lòng tạc dạ điều Chúa truyền dạy… Ngay đến những người phụ nữ thường bị xã hội Do thái coi thường cũng đem hết nhiệt tình phục vụ Chúa. Hết thảy đều cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng Nước Chúa.
Lạy Chúa, hôm nay Hiền Thê yêu quý của Chúa là Giáo Hội, cũng đang đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo. Toàn thể Dân Thánh Chúa đã họp lại để cùng quyết tâm thi hành lệnh truyền của Chúa: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian…”. Hôm nay, Chúa vẫn sai mọi thành phần trong Giáo Hội tích cực giới thiệu Chúa cho mọi người trong mọi hoàn cảnh: Tin Mừng không giới hạn ở một nền văn hoá nào, một màu da hay một miền đất nào. Tin Mừng của Chúa phải lan rộng trên toàn thế giới. Hôm nay, Giáo Hội tha thiết mời gọi từng người giáo dân, từng tu sĩ và hàng giáo sĩ cộng tác đắc lực vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, sống chứng nhân ngay trong hoàn cảnh sống của mình.
Lạy Chúa, ngày ấy và hôm nay vẫn chỉ là một lời mời gọi đem Chúa đến cho mọi người, mọi nơi. Xin Chúa giúp con ý thức sứ mệnh của con và hăng say thực thi lệnh Chúa truyền. Amen.
Ghi nhớ: “Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người”.
Khi cảm thấy mình không thể yêu Đức Giêsu như mình muốn, thánh Têrêsa Avila đã khóc sướt mướt và cầu xin thánh Maria Mađalêna hướng dẫn mình trên con đường hoán cải để yêu Đức Giêsu được như ngài đã yêu khi ngài thấy Đức Giêsu chết trên thánh giá, và để sống chiêm niệm khi không có sự hiện diện cụ thể của Đức Giêsu nữa (Thánh Têrêsa Giêsu, “Oeuvres complètes “, éd. Du Seuil, Paris, 1949, pp. 88 và 1058).
Thánh Têrêsa Lisieux liên tưởng tới người phụ nữ tội lỗi ăn năn ấy khi tỏ lòng thán phục sự “liều lĩnh thật đáng yêu của thánh nhân, đã làm vui lòng Đức Giêsu” (Ibid., p. 441) ngài cũng thông cảm với ước muốn của Maria Mađalêna là được chạm đến Đức Giêsu. Ngài còn cảm phục sự hoán cải nội tâm nảy sinh trong tâm hồn Maria Mađalêna, khi cô nhìn thấy mình có thể gặp thấy Đức Giêsu bằng cách bước vào tâm hồn Thiên Chúa mà “không quanh co dối trá” (Ibid., p.1409) nhưng “nấp vào thâm cung của thánh nhan Ngài” (Ibid., p. 814) (Theo Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành). Thật thế, các phụ nữ trong Tin Mừng luôn luôn là nguồn cảm hứng cho những ai gắn bó với Đức Giêsu và muốn phục vụ Ngài.
Suy niệm
Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu có nhóm các môn đệ là những người sát cánh trực tiếp với Ngài và làm chứng cho Ngài (x. Lc 23,49). Ngài cũng có nhóm phụ nữ đi theo qua các làng mạc và trên các nẻo đường Galilê. Cả hai nhóm là nhân chứng cho những hành động, quyền năng và những giáo huấn của Chúa Giêsu và sẽ sát cánh với nhau. Các phụ nữ tuy không rao giảng nhưng lo việc ăn uống cho những người truyền giáo: “Các bà đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3).
Trong Tin Mừng không nói nhiều về các phụ nữ này, có nhắc tới một người trước đây bệnh hoạn bị bảy quỷ ám (x. Lc 11,26), Maria gọi là Mađalêna (một làng gần hồ Gênêsaret); một bà thuộc xã hội thượng lưu, Gioanna, đã từ bỏ chồng và triều đình Hêrôđê, bà Sudanna (Lc 8,3), Maria mẹ của Giacôbê (Lc 24,10), Salômê (Mc 15,40) và mẹ của anh em nhà Dêbêđê (Mt 27,56).
Tuy nhiên Tin Mừng ghi nhận các bà xuất hiện trong những thời điểm quan trọng của Thầy: Lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá và lúc chôn cất Người (x. Lc 23,49-55), ở ngôi mộ trống ở đó đặc biệt có mặt bà Maria Mađalêna và bà Gioanna; người ta cũng sẽ gặp các bà này với nhóm Mười hai và mấy người khác trong phòng lầu trên trước lễ Ngũ tuần (Cv 1,14). Ở đây các bà sống với Mẹ Chúa Giêsu, các anh em Chúa và nhóm Mười hai.
Tin Mừng nhấn mạnh các bà là những người đầu tiên được Chúa Phục sinh hiện ra, đặc biệt là Maria Mađalêna (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9-11; Ga 20,11-18), được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh (Mt 28,10).
Thế giới luôn cần đến bước chân của những người theo Chúa. Xin cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận tiếp nối con đường Chúa: Tích cực dùng tất cả các khả năng và ân lộc Chúa ban để đóng góp công cuộc loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Ý lực sống:
Các phụ nữ theo Chúa đã sống “kinh nghiệm” của những người đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục sinh của Ngài.
Đức Giêsu không ngừng thi hành sứ mệnh của mình. Người đi khắp làng mạc, thành phố để rao giảng Tin mừng và quên cả mệt nhọc. Các môn đệ và các phụ nữ đi theo Đức Giêsu cũng cộng tác với Ngài trong sứ mệnh ấy. Đặc biệt tác giả Luca cho biết những người phụ nữ theo Chúa là những người đã được Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh. Họ lấy của cải giúp đỡ Chúa. Tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn đều cùng với Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ.
Giữa một xã hội Do thái trọng nam khinh nữ, thậm chí người phụ nữ được xếp hạng thứ sáu, đứng sau cả vật nuôi. Người phụ nữ Do thái hầu như không có tiếng nói, đến cả việc cưới xin và ly hôn cũng do quyết định của người nam. Xuyên suốt Thánh kinh Cựu ước, hầu như lãng quên bóng dáng của người phụ nữ, rải rác một ít chỗ nhắc tới một số phụ nữ, nhưng phần lớn thường là những chuyện chẳng vẻ vang gì (trừ Judith, Esther và vài tiên tri), thậm chí còn coi họ như là cạm bẫy cho đàn ông. Các luật sĩ Do thái tuyệt đối không nhận phụ nữ làm đồ đệ, họ phân biệt đối xử trong mọi sinh hoạt xã hội, kể cả việc phụng tự và các nghi lễ thanh tẩy (Hiền Lâm).
Trong bài Tin mừng hôm nay, để nói lên sự bình đẳng giữa nam và nữ, Đức Giêsu cho các phụ nữ tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Đức Giêsu và nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng: trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Đức Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng: họ là những người đồng hành với các Tông đồ trong việc loan báo Tin mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Đồng hành với Đức Giêsu, không chỉ có Nhóm Mười Hai, mà còn có các phụ nữ - là những người đã được Ngài trừ cho khỏi quỷ và chữa lành bệnh. Tác giả Luca còn cho biết thêm, họ “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Tuy nhiên, không phải chỉ có vậy, đi theo thầy Giêsu, họ còn bị đòi hỏi nhiều hơn nữa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”(Mt 10,37). Như vậy, tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, kể cả hạng người tội lỗi, thu thuế hay chài lưới đều có cơ hội như nhau trong việc bước theo Đức Giêsu. Chỉ cần họ dám sẵn sàng từ bỏ mọi sự để “cùng đi với Ngài” (5 phút Lời Chúa).
Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về chuyện Chúa dựng nên Adong và Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Adong.
Rồi một cô bé nói tiếp: Chúa dựng nên Adong xong, Người đứng ngắm và tự nhủ: “Ta sẽ làm đẹp hơn”, và thế là, Người dựng nên Evà.
Thiên Chúa dựng nên người phụ nữ với những đức tính rất tốt đẹp: kiên trì, hy sinh, quảng đại... Nhờ vậy, họ có thể chu toàn nhiều vai trò rất quan trọng: sinh sản, nuôi dạy và giáo dục con cái trong gia đình, đồng thời cộng tác với mọi người để xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn.
Trong Giáo hội, người phụ nữ cũng có sứ mệnh quan trọng: cộng tác với mọi người để loan báo Thiên Chúa cho thế giới. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là một ví dụ cụ thể cho điều này.
Nhìn lại hành trình rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạnh đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thuỷ. Điển hình như Maria Mađalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của Hêrôđê.
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những người phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách chân thành.
Truyện: Phong chân phước cho hai phụ nữ
Ngày 24/4/1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ gia đình”: bà Giana Beritta, đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống. Và bà Elizabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời. Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mệnh làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận những hy sinh, để xin thánh hoá bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành linh mục dòng Phanxicô.
Trong bài giảng lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui, nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà còn biết bao bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục con cái của mình”.
Bảng tóm lược những người đi theo Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng:
- Nhóm 12
- Các phụ nữ: trong số đó có người đã từng bị tà thần khống chế, có người bình dân và người quyền quý. Các bà giúp Ngài bằng công sức và bằng của cải nữa.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu đang rảo khắp nơi loan báo Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo chia sẻ sứ mạng của Ngài cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó người ta coi khinh phụ nữ, không cho phụ nữ tham gia những sinh hoạt công khai ngoài xã hội.
Ta hãy học cùng Chúa lòng tôn trọng mọi người không phân biệt nam nữ, lớn bé, giàu nghèo v.v.
2. Chúa muốn chia sẻ sứ mạng loan Tin Mừng cho hết mọi người, trong đó có cả phụ nữ là hạng bị thời đó coi khinh, trong đó có cả tôi.
3. Nam và nữ, mỗi phái đều có những sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng xã hội và Giáo Hội. Sự phong phú đặc biệt của phái nữ là tình yêu, sự dịu dàng, kiên nhẫn, bao dung….
4. Thầy giáo giải thích cho cả lớp nghe về việc Chúa dựng nên Ađam Evà. Tuần sau, thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Ađam. Rồi một cô bé tiếp: “Chúa dựng nên Ađam xong, Ngài đứng ngắm và phán: ‘Ta sẽ làm đẹp hơn’, và Ngài dựng nên Evà.”
5. “Cùng đi với Chúa Giêsu, có mấy người phụ nữ là các bà Maria Mác-đa-la người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioan-na, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,2-3)
Thế giới này không chỉ được xây dựng bởi phái nam mà có cả bàn tay của phái nữ nữa. Dù là nam hay nữ, tôi cũng được Thiên Chúa tạo nên và cho vinh dự góp phần làm nên hạnh phúc của mình. Tôi phải là cánh tay nối dài của Chúa, đem Lời Chúa thấm nhuần mọi lãnh vực. Không chỉ là người nam mới làm nên chuyện, mà người nữ hôm nay cũng đã có mặt trong hầu hết mọi lãnh vực xã hội.
Ước gì các chị em biết phát huy cá tính, biết lấy sự êm ái dịu dàng để xây dựng bình an, biết tha thứ để tạo nên an hòa, biết cảm thông và chia sẻ với mọi người, biết sống âm thầm thanh đạm để cứu vớt bao linh hồn. Hãy tô đẹp cuộc đời bằng vẻ đẹp dịu hiền và làm vẻ vang cho thiên chức làm mẹ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian này. (Hosanna)
1. Chúa Giêsu đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng Ngài loan báo là sự giải phóng con người khỏi mọi thứ nô lệ. Nguyên việc có một số phụ nữ được đi theo để chia sẻ sứ mạng với Chúa cũng là một dấu chỉ của Tin Mừng giải phóng ấy, vì thời đó phụ nữ bị người ta coi khinh, không cho phụ nữ tham gia bất cứ sinh hoạt công khai nào của xã hội.
Như vậy, nam và nữ, mỗi phái đều có sự phong phú riêng để đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội và xã hội.
Chúng ta hãy nghe sứ điệp của Công Đồng Vaticanô II gửi giới phụ nữ. Sứ điệp này do Đức Hồng Y P. Zoungrana tuyên đọc ngày 8/12/1965: “Giờ đây chúng tôi xin ngỏ lời với nữ giới thuộc hết mọi thành phần: Bây giờ đã đến lúc sứ mệnh người phụ nữ được thể hiện hoàn toàn. Đây là lúc người phụ nữ có một ảnh hưởng, một sự phát huy và một quyền lực từ trước đến nay chưa từng có trong xã hội.”
“Hỡi các người vợ, người mẹ gia đình, là những nhà giáo dục đầu tiên của nhân loại trong lòng tổ ấm gia đình, xin truyền thụ cho con trai con gái quý bà những truyền thống của cha ông chúng ta, đồng thời chuẩn bị cho chúng một tương lai xa vời. Các bà hãy luôn nhớ là nhờ con cái nên người mẹ góp phần vào tương lai, một tương lai có lẽ mắt quý bà sẽ không được nhìn thấy”.
“Cả những chị em ở độc thân nữa, xin ý thức rằng, chị em có thể chu toàn trọn vẹn sứ mạng phục vụ của mình. Xã hội khắp nơi đang kêu gọi chị em, ngay các gia đình cũng không thể sinh hoạt nếu gạt bỏ sự trợ giúp của những người không lập gia đình”.
“Nhất là những người đồng trinh đã dâng mình cho Chúa trong một thế giới mà chủ nghĩa ích kỷ và sự ham tìm khoái lạc muốn trở nên qui luật sống, chị em hãy duy trì đức trong sạch, lòng vô vị lợi và tinh thần đạo đức.”
Cha Leonardo Bop, một nhà thần học nổi danh người Brasil thuật lại:
Ngày kia, một người đàn bà mà tôi quen biết vài năm nay gọi tôi ra một nơi và nói nhỏ: “Thưa cha, con muốn tiết lộ cho cha một bí mật. Xin cha đến nhà con.”
Tôi đến nhà bà ta, vào phòng ngủ của đứa con trai bà. Đó chính là một quái thai. Đầu đứa nhỏ to như đầu người lớn, nhưng thân mình của nó thì bé tí xíu. Đôi mắt nó nhìn chằm chằm lên trần nhà, lưỡi nó thò ra thụt vào như lưỡi rắn. Tôi rùng mình thốt lên: “Chúa ơi!” Nhưng bà ta nói: “Thưa Cha, từ tám năm nay con chăm sóc đứa con này của con. Nó chỉ biết có một mình con mà thôi, và con rất hài lòng về nó, hầu như không một người nào khác biết đến sự hiện diện của nó” - Rồi bà ta lớn tiếng nói: “Thiên Chúa là Đấng nhân lành. Ngài là Cha”. Bà ta nhìn lên trời nói tiếp với giọng bình thản: “Xin vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”.
Leonardo Bop cho biết: “Tôi rời nhà bà ta không nói được một lời nào. Đầu tôi cúi xuống kinh hoàng vì đứa trẻ quái thai, đồng thời ngỡ ngàng vì thái độ bình thản của bà mẹ, Rồi bất chợt một câu Kinh Thánh xuất hiện trong đầu tôi. Lời Chúa Giêsu nói với người đàn bà mắc bệnh hoại huyết: “Hỡi bà, đức tin của bà thật lớn lắm” (Mt 15,28)
Quả thực, đức tin của người đàn bà xứ Brasil trên đây thật lớn lao dường nào! Bà không chửi trời trách đất vì có đứa con quái thai như thế, trái lại bà đã sống trọn tinh thần Lời Chúa dạy: “Hai con chim sẻ mới bán được một đồng, thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha chúng con. Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi” (Mt 10,29-30).
2. Ngày 24.4.1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ gia đình”: Bà Giana Beritta, người đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống. Và bà Elisabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời. Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mạng làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận những hy sinh để xin ơn thánh hóa bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của Dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành Linh mục dòng Phanxicô.
Trong bài giảng thánh lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà còn cả bao nhiêu bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục con cái của mình”.
Sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ muôn dân là sứ mạng của Chúa. Chúa lãnh nhận sứ mạng này từ Chúa Cha. Khi Chúa đến trần gian để thực hiện sứ mạng này, Chúa cho con người chúng ta được cộng tác với Chúa. Khời đầu là Chúa cho mười hai tông đồ, rồi đến bảy mươi hai môn đệ, rồi đến tất cả mọi người chúng ta. Trong đó, Chúa cũng dành một cách đặc biệt cho những người nữ nữa. Người nữ mà các xã hội ngày xưa cũng như hôm nay đều cho rằng họ là những người thuộc phái yếu, là chân yếu tay mềm, có khi là lá ngọc cành vàng, nhưng đối với Chúa, Chúa mời gọi những người phái nữ này cộng tác với Chúa tùy theo khả năng, vị thế xã hội, điều kiện sống. Cụ thể là trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cho các bà, các chị cộng tác với Chúa bằng cách là các bà đã lấy của cải mình có mà giúp cho Chúa (Lc 8, 3). Những người phụ nữ đó là:
1-Những người phụ nữ tội lỗi, bị tà thần ám hại, bị ốm đau bệnh tật….họ là những người dường như là cặn bã của cuộc sống, bị mọi người xa tránh, bị mọi người bỏ rơi, bị gạt ra bên lề ngoài xã hội. Chính vì vậy mà họ mặc cảm tự ti, như là chị Maria Mađalenna chẳng hạn, nhưng đã được Chúa thương xót và Chúa chữa lành, bây giờ các bà các chị đó biết ơn Chúa, hết lòng cộng tác với Chúa, giúp Chúa, đóng góp tiền bạc mình có để Chúa cho người nghèo, túng cực, thiếu thốn cơ hàn trong công cuộc rao giảng Tin Mừng.
2-Những người phụ nữ có thế giá, chồng có địa vị xã hội, được mọi người kinh nể, khâm phục, như bà Gioanna, vợ của Chusa, viên quản lý của vua Hêrôđô cũng giúp tiền bạc cho Chúa để Chúa cho những người nghèo khi Chúa đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.
3-những người phụ nữ bình thường khác như bao người trong xã hội, không danh giá, không chức không quyền, họ chỉ là những người vợ, người mẹ hằng ngày lo cho chồng cho con trong gia đình mà thôi, nhưng họ yêu mến Chúa, giúp đỡ tài chánh cho Chúa, để Chúa cũng cho người nghèo trong công cuộc đi rao giảng Tin Mừng của Chúa.
Các bà, các chị không có đi theo Chúa nay đây mai đó, nhưng các bà, các chị cộng tác với Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng hy sinh làm việc hàng ngày, dành dụm tiền bạc tài chánh dâng cho Chúa để yểm trợ sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa, và Chúa đã sử dụng tiền bạc mà các bà các chị đóng góp để Chúa cứu giúp những người nghèo, những người túng thiếu, đói khát, rách rưới, cơ cực…
Như vậy, Chúa cho hết tất cả mọi người chúng ta được cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Chúa, nam cũng như nữ, giàu cũng như nghèo, sang cũng như hèn, quyền cao chức trọng cũng như khố rách áo ôm…Chúa muốn chúng ta là những chứng nhân Tin Mừng của Chúa. Mục đích là Chúa tạo phước, tạo nghiệp cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa, và luôn ý thức sứ mạng linh thánh, cao cả này và bằng mọi cách, mọi hình thức để cộng tác với Chúa qua Giáo Hội nhằm làm cho Tin Mừng Chúa lan rộng khắp mọi nơi, đến mọi tâm hồn trên trần gian này từ đời nọ đến đời kia.
Lạy Chúa, tất cả chúng con, nam hay nữ, chúng con là con cái của Chúa, là anh chị em với nhau, xin cho chúng con biết cộng tác với nhau, làm chung việc với nhau, không phân biệt nhau để đem lời Chúa đến cho những anh chị em chưa biết Chúa, nhờ đó mà họ trở thành con cái Chúa. Amen.
Các người phụ nữ đi theo Chúa trong công cuộc rao giảng Tin Mừng được thánh sử Luca ghi tên trong bài tin mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy tất cả mọi người được Chúa mời gọi bước theo Chúa. Trước hết là mười hai tông đồ rồi đến bảy mươi hai môn đệ, rồi đến các người phụ nữ và nhiều người khác nữa.
Những người phụ nữ theo Chúa gồm có đủ mọi thành phần: Người tội lỗi như chị Madalenna, người bình thường như bao người phụ nữ khác như bà Susanna, người có chức có quyền như bà Gioanna vợ Chusa, viên quản lý của vua Hêrôđê. Tất cả đều theo Chúa, giúp đỡ Chúa rao giảng Tin Mừng. Có người thì góp công sức như các tông đồ, các môn đệ, có người giúp đỡ của cải như các bà, các chị. Chúa đón nhận hết tất cả tấm lòng thành của mọi người trong công cuộc xây dựng Hội Thánh của Chúa: “Ðức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Ðó là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8, 1 – 3).
Sứ mạng rao giảng Tin Mừng được Chúa đón nhận từ Chúa Cha. Chúa đến trần gian Chúa thực hiện và Chúa không thực hiện một mình. Chúa kêu mời tất cả chúng ta cùng cộng tác với Chúa. Chúa không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, giới tính, tuổi tác, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, địa vị xã hội … Như vậy tùy theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta mà chúng ta cộng tác với Chúa. Có người đi tu để phục vụ cho việc rao giảng Lời Chúa. Có người sống độc thân giữa đời để làm chứng tá cho đời sống đức tin phục vụ mọi người. Có người sống đời sống hôn nhân gia đình nhưng đã dành thời gian tham gia các hội đoàn, các hoạt động tông đồ để mưu cầu lợi ích cho người khác. Điều mà tất cả chúng ta làm được trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống là cầu nguyện, hy sinh giúp đỡ vật chất cho việc rao giảng Lời Chúa.
Chúa đón nhận sự hy sinh giúp đỡ tiền bạc của các bà phụ nữ theo Chúa trong việc rao giảng Lời Chúa. Các bà giúp cho Chúa là tự nguyện. Chúa sử dụng sự giúp đỡ này trong sự trân trọng, quý mến, biết ơn. Chúa dùng nó để phục vụ cho công cuộc rao giảng Tin Mừng và giúp đỡ những nghèo khổ, đau bệnh, thiếu thốn.
Lạy Chúa, noi gương những phụ nữ ngày xưa giúp đỡ Chúa trong việc rao giảng tin mừng, chúng con cũng giúp đỡ Chúa mà cụ thể là giúp đỡ Hội Thánh của Chúa mà chúng con là con cái đang sống đây bằng cách cầu nguyện, sống yêu thương phục vụ, giúp đỡ vật để Hội Thánh hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó hầu làm cho danh Chúa vinh quang rạng rỡ giữa muôn người và từ đó con người sẽ tìm về với Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 24 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin Chúa nhìn đến chúng ta, và cho chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, trung thành giữ giao ước với Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Giêrusalem, người vợ bất trung. Dùng lối văn phúng dụ của Hôsê, Êdêkien kể lại câu chuyện tình giữa Thiên Chúa với dân Người. Là người vợ bất trung, dân Chúa đã bị trừng phạt, rồi được thứ tha, nhưng chứng nào tật nấy. Thiên Chúa là người chồng bị xúc phạm, vẫn quảng đại thứ tha. Ơn thứ tha là một cái gì khủng khiếp, vượt xa mọi khái niệm công trạng, sẽ là hình phạt thiết thực nhất khiến người vợ bất trung phải hổ thẹn… Ta đã gọi ngươi về như gọi người phụ nữ bị bỏ rơi. Lúc bừng bừng lửa giận, Ta đã ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa keo sơn, Ta chạnh lòng thương xót. Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi phán như vậy. Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân, Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, chấp nhận chịu thử thách để được thanh luyện, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Autinh: Con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách… Vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng, không phải để làm vừa lòng người phàm, mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Lời giảng của chúng tôi không sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai.
Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, không cậy dựa vào tiền của, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy gắng trở nên người công chính. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 48 cho thấy: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Ngày vận hạn cớ chi phải sợ, lúc bọn gian manh theo sát bủa vây tôi? Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Các bà cùng đi với Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai, đã lấy của cải mình mà giúp đỡ các ngài. Nước Trời dành cho những kẻ bé mọn, không cậy vào sức mình, của cải của mình; những người phụ nữ đi theo Đức Giêsu là những người bé mọn, họ dùng tiền của để phục vụ cho Nước Trời. Kẻ phát tài, hoặc cửa nhà phong lưu, khi chết, đâu mang được gì, kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, bởi vì, những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé. Nếu muốn dấn thân phụng sự Chúa, thì, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận thử thách. Quả vậy, nếu dám chịu thử thách, thì, người yếu sẽ nên mạnh, kẻ ốm sẽ thành khoẻ; nhờ đó, chúng ta không còn mơ ước lợi lộc trần gian này nữa. Thật thế, ta mơ ước những lợi lộc trần gian, thì, chính những mối lợi ấy sẽ làm cho ta ra hư hỏng. Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, ước gì chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Ước gì được như thế!
Dụ Ngôn Người Gieo Giống. 20/09 – Thứ Bảy tuần 24 thường niên. – Thánh Anrê Kim Têgon, Phaolô Chung Hasan và các bạn, tử đạo. Lễ nhớ. "Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
* Nhờ việc tông đồ của một số giáo dân, đức tin Kitô giáo đã đi vào Hàn Quốc đầu thế kỷ XVII. Dù thiếu các mục tử, giáo đoàn vẫn sống đức tin hăng say và mạnh mẽ. Cộng đoàn được hướng dẫn và xây dựng hầu như chỉ nhờ những người giáo dân, cho tới cuối năm 1836, khi những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp bí mật đến xứ này.
Giáo đoàn này, với những cuộc bách hại vào những năm 1839, 1846, 1866, 1867, đã sản sinh ra 103 thánh tử đạo, trong đó nổi bật là linh mục đầu tiên người Hàn Quốc, cha Anrê Kim Têgon. Cha là một mục tử hăng hái nhiệt thành. Kế đó là người tông đồ giáo dân, anh Phaolô Chung Hasan. Còn những vị khác, đa số là giáo dân nam, nữ, độc thân, có gia đình, người già, thanh niên, thiếu nhi. Tất cả đều đã lấy máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, làm nên mùa xuân tươi đẹp của Giáo Hội Hàn Quốc.
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Đức Kitô hào phóng gieo vãi lời của Thiên Chúa khắp nơi. Ngài như người gieo hạt giống, tung gieo trong gió, có vẻ như chẳng để ý đến chuyện có hạt rơi vào đất cằn khô, và một số hạt không bao giờ sinh huê lợi. Các Kitô hữu sơ khai đã đọc dụ ngôn này và thấy nơi đó một lời nhắn nhủ. Họ thấy mình chính là người đã nhận được hạt giống lời Chúa. Nhưng không phải hạt giống nào cũng thành cây lúa trĩu hạt. Có những hạt giống bị thui chột bởi những lý do bên ngoài và bên trong. Làm sao để mọi hạt giống được gieo trong tim ta, đều sinh hoa trái? Câu hỏi của Giáo hội sơ khai cũng là câu hỏi của Giáo hội bây giờ. Thửa đất là trái tim con người xưa nay vẫn thế. Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một. Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15), nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình. Nhưng có Lời bị đánh cắp. Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12). Quỷ giống như chim trời đến ăn mất hạt giống rơi xuống vệ đường (c. 5). Tại quỷ hay tại trái tim con người như đất vệ đường quá cứng? Hạt giống nằm chơ vơ, trở thành mồi ngon cho bao tấn công đe dọa. Nhưng có Lời không mọc rễ. Nghe Lời và vui vẻ đón nhận vẫn chưa đủ. Hạt giống cần có nhiều đất để mọc rễ nuôi sống cây. Đất nhiều sỏi đá chỉ cho một lòng tin nhất thời, khi mọi sự dễ dàng, nhưng không đủ sức đứng vững khi thử thách ập tới. Đã và đang có những Kitô hữu quỵ ngã trước những thách đố cam go, vì Lời Chúa chưa bao giờ mọc rễ trong tim họ. Thử thách của đời Kitô hữu làm lộ ra tình trạng “không rễ” của ta, và đòi ta tránh gặp gỡ Lời Chúa một cách hời hợt, nông cạn. Nhưng có Lời bị chết ngộp. Ngộp vì những thứ trói buộc của cuộc đời phù vân này, những lo âu trăn trở, những thèm muốn khoái lạc, giàu sang. Cây lúa có mọc lên cũng bị chết ngộp bởi bụi gai ở ngay nơi tim tôi. Cuối cùng có Lời được nắm giữ. Dù thửa đất tốt là trái tim cao thượng và quảng đại, Nhưng nắm giữ Lời Chúa cũng đòi một nỗ lực không ngừng. Bất chấp những tấn công từ bên ngoài, hay thèm muốn bên trong, cần có thái độ kiên trì để vượt qua những khủng hoảng không tránh khỏi. Xin được trân trọng nghe Lời Chúa trong thánh đường và trong cuộc sống. Xin được khiêm tốn nghe Lời Chúa qua các bậc thầy và qua trẻ thơ. Ước gì Lời Chúa giúp ta làm cho đất của tim mình xốp hơn và mềm lại, bớt đá sỏi, thêm đất màu, bớt bụi gai, thêm ẩm ướt. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa và dạy con bước đi ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày. Xin truyền cho con sức mạnh của Người. Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con tìm lại được sức trẻ để gieo trồng hàng ngàn cây xanh cho một thế giới mới Ước gì mồ hôi con pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu. Ước gì máu con hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn vì bất công và ích kỷ. Chúc tụng Chúa là Cha, đã dẫn con đi đến cùng, đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung với tràn trề bình an và niềm vui. (ĐHY Roger Etchegaray) ---------------------------------
Thật lạ lùng quá trình gieo và gặt. Quá trình mất và được. Từ bỏ và lấy lại. Chết và sống. Quá trình nảy sinh sự sống. Sự sống mới. Phong phú dồi dào. Và cao vượt. Mầu nhiệm sự sống tự nhiên đã kỳ diệu. Mầu nhiệm sự sống siêu nhiên còn kỳ diệu gấp bội.
Chúa Giê-su là người đi gieo Tin mừng. Thiên Chúa kiên trì gieo Lời Người xuống trần gian. Trải qua bao đời. Qua bao thất bại. Đến lúc phải gieo chính Ngôi Lời. Chúa Giê-su gieo chính mình. Người trở thành hạt giống. Mục nát đi để trổ sinh một mùa gặt mênh mông. Một nhân loại mới mọc lên từ Người. Giống như Người.
Nhưng để trở thành mùa gặt con người phải trở thành đất tốt. Phải cầy bừa con đường đi đã chai cứng. Phải nhặt đá sỏi. Phải nhổ bụi gai. Phải từ bỏ con người cũ. Con người của xác thịt. Con người của hời hợt nông cạn. Con người của dục vọng đam mê. Để sống theo Thần Khí. Phải gieo chính mình như Chúa Giê-su.
Đó là điều thánh Phao-lô mời gọi ta trong thư Cô-rin-tô. Ta cũng phải gieo chính mình. Phải trở thành hạt giống mục nát như Chúa. Phải từ bỏ con người cũ. Ta sẽ sống lại thành con người mới. Ta sẽ có mùa gặt mới: “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí”. Và thánh nhân giải nghĩa con người có sinh khí là con người của A-đam, con người theo xác thịt. Con người có thần khí là con người giống A-đam mới, là Chúa Ki-tô: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến” (năm chẵn).
Đây là một quá trình khó khăn. Phải mục nát đi. Phải từ bỏ chính mình. Vì thế phải quảng đại và kiên trì như lời Chúa giải thích: “Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”. Theo thánh Phao-lô từ bỏ và kiên trì đó là: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (năm lẻ).
Mùa gieo hạt như thế sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Ta còn phải cầy bừa những con đường. Nhặt đá sỏi nông nổi hời hợt. Nhổ bụi gai đam mê xác thịt. Để hoàn toàn chết đi cho con người mới. Rồi mới có mùa gặt trong Chúa Ki-tô.
Dụ ngôn, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là so sánh, là thí dụ. Trong Tin Mừng, là những câu truyện Chúa Giêsu đưa ra dựa trên những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người nghe, để giúp họ hiểu ý nghĩa những sự thật có liên quan đến niềm tin mà Ngài muốn trình bày.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về người gieo giống.
Trước hết, cần lưu ý đến sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn. Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Thật ra, hai khía cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển, nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể bỏ qua được.
Hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn. Hạt giống này tự nó có sức trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi thì gặp những hoàn cảnh đối nghịch tùy vào thái độ chấp nhận cộng tác của con người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây là chính Thiên Chúa, Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không ơn cứu rỗi cho mọi người. Thiên Chúa có sáng kiến trước, nhưng con người cũng cần cộng tác vào: hai yếu tố này không thể bỏ qua được.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta canh tân đời sống, cộng tác với ơn Chúa ban để trở thành những mảnh đất tốt đón nhận và làm phát triển hạt giống Lời Chúa. Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
Mỗi người đồ đệ cần phải cộng tác vào việc làm cho Nước Chúa được ngự đến, và trước hết là nơi chính bản thân mình. Chúa Giêsu giảng giải điều này cho các môn đệ qua dụ ngôn về người gieo giống được Giáo Hội nhắc lại trong ngày hôm nay.
Chúng ta có thể lưu ý đến một chút khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích về dụ ngôn. Khi kể về dụ ngôn Chúa Giêsu xem ra như nhấn mạnh tới sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống chắc chắn thu được thành quả. Có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng có những hạt rơi trên đất tốt và trổ sinh hoa trái gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ thì xem ra như Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa sinh hoa trái tốt. Thật ra hai khía cạnh này không đối nghịch nhau mà ngược lại cả hai cùng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể nào bỏ qua được.
Chính hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn, hạt giống Lời Chúa này tự nó có sức mạnh để trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi, được rao giảng cho mọi người thì liền gặp phải hoàn cảnh đối nghịch, gai góc, đá sỏi tùy thuộc vào thái độ chấp nhận cộng tác của người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây được hiểu là chính Thiên Chúa. Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không cho tất cả mọi người ơn cứu rỗi.
Thiên Chúa đã có sáng kiến ứng trước cho con người nhưng phần con người thì cũng cần cộng tác đáp lại. Hai yếu tố không thể bỏ qua được. Thiên Chúa không áp đặt nhưng kính trọng tự do của con người. Những trở ngại không cho hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái là thái độ hời hợt, xu thời, không kiên trì, lo lắng tích trữ giàu sang vật chất, say mê đi tìm thú vui.
Mỗi người chúng ta cần canh tân đời sống cộng tác với ơn Chúa ban, cố gắng sao để trở thành mảnh đất tốt đón nhận hạt giống Lời Chúa. Một tâm hồn cao thượng, quảng đại và kiên trì giữa những gian nan thử thách của cuộc đời, đó là điều Thiên Chúa hằng mong ước gặp được nơi mọi người đồ đệ của Ngài, nơi mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin ban cho con được trở nên mảnh đất tốt hàng ngày đón nhận và Suy niệm Lời Chúa cũng như sống thực hành những gì Chúa truyền dạy.
Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
“Người gieo giống ra đi gieo hạt giống của mình, trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cũng mọc lên làm nó chết nghẹt. Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Nói xong, Người hô lên rằng: “Ai có tai nghe thì nghe”
Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. Người đáp: “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu njiệm Nước Thiên Chúa; còn đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Lc. 8, 5-9)
Chức vụ Đức Kitô ở Galilê đến hồi kết thúc. Người muốn cho đông đảo dân chúng tụ họp chung quanh hiểu về mầu nhiệm nước trời bằng một dụ ngôn mang ý nghĩa vừa cụ thể vừa cao siêu. Dụ ngôn không có sức gắn liền với trí tuệ, tự nó không bao giờ minh hiển. Nó dự báo chân lý và phải nhờ đường lối của Thiên Chúa mới làm cho tâm hồn nắm bắt được chân lý và trở về với chân lý.
Pascal đã viết: trong tư tưởng của Chúa “Có đủ rõ ràng để soi cho những người được tuyển chọn, và khá tối tăm để giúp họ khiêm hạ. Có đủ tối tăm để làm kẻ thách thức mù quáng, và khá rõ ràng để kết án họ và làm cho họ không thể chối cãi”. Những dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng vừa sáng vừa tối để họ không thể chiến thắng bằng sức riêng của mình, nhưng cũng để tôn trọng tự do của mỗi người. Đối với dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay cũng thế.
Người gieo ra đi gieo giống, cũng gặp nhiều tai họa: có hạt rơi trên vệ đường bị người và vật dày đạp và sau cùng bị chim trời đến ăn. Có hạt chết khô đét trên đá vì thiếu ẩm ướt. Có hạt bị chết nghẹt trong bụi gai không vươn lên được. Sau cùng rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả.
Ai có tai thì hãy nghe.
Sứ điệp Tin Mừng trải qua bao nhiêu thời gian đã bị rơi vào những con tim tin ma thờ quấy, hay nông nổi nhất thời hay ham mê danh lợi thú. Chỉ có những con tim chân thành, khiêm tốn, kiên trì, cao thượng mới sinh hoa kết quả cho những mùa gặt phong phú. Lòng yêu mến của họ sẽ giúp họ nắm giữ và thực hành được lời Chúa, dầu gặp những thất bại, thử thách, đau khổ, chống đối, bắt bớ và phải chết, họ vẫn an tâm vững chí kiên trì cho đến tận cùng. Ngày qua ngày, khiêm tốn họ sống thực hiện những điều đã khám phá do Thiên Chúa ban ơn, họ dần dần đi vào cuộc sống thân mật của Thiên Chúa.
Nói đến gieo giống, người ta nghĩ ngay đến ai là người gieo? Gieo gì? Và gieo vào đâu? Hạt giống mọc lên ra sao? Sinh hoa kết quả thế nào...?
Hôm nay Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người gieo giống và mặc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai hay vô tâm, chỉ ¼ là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một ¼ số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa.
Những thứ đó là: lối sống sa đọa, nhu nhược, vô luân, không có tự trọng... tham nhũng, bóc lột, lừa gạt, dẫn đến tình trạng: “Ai làm sao, tôi làm vậy. Ai làm bậy, tôi cũng làm theo”, nên Lời Chúa không sinh ích cho người đón nhận.
Thực vậy, biết bao con người hôm nay cứ trố mắt và lao mình vào những con đường tội lỗi mà không hề có chút ưu tư. Họ sống như không có gì xảy ra vậy.
Nơi giới trẻ ngày nay, tình trạng thượng tôn tình dục, văn hóa đồi trụy đang là mốt rất “hót”, dẫu vẫn biết rằng văn hóa phẩm đồi trụy là nguyên nhân nguy hiểm, tác hại khôn lường đến đời sống đạo đức gia đình, xã hội và làm băng hoại Lương Tâm, dẫn đến tình trạng mù quáng và đi vào con đường chết! Nhưng vì đồng tiền và bản năng “hạ đẳng” của con người, họ vẫn ngang nhiên cung cấp và thỏa sức sử dụng... như loài không có lương tri, không có linh hồn...!
Quả thật, những người đó, và đôi khi có cả chúng ta, là những người có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy. Lời Chúa đến với họ chẳng khác gì "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ đầu vịt, lá khoai".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết lắng nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa, và trung thành với giáo huấn của Chúa, ngõ hầu như hạt giống tốt gặp được thửa đất màu mỡ là tâm hồn ngay thẳng để trổ sinh nhiều bông hạt tốt tươi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con là thửa đất tốt để hạt giống của Lời Chúa luôn triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
Sứ điệp: Lời Chúa như hạt giống, lòng người như thửa ruộng. Hãy cầy xới mảnh đất tâm hồn để hạt giống Lời Chúa phát triển và sinh ra những hoa trái thánh thiện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đang gieo hạt Lời Chúa vào lòng con. Con có nhiệm vụ vun xới cho Lời Chúa nảy mầm, bám rễ vào lòng con. Chúa tin tưởng con, trao phó cho nhiệm vụ vun trồng cây đức tin và hằng ngày đợi chờ con dâng về Chúa những hoa trái việc lành phúc đức.
Con quyết không để lòng mình như vệ đường chai cứng. Con sẽ nghe theo tiếng lương tâm, sống theo lẽ phải. Con sẽ học hỏi Lời Chúa và giáo lý để luyện lương tâm con ngay thẳng, để Lời Chúa nảy mầm nơi tâm hồn con.
Xin cho lòng con đừng trở nên sỏi đá. Có nhiều lúc con muốn thực thi Lời Chúa nhưng lại ngại khó. Xin cho con đừng bỏ cuộc khi Tin Mừng đòi con cố gắng.
Xin cho con biết khai quang tâm hồn con khỏi những bụi gai thói hư tật xấu vốn phát triển nhanh theo tính tự nhiên. Cả những công ăn việc làm, cả những giải trí vui chơi khi đã trở nên đam mê, cũng là bụi gai bóp nghẹt Lời Chúa nơi con. Xin cho lòng con biết hướng về Chúa và vươn tới những điều cao đẹp.
Xin cho con biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Giao Hòa và bí tích Thánh Thể, để tâm hồn con trở thành mảnh đất tốt thích hợp cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái thánh thiện trong đời sống con. Amen.
Ghi nhớ: “Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.
Nhờ nghe Lời Chúa, dân thành Ninivê ăn năn trở lại và được cứu rỗi.
Nhờ nghe Lời Chúa, vua Đavít bắt đầu nhận thấy tội lỗi nặng nề của mình và ăn năn thống hối, trở thành một vị vua thánh thiện.
Nhờ nghe Lời Chúa, Augustinô bắt đầu xấu hổ về những tội mình đã phạm hồi còn trẻ, ăn năn hối cải, trở lại với Chúa, và trở thành một vị giám mục thông thái, thánh thiện.
Nhờ nghe Lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã từ bỏ những đeo đuổi vinh sang trần tục, ra đi làm việc tông đồ để trở thành một trong những nhà truyền giáo danh tiếng nhất của Giáo hội.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày giáo huấn nước Thiên Chúa qua dụ ngôn về người gieo giống và giải thích dụ ngôn đó. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn.
Khi trình bày dụ ngôn, Chúa nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống, dù có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Thiên Chúa là người gieo hạt giống đã làm tất cả để hạt Lời Ngài giảng dạy nảy sinh mầm.
Khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến sự cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt. Mảnh đất phải được dọn cỏ, phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.
Dẫu biết rằng tâm hồn mình còn nhiều sỏi đá, cỏ lùng, đừng thất vọng mà để hoang tàn, nhưng xin vẫn cứ chăm chỉ: Chăm chỉ nhặt sỏi, chăm chỉ nhổ cỏ, vun trồng chuẩn bị tốt cho mảnh đất của đời mình để sẵn sàng đón nhận hạt giống được gieo trong mùa màng hồng ân. Khi mùa gặt tới, mong rằng, mảnh đất đời tôi, đời bạn nuôi dưỡng giống, ít nhất cho những hạt sinh được ba mươi…
Ý lực sống
“Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới dội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần” (Tv 64,10).
Khi đi truyền giáo, Đức Giêsu đi rao giảng về Nước Thiên Chúa hay Nước trời. Đây là những ý tưởng quá trừu tượng mà thính giả phần lớn là dân quê, ít học, ngay các Tông đồ nòng cốt cũng ở trong tình trạng đó. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo lúa để nói về hạt giống Lời Chúa. Theo đó, Lời Chúa như hạt giống được gieo vào lòng mọi người, để có thể phát triển và sinh hoa kết quả tùy theo thái độ đón nhận của từng người: có người không chấp nhận, có người chấp nhận với thái độ ơ hờ lạnh nhạt, có người đón nhận với lòng thành để Lời Chúa có thể sinh hoa kết quả dồi dào gấp 30, 60 hay 100 lần.
Để dễ hiểu dụ ngôn này, chúng ta cần biết phương pháp gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu. Theo kỹ thuật canh tác thông thường, người nông dân cày xới đất trước, rồi mới gieo vãi hạt giống. Nhưng vào thời Đức Giêsu, người nông dân Palestina xem ra đảo ngược phương pháp canh tác ấy khi họ gieo vãi rồi mới cày xới. Với kỹ thuật canh tác này dĩ nhiên người nông dân xem ra không nhọc công nhưng lại phí phạm rất nhiều hạt giống. Vì vậy, người nông dân không tính toán, không loại trừ. Cả mảnh đất màu mỡ lẫn mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông luôn muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp mọi nơi.
Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người gieo giống và mạc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai và vô tâm, chỉ 1/4 là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều, là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ 1/4 số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái. Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa (Ngọc Biển).
Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào vô ích. Thiên Chúa sẽ gieo hạt giống Lời Chúa vào mỗi tâm hồn không loại trừ. Việc gieo Lời Chúa lúc nào cũng dồi dào phong phú, còn phía chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận Lời Chúa với thái độ nào? Theo bài Tin mừng, Đức Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Thiên Chúa:
* Đất vệ đường: những kẻ chẳng tha thiết gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
* Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.
* Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải... Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt.
* Đất tốt: những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào trong tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.
Hạt giống nào cũng ẩn chứa những hy vọng; bông hoa nào cũng mang đến những niềm vui. Dẫu biết rằng có những hạt giống bị hư hao do các loại tâm hồn vệ đường, đá sỏi, bụi gai, nhưng người gieo giống – hình tượng của Thiên Chúa – vẫn lạc quan, vì hy vọng sẽ có những hạt rơi vào tâm hồn đất tốt, để rồi sinh hoa kết hạt bội thu. Có vẻ như thất bại của các hạt giống càng lúc càng gia tăng: hạt giống chưa kịp nảy mầm bị chim trời ăn mất, hạt giống đã nảy mầm nhưng bị chết héo, hạt giống đã thành cây con nhưng bị chết ngạt. Thế nhưng, chỉ cần vài hạt giống rơi vào đất tốt, hạt gấp trăm, chẳng những bù đắp những hư hao, và còn dư dật phong phú. Dụ ngôn cho ta cái nhìn lạc quan về Nước trời, về việc nên thánh của người con cái Chúa (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Hạt giống bông lau
Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo, và chẳng bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.
Chúng ta có thể rút ra được bài học qua kinh nghiệm này: sau khi đã tìm hiểu Lời Chúa, chúng ta phải quyết tâm lắng nghe, thực hành và phổ biến Lời Chúa cho người khác. Muốn cho cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả, muốn cho bản thân thành đạt trên đường đời, hãy kiểm tra ruộng lúa tâm hồn thường xuyên và kỹ lưỡng như người nông phu luôn biết săn sóc ruộng sạ của mình. Càng vất vả cày bừa, diệt cỏ, càng can đảm diệt tính hư nết xấu, Lời Chúa gieo xuống, càng đem lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
- Hãy để ý đến sự rộng rãi đến nỗi như hoang phí của người gieo giống: gieo cả trên vệ đường và nhiều nơi mà hy vọng nẩy mầm rất ít.
- Cũng hãy để ý đến những loại đất xấu: a/ Đất vệ đường là người quá hời hợt, vừa nghe là quên ngay; b/ Đất sỏi đá là người không kiên trì trong gian nan thử thách; c/ đất đầy gai là người chất chứa trong lòng nhiều lo toan việc đời.
- Đất tốt là “những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy lời, và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”
B.... nẩy mầm.
1. Tôi phải học tính quảng đại và lạc quan của người gieo giống trong dụ ngôn này: không nên tiếc công gieo Lời Chúa, cũng không nản lòng khi thấy Lời Chúa không sinh kết quả nơi một số người. Cứ lạc quan hăng hái chu toàn nhiệm vụ của mình, như Thánh Phaolô: “Tôi trồng, Apollo tưới, Thiên Chúa cho mọc lên”.
2. Hãy suy gẫm kỹ những điều kiện làm cho hạt giống nẩy mầm:
- “Nghe Lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo”: lắng nghe với thiện chí muốn tìm ánh sáng hướng dẫn đời mình.
- “Giữ lấy Lời một cách kiên nhẫn”: không bỏ cuộc dù thời gian kéo dài, dù gian truân thử thách; không để mình bị phân tâm vì những lo toan và đam mê việc đời.
3. Mỗi ngày Chúa dọn cho tôi hai bàn tiệc: bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa được dọn sẵn không phải chỉ trong Thánh lễ, mà còn lúc nguyện gẫm, lúc đọc Thánh Kinh…
4. Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi ”Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời ”Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”...
Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất.
Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua ”Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”...
Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”. (Góp nhặt)
1. Một lần nữa chúng ta đọc dụ ngôn người gieo giống:
Người gieo giống trong dụ ngôn hôm nay là một người hết sức hào phóng, hào phóng đến mức độ có thể coi là hoang phí. Ông gieo hạt giống cả trên những vệ đường, vào những nơi mà hy vọng nảy mầm rất ít.
Và chúng ta cũng hãy để ý đến những loại đất người gieo giống gieo vãi hạt giống trên đó. Rõ ràng là có cả đất xấu lẫn đất tốt.
a/ Đất vệ đường ám chỉ loại người quá hời hợt, vừa nghe là quên ngay;
b/ Đất đá sỏi là người không kiên trì trong gian nan thử thách;
c/ Đất đầy gai là người chất chứa trong lòng nhiều lo toan việc đời.
d/ Đất tốt là “những người nghe với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy lời, và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.
Mỗi lần đọc lại dụ ngôn người gieo giống và suy gẫm, lòng tôi cảm thấy không yên. Khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn đó, tôi lại càng có cảm tưởng như một lời trách móc.
Lời Chúa là hạt giống và cuộc sống của tôi là mảnh đất.
Cho đến hôm nay, Chúa đã gieo vào tai tôi, lòng tôi bao nhiêu hạt giống: hãy tha thứ, hãy sống khoan dung, hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, đừng lên án, hãy sống quảng đại... Nhưng thử hỏi đã có được bao nhiêu hạt giống mọc lên trong tâm hồn cũng như trong cuộc sống của tôi? Khi đối chiếu cuộc sống của mình với Lời Chúa, tự nhiên tôi cảm thấy sợ. Mảnh đất của đời tôi, đứng xa mà nhìn thấy xanh tươi, nhưng lại gần, nhìn kỹ thì thấy màu xanh đó là màu xanh của cỏ dại. Thế mà tôi cứ sống an tâm với thửa đất đầy cỏ dại đó, đầy thói hư nết xấu đó, một thửa đất được ngụy trang bằng một màu xanh đạo đức bề ngoài.
Chúng ta hãy xin Chúa điều chỉnh lại cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta biết luôn sống thế nào cho đẹp lòng Chúa.
2. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Trong lời nhắn nhủ, rõ ràng Chúa đã muốn nói đến hai yếu tố quan trọng để trở thành mảnh đất tốt: nghe Lời Chúa với lòng quảng đại và quyết tâm nắm giữ với sự kiên trì.
Thường thì phần đông chúng ta nghe Lời Chúa một cách thờ ơ, ra khỏi nhà thờ là quên rồi!
Một số ít sẵn sàng chú ý nghe Lời Chúa, nhưng thiếu quyết tâm nắm giữ và thiếu kiên trì, nên cũng không đưa đến hoa trái nào cả.
Có những hạt rơi vào chỗ đất tốt, nảy mầm, mọc lên, sinh hoa kết quả: hạt được 30, hạt được 60, hạt được 100…..
Bà Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigeria, châu Phi, đã kể lại một câu chuyện thật cảm động sau đây:
“Một ngày kia tôi được mời đến dự lễ Giáng Sinh tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến một số người cùi đông như vậy dâng lễ. Buổi lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào tôi cũng thấy người ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ... chỗ nào cũng đông nghẹt người. Tôi thấy họ thật đáng thương, Mặc dù bị bệnh tật gậm nhấm và thân thể họ bị hủy hoại dần dần, nhưng khuôn mặt người nào người nấy lúc nào cũng biểu lộ niềm vui khó tả. Mắt họ sáng ngời khi hát lên những bài thánh ca Giáng Sinh.
Đến phần công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên đọc Sách Thánh. Ông ta phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, mục sư mời mọi người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho mình, người bệnh cùi vừa đọc sách thánh giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên nhỏ nhẹ nói:
- Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Tôi - bà Scaggs - lấy làm lạ, nói với người thông dịch cho tôi rằng, anh ta đã dịch sai. Không ai lại có thể cám ơn Chúa vì “được cùi” bao giờ. Người thông dịch như không để ý đến những gì tôi vừa nói. Anh tiếp tục dịch lại lời người bệnh đang giải thích. Người đó nói đến nguyên do khiến anh ta nói như thế:
- Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ được biết Chúa Giêsu, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ giúp tôi!
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành, Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả. Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở. Amen.
Chúa đến trần gian, Chúa rao giảng lời Chúa cho tất cả mọi người, Chúa không bỏ rơi sót một người nào, ai cũng được Chúa mời gọi đón nhận. Thế nhưng việc đón nhận, đón nhận như thế nào về lời Chúa thì tùy thuộc ở tâm hồn của từng con người chúng ta.
Đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy tuy là con người giống nhau, cũng đầu đen máu đỏ, nhưng tâm hồn mỗi người chúng ta không có giống nhau. Có người có tâm hồn là đất vệ đường, có người có tâm hồn là đất sỏi đá, có người có tâm hồn là đất bụi gai, có người có tâm hồn là mảnh đất tốt để rồi chúng ta thấy bộ mặt thế gian này quá phúc tạp, quá nhiêu khê, chẳng biết đâu mà dò cho được lòng người. Do đó, mà hay xảy ra sự mâu thuẫn, tranh chấp, hơn thua, ganh tỵ, hèm khích, hận thù, chiến tranh, chết chóc.
Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, tốt lành vô cùng, Chúa ban phát lời Chúa, ban phát muôn ơn lành, Chúa rất đau lòng khi tâm hồn chúng ta là đất vệ đường, đá sỏi, bụi gai là vì chúng ta không đón nhận lời Chúa, và ơn Chúa, để rồi ơn Chúa trôi qua một cách vô bổ, không mang lại hiệu quả cho cuộc sống chúng ta, không làm thay đổi cuộc sống chúng ta để chúng ta được Chúa cho sự sống đời đời mà phải bị nô lệ cho tội lỗi, trầm luôn mãi mãi.
Nhưng còn khi tâm hồn chúng ta là một mảnh đất tốt, Chúa sẽ rất vui và rất hài lòng, và Chúa ao ước điều này nơi chúng ta. Làm sao mà Chúa không vui, không hài lòng được khi các ơn Chúa ban cho, Chúa thấy chúng ta hết lòng đón nhận và nổ lực cộng tác và ơn Chúa, lời Chúa cứ thế hàng ngày lớn lên trong chúng ta, và là nguyên nhân mỗi ngày chúng ta sống tốt hơn, đễ thương hơn, đẹp lòng Chúa hơn bằng các nhân đức chúng ta làm được khi thực hiện theo lời Chúa dạy.
Chúa mong muốn, Chúa ao ước tâm hồn chúng ta luôn là mảnh đất tốt tươi để cho lời Chúa sinh sôi nảy nở lớn lên trong chúng ta. Vì thế chúng ta đừng làm cho Chua thất vọng, đau buồn qua cách sống của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng sống theo lời Chúa dạy, nghĩa là phải lo giữ đạo Chúa cho tốt, cho đàng hoàng, tử tế, xa tránh các tội lỗi, sống bác ái yêu thương, phục vụ, khoan dung, tha thứ, luyện tập các nhân đức. Giả sử như có một lúc nào đó trong cuộc sống đời này, vì lý do kia, một duyên cớ nọ, hay một lý do nào khác nữa, mà tâm hồn chúng ta không là mảnh đất tốt, chúng ta phải chạy đến Chúa liền, phải cầu xin Chúa cứu giúp chúng ta, để chúng ta lo sửa dọn tâm hồn chúng ta, lo ăn năn sám hối, thú nhận tội lỗi, xin Chúa tha thứ nơi bí tích Giải tội, và nhờ đó tâm hồn chúng ta trở lại mảnh đất tốt như Chúa mong muốn.
Lạy Chúa, chúng con biết chắc là khi chúng con cầu nguyện, Chúa sẽ nhậm lời chúng con để Chúa bảo vệ, nâng đỡ chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết luôn tin tưởng, cậy trông vào Chúa và bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa để chúng con được cho gặp Chúa khi chúng con về với Chúa. Amen.
Người gieo giống mà Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay đó chính là hình ảnh của Chúa. Chúa thương chúng ta. Chúa gieo Lời Chúa cho tất cả mọi người. Chúa không phân biệt một ai, có một điều là Lời Chúa có sinh hoa kế quả hay không là do chính đời sống của chúng ta.
Chúng ta mong ước tâm hồn chúng ta luôn là mảnh đất tốt: “Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm” Nói xong, Người hô lên rằng: Ai có tai nghe thì nghe” (Lc 8, 8), và Chúa giải thích “Hạt giống rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15). Muốn được như vậy, trước hết chúng ta phải cầu xin Chúa giúp chúng ta. Tiếp đến, chúng phải cố gắng sống những điều Chúa dạy bảo. Nghĩa là chúng ta lo cày xới, dọn dẹp tâm hồn bằng cách xa lánh tội lỗi, dịp bỏ những ngổn ngang ham muốn trái ý Chúa, như là những đam mê xác thịt, tính hư tật xấu, tham sân si, chuyên cần làm các việc lành phúc đức, tập cách sống khắc khổ hy sinh hãm mình hàng ngày. Đàng khác, khi nghe lời Chúa dạy, chúng ta mở rộng đôi tai của trí não, của con tim, của đức tin, chúng ta đón nhận lời Chúa vào tâm hồn và chúng giữ Lời Chúa ở lại với chúng ta. Chúng ta giữ lời Chúa bằng cách ghi nhớ, suy đi nghĩ lại, nghiền ngẫm để Lời Chúa trở thành máu thịt xương cốt của chúng ta, và chất lời Chúa lan tỏa khắp cơ thể con người chúng ta, biến chúng ta trở thành một Kitô khác: “Sau đó, Chúa đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ của Chúa thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 51).
Thực hiện Lời Chúa không phải một hay hai ngày mà là suốt cả cuộc đời chúng ta. Chúng ta kiên trì nhẫn nại thực hiện. Chúng ta phải vượt qua chính mình, vượt qua những khó khăn do bản tính thích dễ dãi, ngại gian lao của chúng ta. Thực hiện lời Chúa là đi vào con đường hẹp, là vác thập giá theo Chúa mỗi ngày, là từ bỏ chính bản thân chúng ta để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Lúc đó hoa nhân đức sẽ trổ sinh và cuộc sống chúng con sẽ là bình an và hạnh phúc.
Đơn cử một điều, giả sử chúng ta là người hay nóng giận la lối om sòm, Lời Chúa dạy chúng ta trong “Tám mối phúc thật” (Mt 5, 1 – 12), là sống “ Hiền lành”, chúng ta phải tập từng ngày. Đang lúc tập sống hiền lành nhịn nhục thì gặp điều trái ý, chúng ta lại nóng nảy la lối tiếp. Chúng ta xét mình và thấy mình vi phạm, chúng ta lại tiếp tục thực hiện cho đến khi bỏ được tính nóng giận. Có người tập cho đến chết mà vẫn chưa hoàn thành được. Chúng ta cần nhớ là phải cầu xin Chúa giúp chúng ta. Nếu tự sức chúng ta làm, chúng ta khó mà đạt kết quả được.
Lạy Chúa, chúng con có đôi tai để nghe Lời Chúa dạy bảo chúng con đây, xin Chúa giúp chúng con yêu mến những điều Chúa truyền dạy để dù sống giữa những bon chen, thế trần đổi thay của cuộc sống, chúng con vẫn tìm đến với Chúa là nguồn hạnh phúc chân thật của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thánh Anrê Kim Têgon, thánh Phaolô Chung Hasan và các bạn hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã mời gọi dân tộc Triều Tiên đón nhận đức tin Công Giáo, để gia nhập cộng đoàn dân Chúa chọn, Chúa lại ban cho cộng đoàn này tăng trưởng nhờ lời tuyên xưng đức tin của các bậc anh hùng là hai thánh Anrê Kim, Phaolô Chung cùng các bạn, tử đạo. Xin Chúa nhậm lời cầu nguyện của các ngài, mà ban cho chúng ta biết noi gương các ngài để lại, là trung thành tuân giữ giới răn Chúa cho đến khi nhắm mắt lìa đời.
Trung thành tuân giữ giới răn Chúa, để khỏi bị luận phạt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Trách nhiệm cá nhân, ngược với những gì truyền thống đã dạy, tình liên đới của dân Chúa không đến độ giam hãm con người trong tội lỗi kẻ khác, hay biến sự thánh thiện của người khác thành khiên thuẫn bảo vệ cho mình. Cuộc sống chẳng bao giờ là một trò may rủi. Trong lãnh vực luân lý, phải cố gắng tới cùng, và lúc nào cũng có thể trở lại với Chúa. Trách nhiệm của con người nặng thật, nhưng trong ý định của Thiên Chúa, trách nhiệm đó đưa con người đến cứu độ chứ không phải diệt vong… Cha ông ăn nho xanh, con cháu bị ê răng: người ta sẽ không còn nói như vậy nữa, nhưng ai phạm tội, kẻ ấy phải chết. Ta sẽ xét xử các ngươi: ai nấy theo đường lối của mình: con không mang lấy tội của cha, cha cũng không mang lấy tội của con.
Trung thành tuân giữ giới răn Chúa, để làm chứng cho Chúa, dù có bị bách hại, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích huấn dụ cuối cùng của thánh Anrê Kim Têgon: Đức tin được thành toàn nhờ đức ái và sự kiên trì… Đây là các vị tử đạo đã làm chứng cho Chúa Kitô và ca ngợi Thiên Chúa mà không sợ những lời đe dọa. Máu các ngài đổ ra là mầm giống làm nảy sinh các Kitô hữu. Bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực các ngài được mọi người biết đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng kỳ thực các ngài vẫn sống; bị coi như chẳng có gì, nhưng kỳ thực là có tất cả.
Trung thành tuân giữ giới răn Chúa, để không có chi đáng trách trong ngày Chúa ngự đến, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 99 kêu gọi: Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo. Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hạnh phúc thay người thành tâm thiện chí, hằng ấp ủ lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời Chúa và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả. Thiên Chúa như nhà nông kiên nhẫn chờ ngày thu hoạch: Người nhận mặt đất làm thửa ruộng của Người, nhận chúng ta là những con người làm thóc giống, ban ân sủng làm phân bón. Người còn lấy máu mình mà tưới trên chúng ta nhờ việc nhập thể và cứu chuộc, để chúng ta có thể lớn lên và trở thành bông lúa chín vàng. Đến ngày phán xét là lúc thu hoạch, người nào nhờ ân sủng mà thành bông lúa chín, sẽ được hưởng Nước Trời với tư cách nghĩa tử của Thiên Chúa. Chúa đã mời gọi dân tộc Triều Tiên đón nhận đức tin Công Giáo, để gia nhập cộng đoàn dân Chúa chọn, Chúa lại ban cho cộng đoàn này tăng trưởng nhờ lời tuyên xưng đức tin của các bậc anh hùng là hai thánh Anrê Kim, Phaolô Chung cùng các bạn, tử đạo. Ước gì ta biết noi gương các ngài để lại, là trung thành tuân giữ giới răn Chúa cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Ước gì được như thế!