Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu". Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".
Cái kho là quan trọng. Kho bạc quan trọng đối với một đất nước. Kho lẫm cần cho người làm nghề nông. Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng. Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng. Mọi lợi nhuận đều thu vào kho. Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng. Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này: phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn, rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm. Khi nhà kho đã an toàn thì tương lai của ông vững vàng ổn định. Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm. Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống. Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai. Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc. Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34). Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy. Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở. Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác. Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho. Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho. Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay. Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho. Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên, chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới. Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này. Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu. “Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15). Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình, để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi, nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân. Ðừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích. Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa là người biết mở kho để trao đi và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại. Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn vì vừa mới cho đi tất cả. Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn. Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội. Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen. ----------------------------------
Tiền bạc của cải là mối bận tâm lớn của con người. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. HIện nay hệ thống tài chính nắm quyền sinh sát thế giới. Trong nền sản xuất công nghiệp phát triển, cần rất nhiều nguyên liệu và nhiên liệu. Ai có nhiều tài nguyên này sẽ giầu có. Sẽ có thế lực. Sẽ điều khiển thế giới. Vì thế ai cũng lo chiếm hữu nhiều tài nguyên. Để có nhiều tiền bạc của cải.
Nhưng nếu chỉ bận tâm về tiền bạc của cải sẽ rất nguy hiểm. Cần có ý thức về những giá trị lớn hơn, cao hơn, bền vững. Nên Chúa Giê-su cảnh báo: “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Kể dụ ngôn ông nhà giầu xây kho. Toan tính rất hợp lý, có vẻ chắc chắn và lâu dài. Nhưng biết một mà không biết mười. Chúa chỉ cần đưa ra một câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai”? Tất cả sụp đổ tan tành. Điều quan trọng là bảo đảm được mạng sống. Mạng sống đời này. Nhưng nhất là mạng sống đời đời. Điều đó không nằm trong tầm tay con người. Cần có kho khác và của cải khác bền vững hơn.
Thư Rô-ma cho biết ta tìm thấy điều đó trong Chúa Giê-su Ki-tô. Như tổ phụ Áp-ra-ham đã tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa. Dám bỏ quê hương tài sản ra đi khi tuổi đã cao. Dám hiến tế cả đứa con trai duy nhất dù chẳng hi vọng sinh con được nữa. Chỉ giữ đức tin vào lời hứa. Tin vào một Thiên Chúa. Chỉ có một đức tin. Tin cả khi không còn gì để tin. Nên tổ phụ đã được tất cả mọi ân sủng do lời hứa của Thiên Chúa đem lại. Cũng thế, khi ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô ta cũng được tất cả. Vì Chúa Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại. Đã từ bỏ tất cả. Để rồi được lại tất cả. Chúa trở nên kho tàng của ta. Tin vào Chúa ta sẽ nên công chính như tổ phụ Áp-ra-ham. Sẽ được lại tất cả (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô giải nghĩa sâu xa hơn. Kho tàng chúng ta có không do công sức của ta. Nhưng do lòng nhân hậu của Chúa. Chúng ta đã sống theo xác thịt. Theo thế gian. Đáng phải chết. “Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”. Đó là kho tàng không bao giờ hư nát. Vì đó là kho tàng không phải do ta làm ra. Nhưng nhờ tin vào Chúa Ki-tô, ta được thụ hưởng: “Ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (năm chẵn).
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể một truyện ngụ ngôn như sau:
Ngày kia, một người phú hộ gọi người đầy tớ trung thành nhất đến và nói:
Tôi muốn thưởng lòng trung thành của anh; ngày mai, từ lúc mặt trời mọc, anh hãy ra đi, và tính cho đến lúc mặt trời lặn, bao nhiêu dặm anh đi được là bấy nhiêu dặm đất thuộc về anh.
Con người khốn khổ bao năm sống nhờ ông chủ giầu có tưởng mình đang mơ. Tối đó anh không sao chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng để lên đường. Khi ánh dương vừa ló rạng, anh đã hăm hở ra đi. Anh cố gắng đi thật nhanh, nhưng vẫn không thỏa mãn với tốc độ đi, thế là anh liền chạy. Càng nhìn lại quãng đường đã qua, anh càng chạy nhanh hơn, vừa chạy vừa mơ: rồi đây anh sẽ có nhiều đất đai, sẽ giầu có hơn người, sẽ không còn phải sống cảnh đầy tớ nữa; càng mơ, anh càng chạy. Giữa trưa nắng, anh cũng không màng đến chuyện ăn và nghỉ ngơi lấy sức, anh không muốn mất một tấc đất nào. Chiều đến, khi những tia nắng tắt, anh dừng lại và reo lên: "Ðây là đất của ta, ta sẽ có tất cả cho ta, cho gia đình, cho tương lai". Thế nhưng, chính lúc thốt lên câu đó, anh thấy mắt mình hoa lên, tay chân không cử động và tim cũng ngừng đập. Ngày hôm sau, người ta chôn cất con người khốn khổ ấy trong hai thước đất, khoảng đất vừa đủ cho một con người.
Nỗi khốn khổ của người đầy tớ trên đây chính là sự khờ khạo của anh; anh khờ khạo đến độ không nhận ra cái bẫy người giầu giăng ra, cũng như không đo lường được sức mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giầu có là ngu dại. Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không?
Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính.
Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy. Những giành giựt mưu sinh có thể biến chúng ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống. "Cái khó không những bó cái khôn", mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh hướng đi. Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, nhưng điều người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa.
Dù phải lội ngược dòng để trung thành với những giá trị Nước Trời, chúng ta cũng hãy can đảm tiến bước và tín thác vào Chúa.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” (Lc. 12, 15)
Đức Giêsu đến thế gian để lo thực hiện công việc của Cha Người: “Của nuôi Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công việc của Ngài”. Người loan báo nước trời đã đến rồi, phải sám hối trở về kẻo quá trễ. Thời giờ gấp lắm rồi.
Có một người đến xin Đức Giêsu bảo anh mình chia gia tài cho mình. Chúng ta tất cả cũng giống như anh đó thường xin Người giúp đỡ cho những nhu cầu của chúng ta hàng ngày. Đức Giêsu không được Thiên Chúa sai đến để lo giải quyết những công việc đời này. Thánh ý Thiên Chúa là muốn Người loan báo Tin mừng cứu độ cho người nghèo khổ. Đó mới là khẩn thiết! Người không để bị phân tán về những việc theo đuổi của cải thế gian. “Coi chừng!” đời sống đời đời của mỗi người không được của cải bảo đảm đâu. Thay vì trì hoãn để tham lam thu góp giàu sang thế gian, hãy lo chuẩn bị đón nhận nước trời.
Chúng ta đều biết tất cả mọi của cải dễ gây rắc rối bấn loạn. Những người tham quyền, tham giàu, tham danh, hưởng lạc, tự do buông thả, của cải dù bất chính hay chính đáng không bao giờ thỏa mãn dục vọng cho đã, cho sung sướng, vui chơi thỏa thích đâu. Họ không lo đến ngày mai. Họ muốn tất cả, do đó chắc chắn bằng bạo lực hay bằng sức cố gắng riêng và kiệt lực đến bất nhẫn. Họ thật vô phúc như sách Khôn ngoan nói: Chúng bôn ba vội vã hưởng lạc nhờ của hiện có và phung phí của thiên tạo như thời thanh xuân trác táng. Đức Giêsu bảo: “Đồ ngốc, đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi”, và sau đó còn gì …?
Lúc thuận cũng như lúc nghịch, Đức Giêsu thường nhắc tới tính chất mỏng dòn của đời sống, đặc biệt đối với kẻ tưởng mình được ổn định. Cái chết thường xuyên xẩy đến, nhất là lúc chúng ta không ngờ. Cần phải tích trữ những kho tàng trên trời bằng sám hối, cầu nguyện, ăn chay và bố thí trước kẻo quá trễ.
Của cải là nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Không có tiền, chúng ta khó có thể đáp ứng nhu cầu căn bản như cơm ăn, áo mặc. Tuy nhiên, của cải là con dao hai lưỡi, nó có thể trở thành đầy tớ tốt cho những ai biết sử dụng và trở thành ông chủ tồi nơi những kẻ thượng tôn nó.
Trong thực tế, rất nhiều người cảm thấy an tâm vì cho rằng: “Có tiền mua Tiên cũng được”! Đây là một quan niệm sai lầm căn bản.
Chính vì thế, nên Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh báo những kẻ bám vào của cải vật chất như là cứu cánh của mình rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Thật vậy, kho tàng của chúng ta có đồ sộ đến thế nào thì cũng chẳng hề đảm bảo được mạng sống. Nó cũng chẳng đem lại cho chúng ta hạnh phúc thật và không bao giờ có chuyện hứa hẹn cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Thấy được mối nguy hại của vật chất, và thấy được sự ràng buộc cho những ai muốn theo Chúa để làm môn đệ mà lại vướng bận vào của cải, nên Đức Giêsu nói tiếp: "Ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Khi dạy như thế, Đức Giêsu không muốn nói là không được chiếm hữu của cải, bởi vì bản chất của nó không phải là xấu hay tội. Vì thế, Đức Giêsu không hề có thái độ kết án người giàu, mà chỉ kết án những kẻ giàu nhưng không biết sử dụng đồng tiền cách khôn ngoan. Ngược lại, họ lại trở thành kẻ ích kỷ như nhà phú hộ giàu có đối xử với Lazarô nghèo khổ không bằng con chó trước cửa nhà ông.
Như vậy, khi nói từ bỏ của cải là Ngài muốn nói đến việc biết xử dụng của cải như thế nào cho có ích nơi mình và người khác. Sử dụng tiền theo tinh thần của Đức Giêsu chính là biết chia sẻ cho những người túng thiếu, biết giúp đỡ cho Giáo Hội để lo cho người nghèo và phát triển Giáo Hội... Nói chung là biết dùng đồng tiền hữu hạn để mua lấy sự vô hạn là Nước Trời qua công việc bác ái, từ thiện của mình.
Thật vậy, ngang qua cách sử dụng tiền của, chúng ta dễ dàng nhận ra người đó đang thuộc về ai! Người môn đệ của Chúa thì sẽ sử dụng nó như là tôi tớ và phục vụ cho lợi ích của Giáo Hội cũng như người nghèo. Còn những người làm đồ đệ cho tiền của thì sẽ lo giữ của cho riêng mình và chỉ lo phục vụ điều bất chính nơi mình mà thôi. Họ coi đồng tiền như là chúa tể của họ và ảo tưởng cho rằng nó sẽ đem lại cho mình hạnh phúc thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sử dụng đồng tiền cho đúng ý Chúa, hầu qua đó, chúng con sẽ được hạnh phúc mai ngày trên Thiên Quốc. Amen.
Sứ điệp: Lòng ham muốn, thu góp và chiếm hữu tiền bạc của cải, là một trong những trở ngại lớn nhất ngăn cản đường vào Nước Trời. Ta hãy lo làm giàu trước mặt Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần Chúa đã nhắc nhở chúng con đừng lo đắm mình trong cuộc sống trần gian. Thật vậy, cuộc sống con người chưa chấm dứt với cái chết, mà phần sau của cuộc sống trần gian mới là cuộc sống đích thực. Và hạnh phúc đời sau không lệ thuộc vào của cải vật chất đời này, tiền bạc không bảo đảm cho con người sống mãi.
Lạy Chúa, trong thế giới hôm nay, người ta coi tiền bạc là quyền lực tối thượng, là chìa khóa vạn năng để mở cánh cửa danh vọng và hạnh phúc. Con cũng không muốn bị khinh bỉ vì nghèo. Con muốn được trọng vọng, được sung sướng, nên cũng không ngại chạy theo tiền bạc, và bằng đủ mọi cách thu góp càng nhiều càng tốt. Nhưng rồi có bao giờ tâm hồn con được bình an đâu, vì lòng ham muốn không khi nào được thỏa mãn. Quả thật, con là kẻ điên rồ như người phú hộ trong dụ ngôn.
Lạy Chúa, cuộc sống của con vẫn cần cơm bánh, và sự nghèo đói vẫn là một mối bận tâm lớn. Nhưng như Lời Chúa dạy, còn có cái cần thiết và chính đáng hơn mà con phải tìm kiếm, phải tích lũy, đó là làm giàu trước mặt Thiên Chúa, làm giàu cho cuộc sống mai sau.
Xin cho con trong cuộc sống hiện tại biết lo phát triển đời sống đức tin, lo thu tích những việc lành do lòng bác ái và quảng đại. Xin dạy con biết sử dụng tiền bạc của cải để biểu lộ tình yêu thương chia sẻ với anh em cách chân thành. Những việc lành phúc đức sẽ là hành trang nhỏ bé giúp con tiến về Nước Trời mai sau. Amen.
Ghi nhớ: “Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”
Tại một tiệm bán thực phẩm cho các loài chim, chủ tiệm khi bắt được con phượng hoàng, vì muốn thu hút khách hàng nên đem phượng hoàng nhốt vào cái lồng lớn đặt trong tiệm.
Một hôm, có hai ông cháu từ miền núi xuống thành phố mua đồ. Khi đi ngang qua tiệm, vừa trông thấy con chim phượng hoàng bị nhốt trong lồng, ông động lòng thương hại, liền ngỏ ý với ông chủ tiệm xin mua con chim ấy. Không để mất cơ hội, ông chủ tiệm đòi giá tiền thật cao.
Không một lời trả giá, người khách hàng đi thẳng tới ngân hàng rút số tiền cần thiết và trở lại tiệm mua con chim phượng hoàng. Ông già miền sơn cước vui mừng ẵm con chim trên tay bước ra khỏi tiệm. Vừa bước chân tới quãng đường vắng, ông liền mở tay ra để chim được tự do bay bổng giữa bầu trời mênh mông.
Ngạc nhiên trước việc làm của ông, đứa cháu tò mò lên tiếng hỏi: “Thưa ông nội, tại sao ông lại sẵn sàng hy sinh một số tiền lớn như vậy để chuộc và trả tự do cho con chim phượng hoàng”. Ông vui vẻ đáp: “Cháu hãy ghi lòng tạc dạ điều này: Trên đời, giàu sang không chỉ căn cứ trên những gì mình có thể chiếm đoạt được mà thôi, nhưng chính là trên những gì mình cần phải cho đi, để có thể thực hiện được điều tốt lành cần phải làm” (Theo Radio Veritas).
Suy niệm
Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ mà Chúa Giêsu đã trình bày trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng, ông đã tìm ra giải pháp là phá kho cũ và làm kho mới lớn hơn, rồi đưa tất cả hoa màu, của cải nhập kho, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm. Với những cái kho lớn chứa đầy hoa màu và của cải, người phú hộ tha hồ vui chơi, ăn uống chè chén say sưa. Ông thấy mình có tất cả dư thừa vật chất nên chẳng sợ đói và cần nhờ vả đến ai, đến Chúa cũng chẳng cần và sợ nữa. Vì tất cả của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc, không thiếu thốn cả đời, nơi đó ông đặt lòng mình (Lc 12,34). Nhưng thật ra có bền vững hay không? Trộm cắp, cướp bóc, bão lụt, hỏa hoạn… có thể làm tiêu tan những gia tài của ông. Dù ông có giữ được bên mình với cái kho đầy rẫy của cải, khỏi những phong ba cuộc đời, ông cũng đâu ngờ rằng cái chết sẽ làm cho ông ra đi trắng tay tất cả.
Dụ ngôn thật sâu sắc truyền cho chúng ta sứ điệp: Lo lắng cho kho vật chất của mình là việc phải làm nhưng đó không phải là mục đích của sự hiện hữu của con người trong cuộc sống. Còn một mối bận tâm khác là kho tàng trên trời như thánh Phaolô đã khai triển cụ thể: “Anh em hãy tìm những sự trên trời” (Cl 3,2), nghĩa là làm giàu trước mặt Thiên Chúa, vì có đầy của cải mà không lo đời sau thì cũng bằng không trước Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”, tức là của cải đầy rẫy trong kho nhưng ra đi vẫn cứ hai bàn tay trắng trước mặt Thiên Chúa. Vâng, tất cả chỉ là: “Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không” (Gv 1,2), như lời sách Giảng Viên vang vọng.
Hãy lo “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Sự giàu có lâu bền, vĩnh cửu; chứ không phải của đời này chóng qua, phù vân và bấp bênh. Sự giàu có là sống trọn vẹn với quy luật của “Kho Nước Trời”: “Đón nhận và mở rộng ban phát”. Ban phát như nguồn nước từ mưa và từ rừng thượng nguồn, rồi nguồn nước ban phát nước cho những con suối mang chia sẻ cho đồng ruộng và cuộc sống con người.
Xin cho mọi cố gắng của tôi, của bạn trong đời sẽ mãi như là những giọt nước mãnh liệt không khép kín trong hồ, nhưng luôn tuôn trào trong hành trình về với biển cả.
Ý lực sống
“Cho là nhận… khi chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô d’Assise).
Trong lúc Đức Giêsu đang giảng, có một người trong đám đông lên tiếng xin Người xử việc hai anh em ruột tranh nhau phần gia tài. Đức Giêsu không xử vì điều đó không thuộc sứ mệnh của Người. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phú hộ giàu có lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm. Người bảo họ là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc, để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
Tin mừng hôm nay thuật lại sự việc hai anh em tranh chấp gia tài, không thoả đáng nên nhờ Đức Giêsu can thiệp. Nhân dịp này, Chúa dạy dân chúng đừng ham mê của cải đời này quá đáng, vì của cải không phải là nguồn mạch sự sống mà Thiên Chúa mới là nguồn mạch sự sống. Hơn nữa, của cải vật chất có sức lôi kéo mạnh mẽ làm cho con người ta dễ dàng đi tới chỗ ích kỷ và tìm hưởng thụ để thoả mãn mọi khoái lạc trần thế. Đức Giêsu không ngăn cấm chúng ta làm giàu, vì của cải cần thiết cho đời sống, đồng thời khi nỗ lực làm giàu là chúng ta cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, làm cho trái đất sinh nhiều hoa lợi để phục vụ nhân loại. Nhưng Chúa chỉ cảnh giác chúng ta phải biết sử dụng của cải vật chất để làm giàu cho sự sống đời đời (5 phút Lời Chúa).
Giầu của cải không đảm bảo cho sự sống đời đời
Dụ ngôn Đức Giêsu kể về một người giàu có an thân thoả mãn trên đống của cải trong kho lẫm, rồi tự cho phép linh hồn mình được “nghỉ ngơi”, nhưng nếu Chúa gọi bất thình lình, thì “tay trắng hư không” ra đi vào cõi diệt vong. Thật vậy:
Khi chúng ta đi về nơi an nghỉ Những gì thu góp chẳng còn chi Sẽ mất hết những gì ta xài phí Chỉ còn lại những gì đã cho đi.
Ham mê của cải như ông phú hộ trong dụ ngôn là chỉ lo làm giàu trước mặt người đời, lo tích trữ của cải đời này, mà không lo cho phần rỗi đời sau. Của cải vật chất tự nó không xấu, siêng năng làm việc để có của cải luôn là điều tốt. Thế nhưng, chúng ta không được phép dừng lại ở đó để hưởng thụ và an thân bám víu vào nó, mà phải biết chia sẻ với những người kém may mắn hơn mình.
“Ta chỉ giàu có nhờ những gì cho đi, và chỉ nghèo do những gì ta từ chối” (Triết gia Emerson). Trong từ điển của ông phú hộ trong câu chuyện Tin mừng không có từ “cho đi”. Ông từ chối Chúa và người lân cận, vì lo chất thóc lúa cho đầy kho lẫm, cũng như đầy “kho” ăn uống vui chơi, hưởng thụ cho mình. Không lạ gì ông trở nên nghèo nàn trước mặt Chúa. Hẳn ông đã quên bài học cơ bản này: làm giàu trước mặt Chúa bằng cách cho đi, chứ không phải qua việc tích trữ; bằng cách hướng về Chúa và người khác, chứ không phải chỉ qui về mình. Coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam là điều ai trong ta, giàu hay nghèo, phải ghi nhớ mỗi ngày.
Hãy biết chia sẻ
Chúa dạy chúng ta: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc là làm gì, nhưng chúng ta là gì.
Antoine de Saint-Exupéry nói: “Khi giờ cuối cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành”.
Có hai cách xài của cải đưa đến hai kết quả khác nhau:
a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình, kết quả là không bảo đảm cho sự sống đời đời.
b) Dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho người nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, không ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp.
Truyện: Rồi sao nữa?
Ngày xưa, thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spazzaro, một sinh viên Rôma, đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một hôm Phanxicô Spazzaro hớn hở báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời:
- Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì?
- Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án. - Rồi sao nữa? - Con sẽ có nhiều tiền. - Rồi sao nữa? - Con sẽ lập gia đình. - Rồi sao nữa? - Con sẽ sống hạnh phúc. - Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Rồi... rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác. - Rồi sao nửa?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để bảo đảm cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối cùng, chàng từ giã đường trần khoác áo tu trì.
1. Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
2. Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
3. Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó: hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
B.... nẩy mầm.
1. Gc 4,13--5,6: Thánh Giacôbê đã hiểu đoạn Tin Mừng này như thế nào?
2. Con người có khuynh hướng tạo an toàn cho mình, bằng tiền bạc, bằng bảo hiểm, bằng dự trữ v.v. Nhưng tất cả những thứ mà con người tưởng là an toàn ấy có thể sụp đổ tan tành trong một sớm một chiều. Như thế sự an toàn của con người không nằm trong tầm tay của con người. Nó nằm trong bàn tay của Chúa. Do đó an toàn nhất là “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (câu 21).
3. Có hai cách xài tiền đưa đến hai kết quả khác nhau:
a/ Xài một cách ích kỷ cho riêng mình; kết quả: không bảo đảm cho sự sống đời đời;
b/ Dùng tiền để “làm giàu trước mặt Chúa”: kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
4. Tiền:
Người công nhân đồ mồ hôi để có được nó Kẻ hoang phí thì đốt nó Chủ ngân hàng đem nó cho vay Đàn bà xài nó Kẻ lưu manh làm giả nó Nhân viên thuế vụ lấy nó Người hấp hối lìa bỏ nó Kẻ thừa kế tiếp thu nó Người tiết kiệm để dành nó Người keo kiệt thèm khát nó Kẻ ăn trộm chộp lấy nó Người giàu gia tăng nó Người cờ bạc bị mất nó Phần tôi thì dùng nó (Quote)
5. Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói: “Ông hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất. Ông già nghèo đem con ngỗng vào nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ông mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một trứng ngỗng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái. Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho tới hết tuần mới có được 7 trứng. Ông muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ông vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại, và nói: “Trước đây tôi đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả” (Aesop).
6. Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi mới nghĩ bụng rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12,16.19-20)
Trong mớ giấy tờ còn lại của một viên sĩ quan chết ở thế chiến thứ nhất, người ta đã thu nhặt được lời kinh này:
“Lạy Chúa Giêsu, ngay từ bây giờ con chấp nhận cái chết từ bàn tay Chúa... Con ước ao chết đi để hoàn toàn bị tước đoạt tự do và nhờ thế trở nên trọn vẹn là của Ngài... Con ước ao chết đi bởi vì con phó thác vào tình Chúa vô bờ bến. Nhưng lạy Chúa Giêsu, con là của Ngài, con sẵn sàng làm việc cho Ngài lâu hơn nếu Chúa cho con sức mạnh. Con không muốn chết để chạy chốn đau khổ... Lạy Chúa, xin làm cho con điều Ngài muốn, bây giờ và cho đến muôn đời. Amen”
Tôi thật cảm động và khó quên trước cái chết của những người đang sống đẹp, sống tốt. Và tôi thật khâm phục trước cái chết của những người sẵn sàng với giờ chết, vì thấy mình đã sống trọn vẹn cho đời.
Giêsu ơi, như ngài đã dạy chúng con, chết không phải là hết, nhưng chỉ là đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. Xin giúp con biết sống trọn vẹn ở đời này. để con khỏi ngỡ ngàng trước phúc Thiên Đàng Chúa đang chờ con. (Hosanna).
1. Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh giành gia tài.
Đức Cha Tiamer Toth trong cuốn sách viết cho giới trẻ có khuyên các bạn trẻ như thế này: “Thưa bạn, tôi muốn nói rằng, bạn phải có con mắt tinh tường để nhận xét giá trị đồng tiền. Đành rằng, không có tiền, ta không sống nổi, nhưng chỉ sống vì tiền thì thật là không xứng với con người một tí nào. Tiền bạc chỉ là phương tiện để tìm cho ta những thứ cần dùng cho đời sống của ta. Ngày xưa, con bò vàng được người Do Thái thờ lạy giữa đám sa mạc, ngày nay người ta cũng chỉ biết kính trọng những người có ô-tô bóng nhoáng, có những đồn điền phì nhiêu, những cửa hàng lộng lẫy, những bộ quần áo đỏm dáng. Hỡi bạn, tôi xin bạn hãy nhìn những con người theo phẩm giá của họ mà thôi!” Rồi ngài nói tiếp:
Ngày kia, một nhà tỷ phú trên giường chết đã phải tuyên bố: Trong 40 năm trời, tôi đã làm việc như người nô lệ để chất đống của cải lên; sau đó tôi lại phải coi giữ như một thám tử và tất cả những của cải đó đã cho tôi cái gì? Thức ăn, nhà ở và quần áo, chỉ có thế chứ không còn gì hơn nữa.
Thánh Bernard đã nói: Người ta kiếm tiền một cách vất vả, giữ nó một cách lo lắng, rồi người ta mất nó một cách đau đớn.
Tiền tài, danh vọng, xa hoa không đem lại hạnh phúc cho ta được. Cũng như một đại dương mênh mông không có gía trị bằng dòng suối nhỏ trước mắt người khát nước.
2. Vậy ta phải xài tiền như thế nào?
Có hai cách xài tiền đưa đến hai kết quả khác nhau:
a/ Xài một cách ích kỷ cho riêng mình; kết quả: không bảo đảm cho sự sống đời đời.
Tại một Hội Thánh Tin Lành kia, đến Chúa Nhật, vị mục sư quyết định mở một cuộc lạc quyên để sửa lại mái nhà thờ, các rui mè đã mục nát, các viên ngói hay rớt xuống, sợ nguy hiểm cho các tín hữu.
Sau khi trình bày, ông chọn một người để “khai sổ”. Để có người làm gương cho những người khác, mục sư liền mời một tín đồ vốn là một thương gia giàu có đang ngồi ẩn mình phía sau một cây cột. Ông này giàu nhưng nổi tiếng keo kiệt, ông đứng lên hứa: - Tôi xin dâng 5 đô-la.
Vị mục sư thật buồn quá, ông nhà giàu này mà “Mở hàng” như thế thì chắc cuộc lạc quyên hôm nay sẽ chẳng được bao nhiêu. Thình lình, một viên ngói trên mái rơi xuống trúng ngay đầu ông tín đồ giàu mà keo kiệt. Tưởng bị Chúa phạt, ông vội la lớn: - Không, tôi xin hứa dâng 500 đô-la.
Người ta nghe tiếng cầu nguyện tha thiết vang lên trong nhà thờ:
- Rớt nữa đi Chúa, rớt nữa đi Chúa!
b/ Dùng tiền để “làm giàu trước mặt Chúa”: kết quả là đời này được bình an và đời sau có sự sống đời đời được bảo đảm.
Đời nhà Châu có người họ Doãn, chỉ chăm làm giàu. Tôi tớ trong nhà vất vả, thức khuya, dậy sớm, khó nhọc vô cùng.
Có một tên đầy tớ già, sức yếu, nhưng lại phải làm nhiều, ban ngày làm không kịp thở, ban đêm mệt đừ người, ngủ say không biết đầu đuôi. Nhưng đêm nào cũng nằm mộng thấy mình làm vua một nước, đứng đầu cả muôn dân, ở lầu son gác tía ăn toàn của ngon vật lạ, muốn gì được nấy, sung sướng không ai bằng! Sáng bừng mắt thì vẫn hoàn là tên tớ già, làm không kịp thở... Có người thấy lão vất vả quá, đem lời an ủi.
Lão nói:
- Đời người trăm năm có ngày có đêm. Ta ban ngày, chỉ là một tên tớ già, kể ra cũng khổ thực! Nhưng ban đêm lại làm vua một nước, vui sướng không ai bằng! Vậy thì, còn ân hận gì nữa?
Họ Doãn trái lại ban ngày là một tay giàu có, nhưng lại lo lắng ruột tan, gan nát, mệt cả tâm thần; đến đêm mệt ngủ, thì lại nằm mộng thấy mình đi làm tôi tớ người ta, việc gì cũng phải làm, lại còn gặp chủ cay nghiệt, hành hạ đủ điều. Thức dậy, lòng thổn thức, bèn đem chuyện kể với bạn.
Bạn bảo:
- Được cái địa vị như anh, giàu có hơn người, ban ngày sung sướng vẻ vang biết bao, đêm đến là nằm mơ đi làm đầy tớ người ta. Như vậy thì sướng khổ đắp đổi nhau. Nếu lúc thức, lúc ngủ đều muốn được sướng cả, thì thế nào được!
Họ Doãn nghe bạn nói tỉnh ngộ. Từ hôm đó không còn hà khắc tôi tớ trong nhà nữa. Và nhờ vậy mà bớt lo, bớt nghĩ, lòng thấy nhẹ nhàng. Và bệnh mỗi ngày một bớt lần.
Trong mớ giấy tờ còn lại của một viên sĩ quan chết ở thế chiến thứ nhất, người ta đã thu nhặt được lời kinh này:
“Lạy Chúa Giêsu, ngay từ bây giờ con xin chấp nhận cái chết từ bàn tay Chúa... Con ước ao chết đi để hoàn toàn bị tước đoạt tự do và nhờ thế trở nên trọn vẹn là của Ngài... Nhưng lạy Chúa Giêsu, con không muốn chết để chạy trốn đau khổ... Lạy Chúa, xin làm cho con điều Ngài muốn, bây giờ và cho mãi đến muôn đời. Amen”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".
Chúng ta dành bao nhiêu thời gian để ăn, ngủ, và làm việc trong một đời? Nhiều người nghĩ mình có thể đưa ra những con số khá chính xác. Nhưng chúng ta dành bao nhiêu thời gian để chờ? Có thứ chờ tính được bằng thời gian. Có thứ chờ kéo dài liên tục nằm nơi trái tim mong ngóng. Mẹ chờ con, vợ chờ chồng, những người yêu chờ nhau. Trong một vở kịch của Samuel Beckett, văn sĩ được giải Nobel 1969, có hai người chờ một nhân vật mơ hồ tên là Godot. Cả hai chỉ quen sơ sơ ông này, nếu có gặp cũng chẳng nhận ra. Vậy mà họ vẫn chờ, nhưng ông Godot nào đó đã không đến. Có lẽ Samuel Beckett muốn nói đến cái phi lý của đời người. Cứ chờ cứ đợi một điều mơ hồ và chẳng xảy ra. Đức Giêsu dạy các môn đệ biết chờ đợi trong cuộc sống. Chờ như những đầy tớ chờ chủ mình đi ăn cưới về. Đám cưới ngày xưa hay vào ban đêm để tránh cái nóng. Chủ có thể về trễ, nên phải chịu khó chờ, nghĩa là phải tỉnh thức, không được ngủ quên. Nhưng chờ lại không phải là thái độ ngồi yên, thụ động. Chờ là đặt mình trong tư thế sẵn sàng phục vụ. “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng” (c. 35). Người đầy tớ sẵn sàng bắt tay vào việc, vì chiếc áo đã được vén lên gọn gàng, và trong đêm, ngọn đèn được châm dầu vẫn luôn cháy sáng. Có một giây phút quan trọng, giây phút ông chủ về. Sự chờ đợi, sự tỉnh thức, sự sẵn sàng, tất cả hướng đến giây phút này. Lỡ giây phút này là lỡ tất cả. “Để khi chủ về tới, gõ cửa thì mở ngay” (c. 36). Mở ngay vì mình đang chờ, đang thức, đang sẵn sàng, áo đã được vén lên để chuẩn bị phục vụ, đèn đã được thắp sáng để soi trong bóng đêm. Chủ sẽ ngỡ ngàng vì sự mau mắn như vậy của các đầy tớ. Nhưng các đầy tớ còn ngỡ ngàng hơn nhiều. Chính khi các anh chuẩn bị phục vụ chủ, thì chủ lại phục vụ các anh. “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (c. 37). Rõ ràng đã có một sự đổi vai bất ngờ: chủ đã thắt lưng, phục vụ như đầy tớ. Đầy tớ đã trở nên trọng hơn chủ, vì Thầy ở giữa anh em như người hầu bàn. Đó là mối phúc dành cho người tỉnh thức vào giờ lẽ ra đang yên ngủ. Canh hai, canh ba, là đã quá nửa đêm về gần sáng (c. 38). Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm muộn chắc chắn sẽ đến. Chờ một cách tích cực với thái độ sẵn sàng làm việc dưới ánh đèn. Hạnh phúc đến với tiếng gõ cửa đầu tiên trong đêm. Chúng ta mong nghe được tiếng gõ nhẹ ấy như một tiếng gọi. Xin mở cửa ngay để được thấy tận mắt Thiên Chúa phục vụ con người. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con. Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất: Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ. Thay vì bực bội hay nóng ruột con lại thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa. Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với ý Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào. (gợi hứng từ Madeleine Delbrêl). -------------------------------
Dụ ngôn người đầy tớ tỉnh thức nói về Nước Trời. Ta sống ở trần gian trong thao thức chờ đợi đến ngày được vào Nước Trời. Thao thức được diễn tả bằng việc chờ đợi trong đêm. Chủ về muộn nên đầy tớ phải chờ đợi. Thái độ chờ đợi được Chúa diễn tả bằng 3 hoạt động. Thao thức. Thắt lưng. Cầm đèn. Tất cả không chỉ nói lên sự tận tâm. Mà còn cả tình yêu mến. Yêu mến nên khao khát mong chờ. Yêu mến nên không thể ngủ được khi chưa gặp được ông chủ. Yêu mến nên có thể thức cho đến sáng. Chỉ khi gặp ông chủ mới thôi thao thức. Nhưng yêu mến được bày tỏ trong thái độ phục vụ. Thắt lưng gọn gàng, Sẵn sàng làm việc. Bất cứ việc gì. Lúc nào cũng trong tư thế phục vụ. Để làm đúng nhiệm vụ được trao. Yêu mến nên lo xa. Lúc nào cũng cầm đèn. Lúc nào đèn cũng sáng. Để đèn sáng đương nhiên phải chuẩn bị dầu sẵn sàng. Để chủ về thì không phải chờ một phút nào. Để soi đường đón chủ ngay. Không phải mất giờ đốt đèn. Không sợ lật đật vấp ngã. Lòng yêu mến. Sự phục vụ. Tầm nhìn xa. Không uổng công. Sẽ được đền đáp. Một đền đáp quá lớn lao. Một cuộc đổi đời. Không còn là đầy tớ nữa. Được làm chủ. Được ngồi vào bàn ăn. Lại được chính ông chủ phục vụ.
Thư Rô-ma cho biết ta được như vậy là nhờ Chúa Giê-su Ki-tô. Vì tội A-đam mọi người chịu thân phận nô lệ. Nhưng nhờ Chúa Ki-tô mọi người được tự do. Vì tội A-đam mọi người phải chết. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được sống. Vì tội A-đam mọi người chịu luỵ phục. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được thống trị. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho biết ta được thừa hưởng ân sủng do công cuộc cứu độ đem lại, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô đã phá bức tường ngăn cách người Do thái với dân ngoại. Cho ta được từ xa lạ nên gần gũi. Từ người dưng nên họ hàng vì thuộc gia tộc Thiên Chúa. “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su”. Chính đá góc tường liên kết tất cả (năm chẵn).
Đó là niềm hi vọng lớn lao. Thay đổi cả cuộc đời. Thay đổi cả số phận. Đáng cho ta thao thức. Phục vụ. Và nhìn xa. Để mong chờ không ngơi trong suốt cả đời.
Trong quyển truyện có tựa đề: "Con Ðức Mẹ" xuất bản tại Hà Nội dạo tháng 8/1990, tác giả đã miêu tả sinh hoạt của một giáo xứ miền Bắc một cách ấu trĩ như sau: Tình yêu giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái đôi khi không cần thiết, không thiêng liêng cho bằng mối tình đối với Ðức Maria. Lòng tôn sùng đối với Ðức Mẹ chỉ là một thứ bịa đặt lừa bịp của Giáo Hội. Sinh hoạt giáo xứ chỉ là những biểu dương bề ngoài, cuồng tín, người giáo dân càng sùng đạo, thì càng là thành phần bất hảo trong xã hội.
Bất cứ độc giả nào cũng có thể nhận thấy giọng điệu bôi bác ấu trĩ của tập truyện. Tuy nhiên, với thái độ tỉnh thức mà Chúa Giêsu không ngừng mời gọi, người Kitô hữu hãy nhận lấy một phần trách nhiệm trong việc gây ngộ nhận nơi nhiều người ngoài Kitô giáo. Sự thiếu sót giữa niềm tin và cuộc sống hằng ngày; sự hăng hái sinh hoạt giáo xứ, nhưng lại bỏ qua những đòi hỏi của công bằng, bác ái, tình liên đới; đó là những hình ảnh méo mó mà chúng ta tạo ra cho Giáo Hội.
"Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức. Có lẽ chúng ta rất tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Kitô giáo không phải là đạo ru ngủ, nhưng luôn thức tỉnh chúng ta, bởi vì đạo là đường để đi. Người chăm chú đi đường không thể ngủ gật, trái lại luôn mở mắt để nhìn thấy cảnh trí chung quanh, để nhận ra hướng đi của mình, để đồng hành với người khác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh táo để nhận ra Nước Trời đang đến trong từng giây phút. Chúng ta hãy sống thế nào để đạo lý và Giáo Hội không bị hoen ố, nhưng được trình bày bằng những hình ảnh cao đẹp nhất của công bằng, bác ái, yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe về những dụ ngôn báo trước hạnh phúc của nước Trời. Ngài kêu gọi chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng cho giây phút Chúa Cha gọi chúng ta về nhà Người và Ngài đã dùng hình ảnh của ông chủ và người đầy tớ. Thật ra, không bao giờ Thiên Chúa muốn coi chúng ta là đầy tớ đâu, nhưng ở đây hình ảnh này được sử dụng để giúp cho chúng ta dễ nhận ra sứ điệp của lời Chúa mà thôi. Dĩ nhiên, tự bản chất thụ tạo, chúng ta bất trung và chúng ta chỉ xứng đáng là đầy tớ nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy chúng ta là con như Chúa Giêsu là Con của Chúa Cha. Vì là con nên chúng ta biết mình có chỗ trong nhà Cha, là con nên chúng ta biết mình không thể đi hoang, là con nên chúng ta biết dù gì đi chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được thụ hưởng gia tài của người cha.
Trong một câu chuyện cổ tích nọ, người cha già muốn cho các con mình ra đi để cứu nhân độ thế và ước mơ của ông là các con ông làm được nhiều việc thiện, nhiều việc tốt để mang lại lợi ích cho nhiều người, để sau khi kết quả trở về trong hân hoan vì những thành quả của các con mình.
Thiên Chúa sai chúng ta đến với mọi người trong trần gian này cũng với một sứ mệnh tương tự như sứ mệnh của những người con trong câu chuyện cổ tích trên. Chúng ta hãy sống yêu thương, bác ái để làm cho cuộc sống anh chị em của mình được hạnh phúc, vì Thiên Chúa đã đến trần gian để mong mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Lạy Thiên Chúa,
Xin giúp chúng con luôn ý thức sẵn sàng như những người đầy tớ khôn ngoan luôn chờ đợi chủ. Sự đợi chờ của chúng con được thể hiện bằng tất cả nỗ lực mang tình yêu thương của Cha đến cho mọi người, với ước mơ được cùng tất cả anh chị em con được về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng Cha trên quê trời.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay.” (Lc. 12, 35-36)
Trong đời sống con người, Đức Giêsu tự tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau xuyên qua những biến cố. Kitô hữu phải luôn sẵn sàng nhận ra Người, đón rước và đi theo Người. Người dẫn ta đi đâu, đến đâu ta không biết. Như Thiên Chúa đã nói với tổ phụ Áp-ra-ham: Con hãy đứng dậy, lìa bỏ tất cả và sẽ đi đến xứ sở Ta chỉ cho con. Ông đi đến hết chỗ này qua chỗ khác hướng về nơi không biết. Ước chi Kitô hữu học lấy bài học tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng theo thánh ý Chúa như ông Áp-ra-ham.
Sẵn sàng đón rước Chúa đến:
Đức Giêsu bảo các môn đệ phải luôn luôn thắt lưng để lo phục vụ, nghĩa là sẵn sàng làm việc hay chuẩn bị lên đường trong mọi hoàn cảnh. Luôn luôn sẵn sàng lên đường như dân Do thái chuẩn bị hành trình trở về đất hứa để mừng lễ Vượt qua, lễ đón mừng Đấng Thiên sai cứu thế.
Đức Giêsu còn nói hãy cầm đèn cháy sáng để mở ngay cho chủ lúc chủ đi ăn cưới về, dù chủ có về trễ. Đó là lời khuyên bảo phải luôn luôn mau lẹ đáp lại tiếng Chúa gọi trong mọi biến cố, mọi cảnh ngộ. Trong Thánh kinh, trong kinh nguyện, mọi nơi, mọi lúc, Chúa đều thông dịch cho chúng ta hiểu qua hành động, qua dấu chỉ thời đại, vì Người luôn luôn bước tới ngày quang lâm để dẫn đưa chúng ta đi với Người.
Phúc cho những ai chủ thấy vẫn tỉnh thức, những ai chiến đấu kiên cường chống lại những dục vọng và những ươn hèn của xác thịt đang ru ngủ họ trong u mê tăm tối. Và đặc biệt hạnh phúc hơn nữa cho những ai vẫn luôn luôn sẵn sàng chờ đợi dù còn lâu Chúa mới đến.
Lãnh nhận phần thưởng:
Mỗi lần gặp Chúa là mỗi lần Kitô hữu được bình an và hạnh phúc, nhờ đó họ càng tỉnh thức, sống tỉnh táo hơn. Phần thưởng sau cùng là được mời vào tham dự tiệc nước trời. Những người vẫn luôn luôn tỉnh thức tới cùng sẽ được mời vào đồng bàn với Chúa, được Chúa chia sẻ vinh quang của Ngài đến muôn đời.
Những trận mưa lớn kèm gió to tại nơi này hay nơi kia đã khiến bao người nhiều phen ú tim với "những cái chết không báo trước” do những cây cổ thụ đổ xuống hay do sạt lở đất đè lên người...
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu căn dặn các môn đệ về sự tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Tinh thần đón chờ này được ví như người đầy tớ đón chờ ông chủ đi ăn cưới về. Người đầy tớ không hề biết bao giờ ông chủ về, vì đám cưới của người Do thái thường kéo dài có khi buổi sáng, có khi cả ngày hay tới đêm khua... hoặc cũng có thể kéo dài lên tới vài ngày. Tuy nhiên, sự chờ đợi của họ không phải chỉ có ngồi và chờ, nhưng phải thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Như vậy, họ phải luôn trong tư thế làm việc, sẵn sàng. Tại sao vậy? Thưa! Vì sự xuất hiện của ông bất thình lình đến độ như tên trộm.
Như vậy, tỉnh thức mà Đức Giêsu nói đến ở đây chính là mỗi người cần có thái độ sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến; chờ đợi cái chết của chính mình trong tinh thần của kẻ tỉnh thức với đầy đủ đèn, dầu trong tay là những hy sinh, những việc đạo đức...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để sống trong ơn Chúa. Muốn được sống trong tâm tình con Chúa, phải luôn có thái độ sám hối, ăn năm, làm việc lành phúc đức. Cần thanh tẩy đời sống hằng ngày. Nêu gương sáng cho tha nhân.
Làm được điều đó, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng là hạnh phúc đời đời trong cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tinh thần tỉnh thức qua cuộc sống thường ngày bằng những công việc làm cụ thể trong sự hướng thiện, để một khi Chúa đến với mỗi người chúng con bất cứ giờ nào, chúng con đều sẵn sàng ra đi nghênh đón Chúa. Amen.
Sứ điệp: Ta phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa trở lại bằng cách chu toàn bổn phận của một đầy tớ phục vụ Chúa. Nhưng khi Chúa đến, Chúa sẽ nâng ta lên cao và ân thưởng bội hậu cho ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn yêu thương con hơn con đáng được, và luôn ban cho con những ân huệ hơn con dám mơ ước. Con là phận một đầy tớ, làm sao dám nghĩ rằng Chúa là Thầy và là Chúa của con, mà lại trở nên người phục vụ hầu hạ con. Làm sao con có thể hình dung được rằng Chúa là Thiên Chúa mà lại trở nên đầy tớ của con. Nhưng Chúa đã quả quyết như vậy và dám sống như vậy. Ở đời này Chúa là người rửa chân cho môn đệ, là kẻ tôi tớ hy sinh vì người khác, vì thế khi trở lại, Chúa cũng vẫn muốn là người đầy tớ đi lại phục vụ, trong lúc con được ngồi ăn trong bàn tiệc Nước Trời.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã nâng con lên địa vị cao trọng. Chúa không còn gọi con là đầy tớ, nhưng gọi con là bạn hữu. Xin Chúa giúp con biết sống xứng đáng với tình thương Chúa. Xin cho con biết quý trọng tình thân mật này. Chúa là Chúa mà đã chẳng ngần ngại phục vụ con, thì xin cho con là phận đầy tớ biết tận tụy phục vụ Chúa trong hân hoan. Dù có phải hy sinh để làm theo Ý Chúa, dù có phải vất vả để chu toàn bổn phận với Chúa, thì cuộc đời làm tôi phụng sự Chúa vẫn chẳng sánh được với những hồng ân mà Chúa đã và sẽ dành cho con. Xin Chúa giúp con trung thành phụng sự Chúa.
Và lạy Chúa, xin giúp con nhìn vào gương Chúa để con biết phục vụ anh chị em. Xin dạy con sống khiêm tốn và biết tôn trọng họ. Xin cho con được luôn mang lấy tâm tình của người đầy tớ như Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tuỳ sinh mộng tử”, nghĩa là con người sống trên đời như người say và khi chết như người đi trong mộng.
Đời sống con người luôn trong trạng thái không tỉnh thức vì say sưa nhiều thứ: say sưa danh vọng, say sưa với của cải vật chất, say sưa với những toan tính hơn thiệt và nhất là say sưa với những hận thù…
Suy niệm
Lời của Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta hãy “thức dậy” từ những cơn say, ý thức con người phải luôn thức tỉnh nếu không muốn “tuỳ sinh”, sống như say xỉn. Thức tỉnh là một ý niệm quan trọng trong Tin Mừng, các Tin Mừng Nhất Lãm đều trình bày giáo huấn “tỉnh thức” theo nhiều góc cạnh: Maccô nhắc đến lời kêu gọi luôn tỉnh thức của Chúa Giêsu (x. Mc 13,33); còn Matthêu ghi nhận giáo huấn tỉnh thức của Đức Giêsu qua các dụ ngôn mười cô trinh nữ đợi chàng rể (x. Mt 25,1-13) và dụ ngôn nén bạc với sự chuyển tải sứ điệp: Phải tỉnh thức và sẵn sàng (x. Mt 24,36-44) và Tin Mừng thánh Luca trình bày tư thế tỉnh thức sẵn sàng như đầy tớ cần mẫn lao công đợi chủ về: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” (Lc 12,35). Lời Chúa Kitô luôn kêu gọi chúng ta trong đời: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36). Thánh Phaolô triển khai giáo huấn tỉnh thức của Thầy (x. Ep 6,18) và kêu gọi đừng quá say giấc trong giấc ngủ mê của cuộc đời (x.1Tx 5,6).
Người tỉnh thức được coi là người có phúc như những người sống phúc trong tám mối phúc của Hiến chương nước Trời như Chúa Giêsu đã phán qua hình ảnh đầy tớ thức tỉnh: “Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức... chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình” (Lc 12,36-44).
Tỉnh thức có nghĩa là ý thức mình không “say mê”, hay không để mình say trước những phù du hão huyền, để mình phụ thuộc, thậm chí làm nô lệ với những thực tại trần thế: Vật chất danh vọng làm xa rời Thiên Chúa, hay say mê trong bát đồ trận của cảm xúc, của ý nghĩ chủ quan. Tỉnh thức là không “say” nhưng ý thức với cuộc sống, với công việc mà trong sâu thẳm của trái tim tôi và bạn tin rằng chính Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta thực hiện, nên gắn bó hết lòng: Đó là tư thế sẵn sàng, thắt đai và cầm đèn sáng trong tay chờ chủ về. Thức tỉnh là biết mình đang làm gì trong đời đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở và nhịp đập của trái tim yêu thương và phục vụ.
Thật thế, thức tỉnh không chỉ là ý niệm thiêng liêng là chờ đợi ở đời sau, là cuộc sống ở trên trời nhưng tinh thần thức tỉnh bắt đầu từ hôm nay, từ những điều cơ bản tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày, có thể nói chính tinh thần thức tỉnh xuyên suốt đời sống tự nhiên đến siêu nhiên là bắc cầu xuyên suốt giữa hai con đường của hai thế giới thành một “Con đường Thiên ý cho con người”. Đó là lựa chọn, định hướng cho cuộc sống được làm trong giây phút hiện tại, định đoạt số phận hiện tại với cuộc sống chúng ta đang hiện diện và hơn nữa với cuộc sống vĩnh hằng của mình sau này.
Xin cho con luôn lo tìm kiếm kho tàng trên trời bằng tinh thần tỉnh thức chuyên cần làm việc…
Ý lực sống
“Tôi thức tỉnh và tôi sống, một cuộc sống chỉ phục vụ, tôi phục vụ và tôi hiểu rằng phục vụ là niềm vui” (Rabindranàth Tagore).
“Tỉnh thức” là hệ luận rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng: mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời. Ai cũng phải công nhận, cuộc sống của con người thật bấp bênh. Nhiều thi sĩ Việt Nam đã diễn tả tư tưởng ấy trong thơ văn, như “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Công Trứ). Cho nên Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta đừng coi thường chân lý nền tảng này: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng!”.
Hôm nay, Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta phải luôn sẵn sàng cho giờ từ giã cõi đời này, để bước vào sự sống đời sau. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần cụm từ “Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về mà tỉnh thức”. Qua hình ảnh ẩn dụ đó Chúa Giêsu nói đến sự trở về bất ngờ của ông chủ là cái chết của mỗi người. Giờ chết luôn là một sự bất ngờ, không ai biết rõ. Nên phúc cho ai tỉnh thức trước giờ chết của mình. Muốn tỉnh thức chúng ta phải xa tránh tội lỗi, chăm lo làm những việc lành phúc đức. Cuộc sống luôn đầy rẫy những cám dỗ hấp dẫn, chúng dễ ru ngủ ta làm ta lơ là không đề phòng nên dễ sa ngã. Hãy tỉnh thức bằng đời sống cầu nguyện, bác ái, yêu thương, siêng năng lắng nghe Lời Chúa để luôn sẵn sàng cho giờ chết (5 phút Lời Chúa).
Vậy tỉnh thức và sẵn sàng là gì?
Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết: Ngài sẽ trở lại trong ngày Quang lâm. Hãy chờ đợi. Hãy tỉnh thức chờ đợi. Tỉnh thức là đang ở trong tư thế sẵn sàng và sẵn sàng cũng là lúc đang tỉnh thức, đó là lúc con người đang chuẩn bị trong mọi lúc. Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại.
Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ mà là ngủ trong tỉnh thức. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại ngủ mê trong những đòi hỏi của Tin mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối đời mình.
Chúa phán: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” (Lc 12,35).
Đây là lối ăn mặc của người đang làm việc theo phong tục của người Do thái.
Theo nghĩa bóng là phải sẵn sàng, tức là loại bỏ tất cả những gì làm cản trở sức sống thiêng liêng của ta: như các đam mê theo dục vọng bất chính. Và điều này thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: phải tỉnh thức và tiết độ (1Pr 5,8).
“Thắp đèn cho sẵn” là thái độ tỏ lòng mong đợi Đấng Cứu Thế (Xh 12,11), nghĩa bóng là có một đời sống đức tin cậy mến sáng chơi, để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết của mình. Về điểm này thánh Phaolô có nói: “Phải là một lính chiến, can đảm chống lại mọi mưu chước của ma quỷ, thế gian, xác thịt với khí giới của Thiên Chúa: lấy chân lý làm đai lưng, lấy công chính làm áo giáp, lấy nhiệt thành với Tin mừng làm giầy trận, lấy đức tin làm thuẫn, lấy ơn cứu độ làm mũ và lấy lời Chúa làm gươm” (Ep 6,14-17) (Lm. Trần Hữu Thành).
Đời sống là một chuỗi những ngày tháng mong đợi. Anh bảo vệ mong cho hết ca trực, chị công nhân mong cho đến giờ tan ca, em học sinh mong thi đậu, đứa bé mong mẹ đi chợ về. Trong câu chuyện dụ ngôn, người đầy tớ không phải là người thợ làm công ăn lương; trái lại, người đầy tớ ấy ở tại nhà của chủ như người trong nhà. Vì thế, dù phải thức đến canh hai hoặc canh ba, người đó vẫn chờ để mở cửa khi chủ trở về. Đó là hạnh phúc của anh. Hạnh phúc cho ai biết phụng sự Chúa như người tôi tớ trung thành. Khi ấy, chính Chúa sẽ phục vụ và chăm sóc họ như ông chủ trong câu chuyện. Người sẽ đưa họ vào Nước trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.
Truyện: Vườn hoa xinh đẹp
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn... ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc... câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: - Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?
- Khoảng 40 năm rồi. - Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà? - Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi. - Ông có thư từ gì với cụ không? - Không, ông ta bận lắm. - Ông ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ? - Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này. - Thế tội gì cụ phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu? - Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chờ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
- Dụ ngôn minh họa sự tỉnh thức: như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở do thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy “thắt lưng cho gọn” (tư thế sẵn sàng làm việc), và “thắp đèn cho sẵn” (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thì dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
- Tỉnh thức để làm gì? Dụ ngôn nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
B.... nẩy mầm.
1. 1 Pr 1,13-16: Thánh Phêrô giải thích thế nào là tỉnh thức: “đừng chiều theo những đam mê... sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, đề nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”.
2. “Lời Chúa được ngỏ với con người xuyên qua cuộc sống mỗi ngày, nên cũng luôn mang tính bất ngờ. Chính trong những cái thường nhật, nhỏ bé, độc điệu mỗi ngày, con người được mời gọi để nhận ra lời ngỏ của Chúa. Chính trong những cái bất ngờ của cuộc sống mà con người được mời gọi để nhận ra tiếng Ngài... Xin Ngài cho chúng ta luôn có đôi mắt rộng mở để nhìn thấy Ngài trong từng biến cố cuộc sống. Xin Ngài cho chúng ta đôi tai tinh tường để biết lắng nghe tiếng mời gọi của Ngài trong từng phút giây cuộc sống. Xin Ngài cho chúng ta quả tim và đôi tay rộng mở để biết chia sẻ cho tha nhân là hiện thân của Ngài” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. “Thái độ cơ bản của người kitô hữu, đó là tỉnh thức. Người kitô hữu tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đoạn mới hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. Tỉnh thức là luôn luôn ở trong tình trạng đang làm nhiệm vụ. Lời của một bản thánh ca: “Con Linh mục, con muốn chết ở bên bàn thờ”.
5. “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, hãy thắp đèn cho sẵn”. (Lc 12,35)
Nghe ai đó quảng cáo: “Nấm tróc ăn ngon lắm” bạn tôi liền trổ tài nấu bếp. Trong ngày sinh nhật của nó, nó làm nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon. Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố: sẽ đãi chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy về vừa nói vừa thở: “Chị Duyên ơi, con chó nó chết rồi”. Không ai bảo ai, chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ. Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lạy Chúa, nếu mỗi người chúng con đều biết tỉnh thức để sắm sẵn cho mình sự sống đời đời, chắc hẳn thế giới này đã tươi đẹp hơn. (Hosanna).
1. Theo thánh Phêrô thì tỉnh thức: “đừng chiều theo những đam mê... sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”. (1 Pr 1,13-16).
Tại sao phải tỉnh thức? Thưa, vì “Lời Chúa được ngỏ với con người xuyên qua cuộc sống mỗi ngày, nên cũng luôn mang tính bất ngờ. Chính trong những cái thường nhật, nhỏ bé, độc điệu mỗi ngày, con người được mời gọi để nhận ra lời ngỏ của Chúa. Chính trong những cái bất ngờ của cuộc sống mà con người được mời gọi để nhận ra tiếng Ngài... (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn sau:
Một cụ già cuốc đất trồng cây. Chợt ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói: - Cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây…Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.
Ông cụ trả lời:
- Chắc gì lão chết trước, chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu. Trẻ với già có khác chi nhau về phương diện đó.
Thời gian qua, ba cậu vì công việc, đi lính, kinh doanh, hoặc vì ngộ nạn, đều chết cả.
Cụ già được tin buồn, khóc thương ba trẻ.
Câu cửa miệng vẫn nói: tre già, măng mọc, nhưng cũng nhiều khi tre già khóc măng non.
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời?
Trời hay, Trời biết hết chứ. Nhưng có điều cho xảy ra như vậy để con người không ai biết giờ mình chết. Có như thế con người mới lo tỉnh thức.
Bởi thế, “Thái độ cơ bản của người Kitô hữu, là tỉnh thức. Người Kitô hữu tỉnh thức vì biết rằng, mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đoạn mới hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
2. Tỉnh thức còn là luôn luôn ở trong tình trạng đang làm nhiệm vụ.
Lời của một bản thánh ca: “Con Linh mục, con muốn chết ở bên bàn thờ”.
Chuyển kể rằng, một thầy dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nước, trời với đất gặp gỡ nhau”.
Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được.
Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những đói khát, giá rét không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy có chỗ nói thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau thì sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ là cánh cửa sẽ mở ra và người sẽ gặp thấy Thiên Chúa”.
Thật vậy, sau nhiều ngày tháng trời đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng, thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.
Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả. Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
Chúng ta biết, tỉnh táo và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là các đầy tớ sẽ làm các công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc vừa có thể nghe được hơi thở của mình. Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận vĩnh hằng của mình sau này.
Giáo Hội như người mẹ hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin, phải sẵn sàng chờ đợi ngày trở lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù không ai biết trước khi nào ngày giờ đó sẽ xảy đến. Cũng là điều tốt cho chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa Kitô sẽ trở lại, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc của mình cho Chúa Kitô, hoặc tác hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lỳ trong con đường tội với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.
Để được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng, đuổi theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng ta mãi.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Kẻ trộm xưa cũng như nay đều đến mà không báo trước, bất ngờ khoét vách nhà khi gia chủ còn ngủ say. Đức Giêsu, qua một dụ ngôn, đã dám so sánh mình với kẻ trộm, chỉ vì Ngài giống anh ta ở nét bất ngờ (cc. 39-40). “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ anh em không ngờ, Con Người sẽ đến.” Ông chủ có thể trở về khi trời gần sáng, lúc canh ba. Sẵn sàng là mở cửa ngay cho chủ, vì vẫn còn thức, còn chờ, còn đèn sáng. Thiếu sẵn sàng là ngủ mê, không nghe được tiếng gõ cửa. Ngủ mê làm chủ nhà không biết kẻ trộm đang khoét vách. Thiếu tỉnh thức để đón Chúa Giêsu, cũng đem lại hậu quả khôn lường. Tỉnh thức sẵn sàng là thái độ cần có của chủ nhà, của người lãnh đạo. Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu xem dụ ngôn trên áp dụng cho ai (c. 41), cho dân chúng hay cho nhóm Mười Hai là những người lãnh đạo, Ngài đã kể cho họ một dụ ngôn khác về người quản gia. Vì ông chủ đi vắng nên anh được ông đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà, tuy anh vẫn là một đầy tớ giữa những đầy tớ khác (c. 43). Chính sự vắng nhà của ông chủ đã làm lộ ra thực chất của người quản gia. Người quản gia trung tín sẽ chăm chỉ làm tròn bổn phận được giao. Việc quan trọng là cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc (c. 42). Anh này chẳng để ý gì đến chuyện khi nào chủ mình về. khôn ngoan đối với anh là làm theo đúng ý của chủ. Anh chỉ tập trung vào việc phục vụ những người được chủ giao phó, và phục vụ đúng giờ. Hẳn anh sẽ được ông chủ khen ngợi và đặt ở một vị trí cao hơn, nếu bất ngờ ông về mà thấy anh đang phục vụ chăm chỉ. Nhưng quản gia lại có thể là một người thiếu trách nhiệm. Thời gian ông chủ vắng nhà cũng là thời gian anh ta có quyền. Anh đã tận dụng quyền hành có trong tay để áp chế các đầy tớ khác, và sống một cuộc sống buông thả, vô độ. “Anh bắt đầu đánh đập các tôi trai tớ gái, và chè chén say sưa” (c. 45). Lý do hư hỏng của anh này rất đơn giản. Anh nghĩ “chủ ta còn lâu mới về”, nên ta cứ thoải mái ăn chơi. Anh chỉ cố làm sao khi chủ về, chủ thấy anh đang làm việc tử tế. Tiếc thay chủ về sớm hơn anh nghĩ, “vào ngày anh không ngờ, vào giờ anh không biết” (c. 46). Sự thật ê chề được phơi bày không thể chối cãi. Những đầy tớ bị anh hành hạ và bỏ đói, những phung phí tài sản, là bằng chứng cho sự thất tín của anh. Kitô hữu là những người đã biết ý Chúa, mà không làm theo, sẽ bị phạt nặng hơn những người không biết. Những nhà lãnh đạo được trao quyền hành và trách nhiệm cũng phải trả lời trước mặt Chúa về cách phục vụ của mình. Chúng ta đều sợ khi nghe những lời này của Đức Giêsu: “Ai được cho nhiều, sẽ bị đòi nhiều. Ai được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới, nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời. Chúng con phải đối diện với bao thách đố của cuộc sống, của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình, của nghề nghiệp chuyên môn. Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của vật chất và quyền lực, nhưng cho chúng con giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu, lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con sống thực tế, nhưng không thực dụng; biết xoay xở nhưng không mưu mô; lo cho tương lai cá nhân, nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ. Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc, giữa những xâu xé trước bao lựa chọn, xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để múc lấy ánh sáng và sức mạnh, để mình được thật là mình trước mặt Chúa. Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân, làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh, và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen. --------------------------------
Việc chờ đợi của chúng ta không giản đơn là tỉnh thức. Nhưng còn là có trách nhiệm. Vì trong khi Chúa vắng nhà Chúa trao cho ta quyền quản gia. Nhiệm vụ của quản gia được Chúa định nghĩa là trung tín và khôn ngoan. Khôn ngoan là “cấp phát lúa gạo đúng giờ đúng lúc”. Có của cải nhưng phải biết dùng đúng nơi, đúng lúc, đúng cách, mới sinh hiệu quả tối đa. Làm lợi cho kho tàng của chủ. Đó là người quản gia khôn ngoan. Ta quản chính con người mình với những tài năng của thân xác, trí tuệ và linh hồn. Làm sao phân phát lương thực đúng thời đúng lúc cho chúng phát triển? Trung tín là ta không được gian tham chiếm đoạt của chủ. Trong Tin Mừng Chúa cho biết sự bất trung đó là: “Người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Còn lâu chủ ta mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gài và chè chén say sưa”. Dùng những gì Chúa ban để thoả mãn dục vọng. Và tệ hơn, không làm phát triển anh em. Nhưng bóc lột anh em. Đó là bất trung, gian tham.
Thư Rô-ma cho biết bất trung xảy ra vì ta làm nô lệ cho thân xác. Nô lệ cho thân xác tội lỗi sẽ phải chết. Hãy làm nô lệ cho Thiên Chúa ta sẽ nên công chính và được sống. “Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa, thì sẽ được nên công chính”. Thánh nhân khuyên nhủ ta: “Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho thấy việc quản lý cao quí nhất chính là quản lý Tin Mừng. Vì thế việc phục vụ cao quí nhất cũng là phục vụ Tin Mừng. Và phải phân phát lương thực Tin Mừng cho mọi người đúng nơi đúng lúc. Thánh Phao-lô hãnh diện vì nhiệm vụ đó: “Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô….Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa cho ta được làm quản gia của Chúa. Và đã trao cho ta kho tàng quí giá nhất là Tin Mừng cứu độ. Nhưng bổn phận phân phát Tin Mừng đúng nơi đúng lúc là nhiệm vụ vô cùng cấp bách và khó khăn. Biết bao linh hồn đang khao khát Tin Mừng cứu độ. Tôi làm nhiệm vụ phân phát thế nào? Có xứng đáng là quản gia trung tín và khôn ngoan không?
Giữa một ngôi vườn xinh tươi, có một cây sồi cao, chung quanh là một rừng cây. Cây sồi ngày một lên cao ngạo nghễ. Một hôm, từ trên nhìn xuống, nó ra lệnh cho người làm vườn đốn những cây chung quanh, vì chúng làm vướng víu, quấy rầy và che bóng của nó. Và như thế, cây sồi loại hết mọi cây cỏ để chỉ còn một mình bá chủ ngôi vườn. Thế nhưng một ngày kia, một trận cuồng phong nổi lên, không còn cây cối chung quanh chống đỡ cho bớt gió, cây sồi ngả rạp giữa vườn và chết một cách thê thảm.
Số phận của những người chà đạp người khác để tiến thân cũng giống như cây sồi trong dụ ngôn trên đây. Người ta thường nói: "Trèo cao, té nặng", bởi vì để lên cao, họ đã đạp đổ tất cả người khác, đến độ khi trượt chân té ngã, họ không còn ai nâng đỡ họ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận với nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Do phép Rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục vụ. Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ. Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì "cho thì có phúc hơn là nhận". Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
Với thắc mắc của tông đồ Phêrô: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay chỉ về cho mọi người", Chúa Giêsu khai triển thêm về chủ đề tỉnh thức và sẵn sàng, và có vẻ như trong lần khai triển này Ngài nhắm đến những người có trách nhiệm trong cộng đồng.
Chủ đề tỉnh thức và sẵn sàng được nối tiếp với những giáo huấn của Chúa Giêsu dành cho giới có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa. Và dĩ nhiên trước tiên là những người có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa, họ phải gương mẫu trong thái độ tỉnh thức và sẵn sàng vì không những là sự tỉnh thức, sẵn sàng cần thiết cho ơn cứu độ của bản thân họ mà họ còn phải tỉnh thức và sẵn sàng để người khác có được ân sủng của Chúa nữa.
Công việc của một người có trách nhiệm trong dân Chúa thì muôn vẻ, muôn mặt và thường là những công việc không tên, không tuổi. Họ sống cho dân Chúa và ở giữa dân Chúa để mọi người có thể thấy Chúa qua họ. Trong cuộc sống rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài liên tục kiếm tìm, khuyên lơn, an ủi, thánh hóa và giải cứu cho con người. Ngài không có thời khóa biểu cho công việc của mình mà trọn vẹn Ngài sống là cho đi, là trao ban, là sứ mệnh. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đòi hỏi những người có trách nhiệm của chúng ta làm như Chúa Giêsu được, nhưng đòi hỏi phải tỉnh thức và sẵn sàng hơn những người khác để xứng đáng là môn đệ, xứng đáng là những người gần Chúa hơn, hầu có thể đem Chúa đến cho mọi người, vì dù sao đi nữa thì các vị ấy cũng được gọi và bản thân của họ tình nguyện để đi theo Chúa.
Anh chàng thanh niên khi nghe Chúa nói: "Anh hãy về bán của cải cho người nghèo rồi hãy đến theo Ta". Anh đã lẳng lặng bỏ đi vì anh không thể làm được chuyện ấy. Chúa Giêsu có buồn đôi chút nhưng Ngài tôn trọng tự do của anh, nếu anh vẫn sống trọn vẹn các giới răn như anh đã thưa với Chúa thì anh vẫn là người rất tuyệt. Thế nhưng, theo rồi mà không dành tất cả cho Chúa và cho anh chị em của mình như Chúa dạy thì thế nào cũng bị Chúa khiển trách. Thỉnh thoảng, có những vị phân bua: "Là gì đi chăng nữa thì cũng phải có những khoản riêng cho mình chứ, có những thứ thuộc đời tư của mình chứ". Không đâu, quí vị không còn đời tư nữa, quí vị không còn gì là riêng rẽ nữa. Tất cả đã là của Chúa và của anh chị em mình, ban cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều; giao phó cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều hơn.
Lạy Cha,
Tất cả chúng con đều là những đầy tớ phải biết thức tỉnh và sẵn sàng, nhưng hôm nay thì Chúa Giêsu, Con Cha, nói về những vị đầy tớ đặc biệt. Ðiều đó quá đúng, vì dù sao thì trong một tổ chức, một cơ cấu, cũng có nhiều công tác khác nhau, và mỗi người đều có một cách phục vụ tùy theo chỗ đứng, tùy theo công việc được giao phó. Chúng con cầu nguyện cho những người được giao cho những trách nhiệm đặc biệt ấy, để các ngài năng giống Con Cha hơn, không có thời khóa biểu cho riêng mình nhưng có thời khóa biểu để phục vụ Cha nơi những anh chị em được trao phó.
“Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc. 12, 39-40)
Đức Giêsu tiếp tục khuyên nhủ các môn đệ phải luôn luôn tỉnh thức chờ ngày Chúa trở lại. Điều chắc chắn: Đức Giêsu sẽ trở lại. Nhưng khi nào? “Vào giờ các bạn không ngờ”, không được thông báo trên đài phát thanh. Thông báo được người ta chờ đợi rất vắn và là tin cuối cùng, nếu người ta không luôn luôn lắng nghe, người ta sẽ bỏ lỡ.
Đầy tớ trung tín:
Phê-rô và phần lớn Kitô hữu, được rửa tội, giữ đạo đều đều, không làm hại ai. Vậy họ sẽ được bảo đảm ơn cứu độ. Thế mà tại sao Đức Giêsu vẫn liên tục nhắc nhở họ phải tỉnh thức chờ Người trở lại một cách bất ngờ? Như đài ra-đa luôn luôn chờ nghe những tin báo khẩn cấp. Thế thì việc gì Đức Giêsu phải nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ, Cha các con hảo tâm ban cho các con nước trời rồi”.
Nếu Thầy chí thánh trao cho chúng ta nhiệm vụ quản gia, chúng ta phải có trách nhiệm lo phân phát của ăn thiêng liêng cũng như lương thực tạm thời. Chúng ta càng nhận biết thánh ý Chúa, chúng ta càng phải có trách nhiệm hướng dẫn gia đình sao cho mọi sự được trật tự, không bị một trục trặc sai trái nào, để bất kỳ lúc nào chủ về xem xét và thấy hài lòng trọn vẹn. Lúc đó, chủ an tâm về chúng ta đã được Ngài chọn lựa tốt và cho chúng ta được đời sống phong phú đời đời.
Không tha cho kẻ chè chén say sưa:
Nếu chúng ta không lo tỉnh thức, lại lạm dụng địa vị để say sưa chè chén lãng phí, chủ bất ngờ trở về, chúng ta sẽ bị băm ra trăm miếng, như tập tục của người Ba-tư đối với đầy tớ bất trung. Sự tuyển chọn ban đầu không che chở chúng ta khỏi những xét xử đó, vì chúng ta đã sống vô trách nhiệm, nên hoàn toàn phải chịu tội. Mức độ bị xử phạt tùy theo sự hiểu biết về thánh ý Chúa và chức quyền đã được trao phó. Lỗi của chúng ta là thiếu đức tin, đức cậy, đức mến đối với lời kêu gọi liên tục mà Chúa rất nhân từ quảng đại ban cho chúng ta được phúc sống trước tôn nhan Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối hôm qua. Tuy nhiên, cùng một đề tài về sự tỉnh thức. Nhưng nếu hôm qua, Đức Giêsu nhắm đến đối tượng chính là các môn đệ nói chung, thì hôm nay, Ngài trực tiếp để ý đến những người quản lý, hay nói đúng hơn là những người lãnh đạo.
Thật vậy, qua dụ ngôn này, Đức Giêsu nhắm đến sự trung thành, tận tụy với công việc được giao. Ngài nói: không được chè chén say sưa, ngược đãi người khác. Nếu không làm được điều này thì ắt sẽ bị đòn nhiều: “Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Mỗi người chúng ta, một cách nào đó, hẳn đều là những người lãnh đạo. Có thể là chủ công ty, xí nghiệp, trưởng hội này, nhóm kia, hoặc ít ra là cha là mẹ trong gia đình. Nhìn rộng ra thì hết thảy ai ai cũng đều được Chúa trao cho những nén bạc như: sự sống, tài năng, sức lực... Khi được trao ban như thế, ấy là lúc Chúa tin tưởng và trao phó trách nhiệm cho chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh, môi trường, chức nghiệp, chúng ta phải làm vinh danh Chúa và lợi ích cho phần rỗi của mình cũng như anh chị em.
Làm được điều đó, chúng ta được Chúa ví như một quản gia trung thành và khôn ngoan.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng để chu toàn bổn phận được trao. Hãy luôn nghĩ đến giờ chết của mình để chuẩn bị sẵn sàng trong tư thế của người môn đệ là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Cần nhạy bén với ơn Chúa và các dấu chỉ để ý thức chu toàn bổn phận.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng, để biết chu toàn bổn phận của mình cách trung thành. Xin cho chúng con luôn biết ý thức mình sẽ chết, để từ đó biết sám hối và canh tân đời sống ngay trong giây phút hiện tại. Amen.
Sứ điệp: Tỉnh thức đón chờ Chúa đến là chu toàn bổn phận đối với những người và những công việc đã được trao phó. Thưởng hay phạt đều theo đó mà định đoạt.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mỗi người trong chúng con đều là tôi tớ của Chúa, được Chúa trao phó cho một số công việc để chu toàn.
Con muốn sống cho bản thân mình, muốn xây dựng cuộc sống và lo lắng cho tương lai của mình. Nhưng Lời Chúa hôm nay còn cho con hiểu rằng: con thuộc về Chúa và là tôi tớ của Chúa, nên Chúa muốn con đảm nhận công việc mà Chúa trao cho. Chúa đã trao cho con công việc để thực hiện, và con có sứ mệnh hoàn tất công việc ấy. Nếu con ốm đau, bệnh tật của con có thể phục vụ Chúa. Nếu con đau khổ, nỗi đau của con có thể phụng sự Chúa.
Việc của người đầy tớ có lẽ không có gì là lớn lao, to tát. Điều mà người đầy tớ thực hiện chỉ vì đó là do chủ muốn như vậy. Con muốn phục vụ Chúa trong kẻ khác, tại gia đình con, tại trường học, tại nơi làm việc, ở chợ búa.
Sống cho kẻ khác, phục vụ kẻ khác trong những chuyện lớn lao, có lẽ không được dành cho con, nhưng còn nhiều việc nhỏ bé hằng ngày: một lời an ủi, một giúp đỡ nhỏ, một sự cảm thông …, những điều ấy ở trong tầm tay và khả năng của con.
Lạy Chúa, xin cho con luôn ý thức con là tôi tớ của Chúa. Xin giúp con sống cho Chúa và thực thi Ý Chúa, để con sống cho kẻ khác, giúp đỡ và yêu thương mọi người. Amen.
Ghi nhớ: “Người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều”.
Tại Thụy Sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn.
Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”
- Khoảng 40 năm rồi. - Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà? - Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi. - Ông có thư từ gì với cụ không? - Không, ông ta bận lắm. - Ông ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ? - Hằng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu ườn này.
- Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?
- Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
Suy niệm
Tiếp tục giáo lý tỉnh thức, Chúa Giêsu nhấn mạnh tỉnh thức như người đầy tớ trung thành với chủ, biết chăm sóc và bảo vệ tài sản của chủ mình. Thái độ của người đầy tớ trung tín gợi cho chúng ta hãy luôn mang tinh thần thức tỉnh trong cuộc sống. Tỉnh thức có nghĩa là ý thức mình không “say mê”, hay không để mình say trước những phù du hão huyền, đưa mình phụ thuộc thậm chí làm nô lệ với những thực tại trần thế: Vật chất danh vọng làm xa rời Thiên Chúa, hay say trong bát đồ trận của cảm xúc, của ý nghĩ chủ quan. Tỉnh thức là không “say” nhưng ý thức với cuộc sống với công việc mà trong sâu thẳm của trái tim, tôi và bạn tin rằng chính Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta thực hiện, nên gắn bó hết lòng: Đó là tư thế sẵn sàng, thắt đai và cầm đèn sáng trong tay chờ chủ về. Thức tỉnh là biết mình đang làm gì trong đời đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở và nhịp đập của trái tim yêu thương và tinh thần phục vụ của mình như nhà thơ Tagore chia sẻ tâm tình: “Tôi thức tỉnh và tôi sống, một cuộc sống chỉ phục vụ, tôi phục vụ và tôi hiểu rằng phục vụ là niềm vui”. Chính vì phục vụ và niềm vui cuộc sống này làm nên bao điều kỳ diệu cho mình và cho người bên cạnh. Như nhà Phật có dạy: “Phải sống tỉnh thức, an trú trong giờ phút hiện tại để thấy giá trị cuộc sống và những điều mầu nhiệm đang xảy ra với mình”.
Thức tỉnh không chỉ là ý niệm thiêng liêng là chờ đợi ở đời sau, là cuộc sống ở trên trời nhưng tinh thần thức tỉnh bắt đầu từ hôm nay, từ những cơ bản tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày, có thể nói chính tinh thần thức tỉnh xuyên suốt đời sống tự nhiên đến siêu nhiên đã bắc cầu xuyên suốt giữa hai con đường của hai thế giới thành một “con đường Thiên ý cho con người”.
Cho nên, sự thức tỉnh là lựa chọn định hướng cuộc sống mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận hôm nay trong hiện tại với cuộc sống chúng ta đang hiện diện và hơn nữa với cuộc sống vĩnh hằng của mình sau này.
Ý lực sống
“Hôm nay bạn chưa sẵn sàng thì đến mai bạn sẵn sàng thế nào được? Mà ngày mai có gì là chắc. Bạn có chắc được bạn sẽ sống đến ngày mai không?” (Sách Gương Phúc).
Sau khi dạy dân chúng về việc phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ giờ Chúa đến, Đức Giêsu quay sang dạy các môn đệ về tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng. Đức Giêsu lại dùng một dụ ngôn khác dạy về bổn phận những người có trách nhiệm trong Hội thánh. Mỗi người chúng ta, tùy theo công việc và địa vị đều có trách nhiệm phải chu toàn những bổn phận Chúa trao. Như đầy tớ trung thành với chủ, họ biết chăm sóc và bảo vệ tài sản của chủ mình, chúng ta cũng có bổn phận phải xây dựng và bảo vệ Hội thánh, để chuẩn bị đón Đức Giêsu trở lại trong vinh quang.
Trong bài Tin mừng hôm nay, một lần nữa, Đức Giêsu nhắc lại việc phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Ngài sẽ đến trong ngày Quang lâm và ngày sau hết của đời mỗi người.
Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị thế chiến, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp, có nói: “Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai chữ: ‘Quá muộn’”. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ. Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La Mã xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh: “Si vis pacem, para bellum”: nếu muốn được bình yên phải chuẩn bị chiến tranh.
Và thời xưa người Trung Hoa đã từng có tư tưởng như vậy: “Bình thời luyện vũ, loạn thế độc thư”: Thời bình thì phải lo luyện võ, thời loạn thì phải lo đọc sách. Nói như vậy là người ta khuyến cáo họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải chuẩn bị cho chiến tranh, để khi chiến tranh xảy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống bất trắc có thể xảy ra.
Dụ ngôn thứ hai hôm nay nói về “một người quản lý trung thành” (Lc 12,41-48). Dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Theo Luca thì người lãnh đạo là một người được Chúa trao cho việc coi, hay nói theo từ ngữ mà Luca thích dùng đó là người “quản lý” giáo đoàn (Lc 16,1.3.8). Vì được Thiên Chúa trao cho nhiệm vụ lãnh đạo cho nên người đó phải “trung thành” phục vụ mọi người cho tới khi Chúa quang lâm. Nếu trung thành sẽ được trọng thưởng. Trái lại, nếu nghĩ rằng: Chúa chậm quang lâm, rồi lợi dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái), thì khi đến ngày Chúa quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chức vụ càng cao thì hình phạt càng nặng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ là chúng ta đang sống thế nào? Đang thức hay ngủ mê? Có biết chu toàn nhiệm vụ được trao phó không?
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là tận thế không: nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
Chúng ta nên lưu ý: đừng bao giờ nghĩ mình còn trẻ, còn khoẻ mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp: “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Quả thực, không ai biết trước về ngày giờ chết của mình, không ai phỏng đoán được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời. Đó là quyền phép trong tay Chúa, vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng.
Hơn nữa, Chúa còn bảo chúng ta phải luôn khôn khéo sử dụng các ơn lành Chúa ban. Chúng ta là những người quản lý được Chúa trao vốn, người nhiều người ít. Nhiều hay ít không quan trọng, nhưng phải biết trung tín và khôn ngoan, để thi hành đúng ý chủ là làm lợi ra với số vốn đó. Bởi vì chúng ta sẽ phải trả lời và tính sổ với Chúa khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, Chúa sẽ căn cứ vào đó để thưởng hay phạt chúng ta.
Truyện: Người quản gia trung thành
Vào năm 1981, tờ Nữu Ước Thời báo, là nhật báo nổi tiếng Hoa Kỳ có đề nghị rằng: chính phủ Hoa Kỳ nên trả lương hưu trí và gắn huy chương cho ông cụ người Trung Hoa 73 tuổi. Ông cụ không phải là một nhà chính trị, quân sự, kinh tế hay là một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, mà chỉ là một người lao công, làm việc cho một lãnh sự quán Hoa Kỳ tại một thị trấn nhỏ ở Trung Hoa.
Khi Hoa Kỳ cắt đứt liên lạc ngoại giao với Trung Hoa, lãnh sự quán này bị đóng cửa và trong suốt 35 năm, ông cụ mỗi ngày vẫn đến quét sân vườn và lau sàn nhà một lần.
Tờ Nữu Ước Thời báo viết: “Một người thiếu trung tín chắc chắn sẽ lập luận rằng: Thôi, cần chi quét là cây mỗi ngày cho mệt, có ai biết đâu? Lá cây đâu có biết nói mà sợ? Nhưng ông cụ này trung tín làm bổn phận suốt 35 năm, mặc dù không nhận được lương và không có ai kiểm soát”.
1. Dụ ngôn chủ nhà tỉnh thức (39-40): Dụ ngôn này không so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến và tên trộm đến cũng bất ngờ như nhau. Vì bất ngờ nên phải tỉnh thức. Ý chính là tỉnh thức.
2. Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ “quản lý” để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16,1.3.8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người đó sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
B.... nẩy mầm.
1. Những nhà khảo cổ đã đào bới được thành phố Vésuve xưa kia bị núi lửa chôn vùi cách đột ngột. Người ta thấy nhiều cảnh tượng trái ngược nhau: có người chết đang khi nhậu nhẹt, có những người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền. Nhưng đẹp nhất là hình một người lính gác vẫn đứng nghiêm, gươm giáo trong tay.
2. Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói: “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
3. “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40)
Con mưa chiều 28-7-1996 đã làm cho cây me cổ thụ trước nhà số 100A đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1 tróc gốc ngã đè ba xe gắn máy. Em Hà Chí Thanh, 17 tuổi, học sinh, nhà ở số 444/20 đường cách mạng tháng 8 quận 3, đi xe Kawasaki Neo Max chết ngay tại chỗ. Bảy người khác bị thương phải chở đi cấp cứu. Theo kỹ sư Phạm Thanh Sơn, phó giám đốc Công ty Công viên cây xanh thành phố, cây me trên đã được tỉa cành, ngọn, khống chế chiều cao và... đã có giấy phép đốn hạ vào ngày 29-7-96. Trước tình trạng cây cổ thụ ngã hàng loạt trong mùa mưa có gió mạnh này, ông Sơn cho biết công ty sẽ huy động toàn lực lượng nhanh chóng đốn hạ khoảng 80 cây cổ thụ đã có giấy phép xin đốn bỏ. Em Thanh đâu có ngờ, chiều hôm ấy mình là nạn nhân. Ông Sơn đâu có ngờ, cây đổ trước một ngày có giấy phép đốn hạ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết sẵn sàng để có thể lên đường với Chúa, khi Người đi ngang qua đời con và cất tiếng gọi mời. (Hosanna).
* Dụ ngôn thứ nhất nói về một chủ nhà tỉnh thức (Lc 12,39-40): Dụ ngôn này không so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến và tên trộm đến đều bất ngờ như nhau. Vì bất ngờ nên phải tỉnh thức.
Ý chính của dụ ngôn này là tỉnh thức.
* Dụ ngôn thứ hai nói về một người quản gia trung thành (Lc 12,41-48). Dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Theo Luca thì người lãnh đạo là một người được Chúa trao cho việc coi hay nói theo từ ngữ mà Luca thích dùng đó là người “quản lý” giáo đoàn (Lc 16,1.3.8). Vì được Thiên Chúa trao cho nhiệm vụ lãnh đạo cho nên người đó phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa quang lâm. Nếu trung thành sẽ được trọng thưởng. Trái lại, nếu nghĩ rằng, Chúa chậm quang lâm, rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến ngày Chúa quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chức vụ càng cao thì hình phạt càng nặng.
Ý chính của dụ ngôn này là phải trung thành trong nhiệm vụ được giao.
2. Một tác giả nọ đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Một linh mục chính xứ kia, được Chúa Giêsu báo cho biết trước là Ngài sẽ đến thăm giáo xứ vào Chúa nhật tới. Nghe tin đó, mọi người trong giáo xứ đều háo hức tề tựu ở nhà thờ để chào đón Chúa. Khi Chúa đến, ai cũng muốn được nghe những lời giảng dạy của Ngài, thế nhưng Chúa chỉ gật đầu mỉm cười mà không nói một lời nào. Dĩ nhiên là sau đó linh mục chính xứ đã mời Ngài vào nghỉ tại nhà xứ, nhưng Chúa Giêsu cho biết là Ngài chỉ thích ở lại trong nhà thờ mà thôi.
Sáng hôm sau, mọi người cũng tới nhà thờ để tiếp tục chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã biến mất từ lúc nào không ai biết. Nhưng có một sự việc mà cả linh mục cũng như giáo dân đều kinh ngạc, đó là trong nhà thờ chỗ nào cũng thấy hai chữ “coi chừng” được viết ở khắp nơi. Từ cửa sổ, trần nhà, bàn ghế và ngay cả quyển Kinh Thánh và Nhà Tạm, nơi nào cũng thấy hiện lên hai chữ “coi chừng” được viết bằng đủ mọi màu sắc. Nhưng “coi chừng” điều gì thì không ai biết. Và vì là chữ viết của Chúa Giêsu cho nên không ai dám xoá.
Thế rồi mọi người không ai bảo ai, mỗi khi bước vào nhà thờ ai cũng cảm thấy mình bị đánh động bởi hai chữ “coi chừng”, và họ cảm thấy mình phải sống ý tứ hơn. Và thật là một điều hết sức kỳ diệu. Từ đó, mỗi người thấy phải coi chừng đối với việc lắng nghe Lời Chúa. Họ không còn lắng nghe một cách hời hợt, nhưng nghe để rồi đem ra thực hành trong cuộc sống. Họ cũng coi chừng đối với việc lãnh các Bí tích. Họ không còn dám lãnh các bí tích như một thói quen, nhưng đã cố gắng lãnh các bí tích một cách ý thức hơn.
Cả linh mục chính xứ cũng thế. Ngài cũng đã phải coi lại cách sống của mình để biết sống khiêm tốn, dấn thân hơn trên con đường phục vụ dân Chúa. Người người ai cũng coi chừng, coi chừng cung cách cầu nguyện, coi chừng đối với cả cách họ vẫn nghĩ xưa nay về Thiên Chúa. Thiên Chúa mà họ phải tôn thờ không phải là Thiên Chúa chỉ ở trong bốn bức tường của nhà thờ, mà còn phải nhận biết Ngài trong mọi cảnh huống của cuộc sống nữa. Cuối cùng, nhận thấy ý nghĩa và ích lợi quá lớn của hai chữ coi chừng mà Chúa Giêsu đã viết trong nhà thờ, người ta còn cho bắt thêm những ngọn đèn điện lớn được xếp thành hai chữ “COI CHỪNG” trên nóc giáo đường để mọi người thấy rõ hơn.
3. Câu chuyện chúng ta vừa nghe chỉ là một câu chuyện giả tưởng nhưng quả thực nó cũng có một ý nghĩa nào đó cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta cũng phải biết coi chừng.
Trong bài giảng nhân dịp kỷ niệm hai mươi năm được bầu vào chức vụ chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ, Đức Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội, đó là ngài đã khiêm tốn làm một cuộc tra vấn lương tâm trước mặt mọi người. Ngài nói như sau:
- Sau hai mươi năm phục vụ trên quan tòa Phêrô, hôm nay tôi không thể không tự đặt ra cho mình một số câu hỏi:
a. Ngươi có làm tròn sứ vụ được giao phó không?
b. Ngươi có chuyên cần và tỉnh thức trong chức vụ thầy dạy đức tin của Giáo Hội không?
c. Ngươi có cố gắng đưa con người ngày nay đến gần công cuộc vĩ đại của Công đồng Vaticanô II không?
d. Ngươi có quan tâm đến những chờ đợi của các tín hữu trong Giáo Hội, cũng như nỗi khát khao chân lý trong thế giới bên ngoài Giáo Hội không?
Ước gì mối quan hệ và trách nhiệm đối với tha nhân luôn là điểm xét mình hàng ngày của chúng ta. “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Ðó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người. Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông. Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lãnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người. Ðức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên. Ngọn lửa Ðức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Ðây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng. Chúng ta cần được ngọn lửa của Ðức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới. “Phải chi lửa ấy đã bùng lên!” Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Ðức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau. Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Ðức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau. Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối. Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu... Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình, Bóng tối ở ngay trong lòng tôi. Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt. Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa, Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Chân phước Têrêxa Calcutta) ----------------------------------
Lời của Chúa hôm nay là lời của lửa. Hành động của Chúa là hành động của lửa: ném lửa xuống mặt đất. Cuộc đời của Chúa là cuộc đời lửa cháy. Cháy lên tình yêu mãnh liệt. Lửa tình yêu bừng cháy thanh luyện. Đó là phép rửa cuối cùng của Chúa. Đó là tình yêu lớn lao hơn mọi tình yêu. Đã biến cuộc đời Chúa thành một thứ vàng ròng tinh khôi.
Chúa ước mong lửa đó cháy lên. Cháy lên trong mỗi người chúng ta. Để ngọn lửa đó thanh luyện trái tim ta. Để chỉ yêu mến một mình Thiên Chúa. Để thanh luyện khỏi những gì thuộc trần gian. Gây nên mối chia rẽ lớn lao. Như lửa tách tạp chất ra khỏi vàng. Tình yêu mến Chúa tách ta khỏi những gì thuộc trần gian. Dù đó là những gì thân thiết nhất. Như ước vọng, đam mê. Những người thân thiết nhất. Như cha mẹ, anh em, vợ chồng. Những gì thâm sâu nhất. Như chính bản thân mình. Tất cả phải được tách lìa. Phải được thanh luyện. Thành vàng ròng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Hãy chiêm ngắm Chúa Giê-su trong vườn Giệt-si-ma-ni. Đó là phép rửa cuối cùng. Ngọn lửa tách biệt cái tôi khỏi thánh ý Chúa Cha. Khiến Chúa đau đớn toát mồ hôi pha máu. Chúa đã trở thành vàng ròng. Để trên thánh giá chỉ còn “phó linh hồn trong tay Chúa Cha”.
Thư Rô-ma cho biết lửa thanh luyện ta khỏi tội lỗi của con người xưa cũ. Để sống cho con người mới trong ân sủng. Cùng là chi thể nhưng cách sử dụng khác nhau: “Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô diễn tả cuộc thanh luyện cuối cùng sẽ giúp ta nên vàng ròng tinh tuyền. Để kết hợp mật thiết với Chúa Ba Ngôi. Được tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (năm chẵn).
Xin cho đời ta cháy bừng ngọn lửa yêu thương. Để ta cũng ném lửa. Gây nên đám cháy tình thương trên khắp mặt đất này.
Bình an chỉ có thể đạt được bằng giá của chiến đấu liên lỉ chống lại tư lợi và khuynh hướng xấu trong con người. "Nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh". Nếu muốn có bình an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi.
Vai trò của các vua chúa trong Cựu Ước là võ trang và chuẩn bị chiến tranh. Chúa Kitô cũng được gọi là Vua, vai trò của Ngài chính là võ trang và chuẩn bị chiến đấu, nhưng khí giới Ngài trang bị cho mình là cái chết trên Thập giá. Chính khi bị treo trên Thập giá, Ngài đã được tôn phong là Vua Do thái. Chúa Giêsu cũng là Vua, vì Ngài đã đánh bại Satan, tội lỗi. Con đường vương giả Ngài đã vạch ra cũng chính là con đường Thập giá. Chúng ta không thể làm môn đệ Ngài, không thể đi theo Ngài, không thể tham dự cuộc chiến của Ngài, mà lại khước từ Thập giá.
Thật ra, thập giá chỉ là một phát minh độc ác của con người để hủy hoại nhau; mãi mãi thập giá vẫn là biểu tượng sự độc ác của con người. Nếu Chúa Giêsu đã ôm trọn Thập giá, thì không phải vì Ngài yêu sự độc ác, tự đày đọa mình, nhưng chính là để thể hiện tình yêu tột độ của Thiên Chúa. Dù con người có độc ác, xấu xa đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, tha thứ cho họ. Chiến thắng của Chúa Kitô chính là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, của ân sủng trên tội lỗi, của niềm tin trên thất vọng.
Chúng ta tiếp tục đi theo con đường của Chúa Kitô; chúng ta tiếp tục đau khổ vì tin rằng bên kia những thất bại, khổ đau, tình yêu Thiên Chúa vẫn còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta đón nhận mọi bách hại, thù ghét, thua thiệt, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới có thể thắng vượt được ích kỷ, hận thù trong lòng con người.
Xin Chúa Kitô ban sức mạnh để chúng ta bước theo con đường Thập giá dẫn đến vinh quang.
Mới thoáng nghe những gì Chúa Giêsu nói, chúng ta cảm thấy khó chịu và có lẽ nhiều người và có lẽ nhiều người nghe Chúa Giêsu cũng cảm thấy khó chịu như chúng ta. Thế nhưng thực tế là như vậy. Sự lựa chọn quyết liệt để sống và trung thành với giáo huấn của Tin Mừng sẽ gây khá nhiều những mâu thuẫn giữa những người thân thương trong gia đình và cả với những người chung quanh của chúng ta nữa. Lý do là vì khôn ngoan theo Tin Mừng khác với khôn ngoan theo tinh thần của thế tục. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không biết thế nào là khôn ngoan theo tinh thần thế tục.
Thiên Chúa muốn chúng ta khôn ngoan lựa chọn quyết liệt để sống theo khôn ngoan của Tin Mừng, vì Chúa cho lửa tình yêu của chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau được bùng lên và bốc cao trên mặt đất này vì đó là cách để Ngài dẫn chúng ta về với Chúa Cha, khi đã tập cho chúng ta biết yêu nhau như con cái của Thiên Chúa.
Lạy Cha là Thiên Chúa chúng con.
Hơn bao giờ hết trong lúc này, chúng con mới nhận thấy được rõ ràng thế nào là khôn ngoan theo Tin Mừng và thế nào là khôn ngoan theo thế tục. Chỉ tiếc có một điều là chúng con vẫn chưa đủ can đảm để cộng tác với Chúa Giêsu, Con Cha khởi lên. Chúng con yếu đuối quá.
Lạy Cha,
Xin Cha ban cho chúng con Thánh Thần của Cha, để chúng con cố gắng can đảm loại bỏ những khôn ngoan thế tục, dù có bị chính những người thân yêu của chúng con phản đối hay ghét bỏ.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong chi lửa ấy đã bùng lên, Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc. 12, 49-50)
Sự dữ, sự xấu là con bệnh ung thư xâm nhập càng ngày càng sâu vào con tim nhân loại, đến một mức độ nó bắt con người phải nô lệ và làm đen tối mọi khả năng con người. Tâm lý học chiều sâu đã chứng minh điều đó. Trước nhà tâm lý trị liệu Freud rất xa, Thiên Chúa biết tận đáy những con tim. Chỉ có tình yêu của Ngài mới có thể giải phóng những ràng buộc của sự dữ. Theo thánh ý Ngài, Đức Giêsu đã đến bộc lộ tình yêu của Thiên Chúa cho thế nhân. Sự cứng lòng từ chối của dân Do thái đối với lời Ngài càng ngày càng thấy phải chữa trị tận căn cho nhân loại.
Thanh tẩy sự dữ:
Những ngôn sứ đã tiên báo cho dân Ít-ra-en rằng Thiên Chúa sẽ đến đòi nợ của Ngài trong cơn giận bừng bừng lửa cháy. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối không trưng dẫn lời ấy của ngôn sứ I-sai-a nói về ngày báo oán. Người chỉ đến trong tình yêu, không phải để tiêu hủy, nhưng để chữa lành nhờ tình yêu. Người đem lửa đến mặt đất để thanh tẩy, thổi nóng con tim sôi lên làm cho những vi khuẩn nhơ bẩn không còn nữa. Trước sự bành trướng của sự dữ, sự xấu đang vây bọc con tim nhân thế, Đức Giêsu khắc khoải mong ước cho lửa ấy cháy lên, mong ước cho sứ mệnh cứu thế và giải phóng của Người sớm hoàn thành.
Đó là phép rửa Đức Giêsu phải chịu trong đau khổ để mở ra con đường giải thoát tội lỗi và tiếp tế ơn tha thứ. Đó chính là lửa Thánh Thần được Đức Giêsu đem đến thấu tận con tim nhân loại, như gươm hai lưỡi đâm chia rẽ ra hồn với xác, tinh thần với vật chất, đã luôn luôn gây cấn với nhau, như con trai với cha nó, như con gái với mẹ nó, như mẹ chồng với nàng dâu, mới mong chữa trị khỏi cơn bệnh ung thư cho loài người để được sống mạnh mẽ dồi dào.
Sự phân chia này là một vết mổ tận căn ở thân xác gia đình con người. Ai tuân phục lời Chúa và Thánh Thần phải cam kết theo Đức Kitô và cắt đứt những mối dây liên lạc đó, dù là thứ yêu quý nhất, chặt chẽ nhất, vì những thứ dây này kéo ghì họ lại với thế gian. Như thế, họ sẽ thấy hòa bình của Đấng cứu thế rất khác với thứ yên ổn dễ đổ vỡ của thế gian hay của cái chết. “Đối với các ngươi, kẻ kính sợ danh thánh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên chiếu ánh sáng đến chữa lành các ngươi” (Ml. 3, 20). Mặt trời công chính này chính là Đức Kitô đã yêu thương hy sinh chịu chết để chữa lành tận căn con bệnh của nhân thế.
Những trang Tin Mừng trước, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thái độ tỉnh thức và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp phải sự đau khổ, bất hạnh, bởi vì chính lúc không ngờ, Con Người sẽ đến. Sang bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết, đồng thời cũng xác định những hệ quả của những người đón nhận Tin Mừng.
Trước tiên, Đức Giêsu muốn tiên báo về chính cái chết của mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của những người tin và theo Ngài, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: không phải Đức Giêsu đến để đem hòa bình theo kiểu trần gian, mà là một nền hòa bình của Thiên Chúa và chỉ dành cho những ai xây dựng đời mình từ nền tảng Tin Mừng mà thôi. Hòa bình này là một thứ mà tiền không mua được, quyền cao chức trọng cũng chẳng có. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ có thể nhận được sau khi đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin Mừng của Ngài. Còn những ai không yêu mến, trung thành và tuân giữ thì sẽ không bao giờ gặp được bình an thực sự. Nhưng ngược lại, họ sẽ bất hạnh và chống đối lại hòa bình của Đức Giêsu nơi anh chị em khác.
Thật vậy, trong thực tế, chúng ta thấy rất rõ sự mâu thuẫn này ngay từ trong gia đình. Cha chống lại con, con chống lại cha; nàng dâu, mẹ chồng chống đối nhau; anh chị em phản bội lẫn nhau là chuyện bình thường. Tất cả khởi đi từ những lựa chọn thuộc về giá trị sống. Những người chọn Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài làm lẽ sống, chắc hẳn sẽ bị những người trong nhà không ưa, không thích bởi vì những người đó, họ đối lập hoàn toàn với những người môn đệ của Đức Giêsu, nên họ chọn cho mình sự đảm bảo nơi tiền, quyền và những thứ vui khác...
Trong số 118 thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta, hẳn có quá nhiều người bị chính con ruột hay người thân trong huyết tộc bán đứng bằng cách báo với vua quan để nhận tiền thưởng, hay thăng quan tiến chức, hoặc thỏa mãn cơn giận... nhiều khi chỉ vì những lời dạy dỗ của các ngài dựa trên Tin Mừng của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con bình an của Chúa. Xin cho chúng con cam đảm đón nhận và giữ gìn sự bình an đó trong cuộc sống của chúng con mãi mãi, để chúng con được hạnh phúc thật. Amen.
Sứ điệp: Con người có nghĩa vụ tôn thờ Chúa. Tôn thờ Chúa chính là yêu mến Chúa hết lòng, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Chúa đã thông ban tình yêu cho con và gọi con bước theo Chúa trên con đường yêu thương. Thoáng nghe Tin Mừng hôm nay, con chợt ngỡ ngàng: sao Chúa lại đến để gây chia rẽ. Con biết Chúa dạy con thương yêu mọi người, Chúa không muốn con hận thù chia rẽ. Chúa chỉ muốn con chọn Chúa trên hết mọi sự.
Gia nhập vào hàng ngũ của Chúa, con phải chống lại tất cả những ai cản trở con theo theo Chúa, thưa “vâng” với Chúa chính là nói “không” với Xa-tan. Chọn lựa con đường về Trời, tức là con phải can đảm dứt bỏ những gì ở trần gian lôi cuốn con xa Chúa.
Chúa dạy con phải yêu thương cha mẹ, thương anh chị, mến mọi người. Đồng thời, Chúa dạy con phải tôn thờ Chúa và yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Con nhớ Lời Chúa dạy: “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng với Ta. Ai cầm cày mà còn ngoái cổ đằng sau thì không xứng hợp với Nước Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng vì tình cảm mà nhẫn tâm xúc phạm đến Chúa, đừng vì nể nang cha mẹ, họ hàng thân thích, mà làm ngơ trước những bất công; đừng vì ham chơi, ham công việc, mà bỏ bổn phận tôn thờ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, bỏ kinh nguyện sáng tối. Xin giúp con đừng vì ham tiền bạc vật chất mà lãng quên hoặc chối bỏ Chúa.
Xin cho con luôn chọn Chúa trên hết mọi người và mọi sự, dù khi chọn Chúa con phải hy sinh từ bỏ cả những gì con yêu quý nhất. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.
Đêm Phục sinh, không gian thật tĩnh lặng, bóng tối bao phủ và chế ngự đêm khuya...
Bỗng một ánh lửa bùng lên và một tiếng hát cất cao vang vọng: “Ánh sáng Chúa Kitô”, rồi một lời đáp được đồng thanh vang rền “Tạ ơn Chúa”.
Ánh lửa bập bùng xuất phát từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Chúa Kitô khải hoàn, bắt đầu được lan tỏa đến từng người tay cầm nến trong thánh đường. Ngàn ánh nến lung linh rực sáng xua đuổi bóng tối...
Suy niệm
Ba hình ảnh rất mạnh và ấn tượng được Chúa Giêsu nói đến: lửa, phép rửa bằng máu và sự xung đột, chia rẽ, như tuyên bố về thân phận của người tin phải trải qua, từ các ngôn sứ, với tiêu biểu thân phận của Giêrêmia xuyên qua Chúa Giêsu và đến mỗi chúng ta, những người đón nhận lửa tình yêu, lửa niềm tin từ trời. Giêrêmia được chọn làm ngôn sứ, đem lửa Lời Chúa đến cho dân: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt” (Gr 20,9), ông nói lời Thiên Chúa, lời chân lý đối kháng lại những gì xa rời sự thật, xa rời Thiên Chúa. Vì thế, Giêrêmia đã trở thành tường đồng chống lại cả dân tộc quốc gia, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. Gr 1). Ông đã bị bách hại bởi chính dân tộc ông và cuộc sống bị đày ải đến chết. Giêrêmia đã trở thành ngôn sứ đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc tử nạn, phép rửa máu của Đức Kitô.
Trong ngữ cảnh của đoạn Tin Mừng, tất cả những xung đột, chia rẽ mà Đức Giêsu đề cập, là hình ảnh biểu tượng những sự việc xảy ra trong quá trình thập giá tiến về phục sinh để đưa tới hiệp nhất và bình an. Các ngôn sứ cũng nói về biểu tượng chia rẽ của ngày sau hết, thời kỳ Mêssia: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà hóa ra thù địch” (Mk 7,6).
Trong thời kỳ Mêssia, Đức Kitô cũng đã phải trải qua sự xung đột nội tâm, chia rẽ ý chí và thánh ý của Thiên Chúa Cha nơi Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài khủng hoảng trước con đường sắp phải đi, thao thức lo sợ trước chén đắng sắp phải uống và phép rửa máu sắp lãnh nhận (x. Mt 26,36-46; Lc 22,39-45), đến nỗi Ngài muốn từ bỏ: “Xin cất chén này khỏi con” (Lc 22,42) nhưng vì Ngài muốn lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng lên và tỏa sáng, đốt cháy mỗi vết nhơ nhân loại, như ông Dacaria đã được linh hứng trước về sứ mạng của Đức Kitô: “Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79), giữa những giằng co xung đột, Ngài đã đặt quyết tâm mạnh: “Xin theo ý Cha đừng xin theo ý con” (Lc 22,42b).
Chia rẽ, xung đột còn xảy ra giữa Đức Kitô và những người liên hệ. Chúng ta thấy rõ nhất là thầy trò chia ly, môn đệ phản Thầy, bán Thầy, môn đệ chối Thầy, mẹ con chia ly trong máu và nước mắt.
Từ kinh nghiệm của Chúa Kitô gợi lên cho chúng ta, người Kitô hữu khi đối diện trước xung đột nội tâm, chia rẽ, những cảnh tang thương... Chúng ta hãy chiêm ngưỡng nội tâm bị chia rẽ và đang tranh đấu hiệp nhất trong thánh ý Cha của Đức Kitô nơi vườn Cây Dầu để tiếp tục chiến đấu, vượt qua xung đột hầu lửa tình yêu và bình an được đốt lên trong tâm hồn.
Ý lực sống
“Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn” (Dt 12,2).
Chúng ta nghĩ thế nào khi nghe Đức Giêsu nói: “Thầy đến để gây chia rẽ” (Lc 12,51)). Một câu nói xem ra nghịch lý, khó chấp nhận. Nhưng nếu phân tích sâu xa thì câu nói đó lại là một chân lý tuyệt vời. Hoà bình đích thực chỉ có sau khi đã quyết liệt chiến đấu để chọn lựa. Hoà bình chỉ có khi đã phân rẽ sự ác khỏi điều thiện, bóng tối ra khỏi ánh sáng... Nhờ ngọn lửa thanh tẩy, bợn nhơ được loại bỏ để chỉ còn lại sự tinh tuyền trọn hảo.
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: “Các con tưởng Thầy đến đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra.
Chúng ta cần hiểu rằng: bằng hai chữ hoà bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài: Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hoà bình đến (x.Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng hòa bình. Nhưng Ngài cần thấy phải giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng: Ngài đến thế gian không phải để đem hoà bình kiểu thế gian, mà là thứ hoà bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được, sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng gia đình.
Cuộc sống của người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng. Trận chiến mà chúng ta tham dự là trận chiến chống lại sức mạnh của ác thần. Vương quốc Chúa Giêsu thiết lập là một vương quốc luôn trong tình trạng chiến tranh, Giáo hội của Ngài luôn trong tình trạng thánh chiến. Thánh chiến ở đây không có nghĩa là chiếm lại Thánh địa, các nơi thánh hay bất cứ lãnh thổ trần gian nào, nhưng là chống lại sức mạnh của tối tăm, hận thù, tội lỗi và chết chóc.
Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng gây nên chết chóc đau thương. Hoà bình mà nhân loại đạt được lắm khi là giá của rất nhiều mạng người. Người Kitô hữu cũng đeo đuổi một cuộc thánh chiến, nhưng là để đạt được bình an trong tâm hồn. Sự bình an ấy, chúng ta chỉ có thể đạt được bằng giá của một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại tội lỗi và khuynh hướng xấu trong chính bản thân. Vì thế, người Tây phương có câu ngạn ngữ: “Si vis pacem, para bellum”: nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Nếu muốn có bình an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi (R.Veritas).
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”
Một đạo sĩ Ấn độ dạy các đệ tử: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Ánh sáng mặt trời, mặt trăng giúp ta thấy rõ sự vật, nhưng không thể biến một người xa lạ thành người anh em của chúng ta. Vậy thứ ánh sáng kỳ diệu ấy từ đâu? Ánh sáng ấy phát xuất từ trái tim. Thứ ánh sáng ấy toả ra từ khắp các trang sách Tin mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng ấy đã bừng lên. Ánh sáng đó khiến hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em. Ta hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng cháy, đẩy lui bóng tối hận thù, ích kỷ; mở rộng tâm hồn đón nhận và trao tặng yêu thương, để mọi người nhìn nhận nhau như là anh em đích thực. Bấy giờ, đêm sẽ tàn, ngày mới sẽ bắt đầu, bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, và ánh sáng tỏa rạng từ các trái tim chan hòa yêu thương.
Truyện: Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật ở Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu cùng 6 anh em khác lập Hội Bác Ái Vinh Sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề: “Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Ozanam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những công nhân nghèo khổ.
Ngày nay, Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
1. Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
2. Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,5tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2,35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).
B.... nẩy mầm.
1. Lời Chúa Giêsu nói về sứ mạng của Ngài cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Ngài: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là thứ bình an mà họ phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân nhưng không cùng niềm tin với mình. Phaolô và Barnabê đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).
2. Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng “chia rẽ”:
a/ Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác;
b/ Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau.
3. “Nếu trong tương lai, chúng ta không ký kết được những hiệp ước vững chắc và thành thật bảo đảm cho một nền hòa bình đại đồng, thì nhân loại, hiện đang gặp nguy cơ trầm trọng dù có một nền khoa học kỳ diệu đi nữa, có lẽ cũng sẽ tiến đến cách thảm khốc tới một giây phút mà nhân loại sẽ không biết hòa bình nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của chết chóc” (Gaudium et Spes, số 82).
4. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49)
Báo tuổi trẻ trong bài “Một cái chết bắt đầu cho sự sống” đã viết về anh Nguyễn Đức Minh như sau:
“... Vật vã với cơn đau ngày càng tăng, từ đầu năm anh tìm đến khoa giải phẫu của trường ĐHYD rồi về nhà lập tờ di chúc, trong đó chỉ có ba điều ước mong: hiến xác, đề nghị gia đình không làm đám tang lớn để lấy tiền giúp người khốn khó và dành những vật dụng riêng gồm máy đánh chữ, cassette, ampli, dụng cụ học tập của câu lạc bộ Bừng Sáng và một người bạn cùng cảnh mù.
Chị hai của Đức Minh cho biết: “Em tôi lo gia đình không thực hiện lời hứa nên đã bắt cha mẹ ký xác nhận cho xác em mới chịu lên bàn mổ. Trước khi mổ, em còn dặn bác sĩ viện trưởng có gì thì đưa xác em đi ngay để gia đình khỏi đổi ý...”
Mong ước của anh Minh giúp tôi nhận ra được những khao khát của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy - ngọn lửa yêu thương mà Ngài đã ném vào mặt đất - cháy bùng lên!”
Giêsu ơi, con cũng muốn sống những thao thức của Giêsu, bằng cuộc sống yêu thương, và dấn thân cho tình yêu. Xin giúp con Chúa nhé! (Hosanna).
Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53). Nhiều người nghĩ rằng, Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (Is 9,5). Chúa Giêsu xác nhận rằng, đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,5tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng, Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin Mừng của Ngài. Như vậy, hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng “chia rẽ”:
Một nữ tu đang phục vụ trong chương trình phát thanh bằng tiếng Đại Hàn, của đài phát thanh chân Lý Á Châu, đã có lần đã cho biết, gia đình của chị là một gia đình chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo một cách hết sức sâu đậm. Lòng hiếu thảo chi phối mọi quyết định và sinh hoạt của con cái trong gia đình.
Thế nhưng ngày kia, niềm tin Kitô đã đến với người anh của chị. Điều này đã làm cho gia đình của chị xáo trộn. Người cha già của chị đã cực lực phản đối việc trở lại Công giáo của người con trai duy nhất của ông.
Sự phản đối còn đi xa hơn nữa, khi ông ta được biết, người con trai của ông lại còn quyết định đi tu làm Linh Mục. Như thế là gia đình ông không còn người nối dõi tông đường.
Nhưng chưa hết. Sau khi người anh của chị quyết định đi tu, thì lại đến lần chị, chị cũng trở lại Công giáo và cũng xin đi tu.
Những điều này đã làm cho người cha của chị buồn phiền đến nỗi ông muốn từ hai đứa con của ông và ông đã căm thù đạo Công giáo, đến độ ông gọi Thiên Chúa của đạo Công giáo là một ông thần xấu, vì đã cướp đi của ông hai người con.
Trước cảnh chia rẽ của gia đình như thế, chị và anh của chị chỉ biết cầu nguyện, để cho người cha của họ hiểu được lý do mà chị và anh chị trở lại Công giáo. Và lời cầu xin của họ đã được Chúa nhậm lời. Vào giờ phút chót của cuộc sống tại thế, chính người cha của họ đã xin trở lại.
2. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49)
Vâng, lửa phải cháy bùng lên.
Một bữa tối tại sân vận động trường Los Angeles – Mỹ, một diễn giả nổi tiếng – ông Keller- được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô to: “Đã thấy!”.
Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!”.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên! Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông Keller kết luận:
- Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hoà bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.
Cách tốt nhất để xây dựng hoà bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua đuổi bóng tối của những đau khổ và cái ác. (Theo The Love and Life).
Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".
Tục ngữ ca dao nước ta không thiếu những câu nói về thời tiết. Kinh nghiệm dân gian cho phép dự đoán những gì sắp xảy ra. Có những dấu hiệu báo trước cơn mưa hay dông bão. “Sấm đàng đông vừa trông vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.” Người dân nước Paléttin cũng có những kinh nghiệm tương tự. “Mây kéo lên ở phía tây” là mây đến từ biển Địa Trung Hải. Khi thấy mây từ biển tiến vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54). Khi thấy gió từ phương nam thổi đến, luồng gió nóng từ vùng núi Ả-rập, người ta biết ngay thời tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55). “Và xảy ra đúng như vậy”, Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần. Ngài cho thấy dự đoán của dân chúng về thời tiết ít khi sai. Họ khá bén nhạy trước những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất. Tiếc là dân chúng thời Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy để có thể nhận biết được ý nghĩa của những dấu chỉ đang diễn ra trước mắt họ. Đức Giêsu ngạc nhiên vì những người cùng thời với Ngài không thấy được cái độc nhất vô nhị của thời đại họ đang sống. Họ không cảm thấy hạnh phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm. Chính vì thế ơn cứu độ của Thiên Chúa có thể bị quên lãng. “Hỡi những kẻ đạo đức giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56). Tại sao các anh nhạy bén trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia? Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay. Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ. Vấn đề là làm sao đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ đó. Thiên Chúa không hiện ra để dạy con người biết tôn trọng trái đất. Nhưng những hậu quả mà con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài. Khi trái đất ấm dần lên, khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao, một số phần đất của quê hương ta sẽ bị chìm dưới nước. Khi người dân chặt phá rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên. Cơn bệnh của thế kỷ cũng có thể là một lời nhắc nhở. Thiên Chúa mời gọi vợ chồng sống chung thủy trong hôn nhân, và mời các bạn trẻ sống trong sạch trước khi lập hôn ước. Ngay cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ. Con người được mời gọi tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn, để không bị một số ít nhà tư bản hay nước tư bản thao túng. Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu, vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài. Ngài vẫn nói với chúng ta qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết Chúa. Ngài vẫn nói với ta khi có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng. Ngài vẫn mời chúng ta làm một điều gì đó cho bao người nghèo khó, cho trẻ em thất học, cho những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn. Chỉ xin cho ta cảm được chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới: Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc. Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin. Con mơ ước những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em. Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ. Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen. ----------------------------------
Biết nhìn ra dấu chỉ thật quan trọng. Biết nhìn thời tiết sẽ sắp xếp công việc hợp lý. Đặc biệt là công việc đồng áng. Để cầy cấy cho đúng thời vụ. Đem lại lương thực cho đời sống thân xác. Nhưng biết nhìn dấu chỉ thiêng liêng còn quan trọng hơn. Vì giúp lo liệu công việc cung cấp lương thực thiêng liêng. Cho sự sống đời đời.
Chúa mắng những người Do thái là giả hình. Vì họ không thể không biết những dấu chỉ về Đấng Cứu Thế: kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người nghèo được nghe Tin Mừng. Chính Chúa đã thực hiện những điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa. Họ giả hình. Vì biết mà không tin. Có lẽ họ sợ phải thay đổi đời sống. Hay là sợ mất quyền lợi khi phải tin theo Chúa. Giả dối. Tâm thần phân liệt.
Chúa cảnh báo họ. Nếu không có phán đoán chính xác. Nếu không thay đổi thái độ để có hành xử đúng đắn. Họ sẽ lãnh lấy hậu quả tai hại. Sẽ bị trừng phạt vì sự thiếu khôn ngoan đó: “Kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục”.
Chứng tâm thần phân liệt được thánh Phao-lô nhận biết ngay trong bản thân mình. Ngài nhận thấy sự bất lực của mình trong đời sống thiêng liêng: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”. Và ngài nhận biết mình bị tội lỗi trói buộc. Không sao thoát ra được. Ngài nhận biết chỉ mình Chúa Ki-tô mới có thể cứu ngài thoát sự nô lệ tội lỗi đó: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Ngài nhận biết thế giới này xung đột chia rẽ. Và sự chia rẽ xuất phát ngay từ nội tâm con người. Đó là do tội lỗi. Cần thống nhất đời sống. Cần thống nhất thế giới. Chỉ có một phương thế: Chịu phép rửa nhân danh Chúa Ki-tô. Như thế “chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người”. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải cứu thế giới. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải thoát con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể duy nhất đời sống. Nhờ Chúa Giê-su Ki-tô (năm chẵn).
"Sinh ngày mùng 4 tháng 7", và "Bàn chân trái của tôi", đó là tựa đề của hai cuốn phim Mỹ hay nhất năm 1990. "Sinh ngày mùng 4 tháng 7" kể truyện một thanh niên Mỹ bị động viên sang VN và trở thành kẻ tàn tật suốt đời. Bất mãn, hận đời, người thanh niên gia nhập phong trào phản chiến ở Mỹ. Còn cuốn phim "Bàn chân trái của tôi" cho thấy hình ảnh một con người phấn đấu với những bất hạnh của mình để đạt thành công. "Bàn chân trái của tôi" nêu bật bài học về lạc quan tin tưởng trong cuộc sống.
Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc con người. Ngay cả khi con người tưởng chừng như mất tất cả, thì đó chính là lúc Thiên Chúa ban ơn dồi dào hơn; từ những mất mát, Thiên Chúa biến thành khởi điểm của những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta lại dễ bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất mát, thua thiệt. Nhìn vào điềm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, chúng ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Chỉ với một bàn chân trái, một người tàn tật có thể vươn lên. Chúng ta hãy tự nhủ: những mất mát, khổ đau, thử thách là cơ may Thiên Chúa ban để giúp chúng ta vươn cao trong niềm tin. Chúng ta hãy nói lên niềm tin vào Ðấng luôn có mặt trong cuộc sống chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta yếu hèn tội lỗi.
Chúng ta rất quen với những thời tiết trong một năm và quen như vậy thì chúng ta mới biết tính toán trong công việc làm ăn, canh tác. Thiên Chúa, Cha chúng ta, Người là Ðấng vô hình và Người tạo dựng nên chúng ta hữu hình. Vì thế, Người nói chuyện với chúng ta về tình yêu của Người bằng dấu chỉ. Mục đích Người muốn cho chúng ta nhận ra được ý muốn của Người và phục vụ ý muốn đó với tất cả tấm lòng của người con hiếu thảo. Chỉ tiếc một điều là chúng ta quen thuộc với những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa để rồi thành công trong công việc làm ăn và nuôi sống cho thân xác, nhưng lại không muốn quan tâm đến những dấu chỉ tình yêu vô cùng cần thiết cho đời sống chúng ta. Chúng ta có vẻ lo lắng cho của cải vật chất của mình mà quên rằng chúng ta còn cuộc sống làm con cái của Thiên Chúa, con cái của Ðấng Tạo Hóa. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta biết nhận ra dấu chỉ ngôn sứ để có thể có được một đời sống đời đời. Những dấu chỉ ấy, Thiên Chúa Cha đặt để khắp mọi nơi, mọi chốn trong cuộc sống mỗi người qua giáo huấn của Kinh Thánh, qua giáo huấn của Giáo Hội, qua những cơ cấu tổ chức của xã hội, những khoản lề luật để đảm bảo trật tự trong cộng đồng, những biến cố lớn nhỏ trong lịch sử của một đời người, một dân tộc và toàn thế giới. Vấn đề là chúng ta biết nhìn ngắm, biết nhận ra và biết vâng phục yêu mến Thiên Chúa khi Người cho chúng ta những dấu chỉ và những dấu chứng ấy.
Dấu chỉ, dấu chứng lớn nhất là chúng ta có một Thiên Chúa là Cha. Người đã làm được tất cả những gì làm được cho chúng ta, kể cả việc trao ban cho chúng ta Người Con yêu dấu duy nhất của Người, để chúng ta được hòa giải với Người và hòa giải với nhau trong tình anh chị em. Vì thế, chúng ta phải xử với nhau như anh chị em. Hơn nữa đối với Chúa Giêsu, trần gian này chẳng qua là nơi Thiên Chúa giáo huấn cho chúng ta, làm cho chúng ta nên cao cả qua những việc mình làm mỗi ngày để mang lại hạnh phúc cho nhau. Một mai đây khi đến thời đến buổi chúng ta cũng sẽ cùng nhau về với Cha. Sống ở đời này với ưu tiên một là Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể mong được về hưởng hạnh phúc với Người.
Lạy Cha yêu thương,
Cha thật là tuyệt vời khi nói với chúng con về tình yêu bằng dấu chỉ và bằng ngôn ngữ. Cha muốn cho chúng con đọc được những dấu chỉ ấy, những hình thức ngôn ngữ ấy để chúng con cảm nghiệm được tình Cha, sống tình Cha và chia sẻ tình Cha với anh chị em chúng con, khi chúng con cùng nhau hành trình về nhà Cha. Thật ra thì dấu chỉ Cha dùng, ngôn ngữ Cha sử dụng rất rõ ràng, hiển nhiên và dễ hiểu, có chăng là tại chúng con cố tình làm như không hiểu. Dưới sự nhắc nhở của Chúa Giêsu, chúng con cố đào sâu hơn nữa những dấu chỉ và chúng con cũng biết tôn thờ Cha bằng những dấu chỉ nghiêm túc của phụng vụ, của các hoạt động tông đồ giáo dân, để dẫn đưa tất cả anh chị em chúng con về với Cha.
Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét? (Lc. 12, 56-57)
Một trong những ơn Chúa Thánh Thần cần thiết nhất cho con người suy xét và biết rõ, phân biệt rõ, bản dịch xưa kia gọi là ơn suy biết, nay gọi là ơn minh luận. Đối với việc đời, người ta tự khoe mình có cảm thức rất rõ, giúp người ta phán đoán mọi tình cảnh, lượng định đánh giá để hành động thích hợp, như Đức Giêsu đã nói với đám đông: “Các ngươi biết nhận xét bộ mặt trời đất”.
Thế mà “thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét”. Thời đại nước trời đã đến, được Gio-an loan báo và được Chúa tuyên bố với những dấu chỉ toàn năng của Thiên Chúa?
Thứ điếc nhất là không muốn nghe
Khi Người nói phải biết phân biệt lấy điều phải để theo, người ta lại không muốn nghe, họ không muốn nhận xét tự mình, vì lương tâm họ có thể sẽ chỉ cho họ phải theo con đường mà họ không thích. Ăn năn trở lại là nói đến thay đổi hướng đi, từ bỏ những thói quen xấu đã gắn bó với mình, nhận ra tội lỗi mình, chấp nhận mình đã bất trung, họ cự tuyệt với hành động hạ mình xuống, quả quyết từ chối nghe tiếng lương tâm của họ. Họ hoàn toàn điếc không sợ súng.
Mỗi thế hệ ở một thời điểm nhất định và tương lai tùy thuộc vào phán đoán của mình về thời đại đang sống. Ngày nay Thiên Chúa vẫn hoạt động trong đời sống chúng ta, Ngài nói với chúng ta qua những biến cố, qua những người mà chúng ta gặp. Hãy lắng nghe lời Ngài, Ngài khẩn thiết gọi ta trở về với tình yêu của Ngài. Rất nhiều khi chúng ta quay lỗ tai điếc ra nghe. Chúng ta từ chối bồi đắp cho cuộc đời mình. Chúng ta sống quá thoải mái bởi những tiện nghi.
Cố chấp hay ngu đần
Thủ tục tố tụng của đế quốc La-mã xưa rất khắc nghiệt. Một khi khởi tố phải theo những thủ tục rất bất nhân. Cho nên Đức Kitô nhắc nhở và khuyên cố gắng giải quyết với đối phương trước khi phải ra tòa án xét xử. Ngày phán xét cũng sẽ không khoan nhượng và rất khắc nghiệt. Chúng ta hãy lo ăn năn trở lại trước đi, kẻo quá trễ. Người ta lầm tưởng rằng Thiên Chúa rất tốt lành, Ngài không thể để ai bị kết án và Ngài sẽ bãi bỏ công lý. Sự cố chấp, ngoan cố làm chúng ta không muốn nghe lời Chúa, chẳng những là thứ ngu đần mà còn là một trọng tội đẩy ta đến chỗ chết đời đời.
Khi nói về dấu chỉ của thời tiết, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”.
Hay:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khen ngợi những người Dothái về khả năng tiên đoán điềm trời của họ. Tuy nhiên, Ngài lại khiển trách họ chỉ biết dự báo về điềm trời, còn không biết dùng khả năng vốn có của mình để sử dụng vào lãnh vực cao hơn là những dấu chỉ ơn cứu độ. Ngài trách: “Hỡi những kẻ giả hình, các người biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi lại không tìm hiểu?”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn xác định rằng: sự xuất hiện của Ngài ngang qua các hành động và những lời giáo huấn cho thấy: Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, đến để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi chết phần hồn và đem lại cho nhân loại hạnh phúc thật. Đây chính là một điềm lạ vĩ đại, cả thể, nhằm loan báo Triều Đại Thiên Chúa đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại thì họ lại không tin, không nhận ra.
Tại sao vậy? Thưa! Họ mong đợi nơi Đấng Cứu Thế phải là một người hùng, đánh đông dẹp bắc bằng vũ lực; phải là Đấng giải phóng dân tộc Dothái khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Phải là người giỏi giang về binh đao và xuất xứ của Đấng ấy phải là quyền quý, cao sang.
Tuy nhiên, điều họ mong chờ ấy đã không phù hợp với bản chất của Đấng Thiên Sai, nên họ đã bị tối mắt và lu mờ lương tâm khi Đức Giêsu xuất hiện trong một gia đình nghèo, tầm thường. Hơn nữa, Ngài đến trong thân phận là người tôi tớ của Giavê, để phục vụ và đứng về phía người nghèo, tội lỗi, người không có tiếng nói... Đường lối cứu độ của Ngài lại là con đường khổ giá, khiêm nhường và hiền hậu. Sự nghiệp giải phóng của Ngài không chỉ dành riêng cho một quốc gia, dân tộc nào, mà là cho hết mọi người. Tất cả những điều đó họ đã không nhận ra, nên họ đâu màng chi đến những dấu chỉ về sự hiện diện của Đức Giêsu! Vì thế, họ không sám hối cũng chẳng cần thay đổi đời sống...!!!
Nơi xã hội hay trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa khi phỏng chiếu một vị Thiên Chúa phải đứng về phe mình, mặc cho điều mình làm có đúng hay sai? Cũng vẫn còn đó những người luôn có khái niệm: “Tự nhiên có”, mà không hề nhận ra rằng: Chúa đang yêu thương, bao bọc ta và những thứ ta có là do lòng nhân từ của Chúa ban. Đôi khi có những bất chắc trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật, ốm đau... chúng ta đã được Chúa thương cứu sống cách nhiệm mầu. Ấy vậy mà khi chúng ta được chữa lành, thay vì tạ ơn Chúa, cải hóa đời sống và trung thành với Chúa, thì lại vui vẻ cho rằng mình gặp may... Rồi cũng không thiếu những lúc ta ích kỷ đến độ không hài lòng với người anh chị em của mình khi họ gặp điều thuận lợi hơn ta...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy nhạy bén với ơn Chúa để nhận ra sự hiện diện của Ngài nơi chính Lời của Ngài trong Tin Mừng. Đồng thời, luôn nhận ra tình thương của Chúa qua sự quan phòng kỳ diệu trong cuộc sống nơi các biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại của chúng ta. Mặt khác, hãy lo sám hối, cải thiện đời sống và quay trở về với Thiên Chúa một khi đã nhận ra tình thương của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ. Xin cho chúng con nhận ra tình thương của Chúa và biết sám hối, ăn năn, cải thiện đời sống để xứng đáng trở thành con Chúa và anh chị em của nhau. Amen.
Sứ điệp: Từng biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống là những dấu chỉ chứng tỏ Thiên Chúa vẫn đang làm chủ lịch sử và thực hiện việc cứu độ nhân loại. Khi nhận ra những dấu hiệu ấy, chúng ta cần phải xác định lập trường sống một cách dứt khoát.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cuộc sống của con được đan dệt với những vui buồn sướng khổ, may mắn và thất bại. Con nhận biết rằng Chúa đang can thiệp vào những biến cố ấy. Ngày nay không thiếu những dấu chỉ chứng tỏ Chúa vẫn đang hiện diện trong cuộc đời con.
Ngày xưa Chúa đã trách người Do thái vì họ không biết đọc những dấu chỉ thời đại. Họ sáng suốt đoán trước thời tiết qua những hiện tượng thiên nhiên, nhưng họ lại mù tối không nhận ra được những dấu chỉ mà Chúa đang ngỏ với họ qua các phép lạ và giáo lý của Chúa. Chúa mời gọi những ai theo Chúa hãy đọc và hiểu dấu chỉ ơn cứu độ của Chúa đang thực hiện giữa loài người.
Lạy Chúa, xin cho con được đôi mắt sáng của đức tin, để thấy được bàn tay yêu thương của Chúa đang dẫn dắt con trong từng biến cố. Con cũng cần Chúa cho đôi tai tỉnh thức, để sẵn sàng lắng nghe tiếng Chúa đang mời gọi con đáp lại tình Chúa thương yêu. Và giữa những thất bại khổ đau, xin cho con nghe được tiếng Chúa vẫn không ngừng kêu gọi sống vui tươi lạc quan và tin tưởng phó thác.
Xin cho con nhận ra những dấu chỉ của Chúa, luôn biết can đảm dứt khoát từ bỏ thói hư tật xấu, cương quyết sửa những lỗi lầm, để cuộc sống của con cũng trở thành một dấu chỉ sống động của Chúa cho những người khác. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?”
Nhà nông Việt Nam qua kinh nghiệm của ông cha từ xa xưa, họ có những quan sát đoán biết thời tiết để gieo trồng cho đúng thời đúng vụ và đạt năng suất cao, ví dụ qua các câu ca dao sau:
Đêm trời lạnh, trăng sao không tỏ, Ấy là điềm mưa gió tới nơi. Đêm nào sao sáng xanh trời, Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày. Những ai chăm việc cấy cày, Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm.
Hay:
Kiến đen tha trứng lên cao, Thế nào cũng có mưa rào rất to. Đoán biết thời tiết để tiên liệu cho công việc, cho cuộc sống là điều cần thiết.
Suy niệm
Mọi dân tộc đều trân trọng truyền thống, kinh nghiệm sống của cha ông ví dụ như những bài học áp dụng từ lao động, từ thiên nhiên, người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng vậy, họ đón nhận kinh nghiệm từ cha ông họ, biết nhìn cảnh sắc đất trời để có những cách đối phó, ứng xử: Nhìn mây đoán được mưa, thấy gió đoán được trời sẽ oi bức...
Nhưng họ lại không nhận biết được dấu chỉ của thời đại: Không nhận ra Chúa Giêsu, Đấng phải đến loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh tật cho người đau yếu, trừ quỷ cho người bị quỷ ám và làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mù được thấy… như lời các ngôn sứ loan báo, nhưng họ lại không nhận ra đó là dấu chỉ của nước Thiên Chúa đang đến.
Cho nên, Đức Giêsu đã khiển trách họ chỉ biết “nhận xét cảnh sắc đất trời” trong vũ trụ tự nhiên, nhưng lại không nhận biết những dấu lạ của Con Người đang hiện diện.
Ðức Giêsu kêu gọi hãy nhận ra dấu chỉ thời đại qua sự hiện diện của Ngài, mà tỏ lòng sám hối. Khi bất hòa với anh em, phải biết đi tìm sự hòa giải với anh em trước khi đến với tòa xét xử của Thiên Chúa, vị Thẩm Phán Tối Cao, Ngài sẽ xét xử chúng ta theo tình yêu thương mà chúng ta đối xử với anh em.
Thật thế, chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô trong thời đại hôm nay, cần phải tỉnh táo để nhận ra những dấu chỉ, những ý định của Chúa qua từng biến cố hằng ngày để sám hối, canh tân biến đổi chính mình mỗi ngày.
Ý lực sống
“Anh em đừng phạm tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. Ðừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng” (Ep 4,26-27).
Đức Giêsu giáo huấn dân chúng: Người trách họ, vì họ biết đem điềm trời mà đoán được thời tiết, nhưng lại không biết cách xét các việc đang xảy ra để nhận biết thời giờ cứu rỗi. Người khuyến dụ thính giả hãy để ý đến các dấu hiệu của thời đại mà lo tính công việc của mình trước ngày thẩm phán.
Người cũng nhấn mạnh đến sự cần kíp phải làm hoà với anh em, nghĩa là phải chấm dứt càng sớm càng tốt tình trạng gây hấn, oán hờn trước khi đến với quan toà xét xử. Người cũng là vị Thẩm phán tối cao sẽ xét xử chúng ta về tình yêu đối với anh em. Thế nên đừng chần chừ kéo dài cơn giận như lời giáo huấn của thánh Phaolô: “Anh em đừng phạm tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng” (Ep 4,26-27).
Khác với ngày nay với máy móc hiện đại về khí tượng thuỷ văn, có thể dự báo trước về thời tiết và phát hiện được những cơn bão từ xa mà phòng tránh; người xưa thì đúc rút những kinh nghiệm xảy ra, từ đó đoán biết những hiện tượng thiên nhiên sắp xảy đến, như:
Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa,
Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa...
Dân Do thái thời Đức Giêsu vốn từ du mục qua định cư, họ có nhiều kinh nghiệm về đoán biết thời tiết như vậy:
Mây kéo lên phía tây, mưa đến ngay tức khắc, Khi gió nồm thổi tới, trời oi bức bắt đầu.
Đức Giêsu trách những người Do thái giỏi đoán biết về hiện tượng thiên nhiên, để phòng tránh hay đón mùa, nhưng lại không nhận ra những lời nói và việc làm của Đức Giêsu làm để đón nhận đó chính là dấu chỉ của Đấng Messia, và để canh tân đời sống (Hiền Lâm).
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn xác định rằng: sự xuất hiện của Ngài ngang qua các hành động và lời giáo huấn cho thấy: Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, đến để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi chết phần hồn và đem lại cho nhân loại hạnh phúc thật. Đây chính là một điềm lạ vĩ đại, cả thể, nhằm loan báo Triều đại Thiên Chúa đến và đang hiện diện giữa nhân loại thì họ lại không tin, không nhận ra. Tại sao vậy? Thưa, họ mong đợi nơi Đấng Cứu Thế phải là một người hùng, đánh đông dẹp bắc bằng vũ lực; phải là Đấng giải phóng dân tộc Do thái khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Phải là người giỏi giang về binh đao và xuất xứ của Đấng ấy phải là quyền quý, cao sang...
Cha ông ta ngày xưa muốn dự đoán thời tiết thì dựa vào kinh nghiệm mà đặt ra những “công thức” đại loại như: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm”. Ngày nay với những phương tiện như vệ tinh, đài khí tượng thủy văn, người ta có thể dự báo được thời tiết xa hơn và chính xác hơn. Chính nhờ những dự đoán thời tiết như vậy, con người có thể phòng tránh được thiên tai, cũng như sắp xếp công việc của mình sao cho đạt kết quả cách tốt đẹp nhất. Tiếc thay khoa học tự nhiên phục vụ con người trong những lĩnh vực thuộc cuộc sống đời này có những bước tiến nhảy vọt, còn khoa học tâm linh giúp đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu thì sao mà èo uột, khập khiễng!!! Chúa than phiền về những người biết nhận xét cảnh sắc đất trời mà không biết nhận xét dấu hiệu của thời đại này, và Ngài gọi họ là người “đạo đức giả” (5 phút Lời Chúa).
Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc con người. Ngay cả khi con người tưởng chừng như mất tất cả, thì đó chính là lúc Thiên Chúa ban ơn dồi dào hơn; từ những mất mát, Thiên Chúa biến thành khởi điểm của những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta dễ bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất mát, thua thiệt. Nhìn vào điểm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, thua thiệt, chúng ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Nhìn ra dấu chỉ
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị”. Câu chuyện tình này kể về gã lang thang và một cô gái mù bán hoa.
Một nhà tỉ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Và một ngày kia, gã lang thang là chàng Charlot cũng dừng lại mua hoa. Cô bán hàng tưởng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã nối kết hai tâm hồn lại với nhau. Nàng tưởng mình gặp người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng hết lòng yêu nàng, cố gắng làm việc để kiếm tiền giúp nàng chữa bệnh, với hy vọng nàng sẽ được khỏi tật mù lòa.
Nhưng vì một sự ngộ nhận, cảnh sát bắt chàng. Sau thời gian cầm tù, chàng được tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm cô gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Cô gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: “Cô đã thấy được rồi sao?”... Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc... nàng từ từ nhặt chiếc hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: “Anh đấy sao?”
Những lời này Chúa Giêsu nói cho những người do thái thời Ngài nghe. Ý chính là khuyên họ hãy sáng suốt nhận ra những dấu chỉ thời đại:
- cc 54-56: họ rất giỏi nhìn những dấu chỉ thiên văn để đoán trước trời sẽ mưa hay sẽ oi bức. Tại sao họ không nhận ra ý nghĩa của những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm để biết rằng đã đến thời cuối cùng của lịch sử cứu độ?
- cc 57-59: bằng dụ ngôn hai người đưa nhau ra tòa, Chúa Giêsu khuyên hãy gấp rút lo hòa giải với nhau trước khi bị tòa kết án.
B.... nẩy mầm.
1. Khi cơ thể ta mang thêm một chứng bệnh, khi một phần cơ thể ta yếu đi... tất cả đều là những tín hiệu cho biết trước ngày lìa thế của ta càng lúc càng gần. Tại sao nhiều người không nhận ra những tín hiệu ấy và sống như sẽ không bao giờ chết?
2. “Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài la lớn trong những cơn đau của chúng ta” (C.S. Lewis).
3. Khi biết chắc mình không còn nhiều thời giờ, người ta phải giải quyết nhiều vấn đề một cách rất gấp rút. Đối với những vấn đề quan trọng, thì cho dù không biết chắc thời giờ của mình còn lại nhiều hay ít, người khôn ngoan cẩn thận cũng lo giải quyết sớm. Điều chắc chắn: số phận đời đời là một vấn đề quan trọng. Điều ta không nắm chắc: thời giờ của mình còn lại bao nhiêu.
4. “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này sao các ngươi không biết nhật xét?” (Lc 12,56)
Đất nước đã thay đổi rất nhiều. Tôi nhận ra điều đó ở trang phục của người dân thành phố. Người ta bỏ ra nhiều thời gian hơn để mua sắm, may mặc. Các mode áo quần xuất hiện liên tục rồi thay đổi liên tục. Có những kiểu lịch sự, sang trọng làm người mặc trở nên duyên dáng, đáng yêu. Nhưng cạnh đó cũng có những kiểu hạ thấp giá trị người mặc. Vật chất giúp người ta sống thoải mái và xứng đáng hơn; nhưng cũng chính nó làm cho kẻ yếu lòng đánh mất phẩm giá cao quí của con người. Đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, tôi cảm thấy trao đảo trước những biến đổi của xã hội. Các chuẩn mực đạo đức văn hoá dường như đang lung lay. Đâu là ranh giới giữa đời sống thoải mái và một đời sống quá phụ thuộc vào vật chất, đâu là ranh giới giữa hạnh phúc và lầm lạc?
Lạy Cha, xin cho biết sáng suốt nhận ra con đường đúng đắn cho cuộc đời. (Hosanna).
1. Những lời chúng ta vừa nghe là những Lời Chúa Giêsu nói cho những người Do Thái thời của Ngài. Ngài muốn khuyên họ hãy sáng suốt để nhận ra những dấu chỉ thời đại.
Ca dao Việt Nam có rất nhiều những câu tiên đoán về thời tiết, chẳng hạn như:
Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy, Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi.
Hay:
Ráng vàng thì nắng Ráng trắng thì gió Ráng đỏ thì mưa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nêu lên khả năng tiên đoán thời tiết rất chính xác của người Do Thái, nhưng Ngài lại chê họ vì họ không biết sử dụng những khả năng ấy vào một lãnh vực cao hơn. Ngài nói: “Hỡi những kẻ giả hình, các người biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi lại không tìm hiểu?” (Lc 12,56)
2. Vâng! Hãy cố mà hiểu những gì đang xảy ra chung quanh chúng ta. C.S. Lewis: “Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài la lớn trong những cơn đau đớn của chúng ta”.
Công Đồng Vaticanô II nói: “Dân Thiên Chúa, nhờ Đức tin mà tin rằng, mình được Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng bao trùm vũ trụ hướng dẫn, cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ thực về sự hiện diện và ý định của Thiên Chúa trong mọi biến cố, mọi yêu sách và mọi ước mong mà họ dự phần với những người đương thời” (G.S. 11).
Hãy cố mà “nhận biết” thời đại ta đang sống! Thiên Chúa là Đấng làm chủ lịch sử và đang đưa dẫn lịch sử đến chỗ vẹn toàn của nó. Hôm nay, Người vẫn đang hoạt động!
Vậy thì thay vì than phiền trong sự tiếc nuối Giáo Hội hôm qua, thay vì mất giờ mơ mộng về Giáo Hội ngày mai, tốt hơn, theo lời mời gọi của Đức Giêsu, ta cần nhận biết thời đại ta đang sống.
Thời đại mà tôi đang sống là thời gian duy nhất, thực sự có tính quyết định đối với tôi.
3. Chúa bảo phải “Tự mình xét xem”... không ai, không một ai khác ngoài tôi có thể thay thế tôi trước sự lựa chọn cơ bản này.
Tác giả nổi tiếng về giáo dục nhân cách là ông Norman Vincent Pearle, người Mỹ, có kể lại kinh nghiệm sau:
Một hôm, có một người đàn ông tìm đến với ông, vẻ mặt thiểu não, chán chường; người đàn ông cho biết ông ta không còn muốn sống nữa. Tác giả Norman Vincent Pearle mới đề nghị với kẻ chán đời một liều thuốc:
- Sáng mai, khi thức giấc, ông hãy tự nhủ đây là ngày cuối cùng, trong đời ông, ông hãy vươn vai và tự nhủ: đây là lần cuối cùng ta bước ra khỏi chăn êm nệm ấm; ông hãy đi chuẩn bị thức ăn sáng và nhớ rằng, đây là bữa điểm tâm cuối cùng. Ông hãy xin vợ ông chuẩn bị cho ông những món mà ông thích nhất; đừng đọc báo, như ông vẫn có thói quen khi ăn điểm tâm, nhưng ông hãy nói chuyện với vợ ông cứ như đó là lần cuối cùng trong đời; trên đường đi đến ga xe lửa, ông hãy đi chậm rãi và nhìn kỹ đến ngôi nhà của ông cũng như thành phố, hãy nhìn đến những người hàng xóm của ông lần cuối cùng. Ngồi trên xe lửa, ông hãy nghĩ đây là chuyến đi cuối cùng của ông, hãy nhìn những gì ông không ưa thích, bởi không bao lâu nữa, ông sẽ chẳng còn thấy lại những thứ ấy.
Người đàn ông lắng nghe những lời khuyên của tác giả Norman Vincent Pearle, ông hứa sẽ làm theo lời khuyên của tác giả và sẽ kể lại kết quả. Thế nhưng, ông không chờ đến ngày mai, ngay tức khắc ngồi trên chuyến xe lửa trở về nhà, thay vì đọc báo như thường lệ, ông ta nhìn qua cửa sổ, ánh sáng ban đêm của đô thị và cảnh vật ban đêm chung quanh tự nhiên thu hút ông, ông ta cảm thấy chuyến đi vô cùng lý thú. Ra khỏi xe lửa, ông đi chậm rãi để ngắm trăng và bầu trời trong sáng. Về đến nhà, thay vì dùng chìa khóa để mở cửa ra, người vợ đã từng sống với ông bao nhiêu năm qua xuất hiện trong một ánh sáng kỳ diệu và với một nụ cười khó tả; và kẻ đã từng chán đời kết luận: từ lúc đó, tôi quyết định phải sống và sống cho tới ngày Chúa còn cho tôi được sống.
Mỗi ngày, mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho một thời lượng như nhau. Từ Đức Giáo Hoàng cho đến một người ăn mày, mỗi người cũng chỉ được Chúa ban cho 24 tiếng đồng hồ, không ai được hơn một giây, không ai kém ai một tích tắc. Muốn được hạnh phúc mỗi người phải biết tận dụng những giây phút Chúa thương ban.
Người Rôma hồi xưa có một câu nói rất hay để diễn ý này. Đúng ra là hai tiếng “Carpe diem” phải hiểu là “Vui ngày hôm nay đi”. Phải nắm lấy ngày hôm nay và tận hưởng cái thú của nó đi.
Thi hào Horace 30 năm trước Thiên Chúa giáng sinh đã viết:
Ai kia sung sướng suốt đời Vững lòng nói được “Của tôi ngày này” Ngày mai, mặc kệ: mai ngày, Vì tôi đã sống hôm nay, đủ rồi”. Amen.
Thường Niên Tuần 29/2023 Thứ Bảy 28.10 Th. Simon và Giuđa, kính Chọn Lựa Của Chúa.
28/10 – THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính. “Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
* Tông đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ. Còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”. Và ông đã nhận được lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng.
Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (3, 21). Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (9, 18). Khi đang cầu nguyện trên núi, Ngài được hiển dung (9, 29). Khi đứng trước cái chết gần kề, Ngài cầu nguyện trong xao xuyến (22, 41). Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (23, 34). Đức Giêsu suốt đời là con người cầu nguyện. Cầu nguyện đối với Ngài đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. Ngài thích gặp Cha vì Ngài là người con thảo hiếu. Ngài cần gặp Cha vì Ngài là người được Cha sai, để làm việc Cha giao. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Ngài. Đức Giêsu vẫn thích cầu nguyện trên núi. Núi cao làm Ngài thấy nhẹ nhàng và gần Cha trên trời hơn. Tối hôm nay, Ngài muốn dành nhiều giờ để gặp Cha trước khi đi đến một quyết định quan trọng, quyết định chọn những môn đệ thân tín nhất mà Ngài gọi là tông đồ, để đi sát với Ngài hơn và cộng tác với Ngài trong sứ vụ. Đức Giêsu không chọn theo ý mình. Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý (c. 12). Tìm ý Cha, ngay cả đối với Đức Giêsu, cũng không phải là quá dễ dàng. Ngài đã thức suốt một đêm để cầu nguyện, để tìm xem Cha muốn Ngài chọn ai trong số những môn đệ ở đây. “Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6). Đức Giêsu coi các tông đồ là một quà tặng của Cha. Bởi đó, thật ra Ngài chỉ chọn những người Cha đã chọn, Ngài chỉ muốn những người Ngài biết Cha muốn (Mc 3, 13). Khi làm người ở đời, chúng ta cũng phải chọn như Đức Giêsu. Cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa nhỏ và lớn làm nên cuộc đời. Chúng ta có thể chọn dựa trên ý thích hay phán đoán riêng của mình. Nhưng chúng ta cũng có thể chọn dựa trên ý Đấng Tạo Hóa. Điều này đòi chúng ta phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm. Thánh Inhaxiô mời người làm linh thao “không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu, và tương tự như thế đối với mọi sự khác.” Khi có thái độ siêu thoát như trên, ta mới có thể chọn điều Chúa muốn. Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha. Chúng ta cũng được gọi và chọn, dù là giáo dân hay tu sĩ. Chúng ta cũng rất khác nhau như mười hai khuôn mặt các vị tông đồ. Chỉ mong chúng ta đừng dùng tự do mình để trở nên kẻ phản bội. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa. Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng con chẳng thể nào từ chốiviện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó. Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen. -------------------------------
Sứ điệp: Các tông đồ là những người được Chúa tuyển chọn. Chúa tự do chọn lựa cả những người bình thường, và Ngài cũng để con người tự do đáp trả.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con mừng kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa. Cuộc sống chứng nhân của các Ngài đáng ngưỡng mộ và là những tấm gương sáng cho mỗi tín hữu chúng con. Trong danh sách mười hai tông đồ, con thấy có người chối Chúa, có kẻ bán Chúa. Điều này chứng tỏ Chúa không chỉ chọn lựa những người đã hoàn toàn thánh, nhưng Chúa chọn lựa là để mời gọi các Ngài trở nên thánh thiện.
Các Ngài được gần gũi Chúa, lắng nghe Chúa dạy bảo, được cùng Chúa đi khắp các xóm làng, lên núi cao, vào nơi thanh vắng, bên bờ hồ, bên bờ giếng, rao giảng Nước Trời và chữa lành bệnh tật. Các Ngài được sống bên Chúa, gần kề với sự thánh thiện và kết hợp với Chúa, để được Chúa biến đổi nên thánh thiện hơn.
Lạy Chúa, hôm nay con cũng được diễm phúc nghe Chúa dạy bảo, được Lời Chúa uốn nắn, và con cũng mong muốn được hiến dâng lên Chúa thiện chí tông đồ của con. Con muốn được qui tụ bên Chúa, lắng nghe Chúa nói, được tình yêu và ơn thánh Chúa biến đổi, để cùng Chúa dấn thân giữa đời. Con tin rằng Chúa vẫn ở bên con, nâng đỡ con và thánh hoá con.
Lạy Chúa, lời mời gọi của Chúa vẫn vang vọng trong tâm hồn con, con muốn trở thành một tông đồ như thánh Simon và Giuđa, chứ nhất định không là một Giuđa phản Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho những ước nguyện chân thành của con. Amen.
Ghi nhớ: “Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có kẻ ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ (5,30.33 6,1). Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nồng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến lời Ngài.
Một số chi tiết đáng lưu ý:
- Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu ”cầu nguyện”: Chúa Giêsu trong Lc là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1 22.32.40-46 23,34.46). Trong những lúc quan trọng, Ngài cầu nguyện tha thiết hơn nữa (Lc 3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện ”suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm (tuyển chọn 12 môn đệ làm tông đồ) là hết sức quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài mà cũng quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
- Con số 12 là con số các chi tộc Israel bị tản lạc khắp nơi sau biến cố lưu đày. Vậy khi Chúa Giêsu chọn con số 12, ý Ngài muốn cho biết là đã đến lúc Ngài quy tụ một dân Israel mới.
- Trong số 12 tông đồ, có vài vị nổi bật:
“Simon mà Ngài gọi là Phêrô”: trong Thánh Kinh, ai đặt tên mới cho một người nào thì có quyền hành trên người đó (2 V 23,34 24,17); người đặt tên cũng xác định một định mệnh mới cho kẻ mang tên mới.
Bộ ba Phêrô, Giacôbê và Gioan lại là một nhóm nhỏ đặc biệt hơn nữa trong nhóm lớn 12 (Lc 8,51 9,28). Họ sẽ đóng những vai trò quan trọng trong quyển Công vụ.
- Sau khi đã tuyển chọn nhóm 12, Chúa Giêsu cùng họ xuống núi và đến một cánh đồng. Dân chúng rất đông từ khắp nơi tuôn đến để nghe Ngài giảng và để được Ngài chữa bệnh.
B....nẩy mầm
1. Trước khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm: Dù là con Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn cảm thấy cần cầu nguyện thường xuyên, nhất là trước những việc khó khăn, quan trọng. Ngài cũng khuyên môn đệ: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cám dỗ”. Phêrô đã sa cám dỗ chối Thầy vì trước đó trong vườn Cây Dầu, ông đã ngủ thay vì cầu nguyện. Giuđa, sau bữa Tiệc Ly, đã bỏ ra ngoài đang khi Chúa Giêsu và các tông đồ khác cầu nguyện. Cho nên Giuđa đã sa ngã nặng nề.
- Ta hãy noi gương Ngài thường xuyên cầu nguyện, nhất là trước mỗi khi làm một việc quan trọng.
2. Mặc dù Chúa Giêsu đã cân nhắc và cầu nguyện nhiều trước khi lựa chọn, nhưng vẫn có một người là Giuđa sau này phản bội Ngài. Khi ơn Chúa không được con người hợp tác thì cũng bị thất bại.
- Ta hãy cầu nguyện cho ơn gọi của chính mình. Xin cho con hợp tác với ơn Chúa, để ơn gọi con ngày càng triển nở tốt đẹp.
- Ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám mục là những người ngày nay đang kế thừa nhiệm vụ của các tông đồ.
3. Lịch sử ơn cứu rỗi đã khởi đầu và tiếp diễn bằng những cuộc tuyển chọn… Tất cả những sự chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người… Từ một hai người thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nến tảng của Giáo Hội không phải là sức riêng của con người mà là sức mạnh của Đấng đã hứa “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”… về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác tuyệt đối và tình yêu của Ngài (“Mỗi ngày một tin vui”).
4. Một thanh niên thời đại mới lên một chiếc đò của một ông cụ già. Hai mái chèo của chiếc đò này rất đặc biệt: một mái có ghi chữ “Pray” (cầu nguyện), mái kia ghi chữ “Work” (làm việc). Chàng thanh niên mỉa mai: “Ông ơi, ông lỗi thời quá rồi. Khi người ta đã làm việc thì sẽ có đủ mọi thứ, cần chi đến cầu nguyện nữa?”. Cụ già chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng buông bỏ mái chèo “cầu nguyện”, chỉ còn chèo mái “làm việc” thôi. Kết quả là con đò cứ xoay vòng vòng, chẳng tiến được chút nào (Đức Cha Tihamer Toth). 5. Một cha xứ nọ muốn dạy trẻ nhỏ một cách dễ hiểu về sự cầu nguyện. Cha có sáng kiến dùng một chiếc máy diện thoại: - Chúng con biết chiếc máy điện thoại rồi chứ. Khi ta nói chuyện với ai bằng điện thoại, mặc dù ta không thấy mặt người đó nhưng ta vẫn tiếp xúc được với người đó. Cũng thế, dù chúng con không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tiếp xúc được với Ngài nhờ cầu nguyện. Đúng không?
Tất cả đều thưa đúng.
Nhưng một đứa đưa tay hỏi: Thế số điện thoại của Chúa là số nào? (Arthur Tonne).
Ta hãy thay cha xứ trả lời cho câu hỏi trên.
6. Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi ông hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi Ngài gì cả.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại sao Thầy buồn thế?
- Người bạn của Thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ cần để sống nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi. (Đức Cha Tihamer Toth).
7. Đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Ngài giảng và để được chữa lành tật bệnh” (Lc 6,17-18)
Cả 4 chúng tôi đã tham gia chiến dịch “ánh sáng văn hóa hè” tại vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh. Chúa nhựt tuần đầu tiên, chúng tôi phải hỏi thăm hết một giờ rưỡi mới tới được nhà thờ. Chỗ chúng tôi ở chỉ có một vài gia đình công giáo và hầu hết thỉnh thoảng mới đi lễ vì nhà thờ quá xa. Mà xa thật, mưa thì lầy lội, còn nắng thì bụi mù.
Trên đường đi, chúng tôi cứ nghĩ là nhà thờ chắc không đông. Nhưng đến nơi, chúng tôi thấy cả một nhà thờ đông đúc. Nhà thờ không rộng, cũng chưa có cha xứ. Cha thì từ nơi khác về dâng lễ, còn giáo dân thì đến từ nhiều nơi khác nhau.
Chúng tôi còn được biết ở đây chỉ có một lễ vào sáng Chúa nhựt nên nhiều gia đình phải thay phiên nhau đi lễ hàng tuần. Họ ước ao có cha xứ để được dự lễ thường xuyên hơn. Ra về, ai nấy trong chúng tôi đều cảm thấy như được thúc bách đến gần Chúa hơn, hạnh phúc dù có phải đi xa và mệt nhọc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. (Hosanna)
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.
Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền Hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.
Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.
Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.
Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.
Nếu công đồng Vatican II khẳng định: “Bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh. Những lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về với Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”, cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay: chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính “cuộc sống chứng tá” của chúng ta.
Truyện: Chúa chọn họ làm Tông đồ
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn được một ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay, nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng, họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa).
Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: “Dạ con đây!”, rồi chạy lại với Thầy Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi”. Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”…
Được sự hướng dẫn của thầy Êli, Samuel nhận ra tiếng Chúa và đáp trả: “Xin Chúa hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đức Chúa ở với cậu, và cậu không để một lời nào của Chúa ra vô hiệu (x. 1Sm 3,10.19). Samuel đã biến đổi nhờ Lời Chúa, đã trở thành vị ngôn sứ vĩ đại trong lịch sử Israel…
Suy niệm
Thầy Giêsu gọi và chọn mười hai môn đệ không chỉ là những người học trò nhỏ lắng nghe lời Thầy nhưng trở nên người bạn hữu với Thầy (x. Ga 15), người bạn hữu tiếp tục sứ mạng của Ngài khi mang nhiều hoa trái (x. Ga 15) trong sứ vụ đem Tin Mừng cho nhân gian, đó là sứ vụ đem ánh sáng cứu độ mà Chúa Kitô được ủy thác khi Ngài đến thế gian.
Ngài gọi các môn đệ “Các anh hãy theo Thầy” (Mt 4,19) một lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Thầy và chia sẻ thao thức của Thầy: Lên đường cùng Thầy chung tay gánh vác sứ vụ mang ánh sáng tình yêu cứu độ.
Người môn đệ theo Chúa bỏ lại cái an toàn êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên nghề nghiệp trong khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới như trường hợp của Giacôbê và Gioan, chấp nhận ra khơi, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, để có thể đi đến mọi nhà, gặp mọi người, trong sự tận tụy chu toàn sứ mệnh loan báo nước Thiên Chúa.
Trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa vẫn gọi tôi và bạn trở nên môn đệ, bạn hữu trong bất cứ vị trí nào của cuộc sống: Người linh mục, tu sĩ, làm người môn đệ qua ơn gọi thánh hiến cuộc sống cho sứ mạng, là bạn hữu và là người môn đệ đem ánh sáng Tin Mừng cho anh chị em. Người tín hữu Chúa Kitô trong bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao một ngọn nến cháy sáng, ánh sáng đó trong thời gian trở nên sáng rực trong tinh thần nghe tiếng gọi và từ bỏ bước theo…
Ý lực sống
“Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,22).
Tân ước ngoài việc đặt thánh Simon vào danh sách nhóm 12, đã không cung ứng một chỉ dẫn trực tiếp nào liên quan đến vị tông đồ này. Ngài được phân biệt với Simon Phêrô bằng danh hiệu “nhiệt thành” (Lc 6,15; Cv 1,13), một danh hiệu không có ý nói rằng: Ngài là phần tử thuộc nhóm quá khích Do Thái mang tên này, nhưng chỉ cho biết nhiệt tâm của Ngài đối với lề luật. Theo tiếng Aram, nhiệt thành là “Cana”. Điều này giải thích tại sao các thánh sử nhất lãm gọi Ngài là người xứ Cana (Mt 10,4; Mc 3,18). Có người cho rằng sinh quán của người là Galilêa. Một truyền thống còn nói thánh Simon là chàng rể phụ trong tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-12). Sách các thánh tử đạo kể rằng Simon sau khi chứng kiến phép lạ của Chúa Kitô, đã “bỏ rượu”, bỏ lễ cưới để theo Chúa Kitô và được liệt vào số các tông đồ. Thực sự, chẳng có chứng cớ lịch sử nào nói tới việc này.
Cũng như thánh Giacôbê Hậu, có lẽ thánh Simon là một trong các “anh em của Chúa” (Mc 6,3). Nhưng người ta không thể đồng hóa thánh tông đồ với thánh Simon mà theo truyền thống là Đấng kế vị anh mình làm Giám mục Giêrusalem.
Chúng ta không thu lượm được chi nhiều về hoạt động và cái chết của vị tông đồ. Có những tường thuật cho rằng: Ngài đi truyền giáo ở Phi Châu và các đảo Britania.
Những tường thuật này không có nền tảng. Một truyền thống khác cho rằng Ngài đi truyền giáo ở Ai Cập và cuối cùng ở Ba Tư. Truyền thống này đáng tin hơn. Nhiều nguồn tài liệu đồng ý cho rằng Ngài chịu tử đạo ở Ba Tư. Một số ít hơn nói rằng Ngài cùng chịu tử đạo với thánh Giuđa. Dầu vậy, vì không có tài liệu nào đủ tính cách cổ kính nên khó nói rõ về nơi chốn và hoàn cảnh thánh nhân qua đời.
Thánh Giuđa
Vị tông đồ này mang nhiều tên khác nhau như Tađêô (Mt 10,3; Mc 3,18) hay Giuđa (Lc 6,16; Cv 1,13).
Chính Ngài là vị tông đồ trong cuộc đàm luận sau bữa tiệc ly đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình ra cho chúng con mà không cho thế gian?”
Chúng ta có thể đồng hóa Ngài với tác giả bức thư, trong đó có trình bày Ngài là: “Giuđa, nô lệ của Đức Giêsu Kitô, anh em với Giacôbê” (Gl 1) không? Thực sự tiếng Hy Lạp phải đọc câu văn này như ở Lc 6,16 là: “Giuđa, con của Giacôbê”. Hơn nữa câu 17 của bức thư, tác giả như tách mình ra khỏi số 12. Dĩ nhiên, điều này không làm giảm giá sự chính lục của bức thư. Có thể nói, tác giả “anh em với Chúa” (Mc 6,3) không phải là tông đồ nhưng có thể giá trong Giáo Hội sơ khai như Giacôbê (Cv 15,13).
Thánh Giuđa tông đồ, theo truyền thống, đã đi rao giảng Tin Mừng ở Mesopotamin và chịu tử đạo ở đó. Một thời Ngài được tôn kính như đấng bảo trợ cho các trường hợp “vô vọng”. Lòng sùng kính này bị quên lãng, có lẽ vì Ngài trùng tên với Giuđa phản bội.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.
Thánh Simon được gọi là Simon người Cana, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.
Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.
Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotamia. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.
Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:
- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:
- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!
2. Bài học
Bài Tin Mừng được Giáo Hội chọn đọc trong thánh lễ hôm nay nói về việc Chúa tuyển chọn những người để cộng tác với Chúa mà Ngài đặt tên cho họ là “Tông Đồ”, chúng ta thấy:
* Trước khi chọn, Chúa đã cầu nguyện
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng. Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (Lc 3,21). Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (Lc 9,18). Ngài cầu nguyện khi ở trên núi, trước khi Ngài được hiển dung (Lc 9,29). Ngài cầu nguyện trong xao xuyến khi đứng trước cái chết gần kề (Lc 22,41). Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (Lc 23,34).
Cầu nguyện đối với Chúa đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý. Việc tìm ý Chúa Cha, không phải lúc nào cũng là việc dễ dàng. Chính vì thế mà có những lần Chúa đã phải thức thâu đêm để cầu nguyện, để tìm xem ý Cha muốn gì. Thí dụ hôm nay Chúa cầu nguyện để xem Chúa Cha muốn chọn ai trong số những môn đệ ở đây để họ trở thành những người mà Ngài gọi là tông đồ.
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6)
Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.
* Tiêu chuẩn để được Chúa chọn là tông đồ
Ðọc lại tiểu sử của các thánh, chúng ta thấy khi chọn gọi ai, Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn của người đời. Người đời khi tuyển chọn ai thì thường người ta phải dựa trên những tiêu chuẩn như thế giá, học thức, địa vị xã hội, trải nghiệm vễ cuộc sống vv.
Còn Chúa thì Ngài hoàn toàn khác. Nhìn vào danh sách những người được tuyển chọn làm tông đồ hôm nay, chúng ta thấy họ chỉ là những con người bình thường. Bình thường chứ không tầm thường như nhiều người nghĩ. Họ không phải là những người xuất chúng, giàu có, có học thức, có chỗ đứng cao trong xã hội. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Dĩ nhiên là Chúa có sự khôn ngoan của Ngài. Khi chọn những người như thế, hẳn Chúa đã nhìn thấy ở nơi họ những phẩm chất cần cho một người được trao cho một nhiệm vụ phải hoàn thành.
* Chúa gọi họ là tông đồ nghĩa là những người được sai đi
Đây là những lời rất cảm động của Chúa Giêsu:
Người lại nói với các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một (Mc 6,7).
Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi (Ga 13,16).
Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (Mt 11,16).
Rồi Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).
Như vậy công việc của các tông đồ là tiếp nối công việc của chính Chúa Giêsu, tiếp nối mãi cho đến ngày tận thế.
Bao lâu còn con người trên trần thế thì bấy lâu Chúa còn sai các sứ giả tức là các tông đồ của Ngài đến với con người.
Đây là một câu chuyện tưởng tượng nhưng nó cũng có một ý nghĩa của nó:
Khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, người trở về trời và được thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
- Ta đã chọn mười hai tông đồ, một nhóm môn đệ và một vài người phụ nữ - Chúa đáp -. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: - Nhưng nếu số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác không?
Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên người vẫn quả quyết:
- Ta không dự tính một chương trình nào khác cả, ta tin vào họ!
Vâng mỗi người chúng ta hãy cố gắng để trở nên tông đồ của Chúa. Amen.
Ðọc lại tiểu sử của các Vị Thánh, có thể mọi người sẽ cảm thấy thật bất ngờ vì Chúa chọn các Ngài vượt trên những tiêu chuẩn của người đời, vượt trên những suy nghĩ của con người. Môsê trong Cựu Ước là một con người ăn nói ngọng nghịu, không trôi chảy, không lưu loát. Ðavít, cậu bé có mái tóc hoe hoe vàng, thua sút anh em. Nhiều ngôn sứ cũng ấp a ấp úng khi được Thiên Chúa chọn lựa. Mười hai tông đồ trong Tân Ước cũng thế. Chúa Giêsu lựa chọn họ không phải vì họ xuất chúng. Ngài chọn lựa họ thật bất ngờ.
Thánh Simon Tông Ðồ
Hai Ðấng thánh này cũng đã được Chúa tuyển chọn sau nhiều giờ cầu nguyện, sau những phút giây Chúa Giêsu hỏi ý Thiên Chúa Cha. Việc cầu nguyện để nói lên tính cách quan trọng của sự chọn lựa. Vì không có Chúa, con người chả là gì cả, con người chỉ là không không. Ðiều nay đã cho nhân loại hiểu: Phêrô, vị lãnh đạo Giáo Hội cảm thấy sức mình quá yếu đuối khi chối Chúa ba lần dù rằng trước đó ông cương quyết yêu mến Chúa. Các môn đệ, thân tín của Chúa, nhưng đã sớm ca bài tẩu thoát khi Thầy mình gặp khốn khổ trong cuộc thương khó đi về núi Sọ. Giuđa đã hoàn toàn thất vọng khi cậy vào quyền lực và sức riêng của con người. Quả thực không có Chúa, con người không làm được gì cả. Thánh Simon sinh tại Cana, còn được gọi là Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Thánh Simon đi rao giảng Tin Mừng tại Ai Cập, thánh Giuđa tại Mésopotamia. Hai thánh tông đồ đã gặt hái được rất nhiều kết quả trong việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, đã đem được nhiều người quay trở về với Chúa Giêsu, với Giáo Hội. Ðược thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, với lòng nhiệt tình truyền giáo, thánh Simon và thánh Giuđa đã ra đi loan báo Tin Mừng tại Ba Tư. Tại xứ sở Ba Tư, vì ghen ghét các Ngài, các Ngài đã như mọi tông đồ khác được phúc tử vì đạo để làm chứng cho Chúa Kitô.
Thánh Giuđa Tông Ðồ
Theo Thánh Truyền, thánh Giuđa đã cương quyết chống lại những nhà thông thái, trí thức chống báng Tin Mừng của Chúa Kitô. Ngài không hề sợ đau khổ, không hề sợ chết, với ơn Chúa ban, Ngài đã chiến thắng các người trí thức luôn khích bác Tin Mừng và Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh Si-mon luôn trung thành với Giáo lý chân chính của Chúa Kitô. Vì sự cương quyết, lòng can đảm của hai tông đồ Simon và Giuđa, người ta đã âm mưu ám hại hai Ngài. Họ đã bắt bớ, đánh đòn và làm cho hai Ngài phải chết. Thánh Simon và thánh Giuđa đã can đảm đổ máu mình ra để tô điểm Giáo Hội. Chính dòng máu của các Ngài đã làm cho nền tảng Giáo Hội Chúa Kitô vững chắc ở trần gian này. Hai thánh Simon và Giuđa đã hân hạnh được lãnh nhận triều thiên nước trời.
Xin Chúa ban cho mọi người chúng con lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng trong niềm tin, cậy, phó thác vào tình thương và vào giáo lý chân chính của Chúa.
Bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta ơn kêu gọi của các Tông Đồ, trong đó có thánh Simon Nhiệt Thành và thánh Giu-đa Ta-đê-ô mà chúng ta mừng kính hôm nay. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ giúp chúng ta hiểu được ơn gọi của chính chúng ta; bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi; và mọi ơn gọi khơi nguồn từ ơn gọi của các Tông Đồ và tham dự vào ơn gọi của các Tông Đồ.
Đức Giê-su lên núi
“Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (c. 12).
Trong lịch sử cứu độ, núi là biểu tượng của nơi Thiên Chúa hiện diện: Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong Nhà Chúa, được ở trên núi thánh của Ngài. (Tv 15)
Con yêu mến Ngài Lạy Chúa, là sức mạnh của con, Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. (Tv 18)
Với câu Thánh Vịnh được trích dẫn ở trên, núi còn là một tên gọi của Đức Chúa: “Người là Núi Đá”. Trong cuộc sống, chúng ta cũng cần một nơi diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trước đó, Đức Giêsu ở trong hội đường giảng dạy và chữa bệnh; bây giờ Ngài lên núi để cầu nguyện.
Đó chính là hai chiều kích làm nên chính cách sống của Đức Giê-su, chiều kích hoạt động (hay làm việc) và chiều kích cầu nguyện.
Và đó cũng là hai chiều kích làm nên đời sống của tất cả những ai đi theo Đức Giê-su trong ơn gọi gia đình, và nhất là trong ơn gọi dâng hiến, dù đan tu hay Tông Đồ. Và quả thực, hàng ngày chúng ta vẫn sống theo nhịp sống của Đức Giê-su: hoạt động và cầu nguyện đan xen nhau mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, mỗi giai đoạn huấn luyện và cả đời sống Ki-tô hữu và đời sống dâng hiến của chúng ta.
Đôi khi, nhịp sống này đối với chúng ta trở thành nặng nề, nhất là cầu nguyện. Nhưng dưới ánh sáng cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là một ơn huệ, ơn huệ được trở nên giống Chúa ở mức độ đơn sơ nhưng thiết yếu nhất. Nhờ đó, chúng ta dễ dàng đi vào tâm tình tạ ơn và làm trổ sinh hoa trái trong đời sống của chúng ta.
Đức Giêsu chọn các Tông Đồ
Mỗi lần Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và cầu nguyện suốt đêm, chính là để chuẩn bị làm một việc hệ trọng. Giống như chúng ta đi tĩnh tâm, trong những thời điểm quan trọng trong hành trình làm người và nhất là trong hành trình ơn gọi. Trước khi Đức Giê-su chọn mười hai vị mà Ngài gọi là Tông Đồ, có thể nói Người đã “tĩnh tâm” trước.
Điều này có nghĩa là, ơn gọi của các Tông Đồ và ơn gọi của chính chúng ta, không phải là một chuyện may rủi, hay do nỗ lực “trụ lại bằng mọi giá”, nhưng là một việc hệ trọng đối với Chúa, Chúa phải chuẩn bị bằng một đêm cầu nguyện trên núi với Thiên Chúa Cha. “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại Giê-su gọi mười hai môn đệ lại và chọn lấy mười hai ông” (c. 13)
Như thế, ơn gọi đến từ chính ý muốn và tiếng gọi của Chúa.
Và ơn gọi của chúng ta cũng vậy, cho dù chúng ta đã đến với đời sống ơn gọi của chúng ta như thế nào, bởi những động lực hay lí do nào. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian huấn luyện, chúng ta được mời gọi đặt đời sống ơn gọi của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong.
Nhưng Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời; nhưng theo Thánh Phao-lô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời. Xác tín này giúp chúng ta nhận ra rằng, ơn gọi là một ơn hoàn toàn nhưng không, chúng ta được Chúa tạo dựng là để sống ơn gọi mà chúng ta đang sống (Tv 139; Gl 1, 15). Và Chúa gọi đích danh từng người: Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt…(c. 14-15)
Cũng vậy, Chúa cũng gọi tên từng người chúng ta. Chúng ta hãy hình dung từng khuôn mặt ngang qua tên gọi: ngoại hình, nguồn gốc, tương quan, khuynh hướng, nghề nghiệp, thao thức… Như thế, các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn còn đầy giới hạn, bất toàn như chúng ta. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa là nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người được gọi.
Ghi nhớ lòng tin “muôn ngàn đời” của Chúa đặt để nơi chúng ta, khi chúng ta chưa là gì và khi đã “là gì”, thì là gì một cách rất bất xứng và sẽ mãi mãi “là gì” rất bất xứng, sẽ khởi dậy nơi chúng ta lòng khát khao đáp trả cách quảng đại và nhưng không.
Đức Giêsu xuống núi cùng với các Tông Đồ
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Đức Giê-su xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Đức Giê-su và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Đức Giê-su giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người.(c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Đức Giê-su tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Ki-tô.
Nhưng thật ra, Ngài vẫn đến “đụng chạm” chúng ta hằng ngày ngang qua Lời của Ngài và Thánh Thể của Ngài. Xin cho chúng ta biết để cho Chúa “đụng chạm”, như khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ (x. Tv 139, 13-16) và cảm nhận được, từ nơi Ngài, xuất phát một sức mạnh chữa lành tất cả và tái sinh chúng ta cho sự sống và cho Gia Đình Nhân Loại mới của Chúa.
Chúng ta nên nhớ thánh Simon này khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha. Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Trọn vẹn trong phong cách tông đồ và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa, đó là điều mà ai ai cũng thế, khi đã theo Chúa thì chỉ ước mơ được như vậy. Ðã ước mơ thì phải cố gắng mà vươn tới để ước mơ được thành hiện thực. Mặc dù các sách Tin Mừng không nói nhiều về Simon nhiệt thành và Giuđa, nhưng chúng ta cứ nhìn vào các vị kia thì cũng biết được đôi chút về tính tình, về mong muốn, về cách sống của hai ông là bộc trực, tham vọng và cùng ăn cùng ở với Chúa Giêsu với hy vọng tìm được một địa vị xứng đáng hơn trong cuộc đời làm môn đệ.
Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy cái hiện trạng bất toàn đó của cả nhóm mà Ngài biết rằng với thời gian huấn luyện, với ơn Chúa Thánh Thần thì những con người ấy biết dùng ngay những bất toàn của mình vào trong công cuộc loan báo Tin Mừng và sẽ thành công. Vấn đề là làm sao để cho các ông nhận chân được mục đích của con đường mà các ông quyết định. Cũng với sự bộc trực ấy, cũng với những tham vọng ấy, cũng với những tình huynh đệ keo sơn ấy nhưng các ông không còn chỉ ước mơ danh vọng, địa vị tầm thường nữa mà khát vọng lan rộng biên giới Nước Trời, khát vọng cho mọi người nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Nỗi niềm khát vọng ấy mãnh liệt đến độ đưa các ông là những con người sợ sóng gió, sợ quyền lực, sợ đủ mọi thứ đến chỗ gan dạ tột cùng của sự làm chứng, bằng lòng để bị treo như Thầy.
Lạy Cha,
Công trình của Cha vẫn nối tiếp cho đến thời sau hết với những con người mong manh thân phận nhưng kiên cường lập trường. Chúng con cảm tạ Cha vì gương sáng của hai vị tông đồ Simon nhiệt thành và Giuđa. Mừng kính hai ngài hôm nay, chúng con cũng muốn nói với chính mình rằng bởi sức riêng chúng con thật là vô ích, nhưng cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng con có thể làm được mọi sự. Giáo Hội đang nặng trĩu ưu tư cho công cuộc truyền giáo tại lục địa Á Châu to lớn, hai thánh tông đồ Simon và Giuđa sẽ là những khích lệ tuyệt vời cho những bước chân truyền giáo trên đất nước chúng con và trên lục địa Á Châu này.
Thánh Simon được tất cả bốn Phúc Âm nhắc đến. Trong hai Phúc Âm, ngài được gọi là “người Nhiệt Thành” (Zealot). Người cũng được gọi là “người Cananeen”. Người được nêu danh trong bản 12 Tông Đồ, nhưng Phúc Âm không nói gì về người.
Phái Zealot là một nhánh Do Thái Giáo đại diện cho chủ nghĩa dân tộc Do Thái. Ðối với họ, lời hứa cứu tinh trong Cựu Ước có nghĩa là người Do Thái sẽ được tự do và có được một quốc gia độc lập. Chỉ có Thiên Chúa là vua của họ, nên việc nộp thuế cho người La Mã – là người đang đô hộ – được coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chắc chắn rằng một số người Zealot là miêu duệ tinh thần của người Maccabee, muốn tiếp tục lý tưởng tôn giáo và tranh đấu cho độc lập. Nhưng nhiều người trong nhóm họ cũng giống như quân khủng bố ngày nay. Họ lùng bắt để giết những người ngoại quốc và người Do Thái “cộng tác với địch.” Họ là những người chủ chốt trong vụ nổi loạn chống La Mã và kết thúc bằng việc tiêu hủy Thành Giêrusalem vào năm 70.
*****
Theo tương truyền đáng tin cậy cho biết người tử đạo tại Ba Tư (Persia) cùng lúc với Thánh Giuđa tông đồ. Cả hai cùng được mừng kính chung một ngày. Có tương truyền khác cho biết người giảng đạo ở xứ Mesopotamia và chết vì đạo tại đó.
Thánh Giuđa
Thánh Giuđa là một nhân vật trong Phúc Âm theo Thánh Luca, cũng như trong Công Vụ Tông Ðồ. Thánh Mátthêu và Thánh Máccô gọi ngài là Thaddeus (Ta-đê-ô). Ngoài ra ngài không được nhắc đến ở chỗ nào khác trong các Phúc Âm, ngoại trừ, khi kể tên các tông đồ. Các học giả cho rằng ngài không phải là tác giả của các thư Thánh Giuđa. Thực ra, Giuđa cùng tên với Judas Iscariot. Do đó, vì sự bất xứng của tên Judas, nên người ta đã gọi tắt là “Giuđa”.
Người là một trong nhóm mười hai. Thaddeus đã hỏi Chúa Giêsu sau ngày phục sinh: “Vì sao Thầy tỏ cho chúng tôi và không cho thế gian?” Và Chúa trả lời cho ông rằng Ngài tỏ mình qua những ai yêu mến Ngài. Ngoài ra chúng ta không biết gì thêm về vị Tông Đồ ấy. Tương truyền sau đó cho biết người giảng đạo ở xứ Mesopotamia và đã chết vì đạo tại đó. Thánh tích của người hiện ở đền thờ Thánh Phêrô – Rome, Rheims và Toulouse nước Pháp.
Người ta tôn kính Thánh Giuđa như quan thầy “những hoàn cảnh thất vọng” Có lẽ vì thấy người ít được nhắc đến và tên người trùng hợp với Giuđa, người phản bội. Trong kinh kính người có câu: “Lạy thánh tông đồ Giuđa Taddeo được cầu khẩn như vị trạng sư của những hoàn cảnh đau thương, gần như thất vọng, xin nghe lời những kẻ đang gặp khó khăn…”
Có tương truyền khác cho rằng người chịu tử đạo cùng lúc với thánh Simon Tông Đồ tại Persia (Ba Tư). Cả hai cùng được mừng lễ kính chung trong một ngày.
Lời Bàn
Như mọi trường hợp các thánh tông đồ, ngoại trừ Thánh Phêrô, Gioan và Giacôbê, chúng ta đang đối diện với những người thực sự vô danh, và chúng ta bàng hoàng trước sự kiện là sự thánh thiện của họ hoàn toàn nhờ vào ơn ích của Ðức Kitô. Ngài chọn một số người mà chúng ta không bao giờ nghĩ đến: một đoàn viên Zealot, một chuyên viên thu thuế, một ngư dân nóng tính, hai “người con của sấm sét” và một Judas Iscariot.
Ðó là sự nhắc nhở cho chúng ta biết, không phải ai cũng được chọn. Sự thánh thiện không lệ thuộc ở công trạng, văn hóa, cá tính, sự cố gắng hay thành đạt của loài người. Nó hoàn toàn là ơn sủng của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần đến nhóm Zealot để giúp Nước Trời ngự đến bằng bạo lực. Thánh Giuđa, cũng như các thánh khác, là vị thánh không có khả năng: Chỉ có Thiên Chúa mới tạo được đời sống thánh thiêng trong con người. Và Chúa muốn như vậy, nơi tất cả mọi người chúng ta.
Lời Trích
“Cũng như Ðức Kitô được sai đến bởi Thiên Chúa Cha, thì Ngài cũng sai các tông đồ, được đầy tràn Chúa Thánh Thần, để rao giảng cho mọi tạo vật (xem Máccô 16:15), để họ loan truyền rằng Con Thiên Chúa, qua sự chết và sự sống lại, đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của Satan (xem CVTÐ 26:18), và khỏi sự chết, và đưa chúng ta vào vương quốc của Thiên Chúa Cha ” (Hiến Chương về Phụng Vụ, 6).
Chúng ta được biết rất ít về hai thánh tông đồ vì hình như các ngài chỉ được Chúa Giêsu chọn như những người “phụ tá”. Trong Phúc âm, thánh Máccô (Mc 3,18) và thánh Matthêu (Mt 10,4) xếp thánh Simon đứng thứ 11 và thánh Luca (Lc 6,15) ghi tên ngài vào hàng thứ 10 trong số các tông đồ. Còn thánh Giuđa, chúng ta đọc thấy đứng thứ 11 trong Phúc âm thánh Luca và mang tên là Thađêô, đứng thứ 10 trong Phúc âm thánh Maccô và Matthêu. Sự kiện về ngôi thứ của hai thánh nhân gợi cho chúng ta hình dáng những người thợ được thuê vào lúc 5 giờ chiều (Mt 20,6), và những khách mời hèn mọn (Lc14,10) mà Chúa nói trong Phúc âm. Vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn sơ rằng sở dĩ các ngài có một chỗ ngồi kém quan trọng trong số các tông đồ, có lẽ vì đã theo Chúa sau cùng hay vì còn trẻ tuổi.
Thánh Simon mang tên hiệu là Cananêan. Theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là “nhiệt thành”; nó nhắc cho chúng ta lời tiên tri Êlia: “Sự nhiệt thành với Chúa Giavê đã nung nấu tôi” (III Reg 29,10). Riêng về cuộc đời giảng đạo và cuộc tử nạn của ngài, chúng ta có nhiều sử liệu khác nhau. Theo ông Nicêphorê Callistô, một tác giả thời danh vào thế kỷ XIV, thì thánh nhân giảng đạo ở Phi châu và miền Granda Britania. Ý kiến này phù hợp với sự quyết đoán của nhiều sử gia Hy lạp, tuy nhiên ít được coi là chính xác. Vì theo thánh Fortuna, Giám mục thành Poitiers và ở cuối thế kỷ thứ VI, chúng ta biết thánh Simon và thánh Giuđa được mai táng tại Ba tư. Tác giả cuốn “Dã sử về các tông đồ” cũng chép: Hai thánh nhân lãnh phúc tử đạo tại Suanir thuộc Ba tư. Đàng khác, và ở thế kỷ IX, tu sĩ dòng Êpiphanô trong cuốn “Tiểu sử thánh Anrê tông đồ” lại viết: Tại Nicopsis, một tỉnh nhỏ gần miền Caucasie, người ta còn giữ được hài cốt thánh Simon. Cũng nơi đây và ở quãng thế kỷ thứ VII, nhiều giáo hữu Hy lạp đã góp tiền xây một nhà thờ kính thánh nhân. Sau hết, từ xưa, trong đền thờ cổ kính thánh Phêrô tại Rôma, vẫn có một bàn thờ kính riêng hai thánh Simon và Giuđa. Vậy phải chăng căn cứ theo những sử liệu trên mà trong cuốn “tử đạo” của dòng thánh Giêrônimô, người ta đã quyết hai thánh tông đồ tử đạo ngày 01 tháng 07, và kính lễ các ngài vào ngày 28.10.
Thánh Giuđa, mặc dầu được nhắc đến nhiều hơn trong Phúc âm, cũng không cho chúng ta biết rõ mấy về dòng tộc, cuộc đời rao giảng và cuộc tử đạo của ngài. Tuy nhiên, điều chắc chắn, ngài là một trong mười hai vị tông đồ, mang tên hiệu là Thađêô và đã được thánh Giêrônimô tặng khen là “Người có bản lĩnh”. Trong bữa tiệc ly, chính ngài đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ ra cho thế gian?” (Ga 14,22); và Chúa Giêsu đã trả lời: “Ai mến Thầy sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến họ, và chúng ta sẽ đến với họ và chúng ta sẽ ở lại nơi họ... (Gn 14,23).
Thánh Giuđa sung sướng vì là người đầu tiên được biết cách sống thân mật với Thiên Chúa cách hoàn hảo và thân tình hơn ông Giakêu. Hơn thế, theo Phúc âm (Mt 13,55; Mc 6,3), thánh Giuđa là người làng Nagiarét, con ông Clôpas và bà Maria, anh em với Chúa Giêsu, thánh Simon và thánh Giacôbê sau làm giám mục thành Giêrusalem. Về sau, ông Ôrigênê tìm được một bức thư nhỏ của thánh Giuđa; nhờ đó, người ta có thể đoán rằng thánh Giuđa cùng đi rao giảng Phúc âm với “Những anh em Chúa Giêsu” (x. 1Cr 9,5). Tuy nhiên không biết rõ ngài đi rao giảng những nơi nào!
Vì theo thánh Giêrônimô, thánh Giuđa giảng Tin mừng tại Osrosênê, và theo ông Nixêphôrê Callistô, ngài truyền bá Phúc âm tại Mêsôpôtamia. Đàng khác, thánh Paulinô Nola lại chủ trương thánh Giuđa là tông đồ xứ Libia. Riêng về cuộc tuẫn giáo của thánh Giuđa, hiện nay không có một sử liệu nào xác thực. Tuy nhiên cho đến bây giờ các sách “tử đạo La tinh” vẫn giữ ý kiến của thánh giám mục Phôtuna cho rằng xác thánh tông đồ đã được mai táng tại Ba tư.
Sau hết, để bổ khuyết vào những sử liệu trên, chúng ta cùng với tác giả Tillemont kết luận rằng: “Không gì chắc chắn hơn trong sự kiện này là thú nhận chúng ta không hiểu chi về những điều thực sự chúng ta không biết và hãy hãm dẹp tính tò mò, ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng muốn dùng đời sống mai ẩn của các vị đại thánh dạy chúng ta ăn ở khiêm nhường, ẩn dật, trước mặt nhân loại hầu được hiển sáng hơn trong vinh quang của Người.
Bí quyết cầu nguyện mà thánh Luca tường thuật lại mỗi khi có biến cố quan trọng xảy ra trên con đường truyền đạo của Đức Giêsu cho chúng ta thấy cuộc linh thao của Người đi sâu vào tình liên kết với Chúa Cha, một bí quyết liên kết độc nhất và siêu việt để cho chúng ta được thông hiệp với Người: “Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi”. (Rm 8, 15). Nhưng lời cầu đó chẳng đáng gì vì lời cầu của Đức Giêsu bao bọc và gói gém mọi lời cầu của mọi người. Chỉ có Người mới có thể nói được: “Cha chúng con” với toàn diện sự thật. Chỉ có Người biết được Chúa Cha vì Người bởi Cha mà ra. Chỉ có Người sở hữu được thần khí vô lượng vô biên”. (Ga 3, 34)
Cầu nguyện
Sự liên kết độc nhất giữa Chúa Con với Chúa Cha là một sự cầu nguyện huyền nhiệm đã trở nên nền tảng cho mọi cầu nguyện khác. Chúng ta được nối kết với sự cầu nguyện ấy khi Đức Giêsu dạy chúng ta thưa: Lạy Cha! chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Chúa Cha, hay lại cầu nguyện sai lầm. Chúng ta phải nhớ rằng trung tâm của sự cầu nguyện chân chính là chính Đức Giêsu chứ không phải chúng ta. Chính Người đem lại ý nghĩa cầu nguyện cho chúng ta. Chính Con Người thâu nhận mọi lời than van kêu khấn của mọi người. Không phải vì độc đoán tự phụ cho riêng Người, nhưng là đem lời cầu nguyện của Đức Giêsu vào trong lòng chúng ta để chúng ta tiếp tục lời cầu nguyện của Người. Được như thế là vượt lên mọi cảm tình cá nhân, là từ bỏ mọi sự mà gắn bó với đức tin.
Tin
Tin là điều kiện độc nhất của lời cầu nguyện có giá trị. Chúa không đòi chúng ta phải lên hoàn hảo, Người chỉ đòi chúng ta tin vào Người. Nhiều người cầu nguyện nhiều, tuy không có gì trách mình, nhưng họ tưởng xin còn ít nên lời cầu của họ hình như không được nhận lơi. Họ tưởng họ tin nhiều, thực ra họ còn thiếu đức tin. Chúng ta tưởng chính ra phải được nếm thử sự đời đời trong lời cầu nguyện của chúng ta thì lại chỉ được nếm sự nghèo khó.
Hãy xem những người tội lỗi trong Tin Mừng đã được Chúa đoái thương vì họ có lòng tin. Niềm tin đó cho họ thấy họ chẳng đáng giá gì dưới đôi mắt của Đức Giêsu, nhưng họ chỉ tin vào giá máu của Người.
Ta cần nhớ thánh Simon mà ta mừng lễ hôm nay khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô, và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha.
Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi.
Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Chúa Giêsu xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Chúa Giêsu và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Chúa Giêsu giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người. (c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Chúa Giêsu tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Kitô.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Mừng kính thánh Simon và Giuđa Tông Đồ hôm nay, ước gì mỗi người chúng ta cũng ý thức mình được gọi và chọn làm môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng đi trên hành trình với Chúa. Chúng ta luôn “nói với Chúa” khi lên núi cầu nguyện mỗi ngày; và chúng ta luôn “nói về Chúa” trong tiến trình hoạt động ngày sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết ngưỡng mộ từ tâm của Chúa, cứu giúp những ai khổ đau đang cần được cứu chữa. Ước gì chúng ta cũng biết đi theo con đường kỷ luật Chúa đã đi là “luôn nói với Chúa và nói về Chúa”.
Theo chỉ dẫn của sách Breviarium Apostolorum – mở đầu Sách Tử đạo của thánh Hiêrônimô –, lễ hai thánh tông đồ Simon và Giuđa mừng vào ngày 28 tháng 10; người ta đã thấy lễ này được ghi trong các sách bí tích của người Franc vào thế kỷ VIII, và ở Rôma vào thế kỷ X. Một nhà nguyện được dâng kính các ngài trong vương cung thánh đường cổ Thánh Phêrô ở Vatican. Các Giáo Hội phương Đông mừng riêng lễ thánh Simon ngày 10 tháng 5, và thánh Giuđa ngày 19 tháng 6.
Trong danh sách 12 Tông đồ, thánh Simon và Giuđa luôn đi chung với nhau, thánh Simon ở vị trí thứ mười và thánh Giuđa ở vị trí mười một (Mt 10, 3-4; Mc 3, 18; Lc 6, 14-16; Cv 1, 13).
Thánh Simon, “thuộc nhóm quá khích” trong Mc và Lc; “người Canaan (=người thuộc nhóm quá khích)” trong Mt, có lẽ là một cựu thành viên của phong trào quá khích chống đối quyết liệt sự cai trị của Rôma. Theo truyền thống phương tây, có thể ngài đã đi rao giảng ở Ai Cập và Lưỡng Hà Địa, nhưng người ta không biết gì đích xác về cuộc đời ngài. Người ta nói ngài chịu tử đạo, và đôi khi người ta vẽ hình ngài bị các đao phủ cưa dọc thân thể làm đôi.
Thánh Giuđa, tông đồ thứ mười một trong danh sách nhóm Mười hai, được kể tên trước Giuđa Iscariot. Trong tiếng Hi Lạp, tên ngài viết giống hệt Giuđa Iscariot, nhưng để phân biệt, người ta xác định thêm là con hay anh của Giacôbê–(Lc 6, 16) hay không phải Giuđa Iscariot (Ga 14, 22). Ngài cũng được gọi là Lebbée trong một số thủ bản của Mt, và Thaddéô trong Mt và Mc, và đôi khi còn gọi là Giuđa, người thuộc nhóm Quá khích (Zélote). Không nên lẫn tông đồ Giuđa với người cùng tên có họ với Chúa Giêsu và với tác giả của Thư thánh Giuđa.
II. Thông điệp và tính thời sự
Lời Nguyện của ngày nhắc nhớ lời giảng của các tông đồ dẫn ta tới sự hiểu biết Chúa Giêsu, và Giờ Kinh Sách trích dẫn một đoạn chú giải của thánh Cyrille thành Alexandria về Tin Mừng Gioan, minh hoạ sứ mạng của các tông đồ: “…Các ngài có nhiệm vụ kêu gọi người tội lỗi hối cải, chăm sóc người bệnh tật thể xác hay tâm hồn; trong nhiệm vụ là những người quản lý, các ngài không được tìm cách làm theo ý riêng, nhưng theo ý của Đấng sai các ngài; sau cùng, cứu rỗi thế giới bằng cách giúp thế giới đón nhận lời dạy của Chúa.”
Ca hiệp lễ lấy lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Giuđa khi ngài hỏi Chúa: “Lạy Thầy, tại sao thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không cho thế gian?” Câu trả lời của Chúa Giêsu không trực tiếp, nhưng chứa đựng mạc khải về một trong những mầu nhiệm cao siêu nhất của đức tin chúng ta: “Nếu ai yêu mến thầy, thì sẽ giữ lời thầy; Cha thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Chúng ta không gặp Thiên Chúa như gặp một nhân vật có chức vị, nhưng bằng việc gắn bó với Lời Người trong tình yêu. Chính đây là sự thể hiện niềm khát vọng của các tín hữu trong Cựu Ước: “… Này Ta đây, ta đến cư ngụ ở giữa ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa (Da 2, 14). Ta sẽ đặt thánh điện Ta ở giữa chúng đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là Dân của Ta” (Ed 37, 26-27).
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính hai thánh Simon và Giuđa Tông Đồ. Chúng ta không có được những tài liệu lịch sử chính xác khách quan về các ngài. Việc các ngài được mừng kính cùng một ngày là vì có sự trùng hợp giữa các ngài về cuộc đời truyền giáo cũng như khi tuyên xưng đức tin.
Thánh Simon được gọi là Simon người Ca-na, hay Simon Nhiệt Thành có họ hàng với Chúa Giêsu.
Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, là cháu của Đức Mẹ và thánh cả Giuse, và là bà con của Đức Giêsu. Ngài là anh của thánh tông đồ Giacôbê hậu. Cha của ngài là ông Clêôpha, và mẹ của ngài cũng có tên là Maria. Bà này đã đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu lúc Chúa chịu chết, rồi sau đó đã ra mồ để xức xác Chúa bằng dầu thơm.
Theo Thánh Truyền thì hai ngài đi giảng Tin Mừng ở hai nơi khác nhau. Thánh Simon giảng tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại Mésopotami-a. Sau khi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, thì hai ngài như được ơn Chúa thôi thúc để cùng nhau đi sang Ba Tư. Chính tại nơi đây, hai ngài đã đem Tin Mừng tới và cũng chính tại nơi đây mà các ngài được diễm phúc lãnh nhận cái chết để tôn vinh Ðức Kitô như các anh em tông đồ khác.
Truyền thuyết kể lại khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba Tư, hai thánh tông đồ Giuđa và Simon đã đến trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, đã hô hào dân chúng đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét:
- Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Giuđa và Simon đã quyết định tự nộp mình. Họ buộc các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh Giuđa còn lấy chút nghị lực cuối cùng, nhìn thẳng vào thánh Simon và nói:
- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Ngài gọi chúng ta về với Ngài!
2/ Simon - Tông đồ nhiệt thành:
- Ông là người Ca-na-an.
- Thánh Mác-cô gọi là Simon Nhiệt Thành, Thánh Luca gọi là Simon thuộc nhóm Quá Khích. Lý do vì ông thuộc một đảng phái chính trị: Họ là những người ái quốc cuồng nhiệt, họ là một nhóm người Do-thái tin tưởng ở sự độc lập của Ít-ra-en và không hợp tác với Rô-ma.
- Chúng ta không biết ông theo Chúa trong hoàn cảnh nào. Có giả thuyết cho rằng ông tin Chúa là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến giải phóng dân Ít-ra-en, Đấng sẽ đem độc lập đến cho dân tộc Do-thái.
- Chúa Ki-tô phục sinh đã thay đổi suy nghĩ của ông và dùng “sự nhiệt thành” của ông để mở rộng Nước Trời cho mọi người.
- Giả thuyết cho rằng Si-môn đã chịu chết trên thập giá. Chỉ có thể mô tả ông: một người quả quyết, hăng say, dám nghĩ, dám làm, một người nóng bỏng nhất trong các Tông Đồ.
3/ Giu-đa Ta-đê-ô - Tông đồ trung kiên:
- Ông được Phúc Âm nhắc đến chỉ một lần duy nhất: Trong phòng Tiệc Ly, sau bữa ăn, ông đã hỏi Đức Giêsu: "Bấy giờ, Giu-đa, không phải Ít-ca-ri-ốt, hỏi Người: "Thưa Thầy, làm sao Thầy lại chỉ tỏ mình ra cho chúng con, mà lại không tỏ ra cho thế gian?" (Ga 12, 22).
- Ông được kể như một Tông đồ trung thành với Chúa suốt 3 năm đi rao giảng. Sự trung kiên ấy càng mạnh mẽ hơn khi Chúa xác quyết: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy…”
- Tân Ước nói nhiều về lòng trung tín và bền đỗ, đây là điểm chính yếu trong Thư của Giu-đa.
- Giu-đa đã trung tín đến cùng, Giu-đa rao giảng về Chúa đến cùng, Giu-đa rao giảng Lời Chúa hết sức nhiệt tình... Về cuối đời, ông rao giảng ở vùng Odessa, Arménia và Persia. Truyền thống cho rằng ông tử đạo ở Persia.
Ơn gọi là một cái gì huyền nhiệm. Bất cứ ai sinh ra trên thế giới này, một cách nào đó đều nghe được một tiếng mời gọi âm thầm nào đó trong cuộc đời của mình và rồi, con người đi theo tiếng gọi. Chúa Giêsu không chọn bất cứ ai mà không cầu nguyện lâu giờ và không đi vào cõi thâm sâu để hỏi ý Thiên Chúa Cha. Chúa cầu nguyện, chúng ta không biết Chúa nói gì, không biết Chúa trao đổi, bàn luận gì với Đức Chúa Cha, nhưng có một điều chúng ta nhận thấy Chúa luôn luôn làm theo ý Cha của Ngài. Thánh Simon và thánh Giuđa, tông đồ không nằm ngoài dự định của Chúa Giêsu. Ơn gọi của các Ngài cũng na ná trường hợp của các tông đồ khác. Chúa đi ngang nơi nào đó, Ngài kêu gọi, các tông đồ nhận ra tiếng gọi của Chúa và họ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô.
Chúa tuyển chọn các Ngài và gọi các Ngài là “ Apostoloi “, nghĩa là người được sai đi. Nhưng, trước khi gọi các Ngài là Apostoloi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha. Ngài chọn các tông đồ là do sự nhưng không, do ân huệ tuyệt vời của Ngài. Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn mà người đời thường dùng để chọn hoặc cất nhắc một nhân vật nào đó như trình độ, tri thức, vóc dáng bề ngoài, cao, lớn, mập, gầy vv…Chúa tuyển chọn các tông đồ hoàn toàn do ý định của Ngài, không ai có quyền đòi Ngài phải chọn hay không chọn, Ngài tuyển chọn là do tình thương của Ngài.
Thánh Simon còn có biệt hiệu Simon người Cana, hay Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Sở dĩ Hội Thánh mừng thánh Simon và Giuđa cùng một ngày là vì có sự trùng hợp trong việc loan báo Tin Mừng và trong việc tuyên xưng đức tin, đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Giêsu. Và thực tế, thánh Simon người Cana hoàn toàn khác với thánh Simon Phêrô, vị tông đồ trưởng và là người làm đầu Giáo Hội tiên khởi. Theo thánh truyền, thánh Simon và thánh Giuđa đi truyền giáo ở hai nơi hoàn toàn khác nhau. Thánh Simon rao giảng, loan báo Đức Kitô tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại miền Mésopotamia. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, sau khi gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc rao giảng, hai thánh Simon và Giuđa đã cùng sang giảng đạo tại xứ Ba Tư. Chính tại nước Ba Tư, hai vị thánh này đã được phúc tử đạo làm chứng cho Chúa như các tông đồ khác.Thánh Giuđa rất trung thành với lời rao giảng, với lời Chúa nên Ngài không sợ hãi mà luôn chống lại những kẻ có thái độ khích bác Tin Mừng.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Lạy thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con để chúng con luôn hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và vinh quang sống lại. Amen.
Hôm nay Hội Thánh kính hai thánh Tông Đồ Si-mon và Giu-đa. Ông Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ ông là người thuộc nhóm cực đoan, muốn dùng vũ lực chống Roma, còn ông Giu-đa cũng có tên là Ta-đê-ô, là tác giả thư cuối cùng trong bảy Thư Công Giáo. Ông là người hỏi Đức Giêsu trong bữa ăn tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian”, và ông đã nhận được Lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,22-23).
Chưa bao giờ Đức Giêsu phải thức suốt đêm để cầu nguyện, ngoại trừ lúc Ngài chọn các môn đệ, để sai họ đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài, hầu thâu họp muôn người về cho Chúa. Vì “ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu là chết!” (1Ga 5,12). Do đó:
- Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25: Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn).
- Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
1/ Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25).
Thực vậy, trong danh sách 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, họ là những người bình thường như bao người khác, thế nên danh sách Nhóm Mười Hai có tới ba cặp tên trùng nhau:
- Simon em của An-rê và Simon Nhiệt Thành. - Giacôbê anh của Gioan và Giacôbê con của An-phê. - Giuđa Nhiệt Thành và Giuđa Iscariot.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện, sáng sớm Ngài gọi những người muốn chọn, họ có tên bình thường như bao người khác Xoài, Ổi, Mít, Chanh, Cam (x Lc 6,12-16)… Nếu Đức Giêsu không chọn gọi họ, thì nay “họ đã qua đi như không bao giờ có họ trên đời, bởi không người nào trên đời còn nhớ đến họ, họ xong đời là xong hẳn, và cả con cái họ sau này cũng thế thôi!” (Hc 44,9) Nhưng danh tính, sự nghiệp các môn đệ Đức Giêsu chọn vẫn còn lưu danh muôn thuở, chỉ vì Đức Giêsu đã gọi họ từ trong thế gian và họ không còn thuộc về thế gian nữa (x Ga 17,6.15), để rồi đi tập họp mọi sự về cho Chúa, như lời thánh Phao-lô nói: “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).
2/ Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện để chọn các môn đệ và từ trên núi xuống, có cả đoàn lũ dân Do Thái miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cùng với dân ngoại miền Tia và Xi-đôn, cả các bệnh nhân cũng lũ lượt kéo đến nghe Lời Đức Giêsu, và các bệnh nhân được chữa lành; cả đến các người bị thần ô uế nhập, cũng tìm cách sờ vào Đức Giêsu, thì họ được lành mạnh ngay (x Lc 6,17-19: Tin Mừng). Hình ảnh này đã tiên báo về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, bởi vì từ núi Sọ, nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Ngài đã cầu nguyện cho cả kẻ hại Ngài được cứu độ, và từ cạnh sườn Ngài bị đâm, nước và máu đổ xuống phát sinh các Bí tích, đó chính là giờ phút Adam cuối cùng sinh Hội Thánh (x Ga 19). Như thế hình ảnh từ trên núi đi xuống trở thành dấu chỉ Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, trước khi Ngài lên Trời, Ngài sai các môn đệ đi tập họp muôn dân bằng hai việc: ban Thánh Tẩy và dạy dân những Lời Đức Giêsu truyền (x Mt 28,19-20). Ai gia nhập Hội Thánh là người đó được Đức Giêsu chộp lấy (x Pl 3,12). Những ai thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô thì thánh Tông Đồ nói: “Anh em không còn phải là người xa lạ, hay là người tạm trú, nhưng là người đồng hương với những người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Ki-tô Giêsu. Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-20: Bài đọc).
Trong đoạn thư này thánh Phao-lô nhấn mạnh: người được Chúa chọn là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là ông muốn cho các tín hữu hiểu rằng: Chúa sẽ ra sức bảo vệ mạng sống họ, đến nỗi sợi tóc trên đầu của họ cũng không bị mất! (x Mt 10,30) Điều này quan trọng hơn ông Phao-lô vốn dĩ là người Do Thái, nhưng để việc rao giảng Tin Mừng tránh người Do Thái trù dập tối đa, Phao-lô đã lấy được quốc tịch Roma để bảo vệ ông. Vì ai thuộc về công dân Roma, thì không người nào được quyền đánh họ trên 39 roi! Chính vì vậy mà năm lần ông bị người đồng chủng đánh không quá 39 trượng! Nhiều người Do Thái thấy thế thèm, nên hỏi ông Phao-lô: “Phải tốn bao nhiêu tiền mới có quốc tịch ấy?” (x Cv 22,28; 2Cr 11,24-25). Còn người Công Giáo chẳng mất xu nào mà có quốc tịch Nước Trời, để cùng với muôn tạo vật diễn tả vinh quang Thiên Chúa, đúng với lời kinh: “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”.